Anrê Kim Taegon là linh mục Đại Hàn đầu tiên và là con của một người trở: 20/9-1
Anrê Kim Taegon là linh mục Đại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Cộng. Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Đại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.
Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi.
Kitô Giáo được du nhập vào Đại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Đại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Đại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế. Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người Kitô Giáo Đại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó, khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Đại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào năm 1883.
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn năm 1984 để phong thánh, ngoài Thánh Anrê và Phaolô, còn 98 người Đại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.
Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Peter Ryou, bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.
Lời Bàn
Chúng ta bàng hoàng khi thấy sau khi được thành lập, Giáo Hội Đại Hàn hoàn toàn là một Giáo Hội của giáo dân khoảng hơn một chục năm. Làm thế nào mà giáo hội ấy sống còn khi không có bí tích Thánh Thể? Điều này cho thấy, không phải các bí tích không có giá trị, nhưng phải có một đức tin sống động trước khi thực sự được hưởng ơn ích của bí tích Thánh Thể. Bí tích là dấu chỉ của sự hoạt động và đáp ứng của Thiên Chúa đối với đức tin sẵn có. Bí tích làm gia tăng ơn sủng và đức tin, nhưng chỉ khi nào sẵn có một điều gì đó để được thăng tiến.
Lời Trích
"Giáo Hội Đại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Đại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến"
(ĐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).
Đạo Công Gíáo được truyền bá đến nước Đại Hàn bắt đầu từ thế kỷ 17 do một nhóm giáo dân: 20/9-2
Đạo Cơng Gío được truyền b đến nước Đại Hn bắt đầu từ thế kỷ 17 do một nhĩm gio dn. Một cọng đồng Kitơ hữu cĩ một sức sống mnh liệt được nhĩm gio dn ny điều khiển cho đến lc cc gio sĩ của Hội Dịng Thừa sai Paris được gởi đến.
Đến thế kỷ thứ 19 thì cc cuộc bch hại Kitơ gio trở nn hết sức dử dội v dả man (vo những năm 1839, 1866 v 1867). Hơm nay chng ta tơn kính 103 vị thnh tử đạo ở Đại Hn. Cc ngi được Đức Gio Hồng Gioan Phao lồ II tuyn phong khi đến tơng du tại nước ny năm 1984.
Cc đấng tử đạo gồm mọi thnh phần từ cc gim mục, linh mục, gio dn, đn ơng, đn b cc cụ gi cho đến những trẻ em. Cc ngi đều bị đnh đập tra tấn dả man nhưng tất cả đều can đảm tuyn xưng Đức Tin lm chứng cho Cha Kitơ, lấy mu đo lm hạt giống xy dựng Hội Thnh Đại Hn. Trong cc đấng tử đạo cĩ một linh mục bản xứ l Cha Andrew Kim, một gio dn tơng đồ l Phao lồ Hasang v 10 đấng l gio sĩ người Php thuộc Dịng Thừa sai Paris. Phĩ Tế J.B. Huỳnh Mai Trc
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Andrê Kim và Thánh Phaolô Chung cùng 20/9-3
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Andrê Kim và Thánh Phaolô Chung cùng các bạn tử đạo tại Giáo Hội Đại Hàn.
Phải nói Giáo Hội Đại Hàn đã được bắt đầu như một phép lạ. Nói theo cái nhìn của Chúa Giêsu thì Giáo Hội đó được bắt đầu như một hạt cải nhỏ bé nhưng bây giờ nó đã lớn lên, lớn lên mạnh mẽ và oai hùng trước sự kinh ngạc vả cảm phục của nhiều người.
Nào có ai ngờ được rằng chỉ có một người. Người đó tên là Li Sung Hung. Người ta gọi Li Sung Hung là một học giả. Li Sung Hung đã đến Bắc Kinh năm 1784. Li Sung Hung được học đạo và rửa tội tại đây. Sau khi được trở thành một Kitô hữu, Li Sung Hung thấy mình là người được hạnh phúc. Li Sung Hung đã không muốn một mình vui hưởng niềm hạnh phúc đó. Li Sung Hung muốn chia sẻ niềm hạnh phúc đó cho đồng bào ruột thịt trên quê hương đất nước của mình. Thế là chỉ với một ít sách báo, tài liệu hiếm hoi, Li Sung Hung đã lên đường về nước rồi với nhiệt tình nóng bỏng truyền giáo, Li Sung Hung đã làm cho ngọn lửa Đức tin được bùng cháy lên.
Việc làm lúc đầu tưởng chừng chỉ là đơn độc và khó lan truyền, thế nhưng như lời Chúa tiên báo ngọn lửa đó đã bùng cháy lên.
Một Giáo Hội đã được thành hình. Không linh mục, thậm chí không có một nhà truyền giáo, chỉ có một giáo dân, rồi từ từ lan toả, từ từ lớn lên, bất chấp mọi trở ngại, bất chấp mọi khó khăn nhất là những hiểu lầm lúc khởi đầu.
Rồi ngay sau đó, nhờ những nỗ lực của một nhóm học giả Hàn quốc tìm tòi, nghiên cứu về đức tin công giáo qua các sách vở mà ông Li Sung Hung đã mang về từ Trung Hoa, những người giáo dân Hàn quốc này bắt đầu dạy giáo lý cho những người khác và rửa tội cho họ. Mãi tới 11 năm sau (1784- 1795), nhờ sự học hỏi tìm hiểu sâu rộng, nhóm giáo dân công giáo đầu tiên này mới bắt đầu nhận thấy: họ cần có một linh mục. Thế là một đại diện ngoại giao đoàn đã được gửi sang Bắc kinh. Đức giám mục Bắc kinh đã chấp thuận ngay lập tức. Và vào năm 1795, cha Chumuymô, vị linh mục thuộc giáo phận Bắc kinh đã chính thức được cử sang Đại hàn và trở thành nhà truyền giáo đầu tiên tại đây.
Giáo hội Đại Hàn bắt đầu lớn lên và càng ngày càng lớn nhanh, lớn mạnh. Thế nhưng cũng như bất cứ Giáo hội nào của Chúa, như một định luật chung, cứ bắt đầu thành hình, lớn lên là bắt đầu chịu nhiều cản trở, cấm đoán cản ngăn, thậm chí nhiều khi còn đi đến chỗ bị bắt bớ tiêu diệt.
Giáo Hội Đại hàn đã phải trải qua một cơn đại hoạ kéo dài 100 năm như thế.
Trong khoảng thời gian kéo dài gần 100 năm đó, lịch sử còn ghi lại con số 103 vị tử đạo. Trong số 103 vị tử đạo này có 92 giáo dân thuộc đủ mọi giai cấp trong xã hội, 45 người nam và 47 phụ nữ. Nổi bật nhất là vị linh mục đầu tiên tại đất nước Hàn quốc là Andrê Kim Têgôn và mười nhà truyền giáo Pháp. Trong số 103 vị tử đạo, 79 vị đã được phong chân phước năm 1925, họ là nạn nhân của cuộc bách hại đầu tiên, và 24 vị được nâng lên hàng chân phước năm 1968, là nạn nhân của cuộc bách hại sau này.
Cha Chumuymô cũng được phúc tử đạo. Cùng chịu tử đạo với ngài lúc đó, có khoảng 300 người mới trở lại đạo trong đó có ông Phaolô Chung, một nhân công trong một xưởng dệt dây thừng, một gương mặt tiêu biểu cho những người công nhân, đã được rửa tội năm 30 tuổi, và đã hoạt động tích cực trong việc truyền bá đức tin công giáo bằng cách giấu ẩn các tín hữu trong vùng khi họ đến nhận lĩnh các bí tích. Ông đã bị bắt vào năm 1839, bị tống ngục và bị tra tấn dã man. Vì không chịu đựng được những cực hình, ông đã đồng ý chối đạo, và được trả lại tự do. Tuy nhiên, sau đó ông hối hận và trở lại nói với chánh án, là ông muốn rút lại lời tuyên bố chối đạo. Một lần nữa, ông bị bắt giam tù và bị đánh đập. Ông chết vì các vết thương làm độc, năm ấy ông 41 tuổi.
Năm 1984, Giáo hội công giáo Hàn quốc mừng lễ kỷ niệm 200 năm ngày học giả trẻ tuổi Li Sung Hung đến Bắc Kinh năm 1784, được rửa tội tại đây, đoạn trở về quê hương với một số sách đạo và một ánh lửa đức tin, để rồi sau đó làm bùng cháy ngọn lửa đức tin công giáo tại Hàn quốc.
Ngày 6.5.1984, tại Seoul, Nam Hàn, trong một thánh lễ phong thánh đầu tiên được cử hành ngoài Rôma kể từ thế kỷ XIII, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng 103 vị tử đạo lên bàn thờ và gọi dịp này là ngày vui mừng nhất, ngày trọng đại nhất trong lịch sử Giáo hội Công giáo tại Hàn quốc.
2. Bài học đáng nhớ: Vai trò của những người giáo dân trong công việc mở mang nước Chúa.
Sắc Lệnh Tông Ðồ Giáo Dân đã nói rất mạnh: “Thời gian mà các tín hữu chỉ đóng vai trò thụ động đã qua rồi. Ngày nay Giáo Hội đặt niềm tin ở sự can thiệp, ở sáng kiến cũng như nơi sự tuân phục của con cái mình.”
Quả thực ngày nay khi nhìn vào Giáo Hội tại Đại Hàn, không ai mà không nhận thấy các tín hữu của họ đã đóng một vai trò hết sức năng động và hữu hiệu trong đời sống của Giáo Hội.
Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta cũng ý thức được vai trò của mình trong công việc xây dựng giáo xứ mình như thế.
Hai ông giáo dân gặp nhau giữa phố chợ. Ông thứ nhất nói:
Ông có nghĩ rằng chúng ta nên giúp cha xứ một tay không? Ông thứ hai đáp:
Tôi cũng thường nghĩ tới chuyện đó, nhưng sao tôi thấy hình như ngài đã chọn riêng vài người phụ giúp rồi, tôi không muốn chen vào nhóm đầu não này. Ừ, ông sẽ thấy nhóm này luôn quanh quẩn bên cha xứ, cứ như họ thuộc một hội kín có mật khẩu nào đó. Một trong những người thuộc nhóm giúp cha xứ, mà hai ông này đang nói tới, tiến đến góp lời:
Thực ra cũng có nhóm môn đệ nòng cốt, nếu các ông muốn tham gia, tôi sẽ tiết lộ mật khẩu cho. Hai người kia đồng thanh:
Nào, nói cho chúng tôi nghe đi. Ông kia đáp:
Khi cha đến xứ mình, trước hết, ngài cần nhiều đôi tay góp sức. Ngài đã mời được nhiều người, nhưng chỉ những người biết mật khẩu mới ở lại giúp ngài. Mật khẩu là: “Xin Vâng.” (John C.Hicks)
Thánh An-rê Kim Tê-gon,Phaolô Chung Ha-san Và Các Bạn Tử Ðạo (St. Andrew Kim Taegon, Paul Chong Hasang). Ngày 20/9
Lc 8, 1-3
Hội Thánh Ðại Hàn tuy còn non trẻ,nhưng Giáo Hội Chúa Kitô ở Ðại Hàn vẫn là một Cộng đoàn 20/9-4
Hội Thánh Ðại Hàn tuy còn non trẻ,nhưng Giáo Hội Chúa Kitô ở Ðại Hàn vẫn là một Cộng đoàn Kitô giáo tràn đầy sức sống. Dòng máu của tín hữu Chúa Kitô ở Ðại Hàn làm nẩy sinh các thánh tử đạo. Nhờ dòng máu của các thánh tử vì đạo ở Ðại Hàn mà Giáo Hội của Chúa Kitô ở đất nước Ðại Hàn luôn đứng vững và càng ngày càng trở nên kiên vững. Mẹ Têrêsa đã thường cầu nguyện cho Dòng tu bác ái của Mẹ có các thánh tử vì đạo. Chúa đã nhậm lời Mẹ và cho Dòng nữ tu bác ái của Mẹ có những tu sĩ hiên ngang đổ máu để minh chứng cho Chúa Kitô phục sinh.Có lần,một phóng viên hỏi Mẹ :" Mẹ Têrêsa Calcutta đã làm những công việc gì đặc biệt?-Mẹ trả lời rằng:"Công việc chúng tôi làm chỉ là một giọt nước trong Ðại Dương,nhưng nếu chúng tôi không làm thì Ðại Dương thiếu đi một giọt nước ".Mẹ Têrêsa đã minh chứng những việc làm nhỏ bé của Mẹ và của các nữ tu bác ái của Mẹ,những công việc xem ra khiêm tốn,nhưng lại hết sức vĩ đại.Các thánh An-rê Kim Tê-gon,Phaolô Chung Hasan và các bạn của các Ngài đã làm một công việc hết sức khiêm tốn,nhưng lại mang một ý nghĩa cao vời là minh chứng cho Chúa phục sinh,chứng minh:"Chúa là Ðàng,là Sự thật và là sự Sống ". Các Ngài đã dùng cái chết để nói lên lời."Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu "( Ga 15, 13 ). Thánh Anrê Kim Têgon trong cảnh tù ngục cùng với 20 người bạn đã không hề than van trách móc,đã không đổ tội cho ai. Ngài đã viết thư động viên giáo hữu của Người trong giáo xứ:" Hãy tin tưởng phó thác,hãy kiên nhẫn trong tin yêu vì một sợi tóc trên đầu cũng do sự quan phòng của Chúa ". Thánh nhân đã khích lệ các tín hữu:"Hãy sống hiệp nhất,bác ái,yêu thương nhau,tuân theo ý Chúa và cương quyết chiến thắng ma quỉ noi gương Thầy Chí Thánh là Ðức Kitô đã chống lại ma quỉ và chiến thắng chúng một cách anh dũng ". Thánh Anrê Kim Têgon,Phaolô Chung Hasan và các bạn đã anh dũng hy sinh làm cho vườn hoa Giáo Hội Ðại Hàn nẩy sinh tươi tốt. Chính Dòng máu của các Ngài đã làm cho Hội Thánh Triều Tiên lớn mạnh.Và như Mẹ Têrêsa Calcutta nói:" Tôi có làm gì đặc biệt đâu ". Lời nói ấy của Mẹ Têrêsa vẫn vang vọng mãi vì chính cái nói rằng không đặc biệt lại trở thành rất đặc biệt . Thánh Anrê Kim Têgon và các bạn đã làm một hành động đặc biệt, rất anh hùng,chấp nhận cái chết để qui tụ Giáo Hội Triều Tiên. Ðúng chết mới nói lên lời .Ngang qua thập giá, đau khổ,các thánh tử đạo mới gặt hái vinh quang. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong" Bước qua ngưỡng cửa hy vọng ",có đoạn đã viết:" .Khi đưa ra cho lũ đông xem con người Nagiarét,thân mình bị đánh đòn,đầu đội mũ gai,Philatô đã không ngờ rằng khi ông ta nói"Ðây là người ",ông ta đã công bố một chân lý căn bản và đã nói lên cái điều sẽ mãi mãi và khắp nơi là nội dung của việc loan báo Tin Mừng ". Có nơi Ngài viết:" Có một điều nghịch lý căn bản trong Phúc Âm:muốn tìm thấy sự sống,phải bỏ mất nó;muốn sinh ra,thì phải chết;muốn được cứu độ,phải nhận lấy thập giá của mình! Ðó là chân lý nằm ở tâm điểm của Phúc Âm:ở mọi nơi và ở mọi thời,chân lý này sẽ bị người ta phản đối". Thánh Anrê Kim Têgon,Phaolô Chung Hasan và các bạn tử đạo đã chấp nhận chân lý này và đã luôn sống cái nghịch lý của Tin Mừng.Các Ngài đã chết,nhưng các Ngài vẫn sống mãi mãi. Lạy thánh Anrê Kim Têgon, Phaolô Chung Hasan và các bạn tử đạo,xin ban cho chúng con và Giáo Hội Triều Tiên luôn can đảm sống nghịch lý của Phúc Âm là có chết mới tìm được sự sống mới, có ngang qua thập giá mới tới vinh quang. Xin các thánh tử đạo Ðại Hàn ban sức mạnh cho Giáo Hội Triều Tiên để Hội Thánh Triều Tiên luôn đứng vững trước muôn vàn thử thách.
Đạo Công giáo lần đầu tiên được du nhập vào Hàn Quốc thông qua Trung Quốc. Tu sĩ 20/9-5
Đạo Công giáo lần đầu tiên được du nhập vào Hàn Quốc thông qua Trung Quốc. Tu sĩ Dòng Tên Matteo Ricci là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân đến Trung Quốc và giới thiệu đức tin Công giáo vào năm 1583. Năm 1603, một nhà ngoại giao Hàn Quốc tên là Yi Su Gwang được giới thiệu sách giáo lý của Matteo Ricci ở Bắc Kinh và trở về Hàn Quốc, mang theo tài liệu đó. Năm 1784, một nhà quý tộc hai mươi tám tuổi tên Yi Seung Hun đã nghe biết về đạo Công giáo. Anh cùng cha mình đi sứ mệnh ngoại giao đến Bắc Kinh. Khi ở đó, anh gặp gỡ được một số linh mục Công giáo và được rửa tội với tên thánh Peter. Bởi vậy, Yi Seung Hun trở thành người Hàn Quốc đầu tiên trở lại đạo Công giáo. Khi về Hàn Quốc, Yi Seung Hun mang theo cây thánh giá, tràng hạt, tượng và ảnh thánh, đồng thời chia sẻ đức tin của mình trong nhiều năm sau đó. Đạo Công giáo cũng từ đó âm thầm phát triển hơn. Một trong những lý do khiến đạo Công giáo rất hấp dẫn đối với người Hàn Quốc là vì nó đặt tất cả mọi người ngang hàng với nhau, loại bỏ hệ thống phân cấp bất công do Nho giáo đề cao. Đạo Công giáo cho phép mọi người coi nhau bình đẳng, được Chúa yêu thương và cứu chuộc, khiến họ trở thành anh chị em. Mặc dù vậy, đạo Công giáo thời bấy giờ vẫn còn là mới mẻ và lạ lẫm với những truyền thống phong kiến, nhất là sự ảnh hưởng của Nho giáo. Bởi thế, người Công giáo đã phải chịu nhiều những áp bức và sát hại vì một lòng trung kiên giữ vững đức tin của mình. Tuy nhiên, đạo Công giáo không thể bị ngăn cấm. Hạt giống đức tin đã được gieo, bắt đầu lớn lên và sinh hoa trái tốt. Hai vị thánh tử đạo tiêu biểu được mừng kính hôm nay là thánh Anđrê Kim Têgon và Phaolô Chung Hasan. Thánh Phaolô Chung sinh năm 1795 trong một gia đình quý tộc Hàn Quốc. Ngài là một giáo lý viên và đã kết hôn. Ngoài việc giảng dạy đức tin Công giáo, thánh Phaolô Chung còn thực hiện nhiều chuyến đi đến Bắc Kinh để thuyết phục Hội Thừa Sai Paris gửi các linh mục đến Hàn Quốc. Thậm chí ngài còn viết thư cho giáo hoàng với yêu cầu tương tự như vậy. Với những nỗ lực ấy, Giám mục Imbert và mười người bạn truyền giáo của ngài đã được gửi đến để phục vụ các nhu cầu của cộng đồng Công giáo bí mật Hàn Quốc. Năm 1839, giáo lý viên Phaolô Chung Hasan cùng với Giám mục Imbert được phúc tử đạo do bị hành quyết vì trung thành với đạo Chúa Kitô. Anđrê Kim cũng sinh ra trong tầng lớp quý tộc thống trị của triều đại Joseon. Cha mẹ của anh nằm trong số nhiều người mới trở lại đạo Công giáo. Năm 1836, ở tuổi mười bốn hoặc mười lăm, thánh Anđrê Kim được rửa tội. Ba năm sau, cha của ngài nằm trong số các vị tử đạo năm 1839 và được ghi vào danh sách các vị thánh ngày nay. Sau khi Andrew chịu phép Rửa Tội, ngài đã đi quãng đường một nghìn ba trăm dặm đến Ma Cao, thuộc địa của Bồ Đào Nha. Chính nơi đây, ngài đã bước chân vào chủng viện. Sau đó, ngài được gửi đến Philippines để hoàn tất chương trình thần học. Năm 1845, thánh Anđrê Kim được truyền chức linh mục tại Thượng Hải và trở thánh linh mục Công giáo đầu tiên của Hàn Quốc. Ít lâu sau, ngài bí mật trở về Hàn Quốc bằng một chuyến hành trình vượt biển đầy nguy hiểm để tránh lính biên phòng và bắt đầu sứ vụ linh mục tại Hàn Quốc. Sứ vụ của thánh Anđrê Kim ở Hàn Quốc tuy ngắn ngủi nhưng mang lại nhiều kết quả. Ngoài việc bí mật cử hành các Bí tích và giảng dạy đức tin, ngài còn giúp các linh mục truyền giáo người Pháp khác đến để thi hành sứ vụ. Tuy nhiên, hoạt động mục vụ của ngài đã bị phát giác. Chính vì vậy, vào năm 1846, ngài bị bắt và bị tra tấn tàn bạo nhằm buộc ngài phải từ bỏ đức tin của mình. Trong thời gian bị giam cầm, cha Anđrê Kim không chỉ mạnh mẽ tuyên xưng đức tin, mà ngài còn viết nhiều lá thư để khích lệ cho giáo dân của ngài. Trong thư, ngài đề cập đến những khó khăn mà giáo dân của ngài sẽ phải đối mặt, mang đến cho họ niềm hy vọng, hướng họ đến sự cứu rỗi trong Chúa Kitô và khuyến khích họ giữ vững đức tin bằng cách tìm thấy sức mạnh trong những lời dạy của Giáo hội Công giáo. Ngài đã bị xử trảm vào ngày 16 tháng 9 năm 1846, bên bờ sông Hàn, lúc ấy ngài mới hai mươi lăm tuổi. Cuộc đàn áp các Kitô hữu tiếp tục diễn ra trong hai mươi năm sau đó. Vào năm 1866, một cuộc đàn áp khủng khiếp nhất đã xảy ra, cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người. Người ta ước tính có khoảng mười nghìn đến hai mươi nghìn người Công giáo đã tử vì đạo ở Hàn Quốc trong thế kỷ 19. Những nỗ lực nhằm ngăn chặn việc trở lại đạo Công giáo ở Hàn Quốc thật tàn bạo. Việc bỏ tù là không đủ. Cái chết là chưa đủ. Tra tấn dã man là thứ vũ khí được những kẻ cai trị sử dụng để ngăn chặn sự truyền bá đức tin. Một trăm linh ba vị tử đạo mà chúng ta kính nhớ hôm nay cho chúng ta thấy rằng những nỗ lực đàn áp ngăn chặn kia đã thất bại. Vào ngày 06 tháng 05 năm 1984, trong chuyến tông du đến Seoul, Hàn Quốc, nhân dịp kỷ niệm 200 năm người Hàn Quốc đầu tiên trở lại đạo Công giáo, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ nhị đã tuyên phong một trăm linh ba Vị Tử Đạo Hàn Quốc lên bậc hiển thánh. Lạy Chúa là Đấng tạo thành và cứu độ muôn dân, Chúa đã mời gọi dân tộc Triều Tiên đón nhận đức tin Công Giáo để gia nhập cộng đoàn dân Chúa chọn, Chúa lại ban cho cộng đoàn này tăng trưởng nhờ lời tuyên xưng đức tin của các bậc anh hùng là hai thánh An-rê Kim, Phao-lô Chung cùng các bạn, tử đạo. Xin nhậm lời cầu nguyện của các ngài mà ban cho chúng con biết noi gương các ngài để lại, là trung thành tuân giữ giới răn Chúa cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Amen.
Anrê Kim Taegon và Phaolô Chong Hasang được phong thánh cùng với một trăm mười một 20/9-6
Anrê Kim Taegon và Phaolô Chong Hasang được phong thánh cùng với một trăm mười một vị tử đạo khác do Đức Gioan Phaolô II, năm 1984, nhân dịp Đức giáo hoàng tới Triều Tiên. Lễ kỷ niệm được ghi vào lịch năm 1985, định vào ngày giữa 16 tháng 9, kỷ niệm thánh Anrê Kim tử đạo, bị chặt đầu ở Séol, và 22 tháng 9, ngày tử đạo của thánh Phaolô Chong, cũng bị hành quyết năm 1846.
Việc truyền giáo cho Triều Tiên bắt đầu từ thế kỷ XVII, nhờ lòng can đảm của một số giáo dân ; họ đã lập nên một cộng đoàn sốt sắng tồn tại cho tới khi các thừa sai người Pháp tới. Các vị tử đạo tôn kính hôm nay đều thuôc cộng đoàn đó, tất cả đều là người Triều Tiên, trừ ba vị giám mục và bảy linh mục thuộc Hội truyền giáo hải ngoài Paris, đều bị hành quyết trong các cuộc bách hại 1839, 1846. Trong số đó có thánh Laurent Imbert, sinh tại Aix-en-Provence, thụ phong giám mục tại Triều Tiên, tử đạo năm 1839, thánh Pierre Maubant và Jacques Chastan.
Anrê Kim Taegon sinh trong một gia đình quyền quí ở Triều Tiên. Thân phụ là ông Ignace cũng tử đạo, năm 1821. Ngày nay chúng ta còn lưu giữ được hai bức thư của cha Kim : một lá viết từ trong tù gửi cho giám mục Ferréol, người đã truyền chức linh mục cho cha tại Macao, Trung Quốc ; lá thư thứ hai gửi các đồng đạo Triều Tiên khác. Thánh Anrê Kim Taegon là linh mục tử đạo thứ nhất người Triều Tiên.
2. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh tính phổ quát trong nhiệm cục cứu rỗi của Chúa, là “Đấng sáng tạo và là sự cứu rỗi cho mọi dân tộc”. Vậy nên Giáo hội tự bản chất phải truyền giáo, như Công đồng Vaticanô II nhắc nhở : “Được Chúa sai đến với lương dân để trở thành bí tích cứu rỗi mọi người, Giáo hội, vì các yêu cầu nội tại do tự bản chất phổ quát của mình và tuân theo lệnh truyền của Đấng sáng lập (Mc 16,16) hết sức cố gắng hướng tới việc rao giảng cho mọi người” (TG 1).
Đề tài khác được phụng vụ trong ngày triển khai là tử đạo được Giáo hội xem là ơn huệ lớn lao và là chứng cứ của lòng mến siêu việt (LG 42). Chính nhờ tử đạo mà hạt giống rơi xuống đất mang lại nhiều hoa trái (Ga 12,24).
Thánh Anrê Kim Têgon là linh mục và Thánh Phaolô Chong Hasang là một tín hữu Công giáo 20/9-7
Thánh Anrê Kim Têgon là linh mục và Thánh Phaolô Chong Hasang là một tín hữu Công giáo. Hai vị tử đạo này đại diện cho nhiều Kitô hữu đã hy sinh mạng sống vì đức tin tại Hàn quốc. Các ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong Hiển thánh năm 1984 nhân chuyến viếng thăm đất nước này.
Kitô giáo được những giáo dân đem vào Hàn quốc hồi thế kỷ thứ 17. Các tín hữu đã âm thầm nuôi dưỡng và tăng triển đức tin của họ dựa trên lời Chúa. Các linh mục thừa sai trẩy tàu từ Pháp sang Hàn và giới thiệu cho dân Hàn hiểu biết về đời sống bí tích của Hội Thánh. Thỉnh thoảng, suốt dọc thế kỷ thứ 19, đức tin Kitô giáo bị chính phủ Hàn bách hại. Từ năm 1839 đến năm 1867, đã có tổng cộng 103 tín hữu Hàn bị giết hại. Cũng có mười thành viên của hiệp hội Thừa Sai Pari nước ngoài chịu tử vì đạo: gồm 3 Giám mục và 7 linh mục. Điều này đã nâng tổng số các Thánh Tử đạo lên 113 vị.
Thánh Anrê Kim Têgon và Thánh Phaolô Chong Hasang là đại diện cho các Kitô hữu Hàn đã can đảm hy sinh mạng sống mình vì tình yêu Chúa Kitô. Thánh Anrê Kim Têgon, linh mục đầu tiên của Hàn quốc, đã tử vì đạo ngày 16 tháng Chín năm 1846, chỉ một năm sau khi được thụ phong. Thân phụ của Anrê đã tử đạo năm 1821. Thánh Phaolô Chong Hasang là một giáo lý viên rất anh dũng. Thánh nhân chịu tử đạo hôm 22 tháng Chín năm 1846.
2. Chứng tá đức tin của Thánh Anrê Kim và các thánh tử đạo Đại Hàn
Chứng tá đức tin của thánh Anrê Kim Taegon và các vị tử đạo Đại Hàn ngày nay vẫn tạo thành nhựa sống và lịch sử căn tính của toàn thể người Công giáo Hàn Quốc, vẫn sống động dù chỉ là thiểu số. Năm Thánh kỷ niệm 200 năm ngày sinh của thánh Anrê là cơ hội để phát triển đời sống thiêng liêng của Giáo hội tại Hàn Quốc.
Thánh Anrê Kim Taegon
“Anh là người Công giáo?”. “Đúng, tôi là tín hữu Công giáo”.
Đó là cuộc đối thoại khô khan, ngắn gọn, của thánh Anrê Kim Taegon, linh mục Công giáo đầu tiên người Đại Hàn, với một viên chức chính phủ, giữa lúc mối đe doạ về một cái chết thảm khốc ẩn hiện. Đó cũng là lời tuyên xưng đức tin ngắn gọn, như được tường thuật trong một trong những lá thư thánh nhân đã viết trong những ngày bị giam cầm, trong đó chứa đựng tất cả lòng trung thành sâu xa của ngài với Thiên Chúa. Cùng với thánh nhân là chứng tá đức tin được đóng ấn bằng sự hy sinh cao cả, hy sinh chính mạng sống, của hàng ngàn người nam nữ Đại Hàn, bị thử thách bởi làn sóng bách hại ập đến nước này trong thế kỷ thứ mười tám và mười chín. Chứng tá này ngày nay vẫn tạo thành nhựa sống và lịch sử căn tính của toàn thể người Công giáo Hàn Quốc, vẫn sống động dù chỉ là thiểu số.
Thánh Anrê Kim sinh ngày 21 tháng 8 năm 1821 tại Solmou, Dangjin, trong một gia đình lớn lên theo các nguyên tắc Kitô giáo, và cha của ngài đã biến gia đình thành một “Giáo hội tại gia”. Sự lựa chọn phải trả giá bằng mạng sống của mình. Trong bốn thế hệ, mười một thành viên của gia đình thánh nhân đã đổ máu làm chứng cho Chúa, và trong số những vị này có một số vị được phong chân phước và những người khác đã được phong thánh.
Thánh Anrê Kim được một nhà truyền giáo người Pháp chọn đi học để trở thành linh mục. Sau khi du học tại Macao, ngài được thụ phong linh mục, trở thành linh mục người Đại Hàn đầu tiên. Khi trở về nước ngài hoạt động mục vụ giữa những cuộc bách hại: Ngài bị bắt và bị giam cầm, tra khảo, tra tấn, và cuối cùng vào ngày 16 tháng 9 năm 1846, ngài bị chặt đầu vì không muốn chối bỏ đức tin, khi chưa tròn 25 tuổi. Thánh Anrê và hàng trăm tín hữu khác ở các lứa tuổi và tầng lớp xã hội khác nhau đã được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II ghi tên vào sổ bộ các thánh vào năm 1984.
Lịch sử bách hại Kitô giáo tại Đại Hàn
Các tu sĩ và giáo dân Công giáo, các vị tử đạo Đại Hàn là nạn nhân của các cuộc bách hại tôn giáo diễn ra tại nước này, nơi những hạt giống đức tin Kitô giáo đầu tiên xuất hiện vào đầu những năm 1600 thông qua các phái đoàn đến thăm Bắc Kinh hàng năm để giao lưu văn hóa. Tại Trung Quốc, người Đại Hàn tiếp xúc với đức tin Kitô giáo đã mang về nước cuốn sách của cha Matteo Ricci, một nhà truyền giáo Dòng Tên. Một giáo dân, nhà tư tưởng Lee Byeok, được truyền cảm hứng từ cuốn sách của linh mục Dòng Tên, sau đó đã thành lập một cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên rất năng động, nhanh chóng phát triển lên đến vài ngàn tín hữu, và cộng đoàn tiếp tục phát triển ngay cả khi bị bách hại.
Vào khoảng năm 1785, tại Triều Tiên diễn ra một cuộc bách hại khốc liệt; vị linh mục duy nhất hoạt động tại nước này bị giết vào năm 1801. Năm 1802, sắc lệnh của Vua Sunjo thậm chí còn ra lệnh tiêu diệt những người theo Kitô giáo như một giải pháp duy nhất để bóp nghẹt mầm mống của điều mà chế độ của ông xem là “một sự điên rồ”. Bị đơn độc và không có sự hướng dẫn tinh thần, các tín hữu liên tục cầu xin Đức Giám mục của Bắc Kinh và cả Đức Giáo hoàng gửi các linh mục đến với họ. Mãi đến năm 1837, khi các hoàn cảnh địa phương cho phép, một giám mục và hai linh mục từ Hội Thừa sai Paris được gửi đến Đại Hàn. Các ngài đã hoạt động cách bí mật trong nước và hai năm sau, họ được phúc tử đạo. Với nỗ lực lần thứ hai của thánh Anrê Kim, một giám mục và một linh mục đã có thể đến Đại Hàn, và kể từ thời điểm đó, sự hiện diện của hàng giáo sĩ Công giáo ở Đại Hàn bắt đầu ổn định, bất chấp các cuộc bách hại gia tăng vào năm 1866. Cuối cùng, vào năm 1882, chính phủ đã ban hành tự do tôn giáo.
Các vị tử đạo Đại Hàn
Theo các nguồn sử liệu địa phương, hơn 10.000 vị đã tử đạo trong các cuộc bách hại của Đại Hàn. 103 vị - bao gồm một số phụ nữ - đã được phong chân phước thành hai nhóm riêng biệt vào năm 1925 và 1968; và sau đó được Đức Gioan Phaolô II phong thánh cùng ngày 6 tháng 5 năm 1984, tại Seoul. Chỉ có 10 vị trong số họ là người nước ngoài, ba giám mục và bảy linh mục, những người còn lại đều là người Đại Hàn, họ là các giáo lý viên và tín hữu. Ngày lễ phụng vụ kính nhớ các vị thánh tử đạo Đại Hàn là ngày 20 tháng 9. Đứng đầu danh sách, ngoài thánh Anrê Kim Taegon, còn có giáo lý viên Phaolô Chong Hasang. Từ năm 1900, hài cốt của các ngài đã được an táng trong hầm mộ của Nhà thờ chính toà Myeong-dong.
124 vị tử đạo khác đã được Đức Thánh Cha Phanxicô phong chân phước vào ngày 16 tháng 8 năm 2014, trong chuyến viếng thăm Hàn Quốc. Trong số này có Phaolô Yun Ji-chung. Hơn một triệu tín hữu đã tham dự Thánh lễ của Đức Phanxicô ngày hôm đó tại Cổng Gwanghwamun, sau khi Đức Thánh Cha đã đến viếng nơi hành quyết chính: đền thánh Seo So-Mun, ở ngoại ô Seoul. Sự tham dự đông đảo của người dân là dấu hiệu cho thấy lòng sùng kính sâu sắc của họ đối với các thánh và các chân phước, những chi thể sống động của lịch sử và bản sắc của một quốc gia. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói: các ngài “nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta phải đặt Chúa Kitô lên trên mọi sự và không thỏa hiệp trong đức tin”. Đức Thánh Cha nói thêm rằng tấm gương của các vị tử đạo “có rất nhiều điều để nói với chúng ta, những người đang sống trong một xã hội mà bên cạnh sự giàu có to lớn, thì sự nghèo đói khủng khiếp nhất cũng gia tăng một cách thầm lặng; nơi mà tiếng kêu của người nghèo hiếm khi được nghe thấy; và nơi Chúa Kitô tiếp tục kêu gọi, yêu cầu chúng ta yêu thương và phục vụ Người bằng cách đưa tay ra cho anh chị em chúng ta đang cần được giúp đỡ.”
Lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của thánh Anrê Kim Taegon tại Roma
Những người Công giáo Hàn Quốc ở các nước trên khắp thế giới đã hiệp nhất trong tinh thần với đồng bào của họ hôm thứ Bảy 21/8/2021 để kỷ niệm 200 năm ngày sinh của vị linh mục bản xứ đầu tiên của Triều Tiên. Một trong những lễ kỷ niệm như thế đã được Đức Tổng Giám mục Lazarus You Heung-sik, tân Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ, cử hành tại Bàn thờ Ngai toà ở đền thờ thánh Phêrô cho cộng đoàn Hàn Quốc ở Roma. Thánh lễ tưởng nhớ thánh Anrê Kim và các vị tử đạo khác, tất cả giáo dân, sự cống hiến xương máu và gương sáng của họ. Đức tổng giám mục Lazarus được Đức Thánh Cha bổ nhiệm vào ngày 11 tháng 6. Đây là Thánh lễ công khai đầu tiên ngài cử hành tại Roma.
Trong bài giảng, sau khi nhắc lại cuộc đời và chứng tá Kitô giáo của thánh Anrê Kim Taegon, Đức Tổng Giám mục You Heung-sik nhắc lại chuyến thăm Hàn Quốc vào năm 2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân dịp Đại hội Giới trẻ Châu Á lần thứ 6, nơi ngài gặp gỡ những người trẻ tại Đền thánh Solmou và Haemi. Ngài đã ca ngợi sự đáp lời của người Công giáo Hàn Quốc trước lời mời của Đức Thánh Cha sống như những tấm gương về tình yêu Kitô giáo. Ngài nói: “Thánh Anrê Kim và những vị tiền bối khác của chúng ta đã thực hành những gì họ tin tưởng, ngay cả khi họ sống trong một xã hội bị thống trị bởi một hệ thống xã hội thứ bậc, và cố gắng hết sức để sống theo những lý tưởng Phúc Âm về phẩm giá con người và bình đẳng giữa các dân tộc”. Ngài nói thêm rằng, ngay cả trong cuộc đời 25 năm ngắn ngủi của mình, thánh Anrê Kim đã làm chứng cách trung thành cho sự bình đẳng trong Phúc Âm mà Chúa Giêsu đã thể hiện.
Đề cập đến những đau khổ do đại dịch Covid-19 tiếp tục giáng xuống thế giới, ngài nói: “Đối với tôi, có vẻ như là điều được Chúa Quan phòng khi kỷ niệm 200 năm ngày sinh của thánh Anrê Kim được tổ chức ngay giữa đại dịch - điều mà đáng tiếc là dường như đã làm nổi bật khuynh hướng ích kỷ và phân biệt đối xử trong xã hội của chúng ta - để tấm gương của vị tử đạo của chúng ta có thể dạy chúng ta con đường mà chúng ta có thể đối phó với cuộc khủng hoảng hiện tại”. Ngài lưu ý rằng các Giám mục Hàn Quốc đã tìm cách giúp đỡ bằng cách khởi động một dự án hỗ trợ người nghèo nhận vắc xin Covid-19.
Tân Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ cũng bày tỏ hy vọng rằng một ngày nào đó Đức Thánh Cha có thể đến thăm Triều Tiên, một chuyến thăm mà theo ngài sẽ là một bước tiến quan trọng đối với hòa bình trên bán đảo Triều Tiên.
Đức Tổng Giám mục You Heung-sik đã kết thúc bài giảng của mình với lời khuyến khích tất cả người dân Triều Tiên bước theo bước chân của thánh Anrê Kim Taegon và theo đuổi con đường hòa bình và hòa giải giữa Hàn Quốc và Triều Tiên.
Đối với các vị tử đạo Đại Hàn, đức tin là giá trị quan trọng nhất
Năm Thánh kỷ niệm 200 năm ngày sinh của thánh Anrê Kim đã được khai mạc vào ngày 29 tháng 11 năm 2020 và sẽ kết thúc vào ngày 27 tháng 11 năm 2021. Đây là “một cơ hội thuận lợi cho sự phát triển thiêng liêng của Giáo hội Hàn Quốc”, như Đức cha Lazzaro You đã nói trong cuộc phỏng vấn vào tháng 12 năm ngoái với Vatican News. Khi đó ngài còn là giám mục giáo phận Daejeon của Hàn Quốc và chịu trách nhiệm tổ chức Năm Thánh. Ngài nói: “Năm Thánh này sẽ cho tất cả chúng ta cơ hội để nội tâm hóa linh đạo của sự tử đạo, vốn là huyết mạch của Giáo hội tại Hàn Quốc, khi suy gẫm sâu sắc về cuộc đời của các vị tử đạo”. Đức cha You nói thêm: “Đối với các vị tử đạo của chúng tôi, đức tin là giá trị quan trọng nhất”. “Trong xã hội Hàn Quốc, chỉ có 11% dân số theo đạo Công giáo, trong khi hơn một nửa tuyên bố mình ‘không theo tôn giáo nào’”. Do đó, lời mời gọi là “suy tư nghiêm túc về bản sắc của chúng tôi và sự gắn kết của chúng tôi với tư cách là những người Công giáo trung thành”.