HUẤN DỤ VÀ GHI NIỆM
của THÁNH NỮ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU
(Chương: II-III-IV)
Trong các nhân đức, thì Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu sống đức khiêm nhường tới mức cuối cùng, và chính vì muốn được thật khiêm nhường, thật bé nhỏ, nên Chị đã theo “Đường thơ ấu thiêng liêng”, nói khác đi, chính vì trung thành theo đường này mà Chị được khiêm nhường và đơn sơ như trẻ nhỏ.
Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu sung sướng thấy mình sống trong Dòng đã chín năm, mà luôn còn ở Nhà tập, không thuộc thành phần của Hội Đồng Dòng [1] và bị coi là “bé nhỏ” [2].
“Lạy Chúa, con xin được đau khổ và khinh chê”
Khi đau khổ ê chề vì Cha chúng tôi bệnh nạn. Chị chứng tỏ rằng những khát vọng chịu khinh chê nơi Chị không phải là những chữ suông nữa.
Nhiều lần ngay từ hồi thơ ấu, Chị đã nhắc đi nhắc lại cách hăng say lời sau đây của Thánh Gioan Thánh Giá: “Lạy Chúa, con xin được đau khổ và khinh chê vì Chúa”. Đó cũng là điều chúng tôi ước vọng khi tựa bên cửa sổ ở Vọng Tháp (Belvédère), cùng nhau trò chuyện về cuộc sống vĩnh cửu.
Hãy yêu thích để người ta sai khiến và quở trách mình
Chị bảo tôi: “Cần nhất phải khiêm nhường tự nội tâm, mà chị không thể khiêm nhường như vậy, nếu chị chưa muốn mọi người sai khiến chị. Chị chỉ dễ dãi bao lâu mọi việc xuôi chảy, nhưng khi chúng vừa xảy ra khác ý thì chị liền sa sầm mặt lại! Đó không phải là nhân đức. Nhân đức là biết khiêm tốn đặt mình dưới tay mọi người [3], biết vui sướng khi người khác quở trách mình.
Khi bắt đầu cố gắng, chị sẽ gặp những khó khăn ngoại cảnh như vậy và người khác cũng cho là chị bất toàn, nhưng đó lại là điểm rất tốt, vì chị được tập khiêm nhường. Khiêm nhường không chỉ tại nghĩ và nói rằng minh đầy khuyết điểm, mà còn làm sao thấy sung sướng khi người khác cũng nghĩ và nói rằng mình khuyết điểm như thế.
Chúng ta phải rất vui lòng để đôi khi kẻ khác gièm pha, vì nếu không ai làm điều đó, thì hỏi ta sẽ ra sao? Không mấy ích lợi cho ta”.
Trong một dịp lễ Cộng đồng, Chị sáng tác để trình diễn một màn “trò chơi đạo đức”, Chị bị trách là vở tuồng quá dài và người ta bảo Chị ngưng lại [4].
Tôi bắt gặp Chị lau trộm nước mắt phía trong cánh cửa. Rồi tự chủ được xúc động, Chị lại bình tĩnh và dịu dàng trong cảnh bị làm mất thể diện như vậy.
Chị Têrêsa vô cùng sung sướng đón nhận mọi lời trách mắng, không phải của chỉ các Bề trên, mà ngay của những người dưới nữa. Chị để các chị em Nhà tập nói những điều làm khó chịu mà không bao giờ quở mắng họ tại chỗ.
Tôi nói với Chị: “Em rất muốn đón nhận những điều chỉ dẫn đứng đắng khi lầm lẫn, em bằng lòng lắm. Nhưng bị quở trách lúc mình vô tội, thì thật không chịu nổi”.
- “Trái lại em, em thích được tố cáo sai sự thực, vì khi đó em không phải trách mình nữa, và em sung sướng dâng điều đó cho Chúa, rồi em sẽ khiêm tốn thấy rằng mình rất có thể lỗi phạm điều người khác vừa tố cáo mình”.
Chị đơn thành thổ lộ với tôi: “Em thấy hình như khiêm nhường là chính chân lý. Em không biết em có khiêm nhường hay không, nhưng em cảm thấy mình nhận ra chân lý trong mọi sự vật”.
Chị có thói quen tự xếp mình thuộc loại những kẻ yếu đuối, danh từ “những tâm hồn bé nhỏ” cũng do đó mà có.
Trong những lời khuyên dạy riêng từng chị em Nhà tập, Chị thường luôn nói về khiêm nhường. Điều Chị muốn là dạy chúng tôi không những tránh buồn nản khi thấy mình yếu đuối, mà còn “khoe” những yếu hèn của mình ra nữa [5].
Chị nói: “Êm dịu biết bao khi thấy mình yếu đuối và bé nhỏ!” [6].
Nhân dịp Chị Têrêsa chỉ cho tôi thấy tất cả những khuyết điểm của tôi, tôi đã buồn phiền và một phần nhụt nhuệ khí. Tôi nghĩ: “Tôi ước ao có các nhân đức biết bao nhiêu, nhưng còn xa vời quá! Muốn dịu hiền, kiên nhẫn, khiêm nhường, bác ái... nhưng không đi tới đâu hết!”. Tuy thế, giờ nguyện gẫm ban chiều, tôi đọc thấy Thánh Nữ Gertruđê cũng tỏ bày cùng một ước nguyện như vậy và Chúa Giêsu đã trả lời Thánh nữ:
“Trong mọi việc và trên hết, con hãy có thiện chí thành tâm. Chỉ duy tâm tình này làm con được toả sáng và có huân nghiệp đặc biệt của mọi nhân đức. Ai có thiện chí thành tâm, có ước muốn đơn thuần làm vinh danh Cha, tạ ơn Cha, cảm thông đau khổ Cha, mến yêu và phụng sự Cha bằng tất cả thụ tạo, thì người đó chắc chắn sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng với lòng độ lượng Cha, và đôi khi ước muốn đơn thành ấy còn ích lợi hơn những nghĩa cử của kẻ khác”.
Rất an tâm và được phấn khởi vì những lời trên, tôi tâm sự với Têrêsa, người em “Bề trên” của tôi. Chị đào sâu tư tưởng và thêm:
“Chị đã đọc Tiểu sử Cha Surin chưa? Ngài trừ quỷ và quỷ bảo Ngài: chúng ta chiến thắng tất cả. Chỉ có cái “Con chó thiện chí” là làm bọn ta không bao giờ kháng cự lại nổi!” [7]. Này! Nếu chị thiếu nhân đức thì chị đã có “Con chó con” nó cứu chị khỏi mọi nguy hiểm rồi. Chị hãy an lòng, “Con chó con” đó sẽ đưa chị tới thiên đàng. A! Tâm hồn nào mà không khát mong có nhân đức! Đó là con đường thông thường! Nhưng thật hiếm những tâm hồn nhận mình sa ngã, yếu đuối và bằng lòng thấy mình đo đất, đồng thời an vui để người khác bắt gặp mình trong tình trạng ấy.
Ngày kia tôi thấy nản chí và cho là do sự mệt mỏi mà ra. Chị nói: “Khi không thực tập được các nhân đức, đừng bao giờ chị cho là do một nguyên nhân tự nhiên nào đó như bệnh tật, thời gian hay phiền muộn. Trái lại, chị phải lợi dụng cơ hội để tập khiêm nhường, và đặt mình vào hàng những ‘tâm hồn bé nhỏ’, vì chị chỉ có thể thực tập các nhân đức cách quá yếu ớt! Điều chị cần lúc này không phải là tập được những nhân đức anh hùng, mà là cần có tinh thần khiêm nhường. Muốn được thế thì mọi việc chị thành công đều phải vương thêm chút thất bại, để chị không thể thoải mái khi nghĩ tới thành công đó. Trái lại mỗi lần nghĩ tới là mỗi lần chị tự hạ, vì thấy mình không phải là một tâm hồn anh hùng. Có những kẻ bao lâu còn sống dưới thế, bấy lâu không hề được thấy đồng loại trọng kính mình: nhờ đó họ không dám tin mình cũng có những nhân đức mình khâm phục nơi kẻ khác”.
Chị nói với tôi: “Mới đây em khó chịu với một chị và tưởng chị ấy không nhận ra. Việc chiến đấu còn trong nội tâm, tuy vậy em tự nuôi trong trí là chị đã nhận ra em chẳng có nhân đức chi hết, và em rất sung sướng cảm thấy mình yếu hèn như thế”.
Lần khác, trong một hoàn cảnh tương tự, Chị cũng nói với tôi: “Em tràn ngập sung sướng vì mình đã thiếu sót. Hôm nay Chúa ban cho em những ơn thật trọng đại, hôm nay đúng là một ngày có phước...”. Tôi hỏi Chị làm thế nào mà có những tâm tình đó? Chị trả lời: “Phương thế em dùng là luôn luôn vui vẻ, tươi cười lúc thất bại cũng như lúc thành công”.
Một tâm hồn dũng mãnh như vậy mà vẫn nghi ngờ chính mình, tin rằng mình có thể phạm những tội tầy trời. Chị đã đề dưới tấm ảnh Chúa Giêsu chịu nạn những hàng chứng tỏ tâm tình thường xuyên của Chị: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ con mến Thầy [8], nhưng xin Thầy đoái thương con, vì con chỉ là kẻ có tội” [9].
Chị chỉ dẫn cho tôi hay một việc chính Chị thấy rõ cái phi bạc nhẹ dạ mà không ai tránh nổi:
Đó là đêm Sinh Nhật 1887, giữa lúc Chị hy vọng được vào Nhà Kín thì Chị lại chịu một thử thách kỳ lạ. Sau biết bao cố gắng mà vốn thấy mình còn ở ngoài đời, tâm hồn Chị như qua cơn hấp hối.
Sau này Chị thổ lộ: “Ồ! Chị có thể tưởng được giữa lúc em chìm ngập trong biển sầu như vậy mà còn có thể thích thú đội chiếc nón mới, có đính hình chim bồ câu trắng! Những tính tự nhiên đó trở lại một cách kỳ lạ!” [10].
Tôi nhận thấy những điều gây cho người ta thích thú, chẳng hạn như một niềm vui nào đó, tuy dầu thánh thiện đi nữa, thì kết thúc cũng làm tâm hồn mệt mỏi, nếu người ta quyến luyến nó, và một niềm vui kéo dài chẳng bao lâu sẽ biến thành buồn thảm. Chị trả lời tôi về nhận xét này như sau:
“Chỉ trong Chúa mới có an nghỉ và niềm vui đích thực không hề làm mệt mỏi, đó là niềm vui con người múc trong quên mình, khinh bản thân. Vậy về chuyện chị yếu đuối chiều hôm qua... (tôi đã khóc vì thấy phải đi thăm các bệnh nhân sau giờ Kinh mai [Matimes] - lúc tôi đã quá mệt mỏi, và một chị đã trông thấy tôi khóc). Nếu chị bạn bắt gặp chị khóc nên cho là chị chưa có nhân đức và chính chị cũng thật tình nghĩ như thế, thì đó là nguồn vui chân chính rồi!”.
- Ồ! Chị có lý, em rất hiểu mình phải làm gì, em thấy rõ vậy, nhưng em không sao thi hành nổi. Không, không bao giờ em nên tốt lành được!
- Có, có chứ! Chị sẽ nên thánh thiện, Chúa sẽ làm cho chị thánh thiện.
- Vâng, nhưng không bao giờ thụ tạo nhận ra điều đó cả, và nếu em cứ vấp ngã mãi, thì người ta sẽ luôn cho em là bất toàn, còn Chị lại được các chị em nhận ra là thánh thiện!
- Tin rằng mình bất toàn và thấy người khác hoàn hảo, đó là hạnh phúc. Việc người ta cho chị là không có nhân đức không làm chị mất mát gì cũng không làm chị bất hạnh hơn, mà chính những người khác phải mất niềm vui nội tâm, vì "không có gì êm dịu bằng nghĩ điều hay cho người xung quanh". Ai phán đoán bất lợi cho chị thì mặc kệ họ, trái lại hữu ích biết bao cho chị nếu chị biết do đó mà tự khiêm vì mến Chúa”.
Tôi tự thú với Chị: “Lúc đó em hình như chẳng còn nghĩ ngợi được gì nữa!”.
- Điều đó không sao hết. Chúa biết rõ tâm tư chị. Và cố ý làm tôi bật cười nên Chị dùng một câu tiếng lóng chúng tôi đã từng biết với nhau: “Bạn càng khiêm tốn bao nhiêu thì bạn càng sung sướng bấy nhiêu”.
Tôi bảo Chị: “Ồ! Khi em nghĩ tới những điều em phải ‘thu thập lấy!’”.
- Chị hãy nói là phải “bỏ mất đi” thì đúng hơn!... chính Chúa Giêsu sẽ chan hoà tâm hồn chị với những huy hoàng của Ngài, từ như chị biết trừ khử những bất toàn nơi lòng chị nhiều hay ít.
Chị hay nói với tôi: “Chị không tập được nhân đức nào cả! Chị muốn ‘leo’ núi trong khi Chúa muốn ‘hạ’ chị xuống đáy thung lũng phì nhiêu, ở đó chị sẽ học bài học tự khinh bản thân”.
Muốn áp dụng từng chữ lời thánh Phaolô: “Anh em hãy cẩn trọng làm việc lành, không phải chỉ trước mặt Chúa, mà cả trước mặt người ta nữa” [11]. "Tôi hoài bão luôn làm gương tốt quanh tôi", muốn các chị em Nhà tập coi tôi như mẫu mực, nên khi tôi vấp ngã điều gì, tôi coi như tất cả đều đổ vỡ! Chị bảo tôi:
“Như vậy chỉ là tìm chính mình, là nhiệt tâm giả tạo và ảo tưởng. Người ta thuật lại rằng: Có một vị Giám mục muốn biết một vị thánh tiếng tăm lừng lẫy, nên tới thăm Ngài, có các bậc vị vọng trong Toà Giám mục đi theo. Đấng Thánh thấy từ xa vị Giáo chủ cùng với đoàn tháp tùng tiến tới, Ngài liền có một biến động hư danh và vì muốn phản kháng lại, nên thoáng thấy đám trẻ đang chơi đánh đu trên cây gần đó, Ngài liền bảo một em xuống và ngồi thế vào chỗ em. Vị Giám mục coi Ngài như kẻ mất trí, liền trở về mà không cần điều tra gì hết!
Nhiều lần vì tâm hồn chưa đủ cứng rắn để lãnh nhận lời khen lao, thì đôi khi phải biết hy sinh chút lợi bên ngoài để có ích cho việc thánh hoá bản thân. Chị phải vui mừng thấy mình vấp ngã, và nếu việc vấp ngã không xúc phạm đến Chúa thì đôi khi ta phải chủ tâm vấp ngã để giữ được lòng khiêm tốn”.
Chị dửng dưng trước những điều người ta nghĩ về Chị, ngay cả lúc kẻ khác cho là việc thiếu xây dựng cũng vậy. Khi Chị mới nhuốm bệnh, trước mỗi bữa ăn, Chị buộc phải đi uống thuốc. Một chị lớn tuổi lấy làm lạ và than phiền, vì thấy Têrêsa không giữ luật. Chỉ cần một lời phân trần là Chị đã làm chị lớn tuổi kia an lòng rồi. Nhưng Chị im lặng để rập theo gương Đức Trinh Nữ, vì Mẹ chịu mất tiếng tốt, hơn là phân trần với Thánh Giuse. Chị luôn nói với tôi về cách cư xử này, tuy rất đơn sơ, nhưng cũng rất anh hùng.
Như Mẹ Maria, phương pháp hoàn bị Chị dùng là im lặng. Chị thích “giữ tất cả trong tâm hồn” [12] niềm vui cũng như nỗi buồn. Tính thận trọng này là khởi điểm đường đưa Chị tới trọn lành, nó như ấn tính bên ngoài, vì đức tính quân bình là điểm nổi bật nơi Chị.
NGHÈO KHÓ TINH THẦN
Để kỷ niệm ngày tôi khấn, Chị hoạ cho tôi chiếc huy hiệu tôi sáng tác theo câu châm ngôn: “Ai mất là được” (qui perd, gagne) [13].
Chị cắt nghĩa cho tôi hiểu thêm rằng trên dương thế này, phải chịu mất tất cả, chịu lấy tất cả, để tiến tới tinh thần nghèo khó.
Chị thích cho kẻ khác được những ơn bên trong hơn là cho chính mình, và tôi đã thấy Chị đọc một cuốn sách rất bổ ích, nhưng chưa đọc xong Chị đã chuyển sang chị em khác và không bao giờ Chị có thể đọc hết được nữa!
Nếu Chúa cho Chị ơn soi sáng nào, Chị cố gắng thông truyền cho chúng tôi bao nhiêu có thể... Nhưng đôi khi có những tia soi sáng sống động và thâm trầm chỉ thoáng qua cho Chị và về sau Chị không nhớ được ra sao:
“Em muốn giữ lại ngay, nhưng thật bất lực! Lúc đó thay vì một sức tìm xem điều chi làm hồn em sung sướng, thì em an phận thưởng thức hương vị dư vang, mà không hiểu nó đến ra sao. Rồi em hoan hỉ vì sự nghèo khó đó...!”.
Như con trẻ không có gì là của riêng, chúng hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ, Chị muốn muốn sống ngày qua ngày, không cần của dự trữ tinh thần.
“Nếu Chúa muốn những tâm tình cao nhã và những tư tưởng đẹp, thì Người đã có các thiên thần... Người cũng có thể dựng nên những tâm hồn tuyệt hảo, tới chỗ họ không có chút yếu đuối nhân loại nào.
Nhưng không! Người đã đặt tất cả niềm sung sướng nơi những tạo vật bé nhỏ, thật yếu đuối và đáng thương hại này... Chắc hẳn điều đó làm vui lòng Chúa nhiều hơn!”.
Không cậy dựa trên bất cứ sự gì
Chị Têrêsa nuôi tâm tình đạo đức bằng cách nhờ tới những ngôn ngữ, những đoạn trong Sách Thánh.
Tôi bảo Chị: “Em muốn thế lắm, nhưng em kém trí nhớ quá!”.
- “A! Như vậy là chị ước mơ giàu có, muốn được sở hữu rồi đấy! Cậy dựa trên đó là như dựa trên tấm sắt nung đỏ. Nó để lại một dấu vết nhỏ! Điều cần thiết là không cậy dựa trên bất cứ sự gì hết, ngay cả trên những điều có thể nâng đỡ lòng đạo đức cũng vậy. ‘Cái không’, đó là chân lý, là không ước muốn, là thiếu cả hoài vọng niềm vui, và lúc đó người ta sẽ được sung sướng! Sách Gương Chúa Giêsu có nói: Tìm đâu được một người không hề tìm mình? Phải tìm họ ở nơi xa xôi, nơi cùng trái đất [14]. Nơi xa xăm là nơi cùng thấp... Thật thấp trong việc đánh giá chính mình, thật thấp vì khiêm nhường, thật thấp có nghĩa là người rất nhỏ bé.
Mọi người đều tìm điềm báo trước
Chị nói với tôi:
- Chị dấn thân vào công việc như thể mỗi công việc là mục đích cuối cùng vậy, và chị luôn hy vọng tới đích! Rồi chị bỡ ngỡ khi thấy mình vấp ngã. Nhưng phải sẵn sàng chờ đợi vấp ngã [15]. Chị lo lắng về tương lai như thể chính chị phải dàn xếp tất cả vậy. Em hiểu chị bôn chôn là vì thế. Chị luôn nói với Chúa: Ôi lạy Chúa! Con làm được gì với đôi tay con đây! Mọi người đều muốn tìm điềm báo trước cho tương lai. Nhưng đó là con đường thông thường. Chỉ ai không tìm xem tương lai ra sao mới thật là người nghèo khó tinh thần”.
Tôi tỏ ra ước ao được người ta chú ý tới những cố gắng và những tiến bộ nơi tôi. Chị Têrêsa hăng hái đáp lại:
“Làm như vậy có khác chi con gà mái cục tác inh ỏi, báo cho mọi người qua lại biết mình vừa đẻ trứng xong! Cũng như nó, chị muốn vừa khi nghiêm chỉnh làm được việc gì, hay khi ý hướng của chị được vô phương trách cứ, thì mọi người phải nhận ra và quý yêu chị...
Thật phù phiếm khi muốn hai mươi người cùng sống với ta phải khâm phục quý mến ta! Trong cái trung tâm nhỏ bé lòng họ, mỗi người họ cũng đang quan tâm tới ý hướng riêng tư, tới sức khoẻ, gia đình cũng như tiến bộ thiêng liêng hay ích lợi cá nhân họ và họ thốt ra những lời tầm phào! Khi ngắm nhìn chân dung các thánh, em tự nhủ các ngài cũng là nạn nhân của biết bao yếu đuối, cũng có lúc các ngài thốt ra những lời thuần nhân loại, đôi khi còn phàm tục nữa. Lúc đó em chỉ muốn được yêu thương quý mến sau này ở trên trời thôi... Vì chỉ trên đó tất cả mới hoàn hảo”.
Thật sự Chị chỉ muốn được thương yêu quý mến ở trên trời, và dưới đất này Chị chỉ tìm cách sao để được kể như không vậy. Biết bao lần chị nói với tôi rằng: “Sự khinh chê đối với Chị là điều thật vinh quang, vì người ta chỉ có thể khinh chê điều người ta biết, Chị say mê được người ta lãng quên!”.
Trái với người em quý mến, tôi luôn bị hư vinh lôi cuốn, nên cố gắng làm sao để người khác chú ý tới những điều tôi hy sinh. Vì thế Chị bảo tôi:
“Chị, chị cố sao làm cho sinh lợi! Nhiều người cũng làm như vậy. Còn em, em rất giữ gìn và sợ rằng chưa kiếm ra lời đủ. Em tận lực che giấu điều em làm và em ‘cất việc đó vào trong ngân hàng Thiên Chúa’, chẳng cần biết công việc có sinh lợi hay không”.
Một lần Chị tươi cười bắt tôi đưa tay cho Chị xem và Chị lấy bút viết lên móng tay tôi: “Lòng tham lợi” và bắt tôi phải giữ nguyên trong một thời gian.
Những chiếc mền cũ và lợi lộc cá nhân
Khi phơi giũ chăn mền, tôi đã khó chịu lưu ý chị em cần nhẹ tay vì tất cả đều cũ quá rồi.
Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu lưu ý tôi ngay:
“Chị sẽ làm gì nếu không được chỉ định để khâu vá lại những chăn mền này? Chắc chị sẽ lên tiếng cách thoải mái! Và nếu cần làm chị em quan tâm tới những chiếc mền này thì chị sẽ nói cách vô tư! Trong mọi việc làm, chị đừng bao giờ để dầu một chút lợi riêng nào ám ảnh cả”.
Chiếc cà rá của chị Céline mất rồi!
Câu này ám chỉ một việc xảy ra hồi thơ ấu Chị đã tả lại trong cuốn Tự Thuật [16]: Ngày Chị được dẫn tới Mans để gặp dì Visitandine, thì Chị lên 2 tuổi 4 tháng. Dì cho Chị chiếc rá nhỏ bằng cườm đầy kẹo, có hai chiếc cà rá bằng đường đặt lên trên. Em nhỏ Têrêsa buột miệng kêu lên: “Sướng quá! Có cả chiếc cà rá cho chị Céline nữa nà!”.
Nhưng khi ra xe về Alençon thì “Em nhỏ” mới biết kẹo đã rơi rớt trên đường phố mất cả, và ngay một chiếc cà rá quý báu cũng biến đâu luôn! “Cà rá của chị Céline mất rồi!”. Bé nghĩ thế và bé buồn khổ tới nỗi miệng thì la mà nước mắt dàn dụa.
Sau này trong Nhà Kín, Chị thuật lại chuyện trên và bảo tôi: “Chị thấy không? Lòng vị kỷ là bẩm sinh trong chúng ta. Tại sao lại cà rá của chị Céline mất rồi! mà không phải của em?”.
Hy sinh không muốn được thấy kết quả
Chị tâm sự với tôi: “Cho đến hồi 14 tuổi, em tập nhân đức mà không được hưởng chút êm dịu cũng như chút kết quả nào. Tâm hồn em như cây vừa chớm nở hoa thì đã vội rụng tàn. Chị hãy dâng lên Chúa hy sinh không bao giờ muốn được thấy kết quả, nghĩa là muốn thấy đời chị phải đau khổ, tự hạ, thấy những cánh hoa thiện chí cũng như những ước muốn ngay lành rụng xuống đất mà không sinh sôi nẩy nở chi hết. Chỉ trong khoảnh khắc khi chị nhắm mắt lìa trần, Chúa sẽ làm cho những trái tươi đẹp đó chín mòng trên cây tâm hồn chị”.
Chúa đã cho tôi biết “Em Têrêsa” thật có lý, vì tôi đọc thấy trong Đức Huấn Thiện đoạn sau đây là đoạn tôi đã cho Têrêsa biết và Chị rất thích thú: “Người như kẻ liệt sức và nghèo khổ cùng quẫn, nhưng mắt Chúa dõi theo người, giữ gìn người vẹn toàn và đã nâng người lên khỏi cảnh u tối sỉ nhục, đã nâng đầu người lên cao. Nhiều kẻ đã phải ngỡ ngàng và cất tiếng ca tụng Chúa. Con hãy tin cậy vào Chúa và an phận mình, vì Chúa làm được cho kẻ nghèo khó trở nên giàu có. Trong nháy mắt, ơn Chúa vội tràn đầy kẻ công chính để làm phần thưởng cho họ, và trong khoảnh khắc, Ngài làm những tiến bộ của họ sinh hoa kết quả” [17].
Trong cuộc điều tra Phong Thánh, khi vị Chưởng Tín hỏi tại sao tôi muốn Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu được phong thánh, tôi đã trả lời: “Chỉ vì một điều duy nhất là truyền bá ‘Con đường Thơ Ấu’ của Chị. Chị đã gọi tinh thần sống cũng như cách thức Chị đi lên với Chúa bằng danh từ đó”.
Vị Chưởng Tín tiếp: “Nếu chị nói về ‘Con Đường’, thì cuộc điều tra này tất nhiên phải chấm dứt, vì cũng đã xảy ra như vậy đối với rất nhiều trường hợp tương tự”.
Tôi trả lời: “Không hề chi, cuộc điều tra về Chị Têrêsa có bị đình chỉ chăng nữa, cũng không ngăn cản được con muốn nêu lên điều đã lôi cuốn con: Đó là làm sao để tuyên thánh ‘Con Đường Thơ Ấu’”.
Tôi giữ vững lập trường và cuộc điều tra có phần khá quan. Cũng vì vậy mà tôi sung sướng khi thấy Đức Bênêđictô XV trong bài Diễn văn đã ca tụng “Tinh Thần Trẻ Thơ” hơn cả việc tuyên thánh Chị. Điều tôi mong ước đã thành tựu vào ngày 14-8-1921.
Ngoài ra bản Summarium cũng đã ghi lại câu tôi trả lời về những “Ơn siêu nhiên”: Những ơn này rất hiếm trong đời sống Nữ tỳ Thiên Chúa. Con thích thà Chị không được tuyên thánh còn hơn là không diễn tả chân dung Chị như con tưởng”.
“... Đời sống của Chị phải đơn sơ để làm mẫu mực cho những ‘tâm hồn bé nhỏ’”[18].
Chị Têrêsa luôn chỉ cho chúng tôi biết “Con Đường Thơ Ấu” Chị theo.
Chị tuyên bố: “Để theo con đường này, cần phải khiêm nhường, có tâm hồn nghèo khó và đơn sơ”.
Nếu Chị biết lời nguyện sau đây của Bossuet thì chắc Chị đã sung sướng thưởng thức [19].
“Ôi Chúa cao cả!... Xin Chúa đừng để cho một số người được xếp vào hàng trí thức hay tinh thần bị luận xử trước Toà án oai nghiêm Chúa, vì họ đã đóng cửa không cho Chúa ngự tới các linh hồn: Chúa muốn vào những tâm hồn đó cách đơn sơ, mà chỉ sự đơn sơ thôi đã làm chướng tai họ! Chúa muốn đi qua khung cửa đã rộng mở do những vị thánh từ những thế kỷ đầu tiên trong Giáo Hội, thế mà có lẽ họ chưa biết tới! Xin Chúa cho tất cả chúng con trở nên bé nhỏ như trẻ thơ theo lời Chúa Kitô phán, để một khi chúng con đã đi qua cửa hẹp này, thì cũng chỉ cho kẻ khác qua được cách chắn chắn và hiệu nghiệm hơn. Amen”.
Không lạ gì khi vào phút cuối đời, con người anh hùng đó đã thốt lên những lời cảm động: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi chỉ muốn là một con trẻ bé nhỏ luôn giơ tay bám chặt lấy ‘Giêsu Hài nhi’”.
Têrêsa đã nhờ ánh sáng mạc khải cho những tâm hồn bé nhỏ mà biết khám phá ra được cửa cứu rỗi này, và Chị sẵn sàng chỉ cho những tâm hồn khác. Sự khôn ngoan thần linh và sự khôn ngoan nhân loại đã không làm nổi bật “vẻ cao cả đích thực của tâm hồn” trong tinh thần trẻ thơ này hay sao? Đó cũng là tư tưởng của những nhà triết học thời danh Trung Hoa, họ đã minh xác trong những định nghĩa súc tích chẳng hạn như:
- Đức độ ở bậc chín muồi sẽ tiến tới trạng thái trẻ thơ (Lão Tử, thế kỷ VII trước kỷ nguyên).
- Con người vĩ đại là con người không đánh mất tâm hồn trẻ thơ (Mạnh Tử, thế kỷ thứ IV trước kỷ nguyên) [20].
Hay câu khác như:
- Thấu hiểu đức tính dũng cảm là biết luôn tiến tới trên đường thiện hảo và trở về với tuổi thơ [21].
Đối với Chị thánh trong việc thực hành “Con Đường Thơ Ấu” này hệ tại đức khiêm nhường như tôi đã đề cập.
Nhưng Chị cũng biểu lộ một tinh thần trẻ thơ thật đáng kể!
Vì vậy Chị rất thích nói với tôi về những lời sau đây Chị đã khơi múc được trong Phúc Âm:
“Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Ta, Nước Trời thuộc về chúng... Thiên thần chúng luôn thấy Nhan Thánh Cha Ta... ai trở nên bé nhỏ như con trẻ sẽ là lớn nhất trong Nước Trời... Chúa Giêsu hôn các em sau khi đã chúc lành cho chúng” [22].
Chị đã ghi những hàng trên ở mặt sau tấm hình bốn anh em chúng tôi đã về chầu Chúa ngay từ hồi bé thơ. Chị tặng tôi một tấm và giữ một tấm trong sách kinh Nhật Tụng của Chị. Ngày nay những hình ảnh đó một phần đã lu mờ vì cũ quá.
Ở dưới những đoạn này Chị còn thêm nhiều đoạn Thánh Kinh khác, là những đoạn làm Chị say mê và luôn có liên quan đến Tinh Thần Thơ Ấu:
- Thật hạnh phúc cho những ai được Chúa liệt vào hàng công chính không phải tính theo huân nghiệp, vì đối với người có huân nghiệp thì phần thưởng không còn như một ân huệ nữa, mà như một việc buộc phải có... Thực là ơn nhưng không những kẻ không có huân nghiệp lại được công chính hoá nhờ ơn cứu độ do Chúa Giêsu Kitô mang lại [23].
- Chúa sẽ dẫn dắt đoàn chiên Chúa trong đồng cỏ. Ngài quy tụ những con chiên con lại và ẵm chúng vào lòng [24].
Ở mặt sau một tấm ảnh lớn khác, Chị đã chép lại những câu trích trong Thánh Kinh nguyên văn như dưới đây, đôi câu nhắc lại những câu trên, nhưng nó cũng có lợi là soi sáng cho ta hiểu hơn về Con Đường của Chị:
- Ai thật bé nhỏ hãy đến với Cha! (Châm ngôn).
- Ai trở nên bé nhỏ như con trẻ sẽ là người lớn nhất trên Nước Trời (Phúc Âm).
- Thầy Chí Thánh sẽ quy tụ những con chiên non lại và ôm chúng vào lòng.
- Như bà mẹ âu yếm con mình thế nào thì Ta cũng sẽ an ủi con như vậy. Ta sẽ ẵm con vào lòng và vuốt ve con trên đầu gối Ta (Isaia).
- Như người cha thương con thế nào, Chúa cũng động lòng trắc ẩn chúng ta như thế. Rạng đông cách biệt hoàng hôn thế nào thì Người cũng tách xa chúng ta khỏi những tội lỗi chúng ta vấp phạm như thế. Chúa đầy lòng trắc ẩn và êm dịu: Ngài chậm phạt và chứa chan tình thương (Tv 102).
- Ai làm theo ý Cha Ta, thì kẻ đó là chị em là anh em và là mẹ Ta (Phúc Âm).
- Ôi thưa Cha! Những kẻ Cha ban cho con, thì Cha cũng yêu mến chúng như Cha đã yêu mến con vậy (Phúc Âm).
Chị cũng đặc biệt ưa thích tấm ảnh chạm trổ một em bé ngồi trên đầu gối Thầy Chí Thánh và đang cố vươn lên tới Nhan Thánh để hôn Ngài.
Tôi cho Chị coi tấm hình kỷ niệm một trẻ gái chết hồi còn nhỏ, Chị lấy tay chỉ vào mặt em và nói với giọng âu yếm hãnh diện:
“Tất cả sẽ dưới quyền em điều khiển”, như thế Chị đã thấy trước cái tước hiệu “Nữ Vương các trẻ thơ” của chị.
Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu khá cao lớn, Chị được một thước 62, còn Mẹ Agnès de Jésus lại bé hơn nhiều, nên có lần tôi bảo Chị:
“Nếu Chị được chọn thì Chị thích sao: lớn hay bé?”.
Chị trả lời không do dự:
“Em muốn bé để được bé nhỏ trong mọi sự”.
Giáo Hội luôn thấy nơi Têrêsa một Thánh Nữ của Tinh Thần trẻ thơ. Nhiều vị Giáo Hoàng làm chứng về điều này. Ở đây tôi chỉ xin trưng lời Đức Thánh Cha Piô XII: Lần thứ nhất Ngài đề cập tới khi còn là Đặc Sứ của Đức Piô XI vào dịp khánh thành Vương Cung Thánh Đường Lisieux ngày 11 tháng 7 năm 1937, lần thứ hai là 17 năm sau:
“Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu có một sứ mệnh, một học thuyết. Học thuyết cũng như tất cả cuộc đời Thánh Nữ là khiêm nhường và đơn sơ. Nó gồm tóm trong hai tiếng: Thơ Ấu Thiêng Liêng, hay hai tiếng khác có nghĩa tương đương: Đường Tu Bé Nhỏ”.
“Chính trong Phúc Âm, trong trung tâm Tin Mừng mà Chị đã tìm ra đời này với bao nhiêu duyên dáng tươi trẻ: Nếu các con không trở nên như trẻ thơ, chúng con không vào được Nước Trời” [25].
Tôn sùng mầu nhiệm nhập thể
và mầu nhiệm máng cỏ
Chị mừng lễ ngày 25 tháng 3 với tất cả lòng mộ mến, vì Chị nói: “Đó là ngày Chúa Giêsu ở trong lòng Mẹ Maria, ngày Chúa là Con Trẻ bé nhỏ nhất”.
Nhưng Chị đặc biệt yêu mến mầu nhiệm Máng Cỏ, Chúa Giêsu Bé Thơ đã chỉ dạy Chị mọi bí mật về tinh thần đơn sơ và phó thác.
Bè rối Macrion đã miệt thị nói: “Hãy vứt bỏ những chiếc tã lót và cái Máng Cỏ này đi, chúng không xứng đáng với một vị Thiên Chúa”, trái lại Têrêsa đắm say việc Chúa hạ mình nên hoàn toàn bé nhỏ vì yêu chúng ta. Trên những tấm ảnh Sinh Nhật Chị tự vẽ lấy, Chị đã sung sướng viết lời sau đây của Thánh Bênađô: “Ôi! Giêsu, ai đã làm cho Chúa nên bé nhỏ như thế? Đó là Tình Yêu!”.
Tên Têrêsa Hài Đồng Giêsu Chị đã nhận hồi lên 9 tuổi, là hồi Chị tỏ ý muốn được tu Nhà Kín, Chị luôn còn thấy “thời sự tính” của nó và Chị cố gắng để mãi mãi xứng đáng với danh hiệu đó.
Sau này Chị đã viết Kinh sau đây dưới một ảnh Chúa Giêsu bé thơ:
“Ôi Giêsu bé nhỏ, kho tàng độc nhất của con, con phó mình tuỳ theo Thánh ý Chúa, không gì sung sướng bằng làm Chúa mỉm cười. Xin in sâu nơi con những ân điển phúc đức thơ ấu của Chúa, để sau này khi tới ngày con được khai sinh trên Nước Trời, thì các thần thánh nhận ra nơi hôn thê bé nhỏ của Chúa là: Têrêsa Hài Đồng Giêsu”.
Những đức tính thơ ấu Chị ước mong cũng là những đức tính Thánh Giêrônimô khâm phục và không cho là những hành động ấu trĩ, tuy Ngài là vị thánh khắc khổ và sống trước Chị nhiều.
Những vị bảo trợ em trên trời và những vị em quý mến là những vị đã đánh cắp Nước Trời như các Thánh Anh Hài hay người Trộm lành chẳng hạn. Các vị đại thánh đã kiếm được Nước Trời nhờ hành động. Còn em, em muốn bắt chước những người kẻ trộm, muốn được Nước Trời nhờ mưu mẹo, đó là mưu mẹo Tình Yêu! Chính “Tình Yêu kế” sẽ dẫn đường cho em và cho những tội nhân đáng thương vào Nước Trời. Chúa Thánh Linh phấn khích em vì Ngài đã nói trong sách Châm Ngôn: “Ồ, hỡi những kẻ bé nhỏ nhất, hãy đến học với Ta tính xảo diệu tinh tế” [26].
Tôi nói với Chị về việc các thánh hành xác, Chị trả lời: “Thầy Chí Thánh thật chu đáo khi Ngài báo trước là ‘có nhiều chỗ ở trong nhà Cha Ngài’ [27] nếu không vậy thì Ngài sẽ bảo chúng ta”.
“Phải, nếu mọi tâm hồn được gọi nên bậc hoàn mỹ, mà muốn vào Nước Trời đều phải hành xác, thì Ngài đã nói điều đó cho chúng ta trước và lúc đó chúng ta hãy quảng đại tuân theo”. Nhưng Ngài đã báo ‘có nhiều chỗ ở trong Nhà Cha Ngài’. Nếu có chỗ cho những tâm hồn quả cảm như các thánh tu rừng xưa và các vị tử đạo bằng việc chay tịnh đền tội, thì cũng có chỗ cho các trẻ em bé nhỏ. Đó là chỗ của chúng ta, nếu chúng ta yêu Chúa Giêsu nhiều! Yêu Ngài cùng với yêu Chúa Cha và Thần Linh Thánh Ái”.
Như ta thấy, Chị Têrêsa là một tâm hồn hết sức đơn sơ, biết thánh hoá mình bằng những cách thức thông thường.
Do đó ta hiểu việc được những ơn lạ trong đời sống Chị là một việc trái nghịch với điều Chị gọi là thánh ý Chúa trên Chị. Đời chị phải làm mẫu mực cho những tâm hồn bé nhỏ.
Tôi bảo Chị:
- Chị làm gì nếu Chị có thể khởi sự lại từ đầu đời tu trì?
- Chắc em sẽ làm như em đã làm.
- Chị không cảm thấy tâm tình sau đây của một vị ẩn sĩ hay sao: Ngài quả quyết rằng: “Ngay khi sống lâu năm lâu tháng trong chay tịnh đền tội, thì lúc chỉ còn một khắc, một hơi thở để sống, tôi cũng vốn sợ phải đoạ đày?”.
- Không, em không thấy sợ như thế, em quá bé nhỏ để phải đoạ đày! Các trẻ nhỏ không bị đoạ đày đâu!
Chán nản, lòng nặng trĩu một chiến đấu như không vượt nổi, tôi tìm gặp Chị:
- Lần này thật là bất lực, em không thể vượt lên được nữa!
- Điều đó không có chi lạ cả. Chúng ta quá bé nhỏ để vượt lên trên những khó khăn, chúng ta phải đi qua ở dưới”.
Rồi Chị gợi lại một câu chuyện khi chúng tôi còn thơ ấu:
Ngày ở Alençon, một hôm chị em chúng tôi cùng sang nhà láng giềng chơi, có con ngựa chắn ngay lối vào vườn. Trong khi các người lới tìm lối khác để đi, thì chị bạn chúng tôi thấy không có gì dễ bằng chui dưới bụng ngựa! [28] Chị qua trước rồi đưa tay kéo tôi, tôi kéo theo Têrêsa luôn! Không phải khom lưng uốn cái thân nhỏ bé xuống mấy, thế mà chúng tôi cũng được như ý.
Chị kết luận: “Được vậy vì chúng ta là trẻ nhỏ. Với trẻ em thì không có gì là chướng ngại cả, chúng len lỏi qua khắp nơi. Những tâm hồn vĩ đại có thể vượt trên những công việc, có thể xoay chuyển khó khăn, hay nhờ lý luận hoặc có đức tính mà lướt thắng tất cả, nhưng chúng ta là những kẻ bé nhỏ, chúng ta phải thận trọng để không bao giờ làm như vậy hết. Chúng ta hãy chui qua”.
“Chui qua” các công việc là không xét lại sự việc cách quá tỉ mỉ, không lý luận [29].
Trong thời gian mắc bệnh, Chị chịu những phương dược gây thật nhiều khó chịu và những cách điều trị thực là cực nhọc, nhưng Chị đã đón nhận với lòng kiên nhẫn vô biên. Tuy biết chắc điều trị cũng vô ích nhưng chị không hề ta thán phải nhọc mệt vì chạy chữa như vậy. Chị thổ lộ với tôi là đã dâng lên Chúa mọi việc săn sóc vô ích đó để cầu cho một vị thừa sai. Vị này thiếu thời giờ, thiếu phương tiện để săn sóc bản thân, Chị cầu xin để việc Chị được săn sóc này sinh ích cho ngài...
Tôi tỏ hối tiếc vì không có những tư tưởng như thế, Chị trả lời tôi:
“Chủ ý rõ ràng như vậy là điều không cần đối với một tâm hồn đã tận hiến cho Chúa. Con trẻ nằm gọn trong lòng mẹ hầu như bú sữa cách máy móc, nó không cảm thấy ích lợi của việc mình làm. Nhưng nó đã sống, đã phát triển! Nó có cần ý thức đâu!”.
Chị còn bảo tôi: Một hoạ sĩ làm việc cho chủ, không cần mỗi lần đưa bút vẽ là mỗi lần nhắc lại: Tôi vẽ nét này cho ông chủ, tôi vẽ nét này cho ông chủ... Nhưng người hoạ sĩ đó bắt tay vào việc với ý định vẽ cho chủ, thế là đủ. Hồi tâm và hướng dẫn chủ ý mình là điều tốt, nhưng cần đừng gò ép tâm thần. Chúa nhân lành nhận ra những tư tưởng tốt đẹp và những chủ ý tinh tế nơi ta. Chúa là Cha và chúng ta là những con nhỏ của Người kia mà!”.
Chúa Giêsu không thể buồn phiền
vì những việc chúng ta quấy rầy Ngài
Tôi bảo Chị:
- Em phải làm việc mới được nếu không thì Chúa Giêsu sẽ buồn chết...
- Ồ không, chính chị buồn thì có! Chúa không thể buồn vì việc chúng ta quấy rầy Ngài [30]. Nhưng với ta, thì ta buồn biết bao nhiêu khi ta không dâng hiến cho Chúa như sức ta có thể.
Thánh thiện mà không cần “lớn lên”
Rất khiêm tốn, nên Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu “thấy mình không đủ sức leo hết chiếc thang xù xì trên đường thánh thiện”. Chị cũng cố tập sao cho càng ngày càng nên bé nhỏ để Chúa hoàn toàn đảm trách mọi việc Chị làm và bồng Chị trên tay như con trẻ thường được vậy trong các gia đình.
Chị muốn nên thánh mà không cần “lớn lên” vì cũng như những vụng về nhỏ nhoi của trẻ em không làm phiền lòng cha mẹ, thì những sơ suất của những tâm hồn khiêm tốn cũng không xúc phạm tới Chúa nhiều lắm, và những điều họ lỗi lầm cũng không phải xét đoán nặng nề, như lời Sách Thánh: “Người ta tha thứ cho trẻ em vì thương hại” [31]. Do đó Chị thận trọng giữ mình kẻo ước ao cho mình là hoàn toàn và để cho chị em tưởng Chị còn kém cỏi, vì nếu Chị “khôn lớn” thì Chúa sẽ để chị bước đi một mình.
Chị nói: “Trẻ em làm việc không để tạo cho mình một địa vị. Nếu chúng có ngoan thì để làm vui lòng cha mẹ. Cũng vậy, không được làm việc để trở nên những vị thánh, mà để làm vui lòng Chúa”.
Trong khi Chị đau yếu, vì tôi còn thấp kém nên hay phàn nàn về chuyện đó, Chị nói với tôi:
- Chị hôn ảnh Chuộc Tội đi, hôn ngay đi!
Tôi hôn dưới chân tượng.
- Một em nhỏ có ôm hôn cha em như vậy không? Mau mau hôn trên mặt chứ!
Tôi làm theo như vậy.
- Và bây giờ thì phải để mình được ôm hôn đi!
Tôi phải đặt tượng lên má.
- Tốt lắm, lần này thì được xí xoá tất cả rồi.
“Ngày xưa Thầy Chí Thánh trả lời mẹ con ông Giêbêđê: ‘Ngồi bên phải và bên trái Ta là điều thuộc về những kẻ Cha Ta đã chọn’ [32]. Em hình dung ra những chỗ đặc biệt này nếu không dành cho những vị đại thánh, các vị tử đạo thì đúng là dành cho các trẻ thơ rồi”.
“Đavít đã chẳng tiên báo điều đó hay sao khi Ngài nói: Em út Bengiamin sẽ chủ toạ cộng đoàn (các thánh)” [33].
Người ta hỏi Chị xem chúng tôi phải cầu nguyện với Chị dưới danh hiệu nào khi Chị đã về Trời.
Chị khiêm tốn trả lời:
- Các chị sẽ gọi em là Têrêsa nhỏ.
PHÓ THÁC
Chị nói về tình yêu và lượng từ ái Chúa thì không bao giờ hết. Lòng trông cậy của Chị thật bất khả kháng. Nếu ngay từ thơ ấu Chị đã ước ao “nên thánh, một vị đại thánh” như Chị tuyên bố trong tập Tự Thuật [34], thì điều Chị hoài bão là làm sao được tan biến trong những huân nghiệp vô tận của Chúa Giêsu. Chị nói chính những huân nghiệp đó là gia sản của Chị. Ngay cả những ước vọng cao xa nhất cũng không cho là táo bạo.
Chị quả quyết không nên sợ hãi vì dám ước vọng nhiều, cầu xin nhiều với Chúa: “Trên đời có những người biết làm cho người ta mời mọc mình, biết len lỏi vào mọi nơi... Nếu ta xin Chúa điều gì mà Ngài không tính ban cho ta, thì Ngài cũng rất quyền phép giàu có, nên vì danh dự Ngài mà Ngài không nỡ từ chối ta và ban cho ta...”.
Nhưng Chị không hề dùng lòng gan dạ thánh thiện này để xin những an ủi hay xin giảm bớt khổ cực bao giờ cả.
Chị rất thận trọng trong khi xin những ơn thế tục. Chị tưởng là Chúa không từ chối Chị điều gì, và Chị thố lộ là Chị rất dè giữ “kẻo sợ Chúa phải buộc lòng nhận lời em xin”.
Do đó khi Chị xin ân huệ hay an ủi nào, thì để làm vui lòng người khác và Chị còn nhờ Đức Trinh Nữ chuyển lời cầu xin thay Chị. Điều này Chị diễn tả như sau:
- Cầu xin với Đức Trinh Nữ không giống như cầu xin với Chúa. Mẹ biết rõ điều Mẹ làm theo những ước muốn bé nhỏ của em, Mẹ hiểu điều nào phải nói, điều nào cần im lặng... Cũng chính Mẹ xem xét để khỏi ép buộc Chúa nhận lời em, có vậy Chúa mới thực thi tất cả theo thánh ý Ngài được.
Về lời nguyền sẽ “làm nhiều việc lành trên dương thế sau khi chết”, Chị thêm điều kiện này: “Trước khi nhận lời ai kêu xin em, em sẽ cẩn thận nhìn lên ánh mắt Chúa xem em có xin điều gì trái ý Ngài không”.
Chị lưu ý chúng tôi là tinh thần phó thác đó rập khuôn theo lời cầu của Đức Trinh Nữ tại tiệc cưới Cana, Mẹ chỉ nói: “Họ không còn rượu” [35]. Hay như Mátta và Maria: “Người Thầy yêu đang đau” [36]. Các bà chỉ trình bày điều mình ước muốn mà không đưa ra lời xin, để Chúa Giêsu được tự do hành động.
Chị bước theo đường phó thác tới mù quáng và toàn diện, đường Chị gọi là “Đường Bé nhỏ” hay “Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng”, nhưng không bao giờ Chị xao lãng việc cộng tác với Chúa. Vì coi đây là việc quan trọng, nên trót đời Chị đã thực hiện biết bao việc độ lượng và cao thượng. Đây là điều Chị tâm niệm và hằng chỉ bảo chúng tôi khi ở Nhà Tập.
Có hôm tôi đọc những lời sau đây trong cuốn Đức Huấn Thiện: “Lòng từ ái sẽ ban cho mỗi người địa vị tuỳ huân nghiệp họ làm và tuỳ lương tri họ sử dụng” [37]. Tôi bảo Chị sẽ có địa vị tốt đẹp vì Chị đã lái con thuyền đời một cách tuyệt hảo. Nhưng tại sao lại tuỳ theo huân nghiệp họ làm? Chị liền hăng say cắt nghĩa để tôi hiểu tinh thần tín thác và trao phó toàn thân nơi Chúa cần được nuôi dưỡng bằng hy sinh. Chị bảo: “Chúng ta phải làm mọi việc có thể làm, cho không tính toán, bền tâm quên mình. Tóm lại, là tận sức thi hành một việc lành để chứng tỏ tình yêu. Nhưng thực ra những việc đó có đáng kể chi... Nên khi đã làm mọi việc ta tưởng là cần làm, thì ta phải thú nhận mình là đầy tớ vô ích [38] và hy vọng Chúa sẽ lấy độ lượng ban mọi điều ta mong muốn.
Đó là điểm những tâm hồn bé nhỏ chạy trên đường thơ ấu hy vọng: Em nói là chạy chứ không phải an nghỉ đâu nhé!”.
Têrêsa luôn khắc sâu nơi tâm khảm tôi lòng tín thác khiêm tốn, đó cũng là lòng tín thác Chị đã đích thân sống mãnh liệt. Đây là khung cảnh tôi được hô hấp như khí trời vậy.
Đêm Sinh Nhật năm 1894, tôi còn ở Nhà Tập và đã thấy trong giấy bài thơ Têrêsa tặng tôi nhân danh Đức Trinh Nữ. Bài thơ đó như sau:
“Jésus tressera ta couronne,
Si tu ne veux que son Amour.
Si ton coeur,à Lui, s’abandonne
Ij te fera régner un jour.
Après la nuit de cette vie
Tu verras son très doux regard;
Et, là-haut, ton âme ravie
Volera sans aucun retard”.
“Giêsu sẽ kết triều thiên cho con,
Nếu con chỉ muốn có Tình Yêu Ngài.
Ngày kia Ngài đặt lên ngai thống tri
Nếu hồn con tín thác nơi mình Ngài.
Rồi sau đêm cuộc đời tăm tối này
Con được thấy mắt Ngài nhìn dịu hiền;
Trên đỉnh cao xanh, hồn con đắm say
Tung cánh vút bay không chút chậm trì”.
Trong khi dâng mình cho Tình Ái Tuất Chúa, Chị đã kết thúc đoạn nói về lòng Chị yêu mến như sau:
“Chớ chi cuộc tử đạo này sau khi đã chuẩn bị con ra trước Nhan Thánh Chúa, thì làm con được tắt thở và chớ chi hồn con được bay thẳng vào vòng tay Ái Tuất Chúa muôn muôn đời!”.
Chị sống với tư tưởng đó và không bao giờ nghi ngờ rằng không thực hiện được cả. Chị say mê lời sau đây của Thánh Gioan Thánh Giá mà Chị coi như của Chị vậy: “Chúa càng muốn ban cho ta bao nhiêu, thì Ngài càng làm ta ước vọng bấy nhiêu” [39].
Chị đặt nền tảng niềm hy vọng sẽ không phải qua lửa luyện tội trên tinh thần Phó thác và trên Đấng Tình Yêu, đồng thời cũng không quên đức khiêm nhường là nhân đức đặc biệt của tinh thần trẻ thơ. Trẻ em yêu mến cha mẹ và không có một kỳ vọng nào ngoài điều muốn hoàn toàn nơi cha mẹ vì em thấy mình yếu đuối bất lực.
Chị nói với tôi: “Có bao giờ người cha mắng con khi em đã biết thú tội không? Chẳng lẽ ông ra hình phạt ư? Không, nhất định không! Trái lại ông ôm con vào lòng!”.
Dựa trên tư tưởng này, Chị nhắc tôi nhớ câu chuyện chúng tôi đã đọc hồi thơ ấu: Có một vị vua đi săn, Đức Vua rượt bắt con thỏ trắng mới bị bầy chó đánh hơi. Con thỏ thấy mình tới ngày tận số, nên thình lình đổi chiều và nhảy ngay vào trong tay vị đang săn mình. Vị này xúc động vì cử chỉ chứa chan phó thác ấy, nên không muốn xa lìa con thỏ trắng kia nữa, mà dành lấy việc chăm sóc nuôi dưỡng chú thỏ đáng thương đó.
Rồi Chị bảo tôi:
- Chúa sẽ xử với ta như vậy, nếu khi bị phép công thẳng đuổi bắt như bầy chó đuổi bắt chú thỏ, thì ta cũng ẩn trú ngay trong tay Vị Thẩm Phán của ta”.
Tuy Chị đã nhìn thấy những tâm hồn bé nhỏ đi theo Con đường Thơ ấu thiêng liêng, Chị cũng không hề mất hy vọng táo bạo là cả những tội nhân xấu xa cũng theo con đường này nữa.
Vì thế Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã có thể viết trong Bút Ký:
“... Vâng, con tín thác ngay cả khi con thấy mình chất chứa mọi thứ tội lỗi người ta có thể phạm. Lúc đó lòng chan hoà thống hối, con sẽ gieo mình vào cánh tay Chúa Giêsu, vì con biết rõ Chúa rất yêu thương người con phung phí trở về với Người. Không phải vì Chúa nhân lành trong tình thương yêu săn sóc của Ngài, Ngài đã giữ gìn hồn con khỏi tội trọng mà con nâng lòng con lên với Ngài trong tin yêu” [40].
Khi vừa vào Dòng Kín, tôi liền xin phép đọc hạnh các đấng ẩn tu và tôi có ghi được một số đoạn. Có mẩu chuyện làm Têrêsa xúc động tới nỗi Chị tiếc là đã không chép vào Tiểu sử của Chị và Chị nài nỉ xin thêm vào. Câu chuyện như sau:
“Có một thiếu nữ tội lỗi tên là Paésie đã làm gương mù tai hại cho cả vùng. Một vị ẩn tu tên là Jean de Nain tìm gặp nàng và khuyên nàng nên thống hối tội lỗi. Nàng ngỡ ngàng hỏi: Thưa cha, con mà cũng thống hối được sao? Vị thánh trả lời: Còn, cha quả quyết với con là còn! Nàng thưa lại: Vậy xin cha thương dẫn con tới nơi nào thuận tiện để con được thống hối dễ dàng.
Lập tức nàng chỗi dậy theo ngài, không cần ra lệnh gì cho người nhà cũng không cần nói với họ lấy một lời.
Khi cha con vào đến sa mạc thì trời tối, cha Jean lấy cát làm gối, ghi dấu Thánh giá trên đó rồi bảo Paésie tạm ngủ qua đêm. Còn ngài thì đi xa hơn nữa để cầu nguyện rồi cũng nghỉ lấy sức. Nửa đêm ngài thức giấc thì thấy một luồng sáng từ trời chiếu trên mình Paésie làm thành như đường đi cho biết bao nhiêu thiên thần đưa Paésie về trời. Sửng sốt vì thị kiến vừa qua, ngài chỗi dậy tới lấy chân hất Paésie xem nàng còn sống hay chết, và ngài thấy nàng đã về chầu Chúa. Cũng lúc đó ngài nghe thấy một tiếng lạ lùng bảo: Lòng thống hối đền tội nàng làm trong một giờ còn đẹp lòng Chúa hơn là kẻ khác làm lâu dài, vì họ không làm với lòng sốt sắng đầy nhiệt tâm như nàng” [41].
Rất nhiều lần Chị Têrêsa lưu ý tôi rằng chỉ một số rất ít việc cũng đủ đền trả phép công bình Chúa khi người ta làm chỉ vì tình yêu thúc đẩy, và lúc đó thì hình phạt tạm dành cho tội lỗi được giảm chước vì tất cả đều biến thành êm dịu ngọt ngào.
Chị thổ lộ với tôi:
- Em đã có kinh nghiệm sau khi phạm lỗi, dầu là một bất trung nhỏ mọn, thì cũng làm linh hồn phải chịu trong một thời gian một sự khó chịu phiền muộn nào đó. Lúc ấy em bảo mình: ‘Con gái cưng của ta, đấy là hậu quả lỗi lầm con đó’ và em nhẫn nại chịu đựng để món nợ bé nhỏ được đền trả ngay.
Nhưng trong niềm cậy trông này, Chị thấy chỉ những kẻ khiêm nhường và phó thác trong yêu mến mới đền trả thoả đáng phép công thẳng Chúa. Với những linh hồn này, Chị thấy họ không phải xuống Luyện Ngục vì Chị nghĩ rằng Cha trên trời sẽ đền bù tính phó thác của họ bằng cách ban cho họ ơn soi sáng trong giờ nguy tử, làm họ thấy những khốn nạn của mình mà sinh lòng ăn năn thống hối trọn vẹn, do đó mọi nợ nần đều được xoá bỏ hết.
Về đầu trangCác vị thần bí thường tập sống trọn lành để đi tới tình yêu, trái lại Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu lại lấy ngay tình yêu làm con đường trọn lành.
Tình yêu là đối tượng trong cả đời sống, là động lực trong mọi hành động của Chị.
“Các vị đại thánh đã hành động để làm vinh danh Chúa, còn em vì là một linh hồn bé mọn nên em làm việc để vui lòng Chúa, để thoả mãn những ‘sở thích’ của Chúa và em sẽ sung sướng được chịu những đau khổ lớn lao nhất, dầu giả như Chúa không biết tới cũng vậy. Chịu đau khổ như thế không phải để đem lại cho Chúa một vinh quang chóng qua, (thường vinh quang đó sẽ đẹp lắm!) mà chỉ cầu để Chúa sẽ nở nụ cười tươi trên môi... Nhiều người muốn mình là kẻ hữu ích! Còn em, điều em mơ ước là được trở nên một đồ chơi vô dụng trong tay Chúa Giêsu bé thơ... Em, em là ‘trò giải trí mau qua’ của Giêsu bé thơ...”.
Trong khi đau yếu, Chị đã thổ lộ với tôi:
- Em luôn chỉ ước mong một điều là làm vui lòng Chúa. Nếu em chỉ tìm cách thu tích công nghiệp thì tới ngày Chúa đến em sẽ phải thất vọng mất.
Đúng như vậy, vì Chị hiểu rằng, “mọi sự công chính của chúng ta đều còn tì ố trước nhan Chúa” [42]. Nên với lòng khiêm tốn Chị kể công việc mình làm không có một giá trị gì và Chị quan tâm đến lòng yêu mến đã thúc đẩy Chị làm việc.
Chị nói: “Chúa đã chịu cực đủ rồi. Ngài tha thiết yêu chúng ta mà buộc lòng phải để chúng ta nơi trần thế này để chúng ta hoàn tất thời gian thử luyện, nên chúng ta đừng nói hoài với Chúa rằng mình phải cực khổ nữa, không nên làm ra vẻ nhận thấy điều đó”.
Khi Chị toát mồ hôi vì trời nóng hay chịu lạnh buốt trong mùa đông, Chị có tư tưởng tuyệt hảo này là chỉ lau mặt và chỉ xoa tay “một cách vụng trộm như thể để Chúa không đủ thời giờ nhìn thấy...”.
Khi làm việc hãm mình theo Luật dòng dạy cũng vậy: “Em cố gắng tươi cười lúc đó để Chúa như thể mắc lừa vì nét mặt tươi vui, mà không nhận ra em đang đau đớn”.
Với giọng ngây thơ Chị nói: “Khi lên trời nếu em không được mọi điều em ước muốn, em sẽ rất cẩn thận kẻo Chúa biết và Người sẽ không nhận ra được là em ‘thất vọng’”.
Vui mừng vì không có lấy một tâm tình tế nhị
- “Chị thật tế nhị với Chúa! Còn em, em muốn quá mà không có!... Lòng em ước ao như vậy có bù đắp lại được phần nào không?
- Dĩ nhiên có chứ, nhất là khi chị đón nhận với lòng khiêm tốn. Ngay cả khi chị vui vẻ vì mình thiếu như thế, thì chị lại còn làm đẹp lòng Chúa Giêsu hơn là khi chị có tâm hồn tế nhị. Lúc đó chị hãy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì con không có chút tế nhị nào cả và con sung sướng thấy người khác có được tư cách đó... Lạy Chúa, mọi việc Chúa làm đều cho con tràn ngập tươi vui” [43].
Ngọn lửa tình yêu nơi Chị luôn tinh tuyền và mãnh liệt như vậy là vì Chị luôn thận trọng để không dính bén tạo vật và chỉ nuôi dưỡng tình yêu bằng hy sinh thôi. Có lần chúng tôi ở trong thư viện, Chị nói với dáng điệu vui vẻ thường ngày: “Ồ! Em sẽ buồn biết bao nếu em đã đọc hết những cuốn sách này!”.
- Tại sao vậy, vì nếu đọc thì mình được thêm kiến thức kia mà. Có hối tiếc vì phải đọc chứ sao lại vì đã đọc?
- Này nhé, nếu em đã đọc thì em đến điên đầu lên mất và em sẽ bị phí một thời gian quý báu, thời gian em dùng để chỉ yêu mến Chúa thôi”.
Tôi bảo Chị rằng Chúa đòi hỏi tôi nhiều hơn chị em khác, chẳng hạn chị này chị nọ có này có nọ mà tôi thì không. Chị trả lời:
- “Chúa đòi thế nào thì em luôn bằng lòng thế đó, em không băn khoăn gì tới việc Chúa đòi người khác, và em cũng không cho rằng mình có nhiều công hơn kẻ khác vì Chúa đòi hỏi nơi em nhiều hơn. Điều làm em vui sướng và nếu em được chọn lựa, thì đó là chỉ làm như Chúa muốn em làm. Em luôn thấy phần Chúa dành cho em thật đẹp đẽ... ngay cả việc người khác có nhiều công nghiệp trong khi chỉ phải ban phát ít, thì em cũng vốn thích có công nghiệp mà lại được ban phát nhiều, vì như vậy thì em sẽ làm trọn thánh ý Chúa”.
Tôi bảo Chị thật sung sướng được “ra đi với Chúa”, nên Chị trả lời:
- “Em ước ao được ra đi không phải để tìm sung sướng chút nào cả. Đau khổ còn hấp dẫn, làm em thích nó hơn là lên trời nữa kia! Em ước mong giờ chết là vì như vậy chắc chắn làm trọn thánh ý Chúa, nếu không thì em thà sống chịu đau khổ như tử đạo còn hơn!”.
Tuy buồn phiền vì các hội dòng bị bách hại, nhưng mắt Chị sáng lên khi nghĩ rằng chúng tôi có thể phải đổ máu mình ra. Chị có những lời lẽ hết sức hăng nồng chứng tỏ lòng Chị yêu mến mãnh liệt.
Trong những ngày bệnh sau hết, tôi thấy Chị kêu lên:
- Tôi mà sẽ chết trên giường êm ấm ư? Ước chi tôi được ngã gục trên hí trường!
Bàn thờ do ông Martin công đức
Khi cha tôi công đức bàn thờ chính cho nhà thờ Chánh Toà Saint Pierre ở Lisieux thì có một số người trong gia đình không bằng lòng, vì cho là một tặng vật quan trọng vượt quá sức cha tôi, có thể để con cái thiếu thốn [44]. Têrêsa sung sướng về việc này, Chị nói: “Sau khi cha đã dâng tất cả chúng mình cho Chúa thì dĩ nhiên cha phải dâng thêm bàn thờ để tế hiến chúng mình và tế hiến luôn chính cha nữa chứ!”.
Tôi tâm sự với em tôi rằng trong Giờ Kinh Nhật Tụng tôi coi mình như vãi hoa dâng tiến Chúa. Khi luân phiên đọc Thánh Vịnh, tôi thấy cả một trận mưa hoa!
Hoa thay đổi theo từng Thánh Vịnh. Khi thì hoa huệ, lúc lại hoa hồng. Tất cả các loại hoa tự nhiên xuất hiện trong trí tôi đều như diễn qua trong lời kinh. Cuối cùng vườn hết hoa! Chỉ còn loại hoa những cây ăn trái, tôi do dự một chút rồi đưa tay hái hoa đào, hoa anh đào, hoa mơ... và cuối cùng giờ kinh nhật tụng thì không còn sót lại cánh hoa nào cả.
Ý nghĩ hái cả hoa những cây ăn trái làm Têrêsa thích thú. Chị lưu ý tôi rằng đặc điểm của tình yêu là hy sinh tất cả, là trao tặng không tiếc tay, là không còn nghĩ tới hoa sắp thành trái, là hành động như điên dại, vung vãi cùng độ và không bao giờ tính toán.
Chị nói: “Không quản gì với tình yêu, say lên vì yêu. Ôi sung sướng! Tình yêu ban phát tất cả và tín thác! Nhưng thường chúng ta chỉ ban tặng sau khi đã tính toán, chúng ta do dự trong việc hy sinh lợi ích trần thế cũng như tinh thần! Tình yêu thì không như thế! Yêu là mù quáng, yêu là ngọn thác không để lại một vật gì trên dòng nước cuốn!”.
Chỉ tin cậy vào duy có tình yêu
Lần khác tôi bảo chị:
- Điều em ước ao ở Chị là công việc Chị làm. Em cũng muốn làm những công việc hữu ích, muốn sáng tác những điều giúp yêu mến Chúa!
- Không được để trí lòng vào những cái đó. Chị nghe em đi, viết những sách đạo đức, sáng tác những lời kinh kỳ diệu, tạo nên những công trình nghệ thuật... Ồ! Không, trước sự bất lực của chị em mình, chúng ta phải lấy công việc của các người khác để dâng lên Chúa, đó là điều lợi ích do việc các thánh cùng thông công, và bất lực đó, thay vì gây buồn rầu, thì chúng ta phải tin cậy vào duy có tình yêu thôi.
Tauler đã nói: “Nếu tôi quý mến sự thiện hảo nơi tha nhân hơn chính họ quý mến, thì sự thiện hảo đó thuộc về tôi hơn là thuộc về họ. Nếu tôi yêu quý nơi thánh Phaolô mọi ân huệ Chúa đã ban cho Ngài thì tất cả những ân huệ đó thuộc về tôi cũng như đã thuộc về Ngài vậy. Nhờ hiệp thông như thế, tôi có thể trở nên sung mãn bằng tất cả những thiện hảo trên trời cũng như dưới đất, những thiện hảo nơi các thiên thần, các thánh cũng như nơi mọi kẻ mến yêu Chúa”.
Các vị tiến sĩ dạy rằng ở trên trời tình yêu rằng buộc các thánh đến nỗi mỗi vị hưởng hạnh phúc của các vị khác như thể chính mình có công và chính mình được vui nếm hạnh phúc đó vậy [45].
Chị cũng sẽ làm được mọi việc lành như em và còn hơn thế nữa, nhờ điểm này là chị ước ao làm việc lành đó và nhờ chị biết chu toàn công việc bé nhỏ âm thầm nhất vì yêu mến. Chẳng hạn như chị vui lòng giúp đỡ một việc làm chị phải cố gắng rất nhiều.
Chị biết rõ là em nghèo hèn lắm, nhưng Chúa nhân lành ban cho em lần hồi mọi điều em cần thiết”.
Chỉ có tình yêu và đức vâng lời là đáng kể
Mùa đông năm 1896-1897, Mẹ Bề trên (Mẹ Marie de Gonzague) không muốn để Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu phải lạnh giá bàn chân, nên đã truyền Chị dùng một loại lò sưởi bằng than để đôi dép Chị đi luôn ấp áp [46]. Nhưng Chị chỉ dùng lò sưởi vì vâng lời và dùng khi thật cần thiết rồi để lò tắt ngấm khi cho là trời không lạnh lắm! Lò tắt như vậy không vừa ý tôi chút nào hết!
“Người khác sẽ trình diện trên trời với những dụng cụ hành xác, còn em, em sẽ trình diện với chiếc lò sưởi. Nhưng chị ạ, chỉ có tình yêu và đức vâng lời là đáng kể”.
Chị Têrêsa thuật lại với chúng tôi: “Em đọc chuyện một vị lãnh chúa nọ muốn xây cất một thánh đường. Ông ra chiếu chỉ lệnh cho các chư hầu không được lạc quyên chi cả vì ông muốn chỉ mình ông được vinh dự đó thôi và nhà thờ đã được xây cất theo ý ông.
Ngày kia có một bà già thấy đoàn ngựa kéo đá phải khó nhọc lắm mới lên được trên đồi, nên tự nhủ: đã có lệnh cấm dâng cúng tiền bạc để xây cất đền thờ Chúa, tuy vậy tôi cũng sung sướng được góp phần vào việc này, không hiểu nếu tôi giúp đỡ những con vật đang làm việc một cách vô tri như thế kia thì có làm vui lòng Chúa không nhỉ? Túi chỉ còn lại mấy đồng, bà dùng cả số tiền mua một bó cỏ cho ngựa ăn.
Khi xây cất xong, vị lãnh chúa muốn cử hành lễ cung hiến và truyền đặt bia khắc tên ông cùng với gia đình để muôn đời làm chứng lòng hào hiệp của ông. Nhưng hôm sau tên ông bị xoá đi và người ta thay thế vào đó tên một người đàn bà không ai biết.
Vị lãnh chúa nổi giận truyền sửa lại nhiều lần, nhưng sự kiện lạ lùng kia vẫn tái diễn hoài. Sau cùng, ông lệnh cho truy tầm mụ. Khi thấy người đàn bà nghèo hèn, ông tra hỏi xem bà có góp chút chi vào việc xây cất thánh đường không. Run rẩy sợ hãi, bà chối dài. Nhưng bị hỏi dồn dập mãi, bà mới nhớ ra bó cỏ khô lúc trước và nói rằng vì có lệnh cấm nên bà không dâng cúng tiền của mà chỉ giúp đỡ bầy ngựa bằng cách cho chúng ăn ít cỏ thôi. Lúc đó người ta mới hiểu tại sao tên bà được khắc vào bia và không còn ai dám xoá bỏ tên bà nữa”.
Têrêsa kết luận:
- Chị em thấy rõ là một việc nhỏ bé âm thầm đến đâu chăng nữa, nếu làm vì yêu mến thì luôn có giá trị hơn những công trình vĩ đại. Điều đáng kể không phải là công việc có giá trị hay bề ngoài có vẻ thánh thiện, mà chỉ hệ tại làm vì yêu mến nhiều hay ít. Do đó không ai có thể bảo mình không dâng lên Chúa những việc bé nhỏ như vậy được, vì nó vừa sức mọi người.
“Chị nên ghi nhớ câu thơ sau đây trong Nhã Ca tinh thần của Cha Thánh Gioan Thánh Giá”:
Trở lại đây bồ câu ta hỡi
Này chàng nai mình mang thương tích
Đang vươn lên tiến ra đỉnh đồi
Vì chàng ngây ngất dáng nàng bay
Và nhịp cánh khiến chàng tươi say [47].
Chị thấy chưa, vị Lang Quân là Chàng nai mình mang thương tích không ngây ngất vì chiều cao tức là vì những công việc rực rỡ, mà chỉ say mê vì dáng bay và chỉ một nhịp cánh - tức là một hành động vì bác ái chân thật - thì đã đủ tạo nên làn gió tình yêu này rồi”.
Lễ vật dâng lên tình yêu dung thứ
Trong lúc chầu Mình Thánh 40 giờ liền - hôm thứ ba 26-2-1895 - Têrêsa đã sáng tác một mạch bài ca “Sống Tình Yêu” của Chị (Vivre d’Amour).
Đến Chúa nhật 9-6 năm đó là lễ kính Chúa Ba Ngôi, trong thánh lễ Chị được thần cảm dâng mình làm hiến tế đền tạ Tình Yêu Dung Thứ của Chúa, để nhờ thế chị nhận được vào lòng mình tất cả Tình Yêu Chúa muốn đổ tràn trên các thụ tạo nhưng họ đã chối từ.
Vừa lễ xong, lòng thổn thức Chị kéo tôi theo Chị, làm tôi không hiểu vì lý do gì. Ngay sau đó chúng tôi gặp Mẹ Bề trên (Mẹ Agnès de Jésus) đang đi về phía phòng khách. Têrêsa hơi lúng túng trong khi trình bày. Chị ấp úng xin được cùng tôi tận hiến cho Tình Yêu Dung Thứ. Tôi không biết rõ Chị có nói tiếng: “Lễ vật hy sinh” (victime) hay không. Xem ra điều đó không quan trọng, nên Mẹ Bề trên đã trả lời: được.
Khi chỉ còn lại riêng Têrêsa và tôi, mắt sáng như lửa, Chị cắt nghĩa cho tôi hiểu Chị muốn làm gì. Chị bảo sẽ viết ra các điều Chị suy nghĩ và sáng tác một kinh Tận Hiến.
Hai ngày sau, chúng tôi quỳ trước tượng Đức Trinh Nữ Làm Phép Lạ Mỉm Cười, lúc đó tượng này đặt ở cạnh phòng Chị. Chị đã đọc kinh Tận Hiến thay cho hai chúng tôi. Hôm đó là thứ ba 11-6.
Sau này Chị Têrêsa trao bản kinh cho chị Marie du Sacré Coeur và chị Marie de la Trinité [48]. Chị đã nói tới việc này trong cuốn Bút Ký [49]. Chị mời tất cả mọi tâm hồn bé nhỏ tham dự vào việc tận hiến này.
Thật ra theo ý Chị thì đây không phải là dâng mình để chịu thêm những đau khổ quá bổn phận mình, nhưng là phó thác với lòng tin cậy hoàn toàn nơi lượng Từ Bi Chúa.
Chị Marie du Sacré Coeur là chị Cả trong gia đình chúng tôi, lúc đầu không bằng lòng dâng mình theo kinh Tận Hiến đó, vì chị không muốn tự chuốc lấy những thử thách thái quá.
Về chuyện này, chị Y tá của Chị ghi lại, những hàng chưa được công bố, trong cuốn sổ riêng như sau:
“Hôm nay mồng 6 tháng 6 năm 1934, tôi nói với chị Marie du Sacré Coeur về kinh Tận Hiến cho Tình Yêu Dung Thứ. Chị cho tôi hay là lúc phơi cỏ khô ngoài sân, khi ấy Chị Têrêsa đang ở bên cạnh chị và đã hỏi xem chị có bằng lòng dâng mình làm lễ vật tận hiến cho Tình Yêu Dung Thứ không. Chị đã trả lời Têrêsa: Dĩ nhiên là không. Chị không dâng mình làm lễ vật hy sinh đâu. Chúa sẽ nhận lời và chị khiếp sợ đau khổ lắm. Ngay cả tiếng “Lễ vật hy sinh” (victime) chị cũng không ưa chút nào cả”.
Têrêsa nhỏ đáp lại là Chị biết như vậy lắm, nhưng dâng mình làm lễ vật hy sinh cho Tình Yêu không giống như việc dâng mình phạt tạ phép Công Thẳng Chúa. Chị bảo dâng mình như vậy cũng không phải chịu đau khổ gì hơn, song để yêu mến nhiều hơn hầu đền bù thay cho những kẻ không muốn yêu Chúa.
Chị Marie du Sacré Coeur còn tiếp: “Têrêsa trở nên nói năng linh hoạt tới nỗi tôi thuận theo em và không ân hận chút nào về việc mình làm cả”.
Có điểm đáng chú ý là về sau chị Marie du Sacré Coeur đã cổ võ để tất cả những bạn hữu cũng như những người chị có dịp giao dịch đọc kinh dâng mình đó. Theo như tôi biết thì chỉ có một người từ chối lời Chị mời thôi.
Chính trong lúc thì thầm nhắc lại từng tiếng bản kinh Tận Hiến này mà chị Marie du Sacré Coeur tắt thở hồi 2 giờ 20 phút ngày 19 tháng 1 năm 1940.
Ở đây tôi cũng xin ghi thêm lời một chị bạn Nhà tập tâm sự với tôi, là chị Marie de la Trinité:
“Đến ngày 30-11-1895, Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu mới cho em biết việc Chị tận hiến như lễ vật toàn thiêu cho Tình Yêu Dung Thứ. Em liền tỏ ý muốn được theo Chị và việc em dâng mình được ấn định vào ngày hôm sau.
Khi một mình suy nghĩ về sự bất xứng, em thấy cần phải chuẩn bị lâu dài hơn vì đây là một việc thật hệ trọng. Em tìm gặp Chị Têrêsa bày tỏ lý do khiến em muốn hoãn việc dâng mình lại.
Niềm vui sướng hiện rõ trên nét mặt, Chị trả lời:
- Đúng thế, việc này thật hệ trọng tới nỗi chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nhưng chị có biết điều Chúa xin chúng ta chuẩn bị là gì không? Một điều này thôi là khiêm nhường nhận mình bất xứng, và vì Chúa ban cho chị ơn đó, thì chị cũng hãy gieo mình vào lòng Người không chút sợ hãi. Ngày mai sau khi cám ơn Rước lễ, em sẽ quỳ bên chị trong phòng đặt Mình Thánh Chúa, và trong khi chị đọc kinh dâng mình, thì em sẽ dang chị lên Chúa Giêsu như một lễ vật tận hiến bé nhỏ em đã dọn sẵn cho Ngài”.
Nếu Chị Têrêsa nghĩ việc tận hiến cho Tình Yêu này mang lại cho chúng tôi nhiều đau khổ phụ trội thì Chị đã không hăng say khích lệ chúng tôi như thế. Trái lại, Chị đã xác định rõ là cử chỉ tận hiến đó khác hẳn với công việc tận hiến cho Phép Công Bình Chúa: “Ta không phải sợ hãi gì hết khi tận hiến cho Tình Yêu Dung Thứ, vì ta chỉ nhờ nhận lãnh lòng bao dung phát ra từ Tình Yêu đó mà thôi”.
Chị nhấn mạnh rằng việc tận hiến này không đòi điều gì khác ngoài thiện chí và lòng quảng đại.
“Thiện chí và lòng quảng đại” được nâng đỡ bằng ơn thánh ban cho trong chính giây phút hiện tại. Việc tận hiến cho Tình Yêu làm cho ơn hiện sủng thêm sung mãn và càng tận hiến toàn diện bao nhiêu thì ơn Chúa phù trợ càng mau lẹ và hữu hiệu bấy nhiêu.
Chị nói với tôi nhân một đồ chơi thông dụng chúng tôi thường vui chơi hồi thơ ấu. Đó là chiếc ống kính ngũ sắc, thuộc loại ống dài, người ta nhìn thấy những màu sắc kỳ thú ở đầu ống đằng kia. Nếu xoay ống, thì màu sắc và hình thể sẽ biến đổi vô tận.
Chị bảo tôi: “Thật đáng thán phục! Em tự hỏi không hiểu tại sao có được những cảnh đẹp đẽ như thế? Rồi một hôm quan sát cẩn thận, em nhận ra đó chỉ là mấy mẩu giấy và mấy sợi len vất ngổn ngang không có hình dáng nhất định nào cả. Tiếp tục tìm tòi và em thấy có ba tấm gương ở bên trong ống. Em đã nắm được chìa khoá của vấn đề.
Đối với em, đây là hình ảnh của một huyền nhiệm vĩ đại. Bao lâu công việc ta làm dầu bé nhỏ đến đâu đi nữa, nếu không ra ngoài trung tâm Tình Yêu, là Chúa Ba Ngôi, ở đây được coi như ba tấm gương hội tụ thì bấy lâu sẽ được phản chiếu và có vẻ đẹp huy hoàng.
Đúng thế, bao lâu lòng chúng ta còn yêu mến, không bị tách ra ngoài trung tâm, thì bấy lâu mọi sự đều tốt đẹp [50] và như thánh Gioan Thánh Giá nói: ‘Tình yêu biết lợi dụng mọi sự nơi tôi, dù việc tốt lành cũng như xấu xa và biến đổi mọi sự trở nên tình yêu’ [51]. Chúa nhân từ nhìn xem chúng ta qua cặp kính, nghĩa là qua chính Chúa và Ngài thấy những cọng rơm đáng thương nơi ta cũng như những việc thật vô nghĩa ta làm đều trở nên tốt đẹp, nhưng để được vậy thì điều cần là không lìa xa trung tâm cặp kính! Vì nếu xa trung tâm thì Ngài sẽ nhìn rõ đó chỉ là những vụn len và những mẩu giấy ti tiểu”.
Em đánh bài ở ngân hàng tình yêu
Chị hay nói với tôi là Chị không muốn thành người “bốn mùa bán rong”, vì nghề này không kiếm được lời lớn mà phải bòn nhặt từng xu. “Tuy vậy vốn có những tâm hồn kiếm từng xu như vậy, họ đòi để được trả từ từ. Còn em, em đánh bài ở ngân hàng Tình Yêu... Em đánh bài ăn lớn. Nếu có thua, thì rồi sau này em cũng sẽ được biết. Em không quan tâm gì tới việc chi tiêu tiền riêng cả, vì chính Chúa Giêsu làm việc đó cho em nên em cũng không biết mình giàu hay nghèo nữa. Sau này em sẽ biết”.
Có lần tay cầm Thánh Thư của thánh Phaolô, Chị gọi tôi và nói giọng hăng say: “Chị nghe đây, Thánh Tông đồ đã nói: không phải với cái gì hữu hình rờ được mà anh em đã tiếp xúc (bằng tình yêu) cũng không phải với lửa rực cháy hay với lời nói thét gầm... Trái lại anh em đã tiến đến núi Sion và thành của Thiên Chúa hằng sống, Giêrusalem trên trời, giữa vạn vạn thiên thần và giữa cộng đoàn trưởng tử... vì Thiên Chúa chúng ta là ngọn lửa thiêu huỷ [52]. Rồi Chị cảm động giải nghĩa cho tôi những tiếng cuối cùng trong đoạn trên.
Em bảo tôi:
- Điều làm đổ tràn ơn thánh xuống ta là lòng biết ơn. Vì nếu ta cám ơn Chúa vì một ơn lành Ngài ban, thì Ngài sẽ động lòng và mau lẹ ban cho ta mười ơn khác, và nếu ta tiếp tục cám ơn với lòng hăng say như vậy, thì biết bao nhiêu ơn sẽ tuôn tràn xuống trên ta! Em đã có kinh nghiệm về chuyện này. Chị hãy thử đi và chị sẽ thấy đúng như thế. Em tri ân Chúa vô cùng vì mọi sự Chúa ban cho em và em biểu lộ lòng biết ơn ra bằng hằng trăm hằng ngàn cách thế khác nhau.
Chị tỏ ra biết ơn ngay cả với những việc rất nhỏ bé, nhất là Chị biết ơn đối với những vị thừa tác viên của Chúa mà Chị đã có dịp được bàn hỏi việc linh hồn.
Không được nghi ngờ Chúa nhân lành
Tôi than van vì hình như Chúa ruồng bỏ tôi... Chị Têrêsa hăng hái bảo: “Ồ, chị đừng nói thế! Chị nhìn thấy em chứ, ngay cả khi em không hiểu chút nào về những biến cố xảy ra, em vẫn tươi cười, vẫn cám ơn, em luôn tỏ ra bằng lòng với Chúa nhân từ. Không được nghi ngờ Ngài, vì như thế là thiếu tế nhị. Không, không bao giờ ta thán phản đối sự quan phòng cả. Phải luôn biết ơn”.
Khi vào Dòng Kín, tôi có cảm tưởng là mình đã cho Chúa Giêsu rất nhiều nên tôi xin em Têrêsa sáng tác cho tôi một bài thơ theo điệu “Hãy nhớ” (Rappelle-toi) để nhắc nhở Chúa Giêsu tất cả những gì gia đình tôi đã phải chịu. Chị vui vẻ nhận lời và coi như dịp tốt để cho tôi một bài học. Trong nhiều triệt thơ, Chị gợi lại không phải những điều tôi làm cho Chúa Giêsu mà là những điều Chúa Giêsu đã làm cho tôi.
Bấy giờ tôi mới nghĩ tới dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế: tránh sao khỏi cảnh tôi bắt chước người biệt phái, khoe khoang là đã trả thuế thập phân đối với của cải ông có?...
Têrêsa muốn dạy tôi phải biết hoàn toàn quên mình để sống trong tình yêu và trong tác động của ơn thánh.
“Điều quan trọng đối với chúng ta
là phải kết hợp với Chúa”
Có hôm tôi bừng bừng bất mãn vì thấy có những Nhà Dòng bằng lòng nhận những luật lệ bất công với chính họ. Tôi nói:
- Thật em sẽ khổ biết bao nếu em phải thuộc về một trong những nhà Dòng đó. A, về việc này, em thấy tất cả bầu nhiệt huyết bừng sôi! Thà chịu phanh thây ra còn hơn là để họ lấy một củ cà rốt!
Chị trả lời tôi:
- Điều đó không quan trọng đối với chúng tôi, em sẽ suy nghĩ và hành động như chị nếu em có trách nhiệm. Nhưng em đã không được trao phó công việc đó! ‘Điều cần chú trọng là ta phải kết hợp với Chúa!’. Ngay cả khi chúng ta thuộc về một nhà Dòng bị báo chí đưa ra những tấm gương hèn nhát, thì chúng ta cũng không được bận tâm chi cả.
Không vội vã không không ươn lười
Chị cố gắng để tôi thắng được tính vội vã trong khi làm việc, lòng quá ham muốn cho công việc được hoàn hảo, cũng như thắng được tính buồn rầu khi công việc không kết quả như mình mong muốn. Tóm lại là làm sao để tôi lướt thắng được những lo lắng khi làm việc.
Chị bảo tôi: “Chị vào đây không phải để bù đầu với hằng mớ công việc cũng như làm việc không phải là để được thành công. Lúc này chị có bận tâm về những việc hiện đang xảy ra trong các nhà Kín khác hay không? Các nữ tu có vội vã hay không? Công việc họ làm có ngăn trở chị cầu nguyện hay suy niệm không? Cũng vậy, chị phải tách mình ra khỏi công việc chị làm và tận dụng thời giờ cho mỗi công việc, nhưng cần giữ lòng thanh thoát.
Hồi trước em có đọc rằng người Do Thái một tay xây thành Giêrusalem, một tay cầm gươm [53]. Đó chính là hình ảnh chúng ta phải thực hiện: Chỉ làm việc một tay, còn tay kia dùng để bảo vệ tâm hồn khỏi bị phân tán, vì phân tán ngăn cản ta liên kết với Chúa”.
Tôi biết Chị không nói như vậy với ai có tính cầu nhàn, vì Chị không thể chịu được cách làm việc uể oải, gặp sao hay thế, miệng lại lẩm bẩm: Nếu điều đó tốt, nếu tôi đã làm xong thì càng hay, mà nếu nó dở, tôi chưa hoàn thành, cũng chẳng sao. Chị muốn chúng tôi phải chú ý vào công việc nhưng đừng thái quá, vì sẽ ngăn cản việc ở trước nhan Chúa, cũng như đừng lãnh đạm quá vì cũng có hại cho việc kết hợp với Chúa.
Chị thêm: “Khi tâm hồn yêu mến thì sẽ hành động với tình yêu, nghĩa là với tinh thần hăng say; tâm hồn đó sẽ chạy, sẽ bay, sẽ không thấy có điểm nào là bất khả hết, là không có chi bắt tâm hồn đó đứng dừng lại được” [54].
Thái độ của Chị ở Ca triều là thái độ thật khiêm nhu và hồi tâm, làm mẫu mực cho tôi tới nỗi tôi đã hỏi xem Chị suy tưởng gì trong giờ kinh Nhật Tụng [55].
Chị trả lời là: “Chị không có phương pháp nào nhất định, nhưng Chị hay hình dung ra như Chị đang một mình ở một miền núi đá hoang vắng, trước mặt là cả một miền bao la. Ở đó chỉ có mình Chị và với Giêsu, tuy chân còn đặt trên đất, nhưng Chị đã quên tất cả mọi tạo vật và Chị nói với Chúa tâm tình mến yêu của mình bằng những lời lẽ tuy Chị không hiểu, nhưng làm Chúa Giêsu vui lòng. Thế là đủ”.
Chị thích được là xướng viên trong tuần [56], để được đọc lớn tiếng các lời nguyện như linh mục trong thánh lễ vậy.
Trên giường hấp hối Chị đã tự làm chứng: “Em tưởng không thể ước muốn đọc kinh Nhật Tụng sốt sắng hơn được nữa, và cũng không làm sao để tránh sai lỗi hơn được nữa”.
Từ khi Chị xin các “công dân hạnh phúc trên Nước Trời nhận Chị làm con” thì Chị bảo tôi rằng mỗi sáng Chị kính cẩn và đầy lòng mộ mến nghe đọc sổ Các Thánh (Martyrologe), Chị sung sướng được nghe tới tên các “vị bà con rất yêu quý”.
Chị khuyên tôi không nên pha trò hay nói điều gì làm bận tâm bất cứ chị em nào liền trước giờ kinh Nhật Tụng để tránh cho chị em lo ra. Hãy đợi đến sau hãy nói. Chính Chị đã giữ điều này rất cẩn thận.
Cả đời Chị sống hoàn toàn bằng Đức tin. Không có tâm hồn nào lại ít được an ủi trong giờ kinh nguyện như Chị. Chị thổ lộ với tôi là Chị trải qua 7 năm suy nguyện thật khô khan: Những cuộc cấm phòng năm cũng như cấm phòng tháng là cực hình cho Chị. Tuy thế, người ta cứ tưởng Chị được tràn ngập an ủi tinh thần! Vì Chị luôn sống kết hợp với Chúa nên mọi lời Chị nói, mọi việc Chị làm đều thấm nhuần tình yêu Chúa.
Tuy phải sống trong khô khan như vậy, Chị chỉ biết kiên tâm hơn trong việc suy nguyện và nhờ đó “Chị sung sướng dâng hiến lên Chúa nhân hiền nhiều hơn”. Chị không chịu được cảnh “ăn cắp” giờ suy nguyện, dầu một khoảnh khắc cũng không! Và Chị đã huấn luyện chị em Nhà tập theo đường lối đó.
Có lần nhà Dòng phải giặt giũ vào cả giờ suy nguyện. Chị Têrêsa thấy tôi hăng hái làm việc nên hỏi: “Chị làm gì đó?”.
- Em giặt giũ!
- Được lắm, nhưng chị phải âm thầm cầu nguyện, vì đây là giờ của Chúa, ta không được lấy của Ngài.
Têrêsa kết hợp với Chúa cách thật đơn giản và tự nhiên cũng như cách Chị nói về Ngài vậy.
Chẳng hạn khi tôi hỏi Chị xem có lần nào Chị thấy mình không hiện diện trước nhan Chúa không, thì Chị giản dị trả lời:
- Ồ không! Em tưởng không bao giờ ba phút trôi qua mà em không nghĩ tới Chúa nhân lành.
Tôi tỏ ra bỡ ngỡ sao có thể làm được như vậy, thì Chị tiếp:
- Người ta tự nhiên nghĩ tới kẻ người ta yêu mến!
Phúc Âm và một số đoạn trong Cựu Ước mà Nhà Dòng cho nữ tu đọc: đó là những đề tài Chị dùng để suy nguyện. Nhất là về cuối đời, không một cuốn sách nào dầu ngay cả cuốn trước đây giúp ích cho Chị rất nhiều thì nay cũng không gây được xúc cảm nơi tâm hồn Chị nữa.
Trong số những tác phẩm này, Chị ưa thích đặc biệt bài diễn văn của Bossuet về “Đời sống ẩn dật với Chúa”. Ngay khi tôi vừa vào Dòng Chị đã khuyên tôi đọc bài đó.
Ngày Chị bắt đầu cuộc sống tu trì, lúc đó tôi còn ở ngoài đời, Chị đã khuyên tôi mua sách của Đức Cha Ségur nói về “những cao cả nơi Chúa Giêsu”. Nhưng nếu Chị suy niệm về “những cao cả” nơi Chúa Giêsu, thì điều Chị say mến tìm hiểu lại là nhận biết về “cái bé mọn của mình”, đến nỗi Chị thú nhận mình “quý chuộng ánh sáng chiếu giãi cho biết thân phận hư vô của mình hơn là ánh sáng giúp cho hiểu biết đức tin”.
Thời kỳ này cũng như mãi về sau, Chị đặc biệt thích thưởng thức những tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá.
Khi tôi cùng Chị sống trong nhà Dòng, tôi được chứng kiến lòng ngưỡng mộ đó: Có lần cùng đứng trước tấm đồ biểu do Cha Thánh hoạ trong cuốn: “Trèo lên đỉnh Carmel” Chị dừng lại và lưu ý tôi hàng sau đây do Cha Thánh viết: “Nơi đây không còn đường lối nữa, vì đối với người công chính thì không có luật lệ nào cả”. (Ici, il n’y a plus de chemin, parce qui’il n’y a pas de loi pour le juste).
Lúc đó Chị cảm động quá không còn đủ hơi sức để diễn tả niềm sung sướng dâng lên tràn ngập tâm hồn. Lời trên đây nâng đỡ Chị rất nhiều trong việc tự mình khám phá ra tình yêu tinh ròng, điều mà nhiều người tố cáo là tự mãn. Để tới đích tình yêu, Chị táo bạo tìm ra một đường lối hoàn toàn mới, là con đường Thơ Ấu Thiêng Liêng, một con đường thẳng và ngắn để tới ngay được Cung Lòng Thiên Chúa.
Tôi tin rằng tất cả việc suy nguyện của Chị chỉ hướng vào một tìm tòi duy nhất là “khoa học tình yêu” thôi.
Chị hiểu biết những sự việc liên quan tới Chúa ở một cao độ. Nhờ được trí nhớ dẻo dai nên Chị dễ dàng ghi nhận những điều Chị đọc hay nghe nói. Chị còn biết áp dụng đúng lúc những nhận xét chính xác và cả những giai thoại nhỏ mọn nữa. Đặc biệt là Chị hấp thụ được những đoạn Kinh Thánh cách mau lẹ và chắc chắn trong Kinh Thánh, là kho tàng thật quý giá đối với Chị khi đã vào Dòng. Chị khám phá ra ý nghĩa ẩn tàng trong đó và biết áp dụng một cách thật lạ lùng.
Tôi chép khá nhiều đoạn trong Cựu Ước [57], và tôi đưa cho Chị dùng. Những đoạn này biến thành món ăn bổ ích trong các giờ Chị suy nguyện.
Chị tìm hiểu Chúa để như khám phá ra “đặc tính của Chúa”. Và để được như ý thì không gì bằng nghiên cứu Sách Thánh, nhất là Phúc Âm. Bởi vậy Chị đã than phiền vì các bản dịch có những chỗ khác nhau [58].
Chị bảo tôi: “Nếu em là linh mục thì thế nào em cũng học tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp để có thể đọc Lời Chúa cách trung thành, như Chúa đã thường diễn tả bằng tiếng nói nhân loại”.
Chị mang sách Phúc Âm đêm ngày trên ngực và chú ý tìm những bản Phúc Âm xuất bản từng tập để đóng lại và để cho chúng tôi cũng được cái sung sướng như Chị.
Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu mộ mến Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Chị ước ao cho ngày lễ này được nâng lên bậc trọng hơn.
Khi tôi còn ở ngoài đời, Chị định gọi tôi là Marie Thiên Chúa Ba Ngôi (Marie de la Trinité) trước khi chọn cho tôi tên Marie Nhan Thánh (Marie de la Sainte Face) mà tôi đã mang mấy tháng khi mới vào Dòng. Nhưng một chị Nhà tập khác đã được mang tên đó (tức là tên Marie Thiên Chúa Ba Ngôi) và Têrêsa rất lấy làm an ủi.
Chính trong ngày kính lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi, hôm 9-6-1895, Chị đã được cảm hứng dâng mình làm hiến tế đền tạ Tình Yêu Dung Thứ của Chúa [59].
Ngày kia tôi vào phòng Chị và thật ngỡ ngàng trước thái độ Chị chăm chú hồi tâm. Chị may và nhanh nhẹn mà vẫn như chìm đắm trong cuộc chiêm ngắm sâu xa:
- Chị suy nghĩ gì đó?
- Em suy niệm kinh Lạy Cha! Thật êm ái biết bao khi được gọi Chúa là Cha chúng tôi!
Có những giọt nước mắt long lanh trên đôi mi Chị.
Chị yêu mến Chúa như một em bé âu yếm cha mình với trăm ngàn cử chỉ thương yêu không thể tưởng tượng được.
Trong thời gian Chị bệnh, Chị thường dùng một tiếng khác để gọi Chúa, đó là tiếng “Ba” (Papa). Chúng tôi bật lên cười, nhưng Chị nói giọng cảm động:
- Ồ đúng thế! Ngài đúng là “Ba em” và em thấy êm dịu khi dùng tiếng “Ba” để gọi Ngài.
Chúa Giêsu là tất cả trong tâm hồn Chị. Khi viết về Chúa Giêsu Kitô, Chị luôn viết tiếng “Ngài” (Lui, II) bằng chữ hoa để tỏ lòng cung kính bản vị đáng tôn thờ.
Chị hỏi tôi:
- Trong khi cầu nguyện với Chúa Giêsu, chị thích gọi Ngài bằng “tu” hay bằng “vous?” [60].
Tôi trả lời là thích dùng tiếng “tu” hơn. Chị nói tiếp giọng đầy an ủi:
- Em cũng thế, em thích gọi Chúa Giêsu là “Tu”, tiếng này diễn tả đầy đủ hơn lòng em yêu Chúa, và bao giờ em cũng dùng tiếng này khi một mình thưa chuyện với Chúa, nhưng trong các bài thơ em sáng tác và trong những kinh có cả người khác đọc, em không dám dùng tiếng này.
Đối với Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu thì lòng ái mộ này là cứu cánh và là sự triển nở trọn hảo của tình yêu Chị đối với Nhân Tính Chúa Giêsu. Nhan Thánh Chúa chính là tấm gương trong đó Chị nhìn thấy Linh Hồn và Tấm lòng của Đấng Chị yêu mến, là nơi Chị chiêm ngắm toàn thể Chúa Giêsu. Cũng vì thế mà tấm hình chỉ có nguyên khuôn mặt của người yêu cũng đủ làm ta thấy người đó hiện diện rồi.
Có thể nói được lòng ái mộ Nhan Thánh Chúa đã hướng dẫn đời sống thiêng liêng Chị. Nếu ta muốn có một kỷ niệm chính đáng về những tâm tình đạo đức nơi Chị, thì ta phải nhận rằng lòng sùng kính Nhan Thánh vượt trên các tâm tình đạo đức khác, lý do vì sự sùng kính này gồm tóm các sự sùng kính khác.
Chính trong khi chiêm ngắm khuôn mặt đầy thương tích Chúa, trong lúc suy niệm những tủi hổ Ngài chịu mà Chị đã rút được bài học khiêm nhường, mến yêu đau khổ, quảng đại hy sinh, nhiệt tâm với các linh hồn, siêu thoát thụ tạo, cũng như các nhân đức tích cực mạnh mẽ và hùng cường như chúng ta đã thấy Chị thực hành. Vô tình Chị đã tuân theo lời Thầy Chí Thánh dạy thánh nữ Giêtruđê để nên hoàn thiện:
“Tâm hồn nào muốn tiến bước trên đường hoàn thiện thì hãy phóng mình vào lòng Cha. Nhưng nếu họ còn cao vọng bay bổng hơn nữa và muốn tiến tới tuyệt đỉnh ước mong, thì hãy tung bay tới độ nhanh như phượng hoàng, hãy lượn quanh Nhan Thánh Cha, hãy như thiên thần Séraphim được nâng đỡ trên đôi cánh Đức ái quảng đại”.
Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sống như vậy và việc bay bổng này đưa tới hiệu quả là Tình yêu trinh trong như thiên thần đã phát sinh những tác động quảng đại tới bậc anh hùng.
Chị dẫn giải cho chị em Nhà tập biết rằng Nhan Thánh Chúa Giêsu như một pho sách, trong đó Chị múc được khoa học tình yêu, được nghệ thuật nhân đức...
Chị ghi ở bên Nhan Thánh trong tấm huy hiệu của Chị lời châm ngôn này: “Tình yêu chỉ đáp trả được bằng tình yêu” (L’amour ne se paie que par l’amour). Trong thư từ, bút ký cũng như thi văn Chị sáng tác luôn thấm đượm tình yêu đối với Nhan Thánh Chúa.
Tôi thâm tín rằng “người em nhỏ yêu quý” đó đã gợi hứng để tôi dự tính vẽ lại Nhan Thánh theo bức khăn thành Turin. Và tôi đã đạt được kết quả 7 năm sau khi Chị lìa trần, tức là năm 1904.
Thánh lễ và yến tiệc Thánh Thể làm Chị được chan hoà hạnh phúc. Không khi nào định làm việc gì quan trọng mà Chị không xin dâng Lễ theo ý đó. Mỗi lần mợ chúng tôi cho Chị tiền vào những ngày lễ và ngày giáp năm, Chị luôn xin phép Bề trên để xin Lễ, và đôi khi thì thầm với tôi: “Em xin Lễ cho ‘con em’ đó (Pranxini) [61], lúc này nó rất cần em giúp đỡ!”.
Trước khi khấn, Chị dùng số tiền còn lại lúc ngoài đời gồm 100 phật lăng để xin Lễ cho Cha già chúng tôi, lúc đó đang bệnh nặng. Chị cho rằng không việc nào đem lại nhiều ơn ích cho người bằng Máu Thánh Chúa Giêsu đổ ra.
Chị rất ước ao được rước lễ hằng ngày, nhưng thói quen hồi đó không cho phép, và đây là một trong những đau khổ lớn lao nhất Chị phải chịu trong nhà Dòng. Chị cầu xin với Thánh Cả Giuse để thay đổi được thói quen này. Sắc lệnh của Đức Lêô XIII cho dễ dãi hơn trong việc này và Chị coi đây như lời đáp trả cho những nguyện xin nồng nàn của Chị [62]. Chị tỏ ra luôn biết ơn Thánh Cả tới nỗi khi đi ngang qua tượng Ngài đặt ngoài vườn, Chị sốt mến ngắt hoa tung kính Ngài.
Chị nói trước rằng sau khi Chị qua đời, chúng tôi sẽ không thiếu bánh ăn hằng ngày, và đã xảy ra hoàn toàn đúng như thế [63].
Lòng mộ mến phép Thánh Thể đã làm Chị chu toàn bổn phận giữ phòng thánh với tất cả tinh thần hăng say. Chị vui sướng tới cùng độ khi trên đĩa thánh hay khăn thánh còn sót lại chút vụn Bánh Thánh. Có lần bình đựng Mình Thánh lau chưa cẩn thận đủ, nên Chị gọi khá nhiều chị em Nhà tập đến để theo Chị ra nhà nguyện và Chị đặt bình đựng Mình Thánh ở đây với lòng vui sướng và cung kính khôn tả.
Chị thuật lại cho tôi nghe nỗi vui sướng của Chị khi có một lần trong giờ rước lễ, vị linh mục làm rơi Mình Thánh và Chị đưa áo Dòng ra đón lấy. Chị coi mình được đặc ân như Đức Trinh Nữ vậy, vì Chị cũng đã mang Chúa Giêsu Bé Thơ trên cánh tay.
Chị bảo khi sửa soạn các Bình Thánh để cử hành Thánh lễ, Chị thích được soi mình trong chén và đĩa thánh, Chị thấy như vàng đã phản chiếu hình bóng Chị và như vậy là Bánh Thánh đã an nghỉ trên người Chị.
Chị cảm động biết bao khi sáng tác và vẽ bức bích hoạ đặt quanh Nhà Tạm trong nhà nguyện! Đây quả thực là công trình do đức vâng lời tạo nên, vì Chị chỉ biết sơ sài về thuật hội hoạ [64], lại vừa không phải người có thiên tài, vừa phải leo lên thang mới vẽ được, cộng thêm là thiếu ánh sáng tới nỗi một nhà danh hoạ cũng khó thành công. Thế mà Chị đã hoàn thành cách khả quan! Các thiên thần tí hon Chị vẽ có vẻ thơ ngây vừa gợi cảnh thiên đàng.
Tinh thần đức tin làm Chị hết lòng tôn kính các linh mục. Tôn kính vì các ngài đã được lãnh nhận thánh chức tư tế và không thể còn phẩm tước nào đáng quý trọng hơn.
Khi còn sống, rất nhiều lần chị tỏ ra hối tiếc vì không thể làm linh mục. Vào tháng 6 năm 1897, cảm thấy mình quá ốm yếu, Chị bảo tôi:
- Chúa sắp cất em về khi em chưa đủ tuổi làm linh mục nếu em có thể.
Chị say mê về việc thánh nữ Barbe đã mang Mình Thánh Chúa cho thánh Stanislsa Kostka. Chị nói với tôi:
- Tại sao không phải một thiên thần hay một linh mục, mà lại một trinh nữ! Ồ! Chỉ ở trên trời chúng ta mới thấy rõ những sự việc lạ lùng! Em có ý nghĩ là khi tại thế, ai có lòng ước ao thì trên trời cũng sẽ được hưởng những đặc ân của chức linh mục.
Những cánh hoa
dâng kính tượng Chúa Giêsu Bé Thơ
Chị Têrêsa lấy làm sung sướng được cử trang hoàng tượng Chúa Giêsu Bé Thơ đặt trong Nhà Dòng và Chị đã cẩn thận chu toàn nhiệm vụ đó. Chị sơn tượng màu hồng và luôn trang hoàng bằng những hoa màu sắc tươi vui, có những con chim nhỏ nhồi bằng rơm, màu lông óng ánh ở bên tượng.
Vào mùa hạ, từ trưa đến một giờ là thời gian im lặng và tự do nên thay vì nằm nghỉ, Chị đã dành một phần để trang hoàng Chúa Giêsu Nhỏ của Chị. Nhưng trong Dòng vào mùa này lại hiếm hoa! Thật là cực lòng cho một người có tâm hồn như Chị mà lại khép mình trong Dòng ngay từ 15 tuổi không thể tung tăng ngoài đồng nội để kiếm lấy một cánh hoa mao lượng! Nhưng Chúa Giêsu đã tự cung cấp hoa cho Chị. Chị thuật lại cho tôi mẩu chuyện sau đây:
Mùa hạ đầu tiên khi Chị vào Dòng Kín, Chị tự bảo: “Từ nay tôi không bao giờ được ngắm những bông hoa đồng nữa: nào cúc vàng, cúc trắng, nào hoa mào gà, nào lúa kiều mạch, lúa mì bát ngát!..., và thực sự Chị nôn nao buồn, đúng lúc ấy nữ tu giữ cửa trao cho Mẹ Bề trên một bó hoa đồng tuyệt đẹp, gồm các thứ hoa Têrêsa mơ ước. Chị ở Dòng ngoài thấy bó hoa đặt trên cửa sổ phòng Chị mà không hiểu từ đâu mang tới. Mẹ Bề trên tuy không hay biết gì nỗi khổ tâm của Têrêsa cũng đã trao cho Chị để trang hoàng tượng Chúa Giêsu Bé Thơ.
Từ ngày đó, không bao giờ Chị thiếu hoa đồng cả.
Những bông hồng cho tượng Chịu Nạn
Chị rất mến việc tung hoa kính tượng Chúa Kitô đặt ở giữa sân. Sau này khi Chị bị bệnh, Chị lấy hoa hồng phủ đầy lên tượng Chịu Nạn, cẩn thận vứt bỏ những cánh hoa úa héo [65]. Có lần tôi thấy Chị lấy đầu ngón tay vuốt nhẹ trên mão gai và đinh tượng Chịu Nạn, tôi hỏi: “Chị làm gì đó?”. Một chút ngỡ ngàng vì bị thấy quả tang, Chị thú: “Em tháo đinh và cất mão gai đi cho Chúa”.
Chị không muốn tỏ lòng yêu mến thọ tạo nào bằng cách tung hoa tặng họ cả. Ngày kia tôi trao cho Chị những bông hồng và xin Chị ném tặng ai tuỳ ý để tỏ lòng yêu quý, nhưng Chị từ chối.
Tượng Đức Nữ Trinh Mỉm Cười ban cho Chị ơn khỏi bệnh cách lạ chính là nguồn an ủi tâm thần Chị: khi tôi vào Dòng, thì người ta cũng mang tượng này theo. Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu ra tận cửa tu viện để nhận tượng. Chị đã nhanh nhẹn bồng lấy, siết chặt với tâm tình yêu mến và mang tượng cách nhẹ nhàng như cầm một cán lông, tuy tượng rất nặng [66]. Các chị em có mặt ở đó đều bỡ ngỡ và thán phục!
Từ đó nhiều lần tôi thấy chị quỳ dưới chân tượng cầu nguyện với thái độ thật sốt sắng. Trong cơn bệnh sau cùng, người ta đặt tượng đối diện với giường Chị nằm. Chị không ngớt hướng nhìn về phía tượng.
Chị Têrêsa thích tặng ảnh Đức Trinh Nữ, loại ảnh đeo mà Chị rất tin tưởng ở hiệu lực của việc tôn sùng này. Khi còn ở ngoài đời, Chị đã lấy ảnh đó đeo trên ngực hai em nghèo Chị nhận dạy dỗ và Chị cũng thuyết phục một người đàn bà không tin tưởng gì hết để bà mang mẩu ảnh Chị tặng bà.
Từ ngày Rước lễ lần đầu, Chị quyết định đọc hằng ngày kinh “Hãy Nhớ”, và Chị đã trung thành giữ cả đời quyết định đó. Sau này ở Buissonnets, Chị lần chuỗi hằng ngày. Nhưng những việc bên ngoài này chỉ là hình ảnh mờ nhạt tình Mẹ con khăng khít mà Chị gọi Đức Mẹ là “Má” (Maman).
Chị cho rằng những cuộc hối cải cần qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ và Chị dâng mọi ý chỉ của mình cho Người. Có một chiều vào khoảng ba giờ, tôi thấy Chị cầu nguyện và hỏi xem Chị cầu nguyện gì, Chị trả lời: “Em đọc kinh Kính Mừng để dâng việc làm lên Đức Nữ Trinh. Em có thói quen như vậy khi bắt đầu công việc”.
Chị bảo chúng tôi mang tràng hạt vào cổ mà ngủ đêm.
Chị Têrêsa sáng tác bài ca “Hỡi Maria, sao con yêu Mẹ?”. Khi Chị đã bệnh trầm trọng, Chị đặt tất cả tâm hồn trong bài ca đó. Lúc này như tôi còn nghe thấy Chị bảo tôi là: Chị muốn trước khi chết được diễn tả tâm tình của Chị đối với Đức Nữ Trinh trong một bài thơ.
Khi đọc tiên tri Isaia
Đề tài bác ái đối với Chị Thánh thật là dồi dào bất tận. Chị cảm thông cho tôi biết ánh sáng Chị đã được do đọc đoạn sách sau đây của tiên tri Isaia:
“Chay tịnh mà Ta đòi hỏi có phải ở tại việc con người chịu cực lòng trong một ngày, ở việc mặc áo vải thô và bỏ tro trên mình hay không? Chúng ta có gọi đó là chay tịnh, là ngày làm đẹp lòng Chúa không? Chay tịnh mà Ta công nhận không hơn chạy tịnh vừa nói đó sao? Các ngươi hãy bẻ gãy xiềng xích tội ác đi, hãy bỏ gánh đang chất nặng trên vai kẻ khốn nạn xuống. Hãy giải phóng kẻ bị áp bức, và đập tan tất cả những gì bất công đối với kẻ khác. Các ngươi hãy phân chia bánh cho kẻ đói ăn, hãy dẫn kẻ nghèo khổ vào trú ngụ trong nhà các ngươi vì họ không biết đi đâu. Thấy ai trần truồng hãy cho họ mặc, đừng khinh dể chính thân xác các ngươi”.
Chị lấy từng đoạn trên và cắt nghĩa cho tôi hiểu cặn kẽ: cần phải thực hành đức bác ái đối với các tâm hồn nhiều hơn là đối với các thân xác:
“Khắp nơi đều có những người nghèo khổ, những tâm hồn yếu đuối bệnh hoạn, bị đè nén... Nhưng chao ôi! Xin chị hãy đỡ lấy gánh nặng đè trên vai họ. hãy để họ đi tự do, nghĩa là: Khi có ai nói với chị về khuyết điểm của kẻ khác, xin chị đừng thêm bớt mắm muối gì vào. Đôi khi không tiện nói ngược lại, thì chị hãy khôn khéo đưa những nhân đức họ ra để có thế quân bình. Hãy để những ai bị đè nén được tự do ra đi. Hãy bẻ gẫy những xiềng xích trói buộc kẻ khác. Hãy chia cơm bánh cho kẻ đói ăn, nghĩa là ban phát chính mình cho họ. Dẫn dắt họ vào nhà, trang trải nợ nần thay họ, làm phúc của cải: là hy sinh sự yên thân, sự nghỉ ngơi cho những ai không biết trú ngụ nơi nào, cho những kẻ nghèo khổ cùng cực”.
Và Chị tiếp tục trích dẫn:
“Lúc đó ánh sáng ngươi sẽ rạng chiếu như bình minh. Sức mạnh ngươi sẽ bình phục. Sự công chính ngươi sẽ dẫn dắt ngươi. Vinh quang Chúa sẽ bảo vệ ngươi. Lúc đó ngươi kêu cầu Danh Chúa và Ngài sẽ đáp tiếng ngươi: Này Cha đây. Nếu ngươi không giương tay, không nói lời xúc phạm, nếu ngươi biết giúp đỡ người nghèo, biết cảm thông hoàn cảnh khốn nạn của họ, nếu ngươi biết an ủi những tâm hồn đau khổ, ánh sáng sẽ chiếu soi vào vùng tăm tối và làm cho sự tăm tối của ngươi trở nên sáng chói như chính ngọ, Thiên Chúa sẽ mãi mãi ban cho ngươi niềm an nghỉ, Ngài sẽ làm tâm hồn ngươi tràn đầy ánh quang rực rỡ, làm sống lại những xương tàn của ngươi đã khô héo, ngươi sẽ như khu vườn đẹp được vun tưới và như mạch suối mát không bao giờ khô cạn [67]. Trên hoang địa của muôn thế kỷ, nhà cửa sẽ mọc lên như nấm. Ngươi sẽ dựng lại những nền móng đổ nát bao năm hoang phế. Người ta sẽ nói với ngươi rằng hãy sửa lại những tường thành và nắn ngay lại những đường nẻo cong queo”.
Chị tiếp tục giải nghĩa:
“Chị vừa nghe về phần thưởng sẽ được: Nếu ngươi đừng nói những lời thiếu bác ái, nếu ngươi bẻ gẫy xiềng xích trói buộc các linh hồn bị tù đày bằng cách đối xử dịu dàng thân thiện với họ; nếu chị giúp đỡ những linh hồn đáng thương, bị bỏ rơi với niềm thông cảm chân thành, nghĩa là với tất cả tâm hồn lòng mến vô vị lợi, nếu chị biết an ủi những kẻ đau khổ, thì sức khoẻ tinh thần ngươi sẽ bình phục, tâm hồn chị sẽ không còn khô héo. Sự công chính của chị sẽ dẫn dắt chị. Nhưng để hữu ích, những công việc này phải được thực hiện cách kín đáo, không khoe khoang, vì đó là đặc tính của công phúc đức, giống như cây hoa tím khiêm nhượng toả hương thoang thoảng mà các tạo vật khác không hay biết mùi thơm đó từ đâu bay tới: vinh quang Chúa sẽ che chở ngươi, không phải vinh quang riêng của chị, nhưng là sự vinh quang của Chúa.
“Thiên Chúa sẽ nhận lời ngươi, sẽ cho ngươi được an nghỉ. Ánh sáng sẽ chiếu soi ngươi trong u tối cuộc đời. Sự tối tăm nơi ngươi sẽ trở nên chiếu sáng như chính ngọ. Nhưng không phải là tăm tối đó sẽ tan biến, vì thử thách còn đang sẵn sàng chờ đợi các linh hồn. Nhưng tăm tối của chị sẽ trở nên sáng láng... Và chị sẽ được an bình trong vui sướng. Ánh quang huy luôn chiếu sáng chị giữa đêm tâm thần tăm tối. Người sẽ trở nên một khu vườn xanh tươi, luôn được vun tưới như dòng suối chảy không bao giờ cạn; ở nơi mạch suối đó tất cả mọi tâm hồn, mọi tạo vật đều đến kín múc và sẽ không làm hư hỏng đục dòng.
“Nhưng chưa hết đâu! Xin chị chú ý đến phần thưởng cuối cùng này: Những toà nhà tráng lệ nguy nga sẽ mọc lên như nấm trên những nơi hoang vu muôn thế kỷ. Các ngươi sẽ dựng lại những nền móng vững chắc. Lời đó nghĩa là gì? Thực thi bác ái và yêu tha nhân thì làm sao tôi có thể dựng nổi cơ đồ? Điều đó không được vì chẳng có liên hệ nào giữa hai thái cực cả?... Dù sao đi nữa, các thiên thần trên trời nói về chị rằng: Ngươi sửa lại những tường thành và uốn nắn ngay lại những đường nẻo cong queo...”.
Trong khi nói những lời trên đây, Chị long lanh nhìn tôi đầy vẻ hứng khởi... “Ôi mầu nhiệm! Chính nhờ những việc lành nho nhỏ thực hiện trong âm thầm mà chúng ta làm cho các linh hồn ở xa ngàn dặm được ăn năn trở lại... Chúng ta giúp đỡ các nhà truyền giáo cũng bằng cách đó... và khi ngày phán xét tới, có lẽ người ta nói rằng chúng ta đã xây cất những nơi tạm trú cho Chúa Giêsu và sửa soạn đường lối Người...”.
Những việc bái ái Chị Têrêsa làm mà tôi được chứng kiến thì nhiều vô kể và thuộc nhiều loại khác nhau. Thánh Nữ không bỏ lỡ cơ hội nào.
Tỉ dụ như những ngày Chúa nhật hay lễ trọng được thong thả, Chị dùng thời giờ đó để làm vui lòng các chị em. Theo chị em yêu cầu. Têrêsa cảm hứng làm nhiều bài thơ. Không bao giờ Chị từ chối một ai... đến nỗi hầu như Chị chẳng còn thời giờ nào rảnh rỗi dành riêng cho mình. Vì thế Têrêsa không bao giờ để chép lấy một Thánh Vịnh Chị mộ mến, mặc dù Chị rất ước mong được như vậy.
Chị hy sinh không trích những đoạn sách bổ ích Chị đọc vì không có giờ; thấy vậy một tập sinh được tôi cho biết đâu là những đoạn Chị ưa thích, đã chép giúp mà không cho Chị hay.
Nhường chỗ tốt nhất cho người khác
Chị nói với tôi: “Hết giờ chơi chiều đến giờ Kinh Tối, em có thói quen thường để giỏ kim khâu vá trên ghế gần ngay Ca triều. Thật tiện vì các chú nhện không đến giăng màng bên trong như khi đặt giỏ dưới đất. Nhưng chẳng mấy chốc có chị khác đến trước thường cũng để giỏ nơi đó. Em tự nghĩ: Chị em khác cũng thấy nơi đó tiện lợi, vậy em nhường chỗ ấy cho các chị. Điều đó làm cho chị em hài lòng hơn, khi chỗ đó trống các chị được tự do sử dụng; vả lại chỗ đó cao không phải cúi lưng xuống chi cả”.
Có lần Têrêsa muốn khích lệ tôi tập đức bác ái, nên đã kể cho tôi nghe rằng khi còn là thỉnh sinh, Chị thích trang hoàng thật mỹ thuật tượng Chúa Giêsu Hài Đồng ở nhà Dòng. Nhưng Têrêsa không hề dám cắm những hoa thơm, ngay cả thứ hoa tím nho nhỏ cũng vậy, vì mùi thơm làm cho một Mẹ Cựu Bề trên khó chịu.
Khi Mẹ thấy Têrêsa đặt dưới chân tượng một bông hồng đẹp thì gợi định bảo bỏ hoa đi. Chị tiếp: “Đoán rằng Mẹ lầm, em chỉ muốn để chính Mẹ nhận ra mình đã lầm, vì đó chỉ là bông hồng giả. Nhưng Chúa Giêsu đòi em hy sinh cái chiến thắng nho nhỏ đó. Nghĩ thế, nên em dịu dàng cầm bông hồng thưa Mẹ: ‘Mẹ xem, người ta bắt chước khéo quá đi! Những bông hồng giả này trông như thật vậy, có dáng như vừa ngắt trong vườn ra ấy Mẹ nhỉ!’”.
Chị thêm vào: “Ôi chao, chị không thể tưởng tượng nổi thi hành việc bác ái đó đối với em êm đềm dường nào và làm sức mạnh tâm hồn em tăng thêm biết bao!”.
Khi bệnh, Chị bảo tôi để ý quan sát: Chị Stanislas [68] là y tá trưởng, chị luôn cẩn thận lựa những vải thật mềm để Têrêsa đỡ đau mình mẩy. Chị nói: “Trông kìa chúng ta cũng phải chăm sóc các linh hồn như vậy nghe! Người ta thường quên mất điều đó, và còn làm tổn thương tới các linh hồn nữa! Tại sao vậy? Tại sao người ta không chăm sóc yên ủi các tâm hồn với cũng một tình bác ái và tế nhị như với các thân thể này? Thế mà, một số tâm hồn thì bệnh tật, một số lớn hơn thì yếu đuối, và tất cả đều đau khổ! Nên chúng ta phải cư xử với các tâm hồn ấy cách thật dịu hiền thương mến!”.
Cây đậu Hoà Lan và cây đậu tằm
Khi có chị em nào sai lỗi mà làm người khác khó chịu, Têrêsa lại càng tỏ ra đáng mến hơn, sẵn sàng giúp đỡ hơn, đối xử êm ái dịu dàng hơn để làm dịu con tim tha nhân đang đau khổ. Lòng tốt của Chị được biểu lộ qua cách đối xử lịch thiệp, dịu dàng khi có ai làm phiền Chị. Một hôm Chị cắt nghĩa cho tôi hiểu lý do tại sao:
“Ôi, thật Chúa xót thương các linh hồn khuyết điểm biết bao! Em thấy ngay ở thiên nhiên những thí dụ cụ thể về lòng thương xót đó. Chị hãy trông những cây đậu Hoà Lan nhỏ bé kia, chúng được cấu tạo bởi toàn chất đường, vỏ mỏng. Dù vậy, ánh nắng mặt trời thiêu đốt, giá lạnh đêm trường như cắt thịt nó cũng chẳng hề chi. Chúng là biểu hiệu của những tâm hồn hoàn thiện. Còn những câu đậu tằm lớn, lại tượng trưng cho những tâm hồn khuyết điểm, vì chúng phải có đến hai lần vỏ che chở. Chúng ta phải hành động theo gương Chúa, hãy đối xử săn sóc các linh hồn bất toàn cách rất tinh vi và vô cùng tế nhị”.
Thăm viếng Chúa Giêsu và Mẹ Maria
Thấy tôi ra vẻ tư lự, Chị nói:
- Chị ạ, tư lự về bản thân chỉ làm kiệt quệ tâm hồn, chị nên sốt sắng thực hành những việc bác ái.
Và Chị nhấn mạnh:
- Đôi khi người ta rất đồi tệ nếu tự khép kín để suy nghĩ vẩn vơ một mình. Đồi tệ tới mức phải gấp rút ra khỏi tình trạng đó ngay. Chúa nhân lành không bắt ta cứ sống buồn tẻ với mình mãi đâu. Trái lại, thường lúc đó Chúa để ta thấy chán ngán để ta từ bỏ tình trạng trái tâm lý đó đi. Trong những lúc như vậy, em không còn thấy cách nào tốt hơn là đi tìm gặp Chúa và Mẹ Maria bằng cách làm những việc bác ái.
Tôi thổ lộ với Chị là tôi đang bị phiền muộn dày vò; để làm tôi thêm can đảm bằng cách chứng tỏ Chị không phải là người vô cảm xúc, Têrêsa kể rằng một tối kia trong giờ “yên lặng” [70] Chị được sai đi sửa soạn một đèn nhỏ đặt ở ngoài cho sáng. Dầu, bấc không có gì sẵn sàng cả! Trong khi đó thì ai nấy đã lui về phòng mình, cửa đóng then cài.
Chị bảo:
- Em phải chiến đấu ghê gớm. Em lẩm bẩm phản đối nào cảnh nào người! Em buồn vì mấy chị ở Nhà Ngoài bắt em làm vào giờ nghỉ trong khi các chị ấy có thể tự làm lấy cách dễ dàng! [71].
“Nhưng bất chợt ánh sáng loé lên trong tâm hồn, em tưởng như mình đang phục vụ gia đình Thánh Gia ở Nazareth. Em đang sửa soạn đèn dầu cho chính Chúa Giêsu Bé Thơ. Lúc đó em đặt hết cả tình yêu lòng mến vào công việc. Em bước đi nhẹ nhàng lòng đầy phấn khởi. Từ đó, em luôn luôn dùng phương thế này, một phương thế làm em được kết quả lạ lùng”.
Săn sóc bệnh nhân - kiên nhẫn và chịu đựng
Phòng bệnh là nơi tôi được cắt đặt làm việc ngay khi vào Dòng, nhưng hồi đó không có bệnh nhân nào đau yếu nặng cả. Tuy thế những người thiếu sức khoẻ thì nhiều. Trong số đó có một người mắc chứng não bần huyết kinh niên, chị lại có tính tình thất thường nữa, điều này làm cho ai giữ nhiệm vụ y tá cũng phải luôn luôn kiên nhẫn. Bệnh nhân này sống theo nguyên tắc “cần phải thử luyện các chị em nhà tập rất nhiều”. Vì thế, có lần tôi ở ngay tận đầu nhà đằng kia, chị bấm chuông gọi bảo: “Chị ơi! Tôi nhận ngay ra bước chân chị hay của chị kia”.
Lần khác, không thể cầm được nước mắt, tôi tới bên Têrêsa. Chị đón tôi cách niềm nở dịu dàng và yên ủi khích lệ để tôi thêm can đảm. Lúc này đây tôi còn thấy rõ trong tâm trí hình ảnh Chị ngồi bên tôi, trên một cái rương gỗ và siết chặt tôi trong cánh tay Chị.
Nhưng rồi tôi lại phải trở về với công việc và phải chiến đấu không ngừng. Đã nhiều lần tôi đi vòng để tránh khỏi phải qua cửa sổ phòng bệnh, vì nếu Mẹ đó thấy tôi đi gần, thế nào cũng ra hiệu bảo tôi làm thêm công việc gì đó. Có lẽ để tránh mặt Mẹ, tôi cúi đầu đi thật nhanh mà lòng dâng lên niềm cay đắng.
Têrêsa hiểu rõ hoàn cảnh tôi và sẵn sàng tha thứ cho tôi. Có lần Chị bảo tôi:
“Chị phải cố ý đi qua phòng bệnh để người ta có dịp nhờ vả chị, và khi chị thực sự mắc công chuyện không thể dừng lại để giúp đỡ thì chị hãy dịu dàng từ chối và cần hứa sẽ trở lại, đồng thời tỏ vẻ niềm nở như chính chị được người ta giúp đỡ vậy.
Chuông phòng bệnh đối với chị phải là khúc nhạc trời tuyệt diệu. Khi người ta bấm chuông gọi chị... đó là điều tốt nên vui mừng. Chị cần ước mong điều đó thực sự trong lòng. Ôi chị xem: nghĩ tưởng những điều đẹp đẽ và thánh thiện, viết sách, đọc hay viết truyện các thánh đi nữa cũng không có giá trị bằng thực thi một việc bác ái vì lòng mến Chúa, cũng chẳng hơn việc đáp lại tiếng chuông phòng bệnh, tuy dầu có làm phiền ta đôi chút.
Khi người ta xin chị giúp đỡ việc gì hay chị có bổn phận phải chu toàn đối với bệnh nhân mà chị không ưa, thì chị nên coi mình như một tên nô lệ ti tiện mà mọi người đều có quyền sai khiến. Chị đừng phàn nàn, vì chị chỉ là tên nô lệ thôi!
- Phải, nhưng chị thấy nhiều lần người ta gọi em để không sai làm gì cả, lúc đó em thấy bực tức lắm!
- Em biết điều đó đối với chị thật khó chịu, nhưng chị thấy không, các thiên thần đang nhìn ngắm chị trên bãi chiến trường đợi cuộc chiến kết liễu là quàng lên chị triều thiên vòng hoa chiến thắng như xưa người ta vẫn quen tặng các hiệp sĩ hào hùng. Chúng ta muốn là những vị tử đạo nhỏ bé, chính chúng ta phải chiếm lấy cành thiên tuế! Chúng ta lầm tưởng mà cho rằng các cuộc chiến đấu đó không có giá trị: ‘Người có tâm hồn kiên nhẫn chịu đựng thì có giá trị hơn kẻ có thân xác khoẻ mạnh. Kẻ chế ngự được tâm hồn thì có giá trị hơn kẻ đoạt thành chiếm luỹ’ [72].
Với em, nếu còn sống thì việc coi giữ nhà kẻ liệt chắc sẽ làm em thích thú. Em không muốn xin việc này vì sợ có vẻ tự phụ. Nhưng nếu được trao phó, thì em cho đây là một đặc ân. Ôi, phải! Em sẽ hạnh phúc lắm nếu người ta sai em làm việc này. Đó là điều giá trị đáng kể khi em nghĩ tới lời Chúa phán: ‘Ta đau yếu và các ngươi đã săn sóc’” [73].
Chị nhắn nhủ tôi rất nhiều về việc phải săn sóc các bệnh nhân với tình yêu mến. Làm việc này không như các việc thường khác, mà phải làm với tất cả sự cẩn thận tế nhị như là người ta làm việc đó cho chính Chúa vậy.
Tuy thế, sau ngày làm việc vất vả tối đến giờ nghỉ, hay sau giờ Kinh Mai mà phải đi giúp đỡ chị em nào, tôi thấy khó chịu lắm. Tôi phàn nàn thì Chị liền bảo:
“Bây giờ chính chị là người mang những chén nước nhỏ này cho những người bên phải bên trái, nhưng ngày kia ở trên trời, chính Chúa Giêsu sẽ đến để phục vụ chị” [74].
Chị nói rằng: Tôi muốn đối xử tử tế với ai tử tế, nhu mì với ai nhu mì. Nhưng ngay khi có ai làm chị trái ý, thì chị đã mất hết bình tĩnh rồi: Như vậy thì có khác gì những dân ngoại mà Phúc Âm đã nói tới? Ta phải đối xử ngược lại: Các con hãy làm điều thiện cho kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho kẻ bách hại các con [75]. Tử tế với người làm lành cho ta, đó là khôn ngoan theo loài người, chẳng phải khôn ngoan của Thiên Chúa.
Tôi luôn ước rằng những chi tiết đời tôi khuôn rập nhau như một trò chơi kiên nhẫn. Vô phước cho ai tới quấy rầy! Nếu có hoàn cảnh bất ngờ nào xảy tới làm xáo trộn cuộc sống, tôi liền tỏ vẻ không hài lòng.
Một hôm trong những ngày bệnh cuối đời em tôi, tôi muốn dành cả buổi chiều để làm xong một việc như dự tính. Nhưng bất ngờ tôi phải ra phòng khách! Tôi bảo em tôi:
- Chán ghê! Cứ bị quấy rầy mãi, nếu không thì đã xong việc từ lâu!...
Têrêsa nhìn tôi:
- Khi giờ chết tới, chị sẽ ước mong trước đây được người ta quấy rầy biết bao nhiêu!
Tôi định dành một ngày hoàn toàn yên lặng để dự buổi cấm phòng tháng. Nhưng đó là cả vấn đề nan giải.
Làm sao tìm ra một Chúa nhật không bận việc gì do bổn phận hay nguyên nhân nào khác! Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu bảo tôi:
“Chị muốn tĩnh tâm để được tự do hơn, để mình chị thư thái! Còn em, em tĩnh tâm do lòng trung thành để tận hiến một ngày hoàn hảo hơn cho Chúa... Nếu hôm nào em cần phải viết lách nhiều: để tâm hồn được thanh thoát, thì em luôn giữ tâm trạng là sẵn sàng để cho ai muốn tới quấy rầy gì cũng được. Em tự nhủ: ‘Thời giờ tự do này tôi sẵn sàng để người khác nhờ vả. Tôi muốn thế! Nhưng tiên vàn nếu tôi được ở yên, tôi sẽ cảm tạ Chúa như một ơn tôi được lúc không ngờ’. Và lúc nào em cũng tươi vui sung sướng”.
Thực vậy, tôi nhận thấy hồi Chị còn giữ phòng thánh, trong các ngày nghỉ khi công việc riêng đã xong xuôi, Chị vội vã qua phòng thánh để cho người ta có thể sai bảo. Chị đi ngang qua ngay chỗ chị trưởng phòng thánh để chị này có thể nhờ vả việc này việc nọ. Sự việc đã xảy ra như vậy. Vì biết làm như vậy Chị phải cố gắng lắm, nên tôi ra hiệu cho Chị đừng đi qua lối đó, hơn thế tôi còn giúp Chị một cách thế nữa, nhưng tất cả đều vô ích.
Hy sinh, niềm vui và tình yêu tinh tuyền
Vào những tháng cuối đời người em nhỏ của tôi, tôi thường trì hoãn giờ chơi để nán lại săn sóc em, và tôi không được nhiệt thành trong việc săn sóc các người khác bị bệnh nhẹ hơn. Chị nói với tôi:
“Ở vào địa vị chị, dầu không phải bị buộc thì em sẽ lo liệu hết sức mau chóng các việc để có thể đi chơi hay săn sóc các bệnh nhân khác. Em sẽ cố gắng làm hàng ngày hy sinh và tránh mọi cơ hội gặp gỡ, để mang lại cho chị nhiều ơn thánh hơn. Trong bất cứ công việc gì đừng nên tìm kiếm lợi lộc riêng tư, vì ‘ngay khi người ta tìm kiếm mình, lập tức người ta ngừng yêu mến’ [76]. Trong những ngày cuối đời này, em sống hạnh phúc hơn người ta tưởng nhiều, vì không bao giờ em tìm kiếm gì cho mình cả. Khi hoàn toàn từ bỏ, là lúc người ta được lãnh nhận phần thưởng ngay ở trần gian. Chị thường bảo em chỉ cho chị phương thế tiến tới tình yêu thuần khiết, vậy phương thế đó là quên chính bản thân và đừng tìm kiếm lợi riêng”.
Tôi đã để chảy nước mắt hầu làm cho một chị kia tin rằng tôi đang bị phiền hà lắm. Tuy vậy tôi không quyến luyến gì tới điều đang làm cho tôi hối tiếc cả. Cũng ngày hôm đó, tôi đã bảo vệ quyền lợi của tôi đối với một chị và đồng thời cũng là để bảo vệ công bằng. Thêm vào đó, tôi muốn chứng minh cho chị ấy biết rằng chị đã lầm lẫn. Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu liền bảo tôi:
- Thực ra không có gì đáng trách, nhưng vốn chưa đạt tới sự an bình và những chiếc lông tơ trên quả anh đào đã bị chà rụng hết rồi... Bảo vệ quyền lợi của chị và duy trì công bằng đối với người khác không phải là một lỗi, nhưng với chị thì thật là điều đáng tiếc.
- Nhưng khi quả anh đào đã thối thì đâu còn làm được việc gì?
- Một cái nhìn Tin yêu lên Chúa Giêsu và một tâm tình nhận biết sự khốn nạn của mình sẽ sửa chữa lại tất cả. Tìm kiếm và bảo vệ quyền lợi mình, đó là hành động tác hại linh hồn. Muốn chỉ giáo kẻ khác là hành động không hợp thời, ngay khi chị không lầm lẫn chi cả cũng vậy. Lại nữa, chính chị đâu có được Bề trên giao phó cho nhiệm vụ đó? Chị không được đặt mình làm Án quan hoà giải, chỉ mình Chúa có quyền đó, còn chị, nhiệm vụ của chị chính là làm Thiên sứ hoà bình”.
Chị thường nói với tôi là người ta luôn phải xét đoán tha nhân với tinh thần bác ái, vì rất nhiều trường hợp, cái đối với chúng ta là không đáng kể thì đối với Chúa lại là việc anh hùng.
Một người mệt mỏi nhức đầu, tâm can bị phiền muộn giày dò chỉ làm xong có nửa bổn phận thôi thì cũng làm nhiều hơn người khoẻ cả tâm trí lẫn thân xác tuy người này đã làm trọn tất cả. Ta cần phải quảng đại với người khác trong mọi xét đoán. Luôn phải nghĩ tốt về tha nhân và tha thứ cho họ, ngay cả khi không có điều chi đáng ca ngợi cả ta vẫn còn lý do để tự nhủ rằng: “Con người ấy bề ngoài có vẻ lầm lẫn, nhưng họ không nhận ra điều đó và nếu tôi có được một sự xét đoán chính xác hơn họ, thì đây chính là lý do để tôi thương xót họ hơn, và tôi cần phải khiêm tốn vì đã khắt khe với họ”.
Chị cũng giúp tôi nhận ra rằng thường Chúa để ta mắc phải chính những yếu đuối mà ta khó chịu khi thấy người khác mắc phải, như lãng quên, biếng trễ, không chú ý, mệt nhọc... Đó chính là lúc tự nhiên nhất để ta tha thứ những lỗi lầm kẻ khác rơi vào, vì chính ta cũng rơi vào như họ.
Được chỉ dạy với chứng cớ cụ thể, rõ ràng, cộng thêm kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy các chị em mà tôi cho rằng họ khuyết điểm nhiều, thực ra không phải thế. Rất có thể vì một lý do nào đó, như vì vâng lời chẳng hạn, đã ngăn cản họ làm việc này việc nọ, đối xử thế này thế khác. Vì thế họ phải âm thầm chịu sỉ nhục như vậy.
Bài học rút ra từ những quả lê bề ngoài xấu xí
Khi cùng Chị đi bách bộ trong vườn lúc giờ chơi, Chị chỉ một cây ăn trái và bảo tôi:
“Chị hãy nhìn những quả lê này bề ngoài thật xấu xí, chúng là hình ảnh những chị em mà chúng ta không mấy hài lòng đó. Mùa thu tới, người ta ngắt những quả đó biếu chị... Bó vỏ ăn thử xem, chị sẽ thấy thích thú ghê lắm, không ngờ rằng đây chính là quả trước kia chị đã coi thường. Cũng thế, ngày sau hết chị sẽ ngạc nhiên thấy các chị em khi đã được lột bỏ tất cả khuyết điểm, sẽ là những vị đại thánh”.
Điều lôi cuốn Chị xin tu dòng Kín chính là Chị muốn hy sinh cầu nguyện cho Giáo Hội, cho các linh mục... Chị muốn rằng cuộc sống phải được dâng hiến trọn vẹn để thánh hoá các thừa tác viên của Chúa. Chị bảo “cầu nguyện cho các linh mục là ‘cuộc kinh doanh’ lớn, vì lời kinh sẽ từ đầu não chuyển xuống các chi thể”.
Ước mong các linh mục thánh thiện và do đó các tội nhân được ơn hoán cải chính là nguyên động lực đời sống Chị. Ở Nhà tập, Chị dạy chúng tôi một kinh khá dài cầu cho các linh mục mà Chị không nhớ ai là tác giả [77]. Hầu như tất cả các thư từ Chị viết cho tôi khi tôi còn ở ngoài đời đều quy về mục đích này: Cầu nguyện cho các linh mục, và đó là mục đích chung của hai chúng tôi [78].
NHIỆT TÂM ĐỐI VỚI CÁC LINH HỒN
Tháng Sáu 1896 tôi chụp hình Chị để gởi cho Mẹ Bề trên (Mẹ Marie de Gonzague) nhân dịp mừng lễ Mẹ ngày 21 tháng 6. Chị muốn được chụp lúc đang cầm cuộn giấy có viết những lời sau đây của Mẹ Thánh Têrêsa chúng tôi: “Con muốn dâng hiến ngàn cuộc sống để cứu rỗi một linh hồn cũng được” [79].
Ngày hành hương sang Rôma, Têrêsa mới có 14 tuổi. Trong lúc đọc cuốn Biên niên sử của các Nữ tu Truyền giáo, Chị ngừng lại bảo tôi: “Em không muốn đọc nữa chị ạ! Em đã nuôi sẵn ước vọng mãnh liệt trở nên nhà truyền giáo. Chịu sao nỗi nếu em còn cứ tăng thêm ước vọng đó mãi bằng những tấm gương tông đồ này? Nhất định em sẽ là một nữ tu Kín”.
Rồi Chị cắt nghĩa cho tôi tại sao Chị lại quyết định như thế: “Chính là để được chịu nhiều đau khổ hơn trong cuộc sống đồng điệu, khắc khổ và nhờ thế cứu được nhiều linh hồn hơn”.
Trong cuốn Tiểu sử đời Chị, Chị đã kể mình phải kiên nhẫn trong lời cầu nguyện để cầu cho Pranzini tên sát nhân xấu số. Chị thú nhận là rất xúc động khi thấy Chúa nhận lời Chị xin, vì người tử tội đã thình lình ăn năn trở lại trước khi lên đoạn đầu đài.
Với dáng ngại ngùng, Chị đưa cho tôi số tiền nhỏ để xin lễ cho người tử tội. Vì tính nhút nhát, nên Chị không dám đưa tiền tận tay cho Cha Giải tội.
Chị cũng chẳng nói cho tôi biết ý xin lễ nữa. Nhưng tôi đã đoán đúng và Chị cảm thấy thật an ủi. Từ đó Chị chia sẻ cho tôi biết những băn khoăn lo lắng cũng như những ước vọng của Chị.
Lòng nhiệt thành cứu rỗi các linh hồn xâu xé tâm hồn Chị ngay từ hồi niên thiếu. Khi Chị thấy ảnh Chúa chịu nạn có bàn tay đẫm máu, và ảnh này đã mạc khải cho Chị biết về ơn kêu gọi được đồng cứu chuộc với Chúa Cứu Thế.
Sống trong Nhà Kín, lòng nhiệt thành đó không ngừng phát triển và Chị luôn bộc lộ ra mỗi khi có dịp. Tôi đã thấy Chị âm thầm giấu ảnh thánh Bênêdictô vào chiếc áo làm việc của bác thợ mộc, nhân lúc bác đi về và sẽ trở lại Nhà Dòng trong ngày. Chị làm như vậy vì bác thợ này khô khan, sống xa Chúa.
Trong lúc phải đau khổ vì bệnh lao dày vò, và chúng tôi phải sa nước mắt cầu nguyện cho Chị, thì Chị lại nói với chúng tôi: “Em cầu xin Chúa nhân lành thương xót để tất cả kinh nguyện các chị cầu cho em đừng làm nhẹ bớt đau khổ của riêng em, nhưng là để cứu rỗi các linh hồn”.
Tôi còn nghe thấy Chị quả quyết:
“Không, không bao giờ em tin rằng người ta có thể chịu được đau khổ đến thế... Không, không bao giờ! Em chỉ có thể cắt nghĩa điều này bằng những ước vọng mãnh liệt em ôm ấp là để cứu rỗi các linh hồn”.
Đây là một trong những lời cuối cùng đời Chị.
Nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Chị hứa “làm mưa hoa hồng” và biểu lộ ước vọng cùng sự bảo đảm làm nhiều điều lành sau khi chết, bằng cách cầu cho Giáo Hội, bằng cách tiếp tục sứ mệnh đặc biệt làm tông đồ bên cạnh các linh mục. Nhất là tôi đã nghe Chị cắt nghĩa, đã thấy Chị viết đâu là ích lợi của việc này, và Chị sẽ dùng phương thế nào để kêu gọi các linh hồn trở về với Chúa bằng cách dạy dỗ họ con đường tin tưởng phó thác hoàn toàn. Để trả lời một trong số những điều Chị suy nghĩ, tôi bảo Chị:
- Vậy Chị tin rằng Chị sẽ cứu được nhiều linh hồn khi lên trời sao?
- Vâng em tin như thế, bằng chứng là Chúa nhân lành để em chết giữa lúc em đang ước muốn cứu được thật nhiều linh hồn.
[1] Hội Đồng Dòng (Chapitre) là một tập thể gồm những Nữ tu hội đủ các điều kiện để hưởng quyền bầu cử cũng như được bầu vào những chức vụ trong Dòng (chú thích của người dịch).
[2] Thật ra Chị phải bỏ Nhà tập 3 năm sau khi khấn theo thói quen hồi đó, tức là vào tháng 9 năm 1893, nhưng dựa trên cách cắt nghĩa luật thử thời, người ta không nhận quá hai chị em trong cùng một gia đình vào Hội Đồng Dòng. Vì Mẹ Agnès de Jésus và chị Marie du Sacré Coeur đã ở trong Hội Đồng rồi, nên người em út các chị không ở Hội Đồng được, tuy theo luật thì Chị có quyền. Vì thế Chị không hề lên tiếng hay tham dự Hội nghị. Được trao nhiệm vụ huấn luyện chị em Nhà tập dưới quyền Mẹ Bề trên là người mang danh Bề trên Tập viện, Chị đã sống với chị em như là “niên trưởng” của họ cho tới ngày Chị qua đời.
[3] Gương Phúc Q.III, 49,7
[4] Đó là bài thánh ca “Thiên thần chốn hoang địa” - L’Ange du Elésert - trong kịch bản “Trốn qua Ai Cập”, ngày 21-1-1896.
[5] 2 Cor 12,5
[6] Đã rõ Chị Thánh không hề đồng ý việc chịu nhận mà không chiến đấu diệt trừ lỗi lầm luân lý, cho dầu nhỏ bé tới đâu. Chị coi thái độ đó như xâm hại tới quyền lợi Chúa. Chị cực lực phản đối thái độ sai lầm của phái vô vi (Quiétisme) (coi trang 53 của tập này). Chị sẽ sung sướng biết bao nếu được nghe những lời cương quyết của Đức Thánh Cha Piô XII trong Thông điệp ngày 23 tháng 12 năm 1949, trong đó Ngài than phiền vì có một số người coi tội lỗi chỉ là một sự yếu đuối, và coi yếu đuối như một nhân đức!
Điều chị Têrêsa nhiều lần nhấn mạnh trong “Thuyết Ấu Nhi” (Petite Doctrine) của Chị là thụ tạo trước hết không được tin ở sức mình, dựa trên huân công cá nhân mình, trái lại phải tuyệt đối trông cậy vào ơn thánh siêu nhiên. Chỉ có sức thần trợ mới đủ khả năng hứng khởi, giúp đỡ cũng như làm các cố gắng nơi con người được triển nở và mang sinh lực lại cho thiện chí của ta.
Hiểu biết chấp nhận và yêu mến cái bé nhỏ của mình không có nghĩa là đồng loã với tội lỗi, hay yên phận trong đó, mà đặt mình trong chân lý, gạt bỏ mọi ảo tưởng về bản thân và từ thẳm sâu của tình trạng khốn nạn đã được nhận định minh bạch đó, tâm hồn vang lên tiếng kêu cầu phó thác và băng mình vào Đấng Từ Bi Vô Biên. Tâm tình này rất hữu ích trong lúc bất lực, tinh thần suy kém, lúc bị cám dỗ, thử thách, cũng như bất toàn sa ngã vì sự giòn yếu của bản tính con người: Các chị em được Thánh Nữ nói với là những chị em thường quá chú trọng tới những yếu hèn tinh thần đó.
Dự trên những đoạn văn khác của Chị Thánh, nhất là đoạn kết cảm động của tập Tự Thuật Chúa tờ 36 v0, người ta thấy rõ ràng tuy có những tiểu dị quan trọng, nhưng điều này cũng rất giá trị đối với những lỗi lầm đã qua: Cho dầu chúng có nặng nề như tội phạm của người đàn bà Samaritana, như của thiếu phụ ngoại tình, của người trộm lành, hay như của người thiếu nữ tội lỗi trong hoang địa, thì ta cũng không thể yêu thích những lỗi lầm đó, mà phải hối hận và đề phòng kẻo tái phạm. Thay vì thất vọng hay kiêu kỳ phẫn nộ với mình, ta phải khiêm tốn lợi dụng hoàn cảnh đó, và thay vì tin ở mình thì ta tin ở Tình Yêu Từ Ái nhiều hơn, một lòng từ ái luôn thứ tha, nâng đỡ và ban phát chứa chan. Chị Têrêsa thêm vào đây lời bất hủ của Thánh Augustinô khi Ngài diễn giải và bổ túc cho tư tưởng thánh Phaolô: “Tất cả đều trở nên tốt hảo cho ai yêu mến Thiên Chúa, cho dầu tội lỗi cũng vậy”.
Về đầu trang
[7] Chuyện đời Cha Giuse Surin thuộc Dòng Tên, được Cha Marcel Bouix xuất bản. Tóm lược tiểu sử do M. Henri Marie Bourdon viết - Paris, 1897, tr. 146.
[8] Jn 21,15-17
[9] Lc 18,13
[10] Đó là chiếc mũ làm bằng vải Sa, màu xanh nước biển có viền nhung, cùng một loại vải với áo của Chị.
[11] Rm 12,17
[12] Lc 2,19
[13] Vì chuyện này mà Chị có ý tưởng vẽ chiếc huy hiệu riêng cho Chị.
[14] Q. II, ch. 11,4
[15] Để những thất bại hữu ích cho ta nhờ thái độ nghèo khó tinh thần này, thì: “An bình của em là thủ phận bé nhỏ. Ngay cả khi vấp ngã trên đường. Em có thể nhanh chân dậy ngay. Và Giêsu cầm tay dẫn dắt em đi”. (Thơ của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu: An Bình và hoan lạc đời tôi, triệt IV). “... Trẻ con chúng té luôn, nhưng vì chúng quá bé nhỏ nên không gây ra thiệt hại chi mấy” (Novissima Verba, p. 126).
[16] Ms. A, fol. 7 v0
[17] Eccl. XII,13-13, 19-20
[18] § 2341 p. 799
[19] Bossuet đoạn cuối tập bàn về “Phương pháp vắn tắt và dễ dàng để nguyện gẫm”.
[20] Trích dẫn theo Jean Wu-Ching-Hioung, nguyên Công sứ Trung Hoa bên cạnh Toà Thánh trong tập “Dom Lou”, đời sống tinh thần của ông; một minh chứng cao quý, tr. 41. Desclé de Brouwer, 1949.
[21] Tao-Ta-Ching, Jean Wu- Ching-Hioung, Khoa học tình yêu tr. 29.
[22] Mt 19,14; Mc 10,14; Lc 17,16; Mt 18,10; Mc 10,16.
[23] Rm 4,46
[24] Is XL 11
[25] Mt 18,3. Thông điệp ban hành ngày 11 tháng 7, 1954 dịp Cung hiến Vương Cung Thánh Đường Lisieux.
[26] Chân Ngôn 1,4
[27] Jn 14,2
[28] Thérèse Lehoux, khoảng 7 tuổi, cỡ tuổi Céline.
[29] Chị Thánh nói với các chị em Nhà Tập khi họ không có trách nhiệm và lúc đó bổn phận của họ là không dây mình vào công việc. Chị sẽ nói cách khác với ai phải giải quyết và thi hành công việc. Với những chị em này, Chị chỉ khuyên đừng phân tích một cách vô ích những khó khăn.
[30] Khi Chị nói: “Chúng ta quấy rầy Ngài”, Chị thánh có ý ám chỉ Tinh thần trẻ thơ. Chúa Giêsu không thể buồn vì những lỗi lầm sơ ý gây nên do sự giòn mỏng yếu đuối của những tâm hồn khiêm tốn, biết mến yêu phó thác nơi Ngài.
[31] Khôn Ngoan 6,6
[32] Mt 20,23; Mc 10,40
[33] Tv LXVII,40
[34] Ms. A,fol. 32 r0
[35] Jn 2,3
[36] Jn 11,3
[37] Eccl 16,15
[38] Lc 17,10
[39] Thơ gởi cho Mẹ Eléonore de Saint-Gabriel, Nữ tu thuộc Dòng Kín Carmêlô đi chân không ở Tu viện Séville.
[40] Ms. C, fol. 36 v0
[41] Trong cuốn Vies des Pères des désers l’Orient avec leur doctrine spirituelle et discipline monastique, par le R.P. Michel Ange Marin, de l’Ordre des Minimes: Livre IV, Ch. VXIII, pp. 392 et ss.
[42] Is LXIV,5
[43] Thánh Vịnh XCI
[44] Một Chúa nhật trong năm 1888 cha Rohée là tổng quản nhà thờ Chánh Toà đã tuyên bố trên toà giảng là cần 10.000 Phật lăng để có thể sắm được một bàn thờ mới. Ông Martin đem tiền dâng ngài ngay và chỉ xin một điều là giữ kín không cho ai trong xứ biết tên người dâng cúng. Tuy thế, việc này không giấu nổi ông Guérin, cậu ruột Thánh Nữ.
[45] Thánh Thomas viết: “Mỗi vị thánh trên trời được hưởng chung hạnh phúc của tất cả các vị thánh khác” (S. T. Suppl. 9. 71, art. 1er). Chị Thánh đã đọc được đoạn sau đây trong cuốn: Fin du monde présent et mystères de la vie future, do cha Arminjon soạn thảo, một cuốn sách Têrêsa đặc biệt thích thú: “Những con người được tuyển chọn, tất cả chỉ có chung một niềm tâm tư... mỗi vị sẽ sung mãn bằng sự sung mãn của tất cả” (Cuộc diễn giảng thứ bảy về: Hạnh phúc vĩnh cửu và chiêm ngưỡng siêu kiến Thiên Chúa, tr. 312).
[46] Dép “Alpagates” là một loại sandale đế bằng thừng, các nữ tu Carmel dùng thay cho giày.
[47] Khúc XIII
[48] Xin coi bản kinh ở cuối sách.
[49] Ms. Fol. 84 r0 et v0
[50] Is 3,10
[51] Chú giải về sự siêu nhiên.
[52] Thư Do Thái 12, 18, 22, 23, 29
[53] Esdaras II 4,11
[54] Gương Chúa Giêsu Q. III 4,4
[55] Chị thánh không hiểu tiếng Latinh nên không thể thường xuyên chú ý tới nghĩa chữ, nhưng Chị cũng biết được ít nhiều đoạn nhờ đọc những bản dịch ngoài giờ kinh.
[56] Xướng viên: người được chỉ định trong tuần để đảm trách nhiệm vụ khởi sự giờ kinh Nhật Tụng tại Ca triều.
[57] Chị Geneviève chép những đoạn này khi chị còn ở ngoài đời, và lúc đó Têrêsa đã từ giã chị để vào dòng Kín. Lúc đầu chị dùng cuốn Kinh Thánh của cậu chị là ông Guérin để sao chép. Đây là cuốn loại quý, khổ rất lớn do Gustave Doré ấn loát, Bourassé và Janvier phiên dịch. Sau chị ưa dùng một cuốn tiện lợi hơn và tiếp tục ghi chép theo bản dịch của Lemaistre de Sacy, do nhà Furne et Cie xuất bản tại Paris năm 1864.
Trong cuốn sổ đó, Chị Geneviève đã chép những đoạn Thánh Kinh thuộc các sách sau đây (theo thứ tự trong sổ chị chép): Nhã Ca, Triết Ngôn, Khôn Ngoan, Châm Ngôn, Isaia, Tobia, Đức Huấn Thiện, Egiêkia, Ôsê, Habacuc, Sôphônia, Malakia, Amos, Mikê, Giacaria.
Sau ngày vào Dòng Kín, 14-91894, chị tặng Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu cuốn sổ nhỏ đó. Têrêsa đã dùng cuốn này làm sách thiêng liêng để suy nguyện. Rất có thể nhờ tập này mà Chị đã được đọc lời Chị rất yêu quý: “Kẻ nào thật bé nhỏ hãy đến cũng Ta” (Châm Ngôn 9,4 trưng trong Ms. C, fo 3 r0.
[58] Chị có thể nhận ra những điểm khác nhau như vậy, vì tuy các chị trẻ không được đọc toàn bộ Thánh Kinh, nhưng Chị đã so sánh những đoạn chép trong cuốn sổ của chị Geneviève với một số bản dịch Thánh Vịnh (nhất là thuộc nhà xuất bản Glaire), các Tiên Tri và Tân Ước. Chị đọc Tân Ước nhiều trong cuốn “Thủ bản Kitô hữu”, trong đó gồm thêm Thánh Vịnh, Gương Chúa Giêsu, và ngay đầu còn có cả phần Thường Lễ, Kinh Chiều và Kinh Tối (Đức Tổng Giám Mục Địa phận Tours, cho xuất bản, Mame và Fils xuất bản, Tours 1864. Không có tên dịch giả) “Thánh Vịnh dịch từ tiếng Do Thái”. Ngoài ra Chị còn có những bản Kinh Thánh đúng nghĩa, như bản dịch sách Nguyện Bréviaires đọc hằng ngày trong nhà cơm, cuốn Thần Thánh viết bằng tiếng Latinh-Pháp, Sách Hát lễ và những cuốn khác có trích nhiều Kinh Thánh, như cuốn Năm Phụng vụ của Dom Guéranger, những tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá... Sự khảo sát những đoạn Thánh Nữ trích dẫn Cựu Ước và Tân Ước cho ta thấy rõ là Thánh Nữ đã dùng những nguồn tài liệu khác nhau.
[59] Coi trang 74
[60] “Tu” và “Vous” là đại danh từ cùng chỉ ngôi thứ hai. Trong Pháp văn, người ta dùng “Tu” (mày, anh, ba, má...) thay cho “Vous” (ông, ngài, quý vị...) khi muốn diễn tả sự thân mật âu yếm (Chú thích của người dịch).
[61] Pranzini là một tội nhân bị kết án tử hình. Chị cầu xin và anh đã được ơn trở lại liền trước khi xử, vào tháng 8 năm 1887 (coi Ma. A, fol. 46 r0).
[62] Sắc lệnh này ban hành ngày 17-12-1890. Đây là đoạn chính yếu: “Về vấn đề liên quan tới việc cho phép hay không được lên Bàn Thánh rước Chúa, Đức Thánh Cha ban bố rằng việc được phép hay không là chỉ tuỳ thuộc cha giải tội thường. Các vị Bề trên không có thẩm quyền nào trong vấn đề này... Ai được phép cha giải tội để năng rước lễ hay rước lễ hằng ngày thì phải báo cho Bề trên biết”.
Trên thực tế thì Cha Tuyên uý Dòng Kín Lisieux hồi đó là cha Youf không thay đổi gì trong thói quen có sẵn cả, trừ thời gian có bệnh cúm truyền nhiễm (từ tháng 12-1891 đến tháng 1-1892 là chị Thánh có thể rước lễ hằng ngày - ms. A, fol. 79 v0).
[63] Cha Youf cũng tạ thế sau Chị Thánh mấy ngày và vị kế tiếp là cha Hodierne, hoà mình theo sắc lệnh của Đức Lêô XIII đã đem thói quen Rước lễ hằng ngày vào trong Dòng Kín Lisieux.
[64] Céline đã chỉ dẫn Têrêsa đôi bài về hội hoạ chỉ chừng 6 tháng trước khi Chị vào Dòng Kín.
[65] Đây có ý nói tượng mỗi nữ tu mang trên mình.
[66] Tượng bằng thạch cao đặc, cao 0m90.
[67] Giáo Hội đã áp dụng đoạn văn Isaia này cho Thánh Nữ trong kinh Nhật Tụng: đây là Ca Tiền khúc của Thánh Vịnh Benedictus.
[68] Chị Saint-Stanislas qua đời ngày 23-5-1914, hưởng thọ 89 tuổi.
[69] Chị Thánh cũng kể chuyện này với Mẹ Agnès de Jésus ngày 12-7-1897. Xin xem trong Novissima Verba, bản tiếng Pháp tr. 64, bản tiếng Việt của Trần Nguyên, Hương Việt, tr. 62.
[70] Thời giờ tự do và nghỉ ngơi từ sau Kinh Tối đến Kinh Mai.
[71] Đây là chiếc đèn dành cho một số người đời, bà con của một chị trong Dòng. Những người này được đặc biệt nhận vào sống ở một nơi thuộc vòng ngoài của tu viện.
[72] Châm Ngôn 16,32
[73] Mt 25,36
[74] Lc 13,37
[75] Mt 5,44; Lc 6,27
[76] Gương Phúc I ch. 5,7
[77] Của một tâm hồn thánh thiện, là Thérèse Durnerin.
[78] Chị Geneviève không muốn bàn hơn nữa về bổn phận cầu nguyện cho các linh mục, tuy là đề tài chị còn giữ được rất nhiều kỷ niệm. Chị Thánh diễn tả tất cả tư tưởng mình về điểm này trong những Thư tử gởi cho “Céline”. Như “Céline” đã nói trước đây, các Thư từ này đã được công bố.
[79] Lâu đài nội tâm (Château intérieur), tầng thứ 6, Ch. VI; Vie, T.I,. Ch. XXXII, p. 115; Fondations, t. I, Ch. 1, p. 22 (édition R. P. Grégoire).
Về đầu trang
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn