Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".
“Bánh ít đi, bánh quy lại” hay “Có đi có lại mới toại lòng nhau”: đó vẫn được coi là cách cư xử bình thường giữa người với người. Hơn nữa ai làm như vậy còn được coi là người biết cách xử thế. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời ta vượt lên trên lối cư xử đó, không ngừng lại ở chỗ tôi cho anh, để rồi anh cho tôi (do ut des). Ngài dạy cho ông chủ tiệc biết nên mời ai và không nên mời ai. Có bốn hạng người không nên mời dự tiệc: bạn bè, anh em, bà con họ hàng, hay láng giềng giàu có. Ngài đưa ra lý do: “Kẻo họ mời lại ông, và ông được đáp lễ” (c.12). Hơn nữa, Ngài còn nói đến bốn hạng người nên mời dự tiệc: những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c.13). Đức Giêsu khuyên nên mời những hạng người này, vì họ không có khả năng mời lại hay đáp lễ (c.14). Như thế Đức Giêsu cho ta tiêu chuẩn để mời khách dự tiệc. Không mời những người quen biết, thân thích, giàu sang, để mời những người nghèo hèn, những kẻ chẳng được ai mời. Qua đề nghị khó thực hiện này của Đức Giêsu, Ngài đụng đến một khuynh hướng tự nhiên mà ít người để ý. Đó là khi làm điều tốt cho ai ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác. Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn. Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân đơn giản. Nói chung để làm một hành vi hoàn toàn vô vị lợi là điều rất khó. Chỉ ai thành thật đi vào lòng mình mới thấy mình ít khi cho không. Đức Giêsu muốn hạn chế khuynh hướng này. Ngài mời chúng ta ra khỏi thế giới của những người quen biết, không kết thân với những người giàu có và thế lực, để mong họ đem lại lợi nhuận hay làm ô dù cho ta. Ngài đưa ta đến với những người nghèo và không có địa vị, những người không có khả năng mời lại hay đáp lễ. Có khi những người đó chẳng ở đâu xa. Họ nằm ngay trong số bạn hữu, bà con, anh em, hay hàng xóm. Khi mời họ dự tiệc, trân trọng họ như khách quý, chúng ta làm sống lại những mối tương quan tưởng như không còn. Đức Giêsu mời ta thanh luyện ý hướng của mình khi làm điều tốt, trở nên siêu thoát và từ bỏ những tìm kiếm tự nhiên quy về mình. Bài Tin Mừng đơn sơ này có thể tạo một bước ngoặt trong đời Kitô hữu. Chúng ta sẽ được nếm một mối phúc mới: Phúc cho ai làm một việc tốt mà không được ai biết đến và đáp lễ. Họ sẽ được Thiên Chúa “đáp lễ” trong ngày phục sinh (c. 14). Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen. ---------------------------------
Thông thường “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Yêu những người yêu mình. Làm ơn cho những người làm ơn cho mình. Bữa tiệc là để cám ơn những người đã tốt với mình. Nay tỏ lòng tốt lại. Để mong nhận được lòng tốt hơn nữa. Đó là vòng tròn ơn nghĩa. Là trần gian thường tình. Đó là vụ lợi. Đó là đã hưởng lợi trần gian rồi.
Chúa dậy điều khác hẳn: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc”. Tại sao có phúc? Có phúc vì không được lợi về vật chất ở đời này. Cùng lắm chỉ được dân nghèo quí mến. Nhưng sẽ được phúc đời sau. Vì “ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. Có phúc vì mặc lấy tâm tình của Chúa. Vì cùng Chúa xây dựng Nước Trời.
Đó là chia sẻ “sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào”. Tâm tình của Chúa là tình yêu. Luôn đi bước trước. Để “muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người”. Đã thương cứu độ không những Ít-ra-en mà cả mọi dân trên thế giới chỉ vì họ không vâng phục. “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”. Thật lạ lùng tâm tình của Chúa. Thật cao sâu lòng thương xót của Người. Đó là nguồn cội mọi ơn lành cho ta (năm lẻ).
Vì thế, thánh Tông đồ mời gọi chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Chúa. Đó là hãy “có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Đó chính là mời dự tiệc những người nghèo khổ, tàn tật. Đó chính là cho đi mà không mong được đáp lễ (năm chẵn).
Mặc lấy tâm tình của Chúa. Hành động theo đường lối của Chúa. Đi bước trước. Cho đi không mong đền đáp. Ta cùng Chúa xây dựng Nước Trời ngay trên trần gian. Bắt đầu từ bây giờ.
Tâm lý thường tình của con người vẫn là: "Có qua có lại, mới toại lòng nhau" hoặc "Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu". Chúng ta kết bạn thân thiết với ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: "Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ lành sống lại".
Ở đây, Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa.
“Trái lại khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại” (Lc. 14, 13-14)
Khi kêu gọi quý khách hạ mình xuống để được vào nước trời, bây giờ Đức Giêsu chỉ dẫn chủ mời cần điều chỉnh mọi hành động của ông theo tình yêu Thiên Chúa để yêu người.
Tình yêu vụ lợi không được cứu độ.
Đối với dân Do thái, mời ăn tiệc là tỏ lòng thân ái và tình bạn. Họ chỉ mời những bạn hữu, anh chị em, cha mẹ, bà con và những người láng giềng giàu có, để mong được mời lại. Hành động của họ không đặt nền tảng trên tình yêu như Chúa truyền dạy. Đó là cách yêu mình, yêu vụ lợi.
Đức Giêsu không nói đừng bao giờ mời bạn hữu. Những người lương dân thường làm thế, nhưng đó không phải là dấu chỉ môn đệ Đức Giêsu. Môn đệ phải tìm theo Chúa, không được đòi Chúa phải theo mình trong mọi việc của mình. Môn đệ phải sẵn sàng yêu mến, và chia sẻ cơm áo cho những người Chúa yêu, như kẻ nghèo khổ, què quặt, mù lòa.
Chỉ có ơn tặng không mới mở được cửa nước trời.
Con đường của Chúa vượt tới từ bỏ chính mình, tới vô vị lợi tuyệt đối. Nếu bạn mời những kẻ bất hạnh, họ không thể mời lại bạn, bạn mở con tim ra cho họ bằng một tình yêu vô tư, tặng không, như chính Thiên Chúa yêu họ.
Trước đó, bạn sẽ thấy hạnh phúc và phần thưởng trong ngày sống lại và phán xét.
Chính Chúa Giêsu ban bữa tiệc tình yêu và truyền lại cho các môn đệ làm mà nhớ đến cái chết hy sinh của Người. Trong bữa tiệc thánh đặc biệt này, Người không phân biệt và loại trừ một ai. Bữa tiệc Thánh Thể này cần mở ra mời hết mọi người, không phân biệt giai cấp xã hội, chủng tộc hay phẩm giá của họ.
Ta chỉ cần đọc lại thư của thánh Gia-cô-bê và những thư của thánh Phao-lô để nhận thấy Giáo hội sơ khai đã tha thiết nhắc lại lời dạy của Đức Giêsu nói với biệt phái khi họ mời Người.
Tình yêu là một ân huệ Thiên Chúa tặng không cho ta. Ta đã được cho không, thì phải tặng lại một cách quảng đại vô vị lợi.
Tại Sài Gòn, rất nhiều người biết đến quán cơm từ thiện với cái tên ngồ ngộ: “Quán cơm Vợ thằng Đậu”. Chủ nhân của quán cơm này chính là cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Khi vừa qua cơn bạo bệnh nhờ phép lạ của Đức Mẹ, Lê Vũ Cầu đã xin theo Đạo Công Giáo, và việc làm đầu tiên để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cứu ông khỏi căn bệnh hiểm nghèo là: bán hai miếng đất lấy tiền mở quán cơm chay tại số 40 Đặng Văn Bi, Q.Thủ Đức, Tp. Sài Gòn.
Quán ăn phục vụ từ 10h 30 - 11h 30 trưa, mỗi ngày tiếp khoảng 100 - 150 lượt khách. Khách hàng của quán chủ yếu là người nghèo, người già neo đơn, người có hoàn cảnh khó khăn, nhưng đông nhất là anh chị em bán vé số. Tất cả đều được ăn miễn phí.
Khi mở quán như thế, nhiều người cho rằng nghệ sĩ Lê Vũ Cầu có vẻ bất thường, vì nếu dùng đồng tiền đó vào những chuyện như kinh doanh, buôn bán có lẽ tốt hơn!
Hôm nay, Đức Giêsu xem ra cũng có vẻ bất thường khi nói với ông thủ lãnh những người Pharisêu khi mời Ngài đến dự tiệc rằng: “Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”. Câu nói này của Đức Giêsu quả thật là bất thường theo lối suy hiểu của con người. Không chỉ có một lần này, mà đọc lại các trang Tin Mừng, chúng ta thấy có rất nhiều lần Đức Giêsu dùng lối nói như vậy. Chẳng hạn như: Hiến Chương Nước Trời và những lời chúc phúc: “Phúc cho người nghèo, khóc lóc, đói khát, bắt bớ, tù đầy...”; hay khi đưa ra nguyên tắc éo le cho những ai muốn theo mình: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, ai đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống đời đời”; hay “ai muốn làm lớn thì phải làm đấy tớ mọi người”; hoặc cứ để kẻ chết chôn kẻ chết...; còn khi nói về sự lựa chọn: Ngài đã lựa chọn: “Sẵn sàng bỏ 99 con chiên để đi tìm cho kỳ được 1 con chiên bị lạc; người đàn bà tìm được đồng xu đánh mất, thì lại mời cả xóm đế chung vui...!”.
Tại sao Đức Giêsu lại có cái nhìn như thế? Thưa là vì Ngài có một cái nhìn siêu nhiên, tức là cái nhìn hướng thượng, cái nhìn cứu độ. Chỉ những ai có cái nhìn như thế, hẳn mới đón nhận được giá trị cứu độ của nó đằng sau sự kiện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như thế để được cứu độ, bởi lẽ khi chúng ta hành động vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù..., ở đời này, họ không có gì để trả ơn cho chúng ta, nhưng Thiên Chúa sẽ là người thay họ trả ơn gấp trăm cho chúng ta ở đời này và đời sau.
Có thể với lối nhìn như thế, nhiều người sẽ khinh chê, dè bửu, nhưng nếu bây giờ chúng ta dám lội ngược dòng để sống cốt lõi của Tin Mừng, thì trong cuộc sống mai hậu, chúng ta sẽ xuôi dòng để tiến về Quê Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu và sống ý nghĩa của Tin Mừng, để sau này, chúng con được vui hưởng hạnh phúc trên Quê Trời. Amen.
Sứ điệp: Tình yêu của Chúa bao trùm tất cả mọi người, không phân biệt một ai. Ngài mời gọi chúng ta sống như Ngài: cư xử với nhau cách quảng đại và vô vị lợi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay đang bị đảo lộn, giá trị vật chất nhiều lúc được đặt trên giá trị tinh thần. Cuộc sống giữa con người với nhau thường dựa trên sự trao đổi song phương, hợp đồng hai chiều. Vì vậy, người ta ái ngại khi kết thân làm bạn với những người nghèo khổ, cô thân cô thế.
Lạy Chúa, khi suy gẫm Lời Chúa hôm nay, con nhận ra mình chỉ là kẻ nghèo khó thấp hèn, nhưng suốt bao nhiêu năm tháng qua, Chúa đã ban cho con vô vàn ân huệ mà không đòi hỏi gì cả. Chúa đã ban tặng nhưng không. Phần con đã so đo tính toán hơn thiệt. Khi giúp ai việc gì, con bắt họ trả công, đền ơn đáp nghĩa. Khi ai tặng một món quà, thì con cũng nhớ một dịp nào đó để tặng lại. Thậm chí, đôi lúc cho thì ít mà muốn nhận lại thì nhiều, hoặc tệ hơn nữa, nhận vào mà không muốn cho đi. Con muốn giao du với người giàu sang quyền quý, còn người nghèo khổ, con ngại ngùng gặp gỡ, tình thương dành cho họ chỉ là những lời an ủi ngoài môi, chứ trong lòng không một chút xót thương, cảm thông.
Lạy Chúa, con đã coi của cải vật chất trọng hơn con người. Con đã sống ích kỷ và vô tâm trước tình thương Chúa dành cho con, và xin ban cho con một quả tim của Chúa, để con sống quảng đại, biết cho đi mà không cần tính toán, biết trao ban mà không mong đền đáp. Xin giúp con biết phục vụ trong tình yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật”.
1. Qua bữa tiệc hôm qua, Đức Giêsu đã dạy thực khách bài học về khiêm nhường (Lc 14,7-11), hôm nay Ngài lại dạy thêm bài học về việc chia sẻ, biết cho đi. Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại: “bánh ít cho đi, bánh quy cho lại”, hay Tây phương cũng có câu: “Do ut des”: tôi cho anh để anh cho lại. Cho đi mà không được lại thì tinh thần dần dần sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình. Đàng này, Đức Giêsu lại dạy: thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho người không có khả năng đền đáp, cho bất cứ người nào cần, chứ không “lựa mặt”. Chúng ta đã chọn lối sống nào của người đời hay của Đức Giêsu?
2. Thật sự mà nói, thường thì mọi người chúng ta làm cái gì cho nhau cũng muốn có qua có lại, thậm chí tham lam theo kiểu “thả con tép bắt con tôm”, “thả con săn sắt bắt con cá rô”, hoặc “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Tự bản chất chúng ta cho thấy có một sự phân biệt đối xử bất bình đẳng giữa giầu và nghèo, khi dọn tiệc, chúng ta vẫn ưu tiên mời người giầu, và nếu đang lúc dùng bữa, gặp người giầu chúng ta vẫn dễ dàng mời họ hơn thấy một người ăn mày đi qua...
Nói tóm lại, chúng ta bỏ ra thì muốn thu lại, thậm chí muốn thu lại hơn gấp nhiều lần, chứ ít ai trong chúng ta có được một lòng quảng đại chia sẻ cho những người nghèo khó. Chúng ta vẫn lấy tiêu chuẩn “công bằng kiểu làm ăn kinh tế” để đối xử với nhau, thì điều này chúng ta là Kitô hữu cũng chẳng hơn gì, vì người ngoại họ cũng làm được hơn cả chúng ta, bởi làm việc lành mà được đáp lại, nghĩa là được thưởng công rồi, nên chẳng còn công phúc gì trước mặt Thiên Chúa cả (Hiền Lâm).
3. Nhưng trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: ”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc” (Lc 14,13).
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Đức Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Đức Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yêu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
4. Tình thương của Đức Giêsu không đòi hỏi phải có đi có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ân huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ (Mỗi ngày một tin vui).
5. Cậu bé đói lả ăn cắp ổ bánh mì bị chủ quán bắt được. Cậu bị đánh, bị chửi. Thấy vậy, ông chủ quán phở kế bên trả tiền cho cậu và cho cậu thêm một tô phở mang về. Sau này, ông chủ quán phở lâm bệnh, phải nhập viện. Đứa con gái ông không thể trả tiền viện phí. Vị bác sĩ chữa trị đã thanh toán viện phí, kèm theo dòng chữ: ”Viện phí của ông đã được thanh toán cách đây hơn 20 năm bằng một ổ bánh mì và một tô phở”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta bài học về cách làm ơn và cho đi. Ngài không dạy chúng ta làm ơn cho những người có khả năng đáp trả, nhưng cho những người thiếu thốn, nghèo khó. Khi ấy, chính Thiên Chúa sẽ thay họ trả cho chúng ta.
Đức Giêsu là tấm gương sáng chói về tinh thần cho đi cách quảng đại. Ngài đã “trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” để đến với con người, sống như con người, hiến dâng mạng sống cho con người, mà không đòi hỏi bất kỳ sự trả ơn, đền đáp nào.
6. Truyện: Tôi muốn cho chị được hạnh phúc.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã thiết lập một căn nhà để tiếp đón tất cả những người hấp hối không có nơi nương tựa. Vì Mẹ muốn tạo điều kiện để những người nghèo khổ này được tìm thấy một cái chết xứng đáng với phẩm giá con người.
Một buổi tối nọ, người ta đưa đến một người đàn bà bị kiệt sức vì đói khát và bệnh tật. Mẹ Têrêsa đã đích thân săn sóc với tất cả sự ưu ái và dịu hiền của một người mẹ. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào với mẹ Têrêsa:”Thưa bà, tại sao bà lại săn sóc tôi như thế”?
Với tất cả lòng ưu ái, mẹ Têrêsa đã trả lời:”Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc”.Trên khuôn mặt nhợt nhạt của người bệnh bỗng bừng sáng lên một niềm vui. Bà cố gắng để thì thào với Mẹ:”Xin bà hãy lặp lại câu đó một lần nữa đi”.
Mẹ Têrêsa mỉm cười nói:”Phải, tôi muốn cho chị được hạnh phúc”. Và như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người đàn bà tiếp tục thều thào:”Xin bà hãy lặp lại một lần nữa đi”.
Cuối cùng bà ta cố nắm lấy tay mẹ Têrêsa đặt lên ngực, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của hạnh phúc mà chỉ ai có lòng quảng đại mới ban phát được.
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng việc mời khách dự tiệc để dạy bài học phục vụ vô vị lợi:
1. “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18).
2. “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
B.... nẩy mầm.
1. Mời dự tiệc tượng trưng cho sự cho. Nhưng giá trị của sự cho tùy vào cho ai và tại sao cho. Người đời thường chỉ cho những ai có thể cho lại mình. Như thế động cơ của sự cho là để được cho lại (do ut das). Cho như thế không có giá trị bao nhiêu vì thực chất là cho mình chứ không phải cho người. Vả lại dù người ta có cho lại mình thì chỉ cho theo sự tính toán của người ta (cũng như mình đã tính toán đối với họ), và chỉ cho những cái trong khả năng hạn chế của loài người. Chúa Giêsu dạy môn đệ Ngài một cách cho có giá trị cao hơn nhiều: cho những kẻ không có khả năng cho lại, và động cơ chỉ là vì thương nên muốn chia sẻ. Đó mới là cho thực nên mới có giá trị. Vả lại vì người nhận không có khả năng cho lại nên Thiên Chúa sẽ thay họ cho lại ta, và cái Chúa cho thì dĩ nhiên quý hơn cái ta đã cho gấp bội.
2. Ăn chung với nhau còn biểu lộ sự thông hiệp, liên đới. Chúa Giêsu là kẻ muốn thông hiệp liên đới với tất cả mọi người, do đó Ngài không ngại ăn chung với một thủ lãnh biệt phái mặc dù hai bên khác quan điểm với nhau (x. đoạn phía trước: 14,1-6). Ngài cũng không ngại ăn chung với những người tội lỗi (x. Mt 9,10-13). Trong đoạn Tin Mừng này, người thủ lãnh biệt phái đã khá cởi mở khi mời Chúa Giêsu đến ăn chung với mình. Chúa Giêsu khuyến khích ông tiến thêm một bước nữa là hãy hiệp thông liên đới với những người mà địa vị xã hội thấp kém hơn ông bằng cách mời họ cùng ăn uống với ông.
3. “Phần thưởng ai cũng muốn có. Nhưng phần thưởng đến từ đâu và lúc nào, đấy mới là vấn đề quan trọng. Chúng ta hãy suy tính xem phần thưởng tạm bợ trong thời gian có hơn được phần thưởng vĩnh cửu không? Phần thưởng của anh em có hơn được của Thiên Chúa không? Phần Chúa, Chúa nhắn: “Hãy tìm của Nước Trời trước” (Mt 6,33) (Trích "TMCGK ngày trong tuần" ).
4. “ Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặc, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc“ (Lc 14, 13-14)
Có một nỗi đau quặn thắt trong tôi, khi tôi được tin một người thân sắp bị mù. Có một tình thương len lõi trong tôi mỗi khi tôi nhìn thấy những người nghèo khó, tàn tật. Nhưng dường như đó chỉ là cảm xúc pha lẫn thương hại. Chưa một lần nào tôi nghĩ đến chuyện phải là một cái gì đó cho họ.
Lời Chúa hôm nay, mở ra cho tôi một tình yêu mới: “Yêu như Chúa yêu”, nghĩa là dám dấn thân cho tình yêu và nhất là không chỉ yêu những người danh giá địa vị, mà cả những người nghèo khó, tàn tật. Tôi nguyện đến với họ để chia sẻ với họ những gì tôi có, cả niềm vui và hy vọng nữa.
Lạy Chúa! Xin cho con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người nghèo khó, tàn tật, để con có thể đến với những người anh em đó dễ dàng hơn. (Hosanna).
Qua việc mời khách dự tiệc, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học về việc phục vụ vô vị lợi:
“Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc”. (Lc 14, 13-14)
Mời dự tiệc tượng trưng cho sự cho. Nhưng giá trị của sự cho tùy vào cho ai và tại sao cho. Người đời thường chỉ cho những ai có thể cho lại mình. Như thế, động cơ của sự cho là để được cho lại (do ut das). Việc cho như thế không có giá trị bao nhiêu, vì thực chất là cho mình chứ không phải cho người. Vả lại, dù người ta có cho lại mình thì họ cũng chỉ cho theo sự tính toán của người ta (cũng như mình đã tính toán đối với họ), và chỉ cho những cái trong khả năng hạn chế của loài người.
Chúa Giêsu dạy môn đệ Ngài một cách cho có giá trị cao hơn nhiều: cho những kẻ không có khả năng cho lại, và động cơ chỉ là vì thương nên muốn chia sẻ. Đó mới là cho thực nên mới có giá trị. Vả lại, vì người nhận không có khả năng cho lại nên Thiên Chúa sẽ thay họ cho lại ta, và cái Chúa cho thì dĩ nhiên quý hơn cái ta đã cho gấp bội.
Có một người nông phu Trung Quốc tên là Wong Ly, một người tuy nghèo nhưng vốn có lòng quảng đại và nhân hiền. Một hôm, ông từ trên đồi xuống, vác trên vai một bó lá đem về lợp lại mái nhà. Đi đường mỏi mệt ông ngồi nghỉ chân dưới bóng một cây cổ thụ bên đường. Một con bướm thật đẹp đủ màu sắc bay tới đậu trên bó lá, ông vừa đưa tay đuổi đi vừa nói:
- Bướm đẹp quá, hãy bay đi hưởng tự do mà Chúa đã ban cho mi.
Nhưng con bướm vẫn không chịu bay đi, rồi ông lấy dây, nhẹ tay buộc con bướm vào cành lá với ý định đem về cho các con ông chơi. Vừa xuống dưới chân đồi, ông gặp một phụ nữ, vai mang gánh lúa, tay dắt đứa con gái nhỏ. Trông thấy con bướm trên bó lá, cô bé gọi mẹ:
- Mẹ ơi, bướm đẹp quá mẹ xin cho con đi.
Nghe vậy, ông Wong Ly dừng chân, đặt bó lá xuống đất, tháo dây cột con bướm, đưa cho cô bé và nói:
- Đây cháu hãy cầm lấy con bướm này, nhưng đừng làm hại nó nhé.
Bà mẹ đứa trẻ cũng dừng chân, đặt gánh xuống và nói với ông Wong Ly:
- Ông thật là người tốt bụng, tôi không có gì đền ơn ông, chỉ xin ông nhận mấy trái cam sành này…trái cam tôi mới hái đây.
Ông nhận quà, ra về, cám ơn và nói:
- Tôi sẽ đem về cho vợ con tôi, vì cả nhà tôi chưa bao giờ được thấy những trái cam to và mọng nước như thế này.
Đi được một quãng, ông gặp một người lái buôn ngồi nghỉ dưới bóng cây bên đường với những gói tơ lụa đủ màu. Người lái buôn đứng dậy nói với Wong Ly:
- Tôi đi đường từ sáng đến giờ sắp kiệt sức vì trời nóng bức, không một miếng cơm cũng không một ngụm nước, ông có gì cho tôi uống giải khát để lấy lại sức không?
Ông Wong Ly động lòng thương, rút mấy trái cam sành trong túi ra và nói:
- Ông hãy nhận lấy mấy trái cam ngon ngọt này, nó sẽ giúp ông giải khát và chúc ông lên đường bình an.
Người lái buôn vui mừng nhận ba trái cam, rồi rút trong bao ra một tấm lụa và nói:
- Xin cám ơn lòng tốt của ông, và xin ông nhận cho tấm lụa này để nói lên lòng biết ơn của tôi.
Wong Ly tiếp tục lên đường về nhà, vai mang bó lá, tay cầm tấm lụa. Về tới đầu làng, ông nghe tiếng chân ngựa và tiếng cười xôn xao, như có ai quan trọng sắp đi qua đây, ông vội đứng sang một bên, chờ ngóng xem có chuyện gì xảy ra.
Một lúc sau, có xe của công Chúa và lính hầu cận tiến tới, đang lúc lúng túng Wong Ly nghe tiếng công Chúa gọi lại, vì muốn xem tấm lụa đẹp ông cầm trên tay. Ông đến gần và lễ phép thưa:
Công Chúa cầm lấy tấm lụa ngắm nghía tỏ vẻ hài lòng và nói:
- Ngươi thật là tốt bụng, ta cũng muốn tặng cho ngươi một món quà.
Vừa nói công Chúa vừa đặt vào tay ông một cái túi nhỏ rồi ra đi. Ông cầm chặt túi nhỏ trên tay, vác bó lá trên vai, bước mau về nhà. Vào tới nhà, ông gọi vợ con tới gần và mở túi nhỏ của công Chúa ra xem. Mắt ông sáng lên khi thấy trong túi đầy những đồng tiền vàng.
Ông ngạc nhiên tự hỏi, tôi sẽ làm gì với sự giàu có này, rồi ông tự trả lời:
- Được rồi, tôi sẽ làm cho những người nghèo khổ nhất trong làng này được hạnh phúc.
Rồi ông phân phát, chia sẻ cho những người nghèo khổ trong làng. Và dĩ nhiên, người hạnh phúc nhất trong làng chính là ông Wong Ly. Từ đó, ông được đặt tên là “Người hạnh phúc”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống quảng đại hơn. Amen.
Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại? Thường người ta tính toán rất kỹ khi đến với nhau. Hòn đất ném đi, hòn chì phải ném lại. Cho đi mà không được lại thì dần dần tình thân sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình.
Còn ngược lại, Ðức Giêsu dạy rằng: thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho những người không có khả năng đền đáp. Cho bất cứ người nào cần, chứ không “lựa mặt”. Ðấy mới là cho thật tình, cho hết lòng.
Chúng ta sẽ chọn lối sống nào: của người đời, hay của Ðức Giêsu?
Tâm lý thường tình của con người vẫn là: “Có qua có lại, mới toại lòng nhau” hoặc “Ông đưa miếng giò, bà thò chai rượu”. Chúng ta kết bạn thân thiết với ai, chúng ta cũng muốn họ có một tâm tình như thế đối với chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một cái nhìn khác, đó là lòng bác ái vô vị lợi: “Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giầu có... Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù; họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Ở đây, Chúa Giêsu hướng lòng con người về đời sau. Ðang lúc dự tiệc cưới trên trần gian, Ngài đã liên tưởng đến bữa tiệc sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Chúa, ở đó những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế bị hạ xuống; ở đó những người tàn tật, đui mù thực sự là những khách được mời dự tiệc của Chúa.
Gương bác ái vô vị lợi có thể tìm thấy trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu này được biểu lộ trong việc nhập thể. Ðây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm mức nhân loại, bởi vì khiêm nhường là một trong những bộ mặt của tình yêu. Chúa Giêsu đã xuống ngang tầm mức những kẻ nhỏ bé, yếu đuối; Ngài không tìm địa vị cao sang nổi bật, nhưng quan tâm đến những kẻ nghèo khó, bệnh tật, những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.
Tình thương của Chúa Giêsu không đòi hỏi phải có qua có lại. Ngài đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn, mà không làm cho họ mặc cảm hay nghĩ ngợi là mình chẳng có gì đền đáp. Ngài mời gọi tất cả, nhất là những người nghèo khó, vì chỉ có họ mới dễ dàng chấp nhận lời mời dự tiệc Thiên Chúa. Về mặt thiêng liêng, những người nghèo là những người không khoe khoang về kiến thức, đức hạnh, hay bất cứ ưu điểm nào của mình; họ ý thức thân phận của mình: nhận ơn huệ của Thiên Chúa mà không có gì để dâng lại; họ chỉ biết một điều là sẵn sàng đón nhận vì ý thức rằng Thiên Chúa là Ðấng tốt lành và đầy lòng thương xót. Và đó là điều Thiên Chúa chờ mong nơi họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi gương sống bác ái của Chúa. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu bao la và nhưng không; do đó, chúng ta cũng có bổn phận phải cho đi một cách rộng rãi và vô vị lợi những ân huệ mà Ngài đã ban cho chúng ta. Ðược như thế chắc chắn chúng ta sẽ sống đẹp lòng Chúa và xứng đáng thông dự bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Chúa.
Chúa dạy chúng ta yêu người không phải ở trên môi miệng nhưng phải là việc làm thiết thực mà cụ thể hôm nay Chúa nói: “Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: Khi ông dọn tiệc trưa hay tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo họ mời lại ông và trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù thì ông sẽ được phúc, vì họ không có gì đền ơn cho ông: Vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn” (Lc 14, 12 – 14).
Chúng ta thực hiện lời dạy này của Chúa. Chúng ta sẽ bị lỗ lã. Vì chưng, chúng ta tổ chức tiệc là để kiếm lời về vật chất tiền bạc, hoặc không kiếm lời vật chất thì cũng tìm kiếm tiếng tăm, danh vọng. Tổ chức tiệc mà không có danh, lợi như vậy thì chúng ta chẳng thèm tổ chức làm chi cho tốn công phí sức, phí tiền của. Nhưng vì nếu yêu thương người anh chị em của mình, chúng ta nghe lời Chúa dạy bảo hôm nay, để rồi chúng ta nhận thấy yêu là chấp nhận lỗ lã, chẳng thà chấp nhận lỗ lã để được yêu, yêu là cho đi, mà: “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35), quả là hạnh phúc cho chúng ta, bởi chúng ta đã làm đúng theo thánh ý Chúa.
Cái phúc của chúng ta khi cho người anh chị em chúng ta những gì mình có không theo kiểu thế gian “Bánh ít cho đi bánh quy trao lại” mà là cho đi không kèm theo điều kiện gì cả, không mong báo đền, cho nhưng không, để rồi như Chúa nói: “Khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn” (Lc 14, 14). Điều ấy có nghĩa là khi chúng ta giúp đỡ người anh chị em mình, chúng ta sẽ được ở trong trái tim của Chúa, được Chúa yêu thương và ban ơn phần rỗi cho chúng ta sau này.
Lạy Chúa, Chúa cho chúng con rất nhiều ơn lành trong cuộc sống như thời giờ, sức khỏe, tiền bạc, danh dự, công ăn việc làm…và chúng con cũng nhận được sự giúp đỡ của bao người trong cuộc sống chung. Do đó, chúng con nợ Chúa, nợ anh chị em của chúng con. Xin Chúa giúp chúng con luôn biết đền đáp các ơn lành của Chúa khi chúng con làm theo Lời Chúa dạy hôm nay là yêu thương giúp đỡ lại cho anh chị em chúng con, nhất là những người nghèo khổ, tàn tật, què quặt, đui mù, đau bệnh, thất bại danh liệt, tan gia bại sản…Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 31 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chỉ nhờ Chúa ban ơn, các tín hữu Chúa mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, xin Chúa giúp chúng ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải kiên trì nhẫn nại đợi chờ sự giải cứu của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Macabê Quyển 1: Antiôkhô, ông vua bắt đạo, lần đầu tiên trong lịch sử, dân Ítraen chịu một cuộc bách hại tôn giáo đúng nghĩa. Nếu có nhiều người bỏ đạo, nhất là trong giới người Dothái đã bị nền văn minh Hylạp quyến rũ, thì còn rất nhiều người chống lại đến độ chịu tử đạo. Ba thế kỷ sống khép kín dưới ảnh hưởng của Đền Thờ đã đem lại kết quả, trong khi chờ cho dân Ítraen tìm lại được khí thế truyền giáo và phản công… Lạy Thiên Chúa, xin ghé mắt nhìn đến cảnh hoang tàn của chúng con: dân ngoại đang vây hãm. Xin đưa tay uy hùng của Chúa mà cứu thoát chúng con. Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Chúa đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải vâng nghe Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích Hiến Chế Mục Vụ Vui Mừng và Hy Vọng: Phải gầy dựng những cảm thức mới về hòa bình… Chúa phán: Ta đã đặt vào lòng ngươi lời dạy dỗ của Đức Khôn Ngoan: Ta đã nhậm lời ngươi mà che chở thành này, và cho ngươi được sống những ngày thái bình thịnh vượng. Hãy làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hòa.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải quay trở về với Chúa và kêu cầu Chúa xót thương, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma: Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 68: Lạy Chúa, xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày. Phần con đây, thật khốn cùng đau khổ, lạy Chúa Trời, xin cứu vớt đỡ nâng. Tôi sẽ hát bài ca chúc mừng Danh Thánh, sẽ dâng lời cảm tạ tán dương Người.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Nếu anh em ở lại trong lời của Thầy, thì anh em thật là môn đệ Thầy, và anh em sẽ biết sự thật. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Đừng mời bạn bè, nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật. Ở lại trong Chúa sẽ trở thành môn đệ của Chúa và sẽ biết được sự thật: sự thật là Chúa luôn đứng về phía những người nghèo khó hèn mọn, Chúa đã tự đồng hóa, tự nhận mình là kẻ bé mọn, vì thế, khi tổ chức tiệc, hãy mời những người nghèo khó. Hội Thánh vẫn luôn giữ vững niềm hy vọng, mặc dầu còn phải chìm ngập giữa bao khốn khó của thời đại. Hội Thánh vẫn luôn nhắc đi nhắc lại cho thời đại chúng ta nhớ: Đây là lúc Thiên Chúa thi ân cho ta thay đổi tâm tình, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ. Muốn xây dựng hòa bình, trước tiên phải diệt trừ tận gốc những nguyên nhân gây bất thuận giữa người với người, nhất là, những vi phạm về công bằng, nhất là, đối với những người thấp cổ bé họng, vì chính những nguyên nhân này, làm cho chiến tranh kéo dài mãi. Do óc thống trị, do thái độ miệt thị người nghèo, và các dục vọng ích kỷ của con người, nên, dầu không nổ ra những cuộc chiến khốc liệt, thế giới vẫn không ngừng bị xâu xé, vì người người tranh chấp với nhau và sử dụng bạo lực với nhau. Không vâng lời Chúa: làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hòa, ta sẽ tự chuốc lấy những hậu quả tại hai, tuy nhiên, Chúa vẫn đang chờ đợi ta quay trở về, để thương xót và chữa lành ta. Chỉ nhờ Chúa ban ơn, ta mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, ước gì ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường. Ước gì được như thế!
Bàn tiệc Nước Trời. "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".
* Thánh nhân sinh năm 1538 tại A-rô-na, miền Lom-ba-đi-a. Sau khi đã học xong luật đạo luật đời, người được cậu là đức giáo hoàng Pi-ô IV nhận vào hàng hồng y, rồi được đặt làm giám mục Mi-la-nô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một giám mục như đã được Công Đồng Tren-tô nêu lên.
Người cố công cải tổ hàng giáo sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hoá của các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.
Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được".
"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi".
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của bữa tiệc do một ông Pharisêu chức sắc mời Đức Giêsu vào ngày sabát (Lc 14, 1). Những lời Ngài nói trong bữa tiệc đã đánh động một người cùng bàn. Ông chia sẻ với Đức Giêsu về niềm hạnh phúc của người được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (c. 15), ở đó có mặt các tổ phụ và thiên hạ từ khắp tứ phương (Lc 13, 28-29). Chính vì thế Đức Giêsu đã muốn kể một dụ ngôn về Nước Trời. Nước Trời giống như một đại tiệc do một người khoản đãi. Ông đã mời nhiều quan khách đến dự. Khi đến giờ đãi tiệc, ông còn sai đầy tớ đi mời họ lần nữa. “Mời quý vị đến, vì mọi sự đã sẵn sàng rồi” (c. 17). Tiếc thay lời mời ấy, đại tiệc ấy, lại bị mọi người coi nhẹ. Ai cũng có lý do để xin kiếu từ. Kẻ thì kiếu vì cần phải đi xem miếng đất mới mua (c. 18). Kẻ thì kiếu vì phải đi kiểm tra năm cặp bò mới tậu (c. 19). Kẻ khác lại xin kiếu vì phải ở nhà với người vợ mới cưới (c. 20). Có vẻ các lý do đưa ra đều có lý phần nào. Nhưng thực sự chúng có phải là những lý do chính đáng để từ chối đại tiệc mà mình đã được mời cách trân trọng hay không? Vấn đề chỉ là chọn lựa. Xem đất mới mua, xem bò mới tậu, ở nhà với vợ mới cưới, những điều ấy hẳn cần thiết và quan trọng. Nhưng có quan trọng bằng chuyện đi dự tiệc không? Nếu đi dự tiệc để diễn tả sự hiệp thông của tình bạn thì có thể hoãn các chuyện khác không, để chọn điều có giá trị hơn? Chúng ta hiểu được sự nổi giận của ông chủ, khi thấy bữa tiệc dành để khoản đãi các khách quý lại bị đổ vỡ. Ông thấy chính mình bị xúc phạm, tình bạn bị coi thường. Ông quyết định dành bữa tiệc này cho những ai không phải là khách quý, những người thuộc giới hạ lưu, nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c. 21). Và khi phòng tiệc vẫn còn chỗ trống, ông đã khẩn khoản lôi kéo vào cả những người ở ngoài đường hay trong vườn nho (c. 23). Cuối cùng, người được mời trước thì bị loại, vì họ tự loại chính họ (c. 24). Còn những người có vẻ không xứng đáng lại được ngồi vào bàn. Chẳng ai xứng đáng được dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa nếu Thiên Chúa không mời. Nhưng chẳng ai bị loại trừ khỏi bàn tiệc cánh chung nếu họ không cố ý từ chối lời mời đó. Chẳng ai có thể tự cứu mình mà không cần đến Thiên Chúa, nhưng con người có thể làm mình bị trầm luân mãi mãi chỉ vì thái độ khép kín của mình trước ơn Chúa ban. “Tôi xin kiếu”, đó là câu nói của nhiều người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta xin kiếu một cách quá dễ dàng, chẳng để ý gì đến nỗi thất vọng và đau đớn của người đãi tiệc. Lời mời của Thiên Chúa bị từ chối chỉ vì những chuyện không đâu. Chuyện tất bật làm ăn, chuyện vui chơi giải trí, chuyện mời mọc của bạn bè. Có nhiều chuyện thấy có vẻ quan trọng hơn, khẩn trương hơn, đến nỗi có người bỏ tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Hãy chọn Thiên Chúa và biết quý những gì Ngài muốn ban cho ta. Đại tiệc Thiên Chúa đã dọn sẵn rồi, không chỉ ở đời sau, mà ngay ở đời này. Ngài mong ta đến để dự tiệc, hay đúng hơn để chia sẻ một tình bạn. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh làm thần tượng cho đời mình. Hôm nay Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai, và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa. Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng, theo Chúa là bước vào con đường hẹp: con đường nghèo khó và khiêm nhu, con đường từ bỏ và phục vụ. Hôm nay, chúng con chọn Chúa không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng, nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người. Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa. Chẳng ai hoàn hảo như Chúa. Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày, qua những chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con, và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
“Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Đó là hạnh phúc đích thực. Vì bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa là bữa tiệc hiệp thông. Con người được hiệp thông với Thiên Chúa. Không chỉ là đồng bàn. Nhưng đồng sự sống. Đồng hưởng hạnh phúc vinh quang. Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, sự thiện hảo, hạnh phúc. Được hiệp thông với Thiên Chúa, con người đạt đến sự viên mãn. Viên mãn trong sự sống. Viên mãn trong hạnh phúc.
Thật đáng tiếc và đáng buồn khi con người chỉ khư khư bám víu lấy những chân trời nhỏ hẹp, những giá trị bọt bèo, những mảnh vụn hạnh phúc chóng qua, những riêng tư nhỏ nhoi cá nhân ích kỷ. Những mảnh ruộng, những cặp bò…Để từ chối bữa tiệc hiệp thông. Từ chối hạnh phúc đích thực, lớn lao, toàn vẹn của Nước Trời. Những người nghèo không có gì để bám víu lại dễ mở lòng hiệp thông. Nên dễ vào Nước Trời theo lời mời của Thiên Chúa.
Thực ra ở trong Thiên Chúa ta không mất gì hết. Chỉ nên phong phú hơn. Thư Rô-ma diễn tả mầu nhiệm hiệp thông trong một thân thể. Các chi thể tham dự vào sự sống toàn thân. Nhưng mỗi chi thể vẫn có đặc sắc và nhiệm vụ riêng. Rất cần thiết cho toàn thể. Cũng vậy trong Nước Chúa có nhiều chức năng. Ai ở đâu hãy làm việc của mình cho tốt là góp phần vào sức sống của toàn thể. Nhưng phải biết trân trọng và kết hợp với người khác. “Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” (năm lẻ).
Để đi vào mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em, ta phải mặc lấy tâm tình của Chúa Giê-su Ki-tô. Tự khiêm tự hạ. Hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Hoàn toàn hiến mình cho anh em. “Chúa Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người”(năm chẵn).
Từ bỏ bản thân để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ta chu toàn nhiệm vụ của mình. Thiên Chúa được tôn vinh. Và chính bản thân ta cũng được tôn vinh. Và vì sống mầu nhiệm hiệp thông trọn vẹn, ta được hưởng trọn vẹn sức sống của toàn nhiệm thể. Và góp phần vào sức sống của nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Một trong những hình ảnh Kinh Thánh dùng để nói về Nước Thiên Chúa, đó là bữa tiệc. Sách Cách Ngôn đã mô tả bữa tiệc của Ðấng Khôn Ngoan như một giá trị cứu rỗi. Ngôn sứ Isaia nói đến một bữa tiệc Thiên Chúa dọn ra cho dân khi thời Cứu thế đến, tất cả mọi người đều được mời đến dụ, không phân biệt ai. Ðó cũng là bữa tiệc mà Chúa Giêsu dùng để nói về Vương Quốc của Ngài.
Tại Palestina, mỗi khi có tổ chức một bữa tiệc lớn, thì khách luôn luôn được mời trước, và người chủ tiệc cũng nhận được câu trả lời của khách trước. Khi tiệc rượu đã sẵn, ông chủ sai các đầy tớ đi báo cho người được mời để họ đến dự. Bởi thế, một lời từ chối vào phút cuối quả là một tổn thương lớn cho người chủ tiệc.
Thiên Chúa là ông chủ của bữa tiệc Nước Trời cũng đã chuẩn bị một bữa tiệc lớn cho Israel. Các Tiên tri được sai đi gọi mời, và khách được mời cũng sống trong tâm tình chờ đợi. Nếu có các sách Tiên tri để loan báo về bữa tiệc thì cũng có các Thánh vịnh nói lên tâm tình tin tưởng và đợi chờ Thiên Chúa. Thế nhưng, khi giờ đến, lúc tiệc rượu đã chuẩn bị sẵn sàng thì kháck được mời lại từ chối.
Bàn tiệc Nước Trời vẫn được dọn ra và khách được mời hôm nay không ai khác hơn là mỗi người chúng ta. Bí tích Rửa tội là tấm thiệp cho phép chúng ta tham dự bàn tiệc này. Nhưng khi giờ đã đến, chúng ta lại để mình bị lôi cuốn bởi của cải vật chất, bởi thú vui trần thế, mà bỏ qua lời mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh.
Thiên Chúa vẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta. Ước gì chúng ta hiểu đúng giá trị của bữa tiệc Ngài dọn sẵn cho chúng ta mỗi ngày, để với tất cả lòng yêu mến biết ơn, chúng ta tham dự, ngõ hầu chúng ta được mạnh sức tiến tới bàn tiệc vĩnh cửu trên Thiên quốc.
Đầy tớ nói: “Thưa ông lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. Ông chủ bảo người đầy tớ: Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi.” (Lc. 14, 22-24)
Một người đồng bàn nghe Đức Giêsu nói về ngày sống lại của những người công chính liền bình luận: “Phúc thay cho ai được dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Kẻ ấy chắc chắn được cứu độ và được hưởng hạnh phúc. Để lay chuyển quan niệm sai lầm về định mệnh vững chắc của họ, như thường lệ, Đức Giêsu dùng một câu chuyện tiếp tục liên quan đến một bữa tiệc lớn để đem áp dụng vào tiệc nước trời.
Khách từ chối vinh dự.
Quý khách đã được giấy mời dự đại tiệc và chủ biết ai sẽ đến. Trước bữa tiệc, như thường lệ, chủ sai đầy tớ đi mời lần nữa: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn”. Quý khách đã nhận lời trước, đến phút chót lại từ chối, làm chủ nhục nhã ế mặt quá. Những lời từ chối cho chủ thấy rõ: Họ quan tâm đến công việc của họ hơn đến dự tiệc với chủ mời. Xin kiếu vì mới mua thửa đất, mới tậu bò, mới cưới vợ.
Tất cả mọi người Ít-ra-en đều được Thiên Chúa mời dự tiệc nước trời. Bây giờ, Đức Giêsu đến mời lần chót. Cần phải ăn năn sám hối trở về vì đây là ngày cứu độ. Biệt phái từ chối lời mời của Người vì họ lo việc riêng của họ, quay mặt đi chỗ khác không lưu tâm đến Thiên Chúa. Họ phỉ báng và kiêu ngạo từ chối quà tặng vinh quang của Thiên Chúa.
Tặng ban cho những người bất hạnh.
Ông chủ lúc đó sai đi mời vào dự đại tiệc tất cả mọi người đã bị cộng đồng dân thánh Ít-ra-en loại bỏ. Vẫn còn nhiều chỗ trống trong đại tiệc, đầy tớ lại đi mời tất cả mọi dân tộc dân ngoại một cách tha thiết, khẩn khoản dù họ luôn luôn bị coi là thứ ô uế như cộng đồng Ít-ra-en khinh bỉ họ. Họ được thuyết phục để họ thấy mình thật sự được mời dự đại tiệc.
Trước sự chai đá của biệt phái đã từ chối tin vào Đức Giêsu, Người muốn nhấn mạnh để họ suy nghĩ rằng: Họ đã tự ý tách khỏi nước trời, trong khi Thiên Chúa vô cùng thương yêu đã kêu gọi những người nghèo khó và tội lỗi, dù họ cảm thấy họ là kẻ bất xứng nhất.
Xem thêm CN 28TN A (Mt 22,l-14) và thứ Năm tuần 20 TN
Nói theo ý hướng chủ quan: ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, ấy là lúc chúng ta tạm cầm chiếc vé để vào Nước Trời, tuy nhiên, điều đó có thành hiện thực hay không lại phụ thuộc vào thái độ, cung cách sống kế tiếp của chúng ta.
Tại sao lại thế? Thưa là vì nhiều người lầm tưởng rằng: đã lãnh Bí tích Rửa Tội là chắc chắn được vào Nước Trời, nên không hề lo lắng gì đến chuyện sống ra sao và phải làm những gì? Những người như thế, họ chẳng khác gì những cô trinh nữ khờ dại có đèn mà không có dầu; hay như những người đầy tớ ngủ mê nên không biết ngày nào, giờ nào chủ họ sẽ về; hoặc như gia chủ không tỉnh thức nên đã để kẻ trộm đào ngạch khoét vách và lấy đi những thứ trong nhà...
Họ thật giống những người Dothái hôm nay khi được mời dự tiệc, họ đã không thèm đếm xỉa tới lời mời thịnh tình của Chủ, nên cuối cùng họ đã không đến, mà ngược lại, những người tội lỗi, nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, những người bên lề xã hội lại được vào chung vui tiệc cưới của ông Chủ.
Ngày nay, sự dửng dưng vô cảm với bàn tiệc Nước Trời vẫn còn đó nơi người Kitô hữu chúng ta. Vì thế, không lạ gì khi vẫn có những người thích ăn chơi, nhậu nhẹt, chè chén say xưa; hay vẫn tin vào những chuyện mê tín dị đoan; hoặc những chân lý nửa vời nên không màng chi đến chuyện đạo đức, lễ lạy..., nên người ta dễ bỏ qua những việc bác ái, đạo đức thường ngày... Chúng ta nhiều khi sẵn sàng đặt để vai trò của Chúa xuống hàng thứ yếu, nhưng khi được hỏi thì vẫn nói là mến Chúa trên hết mọi sự! Ôi thật là một sự giả hình!
Tin Mừng hôm nay cho thấy, chủ tiệc đã dọn sẵn cỗ bàn để đãi khách. Thiệp mời cũng đã được gửi đi, nhưng niềm vui chỉ có được khi khách đến hiện diện nơi bàn tiệc mà thôi.
Thật thế, những người được mời đâu đoái hoài gì đến thiện ý của Chủ tiệc, nên đã đặt những chuyện cá nhân lên trên và viện cớ: nào là đi tậu đất, thăm trại, mua bò và mới cưới...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa là Đấng yêu thương hết thảy mọi người, không phân biệt họ là ai... đồng thời cũng dạy cho chúng ta bài học về sự mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa và thi hành những điều Chúa dạy để được sống đời đời. Niềm vui sẽ nên trọn khi chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa phủ lấp trên mình và chi phối nơi cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ vì những lần chúng con khước từ tình yêu của Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết mau mắn đáp lại lời mời gọi yêu thương của Chúa để được hưởng sự sống đời đời. Amen.
Sứ điệp: Nước Thiên Chúa không dành riêng cho một loại người nào, trái lại, tất cả mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi vào dự tiệc Nước Chúa. Ai đáp lại lời mời gọi ấy thì thật là hạnh phúc.
Cầu nguyện: Lạy Cha, con cảm tạ Cha đã thương mời gọi con vào dự Bàn Tiệc Nước Cha. Con cảm tạ Cha đã thương yêu con và ban cho con được tham dự vào sự sống hạnh phúc của Cha. Thật ra con chỉ là kẻ nghèo hèn bất xứng, là kẻ chỉ biết ngửa tay ăn xin lòng thương xót của Cha. Xét cho cùng, con chỉ là kẻ ở bờ rào bờ giậu, lang thang vất vưởng trên khắp các nẻo đường cuộc đời.
Nhưng Cha đã đoái nhìn đến thân phận khốn cùng của con và đón nhận con vào Nhà Cha. Được biết Cha, được sống với Cha, được theo Chúa Giêsu Con Cha, quả thực là một ân huệ, một hạnh phúc. Nước Trời chẳng phải là do công lao cố gắng của con, chẳng phải là một nỗ lực hy sinh tu luyện, nhưng trước hết đó là ân huệ của Cha, là niềm vui, là hạnh phúc, là sự sống sung mãn mà Cha muốn chia sẻ cho con.
Lạy Cha, xin Cha giúp con nhận ra niềm hạnh phúc của đời Kitô hữu. Con đã vì những mối lo trần thế mà từ chối lời mời của Cha. Công ăn việc làm, của cải vật chất, bổn phận gia đình, tất cả những điều ấy tự nó không xấu, nhưng rất nhiều lúc đã lấn át lời mời của Cha, đã cản trở con đến với Cha. Được dự tiệc Nước Cha là một hồng ân, nhưng nhiều lúc con lại coi đó như là một gánh nặng, một vật cản, coi đó như một sự mất mát thua lỗ cuộc đời. Con coi thường lời Cha mời gọi cũng chính là con chưa coi trọng Cha. Xin Cha tha thứ và xin giúp con từ nay biết đến với Cha trong niềm hân hoan và tạ ơn. Amen.
Ghi nhớ: “Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi”.
Sáng ngày 29/4/2011, mọi con mắt từ khắp nơi trên thế giới đều hướng về thủ đô Luân Đôn, nơi diễn ra đám cưới của Hoàng tử William, người thứ hai sẽ kế vị ngai vàng nước Anh, sau người cha là Thái tử Charles. Hoàng tử kế vị ngai vàng, không những trên vương quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan, mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm nhiều quốc gia lớn nhỏ như Canada, Úc, Tân Tây Lan... Hoàng tử William kết hôn với Kate Middleton, một cô gái xuất thân từ tầng lớp thường dân… Cô dâu và chú rể thề ước trước Đức Tổng Giám mục Canterbury tại Tu viện Westminster cổ kính nơi chôn cất các bậc quân vương và những nhân vật lớn nước Anh. Đến tham dự lễ cưới, ngoài nhân vật quan trọng là bà nội của Hoàng tử William, Nữ hoàng Êlisabéth II, có đầy đủ các chính khách nước Anh và thế giới, các nhà ngoại giao và rất nhiều người nổi tiếng như các minh tinh màn bạc, các vận động viên nổi danh thế giới... Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt. Họ lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó…
Vào thời điểm đám cưới, hàng nghìn du khách trong và ngoài nước đến dựng lều trước Tu viện Westminster từ đêm hôm trước để có được chỗ tốt nhất dự xem tân nương và tân lang, và hơn 2 tỷ người xem trực tiếp và qua truyền hình. Người ta không những theo dõi nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới.
Suy niệm
Trong Tin Mừng Luca, tiệc nước Trời được Chúa Giêsu trình bày qua dụ ngôn tôn chủ mở tiệc mời thượng khách, còn Tin Mừng Matthêu nói rõ tiệc cưới hoàng gia: Vua mở tiệc cưới cho con mình (Mt 22,1). Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu ước (x. Is 25,6; 55,1-3). Cụ thể là ngôn sứ Isaia 25,6-9: Hạnh phúc viên mãn trong thời sau hết là tiệc cưới mà Thiên Chúa dọn cho mọi người trên núi thánh. Người tham dự không chỉ được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu tủi hổ, tang chế. Hạnh phúc nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai. Tiệc cưới diễn tả tính nhưng không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho dân Người. Sách Khải Huyền sau này cũng trình bày ngày quang lâm của Nước Thiên Chúa như là việc cử hành lễ cưới của Con Chiên (x. Kh 19).
Những “người đã được mời” (keklêmenous) là các bạn hữu, những người đang sống trong tương quan thân tình với tôn chủ, nên ông sai đầy tớ đến và mời thúc bách, xác định rõ ràng ngày giờ của tiệc. Điều này cho thấy cử chỉ tối hậu, lòng tốt của tôn chủ, nhưng đã không được đáp lại; khách được mời lại không chịu đến. Họ không đến vì có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất...
Những khách được mời, chúng ta nghĩ đến các thượng tế, kinh sư, người biệt phái và những người Do Thái, họ là những người không tin vào giáo huấn nước Trời của Chúa Kitô. Vì thế ân lộc bị cất đi khỏi họ.
Khách được mời lại không đến, tôn chủ liền sai các đầy tớ: “Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố...”. Lời truyền làm cho chúng ta nhớ lệnh truyền mà Chúa Giêsu sai các môn đồ đến với dân ngoại: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16). Ơn cứu độ nhưng không của Chúa Kitô, dù bị người Do Thái khinh chê, vẫn được cống hiến cho bất cứ ai nghe lời mời gọi của các kẻ phục vụ Tin Mừng trong khắp nẻo đường thế giới như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13,29). Sự cứng lòng và từ chối của Israel khai mào thời gian của Giáo hội, thời gian mà Tin Mừng được rao giảng cho mọi dân tộc (x. Mt 24,14), phòng tiệc sẽ tràn ngập đủ hạng người.
Nước Trời giống như một tiệc cưới. Chúa Giêsu dùng hình ảnh tiệc cưới để nói lên niềm vui của nước Trời, Chúa dùng hình ảnh này nhiều nhất để diễn tả nước Thiên Chúa. Xin cho chúng ta nhận ra những ân huệ mà Cha ban tặng: Ân huệ diễm phúc làm con cái Chúa, được mời vào dự tiệc với Cha. Nếu không biết quý trọng ân huệ cao cả này, chúng ta cũng sẽ bị loại ra ngoài bàn tiệc nước Trời.
Ý lực sống
“Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa”. (Lc 14,15)
Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài mở rộng cửa để đón tiếp mọi người vào dự bàn tiệc Nước trời. Lời mời gọi có tính cách rộng rãi, Ngài mời gọi mọi người không trừ ai, dù tốt dù xấu, miễn là phòng tiệc phải đầy người. Tuy thế, lời mời gọi đó còn chờ sự đáp ứng của từng người, mỗi người có quyền tự do, họ có thể chấp nhận hay từ chối. Trong thực tế nhiều người đã từ chối lời mời gọi thật tình đó với đủ mọi lý do. Hôm nay, Đức Giêsu muốn nói đến lòng thương xót của Chúa Cha đối với mọi người, đặc biệt những người Do thái. Nhưng họ đã không đón nhận và đánh mất tình thương ấy, vì thế, ân lộc bị cất đi khỏi họ.
Hình ảnh đặc biệt của đoạn Tin mừng hôm nay là một “bữa tiệc”. Trong Thánh kinh, bữa tiệc thường qui hướng về hạnh phúc do Thiên Chúa ban cho (Is 25,6).
Tin mừng hôm nay thuật lại: Hôm ấy, Đức Giêsu đang ngồi ăn chung với nhiều người khác trong một bữa tiệc do một thủ lãnh biệt phái khoản đãi. Bữa tiệc này làm cho một trong những thực khách được mời liên tưởng đến bữa tiệc thiên quốc, nên đã buột miệng nói ra: “Phúc cho ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 14,15).
Nghe thấy vậy, Đức Giêsu dùng ngay một dụ ngôn để trả lời cho người ấy. Đại khái, Ngài cũng đồng ý với người đó cho rằng: được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa là một hạnh phúc thật lớn. Nhưng rồi Ngài đặt vấn đề là người ta có sẵn sàng nhận lời mời vào Nước ấy hay không?
Tại Palestina, mỗi khi có tổ chức một bữa tiệc lớn, thì khách luôn luôn được mời trước, và người chủ tiệc cũng nhận được câu trả lời của khách trước. Khi tiệc rượu đã sẵn, ông chủ sai các đầy tớ đi báo cho người được mời để họ đến dự. Bởi thế, một lời từ chối vào phút cuối quả là một tổn thương lớn cho người chủ tiệc.
Thiên Chúa là ông chủ của bữa tiệc Nước trời cũng đã chuẩn bị một bữa tiệc lớn cho Israel. Các Tiên tri được sai đi gọi mời, và khách được mời cũng sống trong tâm tình chờ đợi. Nếu có sách các Tiên tri để loan báo về bữa tiệc thì cũng có các Thánh vịnh nói lên tâm tình tin tưởng và đợi chờ Thiên Chúa. Thế nhưng, khi giờ đến, lúc tiệc rượu đã chuẩn bị sẵn sàng thì khách được mời lại từ chối.
“Omnia parata sunt”: mọi sự đã sẵn sàng. Hạnh phúc Nước trời luôn được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn tất cả cho ta, cũng như cỗ bàn được ông chủ trong dụ ngôn chuẩn bị chu đáo (giáo huấn Tin mừng, Giáo hội, bí tích, ơn Chúa...). Thế nhưng, tại sao lại có nhiều người không đến dự tiệc? Thưa, vì họ không muốn từ bỏ những thứ đang quyến rũ họ: một thửa đất mới, năm cặp bò mới tậu, một người vợ mới cưới. Những người đó đã không sai khi coi trọng những thứ vừa kể, nhưng họ sai vì coi chúng trọng hơn Nước trời. Đức Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Tất cả những thứ kia Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,33) (Mỗi ngày một tin vui).
Chúng ta tự hỏi tại sao trước lời mời gọi đầy vinh dự của ông chủ giàu có mà khách mời lại có quá nhiều lý do để từ chối! Mà lại là từ chối vụng về bằng những lý do nhỏ nhặt không xứng tầm với “bữa tiệc lớn”. Ấy là chưa nói địa vị, vai vế của người chủ tiệc hẳn cũng đáng cho họ nể trọng. Chẳng lẽ họ ghen với ông vì ông giàu có; hay tại họ mặc cảm vì mình nghèo. Kể dụ ngôn này, hiển nhiên Đức Giêsu muốn nói tới “bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa” mà Cha Ngài chính là chủ tiệc. Quả thật đây là một nan đề cho thái độ lựa chọn của con người: mọi lý do để từ chối đều trở nên bất xứng trước lời mời như thế của Thiên Chúa. Từ chối là dấu chẳng còn tình nghĩa gì với Ngài. Bởi vì nếu yêu thì đã chấp nhận lời mời (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Hai bữa tiệc
Có người đã tưởng tượng ra thiên đàng và hỏa ngục như hai bàn tiệc thịnh soạn được bày ra.
Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người cầm một đôi đũa dài đến độ gắp được thức ăn, nhưng không thể đưa thức ăn ấy vào miệng của mình được.
Bàn tiệc trên thiên đàng thì cũng y hệt như vậy, nhưng khác một điều thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, thì người ta lại gắp thức ăn đưa vào miệng cho người đối diện. Thế là vui vẻ cả nhà vì ai cũng được ăn no nê.
Hình ảnh đặc biệt của đoạn Tin Mừng này là bữa tiệc. Trong Thánh Kinh, bữa tiệc là hình ảnh về hạnh phúc Thiên Chúa ban (x. Is 25,6 55,1-3 Xh 24,11 Kh 19).
Khi ấy Chúa Giêsu đang ngồi ăn chung với nhiều người khác trong một bữa tiệc do một thủ lãnh biệt phái đãi (x. Lc 14,1-14). Bữa tiệc ấy khiến một trong những thực khách liên tưởng tới bữa tiệc thiên quốc nên nói “Phúc cho ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu dùng một dụ ngôn để trả lời cho người ấy. Đại khái, Ngài cũng đồng ý với người đó rằng được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa là một hạnh phúc lớn. Nhưng Ngài đặt vấn đề: thực ra anh có sẵn lòng nhận lời mời vào Nước ấy không?
Trong dụ ngôn, ông chủ đã mời rất nhiều người đến dự tiệc, nhưng tất cả đều nhất loạt xin kiếu. Hai người đầu còn nói lời cáo lỗi (“cho tôi xin kiếu”), người thứ ba chẳng buồn nói một lời lịch sự. Nghĩa là tất cả mọi người đều không tha thiết với hạnh phúc Nước Thiên Chúa. Hai người đầu coi hạnh phúc ấy nhẹ hơn tiền của (đất, bò). Người thứ ba coi trọng hạnh phúc hôn nhân hơn.
Vì loạt người được mời lần đầu (chỉ dân do thái) đã từ chối dự tiệc, ông chủ mời loạt người khác. Đó là những người “nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt”. Họ tượng trưng cho lương dân. Như thế, dân do thái dù được Thiên Chúa ưu tiên mời vào Nước Trời nhưng đã từ chối. Thế nhưng sự từ chối của họ chẳng những không làm hỏng kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trái lại còn thúc đẩy nhanh việc Thiên Chúa thành lập Nước Thiên Chúa, một dân mới đã được mời vào thế chỗ cho dân do thái.
B.... nẩy mầm.
1. “Mọi sự đã sẵn sàng” (Omnia parata sunt): Hạnh phúc Nước Trời đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn tất cả cho ta, cũng như cỗ bàn được ông chủ trong dụ ngôn này chuẩn bị chu đáo (giáo huấn Tin Mừng, Giáo Hội, bí tích, ơn Chúa v.v.). Nhưng tại sao nhiều người không đến dự tiệc? Vì họ không muốn từ bỏ những thứ đang quyến rũ họ: một thửa đất mới mua (tài sản), năm cặp bò mới tậu (việc làm ăn), một người vợ mới cưới (hạnh phúc nhân loại). Những người đó không sai vì coi trọng những thứ vừa kể, nhưng sai vì coi chúng trọng hơn Nước Trời. Chúa Giêsu đã dạy “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Tất cả những thứ kia Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,33)
2. Lý do khiến loạt khách mời thứ nhất từ chối đến dự tiệc là vì họ đang có những thứ họ ham thích. Còn lý do khiến loạt khách thứ hai đáp lời mau mắn (x. dụ ngôn song song được ghi trong Mt 22,1-10: “phòng tiệc cưới đã đầy thực khách”) là vì họ đang không có gì cả, nói cho rõ hơn, họ nghèo. Nghèo là tâm thế rất thích hợp để đón nhận Nước Trời.
3. Triết gia Socrates sống rất giản dị. Một ngày kia ông ngắm nghía rất kỹ những món hàng đắt tiền được bày bán ngoài chợ. Thấy thế một người lấy làm lạ nên hỏi. Ông giải thích: “Tôi ngạc nhiên vì không hiểu tại sao người ta lại bán quá nhiều thứ mà tôi không cần đến như thế” (Clifton Fadiman).
4. “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người thứ hai nói: tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây...; người khác nói: tôi mới cưới vợ nên không thể đến được” (Lc 14,16-20)
Có câu chuyện về những người nằm chết khát trên một chiếc bè lênh đênh ngoài khơi bờ biển Brazil. Họ không hề hay biết nước biển ngay chỗ bè họ trôi là nước ngọt. Thật vậy, dòng chảy của con sông mạnh đến nỗi tống ra biển xa đến hai dậm và nước ngay chỗ họ vẫn là nước sông. Nhưng họ không hề hay biết...
Đời là một bữa tiệc lớn. Tất cả những niềm vui – nỗi buồn, cái thật - cái giả, ánh sáng - bóng tối... đều cống hiến cho bữa tiệc ấy. Nhưng con người như bị thôi miên, cứ chọn cái buồn, cái giả, cứ chạy theo bóng tối... nên rất nhiều người đang chết đói trên bàn tiệc, trong đó có bạn và tôi...
Lạy Chúa, con đã phải nếm sự đau khổ vì cứ mê muội bám víu vào các tạo vật. Xin cho con được ơn thức tỉnh thật sự. (Hosanna).
1. Hình ảnh đặc biệt của đoạn Tin Mừng hôm nay là một bữa tiệc. Trong Thánh Kinh, bữa tiệc thường được qui hướng về hạnh phúc do Thiên Chúa ban cho. (Is 25,6)
Tin Mừng hôm nay thuật lại: Hôm ấy, Chúa Giêsu đang ngồi ăn chung với nhiều người khác trong một bữa tiệc do một thủ lãnh Pharisêu khoản đãi (Lc 14,1-14). Bữa tiệc này làm cho một trong những thực khách được mời liên tưởng đến bữa tiệc thiên quốc, nên đã buột miệng nói ra “Phúc cho ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 14,15).
Nghe thấy vậy, Chúa Giêsu dùng ngay một dụ ngôn để trả lời cho người ấy. Đại khái, Ngài cũng đồng ý với người đó cho rằng, được hưởng hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa là một hạnh phúc thật lớn. Nhưng rồi Ngài đặt vấn đề. Vấn đề là người ta có sẵn lòng nhận lời mời vào Nước ấy hay không?
Trong dụ ngôn, ông chủ đã mời rất nhiều người đến dự tiệc, nhưng tất cả đều nhất loạt xin kiếu. Hai người đầu còn nói lời cáo lỗi (“cho tôi xin kiếu”), người thứ ba chẳng buồn nói một lời nào. Thật rất là bất lịch sự. Tóm lại là tất cả những người được mời đều không tha thiết gì với hạnh phúc Nước Thiên Chúa.
Vì loạt người được mời đã từ chối dự tiệc, ông chủ cho mời một loạt người khác. Đó là những người “nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt”. Họ tượng trưng cho lương dân. Như thế, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không những không bị cản trở mà trái lại, nó còn được thúc đẩy để Thiên Chúa thành lập Nước Thiên Chúa nhanh hơn.
2. “Mọi sự đã sẵn sàng” (Omnia parata sunt): Hạnh phúc Nước Trời luôn được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn tất cả cho ta, cũng như cỗ bàn được ông chủ trong dụ ngôn này chuẩn bị chu đáo (giáo huấn Tin Mừng, Giáo Hội, bí tích, ơn Chúa v.v.). Thế nhưng, tại sao lại có nhiều người không đến dự tiệc? Thưa vì họ không muốn từ bỏ những thứ đang quyến rũ họ: một thửa đất mới mua (tài sản), năm cặp bò mới tậu (việc làm ăn), một người vợ mới cưới (hạnh phúc nhân loại). Những người đó đã không sai khi coi trọng những thứ vừa kể, nhưng họ sai vì coi chúng trọng hơn Nước Trời. Chúa Giêsu đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài. Tất cả những thứ kia Ngài sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Còn lý do khiến loạt khách thứ hai đáp lời một cách mau mắn (“phòng tiệc cưới đã đầy thực khách”) là vì họ đang là những người không có gì cả, nói một cách cụ thể hơn là họ nghèo. Cái nghèo đã là điều kiện rất thích hợp để họ đón nhận Nước Trời.
Đời là một bữa tiệc lớn. Tất cả những niềm vui - nỗi buồn, cái thật - cái giả, ánh sáng - bóng tối... đều cống hiến cho bữa tiệc ấy. Nhưng con người như bị thôi miên, cứ chọn cái buồn, cái giả, cứ chạy theo bóng tối... nên rất nhiều người đang chết đói trên bàn tiệc, trong đó có thể có cả chúng ta.
10 giờ đêm ngày 14-04-1912, chiếc tàu du lịch vĩ đại nhất của Anh Quốc đã đâm phải tảng băng giữa Tây Đại Dương. 4 giờ sau đó, cả chiếc tàu, thủy thủ đoàn và nhiều hành khách đã bị chôn vùi trong lòng Đại Dương. Cuộc đắm tàu đầy bi thảm này đã là nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu áng văn chương. Những người có may mắn sống sót đã thuật lại lòng can đảm phi thường của viên thuyền trưởng, các sỹ quan và thủy thủ đoàn. Họ kể rằng, nhiều người đã khước từ sự cứu vớt để ở lại cùng chết với chồng.
Giữa biết bao nhiêu gương hy sinh ấy, những người sống sót còn kể lại câu chuyện, xem ra người ta chỉ muốn biết vì tò mò hơn thán phục.
Đó là câu chuyện của một người đàn bà. Sau khi đã được đưa lên boong tàu để chuẩn bị cho việc cứu vớt, thì bà ta xin phép được trở lại phòng ngủ lần cuối cùng, để có thể thu nhặt một ít đồ quý giá. Người ta cho bà ba phút để làm công việc này. Người đàn bà liền vội vàng chạy đi. Dọc theo hành lang, bà ta thấy ngổn ngang không biết bao nhiêu là nữ trang vàng bạc quý giá. Vào đến phòng ngủ bà ta đưa mắt nhìn hết các đồ nữ trang và báu vật, nhưng cuối cùng, bà ta chỉ đưa tay nhặt lấy 03 quả cam và chạy lên boong tàu.
Vài tiếng đồng hồ trước đó, giữa các đồ vật trong phòng, có lẽ người đàn bà kia đã chẳng lúc nào nghĩ đến 03 quả cam. Nhưng trong giây phút nguy ngập nhất của cuộc sống thì giá trị của sự sống bỗng bị đảo lộn. Ba quả cam bỗng trở nên quý giá hơn vàng, kim cương và hột xoàn bởi vì nước của chúng có thể cứu sống được bà giữa biển khơi.
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Người dọn tiệc linh đình để chiêu đãi khách mà Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay đó là hình ảnh của Chúa. Bữa tiệc mà Chúa đã dọn sẵn sàng để thiết đãi chúng ta hàng ngày chính là thánh lễ. Trong bữa tiệc thánh lễ có các món ăn là Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa. Đây là lương thực thiêng liêng rất cần thiết cho đời sống đạo của chúng ta. Lời Chúa và Mình Máu Chúa là hai nguồn dưỡng chất mà Chúa dùng để cung cấp ơn thánh, nguồn sống, sinh lực cho chúng ta. Chúng ta dự bữa tiệc này sẽ là vinh dự và hạnh phúc tuyệt vời cho chúng ta: “Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 14, 15).
Lúc nào Chúa cũng sẵn sàng chờ đón chúng ta đến tham dự tiệc thánh lễ: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn” (Lc 14, 17b). Nhưng trong thực tế, chúng ta cũng giống như các thực khách được mời trong bài Tin Mừng, chúng ta nại đến đủ mọi lý do để từ chối. Một khi đã quyết không tham dự rồi thì xem ra lý do nào cũng chính đáng. Các lý do đó là: Đi xem đất để mua, đi thử năm đôi bò vừa mới tậu được, mới vừa cưới vợ, cho nên phải ở nhà lo cho vợ, hoặc là tôi phải lo cơm áo gạo tiền, danh lợi thú…Chúng ta chưa ý thức được khi chúng ta tham dự tiệc thánh lễ là chúng ta tham dự trước, nếm cảm mến trước bữa tiệc vui vĩnh cửu trên thiên đàng cùng với các thánh của Chúa. Do đó, chúng ta sẽ bị loại ra bên ngoài và người khác sẽ được Chúa chọn thay thế chúng ta. Quả là nỗi đau cùng cực và sự xấu hổ tột độ khi chúng ta gõ cửa để vào dự tiệc thiên quốc mà Chúa không mở và còn nói với chúng ta: “Ta không biết ngươi từ đâu tới” (Lc 13, 27).
Ý thức được giá trị không có gì ở trần gian sánh ví được với bàn tiệc thánh lễ, chúng ta hãy xem xét lại bản thân mình để rồi chỉnh đốn lại lối sống, cách suy nghĩ của chúng ta về tiệc thánh lễ. Chúng ta hãy cố gắng dành thời gian, cố gắng sắp xếp các công việc mưu sinh để đến nhà thờ tham dự thánh lễ, để nghe lời Chúa và rước lễ, nhất là thánh lễ Chúa Nhật. Trong tiệc thánh lễ, Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta sống tốt trên hành trình trần gian này.
Lạy Chúa, nếu chúng con lười biếng, chối từ lời mời gọi tham dự bàn tiệc thánh lễ của Chúa, chúng con sẽ bị Chúa chối từ trong bữa tiệc vĩnh cửu sau này: “Không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi” (Lc 14, 24). Chúa lại cho chúng con có điều kiện hơn những anh chị em hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt, thì xin Chúa cho chúng con biết càng phải tham dự tiệc thánh lễ nhiều hơn nữa để cầu nguyện cho những anh chị em không được may mắn như chúng con. Xin Chúa chúc lành cho những cố gắng của chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Carôlô Borômêô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa ban ơn Thánh Thần cho Giáo Hội, như xưa Chúa đã ban cho thánh Giám Mục Carôlô, để Giáo Hội biết không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, nhờ đó, thế giới sẽ tìm thấy hình ảnh trung thực của Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống. Thánh nhân sinh năm 1538 tại Arôna, miền Lombađia. Sau khi đã học xong luật đạo luật đời, người được cậu là Đức Giáo Hoàng Piô IV nhận vào hàng hồng y, rồi được đặt làm Giám Mục Milanô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một Giám Mục như đã được Công Đồng Trentô nêu lên. Người cố công cải tổ hàng giáo sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hóa của các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.
Không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, nhiệt thành tuân giữ luật Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Macabê Quyển 1: Ông Máttathia cầm đầu cuộc nổi dậy. Dưới áp lực thể xác và tinh thần, nhiều tín hữu Dothái đã bỏ đạo, kẻ thù xem ra đắc thắng. Một vị tư tế đứng lên kêu gọi dân chống lại. Các phương tiện sử dụng không mấy phù hợp với Tin Mừng, nhưng điều chúng ta phải ghi nhớ là thái độ hiên ngang của người tín hữu xác tín rằng mình phải nêu gương… Hãy nhớ lại sự nghiệp các bậc tổ tiên đã thực hiện vào thời của các ngài, các con sẽ được lưu danh muôn thuở. Vì Lề Luật, các con hãy mạnh bạo, hãy can đảm lên! Nhờ Lề Luật, các con sẽ được vinh quang hiển hách.
Không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, chăm sóc linh hồn mình và người khác, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Carôlô Borômêô: Bạn đừng nói một đàng làm một nẻo… Hỡi người của Thiên Chúa, hãy gắng trở nên công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa. Anh hãy truyền, hãy dạy điều đó; hãy nên gương mẫu cho các tín hữu. Nếu anh trình bày cho anh em những điều ấy, thì anh sẽ là một người phục vụ tốt của Đức Kitô Giêsu.
Không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, khiêm nhường tự hạ đáp lời Chúa và giúp cho người khác vào dự tiệc Nước Trời, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma: Mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 130: Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi. Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Hãy ra các ngả đường, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Nước Trời luôn rộng mở cho tất cả những ai đang vất vả nặng nề, đến để được nghỉ ngơi bồi dưỡng; những ai từ khước không chịu đến dự tiệc, mới bị đứng bên ngoài; những ai chưa biết có tiệc Nước Trời, thì, sẽ được mời hết sức nhiệt tình, đến độ, như được ép vào dự tiệc; những ai khiêm nhường sẽ mau mắn đáp lời: Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ và hồn sẽ lặng lẽ an vui. Là chi thể trên cùng một thân thể, ta không chỉ lo cho ơn cứu độ của mình, mà còn, phải lo cho người khác được hưởng ơn cứu độ. Tùy theo đặc sủng Chúa ban, ta phải ra các ngã ba ngã tư, ép mọi người vào dự tiệc Nước Trời. Chúng ta đều là những con người yếu đuối, nhưng, Chúa đã ban cho ta những phương tiện giúp ta dễ dàng hành động, nếu ta muốn. Ước gì Chúa ban ơn Thánh Thần cho ta, như xưa Chúa đã ban cho thánh Carôlô, để Giáo Hội biết không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, Ước gì được như thế!
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi". "Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Sống là chấp nhận từ bỏ. Có những điều xấu phải từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc... Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống... Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc. Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng. Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình. Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội. Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn. Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con. Người mẹ “là mẹ hơn” qua những hy sinh vất vả. Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát. Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa. Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả, chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể. Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn. Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu. Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp. Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai. Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu. Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta, đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại. Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu. Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô. Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt. Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn. Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa. Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ. Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn. Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ. Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp. Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào. Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa. Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân. Cần từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín. Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận, vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ. Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con. Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa. Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen. -------------------------------
Là môn đệ không chỉ đơn thuần đi theo. Nhưng phải trở nên giống Thầy. Nên một với Thầy. Muốn thế phải từ bỏ chính mình. Từ bỏ hết những gì ngăn cản mình giống Thầy. Chỉ gắn bó với Thầy. Nên phải từ bỏ tất cả những tình cảm nào ngăn cản việc kết hợp với Thầy. Kể cả cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái. Thậm chí cả mạng sống nữa. Có thế mới nên một với Thầy.
Đó là một công cuộc lớn lao. Giống như xây một cây tháp cao tầng. Đây là cây tháp đời mình. Rất tốn kém. Phải đầu tư cả cuộc đời. Cả mạng sống. Cả tài năng sức lực. Phải hi sinh tất cả những gì mình có. Đây là một trận chiến lớn lao. Trận chiến suốt cả đời. Khó hơn cả vì là trận chiến với chính mình. Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Tự đánh mình rất khó. Ai đủ can đảm cơ chứ.
Nhưng tất cả sẽ trở nên có thể. Thậm chí còn dễ dàng và nhẹ nhàng. Nhờ một bí quyết. Đó là kết hợp với Chúa. Mặc lấy Chúa Ki-tô. Tất cả đều trở thành có thể.
Mặc lấy Chúa Ki-tô ta sẽ nên môn đệ thực thụ của Chúa. Và ta sẽ suy nghĩ như Chúa. Ăn nói như Chúa. Cư xử như Chúa. Yêu thương anh em trở thành dễ dàng. Vì tự nhiên. Ai yêu Chúa cũng yêu người. Ta sẽ mắc nợ yêu thương với anh em. Không thương không được. Đặc biệt những người nghèo khổ bất hạnh. Ta sẽ chu toàn mọi lề luật. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (năm lẻ).
Khi hoàn toàn kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên trong sạch. Trở nên những người con thực sự của Thiên Chúa: “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa”. Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình để kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên chứng nhân giữa “thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (năm chẵn).
Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình ta hoàn thành việc xây cây tháp cao cho đời mình. Ta chiến thắng trong trận chiến với chính mình. Khi mặc lấy Chúa Ki-tô, ta nên môn đệ thực sự của Người. Ta làm chứng cho Người. Ta trở thành viên đá sống động xây dựng Nước Trời.
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết có rất nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu. Tuy cùng hướng đi trên con đường dẫn đến Giêrusalem, nhưng đám đông không mang cùng một mục đích với Ngài. Trong khi Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết khổ nhục trên Thập giá, thì đám đông lại tưởng rằng Ngài lên Giêrusalem lần này để đánh đuổi ngoại xâm và tái lập vương quốc Israel.
Ðể đánh tan sự chờ đợi sai lầm này, Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi những kẻ theo Ngài hãy suy nghĩ đắn đo, tính toán kỹ lưỡng để xem có đủ nghị lực theo Ngài hay không: Ngài đòi buộc những kẻ muốn theo Ngài, hãy để cho Ngài chiếm chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc sống của mình: "Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được".
Việc theo Chúa là một việc khó nhọc, tiêu tốn nhiều sức lực như khi xây cất hay đánh giặc, do đó người môn đệ phải sẵn sàng dấn thân. Việc theo Chúa không thể tính toán bao nhiêu, bao lâu, hay bằng những việc gì, nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, nghĩa là đi xây dựng Nước Trời, đi giao chiến với sự dữ và và cái chết để được chiến thắng hiển vinh. Người đi theo Chúa phải từ bỏ mọi của cải mình có. Từ bỏ ở đây không có nghĩa là chôn dấu đi hay sử dụng nó theo sở thích của mình, nhưng là làm ích cho người khác, nhất là cho những người nhỏ bé, nghèo hèn.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được lòng can đảm, dứt khoát với tất cả những gì cản trở chúng ta trên bước đường theo Chúa. Xin cho chúng ta được thực tâm đi xây dựng Nước Trời và làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và Suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.
Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.
Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.
Lạy Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.
Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.
Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi được.
“Quả thế ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua ấy đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc. 14, 27-33)
Một đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, Người muốn họ biết phải làm gì để đi theo Người. Nên Người quay lại giải thích cho họ về nước trời. Không phải là tòa nhà xổ số, nhưng là sân vận động Ô-lim-pic trao huy chương vàng cho vận động viên vô địch.
Phải hoàn toàn cố gắng hy sinh
Ai không sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu thì không thể làm môn đệ Người. Đức Giêsu vượt trên mọi sự, trên cả mối giây gia đình. Gia đình là chỗ an toàn, ở đó người ta yêu và được yêu. Đức Giêsu không bảo họ quay về chống đối gia đình, nhưng phải sẵn sàng phục vụ người không bị vướng mắc trở ngại gì, dù là người thân nhất. Lòng trung thành với Đức Giêsu phải đặt lên hàng đầu, trên cả mạng sống mình, Người đòi phải từ bỏ hoàn toàn. Do thái coi kẻ bị treo trên thập giá là kẻ bị chúc dữ. Để nên môn đệ Đức Giêsu, phải chấp nhận bị chúc dữ đó, từ bỏ tất cả, dù là gia đình mình, phải theo Người tới cùng; không thể hòa hoãn; đó là giá của vinh quang.
Phải nhận biết khả năng mình
Cần xem xét sáng suốt những khả năng của mình để biết có thể đi tới đích không. Trước cuộc mạo hiểm như xây tháp hay trận chiến, Đức Giêsu gợi ý cần ngồi lại suy nghĩ tính toán, phải trả giá bao nhiêu. Điều đó muốn nói rằng người ta phải xem xét chắc chắn và cần quyết tâm với hết sức mình để tới đích. Phải có thiện chí và đức tin giúp cho các phương tiện đạt tới đích.
Cũng cần xem xét đánh giá những khuynh hướng và tính tình của mình. Ta có phải chiến đấu sát cánh với Đức Giêsu không? Và đòi phải có quyết định sáng suốt sau khi đã xem xét cân nhắc tương quan về phương tiện, hoàn cảnh và thiện chí của mình.
Nhiều người không thể làm môn đệ của Người vì không sẵn sàng từ bỏ những mối giây ràng buộc và của cải để theo Người. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều được kêu gọi trở về với Người, người ta có thể theo Người bằng nhiều cách khác nhau. Cách làm môn đệ đòi hỏi rất gắt gao và muốn được chọn, cần chính mình phải thực hiện lời khuyên trước và phải cân nhắc cẩn thận những điều thuận nghịch. Tốt hơn đừng thử đi theo rồi lại từ chối giữa đường.
“Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”; hay: “Bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta được”; và: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được".
Thoạt nghe, không ai trong chúng ta lại không cảm thấy “sốc” vì lời mời gọi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ngược đời và không thể chấp nhận được!
Tuy nhiên, dưới ánh sáng của mặc khải, chúng ta mới hiểu được thật chí lý khi Đức Giêsu đưa ra lời đề nghị này:
Trước tiên, Ngài muốn nói đến sự dứt khoát để đặt ý Thiên Chúa lên trên hết. Nếu vì lý do tình cảm mà mất ơn nghĩa hay hạnh phúc Nước Trời thì phải lựa chọn Chúa trước, còn mọi sự khác tính sau. Khi đã có tình yêu và được tình yêu của Chúa chi phối, hẳn sẽ bao trùm và định hướng tình cảm gia đình cũng như người thân...
Thứ hai, là sự thanh thoát. Đức Giêsu mời gọi những người muốn đi theo và làm môn đệ của Ngài, khi cần thiết phải từ bỏ ngay cả những gì là của mình, do mình làm ra và có khi phải từ bỏ ngay chính bản thân mình nữa... Bởi nếu không từ bỏ chính mình thì kể như những thứ ta bỏ trước trở thành vô ích, đây là điều khó khăn nhất đối với chúng ta!
Thứ ba, là phải vác thập giá mình mà theo. Đức Giêsu không bảo chúng ta vác thánh giá của Ngài, nhưng là thập giá của chính mình. Thập giá của chính mình là gì? Thưa có thể là người vợ lắm lời, ông chồng xay xỉn, bổn phận phải chu toàn... vác thập giá còn là từ bỏ ý riêng, là sống theo ý Chúa, tuân giữ luật Ngài trong lòng mến... Những thứ đó làm nên chất liệu quý và giá trị của người Kitô hữu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sẵn sàng theo Chúa trong vai trò là người môn đệ. Tức là từ bỏ mọi sự, kể cả thứ tình cảm riêng tư, và ngay cả bản thân của mình để theo Chúa cho trọn vẹn...
Sống siêu thoát là giúp mình khỏi vướng bận vào của cải trần gian để tâm hồn được thanh thản hầu thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng được tốt hơn.
Sẵn sàng vác thập giá của mình cách yêu mến, chứ không chỉ tôn thờ thánh giá của Chúa mà thôi. Luôn chu toàn bổn phận hằng ngày cách trung thành. Tránh tình trạng vác thập giá cả làng nhưng thập giá của mình thì lại đè đầu cưỡi cổ người khác và bắt họ vác thay. Bởi vì chính Đức Giêsu đã cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, vì thế, đời môn đệ mà thiếu vắng thập giá, thì hẳn sẽ mất hương vị và không phải cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thanh thoát, biết đặt ý Chúa và sứ vụ của Ngài lên trên ý riêng cũng như tình cảm tự nhiên, biết từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa đến cùng. Amen.
Sứ điệp: Phải từ bỏ tất cả để theo Chúa. Người tín hữu phải ý thức điều ấy cho thật rõ và chọn lựa dứt khoát, bởi vì đây là việc dấn thân suốt cuộc đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi con theo Chúa và chọn Chúa. Đó phải là ưu tiên hàng đầu, không có điều gì trên đời này có thể hơn được, dù đó là tình máu mủ ruột thịt, dù đó là chính bản thân con.
Lạy Chúa, thực sự con vẫn chưa hiểu được tầm quan trọng của Lời Chúa, con chưa hiểu tại sao con phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, để làm môn đệ Chúa. Thế nhưng chân lý quan trọng này Chúa luôn nhắc đi nhắc lại cho con. Chúa dạy con tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người. Chúa dạy con: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì không được ích gì”. Chúa dạy người thanh niên giàu có rằng: để được sự sống đời đời thì về bán hết của cải rồi theo Chúa.
Lạy Chúa, dù con không hiểu, nhưng con tin Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Xin cho con tin vào Lời Chúa dạy để con vững bước theo Chúa, để con xác tín mãi mãi rằng chính Chúa là con đường đưa đến sự sống. Bước đi theo Chúa là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con. Vì thế xin giúp con sẵn sàng từ bỏ những lợi ích khác. Xin cho con nhận ra rằng từ bỏ mọi sự vì Chúa không phải là dại khờ, thua lỗ, nhưng là một mối lợi và khôn ngoan. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Một đoàn người hành hương bước đi mệt nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Một người trong đoàn không chịu được, liền cưa bớt đi một khúc cho nhẹ. Anh cảm thấy nhẹ nhõm hơn, anh rất hài lòng vì sáng kiến đó và cho rằng mình quả thật khôn ngoan.
Cuộc hành trình gian truân mang thập giá đã dẫn đoàn người đến trước một vực thẳm. Phải qua vực thẳm vì bên kia bờ là đích đến, nhưng lại không có một cây cầu nào để bước sang. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của mình để bắc qua vực. Lạ lùng thay, thập giá mà mỗi người vác vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với sự tuyệt vọng…
Suy niệm
Trên đường lên Giêrusalem, bằng một động tác mang tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường”, Ngài dạy cho tất cả những ai muốn theo Ngài bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). Vác thập giá theo chân Chúa như R. Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trở bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Ngài” (Theo L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique, tập 2, Cerf, trg 157).
Chúa Giêsu không chỉ mời gọi môn đệ vác thập giá, nhưng chính Ngài đã vác thập giá trước, Ngài vác thập giá, thập giá gánh nặng tội của cả nhân loại. Thập giá mà Ngài vác là từ bỏ chính mình và chấp nhận Thiên ý của Chúa Cha (x. Mt 26,39.42.44; Mc 14,36; Lc 22,42). Người môn đệ của Chúa mang thập giá là chấp nhận con người mình, là mang thập giá niềm tin vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày bằng sự cố gắng không rên rỉ. Như tông đồ Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (x. 2Cr 12,7-9). Và Phaolô vẫn tiếp bước hành trình thập giá của người môn đệ rao giảng tình yêu: “Chúng tôi luôn mang trên mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu” (2Cr 4,10).
Thập giá được vác trên vai của mỗi người cũng là ánh sáng cứu độ soi đường như thánh Gioan Kim khẩu Suy niệm và xác tín: “Cây Thánh Giá là hy vọng của các Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kìm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng ma quỷ, là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên, là bánh lái cho những người vượt sóng, là cửa biển cho những kẻ đi xa, là thành luỹ cho những kẻ bị vây hãm”.
Ước chi tôi và bạn mang tâm tình của thánh Phaolô mỗi ngày khi vác thập giá: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Ý lực sống
“Thập giá trở nên tiếng kêu tình yêu vô bến bờ của Thiên Chúa” (Maurice Zuldel).
Lúc này Đức Giêsu không còn ở nhà ông biệt phái nữa, nhưng trên đường đi Giêrusalem, có dân chúng theo Người rất đông. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Đức Giêsu nói với họ: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải yêu mến Ngài hơn tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa. Như vậy, để trở nên môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta cũng phải cùng đi con đường của Ngài và đường của Ngài là từ bỏ, là đón nhận Thập giá.
Trên đường đi Giêrusalem, có rất đông người cùng đi, có người đi cho vui, có người có thiện cảm với Chúa muốn là môn đệ của Ngài, nên Đức Giêsu đã quay lại cho họ biết những điều kiện để làm môn đệ của Ngài: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định: nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Ngài.
Thực ra, việc từ bỏ, vác thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt tới mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Đức Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài với hết mọi sự và với sức lực của mình trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài đến hết mọi sự để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa (R.Veritas).
Theo những điều kiện Đức Giêsu nói, chúng ta có thể hiểu theo nghĩa đen hoặc theo nghĩa bóng. Có nhiều người đã hiểu theo nghĩa đen, nên đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo, có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền để theo Chúa. Có những vị khác đã bước qua con cái hay sẵn sàng chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình, để ra đi dâng mình cho Chúa; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt, để khỏi trở thành dịp tội cho kẻ khác. Đó là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Nhưng những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa trên đây: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận cộng đoàn mình sống làm gia đình, và nhận những người cùng chí hướng làm anh chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn: vâng lời, khó nghèo và trong sạch (Theo Lm. Phạm Văn Phượng).
Trong xu thế của thời đại hưởng thụ và tích luỹ này, nói đến “từ bỏ hết những gì mình có” xem ra là một thứ “cung đàn lạc điệu”. Tuy nhiên, đối với những người con cái Chúa”, đó là hai điều kiện tất yếu và tiên quyết, vì không từ bỏ cũng đồng nghĩa là không thể trở nên môn đệ của Chúa Kitô được. Ơn gọi làm “con cái Chúa” là chấp nhận sự điên rồ của Thập giá, cớ vấp phạm cho người đời. Có “từ bỏ hết những gì mình có”, là biết “nói không” với thế gian, ma quỷ và xác thịt mới có thể là “sen” mọc “giữa bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, là đèn để “gần mực” mà chẳng “đen”, nhưng chiếu sáng cho cả nhà. Vì thế, đòi hỏi trước tiên đối với người môn đệ của thời đại hôm nay là từ bỏ lối sống hưởng thụ tích lũy, điều mà người thời đại hôm nay đang theo đuổi (5 phút Lời Chúa).
Sống trọn những cam kết của bí tích Thánh tẩy, sống trọn danh Kitô hữu, điều đó đôi khi đòi hỏi nhiều hy sinh. Thế nhưng chỉ thái độ dứt khoát chọn lựa và quyết tâm theo đuổi đến cùng mới thực sự làm chúng ta xứng danh Kitô. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại lối sống đạo xem chúng ta có đặt Chúa và giá trị Tin mừng vào địa vị ưu tiên trong cuộc sống hay chưa.
Truyện: Giới Tử Thôi và công tử Trùng Nhĩ
Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đời Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chặn lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại, nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn, thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324)
1. Khung cảnh: Khi ấy “Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu”: họ đang cùng với Chúa Giêsu “tiến lên Giêrusalem”. Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
2. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo” Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là “ghét”) tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
3. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
B.... nẩy mầm.
1. Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành Chúa Giêsu nói rõ với “rất đông người” đang đi theo Ngài. Người ta theo đạo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với mọi người rằng theo Ngài thì phải từ bỏ (bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống), và lại còn phải vác thập giá. Dĩ nhiên, sự từ bỏ và vác thập giá không phải luôn là hiện thực, nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy khi hoàn cảnh xảy đến thì mới xứng đáng làm môn đệ Ngài. Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác thập giá.
2. Có người thờ thập giá nhưng không vác thập giá. Có người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu nhưng không quý chuộng thập giá mình. Những người đó không xứng đáng là môn đệ Chúa Giêsu.
3. “Hãy vác thập giá hằng ngày”: “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi !” (John Newton).
4. “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,27)
Có người đàn ông kia là một kitô hữu, vợ con ông đều chết cả, tài sản bị tiêu tan, địa vị cũng không còn, chỉ còn duy nhất một đức tin mong manh. Một hôm, ông đến gần một người thợ đang xây nhà thờ, thấy người kia đang đẽo gọt một miếng đá nhỏ để tạo ra một tam giác đứng, ông nhìn hồi lâu rồi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy ?
- Bác nhìn lên đỉnh Tháp nhà thờ xem. Ở đó có một chỗ trống. Tôi đang đẽo miếng đá nhỏ này để đặt nó vào đó.
Ông gật gù ngẫm nghĩ, và cảm thấy như thể Chúa nói với mình: “Ta đang đẽo gọt con để con thích hợp với chỗ trống trong công trình của Ta...”, và ông rời chỗ ấy ra đi, tràn nước mắt hạnh phúc.
Lạy Chúa, mấy hôm nay con đang chán nản vì những thử thách nặng nề. Xin cho con đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để con vác thập giá đi theo Chúa. (Hosanna).
1. Khung cảnh: Khi ấy "Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu" (Lc 14,25). Họ đang cùng với Chúa Giêsu "tiến lên Jêrusalem". Có lẽ họ nghĩ rằng, đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói rõ ra: "Những ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo") thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là "ghét") tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa và phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì mới xứng đáng với Chúa.
Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành.
Thế nhưng, trong thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ và không muốn vác Thập Giá.
Ngược lại nếu biết từ bỏ, phần thưởng sẽ thật lớn:
Bob Ernst kể lại cuộc đời của ông: Tôi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, cùng với sáu anh trai, ba chị em gái. Dù gia đình tôi không có bất cứ tài sản quý giá gì, nhưng lúc nào cũng tràn ngập tình yêu thương và sự quan tâm. Tôi sống hòa đồng với mọi người, năng động trong mọi việc. Tôi luôn nuôi dưỡng cho mình một ước mơ và cố gắng để thực hiện.
Tôi mong muốn được trở thành vận động viên bóng chày. Khi 16 tuổi, tôi đã có thể ném trái bóng chày trúng bất cứ vật gì đang di chuyển trong sân banh với tốc độ 90 dặm giờ. Tôi thật sự may mắn khi thầy huấn luyện viên không chỉ tin tưởng tôi mà còn dạy tôi biết tin vào chính mình. Thầy chỉ cho tôi thấy sự khác nhau giữa việc có một ước mơ và việc tin vào ước mơ ấy. Và một chuyện xảy ra đã thay đổi hẳn cuộc đời tôi.
Đó là vào mùa hè giữa năm học thứ ba, một người bạn giới thiệu cho tôi công việc làm thêm. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ có cơ hội kiếm tiền - cho những cuộc hẹn hò với bạn gái, mua xe đạp, mua quần áo mới và bắt đầu tiết kiệm để mua nhà cho mẹ tôi. Viễn cảnh thú vị thôi thúc tôi giành lấy ngay cơ hội ấy.
Song, tôi cũng nhận ra rằng mình phải từ bỏ các buổi tập bóng chày để làm việc. Điều này làm tôi hơi lo ngại. Tôi tự trấn an mình bằng lời khuyên của mẹ: "Nếu các con đã làm việc gì, các con phải chịu trách nhiệm về điều đó".
Khi nghe tôi xin phép sẽ thôi không chơi bóng nữa, thầy giận dữ:
- Em còn cả cuộc đời phía trước để làm việc trong khi chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi để chơi bóng. Đừng hoài phí nó.
Tôi cúi gằm mặt, cố tìm lời giải thích về ước mơ mua xe đạp, mua căn nhà mới cho mẹ.
- Em kiếm được bao nhiêu tiền với công việc này? - Thầy hỏi.
- 5 đô la một giờ, thưa thầy. - Tôi đáp.
- Thế thì 5 đô la là cái giá cho ước mơ của em phải không?
Câu hỏi bất ngờ và thắng thắn đó của thầy đã vạch cho tôi thấy rõ sự khác biệt giữa việc đạt một điều trước mắt và việc hướng đến mục tiêu lâu dài. Tôi bừng tỉnh và quyết tâm dốc hết toàn bộ sức lực, ý chí vào các trận đấu bóng chày mùa hè năm đó và tôi đã được câu lạc bộ Pittsburgh Pirates mời chơi bóng với hợp đồng trị giá 20 ngàn đô-la. Tôi cũng góp phần giành cúp vô địch cho trường đại học Arizona. Sau đó, tôi ký hợp đồng trị giá 1,7 triệu đô la với câu lạc bộ nổi tiếng Denver Broncos và mua cho mẹ tôi căn nhà như tôi hằng mơ ước.
Newton nói: "Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng, ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi!" (Newton).
Người ta kể rằng, có một đoàn người kia vác Thập Giá của mình, bước đi cực nhọc dưới sức nặng của cây Thập Giá đè trên vai, trong đó có một người vác một cây Thập Giá khá dài, không chịu được, ông cưa bớt đi một khúc.
Sau cuộc hành trình gian truân, đoàn người đi đến bên bờ một vực thẳm: Bên bờ bên kia Chúa đang đợi sẵn, nhưng ngặt một nỗi là không có một cây cầu nào bác qua để sang bên đó.
Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây Thập Giá của mình bắc qua vực thẳm. Lạ lùng thay chúng vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây Thập Giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên này với sự tuyệt vọng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con vác Thập giá mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
Trong cuộc đời này, điều quý giá nhất không gì có thể thay thế được, vì chúng ta chỉ có một lần sinh ra và một lần chết đi chứ không có lần thứ hai, đó chính là mạng sống của chúng ta.
Hôm nay, Chúa nói theo Chúa thì:
+ Chúng ta phải bỏ của cải, vì không ai có thể làm tôi hai chủ, vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi của cải. Nhưng làm sao bỏ được của cải vì của cải dính liền khúc ruột chúng ta?
+ Chúng ta phải để lại tình cảm sau lưng, dù đó là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất như tình mẫu tử, tình phụ tử, tình yêu thương vợ chồng, con cái, tình anh em ruột thịt. Nhưng làm sao để lại phía sau được đây khi mà mỗi người chúng ta chỉ có một lối về là mái nhà, nhất là những lúc chúng ta gặp thử thách: “Người quay lại bảo họ: Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26).
+ Mạng sống của chúng ta cao quý nhất, làm sao có thể hy sinh được đây: “Và cả mạng sống mình nữa” (Lc 14, 26b).
Được làm môn đệ của Chúa có gì cao quí, hấp dẫn mà khến chúng ta lại phải từ bỏ tất cả vậy?
Chúa nói nếu chúng ta có trí não biết ngồi lại ngẫm nghĩ suy xét để quyết định giống như người trước khi xây nhà thì phải tính toán, hoặc trước khi đi giao chiến thì phải coi mình có đánh thắng được đối phương không. Nếu thấy không được thì đừng có làm liều. Nhất là chúng ta phải liệu sức mình mà quyết định cho đúng, kẻo hối hận: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đử sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà” (Lc 14, 28 – 32).
Theo Chúa, làm môn đệ Chúa, trở nên giống Chúa là hạnh phúc nhất của chúng ta. Vì vậy, chúng ta cần phải đặt Chúa lên trên mọi sự, và từ bỏ tất cả những gì cản trở chúng ta đến với Chúa như là mạng sống, tình cảm, của cải và rồi chúng ta vác thập giá theo Chúa mỗi ngày: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 27). Thập giá đó chính là những gian nan thử thách, đau khổ, bệnh tật, nghèo túng, hoạn nạn rủi ro, chết chóc…. Tự sức chúng ta không thể làm nỗi điều này. Chúng ta không có khả năng để trung kiên với Chúa. Chúng ta cần phải cậy nhờ Chúa giúp chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con đã được làm con của Chúa, được làm môn đệ của Chúa, xin Chúa luôn cho chúng thấy rằng đây là vinh dự là hạnh phúc lớn nhất của chúng con để chúng con trung thành vác thập giá theo Chúa mỗi ngày: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 33). Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 31 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chỉ nhờ Chúa ban ơn, các tín hữu Chúa mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, xin Chúa giúp chúng ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải chiến đấu bằng sức mạnh của Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Macabê Quyển 1: Ông Giuđa Macabê, nhân danh Giao Ước, cầm đầu cuộc chiến chống lại những người bỏ đạo cùng những ai hỗ trợ các người bỏ đạo này tức là binh sĩ Xyria. Dù phương tiện yếu kém, ông đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác… Kẻ thù tiến đánh chúng ta thật là tàn bạo, nhưng anh em đừng nản chí sờn lòng. Bởi vì người ta thắng, không phải nhờ số quân đông đảo, nhưng là nhờ Chúa Trời ban sức mạnh cho. Còn chúng ta, chúng ta giao chiến để bảo toàn sinh mạng và lề luật của chúng ta; chính Chúa Trời sẽ nghiền nát chúng trước mặt chúng ta.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải vững tin vào Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giáo huấn của thánh Syrilô Giêrusalem: Sức mạnh đức tin vượt thắng sức mạnh loài người… Chúng ta biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, và chúng ta tin vào Đức Kitô Giêsu, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Kitô. Thiên Chúa đã định cho Đức Kitô Giêsu phải đổ máu mình ra làm hy lễ đem lại ơn tha tội.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải kính sợ Chúa và bác ái đối với nhau, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma: Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 111: Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn. Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Nếu anh em bị sỉ nhục vì Danh Đức Kitô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí của Thiên Chúa ngự trên anh em. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. Không từ bỏ hết không thể làm môn đệ của Đức Giêsu; bị sỉ nhục, bị bách hại vì Danh Đức Kitô, thì thật là có phúc; chúng ta được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô. Đức tin là ân sủng do Đức Kitô ban cho. Hiểu như một ân sủng, thì, đức tin do Thần Khí ban cho không chỉ liên quan đến các điều phải tin, nhưng, còn thực hiện được những gì vượt quá sức loài người. Có đức tin như thế mà bảo núi: rời khỏi đây, qua bên kia đi, nó cũng sẽ qua. Quả thế, ai lấy đức tin mà nói như vậy, đồng thời tin là sẽ xảy ra, không nghi ngại trong lòng, thì, sẽ nhận được ơn ấy. Chính nhờ đức tin, mà ông Giuđa Macabê đã chiến thắng, ông nói: Đối với Chúa Trời, dùng nhiều người hay ít người mà cứu thoát cũng chẳng khác nhau. Bởi vì người ta thắng trận không phải nhờ số quân đông đảo, nhưng là, nhờ Chúa Trời ban sức mạnh cho. Chúng ta giao chiến để bảo toàn sinh mạng và các tập tục của chúng ta. Chính Chúa Trời sẽ nghiền nát chúng nó trước mặt chúng ta. Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban: hãy làm cho mình và cho người khác được hưởng ơn cứu độ của Chúa, vì thế, ta đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Chỉ nhờ Chúa ban ơn, ta mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, ước gì ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường. Ước gì được như thế!
Lòng thương xót vô biên của Chúa. Giáo Phận Long Xuyên cầu nguyện cho các Giáo sĩ và Tu sĩ từng phục vụ trong Giáo Phận đã qua đời. "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. "Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả, nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người, vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa. Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi, đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa. Trước khi con người hướng về Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người. “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.” Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau, nhưng cũng sống vì con người và cho con người. Hai dụ ngôn hôm nay cho thấy Thiên Chúa quý con người. Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện. Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn: có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng. Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa. Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ có một trăm con chiên hay mười đồng quan. Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất. Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được. Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8). Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt. Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang, người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách. Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được. Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất. Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng. Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm. “Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9). Thiên đàng không cắt đứt với trần thế. Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10). Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm. Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa. Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài. Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa. Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường. Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng. Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy. Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người. Hãy để Ngài đi tìm bạn, và cho Ngài niềm vui khi tìm thấy người đã mất. Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời, trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn. Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do. Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin đánh thức con. Xin đưa con ra khỏi cơn mê mà tự sức con không sao thoát ra được. Xin đừng ngại đánh thức con bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ, nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ đang cắt tỉa con vì yêu con. Ước gì con được tỉnh táo để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê, những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối. Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện, xin cho con thức luôn và sáng luôn, trước nhan Chúa.Amen
Đối với người Do thái Lề Luật là tất cả. Là lẽ sống. Là danh dự. Là trật tự. Là ơn cứu độ. Tất cả là Lề Luật. Nên khô cứng. Và không có tình người. Họ không giao du với người thu thuế. Vì người thu thuế không giữ Lề Luật. Giao du với họ là ô uế cũng lỗi Lề Luật. Chúa Giê-su dùng hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng tiền đánh mất” để cho họ biết rằng nếu Lề Luật là tất cả thì Tình Yêu chính là Lề Luật. Tình Yêu mới là tất cả.
Tình Yêu là Lề Luật vì chỉ có một luật quan trọng nhất là luật yêu thương. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau”.
Tình Yêu thì không tính toán. Một con chiên lạc cũng quan trọng như 99 con không lạc. Nên người chăn chiên thao thức đi tìm cho đến khi tìm thấy. Một đồng bạc cũng quan trọng bằng 9 đồng không mất. Nên người phụ nữ phải quét nhà moi móc tìm cho ra. Cũng thế một người tội lỗi cũng quan trọng như tất cả mọi người. Cần cứu chữa đưa về.
Tình Yêu thì không loại trừ. Trái lại vì yêu thương nên những gì bé nhỏ, yếu ớt, kém cỏi lại càng cần được yêu thương hơn. Những tội nhân, những người xa lạc, giống như những người mang thương tích càng cần được chăm sóc, băng bó, chữa lành hơn. Cũng như trong một thân thể, chi thể nào càng đau yếu càng được nâng niu chăm sóc hơn.
Tình Yêu thì không xét đoán. Nếu có xét đoán cũng là trong tình yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán về tình yêu. Chỉ mình Chúa có quyền xét đoán. Vì thế ta đừng xét đoán anh em. Vì chính ta sẽ bị Chúa xét đoán. “Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em. Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa…mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa” (năm lẻ).
Tình Yêu là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô là tất cả. Là Tình Yêu. Là Lề Luật. Còn hơn thế nữa. Là Sự Sống. Là Hạnh Phúc. Là Tất Cả Ý Nghĩa Cuộc Đời. Vì thế thánh Phao-lô xưa kia cũng có địa vị trổi vượt, cũng hay xét đoán và tự cho mình quyền xét xử người khác, có nhiều ưu thế trong xã hội. Nhưng từ khi được biết Chúa Ki-tô ngài từ bỏ tất cả. Vì Chúa Ki-tô là tất cả. “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đứuc Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi” (năm chẵn).
Có một câu chuyện về cuộc đời của một thiếu nữ tên Liker với nội dung như sau:
Liker phục vụ trong quân đội Anh, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy cô trở thành gái mãi dâm. Lúc thành phố Paris được giải phóng sau thế chiến thứ hai, không lâu sau đó, Liker phục vụ những khách hạng sang tại một trong những nơi ăn chơi nổi tiếng nhất của Paris do Patric làm chủ. Trong lúc tận tình giúp đỡ một thiếu nữ khác để khỏi rơi vào hoàn cảnh éo le của mình, Liker đã bắn chết Patric. Cô bị tống giam, nhưng trong cảnh ngục tù, Liker đã gặp các Nữ tu có tên gọi là các chị Bêtania, là Dòng chuyên nâng đỡ những cô gái sa cơ lỡ bước, những người nghiện ngập, những người sống đầu đường xó chợ. Vài nữ tu này trước kia cũng là nạn nhân của xã hội như những người họ đang phục vụ. Mãn hạn tù, Liker xin gia nhập dòng và trở thành một trong các chị Bêtania.
Nữ tu Liker trong câu truyện trên đây là tiêu biểu cho con chiên lạc mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến. Nàng đã sa cơ lỡ bước, nhưng Thiên Chúa qua cử chỉ của các chị Bêtania đã đi tìm gặp chị và mời gọi chị trở nên bạn chí thiết của Ngài trong đời sống hiến dâng.
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay rất đơn sơ, nhưng mang đầy ý nghĩa. Vai chính là người chăn chiên và người phụ nữ. Những người chăn chiên thời Chúa Giêsu thường bị khinh miệt, vì họ là những người nghèo nàn, ít học, bị nghi ngờ gian lận, và vì phải luôn sống với đàn chiên ngoài đồng, nên họ không thể giữ luật ngày Hưu lễ cũng như không thể tham dự các giờ kinh trong Hội đường. Còn các phụ nữ là những công nhân hạng hai, theo tâm thức của Việt Nam ngày xưa: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", nhưng họ được Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để so sánh với chính Thiên Chúa.
Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Một Thiên Chúa sung sướng khi chúng ta sống đúng theo thánh ý Ngài. Một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, vì tình thương vô biên của Ngài. Nữ tu Liker trong câu truyện trên đã cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, còn chúng ta, cho đến bao giờ mới có một kinh nghiệm như thế?
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được hiểu thêm lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin cho chúng ta mau mắn chỗi dậy mỗi lần sa ngã, với niềm xác tín vào lòng nhân hậu vô bờ của Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài.
Trọng tâm của đoạn Tin Mừng hôm nay nêu bật khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu đó là sự tha thứ, một sự tha thứ được gói trọn trong tình yêu khoan dung vì tình yêu này không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngục tù của lỗi lầm, của quá khứ. Tình yêu này cũng không giới hạn kẻ làm ơn trong hiện tại đen tối của người ấy mà còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tốt hơn trong tương lai.
Trong cách hành xử của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài sẵn sàng tha thứ để biểu lộ một tình yêu chân thành qua việc Ngài tiếp xúc với những người thu thuế, làm bạn với những người bị xã hội thời bấy giờ gán cho là kẻ tội lỗi. Ngài không ngăn cấm họ năng lui tới nơi Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài còn cùng ăn uống đồng bàn với họ. Những cuộc gặp gỡ giao tế này minh chứng rằng Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những người tội lỗi trong hai trạng thái: trạng thái hiện tại của họ và trạng thái họ có thể trở nên tốt lành hơn trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dù đang sống trong tình trạng tội lỗi nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến những bước đầu tiên trên con đường hoán cải, và những điều họ có thể trở nên minh chứng qua những hành động cụ thể sau đó. Thí dụ như hành động dứt khoát với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa của ông Mátthêu. Là một người thu thuế, khi được Chúa gọi, ông đã bỏ bàn thu thuế đứng dậy và đi theo làm môn đệ Chúa. Hay qua sự hoán cải của một người thu thuế khác sau khi gặp gỡ Chúa và nghe Ngài dự định tới trọ nhà mình, ông Zakêu đã hứa là sẽ lấy nửa gia tài của mình mà phân phát cho những người nghèo và bồi thường gấp bốn cho những ai ông đã làm thiệt hại.
Chúa Giêsu ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Giêsu duy nhất không bao giờ thay đổi. Lòng nhân hậu vẫn khiến Ngài rảo bước đi tìm những con chiên lạc và khi gặp thấy thì mừng rỡ đặt nó lên vai mang về nhà và bảo người láng giềng: "Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc". Như thế, đối với Chúa Giêsu, Ðấng đầy lòng khoan dung nhân hậu, không ai dại gì mà để cho con người phải chịu đóng dấu vào những vòng tội lỗi và rồi bị xếp loại vào những người bị kết án muôn đời.
Vậy, chúng ta đây còn chần chờ gì nữa. Hãy chỗi dậy kíp hoán cải để thống hối ăn năn thực lòng, để được Ngài âu yếm vỗ về và để cho các thánh trên trời đều reo vui như lời kết thúc của câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu: "Thật vậy, Ta bảo cho các ngươi rõ, các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại".
Lạy Chúa
Xin cho con được ý thức tình thương của Chúa trong đời sống con và luôn luôn quay trở về mỗi lần lầm lỗi.
“Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác chiên lên vai.” Cũng thế tôi nói cho các ông hay: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai lấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 4-5.10)
Trong đám đông dân chúng có nhiều người thu thuế và tội lỗi. Họ đã thấy việc Đức Giêsu làm và mau mắn đến nghe lời Người. Biệt phái và luật sĩ cậy mình là người công chính, họ rình xét Người và lẩm bẩm kêu: Ôi gương mù quá! Người nói nhân danh Thiên Chúa, lại đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với bọn ô uế.
Sáng kiến tìm chiên lạc:
Luôn luôn Thiên Chúa được giới thiệu như mục tử yêu mọi con chiên. Nếu lạc mất một con, mục tử để lại cả đoàn và đi tìm con chiên lạc với bất cứ giá nào và vác lên vai đưa về. Anh vui mừng biết bao và chia sẻ vui mừng với tất cả mọi người. Cũng vậy, một bà đánh mất một đồng bạc và hết sức quét nhà tìm cho được.
Đức Giêsu muốn chỉ cho thấy Thiên Chúa sáng kiến tìm đưa người tội lỗi về với Ngài trước, khi tìm được, Ngài tỏ lòng rất dịu dàng và thương xót an ủi họ. Trái lại, biệt phái loại họ khỏi cộng đồng hội thánh của Ít-ra-en, còn Thiên Chúa rất cảm động trước sự thống hối và tha thứ cho tội nhân, dẫn đưa họ về gia đình trong vui mừng.
Vui mừng tìm được chiên lạc
Niềm vui này, Thiên Chúa chia sẻ với mọi người, để họ nhận ra lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã nói qua ngôn sứ Ô-sê: “Tim Ta rạo rực trong Ta, cùng với lòng từ bi rung động … Vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải là người, Ta là Đấng Thánh ở giữa ngươi; Ta không đến với ngươi trong cơn thịnh nộ”. Chính vì Thiên Chúa không vứt bỏ những tội nhân, nhưng còn cảm thấy vui mừng lớn lao khi tha thứ cho họ, nên Đức Giêsu chăm lo cho họ và đồng bàn với họ. Những kẻ giả hình công chính phải lo ăn năn trở về, thay vì lẩm bẩm kêu trách. Như thế, họ sẽ không được chia sẻ sự vui mừng do lòng thương xót Chúa ban.
Dù ăn uống với những người tội lỗi, Người luôn luôn kêu gọi phải từ bỏ tội lỗi, ăn năn sám hối trở về, Người chỉ cho thấy ai đáp lại lời kêu gọi này thì không bị cơn giận của Thiên Chúa đổ xuống, nhưng được vui mừng hưởng lòng thương xót và ân phúc cứu độ của Ngài.
Xem CN 24 TN C - Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su năm C - thứ Ba tuần 2 MV và thứ Ba tuần 19 TN
Toàn bộ Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy từ hành động đến lời rao giảng, Ngài luôn nhấn mạnh đến sự tha thứ và tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Hai dụ ngôn chiên lạc và đồng bạc bị đánh mất hôm nay là điển hình của đặc tính ấy.
Thật vậy, bản chất Thiên Chúa là tình yêu, vì thế, Người không chấp tội của chúng ta, Người cũng không để ý, hay đóng khung trong quá khứ, nhưng luôn mở ra và hướng tới tương lai.
Với một lối nhìn nhân từ, bao dung, tha thứ, nên Đức Giêsu đã không ngần ngại xếp những người tội lỗi như thu thuế, gái điếm thành bạn hữu của Ngài, trong khi những hạng người này dưới con mắt của người thời đó là đáng bị khinh bỉ và nguyền rủa!
Điều quan trọng mà chúng ta cần khám phá ra và cũng là hành trình đức tin của mỗi người, đó là: khi được Chúa yêu thương, tha thứ và tạo cơ hội cho mình thì điều đầu tiên cần có là tâm tình tạ ơn, rồi đến sám hối, hoán cải và cuối cùng là thực thi Lời Chúa cách trung thành.
Qua hình ảnh vị Mục Tử nhân lành vác con chiên đã đi lạc lên vai sau khi tìm được và niềm vui của bà chủ khi tìm thấy đồng bạc bị đánh mất cho chúng ta thấy rõ ràng một Thiên Chúa luôn hướng tới tương lai, không hề có ý định đóng dấu tội lỗi trong quá khứ cho bất cứ ai, nhưng không ngừng đi tìm kiếm người tội lỗi và mong họ trở về.
Đây là niềm tự hào và an ủi cho người Kitô hữu, bởi chúng ta được thuộc về Thiên Chúa tình thương, đồng thời an ủi là vì mỗi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, nhưng được Ngài yêu thương.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hãy biết tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, can đảm quay trở về với Người để được Người yêu thương. Đồng thời, noi gương Chúa, chúng ta không được coi thường, khinh bỉ người tội lỗi, bởi vì thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai. Thế nên, xin cho chúng ta hãy biết tha thứ và đối xử nhân hậu đối với những người tội lỗi như chính Chúa đã đối xử nhân hậu với chúng ta. Amen.
Sứ điệp: Dụ ngôn tìm chiên lạc và tìm đồng bạc bị đánh mất nói lên lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với mọi tội nhân. Qua đó Chúa mời gọi ta trở về với Chúa để nhận ơn tha thứ và để ta cũng biết tha thứ cho anh em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua dụ ngôn tìm chiên lạc và tìm đồng bạc bị đánh mất, con cảm thấy lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân thật bao la vô ngần. Cái nhìn yêu thương cảm thông của Chúa thật khác xa với cái nhìn hằn học ghen tị của những người biệt phái và luật sĩ.
Lạy Chúa, Chúa không bao giờ bỏ rơi con, cho dù con là một kẻ đốn mạt tội lỗi. Người chăn chiên quên đi chín mươi chín con chiên đang ở với mình để đi tìm một con chiên lạc, hình ảnh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với tội nhân thật lạ thường biết bao. Chúa vẫn luôn nghĩ đến con cho dù trong trái tim con không hề có hình ảnh Chúa. Chúa vẫn yêu thương con cho dù bao lần con đã xúc phạm đến Chúa. Và Chúa sẵn sàng ra đi tìm kiếm con cho dù con luôn tìm cách trốn chạy, muốn xa lìa Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa để con quyết tâm trở về với Chúa. Xin cho con xác tín rằng: Chúa sẽ vui mừng biết bao khi thấy con thật lòng ăn năn thống hối tội lỗi, vì chính tình yêu thương tha thứ của Chúa sẽ mang đến cho con niềm hạnh phúc bình an. Và xin Chúa ban cho con trái tim nhân ái của Chúa, để con cũng biết yêu thương tha thứ cho những anh em lầm lỡ và giúp đỡ họ trở về với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó.
Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: “Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
Suy niệm
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nhận ra chân dung của Thiên Chúa đầy lòng yêu thương và nhân hậu, Ngài hiện thân qua người con yêu, Ðức Giêsu Kitô, Đấng luôn kiếm tìm chúng ta. Ngài sẵn sàng đón nhận chúng ta đang khi chúng ta còn là tội nhân.
Khi con người yếu đuối vì tội lỗi, con người đi hoang, đánh mất tình cha con đã được Thiên Chúa Cha, chuộc lại qua Chúa Kitô, thánh Phaolô đã xác tín: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Cho nên, con trở về, Cha tha thứ vui mừng như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”. Chúa Giêsu đã làm sáng tỏ tâm tình của Thiên Chúa Cha, trước người con quay về mà ngôn sứ Mikha đã tiên tri về tình Chúa, tình Cha “có Thiên Chúa nào như Ngài lại vui mừng khi ban ơn tha thứ” (Mk 7,18).
Từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, trở về cùng Chúa kết hợp với Ðức Kitô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phaolô dạy: “Phàm ai kết hợp với Ðức Kitô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi” (2Cr 5,17).
Trở về bên Chúa, sau những quãng đời hoang tàn, con lại khám phá và sống lại trong tình Chúa, tình thâm sâu nghĩa nặng của Cha luôn bao la:
Con nguyền giữ đạo Trung Cang Tình cha con nguyện nặng mang trọn đời. (Võ Duy Khánh, Tình Cha).
Ý lực sống
“Sự hối cải là một lời cầu nguyện (...) những người ăn năn sám hối sẽ thấy lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ những thực tại tuyệt vời” (Thánh Gioan Kim khẩu chú giải Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32).
Thấy Đức Giêsu hay gần gũi những người tội lỗi lại còn đồng bàn với họ, nhóm biệt phái và luật sĩ trách cứ Chúa. Do đó, Đức Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ. Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài xót xa khi một người rơi vào tình trạng tội lỗi, do đó, Ngài thiết tha cứu người tội lỗi. Hai dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền bị mất nói lên tấm lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng đón nhận chúng ta và Ngài vô cùng sung sướng khi chúng ta biết mở lòng đón nhận sự tha thứ và tình thương của Ngài.
Hình ảnh con chiên bị lạc vì nó lạc bước không có chủ ý, mà do đam mê cỏ ngọn suối ngọt mà nó bị lạc, nên nó vẫn muốn tìm về, nhưng nó không tìm được đường về, hoặc bị sa xuống hố, hay đang bị cầm giữ, nên chủ nó mới đi tìm về, cho nó được nhập lại đàn và băng bó chữa trị cho nó. Cũng thế, không ít người trong chúng ta cũng lạc lối bơ vơ trong những đam mê, sa lầy trong tội lỗi, bị mọi thứ thế gian che khuất không tìm thấy lối về nẻo chính đường ngay. Chúa vẫn đã, đang và sẽ mãi đi tìm chúng ta để chữa lành và đưa về với Hội thánh. Đó là điều làm chúng ta an tâm và ngoan ngoãn cho Chúa đưa về.
Thật cảm động trước thái độ ân cần của người chủ chiên đối với con chiên đi lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy 100 con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó lên vai mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh thiên đàng: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân (Lm. Carôlô).
Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Cách nói phóng đại trong dụ ngôn “con chiên lạc” và “đồng bạc bị mất” diễn tả niềm vui của Thiên Chúa lớn lao dường nào khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải. Quả thật, Thiên Chúa đã phải buồn lòng bao nhiêu khi con cái mình lạc đường, thì Ngài sẽ vui mừng hơn gấp bội khi thấy dù chỉ là một người con trở về chính lộ. Lòng thương xót của Thiên Chúa dạt dào đến mức khiến Ngài cũng trở nên “yếu đuối, mềm lòng” luôn sẵn sàng tha thứ một khi tội nhân tỏ lòng sám hối ăn năn. Thiên Chúa muốn cho người tội lỗi hối cải đến mức như Ngài không còn e ngại gì nữa, mà còn chấp nhận để cho lòng tốt và tình yêu của mình bị lợi dụng (5 phút Lời Chúa).
Đức Giêsu ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Đức Giêsu duy nhất không bao giờ thay đổi. Lòng nhân hậu vẫn khiến Ngài rảo bước đi tìm những con chiên lạc và khi gặp thấy thì mừng rỡ đặt nó lên vai mang về nhà và bảo người láng giềng: “Hãy vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc”. Như thế, đối với Đức Giêsu, Đấng đầy lòng khoan dung nhân hậu, không ai dại gì mà để cho con người phải chịu đóng dấu vào những vòng tội lỗi mà xếp loại vào những người bị kết án suốt đời (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Thiền sư Sengai
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thoả thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền rời cái ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó.
Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám phá ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: “Sáng sớm trời lạnh lắm, con phải cẩn thận kẻo bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
Khung cảnh: thầy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ. Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
B.... nẩy mầm.
1. Thật cảm động thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên đi lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy 100 con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh trên thiên đàng: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân.
2. “... hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn”: Những kẻ thấy mình “không cần phải sám hối ăn năn” là những người nghĩ rằng mình “công chính”, nhưng thực ra họ không phải là người “công chính” thật. 99 người như thế không đáng là gì cả so với chỉ một người biết mình tội lỗi nên ăn năn sám hối.
3. “Một trong những hiện tượng tiêu cực rất phổ biến, đó là: ... ở đâu và thời nào tâm lý con người cũng giống nhau: ai cũng tự đặt mình vào tư thế quan tòa để xét xử, kết án người khác. Chúa Giêsu cảm thông tha thứ mọi yếu hèn của con người. Ngài đồng bàn với người tội lỗi, thể hiện tình bạn với họ. Nhưng chỉ có một thái độ Ngài không thể dung tha, đó là thái độ của những người tự cho mình thánh thiện tẩy chay và kết án người khác. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ như thế, vì đó là tước quyền Thiên Chúa: chỉ một mình Ngài mới có quyền xét xử” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất”. (Lc 15, 6)
Vui với tôi bạn nhé, tôi lại tìm thấy được tình yêu. Đôi mắt tôi không còn nhìn anh em với những thành kiến hẹp hòi. Lời nói tôi thôi làm bạn đau đớn. Tai tôi biết lắng nghe bạn trân trọng, cảm thông. Bàn tay tôi trong tay bạn, ấm nóng yêu thương nhiệt thành. Và tôi đến với bạn với cả tấm lòng của kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương. Người đặt tình yêu của mình trong hình ảnh bạn và trong mắt tôi.
Tạ ơn Chúa đã cho con hạnh phúc của người tìm lại được tình yêu bị lãng quên. Xin Cha cho con luôn biết gìn giữ, trân trọng tình yêu của người. (Hosanna).
1. Thật là cảm động trước thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên đi lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy 100 con, mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui.
Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy.
Một con chiên không có giá trị là bao so với cả đàn chiên. Một đồng bạc cũng thế so với số còn lại, thế nhưng, đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Chính vì giá trị đặc biệt đó mà người chăn chiên không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, đã lặn lội đi tìm con chiên lạc và người phụ nữ cũng thế, bà đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất.
Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Một cha sở kia nằm mơ thấy Chúa Giêsu đến thăm giáo dân đang tụ họp nhau trong nhà thờ, rồi khi Chúa Giêsu từ giã họ ra đi, vẻ mặt Chúa thật hớn hở sung sướng. Tò mò, cha chạy theo hỏi Chúa:
- Lạy Chúa, tại sao Chúa ra đi sung sướng như vậy.
Chúa đáp:
- Vì có nhiều người nói những lời hết sức đẹp ý Ta. - Thưa Chúa, những lời nào vậy? Những lời chúc tụng ngợi khen Chúa ư?
Chúa lắc đầu. Cha sở vội nói tiếp:
- À con biết rồi, họ nói những lời cảm tạ tri ân Chúa phải không? - Cũng không đúng nữa.
Không chịu thua, cha sở hỏi tiếp:
- Hay là những lời cầu xin Chúa ban ơn này ơn nọ cho họ.
Chúa Giêsu lắc đầu:
- Con đoán sai cả rồi. Ta nghĩ là con dư sức biết họ nói gì với Ta chớ.
Bấy giờ cha sở với dịu giọng:
- Thưa Chúa, con đành chịu thua thôi. Xin Chúa vui lòng cho con biết, giáo dân của con đã nói gì với Chúa mà làm cho Chúa vui lòng sung sướng như vậy.
Chúa Giêsu nhìn cha sở mỉm cười và nói:
- Họ đã nói với Ta: "Lạy Chúa, xin thương tha thứ tội lỗi chúng con."
Vâng! Nếu người chăn chiên vui vì đã tìm được con chiên lạc. Người đàn bà vui vì đã tìm thấy đồng bạc bị mất thì cũng thế, cả Thiên Đàng cũng sẽ vui vì một người tội lỗi ăn năn trở lại: "Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc 15,10). Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ thêm nữa, im lặng để chiêm ngưỡng, biết ơn và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân.
2. Hãy chiêm ngưỡng tình thương của Chúa và điều này mới thật là điều quan trọng đối với chúng ta. Chúng ta không bao giờ được thất vọng trước những yếu đuối và lầm lỗi của mình.
Trong quyển tiểu thuyết có tựa đề: "Mạo hiểm", tác giả người Mỹ là Relly đã kể lại cuộc đời đầy sóng gió của một Linh Mục Công giáo
Sau 12 năm thi hành chức vụ, linh mục đã xin hồi tục để cưới một người đàn bà mà ông tưởng mình đã yêu thương thực sự và sẽ là người mang lại hạnh phúc cho ông. Về phần mình, người đàn bà cũng đã từng sống lâu năm trong đời tu trì.
Nhưng rồi hạnh phúc đâu chẳng thấy mà chỉ thấy toàn là bất hạnh. Cuộc sống mỗi người một tính khí, mỗi người một quan điểm, mỗi người một thói quen, miết rồi đâm ra xung khắc nhau đến độ không thể dung hoà. Cuối cùng sau khi đã có với nhau được được hai mặt con, họ đã ly dị nhau.
Sau một thời gian lăn lộn giữa đời, với biết bao thăng trầm trong việc làm ăn cũng như trong sinh hoạt tình cảm, vị linh mục hồi tục đã xin trở lại với chức vụ.
Tác giả kết thúc câu chuyện một cách hết sức cảm động:
Vị linh mục vừa trở lại chức vụ của mình thì liền có dịp cử hành bí tích xức dầu cho một người đàn bà trên 80 tuổi đang hấp hối. Trên giường bệnh, người đàn bà đã khước từ mọi lời cầu nguyện vì nghĩ rằng, Chúa sẽ trừng phạt và không bao giờ tha lỗi cho biết bao tội lỗi của bà.
Vị Linh mục đã dùng tất cả sự chân thành và nhiệt tâm của mình để an ủi bà và đã thuyết phục được bà tin vào lòng nhân từ và tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Người đàn bà đã thực sự an giấc trong tình yêu của Thiên Chúa.
Kết thúc câu chuyện với hình ảnh ấy, có lẽ tác giả muốn nhắn gửi độc giả thông điệp của tình yêu Thiên Chúa: Dù con người có yếu hèn bội bạc đến đâu, Thiên Chúa vẫn không ngừng theo đuổi và tha thứ cho con người.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình mà chạy đến với ân sủng và sự tha thứ của Chúa.
Lạy Chúa, xin thương tha thứ tội lỗi của chúng con. Amen.
Có lần Chúa nói với những người biệt phái và luật sỹ rằng: “Ngày sabba được tạo ra cho con người chứ không phải con người cho ngày sabbat. Bởi đó, Con Người làm chủ ngày sabbat” (Mc 2, 27 – 28). Như vậy chúng ta thấy Chúa coi trọng, Chúa đề cao con người chúng ta. Chúng ta là chóp đỉnh công trình tạo dựng của Chúa. Chúng ta giống hình ảnh của Chúa. Chúng ta được Chúa yêu thương đến nỗi Chúa phải xuống thế là người để cứu chúng ta. Chúa làm như vậy là vì Chúa không muốn chúng ta hư mất đời đời.
Dụ ngôn con chiên đi lạc: “Ðức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15, 3 – 7). Dụ ngôn này ý nói chúng ta cố tình phạm tội, bỏ Chúa, chạy theo những quyến rũ của ma quỷ, xác thịt, thế gian.
Dụ ngôn đồng bạc thất lạc: “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.” Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 8 – 10). Dụ ngôn này ý nói có những tội nặng vô tình vô ý mà chúng ta phạm.
Qua dụ ngôn con chiên đi lạc và đồng tiền của người đàn bà bị mất trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy được lòng Chúa yêu thương đối với chúng ta. Chúng ta được ví như con chiên đi lạc và đồng tiền bị mất. Người chủ sở hữu con chiên và đồng bị thất lạc đó chính là Chúa. Mỗi khi chúng ta phạm tội là chúng ta bị thất lạc khỏi Chúa. Chúng ta tự thoát ra bên ngoài quyền sở hữu của Chúa, trở thành tên nô lệ cho tội lỗi. Chúa lại cất công đi tìm kiếm chúng ta giống như người chủ chiên đi tìm con liên thất lạc và người đàn bà tìm đồng bạc bị mất. Những hình ảnh: “Đi tìm, vác chiên trên vai, thắp đèn, quét nhà, tìm kỹ lưỡng..” đã cho chúng ta thấy Chúa rất vất vả đi tìm kiếm chúng ta. Chúa đi tìm kiếm chúng ta bằng cách Chúa đánh đổi mạng sống của Chúa. Chúa hy sinh chết trên thập giá và sống lại để cứu chúng ta. Và rồi Chúa rất vui mừng khi Chúa đưa được chúng ta về với Chúa. Còn riêng phần chúng ta, chúng ta cần phải ăn năn sám hối trở về, lãnh nhận các bí tích là Chúa sẽ vui mừng, các thánh trên thiên đàng sẽ hân hoan, cả Giáo Hội trần thế vui sướng và như vậy công lao Chúa đi tìm kiếm chúng ta sẽ không bị coi như là vô nghĩa nữa.
Lạy Chúa, lẽ ra những người biệt phái và luật sỹ tự trách mình là không có lòng nhân từ, lại không biết gần gũi với những người tội lỗi để đưa họ trở về với Chúa mà lại đi trách móc Chúa khi Chúa gần gũi nhưng người tội lỗi thì thật là quá đáng. Xin Chúa cho chúng con luôn biết luôn ăn năn trở về với Chúa. Xin Chúa cho chúng con có lòng nhân từ như Chúa để biết yêu thương, cảm thông và cầu nguyện cho người tội lỗi trở về với Chúa như chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 31 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chỉ nhờ Chúa ban ơn, các tín hữu Chúa mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, xin Chúa giúp chúng ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải tái lập việc thờ phượng Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Macabê Quyển 1: Lễ thanh tẩy và cung hiến Đền Thờ, những chiến thắng đầu tiên đã làm cho người Dothái lên tinh thần. Ngay sau đó, ông Giuđa tái lập việc thờ phượng bị gián đoạn từ thời bách hại. Qua câu chuyện sau đây, ta thấy được niềm vui tuy ngắn ngủi của những người Dothái trung thành khi cơn bách hại chấm dứt, cơn bách hại dữ dằn như chưa từng thấy từ thời lưu đày ở Babylon. Còn phải trải qua nhiều cuộc chiến nữa trước khi có tự do tôn giáo, nhưng, việc thờ phượng Thiên Chúa sẽ không bị gián đoạn cho đến thời Đức Kitô… Các tín hữu lấy những triều thiên bằng vàng mà trang trí mặt tiền Đền Thờ, và cử hành lễ cung hiến bàn thờ, và dân chúng vui mừng khôn xiết kể. Họ hát những bài thánh thi, những câu ca ngợi mà chúc tụng Đức Chúa.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải nắm giữ và ghi khắc luật Chúa trong lòng, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giáo huấn của thánh Syrilô Giêrusalem: Về biểu thức tuyên xưng đức tin… Người công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, Ta sẽ không hài lòng. Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống. Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng thì sẽ ngã gục.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải giữ vững đức tin tinh tuyền cho đến ngày Chúa ngự đến, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma: Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 26: Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Trên trời ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối. Cả triều thần thiên quốc sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối. Ai vất vả nặng nề đến với Chúa sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, vì thế, hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên vì sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa. Chúng ta hãy chú tâm nắm giữ truyền thống chúng ta đã lãnh nhận từ các Tông Đồ và ghi khắc vào tận đáy lòng, hãy kính cẩn tuân theo, đừng để cho một ai lạc đạo xuyên tạc bất cứ điểm nào trong các điểm đã truyền lại cho chúng ta. Quả thật, tin là ký thác vào ngân hàng số bạc, mà Chúa đã trao cho chúng ta. Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta tính sổ những gì Người đã ký thác. Đức tin đã nhận lãnh, chúng ta phải giữ cho tinh tuyền tới ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta xuất hiện. Kho tàng sự sống giờ đây đã được trao cho ta, đến thời Chúa xuất hiện, Người sẽ đòi lại những gì Người đã trao. Cả triều thần thiên quốc sẽ vui mừng vì một người tội lỗi mà tin, hơn là, những người tự cho mình là công chính, và không có đức tin. Chỉ nhờ Chúa ban ơn, ta mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, ước gì ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ". "Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi". "Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta câu chuyện về Mạnh Thường Quân. Ông là tướng quân của nước Tề vào thời Chiến Quốc. Khi ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ về cho mình, Phùng Huyên lại đốt giấy nợ của nhiều người và tha luôn nợ cho họ. Mạnh Thường Quân không hiểu hết được ý nghĩa việc làm này. Một năm sau, khi không được vua Tề tin dùng nữa, Mạnh Thường Quân phải lui về đất Tiết để cư ngụ. Dân chúng đổ xô ra đón ông như một vị ân nhân đáng kính. Bấy giờ ông mới hiểu việc làm khôn ngoan trước đây của Phùng Huyên. Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bối rối. Người quản gia bị mang tiếng là phung phí tài sản của chủ. Anh phải nghỉ việc, dù không rõ tiếng tiếng đồn ấy có đúng không. Anh không được bào chữa gì cho chính mình. Bây giờ anh chỉ lo chuyện tương lai, sau khi thất nghiệp. Anh suy nghĩ như một độc thoại: “Mình sẽ làm gì đây?” Và anh nhận ra những hạn chế của mình về thân xác và tâm lý. “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi” (c. 3). Dường như một ý nghĩ đã lóe lên trong anh. “Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (c. 4). Anh quản gia chỉ có một thời gian ngắn để thu xếp trước khi ra đi. Anh đã gọi các con nợ của chủ đến, và trong tư cách là người còn có quyền, anh cho họ tự tay viết lại giấy nợ. Họ đều là người nợ ông chủ những số nợ lớn. Số nợ này được giảm đáng kể, dưới sự gợi ý của anh quản gia. Một trăm thùng dầu ôliu, nay chỉ còn nợ năm mươi thôi. Một ngàn giạ lúa, bây giờ chỉ còn nợ năm trăm. Dĩ nhiên đối với anh, tất cả đều phải theo nguyên tắc có qua có lại. Anh đã cho họ được hưởng lợi vào lúc này, thì hẳn họ sẽ phải nhớ đến anh lúc anh sa cơ lỡ vận (c. 4). Ông chủ chắc đã biết trò gian xảo của anh. Những lời đồn đãi trước đây quả không hoàn toàn vô căn cứ (c.1). Đúng anh là một tên quản gia bất lương. Vậy mà ông chủ đã khen anh, điều này làm chúng ta bị sốc. Nhưng chủ không hề khen sự bất lương của anh. Ông chỉ khen anh về cách hành động khôn khéo (c. 8). Anh khôn khéo vì anh biết nghĩ ra cách để tìm được bảo đảm cho mình, dù đó chỉ là thứ bảo đảm vật chất ở đời này có tính tạm bợ. Đức Giêsu lấy làm tiếc vì con cái ánh sáng là chúng ta lại không có được sự khôn ngoan như con cái đời này. Người ngoài đời có nhiều bí quyết để làm giàu, để thành đạt. Họ có đủ khôn khéo để công việc kinh doanh được trôi chảy. Họ dám có sáng kiến và dám liều để đem ra thực hiện. Ước gì chúng ta có sự khôn ngoan đích thực và ngay thẳng, nghĩa là biết khéo tận dụng mọi sự mình có, để được gặp Chúa ở đời này và được hạnh phúc ở đời sau. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Giàu sang, danh vọng, khoái lạc. Là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con Và không cho chúng con tự do ngước lên cao Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, Nhờ cảm nghiệm được phần nào Sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi Bán tất cả những gì chúng con có, Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng Trước những lời mời gọi của Chúa, Không bao giờ ngoảnh mặt Để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen ---------------------------------
Người quản gia được ông chủ khen là khôn ngoan. Vì ông không có của cải nhưng đã biết lợi dụng của cải của chủ để làm lợi cho mình. Vì ông biết thời hạn làm quản gia của ông sắp hết nhưng ông biết chuẩn bị cho tương lai lâu dài. Vì ông biết mua chuộc bạn hữu để sau này họ đón tiếp khi ông hết thời. Ông đã làm ơn cho những người mắc nợ chủ. “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy’? Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu’. Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi’….Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo”. Và Chúa kết luận: “Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Chúng ta cũng là quản gia của Chúa. Thời hạn quản gia của chúng ta cũng có hạn. Hãy biết noi gương người quản gia kia. Biết dùng của Chúa mà mua lấy bạn hữu. Biết chuẩn bị để khi hết thời làm quản gia họ sẽ đón tiếp chúng ta.
Thánh Phao-lô là người quản gia khôn ngoan. Vì Thiên Chúa ban cho ngài ân sủng chuyên rao giảng Tin Mừng. Ngài đã sinh lợi là đưa nhiều người về cho Thiên Chúa. “Tôi viết thế là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Theien Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài đã biết dùng ân sủng Thiên Chúa ban. Và ngài tự hào về điều đó. Những người nhận biết Thiên Chúa làm lợi cho Nước Chúa. Nhưng cũng là niềm tự hào của ngài. “Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói, việc làm, bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần…Tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô” (năm lẻ).
Ngài kêu gọi mọi người hãy noi gương bắt chước ngài. Hãy lo làm giàu ở trên trời. Vì cuối cùng Chúa sẽ biến đổi chúng ta. “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Ngài yêu mến họ và mong họ cùng ngài kết hợp với Chúa để cùng được hưởng niềm vui và hạnh phúc: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (năm chẵn).
Một đạo sĩ đi ngang qua cây dừa, một chú khỉ hái dừa ném xuống đầu ông. Ðạo sĩ lẳng lặng bổ ra lấy nước uống rồi ăn luôn cùi dừa, còn lại vỏ dừa, ông làm thành chén ăn cơm. Nét điềm tĩnh của đạo sĩ là nắm lấy mọi cơ hội trong cuộc sống để mưu ích cho mình. Ông quên đi niềm đau trên đầu của mình cũng như sự tinh nghịch của chú khỉ, để sử dụng tối đa ích lợi của trái dừa.
Khôn ngoan để luôn luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người quản lý trong Tin Mừng hôm nay. Dụ ngôn có lẽ dựa trên một cuộc biển lận xẩy ra trong bất cứ xã hội nào. Chúa Giêsu không có ý tán thành hành vi biển lận của người quản lý; Ngài chỉ khen cung cách giải quyết vấn đề của ông: ông biết nhìn xa thấy rộng để tìm phương thế cho hoạn nạn sắp phủ xuống trên ông. Bài học có thể rút ra từ dụ ngôn chính là tận dụng thời gian, biết tất cả thành cơ may để gặp gỡ Chúa và xây dựng Nước Trời.
Thái độ của con người thường là nổi loạn, than trách, buông xuôi, bỏ cuộc. Chúa Giêsu khuyên chúng ta khôn ngoan điềm tĩnh để biến đau khổ thành cơ may đưa đến một ơn ích cao đẹp hơn. Ðạo sĩ trong câu truyện trên đây không dừng lại để rủa xả con khỉ, nhưng điềm nhiên sử dụng trọn vẹn trái dừa. Người điềm tĩnh khôn ngoan là người biết nhìn một cách lạc quan những thất bại, mất mát trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã có cái nhìn lạc quan ấy, khi nói: "Ðối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều dẫn về điều thiện".
Dưới cái nhìn của con người, loài người được xếp theo những hơn thua về tài năng, may mắn, thành công, thông minh, nhưng trong cái nhìn yêu thương của Chúa, tất cả đều là ân sủng. Chúng ta hãy tín thác cho Chúa, đón nhận mọi biến cố như lời mời gọi yêu thương, tin tưởng. Bên kia những gì chúng ta có thể ước đoán, tưởng tượng, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Hãy xử thế như người quản lý trong dụ ngôn: biến tất cả thành cơ may để nhận ra tình yêu Chúa, để loan báo, chia sẻ tình yêu ấy với mọi người.
Ðể nói về mầu nhiệm của nước Trời, Chúa Giêsu không những dùng những hình ảnh, những câu chuyện, những nhân vật tốt mà Chúa còn dùng cả những câu chuyện nói được là không tốt gì cho lắm. Và khi dùng đến những câu chuyện, những hình ảnh, những nhân vật không tốt, Chúa Giêsu không cố ý cho các đồ đệ bắt chước sống theo thái độ xấu nhưng để làm nổi bật một đặc tính nào đó và khuyên các đồ đệ hãy làm điều tốt với cùng một đặc tính như vậy. Chẳng hạn nơi Mt 10,16 Chúa Giêsu đã dùng đến hình ảnh con rắn để khuyên các đồ đệ hãy khôn ngoan như con rắn; và trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 24, Chúa Giêsu so sánh mình với hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm vào giờ chủ nhà không ngờ. Chúa không đề cao nếp sống của con rắn hay của tên ăn trộm, mà chỉ muốn nói đến đặc tính lanh lợi của con rắn để tránh những cạm bẫy và nhắc đến sự việc Chúa đến một cách bất ngờ như kẻ trộm, để kêu gọi các đồ đệ hãy tỉnh thức sẵn sàng luôn luôn.
Ðể hiểu thêm về dụ ngôn người quản lý gian ngoan này, chúng ta hãy nhớ rằng vào thời Chúa Giêsu, tại vùng đất Palestina, những người sống về nghề quản lý tài sản cho người giầu là những kẻ có toàn quyền sắp đặt việc kinh doanh tài sản của ông chủ, miễn sao được lợi cho ông chủ. Và người quản lý được chia phần trong khoản lời kiếm được. Do đó, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể trên đây, sau khi biết rõ là ông chủ sẽ sa thải mình do những lỗi lầm đã phạm, người quản lý dùng quyền của mình mà bớt xuống số nợ và dĩ nhiên, khi làm như thế anh sẽ chịu thiệt thòi, vì tiền lời không còn nhiều và sẽ được chia lời với ông chủ ít đi. Nhưng anh chấp nhận chịu thiệt thòi như vậy trong hiện tại để có lợi khác là tình bằng hữu của những người mắc nợ ông chủ. Họ sẽ giúp lại anh sau đó khi anh mất việc. Ðó là thái độ khôn ngoan của người đầy tớ bất trung. Và câu cuối cùng của dụ ngôn: "Con cái tối tăm khôn ngoan hơn con cái sự sáng" nhấn mạnh đến ý nghĩa chính của dụ ngôn. Chúa Giêsu không nhắm đề cao người quản lý gian ngoan sắp bị ông chủ cho nghỉ việc, nhưng chỉ nhắm nhấn mạnh đến những cố gắng toan tính của người quản lý sao cho có lợi cho cuộc sống vật chất của mình.
Áp dụng cho các đồ đệ của Chúa Giêsu, những con cái của sự sáng, Chúa Giêsu muốn sao cho các đồ đệ của Ngài cố gắng vận dụng hết khả năng trí khôn của mình để làm cho những nén bạc tài năng Chúa ban cho được trổ sinh những hoa trái tốt đẹp. Những kẻ xấu, những người ác mà còn biết ra sức vận dụng hết khả năng trí khôn của họ để làm chuyện xấu, nghịch luật Chúa, hại anh em. Trong khi đó, tại sao những người đồ đệ đích thực của Chúa Giêsu, những con cái sự sáng lại không dấn thân hết sức mình, không sử dụng hết khả năng trí tuệ của mình để làm điều tốt, bổ ích cho chính mình cũng như cho anh chị em chung quanh.
Người đồ đệ đích thực của Chúa không thể nào có một thái độ ỷ lại, lười biếng trong việc tốt và phải dấn thân tích cực hết sức lực mình. Con hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, nhưng cũng phải hết sức lực, với hết khả năng trí khôn Chúa ban cho.
Lạy Chúa
Xin thức tỉnh mỗi người chúng con khỏi sự ù lì, lười biếng tinh thần. Nước Chúa dành cho những kẻ mạnh, cho những ai dấn thân hết mình cho điều tốt. Xin thương ban cho chúng con nghị lực kiên trì trong việc tốt, đẹp lòng Chúa, bổ ích cho anh chị em chung quanh. Xin cho chúng con biết hăng say làm việc tốt mà không cần phần thưởng nào khác hơn là biết chúng con đang làm tròn ý Chúa.
Mình biết phải làm gì rồi! để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ! Anh ta cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: Bác cầm lấy biên lai này của bác đây ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: Một ngàn thùng lúa. Anh ta bảo: Bác cần lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế! Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc. 16, 4-8)
Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu khi thì nói với biệt phái, lúc nói với dân chúng hay các môn đệ, Người muốn giáo huấn họ đặc biệt về trách nhiệm của họ như người quản lý của Thiên Chúa.
Người xảo quyệt của thế giới đen
Người quản lý bất lương thấy thế giới của hắn bỗng chốc sụp đổ. Ngày phán xét đến cũng bỗng chốc thế. Hắn mất địa vị và danh tiếng. Đời sống hiện tại vật chất cũng lâm nguy, nhưng chủ còn để hắn một ít lâu để tính sổ. Hắn tự nhủ và nhận thấy phải hành động mau chóng và liều lĩnh để bảo đảm nuôi thân sau này. Hắn tha cho những con nợ của chủ một số nợ bằng năm trăm ngày công. Như thế, hắn có thể bảo đảm đời sống sau khi mất chức quản lý. Đức Giêsu khen tên quản lý trộm cắp này vì đã hành động khôn khéo biết lo cho đời sống.
Sự khôn khéo đó đáng làm gương cho con cái ánh sáng
Đức Giêsu không ca ngợi tên quản lý quỷ quyệt hỗn láo đó. Nhưng sự khôn khéo của hắn đúng là dấu chỉ của thời đại. Hắn đã hết thời vào ngày chủ đòi hắn tính sổ. Điều Đức Giêsu muốn rút ra bài học là sự táo bạo của hắn, khiến hắn khai thác tối đa một ít thời giờ còn lại, đã giúp bảo đảm tương lai của hắn.
Cũng thế, môn đệ không biết khôn khéo khi Chúa đến và đòi tính sổ, các ông phải biết tha thứ tất cả những ai mắc nợ với mình để Chúa cũng tha nợ cho các ông. Các ông còn phải chăm sóc mọi gia nhân trong nhà chủ đã trao phó cho các ông. “Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ về thấy nó đang làm việc chu đáo”.
Đối với những công việc ở thế giới này, những người muốn bảo đảm được tương lai vật chất, phải tỏ ra rất khôn khéo. Họ đã khôn khéo xử đối với đồng loại mình, nhưng lại không khôn khéo với những công việc nước trời. Trái lại con cái ánh sáng, những người tin vào Đức Giêsu, Đấng là ánh sáng, lại không biết khôn ngoan để bảo đảm được ơn cứu độ. Họ phải cố gắng thực hiện được sự táo bạo và khôn khéo, và hành động khi còn thời giờ, như con cái của xã hội đen.
Khi nói đến Đức Giêsu, chúng ta biết Ngài là Đấng Chân Thật, vì thế, Ngài luôn bênh vực sự thật và tố cáo bất công, gian tham... Ấy vậy mà bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa cho chúng ta ngỡ ngàng khi Đức Giêsu đề cao thái độ gian lận, giả dối của tên quản lý bất trung!
Tin Mừng kể lại: khi hắn biết chắc mình không còn được trọng dụng nữa vì những thất thoát mà hắn gây nên. Người quản gia này đã sử dụng mánh khóe theo kiểu: “Dùng phương tiện xấu để đạt được mục đích tốt”. Vì thế, anh ta đã gọi từng con nợ của chủ đến hỏi về số nợ, rồi lấy văn tự ra, viết giảm số nợ đi. Đây là một hình thức biển lận của chủ mà tên quản lý bất lương gỡ gạc vào những giờ phút chót trước khi bị xa thải.
Sau khi kể dụ ngôn này, nhiều người chưng hửng khi thấy ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó khôn ngoan, nhanh nhạy khi hành động cách khôn khéo!
Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề có thái độ tôn vinh hay chấp nhận hành vi bất chính của người quản gia này, nhưng ngang qua hành vi đó, Đức Giêsu muốn dạy các môn đệ và cho mỗi chúng ta rằng: phải khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng, biết tận dụng mọi cơ hội và biến cố để loan báo Tin Mừng, biết chuẩn bị cho tương lai, biến chúng thành những cơ may để gặp gỡ Chúa, ngõ hầu đạt được Nước Trời làm gia nghiệp.
Nếu người quản gia kia đã khôn khéo và mánh khóe thì mỗi chúng ta hôm nay cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích chúng ta đang theo đuổi trong cuộc sống.
Vậy đâu là mục đích và lẽ sống của chúng ta? Hẳn không phải là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú... Những thứ đó không phải là mục đích, điểm đến của người Kitô hữu. Nhưng mục đích tối hậu của chúng ta chính là Nước Trời. Vì thế, ngay giây phút này, mỗi chúng ta hãy biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu mai ngày trên Thiên Quốc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời chúng con. Amen.
Sứ điệp: Người quản lý “bất lương” phải chạy đua với thời gian bằng cách sáng suốt có những hành động kịp thời, để giúp anh ta có cơ hội sống còn sau này. Chúng ta cũng cần phải khẩn cấp với thái độ sáng suốt chuẩn bị cho đời sống mai sau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, các trang Tin Mừng thường nhắc đến tính khẩn cấp và bất ngờ của việc Chúa tái xuất hiện. Chúa sẽ đến với từng người trong các biến cố cuộc sống, nhưng nhất là Chúa sẽ đến trong giờ phút kết thúc cuộc đời tại thế.
Vâng, lạy Chúa, con sẽ phải tính sổ cuộc đời mình. Đó là việc khẩn cấp, vì con không thể biết chắc chắn, con sẽ giã từ cuộc đời vào lúc nào. Vì khẩn cấp, con phải điều chỉnh ngay thái độ sống của con đối với Chúa và đối với anh em. Vì khẩn cấp, con cần thực hiện ngay những lời Chúa dạy và thực hành ngay những điều được học biết về giáo lý của Chúa. Vì khẩn cấp, con cần sử dụng thời gian cách hữu ích và lợi dụng từng cơ hội, từng biến cố để biến thành những cơ may gặp Chúa, gặp anh em, và để làm việc thiện chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu.
Lạy Chúa, hành trình về vĩnh cửu là lối đường con phải đi một mình, và những ngày chuẩn bị cũng không ai thay thế con được. Con chỉ biết cậy dựa nơi Chúa, và tìm thấy sức mạnh nơi sự trợ giúp của Chúa mà thôi. Cuộc hành trình về vĩnh cửu đã bắt đầu. Từng ngày con sống là từng phút giây hướng về Chúa. Từng ngày qua đi là từng bước con rút ngắn khoảng cách tiến về đời sống vĩnh cửu. Xin Chúa giúp con luôn đặt mình trước mặt Chúa, sống vì Chúa và cho Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”.
Mạnh Thường Quân là người giàu có, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết Thành đòi nợ. Khi đi, Phùng Huyên hỏi:
Ngài có định mua gì về không?
Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết Thành, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân:
Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết Thành cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết Thành. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
Đó là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước...
Suy niệm
Trọng tâm câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một người quản lý. Thánh Luca không nói mọi chi tiết về người quản lý này bất lương ở chỗ nào. Không biết ông có tham nhũng ăn chặn của được giao trách nhiệm, vơ vét vào túi riêng như các tham quan hôm nay hay không, chỉ biết rõ là ông bị chủ bãi chức vì phung phá của nhà chủ. Như thế, cái tối thiểu của người quản lý là anh đã không chu toàn bổn phận: Bảo toàn và sinh lợi trên gia sản mà anh có trách nhiệm được giao
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thời đó ở Palestine, người quản gia thay thế gia chủ quản lý tất cả tài sản và làm một cách tốt nhất để tài sản đó được sinh lợi. Người quản gia không có lương nên có quyền cho người khác vay tài sản của chủ mình vừa làm lợi cho chủ vừa làm lợi cho chính mình. Cho nên, trong lúc thỏa thuận, ông có thể ghi số lượng lời trội hơn, vì phần lời cho chủ và phần lời cho chính ông như là lương của ông. Nhờ đó, khi thu số vốn cho vay ngoài phần lời phải có cho chủ, ông được phép thu số dư làm của riêng mình. Cho nên, khi biết mình sắp bị bãi nhiệm, người quản gia trong dụ ngôn tính lại cho những người vay mượn phần của mình, chỉ ghi lại số lượng ông chủ phải thu hồi. Do đó, người chủ không bị thiệt mà người nợ lại biết ơn người quản gia. Người quản gia sửa đổi số lượng ít đi, không phải vì ông đã làm hại cho chủ, mà ông chịu thiệt thòi phần của chính ông để khôn khéo xếp đặt dự tính cho tương lai chính mình. Như vậy, người quản gia này trước đó không chỉ hoang phí tài sản của chủ không biết vào mục đích gì (có thể vào túi riêng: Tham nhũng) nhưng lợi dụng chức vụ bóc lột người nghèo quá mức. Tuy nhiên, ông đã biết “sửa sai” trong giờ chót, biết “nhả ra chút ít của bất chính” để mong tìm được con đường hậu vận khi bị bãi chức. Dưới góc độ tính toán, ông được khen vì xử lý kịp hoàn cảnh lúc “không ổn” của mình để tìm bãi đáp và hạ cánh an toàn.
Giữa những thực tế hoang tàn vì tham nhũng trong xã hội, Lời Chúa đang văng vẳng bên tai chúng ta về tư cách người quản lý: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10). Ngài mời gọi chúng ta trở nên người quản lý theo Tin Mừng: Quản lý của cuộc sống riêng mình; quản lý tốt với những gì chúng ta có: tài năng, khuyết điểm... như người chủ biết tận dụng cái cũ, cái mới trong kho cuộc đời (x. Mt 13,52) để làm cho cuộc đời thêm phong phú và quản lý việc công nếu được giao trách nhiệm gánh vác: Hết lòng với nhiệm vụ được giao, thể hiện sự trung tín của mình với Thiên Chúa, vì trong đức tin, tôi và bạn là người quản lý được Thiên Chúa giao trách nhiệm công vụ.
Ý lực sống
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại dụ ngôn người quản lý bất lương, để trình bày bài học phải biết khôn ngoan sử dụng tiền của đời này để mưu ích cho phần rỗi đời đời. Thật thế, con người ngày nay rất khôn khéo khi tính toán để tìm hạnh phúc đời này. Nhưng sự khôn ngoan đích thực thì ít có ai tìm được, hay cố gắng đi tìm. Cũng như người quản lý trong Tin mừng hôm nay, ông đã dùng sự khôn khéo gian manh để tìm hạnh phúc cho đời sống của ông. Qua đó, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta phải biết dùng sự khôn ngoan của mình để sử dụng gia tài Chúa ban: sức khỏe, thời gian, tiền của... mà tìm lấy cho mình hạnh phúc vĩnh cửu.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý: Đức Giêsu không khen việc lỗi đức công bằng này, vì việc làm này là gian lận của chủ, đây là cái lỗi. Tuy nhiên, Chúa khen anh vì biết tận dụng tất cả những khả năng và điều kiện, địa vị sẵn có, để có lợi cho về sau của mình. Anh khôn khéo vì biết tận dụng những ngày cuối cùng còn lại trong nhiệm vụ, để lấy lòng người khác, để tạo một ảnh hưởng và chỗ dựa sau này, biết tận dụng thời gian và những điều kiện có sẵn để lo cho số phận tương lai của mình. Dụ ngôn chỉ dừng lại với ý nghĩa là, tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban và là của Chúa, điều quan trọng là chúng ta biết dùng những ân huệ Chúa ban để giúp đỡ tha nhân, và chính điều này sinh lợi cho chúng ta khi chúng ta không còn được quản lý thân xác và những ân huệ đó nữa.
Mặc dầu người quản lý trong dụ ngôn này không tốt lắm, nhưng Đức Giêsu đã rất khéo lấy hình ảnh người quản lý đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, còn chính Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải sử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình, nên họ đã sử dụng chúng không theo ý của Chúa. Hãy biết noi gương người quản lý này về việc sử dụng tiền của một cách khôn khéo, bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai.
Mọi sự trần thế không theo chúng ta về đời sau! Chính vì thế, Đức Giêsu dạy chúng ta một điều vô cùng khôn ngoan, là hãy “dùng tiền bạc và những giá trị trần thế để mua lấy bạn hữu để sau này họ sẽ đưa chúng ta về nơi an nghỉ đời đời”.
Kho tàng Nước trời của mỗi người chúng ta tuỳ thuộc việc chúng ta sử dụng kho tàng trần thế của mỗi người chúng ta như thế nào. Khi chúng ta tiêu xài cho riêng mình thì kho tàng Nước trời của chúng ta trống rỗng! Trái lại, khi chúng ta cho đi, cho những người bất hạnh, tàn tật, khổ đau là kho tàng Nước trời của chúng ta tăng gấp bội! Tất cả mọi người đều là những người thủ quỹ của Thiên Chúa! Mọi khả năng, sức khoẻ, thời giờ, địa vị... tất cả đều của Chúa trao ban, chúng ta hãy trở thành người quản lý tốt, để đời sống chúng ta đem lại vinh quang.
Qua câu chuyện trên đây, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: nếu người đời có sự khôn ngoan và mánh khoé, thì các môn đệ cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích họ theo đuổi trong cuộc sống. Đâu là mục đích và lẽ sống của người Kitô hữu? Nếu mục đích của cuộc sống chỉ là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú và những gì sẽ qua đi, thì điều đó có đáng cho con người đầu tư cả cuộc đời không?
Với người môn đệ Chúa Kitô, sự khôn ngoan ấy cũng được tỏ lộ qua thái độ của họ đối với của cải trần thế. Họ là những người khôn ngoan thực sự, khi họ luôn ý thức rằng: của cải trần thế này không phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện để đạt tới cùng đích. Sống như thế nào để của cải trần thế không trở thành một chủ nhân sai khiến và biến mình thành nô lệ. Sống như thế nào để xuyên qua mọi thực tại chóng qua của đời này biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, sống như thế mới thực sự là sống khôn ngoan (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Ông Mạnh Thường Quân
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân đến bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.
1. Phong tục do thái: đối với dân Do Thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý miễn sao có lợi cho chủ thôi. BJ nói quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
2. Chúa Giêsu nói người quản gia trong dụ ngôn này là “bất lương”. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh còn bàn cãi nhau về sự “bất lương” này (ăn gian tiền của chủ? cho vay ăn lời cắt cổ? hay là sửa đổi giấy nợ?...).
3. Nhưng điều Chúa Giêsu muốn ta noi gương nơi người quản gia này là cách xử dụng tiền của: Người quản gia này là “con cái thế gian”, thế mà còn biết sử dụng của cải một cách khôn khéo bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai. “Con cái của sự sáng” phải noi gương đó, phải biết dùng của cải thế gian mà mua sắm của cải trên trời.
B.... nẩy mầm.
1. Mặc dù người quản lý trong dụ ngôn này không tốt cho lắm, nhưng Chúa Giêsu đã rất khéo khi lấy hình ảnh người quản lý làm dụ ngôn. Chúa muốn nhắc rằng đối với tiền bạc của cải mà chúng ta đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, chính Thiên Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải xử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình.
2. Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu? - Chỉ một đồng thôi. - Còn tô lớn kia? - Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
- Thế tiền-cho-đi là tiền gì?
- Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
3. “Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại.” (Lc 16, 8b)
Ở đời, “biết mình biết người trăm trận trăm thắng.” Người quản gia bất lương trong dụ ngôn xưa, hơn ai hết, biết rõ thực trạng tội lỗi của mình, và biết chắc nguy cơ bị sa thải là không tránh khỏi. Điều hơn người là y dám nhìn thẳng vào sự thật và dùng hết khả năng còn lại của mình để đổi lấy tình thân hữu, dự phòng cho tương lai. Y đã thành công do biết nhìn xa trông rộng.
Ở đây Thiên Chúa không có ý định ủng hộ những hành động mưu lợi bản thân, mà qua đó Ngài muốn nhắc nhở chúng ta về một chân lý: dự phòng cho tương lai. Đời này đã có thể an tâm, còn dự phòng cho cuộc sống đời sau, hẳn hạnh phúc hơn nhiều.
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng cuộc sống đời này để mua lấy cuộc sống đích thực nơi quê trời. (Hosanna).
1. Mặc dù người quản gia trong dụ ngôn này không tốt lắm, nhưng Chúa Giêsu đã rất khéo khi lấy hình ảnh người quản gia này để làm nên một dụ ngôn dạy đời. Chúa muốn nhắc rằng, đối với tiền bạc của cải mà chúng ta đang nắm trong tay, chúng ta chỉ là người quản lý thôi, còn chính Thiên Chúa mới là chủ. Đã là quản lý thì phải sử dụng của cải của chủ theo đúng ý chủ chứ không phải theo ý riêng mình. Rất nhiều người tưởng lầm mình là chủ của những tiền bạc trong túi mình nên họ đã sử dụng chúng không theo đúng ý Chúa.
Hãy biết noi gương người quản gia này về việc sử dụng tiền của một cách khôn khéo, bằng cách cho đi của cải hiện tại để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai.
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi vào cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu? - Chỉ một đồng thôi. - Còn tô lớn kia? - Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chúng tọi chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được. - Thế tiền-cho-đi là tiền gì? - Thế tiền-cho-đi là tiền khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi ấy ở đây.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
2. Chúa nói: "Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại." (Lc 16, 8b)
Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử:
- Người khôn có sống lâu không?
Khổng Tử đáp:
- Khôn thì sống lâu, chớ dại thì sống lâu sao được!
Người ta có ba thứ chết, tự mình làm cho mình chết, chứ không phải số mạng đáng chết mà chết.
+ Ăn uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế, thì phải chết về bệnh tật
+ Phận là người dưới, mà xúc phạm người trên, lòng tham muốn không ngừng, tính yêu cầu không chán, người như thế thì chết về hình pháp.
+ Mình ngu, mà mình kịch người khôn, mình yếu mà khinh bỉ người mạnh; không biết lượng sức mạnh, mà cứ giận dữ làm liều, người như thế thì chết vì binh đao.
Ba thứ chết ấy thực không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết mình mà thôi.
Phần chúng ta, chắc chắn là chúng ta đều muốn sống và sống lâu, nhất là sống đời đời. Muốn thế chúng ta biết sống cho thật khôn ngoan.
Đức Giáo Hoàng Innocentê II có một chiếc hộp, Ngài thường mở ra coi; người thì cho là trong đó để một di vật quý của gia đình Ngài, người thì cho là tượng Chúa hoặc ảnh một vị thánh, người thì cho là hài cốt của vị thánh Ngài tôn sùng.
Một hôm, cha Claudius Aquavina Bề Trên dòng Tên, bạn thân của Đức Giáo Hoàng, vào yết kiến, gặp lúc Đức Giáo Hoàng đang mở hộp xem, Ngài bảo cha Claudius đoán xem, hộp đó đựng gì? Cha Claudius không đoán được.
Lúc đó, Đức Thánh Cha mới mở hộp ra, trong hộp này có một quan tài nhỏ, và trong quan tài có để chân dung Đức Thánh Cha. Rồi Đức Thánh Cha nói: "Vào lúc khởi đầu điểu khiển Giáo Hội, ta phải quyết định nhiều việc quan trọng. Thường thì dân chúng cố áp lực với ta, không chỉ bằng tranh luận, mà cả bằng tiền tài và danh dự nữa. Nhưng trước khi quyết định bất cứ vấn đề trọng đại nào, ta cũng mở hộp này ra, nhìn vào quan tài đựng chân dung của ta, và tự nhủ: "Hỡi Innocentê, ngày kia ngươi sẽ chết, khi ngươi nằm vào quan tài, thì ngươi liệu còn làm được gì nữa không? Lúc ấy ngươi nghĩ phải làm sao, thì bây giờ ngươi hãy làm đi!
Vì thế ta đã hành động theo đúng những quyết toán được định đoạt ở đây, bên chiếc hộp đựng quan tài này."
Vâng! Phải chọn cho mình một con đường để thể hiện cuộc sống của mình. Thành công hay thất bại đều lệ thuộc vào sự chọn lựa căn bản này.
Đây là những lời được viết trên tường của căn nhà dành cho các trẻ em ở Calcutta:
Hãy dành thì giờ suy nghĩ Ðó là nguồn sức mạnh Hãy dành thì giờ để cầu nguyện Ðó là sức mạnh toàn năng Hãy dành thì giờ cất tiếng cười Ðó là tiếng nhạc của tâm hồn Hãy dành thì giờ chơi đùa Ðó là bí mật để trẻ mãi không già Hãy dành thì giờ để yêu và được yêu Ðó là ưu tiên Thiên Chúa ban cho Hãy dành thì giờ để cho đi Vì một ngày quá ngắn để ích kỷ Hãy dành thì giờ cho bác ái Ðó là chìa khóa cửa thiên đàng. Amen.
Người quản lý bất trung, bất tín mà Chúa đến trong dụ ngôn hôm nay đã khôn khéo biết tận dụng những khoảng thời gian còn lại của chức quản lý để lo cho những ngày sắp tới khi mà mình không còn làm quản lý, không còn có chức có quyền nữa. Tận dụng thời gian hiện tại để lo cho tương lai, đó chính là sự khôn ngoan mà Chúa muốn đề cập đến và Chúa muốn cho chúng ta phải khôn ngoan như vậy. Chúa không muốn chúng ta bắt chước sự gian manh của người quản lý: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng” (Lc 16, 8), Chúa muốn chúng ta tận dụng những gì Chúa ban mà mình có trong tay để lo cho phần rỗi linh hồn sau này.
Chúng ta là những người quản lý, là tôi tớ tội lỗi của Chúa. Giả sử Chúa ban cho chúng ta có của cải trong tay thì chúng ta phải biết rằng của cải mình có là của Chúa. Chúng ta chỉ là người quản lý mà thôi. Cho nên chúng ta hãy tận dụng nó lúc này để giúp đỡ những nghèo khó, thiếu ăn, khát uống, bệnh tật để họ có chút phương tiện lo cho bản thân của họ. Hoặc là Chúa ban cho chúng ta có tài hùng biện thì chúng ta hãy tận dụng nó để rao truyền Chúa cho anh chị em của chúng ta…
Mỗi chúng ta chỉ có một khoảng thời gian nhất định để sống ở trần gian này mà thôi. Vì thế, chúng ta hãy xem ngày sống hôm nay như là ngày sống cuối cùng của đời mình trong chức phận là tôi tớ và là người quản lý đầy bất toàn, tội lỗi của Chúa, để rồi ra sức sống đạo cho tốt, ra sức làm các việc lành phúc đức cho anh chị em của chúng ta. Chúng ta đừng để những gì Chúa ban cho chúng ta chẳng hạn như là thời gian trôi qua đi một cách vô nghĩa và rồi sau đó là hối hận, nuối tiếc không nguôi cho số phận chúng ta sau này.
Lạy Chúa, người khôn ngoan là người biết nhìn xa trông rộng, biết lo cho tương lai chứ không phải để cho nước tới chân rồi mới chạy. Xin Chúa cho chúng con thấy được những ngày chúng con sống trần gian này là hồng phúc Chúa ban cho để rồi chúng con biết cảm tạ Chúa và cố gắng cộng tác với ơn Chúa ban, lo cho phần rỗi linh hồn chúng con, và biết làm các việc lành đem lại hạnh phúc cho anh chị em của chúng con. Như vậy Chúa mới xót thương và ban nước thiên đàng cho chúng con sau này. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 31 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chỉ nhờ Chúa ban ơn, các tín hữu Chúa mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, xin Chúa giúp chúng ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải xin Chúa thứ tha những ai chưa biết thờ Chúa cho xứng hợp, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Macabê Quyển 2: Cầu nguyện cho người quá cố. Sau một trận đánh, người ta khám phá ra rằng: một số người Dothái tử trận đã vi phạm Lề Luật. Một hy lễ đã được tiến dâng để những người đó đừng vì lỗi phạm mà không được hưởng phần thưởng dành cho tín hữu trung thành. Chính niềm hy vọng phục sinh (vào thời bấy giờ là một cái gì rất mới) đã giúp các vị tử đạo được trung kiên và làm cho người chiến sĩ nên can trường. Đây là lần đầu tiên Sách Thánh đề cập đến việc cầu nguyện cho người đã chết. Cần thiết phải có một sự thanh luyện cuối cùng… Ai giữ được tinh thần đạo đức khi nhắm mắt lìa đời sẽ được một phần thưởng vô cùng quý giá. Cầu nguyện cho kẻ chết được thứ tha tội lỗi quả là việc thánh thiện và tốt lành.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải cầu nguyện cho những người quá cố vì thân phận cát bụi yếu đuối đã lãng quên Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Ghêgôriô Nadien: Cầu nguyện cho người quá cố là một ý tưởng lành thánh… Lạy Đức Kitô là Chúa và Thiên Chúa chúng con, xin đón nhận những anh chị em chúng con đã qua đời, vì Chúa đã đổ máu đào cứu chuộc họ. Xin nhớ lại rằng chúng con chỉ là thân cát bụi, và phàm nhân chẳng khác chi cỏ nội hoa đồng. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu và giàu lòng xót thương.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải lo cho dân ngoại nhận biết Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma: Thiên Chúa đã cho tôi làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô, để các dân ngoại trở nên lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 97: Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân. Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Ai giữ lời Đức Kitô dạy, thì nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Ai giữ lời Đức Kitô, thì, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo, lời Đức Kitô chung quy lại cũng chỉ là mệnh lệnh: ta phải làm sao lo cho mình và lo cho người khác được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Ơn cứu độ của Chúa, Nước Trời, là kho tàng vô giá, ta là những người quản lý, cứ phung phí tài sản đó cho tất cả mọi người, làm cho mọi người được hưởng lòng từ bi, nhân hậu của Chúa, ắt hẳn, ta sẽ được Ông Chủ khen là khôn khéo, vì biết lo cho mình và lo cho người khác, để toàn cõi đất này sẽ xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, để những kẻ đã không được loan báo về Chúa, sẽ thấy, những kẻ đã không được nghe nói về Người, sẽ hiểu. Ông Giuđa Macabê đã quyên tiền, gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội, cầu nguyện cho những người chết, ta cứ phung phí ơn cứu độ của Chúa cho cả người sống lẫn người chết. Chúng ta hãy bắt chước Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa: trung tín và khôn ngoan, Đấng đã phung phí đến giọt Máu cuối cùng để cứu độ chúng ta. Chỉ nhờ Chúa ban ơn, ta mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, ước gì ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời. Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con. "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".
Khi muốn nói đến sức mạnh của đồng tiền người ta thường nói: đồng tiền là tiên là phật… Đức Giêsu còn nói mạnh hơn nữa: đồng tiền còn có thể là chúa của con người, bắt con người làm tôi. Ngay cả các Kitô hữu, những người đã thuộc về Thiên Chúa, và chỉ muốn phụng sự một mình Ngài, cũng bị cám dỗ để đi hàng hai, bắt cá hai tay. Họ nghĩ mình có thể làm tôi đồng thời cả Thiên Chúa lẫn Tiền Của, nhờ đó được cả đời sau lẫn đời này. Đức Giêsu cho thấy điều đó chỉ là một ảo tưởng (c. 13). Phải chọn một trong hai, vì không thể yêu và gắn bó với cả hai. Tôi muốn phục vụ ai bây giờ? Thiên Chúa hay Tiền Của? Lúc đầu hẳn nhiên tôi muốn Tiền Của phục vụ tôi. Nhưng sau đó Tiền Của trở thành một vị chúa bắt tôi làm nô lệ. Mamôn (Tiền Của) trong tiếng Do thái cổ có thể có nghĩa là điều mà ta cậy dựa. Khi Tiền Của trở thành chỗ dựa vững chắc và bảo đảm cho tôi, nó sẽ chiếm lấy chỗ của Thiên Chúa. Nếu chúng ta thực sự yêu mến và gắn bó với Thiên Chúa, thế nào chúng ta cũng phải ghét bỏ và khinh dể Tiền Của (c. 13), nghĩa là dứt khoát đặt nó dưới Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Assisi đã trả lại bộ quần áo đang mặc cho người cha. Thánh Inhaxiô Loyola đã đổi bộ đồ quý phái cho một người ăn xin. Bước đường theo Chúa của các bậc thánh nhân thường bắt đầu bằng hành vi từ bỏ mọi vướng víu vật chất. Người thanh niên giàu có cũng được mời bán tất cả để cho kẻ nghèo. Thắng được cám dỗ của vật chất và tiền bạc, là một thách đố lớn cho mọi cá nhân và tập thể, đạo cũng như đời. Chúng ta vẫn có nguy cơ thờ lạy Mamôn, ngẫu tượng của mọi thời đại. Làm sao để tiền của trở nên đầy tớ của chúng ta, để ta có thể sử dụng nó như đường vào Nước Trời? Bill Gates, người giàu nhất thế giới vào năm 2009 với tài sản 40 tỷ đô. Ông đã nghỉ điều hành công ty Microsoft từ năm ngoái, để cùng vợ dành nhiều thời gian hơn cho việc xây dựng quỹ từ thiện. Quỹ hàng chục tỷ đô này đã giúp người nghèo, bệnh nhân ở khắp nơi, và Bill Gates biết cách làm cho quỹ này lớn thêm mãi. Dù không phải là một Kitô hữu đi lễ mỗi sáng Chúa Nhật, nhưng ông cho ta hình ảnh của một người không quá bám vào của cải. Kitô hữu không hẳn phải là người khố rách áo ôm, nhưng chắc chắn phải là người siêu thoát với sức hấp dẫn của tiền bạc. Trung tín trong việc rất nhỏ, và trong việc sử dụng của cải của tha nhân, đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ ta khi sống trong nền kinh tế thị trường. Làm sao để Thiên Chúa, chứ không phải Tiền Của, thực sự làm chủ đời ta? Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen. ---------------------------------
Sau cùng chỉ còn một cuộc chiến. Chỉ còn một đối thủ. Chỉ còn một lựa chọn. Thiên Chúa hay Tiền Tài. Với khẳng định này Chúa tóm tắt những gì cần phải nói về tiền bạc. Tiền bạc vốn chỉ là một phần trong đời sống. Chỉ là một tôi tớ. Một phương tiện phục vụ con người. Thường hay phản loạn. Cạnh tranh với Chúa. Chiếm vị thế của Chúa. Đó là điều rõ nét trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tiền bạc chi phối tất cả sinh hoạt của con người. Tiền bạc thống trị thế giới. Tiền bạc lên tiếng mọi tiếng nói khác phải lặng im. Kể cả lương tâm. Kể cả đạo đức. Thật là đáng báo động,
Với khẳng định này Chúa cho biết Chúa là trên hết. Chúa là tất cả. Thực vậy có gì tôi có mà không phải do Chúa ban. Từ sự sống đến linh hồn. Từ thân xác đến trí khôn. Từ thời giờ đến sức khoẻ. Từ gia đình đến bạn hữu. Tất cả phải dâng lại cho Chúa. Tất cả là phương tiện Chúa ban giúp tôi đạt đến sự sống đời đời. Giúp tôi trở về với Chúa. “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè. Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”.
Thánh Phao-lô làm gương cho ta về điều này. Sau khi được biết Chúa, ngài đã dùng tất cả cuộc đời để phục vụ Chúa. Phục vụ Tin Mừng. Kể cả những mối quen biết của ngài. Cuối bức thư Rô-ma ta thấy ngài gửi lời chào thăm rất nhiều người. Nhưng không phải vì cá nhân ngài. Chỉ vì Nước Trời. Chỉ vì lợi ích thiêng liêng. Và cuối cùng qui về Chúa: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Amen” (năm lẻ).
Biết dùng mọi phương tiện trần gian. Đặc biệt tiền của. Để tôn vinh Thiên Chúa. Tạo hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài còn khích lệ các tín hữu hãy biết dùng tiền của vì Chúa và vì lợi ích thiêng liêng. Khi nhận được trợ giúp của giáo đoàn Phi-líp-phê, ngài cám ơn họ. Không phải vì ngài cần vật chất. Nhưng vì họ đã biết sống đức tin. Và Chúa sẽ trả công bội hậu cho họ. Ngài viết: “Bởi vì ngay khi tôi còn ở Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em.... Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Tôi sử dụng tiền của hay để tiền của thống trị tôi?
Tham nhũng là cám dỗ xưa như cõi lòng tội lỗi của con người. Người tham nhũng là người chỉ nghĩ đến mình, bất chấp thiệt hại có thể gây ra cho người khác. Xúc phạm đến con người, tham nhũng rốt cuộc cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa.
Chính vì tính cách trầm trọng của tham nhũng, nên Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đưa ra một đòi hỏi: "Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của", bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự hủy, chối bỏ cùng đích của cuộc sống.
Tham nhũng và lừa đảo ở mọi qui mô trong xã hội chúng ta, đó là một kết luận hiển nhiên. Thế nhưng "thà đốt lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối". Chúng ta hãy bắt đầu chống tham nhũng, lừa đảo, ích kỷ ngay trong con người của chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu các con không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm và giao phó của cải chân thật cho các con?". Nếu chúng ta chưa loại được tham lam, lừa đảo trong những sinh hoạt hằng ngày, liệu chúng ta có thể chống tham nhũng ở qui mô lớn hơn không?
Tham nhũng đối với mỗi người chúng ta có thể mang nhiều tên gọi: ích kỷ, khước từ chia sẻ, liên đới, cảm thông. Xét cho cùng, của cải là đển mọi người cùng hưởng dùng; nếu tham nhũng, lừa đảo là chỉ muốn lấy của người để dành riêng cho mình, thì bất cứ hành động ích kỷ nào, bất cứ khước từ san sẻ nào cũng là một hình thức tham nhũng. "Không ai có thể làm tôi hai chủ": của cải vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta thờ phượng người chủ duy nhất và đích thực là Thiên Chúa.
Trong khi mưu cầu cho cuộc sống, xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm và xây dựng giá trị Nước Trời. Xin cho chúng ta biết nhìn xa hơn về của cải vật chất, biết ra khỏi chính mình để gặp Chúa qua những chia sẻ, cảm thông đối với tha nhân.
Có thể nói toàn chương thứ 16 Phúc Âm theo thánh Luca qui góp những lời dạy của Chúa Giêsu về việc sử dụng tốt những của cải cũng như về sự nô lệ cho tiền bạc. Ðoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây và muốn Suy niệm hôm nay tiếp liền và bổ túc cho những gì Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn về những khách được mời dự tiệc nhưng từ chối không đến, vì lòng họ còn quá bám víu vào những lợi lộc riêng tư.
Chúng ta cũng nên lưu ý nơi đây trước khi Suy niệm những lời Phúc Âm trên rằng Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài cho tất cả mọi người, không phân biệt giầu nghèo. Việc sử dụng tốt tiền của hay việc lạm dụng sử dụng xấu tiền của không tùy thuộc vào số lượng ít nhiều, giầu nghèo nhưng tùy thuộc vào chính tâm hồn con người có thái độ như thế nào đối với tiền của. Nói cách khác, mọi người bất luận giàu hay nghèo đều có thể có thái độ sai lạc trước tiền của vật chất. Chúa Giêsu không lên án tiền của từ nơi chính nó nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta về thái độ phải có trước tiền của.
Chúng ta hãy lưu ý đến câu nói của Chúa Giêsu: "Không ai có thể làm tôi cho hai chủ một lượt. Không thể nào phục vụ Chúa và làm tôi cho tiền của". Từ ngữ được dùng trong nguyên văn mà chúng ta dùng từ "làm tôi cho" hay "phục vụ" trong khung cảnh Kinh Thánh, có mang thêm một chút ý nghĩa của hành động phụng vụ tôn thờ. Như vậy, câu nói được hiểu như sau: "Không ai có thể tôn thờ hai chủ được. Các con không thể cúi mình thờ lạy Thiên Chúa và thờ lạy thần tiền tài một lượt được. Con người chúng ta chỉ tôn thờ, chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ai tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương anh chị em mình thật sự, thì không thể nào tôn thờ tiền của, đặt tiền của như là mục đích cuối cùng của đời mình". Nếu tiền của không phục vụ cho chúng ta để có được những người bạn mới trong nước Trời, hay nói cách khác, nếu chúng ta không đặt tiền của vào việc phục vụ cho anh chị em thì tiền của sẽ trở nên thần tượng không thể nào dung hòa được với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Ðấng đã nhập thể làm người, sống khó nghèo, đã làm cho chúng con được giàu có sự sống của Chúa.
Xin giúp chúng con sống trung thành với ơn gọi trong cuộc sống hàng ngày, để chúng con đừng rơi vào cám dỗ, thờ lạy tiền của mà bỏ quên Chúa và anh chị em. Xin cho chúng con biết sử dụng đúng tiền của, làm vinh danh Chúa và tạo ra phúc lợi cho anh chị em.
Phần Thầy, Thầy bảo thật cho anh em biết: hãy dùng của cải bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; Ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc. 16, 9-10)
Lúc sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đã thấy mọi thứ đều tốt để phục vụ con người, Đức Giêsu không kết án chống lại của cải bản chất, nhưng chỉ chống lại thói dùng của cải bất chính của con người. Người nói tiền của bất chính như một quyền lực nô lệ hóa con người, cám dỗ con người làm điều bất lương để kiếm hay tiêu xài tiền của và bắt con người phục dịch tiền của. Nhưng người ta có thể dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê đã khuyên những người giàu ở trần gian này như sau: “Họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân … Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy, họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1Tm. 6, 17a. 18. 19).
Thực hiện trung tín
Tiền của đời này phải phục tùng quyền quản lý của con người, yếu tố chính của người quản lý là trung tín. Tiền của đời này không phải là việc quan trọng mà Thiên Chúa trao phó cho con người. Đức Giêsu nói: “Đó là việc nhỏ. Nếu con người biết trung tín, tốt lành trong việc dùng tiền của, Thiên Chúa sẽ ủy thác cho họ quản lý việc lớn hơn là sự sống đời đời.
Để được quản lý việc quan trọng hơn
Sự sống đời đời là của chân thật, là sản vật ưu tiên hơn tất cả mọi vật. Chính khi quản lý tiền của bất chính, người ta tỏ ra trung tín vâng theo thánh ý Thiên Chúa, Ngài sẽ nói với họ: “Mọi sự của Cha là của con”. Nhưng Ngài chỉ có thể trao phó mọi sự của Ngài cho người quản lý nào đã được thử thách mà tỏ ra trung tín và công bằng.
Thực ra, tiền của chỉ là khách lạ đối với bản chất con người có tâm hồn cao thượng, có trí óc thông minh và thánh thiện.
Nếu con người chống cự lại sức cám dỗ của tiền của đã trao cho mình và không biến nó thành thần tượng, thì chứng tỏ mình có lòng trung thành với Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài thôi.
Biệt phái mang tiếng tham lam tiền bạc vì họ coi nghèo khổ là sự chúc dữ. Họ tỏ vẻ ngạo mạn khinh bỉ Đức Giêsu, Đấng đã phá đổ sự an toàn dựa vào giàu có của họ, đồng thời Người tỏ cho thấy chỉ có lòng tin vững chắc được nên công chính trước mặt Thiên Chúa mới thực sự an toàn. Vinh quang trước mặt người đời là thứ gớm ghiếc trước mặt Thiên Chúa.
Tham nhũng trong xã hội hôm nay đang là cái tật khó cắt bỏ. Nó được ví như căn bệnh ung thư hay Sida của thời đại này! Tham nhũng cũng là đầu mối gây nên những điều bất chính khác. Có thể nói: tham nhũng như là nguyên nhân đệ nhất trong mọi nguyên nhân tiêu cực.
Tại sao lại xảy ra như vậy? Thưa điều đơn giản là con người ngày nay chỉ biết nghĩ đến mình mà không biết cảm thương người khác. Chúa của họ là cái bụng, là đồng tiền, vì thế, họ tìm mọi cách để vươn lên chức nọ việc kia, hầu có cơ hội kiếm trác...
Hôm nay, Đức Giêsu thấy được sự nguy hại của đồng tiền trong tiến trình theo Chúa của người môn đệ, vì thế, Ngài đã nói: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Thật là nguy hiểm cho đời môn đệ! Nếu vì tiền, hẳn người môn đệ sẽ không chu toàn bổn phận trong lòng mến; sẽ thượng tôn điều bất chính và tận dụng mọi cơ hội để khai thác nguồn lợi cho mình...; sẽ bất nhân với anh chị em; ích kỷ, kiêu ngạo và chối bỏ cùng đích của chính mình, thay vì tìm Nước Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng cho người khác. Đồng tiền nó cũng rất dễ làm cho Lương Tâm bị chết nghẹt và đôi khi uốn nắn Thánh Ý của Thiên Chúa theo chủ đích của chính mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khởi đi từ chính mình để biết sống ngay thẳng, biết đặt cùng đích của chúng ta là Nước Trời để hướng tới. Có thế, chúng ta mới trở thành người trung tín trong việc quản lý gia sản của Thiên Chúa qua vai trò là tôi tớ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khám phá ra giá trị của Nước Trời để biết sử dụng của cải theo ý Chúa, ngõ hầu chúng con sẽ trở thành những người tôi tớ trung tín và khôn ngoan. Amen.
Sứ điệp: Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, chỉ mình Ngài đáng được tôn thờ. Ta không được đặt bất cứ sự gì thay thế vị trí của Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, và Chúa muốn con biết sử dụng đúng ý Chúa. Của cải vật chất tự nó là tốt vì là kết quả của lòng Chúa thương. Nhưng Chúa dạy con phải làm chủ nó, để phục vụ Thánh Ý Chúa và phục vụ anh em.
Cám dỗ lớn nhất của loài người chúng con là trở nên tôi tớ cho tiền bạc và của cải trần gian. Con dễ say sưa làm giàu, thu vén bạc tiền mà quên đồng loại. Con dễ trở nên ích kỷ: “Ai chết mặc ai, tiền thầy bỏ túi”. Con vô tình coi tiền bạc trên hết, trở thành nô lệ cho ông chủ tiền bạc. Trong cuộc sống của con, đã có lần con phế bỏ Chúa khỏi lòng con. Con để tiền của thay thế vị trí của Chúa nơi lòng con khi con dùng phương tiện bất chính để làm giàu.
Lạy Chúa, xin Chúa gìn giữ con để suốt đời con luôn biết làm tôi Chúa. Xin cho con đừng vì tham việc mà bỏ lễ Chúa Nhật, xin cho con đừng vì tham lời mà làm hại anh em.
Đặc biệt, xin cho con biết khôn ngoan như người tôi tớ trong
Tin mừng: biết dùng của cải là ân huệ Chúa ban mà sinh lợi thiêng liêng cho linh hồn con. Xin cho con luôn quảng đại mở rộng đôi tay chia sẻ những của cải Chúa ban, để giúp đỡ những anh em đang khốn khó hơn con. Xin cho con nhận ra rằng: một hạt gạo cho đi vì yêu mến Chúa sẽ trở thành một hạt vàng ân phúc tô điểm cho linh hồn con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con”.
Đức cha Tihamer Toth đã kể lại cho chúng ta câu chuyện về nhà điêu khắc Michel Ange làm việc như thế nào.
Một lần, có một người bạn của Michel Ange đến thăm ông. Người bạn đó ngạc nhiên vì thấy ông vẫn hí hoáy mãi trước một pho tượng: “Tôi thấy công việc của anh không khác hơn hôm trước tí nào”.
Nhà nghệ sĩ trả lời: “Trái lại, tôi đã sửa chữa được nhiều lắm. Đây tôi bớt đi một ít đất sét, làm nổi bật vết nhăn này, uốn mềm lại nét khác, làm cho cái miệng tươi hơn lên”.
Bạn ông cãi lại: “Những cái đó nhỏ nhặt quá”.
Michel Ange mỉm cười trả lời lại: “Đúng, nhưng chính những cái nhỏ nhặt này làm cho pho tượng được hoàn mỹ hơn và sự hoàn mỹ lại không phải là sự nhỏ nhặt”.
Suy niệm
Chúng ta cùng được Chúa mời gọi vào việc quản lý chung tùy theo nhiệm vụ được trao phó. Chúa Giêsu khẳng định tư cách của người quản lý là phải hết lòng với nhiệm vụ được giao, thể hiện sự trung tín của mình với Thiên Chúa, vì trong đức tin, tôi và bạn là người quản lý được Thiên Chúa giao trách nhiệm công vụ.
Cho nên, người quản lý theo Tin Mừng đòi hỏi không đặt mình quỵ lụy dưới sức mạnh vạn năng của đồng tiền, vốn làm điên đảo bao nhà quản lý như thực tế mà chúng ta đã thấy nơi xã hội hôm nay. Người quản lý mà Chúa mời gọi tôi và bạn trở nên là sự tận tụy công vụ cho anh em đồng loại, đó là thể hiện sự tín trung của người làm tôi Thiên Chúa, cho nên Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Hơn lúc nào hết, đất nước và xã hội chúng ta cần những nhà quản lý theo ý muốn của Thiên Chúa: Người quản lý vì dân vì nước, những kẻ làm tôi cho tiền bạc, sẵn sàng vì “chủ tiền” mà phản bội hay thỏa hiệp cần phải loại trừ ra khỏi hàng ngũ những người quản lý.
Thật thế, trong việc quản lý đời mình và nhiệm vụ được giao, chúng ta cùng suy tư tâm tình của thánh Phaolô: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy” (Gl 6,7). Người gieo sự công chính trong cuộc đời sẽ gặt hoa trái công chính như người có năm nén làm lời năm nén, anh đã có lãi mà còn được cho thêm (x. Mt 25,29).
Người gieo sự tín trung sẽ gặt hái được niềm tin…
Ý lực sống
“Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Ed 36,27).
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi mọi người phải biết lo cho tương lai vĩnh cửu, khi biết dùng những của cải đời này sao cho ích lợi cho kho tàng mai sau trong nơi vĩnh cửu, để không bị nô lệ cho những của cải thế gian, nhưng biết chọn Chúa là chủ của đời mình. Vì thế Chúa bảo chúng ta phải biết lựa chọn: chọn Chúa hay của cải, bởi vì Chúa đã nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13).
Vào lúc khởi nguyên thế giới, Thiên Chúa đã thấy rằng: tất cả những gì Ngài làm để phục vụ con người đều tốt cả. Vậy Đức Giêsu không lên án những của cải vật chất nhưng chỉ lên án việc con người sử dụng của cải cách bất chính thôi. Vì vậy, Ngài nói đến “tiền của bất chính” như một sức mạnh nô lệ hoá con người, khi khiến họ trở thành bất lương trong việc chiếm đoạt và sử dụng nó, và đặt con người dưới quyền thống trị của nó. Nhưng người ta cũng có thể dùng tiền bạc mà làm giàu cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết cho Timôthêô nên khuyên người giàu có đời này “làm giàu về việc lành, ban phát rộng rãi và nghĩ đến kẻ khác, để thu góp một kho tàng sẽ làm vốn cho tương lai và để đạt được sự sống thật”.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đưa ra đòi hỏi: “Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của”, bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự huỷ, chối bỏ cùng đích của cuộc sống (Mỗi ngày một tin vui).
Vì thế, Tin mừng hôm nay trước hết mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm về thái độ của chúng ta đối với của cải trần thế mà Thiên Chúa đã tạo dựng và ban phát cho chúng ta, để chúng ta hưởng dùng và phụng sự Ngài. Bao lâu của cải trần thế là phương tiện giúp con người đạt tới cùng đích, thì bấy lâu chúng ta còn là người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Trái lại, khi tiền của đã trở thành cùng đích của cuộc sống, thì dĩ nhiên con người hiến tế cho nó không chỉ mạng sống của mình, mà còn hy sinh những gì quý giá và cao cả nhất trong trong cuộc sống, như nhân nghĩa, tình người, công bình, cũng như bác ái yêu thương.
Con người ai mà không thích tiền, ai mà không ham có nhiều tiền để tiêu dùng. Chúa dạy cho các môn đệ bài học về việc sử dụng tiền của. Tiền bạc là “đầy tớ tốt”, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách hữu hiệu cho mình và cho người khác; nhưng nó lại là “ông chủ xấu”, nếu ta để tiền bạc lôi cuốn chúng ta vào chuyện bất chính, khi bất chấp mọi thủ đoạn để kiếm tiền hoặc khi sử dụng đồng tiền cho mục đích xấu. Người môn đệ Chúa hãy sử dụng tiền của cách khôn ngoan, dùng tiền để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi linh hồn của mình và tha nhân (5 phút Lời Chúa).
Gần đây ở nước Anh, bác sĩ Roger Henerson đã đặt ra cụm từ “Hội chứng ám ảnh về tiền bạc”, để nói đến những triệu chứng tâm sinh lý của người quá ham mê tiền của. Ông nhận xét: “Lo lắng thái quá về tiền bạc là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tâm trạng căng thẳng”.
Hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo các môn đệ về cám dỗ của đồng tiền. Việc đi theo Chúa đòi hỏi ta phải chọn lựa giữa Thiên Chúa hay tiền của, chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta phải biết sử dụng tiền bạc như phương thế, để mưu ích cho chính mình trên hành trình tìm kiếm Nước trời.
Truyện: Đồng tiền trên trời
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:
- Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu? - Chỉ một đồng thôi. - Còn tô lớn kia? - Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được. - Thế tiền-cho-đi là tiền gì? - Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình, nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
Những điểm đáng chú ý trong lời Chúa Giêsu dạy về tiền của:
- Ngài đánh giá tiền của là “gian dối”. - Ngài khuyên dùng tiền của đời này để mua lấy những giá trị đời sau. - Phải coi tiền của là đầy tớ phục vụ mình, chứ đừng coi chúng là ông chủ mà mình phải làm nô lệ.
- Chính những người được coi là đạo đức như biệt phái mà cũng mang tính tham lam.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”: Qua câu này, chính Chúa Giêsu cho biết:
a/ Tiền của có thể biến người sở hữu nó trở thành nô lệ cho nó;
b/ tiền của có thể được người ta tôn lên ngang hàng với Thiên Chúa, thậm chí cao hơn Thiên Chúa nữa!
2. Tôi thử xét lại liên hệ của tôi với tiền của xem tôi đang làm chủ nó hay làm nô lệ nó:
- Tôi vẫn còn làm chủ nó: khi tôi dám đem nó đi cho người khác, dám đưa nó cho người khác mượn, dám bỏ nó, khi tôi mất nó mà không đến nỗi như mất hồn…
- Tôi đã thành nô lệ nó khi ngày đêm tôi nghĩ tới nó, khi tôi trọng nó hơn tất cả mọi người khác, khi tôi sợ mất nó, khi vì nó mà tôi dám làm điều xấu…
3. Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không?
- Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà Ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
- Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước (Góp nhặt).
1. Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng thấy Chúa Giêsu muốn ta phải có một thái độ đối với tiền bạc. “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).
Qua câu này, chính Chúa Giêsu cho biết:
Tiền bạc là con dao hai lưỡi nên rất nguy hiểm.
Đây là những tư tưởng được loan truyền đó đây trong xã hội hôm nay.
Tiền trước tiên, tôn ta thành thần thánh, thành tiên thành thánh thượng.
Tiền tạo thành tích, thành tiên tiến, thành... tài, thành thân thế – tất thảy trân trọng.
Tay thủ tập tiền, trên tất thảy- tôn ti trật tự tiêu tán - tòa tù tội thảy tiêu tan - tội thành trong trắng, thất thu thành thành tựu - thấy tiền tựa thấy tiên - thấy trước tất thảy, thua thành thắng, tiền trợ thủ ta trên tất tật!
Túng tiền, tư tưởng, tinh thần tiêu tán, trên thiếu tin, thắng thành thua, tài tình thành tai tiếng. Thiếu tiền tất thua thiệt, tình tan tác, trong trắng thành tối tăm .
Thiếu tiền, thâm thủng, tủi thân, thành tham tàn, tù tội, thân thế tựa tre tàn, tất thảy thiếu tôn trọng, tư tưởng thiếu tự tin, tìm thang thuốc tự tử. . .! (Tầm Vông, Gò Dầu-Tây Ninh)
“Đồng tiền mạnh mẽ xiết bao. Bẻ cong chân lý lật nhào công minh “Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế” hiển linh Có bây, “pháp luật nghiêm minh” trò đùa Buồn thay! “Vật chất” làm vua “Đức” “Trí” “Lễ” “Nghĩa” phải thua đồng tiền! (NT2-Vũng Tàu)
“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên, Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn! Tiền nhiều: mặc kệ. . . vẫn hơn Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo, Phất tay một cái nhằm nhè gì ông? (Tuổi trẻ cười –Xuân Canh Ngọ)
Tiền bạc có thể làm cho người ta ra mù quáng, không còn phân biệt được thật giả.
Xưa kia, có người nước Tề thích vàng. Sáng sớm, thay xiêm y đi ra chợ, đến hàng người đổi tiền, chộp một khối vàng, rồi đi.
Người ta bắt anh và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông người, mà anh dám đoạt vàng của người ta như thế?
Anh ta đáp lại:
- Lúc tôi thấy vàng, đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa đâu, tôi chỉ thấy vàng thôi.
Vì tiền bạc, nhiều người đã đánh mất cả lương tâm, cả tình người.
Như vậy, có phải có tiền là có tất cả hay không? Một con người bình thường với một bộ óc lành mạnh, không bệnh tất cũng có thể trả lời là không mà không sợ sai lầm.
2. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” (Lc 16,9)
Đây là những lời khuyên của một người mẹ giành cho đứa con bé nhỏ yêu quí của mình:
Thứ ba, ngày 29 Enricô của mẹ,
Sáng nay, lúc đi học về, con đi trước mẹ, con đã gặp một người đàn bà nghèo bế một đứa con nhỏ xanh xao yếu đuối và chìa tay xin con. Con nhìn người ta bằng cặp mắt lạnh lùng, con chẳng cho gì cả mà chính lúc ấy túi con có tiền. Nghe mẹ, con ơi!
Con đừng tập thói làm ngơ trước cái nghèo khó nó ngửa tay xin con; hơn nữa con lại càng không nên bước qua một người mẹ xin ăn cho con. Con hãy nghĩ đến bụng đói của đứa trẻ thơ, nghĩ đến sự đau khổ của người mẹ.
Mỗi khi mẹ bố thí cho kẻ nghèo thì bao giờ họ cũng cảm ơn và chúc cho mẹ, cho cả nhà ta được mọi sự lành. Những lời chúc tụng ấy nghe êm ái biết là dường nào! Và lòng tạ ơn họ không biết bao nhiêu.
Những lời cầu nguyện ấy sẽ thấu đến đấng Thượng đế để ngài phù hộ cho tất cả những người thân yêu của ta. Vì thế, mẹ trở về rất hài lòng và tự nhủ:
- Người ấy đã cho ta nhiều hơn là ta đãi họ!
Enricô ơi! Con hãy nghe mẹ: thỉnh thoảng nên bớt một vài xu trong túi tiền của con để cho người già không chốn nương thân, người mẹ không gạo, đứa trẻ không mẹ không cha. Những kẻ khó thích xin trẻ con vì như thế họ không nhục, vì trẻ con cũng như họ phải cần đến mọi người. Con có nhận thấy ở quanh trường thường có nhiều kẻ ăn xin không? Sự bố thí của người lớn là một việc làm phúc, nhưng sự bố thí của trẻ con không những là một việc làm phúc mà còn là một sự vỗ về nữa, vì mỗi lần đứa trẻ đem cho thì hình như đồng tiền kèm với bông hoa ở trong tay nó rơi ra.
Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một đám có bao nhiêu là nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay!
Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó nào mà không cho gì”.
Mẹ con. (Edmond de Amicis, trong Tâm Hồn Cao Thượng).
Hôm nay, Chúa nói đến chuyện phải sử dụng tiền bạc như thế nào cho đẹp ý Chúa. Sử dụng tiền bạc đẹp ý Chúa là dùng tiền bạc mua lấy bạn hữu, nghĩa là giúp đỡ mọi: “Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16, 9); không gian dối trong việc tiền bạc: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” (Lc 16, 10 – 12); không được vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền bạc: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13).
Khi nghe Chúa nói về chuyện tiền bạc, những người biệt phái hôm đó là những người tham lam lại cười nhạo Chúa: “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Ðức Giêsu. Người bảo họ: Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” (Lc 16, 14 – 15). Họ cười nhạo Chúa vì họ thấy Chúa sống kiếp nghèo khó: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Chúa không có nơi gối đầu” (Lc 9, 58), đang khi đó Chúa giàu sang vô cùng, Chúa đã từ bỏ tất cả để xuống thế sống với chúng ta mà họ không biết. Họ thấy Chúa đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi chứ không có làm ra tiền bạc, chỉ nhờ người khác giúp đỡ như các bà phụ nữ theo Chúa, đem tiền của ra giúp Chúa (Lc 8, 1 – 3) mà họ không biết rằng Chúa được nhiều người yêu mến giúp đỡ Chúa rao giảng Tin Mừng chứ Chúa chẳng lợi dụng một ai như chính họ lợi dụng sự đạo đức giả hình, đọc kinh cho dài để nuốt hết tài sản của các bà góa (xMc 12, 38 – 44). Họ nghĩ rằng để xem Chúa không có tiền bạc, Chúa sẽ sống sao đây, và công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa có thành công hay không? “Ước gì những kẻ tìm hại mạng sống con, phải nhuốc nha thẹn thùng! Ước gì bọn đắc chí nhạo cười con, phải tháo lui nhục nhã, những đứa cười ha hả nhạo con, phải quay gót thẹn thùng” (Tv 69, 3 – 4).
Họ đã quá lầm lạc trong suy nghĩ, lời nói và hành động. Họ nghĩ rằng họ có tiền bạc là do họ sống công chính cho nên được Chúa cho họ giàu có. Còn Chúa không sống công chính như họ cho nên Chúa không được Thiên Chúa ban cho tiền bạc. Họ phô trương sự giả hình, sự giàu có bất chính để rồi Chúa nói với họ: “Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông: Bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” (Lc 16, 15). Giàu sang, cao trọng là nhờ mình có tiền bạc là điều không đúng, vì đó là điều kinh tởm trước mặt Chúa. Giàu sang, cao trọng trước mặt Chúa là khi chúng ta sống tinh thần nghèo khó của Chúa, khi chúng ta biết chia sẻ, cho đi, khi chúng ta biết luôn làm tôi Chúa và trung thành với Chúa.
Lạy Chúa, người ta thường nói có tiền mua tiên cũng được. Có tiền, người ta mua thú vui, hưởng thụ, chơi bời, xa hoa, lãng phí…chúng con có tiền, chúng con mua lấy bạn hữu, chúng con làm vinh danh Chúa, chúng con giúp đỡ người nghèo khó, và giúp đỡ Giáo Hội để mở mang Nước Chúa ở trần gian này. Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Bảy Tuần 31 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chỉ nhờ Chúa ban ơn, các tín hữu Chúa mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, xin Chúa giúp chúng ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải trung thành, đừng sợ hãi, hãy nhớ những kỳ công Chúa đã làm, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Macabê Quyển 1: Ông Giuđa tử trận. Với nét tinh khôi của bậc anh hùng đấu tranh để trung thành với Giao Ước, ông Giuđa đã nêu gương can đảm đến hơi thở cuối cùng. Như trường hợp của bao chứng nhân khác của Thiên Chúa, cuộc đời ông đã kết thúc trong thất bại, nhưng, lễ hy sinh của ông sẽ khơi nguồn cho một sức sống mới… Anh em đừng sợ hãi khi bị quân thù tấn công. Hãy nhớ lại tổ tiên chúng ta đã được cứu thoát như thế nào. Vậy bây giờ, chúng ta hãy kêu lên Chúa Trời là Thiên Chúa chúng ta và Người sẽ thương đến chúng ta. Hãy nhớ lại bao việc lạ Chúa làm tại Biển Đỏ, chống lại vua Pharaô cùng binh tướng.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải cùng chết với Đức Kitô, để được cùng sống với Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích khảo luận của thánh Amrôxiô: Chúng tôi mang nơi thân mình Cuộc Thương Khó của Đức Kitô… Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ được cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Ai kiên trì chịu đựng một thời gian, thì cuối cùng niềm vui sẽ bừng lên trong người ấy.
Chỉ nhờ ơn Chúa, mới thờ Chúa cho phải đạo, vì thế, ta phải chúc tụng, ngợi khen Danh Thánh Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma: Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 144: Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đức Giêsu Kitô vốn giàu sang phú quý, nhưng đã trở nên khó nghèo, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Chúng ta không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn Tiền Của được, Đức Giêsu đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta trở nên giàu có. Thiên Chúa có quyền năng làm cho ta được vững mạnh theo Tin Mừng loan báo về Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ. Mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa, để muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Người. Đức Kitô đã cam lòng chịu chết để chấm dứt tội lỗi. Muốn cho cái chết không phải là giới hạn cuối cùng của con người, Thiên Chúa đã cho kẻ chết sống lại. Như vậy, nhờ cái chết mà tội lỗi bị hủy diệt, và nhờ sự sống mà con người được tồn tại mãi. Bởi đó, chết là cửa ngõ mọi người phải đi qua. Chúng ta phải kiên trì mà đi qua: đi từ mục nát qua bất hoại, từ thân phận phải chết qua tình trạng bất tử, từ hỗn loạn qua an bình. Vậy chúng ta đừng nao núng khi nghe nói đến cái chết, nhưng, hãy vui mừng vì những lợi ích do cuộc vượt qua lành thánh đem lại: cùng chết với Đức Kitô, sẽ cùng sống với Người. Chỉ nhờ Chúa ban ơn, ta mới có thể thờ Chúa cho phải đạo, ước gì ta thẳng tiến về cõi trời Chúa hứa, mà không bị vấp ngã trên đường. Ước gì được như thế!