Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 2-2025

Thứ sáu - 02/05/2025 09:40
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 2-2025
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 2-2025
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS
Xếp gọn trong Tuần 2-2025
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: Thứ 2 PS –Tuần 2/2025. 3
Lời Chúa: Ga 3, 1-8. 3
Suy Niệm 1: Được sinh ra từ trên. 4
Suy Niệm 2: Bởi nước và Thần khí 5
Suy Niệm 3: Cửa ngõ vào Nước Thiên Chúa. 6
Suy Niệm 4: Gió muốn thổi đâu thì thổi 7
Suy Niệm 5: Đức tin sẽ giúp ta nhận ra phép lạ. 8
Suy Niệm 6: Tái sinh trong Chúa Kitô. 9
Suy Niệm 7: Kitô hữu phải được Thần Khí sinh ra. 10
Suy Niệm 8: Ông Niccôđêmô gặp Đức Giêsu. 11
Suy Niệm 9: Cần thiết phải sinh lại 14
Suy Niệm 10: Đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô. 15
Suy Niệm 11: Phải tái sinh thì mới được vào nước Chúa. 17
Suy Niệm 12: Sinh bởi nước và Thần khí 19

Thứ 3: PS –Tuần 2/2025 - 29/04 Thánh Catarina Siêna. 20
Lời Chúa: Ga 3, 7-15. 21
Suy Niệm 1: Ai tin được sống muôn đời 21
Suy Niệm 2: Sống theo Thần Khí tự do. 23
Suy Niệm 3: Ðược Sống Muôn Ðời 24
Suy Niệm 4: Thánh Thần dẫn tới đâu?. 25
Suy Niệm 5: Điều kiện căn bản: "niềm tin". 26
Suy Niệm 6: Tin để hiểu. 27
Suy Niệm 7: Khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu để sống cuộc đời mới 28
Suy Niệm 8: Chúa Kitô được giương cao. 29
Suy Niệm 9: Tiếp tục nói về việc tái sinh. 31
Suy Niệm 10: Sinh lại như thế nào. 33
Suy Niệm 11: Nhờ tác động của Thánh Linh. 36
Suy Niệm 12: Chúa đến trần gian vì chúng ta. 39
Suy Niệm 13: Đấng từ trời xuống. 40

Thứ 4 PS –Tuần 2/2025. 41
Lời Chúa: Ga 3, 16-21. 41
Suy Niệm 1: Thiên Chúa yêu thế gian. 42
Suy Niệm 2: Ánh sáng sự sông. 43
Suy Niệm 3: Đi rao giảng Tin Mừng. 44
Suy Niệm 4: Án xử của Thiên Chúa. 46
Suy Niệm 5: Yêu? Phán xét? Án phạt?. 47
Suy Niệm 6: Thiên Chúa là tình yêu. 48
Suy Niệm 7: Thiên Chúa đã ban Con của Ngài cho nhân loại 49
Suy Niệm 8: Tình yêu Thiên Chúa – tình yêu cho đi 50
Suy Niệm 9: Tin Chúa sẽ được trường sinh. 51
Suy Niệm 10: Đi theo ánh sáng. 53
Suy Niệm 11: Hiệu quả của việc sinh lại 55
Suy Niệm 12: Chúa đến để ta được sống. 57
Suy Niệm 13: Thiên Chúa ban Con Một 59

Thứ 5: Ngày 01/05 Thánh Giuse thợ. 60
Lời Chúa: Mt 13, 54-58. 60
Suy Niệm 1. Đức Giêsu về quê. 61
Suy Niệm 2. Thánh Giuse Thợ. 63
Suy Niệm 3. Thánh Giuse thợ. 64
Suy Niệm 4. Thánh Giuse Lao động. 66
Suy Niệm 5. Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn. 70
Suy Niệm 6. Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn. 73
Suy Niệm 7. Thánh Giuse: người lao động. 74
Suy Niệm 8. Thánh Giuse Thợ. 75
Suy Niệm 9. Nghĩ về lao động, nhân lễ thánh Giuse thợ. 76
Suy Niệm 10. Thánh Giuse, Người Cha lao động. 78
Suy Niệm 11. Thánh Giuse. 81
Suy Niệm 12. Thánh Giuse Thợ. 82
Suy Niệm 13. Thánh Giuse. 84
Suy Niệm 14. Lễ thánh Giuse thợ. 85
Suy Niệm 15. Lao động biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu phục sinh. 87
Suy Niệm 16. Suy niệm ngắn về thánh Giuse thợ. 90
Suy Niệm 17. Lễ thánh Giuse thợ. 91
Suy Niệm 18. Giá trị của lao động. 93
Suy Niệm 19. Bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?. 94
Suy Niệm 20. Lễ thánh Giuse thợ: bổn mạng các người cha gia đình. 95
Suy Niệm 21. Lao động như phụng tự. 97

Thứ 6 PS –Tuần 2/2025 - 02/05 Thánh Athanasiô. 98
Lời Chúa: Ga 6, 1-15. 98
Suy Niệm 1: Ăn bao nhiêu tùy ý. 99
Suy Niệm 2: Thật và giả. 100
Suy Niệm 3: Đấng cứu rỗi thế gian. 101
Suy Niệm 4: Sự cộng tác của con người 102
Suy Niệm 5: Dự tính tương lai 103
Suy Niệm 6: Phép lạ do tình thương. 104
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu mời gọi, chờ đợi sự đóng góp của con người 105
Suy Niệm 8: Thiên Chúa cứu chữa phần hồn, dưỡng nuôi phần xác. 106
Suy Niệm 9: Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều. 108
Suy Niệm 10: Phép lạ hóa bánh ra nhiều. 110
Suy Niệm 11: Biết quảng đại trao ban như Chúa. 113
Suy Niệm 12: Chúa ban của ăn cho dân chúng. 115
Suy Niệm 13: Sống nhờ bánh hằng sống. 117

Thứ 7 PS –Tuần 2/2025 - 03/05 Thánh Philipphê & Giacôbê. 118
Lời Chúa: Ga 14, 6-14. 119
Suy Niệm 1. Làm những việc lớn hơn nữa. 119
Suy Niệm 2. Nhân danh Thầy. 121
Suy Niệm 3. Thánh Philipphê, Tông đồ. 122
Suy Niệm 4. Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ. 122
Suy Niệm 5. Đường sự sống. 126
Suy Niệm 6. Philipphê và Giacôbê tông đồ. 128
Suy Niệm 7. Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ. 129
Suy Niệm 8. Philipphê và Giacôbê tông đồ. 131
Suy Niệm 9. Thấy Thầy là thấy Cha. 132
Suy Niệm 10. Phi-líp-phê tông đồ. 133
Suy Niệm 11. Philipphê và Giacôbê tông đồ. 134
Suy Niệm 12. Thánh Philipphê và thánh Giacôbê. 136
Suy Niệm 13. Thánh Philípphê và thánh Giacôbê. 138
Suy Niệm 14. Nhận ra Thiên Chúa là Cha. 139
Suy Niệm 15. Philipphê và Giacôbê tông đồ. 140
Suy Niệm 16. Philipphê và Giacôbê tông đồ. 142
Suy Niệm 17. Philipphê và Giacôbê tông đồ. 145
Suy Niệm 18. Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ. 146
Suy Niệm 19. Sự thật dẫn đến sự sống. 149
Suy Niệm 20. Hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. 151
Suy Niệm 21. Thánh Philípphê và Giacôbê. 153
Suy Niệm 22. Hãy là trung gian của Chúa. 155

----------------------------------

 

Thứ 2: Thứ 2 PS –Tuần 2/2025

Cửa ngõ vào Nước Thiên Chúa.
28/04 – Thứ Hai tuần 2 Phục Sinh.
"Nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa".

 

Lời Chúa: Ga 3, 1-8


Khi ấy, trong nhóm biệt phái, có người tên là Nicôđêmô, một đầu mục của người Do-thái. Ông đến thăm Chúa Giêsu ban đêm và thưa rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi nhận biết Thầy là một vị tôn sư Thiên Chúa uỷ phái đến. Vì không ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người đó". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa". Nicôđêmô thưa Chúa rằng: "Một người đã già, làm sao có thể tái sinh? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?"
Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Được sinh ra từ trên


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J)

Mùa Phục sinh là thời gian những người dự tòng lãnh bí tích Thanh Tẩy.
Tuy họ là những người đã lớn khôn trưởng thành,
nhưng bí tích Thanh Tẩy đưa họ vào một cuộc sống mới,
cuộc sống như trẻ thơ được sinh lại nhờ Thánh Thần.
Để bước vào cuộc đời này, cần có một người cha sinh ra mình.
Để vào Nước Thiên Chúa, con người cần được Cha trên trời sinh ra.
Con người có sự sống đời này khi Chúa còn ban hơi thở tự nhiên.
Con người có sự sống vĩnh cửu khi được Chúa ban Thần Khí.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sự sinh ra bởi Thần khí, sinh ra từ trên.
Trong đêm tối, ông Nicôđêmô, một vị chức sắc của Thượng Hội Đồng,
đến gặp Đức Giêsu, người mà ông kính trọng gọi là Rabbi.
Ông tin Thầy Giêsu đến từ Thiên Chúa,
và vì Thầy có Thiên Chúa ở cùng nên Thầy mới làm được nhiều dấu lạ.
Có vẻ ông định hỏi Thầy về việc làm sao vào được Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu cho biết phải được sinh ra từ trên (anôthen).
Trong tiếng Hy-lạp, anôthen còn có nghĩa là lại, lần nữa.
Có lẽ vì thế mà Nicôđêmô tưởng là Đức Giêsu nói đến việc sinh lại.
Chính vì thế ông nêu lên thắc mắc:
“Một người đã già rồi, làm sao người ấy có thể được sinh lại lần nữa.”
Dĩ nhiên chúng ta không cần phải vào lòng mẹ lần thứ hai.
Nhưng kitô hữu thực sự phải là người đã được sinh ra bởi Thần Khí.
Tương tự như gió ở chung quanh ta.
Chúng ta chỉ có thể thấy những hậu quả của gió, nhưng không thấy được gió.
Người được sinh bởi Thần Khí cũng vậy.
Chúng ta cũng không rõ cách thức Thần Khí hoạt động nơi người ấy,
nhưng chúng ta nhìn thấy sự biến đổi sâu xa nơi cuộc đời mỗi người.
Mùa Phục sinh là thời gian của sự sống.
Chúng ta đã được sinh lại từ khi lãnh nhận Phép Rửa.
Hãy để cho sự  sống đó được làm mới lại và được lớn lên từng ngày.
Hãy để Thần Khí của Đấng Phục sinh nâng chúng ta lên cao,
để chúng ta thực sự là những người được sinh ra từ trên.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

-------------------------------
 
 

Suy Niệm 2: Bởi nước và Thần khí


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chịu phép rửa tội là cùng chết với Chúa Giêsu cho tội lỗi và con người cũ. Để được cùng sống lại với Người trong con người mới. Con người mới không còn sống theo xác thịt. Nhưng theo Thần Khí. Điều đó Chúa đã nói với Ni-cô-đê-mô nhưng ông không hiểu. Dù thông thái, nhưng chỉ là người hạ giới. Nên ông nghĩ sinh lại là phải trở vào lòng mẹ. Nhưng Chúa Giê-su nói về thượng giới. Sinh lại bởi ơn trên. Bởi nước và Thần Khí. Trước khi Chúa phục sinh, các Tông đồ cũng không hiểu. Nhưng sau ngày Chúa Phục Sinh, các ngài đã hiểu.

Các ngài đã sinh lại trong nước và Thần Khí. Đã được cưu mang qua những đau khổ. Từ những đau khổ do cuộc khổ nạn của Thầy Chí Thánh cho đến những đau khổ vì Thầy Chí Thánh. Từ những đau khổ do tính xác thịt yếu đuối cho đến những đau khổ sẵn sàng đón nhận vì tình yêu. Đó là một cuộc mang nặng đẻ đau.

Các ngài đã trở nên con người mới. Chúa Thánh Thần đến làm chấn động trái đất. Chuyển động lớn lao vì các Tông đồ chết đi cho con người cũ để sống cho con người mới. Từ bỏ con người xác thịt trần gian để sống theo Thần Khí với con người của thượng giới.

Trí óc mở ra nên các ngài am hiểu lời Kinh Thánh. Thấy tất cả Kinh Thánh đều ứng nghiệm vào Chúa Giê-su. Lời Thánh vịnh đã ứng nghiệm khi Phi-la-tô, Hê-rô-đê và các Thượng tế toa rập nhau kết án Chúa Giêsu. Họ tưởng họ đắc thắng. Không ngờ họ chỉ thi hành chương trình Thiên Chúa đã hoạch định từ trước.

Con người đổi mới nên các ngài chẳng còn sống cho xác thịt, cho chính mình. Chỉ sống cho Chúa Giê-su Ki-tô và vì Người mà thôi. Vì thế sẵn sàng và vui mừng chịu đau khổ vì Chúa.

Theo tác động của Thần Khí, các ngài mạnh dạn ra đi rao giảng Lời Chúa. Dù gặp biết bao gian nan khốn khó. Nhưng các ngài sẵn sàng chịu những thiệt thòi ở hạ giới. Vì các ngài đã thuộc thượng giới. Chỉ tìm vinh quang và hạnh phúc nơi thượng giới mà thôi.

Phần tôi, đã được chịu phép rửa, sinh lại bởi nước và Thần Khí. Tôi cũng phải noi gương các ngài. Không còn sống theo xác thịt với những toan tính trần tục. Hãy sống theo Thần Khí với nhãn quan thượng giới. này để được lại tất cả ở đời sau.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Cửa ngõ vào Nước Thiên Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong đoạn Phúc Âm hôm nay chúng ta hãy chú ý đến tinh thần và dung mạo của ông Nicôđêmô, một người thuộc nhóm Pharisiêu, tức biệt phái và là thủ lãnh của dân Israel. Hai chi tiết này cho chúng ta biết là dung mạo nhân bản và thiêng liêng của ông.

Nicôđêmô là một nhà trí thức thông biết Kinh Thánh Cựu Ước và đã thành danh, có địa vị trong dân Israel, có những đặc quyền và đặc ân trong xã hội và có những bổn phận phải chu toàn cũng như những lợi danh cần duy trì. Ðể duy trì danh thế này, ông Nicôđêmô không dám công khai đến với Chúa mà chỉ muốn đến với Chúa ban đêm để người ta đừng trông thấy, để khỏi bị phiền phức và để khỏi bị mất uy tín xã hội mà ông đang vui hưởng.

Nhìn từ bên ngoài và trên bình diện tự nhiên nhân bản, thì có thể nói một người như ông Nicôđêmô đã được thỏa mãn trọn đủ, công thành danh toại rồi, không còn phải nghĩ thêm gì nữa. Tuy nhiên, nếu xét thêm một chút nữa, chúng ta sẽ thấy được một khao khát sâu xa nơi tâm hồn của ông Nicôđêmô, khao khát về ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống, khao khát một cuộc mạc khải trọn vẹn hơn về Thiên Chúa. Ông đã nghe biết giáo lý có uy tín của Chúa Giêsu nên đã dám gọi Chúa là một vị tôn sư và đã quan sát đúng việc lạ Chúa thực hiện và lý luận một cách tự nhiên là có Thiên Chúa hiện diện nơi con người mang danh Giêsu đây. Ông đã mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời công nhận chân thành: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả thật, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy". Với thái độ sống như vậy, ông Nicôđêmô không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Nhưng điều mà cái nhìn phàm trần cho là lợi điểm của ông Nicôđêmô, tức sự hiểu biết của trí khôn, lại trở thành một cản trở, vì nếu muốn hiểu mọi sự nên ông Nicôđêmô chưa được chuẩn bị để đón nhận mầu nhiệm. Ông đã thắc mắc về ý nghĩa của việc sinh ra lại "Làm sao một người lớn tuổi mà có thể chui vào bụng mẹ để được sinh ra lại?"

Chúa Giêsu phải chuẩn bị thêm cho ông Nicôđêmô và long trọng xác nhận với ông rằng để theo Chúa, con người không thể ỷ lại vào sự hiểu biết hay vào lý lẽ khôn ngoan của con người. Cần phải được biến đổi bởi nước và Thánh Thần. Cần phải khiêm tốn lãnh nhận ân sủng Chúa ban và vâng phục sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: "Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không được sinh lại bởi ơn trên, không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần." Bí tích rửa tội và ơn Chúa Thánh Thần là cửa ngõ mở vào Nước Thiên Chúa.

Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vô cùng vì đã ban ơn Thánh Thần xuống để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi mọi tội lỗi và làm cho chúng con được sinh ra lại trong Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Cha thương cho Chúa Thánh Thần hoàn tất trong mỗi người chúng con điều mà ân sủng bí tích Rửa Tội đã bắt đầu. Xin cho chúng con có thái độ khiêm tốn để lãnh nhận những sự thật do Chúa mạc khải và can đảm làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Gió muốn thổi đâu thì thổi


Đức Giêsu đáp:

“Thật, tôi bảo thật ông:
không có ai có thể vào Nước Thiên Chúa,
nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.
Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt;
Còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là Thần khí. (Ga. 3, 5-6)

Để đào sâu mầu nhiệm phục sinh, cần đọc lại Tin mừng theo thánh Gio-an. Đức Giêsu dầu gắn bó với những thực tại dưới đất, Người không ngừng hướng dẫn chúng ta vượt các thực tại đó để đi tới đức tin cho ta đạt tới vinh quang Thiên Chúa. Trong ba ngày này, chúng ta đọc lại cuộc đàm thoại của Đức Giêsu với ông Ni-cô-đem. Cần thiết chúng ta phải biết “tái sinh” mới tham dự được vào đời sống của Đức Kitô phục sinh vừa là nguồn sống vừa là cùng đích của ta. Chỉ xác tín niềm tin như ông Ni-cô-đem chưa đủ: “Quả thật, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”. Cần phải có biến cố phục sinh để làm cho chúng ta đi sâu vào đời sống mới.

Đời sống mới ở đây cũng như nhiều nơi khác trong Tin mừng thánh Gio-an là sinh lại, sinh bởi ơn trên, không do đàn bà, nhưng do ơn Thánh Thần. Ngài là sự sống và là Đấng ban sự sống. Con người xác thịt được trở nên phần tử của nước Thiên Chúa, thành một người mới. Phép Rửa tội sinh ra ta trong Thánh Thần, đó là cách cho ta tham dự vào sự sống lại của Đức Giêsu. Thánh Thần làm cho ta nên con Thiên Chúa, cho ta sống trong con Thiên Chúa, hành động của Ngài khôn lường. Ngài là Thần Khí cao cả hơn lý trí con người, là gió, là hơi thở của Chúa Cha.

Không có sức bật nếu không ở trong Ngài. Chính nhờ Thánh Thần biến đổi dần dần đời sống chúng ta nên mạnh mẽ và gắn bó với Đức Kitô. Trong Ngài ta được thấy nước Thiên Chúa. Nhờ Ngài ta gọi Đức Giêsu là Chúa. Không có thể làm gì mà không Thánh Thần (1Cor. 12, 3). Đức tin không phải là tột đỉnh của suy luận, cũng không phải thần hứng chóng qua, nhưng là sự tìm tòi, phấn đấu chân thành lâu dài mà một người phải chấp nhận luôn luôn khởi sự lại tất cả. Ba Tin mừng nhất lãm đều nói: “Phải trở nên như con trẻ, nhỏ bé, nghèo hèn để đón nhận ơn cứu độ nước trời. Tin mừng Gio-an nói đến tái sinh, để nhờ sức mạnh của Thánh Thần làm cho nên “một tạo vật mới” như thánh Phao-lô nói trong thư Ga-la-ta (6, 15).

LP

-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Đức tin sẽ giúp ta nhận ra phép lạ


Ngày nay, chúng ta vẫn thường nghe, hay chứng kiến đây đó những phép lạ nhờ sự can thiệp của đấng này hay đấng nọ... Tuy nhiên, phép lạ có cần thiết cho đức tin của chúng ta hay không? Có phải do phép lạ mà chúng ta mới có đức tin hay nhờ đức tin mà chúng ta nhận ra phép lạ? Đây là điều chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài Tin Mừng hôm nay.

Thánh sử Gioan trình thuật câu chuyện giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô. Sau khi Nicôđêmô chân nhận uy quyền của Đức Giêsu và tuyên xưng Ngài là Đấng bởi Thiên Chúa, ngay lập tức, Đức Giêsu đã dẫn ông từ những cảm nghiệm bên ngoài qua các dấu lạ đến việc đưa ông vào trọng tâm, nội dung và hệ quả của niềm tin.

Vì thế, điều cần đối với Nicôđêmô ở đây không phải là dừng lại ở những dấu lạ hay đưa ra một vài lời nhận định về Đức Giêsu, bởi những thứ đó chẳng đi đến đâu nếu không dẫn ông đến mầu nhiệm Nước Trời qua việc tái sinh bởi Nước và Thánh Thần. Tái sinh để trở về với một cuộc sống mới, lối suy nghĩ và hành xử mới. Nhất là cần có một tâm hồn thánh thiện, đơ sơ của trẻ thơ.

Tại sao Đức Giêsu lại đòi hỏi Nicôđêmô một điều kiện lớn lao như vậy? Thưa, bởi vì ông vốn là một Pharisêu, vì thế, cần phải đi đến hành động cách chân thực, chứ không chỉ có niềm tin khơi khơi trên giấy tờ, sách vở như các đồng môn của ông!

Như vậy, điều cần đối với Nicôđêmô lúc này là: nhạy bén để nhận ra Chúa và thi hành những điều Ngài truyền dạy chứ không phải chỉ là người đứng bên ngoài để nhận định về những phép lạ cũng như những lời dạy của Ngài. Đồng thời, cần khám phá ra ý nghĩa sâu xa nơi các phép lạ và thay đổi đời sống, chứ không dừng lại ở những chuyện phi thường trước mắt.

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cốt lõi về Bí tích Thánh Tẩy. Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên tạo vật mới nhờ mặc lấy Đức Kitô và thuộc về Ngài. Đây là điều hãnh diện cho mỗi chúng ta. Tuy nhiên, điều làm nên hạnh phúc lại không phụ thuộc hoàn toàn dựa trên dấu chỉ bề ngoài cho bằng một cuộc sống đạo thực sự được thúc đẩy từ bên trong nơi lòng mến.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con ơn can đảm để dám sống theo tinh thần của Chúa, và xin cho chúng con được ơn biến đổi từng ngày để xứng đáng là con Chúa và trở nên anh chị em với nhau. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 6: Tái sinh trong Chúa Kitô


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Con người được Thiên Chúa sinh ra từ muôn đời trong tình yêu. Nhưng tội lỗi đã huỷ hoại sự sống thần linh nơi con người. Vì thế ta cần phải được tái sinh trong Chúa Kitô, nhờ nước rửa tội và nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc trao đổi thân tình giữa Chúa với ông Ni-cô-đê-mô, là một lời giải đáp cho con thấy được con đường và cũng là điều kiện thiết yếu cho những ai muốn bước vào Nước Thiên Chúa: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không sinh lại bởi Ơn Trên”.

Lạy Chúa, sự sống thân xác của con được hình thành bởi cha mẹ. Nhưng chính tình yêu Chúa đã sinh ra con, đã rửa con sạch mọi tội lỗi trong ngày con chịu bí tích Rửa Tội, đã nuôi con lớn mạnh bằng ơn Chúa Thánh Thần. Tất cả không do công khó của con, mà do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban tặng. Thế mà lạy Chúa, những năm tháng qua, con đã vô ơn bội nghĩa, đã quên đi tình thương đó. Loài cây cỏ con biết bốn mùa thay lá, đơm bông kết trái cho con hưởng dùng. Còn con, tháng năm qua đi, con chỉ lo thay đổi cuộc sống vật chất, lo phát triển thân xác, thậm chí con tìm an nhàn một cách ích kỷ. Con đã để thân xác làm chủ đời sống linh hồn, an tâm sống trong tội lỗi. Chiếc áo tinh trắng của ngày đầu tiên trong đời Kitô hữu đã nhiều lần bị hoen ố. Con đã được tái sinh, nhưng rồi lại chết trong tội lỗi.

Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay quả là một cảnh tỉnh giúp con nghĩ lại. Xin Chúa giúp con ăn năn và quyết tâm trở về sống với Chúa. Trong những ngày trọng đại này, con đã được tái sinh trong Máu Chúa và được đón nhận sự sống lại của Chúa. Xin cho sự sống siêu nhiên của bí tích Rửa Tội được lớn mãi trong con. Con nguyện sẽ cố gắng bắt đầu một đời sống mới. Xin cho con được sống lại với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 7: Kitô hữu phải được Thần Khí sinh ra


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một hướng dẫn viên đi trong sa mạc Ả Rập được ca tụng là không bao giờ lạc đường. Anh luôn ôm theo một con chim bồ câu khôn lanh, dưới chân buộc sợi dây nhỏ.

Mỗi khi nghi ngờ hướng đi, anh thả chim ra và nó sẽ mau mắn chỉ đường cho anh. Nên anh được mệnh danh là “người chim”. Thánh Linh cũng là một bồ câu thần thiêng chỉ đường cho ta nếu ta bước theo Ngài.

Suy niệm

Tin Mừng xoay quanh cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô thuộc phái Pharisiêu, người có thế giá. Ông đến gặp Chúa Giêsu vào thời khắc lạ thường: “Người đến gặp Đức Giêsu ban đêm” (Ga 3,2; 7,50; 19,39), vì sợ các lãnh đạo khác dân biết, vì thế Gioan gọi ông trong Tin Mừng thứ tư là “môn đệ trong bóng tối” (Ga 19,39) của Chúa Giêsu.

Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị thầy đến từ Thiên Chúa: “Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến” (Ga 3,2) như thế ông đã tin vào Chúa Giêsu và công nhận: “Chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”.

Với tấm lòng hướng thiện luôn tìm chân lý, Nicôđêmô để mình được Thần Khí Chúa dẫn dắt, như Chúa Giêsu mạc khải cho ông biết: Thần Khí Chúa hoạt động tự do nơi mỗi người như là làn gió muốn thổi đâu thì thổi (x. Ga 3,8), sau này thánh Phaolô quả quyết: “Ở đâu có Thần Khí của Chúa thì ở đó có tự do” (2Cr 3,17). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cho ông biết ông còn cần có một điều: “Sinh lại bởi nước và Thần Khí”. Chính Thần Khí sẽ đến với chúng ta và biến cải đời sống chúng ta theo ân sủng của Ngài.

Mỗi Kitô hữu đều đã được tái sinh bởi nước và Thánh Thần qua bí tích Rửa tội. Trong bí tích thánh này, ân sủng Chúa Thánh Thần làm cho đức tin và đời sống đạo đức của chúng ta lớn lên và trưởng thành, sinh hoa kết trái được thể hiện qua đức công bình, bác ái và niềm vui.

Ý lực sống: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3,8).

-------------------------------

 

Suy Niệm 8: Ông Niccôđêmô gặp Đức Giêsu


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Trong những người tin Đức Giêsu, một thành viên của Hội đồng cộng tọa, thuộc nhóm biệt phái, khâm phục trước những lời giáo huấn của Chúa. Nhưng vì e ngại, không dám tỏ lòng tin công khai, ông đã tìm gặp Đức Giêsu lúc đêm khuya.

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô về ơn tái sinh.

2. Nicôđêmô là “một đầu mục của người Do thái”, nghĩa là về mặt xã hội ông là bậc cao niên đáng kính, về mặt tôn giáo ông là người có học thức và đạo đức. Dù vậy, ông vẫn tìm đến Đức Giêsu để học hỏi thêm.

Nhưng dầu sao ông vẫn còn vướng mắc thành kiến của người biệt phái và luật sĩ thời đó. Với sự hiểu biết Kinh Thánh, Nicôđêmô tưởng đã có thể sử dụng mớ kiến thức ấy để tìm hiểu về con người Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu đã đặt ông trước một thách đố mà ông không bao giờ ngờ trước. Ngài bảo ông phải tái sinh thì mới thực sự thấy và hiểu biết về con người của Ngài, ông phải tái sinh thì mới thực sự hiểu được Kinh Thánh, ông phải tái sinh  thì mới có thể trở thành con người mới với cái nhìn mới và sự cảm nhận mới.

3. Tư  tưởng tái sinh làm cho ông thắc mắc: không lẽ phải chui vào bụng mẹ để sinh lại sao? Nhưng Đức Giêsu đã giải thích cho ông hiểu từ ngữ tái sinh đó. Tái sinh mà Chúa muốn nói là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình. Qua cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Đức Giêsu loan báo phép rửa mà Ngài sẽ thiết lập và ký thác cho Giáo hội. Nhờ phép rửa ấy, các Kitô hữu đã thực sự được tái sinh, họ sống bằng sự sống thần linh của Chúa, họ nhìn bằng cái nhìn của Chúa, họ mặc lấy chính những suy nghĩ của Chúa và yêu thương bằng chính tình yêu của Chúa.

4. Ông Nicôđêmô là con người rất có thiện chí. Đức Giêu khen là ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Nhưng dầu sao Ngài con phải chuẩn bị thêm cho ông và long trọng xác nhận với ông rằng để theo Chúa, con người không thể ỷ lại vào sự hiểu biết hay vào lý lẽ khôn ngoan của con người. Cần phải được biến đổi bởi nước và Thánh Thần. Cần phải khiêm tốn lãnh nhận ân sủng Chúa ban và vâng phục sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không được sinh lại bởi ơn trên, không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần”. Bí tích rửa tội và ơn Chúa Thánh Thần là cửa ngõ mở vào Nước Thiên Chúa.

5. Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới”.

Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả  những người tiếp xúc với con”.

Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời, tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời cầu nguyện của tôi bây giờ là: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí  để hoán cải chính con”. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời” (Góp nhặt).

6. Như vậy, Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay, qua cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Đức Giêsu dạy chúng ta ý thức lại ơn tái sinh của chúng ta qua phép rửa trong nước và Thánh Thần, và nhờ đó, chúng ta cần đổi mới, phải từ bỏ con người cũ là mê theo xác thịt, mà mặc lấy con người mới là bước đi trong Thần Khí sự thật.

Trong mùa Phục sinh, Giáo hội đặc biệt mời gọi chúng ta ôn lại những cam kết trong phép rửa tội. Người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng cởi bỏ con người cũ của tội lỗi, để lớn lên trong ân sủng, cho đến khi đạt được tầm mức viên mãn của nhân cách là chính Đức Giêsu.

7. Truyện: Thưa, chính Chúa đấy ạ.

Cha John Diamond có kể lại câu chuyện này: Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên linh hồn lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng vọng ra: “Ai đó”? Linh hồn trả lời: “Con đấy ạ”. Cửa vẫn đóng.

Sau đó linh hồn lại trở về với đời sống trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa Thiên đàng một lần nữa. Lại một tiếng hỏi từ trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách quả quyết hơn: “Dạ, chính con đây”. Cửa vẫn đóng.

Linh hồn lại phải trở về trần thế... mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi là con đường nào. Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường phải làm chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, tự mãn, ghen ghét. Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất chính để cho con người của mình được giống Thiên Chúa hơn.

Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn  là mình nữa thì linh hồn lại lên trời... lại gõ cửa... lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra: “Ai đó”. Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp ngay: “Dạ, thưa chính Chúa đấy ạ”.

Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào Thiên đàng.

-------------------------------

 

Suy Niệm 9: Cần thiết phải sinh lại


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt Giống...)

Phụng vụ dùng cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với ông Nicôđêmô làm bài giáo lý thứ nhất, dạy về Bí tích Rửa Tội (Bí tích Tái sinh).

Bài Tin Mừng hôm nay dạy về sự cần thiết phải sinh lại:

Nicôđêmô là “một đầu mục của người Do Thái”. Nghĩa là về mặt xã hội ông là một bậc cao niên đáng kính, về mặt tôn giáo ông là người có học thức và đạo đức. Dù vậy ông vẫn tìm đến Chúa Giêsu để học hỏi thêm.

Điều đầu tiên Chúa nói với ông là sự cần thiết phải sinh lại: “Thật, tôi bảo cho các ông biết: Nếu ai không sinh lại bởi ơn trên thì chẳng thấy nước Thiên Chúa”.

“Sinh lại” không theo nghĩa thể lý (“Một người đã già làm sao có thể sinh lại? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?”), mà theo nghĩa thiêng liêng (“sự gì sinh bởi huyết nhục thì là huyết nhục, và sự gì sinh bởi thần linh thì là thần linh”).

B. Suy Niệm (... nảy mầm...)

1. Maurice Zundel đã viết: “Chúng ta không sinh ra đã thành con người (…) Con người có bổn phận phải thành người (…) sách Tin Mừng nói “phải sinh lại”. Có một lần sinh thứ hai, đó là sinh con người, sinh phẩm cách, sinh tính bất khả xâm phạm, sinh sự trường tồn bất tử, lần sinh mà không có, nó không thể thành người” (Trích “sự hiện diện khiêm hạ”).

2. Một người như Nicôđêmô vừa cao niên, vừa thông thái, vừa đạo đức, thế mà Chúa Giêsu bảo ông cần phải sinh lại. Huống chi là tôi, bởi vì trong tôi hiện giờ còn rất nhiều điều chưa đáng là người, đó là chưa xét đến có đáng là Kitô hữu hay không.

3. Bí tích Rửa tội đã sinh lại tôi thành người con Chúa. Nhưng “làm con Chúa” chỉ mới là một hạt giống, tôi cần phải vun trồng cho phát triển thành cây. Huống chi người “con của Chúa” ấy với thời gian đã bị người “con của thế gian” chèn ép khiến trở nên èo uột, méo mó. Bởi vậy tôi cần phải sinh lại lần nữa.

4. Một nhà đại thần bí Ấn Độ nói về chính mình: “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo Thế Giới”.

Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con”.

Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời, tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời cầu nguyện của tôi bây giờ là: “Lạy Chúa, xin cho con thiện trí để hoán cải chính con”. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu tôi đã không lãng phí cuộc đời. (Góp nhặt).

5. “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”.

Một buổi chiều năm 1953, các kí giả và mọi người tập trung ở nhà ga xe lửa ở Chicago để chào đón người được giải Nobel Hòa Bình 1952. Các nhân vật cao cấp của thành phố dang rộng tay để chúc mừng vị thượng khách.

Ông cám ơn mọi người, rồi đưa mắt nhìn quanh sân ga. Bất chợt, ông xin kiếu mọi người rồi băng qua đám đông, tiến thẳng đến đỡ một cụ già không quen biết với chiếc vali nặng trên tay bà. Ông mỉm cười dẫn bà lên xe và không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông, ông xin lỗi vì bắt họ phải chờ đợi! Người được giải thưởng đó chính là bác sĩ Albert Schweitzer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hi sinh cả cuộc đời cho những người nghèo tại Châu Phi. Thấy thế, một người đã thốt lên: “Lần đầu tiên tôi nghe được một bài giảng biết đi”.

Là một Kitô hữu tôi phải loan báo Tin Mừng và phải là “những bài giảng sống động và biết đi” về tình yêu Thiên Chúa.

-------------------------------

 

Suy Niệm 10: Đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Phụng vụ hôm nay dùng cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô để nói về Bí tích Rửa Tội (Trong bài Tin Mừng hôm nay được gọi là Bí tích Tái sinh).

Chúa xác định một cách hết sức rõ rệt: cần thiết phải sinh lại.

“Thật, tôi bảo cho các ông biết: Nếu ai không sinh lại bởi ơn trên thì chẳng thấy được Nước Thiên Chúa” (Ga 3,3). Việc “Sinh lại” ở đây không được hiểu theo nghĩa thể lý: “Một người đã già làm sao có thể sinh lại? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?” (Ga 3,4) mà phải hiểu theo nghĩa thiêng liêng: “sự gì sinh bởi huyết nhục thì là huyết nhục, và sự gì sinh bởi Thần Linh thì là Thần Linh” (Ga 3,6).

Như vậy, người Kitô giáo có hai lần sinh ra. Một sinh ra làm con người và một sinh lại để trở thành con Thiên Chúa.

Để được thành con người chúng ta đã phải cố gắng. Maurice Zundel đã viết: “Chúng ta không sinh ra đã thành con người (…) Con người có bổn phận phải thành người”.

Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại”, sinh lần thứ hai để trở thành con Thiên Chúa. Làm người đã là khó; làm con Thiên Chúa chắc là phải khó hơn.

Để trở thành con Thiên Chúa, con người phải được sinh ra bởi nước và Thần Khí.

Đây là một cuộc tạo dựng mới. Với quyền năng của Thiên Chúa, Thần Khí đã tạo dựng nên con người mới: con người trở thành con Thiên Chúa.

2. Bí tích Rửa tội sinh tôi lại để tôi thành người con của Chúa. Nhưng “làm con Chúa” chỉ mới như một hạt giống, tôi cần phải vun trồng cho nó phát triển thành cây. Với thời gian, nhiều khi tôi bị người “con của thế gian” chèn ép khiến hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi trở nên èo uột, méo mó. Bởi vậy, tôi cần phải sinh đi sinh lại mãi cho đến khi tôi được trở nên đồng hình dồng dạng với Chúa.

Bên Mỹ có một cuốn phim với tựa đề là: “Người Mưa” được tung ra thị trường phim ảnh Hoa Kỳ mấy năm trước đây. Mục đích của cuốn phim này là muốn người ta thấy con người có thể trở nên tốt như thế nào.

Một gia đình kia có ba người: người cha và hai người con. Hai người con thì một người tên là Charley và còn người kia tên là Raymond. Tuy là hai anh em nhưng họ không biết nhau. Người anh tên là Charley là một thương gia giàu có, còn Raymond, người em thì bị tàn tật từ nhỏ. Charley không hề hay biết mình có người em tên là Raymond và hơn nữa lại là một người tàn tật mãi cho đến ngày cha của hai người qua đời. Cái chết của người cha đã đánh dấu một khúc rẽ mới trong đời sống của hai anh em. Trước khi nhắm mắt lìa đời, trong tờ di chúc, người cha đã ký lại cho Raymond, người con tàn tật một số tiền khổng lồ là 3 triệu mỹ kim, còn Charley thì được thừa kế một ngôi biệt thự rộng lớn. Charley rất ngạc nhiên trước lời trăn trối của người cha, và kể từ ngày đó anh tìm đủ mọi mưu kế, học mọi thủ đoạn để chiếm đoạt số tiền của em. Anh lý luận: dầu sao đi nữa, em mình là một người tàn phế như thế làm sao có thể tiêu xài hết một số tiền lớn như vậy. Charley nghĩ như thế là để bào chữa cho lòng tham của mình chứ thực sự thì Charley đâu có quan tâm gì đến em mình.

Cuốn phim được tiếp diễn với nhiều thủ đoạn, những mưu mô khôn khéo để chiếm cho bằng được số tiền đó. Nhưng trớ trêu thay, chính những bận tâm ấy đã làm cho Charley luôn nghĩ tới người em hơn là bản thân mình. Anh nhận ra rằng, đây là lần đầu tiên anh biết quan tâm lo lắng cho người khác. Và anh cũng bắt đầu ý thức thêm rằng, anh đang quên mình đi để nghĩ đến người em, anh đang chết dần cho bản thân mình và chỉ nghĩ đến người em đáng thương ấy. Và thật không ngờ khi anh làm như thế thì anh bắt đầu cảm thấy tình yêu của anh đối với người em được thay đổi. Lúc đầu thì toàn là những tính toán ích kỷ nhưng dần dần được thay thế bằng lòng yêu thương thật sự đối với đứa em tàn tật của anh. Bây giờ thì anh không còn nghĩ đến việc chiếm hữu số tiền do người cha di chúc để lại cho em mình nữa, mà anh chỉ nghĩ đến việc lo lắng chăm sóc cho đứa em tật nguyền của mình. Anh đã trở thành một con người mới, một con người trọn vẹn hơn vì anh đã biết sống với người em của anh như là người em thực sự, con cùng một cha chứ không phải là đối thủ để anh trục lợi và khai thác.

Vâng, phép Rửa tội cũng làm một việc tương tự như thế, biến chúng ta sẽ trở thành người con của Thiên Chúa và khi đã được trở thành những người con của Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải sống với nhau như anh em trong cùng một gia đình của Thiên Chúa Cha trên trời.

Lạy Chúa, xin biến đổi con

Để con trở thành một tạo vật mới theo hình ảnh Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 11: Phải tái sinh thì mới được vào nước Chúa


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Ông Nicôđêmô, thuộc nhóm biệt phái, có trình độ, có học vấn, có kiến thức, có khả năng, có địa vị, là bậc thầy (Ga 3, 10)…và ông cũng là đầu mục của người Do Thái, nghĩa là đời sống của ông, chúng ta không dám nói là thánh thiện, gương mẫu, nhưng ông sống rất mẫu mực, điềm đạm, đàng hoàng, tử tế với mọi người. Ông rất mộ mến, kính phục Chúa: “Ông đến thăm Chúa vào ban đêm” (Ga 3, 2), cho nên, khi những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão nói không đúng về Chúa là ông bênh đỡ Chúa. Ông nói: “Chớ thì lề luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?” (Ga 7, 51). Ông nói đúng về Chúa, cho nên những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão không làm sao nói lại được. Bởi vậy, họ mới nói: “Hay ông là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa” (Ga 7, 52). Không phải ông sợ những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão, nhưng vì tránh đi sự dòm ngó, dư luận cho nên ông đến gặp Chúa vào ban đêm, để không một ai chú ý tới, làm phiền hà ông.

Khi gặp Chúa, ông thưa chuyện với Chúa với một tâm tình rất tin vào Chúa là Thiên Chúa thật làm người: “Lạy Thầy, chúng con nhận biết Thầy là một vị tôn sư Thiên Chúa ủy phái đến. Vì không ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người đó” (Ga 3, 2). Ông đang xác tín niềm tin vào Chúa như vậy , thế mà Chúa lại có vẻ nói theo một chiều hướng khác, dường như chẳng ăn khớp với nhau về luồng tư tưởng. Chúa nói: “Thật, Tôi bảo thật cho ông biết: Nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa. Nicôđêmô thưa Chúa rằng: Một người đã già, làm sao có thể tái sinh? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao? Chúa Giêsu đáp: Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy” (Ga 3, 3 – 8), để rồi qua đó, chúng ta hiểu được ý Chúa muốn nói với ông Nicôđêmô ngày xưa, vì rằng ông đã tin vào Chúa rồi thì bây giờ ông hãy từ bỏ nếp sống cũ, mặc lấy con người mới, cuộc sống mới: “Trước hết, cần phải đoạn tuyệt nếp sống cũ. Điều ấy không ai đạt được, nếu không sinh lại như Chúa nói. Vả chăng ngay chữ “Sinh lại”“ cũng có nghĩa là bắt đầu một cuộc sống mới. Vì thế khi bắt đầu cuộc sống mới, bạn phải chấm dứt đời sống cũ. Do đó, phải cùng được mai táng với Chúa trong bí tích Thánh Tẩy” (St Baxiliô Cả GM, Ks t3 MC TT). Vậy để sống đời sống mới, chúng ta cần phải lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Cũng thế, muốn gia nhập vào Hội Thánh của Chúa, con người chúng ta phải lãnh nhận bí tích này. Bí tích này có được là do chính Chúa thiết lập qua cái chết và sự phục sinh của Chúa. Và hiệu quả của bí tích đó mà chúng ta biết được ngay là Chúa tha tội tổ tông và các tội ta phạm, cho chúng ta được làm con Chúa và được thừa hưởng gia nghiệp Nước Chúa sau này. Điều đó cũng như Chúa nói gió muốn thổi đâu thì thổi nhưng chúng ta vẫn biết được nó.

Lạy Chúa là Đấng đã sống lại từ cõi chết, chúng con tin Chúa đã chiến thắng sự chết và chúng con bước theo Chúa khi chúng con vác thập giá đời mình mỗi ngày trong tinh thần phó thác, vâng phục, xin Chúa nhận lời chúng con cầu nguyện mà ban cho chúng con ơn bền đỗ đến cùng. Vì cũng như chúng con là con của Chúa, được Chúa cứu chuộc chúng con bằng giá máu của Chúa, xin Chúa đừng để chúng con đánh mất ơn trọng đại cao cả này khi chúng con phạm tội, khi chúng con sống vô ơn, bội phản  với Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12: Sinh bởi nước và Thần khí


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 2 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta đã được phúc gọi Chúa là Cha, xin Chúa cho chúng ta ngày càng thêm lòng hiếu thảo, hầu đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban.

Thêm lòng hiếu thảo, để hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban, bằng cách làm chứng cho Đấng Phục Sinh, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Thị kiến Con Người, trong những ngày này, chúng ta đọc sứ điệp được ngôn sứ viết dưới hình thức các thư gửi các Hội Thánh. Con số 7 cho phép ta nghĩ rằng không phải tác giả chỉ nói với bảy cộng đoàn ở Tiểu Á, nhưng với toàn thể Hội Thánh. Tác giả quả quyết với Hội Thánh rằng: Đấng Phục Sinh đang hiện diện. Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thuở. Đức Kitô là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.

Thêm lòng hiếu thảo, để hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban, bằng cách sống một đời sống mới, như bài đọc hai của giờ Kinh Sách nói về: Lễ Vượt Qua thiêng liêng… Anh em hãy loại bỏ men cũ để thành bột mới, vì Đức Kitô đã chịu hiến tế làm Chiên lễ Vượt Qua của chúng ta; bởi thế chúng ta hãy ăn mừng đại lễ. Người đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính.

Thêm lòng hiếu thảo, để hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban, bằng cách tin tưởng, phó thác trông đợi Chúa ra tay giải thoát, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Cầu nguyện xong, ai nấy đều được đầy tràn Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói Lời Thiên Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 2, vịnh gia kêu xin: Lạy Chúa, hạnh phúc thay những ai ẩn náu bên Ngài. Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con. Con cứ xin, rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa. Con sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành, nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Không thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh lại bởi Thánh Thần, nghĩa là, bởi nước và Thần Khí. Đức Kitô đã hiến thân làm của lễ vì chúng ta. Người đã huỷ bỏ đời sống cũ của chúng ta, và nhờ phép rửa tái sinh, đã cho chúng ta sinh lại bởi Thánh Thần, bắt đầu một đời sống mới, rập theo cái chết và sự sống lại của Người. Vì thế, khi biết Chiên Vượt Qua đã chịu hiến tế vì chúng ta, thì, chúng ta phải hiểu rằng: từ lúc Đức Kitô chịu hiến tế cho chúng ta, là lúc chúng ta bắt đầu sống. Đức Kitô chịu hiến tế vì chúng ta, nên, ân sủng Chúa ban, và sự sống của chúng ta bắt nguồn từ hy lễ đó. Một khi, chúng ta biết được như vậy, chúng ta phải cố gắng bắt đầu một đời sống mới và đừng trở về với đời sống cũ, bởi vì, chúng ta là những kẻ đã chết đối với tội lỗi, thì làm sao còn sống mãi trong tội được. Chúng ta hãy loại bỏ men cũ để thành bột mới, vì Đức Kitô đã chịu hiến tế làm Chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Người đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính, được phúc gọi Thiên Chúa là Cha. Ước gì chúng ta ngày càng thêm lòng hiếu thảo với Chúa, hầu đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 3: PS –Tuần 2/2025 - 29/04 Thánh Catarina Siêna

Ðược Sống Muôn Ðời.
29/04 – Thứ Ba tuần 2 Phục Sinh. – Thánh Catarina Siêna, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời".

* Thánh nữ sinh năm 1347 tại Xiêna. Ngay từ thuở niên thiếu, chị đã khao khát sống cuộc đời hoàn thiện, khát khao chiêm ngưỡng Chúa Kitô chịu đóng đinh, và phục vụ Hội Thánh bấy giờ đang bị xâu xé. Vì thế, chị đã gia nhập Dòng Ba Đaminh.

Thấm nhuần tinh thần của thánh Đaminh, chị yêu mến Thiên Chúa và tha nhân một cách nồng nàn, cổ võ bình an thuận hòa giữa các thành của nước Italia, can đảm bênh vực quyền lợi và sự tự do của Đức Giáo Hoàng và canh tân đời sống đạo đức. Chị là tác giả của nhiều tác phẩm đạo lý và tu đức. Chị qua đời năm 1380. Ngày 18 tháng 06 năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong chị làm bổn mạng nước Italia. Và ngày 04 tháng 10, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên phong cho chị là tiến sĩ Hội Thánh.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Ga 3, 7-15


Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Ai tin được sống muôn đời


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Con người hôm nay vừa bị hấp dẫn bởi cái chết,
vừa bị lôi kéo bởi cuộc sống đời này.
Cuộc sống hôm nay cho chúng ta nhiều tiện nghi thoải mái.
Nó mời chúng ta hưởng thụ, mua sắm, tiêu dùng.
Luôn luôn xuất hiện những mẫu mã mới hơn, tốt hơn, đẹp hơn.
Con người vất vả làm việc để có thể mua được món hàng do mình chế tạo.
Cuộc sống vừa dễ chịu hơn, vừa mệt mỏi hơn bởi vô số những nhu cầu.
Con người hôm nay có hạnh phúc hơn xưa không?
Những thức ăn trần thế có đủ làm con người mãn nguyện không?
Người Kitô hữu quý chuộng cuộc sống ở trần thế này,
nhưng họ hiểu tính chất mau qua và tương đối của nó.
Như Đức Giêsu, họ cũng phải đi qua cuộc sống đời này,
nếm đủ mọi mùi vị của phận người, chịu đựng mọi khó khăn thách đố,
trước khi về với điểm đến chung cục là cuộc sống đời sau.
Thiên đàng, Nước Thiên Chúa hay sự sống vĩnh cửu
là những từ diễn tả hạnh phúc đang chờ đợi người Kitô hữu sau cái chết.
Họ biết mình từ đâu đến và biết mình sẽ đi đâu.
Họ biết phân biệt những ga xép với đích đến cuối cùng.
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu khẳng định
chẳng ai được vào Nước Thiên Chúa nếu không được sinh ra bởi Thần Khí.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại khẳng định:
“Ai tin vào Con Người thì có sự sống vĩnh cửu” (c.15).
Vào Nước Thiên Chúa đồng nghĩa với có sự sống vĩnh cửu.
Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc để ai nhìn lên thì được khỏi,
Con Người cũng phải được giương cao để ai tin thì được sự sống vĩnh cửu.
Sự sống vĩnh cửu là hoa quả của mầu nhiệm được giương cao.
Đức Giêsu được giương cao khi bị treo trên thập giá,
được giương cao khi được Cha phục sinh,
và được giương cao khi được Cha đưa về trời.
Chính vì Đức Giêsu bị đóng đinh, được phục sinh và về trời
nên chúng ta được sinh lại từ trên nhờ Thần Khí,
được vào Nước Thiên Chúa và có sự sống vĩnh cửu.
Kitô hữu là người đang trên đường về quê hương đích thật.
Đấng từ trời xuống nay đã lên trời (c. 13),
và lôi kéo chúng ta lên với Ngài (Ga 12, 32).
Làm thế nào chúng ta thoát khỏi sức kéo xuống của vật chất?
Làm thế nào chúng ta sống nhẹ nhàng hơn để kéo thế giới quanh ta bay lên?
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống
cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Sống theo Thần Khí tự do


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Ki-tô Phục sinh không còn thuộc thế giới phàm trần. Không có gì ngăn chặn được Người. Ngôi mộ có phiến đá to không thể nhốt kín Người. Cửa nhà đóng chặt không ngăn chặn được Người. Vì Người đã trở về thượng giới.

Người ra đi mở đường cho ta. Người được treo lên cũng kéo ta lên với Người. Những ai tin vào Người sẽ được sinh lại trong Thần Khí vào một đời sống mới. Đời sống thượng giới. Đời sống tự do.

Ta có thể đoán trước đường đi nước bước của người phàm. Nhưng ta không biết được đường đi của Thần Khí. Đó là đường đi của gió. Không ai biết gió từ đâu, đi đâu. Cũng thế ta không đoán được đường đi của những người sống theo Thần Khí tự do.

Những tín hữu đầu tiên sống theo Thần Khí tự do. Nên có những suy nghĩ và hành động khác thói trần gian. Không bị vật chất ràng buộc nên họ bán hết nhà cửa đem tiền đặt dưới chân các tông đồ. Không bị ý riêng, tự ái cá nhân ràng buộc nên họ sống hài hòa với nhau, một lòng một ý. Không còn bị thói đời trói buộc. Họ đã bay lên thế giới thần linh. Họ đã thuộc về thượng giới. Trái tim họ hoàn toàn trong sạch. Sống theo Thần Khí, họ là những con người hoàn toàn tự do.

Thật nghịch lý. Khi bon chen chỉ biết vun quén cho mình sẽ rơi vào nghèo nàn, tàn lụi. Khi quên mình, quảng đại cho đi, lại trở nên phong phú và làm cho cộng đoàn phát triển. Vì họ không còn sống cho đời tạm chóng qua. Họ sống cho sự sống đời đời.

Chúng ta đang sống trong một thời đại tục hóa. Thói trần gian xâm nhập vào những nơi linh thiêng nhất. Xâm nhập cả vào não trạng, vào những ước muốn thâm sâu trong con người. Vì thế ta bị ràng buộc, mất tự do.

Ta hãy thoát khỏi những ràng buộc của não trạng trần tục. Được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Được trở nên như gió. Được Chúa Giê-su trên thánh giá kéo ta lên. Để chúng ta được tự do. Để chúng ta được thuộc về thượng giới. Để chúng ta làm chứng cho Nước Trời.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðược Sống Muôn Ðời


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Chúng ta chiêm ngắm hai vị thầy gặp nhau trong đêm thanh vắng để trao đổi điều quan trọng mà không bị phiền phức. Ông Nicôđêmô là vị thầy của người Do Thái, một nhà thông thái muốn biết nhiều hơn nữa về Chúa Giêsu và ông đã nhìn nhận như Người đến từ Thiên Chúa, và nhất là có Thiên Chúa ở cùng, vì những dấu lạ được thực hiện, những dấu lạ chưa có ai làm được như vậy.

Ông Nicôđêmô là vị thầy trên trần gian này, còn Chúa Giêsu là vị Thầy từ trên cao xuống, từ cung lòng Thiên Chúa Cha mà đến: "Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống". Hơn nữa, Chúa Giêsu còn xác nhận cho ông Nicôđêmô rằng: "Thật, tôi bảo thật ông. Chúng tôi nói những điều chúng tôi đã thấy", đó là uy tín của Chúa Giêsu Kitô, vị Thầy đến từ Thiên Chúa Cha. Lời quả quyết của Chúa với ông Nicôđêmô làm cho chúng ta nhớ lại lời quả quyết nơi đầu sách Phúc Âm theo thánh Gioan như sau: "Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết" (Ga 1,18).

Ông Nicôđêmô đến với Chúa Giêsu với khả năng trí khôn của ông, muốn hiểu biết sự thật. Nhưng Chúa Giêsu lại mời gọi ông làm một điều khác. Ðừng ỷ lại vào khả năng trí khôn của mình nữa mà hãy nhờ đến sức mạnh từ trên cao của Chúa Thánh Thần. Ông phải sinh ra lại và sinh ra từ ơn trên và tin vào Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống. Như con rắn của Môisen, Con Người cũng sẽ phải được giương cao để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."

Ðược sống muôn đời, đó là điều quan trọng nhất, đó là mục tiêu cuối cùng của con người, đó là một hồng ân cần được con người khiêm tốn đón nhận, chứ không phải là đối tượng để hiểu biết suông mà thôi. Trong cuộc đối thoại, chúng ta thấy Chúa Giêsu không ngừng mời gọi nơi ông Nicôđêmô nâng tâm hồn mình lên, hãy để cho Thánh Thần thanh tẩy để có thể nhìn thấy và bước vào trong Nước Thiên Chúa. Hơn nữa, cũng trong cuộc đối thoại này, chúng ta có thể ghi nhận một mạc khải quan trọng khác nữa, đó là Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống cho con người nhờ qua và sau cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, qua và sau cái chết, sự Phục Sinh của Chúa. Cùng với ông Nicôđêmô, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để cho Ngài dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha và đồng thời sẵn sàng lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

Lạy Chúa, xin hãy dạy cho con biết những việc trên trời. Xin hãy nói cho con biết tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người. Xin hãy tái sinh con trong Thánh Thần cho con được trở nên Thánh, để giống Chúa mỗi ngày một hơn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Thánh Thần dẫn tới đâu?


Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói:

Các ông cần sinh ra lại bởi ơn trên.
Gió muốn thổi đâu thì thổi;
Ông nghe tiếng gió,
Nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.
Ai bởi Thần Khí mà sinh ra cũng vậy.” (Ga. 3, 7-8)

Trong cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đem, sau khi mở cho ông thấy niềm hy vọng được sinh vào đời sống mới, Đức Giêsu đã tự tỏ mình ra, tỏ cuộc sống đã từng trải của Người ra cho ông và nói với ông rằng: “Ai bởi Thánh Thần mà sinh ra thì cũng vậy”.

Chính Người đã sinh ra bởi Thánh Thần, nghĩa là Người sống hoàn toàn dưới ảnh hưởng của hoạt động của Thiên Chúa, của động lực Thiên Chúa. Đức Giêsu nói điều mình biết. Điều Người biết về Thiên Chúa thì Người nói ra, nên chứng của Người là chân thật.

Đức Giêsu cũng nói những dự tính về sứ mệnh tương lai của Người. Nên ai sinh ra bởi Thánh Thần không phải chỉ được sống mà còn lãnh một sứ mệnh như Đức Giêsu. Ai sinh bởi Thánh Thần còn được kêu gọi lên cao.

Điều Đức Giêsu dự tính, chính là sứ mệnh cứu chuộc bằng dấu Thánh giá: “Không ai đã lên trời ngoại trừ Con Người đã từ trời xuống”, hay như thánh Phao-lô nói: “Người đồng phận với Thiên Chúa mà đã không nắm lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Người đã hủy mình đi, hạ mình xuống làm thân phận loài người”.

Tiếp nối cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đem, Đức Giêsu nói để được tái sinh, nghĩa là sống dưới ảnh hưởng của Thánh Thần tái tạo, thì phải theo đường lối Thánh Thần đề ra. Bất cứ ai sinh bởi Thánh Thần đều phải bắt tay hành động theo đường lối lên cao, con đường treo lên thập giá, hay nói cách khác, con đường hiến mạng sống mình cho người khác.

Cử hành Thánh lễ là chúng ta sẽ sống cuốn hút vào của lễ Đức Kitô hiến dâng mình cho muôn người, trong khiêm tốn vâng lời Đức Chúa Cha và ngoan ngoãn theo Chúa Thánh Thần. Nhận biết ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần đối với Đức Kitô có thể là lý do chính chúng ta dâng lễ tạ ơn và tiếp rước cũng một Thánh Thần đến trên của lễ chúng ta xin ơn hôm nay.

C.G

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Điều kiện căn bản: "niềm tin"


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Một tờ báo Công giáo địa phương ở Chicago có đăng trong chương trình "sống đạo" mẩu chuyện như sau: có đôi vợ chồng chung sống với nhau được ba mặt con. Người chồng cũng là người Công giáo, nhưng chủ trương cuộc đời chỉ có ba lần đến nhà thờ: "Rửa tội, lễ cưới và sau khi chết". Ngược lại, người vợ là một tín đồ ngoan đạo, đêm ngày bà cầu nguyện cho chồng. Lời cầu nguyện của bà hầu như vô vọng khi người chồng đổi công việc làm ăn ở tiểu bang Texas, miền Nam Hoa Kỳ.

Suốt ba tháng trời, bà và các con chẳng được tin tức gì của chồng, nếu có chăng nữa thì cũng chỉ là những tin buồn do người quen kể lại. Họ nói rằng chồng của bà kể như hư đốn hoàn toàn. Ông ta đã sa vào cảnh cờ bạc, rượu chè, chẳng còn nhớ đến ai. Mấy tin tức như thế đã làm cho bà thêm lo lắng xao xuyến. Tuy nhiên, không vì thế mà bà quên cầu nguyện.

Bỗng một đêm kia, khi gia đình đã hoàn toàn chìm vào giấc ngủ, bà nhận được một cú điện thoại từ xa gọi về. Bên kia đầu dây là giọng nói thổn thức của người chồng từ Texas gọi về cho bà. Ông ta đã nói với bà như sau: "Em yêu dấu! Ðây là lần đầu tiên trong cuộc đời anh đã thành tâm quì gối cầu nguyện. Anh đã quì gối không phải trong nhà thờ hoặc một nơi thánh nào đó. Nhưng anh đã quì gối ngay tại chốn ăn chơi. Các bạn anh cười nhạo tưởng anh đã hóa khùng. Có thể đúng. Anh đang khùng, khùng vì Ðức Kitô, vì anh đã trở về với Ngài".

Anh chị em thân mến!

Trong lúc tưởng chừng như sự việc không còn cách gì để cứu vãn, thì lòng tin bền bỉ của người đàn bà được Thiên Chúa đáp lời. Một lời đáp thật bất ngờ dưới con mắt người đời: "Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió nhưng chẳng biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi đâu". Những câu hỏi: nơi nào, khi nào, và thế nào đã được con người đặt ra cho Thiên Chúa chắc chắn là những câu hỏi chẳng bao giờ con người được thỏa mãn vì những sự việc dưới đất họ chưa hiểu hết thì làm sao có thể hiểu được những việc trên trời.

Tuy nhiên, dù cho đang lần mò trong tăm tối của hiểu biết như thế, con người vẫn không bị thất vọng, lạc lối, vì luôn luôn Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ một lối đi dẫn tới vĩnh cửu. Ðường lối ấy do chính Con Một Thiên Chúa từ trời cao xuống vạch ra cho tất cả loài người. Hết thảy mọi người đều được kêu mời đến.

Như ngày xưa, Môisen đã treo con rắn đồng trên sa mạc để cho dân được chữa lành thì hôm nay Con Một Thiên Chúa cũng được treo trên cao để mọi người được cứu thoát. Ngài được treo trên cao cho hết mọi người nhìn thấy, Ngài mở lối cho tất cả bước vào nhưng rồi không phải hết thảy đều đạt mục đích.

Một nhân vật thông thái của hội đường Do Thái là Nicôđêmô đang đứng trước ngưỡng cửa dẫn vào lối sống, thế mà ông vẫn chưa tìm được lối vào chỉ vì ông thiếu một điều kiện căn bản: "niềm tin".

Thiếu "niềm tin" mọi hiểu biết đều dẫn đến sai lạc vì mọi vận hành trong vũ trụ này không riêng lẻ độc lập nhưng liên hệ với Ðấng đã tạo thành nó. Niềm tin là chiếc cầu cho phép con người bước từ cõi đất lên cõi trời. Niềm tin là ngọn đèn soi tỏ ý nghĩa của mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến. Mọi sự vật và mọi biến cố xảy đến không đơn thuần chỉ là những gì con người có thể cảm biết, còn có những ý nghĩa tàng ẩn đàng sau mà chỉ niềm tin mới vén mở cho con người trọn vẹn ý nghĩa của chúng.

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra được những thiếu sót trong vốn hiểu biết mà bấy lâu nay như Nicôđêmô, con vẫn hằng tự mãn bằng lòng. Xin cho con biết rằng chỉ có niềm tin mới ban cho con một sự hiểu biết trọn vẹn ý nghĩa của con. Một cuộc sống không hạn hẹp trong cõi đất nhưng được bắt nguồn từ cõi trời. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Tin để hiểu


Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua, vì thế, vẫn trong bối cảnh giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô xoay quanh câu chuyện tái sinh và sự sống đời đời.

Thật vậy, vấn đề sự sống đời đời là một chủ đề lớn và vấn nạn ấy khiến cho con người ở mọi thời không ngừng suy tư!

Thấy được Nicôđêmô là một người chân chính, lòng dạ ngay thẳng, không có gì gian dối, nên khi ông chân thành đến với Đức Giêsu và tin tưởng Ngài là vị thầy tâm linh sẽ giúp ông đạt được điều mà ông hằng thao thức! Đức Giêsu đã không ngần ngại để mặc khải cho ông biết phải làm gì và phải làm như thế nào để đạt được sự sống ấy. Ngài nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời”. Nói như thế, Đức Giêsu đã mặc khải thiên tính của Ngài cách cụ thể, để như một con đường và mời gọi Nicôđêmô đi trên con đường ấy thì được cứu độ.

Tiếp theo, Đức Giêsu muốn củng đức tin thêm cho ông, nên Ngài khẳng định: “Thật, tôi bảo thật ông: ‘Chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy”.

Con đường cụ thể mà Đức Giêsu đề ra cho Nicôđêmô là con đường sinh lại từ ơn trên, nghĩa là cần được tái sinh, đổi mới nhờ Thần Khí. Ai đi trên con đường ấy là đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mà đường lối của Chúa Thánh Thần chính là đường lối từ trên cao, con đường Gongotha, con đường thập giá, con đường cứu độ bằng cái chết...

Qua cách thức của Đức Giêsu, Ngài đã dẫn Nicôđêmô từ chuyện cố hiểu để tin, sang tình trang tin để hiểu.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn để Lời Chúa được thấm vào trong tâm hồn của mình. Bởi vì nếu không khiêm tốn, thì hồng ân đức tin không thể đến với những người kiêu ngạo.

Sự sống đời đời được trao ban là do phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa chứ không phải do kiến thức mà ta có được. Vì thế, cần phải sám hối để đón nhận mạc khải của Chúa và trung thành đi theo đường lối ấy thì mới mong được cứu độ.

Mong sao mỗi người chúng ta hiểu rằng: có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người, đó là: hiểu biết điều nào phải tin; hiểu biết điều nào phải ước ao; và hiểu biết điều nào phải thực hiện. (Thánh Thomas Aquinas)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho mỗi người chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa và sẵn sàng đi trên đường lối cứu chuộc mà Chúa mạc khải cho chúng con. Xin cho chúng con được ơn biến đổi hằng ngày để được trở nên con người thánh thiện nhờ được ơn Chúa thanh tẩy. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu để sống cuộc đời mới


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa từ trời xuống để mặc khải những sự trên trời cho ta. Người còn chịu treo trên Thánh giá để ta được sống đời đời. Ta hãy khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu để sống cuộc đời mới.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì nhờ bí tích Rửa Tội, Chúa đã cho con được sống lại với Chúa. Chúa đã đưa con vào thế giới mới, Chúa đã nâng con lên cuộc sống trên cao, cuộc sống của Chúa.

Không phải ai cũng thấy được cuộc sống trên cao, không phải ai cũng tin được những chuyện trên trời. Con thường chỉ tin những chuyện dưới đất và ham thích cuộc sống trần gian. Những chuyện dưới đất thì dễ hiểu hơn, dễ thấy hơn. Cuộc sống trần gian dù có lắm khổ đau, nhưng đối với con, vẫn lôi cuốn hơn, hấp dẫn hơn. Dù là những người trí thức và đạo đức như ông Ni-cô-đê-mô cũng chẳng thể hiểu hết những điều dưới đất, và càng không thể hiểu được những chuyện trên trời.

Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết khiêm tốn và mở lòng mình ra để đón nhận những sự trên trời. Xin cho con được hết lòng tín nhiệm vào Chúa. Càng tự phụ mình trí thức và đạo đức, con lại càng khó đón nhận Chúa. Xin cho con được sinh lại bởi Chúa Thánh Thần, cho con mãi mãi là một trẻ thơ để dễ vào Nước Chúa hơn.

Con khao khát xin Chúa cho con được mỗi ngày mỗi hiểu biết Chúa hơn, yêu mến những sự trên trời nhiều hơn. Con không thể xao lãng bổn phận dưới đất, nhưng nhờ hiểu biết và yêu mến những sự trên trời, con sẽ hiểu những sự dưới đất đúng đắn hơn và chu toàn bổn phận dưới đất tốt đẹp hơn. Xin Chúa dẫn con đến với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chúa Kitô được giương cao


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa Kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng một cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào cuối phi đạo. Đây là một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.

Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống đường bay, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉnh tháp chuông một bóng đèn neon lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống đường bay vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tàu cập bến an toàn.

Suy niệm

Chúa Kitô được giương cao, đã được loan báo trước bằng hình ảnh của rắn đồng trong sa mạc, để ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên đó thì được cứu khỏi chết (x. Ds 21,9tt). Nicôđêmô đàm đạo, biết và tin vào Chúa Kitô, Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ… Ai không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,17-18).

Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha khi nhìn lên Chúa Kitô, Đấng được giương cao và tin vào.

Người tin được thông phần sự sống của Thiên Chúa, và bước vào một cuộc sống mới. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỷ. Giữa đêm tăm tối của cuộc đời, người tin nhận ra ánh sáng tình thương của Thiên Chúa và bước tới, nhưng nếu khép kín lòng sẽ mãi là con cái bóng tối như Chúa Giêsu đã nói: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19).

Chiêm ngắm Đấng được giương cao, tác động chúng ta tin vào hành trình của Đức Kitô ở trần gian: Sứ mạng của Đức Giêsu đến thế gian là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt 9,13; Lc 5,32), làm cho tội nhân tin vào Ngài và nên thánh thiện (x. Rm 6,22), hơn thế nữa, giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18; Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43; Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23). Nhưng Ngài cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16,16; x. Cv 16,3) khi chiêm ngắm Đấng được giương cao: Giương cao để chết cho nhân loại, nhưng giương cao bên hữu Chúa Cha trong mầu nhiệm phục sinh.

Tin vào con Thiên Chúa - Đấng giương cao chết treo trên thập tự, Đấng đã được giương cao bên hữu Chúa Cha qua phục sinh, như là nội dung của giao ước mới: sự sống đời đời của Thiên Chúa được trao ban như Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong buổi gặp gỡ mạc khải về niềm tin vào Con Người, Đấng được giương cao: “Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời”, “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”. Chính trong niềm tin vào Đấng được giương cao, sau này thánh Phaolô tuyên tín: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa”.

Ý lực sống:

Đấng được giương cao - treo thập tự,
Trần gian cứu độ, được nhờ Người,
Ai tin sức sống muôn đời có,
Giương cao cùng với Đấng Phục Sinh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Tiếp tục nói về việc tái sinh


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục kể lại cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông đã để ý nghe Chúa giảng và được thấy phép lạ Chúa làm, ông bắt đầu tin Chúa, ông có nhiều thắc mắc, và hôm nay ông tới gặp Chúa để xin Chúa giải đáp. Chúa cho ông biết: muốn được tái sinh để được vào Nước Trời thì:

- Phải nhờ tác động của Thánh Linh: “Gió muốn thổi đâu thì thổi... mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy”.

- Nhờ tin vào Đức Giêsu: “Không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con  Người vốn ở trên trời”.

2. Đức Giêsu cho ông biết: “Nếu ông muốn vào Nước Trời, ông phải tái sinh, phải sinh lại trong nước và Thánh Thần”. Dĩ nhiên Chúa không bảo ông phải chui vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa, Chúa có ý bảo ông phải lãnh nhận phép Rửa tội. Phép rửa tội là bí tích tái sinh  làm cho chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, tức là qua dòng nước đổ trên đầu, đó là dấu hiệu của Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong. Nói rõ hơn, nhờ bí tích rửa tội, Chúa Thánh Thần đến với linh hồn chúng ta, Ngài cải hóa và đổi mới con người chúng ta.

3. Theo Tin Mừng của thánh Gioan, chúng ta có thể cắt nghĩa chữ “tái sinh” như sau: Tái sinh có nghĩa là người gia nhập Giáo hội Chúa qua bí tích rửa tội mà vẫn giữ nguyên bản ngã của mình. Bản chất con người đó không hề bị tiêu tan nhưng được chữa lành và bồi bổ trong ân lộc của Ba Ngôi Thiên Chúa, và cuối đời họ được sống viên mãn với chính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Cho nên chữ tái sinh “bởi trên cao”có nghĩa là sinh lại bởi Thiên Chúa, trở nên con cái Thiên Chúa, chấp nhận nguyên tắc sống siêu nhiên, một bản tính mới như nâng hẳn chúng ta lên, vượt khỏi điều kiện tầm thường nhân loại: Từ thân phận tội lỗi đáng trầm luân mà được nâng lên làm con Thiên Chúa cùng được thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời.

4. Được sống muôn đời, đó là điều quan trọng nhất, đó là mục tiêu cuối cùng của con người, đó là một hồng ân cần được con người khiêm tốn đón nhận, chứ không phải là đối tượng để hiểu biết suông mà thôi. Trong cuộc đối thoại, chúng ta thấy Đức Giêsu không những mời gọi ông Nicôđêmô nâng tâm hồn mình lên, hãy để cho Thánh Thần thanh tẩy để có thể nhìn thấy và bước vào trong Nước Thiên Chúa.

Hơn nữa, cũng trong cuộc đối thoại này, chúng ta có thể ghi nhận một mạc khải quan trọng khác nữa, đó là Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống cho con người nhờ qua và sau cuộc vượt qua của Đức Giêsu, qua và sau cái chết, sự Phục Sinh của Chúa. Cùng với ông Nicôđêmô, chúng ta hãy đến với Đức Giêsu để cho Ngài dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha và đồng thời sẵn sàng lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

5. “Như ông Maisen  đã giương cao con rắn trong sa mạc...”

Để tin nhận Đức Giêsu, con người không chỉ phải  thấy những việc làm cả thể của Ngài, mà còn phải nhìn Ngài trên Thập giá nữa. Đây là cái nhìn mà Đức Giêsu ám chỉ đến khi nhắc lại sự kiện Maisen treo một con rắn đồng trong sa mạc, để những ai bị rắn cắn nhìn lên sẽ được chữa lành. Với hình ảnh con rắn đồng chịu treo lên cao để được nhìn ngắm, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Ngài trên Thập giá. Như vậy, biết Ngài và tin nhận Ngài là có thể nhận ra vinh quang của Ngài khi Ngài bị treo trên Thập giá, đó là chân dung đích thực của Ngài mà con người cần phải nhận ra và chiêm ngắm (Mỗi ngày một tin vui).

6. Tái sinh chẳng khác gì một qui luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự hủy thì không thể có việc tái sinh. Hay nói khác đi, tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ tự  cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình.

7. Truyện: Câu chuyện hai hạt giống.

Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất mầu mỡ. Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên, tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất... Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cành hoa của tôi”.

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ phải gặp những điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu cố gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập... Nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị  bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở”.

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

Một chú gà mái đang vô tử bới đất tìm mồi, thấy hạt giống ở gần đấy, nó liền mổ ăn một cách ngon lành, và thế là hết đời một hạt giống nhát đảm.

David L. Weatherford đã nói một câu hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tim cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát”. Vì người nào càng trốn tránh thử thách, thì chính thử thách lớn nhất của con người là sự nhát đảm sẽ đè bẹp họ.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Sinh lại như thế nào


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Chúa Giêsu tiếp tục đối thoại với Nicôđêmô về việc tái sinh. Đại ý bài Tin Mừng hôm nay: Sinh lại như thế nào.

Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?”

Chúa Giêsu lại trả lời nhờ tác động của Thánh Linh (“Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy”) và nhờ tin vào Chúa Giêsu (“không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là con người vốn ở trên trời”).

B...Nẩy mầm.

1. “Tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình” (Mỗi ngày một tin vui).

2. Mục sư Rober Fangum, trong một cuốn sách được sếp vào loại best seller (bán chạy nhất), đã viết: “những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ”. Ông kể ra những bài học vỡ lòng quý giá khi còn ở nhà trẻ như sau:

Hãy chia sẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đứng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.

Lấy đâu thì trả đó, dọp dẹp những gì mình bày ra, nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.

Biết ngạc nhiên trước màu nhiệm của cuộc sống.

Chính Chúa Giêsu cũng dạy: “Nếu các con không nên giống như trẻ nhỏ, chúng con không được vào Nước trời”. (trích “Chờ đợi Chúa”).

3. Thực ra biết bao nhiêu lần tôi muốn sinh lại thành con người mới, nhưng lực bất tòng tâm. Đó bởi vì việc sinh lại không chỉ bởi do sức riêng của tôi mà còn phải nhờ ơn Chúa.

4. Một bài thơ:

“Cảm thấy mình hoàn toàn mới
Được làm mới lại
Như mùa Xuân
Nghị lực tôi bừng tỉnh dậy
Nhuệ khí mới hứa hẹn
Tôi đã ra khỏi mùa Đông
Trở thành trẻ lại
Trở thành nhỏ lại
Để có thể lớn lên(…)
Trở thành không không
Để có thể tái sinh thành người khác.

Nhưng muốn thế, trước tiên phải chết cho con người cũ
với những suy nghĩ cũ và những lề thói cũ
điều này thực khó khi mình đã già
Nhưng rất đáng làm
Phải cởi mở lòng mình như cho thứ men mới:
Đó là Thánh Linh Thiên Chúa, nguồn sống Thần linh…” (Góp nhặt).

5. “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, con người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào người thì được sống đời đời”.

Chuyện kể về hai cậu bé người An độ, một theo đạo Hin-đu và một theo đạo Công giáo. Cậu bé theo đạo Hin-đu thì luôn tìm các chê bai Thiên Chúa của cậu bé Công giáo. Một ngày kia, cậu ta lại dở giọng ra và nói: “Thiên Chúa của tôi thì quyền thế, mạnh mẽ, giàu có, chứ đâu nào như Thiên Chúa của bạn?”

Cậu bé Công giáo lắng nghe và ôn tồn đáp lại: “Nhưng Thiên Chúa của bạn thì không chết cho bạn còn Thiên Chúa của tôi thì chết cho tôi!”.

Lạy Chúa, Chúa đã chết và sống lại, để từ đây con không còn chết vì lối sống ích kỉ, kiêu căng thường gây ra chiến tranh. Nhưng được sống dồi dào nhờ biết cho đi, cảm thông và tha thứ. Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa đã chết và sống lại vì con. (Epphata).

6. Mầm khác.

A. Ngày xửa ngày xưa có một con búp bê bằng muối. Một hôm, búp bê muốn học hỏi, khám phá thêm về thế giớ bên ngoài, cô ta quyết định làm một chuyến du lịch. Cô đi khắp nơi và học hỏi được nhiều điều hữu ích. Ngày kia, búp bê muối lần mò đến một bờ biển, đứng trước đại dương nhưng không biết đại dương là gì. Tò mò cô ta liền lên tiếng hỏi:

- Ngài là ai vậy?

Đại dương trả lời:

- Tôi không thể nói cho cô biết tôi là ai.Nhưng nếu muốn biết thì cô hãy bước vào trong tôi, lập tức cô sẽ biết.

Tuy hơi sợ nhưng vì tò mò nên búp bê muối từ từ bước vào lòng biển. Càng vào sâu, thân thể búp bê càng từ từ tan biến. Cho đến khi chỉ còn là một hạt muối bé tí, cô mới bắt đầu la lên:

- A! bây giờ tôi mới thực sự biết tôi là ai.

B. Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.

Hạt giống thứ nhất tâm sự:”Tôi muốn lớn lên. tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏcứng cỏi của mặt đất...Tôi muốn phô trương những cía nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên mặt tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi”

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nề rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì dưới lòng đất tối tăn kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sén sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể dẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

Một chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách ngon lành.

(Jack Canfield and Mark Victor Hansen, Chicken Soup for the Soul)

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Nhờ tác động của Thánh Linh


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Hôm qua, chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi phải tái sinh. Hôm nay, Chúa giải thích tái sinh hay sinh lại là sinh như thế nào.

Khi Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?” (Ga 3,9).

Chúa Giêsu trả lời là nhờ tác động của Thánh Linh “Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy” và nhờ tin vào Chúa Giêsu “không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời” (Ga 3,13).

“Tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình”. (Mỗi ngày một tin vui)

Tái sinh chẳng khác gì một qui luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự hủy thì không thể có việc tái sinh.

Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.

Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên. Tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất...Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu hiện báo hiệu một mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi”.

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng, mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nào đó nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

Một chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách ngon lành và nuốt ngay vào bụng. Thế là hết đời một hạt giống.

David L. Weatherford đã nói rất hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tìm cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát”. (Jack Canfield and Mark Victor Hansen, chicken)

2. Phải nói là con đường làm cho mình trở nên một con người mới là một con đường rất khó đi, nhưng chỉ khó với những ai thiếu niềm tin và thiếu ý chí, còn đối với những người có đức tin mạnh và một chí khí can cường, thì nhất định sẽ thành công.

Một hôm bà chị của thánh Thoma Aquinô hỏi một người:

- Phải làm gì để hưởng hạnh phúc đời đời?

Người ấy trả lời:

- Phải muốn được như thế.

Vâng! Đúng như vậy, trước hết là chính mình phải muốn, muốn một cách mạnh mẽ.

Khi thánh Phanxicô đệ Salê nghe tin thánh Phanxicô Xaviê được phong thánh. Ngài nói:

- Đó là Phanxicô thứ ba được phong thánh. Tôi sẽ phải là thánh Phanxicô thứ bốn.

Và người đã giữ lời hứa và ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ 4 của Hội Thánh.

Phải muốn và đồng thời cũng phải dám hy sinh. Chính Chúa Giêsu cũng đã cho biết con đường theo Ngài là con đường hẹp!

Ông François Piza người hùng đã chiến thắng đất Pérou trong một cuộc thám hiểm. Trong khi đi thám hiểm, có lúc phái đoàn của ông đã bị đặt vào một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Vì không chịu được những gian nan trước mắt, đám thủy thủ đã nổi dậy đòi ông phải quay trở về, nhưng Piza trả lời:

- Phía bắc con đường chúng ta đang đi là một cuộc sống dễ dàng và không nguy hiểm. Đi theo hướng đó chúng ta sẽ thất bại và khổ sở. Trái lại, nếu hướng về phía nam, chúng ta sẽ phải cắn răng chịu đựng những khó khăn, đương đầu với những thách đố, cam chịu những thiếu thốn, nhưng thành công, hạnh phúc, giàu sang, vinh hiển sẽ tiếp đón chúng ta. Vậy, các anh hãy tự chọn con đường đi.

Gần hết đám thủy thủ đã chọn con đường phía bắc quay trở về. Chỉ có 12 người biết theo con đường Piza đã vạch. Và 13 người can đảm ấy, sau những ngày gian nan khốn khó, cay đắng trăm bề, tất nhiên là phải chịu nhiều thiếu thốn, nhưng họ vẫn không chịu lùi bước trước khó khăn, và cuối cùng họ đã thành công.

Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã phải tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: “Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!”

Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy, thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa đến trần gian vì chúng ta


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa nói với ông Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời” (Ga 3, 13). Điều ấy có nghĩa là sau khi ông Nicôđêmô tin Chúa là Thiên Chúa rồi thì Chúa cho ông biết, chỉ có mỗi một mình Chúa là người biết chắc chắn nhất con đường để dẫn con người chúng ta về với Chúa Cha. Con đường đó là Chúa chấp nhận chết trên thập giá để kéo con người chúng ta lên với Chúa Cha: “Cũng như ông Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 15).

Như vậy, để được Chúa cứu, con người chúng ta phải được tái sinh trong bí tích Thánh Tẩy. Chúng ta biết được ơn tái sinh qua bí tích Thánh Tẩy là nhờ  Chúa. Chúa thiết lập bí tích này bởi cái chết và sự phục sinh của Chúa. Và cũng như gió, một vật thể trong không gian vũ trụ do Chúa dựng nên, chúng ta chẳng biết nó từ đâu đến và đi đâu, muốn thổi đâu thì thổi, nhưng chúng ta nghe được tiếng gió, biết được tác động của nó đang xảy ra chung quanh chúng ta (Ga 3, 8). Còn bí tích Thanh Tẩy, chúng ta biết được nguồn gốc và chúng ta biết được kết quả là chúng ta được nhận làm con Chúa khi chúng ta lãnh nhận. Chính Chúa Thánh Thần làm nên hiệu quả này cho chúng ta: “Mọi kẻ sinh ra bởi Thần Linh cũng vậy” (Ga 3, 8b). Như vậy, ơn tái sinh là do Chúa ban, còn hiệu quả của ơn ấy là do Chúa Thánh Linh.

Thật sự, Chúa đang nói ơn tái sinh bởi trời cho ông Nicôđêmô và cho con người chúng ta nghe. Ơn này có liên quan đến đời sống đức tin của chúng ta, phần rỗi của chúng ta qua hình ảnh Chúa minh chứng trong cuộc sống, đó là “Gió” mà ai trong chúng ta cũng hiểu cũng biết. Khi trời có gió thì chúng ta mát mẻ, thoải mái, sảng khoái. Nhưng khi trời không có gió, chúng nóng nực, bực bội, khó chịu. Nếu chúng ta không nhận lãnh ơn tái sinh, chúng ta không được vào nước trời. Còn khi chúng ta nhận lãnh, chúng ta được vào nước trời. Chúa cho hiểu thì chúng ta mới hiểu, mới lãnh nhận và mới sống được: “Nicôđêmô hỏi lại rằng: Việc ấy xảy ra thế nào được? Chúa Giêsu đáp: Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Ðiều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được?” (Ga 3, 9 – 12). Do đó, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn thì chúng ta mới hiểu và sống được ơn tái sinh cao trọng này.

Lạy Chúa phục sinh của chúng con, chúng con biết ơn Chúa vì Chúa đã cứu chúng con khỏi hư mất đời đời. Giờ đây, trong con người chúng con có mầm móng ơn phục sinh của Chúa, xin Chúa cho chúng con biết lấy cả cuộc đời này để chúng con sống ơn ấy khi chúng con gia tăng làm các việc lành phúc đức từ thiện bác ái yêu thương cứu giúp mọi người, đồng thời chúng con cũng biết sống khổ chế, hy sinh, hãm mình, chừa tội, luyện tập các nhân đức để làm gương sáng cho mọi người noi theo mà tin vào sự phục sinh của Chúa để họ được Chúa cứu chữa và ban cho sự sống đời đời sau này. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Đấng từ trời xuống


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Catarina Xiêna hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã đốt lửa yêu mến nồng nàn trong lòng thánh nữ Catarina Xiêna, khiến thánh nữ vừa thiết tha chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu khổ nạn, vừa hăng say phục vụ Hội Thánh. Xin Chúa nhậm lời thánh nữ chuyển cầu, mà cho dân Chúa biết thông phần khổ nạn với Đức Kitô, để được vui mừng chiêm ngưỡng vinh quang Chúa. Catarina sinh năm 1347 tại Xiêna. Chị đã gia nhập Dòng Ba Đaminh. Thấm nhuần tinh thần của thánh tổ phụ, chị yêu mến Thiên Chúa và tha nhân một cách nồng nàn, cổ võ bình an thuận hòa giữa các thành của nước Ý, can đảm bênh vực quyền lợi và sự tự do của Giáo Hội, và góp phần canh tân đời sống đạo đức. Chị đã viết nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Chị qua đời năm 1380. Đến năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong chị làm bổn mạng nước Ý, rồi năm 1970, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ghi tên chị vào số các tiến sĩ Hội Thánh.

Thông phần khổ nạn với Đức Kitô, trung thành sống theo những gì Chúa dạy, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Thư gửi các Hội Thánh Êphêxô và Ximiếcna, mỗi cộng đoàn phải chất vấn về lòng trung thành của chính mình. Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống. Ai thắng thì không hề bị cái chết thứ hai làm hại. Dù phải chết, ngươi hãy phấn đấu cho sự thật, và ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa sẽ bênh vực ngươi.

Thông phần khổ nạn với Đức Kitô, làm chứng cho sự dịu ngọt của Thiên Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trong sách Đối thoại, thánh Catarina Xiêna nói: Con đã nếm thử và đã nhìn thấy… Hãy mở cửa tâm hồn cho Ta, hỡi cô em được cùng Ta thừa hưởng Nước Trời, hỡi người bạn đã được Ta mặc khải mọi kho tàng chân lý. Người đã nên phong phú nhờ Thần Khí Ta ban, được sạch mọi vết nhơ nhờ máu Ta tẩy rửa. Hãy tạm ngưng suy niệm, để dấn thân làm chứng cho chân lý của Ta.

Thông phần khổ nạn với Đức Kitô, hiệp nhất cùng nhau đi đến cùng con đường thập giá, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Các tín hữu chỉ có một lòng một ý. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 92, vịnh gia cho thấy: Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào, Người lấy dũng lực làm cân đai. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Con Người sẽ phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Đấng từ trời xuống phải được giương cao, để con người từ đất thấp được sống muôn đời. Trời với đất se chữ đồng, đây là một mầu nhiệm tình yêu cao cả. Mầu nhiệm này ví tựa đại dương sâu thẳm: càng tìm, ta càng thấy; càng thấy, ta càng tìm. Thiên Chúa làm cho linh hồn ta được no thỏa, mà lại, dường như, không no thoả, bởi vì, Chúa làm cho linh hồn ta được no thỏa, mà vẫn còn luôn đói khát Chúa. Chúa là lửa luôn rực cháy, mà không thiêu rụi. Chúa dùng sức nóng của Chúa, mà thiêu hủy mọi tình yêu vị kỷ của linh hồn ta. Chúa dùng ánh sáng của Chúa mà soi sáng trí lòng ta, làm cho ta nhận biết chân lý của Người. Chúa là sự thiện tuyệt đối, là vẻ đẹp vượt trên mọi vẻ đẹp, là sự khôn ngoan vượt trên mọi khôn ngoan. Chúa lấy sự dịu ngọt của Chúa mà nuôi dưỡng ta, là những kẻ đang đói lả. Chúa đã đốt lửa yêu mến nồng nàn trong lòng thánh nữ Catarina Xiêna, khiến thánh nữ vừa thiết tha chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu khổ nạn, vừa hăng say phục vụ Hội Thánh. Ước gì chúng ta biết thông phần khổ nạn với Đức Kitô, để được vui mừng chiêm ngưỡng vinh quang Chúa. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 4 PS –Tuần 2/2025

Đi rao giảng Tin Mừng.
30/04 – Thứ Tư tuần 2 Phục Sinh.
"Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".

 

Lời Chúa: Ga 3, 16-21


Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.
Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Thiên Chúa yêu thế gian


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Khi nghĩ về Thiên Chúa, người ta hình dung ra Ngài với nhiều khuôn mặt.
Có khi Thiên Chúa giống một ông cảnh sát, luôn để ý theo dõi để trừng phạt,
hay như một quan tòa cứ theo pháp luật mà kết án nghiêm minh.
Có khi Thiên Chúa giống một nhà buôn, tính toán sòng phẳng,
chỉ ban ơn khi nhận được một lợi lộc nào đó, có qua có lại.
Có khi Thiên Chúa giống một nhà độc tài, áp đặt quyền lực trên con người,
không cho con người được tự do, bắt con người phải theo một định mệnh có sẵn.
Có khi Thiên Chúa như một thứ ô dù để người ấu trĩ dựa dẫm trong lúc khó khăn,
hay như một sản phẩm của người bị áp bức tự ru ngủ mình.
Có bao nhiêu hình ảnh méo mó về Thiên Chúa như vậy.
May mắn đó không phải là khuôn mặt Thiên Chúa của các Kitô hữu.
Ngài chẳng phải là cảnh sát hay quan tòa, là nhà buôn hay nhà độc tài.
Ngài cũng chẳng phải là người cha độc đoán không muốn cho con mình khôn lớn.
Đơn giản Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 8).
Và Tình Yêu vô lượng ấy được thể hiện bằng hành động:
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (c. 16).
Tình yêu của Thiên Chúa Cha ôm lấy thế gian, dù nó nghiêng chiều về sự dữ.
Như Abraham yêu quý đứa con một là Isaac, và đã chịu sát tế con cho Chúa,
Thiên Chúa Cha cũng yêu quý người Con Một của Ngài là Đức Giêsu,
và đã trao ban người Con ấy cho thế gian.
Cha trao ban Con khi sai Con vào đời mang thân phận xác phàm (Ga 1, 14).
Cha còn trao ban Con cho thế gian qua cái chết của Con trên thập giá.
Nơi máng cỏ Bêlem hay nơi đồi Sọ,
ta thấy Cha đưa hai tay ra để trao món quà tình yêu quý giá nhất cho loài người.
Và Cha chờ con người đáp lại bằng cách đưa hai tay đón nhận.
Con người vẫn có tự do để đón nhận hay từ chối món quà ấy
qua việc tin hay không tin Đức Giêsu.
Đứng trước Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa,
là đứng trước một chọn lựa nghiêm chỉnh có liên quan đến vận mệnh con người.
Ai tin vào Ngài thì có ánh sáng, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu (cc. 16.17.19).
Tiếc thay có kẻ ghét ánh sáng và thích bóng tối hơn ánh sáng.
Hãy từ bỏ những việc làm tối tăm, dối trá, xấu xa,
bạn sẽ dễ dàng đến cùng ánh sáng Giêsu.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi,
để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng
vào những bóng mờ trong đời con.
Và ước gì con được trở nên trong suốt
nhờ để ánh sáng Chúa
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Ánh sáng sự sông


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sự sống là quí nhất. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống thì không có gì hết. Không có linh hồn. Không có thiên đàng, hay nói đúng hơn ta chẳng thể hưởng hạnh phúc thiên đàng vì ta không có mặt ở đời.

Thiên Chúa yêu thương ta biết bao khi ban cho ta được hiện hữu ở đời này. Yêu thương hơn nữa khi ban cho ta chính Con Một yêu dấu để chuộc lại sự sống đã mất. Vì sự sống của ta nên Con Chúa phải chịu chết. Tình yêu của Thiên Chúa thật khôn lường. Sự sống của ta quả thật quí giá.

Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Ánh sáng sự sống cho ta được thấy cõi đời. Ánh sáng hi vọng cho ta được thấy định mệnh cao quí. Ánh sáng hạnh phúc được làm con Chúa.

Ta thường sai lầm khi không biết quí trọng những gì là chính yếu trong đời sống. Bị mê hoặc bởi những gì phụ thuộc, chóng qua. Đó là những giá trị lừa đảo dẫn đến sự chết. Sự sống là quí nhất. Nhưng ta đi tìm những gì phụ thuộc là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Sự sống lại là quí hơn. Nhưng ta lại bám víu vào sự chết đời này.

Chối từ ánh sáng là tự lên án mình. Từ chối sự sống thật ta chìm vào bóng tối chết chóc. Từ chối hi vọng thật, ta lâm vào bóng tối tuyệt vọng. Từ chối hạnh phúc thật, ta rơi vào bóng tối bất hạnh. Tự lên án mình khi ta từ chối vĩnh cửu để gắn bó với phù vân. Khi ta không nhìn lên Nước Trời mà chỉ gắn bó với mặt đất.

Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại. Vì thế họ tìm ngăn cản sự sống và bịt miệng những người rao giảng sự sống. Nhưng họ luống công vô ích. Cửa sắt kiên cố không giam giữ được sự sống. Lính canh thường trực không cản được đường đi của sự sống. Sự chết không làm cho người rao giảng Lời Ban Sự Sống sợ hãi.

Vì các tông đồ đã được gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh, là Sự Sống Lại và là Sự Sống. Nên chẳng còn sợ chết. Đã cảm nhận được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Nên vượt qua hận thù ghen ghét. Đã nhìn thấy ánh sáng nên tránh xa bóng tối. Đã nếm cảm hạnh phúc nên chẳng còn bị những ảo ảnh hão huyền mê hoặc.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Đi rao giảng Tin Mừng


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Câu đầu tiên của đoạn Phúc Âm hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại tình trạng tinh thần của các tông đồ lúc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến và trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Chúa. Tình trạng đó là tinh thần của nhóm mười một trước và liền sau biến cố Vượt Qua. Các ông chậm hiểu hay chưa hiểu gì về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa Giêsu.

Hơn nữa, sau khi Chúa đã sống lại và đã hiện ra cho một số đồ đệ để những người này loan báo tin vui Chúa sống lại cho các ông, thì các ông còn cứng lòng không tin, đến độ bị Chúa khiển trách. Phúc Âm ghi lại cho chúng ta như sau: "Sau cùng, Chúa Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng. Bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người phục sinh". Các tông đồ còn có thái độ tiêu cực như vậy. Mặc dù đã theo Chúa ngay từ đầu và đã được Chúa huấn luyện đặc biệt hơn dân chúng trong suốt thời gian sống bên cạnh Chúa.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không thất vọng, không bỏ đi chương trình cứu rỗi nhân loại, không rút lại những gì Chúa muốn các ngài thực hiện, vì thế, Chúa ra lệnh cho các tông đồ và cho những ai tiếp tục sứ mạng của Ngài trong dòng thời gian:

"Hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Hãy làm chứng cho Chúa khắp nơi", đây là sứ mạng quan trọng nhất liên quan đến tương lai của Giáo Hội Chúa trong lịch sử nhân loại. Sứ mạng được cô đọng lời Chúa Giêsu cho các tông đồ như sau: "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin thì sẽ bị kết án". Chúa Giêsu Phục Sinh đã không ngần ngại trao phó cho những con người bất toàn một sứ mạng rất cao cả. Chúa tỏ cho thấy Người cần đến sự cộng tác của con người phàm trần, có và còn rất nhiều khuyết điểm để thực hiện sứ mạng cứu rỗi. Những khuyết điểm của những con người đã được tuyển chọn, không thể làm hư chương trình của Người.

Nơi các Phúc Âm khác, chúng ta biết thêm là Chúa ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ để biến đổi các ông thành những con người mới, xứng đáng hơn với sứ mạng. "Các con sẽ lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sẽ làm chứng cho Thầy". Phần thánh sử Marcô, thì ngài tóm gọn thái độ đáp trả của các tông đồ nơi câu cuối cùng của sách Phúc Âm của ngài như sau: "Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng".

Hiện tại và tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên kinh nghiệm sống căn bản trên. Chúa luôn hoạt động với các ông, với những ai Người đã chọn và trao cho sứ mạng. Chúng ta hãy tin tưởng, vâng phục và ra đi chu toàn sứ mạng theo Lời Chúa dạy.

Lạy Chúa, nhờ lời khẩn cầu của thánh sử Marcô mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay, xin thương biến đổi mỗi người chúng con trở thành những tông đồ, những cộng tác viên xứng đáng và trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Án xử của Thiên Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Cách đây 2.400 năm, triết gia Hy Lạp là Socrate đã bị mang ra toà và bị kết án phải uống thuốc độc vì hai tội: làm sa đoạ giới trẻ bằng những lý thuyết viển vông và tuyên truyền cho các thần minh mới. Bồi thẩm đoàn xét xử Socrate gồm 501 người được tuyển lựa trong số 6000 công dân Athène. Đây là vụ án nổi tiếng nhất của thế kỷ 4.

Vụ án nổi tiếng nhất cuả thế kỷ 20 hẳn phải là vụ án của Hosê Simon, một cầu thủ bầu dục trở thành tài tử kiêm phóng viên truyền hình về thể thao tại Hoa Kỳ. Simson là một người da đen bị cáo buộc đã giết vợ và bạn trai của cô ta. Đã có quá nhiều chứng cớ hiển nhiên, nhưng sau nhiều tháng xét xử, toà vẫn chưa đưa ra được một phán quyết nào. Nhiều người cho rằng với một bồi thẩm đoàn gồm đa số người da đen và nhất là với những luật sư nổi tiếng mà Simson đã bỏ tiền ra thuê, rồi ra anh ta có thể được trắng án. Và quả thực tin giờ chót vừa cho hay toà tuyên bố Simson vô tội và anh được tha bổng.

Nhà hiền triết bị kết án, kẻ sát nhân được tha bổng, bao nhiêu người vô tội bị đầy ải trong các nhà tù. Công lý của con người vốn bất toàn là thế. Chính vì vậy ở thời đại nào, nỗi khao khát công lý trong lòng người vẫn không bao giờ được toả mãn. Người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng khao khát công lý: Đấng Cứu Thế mà họ mong đợi sẽ là một quan toà khôn ngoan, có khả năng xoá bỏ bất công, trừng trị kẻ gian ác và tái lập công lý. Các tín hữu tiên khởi phát xuất từ Do thái giáo cũng tiếp tục nuôi dưỡng một niềm mong đợi đó.

Nhưng một cuộc phán xử như thế đã không diễn ra khi Chúa Giêsu đến. Thay cho một quan toà nghiêm khắc, người ta chỉ thấy một vị mục tử tốt lành. Thay cho những phán quyết thẳng thừng, người ta chỉ nghe được những lời tha thứ dịu ngọt. Quả thật như Chúa Giêsu đã giải thích cho Nicôđêmô: Thiên Chúa sai Con Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của ngài mà được cứu độ. Chúa Giêsu không xét xử và luận phạt con người. Chính con người tự xét xử mình bằng cách chọn lựa hay khước từ Chúa Giêsu. Mỗi hành động xấu tự nó đã là một bản án cho con người. Sự phán xét do đó không là một biến cố bên ngoài con người, mà chính là thái độ đáp trả của con người với lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nếu tôi bước đi trong ánh sáng của Chúa Giêsu, tôi được bình an thư thái; trái lại, khi tôi chọn lựa bóng tối của ích kỷ, thì tôi đã tự ký bản án, tự đày đoạ chính mình rồi.

Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm vốn được thêu dệt bởi biết bao hình ảnh thần thoại. Đó là những thực tại vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là Thiên đàng, hoả ngục, ngày chung thẩm đều gắn liền với cuộc sống tại thế này. Con người có thể hưởng nếm Thiên đàng ngay từ cuộc sống này khi nó bước đi trong ánh sáng chân lý của Chúa Giêsu. Cũng ngay trong cuộc sống này, mỗi khước từ đối với Ngài đã là một thứ hoả ngục mà con người tự giam mình vào, và ngày chung thẩm cũng đã diễn ra trong con người qua từng chọn lựa của mình.

“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài. Ngài sai Con Một Ngài đến thế gian không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Đó phải là niềm xác tín thúc đẩy chúng ta luôn sống tin tưởng và yêu thương.


-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Yêu? Phán xét? Án phạt?


Thiên Chúa đã yêu thế gian

Đến nỗi đã ban Con Một,
Để ai tin vào Con của Người
Thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Quả vậy, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian
Không phải để lên án thế gian,
Nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người
Mà được cứu độ. (Ga. 3, 16-17)

Giáo lý dạy chúng ta biết rằng: Những ưu phẩm của Thiên Chúa là tốt lành vô cùng, đáng mến vô cùng, toàn thiện vô cùng, thương xót vô cùng, công bằng vô cùng … Nhưng những ý niệm đó đôi khi có vẻ mâu thuẫn nhau: Làm sao Thiên Chúa thương xót và đáng mến vô cùng lại ra án phạt người ta?

Bài Tin mừng hôm nay cho biết: tình yêu phán xét, hình phạt, cứu độ. Chúng ta hãy chú ý đến lời Chúa Giêsu nói như thế nào.

Điều quả quyết thứ nhất của Đức Giêsu là Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Bằng chứng của tình yêu này là hiến Con Một Ngài cho chúng ta. Không phải ơn ban thụ động, mà ơn ban một con người sống động đến thực hiện cho loài người điều này là ban cho mỗi người sống đời đời. Trong thái độ Thiên Chúa ưu đãi chúng ta, có tình yêu và sự tốt lành vô cùng là Con Một Ngài đã không đến để ra án phạt.

Nhưng tuy nhiên, như thánh Gio-an trưng dẫn quả quyết của Đức Giêsu là chính người ta tự phán xét và tự kết án mình. Người ta tự loại mình khỏi ơn cứu độ khi họ từ chối Đức Kitô, từ chối ảnh hưởng của Ngài, vì họ không tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế.

Nhưng chúng ta lại đặt vấn đề này: Người ta là kẻ tội lỗi vì từ chối Chúa, có phải là Thiên Chúa đã không ban đức tin cho họ sao? Câu hỏi này thuộc phạm vi thần học, không thuộc chương trình của Đức Kitô. Người chỉ nói đến vấn đề hành động chối bỏ của người ta như sau: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, sợ rằng các việc họ làm sẽ lên án chê trách họ”.

Người ta rất khôn khéo đổ tội từ chối Đức Kitô đó cho Thiên Chúa vì sợ lời Người tố giác, chỉ có sự phán xét do Thiên Chúa, hệ tại ở chỗ Thiên Chúa nhận biết hoàn cảnh người ta làm và tôn trọng sự lựa chọn của người ta.

C.G

------------------------------

 

Suy Niệm 6: Thiên Chúa là tình yêu


Khi yêu nhau, người ta có thể làm mọi việc vì nhau và cho nhau. Họ sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu của người mà họ thương để mong sao người yêu được hài lòng. Như vậy, yêu là chấp nhận tất cả vì người mình yêu.

Thiên Chúa cũng vậy, Người yêu thương con người bằng một tình yêu trọn vẹn. Vì thế, Người chấp nhận tất cả để cho con người được hạnh phúc.

Điều này đã được Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta biết khi nói:

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Đây là một mạc khải quan trọng, cốt lõi, vì nó tóm gọn nội dung của Tin Mừng.

Mạc khải này vượt lên trên những suy tư triết học hay lý luận của con người, bởi vì chỉ nhờ mạc khải của Đức Giêsu, Ngài là Con Một Thiên Chúa, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và là hiện thân của tình yêu mới giúp cho chúng ta hiểu thấu được.

Thật vậy, thế gian là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa, vì thế, Người không chỉ yêu thương có một lần trong quá khứ, nhưng Ngài vẫn còn yêu thương luôn mãi, Qua cuộc đời nhập thể làm người của Đức Giêsu, nhất là nơi cái chết và sự phục sinh của Ngài, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với con người cách trọn vẹn. Nhưng không chỉ có thế, Đức Giêsu tiếp tục hiện diện với con người trong suốt dòng lịch  sử, nhất là qua các Bí tích, để làm bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.

Ước gì chúng ta luôn cảm nhận và tin tưởng vào tình thương của Chúa, và sẵn sàng đi trên cùng một con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã đi.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con mặc lấy tâm tình của Chúa, để chúng con sống và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa ngay trong cuộc sống của chúng con hằng ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

------------------------------

 

Suy Niệm 7: Thiên Chúa đã ban Con của Ngài cho nhân loại


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Đón nhận hay chối từ Chúa Con, chính là đón nhận sự sống hay bị kết án. Chỉ vì tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa đã ban Con của Ngài cho chúng ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong cuộc sống hằng ngày, đôi khi con yêu quý một số vật dụng cách quá đáng, trong lúc ấy lại xem thường những gì đáng quý. Con chăm lo bộ ghế, chiếc xe, tivi, đồng hồ, quần áo, v.v… Thế mà có những điều rất đáng quý nhưng đôi khi con lại xem thường. Con lao thân vào cơn say sưa chè chén, mà bất kể đến hậu quả tổn hại cho sức khoẻ bản thân và làm hại gia đình. Con không biết quý trọng sự ấm êm trong gia đình, con chưa ý thức rằng có được một người cha đức độ, có một người mẹ đảm đang, có một người con ngoan ngoãn… là con đã có được một hồng phúc cao cả. Con chưa biết rằng có một sức khoẻ tốt là ơn Chúa ban, có một công ăn việc làm ổn định là ơn Chúa ban, có được ăn no mặc ấm là ơn Chúa ban. Nhất là vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Chúa Giêsu cho chúng con, Người là nguồn mạch sự sống của chúng con, và cho chúng con được mang danh Kitô hữu. Ôi! phải chi con “nhận ra ơn huệ Chúa ban”.

Đôi khi trong thực tế hằng ngày, con thấy ngại cầu nguyện, thấy sao nặng nề mỗi khi đến nhà thờ, mỗi khi gặp gỡ Chúa. Lạy Chúa, con đã thích bóng tối hơn ánh sáng, đã muốn chìm vào trong thế gian này mà không muốn mở rộng đôi tay đón nhận ơn cứu độ, đón nhận Con Một, đón nhận tình thương quá to lớn của Chúa.

Lạy Chúa, xin mở đôi mắt của con, xin nhóm lên trong lòng con nguồn sáng của Chúa, đốt lên trong con ngọn lửa tình yêu Chúa, để con trở nên con cái sự thật, và nên con cái của Chúa là Cha chúng con. Amen.

Ghi nhớ: “Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ”.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 8: Tình yêu Thiên Chúa – tình yêu cho đi


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Bà cụ 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời”.

Bà đáp: “Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài”.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925”.

Suy niệm

Sự ân cần của Thiên Chúa với con người được biểu hiện tuyệt vời qua Con Ngài được gửi đến thế gian mà chính Người Con đó - Đức Giêsu Kitô đã mạc khải cho nhân loại khi Ngài nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17). Tình yêu dâng hiến Con của Thiên Chúa trở nên nguyên mẫu của tình yêu như Gioan định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Tuy tình yêu không thấy được cụ thể, sờ mó cảm nghiệm như vật chất nhưng thánh Hilariô de Poitiers đã nói: “Tình yêu được thấy, được tính bằng những sự hiến tặng của chính tình yêu”.

Thật thế, chúng ta thấy được nguyên mẫu tình yêu bằng việc dâng hiến vĩ đại như thánh Hilariô de Poitiers nhấn mạnh: “Tình yêu của Thiên Chúa đã được biểu lộ bằng sự dâng hiến của chính Con Một Ngài” để cho nhân loại sống. Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh sự dâng hiến bằng chính Người Con Một để nói về một tình yêu vĩ đại không gì có thể so sánh: “Ngài đã dâng hiến không phải là người tôi tớ, cũng không là một thiên thần, Ngài đã cho chính Con Ngài, Con duy nhất”. Tình yêu này đã được hé mở và báo trước bằng hình ảnh tổ phụ Abraham dâng hiến con mình là Isaac theo thiên ý của Thiên Chúa (x. St 22,1-19).

Tình yêu của Thiên Chúa, là tình yêu cho đi, cho đi chính Con Một, cho đi tất cả để cho nhân loại có được sự sống. Tình yêu này mời gọi tôi và bạn là những người con cũng biết cho đi làm quà tặng của nhau, vì đó là tình yêu dâng hiến mà Chúa Cha muốn chúng ta, người con thực thi như Chúa Giêsu hiến thân vì mạng sống, vì người mình yêu.

Ý lực sống: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Tin Chúa sẽ được trường sinh


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng tiếp tục nói về việc sinh lại. Đây là hậu quả của việc chịu hoặc không chịu sinh lại:

- Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu thì phải hư mất.

- Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa không hề muốn luận phạt thế gian, mà chỉ muốn cứu thế gian.

- Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con thì được cứu, kẻ không tin thì bị luận phạt.

- Sự luận phạt ấy là do chính những người ấy tự chọn cho mình.

2. “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã sai Con Một mình...”

Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào  trong Thánh Kinh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3,15).

Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.

3. Ai tin thì sẽ được sống.

Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ, Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,20). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.

Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỉ. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đùng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu xa” (Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ (R Veritas).

4. “Ai tin vào Con của Ngài thì không bị xét xử...”

Tình yêu vốn là tiêu chuẩn để con người được xét xử. Trong cuộc thẩm xét chung cuộc, Đức Giêsu chỉ tra vấn con người về một điều duy nhất, đó là nó có sống yêu thương không? Người Kitô hữu do đó không lo sợ về một cuộc chung thẩm trong ngày sau hết; họ lại càng không phải bận tâm về bức tranh mà trí tưởng tượng con người  đã tô vẽ cho ngày ấy, bởi lẽ họ biết rằng sự phán xét diễn ra  ngay trong hiện tại qua từng lựa chọn của họ. Mỗi khi họ sống yêu thương thì lương tâm sẽ không luận phạt họ, trái lại, khi họ để thù hận xâm chiếm tâm hồn và thúc đẩy họ khước từ tình yêu, thì đó là lúc họ bị xét xử. Thật thế tâm hồn họ sẽ không có bình an, nếu họ không sống yêu thương.

5. Tình yêu của Thiên Chúa, là tình yêu cho đi, cho đi chính con Một, cho đi tất cả để cho nhân loại  có được sự sống. Tình yêu này mời gọi chúng ta là những người con  biết cho đi làm quà tặng cho nhau, vì đó là tình yêu dâng hiến mà Chúa Cha muốn chúng ta – người con thực thi như Đức Giêsu hiến thân vì mạng sống vì người mình yêu.

6. Truyện: Tượng Thánh giá ban phép lành.

Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế đang ban phép lành.

Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng đau khổ.

Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng  những tội nặng y như những lần trước. Vị Linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị Linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Đức Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị Linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.

Kể từ đó, bàn tay phải của Đức Giêsu không gắn vào Thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Đi theo ánh sáng


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Tiếp tục bài giáo lý về việc tái sinh: hậu quả của việc chịu sinh lại hay không chịu sinh lại.

Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu sinh lại thì phải hư mất (“bị luận phạt).

Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa cũng không hề muốn “Luận phạt” thế gian (để cho hư mất, mà chỉ muốn cứu thế gian)

Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con (chịu sinh lại bởi đức tin) thì được cứu; kẻ không tin (không chịu sinh lại) thì “bị luận phạt” (hư mất).

Sự hư mất ấy (luận phạt) là do chính những người ấy tự chọn cho mình, cũng giống như một nguồn sáng đã đến trong màn đêm tối tăm, ai muốn sáng thì tới với nguồn sáng đó, kẻ không tới thì phải ở mãi trong bóng tối.

B...Nẩy mầm.

1. Dĩ nhiên được cứu thì tốt hơn là bị hư mất, trong ánh sánh thì hạnh phúc hơn trong tăm tối. Thế nhưng cũng giống như một người đang chìm muốn được cứu sống thì tối thiểu phải đưa tay cho người trên bờ kéo mình lên, người muốn sáng thì phải rời bỏ tối tăm để bước tới nguồn sáng. Chúa Giêsu chỉ cho ta thấy một thực trạng đó là những người “yêu tối tăm hơn sự sáng”, đó là những người “hành động xấu xa”, họ “không đến cùng sự sáng vì sợ những việc làm của mình bị khiển trách”. Và Chúa Giêsu khuyên ta hãy can đảm yêu sự sáng và bước ra sự sáng “để hành động của họ được sáng tỏ”.

Trong tôi cũng có bóng tối. Đó là những “hành động xấu xa”. Tự nhiên tôi muốn che dấu, tôi sợ bước ra ánh sáng. Nhưng như thế tôi không bao giờ được cứu, như thế là tôi tự luận phạt mình, tự để mình bị hư mất. Hãy yêu sự sáng hãy cam đảm bước ra sự sáng để cho ánh sáng soi đường cho ta. Đó là một cách để được sinh lại: không còn là con của tối tăm nữa, mà từ nay sẽ là con của ánh sáng

2. Chú bé cùng với bố đang đi trên một con đường mòn trong đêm dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ, bóng đên trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi! chiếc đèn này chỉ chiếu sáng chút xíu trên đường, con sợ quá”. Bố đáp: “Con ạ! Anh sáng này hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi đến cuối đường”.

Đời sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi, và ta cũng chỉ cấn bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều: ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sánh đó đủ soi cho ta đi đến cuối đường đời.(Góp nhặt).

3. Thiên Chúa bao giờ cũng muốn cứu chúng ta. Ngài ban đủ mọi phương tiên cho ta sử dụng để được cứu. Kẻ hư mất là kẻ thiếu cương quyết rời bỏ bóng tối để bước ra ánh sáng.

4. “Ánh sáng đã đến gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa”.

Một chiếu thứ bảy, anh đưa tôi dạo phố. Chúng tôi đang lặng lẽ rảo bước trên bờ hồ Xuân hương, bỗng nhiên, một giọng nói quen thuộc cất lên: “Con chào Cô!”. Như một phản xạ, tôi quay lại. Trước mặt chúng tôi là một em bé rách rưới, bẩn thỉu, học trò của tôi ở trung tâm Bảo Trợ Xã hội. Em vui mừng, chạy lại ôm chầm lấy tôi. Nhưng vì sợ “quê” với anh, tôi đã vờ như không quen biết nó…và để lại sau lưng, sự hụt hẫng pha lẫn tủi hờn của đứa bé mồ côi đáng thương.

Bây giờ tôi mới rõ, tôi làm việc từ thiện chỉ vì chính mình!

Lạy Chúa, xin soi sáng và mở rộng lòng con, để con nhận ra đâu là sự sáng đích thực của Chúa và can đản theo Ngài. (Epphata)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Hiệu quả của việc sinh lại


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúng ta tiếp tục bài giáo lý về việc tái sinh: hôm nay nói về hậu quả của việc sinh lại.

Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu sinh lại thì phải hư mất tức là “bị luận phạt”.

Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa không hề muốn “Luận phạt” thế gian “để cho hư mất, mà chỉ muốn cứu thế gian”.

Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con tức là chịu “sinh lại bởi đức tin” thì được cứu; kẻ không tin tức không chịu sinh lại thì “bị luận phạt” (hư mất).

Dĩ nhiên, được cứu thì tốt hơn là bị hư mất. Sống trong ánh sáng thì hạnh phúc hơn sống trong tăm tối. Thế nhưng, cũng giống như một người đang bị chìm muốn được cứu sống thì tối thiểu phải đưa tay cho người trên bờ kéo mình lên, người muốn sáng thì phải rời bỏ tối tăm để bước tới nguồn sáng.

Tại Florence thuộc nước Italia, có một ngôi đại giáo đường, được kiến trúc rất đặc biệt. Ngôi đại giáo đường này có một vòm cầu lớn. Trên vòm cầu này có một lỗ nhỏ được ghép kính.

Kiến trúc sư vẽ kiểu ngôi đại giáo đường này, đã khéo léo tính toán thế nào, để cứ đến ngày 21 tháng 6 hàng năm, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu vào lỗ nhỏ kia, rồi dọi xuống một miếng bạc, được ghép ở dưới nền giáo đường.

Người ta chỉ cần nhìn vào ánh sáng chiếu xuống từ mặt trời, qua lỗ nhỏ trên vòm cầu kia, rồi dọi xuống nền giáo đường là biết được độ nghiêng của ngôi giáo đường để sửa chữa, vì ngôi đại giáo đường này được xây trên một khu vực mà trước đây là vùng snh lầy.

Trong ngày thứ bảy tuần thánh, Chúa Giêsu được Giáo Hội tuyên xưng là ánh sáng thế gian. Ánh sáng Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chiếu vào thế gian để soi đường chỉ lối cho con người.

Thế nhưng, theo như lời của Thánh Gioan, thì thế gian đã không chịu tiếp nhận ánh sáng đó, mà trái lại còn xua đuổi. Lý do nào khiến thế gian ghét ánh sáng thì Thánh Gioan đã cho biết trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Vì họ sợ những việc làm của mình bị khiển trách”. Tại sao lại sợ ? Thưa, vì việc làm ấy xấu xa. Giống như ánh sáng mặt trời dọi xuống xuyên qua lỗ hổng, chiếu xuống miếng bạc được bố trí trên nền nhà thờ, làm cho người ta nhận ra được độ nghiêng của ngôi nhà thờ như câu chuyện kể trên, thì ánh sáng Giêsu chiếu dọi vào thế gian cũng làm cho con người thấy được những sai quấy của mình như thế.

Ngạn ngữ Trung Hoa có câu:”Nhật Nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ” (Mặt trời mặt trăng tuy có sáng nhưng khó mà chiếu vào chiếc chậu úp). Ánh sáng của mặt trời cũng như ánh sáng Giêsu, tuy sáng và có đó, nhưng nếu người ta không chịu tiếp nhận thì cũng vô ích, nó cũng giống như ánh sáng chiếu vào một chiếc chậu úp thôi.

2. Điều còn lại ở đây là chúng ta có đủ nhạy cảm để nhận ra ánh sáng đó hay không.

Một nhà thám hiểm Tây Phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã cạn khô. Ông lê từng bước chân mệt mỏi trên cát. Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh, trong thực tế, giữa chốn sa mạc khô cằn như thế này làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông tuyệt vọng lê bước. Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên:

- Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này ?

Nhưng người bạn kia lắc đầu giải thích:

- Ông ta là một người Phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.

Có nhiều người trong chúng ta cũng như vậy.

Hẳn anh chị em còn nhớ câu chuyện người mù ở trong Tin Mừng. Đứng trước một sự thật rõ ràng như ban ngày vậy mà những người Pharisêu vẫn tìm cách bẻ cong sự thật. Chúa Giêsu đã phải rất buồn về thái độ ấy nên Ngài đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9,39).

  Những người Pharisêu đang ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao ?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9,40-41).

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta luôn biết yêu sự sáng và hãy cam đảm bước đi trong ánh sáng để cho ánh sáng soi đường cho ta. Đó là một cách để được sinh lại: không còn là con của tối tăm nữa, mà từ nay sẽ là con của ánh sáng.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa đến để ta được sống


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Ngày xưa trong sa mạc, Chúa yêu thương dân Chúa, dân xin điều gì Chúa cũng cho, dân xin bánh ăn hàng ngày thì Chúa cho manna, dân thèm thịt thì Chúa cho chim cút bay đến rợp trời để dân bắt mà làm thịt ăn, dân khát nước, Chúa cho nước chảy ra từ tảng để dân uống, ban ngày dân kêu nắng thì Chúa cho cột mây che mát, ban đêm tối tăm thì Chúa cho cột lửa soi sáng…Ấy thế mà dân cứ kêu la trách móc Chúa, họ ăn thịt cút chưa trôi vào miệng mà đã kêu nài oán than Chúa rồi. Do đó, Chúa cho rắn rửa bò ra cắn chết họ. Nhưng rồi họ khiếp sợ và kêu cầu Chúa thì Chúa lại sai ông Môsê đúc con rằn đồng treo lên để những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì sẽ được cứu (Ds 21, 4 – 9).

Đó là chuyện của ngày xưa, còn ngày hôm nay, Thiên Chúa không làm như vậy nữa. Chúa được Chúa Cha sai xuống trần gian là vì Chúa Cha yêu thương con người chúng ta và Chúa đến trần gian cũng vì Chúa vâng phục Chúa Cha và Chúa xót thương con người tội lỗi, trầm luân hư vong đời đời của chúng ta.   Chúa nói: ”Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến” (Ga 8, 42), để rồi Chúa chịu chết trên thập giá và sống lại để cứu chúng ta, cho chúng ta được sống đời đời. Như vậy, Chúa mới nói: “Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3, 16 – 17).

Chúa yêu chúng ta như vậy đó, và Chúa không bao giờ trừng phạt chúng ta khi chúng ta phạm tội phản nghịch cùng Chúa. Nhưng để được hưởng lòng thương xót của Chúa, Chúa mời gọi chúng ta hãy tin vào Chúa: “Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa” (Ga 3, 18 – 21). Tin vào Chúa thì chúng ta phải nghe lời Chúa dạy, mà lời Chúa dạy không ở đâu xa, khiến chúng ta phải đi tìm kiếm để rồi than thở trách móc là khó khăn quá, mất thời gian quá, nhưng lời Chúa ở ngay gần bên chúng ta, trên môi miệng chúng ta, ngay trong lòng chúng ta: “Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 8 – 10). Khi chúng ta thực hiện lời Chúa, chúng ta sẽ đi trong ánh sáng của Chúa. Chúng ta sẽ yêu ánh sáng chứ không yêu sự tối tăm. Chúng ta tránh đi sự xấu xa tội lỗi, và như vậy, chúng ta sẽ được ở trong Thiên Chúa của chúng ta và những việc làm của chúng ta sẽ là gương sáng cho người khác tin vào Chúa.

Lạy Chúa hằng sống của chúng con, Chúa đã chịu chết và sống lại để rồi Chúa phục hồi chức phận làm con Chúa của chúng con mà chúng con đánh mất khi phàm tội bất tuân lời dạy của Chúa. Xin Chúa nghe lời chúng con cầu xin trong thung lũng nước mắt này mà chúng con gặp biết bao nhiêu khổ đau, nghịch cảnh để chúng con sống và làm sáng danh Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Thiên Chúa ban Con Một


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 2 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa đã phục hồi phẩm giá nguyên thủy cho nhân loại, để hết thảy chúng ta được hy vọng phục sinh, vậy giờ đây, chúng ta chân thành tin kính mừng Đức Kitô sống lại, xin Chúa cho ta cũng hết lòng cảm mến đón rước Người.

Hết lòng cảm mến đón rước Đức Kitô Phục Sinh, Người sẽ ban thưởng cho những ai chiến thắng, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Thư gửi các Hội Thánh Pegamô và Thyatira, Ai có tai thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh... Đây là lời của Con Thiên Chúa, Đấng có mắt như ngọn lửa hồng: Ta là Đấng dò thấu lòng dạ, Ta sẽ tùy theo việc các ngươi làm mà thưởng công phạt tội. Này đây Ta đến ngay tức khắc, và đem theo lương bổng.

Hết lòng cảm mến đón rước Đức Kitô Phục Sinh, Người chăm sóc ta như mục tử chăm sóc đoàn chiên, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Lêô Cả nói: Đức Kitô vẫn sống trong Hội Thánh của Người… Tôi chính là người mục tử nhân lành: Tôi biết chiên của tôi, và chiên tôi biết tôi. ĐỨC CHÚA phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm, Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, và sẽ đích thân chăn dắt chúng.

Hết lòng cảm mến đón rước Đức Kitô Phục Sinh, Người sẽ giải cứu chúng ta khỏi bao nỗi gian truân khốn khó, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Những người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ mà giảng dạy cho dân. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 33, vịnh gia cho thấy: Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời. Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người, để cứu thế gian, chỉ cần, ta tin vào Con của Người, ta sẽ được sống muôn đời. Con Thiên Chúa đã kết hợp mật thiết với bản tính loài người, đến nỗi, không những, Người là trưởng tử giữa mọi loài thọ sinh, mà còn, như đầu, không thể tách khỏi các chi thể, và các chi thể không thể tách khỏi đầu được. Nhờ quyền năng của Thánh Thần, Người đã sinh ra bởi Mẹ Đồng Trinh, thì chính Người, nhờ cũng một Thánh Thần, đã làm cho Hội Thánh của Người nên phong phú, nghĩa là, nhờ phép rửa tái sinh, vô số con cái Thiên Chúa đã sinh ra. Người không loại trừ một dân nào, nên, từ muôn dân muôn nước, chính Người đã gầy dựng một đoàn chiên thánh thiện. Chỉ một mình Người mới điều khiển công việc mục vụ của các mục tử, và lấy cỏ xanh tươi mà nuôi dưỡng những ai đến với nước nguồn từ Tảng Đá là chính Người. Cũng như, Vị Mục Tử Tốt Lành đã đoái thương hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, thì, một khi, đoàn chiên đã được tăng sức nhờ tình thương dạt dào, sẽ không ngần ngại chết vì danh Vị Mục Tử. Lễ Vượt Qua được cử hành bằng bánh không men là lòng tinh tuyền và chân thật, khi đã khử trừ men cũ là lòng gian tà, thì, thụ tạo mới được ăn uống no say chính Chúa. Chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng ta rước lấy. Một khi cùng chết, cùng được mai táng và cùng sống lại với Người, ta hãy luôn mang Người cả trong thân xác lẫn trong tâm trí ta. Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa đã phục hồi phẩm giá nguyên thủy cho nhân loại, để hết thảy chúng ta được hy vọng phục sinh, ước gì ta chân thành tin kính mừng Đức Kitô sống lại, và hết lòng cảm mến đón rước Người. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 5: Ngày 01/05 Thánh Giuse thợ.

Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện và xin vâng.
01/05 – Thứ Năm đầu tháng, tuần 2 Phục Sinh. – Thánh Giuse thợ.
"Ông ta không phải là con bác phó mộc sao?"

* Là một người thợ ở làng Galilê, thánh Giuse là mẫu gương người Kitô hữu phải noi theo để chu toàn các bổn phận nghề nghiệp, vì thánh Giuse đã làm việc trong tâm tình liên kết với Đức Giêsu. Lao động thì vất vả nhưng cũng đem lại niềm vui.
Lao động phục vụ con người nhưng cũng giúp đưa tới gần Thiên Chúa: đó là điều ta học được nơi trường học Nagiarét.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 13, 54-58


Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về Người.
Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình". Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Đức Giêsu về quê


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy niệm:

Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nazareth lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2. Thánh Giuse Thợ


--Mt 13,54-58

--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

 “Không ai được tôn trọng ở quê hương của mình”. Đây chính là câu nói nổi tiếng của Chúa Giêsu và có tính cách tiên tri. Thật vậy, trải qua biết bao thế hệ, từ những bậc tiền nhân đến chúng ta, hẳn mọi người đều biết hay đã cảm nghiệm được tính tiên tri của Chúa Giêsu qua câu nói trên hoàn toàn ứng nghiệm.

Chúa Giêsu trở về quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Đền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận hoặc từ chối.

Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu về giảng tại quê hương của mình cũng làm dấy lên những thông tin trái chiều về Ngài. Những người đồng hương Nazareth có lẽ đã nghe đồn thổi về Ngài và càng ngạc nhiên hơn khi nghe chính Ngài phát biểu trong Hội đường của họ. Những thành tích về sự khôn ngoan và phép lạ Ngài làm đã dấy lên trong họ câu hỏi: “Phải chăng Ngài không phải là Đấng Cứu Tinh mà Thiên Chúa đã hứa cho dân tộc?” Và họ bắt đầu tra cứu với một phương pháp rất khoa học: họ mở Kinh thánh ra và thấy rằng Đấng Cứu Tinh xuất thân từ một nơi khác, chứ không phải từ ngôi làng nghèo nàn tăm tối như Nazareth. Họ điều tra về nguồn gốc Chúa Giêsu và thấy rằng: cha mẹ và anh em Ngài đều là những người nghèo hèn mà họ biết rõ ngọn nguồn. Với lối suy luận và lý luận rất khoa học ấy, những người đồng hương với Chúa Giêsu đã khước từ Ngài. Nguồn gốc tăm tối của Chúa Giêsu đã là mạng chắn khiến họ không tin nhận nơi Ngài (Mỗi ngày một tin vui).

Thành kiến được định nghĩa là một suy nghĩ, một cái nhìn khó thay đổi về việc gì đó. Khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình “như đúng rồi” lại còn úp lên đó cái khung cứng nhắc của cảm tính, người thành kiến sẽ không thể nhìn người khác như họ là, mà trái lại sẽ đánh giá theo kiểu: “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo”. Chẳng những thế, người thành kiến lại thích đeo cặp kính đen để chỉ nhìn thấy phương diện xấu xa, bi quan, tiêu cực của sự việc. Những người đồng hương đương thời với Đức Giêsu đã nhìn Người với đôi mắt thành kiến như thế. Đối với họ thì gà thì đẻ ra gà, chứ không thể đẻ ra công được. Với cái nhìn thành kiến, họ không thể nào nhận ra Đức Giêsu mà họ vẫn tưởng là con bác thợ mộc Giuse lại là Con Thiên Chúa được (5 phút Lời Chúa).

---------------------------------

 

Suy Niệm 3. Thánh Giuse thợ


Mt 13,54-58

Lm Carôlô Hồ Bặc Xái

* Lịch Sử

Chính Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã xác định lễ thánh Giuse Thợ vào ngày 1.5; đó cũng là ngày toàn thế giới mừng ngày Lao Động Quốc Tế. Trong ngày này, thánh Giuse được tôn kính, nhưng cũng ý thức được giá trị lao động của con người.

 Thánh Giuse đã lao động bằng đôi tay mình để phục vụ lương thực cho Thánh Gia. Lao động ngày hôm nay khác với ngày xưa, nhưng cũng có cùng một ý nghĩa khi con người sử dụng thân xác và trí óc của mình để lao động, họ hiện thực chính cuộc sống của mình, phát triển nhân vị và làm cho cuộc sống có giá trị ở giữa trần gian

Người Kitô hữu lại cần phải ý thức, chính họ nhận sự lao động này từ Thiên Chúa và phải qui hướng mọi lao động này về Người (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

A. Hạt giống...

Sau một thời gian hoạt động ở những nơi khác, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét và vào giảng dạy trong hội đường. “Sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ” của Ngài đã khiến cho những người đồng hương phải ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên này không dẫn họ đến đức tin, bởi còn một chướng ngại ngăn cản, đó là xuất thân của Ngài: vì người ta biết quá rõ cha mẹ anh em Ngài đều là những người nghèo hèn quê mùa cho nên người ta không tin Ngài là Messia. Do người ta không tin, nên Chúa Giêsu không làm nhiều phép lạ.

B.... nẩy mầm.

1. Những người Nadarét đã ngạc nhiên và thán phục Chúa Giêsu. Họ đã tiến đến gần tới đức tin. Nhưng rất tiếc, hành trình ấy đã bị chận lại vì thành kiến. Họ nghĩ: một con người có cha mẹ và anh em là những kẻ nghèo nàn và tầm thường như thế không thể nào là Đấng Messia được.

Có những thành kiến thật vô lý, thế nhưng người ta vẫn để cho những thành kiến vô lý ấy ảnh hưởng đến mình.

Phải chăng nhiều lần tôi cũng đánh giá người khác theo những thành kiến: Anh ấy, chị ấy không thể nào khá được! Con người như thế đó mà làm được cái gì!

2. Ngày xưa các phụ nữ quý phái Trung Hoa bó chân để chứng tỏ mình không phải lạo động. Thời đó, lao động là việc làm của những kẻ hèn hạ. Chúa Giêsu đã bỏ ra 30 trong số 33 năm ở trần thế để lao động; và việc Giáo Hội mừng kính Thánh Giuse Thợ là những lời nhắc nhở chúng ta tôn trọng giá trị của lao động, đặc biệt là lao động tay chân.

3. “Nào ông ấy chẳng phải là con bác thợ mộc sao?”: Trong số các thành kiến của chúng ta, có thứ thành kiến quái dị này là “cha nào con nấy”, cha mẹ dở thì con không thể giỏi, cha mẹ xấu thì con không thể tốt. Đành rằng, di truyền cũng có ảnh hưởng phần náo đó, nhưng không phải là tất cả. Có biết bao tấm gương về những đứa con tài giỏi thánh thiện xuất thân từ cha mẹ tầm thường và tội lỗi.

4. Một du khách mới đi Trung hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quí vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quí vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi là sai lạc.” Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin” Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn. (Góp nhặt)

5. “Ngài không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin”: Phép lạ chỉ diễn ra vì lòng tin và với lòng tin của con người. “Nếu chúng con có đức tin chỉ bằng hạt cát, chúng con có thể bảo quả núi này dời xuống biển…”.

Xin ban thêm đức tin cho con.

6. “Chúa Giêsu về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Ông ta không phải là con bác thợ hay sao? Mẹ ông không phải là bà Maria sao?... Vậy bởi đâu ông ta được khôn ngoan như thế?” Và họ vấp ngã vì Người.” (Mt 13,54-57)

Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nadarét đã không tin vào Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các muôn đệ đã không tin vào Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người. Cũng có lúc con không tin có Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh nơi một linh mục yếu đuối trong một Hôi Thánh có nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn nhận ra Ngài tỏ mình thật bình thường trong cuộc sống. (Hosanna)

7. “Đức Giêsu về thăm quê hương, giảng dạy trong hội đường khiến dân làng sửng sốt và nói: Ông không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55)

Nghe Đức Giêsu giảng dạy, người ta giật mình kinh ngạc, vì cái chiều sâu thăm thẳm của cuộc sống đã được Đức Giêsu cảm nhận cách sống động, tinh tế. Ngài như thưởng thức được nét tinh khiết của bông huệ ngoài đồng, nét lung linh của giọt sương. Ngài thán phục trước những cánh chim tự do trên bầu trời, cái ngọt ngào mượt mà của đồi nho, đồng lúa. Ngài nhìn thấy nét hùng mạnh trong lao tác của người đàn ông, cái âm thần tế nhị, quảng đại nơi người nữ và ánh mắt trong sáng của trẻ thơ… Và trên hết là tâm tình ngợi ca Tình yêu của con người trước Thiên Chúa.

Tôi hình dung ra bác thợ mộc Giuse với cưa, đục… trên vai, cùng bé Giêsu hồn nhiên tung tăng trên con đường làng…

Và trong xưởng thợ, ánh mắt âm thầm trìu mến của bác thợ dừng lại bên mái đầu vô tư của bé Giêsu, ở đó, họ cùng mở ra những trang Tin Mừng của cuộc sống.

Lạy Chúa, xin cho người trẻ chúng con biết mở rộng cõi lòng với thiên nhiên, biết quan tâm chăm sóc và góp phần trong công cuộc tạo dựng. Amen (Epphata)

8. “Ông không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55

“Tháng nữa tốt nghiệp rồi. Nếu cháu muốn ở lại đây dạy thì bác giúp cho… dạy ở phổ thông, trung tâm… rồi muốn học thêm gì cũng tiện. Chứ về…” Mẹ của cô bé mà tôi làm gia sư nói như thế.

Giêsu ơi, con phân vân quá. Con vẫn biết lao động là để phục vụ cho con người hạnh phúc hơn. Nhưng đứng trước sự chọn lựa để dấn thân phục vụ, con vẫn ngập ngừng… Xin cho con can đảm chọn lựa dấn thân, và như Thánh Giuse, con có thể góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng “nền văn minh tình thương” (Hosanna)

-------------------------------

 

Suy Niệm 4. Thánh Giuse Lao động


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Giuse Lao động.

Sở dĩ có Thánh lễ hôm nay là vì Giáo Hội muốn cho chúng ta ý thức được giá trị cao quí của lao động trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Quả vậy, lao động có những giá trị to lớn nhưng nhiều khi chúng ta không nhìn ra.

Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế “Vui Mừng và Hy Vọng” đã có những lời lẽ rất hay về vấn đề này: “Thực vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng mọi loài, họ qui hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn vật: Như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu. Những điều nhận định trên đây cũng ứng dụng được nơi những công việc hoàn toàn thường nhật. Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình, họ tiếp nối công trình của Ðấng Tạo Hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử”.(Chương III số 34)

1. Lao động làm cho con người tìm được niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống mình.

Vào thời Trung cổ, có một tín hữu Kitô nọ muốn thực hiện một cuộc hành hương.

Sau vài ngày đi bộ, người đó bị lạc vào trong một khu rừng vắng. Tuy là khu rừng vắng nhưng hai bên đường, người ta cũng thấy có những người thợ đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn đem về. Người khách hành hương mon men đến gần một người thợ, mồ hôi đang chảy ra nhễ nhãi và muốn gợi chuyện, nhưng người thợ đập đá ấy chỉ trả lời một cách nhát gừng:

- Ông không thấy tôi đang lao động một cách vất vả sao mà cứ hỏi hoài vậy?

Người khách hành hương tìm đến người thứ hai, người này còn có dáng vẻ nặng nhọc hơn. Được hỏi đang tham gia vào công trình xây dựng nào, người thợ này chỉ trả lời:

- Người ta thuê tôi làm việc, tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà, tôi đổ mồ hôi xôi con mắt ra là để kiếm cơm bánh cho vợ con tôi thôi, còn xây dựng gì thì tôi không cần biết.

Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi ông lại gặp một người thợ đập đá khác. Người này cũng có dáng vẻ mệt nhọc tiều tụy không kém 2 người trước, nhưng nhìn kỹ trong ánh mắt của người thợ đập đá này, người khách hành hương thấy toát lên một sự thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Đến gần người khách hành huơng lên tiến hỏi:

- Ông đang làm gì đó?

Người đàn ông mỉm cười và vui vẻ đáp:

- Ông không biết à, tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường

Và người thợ đập đá đưa tay chỉ xuống một thung lũng, nơi đó, người khách hành hương nhận ra một ngọn tháp cao và từng viên đá được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của một ngôi thánh đường.

Vâng! Cùng một công việc nhưng người ta đã không có được một cái nhìn giống nhau về mục đích của nó. Và chính vì thế mà cuộc sống của con người khác nhau: Người thì được hạnh phúc, kẻ thì phải đau khổ. Hãy cố mà tìm ra cho cuộc đời của mình một ý nghĩa qua những công việc hằng ngày để từ đó chúng ta có thể có được thật nhiều niềm vui!

2. Lao động còn giúp con người sống tình liên đới một cách tốt đẹp hơn.

Trong suốt mùa hè năm ấy, tôi có dịp quan sát một bé trai khoảng 12 tuổi, mỗi buổi sáng vào lúc 7 giờ, đến làng bên cạnh là địa phương chúng tôi để giao bánh mì. Đây là một em bé linh động, luôn vui vẻ và đúng giờ như một chiếc đồng hồ. Em dừng lại trước cửa những nhà giàu có muốn có bánh mì ăn sáng và sau đó lại vội vã đạp xe trở về nhà.

 Ngày nọ, tôi có một cuộc đối thoại lý thú với em bé này như sau:

- Mỗi buổi sáng em phải dậy sớm, vậy em tự mình dậy hay phải có ai thức em dậy?

- Má em! Má em đánh thức tất cả mọi người trong nhà, trước hết là em. Kế đó, má cho em ăn sáng và em ra đi. Sau đó, má đánh thức ba dậy, dọn xúp cho ba ăn trước khi ba đi làm. Rồi lại đến giờ đánh thức mấy đứa em của em dậy đi học. Xong xuôi tất cả thì má lo cho đứa út, cho nó uống sữa và cuối cùng mẹ tự dùng sáng.

Mỗi chuyến giao hàng buổi sáng em được người ta trả cho bao nhiêu?

- Mỗi tuần 20 quan. Em có 10 khách hàng.
- Thế ba em lãnh một ngày được bao nhiêu?
- 30 quan, em nghĩ vậy.
- Còn má em, má em nhận được bao nhiêu?
- Má em ư? - em bé nhìn tôi lộ vẻ kinh ngạc-. Nhưng má làm việc không vì gì cả cơ mà!

Vâng! Công việc làm là phương cách hữu hiệu nối kết con người lại với nhau trong tình tương thân tương ái và nhờ đó họ có thể cảm nghiệm được tình đoàn kết với nhau một cách cụ thể hơn.

Chúa đã tạo dựng nên mỗi người một cách độc đáo không ai giống ai. Chẳng có ai là hoàn toàn trên trần gian này. Chúa tạo dựng nên mỗi người trong hạn hẹp bất toàn như vậy là để cho con người biết quý trọng nhau, biết hợp tác với nhau để nhờ đó mà cuộc sống của con người được tốt đẹp hơn.

3. Lao động là con đường làm cho con người trở nên xứng đáng làm người hơn.

Sau khi tạo dựng nên con người trong vườn địa đàng, Thiên Chúa trao cho con người trách nhiệm trông coi công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã từng nói: “Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng” (Ga 5,17).

Thiên Chúa vẫn hằng làm việc. Như vậy khi ta làm việc là ta cộng tác với Thiên Chúa để làm cho trái đất này mỗi ngày mỗi đẹp hơn và cũng làm cho cuộc đời của ta giống Chúa hơn. “Cha ta và ta hằng làm việc và làm việc không ngừng”.

Thiền sư Trung Hoa Hyakyjo thường làm việc với các đệ tử, mặc dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các đệ tử của ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu nghỉ ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm việc của thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc bởi vì tụi mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là đem trả lại chỗ cũ cho thầy”.

Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!”.

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

--------------------------------
 
 

Suy Niệm 5. Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn


--Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên

Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem thần dân của mình ra sao, ông bèn tổ chức một cuộc vi hành. Ông lén đặt một tảng đá thật to giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để bắt buộc người dân phải bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng tự nhiên ra sao với những vật gây cản trở mà họ bất ngờ gặp trên đường.

Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó để quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc áo lượt quần là đi qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vât đáng ghét. Thậm chí còn xúc phạm Đức Vua đã không cho người giữ đường xá sạch sẽ. Nhưng có một điểm chung là: chẳng ai đoái hoài gì đến tảng đá đó, họ thà đi vòng chứ không chịu đẩy nó ra vệ đường.

Tình cờ một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đầy tảng đá đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là nhiễu sự. Nhưng chẳng một ai dừng lại giúp đỡ bác.

Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi nằm trên mặt đường, ở chổ mà lúc nãy tảng đá nằm. Bác mở cái túi thì thấy có rất nhiều tiền. Lúc bấy giờ bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Sau mỗi trở ngại, đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.

***

Chúng ta biết rằng, vào năm 1955, ĐGH Piô XII đã long trọng đặt thánh Giuse là Đấng Bảo trợ cho những người lao động trên khắp thế giới.

Thông thường, người ta hay gán cho những người quyền thế một tước vị cao sang đi kèm theo… thế nhưng ở đây, ĐGH lại đặt Thánh Giuse làm đấng bảo trợ những người lao động chân tay - một tước vị xem ra, có vẻ bình thường, thế nhưng lại làm toát lên tất cả phẩm chất phi thường của con người “công chính” này.

Chúng ta biết, Thánh Kinh không dùng nhiều lời để nói về Thánh Giuse. Bản thân ngài cũng chẳng để lại một lời nào trong Kinh Thánh, nhưng qua việc làm của ngài, đã mang lại cho chúng ta những bài học quý giá.

Tự ban đầu, lao động vốn không phải là một hình phạt, nhưng là một lời mời gọi cộng tác với công trình tạo dựng của Thiên Chúa để làm cho đất đai, hoa màu sinh sôi, nảy nở. Lao động làm cho con người phát triển một cách toàn diện về sức vóc cũng như nhân cách. Chính Thiên Chúa cũng luôn luôn làm việc, như lời Đức Giêsu nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ, và Ta cũng làm việc liên lỉ”. Thế nhưng, kể từ sau khi Nguyên Tổ phạm tội, thì đất đai trở nên gai góc. Lao động trở nên cực nhọc: Con người phải lao tác, đổ mồ hôi mới có miếng ăn.

Tuy là Cha nuôi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa – nhưng thánh Giuse cũng mang thân phận con người như chúng ta, nên bản thân ngài cũng phải lao tâm khổ tứ để có thể nuôi sống gia đình Nadarét. Dù lao động vất vả cực nhọc, nhưng không ai thấy ngài có một lời phàn nàn, kêu trách. Ngài cũng không đòi cho mình được hưởng những quyền lợi mà đáng lý mình được hưởng, nhưng một lòng chấp nhận kiếp sống “Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm”. Chắc hẳn, qua việc làm và đời sống của thánh nhân, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của Đức Giêsu.

Không chỉ làm việc cực nhọc vất vả, mà thánh Giuse còn luôn làm việc trong sự “lắng nghe tiếng Chúa”. Ngài mau mắn thi hành ý Chúa mà không một lời phản ứng hay hoài nghi. Ngài sẵn sàng đón nhận Đức Maria về nhà làm vợ mình theo lời Sứ thần yêu cầu, cho dù ngài chưa hiểu được việc Đức Maria mang thai là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Theo lời Sứ thần báo mộng, Ngài tức tốc đưa trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai cập đang lúc đêm khuya. Ở nơi đất khách quê người, để kiếm được miếng cơm manh áo nuôi sống một gia đình là điều không hể dễ dàng chút nào. Kinh nghiệm đó, có lẽ những anh chị em đã từng đi làm ăn xa là những người thấu hiểu hơn ai hết.

Rồi cũng chính ngài, theo lời Sứ Thần, lại đưa Đức Giêsu và Mẹ Người từ Ai Cập trở về sống tại miền quê nghèo Nazarét. Ở nơi đây, Ngài sống gần gũi và hòa đồng với mọi người đến nỗi, người làng Nadaret gọi Đức Giêsu là “con bác thợ mộc Giuse”.

***

Trong một xã hội mà đối với nhiều người, lao động đang trở thành một gánh nặng, thì mẫu gương lao động của Thánh Giuse là lời nhắc nhở chúng ta. Câu khẩu hiệu “Lao động là vinh quang” dường như ai ai cũng thuộc, thế nhưng, trong thực tế, không ít người lại tìm cách trốn tránh cái “vinh quang” đó. Trong khi, nhiều người xả thân ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp chung, lo cho sự thăng tiến của cộng đồng, thì cũng có những người chỉ tìm cách vun vén cho lợi ích của bản thân mình. Trong khi nhiều người bôn ba xuôi ngược để kiếm bát cơm, manh áo, thì lại không thiếu những người chỉ muốn ăn trên ngồi chốc hoặc tìm cách làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Trong khi nhiều người làm ăn chân chính, thì cũng không thiếu những người dùng những thủ đoạn, mánh khóe, thậm chí dùng những phương thế tầm thường nhất để tiến thân.

Vậy làm sao để “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn?”, làm sao để sống và làm việc một cách ngay chính giữa cuộc đời vốn có quá nhiều nhiễu nhương này? Thiết tưởng, chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của Thánh Giuse: Một con người vĩ đại nhưng cũng rất đỗi khiêm nhường.

Vĩ đại - bởi ngài là cha nuôi Chúa Cứu Thế đồng thời là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.

Nhưng cũng thật khiêm nhường - bởi ngài sống và làm việc một cách cần mẫn trong sự tin tưởng tuyệt đối vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.

Mừng lễ Thánh Giuse công nhân hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh Giuse giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của việc lao động, để qua những công việc hằng ngày, dù vất vả nặng nhọc hay an nhàn thư thái, chúng ta vẫn luôn tìm được niềm vui, bởi biết được rằng: Trong và qua lao động, chúng ta đang tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Và nếu có gặp phải những trở ngại trên đường đời hay trong công việc làm ăn thì chúng ta cũng được an ủi, bởi vì chính thánh Giuse - đấng bảo trợ của chúng ta - cũng đã trải qua những giai đoạn khó khăn như vậy, nhưng chúng ta luôn tin tưởng rằng: Ở đằng sau mỗi trở ngại đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.

Lạy Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn. Xin cầu cho chúng con!

--------------------------------

 

Suy Niệm 6. Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn


--‘Lẽ Sống’

--Radio Veritas Asia

"Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn..."

Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse... Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 - 50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.

Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang... dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp...

Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc, bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách...

Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực...

Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.

Hôm nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao...

Ðối với người Kitô, ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống...

--------------------------------

 

Suy Niệm 7. Thánh Giuse: người lao động.


“Con bác thợ mộc”! Lời phát biểu này không có gì là khinh chê, chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên, người ta không thể tưởng tượng được cậu con trai tầm thường, mà mọi người trong làng Nadarét đều biết con của Giuse sống trong tối tăm. Thế mà mọi người đều thấy cậu khôn ngoan, đầy quyền lực làm phép lạ. Luca đã dẫn hai câu châm ngôn ngắn gọn: Ngôn sứ không ở quê nhà! thầy thuốc không thiêng cho bà con! để giải thích hoàn cảnh này, họ còn đi xa hơn nữa biến đổi sự ngạc nhiên ra sự xúc phạm: họ dận dữ và quyết định giết đi cho khuất mắt. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều có nói: Đức Giê-su không muốn và cũng không thể làm được phép lạ vì họ cứng lòng tin... Những Phúc Âm hoang đường đã viết, Người đã làm nhiều điều kỳ diệu để tỏ cho họ biết Người là vị anh hùng vĩ đại, chỉ giản dị với danh hiệu: “Con bác thợ mộc”. Bác thợ mộc không có một ngôn sứ, không biết ăn nói, Giêsu chỉ là con ông Giuse thinh lặng thôi...

Giuse, Ngài đã nhận những lệnh của trời không qua cuộc đàm thoại như Ma-ri-a và Giacaria, nhưng qua giấc mơ, Ngài không thể nói gì, chỉ biết tỉnh dậy vâng lời; Giuse chỉ nói một tiếng như thiên sứ bảo; đặt tên con trẻ sinh ra bởi Ma-ri-a là Giêsu (có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ như Giosuê). Ngài đã nhận lệnh đặt tên, để biểu lộ Ngài được những đặc quyền thuộc dòng dõi David. Đó là dấu chỉ ân phúc cho Ngài như thiên sứ nói để giải tỏa nỗi âu lo của Ngài trước sự mang thai của Ma-ri-a: Giuse con dòng David... đó là vai trò thừa kế, không phải bằng đời sống huyết nhục, nhưng bằng sự nghiệp phong phú của lịch sữ Israel để thực hiện lời hứa với David. Nơi người con nuôi duy nhất của mình... vâng, Giuse chỉ nói một tiếng Giêsu, nhưng tiếng nói này quyết định cho lịch sử cứu độ. Rồi Ngài lại đi vào thinh lặng.

Như Claude đã viết: “Khi những dụng cụ được xếp vào chỗ của chúng rồi thì công việc trong ngày đã xong. Khi con lạc đà ở sông Giócdan ở Israel ngủ trong cánh đồng lúa về ban đêm... thì Giuse đi vào trong cuộc nói chuyện của Thiên Chúa với những tiếng thở dài không dứt...”.

L.P

------------------------------

 

Suy Niệm 8. Thánh Giuse Thợ


--Enzo Lodi

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 để mang lại cho lao động một chiều kích Kitô-giáo. Thật vậy, khuôn mặt thánh Giuse, người thợ mộc ở Nagiarét, đã kỳ diệu góp phần giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của giới lao động. Từ Hy-lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc” gán cho Giuse có lẽ chỉ định người thợ mộc, thợ đá hoặc thợ kim loại và cũng có thể là thợ xây dựng nhà cửa.

Do truyền thống gia đình, chắc chắn Đức Giêsu đã được hướng dẫn để làm nghề này. Vì thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng của Marcô: (Đức Giêsu) không phải là bác thợ, con Bà Maria sao? (Mc 6,3). Đối với người Do Thái thuộc thời soạn thảo Kinh thánh, công việc tay chân cũng thánh thiêng, đối với các Rabbi hay các tư tế cũng thế. Các Rabbi bình giảng sách Giảng viên cũng nói: “Con hãy lo cho mình có được một nghề nghiệp, song song với việc học hỏi lẽ khôn ngoan”. Thế rồi, không những hành nghề mà thôi, song còn phải truyền nghề cho con cái vì như sách Talmud đã chép: “Kẻ nào không dạy nghề tay chân cho con mình, kẻ đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái”. Sách này còn nhấn mạnh đến tính chất thánh thiêng và giá trị của công việc tay chân: “Người thợ, trong lúc lao động, không buộc đứng dậy tiếp bậc kinh sư cho dù là vị cao trọng nhất... Kẻ nào giúp ích cho người đồng loại bằng sức lao động của mình thì cao trọng hơn người học biết Thiên Chúa... Kẻ nào nuôi sống mình bằng sức lao động thì cao trọng hơn người vô công rỗi nghề, chỉ biết giam mình trong các tâm tình đạo đức...”

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện trong Thánh lễ gợi cho chúng ta “Gương thánh Giuse”, được Tin mừng gọi là “người thợ mộc” (Mt 13,55). Truyền thống cho thấy ngài sống thân tình với Đức Maria, hôn thê của mình và với trẻ Giêsu, chính Người cũng được gọi là “bác thợ mộc” (Mc 6,3). Như thế cả ba vị đều tôn vinh Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ; Người muốn con người lao động để tôn vinh Người và tiếp tục công trình sáng tạo của Người (lời nguyện nhập lễ).

b. Bài đọc - Kinh sách, trích Vaticanô II (Hội thánh trong thế giới ngày nay) làm nổi bật ý nghĩa Kitô giáo trong các sinh hoạt của con người. “Nổ lực này đáp ứng với ý định của Thiên Chúa... Điều ấy cũng bao gồm các sinh hoạt thông thường nhất. Vì con người, nam cũng như nữ, khi nuôi sống mình và gia đình, đều phải hoạt động phục vụ xã hội. Họ có quyền nghĩ rằng sức lao động của họ mở mang công cuộc của Đấng tạo hóa và mang lại hạnh phúc cho các anh chị em, cũng như khả năng riêng của mỗi người, cũng góp phần kiện toàn kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch sử”. Nơi khác, cũng Hiến chế này ghi nhận: “Nhờ việc làm của mình dâng lên Thiên Chúa, con người cộng tác vào chính công cuộc cứu rỗi của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm khi Người làm việc với chính hai bàn tay của mình tại Nagiarét. Do đó, mỗi người có bổn phận phải trung thành làm việc và cũng có quyền làm việc nữa” (Vaticanô II: LG 67,2).

------------------------------

 

Suy Niệm 9. Nghĩ về lao động, nhân lễ thánh Giuse thợ


--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Ngày mùng 01 tháng 5, ngày Quốc Tế Lao Động, ngày lễ thánh Giuse thợ. Đúng thật là một cơ hội tốt đẹp để chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan điểm kitô giáo.

Lần giở lại những chương đầu của Sách Sáng Thế, chúng ta thấy sau khi tạo dựng vũ trụ mọi loài mọi vật, “Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn” (St 2, 15). Như thế, con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, không những giống trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn giống trong sự sáng tạo nữa. Lao động là một phần trong tình trạng nguyên thủy của con người và đã có trước khi con người phạm tội. Do đó lao động không phải là hình phạt hay một lời chúc dữ. Lao động chỉ trở nên vất vả và cực nhọc khi con người (Adam và Eva) phạm tội phá vỡ tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và với nhau.

Phải khẳng định rằng: Lao động có một vị trí danh dự, vì đó là nguồn đem lại sự phú túc, là công cụ hữu hiệu để chống lại sự nghèo đói, góp phần phát triển cá nhân, gia đình cũng như xã hội. Tất cả những thành tựu mà nhân loại đạt được trên thế giới hôm nay chính là thành quả của lao động. Ai cũng biết “lao động là vinh quang”, “bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” ( Trích “Bài ca vỡ đất”- Hoàng Trung Thông).

Phải chăng con người ngày nay đã và đang phá vỡ mối quan hệ hòa thuận với Thiên Chúa khi con người tàn phá thiên nhiên, làm ô nhiễm môi trường và suy kiệt tài nguyên? Phải chăng lao động đang trở thành gánh nặng khi đất đai khô cằn, nhiễm độc do thuốc trừ sâu, phân bón hóa học; cá tôm không sống nổi khi sông ngòi và biển cả bị ô nhiễm bởi các nguồn nước thải do chăn nuôi, bụi bùn, hóa chất phun màu; gây ô nhiễm khí quyển làm thủng tầng ôzôn?

Con người với lòng tham và sự tàn nhẫn độc ác, đã biến lao động thành nỗi hãi hùng cho người khác. Lao động có còn ở “vị trí danh dự”, là “vinh quang” hay không khi người ta bị bắt làm nô lệ, bị cưỡng bức lao động, bị lao động khổ sai nơi các trại tập trung, trại cai nghiện và các nhà tù ở nhiều nơi trên thế giới?

Toàn thể trái đất vang lên lời ca ngợi tôn vinh sự làm việc, thì Kitô Giáo nói gì, nghĩ gì về lao động, về nền văn minh trần thế, và về sự giầu có? Đức Giêsu dạy thế nào về việc làm và liên quan đến việc làm? Người thúc đẩy chúng ta làm việc hay nhìn vào đó với sự lo âu?

Phải khẳng định rằng, lao động là một phần chương trình tình yêu của Thiên Chúa; con người được mời gọi vun trồng và giữ gìn tất cả các thiện ích của thụ tạo, và như thế tham dự vào công trình tạo dựng! Lao động là yếu tố nến tảng đối với phẩm giá của một người. Lao động làm cho chúng ta được tràn đầy phẩm giá; giúp chúng ta giống Thiên Chúa, là Ðấng đã làm việc, đang làm việc, và luôn làm việc (x. Ga 5,17). Lao động cho chúng ta khả năng nuôi sống chính mình, gia đình mình, góp phần vào việc phát triển quốc gia, thăng tiến nhân loại.

Để phục hồi phẩm giá con người, lấy lại ý nghĩa của lao động, Con Thiên Chúa đã thân hành xuống thế, sinh ra trong một gia đình lao động. Phúc Âm thánh Máthêu kể rằng trong một lần Chúa Giêsu trở về thăm quê hương mình là Nagiarét và giảng trong hội đường, các người đồng hương kinh ngạc trước sự khôn ngoan của Người và hỏi nhau: “Ông ấy không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55). Chúa Giêsu đã bước vào lịch sử của chúng ta, Người đến giữa chúng ta, sinh ra từ Ðức Maria bởi công trình của Chúa Thánh Thần, nhưng với sự hiện diện của thánh Giuse, người cha hợp pháp, giữ gìn Chúa và dạy Chúa làm việc.

30 năm lao động với bàn tay của mình: người ta gọi Đức Giêsu là bác phó mộc và là nông dân. Chắc chắn Người đã lao động ở xưởng mộc Nagiaret, đã trồng những cây ôliu, cây nho, đã chăn chiên. Người biết giá trị của lao động để kiếm cơm ăn áo mặc. Biết đồng tiền là cần thiết và dĩ nhiên bàn tay Người đã tiếp nhận những đồng tiền người ta trả về cho những đồ vật Người làm, và đã chọn những tông đồ đầu tiên giữa các người đánh cá. Người đã nâng lao động chân tay lên khỏi tình trạng thấp hèn. Nếu Đấng Sáng Tạo đã không chê bai lao động, Đức Giêsu cũng không hờn dỗi việc làm, thì không có người nào trên thế giới lại phải lấy đó làm cực nhọc, xấu hổ. Đỉnh cao của giáo huấn Thánh Kinh về lao động là mệnh lệnh phải nghỉ ngơi ngày Chúa nhật, để con người không trở thành nô lệ cho lao động.

Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì con người càng khai thác triệt để lao động. Bên cạnh đó, lối sống thiên về hưởng thụ vật chất cũng thôi thúc con người lao động quần quật để đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng, hưởng thụ các phương tiện hiện đại, thỏa mãn các “nhu cầu ảo”. Một ngày người ta cố làm việc nhiều ca, làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm luôn Chủ nhật và ngày lễ. Người ta thấy vui khi được tăng ca để kiếm thêm tiền. Và nại vào công việc, họ không có thì giờ để quan tâm, thăm viếng nhau, không có thì giờ cho việc cầu nguyện hay Kinh, Lễ. Phải chăng trong trường hợp này, con người đã “nô lệ tự nguyện” cho lao động và biến lao động thành “ngẫu tượng”?

Khiến tiền bạc lên ngôi ông chủ, con người làm việc hết lòng hết sức để mong chiếm hữu được thật nhiều tiền của vật chất. Danh vọng lên ngôi ông chủ, sai khiến con người tìm đủ mọi cách để đánh bóng mình trước mắt mọi người. Tình dục và những khoái lạc xác thịt cũng có lúc lên ngôi, chúng trói buộc con người trong cái vòng vây xiết chặt. Ông chủ của ta còn có thể xuất hiện dưới nhiều dáng dấp khác nhau: một chiếc điện thoại cao cấp, một chiếc xe hợp thời, một ngôi nhà tiện nghi… Giữa cuộc sống hiện đại, những ông chủ ấy đi vào cuộc đời ta, chiếm hữu tâm trí ta, thu hút toàn bộ năng lực của ta, dần dần biến thành mục đích sống duy nhất của đời ta. Ngạn ngữ có câu: tiền bạc là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ hà khắc.. Cái nguy hiểm không hẳn nằm ở tiền bạc, nhưng nằm con tim mỏng manh mà tham lam của con người. Một khi tiền bạc và những của cải vật chất lên ngôi, rất dễ làm con người hoán đổi vị trí và tôn tiền bạc lên làm ông chủ của mình. Hãy nhớ rằng, ngay từ thủa ban đầu của tạo dựng: “Thiên Chúa đã đặt con người làm chủ”.

Mừng lễ Thánh Giuse Thợ, xin Ngài cầu thay nguyện giúp để mọi người biết mến yêu lao động, vì lao động giúp ta cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Chúng ta không làm việc một mình, nhưng có Chúa cùng hoạt động. Lao động là cần thiết, nhưng chính Thiên Chúa mới là nguồn gốc của sự sống và là mục tiêu cuối cùng của con người.

Lạy Chúa, xin củng cố việc tay chúng con làm. Amen.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 10. Thánh Giuse, Người Cha lao động


--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Ngày 01 tháng 5, ngày Quốc Tế Lao Động, ngày lễ thánh Giuse lao động là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan điểm kitô giáo.

Thiên Chúa đặt con người làm chủ

Sau khi đã tạo dựng vạn vật muôn loài, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất” (St 1, 26). Thế là “Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống . Thiên Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên” (x. St 2, 7-9). Việc con người được dựng nên từ bùn đất cho thấy tính chất yếu hèn, mỏng dòn của thân phận. Nhưng Thiên Chúa lại tạo nên con người và ban cho con người hình ảnh của Chúa, cho con người được chia sẻ sự sống của Chúa, phú ban cho con người sự sống siêu nhiên và nhiều đặc ân như trí khôn minh mẫn, ý chí hướng thiện, không phải đau khổ và không phải chết và nhất là đặt con người làm chủ công trình Chúa sáng tạo, làm chủ chính mình trong ơn sủng mà Thiên Chúa đã ban cho.

Con người phạm tội

Hình ảnh vườn địa đàng, nơi con người là chủ, sống, cày cấy và canh giữ đất đai (x. St 2,4-15). Thật là đẹp, vì con người sống thân tình với Thiên Chúa, hài hòa với chính mình, với nhau và vũ trụ vạn vật. Nhưng hỡi ôi, hạnh phúc ấy bị tuột mất khi con người phạm tội. Adam và Eva đã đánh mất quyền làm chủ, lao động đã trở nên cực nhọc vất vả lao công.

Trở nên thân nô lệ

Đỉnh cao của giáo huấn Thánh  Kinh về lao động là truyền phải nghỉ ngơi ngày Chúa nhật, để con người không trở thành nô lệ cho lao động. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì con người càng khai thác triệt để lao động. Một ngày người ta cố làm việc nhiều ca, làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm luôn Chủ nhật và ngày lễ. Người ta thấy vui khi được tăng ca để kiếm thêm tiền. Và nại vào công việc, họ không có thì giờ để quan tâm, thăm viếng nhau, không có thì giờ cho việc cầu nguyện hay kinh, lễ. Phải chăng trong trường hợp này, con người đã “nô lệ tự nguyện” cho lao động và biến lao động thành “ngẫu tượng”?

Thiên Chúa không muốn con người sống kiếp nô lệ. Nên khi tạo dựng, Thiên Chúa đặt vào mọi sự vào tay con người, cùng với lời chúc phúc: hãy làm chủ mọi loài (St 1, 28).

Ngày nay người chỉ huy không phải là con người mà lại là tiền bạc. Đồng tiền ra lệnh. Nhưng Thiên Chúa Cha chúng ta đã không giao nhiệm vụ “chăm sóc trái đất” cho đồng tiền mà là cho chúng ta. Thế mà người ta lại hy sinh cho các thần tượng của lợi nhuận và tiêu thụ, khiến tiền bạc lên ngôi ông chủ, con người làm việc hết lòng hết sức để mong chiếm hữu được thật nhiều tiền của vật chất. Danh vọng lên ngôi ông chủ, sai khiến con người tìm đủ mọi cách để đánh bóng mình trước mắt mọi người. Tình dục và những khoái lạc xác thịt cũng có lúc lên ngôi, trói buộc con người trong cái vòng vây xiết chặt. Ông chủ của ta còn có thể xuất hiện dưới nhiều dáng dấp khác nhau: một chiếc điện thoại cao cấp, một chiếc xe hợp thời, một ngôi nhà tiện nghi… Giữa cuộc sống hiện đại, những ông chủ ấy đi vào cuộc đời ta, chiếm hữu tâm trí ta, thu hút toàn bộ năng lực của ta, dần dần biến thành mục đích sống duy nhất của đời ta. Ngạn ngữ có câu: tiền bạc là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ hà khắc. Cái nguy hiểm không hẳn nằm ở tiền bạc, nhưng nằm con tim mỏng manh mà tham lam của con người. Một khi tiền bạc và những của cải vật chất lên ngôi, rất dễ làm con người hoán đổi vị trí và tôn tiền bạc lên làm ông chủ của mình. Hãy nhớ rằng, ngay từ thủa ban đầu của tạo dựng: “Thiên Chúa đã đặt con người làm chủ”

Thánh Giuse, người cha lao động

Tông thư Patris Corde, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nên bật Thánh Giuse là người lao động. Với nghề thợ mộc, ngài làm việc lương thiện để nuối sống gia đình. Nơi thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được giá trị, phẩm giá và niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của chính mình. Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng: chính Thiên Chúa, khi làm người, đã không khinh thường công việc.

Quả thật, ngày nay kinh tế khó khăn, người cha đứng mũi chịu sào nơi đầu ngọn gió phải làm việc cực nhọc, kiếm từng miếng cơm manh áo cho gia đình, họ chỉ muốn gia đình được ấm no hạnh phúc. Bởi họ là trụ cột, là điểm tựa của mọi người trong gia đình khi gặp khó khăn.

Xã hội hôm nay vẫn còn nhiều người cha không chịu lao động, không làm hết trách nhiệm, không phát huy được vai trò quan trọng của mình. Một số người say xỉn về đánh đập vợ con khiến gia đình bất hòa, làm cho con cái tổn thương về mặt tình cảm. Một số thì không quan tâm tới gia đình, làm ảnh hưởng đến tình cảm của mọi người, nhất là trẻ em. Những người cha như thế sẽ làm gương xấu cho thế hệ mai sau, không giáo dục được con cái, khiến chúng học theo những điều xấu, trở thành người không có ích cho xã hội.

Hãy chịu khó lao động, khi lao động, con người tham gia vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, và phẩm giá con người được đề cao. Không có việc làm các gia đình sẽ gặp nhiều khó khăn, căng thẳng, rạn nứt và thậm chí là sự cám dỗ tuyệt vọng và phân tán. Với hình ảnh người thợ mộc, thánh Giuse như một khuôn mẫu vào thời điểm mà thế giới cũng như Giáo hội đang vật lộn với những thách thức do thời hiện đại đặt ra. Thánh Giuse hiện lên như một nhân chứng cho Giáo hội và thế giới hiện đại.

Thánh Giuse dạy Chúa Giêsu lao động, như công đồng Vatican II đã nêu trong Gaudium et Spes: “Con Thiên Chúa đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ bằng trí óc con người, hành động theo một ý chí con người, yêu mến bằng quả tim con người.” (Gaudium et Spes – Vui mừng và Hy vọng, 22,2).

Ðiều này nhắc nhở cho chúng ta biết phẩm giá và sự quan trọng của lao động. Lao động là yếu tố nến tảng đối với phẩm giá của một người. Lao động làm cho chúng ta giống Thiên Chúa (x. Ga 5,17). Lao động trao ban cho chúng ta khả năng nuôi sống bản thân, gia đình, góp phần vào việc phát triển quốc gia mình.

Kính xin Thánh Giuse người cha lao động cầu thay nguyện giúp để mọi người biết ý thức về sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban là làm chủ, để chúng ta mến yêu lao động, cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 11. Thánh Giuse


--giaophanvinhlong.net

Gương thánh nhân: Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã lập lễ thánh Giuse thợ. Mỗi năm kính nhớ vào ngày 1 tháng 5, ngày mà hầu hết các nước trên thế giới chọn làm ngày lễ lao động, tán dương khích lệ công lao con người đã dùng tài năng sức lực của mình để phục vụ đồng loại. Đức Giáo Hoàng đã nói rõ ý nghĩa ngày lễ thánh Giuse thợ như sau:

"Chắc chắn chúng ta phải hân hoan, vì người thợ vô danh ở Na-da-rét chẳng những là hiện thân cho giá trị chân tay trước mặt Chúa và Hội thánh mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người và của các gia đình và các bạn lao động."

Như chúng ta biết, thánh Giuse được Chúa chọn làm cha nuôi Chúa Giêsu, khi Người sinh ra làm người để cứu độ nhân loại. Thánh nhân là người công chính, luôn tuân hành thánh ý Chúa, sẵn sàng vâng nghe và làm theo lời Chúa dạy. Ngài tận tâm bảo vệ Đức Mẹ, nhiệt thành cộng tác với Mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc Chúa Giêsu. Để chu toàn sứ mệnh đó. Ngài làm nghề thợ mộc vất vả hằng ngày. Ngài lấy sức lao động của mình bảo đảm cuộc sống hằng ngày của Thánh gia.

Ngài là gương mẫu cho mọi người sống nghề lao động chân tay và cách riêng cho các Kitô hữu: lương thiện, cần mẫn, siêng năng làm việc lo cho gia đình. Chẳng những lo cho gia đình mà còn phát triển xã hội và tôn vinh Chúa, vì theo thánh công đồng Vaticanô II: "Đối với các tín hữu, chỉ có một điều chắc chắn là: hoạt động cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, các nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ là nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống. Việc này tự nó phù hợp với ý định của Thiên Chúa.

Thật vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó. Họ phải cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện. Nhận diện Thiên Chúa là Đấng sáng tạo mọi loài, họ phải quy hướng cả bản thân mình cũng như muôn vật về Người: để khi con người chinh phục được tất cả, thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu.

Điều đó cũng ứng dụng cho những công việc rất thường nhật. Khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, những người đàn ông, đàn bà hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu, đều có lý để coi lao động của mình tiếp nối công trình của Đấng Tạo hóa, phục vụ đời sống của anh em và đóng góp công lao vào việc hoàn thành chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử." 1

Thánh Giuse là gương mẫu của người lao động. Ngài còn là vị Giám hộ của những người làm việc chân tay. Và Ngài là vị Giám hộ đắc lực nhất, như lời Đức Thánh Cha Pi-ô XII nói: "Không có vị Giám hộ nào có đủ khả năng linh nghiệm truyền thông Phúc Âm cho đời sống thợ thuyền bằng thánh Giuse thợ."

Quyết tâm: Hằng ngày, tôi siêng năng làm việc, để giúp ích cho gia đình, xã hội, theo gương thánh Giuse, và chuyên cần kêu xin thánh nhân cầu thay nguyện giúp cho những người lao động nghèo khổ, bất hạnh.

Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa.Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, mà cho chúng con biết noi gương người để lại, là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành.

------------------------------

 

Suy Niệm 12. Thánh Giuse Thợ


--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

Viết về thánh Giuse, chúng ta như có một cái gì đó thật ngỡ ngàng về con người im lặng trầm lắng của Người. Nhưng, thánh Giuse lại là một Người đầy quyền thế trước mặt Chúa Giêsu đến nỗi thánh Têrêsa Avila đã cảm nghiệm sâu sắc về vai trò của thánh Giuse, Ngài viết: ”…Trên trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.

Hôm nay ngày 01/5, ngày Quốc Tế Lao Động, cũng là ngày thánh Giuse được tôn vinh làm Bổn Mạng giới lao động.

CON NGƯỜI CỦA THÁNH GIUSE: MỘT HUYỀN NHIỆM: Nói đến thánh Giuse, mọi người đều hiểu rằng thánh nhân là một con người hoàn toàn im lặng, hầu như không được các Tin Mừng ghi chép lại một lời nào do miệng Người thốt ra. Nhưng chính sự im lặng của thánh nhân giúp chúng ta nghiệm ra mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thánh Giuse sở dĩ im lặng là để giúp nhân loại nhận ra rằng Thiên Chúa nói đã đầy đủ, bao gồm tất cả và thánh nhân không cần phải thêm gì vào Lời của Thiên Chúa.Thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa. Suốt cuộc đời của Người ở làng quê Nagiarét, thánh nhân vẫn im lặng hơn là nói. Sự thinh lặng của thánh Giuse luôn mang ý nghĩa lớn lao về sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.

Chúng ta có thể nói về thánh Giuse mà không sợ quá lời, Ngài thinh lặng trong chiêm niệm để Chúa Thánh Thần dẫn đưa cuộc đời Ngài và để Ngài hoàn toàn tự do hành động theo ý của Thiên Chúa. Đây là một điều kỳ diệu, một huyền nhiệm cao siêu của cuộc đời thánh Giuse. Thánh Giuse đã thinh lặng để lắng nghe, để đón nhận và để cho trái tim mới của mình hướng dẫn và chỉ bảo con đường của Ngài theo ý của Thiên Chúa. Đúng là thánh Giuse đã biết lắng nghe, biết mở rộng tấm lòng để sống hiệp thông với Thiên Chúa.

THÁNH GIUSE LÀ MẪU GƯƠNG LAO ĐỘNG: Theo Tin Mừng, thánh Giuse sống ở Nagiarét, làm nghề thợ mộc để nuôi sống bản thân và gia đình. Thánh Giuse đã sống đời lao động theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Bởi vì, việc nhập thể của Chúa Giêsu làm người để sống với, sống vì, sống cho nhân loại, cho con người mở ra cho thấy thế giới được Thiên Chúa cứu độ. Thế giới nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa, thế giới sẽ thiếu vắng và không được cứu độ. Việc lao động của con người nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Con người với những suy nghĩ, với sự thiện chí của mình đã không chỉ nghĩ đến lợi nhuận, nghĩ đến làm giầu và tích lũy của cải, vật chất, nhưng có rất nhiều người,nhiều nhóm, nhiều phong trào đã đưa lao động càng lúc càng tiến gần đến kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lao động sẽ không còn là đơn điệu, lập đi lập lại hàng ngày những công việc, những cách làm một cách máy móc, cho có lệ, qua loa để mau hết giờ để kiếm nhiều lợi ích, tiền của cho cá nhân, cho bản thân của mình, nhưng lao động theo mẫu của thánh Giuse là làm cho lao động mang một ý nghĩa cứu độ và phục vụ, lao động theo lời mời gọi của Thiên Chúa.

Thánh Giuse quả thực đã sống hoàn toàn theo tiếng gọi của Chúa và làm việc cũng theo tác động và lời mời gọi của Chúa. Do đó, ngày hôm nay, ngày Quốc Tế lao động chúng ta hãy cầu nguyện và noi gương bắt chước thánh Giuse sống, lao động theo đúng ý nghĩa lao động là góp tay làm vinh quang cho Thiên Chúa qua sự sáng tạo vũ trụ, con người và làm việc là để ơn cứu rỗi được chan hòa nơi thế giới này.

Lạy  Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương Người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó hầu được hưởng niềm vui, Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành 9 Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giuse thợ ).

------------------------------

 

Suy Niệm 13. Thánh Giuse


--theovetchannguoi

Ứng với việc tổ chức “Ngày Lao Ðộng” khắp nơi trên thế giới,  Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.

Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Người huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.

Lời Bàn

“Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Êđen, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn” (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Chúa Cha.

Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói, “Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, ‘Hãy đến cùng Thánh Giuse”” (xem Sáng Thế 41:44).

------------------------------

 

Suy Niệm 14. Lễ thánh Giuse thợ


--Antôn Lương Văn Liêm

Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Tay làm thì hàm nhai, tay quai thì miệng trễ”, với thánh Phaolô thì: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx.3,10). Vâng! Đã mang lấy kiếp nhân sinh thì dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, quyền uy hay bần cùng, đời tu hay đời thường… ai cũng phải lao động vất vả mới có miếng ăn. “Lao động là vinh quang”, đây là câu nói khích lệ, trân trọng tất cả những ai đã và đang ngày đêm làm lụng vất vả trong việc mưu kế sinh nhai, trong việc giáo dục, chuyển giao luân lý, tri thức, khoa học, y học cho tầng lớp kế thừa…

Không vinh quang sao được! Vì làm việc, lao động tất cả đều khởi đi từ Thiên Chúa, Đấng hoạt động, làm việc không ngưng nghỉ như lời minh định của Đức Giêsu: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga.5,17). Thiên Chúa là Đấng lao động và thực hiện công việc của Ngài  với mục đích duy nhất là bầy tỏ và trao ban tình yêu.

Vì yêu Thiên Chúa đã thực hiện việc tác dựng vũ trụ, vạn vật; vì yêu Thiên Chúa tác dựng và trao ban sự sống cho con người nhân loại, vì yêu mà Thiên Chúa thực hiện một công việc vĩ đại khi tự hạ bước xuống cõi trần mặc lấy thân xác con người yếu đuối, hữu hạn  để dạy dỗ và cứu độ con người nhân loại….Khi mặc lấy kiếp phàm nhân (ngoại trừ tội lỗi), Thiên Chúa qua con người của Đức Giêsu, Ngài cũng có một cái tên là Giêsu thành Na-ra-rét, được sinh ra và lớn lên trong mái ấm gia đình, có mẹ là Đức Trinh Nữ Maria và dưỡng phụ là Thánh Cả Giuse, điều mà những người Do Thái khi xưa đã nói về Đức Giêsu Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa: “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ ông không phải là bà Maria sao?” (Mt.13,55); “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả”(Ga.6,42).

Thực trạng xã hội hôm nay, vì chạy theo lối sống “văn hóa thành công” đã và đang làm hình ảnh những người thợ trong mọi lĩnh vực, từ trong nhà đạo cho đến bình diện xã hội không còn mang những nét đẹp, cao thượng, mang những trái tim thịt mềm của Thiên Chúa. Nói theo cách của những anh em làm nghề xây dựng khi ta thán về cách nghĩ và hành động của công nhân: “Họ làm theo lương tuần, chứ không theo lương tâm”, nói như thế không có nghĩa là “vơ đũa cả nắm”, nhưng điều này đang là một đại dịch, là ung nhọt gây nhức nhối cho gia đình, Giáo Hội và xã hội.

Trong ngày lễ kính Thánh Giuse Thợ, Đấng bảo trợ cho tất cả những ai đang ngày đêm làm việc, lao động. Trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống, sức khỏe, tri thức để giúp ta lao động, làm việc, trước là tạo của ăn nuôi thân, giúp ích cho đời, Ngài mời gọi ta cùng cộng tác với Ngài trong chương trình sáng tạo và bảo tồn những gì mà Ngài đã tác dựng, ta cảm tạ Ngài vì Ngài đã và đang song hành, cùng làm việc với ta trong từng ngày sống.

Khi chiêm ngắm hình ảnh và gương sống của Thánh Cả Giuse, một người thợ, dẫu trong Kinh Thánh không nói nhiều về Ngài, không tường thuật một lời nào của Ngài, ngoại trừ lời giới thiệu của thánh sử Mát-thêu: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính” (Mt.1,19). Vâng! Với niềm tin vào Thiên Chúa một cách đơn sơ, khiêm nhường, xin vâng theo Thánh ý Thiên Chúa một cách mau lẹ, không do dự; lòng quảng đại và từ bỏ ý riêng, ước mơ và sở thích của mình để thuận theo ý Chúa; chấp nhận và đón nhận những điều trái với ý riêng mình, đặc biệt là thấm nhuần Kinh Thánh và có một trái tim bao dung, yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những đức tính đó đã giúp cho Thánh Nhân lọt vào tầm ngắm của Thiên Chúa khi Ngài mời gọi và trao ban cho Thánh Nhân trách vụ trở thành người bạn đời của Đức Maria, trở thành dưỡng phụ của Đấng Cứu Thế.

Hướng về Thánh Cả Giuse, Ngài là một người thợ, người lao động, người chủ gia đình gương mẫu, thánh thiện, là cành huệ trắng luôn tỏa hương thơm ngát và không bao giờ tàn phai, ta nguyện xin Thánh Nhân giúp ta biết noi gương sống của Ngài, luôn tin tưởng và phó thác cuộc đời cho bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, giúp ta thực hiện mọi công việc từ lời nói tới hành động bằng một tình yêu, yêu Chúa và yêu người, ta xin Ngài cầu thay nguyện giúp cùng Thiên Chúa, nhất là với Thánh Tử Giêsu, để nhờ ơn Chúa giúp ta sáng suốt hơn, khôn ngoan hơn trong việc tìm kiếm kế sinh nhai, luôn chu toàn bổn phận của mình trong gia đình, cộng đoàn và ngoài xã hội, luôn là một người thợ chân chính. Cuối cùng ta nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Cả Giuse giúp ta và nhất là những vị lãnh đạo Giáo hội, những nhà truyền giáo luôn là những người thợ lành nghề trong cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát giữa thế giới hôm nay.

Thánh nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ khi Thánh Nhân cầu cùng Thánh Cả Giuse: “Chưa bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”

Để kết thúc xin mượn lời cầu của thánh nữ Têrêsa Avila: “Lạy Thánh Cả Giuse! Trong suốt cuộc đời, Cha là niềm hy vọng, khi sinh hạ Chúa Giêsu, khi trốn sang Ai Cập, khi sống những ngày tha hương. Cha đã tìm thấy sức mạnh trong sự tin tưởng sắt đá vào quyền năng và lòng Nhân Lành của Chúa.

Hôm nay! Chúng con hết lòng trông cậy, chạy đến cầu xin Ngài. Xin Ngài hiệp lời cầu với chúng con, để xin Con Ngài nâng đỡ chúng con trong cơn khốn khó, xin Ngài ban sức mạnh để chúng con tiến lên như Ngài đã đã vượt thắng. xin Ngài ban cho chúng con ơn trông cậy mà Ngài đã có như ánh sáng hướng dẫn mọi ngày trong đời chúng con. Amen.”

------------------------------

 

Suy Niệm 15. Lao động biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu phục sinh


--Lm. Giuse Đinh Quang Thịnh

Chúa Giêsu khi từ cõi chết sống lại, Ngài hiện ra với bà Maria Madalêna, Ngài không tỏ  vinh quang như trên núi Hiển Dung cho các môn đệ (x Mt 17), mà bà Maria Madalêna thấy Chúa Giêsu Phục Sinh tưởng đó là người làm vườn (x Ga 20,15). Chúa Giêsu Phục Sinh hữu ý mang dáng dấp người làm vườn là Ngài muốn nối tiếp sứ mệnh Thiên Chúa trao cho ông Adam phải canh tác vườn, nói lên quyền làm chủ vạn vật Thiên Chúa đã tạo dựng (x St 1,26 - 2,3.15), để Đức Giêsu trở nên mẫu người lao động cho cả loài người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Thiên Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Nghĩa là nơi Đức Giêsu có hai bản tính: Bản tính loài người và bản tính Thiên Chúa. Do đó ai muốn trở nên giống Thiên Chúa trong bản tính loài người, thì phải lao động việc trần thế, và qua Bí tích Khai Tâm, con người đã được thông dự vào bản tính Thiên Chúa, thì còn phải lao động vào việc Nước Thiên Chúa.

I. VỚI BẢN TÍNH LOÀI NGƯỜI, ĐỨC GIÊSU LAO ĐỘNG  VIỆC TRẦN THẾ.

Suốt ba mươi năm đầu cuộc đời Đức Giêsu, trong xưởng mộc với ông Giuse, cha Ngài tại Nazareth, thì người ta chỉ nhìn Ngài là “con bác thợ mộc” (x Mt 13,55), Ngài nói: “Con không thể làm gì tự mình, nhưng mọi sự đều vì đã trông thấy Cha làm, điều gì Người làm thì Con cũng làm như thế” (Ga 5,19).

Giáo huấn của Công Đồng Vat.II, dạy chúng ta biết về giá trị lao động trần thế: “Hoạt động của con người phát xuất từ con người, nên quy hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc, con người không những biến đổi sự vật và xã hội, mà còn cải thiện chính mình. Bởi vì khi làm việc, con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng, cũng như thoát ra và vượt khỏi chính mình (*). Nếu được hiểu cho đúng thì, sự tăng triển này còn đáng gía hơn mọi của cải thu tích được. Giá trị của con người hệ tại ở “CÁI MÌNH LÀ” hơn là ở “CÁI MÌNH CÓ”. (x Hiến Chế Hội Thánh Trong Thế Giới Hôm Nay số 35).

 Như thế làm việc không nhất thiết phải đạt thành công trước mắt, nhưng đã trở nên nghĩa người hơn. Chính Đức Giêsu suốt đời làm việc không ngơi nghỉ giống Cha trên trời (x Ga 5,17), thế mà cuối đời xem ra thất bại, bị mọi người khai trừ! Nhưng chính lúc ấy, Tổng trấn ngồi xử án, lại chỉ riêng vào Đức Giêsu đang đứng trước một rừng người, và ông lớn tiếng tuyên bố: “Này là Người” (x Ga 19, 5).

Kinh thánh kết án kẻ lười: “Kẻ lười tệ kém hòn phân, ai mà đụng nó là tay phủi liền” (Hc 22,2).Ai không chu toàn bổn phận mình, nó là anh em với quân phá hoại (x Cn 18,9).

(*) Khi làm việc con người được THOÁT RA: tức là thoát ra khỏi kiếp loài vật, vì con vật ăn sẵn những gì Thiên Chúa hoặc con người tạo nên cho nó: như con sâu ăn lá cây, con gà ăn giun, con heo ăn cám… Trái lại, con người dùng thực phẩm do tay mình làm ra.

Khi làm việc con người VƯỢT KHỎI CHÍNH MÌNH, tức là nhờ làm việc, con người có thêm của cải để chia sẻ. Chính nhờ biết chia đi, mà con người được biểu lộ giống Chúa, vì Thiên Chúa làm mọi sự chỉ để ban tặng cho loài người.

II. VỚI BẢN TÍNH THIÊN CHÚA, ĐỨC GIÊSU HẾT LÒNG LÀM VIỆC NHẰM THIẾT LẬP NƯỚC THIÊN CHÚA LÀ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO.

Tất cả những việc Đức Giêsu làm trong sách Tin Mừng ghi lại chỉ nhằm mục đích cho mọi người nhận biết Ngài là Thiên Chúa cứu độ duy nhất (x Cv 4,12), để dạy mọi người cách sống yêu. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Ngài qua việc làm: Kẻ đói Ngài cho ăn, người bệnh tật Ngài chữa lành, nhất là Ngài hết lòng rao giảng Lời Chúa Cha nhằm cứu độ loài người,và huấn luyện các môn đệ để nối tiếp sứ mệnh của Ngài. Những việc làm ấy, chỉ có giảng Lời và huấn luyện môn đệ, dù người ta chống đối, loại trừ, nhưng vẫn còn tồn tại cho đến tận thế. Như vậy, giảng Lời và huấn luyện con người,tạo chất xám phục vụ Nước Thiên Chúa quan trọng nhất. Vì ngay khi Đức Giêsu còn trên dương thế, những ai chỉ muốn Ngài cho bánh ăn, hoặc được lành bệnh, thì Ngài trốn đi cầu nguyện! (x Lc 4).

Thánh Giuse trong Tin Mừng chỉ cho biết ông làm  nghề thợ mộc, công việc này để phụ giúp Đức Maria nuôi dưỡng Đức Giêsu. Nhưng ông khuất đi rất sớm, thì chắc chắn Đức Giêsu phải vất vả tiếp nối công việc của cha Giuse để phụ kinh tế trong gia đình với Mẹ Ngài. Thế thì việc lao động cơ bắp của ông Giuse không quan trọng lắm, mà quan trọng nhất là ông luôn tỉnh thức mau mắn làm theo Lời Chúa dạy, để đóng góp vào chương trình cứu độ loài người Con Thiên Chúa thực hiện.

Thực vậy, ông Matthêu ghi lại ba lần trong đêm tối ông Giuse mau mắn chỗi dậy thực thi Lệnh Chúa truyền:

- Lần I: Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse phải chỗi dậy đón Maria, vợ ông về chung sống, để Maria sinh Con Đấng Tối Cao được an toàn, nếu không sẽ bị người đời ném đá, và ông còn có nhiệm vụ đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, để Đức Giêsu được sinh ra làm ứng nghiệm lời Sách Thánh đã tiên báo Đấng Cứu Thế thuộc dòng vua Đavid, vì ông Giuse thuộc dòng này (x Mt 1,18t).

- Lần II: Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse mau chỗi dậy để đưa Hài Nhi trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê đang lùng kiếm giết Hài Nhi (x Mt 2,13-18).

- Lần III: Đang đêm Chúa bảo ông Giuse chỗi dậy đưa Maria và Hài Nhi trở về Nazareth, vì Ngài có sứ mệnh giải phóng loài người thoát nô lệ Satan, hơn sứ mệnh của ông Môsê đưa dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập (x Mt 2,19-23).

Ba lần trong đêm ông Giuse chỗi dậy làm theo ý Chúa tiên báo về Đức Giêsu sau ba ngày từ cõi chết sống lại, để hoàn tất việc giải phóng loài người thoát tay tử thần.

Như thế, qua Kinh Thánh Chúa muốn mọi người xác tín: Phải chu toàn việc Nước Thiên Chúa trước khi chu toàn việc trần thế, thì cuộc đời con người mới hạnh phúc. Chính vì thế mà kẻ nào chỉ lo chạy đến cầu cứu Đức Giêsu cho của ăn vật chất, hoặc được lành bệnh, thì Ngài đã trốn họ. Nếu họ cứ tìm đến Ngài, Ngài phải lên tiếng nhắc nhở: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,27-29).

Vậy mọi người muốn được Chúa chăm sóc, thì phải thực hành Lời Ngài dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

 “Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước nhất”, cụ thể là mau mắn làm theo ý Chúa để chung tay phát triển Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh, với tinh thần thánh Tông Đồ dạy: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha. Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người” (Cl 3,14.17,23-24: Bài đọc).

Muốn sống tinh thần lao động như Đức Giêsu, như thánh Giuse, ta phải cầu nguyện: “Lạy Chúa, việc tay chúng con làm xin Ngài củng cố” (Tv 90/89,). Để “ngày lại ngày, xin chúc tụng Chúa, Thiên Chúa cứu độ ta, Người đỡ nâng ta” (Tv 68/67,20).

Lễ thánh Giuse Lao Động được đặt vào đầu tháng năm, tháng Hoa kính Đức Mẹ. Hội Thánh muốn con cái mình hãy làm việc với tinh thần giống Chúa Giêsu và thánh Giuse, để trở thành những bông hoa tươi thắm dâng kính Mẹ Maria.

Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người (Cl 3,23-24).

------------------------------

 

Suy Niệm 16. Suy niệm ngắn về thánh Giuse thợ


--Gương Thánh Nhân

Vì muốn nâng cao tầm quan trọng của sức lao động của con người trong việc giữ gìn và phát triển thế giới, nên Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.

Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.

Lời Bàn

"Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Eden, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn" (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói: "Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, 'Hãy đến cùng Thánh Giuse''" (xem Sáng Thế 41:44).

 ------------------------------

 

Suy Niệm 17. Lễ thánh Giuse thợ


--Lm. Phêrô Trần Đình

Lễ Thánh Giuse thợ hôm nay là cơ hội giúp chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan điểm kitô giáo.

Lao động nào cũng đổ mồ hôi. Có khi vì thế mà người kitô hữu tự nhủ mình: âu cũng chỉ là hậu quả của nguyên tội. Có thật đúng như vậy hay không?.

Kinh thánh khẳng định: lao động không phải là một hình phạt do tội, nhưng là điều kiện bình thường của con người. Trước khi con người   sa ngã, “Thiên Chúa đã đặt họ trong vườn Eđen để họ canh tác và giữ vườn” (St 2, 15). Nếu thập giới có buộc giữ ngày Sabbat thì đó là vì con người đã làm việc sáu ngày (Xh 20, 8 tt). Hình ảnh mô tả việc sáng tạo trong sáu ngày nhấn mạnh rằng: việc làm của con người hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, đồng thời phản ánh hành động của Tạo Hoá. Câu chuyện này cho ta hiểu: khi tạo dựng con người giống hình ảnh Người, Thiên Chúa đã muốn tháp nhập lao động vào trong chương trình của Người và sau khi thiết định vũ trụ, Người lại đặt lao động vào tay con người với quyền chiếm hữu và cai trị trái đất (1, 28).

Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi tác động tạo dựng của Thiên Chúa được mô tả bằng cử chỉ của người thợ đang nắn con người (St 2, 7), chế tạo bầu trời với ngón tay của Người và định vị các tinh tú (Tv 8, 4).

Cho nên, kinh thánh đã nghiêm khắc với sự ở nhưng, nguyên chỉ vì người lười biếng không có gì ăn (Cn 13, 4) và có nguy cơ chết đói (21, 25). Thánh Phaolô không ngần ngại dùng lý chứng này để chứng tỏ sự sai lầm của những người ngán ngẩm lao động: “Ai không làm việc thì đừng ăn” (2 Th 3, 10). Hơn thế nữa, ở nhưng là một sự hư đốn. Kinh thánh thán phục người đàn bà luôn tỉnh thức, nàng “không hề ăn bánh của sự ở nhưng” (Cn 31, 27) đồng thời chế nhạo kẻ lười biếng: “Kẻ lười biếng lăn trở trên giường khác nào cánh cửa xoay trên bản lề” (Cn 26, 14). Tuy nhiên, kinh thánh không chút thương hại  kẻ tạc ngẫu tượng, bởi vì những cố gắng ấy không được tích sự gì (Ys 40, 19 tt ; 41, 6tt).

Nhưng vì là một dữ kiện nền tảng của đời sống con người, nên lao động đã bị ảnh hưởng sâu xa bởi tội: “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có ăn” (St 3, 19). Cần hiểu cho đúng. Đối tượng lời chúc dữ của Thiên Chúa không phải là lao động cũng như không phải là chính việc sinh nở của phụ nữ. Cũng như sinh nở là chiến thắng đớn đau của sự sống trên cái chết, thì lao khổ hằng ngày của con người đánh dấu việc thể hiện quyền bính mà Thiên Chúa đã ban cho con người như đã nói trên. Quyền bính vẫn còn tồn tại, nhưng mặt đất, vì bị chúc dữ, đã trở nên đối kháng lại con người và cần phải được chinh phục. Nhà thần học R. Koch giải thích rất sâu sắc khi nói về đặc tính của các hình phạt: “Có lẽ tác giả Giavít muốn dạy ta rằng: sự thay đổi đã diễn ra trong nội tâm con người. Sau khi phạm tội, con người đã nhìn thế giới bằng cặp mắt khác”.

Người kitô hữu phải quan niệm về lao động với ý nghĩa cao cả như thế.

Tuy nhiên, trong sự cố gắng của lao động, điều tệ hại nhất là, cả khi nó đưa tới những thành công ngoạn mục, thì cái chết sẽ đến và làm cho nó trở nên vô bổ: “Ích gì những lao nhọc? Những ngày gian nan, những bận tâm công việc, những đêm dài trằn trọc? Tất cả đều là phù vân” (Hc 2, 22 tt).

Cái chết, một thực tại hiển nhiên, một “dự phóng phá đổ mọi dự phóng” (J.P.Sartre)! Thất vọng ư? Buông xuôi ư?. Không, Đức Giêsu đã đến, Người đã soi sáng lao động bằng những nghịch lý và ánh sáng của Tin Mừng: phải đề cao lao động, nhưng không được dừng lại ở đó, nếu không con người không thể ra khỏi ngõ cụt, không có lối thoát.

Phải đề cao lao động. Tại sao? Thưa bởi vì Đức Giêsu không bao giờ loại trừ lao động ra khỏi cuộc sống của Người. Đồng hương của Người đã không lầm lẫn khi gọi Người là “con bác thợ” (Mt 13, 35), “ông thợ mộc” (Mc 6, 3). Người đã sống cái “nghiệp” ấy trong 30 năm trời tại Nadarét.

Một Đức Giêsu lao động! Điều ấy có nói gì với niềm tin của chúng ta không?. Có và rất nhiều. Nói rằng Đức Giêsu lao động hay nói rằng Đức Giêsu đảm nhận thân phận con người cũng chỉ là nói một điều. Mà “cái gì không được đảm nhận thì không được cứu độ” (Thánh Irênê). Cho nên phải nói rằng, với Đức Giêsu, lao động đã mang một ý nghĩa cứu độ. 30 năm lao động âm thầm, Đức Giêsu chẳng những đã thánh hoá công việc, nhưng còn biến nó thành một phương tiện cứu độ khi liên kết nó với tất cả công trình cứu độ của Người. Và nếu cái chết của Người là cao điểm của việc cứu độ, thì quả thật mỗi hành vi của đs Người  – trong đó có lao động – đã mang ý nghĩa cứu độ này rồi, bởi vì thật ra lao động là thành phần của mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô, nếu không thì những năm trường tăm tối tại Nadarét chẳng có một ý nghĩa nào khác ngaòi miếng cơm manh áo hay sao?.

Lao động quả thật  phải được đề cao. Tuy nhiên, Đức Giêsu dạy ta không được dừng lại ở đó. Lao động chỉ là một giá trị trong bậc thang các giá trị mà thôi.

“Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi mãi đến sự sống đời đời” (Ga 6, 27). Đó là châm ngôn sống của người kitô hữu.

Khi Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời rao giảng, Người không nói đến vấn đề lao động, nhưng chỉ nói đến Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến và đã đến. Người xem nhẹ lao động chăng?. Hay là vì đã hiểu được nỗi cực nhọc và đắng cay của lao động?. Không, chỉ vì Nước Trời phải vượt lên trên tất cả: “Tiên vàn phải tìm kiếm Nước Trời…” (Mt 6, 33). Những điều khác: ăn, uống, mặc không phải là không quan trọng , nhưng ai quá ưu tư về các điều đó đến nỗi mất cả Nước Trời thì sẽ mất tất cả, cho dù họ có chinh phục được cả vũ trụ đi nữa (x. Lc 9, 23). Mọi cái khác đều phải lu mờ trước cái tuyệt đối là chiếm hữu được Thiên Chúa. Trong một thế giới mà “bộ mặt đang qua đi” (1 C 7, 31), thì chỉ có cái gì “gắn bó hoàn toàn với Thiên Chúa” (7, 35) mới đáng kể.

Thánh Giuse chắc hẳn là người trước tiên đã sống ý nghĩa cũng như yêu sách của lao động trong chính cuộc hiện hữu của ngài.

------------------------------

 

Suy Niệm 18. Giá trị của lao động


--5 phút Lời Chúa

“Ông này không phải là con bác thợ mộc ư?” (Mt 13,55)

Con Thiên Chúa Đấng Tạo thành khi xuống thế làm người, sống giữa loài người, đã được biết đến như là “Con bác thợ mộc”! Ngài thực sự đã đồng hoá với loài người, chia sẻ đời sống của loài người: làm việc để nuôi sống, để phát triển bản thân và xã hội. Việc Chúa tự hạ làm con người lao động thật đáng cảm kích. Và giá trị của lao động thật cao cả, vì nâng con người lên địa vị cao là con cái Thiên Chúa.

Mời Bạn: Ngày nay, con người thấy rõ giá trị của lao động và vai trò của minh trong chương trình “thống trị trái đất” (St 1,28) của Đấng Tạo Dựng, đặc biệt qua những thành tựu khoa học kỹ thuật… Tuy nhiên về phương diện xã hội và đạo đức, thì còn rất “chậm tiến”! Cứ xem những cuộc đấu tranh, lắm khi rất căng thẳng, thậm chí bạo động, xảy ra mọi nơi hiện nay, thì biết việc lao động của con người vẫn còn ở giai đoạn “kiếm sống”: hàng triệu người hiện nay vẫn đói đủ ăn!… Việc lao động để “thống trị trái đất” như Chúa muốn, phải thực sự giải phóng con người, phát triển con người toàn diện nhất là phần tâm linh.

Chia sẻ: Qua việc Thiên Chúa nhập thể làm người trong “giới lao động”, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại việc lao động của chúng ta có giúp cho tôi và anh em tôi được xích lại gần nhau hơn không!

Sống Lời Chúa: Trước khi làm việc, dâng lên Chúa một lời nguyện xin Ngài thánh hoá việc lao động mình sắp làm.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, mỗi ngày khi con bắt đầu công việc lao động, dù là lao động trí óc hay chân tay, xin giúp con biết làm việc không chỉ để kiếm sống mà còn để làm cho trái đất này được xinh đẹp hơn và phẩm giá anh em con được tôn trọng hơn.

------------------------------

 

Suy Niệm 19. Bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?


--Lm. Micae Võ Thành Nhân

Những người quê nhà của Chúa thắc mắc như vậy: “Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?” (Mt 13, 54 – 56), chúng ta có thể trả lời với họ rằng: “Chúa đươc như thế là vì Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người mà họ không nhận ra". Họ không nhận ra vì họ mơ tưởng một vị Thiên Chúa theo ý muốn của họ, đó là Chúa phải lên làm vua để đem lại cho họ cơm, áo, gạo, tiền, danh thơm tiếng tốt…. Nhưng ý Chúa khác ý của họ, Chúa ẩn mình, Chúa sống khiêm hạ, Chúa chỉ là con bác thợ mộc Giuse, mẹ của Chúa là bà Maria làm nội trợ, Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa là anh em của Chúa cũng như các chị em của Chúa đang ở nơi gần họ. Họ biết rất rõ về gia đình dòng họ của Chúa, để rồi họ coi thường, họ không chịu đón nhận Tin Mừng của Chúa. Chúng ta thấy chính họ làm đỗ vỡ mối tương quan giữa họ với Chúa bởi thành kiến ganh tỵ, hơn thua với Chúa, họ cứng lòng tin với Chúa.

Ngày hôm nay, người ta vẫn hỏi chúng ta về Chúa như những người Do Thái ngày xưa, chúng ta trả lời với họ rất suông sẻ " Chúa làm được mọi sự vì Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người ", nhưng đó là lý thuyết trên môi miệng. Câu trả lời hoàn hảo nhất là chúng ta phải sống với Chúa trước đã, chúng ta trả lời bằng chính cuộc sống của mình thì lúc đó Chúa mới đi vào cuộc sống của anh chị em chúng ta, và Lời Chúa mới lan rông khắp mọi tâm hồn trên thế giới này.

Lạy Chúa, hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Cả Giuse Thợ trong hoàn cảnh thế giới có rất nhiều những khó khăn trong cuộc sống, nhất là về kinh tế, nhiều người không có công ăn việc làm, để rồi trở nên thiếu thốn, nghèo túng, bần cùng, tuyệt vọng, nợ nần. Xin Chúa qua lời bầu cử của thánh Cả Giuse Thợ cứu vớt thế giới này, cứu với nhân loại chúng con, cho mọi sự người chúng con có công ăn việc làm để chúng con bớt khổ đau, sống phụng sự Chúa và giúp đỡ anh chị em chúng con tốt hơn. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 20. Lễ thánh Giuse thợ: bổn mạng các người cha gia đình


Việc Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người trong một gia đình lao động không phải là một cớ vấp phạm (như đối với những người đồng hương của Chúa Giêsu thời bấy giờ), nhưng mang lại một ý nghĩa cao cả cho sinh hoạt của con người nơi trần  thế. Đó là một “Tin Mừng về lao động”, khi Con Thiên Chúa đi vào đời thường của con người để giúp thánh hóa lao động, nâng cao phẩm giá lao động và mang lại ý nghĩa cho lao động.

Lao động không phải là một hậu quả của tội lỗi, bởi vì trước khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt họ vào vườn Ê-đen “để canh tác và chăm sóc”. Lao động chỉ trở nên “vất vả và  cực nhọc” khi Adong và Evà phạm tội: “ngươi phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn”.

Nhưng giờ đây, với sự hiện diện của Chúa Giêsu trong gia đình nhân loại, xuyên qua một gia đình lao động, Ngài đã trả lại cho lao động giá trị của nó và làm  tăng thêm ý nghĩa.

Vạch ra các ý nghĩa khác nhau của lao động, trước tiên nêu lên:

+ ý nghĩa căn bản đầu tiên, đó là kiếm sống, nuôi sống bản thân. Thánh Phaolô nói: “Ai không làm thì đừng có ăn”. ừ đó mỗi người con trong giáo xứ đừng vì lười biếng mà trở nên một gánh nặng cho người khác, ăn bám người khác. Nhưng mỗi người hãy ra sức làm việc để có miếng ăn nuôi sống bản thân. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở ý nghĩa này mà thôi, thì con người vẫn thấp lè tè, vì mỗi ngày con gà, con vịt vẫn kiếm ăn.

+ Chính vì thế phải nâng cao ý nghĩa lao động con người, không chỉ kiếm tiền, kiếm sống mà  thôi, nhưng là qua lao động để hoàn thiện bản thân. Hoàn thiện không chỉ về mặt kỹ thuật, kỹ năng, nhưng còn về con người, cần được trưởng thành hơn trong nhân cách, được nhân bản hóa, trau dồi các đức tính con người: trở nên người hơn.

Bởi vì ý thức rằng một người thợ giỏi chưa phải là một con người tốt! Lao động là cơ hội con người khẳng định chính mình, như là một chủ thể lao động, với những quyền và nghĩa vụ.

+ Điều đó dẫn đến ý nghĩa thứ ba của lao động: lao động là phương tiện trao ban chính mình. Qua lao động, con người không chỉ ích kỷ nuôi sống bản thân, vơ vét cho chính mình, nhưng là trao ban và làm phong phú cho người khác: cho gia đình của mình và cho xã hội. Một người cha hay mẹ không đem tiền về nuôi sống gia đình và nuôi dưỡng con cái, nhưng đem tiêu xài, cờ bạc rượu chè, thì không phải là lao động đích thực. Và mỗi người chỉ góp phần xây dựng xã hội khi đóng góp xây dựng tích cực cho xã hội qua công ăn việc làm của mình.

Đó là tham gia vào công trình tạo dựng của Chúa bằng việc nhân bản hóa môi trường xã hội, bằng việc trao ban, như Thiên Chúa đã trao ban cho con người coi sóc và  canh tác vũ trụ, thì con người qua lao động cũng biết trao ban những gì mình làm  cho người khác.

+ ý nghĩa truyền giáo của lao động. Lao động là phương tiện để thánh hóa bản thân và thánh hóa đời sống xã hội. Nó góp phần vào việc loan báo Tin Mừng qua việc dấn thân xây dựng lòng tôn trọng phẩm giá con người, xây dựng công bằng và liên đới, không trở nên nô lệ cho công việc, cho đồng tiền (một Kitô hữu sửa xe mà gian dối thì không thể loan báo Tin Mừng được!).

Qua lao động, người Kitô hữu còn hướng đến chân trời vĩnh cửu là sự sống đời đời, chứ không chỉ hạn hẹp trong thế giới này, như Đức Bênêđíctô XVI đã nói: “Nếu không có tầm nhìn vào đời sống vĩnh cửu, sự phát triển con người sẽ thiếu sức sống trong thế giới này…” (Caritas in veritate, 11).

+ Sau cùng, đối với người Kitô hữu, lao động là họa lại hình ảnh của Chúa Kitô: không chỉ nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô thánh hóa lao động của mình, nhưng giờ đây, những làm lụng vất vả cực nhọc từ nay mặc lấy một ý nghĩa mới, chúng không còn là hậu quả của tội lỗi, nhưng là tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Chúa Kitô. Qua lao động, con người cộng tác vào chương  trình cứu độ của Thiên Chúa.

Chính trong các ý nghĩa đó mà cha Quản xứ cầu chúc cho các người cha gia đình, trong ngày lễ bổn mạng của mình, không chỉ là những người xây dựng gia đình bằng làm lụng kiếm sống, nhưng còn là những con người biết tạo ra những giá trị và ý nghĩa trong gia đình của mình, những giá trị đức tin, luân lý và nhân bản. Đó là đỉnh cao của lao động, qua lao động con người là những chủ thể biết tạo nên các giá trị và ý nghĩa cho sinh hoạt của mình.

------------------------------

 

Suy Niệm 21. Lao động như phụng tự


“Ông ấy không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,55)

Suy niệm: Khi Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã đặt nến và trái táo cắn dở trước các chi nhánh của tập đoàn Apple, bày tỏ lòng thương tiếc, tri ân một thiên tài đã làm thay đổi cuộc sống con người với các sản phẩm độc đáo như ipod, iphone và ipad.

Bên cạnh các tên tuổi lớn với những phát minh vĩ đại như ông, vẫn có đại đa số những con người vô danh không có một phát minh nào, nhưng lại đóng góp thật to lớn cho sự thiện hảo và hạnh phúc của con người.

Thánh Giu-se là một trong những người lao động thầm lặng ấy. Hội Thánh đặt ngài làm bổn mạng cho những người lao động âm thầm không chỉ để nói lên giá trị về các đóng góp cho hạnh phúc của gia đình và xã hội, mà còn để nêu cao mẫu gương sáng chói nhất của thánh nhân là: biến lao động thành một của lễ dâng để thờ phương Thiên Chúa.

Mời Bạn: Tựa như thánh Giu-se, công việc bạn làm không quan trọng, điều quan trọng trước mặt Chúa là cách bạn làm.

Ý hướng của bạn khi lao động và những đức tính cần thiết kèm theo khi lao động quyết định giá trị việc bạn làm trước cái nhìn của Thiên Chúa.

Sống Lời Chúa: Lao động là món quà yêu thương tôi gởi đến những người thân yêu mà tôi có nhiệm vụ chăm sóc.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không giao phó việc giáo dục Đấng Cứu Thế cho một người cha nuôi là tiến sĩ luật hay một kinh sư, nhưng cho một bác thợ mộc.

Chúa muốn cho thấy giá trị cao cả trong lao động của con người, dù là những công việc thô sơ, đơn giản, thông thường. Xin cho chúng con có một cái nhìn mới về lao động, và sử dụng lao động như phương cách đẹp lòng Chúa.

 ------------------------------

 

Thứ 6: PS –Tuần 2/2025 - 02/05 Thánh Athanasiô

Năm chiếc bánh và hai con cá.
02/05 – Thứ Sáu đầu tháng, tuần 2 Phục Sinh. – Thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".

 * Thánh nhân sinh năm 295 tại A-lê-xan-ri-a. Người cộng tác, rồi kế vị giám mục A-lê-xan-ri-a. Thánh nhân chỉ có một mục đích: bảo vệ tín điều về thần tính của Chúa Kitô. Tín điều này đã được xác định tại công đồng Ni-xê-a. Cũng vì đó người bị công kích khắp nơi.

Nhưng dù gặp những giám mục nhút nhát, dù bị săn lùng, dù năm lần bị đày ải, người vẫn giữ được tính khí khái; nhất là giữ được lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người. Người đã viết nhiều tác phẩm vừa để làm sáng tỏ vừa để bảo vệ đức tin chân truyền. Người qua đời năm 373.

 ---------------------------------

 

Lời Chúa: Ga 6, 1-15


Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút".
Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng Tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Ăn bao nhiêu tùy ý


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Có người coi tôn giáo như một thứ duy tâm, duy linh,
chỉ để ý đến chuyện linh hồn, chuyện đời sau,
mà hững hờ với cái đói cái no của thân xác, với chuyện áo cơm thường nhật.
Kitô giáo hẳn không phải là thế.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian
không phải chỉ bằng việc rao giảng như một thầy dạy,
mà còn bằng việc chữa bệnh thân xác như một thầy thuốc.
Ơn cứu độ do Ngài mang lại có tính toàn diện, cả xác lẫn hồn,
và ơn cứu độ ấy đã bắt đầu ngay từ đời này rồi.
Trong Mùa Phục sinh, Giáo hội cho ta nghe đọc chương 6 của Tin Mừng Gioan,
bởi lẽ chương này nói về Đức Giêsu là Bánh hằng sống, Bánh ban sự sống.
Chương này khởi đầu bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Phép lạ diễn ra ở bên kia hồ Galilê, vào mùa xuân, cỏ mọc xanh mướt.
Đám đông đến với Đức Giêsu đang ở trên núi với các môn đệ.
Tất cả bắt đầu bằng câu hỏi bất ngờ của Thầy Giêsu:
“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Các câu trả lời của hai ông Philípphê và Anrê thật đáng thất vọng.
Hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút (c. 7).
Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá khô thì thấm vào đâu (c. 9).
Nhưng Đức Giêsu lại cần năm cái bánh và hai con cá đó.
Ngài đón nhận sự đóng góp của con người, dù là rất nhỏ mọn.
Nhỏ mọn nhưng là tất cả những gì tìm được ở chốn hoang vu này.
Không có sự đóng góp của một em bé, không chắc phép lạ đã xảy ra.
Khi mọi người đã ngồi xuống trên cỏ theo lệnh các tông đồ,
Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ.
Chắc các tông đồ đã giúp Ngài phân phát đến tay dân.
Chính khi bẻ ra để phân phát thì bánh và cá hóa nhiều.
Chúng ta không hiểu được điều gì đang diễn ra.
Mầu nhiệm chia sẻ vẫn làm chúng ta ngỡ ngàng, sửng sốt.
Chia sẻ là biến điều ít ỏi ta đang có trở thành kho báu vô tận cho mọi người.
Chia sẻ làm chúng ta chẳng vơi đi, nhưng còn mãi.
Hơn năm ngàn con người đã được ăn tùy ý, được no nê, được dư thừa.
Gần một tỷ con người sống trên trái đất hôm nay cũng mong được như vậy.
Đức Thánh Cha coi việc liên đới chia sẻ
như một cách thức để thoát ra khỏi nạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Ước gì việc chúng ta chia sẻ Tấm Bánh thánh trong nhà thờ
giúp chúng ta tiếp tục chia sẻ những tấm bánh vật chất ngoài cuộc sống.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.

---------------------------------
 
 

Suy Niệm 2: Thật và giả


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ga-ma-li-en thật là người khôn ngoan. Ông chưa tin Chúa. Nhưng ông có phân định sâu sắc. Đừng vội kết luận. Vội vã kết luận có thể sai lầm chống lại Thiên Chúa. Đó là lỗi lầm trầm trọng. “Nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa”. Qua phép lạ bánh hoá nhiều, ta có thể thấy một vài dấu chỉ của tiên tri thật.

Tiên tri thật quan tâm đến con người, đặc biệt người nghèo. Tiên tri giả chỉ quan tâm đến bản thân. Chúa Giê-su quan tâm đến những người đến với Chúa. Biết họ đói cần được ăn. Không chỉ quan tâm suông. Nhưng cụ thể bằng hành động. Thúc giục các tông đồ lo cho họ ăn. Tìm bánh. Và làm phép lạ.

Tiên tri thật làm việc vì nhu cầu. Tiên tri giả làm để phô trương. Chúa Giê-su chưa bao giờ muốn phô trương. Người hoá bánh ra nhiều vì dân đói đang cần được ăn. Chữa người bệnh vì họ đau khổ cần được cứu chữa.

Tiên tri thật tiết kiệm, trân trọng những gì nhỏ bé. Tiên tri giả hoang phí, chỉ chuộng những gì hoành tráng. Nên Chúa dạy các tông đồ đi thu lượm những mẩu bánh thừa.

Tiên tri thật không tôn vinh bản thân. Cũng không muốn người ta tôn vinh mình. Tiên tri giả luôn tìm nâng mình lên. Muốn được người ta ca tụng. Vì thế Chúa trốn đi khi họ muốn tôn Chúa làm vua.

Chính vì thế người dân tin nhận Chúa: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Chính vì thế các tông đồ xác tín. Sống chết với Chúa. “Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”.

Xin cho con nhận biết Chúa là Thiên Chúa thật. Và xin cho con trở thành chứng nhân thật sự của Chúa.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Đấng cứu rỗi thế gian


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Phép lạ bánh và cá được hóa ra nhiều là phép lạ duy nhất được tường thuật trong cả bốn Phúc Âm. Ðiều này chứng minh cho chúng ta biết tầm quan trọng của dấu lạ này trong toàn bộ giáo huấn của Chúa Giêsu, cũng như trong sinh hoạt của cộng đoàn Kitô tiên khởi thời các tông đồ. Những người Kitô đầu tiên thường dùng dấu hiệu bánh và cá để nói lên niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi thế gian, và là của ăn ban sự sống đời đời. Chúa Giêsu sẽ giải thích điểm này rộng rãi hơn trong bài giảng tiếp sau biến cố phép lạ bánh và cá được hóa ra nhiều. Chúng ta sẽ lần lượt Suy Niệm về những lời giảng dạy này trong những ngày tới.

Trong những phút Suy Niệm hôm nay, chúng ta hãy chú ý đến thái độ của dân chúng đối với dấu lạ Chúa thực hiện. Có thể nói rằng dân chúng đã hiểu lầm ý định của Chúa Giêsu. Nói cách khác, chúng ta có thể nói rằng dân chúng đã trần tục hóa biến cố, họ hiểu biến cố trong lăng kính vụ lợi vật chất cho bản thân. Phúc Âm theo thánh Gioan ghi lại chi tiết này: "Sau biến cố, dân chúng muốn bắt Chúa đi mà tôn lên làm vua", có lẽ để tiếp tục phục vụ cho những lợi lộc vật chất, cho những tham vọng của họ. Thay vì biến đổi con người mình trở nên sẵn sàng hơn để lắng nghe sứ điệp của Chúa muốn nói với họ. Hãy cố gắng để được ăn của ăn không hư nát, để được sống đời đời, thì dân chúng lại giới hạn dấu lạ trong chiều kích trần tục của cơm bánh để nuôi sống thể xác mà thôi. Ðây có thể nói là một trong những cám dỗ thường hằng của con người qua mọi thời đại, cám dỗ bắt buộc Thiên Chúa phải và chỉ phục vụ cho những nhu cầu vật chất trần tục mà thôi.

Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi làm nô lệ cho những tham vọng trần tục. Chúa vẫn luôn tiếp tục thực hiện những dấu lạ trong đời sống của con, để mời gọi con luôn nâng tâm hồn lên mà nhìn nhận và tôn vinh Chúa hằng ngày. Xin cho con được luôn sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dạy và sống thực hành trong mọi hoàn cảnh. Xin cho con biết đến gặp Chúa trong bí tích Thánh Thể để được Chúa soi sáng và bổ dưỡng thêm sức mạnh và chu toàn trọn vẹn hơn sứ mạng Chúa đã trao phó cho con.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 4: Sự cộng tác của con người


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Kể từ năm 1891, sau khi Đức Lêô XIII ban hành thông điệp Tân sự, đã có nhiều thông điệp khác về vấn đề xã hội được công bố nhằm đánh dấu sự phát triển và đào sâu giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Năm 1931 có thông điệp kỷ niệm năm thứ 40 do Đức Piô XI ban hành; năm 1961 có thông điệp Mẹ và Thầy của Đức Gioan XXIII; năm 1981, Đức Gioan Phaolô II kỷ niệm 90 năm thông điệp Tân sự bằng Thông điệp về lao động; năm 1987 ngài ban hành thông điệp “Mối quan tâm về vấn đề xã hội” nhằm kỷ niệm 20 năm thông điệp Phát triển các dân tộc của Đức Phaolô VI; năm 1991 ngài ban hành thông điệp kỷ niệm năm thứ 100 thông điệp Tân sự.

Tuy với những hoàn cảnh cụ thể và dưới những góc độ khác nhau, những văn kiện trên của các Giáo Hoàng đều đề cập đến những vấn đề của thời đại, đó là tương quan giữa lao động và phát triển. Giáo Hội không đề cao bất cứ một thứ chủ nghĩa chính trị và kinh tế nào. Giáo Hội không ngừng cổ võ sự phát triển dựa trên công lý và tình liên đới. Theo giáo huấn của Giáo Hội, nếu trên thế giới còn có các quốc gia nghèo khổ, là vì những nước giầu còn quá ích kỷ chưa muốn san sẻ tài nguyên và sự phát triển của họ. Nếu trong cùng một quốc gia, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng lúc càng tăng, là bởi vì người giầu không muốn chia sẻ của cải mình cho người nghèo.

Tin mừng hôm nay là một trong những trang từ đó Giáo Hội mức lấy giáo huấn của mình về vấn đề xã hội. Chúa Giêsu là Đấng toàn năng, Ngài chỉ cần phán một lời thì đám đông hơn 5.000 người đi theo Ngài có thể ăn no nê. Nhưng chúa Giêsu đã không làm thế. Phép lạ Ngài thực hiện xem chừng chỉ có thể diễn ra nhờ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. 5 chiếc bánh và 2 con cá không là gì so với một đám đông như thế; vả lại trong xã hội Do thái thời đó, em bé vốn cũng chỉ là một con số không trong bậc thang xã hội; vậy mà từ con số không ấy, từ một sự đáp trả khiêm tốn ấy, đám đông hơn 5.000 người đã được ăn no nê.

Bài học mà Giáo Hội đón nhận từ phép lạ ấy thật rõ ràng: lòng quảng đại, sự san sẻ của con người là chìa khoá giúp giải quyết vấn đề nghèo đói. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, vào Giaó Hội tin rằng Ngài vẫn tiếp tục nhân bánh và cá ra nhiều cho những người nghèo đói. Qua bao nhiêu thế kỷ, với những đóng góp và chia sẻ của các tín hữu, đã có biết bao người được ăn uống no nê. Những hoạt động từ thiện, những chương trình trợ giúp phát triển của Giáo Hội là những phép lạ mà Chúa Giêsu không ngừng thực hiện cho những người nghèo đói. Những mẹ Têrêxa Calcutta, những cha Pierre, những nữ tu Emmanuel và bao nhiêu gương mặt âm thầm khác trong Giáo Hội, đó là những em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá đã đóng góp vào việc thực hiện phép lạ.

Một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá, chỉ với một đóng góp ít ỏi đó cũng đủ để Chúa Giêsu làm một phép lạ cả thể. Ngày nay liệu chúng ta có đủ lòng tin để tin rằng với một ít san sẻ do lòng quảng đại của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn đó có thể làm phép lạ để bao người đói khổ chung quanh chúng ta được ăn no nê không?

 -------------------------------

 

Suy Niệm 5: Dự tính tương lai


Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Khi họ đã ăn no nê rồi thì Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiế bánh lúa mạch người ta đã ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga. 6, 11-14)

Đã bao giờ chúng ta Suy Niệm về điểm quan trọng này chưa? Giáo lý thuở ban đầu đã dạy về phép lạ bánh hóa nhiều bằng sáu câu chuyện tương tự được Tin mừng kể lại. Những câu chuyện này chắc chắn có một số nét chung. Hai lần Đức Giêsu đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều: Một lần từ năm chiếc bánh và hai con cá và thu được mười hai thúng còn dư. Một lần từ bảy chiếc bánh và vài con cá, còn thu được bảy thúng còn dư.

Sự dư thừa dồi dào còn được đối chiếu với câu chuyện Cựu ước trong sách Các Vua từ tám thế kỷ trước Đức Giêsu: Ngôn sứ Ê-li-sê đã làm cho hai mươi tấm bánh hóa ra nhiều cho một trăm người ăn, Chúa cũng đã nói với ngôn sứ: “Họ ăn và còn dư”. Cùng đề tài dồi dào dư thừa do lòng quảng đại của Chúa đã được thể hiện lại trong Tin mừng thánh Gio-an ở tiệc cưới Ca-na: Phép lạ nước biến thành rượu, dồi dào đầy những chum nước lớn chứ không chỉ đầy các chai trên bàn tiệc.

Chắc hẳn, việc Đức Giêsu ban dồi dào dư thừa đó không chỉ là rượu, bánh, của ăn vật chất, nhưng chính là Người nữa, vì Người đã nói: “Ta là cây nho thật” và “Ta là bánh ban sự sống”. Tất nhiên chúng ta phải nghĩ đến phép Thánh Thể. Toàn thể mầu nhiệm về Đức Kitô hàm chứa trong những câu: “Ta là” đã được Tin mừng thánh Gio-an ghi lại: “Ta là … ánh sáng thế gian, là mục tử tốt lành, là cửa chuồng chiên, là sự sống lại và sự sống, là đường, là sự thật và sự sống”. Phải là tất cả những gì chúng ta cần: bánh, rượu, ánh sáng, sự sống, che chở, hướng dẫn, Đức Giêsu là tất cả thứ đó. Thánh Gio-an thêm một định nghĩa nữa Đức Giêsu là Ngôi Lời, nghĩa là Lời Hằng Sống. Với Gio-an, Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng nói với chính Gio-an và với thế nhân, Đấng đã tự nói ra qua các tín hữu của mình … Như thánh Phao-lô đã gọi: Đức Kitô toàn diện, Đức Kitô phục sinh đã nhập thể vào tất cả các kẻ tin nhờ Thánh Thần.

Chúng ta cần phải sống với Đức Giêsu, Đấng đã nuôi dưỡng và tái tạo chúng ta trong Thánh Thần, Đấng đã ban Thánh Thần cho chúng ta, đổi mới chúng ta luôn mãi, Đấng là nguồn mạch sự sống không ngừng, đó là nguồn suối trường sinh khôn lường. Con người mới mà thánh Phao-lô nói với chúng ta, phải thanh tẩy không ngừng, làm việc không ngừng để phụng sự Thiên Chúa. Đấng là nguồn suối chặn đứng mọi cơn khát và mọi già nua, suy thoái của chúng ta.

L.P

 -------------------------------

 

Suy Niệm 6: Phép lạ do tình thương


Trong bài hát “để gió cuốn đi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngay ở đầu bản nhạc có viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”.

Thật vậy, trong cuộc sống, nếu ai ai cũng có tấm lòng, dù chỉ một chút thôi, thì chắc con người sẽ sống với nhau trong cảnh hòa bình, ấm no và hạnh phúc! Nhưng tiếc thay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người giàu có, nhưng cùng lúc, phát sinh nạn phân biệt giàu nghèo rõ rệt hơn bao giờ hết! Vì vậy, vẫn còn đó chuyện “nơi ăn không hết, chỗ lần không ra”.

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khởi đi từ lòng thương xót của Ngài: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?’" (Ga 6, 5).

Tiếp theo là tấm lòng quảng đại của một em bé: “Có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”, và, Đức Giêsu đã tiếp nhận tấm lòng nhỏ bé nhưng tinh thần lớn lao của em để kết hợp với lòng thương xót của Ngài, Ngài làm nên chuyện phi thường là làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 11).

Ai nấy đều được no nê nhờ vào tấm lòng của vị Mục Tử Giêsu và sự quảng đại của em nhỏ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chia cơm sẻ bánh cho nhau, tức là sống với nhau trong tinh thần liên đới, trách nhiệm. Đạo Công Giáo không bao giờ chấp nhận chuyện mạnh ai nấy sống. Sống như thế là ích kỷ, là chỉ biết đến cái bụng mà không hề làm cho trái tim lớn lên trong tình yêu.

Bên cạnh đó, chúng ta còn học được bài học tin tưởng, phó thác nơi Chúa, vì có Chúa là có tất cả, không chỉ vậy, mà còn dồi dào. Hình ảnh các môn đệ “thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” có ý muốn nói và củng cố cho chúng ta về lòng tín thác nơi Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống quảng đại, biết nghĩ đến người khác hơn là nghĩ đến bản thân mình. Biết sống tình bác ái huynh đệ để trở thành môn đệ của Chúa đích thực. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con luôn vững tin vào quyền năng Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

 -------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu mời gọi, chờ đợi sự đóng góp của con người


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để làm phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi sống trên năm ngàn người ăn no nê, Chúa Giêsu cần đến sự đóng góp nhỏ nhoi của con người. Ngài mời gọi ta góp phần của mình trong công cuộc cứu độ nhân loại.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, dù biết việc mình sẽ làm, Chúa vẫn hỏi ông Phi-líp-phê tìm đâu ra bánh. Chúa muốn các tông đồ cộng tác với Chúa. Và ông An-rê đã tìm được một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá. Đây là thức ăn của người nghèo, nhưng cậu bé cũng đã quảng đại dâng tất cả cho Chúa.

Lạy Chúa, với năm chiếc bánh và hai con cá đó, Chúa đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi sống trên năm ngàn người ăn no nê. Quyền năng của Chúa có thể làm được tất cả mọi sự, không cần ai góp sức. Thế nhưng Chúa vẫn mời gọi, vẫn chờ đợi sự đóng góp của con người, và sự đóng góp dù rất tầm thường nhỏ bé, Chúa vẫn nhận và làm phát sinh hậu quả dồi dào tốt đẹp.

Lạy Chúa, ngày nay, xuyên qua những biến cố trong cuộc sống hằng ngày, trong một thế giới còn rất nhiều người đang đói khát vật chất và tinh thần, con biết Chúa vẫn đang chờ đợi con đóng góp phần của mình để xoa dịu những cơn đói khát khổ đau ấy: có thể là một ly nước lã cho người đang khát, một chén cơm cho người đang đói, hay một chiếc áo cho người đang lạnh, có thể là một lời ủi an cho người đang đau khổ, một nụ cuời thân ái cho người bất hạnh, và ngay cả một lời thứ tha cho kẻ thù. Xin cho con luôn thiết tha cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ nhân loại. Và xin cho con luôn ghi nhớ mỗi ngày ít ra con phải làm một việc thiện nào đó để góp phần xây dựng thế giới hoà bình hôm nay. Xin Chúa giúp con. Amen.

Ghi nhớ: “Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Thiên Chúa cứu chữa phần hồn, dưỡng nuôi phần xác.


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tại góc đường của một thành phố lớn, có một người đàn bà quần áo rách tả tơi đứng xa ăn xin với đứa con trai nhỏ gầy ốm xanh xao của bà. Trong số những người đi qua đường phố, có một người đàn ông triệu phú bước qua, nhìn họ không nói tiếng nào, cũng chẳng giúp đỡ gì.

Nhưng khi trở về biệt thự sang trọng của mình rồi, nhìn vào bàn ăn với đủ mọi thứ cao lương mỹ vị, ông liên tưởng đến thằng bé còm nhom và người mẹ khốn khổ của nó. Càng nghĩ về họ ông càng tức giận Thiên Chúa.

Rồi ông nắm tay lại đưa quả đấm lên trời la to với Thiên Chúa: “Làm sao Ngài lại có thể để cho sự khốn khổ như thế này xảy ra cho được? Tại sao Ngài lại không làm gì để giúp đỡ những con người bất hạnh đó?”. Và từ một nơi nào đó, rất sâu tự bên trong tâm hồn của ông, có tiếng Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm. Ta đã dựng nên ngươi” (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr. 216).

Suy niệm

Dân Chúa đứng trước sự đói khát về nhu cầu thân xác, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Với sự lo toan của con người, các con không thể lo cho cả ngàn người, đó là sự phản ứng bất lực nơi con người trước những nhu cầu to lớn (lương thực cho năm ngàn người). Người bảo các ông: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”, có nghĩa là sửa soạn ăn, ngả lưng là tư thế để ăn, như là tư thế sẵn sàng để lãnh nhận hồng ân. “Cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn”. Bánh trao ban dư đầy thu được mười hai thúng đầy, ý muốn chỉ tới bữa tiệc sau này trên nước Trời (Mt 8,11-12; 22,1.10). Hành động trung tâm của nước Trời và mọi người đều ăn no. Sự dư dật là một dấu chỉ được báo cho thời kỳ của Đấng Mêssia trong Kinh Thánh (x. Đnl 6,11; Tv 132,15; Is 65,10).

Phép lạ bánh hóa nhiều của Chúa Giêsu gợi cho chúng ta sự việc: Tiên tri Êlisê ra lệnh cho các đầy tớ đa nghi mang hai mươi chiếc bánh nuôi cả trăm người (x. 2V 4,42-44). Các sách Tin Mừng thuật lại cho chúng ta sáu lần hóa bánh ra nhiều (Mt 14,13.21; 15,32-39; Mc 6,30-44; 8,1-9; Lc 9,10-17; Ga 6,1-15). Qua đó, cho chúng ta thấy Ngài yêu thương con người. Ngài cứu chữa phần hồn, dưỡng nuôi phần xác.

Ðược chứng kiến phép lạ hóa bánh ra nhiều, người Do Thái cho rằng Ðức Giêsu là vị ngôn sứ của thời cuối cùng được sai đến để giải phóng dân tộc và phục hồi sức mạnh nước Israel. Họ muốn tôn Ðức Giêsu làm vua với mục đích để Ngài bảo đảm đời sống cho họ bằng những phép lạ tương tự. Nhưng Ngài được Thiên Chúa sai đến thế gian không phải để làm chính trị mà để cứu vớt con người, dẫn đưa họ về với Thiên Chúa. Cho nên, Ðức Giêsu trốn lên núi một mình.

Xin cho chúng ta lòng khao khát tìm đến bên Chúa, lắng nghe Lời, được Ngài chạnh lòng thương và ban phát của ăn tinh thần là Thánh Thể, cũng như cả lương thực nuôi thân xác như Ngài ra tỏ tình thương qua phép lạ bánh hóa nhiều.

Ý lực sống: “Hãy tin tưởng những lời thầm thì của Thiên Chúa trong tâm hồn các con”. (Chân phước Mary MacKillop)

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Ngài ban cho họ của ăn dồi dào để dưỡng nuôi thân xác. Ngài không bỏ rơi ai mặc dầu người ta không quan tâm đến Ngài, như Đức Giêsu đã nói: “Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Phép lạ làm cho bánh hóa nhiều trong bài Tin Mừng hôm nay chứng tỏ lòng thương và quyên năng của Chúa. Đức Giêsu làm phép lạ để thỏa mãn cấp thời cơn đói khát phần xác của con người và sự quan phòng của Thiên Chúa.

2. Dân chúng đứng trước sự đói khát về nhu cầu thể xác, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ta mua đâu được bánh cho những ngjười này ăn”? Các môn đệ thưa lại rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”. Với sự lo toan của con người, các con không thể lo cho cả ngàn người, đó là sự phản ứng bất lực nơi con người trước những nhu cầu to lớn (lương thực cho năm ngàn người). Ngài bảo các ông: “Cứ bảo người ta ngồi xuống”. Chúa cho họ ăn uống no nê mà còn thu lại được 12 thúng đầy những mảnh vụn còn lại.

3. Đứng trước phép lạ này, chúng ta nên để ý đến thái độ của dân chúng. Có thề nói rằng dân chúng đã hiểu lầm ý định của Đức Giêsu. Nói cách khác, chúng ta có thể nói rằng dân chúng đã trần tục hóa biến cố trong lăng kính vụ lợi vật chất cho bản thân. Phúc âm thánh Gioan ghi lại chi tiết này: “Sau biến cố, dân chúng muốn bắt Chúa đi mà tôn lên làm vua”, có lẽ để tiếp tục phục vụ cho những lợi lộc vật chất, cho những tham vọng của họ, thay vì biến đổi con người mình trở nên sẵn sàng hơn để lắng nghe sứ điệp của Chúa muốn nói với họ.

4. Trong phép lạ bánh hóa nhiều, chúng ta không chỉ thấy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu, mà chúng ta còn thấy giá trị của sự đóng góp của con người. Dĩ nhiên, nếu không có 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé, Đức Giêsu vẫn có thể làm phép lạ ra nhiều bánh để nuôi dân chúng, như Thiên Chúa đã làm cho manna từ trời rơi xuống trong sa mạc nuôi dân Israel khi họ tiến về Đất Hứa. Nhưng ở đây có yếu tố 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé, và chi tiết này đáng chúng ta suy nghĩ để rút ra bài học hữu ích.

Trong lời giới thiệu cuốn sách “5 chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y FX Nguyễn văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên Hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết: “Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi  một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa, Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (tr 5).

5. Một người đàn ông nghèo còn đúng 50 xu. Sáng Chúa nhật đi lễ, người lắc giỏ đi tới, ông bỏ hết vào giỏ. Tan lễ, ông được tin một xí nghiệp đang tuyển công nhân, nhưng phải đi xe lửa tới đó mất 1 đô. Không còn tiền, ông đi bộ tới xí nghiệp khác gần nhà thờ. May thay, ông tìm ngay được việc làm. Cuối tuần, ông lãnh được số tiền gấp 10 lần mà ông đã cho đi. Người đàn ông đó là chủ một thương hiệu giầy da nổi tiếng, tên là W.L. Douglas.

Dân chúng ngày xưa cũng như ngày nay luôn ở trong tình trạng đói khát lương thực, áo quần, thuốc men và sâu xa hơn nữa, đói khát sự sống đích thực mà chỉ có Thiên Chúa mới làm no thỏa. Thiên Chúa biết hết mọi điều thầm kín, bí ẩn trong tâm can con người, cũng như biết rõ những nhu cầu thiết yếu của họ.

6. Tóm lại trong sứ điệp Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ  Ngài đã làm trong Thánh Kinh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, lời cầu nguyện, hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại kết quả vượt mọi kỳ vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta như Ngài đã biến đổi những chiếc bánh lúa mạch và hai con cá trong bài Tin Mừng hôm nay. Đấy chính là lời mời gọi mà Đức Giêsu ngỏ với chúng ta trong những bài đọc hôm nay.

7. Truyện: Biết cảm tạ và cộng tác với Chúa.

Việc tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen rất tốt, vì chúng ta bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa: “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn”.

Một gia đình nọ có thói quen tốt, khi mọi người đã ngồi vào bàn ăn, ai nấy đều cúi đầu và đứa bé út trong nhà có nhiệm vụ đọc lời cầu nguyện. Hôm ấy nó đọc: “Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này”.

Mỗi lần đứa con cất lên lời cầu nguyện như thế, người cha đều cảm thấy sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt.

Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc: Trên thế giới có 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ em châu Phi bị suy dinh dưỡng.

Ông liền suy nghĩ: Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách, bần cùng? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy? Phải chăng gia đình ông có ăn, vì gia đình ông được Thiên Chúa thương hơn những con người khác?

Và hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Phép lạ hóa bánh ra nhiều


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Từ hôm nay sang bài giáo lý thứ hai về Bí tích Thánh Thể, dựa trên đơn vị phép lạ hóa bánh ra nhiều, bài trích Phúc Âm hôm nay tường thuật phép lạ ấy. Phép lạ này được cả 4 quyển Phúc Âm tường thuật. Nhưng bài tường thuật của Gioan có những chi tiết riêng biệt như sau:

- Xác định rõ nơi xảy ra là phía Đông hồ Galilê, tức là vùng đất của lương dân. Tại vùng đất này mà “đám đông dân chúng theo Người”, chứng tỏ lúc này uy tín và ảnh hưởng của Chúa Giêsu đang lên cao.

- Nhưng Gioan còn ghi thêm “vì họ đã thấy những phép lạ Người làm” chứng tỏ dân theo Ngài vì lòng vị lợi chứ không phải do đức tin thật.

- Các bài trình thuật trong Phúc Âm nhất lãm, các môn đệ nói cho Chúa Giêsu biết dân chúng đói bụng. Còn trong Gioan, chính Chúa Giêsu hỏi các môn đệ làm sao có bánh cho dân ăn.

- Trong nhất lãm, Chúa Giêsu bảo các môn đệ phân phát bánh và các cho dân. Còn trong Gioan chính Chúa Giêsu phân phát.

- Khác biệt quan trọng nhất là Gioan coi phép lạ này là dấu chỉ giúp người ta hiểu về mầu nhiệm bản thân Chúa Giêsu: Ngài chính là Bánh nuôi dưỡng sự sống trường sinh.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Trước sứ mạng Chúa giao, ai cũng thấy rằng mình không đủ khả năng. Không bao giờ chúng ta ngang tầm để có thể đáp ứng ý muốn của Chúa. Nhưng cũng như Philipphê và các môn đệ xưa, chúng ta cứ bắt đầu rồi Chúa sẽ tiếp tay cho đến hoàn thành. Thực ra, Chúa không đòi ta làm điều ta không thể, Ngài chỉ muốn chúng ta để Ngài hành động trong và qua chúng ta.

2. Đám đông dân chúng ngày nay vẫn còn đói khát: Đói khát lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men và sâu xa hơn nữa họ còn đói khát lẽ sống, đói khát chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.

3. Một lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, trong tay chúng con, Chúa là bánh
Trong tay chúng con, Chúa là sự sống.
Xin hãy mở rộng tay chúng con, để ban bánh cho người khác
Xin hãy mở rộng chúng con, để ban sự sống cho người khác.

4. “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”.

Hồi nhỏ, mỗi khi nghe đoạn Phúc Âm này tôi tự hỏi: nếu em bé kia cứ khư khư giữ lấy phần thức ăn ít ỏi của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra ? Chợt tôi nghe như có tiếng đáp lại: “Điều ta muốn là tấm lòng quảng đại của con”.

Từ đó trở đi tôi thực sự mới cảm nhận được rằng: nếu tôi trao ban mà còn so đo tính toán thiệt hơn, nếu tôi không trao ban với tấm lòng quảng đại của mình, thì hành vi kia thật là vô nghĩa.

Em bé trong Phúc Âm Gioan hôm nay lại một lần nữa nhắc bản thân mỗi chúng ta về cách trao ban cho người anh em khác.

 Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại. (Epphata).

5. Một cậu bé nghe nói về Chúa, cậu thắc mắc: “Chúa là ai ?”

Một hôm cậu quyết định một mình đi tìm Chúa. Với cái túi nhỏ đựng ít bánh và nước ngọt, cậu bé đến một công viên gần nhà. Vừa bước vào công viên cậu đã gặp một bà cụ đang ngồi trên ghế đá. Cụ bà đang say sưa nhìn mấy con chim bồ câu đến nhặt thức ăn. Cậu bé liền đến ngồi bên cạnh bà, rồi mở cặp lấy bánh và nước ngọt ra.

Nhận thấy bà cụ như có vẻ như thiếu ăn, cậu bèn lấy bánh mời bà cụ. Bà cụ vui vẻ đón nhận và mỉm cười với cậu. Sau đó cậu lấy nước ngọt ra và cũng mời bà như thế. Một lần nữa bà lại đón nhận và mỉm cười. Chưa bao giờ cậu bé cảm thấy hân hoan như vậy. Cả buổi chiều hôm đó, bà cháu ngồi bên nhau, chia sẻ từng miếng bánh, từng hớp nước ngọt, mỉm cười với nhau mà không cần phải nói với nhau lời nào.

Chiều đã muộn, sợ cha mẹ sốt ruột, cậu bé đứng lên ra về. Vừa đi được một quãng, cậu lại quay lại bá cổ bà cụ, rồi hôn vào má bà cụ. Cụ bà đáp lại cái hôn ấy bằng một nụ cười đẹp như chưa bao giờ có. Khi cậu bé vừa mở cửa bước vào nhà, người mẹ nhận ra ngay trên gương mặt con mình một niềm vui mà bà chưa từng thấy bao giờ. Bà liền hỏi con:

- Hôm nay con làm gì mà vui thế ?

Cậu bé đáp:

- Hôm nay con ăn uống với Chúa.

Người mẹ ngỡ ngàng chưa hiểu gì thì cậu bé nói tiếp:

- Mẹ biết không, con chưa bao giờ thấy ai có nụ cười đẹp bằng nụ cười của Chúa.

Còn bà cụ, với một niềm vui rộn rã trong tâm hồn, bà thong thả trở về nhà. Vừa bước chân vào cửa thì người con út đã nhận ra ngay sự bình thản khác thường trên gương mặt mẹ mình cho nên cậu hỏi ngay:

- Hôm nay mẹ làm gì mà vui thế.

Bà cụ trả lời:

- Mẹ đã ăn bánh với Chúa.

Trước sự ngỡ ngàng của người con, bà giải thích:

- Con biết không. Chúa trẻ hơn là mẹ nghĩ rất nhiều.

6. Một tác giả vô danh đã tưởng tượng ra một câu truyện sau:

Khi Thiên Chúa tạo dựng xong vũ trụ cũng như muôn người muôn vật thì Ngài gọi các sứ thần lại để hỏi xem nên đặt cái bí ẩn của sự sống - tức là cái quí giá nhất trong chương trình sáng tạo của Ngài - ở đâu ?

Một sứ thần góp ý: “Nên chôn vùi nó dưới đất”

Một sứ thần khác: “Nên đặt nó dưới đáy biển”

Một vi nữa lại đề nghị: “Đặt nó trên núi cao là thượng sách”

Thế nhưng Thiên Chúa không đồng ý với những giải pháp kể trên. Ngài nói: “Phải làm thế nào để cho bất cứ người nào cũng có được cái bí ẩn của sự sống mới được”

Cuối cùng một sứ thần liền nói: “Nên đặt cái bí ẩn ấy nơi trái tim con người”

Thiên Chúa nhận thấy đó là điều tốt đẹp, Ngài liền đặt cái bí ẩn của sự sống vào trái tim con người. Và từ đó con người luôn thấy mình có một sức sống tuyệt vời hơn hẳn các loài thụ tạo khác.

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Biết quảng đại trao ban như Chúa


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Vâng! Sau khi Chúa đã giúp chúng ta tìm lại được địa vị làm con Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội, bắt đầu từ hôm nay chúng ta được Chúa nói cho chúng ta về lương thực Ngài ban cho chúng ta. Tôi muốn nói đến Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội dựa trên bài tường thuật về phép lạ hóa bánh ra nhiều để nói về vấn đề này.

Phép lạ này được cả 4 quyển Tin Mừng ghi lại. Nhưng bài tường thuật của Gioan có nhiều chi tiết đặc biệt hơn:

Trước hết, Gioan xác định rõ nơi xảy ra phép lạ. Đó là phía Đông hồ Galilê, tức là vùng đất của lương dân. Tại vùng đất này mà “dân chúng theo Người đông lắm”, chứng tỏ lúc này uy tín và ảnh hưởng của Chúa Giêsu đang lên cao.

Gioan đã coi phép lạ này như một dấu chỉ giúp người ta hiểu về mầu nhiệm Chúa Giêsu: Ngài chính là Bánh nuôi dưỡng sự sống trường sinh.

2. Dân chúng ngày xưa cũng như ngày nay luôn ở trong tình trạng đói khát: Đói khát lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men và sâu xa hơn nữa họ còn đói khát lẽ sống, đói khát chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.

Vâng, chỉ có Chúa mới có thể thỏa mãn được những khát vọng, nhất là những khát vọng sâu xa và thầm kín nhất nơi con người, vì Chúa là chính sự sống mà con người hằng mong đợi.

Tấm lòng của Chúa Giêsu thật lớn lao, thật không có gì sánh kịp. Chúa ban phát và ban phát không có giới hạn. Ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Tất cả được ăn no nê mà vẫn còn dư.

“Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý”. (Ga 6,11)

Đọc lịch sử các thánh, tôi thấy thánh Gioan Don Bosco là một vị thánh có lòng sùng kính Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể một cách đặc biệt. Ngài đã rút ra được rất nhiều bài học từ bí tích này. Có lần ngài đã kể câu chuyện này cho các thiếu niên, con cái ngài yêu thương:

Một hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Chúa.

Dọc đường, Chúa bảo hai ông mỗi người hãy mang theo cho Chúa một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc, rồi lặng lẽ nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự nhiên, đã vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển, còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:

- Sao anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế ?

Chúa Giêsu nghe tất cả nhưng Ngài vẫn giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Chúa muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì mà ăn.

Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành một mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.

Rồi một lần khác, Chúa Giêsu cũng lại gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi Chúa Giêsu sẽ nói như lần trước để thưởng ông. Thế nhưng, lần này Chúa Giêsu chỉ nói với họ:

- Nào chúng ta hãy đặt những viên đá chúng ta vừa mang theo xuống đất, ngồi lên mà nghỉ một chút. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!

Phêrô thấy xấu hổ, ông trách Chúa:

- Đúng là Thầy đã chơi khăm con!

Nhưng Chúa Giêsu bảo ông:

- Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.

Chúa Giêsu đã làm phép lạ từ “5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé dâng cho Ngài”. Phải nói rằng, em bé trong câu chuyện hôm nay là tấm gương cho mọi người về lòng quảng đại. Đúng là em đã không tính toán một chút nào khi em dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá. Em đã dâng cho Chúa tất cả, chẳng giữ lại cho mình chút nào. Và Chúa Giêsu làm phép lạ biến bánh và cá ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá đó. Sau đó, mọi người đã được ăn no nê và thu lại được cả 12 thúng bánh vụn!

Công việc của Chúa quả là hết sức đặc biệt và ở đây chúng ta phải nhận rằng, việc Chúa làm còn quảng đại hơn nhiều, không phải chỉ với phép lạ hôm nay mà còn trong suốt lịch sử của loài người.

Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban.

Với Chúa, xin cho chúng con biết dâng trọn tấm lòng vâng phục, phó thác tri ân.

Với mọi người, xin cho chúng con luôn biết sống quảng đại, hy sinh, cảm thông, và tha thứ để chúng con hiểu được rằng, biết quảng đại trao ban như Chúa là một niềm hạnh phúc cho chúng con.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa ban của ăn cho dân chúng


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Lời Chúa trong Thánh Vịnh đã nói: “Khi Ngài rông mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thỏa thuê” (Tv 144, 16) đã được minh chứng qua bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, khi mà Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé trai mang theo để ăn khi nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, và rồi nuôi dân chúng theo Chúa ăn no nê và còn dư mười hai thúng đầy các miếng bánh vụn. Những chi tiết thánh Gioan đề cập đến trong bài Tin Mừng này làm cho chúng ta phải dừng lại để nghĩ suy và khám phá ra những ý nghĩa rất thiết thực cho cuộc sống ngày hôm nay.

- Địa điểm là ở miền Galilêa: “Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ” (Ga 6, 1 – 3). Đây là cùng dân ngoại, mà còn ở trên núi cao nữa, cho nên quá vắng vẻ, xa cách làng mạc của dân chúng. Vì vậy, về phương diện tự nhiên không thể giải quyết được về vấn đề của ăn thức uống cho dân chúng. Vì thế, phép lạ Chúa làm đây quá vĩ đại và cho lương dân biết tình yêu và quyền năng của Chúa.

- Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?” Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: “Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút” (Ga 6, 5 – 7). Điều ấy cho chúng ta thấy dân Do Thái lẽ ra phải lo chuẩn bị cho ngày lễ trọng đại bậc nhất của họ, thế mà họ vẫn theo Chúa đông đảo để chứng tỏ rằng Chúa là lễ Vượt Qua mới của họ, là Chiên Vượt Qua mới của họ, chỉ nơi Chúa họ mới tìm được chân lý, lẽ sống, nguồn vui, hạnh phúc của họ, cho nên họ khao khát Chúa là vậy.

- “Philipphê thưa: Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút”. Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người” (Ga 6, 7 – 10). Ở đây chúng ta thấy có thánh Philípphê mà lúc trước có giới thiệu và dẫn thánh Batôlômêô đến gặp Chúa (Ga 1, 45 – 51) và thánh Anrê đã ở với Chúa rồi sau đó dẫn thánh Phêrô, em ngài đến gặp Chúa (Ga 1, 35 – 45). Như vậy, Chúa chọn một ai thì Chúa luôn trung thành với người ấy. Chúa luôn tin tưởng giao phó sứ mạng và luôn tạo cho người ấy cơ hội cộng tác với Chúa mà lập công phúc cho mình.

- “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người . Chúa Giêsu nói: Cứ bảo người ta ngồi xuống. Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi. Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư” (Ga 6, 9 – 13). Chúa có thể làm phép lạ từ không có bánh thành có bánh ăn, nhưng Chúa cần sự đóng góp của con người chúng ta, người thì có công, người thì có của để Chúa làm nên phép lạ cho người khác được nhờ. Chúa dạy chúng ta biết chia sẻ cho anh chị em theo khả năng của mình, dù là rất nhỏ bé, chúng ta không phải nghĩ ngợi gì về kết quả, vì có Chúa giúp đỡ cho chúng ta và cho anh chị em chúng ta rồi.

Qua phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi ăn dân chúng theo Chúa để rồi Chúa báo trước phép lạ Thánh Thể Chúa sẽ ban cho chúng ta, nuôi hồn chúng ta. Như vậy, Chúa là Đấng nuôi chúng ta cả hồn lẫn xác và hướng chúng ta đến bàn tiệc thiên quốc sau này, khi chúng ta từ giã đời này mà về với Chúa.

Lạy Chúa là Đấng sống lại từ cõi chết, chúng con được hưởng biết bao ơn lành Chúa ban qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết chia sẻ cho anh chị em chúng con những gì mình có để rồi từ đó Chúa tiếp tục làm phép lạ dưỡng nuôi anh chị em của chúng con, cho anh chị em của chúng con vượt qua sự túng thiếu mà sống an vui hơn. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Sống nhờ bánh hằng sống


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Athanaxiô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã cho thánh Giám Mục Athanaxiô, được can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội, về thần tính của Đức Kitô, Con Một Chúa. Xin Chúa nhậm lời thánh nhân chuyển cầu, mà ban cho chúng ta biết nghe lời người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Thánh nhân sinh năm 295 tại Alêxanria. Người cộng tác, rồi kế vị Giám Mục Alêxanria. Thánh nhân chỉ có một mục đích: bảo vệ tín điều về thần tính của Chúa Kitô. Tín điều này đã được xác định tại Công Đồng Nixêa. Cũng vì đó, người bị công kích khắp nơi: bị săn lùng, bị đày ải năm lần, nhưng, người vẫn giữ được tính khí khái, nhất là, giữ được lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người. Người đã viết nhiều tác phẩm vừa để làm sáng tỏ vừa để bảo vệ đức tin chân truyền. Người qua đời năm 373.

Ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, kính dâng vinh quang, danh dự và lời tạ ơn lên Thiên Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Phần thứ hai thuộc loại văn khải huyền đúng nghĩa. Những hình ảnh đầu tiên cũng là những biểu tượng muốn gợi cho ta sự cao cả và quyền năng của Thiên Chúa. Thánh! Thánh! Chí Thánh! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa toàn năng là Đấng Thánh, Đấng đã có, hiện có và đang tới. Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa. Các thần Xêraphim đối đáp tung hô: Thánh! Thánh! Chí Thánh! ĐỨC CHÚA các đạo binh là Đấng Thánh.

Ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa thật, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Athanaxiô nói về: Ngôi Lời nhập thể… Ngươi sẽ nên như miệng của Ta; đối với dân này, Ta sẽ làm cho ngươi nên thành đồng kiên cố. Chúng có chống lại ngươi cũng chẳng làm chi được, vì Ta ở với ngươi. Sẽ có những ông thầy giả hiệu, những kẻ sẽ lén lút đưa tới diệt vong, chúng chối bỏ vị Chúa Tể đã chuộc họ về.

Ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, sẵn sàng chịu bị bắt bớ, bị bách hại, để làm chứng cho Đức Kitô, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 26, vịnh gia cho thấy: Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi. Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn phải nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan tường thuật: Đức Giêsu cầm lấy bánh, rồi phân phát cho những người hiện diện, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. Chúng ta sống, hiện hữu, và tồn tại, là nhờ Ngôi Lời của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa phán ra, chính là Ngôi Lời của Người. Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, đã trở nên của ăn nuôi sống chúng ta. Như thức ăn, phải chịu tiêu hóa, tan biến để trở thành dưỡng chất nuôi sống thân thể, Ngôi Lời đã trao nộp thân xác mình, để chịu chết thay cho loài người chúng ta, và để làm hiến lễ dâng lên Chúa Cha. Nhờ thân xác chính Người đã nhận lấy, nhờ ân sủng Người đã đem lại do cuộc phục sinh, Người đã xua trừ cái chết hoàn toàn xa khỏi chúng ta. Vì liên kết với loài người chúng ta, nhờ một thân xác giống như chúng ta, người Con bất hoại của Thiên Chúa, đã làm cho loài người chúng ta trở thành bất hoại. Chúa đã cho thánh Giám Mục Athanaxiô, được can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội, về thần tính của Đức Kitô, Con Một Chúa. Ước gì chúng ta biết nghe lời người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 7 PS –Tuần 2/2025 - 03/05 Thánh Philipphê & Giacôbê

Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/
Ðến với Chúa.
03/05 – Thứ Bảy tuần 2 Phục Sinh. – Thánh Philipphê & Giacôbê, Tông Đồ. Lễ Kính.
"Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho".

* Thánh Philipphê quê ở Bét-xai-đa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó, người theo Chúa Giêsu.

*Còn thánh Giacôbê, người là anh em bà con với Chúa và là con của ông Anphê. Người đã lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem và đã giúp cho nhiều người Do thái đón nhận đức tin. Người còn để lại một bức thư. Người chịu tử đạo năm 62.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Ga 14, 6-14


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".
Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?' Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Làm những việc lớn hơn nữa


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Sau khi ông Tôma hỏi Thầy Giêsu về đường (Ga 14, 5),
thì ông Philípphê lại xin Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).
Không rõ Philípphê muốn thấy Thiên Chúa theo kiểu nào,
bởi lẽ theo niềm tin chung của người Do thái
không ai thấy Thiên Chúa chí thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).
Dù sao khát vọng được thấy Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.
Thiên Chúa đã thỏa mãn ước mơ
mà Ngài đã đặt vào lòng con người.
Nơi Đức Giêsu, là Ngôi Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa,
chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa bằng mắt phàm.
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (c. 9).
Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
chúng ta chẳng những không phải chết, nhưng được sống.
Theo quan niệm của người Do Thái,
sứ giả là đại diện trọn vẹn cho người sai mình.
Đức Giêsu đã là sứ giả cho Cha một cách tuyệt vời.
Ngài là một với Thiên Chúa, Đấng sai Ngài:
“Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).
Các lời Ngài nói, Ngài không tự mình nói.
Các việc Ngài làm, Ngài không tự mình làm.
“Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình” (c. 10).
Nhìn những việc Đức Giêsu làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.
Cha làm việc của Cha qua Con của mình là Đức Giêsu.
“Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm được những việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (c. 12).
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha và được vào trong vinh quang.
Khi tin vào Ngài, khi gắn bó với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,
chúng ta có thể làm được những điều như Ngài đã làm:
trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).
Và như Đức Giêsu, điều vĩ đại
mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay
là yêu thương, yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Hãy mạnh dạn nhân danh Đức Giêsu mà xin,
vì biết thế nào Ngài cũng làm cho người gắn bó với Ngài.
Tất cả để Cha được tôn vinh nơi Con (c. 14).
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)

-------------------------------
 
 

Suy Niệm 2. Nhân danh Thầy


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Chúa Giêsu là con đường dẫn đến Chúa Cha. Qua Chúa Giêsu, con người biết Chúa Cha, thấy Chúa Cha, đón nhận sự sống từ Chúa Cha. Cơ sở của chân lý trên là Chúa Giêsu ở trong Chúa Cha và là một với Chúa Cha.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, giả sử con lạc giữa rừng sâu, con mới thấy cần đến một con đường, tìm được con đường rồi, nhưng có ai đó ác ý chỉ một hướng ngược lại, và giữa lúc đó cơn đói cơn khát cào xé trong lòng, bấy giờ con mới thấy tầm quan trọng của Lời Chúa nói với con: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Chúa là con đường duy nhất, sự thật duy nhất và sự sống duy nhất để đưa con về với Cha và sống với Cha. Ngoài Chúa ra, không còn một ai khác có thể cho con biết Chúa Cha.

Chắc rằng không ai trong chúng con dám nghĩ rằng ngoài Chúa ra, còn có một con đường nào đó dẫn đến Chúa Cha, có một sự thật khác, sự sống khác... Nhưng rất có thể con chưa đặt hết niềm tin vào Chúa, chưa hoàn toàn bám chặt vào Chúa, chưa thấy rằng Chúa là tất cả cuộc sống của con.

Lạy Chúa, xin cho con biết đến cùng Chúa, biết khám phá mãi mãi sự phong phú vô cùng bao la của Chúa và xác tín rằng con rất cần Chúa. Con tin chỉ có Chúa mới dẫn đưa con tới Chúa Cha và giúp con nhận ra Chúa Cha đầy yêu thương nhân từ và quyền năng vô biên. Ngày ngày Chúa đang đưa con vào cuộc sống viên mãn của Chúa Cha.

Xin giúp con trung thành suy niệm và sống Phúc Âm mỗi ngày. Và xin Chúa mở lòng con để con đón rước Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể. Con đến với Chúa để nhờ Chúa, con đến với Cha. Xin Chúa luôn sống trong con, ở lại với con và gia đình con. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3. Thánh Philipphê, Tông đồ


--Ga 14, 6-14

--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Qua lời Đức Giêsu đã khẳng định, con người chúng ta phải có thái độ tin hay không tin nhận.

- Tin Chúa sẽ mang lại ánh sáng soi cho cuộc đời của mình.

- Từ chối không tin, con người tự kết án mình: không tin là sống trong bóng tối.

Theo thánh Philipphê, tin thì phải xem thấy Chúa Cha, nên Chúa Giêsu tuyên bố một chân lý quan trọng: Ngài là Con Thiên Chúa và đồng bản tính với Thiên Chúa: “Thầy ở trong Chúa và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 11), để rồi “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9).

Chúa Cha và Chúa Con hợp đồng công tác “Cha tôi làm việc liên lỉ, tôi cũng làm như vậy” (Ga 5, 17): xem những việc lành thì nhận ra Chúa nhân lành, như Chúa đã giải thích cho dân Do thái: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy các ông sẽ biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10, 37-38).

-------------------------------

 

Suy Niệm 4. Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ


Ga 14,6-14

--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái

* Lịch Sử

Thánh Phi-lip-phê, cũng như Phê-rô và Gia-cô-bê, xuất thân từ Bết-sai-đa, thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành một trong những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Trong danh sách các Tông Đồ, ngài được xếp vào hàng thứ năm. Người ta tin rằng sau lễ Hiện Xuống, thánh nhân đi đem Tin Mừng đến vùng Xi-tơ, phía bắc Biển Đen. Người được tử đạo ở Hi-ê-ra-pô-lit vùng Tiểu Á.

Trong Phúc Âm có hai ông Gia-cô-bê: “Gia-cô-bê tiền” con ông Dê-bê-đê’’ và “Gia-cô-bê Hậu” con ông An-phê’’ (Mc 3,18). Hôm nay chúng ta mừng kính thánh Gia-cô-bê, con ông An-phê, tức Gia-cô-bê Hậu; tiền và hậu để chỉ sự phân biệt, chứ không nói lên một tính chất gì quan trọng.

Có phải vị thánh này (Gia-cô-bê, con ông An-phê) là “người anh em của Đức Giêsu’’ (Gl 1,19) và là tác giả lá thư Gia-cô-bê hay không? Khoa Thánh Kinh ngày nay vẫn còn nghi ngờ; nhưng phụng vụ Rô-ma lại có sự đồng hóa và xác nhận.

Nếu đúng như phụng vụ Rô-ma xác định, thì Gia-cô-bê, “người anh em của Chúa’’, cũng có nghĩa là người bà con xa gần với Chúa, giữ một vai trò lãnh đạo trong cộng đoàn Giêrusalem; trong công đồng tiên khởi tại Giêrusalem đã quyết định điều quan trọng về vấn đề cho người ngoại giáo gia nhập Kitô giáo, mà không cần phải thông qua Do Thái Giáo, tức là không cần chịu phép Cắt Bì (Cv 15,13-21). Theo truyền thuyết, ngài bị dân Do Thái ném đá đến chết vào năm 62 tại Giêru-salem (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

A. Hạt giống...

Đoạn Tin Mừng này gồm hai mặc khải chứa đựng trong hai câu trả lời của Đức Giêsu cho hai câu hỏi của Tôma và Philipphê:

1. Câu hỏi của Tôma: “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?” (c 5)

- Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” Chúa Giêsu là đường dẫn tới Chúa Cha, tức là dẫn tới nguồn sự thật và sự sống.

2. Câu xin của Philipphê: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Như thế là chúng con mãn nguyện”.

- Chúa Giêsu đáp: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”  Chúa Giêsu là mặc khải rõ ràng và cụ thể nhất về Chúa Cha.

Trong đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu cũng mặc khải thêm một số điểm quan trọng khác nữa:

- Về năng lực của đức tin: “Ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”.

- Về hiệu quả của lời cầu xin nhân danh Chúa Giêsu: “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin thì Thầy sẽ làm”.

B.... nẩy mầm.

1. “Thầy là đường”:

- Sống là đi, đời là hành trình. Nhưng nhiều khi người ta không thấy đường để đi, bởi thế người ta sống bồng bềnh nổi trôi không định hướng. Ngay cả một số tín hữu, thậm chí một số người tu mà đôi khi cũng rơi vào tình trạng hoang mang không biết mình phải đi đâu. Đó là vì họ không biết hay có biết nhưng đã quên lời Chúa Giêsu “Thầy là đường”. Hãy đi theo Chúa Giêsu, bởi vì, như lời Thánh Phêrô thố lộ, “Bỏ Thầy con biết theo ai?”

- Nhiều người cũng muốn hành trình đi đến Thiên Chúa, đi đến sự sống. Tuy nhiên họ đi mãi mà không tới nơi, có khi còn đi lạc. Tại vì họ đi theo con đường riêng của họ chứ không theo con đường Chúa Giêsu.

2. “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu?”: Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”: Thế nhưng dù đã đi theo Chúa, ta không tránh khỏi nhiều lúc cảm thấy lo âu không biết Ngài sẽ dẫn mình đến đâu. Chúa Giêsu nói “Thầy là đường, là sự thất và là sự sống”. Theo Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ tới nguồn sự thật và nguồn sự sống. Vì thế ta nên phó thác đời mình cho Ngài dẫn dắt: “Chúa là mục tử… Ngài dẫn tôi tới đồng cỏ xanh, bóng mát, nước trong…”

3. “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”: mong ước của Thánh Philipphê cũng là mong ước của mọi người tin thờ Thiên Chúa. Đã tin thờ Đấng nào thì dĩ nhiên người ta muốn thấy Đấng ấy.

Chúa Giêsu hiểu được mong ước ấy và đáp ứng mong ước ấy: “Ai thấy Thầy là Thấy Chúa Cha”. Chúa Giêsu là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa. Muốn biết Thiên Chúa là ai, muốn hiểu Thiên Chúa là thế nào, ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy suy gẫm những đoạn Tin Mừng viết về Ngài, hãy chiêm ngưỡng Ngài…

4. “Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những điều Thầy làm”. Những việc Chúa Giêsu đã làm là gì? Là giảng dạy, là chữa bệnh, là cứu độ… nhưng quan trọng nhất là thi hành ý Chúa Cha (Ga 4,34: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy”.

Trong những việc ta làm, không việc gì quan trọng cho bằng những việc làm theo thánh ý Thiên Chúa. Nhưng làm theo thánh ý Thiên Chúa không phải là một điều dễ. Muốn làm được như thế, hãy tin vào Chúa Giêsu: “Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những điều Thầy làm”.

5. “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin thì Thầy sẽ làm”: Có lẽ nhiều điều ta xin mà không được là vì ta không xin nhân danh Chúa Giêsu.

6. Con đường: Người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ ”Bên phải dành cho người công giáo; bên trái dành cho kẻ ngoại”. Tôi đi theo hàng lang bên phải. Đi được một lúc tôi tới ngã rẽ khác, lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau ”Bên phải dành cho người có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém”. Tôi lại đi theo bên phải. Đến một ngã rẽ khác, tôi loại thấy bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những kẻ ích kỷ”. Tôi lại chạy qua bên phải. Cuối cùng tôi gặp bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi”. Một lần nữa, tôi chọn bên phải. Tôi đang hân hoan rảo bước thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức dậy. Sau một phút, tôi tự hỏi” Phải chăng cuộc sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi hùng?” (Trích ”Món quà giáng sinh”)

7. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9)

Xem phim “Chú bé tài năng”, nhiều phen tôi đã phải thót tim lại trước những trắc trở trên đường chuyển những bản tin của chú, và cảm thấy tim như giãn ra khi chú thành công.

Trong những chuyện Lịch Sử nước Việt, tôi rất thán phục những vị sứ giả đã khéo léo dùng tài trí của mình để tỏ bày lập trường cương quyết của triều đình trước những kẻ xâm lăng.

Đọc Tin Mừng thánh Gioan, tôi đắm mình trong mầu nhiệm làm con của Đức Giêsu, một người con luôn hướng về Cha, lưu lại trong Cha, hiệp nhất với Cha, để không chỉ nói điều Cha muốn, mà còn tỏ lộ cách trung thực chính dung mạo của Cha qua đời sống của mình.

Mở lại trang sử đời tôi, một kitô hữu, tôi chợt thấy ngỡ ngàng!

Lạy Chúa, xin cho con biết sống như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Epphata)

8. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6)

“Từ ngày 6.2 (29 Tết) đến nay, trung tâm nhận 14 ca tự tử, giảm 10 ca so với cùng kỳ năm trước. Chỉ riêng trong ngày 12.2 có 5 ca tự tử. Con số tự tử của năm 1996 là 730 ca trong đó có 10 ca không cứu sống được… Nguyên nhân chủ yếu là gặp những bế tắc trong cuộc sống (thất tình, buồn chán gia đình, bệnh tật…) Họ cảm thấy chỉ còn một lối thoát là tự kết liễu cuộc đời” (Báo NLĐ)

Khủng hoảng trần trọng nhất của xã hội ngày nay phải chăng là cuộc khủng hoảng về ý nghĩa của cuộc sống? Con người sinh ra để làm gì? Con người sẽ đi về đâu? Đâu là ý nghĩa và giá trị của cuộc sống? Đó là những vấn nạn mà tôi thường hay tự mình đặt ra khi gặp những đau khổ, những mâu thuẫn trong cuộc sống.

Tôi chỉ lấy lại được sự bình an khi đối diện với Chúa, đặt trọn niềm tin nơi Ngài, và xác tín rằng Ngài chính là con đường, là sự thật và là sự sống.

Lạy Chúa, xin cho con luôn hiểu và cảm nghiệm được Chúa chính là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của con. (Epphata)

---------------------------------

 

Suy Niệm 5. Đường sự sống


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

A. Philipphê là người xứ Bethsaida. Ông là một trong những người đầu tiên được Đức Giêsu kêu gọi. Chính ông đã mách cho Nathanael Tin mừng lớn lao này: “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng ta đã gặp. Đó là ông Giêsu, người Nazareth”. Thấy bạn mình còn hoài nghi, ông đã giục: “Cứ đến mà xem”. Nathanael sau khi đã gặp Đức Giêsu và nghe Ngài nói thì đã tin. Philipphê đã xuất hiện nhiều lần trong Phúc âm: Lúc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; làm trung gian cho những người ngoại giáo muốn gặp Đức Giêsu. Philipphê cũng là người đã xin Đức Giêsu: “Lạy Ngài, xin chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là đủ cho chúng con”. Người ta nghĩ rằng ông đã đem Tin mừng đến cho người Scythen sau ngày lễ Ngũ tuần và chết rất thọ ở Hiérapolis, tại Phrygie.

Còn thánh Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con ông Alphê. Gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền, là con của ông Dêbêđê. Phân biệt này không mang ý nghĩa gì khác ngoài việc tránh sự nhầm lẫn. Khoa Thánh Kinh còn nghi ngờ không biết có phải Giacôbê hậu này có phải là “anh em của Đức Giêsu” và là tác giả của lá thư Giacôbê hay không? Nhưng Phụng vụ Rôma lại có sự đồng hoá và xác nhận. Trước khi các Tông đồ tản mác mỗi người một nơi, thì họ chỉ định thánh Giacôbê làm Giám mục Giêrusalem. Ngài là linh hồn của cộng đoàn Giêrusalem. Vì ngài đã làm cho nhiều người trở lại với Đức Giêsu nên bị bản án ném đá. Ngài đã chịu tử đạo đang khi quỳ gối cầu nguyện cho tên lý hình đang kết thúc đời Ngài bằng một thanh sắt giáng xuống trên người, trong thời điểm mừng lễ Vượt Qua. (Theo “Tự điển các thánh”, trang 268-269 và trang 159).

B. Một thông tin làm cho chúng ta phải suy nghĩ là: Theo thống kê về những người chết do tự tử thì nước Nhật là nước có số người chết vì tự tử chiếm hàng đầu thế giới. Vậy điều gì đã khiến cho những con người trong một đất nước có nền kinh tế mạnh đứng hàng thứ ba trên thế giới (sau Hoa Kỳ+Trung Quốc) lại đi tìm cái chết trong cô đơn và tuyệt vọng như thế? Một điều khó hiểu nữa là đa số những người chết vì tự tử ở Nhật Bản lại là những người trẻ, có việc làm ổn định và có địa vị cao trong xã hội. Như vậy, đâu phải nghèo khổ, già nua, bệnh tật là bất hạnh lớn nhất của đời người. Hoá ra cái làm cho con người ta trở thành kẻ khốn cùng nhất trong cuộc đời này là họ không thấy được ý nghĩa và giá trị thật của cuộc sống. Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội ngày nay là sự hoang mang trước những vấn đề mang tính nhân sinh: Con người sinh ra để làm gì? Và con người sẽ đi về đâu? Tất cả những vấn nạn này chỉ giải đáp được tận căn khi ta đối diện với Chúa và xác tín rằng: “Ngài là đường, là Sự thật và là Sự sống”. Đây là mặc khải rất quan trọng của Chúa Giêsu cho con người chúng ta.

Đời người là một cuộc lữ hành liên lỉ. Nhưng khổ thay, nhiều người đi mà không biết mình đang đi đâu, nên dừng lại hoặc để cho cuộc sống cứ mặc tình cuốn họ đi. Họ chấp nhận cuộc sống của kiếp “lục bình trôi”, bồng bềnh không định hướng. Một số khác thì không thấy đường đi và cũng không biết đường nên đi theo số đông. Họ chọn số đông làm chân lý cho đời mình. Nhưng số đông con người đó lại chọn con đường thênh thang để tiến bước vì nó dễ dàng và hấp dẫn. Nhưng “đường thênh thang thì lại dẫn vào cõi chết”. Con đường bằng phẳng, vui vẻ và dễ dãi thì không có lối thoát, và cuối con đường là vực thẳm của sự chết. Đó là con đường của những cuộc vui trác tráng suốt đêm với tình dục, ma tuý, rượu bia, cờ bạc, đua xe… Vui đó, hấp dẫn đó nhưng cũng “tận cùng” đó.

Nhưng trong đêm đen của nhân loại ấy, con người không biết đi về đâu, thì Đức Giêsu là Ánh sáng và là Đường đã đến. Ngài chỉ cho con người con đường để đi đến sự sống và hạnh phúc. “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”. Nhưng khi đã thấy và biết đường đi rồi thì con người lại không muốn tiến bước trên con đường mang tên Giêsu đó. Bởi lẽ, con đường ấy có vẻ nhỏ hẹp, nhiều gian nan và hy sinh từ bỏ quá.

Đức Giêsu Kitô đã tự nguyện trở thành đường đi, dẫn con người về với Chúa Cha, về quê hương đích thực. Đồng thời, Ngài cũng là người chỉ đường và là người đồng hành với chúng ta trên CON ĐƯỜNG SỰ SỐNG dẫn về quê hương chân thật đó. Ngài đã chỉ cho con người thấy tất cả những viễn tượng tốt đẹp và huy hoàng ở cuối của con đường ấy. Nơi đó, có một Thiên Chúa toàn năng là Cha đang mở rộng vòng tay đón chờ ta.” … Còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ ông ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15, 20). Nơi đó là một bữa tiệc cưới vui vẻ và hạnh phúc kéo dài: “Vua kia mở tiệc cưới cho con trai mình” (Mt 22, 2) . . . và bao nhiêu những điều hạnh phúc khác nữa. Đây không phải là một sự mơ tưởng viển vông mà là một thực tại do chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống nói với chúng ta: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người Đấng từ trời xuống” (Ga 3, 33), hay “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 8). Cho nên, đạo Công Giáo không phải là một mớ những kiến thức, những điều phải tin, mà là một viễn cảnh rất đẹp, rất huy hoàng ở tương lai. Khi con người kết thúc cuộc sống ở trần gian này, họ sẽ về “nhà Cha”, và sẽ được Cha đón tiếp vào Nhà dành cho con cái Người nhờ Đức Giêsu Kitô là “Đường, Sự thật và Sự sống” của con người.

Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Đức Giêsu đã đáp ứng nguyện vọng của Tông đồ Philipphê. Chính Ngài là mặc khải rõ ràng và cụ thể nhất về Chúa Cha. Cả cuộc đời Đức Giêsu Kitô là để làm theo ý Cha, là minh chứng về Cha: trao ban trọn vẹn cho con người. Vì vậy, nếu chúng ta muốn tôn thờ Thiên Chúa cho đúng đắn và phải đạo thì chúng ta hãy qui về Chúa Kitô, lấy Chúa Giêsu làm điểm tựa, kẻo chúng ta sẽ bị đánh lừa (bị lừa và tự lừa dối mình) phải tôn thờ một Thiên Chúa giả tạo, một Thiên Chúa do sản phẩm của con người làm nên. Thiên Chúa đích thực là Thiên Chúa do Đức Giêsu mặc khải và Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa chân thật đó.

Ước gì chúng ta biết soi mình vào Đức Giêsu Kitô để thấy được chân lý, thấy được đường đi chân thật và thấy được một Thiên Chúa chân thật để tôn thờ và yêu mến, noi gương nai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay.

-------------------------------

 

Suy Niệm 6. Philipphê và Giacôbê tông đồ


--L.P

Kính nhớ thánh Giacôbê Hậu, con ông Alphê, anh em họ với Đức Giê-su. Ngài làm Giám Mục cộng đồng Kitô ở Giê-ru-sa-lem và là thánh tử đạo thứ 36 thánh Stêphanô và Giacôbê tiền anh của thánh Gioan. Cần đọc lại bức thư với lời giới thiệu để tôn vinh Ngài, vì Ngài đã bàn đến nhiều vấn đề.

Tên của Thánh Philip được ghi rất sớm trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài được kể là Tông Đồ thứ tư cùng với Thánh Gioan và hai Thánh Anrê và Phêrô dân thành Betsaida xứ Galilê (Ga 1, 43-44), Ngài giới thiệu mấy người Hy Lạp xin gặp Đức Giê-su (12, 21), trước khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giê-su hỏi Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?... Ngài đáp: thực có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút (6, 5-7) và ở bữa tiệc ly, Philíp nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (14, 8). Người ta cho rằng Philíp sống hiện thực, giống như những người tiến bộ khoa học thời chúng ta: ông sống theo kinh nghiệm nên đòi được xem, sờ, cảm thấy Chúa Cha, cùng với óc tính toán của ông: có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút!

Không, Đức Giê-su không mua 200 đồng bánh, cũng không làm cho Chúa Cha hiện ra. Đức Giê-su có tất cả mọi sự để nuôi tất cả thính giả, để mặc khải Chúa Cha: chỉ mình Người tỏ cho thấy rõ quyền phép của Người và tình yêu của Thiên Chúa. Trong Người, chúng ta có tất cả. Chỉ mình Người nắm giữ tất cả để với những cử chỏ của Người, Người ban cho chúng ta những cảm nghiệm về Thiên Chúa nhờ những dây liên kết của Người với chúng ta.

Hãy nhìn ngắm Đức Giê-su sống thì hiểu biết được Thiên Chúa. Hãy tin vào Đức Giê-su, thì chúng ta sẽ được bảo phải làm gì để đi vào chương trình cứu độ.

Nhờ sự cảm nghiệm của bản thân mình về đức tin chúng ta sẽ cảm nghiệm thẩm sâu toàn diện Tin Mừng Thánh Gioan kết hợp với những khuynh hướng hiện đại cũa chúng ta. Các bạn trẻ chúng ta đã cảm nghiệm được những điều thích thú trong sách của Thánh Gioan, thì cần đào sâu những cuộc đàm thoại trong Tin Mừng của Thánh Gioan để khởi đi từ câu thứ nhất: “Hãy theo tôi” mà Thánh Philíp chắc chắn đã thấm thía với tất cả ý nghĩa thâm sâu của câu đó, để rồi: “Thấy Thầy, là thấy Cha” và “Thế là được mãn nguyện”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 7. Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ


--tinmung.net

Thánh Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, ngài sinh tại Galilê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông theo Người. Có lẽ ngài đã giảng Tin Mừng ở Bắc biển Đông và tử đạo ở Tiểu Á.

Thánh Giacôbê Hậu là người có họ hàng với Chúa Giêsu. Ngài lãnh đạo cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem. Theo truyền thuyết ngài bị dân Do thái ném đá đến chết vào năm 62 tại Giêrusalem.

Cả hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng và mạng sống của mình.

Thánh Philipphê xưa kia xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha, chứng tỏ các ngài vẫn chưa hiểu được Thầy đúng mức. Hôm nay đúng ra chúng con đã biết nhiều về Chúa hơn, có kiến thức về triết học, thần học… và nghe mọi lời Chúa dạy dưới ánh sáng Phục Sinh. Tuy nhiên, rõ ràng là các Tông đồ có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha và Chúa Giêsu đối với mình thế nào, còn con hôm nay nhiều lúc chỉ tìm kiến thức suông thay vì đi tìm chính Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết nhìn lên Thập Giá Chúa và lắng nghe lời giảng của Chúa để hiểu được tình yêu Chúa và chương trình Chúa muốn dành cho từng người chúng con.

Chúa Giêsu luôn ở trong Chúa Cha. Ngài hiện hữu từ đời đời và cùng với Chúa Cha sáng tạo vũ trụ. Hôm nay ngài đến cứu độ chúng ta và cho thấy tình thương của Chúa Cha đố với loài người chúng ta. Thật lạ lùng khôn xiết! Qua Chúa Con, Chúa Cha nhận tất cả mọi người làm con. Phần chúng con phảI biết tin giữ lời Chúa, luôn gắn bó với Chúa Con để khi chúng con chết trong Ngài thì cũng được phục sinh với Ngài và hưởng hạnh phúc thanh nhàn cùng Ngài trên Thiên Quốc.

Thánh Philipphê là người trung gian giới thiệu Chúa cho mọi người: vừa khi được Chúa kêu gọi đã tin vào Chúa Giêsu và tìm Nathanael để giớI thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanael cũng được diễm phúc làm môn đệ Chúa. Khi những ngườI Hy lạp muốn gặp Chúa Giêsu, chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến vớI Chúa Giêsu. Chính ngài cũng xin Chúa Giêsu cho ngài và các Tông đồ thấy Chúa Cha.( Ga 14,7-9).

Về hạnh Thánh Giacôbê, chúng ta thấy:sau khi Chúa Giêsu về trời ngài đã lên tiếng cho những người ngoại giáo được gia nhập Kitô giáo mà không phải cắt bì (Cv 15, 13 -21). Ngài đã đem nhiều người Do thái và cả dân ngoạI trở về chính đạo… Noi gương các ngài, chúng con ý thức nhiệm vụ giớI thiệu Chúa cho mọi người. Xin các ngài giúp chúng con biết kết hiệp với Chúa Giêsu trong mọi việc làm, lời nói và ý tưởng, thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa đời này và đời sau.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người chúng con gặp gỡ bằng lời nói hay bằng việc làm trong đời sống hàng ngày: sống đồng tâm nhất trí với nhau trong gia đình, họ đạo vì Chúa Giêsu, biết chia sẻ với anh em vì lòng yêu mến Chúa, biết làm cho gia đình mình hạnh phúc, xã hội được ấm no.

-------------------------------

 

Suy Niệm 8. Philipphê và Giacôbê tông đồ


--GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”.

Giáo Hội mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.

Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.

Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.

Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.

Mỗi người chúng ta cũng được Chúa chọn qua bí tích Rửa Tội; và vì vậy, chúng ta cũng được diễm phúc: thấy những việc Chúa làm trong cuộc đời mình; nghe những lời Chúa nói qua Tin Mừng, qua Giáo Hội; được sai đi loan báo Tin Mừng và làm chứng bằng đời sống gương mẫu về công bình, bác ái, niềm tin, lòng trông cậy và tình mến Chúa.

Lạy thánh Philipphê và thánh Giacôbê, xin chuyển cầu cho chúng con được trở thành những tông đồ tuy vô danh nhưng hữu dụng trong việc xây dựng Nước Chúa ở trần gian. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 9. Thấy Thầy là thấy Cha


--Lm. Đaminh Trần Công Hiển

Được sống với Thầy, được nghe những bài giảng của Thầy về Chúa Cha, Philipphê nhận ra Chúa Cha là Đấng cao cả nhưng cũng rất tốt lành, là nguồn hạnh phúc, cho nên ông và các tông đồ khác đã ước ao được thấy Chúa Cha: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện! Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng khao khát tìm kiếm chân lý của Philipphê và các Tông đồ.

Ước nguyện ấy lại được Chúa Giêsu đáp ứng một cách dễ dàng không ngờ: ai Thấy Thầy là thấy Cha! Một ước vọng có vẻ cao sang nhưng lại được được đáp ứng quá nhanh chóng đến độ bất ngờ như thế, thực sự là một Tin vui hạnh phúc cho loài người chúng ta trên hành trình tìm kiếm chân lý, nhưng nhiều khi cũng vì quá dễ dàng, nên chân lý vĩ đại này lại thường bị bỏ quên. Người ta thích đi con đường dài và  hiểm trở (để quan trọng hóa vấn đề) hơn là chọn con đường có vẻ quá đơn giản như thế. Người ta đi tìm Chúa nơi nao trong khi Chúa ở rất gần, ở bên cạnh, ở trong lòng ta thì lại không biết, không thấy! Người ta thích suy tư lý luận dài dòng phức tạp nhưng lại quên rằng Thiên Chúa của chúng ta và đường lối của Ngài lại rất đơn sơ.

Có lẽ Philipphê và Giacôbê cùng các Tông đồ sau khi được Chúa dạy dỗ bài học hôm nay, đã ý thức để sống thân mật với Chúa hơn, lãnh nhận chân lý với niềm tin yêu, và sau này các Ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho chân lý ấy.

Đối với chúng ta hôm nay, chúng ta có khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm hạnh phúc đích thực không? Có người vất vả đi tìm hạnh phúc tạm bợ, giả tạo nơi tiền bạc, danh vọng, lạc thú…; có người đi tìm ở triết thuyết này, đạo pháp kia; có người biết là phải đi tìm Chúa nhưng không biết tìm ở đâu! Thì đây, Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời đễ dàng đến bất ngờ: Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Thì ra gặp Chúa Giêsu là gặp Chúa Cha nguồn Sự thật, thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha nguồn sự sống, yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Mà làm thế nào để tìm biết Chúa Giêsu?

Nếu anh biết Thầy, anh cũng sẽ biết Cha. Khổ nỗi, cho đến hôm nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết Chúa Giêsu, mặc dù ta mang danh là Kitô hữu, ta vẫn nghe Kinh Thánh mỗi ngày, vẫn rước Chúa mỗi ngày! Nếu một người lương dân hỏi: Chúa Kitô là ai? Có lẽ phần đông chúng ta cũng gặp khó khăn trong câu trả lời đấy! Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại cách sống đạo của chính mình, kẻo chúng ta cũng bị trách như Chúa Giêsu trách Philipphê: Thầy ở với anh bấy lâu mà anh không biết thầy ư? Phải chăng chúng ta cần tiếp cận Kinh Thánh một cách ý thức hơn, dành thời giờ học hỏi Kinh Thánh nhiều hơn, để biết đọc, biết suy, biết cảm nếm, để chúng ta có thể gặp được Đức Kitô Phục sinh đang sống động trong từng trang, từng Lời Kinh Thánh và để chính Đức Kitô sống động trong cuộc sống thường ngày của ta.

Nhiều anh chị em sau khi tham gia những khóa học Kinh thánh đã phải thốt lên: bây giờ tôi mới biết Đức Kitô là ai, bây giờ tôi mới cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào! Trước đó họ vẫn đọc Kinh Thánh chứ, vẫn nghe Kinh Thánh, vẫn học giáo lý, vẫn nghe giảng dậy hàng ngày, nhưng có lẽ những hiểu biết, Đức Tin, lòng yêu mến có được chỉ là vay mượn, không đích thật là của mình, cho nên nó hời hợt, không có chiều sâu và dễ bị nghiêng ngả chao đảo khi gặp thử thách đau khổ. Chỉ khi nào chính mình khám phá, trải nghiệm thì Đức Tin vào Đức Ki tô mới kiên vững, tình mến vào Chúa Kitô mới nồng nàn, và như thế chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha là nguồn chân lý, bình an và hạnh phúc, và khi đó, chúng ta có thể làm được những điều như Chúa Giêsu đã làm, đó là làm nhân chứng cho Tin Vui phục sinh ở mọi nơi, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa con, để nhân loại được hạnh phúc trong Tình yêu của Chúa Ba Ngôi.

Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh. Amen

-------------------------------

 

Suy Niệm 10. Phi-líp-phê tông đồ


--hanoi

Chúa Giê-su luôn gần gũi với các môn đệ, và vẫn gần gũi bên chúng ta.

Trong Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su đã giải thích cho các Tông Đồ rằng Người đã sửa soạn chỗ cho họ trên trời, để họ sẽ được ở với Người mãi mãi, và họ đã biết cách để đến nơi đó. Cuộc hàn huyên cứ tiếp tục – các Tông Đồ nêu câu hỏi, và Thầy Chí Thánh trả lời. Lúc ấy, Phi-líp-phê nêu lên một câu hỏi dường như lạc lõng: “Lạy Thầy, xin tỏ chúng con thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giê-su đã trách yêu người môn đệ: “Thầy đã ở với con bấy lâu rồi, mà con vẫn chưa biết Thầy sao, hỡi Phi-líp-phê? Hễ ai nhìn thấy Thấy là đã nhìn thấy Cha Thầy, sao con lại nói, ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Cha”.’Có lẽ nhiều lần Chúa Giê-su cũng phải trách chúng ta như đã trách thánh Phi-líp-phê! Thầy đã ở với con bấy lâu rồi mà con vẫn không nhận ra Thầy sao! Chúa có thể kể cho chúng ta hết trường hợp này đến trường hợp khác, những lần chúng ta có lẽ đã vì áp lực hoàn cảnh mà quên mất mình là con cái Chúa và sự gần gũi của Người. Chúng ta thấy lời đáp của Chúa Giê-su dành cho người Tông Đồ thật an ủi biết bao! Chúng ta cũng nhận ra nơi vị Tông Đồ ấy con người của chúng ta.

Chúa Giê-su mặc khải về Chúa Cha. Nhân tính Chúa Ki-tô là con đường để nhận biết và yêu mến Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con và Thiên Chúa Thánh Thần. Cách thế thông thường để đến với Thiên Chúa Ba Ngôi là chiêm ngắm Chúa Kitô. Nơi Người, chúng ta có mặc khải tối chung về Thiên Chúa dành cho nhân loại. Chính Người đã đến bổ túc và hoàn tất mặc khải, bằng tất cả sự hiện diện của Người, và tỏ mình qua lời nói cũng như việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang, sau cùng bằng việc phái Thần Chân Lý đến. Người xác nhận Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi cho chúng ta sống lại để được sống đời đời. Chúa Ki-tô làm cho cuộc đời của chúng ta được sung mãn. Thánh Au-gút-ti-nô đã nói, Thiên Chúa đủ cho bạn rồi. Ngoài Người ra, không gì có thể nói được như thế. Thánh Phi-líp-phê đã hiểu điều này rất rõ khi nói rằng: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con” Chúng ta đã có một niềm xác tín như thế chưa?

-------------------------------

 

Suy Niệm 11. Philipphê và Giacôbê tông đồ


--Enzo Lodi

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Theo truyền thống, việc cử hành lễ này bắt nguồn từ việc cung hiến đại thánh đường dâng kính Mười hai vị thánh Tông Đồ tại Rôma ngày 1 tháng 5 năm 565. Nhân dịp này, có lẽ người ta đã đặt dưới bàn thờ thánh tích của các Tông Đồ Philípphê và Giacôbê. Vì thế, ở Tây Phương, người ta mừng lễ chung cả hai thánh.

Thánh Philipphê (tiếng hy-lạp = Philippos = người thích ngựa), là một trong nhóm Mười hai, quê quán tại Betsaide, cùng thành phố với Anđrê và Phêrô (Ga 1,44). Trong danh sách các Tông Đồ, ngài luôn chiếm vị trí thứ năm, và trong sách Tin mừng của Gioan, ngài xuất hiện ba lần trong tư cách người bạn tâm giao của Đức Giêsu. Ngài đã nói với Nathanael: Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: Đó là ông Giêsu... Cứ đến mà xem (Ga1,45 –46). Rồi cùng với Anđrê, ngài tham gia vào hai việc quan trọng: lúc đầu, lúc Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều và trước ngày Chúa chịu khổ nạn – đó là ngày Đức Giêsu vinh quang tiến vào Giêsusalem; lần sau, khi ngài làm môi giới cho các khách hành hương Hy Lạp muốn gặp Đức Giêsu (Ga12, 20 –21). Tin mừng của Gioan còn cho ta thấy ngài tại bàn Tiệc Ly, ngài nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha...” (Ga 14, 8 tt).

Theo truyền thuyết, có lẽ Philípphê đã rao giảng Tin Mừng cho miền Tiểu Á và chịu đóng đinh tại Hiérapolis, vùng Phrygie. Nghệ thuật ảnh tượng thường minh họa ngài với cây thập giá trong cuộc tử đạo, hay đang lúc chịu đóng đinh.

Giacôbê – được gọi Hậu hay Tiểu huynh – cũng là một trong nhóm Mười hai. Người ta thường đồng hóa ngài với Giacôbê, người anh em của Chúa (Gl 1,19, Mc 6,3), là giám mục Giêrusalem và nhân vật hàng đầu của Hội thánh tiên khởi (Cv 15). Đức Giêsu hiện ra cho ngài sau khi Người đã phục sinh (Cv 15, 1- 8) và có lẽ ngài cũng là tác giả của thư Giacôbê.

Theo lưu truyền, Giacôbê Hậu chịu tử đạo tại Giêrusalem. Sau khi đẩy ngài từ trên cao Đền thờ xuống, người ta kết liễu đời ngài bằng cuộc ném đá. Nghệ thuật ảnh tượng minh họa ngài với một cái chùy cối xay, hay cuốn sách.

2. Thông điệp và tính thời sự

a. Lời cầu xin của Philípphê với Đức Giêsu: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha; như thế là chúng con mãn nguyện (Phúc Âm ngày lễ: Ga 14,6-14) và lời đáp của Thầy: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, tất cả đều là trọng tâm của lời kinh Phụng Vụ.

Lời nguyện nhập lễ gợi lại mục đích đời sống Kitô hữu: là “được thông phần vào cuộc Khổ nạn và Phục Sinh” của Đức Kitô để “được chiêm ngưỡng vinh quang của Người”. Quả vậy, chính Đức Kitô là đường dẫn đến Chúa Cha: Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến với Cha mà không qua Thầy... Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha Thầy (câu 6 và 9). Các câu này trở đi trở lại nhiều lần trong Thánh lễ và trong các giờ kinh Phụng Vụ.

b. Cả Philípphê lẫn Giacôbê đều được thấy Đấng Phục Sinh và đã làm chứng về Người. Giacôbê được thánh Phaolô nhắc đến (1 Cr 15,8) như là một nhân chứng về sự sống lại của Chúa:... sau đó, Ngài cũng hiện ra cho Giacôbê (bài đọc một trong Thánh lễ).

Lời nguyện trên lễ vật gợi lại lòng đạo đức đích thật được các Tông Đồ Philípphê và Giacôbê giảng dạy và chúng ta được mời gọi “thực thi cách tinh truyền và không có gì đáng trách”. Như thế, chúng ta cũng nhớ đến Thư của thánh Giacôbê – Theo lưu truyền được gán cho Giacôbê, người anh em của Chúa – qua đó chúng ta đọc: Lòng đạo đức tinh truyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian (Gc 1,27). Vậy sự tôn thờ đích thật, phù hợp với lời giảng dạy của các ngôn sứ, không thể tách rời khỏi lẽ công bình và lòng yêu mến các kẻ “Hèn mọn”:... Hãy tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ (Is 1,17)

-------------------------------

 

Suy Niệm 12. Thánh Philipphê và thánh Giacôbê


--Tin Mừng hằng ngày

-- trungtammucvudcct.com

Trong số những người Galilê diễm phúc được Chúa Giêsu tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để sống thân mật bên Chúa có thánh Philipphê, con ông Alphê, và thánh Giacôbê Hậu.

Thánh Giacôbê là một trong những người được gặp Chúa Phục Sinh hiện đến, như chúng ta đọc trong bài đọc Một.

Chúa Giêsu không bao giờ làm ai phải thất vọng. Sứ vụ tông đồ là dẫn đưa các thân nhân và bạn hữu đến cùng Chúa: nhiệm vụ chúng ta là thông mở một con đường, và dẹp bỏ mọi cản trở khiến làm họ không thể nhìn thấy Chúa Kitô. Chúa đã gọi chúng ta và muốn đi vào linh hồn những ai đến cùng Người, như trong trường hợp Natanael. Về sau Natanael đã trở thành một trong mười hai Tông Đồ của Chúa, mặc dù lúc đầu tỏ ra nghi ngờ lời giới thiệu của Philipphê. Thái độ của Natanael là: Ở Nazareth nào có cái chi hay? Chúng ta cũng thường gặp cảnh ngộ như thế, và câu trả lời của chúng ta sẽ là: Hãy đến mà xem! Bất kỳ ai nghe lời chúng ta và đến gặp Chúa Giêsu nhất định sẽ không bao giờ cảm thấy bị dối lừa.

Thánh Philipphê và thánh Giacôbê hiện nay đang cầu bầu cho chúng ta trước tòa Chúa. Chúng ta trao phó cho các ngài sứ vụ tông đồ nơi những thân nhân và bạn hữu của chúng ta.

Trong Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã giải thích cho các Tông Đồ rằng Người đã sửa soạn chỗ cho họ trên trời, để họ sẽ được ở với Người mãi mãi, và họ đã biết cách để đến nơi đó. Cuộc hàn huyên cứ tiếp tục – các Tông Đồ nêu câu hỏi, và Thầy Chí Thánh trả lời. Lúc ấy, Philipphê nêu lên một câu hỏi dường như lạc lõng: Lạy Thầy, xin tỏ chúng con thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con. Chúa Giêsu đã trách yêu người môn đệ: Thầy đã ở với con bấy lâu rồi, mà con vẫn chưa biết Thầy sao, hỡi Philipphê? Hễ ai nhìn thấy Thấy là đã nhìn thấy Cha Thầy, sao con lại nói, ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Cha.’ Có lẽ nhiều lần Chúa Giêsu cũng phải trách chúng ta như đã trách thánh Philipphê! Thầy đã ở với con bấy lâu rồi mà con vẫn không nhận ra Thầy sao! Chúa có thể kể cho chúng ta hết trường hợp này đến trường hợp khác, những lần chúng ta có lẽ đã vì áp lực hoàn cảnh mà quên mất mình là con cái Chúa và sự gần gũi của Người. Chúng ta thấy lời đáp của Chúa Giêsu dành cho người Tông Đồ thật an ủi biết bao! Chúng ta cũng nhận ra nơi vị Tông Đồ ấy con người của chúng ta.

Truyền bá sứ điệp các Tông Đồ. Công việc tông đồ trên nền tảng siêu nhiên.

Trong bài đọc Một thánh lễ hôm nay, chúng ta đọc những lời thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Côrinthô: Tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Thánh Kinh, và Người đã hiện ra với ông Cephas. Thánh Phaolô đã nhận lãnh từ các Tông Đồ một sứ điệp mà sau đó ngài đã loan truyền. Đó cũng chính là sứ điệp thánh Philipphê và thánh Giacôbê đã rao giảng và đã hiến mạng sống để minh chứng. Hai ngài, cũng như vị Tông Đồ dân ngoại, biết rõ rằng cốt lõi sứ điệp các ngài rao giảng chính là Chúa Giêsu Kitô, con đường đến cùng Chúa Cha. Đây là Tin Mừng đã được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, như chúng ta đã đọc trong phần Đáp Ca: Sứ điệp truyền tụng ngày này sang ngày khác, đêm này sang đêm kia. Chúng ta không có một sứ điệp nào mới lạ để rao truyền, bởi vì nội dung sứ điệp ấy vẫn không thay đổi: Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đã sống lại, và hiện nay Người vẫn đang sống bên chúng ta. Người yêu thương, Người đã sắm sẵn một hạnh phúc muôn đời cho chúng ta bên Người, khi chúng ta được diện đối diện với Người.

Một lần nữa, chúng ta lại thấy Chúa Giêsu xúc động và cảm thương dân chúng, những người cần được cảm thông và an ủi. Nhưng Chúa muốn các Tông Đồ đừng quên Người luôn ở bên cạnh họ: Này đây Thầy ở cùng các con luôn mãi. Chúa đã cho các ngài biết như thế trong những ngày cuối đời của Người trên dương thế. Thầy đã ở với con bấy lâu nay mà con vẫn chưa biết Thầy sao, hỡi Philipphê? Thiên Chúa là Đấng cho chúng ta nương cậy và sống cho quân bình. Trong việc tông đồ nơi thân nhân, bạn hữu, những người thân quen, quả thật chúng ta đã tính đến những phương tiện nhân loại, tính đến hai trăm đồng bạc, và thấy chẳng bao giờ đủ; nhưng chúng ta đừng quên Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta với quyền năng và lòng thương vô biên. Hiện giờ Chúa vẫn đang ở bên chúng ta. Những nhu cầu và khó khăn trong công việc tông đồ càng chồng chất, sự trợ giúp của Chúa Giêsu càng lớn lao. Chúng ta đừng ngần ngại chạy đến với Người.

Thánh Giacôbê là người bà con với Chúa Giêsu, được gọi là Giacôbô Hậu để phân biệt với thánh Giacôbê, anh của thánh Gioan. Ngài làm giám mục tiên khởi Jerusalem, và thực hiện công cuộc truyền bá Tin Mừng tại đó. Truyền thống cho chúng ta biết ngài là một người rất khắc khổ, nhưng đầy nhân ái với người chung quanh. Thánh Phêrô, thánh Gioan, và thánh Giacôbê Hậu được coi như những ‘cột trụ’ của Giáo Hội thời sơ khai. Thánh Giacôbê chịu tử đạo tại Jerusalem vào khoảng năm 62. Ngài là tác giả của một thư trong bộ Tân Ước.

-------------------------------

 

Suy Niệm 13. Thánh Philípphê và thánh Giacôbê


--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Ca nhập lễ ngày lễ hai thánh Philípphê và Giacôbê tông đồ có viết rằng: ”Đây là những vị thánh, Chúa đã lấy tình thương chân thành mà tuyển chọn và đã cho các Ngài được vinh quang muôn thuở”. Hại thánh Philípphê và Giacôbê đã được Chúa yêu thương cất nhắc, mời gọi để các Ngài trở nên cột trụ và nhân chứng cho Giáo Hội Chúa Kitô.

ƠN GỌI CỦA CÁC NGÀI

Chúa kêu gọi ai, tuyển chọn, cất nhắc người  nào là do tình thương nhưng không của Ngài.Trường hợp của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: ”Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9).Thánh Philípphê cũng được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti. Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê. Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để  dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.

CHÚA TRAO MŨ TRIỀU THIÊN CHO CÁC NGÀI và GIÁO HỘI TÔN PHONG CÁC NGÀI:

Như Thầy của mình, các môn đệ đã liều mình, hy sinh mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Các Ngài nhất nhất chết cho tình yêu. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: ”Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Như Chúa Giêsu các Ngài đều nhất loạt cầu nguyện cho kẻ thù làm hại các Ngài: ”Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34). Các Ngài đã cảm nghiệm sâu sắc thế nào là tình yêu đến tự Thiên Chúa như Henri J.M Nouwen đã viết: ”Khi tình yêu đến từ Thiên Chúa, thì tình yêu đó bền bỉ”.

Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê. Xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ).

-------------------------------

 

Suy Niệm 14. Nhận ra Thiên Chúa là Cha


--5 phút với Lời Chúa

Chúa Giê-su nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” (Ga 14,9-10)

Suy niệm: Người ta có thể tìm Thiên Chúa như một ai đó xa lạ, hay một nhà phù thủy, một thủ kho để xin xuất mấy khoản cần thiết; thậm chí họ tìm Ngài như truy tìm một thủ phạm của những khổ đau trùng điệp trên thế giới! Một Thiên Chúa như thế không phải là Thiên Chúa mà Chúa Giê-su nói tới và sống thân tình như Người Con đối với Cha mình. Chính các tông đồ cảm nhận điều đó và coi là một diễm phúc khi được biết Cha của Đức Giê-su được gọi Ngài là Cha: “Lạy Thầy xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là mãn nguyện cho chúng con rồi.” Đi tìm Thiên Chúa với khát vọng tự nhiên và chính đáng này, người ta sẽ gặp Ngài nơi Đức Giê-su vị Thiên Chúa làm người, sống và chết cho con người – Một Thiên Chúa Tình yêu: “Ai thấy Thầy là thấy Cha. Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha”.

Mời Bạn tạ ơn Chúa Giê-su là “đường-sự thật-sự sống” đã cho chúng ta biết, yêu và sống hạnh phúc với Chúa Cha.

Chia sẻ: Cách sống đạo của tôi/chúng tôi hiện nay sẽ làm cho người lương dân nhận biết một Thiên Chúa nào?

Sống Lời Chúa: Trung thành với việc gặp gỡ Chúa mỗi ngày qua các buổi đọc kinh cầu nguyện sáng tối.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Cha nhân lành. Cha cho chúng con một con đường để đến với Cha là Chúa Giê-su. Xin Cha cho mọi người lòng khát khao được biết Cha và xin lôi kéo họ đến với Người Con của Cha là Đức Chúa Giê-su, để biết lắng nghe Lời Ngài hầu có thể nhận ra Cha là Thiên Chúa Tình yêu và hạnh phúc cho tâm hồn. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 15. Philipphê và Giacôbê tông đồ


--Theo vết chân Người

Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời xác các Ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên lễ kính các Ngài được dời vào ngày 03 tháng 5.

Thánh GIACÔBÊ (hậu)

Chỉ có một chỉ dẫn Tân Ước cung ứng cho chúng ta về vị tông đồ thứ hai mang tên Giacôbê: Ngài “là con ông Alphêô” (x. Mt 10,3 – Mc 3,18 – Lc 6,15 – Cv 1,13). Vậy không đáng ngạc nhiên gì, khi có nhiều cố gắng đồng hóa Ngài với một hay nhiều người cùng mang tên là Giacôbê ở trong Tân Ước. Có Giacôbê “người anh em của Chúa” (x. Cl 1,19).

Có lẽ Ngài đã được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra (x. 1Cr 15,7) và chắc chắn Ngài là thủ lãnh Giáo hội Giêrusalem (x. Cv 12,17 – 15,13 – 21,18). Sau cùng, người được đồng hoá với người anh em của Chúa được nhắc đến trong Phúc Âm (x. Mt 13,55 – Mc 6,3). Đó là ý kiến của Thánh Hiêrônimô và được nhiều người chấp nhận, nhưng các học giả ngày nay muốn phân biệt hai người khác nhau và Phúc Âm chỉ giản dị ghi lại tên Ngài.

Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết” (x. Cv 12,17).

Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông.” (x. Gl 2,9)

Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv 15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).

Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.

Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời.”

Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá Ngài.

Thánh PHILIPPHÊ

Thánh Philipphê là người Bethsaida (x. Ga 1,44). Trên đường đi Galilêa, Chúa Giêsu đã gọi ông. Đến lượt mình chính Philipphê lại giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael: “Đấng mà Môisê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến chúng tôi đã gặp rồi” (x. Ga 1,45).

Và ông còn khích lệ thêm: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).

Khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu đã tin tưởng và ông hỏi: “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn” (x. Ga 6,5).

Như vậy Chúa Giêsu đã kết hiệp với ông trước hết trong việc chuẩn bị cho phép lạ này.

Dịp lễ vượt qua sau cùng của Chúa Giêsu, các lương dân đã nhờ Philipphê xin Chúa cho họ được gặp Người: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu” (x. Ga 12,21).

Sau cùng, trong cuộc đàm đạo thân mật sau bữa Tiệc Ly, Philipphê lên tiếng hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thày, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con rồi”.

Chúa Giêsu nói với ông: “Đã lâu rồi, Ta ở với các ngươi, thế mà, Philipphê, ngươi đã không biết Ta ư? Ai thấy ta là đã thấy Cha. Làm sao ngươi nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha (x. Ga 14,8-9).

Các tông đồ chỉ hiểu được chiều kích rộng lớn của những lời này khi Chúa Thánh Thần soi sáng cho các ông.

Đó là tất cả những gì mà sách Phúc Âm nói với chúng ta về thánh tông đồ Philipphê. Sau này truyền thống cho chúng ta biết thánh Philipphê đã đi rao giảng Phúc Âm ở Scythia và Phrygia. Nhưng rất có thể người ta đã lầm thánh nhân với vị phó tế cũng có tên là Philipphê. Về cái chết của Ngài, không có gì là chắc chắn. Có tài liệu nói rằng: Ngài tử vì đạo. Có tài liệu lại cho rằng: Ngài chết già.

-------------------------------

 

Suy Niệm 16. Philipphê và Giacôbê tông đồ


--Lm. Anthony Trung Thành

Thánh Philipphê là người Bétxaiđa, cùng quê với Thánh Anrê và Thánh Phêrô (x. Ga 1,44). Trước khi theo Chúa Giêsu, Ngài là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu cho  ông Nathanael (x. Ga 1,45-46). Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? Philipphê trả lời: Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (x. Ga 6,5). Trong bài Tin mừng hôm nay ông đã mạnh dạn xin Chúa Giêsu “Cho thấy Chúa Cha” (x. Ga 14,8). Chúa Giêsu đã cho ông biết: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (x. Ga 14, 9). Sau ngày lễ Ngũ Tuần, Ngài đi truyền giáo tại Sitti, rồi giảng dạy ở Hiêrapoli, xứ Rigie và chịu đóng đinh vì danh Chúa tại đây.

Thánh Giacôbê, còn gọi là Giacôbê hậu, là anh em bà con với Chúa Giê-su (x. Mt 13,55 - Mc 6,3) và là con của ông Anphê (x. Mt 10,3 - Mc 3,18 - Lc 6,15 - Cv 1,13). Ngài được Chúa Kitô phục sinh hiện ra cách riêng (x. 1Cr 15,7). Ngài đã từng lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem (x. Cv 12,17 - 15,13 - 21,18) và giúp cho nhiều người Do thái đón nhận đức tin (x. Cv 15,13-31). Ngài có một địa vị quan trọng trong cộng đoàn sơ khai. Nhờ đâu, chúng ta khẳng định như vậy? Thứ nhất, khi Phêrô được thiên thần giải thoát khỏi ngục tù đã nói: "Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết" (x. Cv 12,17). Thứ hai, sau khi trở lại, Thánh Phaolô đã từng gặp Giacôbê, và lần cuối cùng gặp Giacôbê khi ông đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18). Thứ ba, Thánh Phaolô cũng nhắc đến Giacôbê trong thư Côlôsê: "Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hiệp thông" (x. Gl 2,9). Thánh Gia-cô-bê để lại một bức thư. Ngài chịu tử đạo năm 62.

Trên đây là một vài điểm quan trọng, liên quan đến cuộc đời của hai vị thánh mà Giáo hội cho chúng ta mừng kính hôm nay. Hai vị Thánh vinh dự được Chúa Giêsu trực tiếp chọn vào số các Tông đồ. Các Ngài được chính Chúa Giêsu huấn luyện trong suốt ba năm, được nghe những lời Giáo huấn của Chúa, được thấy những phép lạ Chúa làm. Đặc biệt, các Ngài được chứng kiến cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Thầy mình. Chính vì vậy, cũng như các Tông đồ khác, các Ngài đã dấn thân không mệt mỏi trong công cuộc rao giảng và làm chứng về những gì mắt thấy tai nghe. Các Ngài đã ý thức được trách nhiệm phải trao ban những gì mình đã lãnh nhận. Đó cũng là tâm tình của Thánh Phaolô nói với các tín hữu ở Côrintô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ I, Ngài nói: “Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi sau với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non” (1Cr 15, 3-8).

Vì đã lãnh nhận trách nhiệm làm Tông đồ, nên qua mọi thời đại, Giáo hội cũng tiếp tục dấn thân làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách thế khác nhau. Thư chung của HĐVMVN năm 2003 diễn tả: "Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới".

Sứ mạng của Giáo hội cũng là sứ mạng của mỗi người kitô hữu chúng ta. Cũng trong thư chung năm 2003, HĐGM Việt Nam mời gọi: “Sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam".

Nhưng phải loan báo Tin mừng bằng cách nào?

Như Philipphê đã giới thiệu Chúa cho Nathanael, chúng ta cũng hãy giới thiệu Chúa cho những người xung quanh chúng ta. Nhưng để giới thiệu Chúa cho người khác thì chính chúng ta phải gặp gỡ Chúa trước, phải hiểu biết về Ngài, phải có niềm xác tín vào Ngài là Thiên Chúa: Gặp Chúa qua việc đọc và Kinh Thánh; gặp Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích; gặp Chúa qua đời sống cầu nguyện…Để khi có người nghi ngờ về lời giới thiệu của chúng ta, chúng ta có thể nói với họ như Philípphê đã nói với Nathanael rằng: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).

Như Philipphê dẫn người Hilạp đến gặp Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm dẫn người khác đến gặp gỡ Chúa. Cha xứ dẫn đoàn chiên trong giáo xứ tới gặp Chúa. Thầy cô giáo lý viên dẫn dắt học sinh tới gặp Chúa qua các giờ giáo lý. Cha mẹ dẫn con cái của mình tới gặp Chúa. Người kitô hữu dẫn những người lương dân tới gặp Chúa…

“Đức Tin không có hành động quả là đức tin chết”(Gc 2,17), thánh Giacôbê đã nói như vậy. Vì vậy, mỗi người kitô hữu chúng ta không những rao giảng Tin mừng bằng lời nói mà còn bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Để nhân loại nhận ra Chúa qua chúng ta.

Trong một thánh lễ kính các tông đồ, tôi nhớ mang máng nội dung một bài hát như thế này: “Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta, Người đến với mọi người. Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta Người đến với mọi nơi”.

Ý nghĩa của lời hát trên nói lên tất cả sứ mạng của người làm Tông đồ. Thật vậy, người Tông đồ cần phải có Chúa Kitô trong mình mới có thể mang Chúa Kitô đến cho những khác. Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống như Đức Kitô đã sống để người khác thấy Chúa Kitô nơi người Tông đồ. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống bác ái yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống công bằng, chân thật. Vì Chúa Giêsu từng nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).

Cũng như Chúa Giêsu Kitô đã hoạ lại hình ảnh của Chúa Cha, để ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha (x. Ga 14, 9). Người Tông đồ cũng phải hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô nơi chính lời nói và việc làm của mình, để ai thấy người Tông đồ là thấy Chúa Giêsu Kitô.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, để tiếp tục công việc cứu độ thế gian, Chúa đã chọn Thánh Philipphê và thánh Giacôbê Tông đồ và hai thánh đã chu toàn xuất sắc bổn phận Chúa trao phó. Làm Tông đồ cũng là sứ mạng Chúa trao phó cho Giáo hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con cố gắng chu toàn bổn phận ấy, để qua chúng con Chúa đến được với mọi người. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 17. Philipphê và Giacôbê tông đồ


--donboscoviet.info

–  Bài Tin Mừng hôm nay, Lễ Kính các thánh Tông Đồ Philípphê và Giacôbê, thì giống như bài Tin Mừng chúng ta trong tuần thứ tư Phục Sinh, và kể lại lời yêu cầu của thánh Tông Đồ Philípphê thưa với Chúa Giêsu:  “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.

–  Ga 14:6:  Thầy là đường, là sự thật và là sự sống:  Tôma thưa với Chúa Giêsu:  “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” (Ga 14:5). Chúa Giêsu đáp:  “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”  Ba chữ quan trọng. Không có đường, chúng ta không thể đi lại được. Không có sự thật, người ta không thể có một sự chọn lựa tốt. Nếu không có sự sống, thì chỉ có cái chết!  Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa này. Người là đường, bởi vì không ai “đến được với Cha mà không qua Thầy”. Người là cửa, mà các con chiên ra vào (Ga 10:9). Chúa Giêsu là Sự Thật, bởi vì nhìn vào Người, chúng ta trông thấy hình ảnh của Chúa Cha. “Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy!”  Chúa Giêsu là Sự Sống, bởi vì đi theo Chúa Giêsu chúng ta sẽ được kết hợp với Chúa Cha và sẽ có sự sống trong chúng ta!

–  Ga 14:7:  Biết Chúa Giêsu là biết Chúa Cha. Tôma thưa với Chúa Giêsu:  “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?”  Chúa Giêsu trả lời:  “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”  Và Người thêm rằng:  “Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người”. Đây là câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu luôn nói về Chúa Cha, bởi vì sự sống của Chúa Cha xuất hiện trong mọi việc Chúa Giêsu nói và làm. Việc nhắc đến liên tục này về Chúa Cha đã khiến cho ông Philípphê đưa ra câu hỏi.

–  Ga 14:8-11:  Philípphê thưa:  “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con!”  Đó là niềm ao ước của các môn đệ, niềm ao ước của nhiều người trong cộng đoàn người Môn Đệ Chúa Yêu và đó cũng là niềm ao ước của nhiều người ngày nay. Người ta làm gì để được thấy Chúa Cha, Đấng mà Chúa Giêsu nhắc đến nhiều như thế?  Câu trả lời của Chúa Giêsu rất tuyệt vời và còn giá trị cho đến ngày nay:  “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư?  Philípphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha!”  Người ta không nên nghĩ rằng Thiên Chúa thì xa vời với chúng ta, ngăn cách và xa lạ. Bất cứ ai muốn biết Thiên Chúa Cha ra sao, thì chỉ cần nhìn vào Chúa Giêsu là đủ. Người đã mặc khải trong lời nói và cử chỉ của cuộc đời mình!  “Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy!”  Qua sự vâng phục của mình, Chúa Giêsu đã hoàn toàn xác định căn tính của mình với Chúa Cha. Tất cả những gì Người làm là làm theo ý của Chúa Cha (Ga 5:30; 8:28-29, 38). Đây là lý do tại sao trong Chúa Giêsu, mọi việc là sự mặc khải về Chúa Cha!  Và những dấu lạ hay việc làm của Người là việc làm của Chúa Cha!  Như người ta nói rằng:  “Người con là khuôn mặt của cha!”  Đây là lý do tại sao trong Chúa Giêsu và vì Chúa Giêsu, Thiên Chúa ở giữa chúng ta.

–  Ga 14:12-14:  Lời hứa của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hứa rằng sự gần gũi với Chúa Cha không phải là một đặc quyền chỉ dành riêng cho Người, mà nó có thể dành cho tất cả những ai Tin vào Ngài. Chúng ta cũng thế, nhờ Chúa Giêsu, cũng có thể làm những điều tốt đẹp cho người khác như Chúa Giêsu đã làm cho người ta vào thời của Người. Chúa Giêsu cầu bầu cho chúng ta. Tất cả mọi việc mà người ta cầu xin cùng Người, Người xin với Chúa Cha và sẽ được, luôn luôn nếu đó là để phục vụ. Chúa Giêsu là Đấng bàu chữa cho chúng ta. Chúa ra đi nhưng Người không để chúng ta đơn côi. Chúa hứa rằng Người sẽ xin cùng Chúa Cha và Chúa Cha sẽ sai một Đấng Bảo Trợ và An Ủi khác, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu thậm chí còn nói rằng thật là cần thiết để Chúa đi, bởi vì nếu không thì Chúa Thánh Thần sẽ không đến (Ga 16:7). Và Chúa Thánh Thần sẽ thực hiện đầy đủ những việc của Chúa Giêsu trong chúng ta, nếu chúng ta hành động nhân danh Chúa Giêsu và tuân theo các giới răn trọng nhất của việc thực hành tình yêu thương.

-------------------------------

 

Suy Niệm 18. Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ


--tgpsaigon.net

Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma cùng với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời xác các ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên lễ kính các ngài được dời vào ngày 03 tháng 05.

Thánh PHILIPPHÊ

Thánh Philipphê là người Bethsaida (x. Ga 1,44). Trên đường đi Galilêa, Chúa Giêsu đã gọi ông. Đến lượt mình chính Philipphê lại giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael: “Đấng mà Môisê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến chúng tôi đã gặp rồi” (x. Ga 1,45).

Và ông còn khích lệ thêm: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).

Khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu đã tin tưởng và hỏi ông: “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn” (x. Ga 6,5).

Như vậy Chúa Giêsu đã kết hiệp với ông trước hết trong việc chuẩn bị cho phép lạ này.

Dịp lễ vượt qua sau cùng của Chúa Giêsu, các lương dân đã nhờ Philipphê xin Chúa cho họ được gặp Người: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu” (x. Ga 12,21).

Sau cùng, trong cuộc đàm đạo thân mật sau bữa Tiệc Ly, Philipphê lên tiếng hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thày, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con rồi”.

Chúa Giêsu nói với ông: “Đã lâu rồi, Ta ở với các ngươi, thế mà, Philipphê, ngươi đã không biết Ta ư? Ai thấy ta là đã thấy Cha. Làm sao ngươi nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha (x. Ga 14,8-9).

Các tông đồ chỉ hiểu được chiều kích rộng lớn của những lời này khi Chúa Thánh Thần soi sáng cho các ông.

Đó là tất cả những gì mà sách Phúc Âm nói với chúng ta về thánh tông đồ Philipphê. Sau này truyền thống cho chúng ta biết thánh Philipphê đã đi rao giảng Phúc Âm ở Scythia và Phrygia. Nhưng rất có thể người ta đã lầm thánh nhân với vị phó tế cũng có tên là Philipphê. Về cái chết của Ngài, không có gì là chắc chắn. Có tài liệu nói rằng: Ngài tử vì đạo. Có tài liệu lại cho rằng: Ngài chết già.

Thánh GIACÔBÊ (hậu)

Chỉ có một chỉ dẫn Tân Ước cung ứng cho chúng ta về vị tông đồ thứ hai mang tên Giacôbê: Ngài “là con ông Alphêô” (x. Mt 10,3 - Mc 3,18 - Lc 6,15 - Cv 1,13). Vậy không đáng ngạc nhiên gì, khi có nhiều cố gắng đồng hóa Ngài với một hay nhiều người cùng mang tên là Giacôbê ở trong Tân Ước. Có Giacôbê “người anh em của Chúa” (x. Cl 1,19).

Có lẽ Ngài đã được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra (x. 1Cr 15,7) và chắc chắn Ngài là thủ lãnh Giáo hội Giêrusalem (x. Cv 12,17 - 15,13 - 21,18). Sau cùng, người được đồng hoá với người anh em của Chúa được nhắc đến trong Phúc Âm (x. Mt 13,55 - Mc 6,3). Đó là ý kiến của Thánh Hiêrônimô và được nhiều người chấp nhận, nhưng các học giả ngày nay muốn phân biệt hai người khác nhau và Phúc Âm chỉ giản dị ghi lại tên Ngài.

Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết” (x. Cv 12,17).

Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông”. (x. Gl 2,9)

Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv 15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).

Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.

Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời”.

Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá Ngài.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 19. Sự thật dẫn đến sự sống


--Lm Giuse Đinh Quang Thịnh
Chỉ có Đức Giêsu mới có quyền nói: “Ta là đường và là sự thật, sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà lại không nhờ Ta” (Ga 14,6: Tung Hô Tin Mừng).

Ta lưu ý chữ “và” trong tiếng Hy Lạp, khác với “và” trong tiếng Việt: để báo trước chấm dứt một câu văn trong tiếng Việt người ta thường dùng liên từ “và”; còn ngôn ngữ Hy Lạp, “và” báo trước một điều quan trọng. Đan cử:

--- Đức Giêsu truyền cho các môn đệ ban Bí tích Thánh Tẩy nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa: Trong khi người tân tòng được dìm xuống nước, thì phải đọc: “Nhân danh Cha và Con và  Thánh Thần” (Mt 28,19). Như vậy, Chúa Con và Chúa Thánh Thần quan trọng như Chúa Cha.

--- Khi hai ông Phêrô và Gioan vào trong mộ Đức Giêsu, ông Gioan nói: “Tôi đã thấy và tôi tin” (Ga 20,8). Điều này ông Gioan  có ý trách nhiều người thấy xác Chúa Giê-su không còn trong mộ mà vẫn không tin Ngài đã sống lại; còn ông Gioan thì đã tin. Bởi vì thấy không quan trọng, mà tin mới quan trọng. Do đó Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin (x Ga 20, 29).

Như thế, đường đi không quan trọng, đường chỉ quan trọng khi nó dẫn ta đi vào sự thật, đạt được sự sống. Mà chỉ duy Đức Giêsu mới là đường quan trọng nhất dẫn ta đến sự sống dồi dào (x Ga 10,10).

Tổ tiên loài người là Adam, Eva khát vọng không phải chết, lại được thông minh sáng suốt như Thiên Chúa, tự biết phân biệt tốt xấu, và được sống hạnh phúc dồi dào muôn đời như Thiên Chúa (x St 3,4-5). Như thế có phải là kiêu ngạo không?

Thưa không, vì đến như cha mẹ trần thế tuy thuộc loại gian ác (x Mt 7,11) mà còn nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”, thì “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, bởi lòng yêu mến lớn lao của Ngài đã yêu mến ta” (Ep 2,4), nên Đức Giêsu còn hứa cho chúng ta: “Ai tin vào Thầy, thì người ấy cũng sẽ làm được những việc Thầy làm, người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy về cùng Cha” (Ga 14,12: Tin Mừng).

Ta làm được những việc như Đức Giêsu và còn hơn Ngài, chỉ vì Ngài về cùng Cha, hằng chuyển cầu cho chúng ta qua Hy Lễ Ngài thiết lập đã truyền cho Hội Thánh làm hiện tại hóa cho tới ngày cánh chung (x 1Cr 11,24-25). Tác giả thư Do Thái nói: “Chúa Giêsu là Vị Tư Tế tiến vào cung thánh trên trời, tựa neo thần chắc chắn và bền vững của tâm hồn ta, cắm vào tận bên trong bức màn cung thánh” (Dt 6,19). Để mỗi khi ta đến dự Hy Lễ này, ta được trực tiếp nghe Đức Giêsu dạy (x Dt 1,1-2). Lời Ngài đã nghe từ Chúa Cha  và nói lại cho ta biết (x Ga 14,10: Tin Mừng). Ta lại được nhìn các việc Đức Giêsu làm mà noi theo, như chính Ngài đã không tự ý làm việc gì, mà Cha Ngài làm sao thì Ngài làm y như vậy (x Ga 5,19; 14,11: Tin Mừng). Để “ngay từ bây giờ ta được biết Chúa Giêsu là biết Chúa Cha” (Ga 14,7: Tin Mừng).

Trong Kinh Thánh, “biết” là động tác chỉ riêng về việc vợ chồng trao thân cho nhau để sinh con cái. Như Adam biết Eva sinh Cain (x St 4,1), cũng thế, Đức Ma-ri-a thưa với thiên thần Gabriel: “Tôi không biết việc vợ chồng làm sao tôi sinh con?” (Lc 1,34).

Vậy mỗi khi ta dự Lễ cách trọn vẹn, ta được rước Lễ là lúc Chúa Giêsu “trao thân” cho ta, và ta “trao thân” cho Ngài, đó chính là Giêsu biết ta và ta biết Giêsu. Để sau khi dự Lễ về, ta phải “sinh” con cho Thiên Chúa, đó là ta tiếp nối việc làm của Chúa Giêsu và còn làm được hơn Ngài. Thực vậy, suốt đời Đức Giêsu vất vả rao giảng Lời của Cha và phục vụ hết lòng, nhằm cho người ta tin Ngài là Thiên Chúa, để được Ngài dẫn về Thiên Đàng, mà mãi đến giờ hấp hối trên thập giá, Ngài mới đưa được một anh trộm lành vào Thiên Đàng với Ngài (x Lc 23,43). Trong khi đó, mỗi lần ta dự Lễ cầu nguyện cho các linh hồn, biết bao linh hồn được về Thiên Đàng trước ta, hoặc khi ta ban Bí tích Thánh Tẩy cho một người trong tình trạng nguy tử mà họ muốn theo Chúa, sau đó tắt thở, là họ được về Thiên Đàng ngay, trong khi ta vẫn còn là kẻ tội lỗi sống trên dương thế. Ông Phao-lô kể mình được Chúa Giêsu hiện đến với ông là người sau cùng, vì trước đó ông đã bách hại Hội Thánh (x Cv 9). Nhưng Chúa đã thương tái sinh ông dù chỉ là đứa sinh non, sinh thiếu tháng, rất yếu ớt. Thế mà nhờ ông được “biết” Chúa Giêsu, ông đã sinh nhiều tín hữu dân ngoại, lập được nhiều giáo đoàn hơn các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5). Kết quả ông đã đưa nhiều người vào Nước Trời trước ông. Rõ ràng ông làm các việc của Chúa Giêsu nhưng hiệu quả hơn Thầy Giêsu, khi Ngài còn sống trên dương thế. Như lời thánh Phaolô nói: “Nhờ Tin Mừng anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như chúng tôi đã loan báo. Tin Mừng chúng tôi loan báo là “Đức Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng ngày thứ ba Ngài đã sống lại,rồi hiện ra với thủ lãnh Hội Thánh là ông Phêrô, tiếp đó với Nhóm Mười Hai, sau  nữa là Ngài hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, rồi Ngài lại hiện ra với ông Giacôbê, với tất cả các Tông Đồ khác. Sau chót, Ngài đã hiện ra với tôi, chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cr 15,1-8: Bài đọc). Hai Tông Đồ Philipphê và Giacôbê mà Hội Thánh kính hôm nay, cũng chỉ vì các ngài đã sinh nhiều con cho Thiên Chúa – sinh các tín hữu – nhờ các ngài hết lòng loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người theo gương Thầy Giêsu.

Thánh Philipphê là người đã giới thiệu Đấng Mêsia cho ông Nathanael (x Ga 1,45); ông thưa với Đức Giêsu ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng không đủ nuôi đoàn lũ dân đông (x Ga 6,5-7); dân ngoại đến nhờ ông dẫn họ đến gặp Đức Giêsu (x Ga 12,21-22); ông xin Thầy Giêsu cho biết Chúa Cha thế là được mãn nguyện (x Ga 14,8); trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông và các môn đệ cùng cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã đến biến đổi lòng các ông (x Cv 1,13); ông hết lòng giảng Tin Mừng nên bị đóng đinh, xác ông hiện nay được chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.

Thánh Giacôbê là con của ông Alphê (x Mt 10,3); ông là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem (x Gl 1,18-19); ông là một trong những người được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x 1Cr 15,7: Bài đọc). Ông viết một bức thư trong Tân Ước nội dung chính ông đề cao Đức Tin phải thể hiện việc làm, phải biết dùng tiền của đúng ý Chúa, và phải canh giữ lời nói cho xứng hợp với ơn làm con Chúa. Cuối đời, ông bị xô từ nóc Đền Thờ xuống và bị ném đá cho đến chết!

Vì thế mà lời kinh ca tụng những người thành công như các Tông Đồ: “Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu”. Nếu ta không biết sinh con Thiên Chúa để làm vinh hiển Ngài, thì ta thua  các tạo vật, “chúng còn biết tường thuật vinh quang Thiên Chúa, nhờ vẻ đẹp Chúa ban cho để diễn tả quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, dù chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe tiếng âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19/18, 2-5: Đáp ca).

Vì vẻ đẹp, hùng vĩ, kỳ diệu nơi muôn tạo vật mang dấu vết sự hiện diện của Thiên Chúa, mà đỉnh cao là con người được Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài, nên con người không được thua kém các tạo vật ca tụng Thiên Chúa, mà ai cũng phải sống Lời Chúa để nói được như thánh Tông Đồ: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đối với Đức Kitô” (1Cr 11,1). Vì tôi có quyền nói được như Đức Giêsu: “Thiên Chúa luôn ở cùng tôi, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10b: Tin Mừng).

THUỘC LÒNG: Chúa Giêsu nói: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12).

-------------------------------

 

Suy Niệm 20. Hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê


--TS. Antôn Trần Đức Thiện, OCD

Hôm nay cùng với Giáo Hội ta mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Thánh Philipphê là người cùng quê với thánh Phêrô và Andrê sinh tại Betsaiđa, một làng trên bờ biển Tibêriát. Trước kia ngài theo thánh Gioan Tiền Hô và đã trở thành một trong những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ngài là người đưa Nathanael đến gặp Chúa Giêsu và làm chứng rằng Chúa Giêsu là Người mà Môsê đã viết về. Phúc Âm đã nói lên mối liên hệ mật thiết giữa ngài với Chúa Giêsu. Sau khi đã nhận lãnh Thánh Thần, ngài đã đem đức tin lại cho toàn thể dân thành Sitti. Sau đó, ngài đến giảng dạy ở Hiêrapoli, xứ Rigie và chịu đóng đinh vì danh Chúa. Xác ngài được các tín hữu ở đó mai táng, sau được đem về Rôma đặt bên mồ thánh Giacôbê.

Thánh Giacôbê hậu (gọi ngài như thế là để phân biệt với thánh Giacôbê con ông Dêbêdê) là anh em họ với Chúa Giêsu. Ngài là Giám Mục đầu tiên cai quản thành Giêrusalem. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với ngài và chính ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong bộ Tân Ước.Vì trung thành với đức tin, ngài bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng tố cáo và kết án. Ngài bị chúng xô từ trên nóc đền thờ xuống và ném đá cho đến chết. Trước khi chết, ngài còn quỳ gối cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho kẻ thù của mình. Nhìn lại cuộc sống của thánh nhân, ngài không có gì nổi bật như các Tông Đồ khác. Qua điều này, chúng ta có thể nói rằng, thánh nhân là một người thầm lặng đi theo Chúa Giêsu và trung thành cho đến cùng. Đây là điều chúng ta có thể học hỏi ở thánh nhân.

Tất cả chúng ta đều theo Chúa Giêsu trong hoàn cảnh và điều kiện của mình: có người được vị trí hàng đầu, nhưng cũng có người thật âm thầm; có người luôn được nhắc đến, nhưng cũng có người chẳng được ai biết đến. Dù trong vị trí nào, chúng ta có cùng một mục đích, đó là theo Chúa Giêsu và trung thành với Ngài. Vì vậy, vấn đề không phải là đứng trước hay đứng sau, nhưng là trung thành với mục đích theo Chúa của mình.

Cả hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng và mạng sống của mình.

Chúa kêu gọi ai, tuyển chọn, cất nhắc người nào là do tình thương nhưng không của Ngài. Trường hợp của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và cả hai Ngài đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ làm ai phải thất vọng. Sứ vụ tông đồ là dẫn đưa các thân nhân và bạn hữu đến cùng Chúa: nhiệm vụ của chúng ta là thông mở một con đường, dẹp bỏ mọi cản trở khiến họ không thể nhìn thấy Chúa Kitô. Chúa đã gọi chúng ta và muốn đi vào linh hồn những ai đến cùng Người, như trong trường hợp Natanael. Về sau Natanael đã trở thành một trong mười hai Tông Đồ của Chúa, mặc dù lúc đầu tỏ ra nghi ngờ lời giới thiệu của Philipphê.

Như Philipphê đã giới thiệu Chúa cho Nathanael, chúng ta cũng hãy giới thiệu Chúa cho những người xung quanh chúng ta. Nhưng để giới thiệu Chúa cho người khác thì chính chúng ta phải gặp gỡ Chúa trước, phải hiểu biết về Ngài, phải có niềm xác tín vào Ngài là Thiên Chúa: Gặp Chúa qua việc đọc và suy niệm Kinh Thánh; gặp Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích; gặp Chúa qua đời sống cầu nguyện…Để khi có người nghi ngờ về lời giới thiệu của chúng ta, chúng ta có thể nói với họ như Philípphê đã nói với Nathanael rằng: “Hãy đến mà xem”

Nhân dịp mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng ta biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời. Và rồi mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời làm “trung gian” cho Thiên Chúa. Qua Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu phải sống sao để nói với người khác rằng: “Ai thấy tôi là thấy Đức Kitô” và “ai thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa Cha”.

Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh. Amen

-------------------------------

 

Suy Niệm 21. Thánh Philípphê và Giacôbê


--Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của ngày lễ: kính hai thánh Tông Đồ Philípphê và Giacôbê hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Hằng năm Chúa cho chúng ta được hân hoan mừng lễ hai thánh Tông Đồ Philípphê và Giacôbê. Xin Chúa thương nhậm lời các ngài cầu thay nguyện giúp, mà ban cho chúng ta biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô, Con Một Chúa, để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời.

Thánh Philípphê quê ở Bétxaiđa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó, người theo Chúa Giêsu. Còn thánh Giacôbê, người là anh em bà con với Chúa và là con của ông Anphê. Người đã lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem và đã giúp cho nhiều người Dothái đón nhận đức tin. Người còn để lại một bức thư. Người chịu tử đạo năm 62.

Chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời là phần thưởng dành cho những ai can đảm làm chứng cho Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc các Tông Đồ bị bắt bớ, bị tống ngục vì Danh Đức Kitô: Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Các ngài được tràn đầy Thánh Thần, và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa.

Chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời là ơn cứu độ, mà Đức Giêsu muốn các Tông Đồ ra đi rao giảng cho tất cả mọi người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, linh mục Tetulianô đã cho thấy: Đi đến thành nào, các ông cũng xây dựng cộng đoàn Hội Thánh tại thành ấy. Rồi từ các cộng đoàn này, những cộng đoàn khác đã vay mượn, và hằng ngày còn tiếp tục vay mượn cành chiết đức tin, và hạt giống giáo lý, để trở thành những cộng đoàn Hội Thánh thực thụ. Do đó, những cộng đoàn này cũng được coi là Tông Truyền, vì là cây con của những cộng đoàn Hội Thánh do chính các Tông Đồ thiết lập.

Chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời là niềm hạnh phúc của những ai đã gặp thấy Chúa, và họ cũng muốn cho người khác được hưởng niềm hoan lạc đó, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, thánh Phaolô đã nói: Tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 18A, vịnh gia cũng ước mong Tin Mừng cứu độ được loan đi khắp hoàn cầu: Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu. Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Này anh Philípphê, ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Thiên Chúa là tình yêu, ai biết Thiên Chúa là biết yêu. Ai không biết yêu thương, thì không thể biết Thiên Chúa được. Chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời là chiêm ngưỡng Đấng là Tình Yêu, để được trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Nhờ lời chuyển cầu của hai thánh Philípphê và Giacôbê, ước gì chúng ta biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô, để chúng ta được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời. Thiên Chúa là tình yêu, mà Thiên Chúa thì vô hạn, vì thế, chúng ta đừng giam hãm tình yêu trong cõi lòng chật hẹp của chúng ta. Chúa đã yêu chúng ta đến đổ giọt máu giọt nước cuối cùng trên thập giá để cứu độ chúng ta. Ước gì chúng ta hằng biết chiêm ngắm tình yêu cứu độ của Người, để rồi, chúng ta cũng biết mở rộng con tim đến cùng, để yêu thương hết tất cả mọi người như Chúa! Ước gì được như thế!

-------------------------------

 

Suy Niệm 22. Hãy là trung gian của Chúa


--Huệ Minh

Hôm nay cùng với Giáo Hội ta mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.

Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.

Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.

Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.

Ta thấy con đường làm chứng cho Chúa chính là Con Đường Giêsu và Con Đường Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong những tháng năm trên trần thế. Người đời cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20). Con người cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một nơi gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Con người đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người bằng tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Con người những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Con người vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).

Nhờ sự cảm nghiệm của bản thân mình về đức tin chúng ta sẽ cảm nghiệm thẩm sâu toàn diện Tin Mừng Thánh Gioan kết hợp với những khuynh hướng hiện đại cũa chúng ta. Các bạn trẻ chúng ta đã cảm nghiệm được những điều thích thú trong sách của Thánh Gioan, thì cần đào sâu những cuộc đàm thoại trong Tin Mừng của Thánh Gioan để khởi đi từ câu thứ nhất: “Hãy theo tôi mà Thánh Philíp chắc chắn đã thấm thía với tất cả ý nghĩa thâm sâu của câu đó, để rồi: “Thấy Thầy, là thấy Cha” “Thế là được mãn nguyện”.

Nhìn lại cuộc đời Thánh Philípphê, ta thấy Ngài được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti. Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê.

Tên của Thánh Philip được ghi rất sớm trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài được kể là Tông Đồ thứ tư cùng với Thánh Gioan và hai Thánh Anrê và Phêrô dân thành Betsaida xứ Galilê (Ga 1, 43-44), Ngài giới thiệu mấy người Hy Lạp xin gặp Đức Giê-su (12, 21), trước khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu hỏi Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?… Ngài đáp: thực có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút (6, 5-7) và ở bữa tiệc ly, Philíp nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (14, 8). Người ta cho rằng Philíp sống hiện thực, giống như những người tiến bộ khoa học thời chúng ta: ông sống theo kinh nghiệm nên đòi được xem, sờ, cảm thấy Chúa Cha, cùng với óc tính toán của ông: có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút!

Thánh Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Ước muốn của Thánh Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,1).

Thế cho nên ta thấy dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu – Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.

Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu.Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.

Chúa Giêsu là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng thương xót. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,12). Và Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân thật: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24, 46-47).

Nhìn lại cuộc đời của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta thấy hai cuộc đời này nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: “Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9 ).

Là những môn đệ Tin theo Chúa Giê-su và sau khi được mặc khải, thánh Philipphê đã tiếp tục sứ mệnh làm “trung gian” cho Thiên Chúa khi đem ông Nathanaen (Ga 1, 45-51) và những người Hy-lạp (Ga 12, 20-36) đến với Chúa Giê-su để được gặp và nghe lời Người giảng dạy. Thánh Philipphê còn cùng các môn đệ thực thi sứ vụ làm “trung gian” cho Thiên Chúa bằng cách đi khắp nơi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo và làm phép Rửa cho những người tin (Mc 16,15-16).

Nhân dịp mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng ta biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ ). Và rồi mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời làm “trung gian” cho Thiên Chúa. Qua Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu phải sống sao để nói với người khác rằng: “Ai thấy tôi là thấy Đức Kitô” và “ai thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa Cha”.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây