Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 451-471 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới

Thứ năm - 10/03/2022 19:16
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 451-471 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 451-471 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 2 ABC Bài 451-471 Chúa biến hình cho thấy một thoáng vinh quang Thiên Giới
---------------------------------

Năm A:
Phúc Âm: Mt 17, 1-9: "Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng:
"Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại". - Ðó là lời Chúa.

Năm B:
Năm C:
-------------------------------------

MC 2-ABC401: Sống xứng tầm người con Thiên Chúa. 24
MC 2-ABC402: Chúa  Hiển  Dung. 26
MC 2-ABC403: Chúa nhật II Mùa Vọng B.. 27
MC 2-ABC404: Ai được lên Núi Chúa?. 29
MC 2-ABC405: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 32
MC 2-ABC406: Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay. 35
MC 2-ABC407: Cuộc chiến đấu thiêng liêng. 37
MC 2-ABC408: CHÚA NHẬT II MÙA CHAY A.. 38
MC 2-ABC409: Mạc khải Thiên Tính của Chúa Giêsu. 40
MC 2-ABC410: Qua Thập Giá để đến vinh quang. 41
MC 2-ABC411: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 44
MC 2-ABC412: Tin để lên núi - Huệ Minh. 46
MC 2-ABC413: “DẠ, CON ĐÂY!”. 49
MC 2-ABC414: CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ GƯƠNG MẪU.. 53
MC 2-ABC415: Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người – ViKiNi 56
MC 2-ABC416: Đức tin và đau khổ. 58
MC 2-ABC417: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 60
MC 2-ABC418: Đây là Con Ta yêu dấu. 63
MC 2-ABC419: Tuân phục. 66
MC 2-ABC420: Ngộ ra – Lm. Vũ Đình Tường. 69
MC 2-ABC421: Thiên Chúa trên hết 70
MC 2-ABC422: Thử thách trong cuộc sống. 73
MC 2-ABC423: Crux est lux – thập giá là vinh quang! 82
MC 2-ABC424: Đệ tam nhãn - Lm. Vincent Travers. 84
MC 2-ABC425: Thiên Chúa trên hết 87
MC 2-ABC426: Hãy lắng nghe – Rolland Dionne. 89
MC 2-ABC427: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?. 91
MC 2-ABC428: Chú giải của Noel Quesson. 93
MC 2-ABC429: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY.. 97
MC 2-ABC430: CHÚA NHẬT II MÙA CHAY.. 100
MC 2-ABC431: Học hỏi Phúc Âm CN 2 Mùa Chay. 102
MC 2-ABC432: Đấng tín trung”. 104
MC 2-ABC433: Suy niệm của Lm. Trầm Phúc. 106
MC 2-ABC434: Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 2 Mùa Chay. 109
MC 2-ABC435: Tin là tín thác vào Chúa. 118
MC 2-ABC436: Biến hình trong đời thường. 120
MC 2-ABC437: Hình ảnh Đức Kitô vinh quang. 124
MC 2-ABC438: Ai được lên Núi Chúa? - AM. Trần Bình An. 130
MC 2-ABC439: Vinh quang Chúa. 132
MC 2-ABC440: Những câu chuyện biến hình. 135
MC 2-ABC441: Rất sáng và rất ngắn. 138
MC 2-ABC442: Chúa Nhật 2 Mùa Chay. 141
MC 2-ABC443: Kiên nhẫn vượt qua. 143
MC 2-ABC444: Biến đổi cuộc đời như Chúa. 144
MC 2-ABC445: ĐƯỢC BIẾN ĐỔI 147
MC 2-ABC446: BIẾN ĐỔI 149
MC 2-ABC447: THIÊN ĐÀNG CHỚM NỞ NGAY DƯỚI THẾ.. 152
MC 2-ABC448: CHÚA BIẾN HÌNH ĐỂ BIẾN ĐỔI TA.. 154
MC 2-ABC449: CHIÊM NGƯỠNG NHAN CHÚA.. 156
MC 2-ABC450: PHẨM GIÁ CAO QUÝ.. 160
MC 2-ABC451: ĐẤT HỨA.. 162
MC 2-ABC452: CHÚA GIÊSU VÀ TRÀO LƯU BIẾN HÌNH.. 164
MC 2-ABC453: LỘT XÁC.. 166
MC 2-ABC454: BIẾN DẠNG ĐAU KHỔ - BIẾN HÌNH VINH QUANG.. 171
MC 2-ABC455: VINH QUANG CHÚA TRÊN NÚI TABOR.. 174
MC 2-ABC456: KHUÔN MẶT CỦA CHÚA, MÀ TÔI TÌM KIẾM... 178
MC 2-ABC457: CHÚA KITÔ LÀ CHỦ LỊCH SỬ.. 181
MC 2-ABC458: Con yêu dấu của Ta. 183
MC 2-ABC459: Đấng đang biến hình giữa chúng ta. 185
MC 2-ABC460: Biến đổi khi vượt qua chính mình. 187
MC 2-ABC461: Tuyệt vời qua từng hành vi 188
MC 2-ABC462: Đây là con yêu dấu của Ta. 191
MC 2-ABC463: Biểu lộ phẩm chất Ki-tô hữu. 194
MC 2-ABC464: Vinh quang đích thực. 196
MC 2-ABC465: Chúa Nhật 2 Mùa Chay. 199
MC 2-ABC466: Chúa Nhật 2 Mùa Chay. 201
MC 2-ABC467: Biến đổi giống Chúa mỗi ngày. 204
MC 2-ABC468: Biến hình trên núi Tabor 206
MC 2-ABC469: Vẻ đẹp của phẩm giá con người 209
MC 2-ABC470: Chúa Nhật 2 Mùa Chay. 210
MC 2-ABC471: CON THIÊN CHÚA TỎ MÌNH.. 222
MC 2-ABC472: MC 2-ABC473: MC 2-ABC474: MC 2-ABC475: MC 2-ABC476: MC 2-ABC477: MC 2-ABC478: MC 2-ABC479: MC 2-ABC480: 224

--------------------------
 

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên đỉnh: MC 2-ABC1

Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm về biến cố Chúa Giêsu biến hình, đặc biệt riêng cho ba: MC 2-ABC2

Lời kêu mời của Giáo hội hướng chúng ta sống chay tịnh trong mùa chay này đã bắt đầu được: MC 2-ABC3

Mỗi năm, vào Chúa nhật thứ II Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng về: MC 2-ABC4

Trong Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa: MC 2-ABC5

Có sự khác biệt lớn giữa giao ước và hợp đồng. Giao ước thì dựa trên tình yêu thương và sự thân: MC 2-ABC6

Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin: MC 2-ABC7

Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu: - Cùng xảy ra trên một ngọn núi : núi: MC 2-ABC8

Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người: MC 2-ABC9

Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Ngài: MC 2-ABC10

Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại nhìn lên các ngôi sao: MC 2-ABC11

Trong Chúa Nhật vừa qua, lời Chúa mời gọi chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa duy: MC 2-ABC12

Chúa nhật thứ hai mùa Chay, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngưỡng trước vinh quang Chúa: MC 2-ABC13

Nếu nhìn theo mắt người phàm, cuộc biến hình của Chúa Giêsu xem ra thật hấp dẫn và đẹp: MC 2-ABC14

Sự hiển dung của Đức Giêsu mặc khải điều gì? Dung mạo Ngài thay đổi, y phục chói lòa, sự: MC 2-ABC15

Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ nạn của Người sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho MC 2-ABC16

Không ai sống mà không tin. Tin vào Thiên Chúa giúp người ta sống bình an, vui và hạnh: MC 2-ABC17

Một trong những trách nhiệm của người chủ chiên là phải canh chừng đoàn chiên không cho chúng: MC 2-ABC18

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui..." Một bài hát của Trịnh Công Sơn đã bắt đầu như thế: MC 2-ABC19

Khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm của con người. Ai cũng muốn mình có khuôn mặt dễ: MC 2-ABC20

Hãy vâng nghe Chúa Giêsu, và đi theo Người. Con đường đến sự sống đời đời phải đi qua đau: MC 2-ABC21

Quan niệm về sự trọn hảo/ viên mãn (fullness) là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các: MC 2-ABC22

Lobsang Rampa là một thiền sư Tây tạng nổi tiếng trên thế giới với tác phẩm: MC 2-ABC23

Ngành điện toán đang tiến những bước nhảy vọt, nhất là từ khi có mạng lưới toàn cầu. Tin tức: MC 2-ABC24

Người ta kể lại câu chuyện sau đây: một vị thánh ẩn tu đang nguyện ngắm: MC 2-ABC25 fb

Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People, Steve Covey, trên một chuyến xe: MC 2-ABC26

Trong những ngày chuẩn bị cho cuộc thương khó, sự kiên Chúa Giêsu biến hình: MC 2-ABC27

Chúng ta nên để ý tới bối cảnh của việc Đức Giêsu biến hình: 1. Ngài biến đổi hình dạng ra: MC 2-ABC28

Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những miền: MC 2-ABC29

Cuốn phim Mask  (Mặt nạ) diễn lại một câu chuyện có thực của một chú bé 16 tuổi tên là Rocky: MC 2-ABC30

Một trong những bức hoạ lớn nhất xưa nay của Raphael là bức: “Chúa Biến Hình” trong hành: MC 2-ABC31

Bình thường ít ai suy nghĩ về cuộc đời. Chỉ khi nào đối diện với đau khổ, ta mới suy nghĩ nhiều: MC 2-ABC32

Phần lớn những tháng ngày sống trên trần gian, Đức Giêsu đã chọn cho mình một cách sống: MC 2-ABC33

Trong cuộc sống, chúng ta thấy nhan nhản những khác thường nơi đồng loại. Đang vui vẻ bỗng dưng: MC 2-ABC34

Một tù nhân đang bị đầy đọa trong lao tù cộng sản Việt Nam đã kể truyện đời mình và xác: MC 2-ABC35

Thường đời người được nếm trải những cuộc hiển dung nho nhỏ hay vĩ đại tùy theo từng bước: MC 2-ABC36

Ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê đã được thấy Chúa và các ông đã cảm nghiệm được cái: MC 2-ABC37

Lập Giao ứơc với Abraham: Một đời sống đức tin trong Chúa là Abraham đã đặt đức Tin của ông: MC 2-ABC38

Tuần trước Chúa vào sa mạc, chay tịnh, vượt thắng cám dỗ của ma quỷ, hôm nay Chúa lên núi: MC 2-ABC39

Bài Tin Mừng thuật lại cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên một quả núi, trước mặt ba môn đệ: MC 2-ABC40

Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như : MC 2-ABC41

Phụng vụ Thánh lễ Chúa nhật thứ hai Mùa Chay hôm nay cho các tín hữu chúng ta nghe bài: MC 2-ABC42

Chắc hẳn nhiều lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao mà tồi tệ xấu xa quá. Nhiều lần: MC 2-ABC43

Dưới nhãn quan của thánh sử Luca : cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc hành trình đi lên Giêrusalem: MC 2-ABC44

Câu chuyện Chúa Giêsu biến hình còn xa mới đến câu chuyện về cuộc khổ nạn của Ngài. Trình: MC 2-ABC45

Sự kiện Chúa Giêsu hiển dung được ghi chép trong Phúc Âm như là một giây phút rất lạ lùng: MC 2-ABC46

Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận tội lỗi yếu hèn của: MC 2-ABC47 FB

Việc Chúa Giêsu biến hình xảy ra sau khi Chúa Giêsu báo tin Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và bảo: MC 2-ABC48

Rõ ràng thánh sử Luca muốn nối kết đoạn này vào những biến cố và những đoạn văn trước đó: * Câu: MC 2-ABC49

Đây là một trục mốc khác trong cuộc đời Chúa Giê-su trên trần gian này, chúng ta nên nhớ: MC 2-ABC50

Chúa Giêsu đang ở trong một khúc quanh quan trọng của sứ mạng Ngài. Việc rao giảng ở: MC 2-ABC51

Đức Giê-su có hai bản tính, và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài biểu lộ thần tính của Ngài: MC 2-ABC52

Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin mừng". Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay: MC 2-ABC53

Cách dùng Lời Chúa để chiến thắng mọi cuộc tấn công do Satan gây nên trong Chúa Nhật thứ: MC 2-ABC54

Rít Rítpphai Vô-đơn-Spring là một mục sư phục vụ một bệnh viện làng Bethel, ở miền Bắc Palestin. Ông: MC 2-ABC55

Trong những đầy đặc và ngột ngạt thường ngày  mà có được một khoảng trống mở ra tầm nhìn: MC 2-ABC56

Mưa Phục Sinh, thật ra chẳng cần chờ. Bởi, mưa Phục Sinh, mưa ơn cứu độ đã xảy ra qua sa mạc: MC 2-ABC57

Mùa Chay là cơ hội giúp tín hữu cố gắng đi sâu vào mầu nhiệm Thánh giá và Phục sinh.  Thế: MC 2-ABC58

Ở Trung Quốc,nghệ thuật biến diện được xếp vào hàng bí mật quốc gia và những nghệ nhân: MC 2-ABC59

Khuôn mặt phản ánh cuộc sống của con người. Sống trên đời, ai cũng muốn mình có khuôn mặt: MC 2-ABC60

Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh hiện đại. Thời buổi của một lối sống bị ảnh hưởng: MC 2-ABC61

Hãy biến đổi là một chủ đề nổi bậc trong toàn bộ Tin mừng. Lời rao giảng trước tiên của Chúa : MC 2-ABC62

Anh chị em đã nhiều lần xem văn nghệ, ca nhạc. Chúng ta nhìn thấy những nghệ sĩ trên sân : MC 2-ABC63

Người ta thường nói: “ Có làm thì mới có ăn  Không dưng ai dể đem phần đến cho ”  Hay:: MC 2-ABC64

Chúa Giêsu biến hình hôm nay là một biến cố lạ kỳ đối với các môn đệ. Một người Thầy mà các: MC 2-ABC65

Chúng ta đang bước vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Mùa Chay thánh bắt đầu với ngày Thứ Tư: MC 2-ABC66

Trong một nhà giam các tù nhân trọng án, có một tù nhân khét tiếng hung ác tên là SI-TA ĐÊ-LI: MC 2-ABC67

Này, ai chịu trách nhiệm chính ở đây vậy?" Đây là một mệnh đề, không mang tính trách cứ, của một: MC 2-ABC68

Kinh ngạc bao gồm hai ý nghĩa, khi thì rất đỗi ngạc nhiên, khi thì thất đảm kinh hồn. Đời người là một: MC 2-ABC69

Chúa nhật thứ hai Mùa Chay trong năm đức tin càng thôi thúc chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào: MC 2-ABC70

Người Việt Nam đã quan niệm "Sống gửi thác về". Quan niệm này thật đáng trân trọng. Tuy nhiên: MC 2-ABC71

Cũng vào dịp đầu Mùa Chay này năm trước, người CGVN khắp nơi, đặc biệt ở Giáo phận Xuân Lộc: MC 2-ABC72

Người nấu ăn thường hay thử trước món ăn đang nấu. Thử trước với mục đích tốt. Nhờ nếm thử: MC 2-ABC73

Thiên Chúa là một vị Thiên Chúa đầy quyền năng. Thiên Chúa vẫn bày tỏ quyền năng của mình bằng: MC 2-ABC74:

Cùng với thánh Phêrô, thánh Giacôbê và thánh Gioan, hôm nay chúng ta cũng nhập đoàn với Chúa: MC 2-ABC75

Trong cuộc hành trình rao giảng Nước Trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến sự đau khổ, cái chết : MC 2-ABC76

Giáo Hội là Mẹ Thánh Thiện. Phụng vụ trong Giáo Hội là con đường đưa dẫn mọi thành phần dân: MC 2-ABC77

Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu biến hình trước mắt ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê. Cũng: MC 2-ABC78

Ba câu văn trước bài đọc một hôm nay thuật lại chuyện trao đổi giữa Thiên Chúa và Abraham, trong : MC 2-ABC79

Trong cuộc sống khi làm bất cứ việc gì cũng đòi hỏi một sự đầu tư tương xứng. Muốn làm một : MC 2-ABC80

Thật phi thường ! Quá trời ! Không thể tưởng tượng được ! Số dách ! Số một ! Kinh khủng ! Hạng nhất: MC 2-ABC81:

Đêm năm xưa, Chúa Giêsu và ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện: MC 2-ABC82

Chúng ta cũng giống như Đức Giê-su: có bản chất cao quí ẩn trong thân xác yếu đuối của kiếp người: MC 2-ABC83

Có một cuốn phim mang tựa đề “Mặt nạ”, kể lại một câu chuyện về chú bé 16 tuổi, tên là Rocky: MC 2-ABC84

Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu biến hình vinh quang trên đỉnh Taborê. Biến: MC 2-ABC85

Chúng ta đang ở vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay thánh này với : MC 2-ABC86

Trong Phụng Vụ Chúa Nhật thứ hai mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư : MC 2-ABC87

Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu thương khó và chịu: MC 2-ABC88

Có một nhà vua đã hỏi các quan đại thần rằng: - "Trong chiến trận thì cái gì cần nhất?": MC 2-ABC89

Phêrô đã tuyên xưng, đã công khai xác nhận Đức Giêsu là Đấng Messia. Đức Giêsu biết rõ niềm: MC 2-ABC90

Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Salêsiên ở Cáp bên Haiti, muốn: MC 2-ABC91

Cảnh này hiển nhiên là một trong những lời đáp chủ chốt cho câu hỏi khúc mắc của Hêrôđê. Liên : MC 2-ABC92

Ở phần cuối những đoạn nói về cuộc thương khó lần nhất, Đức Kitô đã nói rõ rằng trong số : MC 2-ABC93

Thật đáng tiếc, sách bài đọc Chúa nhật đã cất bớt câu của Luca. Ông đã nồi "khoảng tám ngày sau khi: MC 2-ABC94

Trình thuật Lc 9, 28b – 36 là câu chuyện về cuộc hiển dung của Đức Giêsu. Câu chuyện này chuẩn : MC 2-ABC95

Sự kiện Đức Giêsu biến hình là một trong những dấu lạ Ngài tỏ hiện quyền năng cho các Tông Đồ: MC 2-ABC96

Vào ngày 12.4.1961, Yuri Gagarin trở thành phi hành gia đầu tiên cùng với phi thuyền Vostok-1 bay: MC 2-ABC97

Hạnh phúc là gì ? Chắc hẳn chẳng ai có một định nghĩa chính xác nhất. Người thì cho thế này là: MC 2-ABC98

Đây là biến cố cuối cùng trong thời gian hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Đức Giêsu đang ở tại: MC 2-ABC99

Có lẽ nhiều khi chúng ta quá chú tâm đến những diễn biến linh hoạt và rực rỡ trong cuộc hiển dung: MC 2-ABC100

Cuộc hiển dung của Đức Giê-su xảy ra vào khỏang tám ngày sau khi Người tiên báo về cuộc Tử Nạn và: MC 2-ABC101

Mạc Khải - đó là những gì Phêrô, Giacôbê và Gioan cảm nghiệm được khi họ thấy Chúa Giêsu biến: MC 2-ABC102

Chúa Nhật trước đã đưa chúng ta vào 40 ngày Chay của Chúa Giêsu và đã cho chúng ta thấy Người: MC 2-ABC103

Khi có ai gặp khó khăn đến chia sẻ với chúng ta, chúng ta thường khuyên họ hãy cầu nguyện, xin: MC 2-ABC104

Văn mạch của đoạn trên đây là Chúa Giêsu lần đầu tiên bày tỏ cho các môn đệ của Người về cuộc: MC 2-ABC105

Hôm nay, chúng ta mừng Chúa Nhật II Mùa Chay, Năm C.   Bài Đọc I (Sách Khởi Nguyên 15: MC 2-ABC106

Còn gì vui hơn khi thấy giấc mơ thành sự thật.   Các môn đệ đã thấy rõ Đức Giêsu đến thực hiện tất: MC 2-ABC107

Biến cố Chúa Giê-su biến đổi hình dạng có quan hệ chặt chẽ với sứ mệnh cứu độ của Người, nhưng: MC 2-ABC108

Mục đích của Mùa Chay là từng bước dẫn chúng ta đi vào mầu nhiệm Đức Kitô để hiểu và sống, đúng: MC 2-ABC109

Một lần nữa, ta lại thấy thánh Lu-ca sử dụng khéo léo cách móc nối đoạn Tin Mừng Chúa Giê-su biến: MC 2-ABC110

Trong bối cảnh mùa chay, mùa sám hối, mùa hoán cải và đổi đời, thì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta: MC 2-ABC111

Chúa Giêsu đưa 3 môn đệ lên một ngọn núi cao, khoảng chừng 600 thước và các ông chiêm ngưỡng: MC 2-ABC112

Những ai mê phim chưởng hoặc nghiền đọc Kim Dung thì rất quen thuộc với từ ngữ “xuống núi”: MC 2-ABC113

Trong Thánh Kinh, nhất là trong Cựu Ước có 2 truyền thống văn chương diễn tả Thiên Chúa một: MC 2-ABC114

Không nói đâu xa mà chỉ nói từ ngày Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Cấp Cao APEC tại Hà: MC 2-ABC115

Ai vậy? Đức Giáo Hoàng Tiên Khởi: Phêrô. Vì sao? Vì được thấy thiên đàng. Lạ vậy! Thấy  MC 2-ABC116

Hơn 10.000 người đã tụ tập tại một Nhà Thờ làng thuộc Tổng Giáo Phận Tellicherry ở Kerala, sau MC 2-ABC117

Sau biến cố Gioan Tẩy Giả bị chém ðầu ( Mt 14, 1-12; MC  6, 14-29 ), Chúa Giêsu tiên báo về cuộc MC 2-ABC118

Câu chuyện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê với ba môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacobê nhằm Dalat MC 2-ABC119

Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố MC 2-ABC120

Khi kể lại cuộc Hiển dung của Chúa Giê-su trên núi, các thánh sử Tin Mừng Nhất lãm đều nhắc MC 2-ABC121

Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng MC 2-ABC122

Mùa Chay không phải chỉ là thời gian sám hối ăn năn mà còn là thời gian nhận biết bản tính và vận MC 2-ABC123 Cần Thơ

Cựu Ước không có ý nghĩa nếu không có Đức Giêsu, còn chính Người, nếu không có Cựu Ước, MC 2-ABC124

Phúc Âm thánh Luca thường được gọi là Phúc Âm cầu nguyện. Tin Mừng nói đến 15 lần việc Chúa MC 2-ABC125

Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn: A1 MC 2-ABC126

Cách đây vài năm khi đang đi bộ lang thang khu siêu thị, tôi để ý thấy đám đông chăm chú nhìn: A2 MC 2-ABC127

Họa sĩ người Ý, Raphael (1483 – 1520), khi chết mới 37 tuổi, nhưng đã để lại một số lượng tác: A3 MC 2-ABC128

Một người cao cấp trong ngành kinh tế Hoa-Kỳ sang thăm Canađa và đã gọi một cú điện: A4 MC 2-ABC129

Trong một trăm chuyện ngắn hay của Việt Nam, được hội Văn Hóa Hà Nội tuyển chọn và cho: A5 MC 2-ABC130

Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu.: A6 MC 2-ABC131

Ý nghĩa của những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục đích của cuộc hiển dung là gì?: A7 MC 2-ABC132

Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào? Việc Chúa tỏ bày vinh quang mang lại: A8 MC 2-ABC133

Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giê-su khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy: A9 MC 2-ABC134

Một ngày kia có một ông vua muốn tập tổ chức một cuộc thi. Đề tài của: cuộc thi được giữ kín: A11 MC 2-ABC135

Chúa Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem: sẽ bị bat bị hành hình: A12 MC 2-ABC136

Mỗi năm ngay sau chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay cho: A13 MC 2-ABC137

Muốn đi theo tiếng Chúa gọi, Abraham đã phải bỏ quê hương và những người thân. Muốn đi theo: A14 MC 2-ABC138

Không ít người lầm tưởng rằng đời sống tôn giáo cốt ở tin vào những tín điều và thực hiện: A15 MC 2-ABC139

Trong Chúa nhật I Mùa Chay, bao giờ Hội thánh cũng chọn bài Tin Mừng nói về những: A16 MC 2-ABC140

Qua bài Tin Mừng của Chúa nhật I mùa chay, Giáo Hội nhắc nhớ biến cố Chúa Kitô đã dùng: A17 MC 2-ABC141

Lớp địa chất  học ở đại học Cansas làm một cuộc du khảo tới Colorađo để nghiên cứu về: A18 MC 2-ABC142

Hôm nay chúng ta bước vào tuần II Mùa Chay; mượn lời của Thánh Vịnh, Giáo hội muốn mời: A19 MC 2-ABC143

Tại sao Chúa Giêsu đến đây ? Sao Ngài lại đến nơi đồi núi hoang vắng này ? Luca hé cho ta: A20 MC 2-ABC144

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy ví dụ như tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Người ta chỉ: A14 MC 2-ABC145

Khởi sự Tin Mừng Mátthêu nhìn nhận Đức Giêsu là Con Vua Đavít (1,6-16). Tên của Người là: A22 MC 2-ABC146

Trong cuốn sách tựa đề "Gương Hiếu Thảo", tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí: A23 MC 2-ABC147

Ngài đã biến hình trước mặt họ, mặt Ngài sáng láng như mặt trời, áo Ngài nên trắng phau như: A24 MC 2-ABC148

Lời Chúa hôm Chúa nhựt tuần trước kêu gọi chúng ta chọn lựa: đừng chọn ý riêng nhưng hãy: A25 MC 2-ABC149

Tất cả chúng ta đều có những giây phút nhìn thấy vinh quang của thế giới tương lai, phía bên: A26 MC 2-ABC150

Chúa Nhật mở màn cho cho Mùa Chay, chúng ta thấy Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô: A27 MC 2-ABC151

Bài Phúc âm hôm nay đề cập đến việc Chúa Giêsu đưa ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan: A28 MC 2-ABC152

Trong cả ba bài đọc ngày Chúa Nhật hôm nay văng vẳng lời Thiên Chúa mời gọi từng người: A29 MC 2-ABC153

Tự bản chất con người ai cũng muốn trở nên xinh đẹp; thích tìm kiếm và nhìn ngắm những: A30 MC 2-ABC154

Cách chung, người Việt Nam chúng ta rất sùng đạo, vì thế mỗi khi nghe có một phép lạ xảy: A31 MC 2-ABC155

Khi chịu phép Rửa ở Sông Giođan để bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu đã được Thiên: A33 MC 2-ABC156

Theo dõi tin tức báo chí trong những ngày gần đây, tôi cảm thấy hơi khó hiểu về vụ anh John: A27 MC 2-ABC157

Đây là một thị kiến mà ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su nhìn thấy. Thị kiến này mặc: A35 MC 2-ABC158

Trong cuộc đời này, có nhiều người đã đi tìm cái chết cho mình. Trong số ấy có những người: A37 MC 2-ABC159

Thầy Lazarô Phiền là truyện ngắn được một tác giả Công giáo, ông Nguyện Trọng Quảng sáng: A38 MC 2-ABC160

Anh chị em có biết tại sao khi nghe hai chữ thập giá, chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có: A39 MC 2-ABC161

Đức Giêsu biến hình trên núi, truyền thống tin đó là núi Tabor, cách Nazaret độ 9 cây số: A40 MC 2-ABC162

Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay gần như đưa chúng ta và các anh chị em Dự tòng tiến vào gần MC 2-ABC163

Đứng trước viễn tượng của cuộc khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đem ba tông đồ thân tín là: A42 MC 2-ABC164

Trong ngôn ngữ diễn đạt của nhân loại, mỗi lần được lên núi là con người đã tạm lìa bỏ cõi: A43 MC 2-ABC165

Ngày nay với kỹ-thuật-số, nghệ thuật nhiếp ảnh muốn biến hoá đối tượng thành thứ gì, cũng: A44 MC 2-ABC166

Khởi sự Mùa Chay, chúng ta đã cùng Đức Giêsu tiến vào hoang địa, để nhận diện rõ bộ mặt: A45 MC 2-ABC167

Trong khi dân chúng còn thắc mắc về Chúa Giêsu, mỗi người nghĩ về Ngài một cách, thì ông: A46 MC 2-ABC168

Khi Đức Giêsu biến hình đổi dạng xong, có đám mây bao phủ và có tiếng phán: "Đây: A47 MC 2-ABC169:

Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạc khải cho ba tông đồ biết chính Ngài là Đấng: A48 MC 2-ABC170

Một người bạn đã kể với nhóm chúng tôi về một doanh gia mà ông quen biết. Doanh gia này: A49 MC 2-ABC171

Đâu là mối liên lạc giữa cuộc Biến hình và những điều xảy ra trước?  2) Hãy tìm các chủ đề: A50 MC 2-ABC172

Này là Con Ta yêu dấu. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Cha đã tuyên phong Đức Kitô: A51 MC 2-ABC173

Một vị ẩn sĩ nọ suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng: A52 MC 2-ABC174

Trong mùa Chay, mùa dẫn đưa chúng ta tiến về cuộc Khổ nạn, phụng vụ mang lại cho chúng: A53 MC 2-ABC175

Có thể nói rằng trong câu chuyện về việc Chúa Biến Hình, Chúa Cha mặc khải Chúa Con. Để: A54 MC 2-ABC176

Tại sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê? - Ngay từ đầu đoạn: A56 MC 2-ABC177

Trong các kỳ nghỉ hè nhiều người trong chúng ta thích đi du lịch ở ngoại quốc, để không chỉ nghỉ MC 2-ABC178

Phúc Âm hôm nay đã mở cho chúng ta thấy một bí ẩn về một sự thật, đó là vinh quang của Thiên: A58 MC 2-ABC179

Nếu bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy MC 2-ABC180

Năm mới nào cũng vậy, cứ vào thời gian ngay sau tết âm lịch, núi Bà Đen, Tây Ninh, nhộn nhịp hẳn: A60 MC 2-ABC181

Việc các tông đồ được nhìn thị kiến trên núi thánh không phải do công sức, tài lực của cá nhân: A61 MC 2-ABC182

Thông thường thì chúng ta nghỉ chúa nhật thứ 2 mùa chay sách thánh sẽ nói nhiều về tội lỗi: A62 MC 2-ABC183

Tại sao đức tin và sự thực hành tôn giáo sút kém, và tại sao đức tin và sự thực hành tôn giáo xem: A63 MC 2-ABC184

Tin mừng hôm nay thuật rằng sau khi đưa các môn đệ lên núi, thì Chúa biến hình đổi dạng trước: A64 MC 2-ABC185

Sáu ngày sau khi Phêrô tuyên tín Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống và cũng sau khi: A65 MC 2-ABC186

Trong cuốn “Đức Giêsu thành Nazaret”, ĐTC Bênêđictô XVI đã chiêm niệm về cuộc biến: A66 MC 2-ABC187

Biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi cao và biến cố Ngài sầu não trong vườn Cây Dầu có: A67 MC 2-ABC188

Thỉnh thoảng vẫn có những tin tức thuộc loại “buồn cười” hoặc “cười ra nước mắt.” Chẳng: A68 MC 2-ABC189

Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ: A69 MC 2-ABC190

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn: A70 MC 2-ABC191

Quang cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người: A71 MC 2-ABC192

Bị đám đông lòng dạ thất thường ở Galilê trở mặt và thường xuyên bị những kẻ thù kiếm chuyện: A72 MC 2-ABC193

Tôi được biết: trong Phụng Vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung ( ‘sự hóa thân’: A73 MC 2-ABC194

Hoành sơn xưa, có là núi vắng Chúa đặt chân ? Non sông nay, có là miền đất Thánh nhân về ?: A74 MC 2-ABC195

Lời Chúa hướng dẫn hành trình Mùa Chay Thánh, Mùa Chay cuộc đời, để chúng ta: - Nhớ cuộc: A75 MC 2-ABC196

Dạo gần đây, có những cuộc biểu tình tranh đấu làm nức lòng hàng triệu người trên thế giới: A76 MC 2-ABC197

Cuộc đời ngắn ngủi của Chúa Giêsu ở trần gian nói lên sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha: A77 MC 2-ABC198

Bàn Thờ là Núi Thánh. Và mỗi Thánh lễ là một cuộc Chúa biến hình. Người lấy hình bánh: A78 MC 2-ABC199

Tin Mừng Mát-thêu hai lần ghi lại cùng một lời phát biểu của Chúa Cha về Con Một Người:  A79 MC 2-ABC200

Đoạn 17:1-9 nằm trong văn mạch tập trung bàn về cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu: A80 MC 2-ABC201

Chân phước Fra Angelico, Dòng Đa Minh, là một nhân vật nổi tiếng vì “có khả năng hiện: A81 MC 2-ABC202

Lịch sử cứu độ diễn tiến trong lịch sử nhân loại, với những giai đoạn hoặc thời điểm quan trọng: A82 MC 2-ABC203

Việc biến hình của Đức Giêsu xảy ra sau những sự kiện liên tiếp nhau: Phêrô tuyên xưng đức tin: A83 MC 2-ABC204

Có những khoảng khắc chúng ta cảm thấy cuộc sống sung mãn, cuộc đời hạnh phúc bình yên: A84 MC 2-ABC205

Chân tính và sứ mệnh của Chúa Giê-su là đề tài chính của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay: A85 MC 2-ABC206

Ti-mô-thê có cha là người ngoại và mẹ người Do-thái. Ông đã cùng với mẹ là bà Êu-ni-kê: A86 MC 2-ABC207

Khi chiêm ngắm hành trạng đời sống Đức Giêsu, Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu có một nhận MC 2-ABC208

Trong cuộc sống, người ta đã kinh nghiệm được rằng: có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Chẳng: A88 MC 2-ABC209

Trong sách giáo lý Tân Định, tôi vẫn còn nhớ như in câu hỏi: Ta sống ở đời này để làm gì? Thưa: A89 MC 2-ABC210

Tuần trước chúng ta đã cùng với Chúa Giêsu lên núi để chịu ma quỷ cám dỗ. Đáng tiếc cho ma quỷ:  A90 MC 2-ABC211

Ở ngay giữa mùa buồn (Mùa Chay), Hội thánh lại cho chúng ta nghe một câu chuyện vui: A91 MC 2-ABC212

Cuộc sống của con người và vũ trụ vạn vật là một sự biến đổi liên lỉ. Có những biến đổi tích cực: A92 MC 2-ABC213

Chúa Nhật II Mùa Chay, Tin Mừng Mathêu cho chúng ta nghe trình thuật về cuộc Biến Hình: A93 MC 2-ABC214

Được hân hạnh góp mặt trong Đêm Thơ Nhạc Du Tử Lê, tôi muốn so sánh hiện tượng nhà thơ "chuyên: A94 MC 2-ABC215

Thánh ký thuật lại chỉ có 3 Tông Đồ được diễm phúc chứng kiến những giây phút huy hoàng của: A95 MC 2-ABC216

Một nhà tỉ phú được tử thần mời về thế giới hên kia, ông nhanh nhẹn ra đi, để lại một gia tài khổng: A96 MC 2-ABC217

Năm 1989, một trận động đất dữ dội đã xãy ra ở Armania, giết hại trên 30.000 người trong khoảng: A97 MC 2-ABC218

Xưa có một người mù khi nào cầu nguyện cũng kết thúc bằng câu “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi: A99 MC 2-ABC219

Thuở ấy,Thiên Chúa hiện ra cùng Abraham mà phán: Ngươi hãy rời bỏ quê hương mà đi đến đất: A100 MC 2-ABC220

Chúng ta vừa nghe một bài Phúc Âm tường thuật cho chúng ta câu chuyện về việc Chúa biến hình trên: A101 MC 2-ABC221

Có một hoàng tử kia đẹp trai lại văn võ song toàn. Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất được vua: A102 MC 2-ABC222

Mỗi khi Mùa Chay về, ấy là lúc chúng ta nghe đây đó văng vẳng bên tai: hãy đi xưng tội; làm: A103 MC 2-ABC223

Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một: A104 MC 2-ABC224

Cuộc biến hình trên núi Taborê là hình ảnh sống động, ấn tượng đã để lại trong lòng mọi Kitô hữu: A105 MC 2-ABC225

Thiên Chúa chọn mỗi người, mỗi dân tộc mỗi cách; Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi dân tộc mỗi: A106 MC 2-ABC226

Trận siêu động đất và sóng thần hôm 11.3 vừa qua đã làm cho Nhật Bản, một đất nước từng thịnh: A107 MC 2-ABC227

Vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng: A108 MC 2-ABC228

Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện.: A109 MC 2-ABC229

Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình: A110 MC 2-ABC230

Người đời thường mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển: A111 MC 2-ABC231

Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người: A112 MC 2-ABC232

Cái quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn: A113 MC 2-ABC233

Bài Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu báo trước: A114 MC 2-ABC234

Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao: A115: MC 2-ABC235

Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các: A116 MC 2-ABC236

Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng: A117 MC 2-ABC237

Bước vào Chúa nhật II Mùa Chay, Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một mầu: A118 MC 2-ABC238

Có vài cách giúp chúng ta lắng nghe sứ điệp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay.  Trước hết: A119 MC 2-ABC239

Bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giê-su biến hình trên một núi cao trước mặt ba môn đệ thân tín: A120 MC 2-ABC240

Đức Chúa phán với ông Môsê: "Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà: A121 MC 2-ABC241

Sau khi được tiên báo về cuộc Thương Khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua, các môn đệ đã xuống: A122 MC 2-ABC242

Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của Đức Giêsu khi Ngài đem bốn môn đệ thân tín đi: A123 MC 2-ABC243

Khát là tiếng kêu thảm thiết nhất. Khát có thể là khát nước, cũng có thể là khát vọng. Nhưng “khát: A124 MC 2-ABC244

Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể? + Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không A125 MC 2-ABC245

Tiêu đề bài Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay có sách Tin Mừng ghi là “Đức Giêsu hiển dung” A126 MC 2-ABC246

Truyền thống giáo dục trong mọi nền văn hóa đều nhấn mạnh đến sự vâng lời, trong gia đình con A127 MC 2-ABC247

Giáo hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng quen thuộc tả lại cảnh Chúa Giêsu biến hình trong quảng A128 MC 2-ABC248

Cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Taborê có ý nghĩa rất đặc biệt và gây ấn tượng cho nhiều A129 MC 2-ABC249

Chúng ta đang từng bước hành trình trong Mùa Chay Thánh, tiến về Tam Nhật Vượt Qua, tưởng A130 MC 2-ABC250

Phụng vụ Chúa Nhật trước đã trình bày cám dỗ như thử thách lòng trung thành với Thiên Chúa, từ A131 MC 2-ABC251

Núi Thabor là một núi của Israel ở vùng Galilea Hạ, nằm ở đầu phía Đông của thung lũng Jezreel, A132 MC 2-ABC252

Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: "Vào một buổi: B1 MC 2-ABC253

Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện: B2 MC 2-ABC254

Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi: - Tại sao Chúa Giêsu: B3 MC 2-ABC255

Bộ phim Một Người Chết Đang Bước Đi kể lại câu chuyện của một nữ tu (Sơ Helen Prejean), trong: B4 MC 2-ABC256

Câu chuyện Thiên Chúa yêu cầu Abraham hy sinh người con trai Isaac của ông là một câu chuyện: B5 MC 2-ABC257

Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đứng về phía chúng ta. Do đó, gian truân, đau khổ”: B6 MC 2-ABC258

Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ: B7 MC 2-ABC259

Tin Mừng hôm nay ghi lại khi biến hình trên núi Taborê cho các môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê: B8 MC 2-ABC260

Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabôrê (Luca 9). Phêrô la lên: "Lạy Chúa, chúng ta ở đây thú vị: B9 MC 2-ABC261

Trọng tâm của Phụng vụ Chúa Nhật II Mùa Chay Năm B là việc Thiên Chúa Cha giới thiệu Đức: B12 MC 2-ABC262

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh: B13 MC 2-ABC263

Lạy Thầy, chúng con ở đây sướng quá, chúng con xin dựng ba nhà, một cho Thầy, một cho Môisen: B14 MC 2-ABC264

Tường thuật Chúa Giêsu biến hình nằm trong phần thứ 3 của quyển Tin Mừng Marcô, phần được: B15 MC 2-ABC265

Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn: B16 MC 2-ABC266

John Updike có viết một truyện ngắn nhan đề “Những chiếc lông chim câu” (Pigeon Feathers).: B17 MC 2-ABC267

Trong Mùa Chay, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua: B18 MC 2-ABC268

Nơi hầm trú ở Budapect, nước Hungary, trong thời thế chiến thứ hai. Những thiếu phụ trẻ may: B19 MC 2-ABC269

Nếu chúng ta được Chúa đưa lên núi và hiện nguyên hình trước mắt, chắc chúng ta cũng vui: B20 MC 2-ABC270

Giám mục  Cớctis (Curtis) một lần tới thăm Đức Hồng Y Niu-man (Newman), hai người đàm đạo: B21 MC 2-ABC271

Khi nghe tác giả Tin mừng kể: "Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ" như thánh Marcô làm: B22 MC 2-ABC272

Lời Chúa hôm nay, có thể nói, xoay quanh các ngọn núi. Đó là ngọn núi của niềm tin, nơi tổ: B23 MC 2-ABC273

Hôm nay Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ mà Ngài yêu quý cách đặc biệt lên một ngọn núi và tỏ: B24 MC 2-ABC274

Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể... bất cứ triết lý nào, đông: B25 MC 2-ABC275

Sự thử thách của Abraham: Chúa gọi Abraham và thử đức Tin của ông bằng cách hiến tế con: B26 MC 2-ABC276

Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giêrusalem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ: B27 MC 2-ABC277

Không những Ngài đã chết vì ta, xong Ngài đã phục sinh từ cõi chết, hằng ngự bên hữu Thiên Chúa: B29 MC 2-ABC278

Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng: B30 MC 2-ABC279

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên: B31 MC 2-ABC280

Có những lúc chúng ta phải đương đầu với một tình huống mà khi ấy chúng ta không thể thốt: B32 MC 2-ABC281

Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: B33 MC 2-ABC282

Mùa Chay là thời gian mà người Ki-tô hữu phải điều chỉnh tư tưởng, lời nói và hành độn: B34 MC 2-ABC283

Lời Chúa tuần 1 Mùa Chay, với trình thuật Đức Giêsu chịu cám dỗ cho thấy Đức Giêsu đích: B35 MC 2-ABC284

Bài Tin Mừng hôm nay nói: "Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và: B36: MC 2-ABC285

Trong kinh cầu chịu nạn, chúng ta đọc có câu: "Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông yên ủi các: B37 MC 2-ABC286

Buổi sáng tinh sương hôm đó, trên con đường dẫn tới vùng đất Moriyah (theo truyền thuyết: B38 MC 2-ABC287

Có một vị đạo sĩ cao niên bị mù. Ai nhìn thấy ông đều tỏ ra thương tâm và tìm cách cứu chữa: B39 MC 2-ABC288

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ mà Ngài yêu quý cách đặc biệt lên một: B40 MC 2-ABC289

Mùa chay kêu gọi mọi người ý thức về tội lỗi riêng, tội lỗi xã hội, tôi lỗi thế giới, trong các tổ B41 MC 2-ABC290

Nếu hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành Thánh Lễ ngày Chúa Nhật II Mùa Chay và có người MC 2-ABC291

Đây là Con Ta yêu dấu, Hãy vâng nghe lời Người," Với những lời này, Thiên Chúa Cha ban: B43 MC 2-ABC292

Trích sách Sáng Thế: Trong những ngày ấy, Thiên Chúa thử lòng ông Abraham và nói với ông: B45 MC 2-ABC293

Đúng vào ngày dân Việt đang vui vẻ ăn Tết Quý Mùi 2003, thì một tin dù chẳng mấy liên quan: B46 MC 2-ABC294

Như chúng ta vừa nghe, bài Tin Mừng thuật rằng sau khi đưa các môn đệ lên núi, thì Chúa biến: B47 MC 2-ABC295

Theo Tin Mừng Nhất Lãm, sau khi Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên: B48 MC 2-ABC296

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra trên đỉnh Taborê hoàn: B50 MC 2-ABC297

Để có thể minh định vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn Phúc Âm về sự Biến hình: B51 MC 2-ABC298

Ở đây chúng ta đang đối diện với một biến cố trong đời sống Chúa Giêsu vốn được phủ bằng: B52 MC 2-ABC299

Quang cảnh rực rỡ đang diễn ra đã tỏa lan trên bầu khí nặng nề ngự trị trong Phúc âm kể tư: B53 MC 2-ABC300

Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ: B54 MC 2-ABC301

Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu: -B55 MC 2-ABC302

Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về: B56:  MC 2-ABC303

Đáp lại câu hỏi thúc ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố Thầy là Đấng Messia”. Đức: B57 MC 2-ABC304

Các lời mời gọi bản văn Biến Hình đưa ra có vẻ như dành cho con người hiện đại, nhất la: B58 MC 2-ABC305

Thánh Marcô cho biết: sáu ngày sau khi thánh Phêrô truyên xưng Ịức Giêsu tại Cêsarêa của: B59 MC 2-ABC306

Match Point là một cuốn phim do đạo diễn Woody Allen vừa thực hiện đang đuợc trình chiếu: B60 MC 2-ABC307

Cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình, một chuyến đi đường. Điều này, tác giả MC  đã cho B61 MC 2-ABC308

Năm 1990 trong cuộc Đại Hội Liên Hoan giới trẻ Phong Trào Tổ Ấm tại Roma, mọi người đều: B62: MC 2-ABC309

Chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy: B63 MC 2-ABC310

Tác giả Phúc Âm Mác-cô, và cả Mát-thêu và Lu-ca nữa, tường thuật sự kiện một ngày kia: B64 MC 2-ABC311

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, điều chúng ta rất lấy làm thú vị là Ngài luôn thích những: B65 MC 2-ABC312

Tin mừng hôm nay tường thuật cuộc biến hình của Đức Giêsu trên núi Tabo, trước sự hiện diện: B67 MC 2-ABC313

Biến cố Đức Giêsu biến đỗi hình dạng trong cuộc gặp gỡ trên đỉnh núi có thể được coi như: B69 MC 2-ABC314

Theo tin mừng Luca và Marcô thì các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo: B70 MC 2-ABC315

Lời khẳng định thâm tín đó của thánh Phaolô có thể coi như diễn tả đúng niềm tin của Abra: B71 MC 2-ABC316

Từ bao nhiêu năm nay, chúng ta quen gọi việc Chúa Giêsu biến đổi diện mạo sáng chói trên: B72 MC 2-ABC317

Ca dao Việt Nam có những câu như sau: “Yêu nhau mọi sự chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch: B73 MC 2-ABC318

Đoạn Tin mừng của Chúa nhật thứ 2 Mùa Chay hôm nay cũng được sử dụng trong lễ Chúa: B74 MC 2-ABC319

Thiên Chúa một khi tạo dựng và trao ban cho loài người quyền tự do và quyền làm chủ trái đất: B75 MC 2-ABC320

Nhiều người chỉ thấy và tin vào những thực tại bề ngoài của sự vật, cũng giống như những: B76 MC 2-ABC321

Con xin hỏi: Tại sao Chúa Giêsu biết trước Giuđa sẽ phản bội Ngài, mà Ngài vẫn để yên cho: B77 MC 2-ABC322

Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của: B79 MC 2-ABC323

Abraham và Sara lúc tuổi đời đương tận, Chúa đã ban cho ông bà một đứa con hồng phúc: B81 MC 2-ABC324

Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung này là một trong những sự kiện quan: B82 MC 2-ABC325

Người xưa có câu: “chọn mặt gửi vàng”. Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem: B83 MC 2-ABC326

Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình va: B84 MC 2-ABC327

Ngày xưa ông Mô sê đã hai lần lên núi Sinai mây phủ trắng xóa, suốt 40 đêm ngày mỗi lần: B85 MC 2-ABC328

Toàn bộ Lời Chúa hôm nay là những bài học Đức Tin: Abraham sẵn sàng tế sát đứa con trai: B86 MC 2-ABC329

Đức Kitô  đã làm Người, và Ngài đã sống một mùa chay.  Mùa chay và thân phận của con người: B87 MC 2-ABC330

Ông bà ta vẫn thường nói “Ở trong chăn mới biết chăn có rận !” hay là “Đèn nhà ai nấy rạng: B88 MC 2-ABC331

Chúng ta đã bước sang Chúa Nhật II Mùa Chay.Trong Chúa Nhật II Mùa Chay, bài Phúc Am: B89 MC 2-ABC332

Khi còn bé và ngay cả bây giờ tôi rất mê ảo thuật. Còn bé khi xem ảo thuật, tôi đã tin chắc: B90 MC 2-ABC333

Từ xưa, người Công giáo quen gọi việc Chúa Giêsu biến đổi diện mạo sáng chói trên núi cao là: B91 MC 2-ABC334

Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Chúa Nhật này bước sang tuần thứ 2 Mùa Chay của chu kỳ: B93 MC 2-ABC335

Lời Chúa tuần này đến với chúng ta với câu truyện rất quen thuộc: câu truyện Chúa biến hình trên: B94 MC 2-ABC336

Theo tường trình của các nhà tâm lý ở Hoa kỳ thì số người tìm đến để giúp trị liệu ngày càng: B95 MC 2-ABC337

Targer là một tín hữu nhiệt thành trong một cuộc chia sẻ với chúng bạn về Chúa tình thương: B96 MC 2-ABC338

Một nhà đại phú hộ người Pháp, suốt đời chỉ lo hưởng thụ mọi vinh hoa phú quí, dinh thự nguy: B97 MC 2-ABC339

Ở Hoa Kỳ, một trong những phi trường quốc tế lớn nhất và đầy đủ nhất là phi trường Pensylvania: B98 MC 2-ABC340

Câu chuyện được viết sau khi Đức Giêsu Phục sinh vinh quang, đã đuợc tin vững vàng, đã: B99 MC 2-ABC341

Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, chúng ta được thánh sử Maccô trình bày về cuộc: B100 MC 2-ABC342

Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn cho mình được sung sướng, hạnh phúc. Thế mà: B101 MC 2-ABC343

Khi nói biến hình, người ta nghĩ ngay đến việc thay đổi hình dạng từ trạng thái này sang trạng: B102 MC 2-ABC344

Năm nào cũng vậy, cứ đúng vào ngày Chúa nhật thứ hai Mùa chay, là Giáo hội cho chúng: B103 MC 2-ABC345

Biến cố hiển dung trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, hé mở trước vinh quang thật của: B104 MC 2-ABC346

Sau khi tiên báo mình phải đi vào cuộc thương khó, phải chịu nạn chịu chết, Chúa Giêsu nhận: B105 MC 2-ABC347

Vũ trụ chúng ta sống luôn biến đổi. Người sống vùng sa mạc nhận biết biến đổi rõ nhất là trong: B106 MC 2-ABC348

Trong những năm tháng theo Chúa Giêsu, được Ngài đào tạo, hướng dẫn và làm phép lạ để: B107 MC 2-ABC349

Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình vì nhiều thi nhân: B108 MC 2-ABC350

Nếu có ai cứng cỏi bảo rằng: Bài Tin Mừng hôm nay là một lạc điệu thì cũng không phải là không: B109 MC 2-ABC351

Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều đặt biến cố Chúa Giêsu biến hình vào giữa hai lần loan báo trước: B110 MC 2-ABC352

Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi: B111 MC 2-ABC353

Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và: B112 MC 2-ABC354

Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao: B113 MC 2-ABC355

Câu truyện Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai mình là Ixaác đặt toàn bộ việc cử hành Mùa Chay: B114 MC 2-ABC356

Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau: B115 MC 2-ABC357

Có hai thuyết về ngọn núi nơi Chúa Giê-su biến đổi hình dạng: có thể là núi Các-men ở miền bắc: B116 MC 2-ABC358

Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra: B117 MC 2-ABC359

Trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, có một khuôn mặt nổi bật, đáng cho chúng ta suy nghĩ B118 MC 2-ABC360

Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới B119 MC 2-ABC361

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất B120 MC 2-ABC362

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dường như có vẻ thách đố chúng ta. Bài đọc thứ nhất kể lại câu B121 MC 2-ABC363

Mỗi lần Chúa Cha nhắc đến tình yêu Cha Con dành nhau ta thấy tình yêu đó luôn thể hiện không B122 MC 2-ABC364

Chúa Nhật 14.04.1985, Lễ Lòng Chúa Xót Thương, Lm. Jose Maniyangat đi dâng Thánh Lễ tại một B123 MC 2-ABC365

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian mang hình hài thể xác con người như ta, nhưng hôm  B124 MC 2-ABC366

Bài Tin Mừng về việc Chúa hiển dung còn gọi là Chúa Biến Hình hôm nay nằm trong phần đầu B125 MC 2-ABC367

Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ thân tín là Phêrô,Giacôbê và Gioan lên núi Taborê, tại đó, Chúa đã B126 MC 2-ABC368

Hôm nay, thánh sử Máccô trình thuật câu chuyện Đức Giêsu biến hình. Việc Đức Giêsu biến hình B127 MC 2-ABC369

Quà tặng là dấu chỉ tình yêu.  Giá trị quà tặng không phải vì đắt tiền và hiếm quý, nhưng là ở mối B129 MC 2-ABC370

Francois Margeat, Đan sĩ viết:” Lễ Hiển Dung là thời khắc chủ yếu của việc Chúa Giêsu đi lên B130 MC 2-ABC371

Trong cuộc đời dương thế, Chúa Giê-su ít nhất đã hai lần được Thiên Chúa long trọng tuyên dương B131 MC 2-ABC372

Biến cố Chúa hiển dung trên núi Thabor được cả 3 thánh ký Tin mừng nhất lãm trình thuật lại. B132 MC 2-ABC373

Thánh Mác-cô kể lại ba lần Chúa Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người.  B133 MC 2-ABC374

Biến cố Hiển dung, tức là Chúa Giê-su biến hình dạng trên núi cao, được đặt vào Phụng vụ Lời B134 MC 2-ABC375

Bài đọc Tân Ước hôm nay vẫn tiếp tục suy niệm về vai trò của Chúa Ki-tô trong kế hoạch cứu độ B135 MC 2-ABC376

Sau tháng 4 năm 75, tôi gặp lại một người học trò cũ tại Hoa-kỳ.  Lúc ấy vợ con anh còn kẹt lại bên B136 MC 2-ABC377

Con người chúng ta giới hạn, khó có thể nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa sai B137 MC 2-ABC378

Lúc Chúa Giêsu và 3 môn đệ đang ở trên núi (biến hình) thì ở dưới núi, người ta đem đến cho các B138 MC 2-ABC379

Núi là biểu tượng cho sự uy nghi, hùng vĩ, cao cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi B139 MC 2-ABC380

Michel Ange và Raphael là hai kiến trúc sư thiên tài, còn là họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng nhất MC 2-ABC381

Trong cuốn phim “Mặt nạ,” có chuyện cậu Rocky Dentris. Cậu mắc chứng bệnh khác thường. Do MC 2-ABC382

Tinh thần của Mùa Chay là đi vào sa mạc của lòng mình để ở với Chúa trong thinh lặng và cầu MC 2-ABC383

Sau một trận cháy rừng ở Yellowstone Park, tiểu bang Wyoming, Hoa Kỳ, những nhân viên kiểm MC 2-ABC384

Chúa đưa Phêrô, Giacobê, và Gioan lên núi cao và biến hình trước mặt các ông, lại có Elia và MC 2-ABC385

Trong cuộc sống thường ngày, chắc hẳn chúng ta đã gặp những người mà dường như họ được MC 2-ABC386

Chúa nhật II Mùa Chay Thánh sử Luca đưa chúng ta lên núi Tabor, cùng với ba Tông đồ Phêrô- MC 2-ABC387

Mùa chay chúng ta thường nói đến ba việc đạo đức không thể thiếu là ăn chay, cầu nguyện, và làm MC 2-ABC388

Một người hàng xóm nhìn thấy bạn mình quì gối và chống tay tìm kiếm vật gì đó ngoài sân. Ông MC 2-ABC389

Trên Núi Tabo, ánh sáng của Thiên Chúa toả ra từ cơ thể của Đức Giêsu, và Người được biến hình MC 2-ABC390

Đây là một trụ mốc khác trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúng ta nên nhớ rằng Ngài đang sửa soạn MC 2-ABC391

Chúa Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem. Và tại đây, Ngài sẽ bị MC 2-ABC392

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu MC 2-ABC393

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về thái độ của Phêrô. Như chúng ta MC 2-ABC394

Biến Cố Biến Hình: Vai trò trong Phụng Vụ Mùa Chay  Chúa Nhật mở màn cho cho Mùa Chay MC 2-ABC395

Việc cần phải làm trong Mùa Chay Thánh là: ăn chay, cầu nguyện, và bố thí. Ba việc này diễn MC 2-ABC396

Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giê-su đưa ba môn đệ ra khỏi MC 2-ABC397

Trong Mùa Chay, Hội Thánh nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua MC 2-ABC398

Chúng con vừa nghe bài Tin Mừng của thánh Matthêu. Tin Mừng hôm nay nói về cái gì chúng MC 2-ABC399

Trong câu chuyện Chúa Giêsu biến hình, chúng ta có thể đọc được giá trị và mật độ sự biến đổi MC 2-ABC400


-----------------

 

MC 2-ABC401: Sống xứng tầm người con Thiên Chúa


Lc 9, 28 – 36

 

Nhìn vào dáng vẻ bên ngoài của Chúa Giêsu, người đời nhận thấy Ngài chỉ là anh thợ mộc giản MC 2-ABC401


Nhìn vào dáng vẻ bên ngoài của Chúa Giêsu, người đời nhận thấy Ngài chỉ là anh thợ mộc giản dị làng Na-da-rét hoặc là một ông thầy giảng dạy lôi cuốn, hấp dẫn mà thôi.

Thế rồi, qua việc Chúa Giêsu tỏ lộ thần tính, tỏ lộ chân dung đích thực của Ngài trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê mới phát hiện ra căn tính của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng cao cả tuyệt vời, ẩn mình dưới hình hài con người bình dị.

Đối với những kitô hữu, chúng ta cũng thấy điều tương tự:

Nhìn vào dáng vẻ bên ngoài, chúng ta cũng chỉ là những con người hèn mọn, vô danh tiểu tốt.

Tuy nhiên, bản chất của chúng ta rất cao đẹp, rất tuyệt vời.

Dù chúng ta mang kiếp bụi trần, thân phận mỏng giòn yếu đuối, vậy mà nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, Thiên Chúa nâng chúng ta lên, cho chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, trở thành người con chí ái của Chúa tể trời đất. Cao trọng biết bao!

Dù chúng ta mang đầy tội lỗi, mang xác thịt hư hèn, vậy mà nhờ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, Chúa Giêsu cất nhắc chúng ta lên, nâng hạt bụi thấp hèn này lên… để tháp nhập vào Thân mình Ngài, cho chúng ta trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài! Cao cả biết chừng nào!

Và nhờ trở thành một chi thể trong Thân thể Chúa Giêsu, sự sống của Thiên Chúa ba Ngôi, sự sống rất cao vời và viên mãn, không bao giờ lụi tàn, được thông ban cho chúng ta, như nhựa sống từ thân nho chuyển sang cành nho, để chúng ta được sống đời đời với Chúa! Tuyệt vời khôn tả!

Và qua Bí tích Thánh thể, Chúa Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta lãnh nhận, để nhờ đó, chúng ta được nên một với Chúa Giêsu, đồng huyết nhục với Ngài và nhờ đó, được sống vĩnh cửu với Ngài. Đây là một hồng ân vô cùng cao quý.

Vậy thì chúng ta hãy vui mừng hoan lạc, hết lòng cảm tạ Chúa và phải sống làm sao cho xứng với ân huệ Chúa ban cho mình.

Ý thức mình là con Thiên Chúa để vươn lên

Một người thợ săn bắt gặp một ổ trứng phượng hoàng trong khu rừng nguyên sinh. Anh đem ổ trứng ấy về nhà, trộn chung vào ổ trứng của gà mẹ đang ấp. Mấy tuần sau, một chú phượng hoàng con xinh đẹp chào đời và được gà mẹ dẫn đi ăn chung với đàn gà con bé nhỏ.

Phượng hoàng con lớn lên bên cạnh những con gà khác, luôn nghĩ rằng mình cũng thuộc nòi giống gà như những con gà cùng lứa, cùng cào bới đống rác, đống phân… để kiếm ăn như những con gà kia.

Thế rồi, vào ngày định mệnh ấy, một con phượng hoàng oai phong từ trên cao thình lình đáp xuống khiến cả đàn gà hoảng hốt chạy tán loạn. Phượng hoàng tiến đến gần chú phượng hoàng con, chỉ cho nó biết nó không phải là chú gà tầm thường, nhưng thuộc giống nòi phượng hoàng oai phong lẫm liệt.

Thế là từ hôm đó, phượng hoàng con ngẩng cao đầu, vươn cao cổ, bắt đầu xoè cánh tập bay và chẳng bao lâu, nó xoải rộng đôi cánh, phóng mình vút lên, bay lượn giữa khung trời cao xanh lộng gió, trông thật oai hùng.

Ban đầu, khi không ý thức mình là phượng hoàng mà tưởng mình chỉ là gà, nên phượng hoàng sinh hoạt như những con gà khác, suốt ngày quanh quẩn trong sân gà vịt, moi móc rác rến kiếm ăn; nhưng một khi nó phát hiện ra mình không phải là thứ gà tầm thường mà là thuộc nòi giống phượng hoàng oai vệ, thì nó từ bỏ góc sân gà vịt, từ bỏ việc cào phân bới rác để xoải cánh bay lượn trên khung trời cao rộng,

Tương tự như thế, chúng ta cũng cần phải phát hiện ra phẩm giá cao đẹp của mình là người con Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giêsu… Nhờ đó, chúng ta không để mình bị vùi dập bởi những thói hư tật xấu, không đắm mình trong lối sống ươn hèn, nhưng chuyên chăm tập rèn những đức tính tốt, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp, để sống xứng tầm người con Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Từ địa vị thấp hèn, Chúa nâng chúng con lên bậc con Thiên Chúa, trở nên chi thể của Chúa và được thừa hưởng sự sống viên mãn của Ngài. Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ nếp sống cũ đầy tội lỗi và bất xứng, để bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời cao đẹp của người con Thiên Chúa.

 Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

----------------------------

 

MC 2-ABC402: Chúa  Hiển  Dung


St 15,5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9, 28b-36

 

Tuần trước Thầy báo cho môn đệ biết trước cuộc thương khó Thầy sẽ phải chịu, các ông không hiểu MC 2-ABC402


Tuần trước Thầy báo cho môn đệ biết trước cuộc thương khó Thầy sẽ phải chịu, các ông không hiểu, Phêrô thì không chấp nhận nổi nên can ngăn, bị Thầy mắng là “Satan…”. Hôm nay Thầy kéo ba môn đệ được yêu hơn (trong đó có Phêrô) đi riêng lên một ngọn núi cao, cho cả ba chiêm ngưỡng thước phim có một không hai: “Thầy biến đổi hình dạng”! Sướng quá các ông quên hết sự đời! Vẫn cái ông Phêrô nhanh nhảu nói vu vơ mơ mộng trong mê sảng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” (Lc 9,33). Chỉ “dựng lều” cho ba nhân vật trong “bức tranh tuyệt mỹ” này thôi, còn các ông thì cứ say ngắm thế này đã đủ, chả còn thiết sự gì nữa… Thế đấy, ai thấy khổ mà chẳng bàn lùi tránh né, thấy sung sướng oai phong thì ôm mơ dệt mộng chẳng muốn xa rời.

Khi chìm đắm chất ngất trong lúc cầu nguyện, ở trên núi (cảnh đất trời gần nhau), trong giây phút xuất thần, Thầy trở nên rực rỡ tuyệt trần. Ngày xưa lúc Môsê cầu nguyện gương mặt ông cũng bừng sáng lên. Hôm nay được lên núi cầu nguyện với Thầy, các ông được sung sướng ngất ngây, được chiêm ngưỡng vinh quang Thầy, trực diện với bậc Ngôn Sứ vị vọng trong lịch sử cứu độ, đàm đạo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy, cuộc Tử Nạn mà Thầy đã loan báo. Phêrô hôm nay được nghe và xem thấy tận mắt. Đang say mê với cảnh thiên đường, bỗng từ trong đám mây có tiếng Chúa Cha xác nhận và kéo các ông trở về thực tại: “Đây là Con Ta , Người đã được Ta tuyển chọn,  hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35b). Ở lại chiêm ngắm Thầy biến hình thì dễ, nhưng phải thực hành vâng nghe lời Người là điều khó hơn nhiều, phải từ bỏ mình, vác thập giá, đi vào con đường hẹp, liều mất mạng sống…

Biến cố hiển dung của Thầy nhằm củng cố đức tin cho các môn đệ, trước khi bước vào thử thách trong cuộc thương khó. Nhưng sự hăng hái này không còn tới ngày mà khuôn mặt Thầy đầy mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu, ngày xem thấy khuôn mặt đầy thương tích của Thầy trên đồi Sọ. Sau này Phêrô đã làm chứng rằng: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người.” (2Pr 1,16-18).

Chúa ơi! ngày nay chúng con có đủ can đảm xuống núi làm chứng cho Thầy giữa những tối tăm trong cuộc sống thực tại, bằng những điều mình từng “thấy” khi được lên núi với Thầy không? Xin Thầy dẫn đưa chúng con vào mối tình gắn bó keo sơn với Thầy, để trong Thầy, chúng con được biến đổi từ trong ánh mắt, đôi tai, môi miệng, trái tim, để dung nhan sáng láng dịu hiền của Thầy hiện rõ trên khuôn mặt phàm trần của chúng con.

Én Nhỏ

----------------------------

 

MC 2-ABC403: Chúa nhật II Mùa Vọng B


 ( MC  3, 1-3 )

 

Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến trần gian thực hiện Ơn Cứu Độ, Thiên Chúa sai phái một người MC 2-ABC403


Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến trần gian thực hiện Ơn Cứu Độ, Thiên Chúa sai phái một người dọn đường. Gioan Tẩy Giả, còn được gọi là Gioan Tiền Hồ. Người đi trước, người chuẩn bị con đường.

Hình ảnh con đường hiện diện khắp nơi trong các bản văn Kinh Thánh; bởi vì, trong các xã hội thời đó, những con đường và những lộ trình là mối dây liên lạc sống động giữa con người và các nền văn hóa. Chúng cũng còn là địa điểm của những cảm nghiệm thiêng liêng của Dân Chúa.

Dân Israel đã sinh ra trên một con đường: con đường hoang địa nơi mà Thiên Chúa đã dẫn dắt và đào tạo Dân riêng của ngài. Những thế kỷ sau đó, Dân Chúa, vì bất trung, đã lãnh nhận con đường lưu đày ở Babylone. Thế nhưng, Thiên Chúa đã không bỏ rơi israel: sau năm mươi năm, ngài đã hứa là cho Israel trở về quê hương xứ sở. “ Các ngươi hãy chuẩn bị con đường của Chúa, qua hoang địa ”.

Lời hứa kỳ diệu này về một con đường tự do mới đến thật tự nhiên trên đôi môi của vị Tiền hô để loan báo việc Đấng Cứu Thế đến. Những con đường xứ Palestine sẽ thực sự trở thành “ những con đường của Chúa”. Chính nơi đó mà ngài sẽ công bố “ Tin Mừng”: “Thời gian đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần” ( MC  1,15 ).

Chúng ta còn nhớ, sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ đi lại những con đường của loài người để làm cho trở thành những con đường của Chúa: “ Anh em hãy đi khắp nơi trên thế giới; hãy loan báo Tin Mừng cho toàn thể tạo vật”.

Khi tiên tri Isaia công bố lời rao giảng này, thì ông đã biết là, nó sẽ được lắng nghe. Chính ngay giữa lòng sự khốn quẫn mà dân Israel nghe những từ ngữ này vang lên mãnh liệt: “ Dân Ta”, “ Thiên Chúa của anh em”. Đó cũng chính là những từ ngữ của Giao Ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và Dân ngài. Thật vậy, Dân Chúa đã lỗi hẹn, thất trung; và họ biết điều đó; thế nhưng, họ vẫn xác tín một cách chắc chắnlà, Thiên Chúa luôn trung tín, cho dù có gì xảy ra đi nữa, và không có gì sẽ có thể xé rách Giao Ước mà ngài đã ký kết với dân Israel. Thiên Chúa cao trọng hơn con người rất nhiều, đã tha thứ một cách không tính toán.

Ngày nay, một câu hỏi chính yếu được đặt ra: Làm thế nào lời của tiên tri Isaia có thể vang dội đến tai những người đương thời của chúng ta ?- Những người kitô hữu có biết rằng, họ đã được yêu thương một cách kỳ diệu trong Giao Ước vĩnh cửu của Thiên Chúa hay không ?-

Nếu chúng ta coi bí tích Rửa tội của chúng ta là cao trọng, chúng ta phải rút ra từ đó những hệ quả. Chúng ta đã được ngụp lặn trong Chúa Thánh Thần, chúng ta mãi mãi được ghi dấu ấn từ Chúa Thánh Thần. Điều đó phải trao ban cho chúng ta tất cả những sự mạnh dạn để chu toàn sứ mạng của chúng ta. Sứ mạng này có hai, nếu chúng ta đọc lại thư thánh Phêrô và Phúc Âm theo thánh Marcô. Đó là công bố Tin Mừng và làm cho ngày của Chúa mau đến.

Để đạt được điều đó, cần phải có ba điều kiện:

Thứ nhất là hãy yêu mến thế giới. “ Người ta chỉ có thể biến đổi những gì mà người ta yêu mến”. Chúng ta phải yêu mến trách nhiệm này đã được ủy thác cho chúng ta, và không bao giờ nản lòng. Thế giới đang trông chờ chứng từ đức tin và niềm hy vọng của chúng ta, được thể hiện một cách cụ thể trong cuộc sống đời thường.

Thứ hai là hãy học biết phân định điều gì đi đúng hướng. Tái dẫn nhập mọi điểm qui chiếu vào Nước Thiên Chúa đang đến. Thực hiện điều đó trong tư tưởng, trong phán đoán và trong cung cách ứng xử của mình, ngày nay là một bổn phận chính yếu của Giáo Hội. Trước hết, không phải vì nền văn hóa nhấn mạnh đến tương lai. Mà, bởi vì lòng trung tín với Tin Mừng đòi hỏi. Dù cho đôi khi cần phải can đảm và lội ngược dòng.

Điều kiện thứ ba là hãy hành động, quyết tâm dấn thân. Đừng tự bằng lòng về việc hối tiếc quá khứ. Chương trình của Thiên Chúa đòi hỏi sự cộng tác của chúng ta, ngay bây giờ, cho dù nhỏ bé, nhưng rất cần thiết và quý báu.

Điều kiện sau cùng rất đơn giản là hãy giữ nụ cười. Vui tươi và lạc quan. “ Sứ điệp niềm hy vọng vĩnh cửu của chúng ta, chính là bình minh sẽ đến… Ngay cả những đêm thiếu vắng những vì sao nhất, cũng sẽ loan báo bình minh của một tuyệt tác nào đó đang ló dạng.

Mỗi người hãy là một Gioan Tiền Hô, dọn đường cho Chúa đến trong cuộc đời chúng ta và địa phương thân yêu của chúng ta.

----------------------------

 

MC 2-ABC404: Ai được lên Núi Chúa?


AM. Trần Bình An

 

Vào ngày 12-ABC4 -1961, Yuri Gagarin trở thành phi hành gia người Nga đầu tiên. Chiếc phi thuyền MC 2-ABC404


Vào ngày 12-ABC4 -1961, Yuri Gagarin trở thành phi hành gia người Nga đầu tiên. Chiếc phi thuyền Vostok-1 bay được một vòng quanh qũy đạo trái đất trong 1 giờ 48 phút, với vận tốc 17,000 miles một giờ. Anh trở thành một anh hùng của dân tộc Nga vào lúc đó, vì đã làm cho cả nước Nga hãnh diện vì sự tiến bộ của họ. Sau đó, đã có một buổi tiếp tân rất lớn để vinh danh anh. Người bạn thân và đồng nghiệp của anh là phi hành gia Alexei Leonov thuật lại.

Lúc đó Tổng bí thư Nikita Khrushchev hỏi dồn Gagarin: “Vậy nói cho tôi biết, anh có thấy Thiên Chúa trên đó không?” Lưỡng lự một chút, Gagarin trả lời dứt khoát: “Vâng thưa ngài, tôi có thấy!” Khrushchev cau mày, ông dặn dò: “Đừng nói với bất kỳ ai.” Vài phút sau, người đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Nga lại bên, hỏi Gagarin: “Vậy, con cho cha biết, con có nhìn thấy Thiên Chúa trên đó không?” Gagarin do dự trả lời: “Không, thưa cha con không thấy.” Ngài dặn: “Đừng nói với bất cứ ai.” (Giai thoại trong New Age Journal, Vol. 7 (1990), p. 176)

Thực tế Yuri Gagarin đã được rửa tội trong Giáo Hội Chính Thống, nhưng do áp lực của Soviet đối với Kitô giáo, anh buộc phải dè chừng lại chính mình. Sau khi bay vào vũ trụ, Gagarin đã tới nhà thờ Ba Ngôi Thiên Chúa của Đan viện Thánh Sergi lớn nhất nước Nga, để tạ ơn Thiên Chúa đã cho chuyến bay thành công tốt đẹp…
Xưa kia, ông Môsê lên núi Sinai, được Thiên Chúa ban 10 Điều Răn, rồi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrép, được Thiên Chúa ban cho sứ vụ. Nay Chúa Giêsu lên núi Tabor cùng với ba vị Tông đồ, Phêrô, Gioan, Giacôbê, diện mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Người đàm đạo với hai vị tiền bối Môsê và Êlia về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.

Nhưng muốn được vinh dự lên núi Chúa, đâu phải đơn giản, dễ dàng và thoải mái như bây giờ leo núi bằng cáp treo.

Thanh tẩy

Chuẩn bị lên núi Thiên Chúa, Ông Môsê nhắc nhở dân chúng phải tấy uế, giữ mình thanh sạch cả tâm hồn lẫn thể xác. “Ông Môsê từ trên núi xuống nói với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt quần áo. Ông Môsê bảo: “Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng. Đừng gần gũi đàn bà.” (Xh 19, 14 -15)

Trước khi bước vào công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu vốn chẳng hề vương vấn tội nhơ, vẫn lặng lẽ, khiêm hạ đến cùng ngôn sứ Gioan Tiền Hô, để được chịu phép Thanh Tẩy, cùng được tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần.

Nhưng than ôi, chiếc áo trắng ngày chịu Phép Rửa Tội của tôi, nay đã hoen ố, lốm đốm, đen đúa, vền vện đỏ đen, lấm lem dầu nhớt, lỗ chỗ vết thủng, rách rưới, tả tơi. Chẳng còn tươm tất, nguyên vẹn, sạch sẽ, trinh nguyên, như tâm hồn trẻ thơ nữa. May thay, sau khi ăn năn, sám hối, nhờ ơn Hòa Giải, tấm áo đã được tấy trắng, tuy không còn được như mới, nhưng cũng trở nên sạch sẽ, thơm tho, lành lặn, không còn là mớ giẻ rách bỏ đi, chỉ đáng vất vào lò lửa không bao giờ tắt.

Chay tịnh và cầu nguyện

Ông Môsê dẫn dắt dân Israel bốn mươi năm trong sa mạc, một cuộc lữ hành trường kỳ, gian lao, khổ cực, một cuộc chay tịnh hoàn hảo, chỉ có bánh manna và nước lã. Tuy nhiên lòng dạ dân Israel vẫn chưa tĩnh, còn ngồn ngang trăm bề, nhung nhớ củ hành của tỏi Ai Cập, lẫn bụt thần dân ngoại.

Khi đào thoát khỏi tay hoàng hậu Ideven, ngôn sứ Êlia chạy trốn trong sa mạc, kiệt sức, ông được thiên sứ dưỡng nuôi bánh và nước. Tâm hồn thanh tịnh, phó thác vào tay Chúa Quan Phòng, ngôn sứ Êlia đi một mạch, suốt bốn mươi đêm ngày tới Khôrép, là núi của Thiên Chúa, để được giao sứ vụ. (1V 19, 8)

Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu độ nhân thế, bằng bốn mươi ngày đêm chay tịnh và cầu nguyện trong hoang mạc, chịu tôi luyện hết cơn cám dỗ này đến cám dỗ khác. Một lòng một dạ trung kiên, đi theo Thánh Ý Chúa Cha, đã được công khai xác nhận: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng lời Người!” (Lc 9, 35)

Bước vào Mùa Chay Thánh, tôi lại coi chay tịnh chỉ như nghi thức bắt buộc của tín hữu Công giáo, nên chỉ tuân giữ theo hỉnh thức: kiêng thịt và ăn chay. Mà lòng dạ chẳng hề chay tịnh, chẳng hề thay đổi được gì. Vẫn cứ ham hố sự đời: tình, tiền, chức tước, địa vị… Cứ làm như tôi qua mặt Chúa dễ dàng, như lừa dối ông giám thị nhà trường, hay đốc công, giám sát tại công ty, xí nghiệp. Tôi đang theo đạo, giữ đạo, sống đạo hình thức, chứ nào sống trung thực Tin Mừng! Làm sao tôi xứng đáng lên núi Chúa?

Từ bỏ mình & Vác thánh giá

Cuộc xuất hành của dân Israel ra khỏi Ai Cập trước tiên có ý nghĩa từ bỏ tất cả những gì dính líu đế thân phận nô lệ. Ông Môsê đã giải thoát dân Israel, và dẫn đưa về miền Đát Hứa. Còn Chúa Cứu Thế sau này giải phóng con người toàn diện, khỏi ách nô lệ cũa ma qủy.

Không những từ bỏ những cám dỗ của thế gian, xác thịt và ma quỷ, Chúa Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ chính mình, bỏ cái tôi kiêu căng, tự phụ, lố bịch, để chấp nhận đau khổ, sỉ nhục và đọa đầy, vác thánh giá mà theo Người, nếu ai muốn lên Núi Chúa.

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay thiệt thân, thì nào có lợi ích gì?” (Lc 9, 23 -25)

Ông Môsê, ngôn sứ Ê lia, và cả Chúa Giêsu đã sẵn sàng từ bỏ mình, nhập thể, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận đau khổ, thử thách, để được vinh dự đến với Thiên Chúa. Còn tôi lại chạy trốn khó khăn, khổ cực, đòn vọt, để yên thân, no cơm ấm cật. Tôi từ bỏ vợ con, anh em, bè bạn, để lấy vợ bé, để ngoại tình, để kết bè kết bạn với kẻ xấu, với ma quỷ, hầu được vinh hoa phú quý, sao dám mơ tưởng lên Núi Chúa?

“Abraham đã ra đi, vì hy vọng đến Đất Hứa. Maisen đã ra đi, vì hy vọng cứu dân Chúa khỏi nô lệ. Chúa Giêsu đã ra đi từ trời xuống đất, vì hy vọng cứu nhân loại.” (Đường Hy Vọng, số 4)

Lạy Chúa Giêsu, được diện kiến Thiên Chúa là cõi phúc tuyệt vời, xin cho con luôn sống trong nguồn ơn thánh của Chúa, để linh hồn con có thể cảm nghiệm được sự vui sướng ngọt ngào, khi có Chúa ở cùng.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con thanh tẩy, thắng vượt mọi cám dỗ, biết từ bỏ mình, để được diện kiến Thánh Nhan Chúa. Amen.

----------------------------

 

MC 2-ABC405: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabore. Lâu nay, các MC 2-ABC405


Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabore. Lâu nay, các Tông Đồ chỉ xem thấy Ngài dưới hình dạng một con người bình thường.

Hôm nay, các ông thấy Ngài biến đổi thành một vị Thiên Chúa. Mùa chay là mùa tập luyện nhân đức để được biến đổi. Có hai cách biến đổi: Biến đổi theo hướng tích cực và biến hình theo hướng tiêu cực. Từ một con người xấu trở thành con người tốt hoặc từ một người tốt trở thành con người tốt hơn gọi là biến đổi theo hướng tích cực. Ngược lại, từ một con người tốt trở thành con người bình thường hoặc từ một con người tốt trở thành con người xấu gọi là biến đổi theo hướng tiêu cực.

Biến đổi theo hướng tích cực

Lần giở lại Kinh Thánh chúng ta bắt gặp nhiều trường hợp đã biến đổi theo hướng tích cực này. Chẳng hạn, dân thành Ninivê, từ vua chúa đến thường dân, khi nghe lời rao giảng của tiên tri Giona, đã ăn năn sám hối, biến đổi cuộc sống của mình. Lêvi, Giakêu, Madalêna là những người có quá khứ tội lỗi nhưng khi gặp Đức Kitô, các ngài đã trở thành những con người tốt. Rồi, sự biến đổi của Phaolô, Phêrô…Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy bao nhiêu người từ tội nhân đã trở thành thánh nhân. Trong chuyến thăm Ciudad Juarez – Mễ Tây Cơ tuần này, Đức Phanxicô đến thăm ‘Centro de Readaptacion Social estatal no. 3’ nơi giam giữ khoảng 3000 phạm nhân đang chịu án. Một nữ tù nhân nói với Ngài: “Khi bị tuyên án, chúng con khóc. Chúng con cảm thấy cùng quẫn, chúng con tuyệt vọng. Và chúng con bắt đầu tự hỏi mình những câu mà chúng con không muốn biết câu trả lời: Khi nào sẽ được ra? Gia đình có còn thương mình không? Họ có quên mình không? Chúng con cảm thấy nguy hiểm, yếu đuối, và cô độc”. Đáp lại những lời day dứt đau đớn này, Đức Phanxicô nói: “Người đã phải chịu đau khổ lớn nhất, có thể nói là ‘đã trải qua địa ngục’ có thể trở thành một ngôn sứ trong xã hội” (x. phanxico.vn ngày 18/02/2016).

Với chúng ta, từ những con người mang thân phận tội lỗi Adong, nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được biến đổi trở thành con Thiên Chúa. Và không thiếu những lần chúng ta đã sa vào con đường tội lỗi, nhưng với lòng sám hối ăn năn, Bí Tích Hoà Giải đã biến đổi chúng ta trong sạch, trả lại tình trạng ban đầu. Xin Chúa luôn gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào cũng biết hy vọng tin tưởng vào Chúa để được biến đổi theo hướng tích cực này.

Biến đổi theo hướng tiêu cực

Đáng tiếc thay, có những người không biến đổi theo chiều hướng tích cực mà lại biến đổi theo chiều hướng tiêu cực. Nghĩa là từ một con người tốt đã trở thành con người bình thường, thậm chí từ một con người tốt trở thành một con người xấu. Một Giuđa Tông Đồ, đã biến thành kẻ phản bội, người bán Chúa. Có những kitô hữu lúc đầu tốt nhưng rồi trở thành những người đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, gian dối, lừa đảo…Có những bậc cha mẹ sống vô trách nhiệm, không quan tâm giáo dục con cái; có những người con bất hiếu, không quan tâm đến cha mẹ khi các ngài yếu đau bệnh tật…Nếu ai đang sống trong tình trạng trên, hãy dùng Mùa Chay thánh này để biến đổi, trở thành những người tốt có ích cho bản thân, gia đình, Giáo hội và xã hội.

Để biến đổi theo chiều hướng tích cực, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Thứ nhất, phải trải qua Thập giá: Khi Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn, Thánh Phêrô đã can ngăn Chúa. Nhưng khi thấy Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê, Thánh Phêrô lại xin Chúa lưu lại ở đó. Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng của con người qua mọi thời đại: “Thích sướng ngại khổ”. Nhưng để tới vinh quang cần phải qua đau khổ. Chính Chúa Giêsu đã đi con đường đó, Ngài nói: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”(Lc 9,22). Các Tông đồ, đặc biệt là các thánh Tử đạo cũng đã đi con đường đau khổ mà Chúa đã đi. Đến lượt chúng ta, muốn tới vinh quang cũng không thể bỏ qua con đường đau khổ. Chúa Giêsu đã nói: “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”(Mt 16, 24). Nơi khác, Ngài nói:“Nước trời phải chiếm bằng sức mạnh”(x. Mt 11,12); “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(x. 13,24).

Kinh nghiệm cuộc sống thường ngày cũng cho chúng ta thấy, cần phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Học sinh muốn đỗ đạt trong các kỳ thi cần phải chịu khó trau dồi kinh sử. Nông phu muốn có mùa màng bội thu cần phải cày sâu cuốc bẫm. Người cha người mẹ muốn có tương lai tốt đẹp cho con cái cần phải nuôi nấng, săn sóc và dạy dỗ chúng nên người. Nếu chúng ta biết vận dụng đau khổ thì đau khổ là phương tiện để biến đổi chúng ta trở thành người tốt, trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện.

Thứ hai, hãy bắt chước Thánh Phaolô: Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài: “Anh em hãy bắt chước tôi” (Pl 3,17). Ngài muốn chúng ta bắt chước Ngài về sự biến đổi: Từ một người bắt bớ Giáo hội, Ngài đã biến đổi thành một vị tông đồ loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Bắt chước Ngài ở lòng tin vững mạnh, Ngài luôn xác tín rằng: “Tôi biết tôi tin vào ai”(x. 2Tm 1,12). Bắt chước Ngài ở niềm cậy trông vào Chúa là vị thẩm phán chí công: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”(2Tm 4,8). Bắt chước Ngài ở lòng mến sắt son: “Không có gì tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa”(x. Rm 8, 39). Thánh Phaolô đã sống nhưng không còn là Ngài sống nữa mà là Đức Kitô sống trong Ngài (x. Gl 2,20). Ngài đã đồng hoá mình với chính Đức Kitô.

Để biến đổi chính mình, chúng ta cần bắt chước Thánh Phaolô về Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến. Bởi vì, chính chúng ta cũng phải làm gương cho những người khác, nhất là những người thuộc trách nhiệm chúng ta coi sóc: Người mục tử nói với đoàn chiên “Hãy bắt chước tôi”; Người trên nói với người dưới “Hãy bắt chước tôi”; Thầy cô giáo lý viên nói với các học sinh của mình “Hãy bắt chước tôi”; Các bậc làm cha mẹ nói với con cái “Hãy bắt chước tôi”. Bắt chước những điều tốt đẹp để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa. Được như vậy, xã hội chúng ta sống sẽ bớt đi các tệ nạn, con người sống với nhau sẽ có tình nghĩa. Mọi người, mọi nhà sẽ được an vui.

Thứ ba, hãy cầu nguyện: Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: “Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài được biến đổi”(x. Lc 9,29). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu không những dạy cho chúng ta cầu nguyện mà Ngài còn làm gương cho chúng ta. Ngài cầu nguyện trước các biến cố quan trọng: Trước khi chọn các tông đồ; trước khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều; trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Ngài dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện. Bởi vì: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).

Thật vậy, lời cầu nguyện có sức biến đổi lạ thường. Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn cây Dầu, quyết định như Maisen giang tay trên núi, được tha thứ như người trộm lành”(ĐHV số 135). Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác quyết rằng: “Lời cầu nguyện chân thành khiến phép lạ xảy ra và giúp con tim chúng ta không bị chai cứng. Lời cầu nguyện sẽ biến đổi Giáo hội. Không phải chúng tôi, các Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, linh mục làm cho Giáo hội tiến về phía trước mà là chính các thánh.” (Bài chia sẻ ngày 12.01.2016 tại nhà nguyện Thánh Marta).

Mùa chay là mùa tập luyện để được biến đổi. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết biến đổi mình bằng cách: “từ bỏ mình vác thập giá mỗi ngày”, bắt chước gương biến đổi của Thánh Phaolô Tông đồ và siêng năng nguyện cầu.

Lạy Chúa Giêsu, qua Bí tích Rửa tội Chúa đã biến chúng con thành Con Thiên Chúa, thành hình ảnh của Ngài. Nhưng qua thời gian, hình ảnh đó đã bị thay đổi. Trong mùa chay thánh này, xin cho mỗi chúng con biết cố gắng tập luyện nhân đức, biết siêng năng cầu nguyện, “bắt chước” thánh Phaolô để biến đổi mình trở về tình trạng ban đầu, đó chính là hình ảnh của chính Chúa. Amen.

----------------------------

 

MC 2-ABC406: Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật II Mùa Chay


MC  9, 2-ABC10

 

Sau khi loan báo cuộc khổ nạn lần thứ nhất (MC  8,31), Thầy Giêsu nêu những điều kiện phải có MC 2-ABC406


Sau khi loan báo cuộc khổ nạn lần thứ nhất (MC  8,31), Thầy Giêsu nêu những điều kiện phải có để trở thành môn đệ như: phải vác thập giá, liều mất mạng sống mình… (MC  8, 34-35). Ắt hẳn trong những ngày ấy các môn đệ đã sống trong tâm trạng hoang mang, buồn bã, và có lẽ – đôi chút thất vọng. Hành trình theo Thầy thật không sáng sủa tí nào.  Chính Thầy Giêsu đã công bố con đường Ngài đi phải trải qua đau khổ, rồi bị giết chết… Nếu kết cục như vậy thì thật là một thất bại thảm họa cho Thầy và cho cả những môn đệ đã từ bỏ mọi sự để theo Thầy.

Sáu ngày sau, một quãng thời gian không dài nhưng cũng đủ làm cho những tâm trạng âu lo cảm thấy thời gian kéo lê nặng nề… Chúa Giêsu đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi. Có lẽ ba môn đệ này gần gũi với Chúa hơn và cũng cảm thấy lo lắng hơn cả về con đường mà Thầy sẽ đi. Ngài đã tỏ cho các ông một chút vinh quang của Ngôi Lời được giấu ẩn nơi thân xác của Ngài. Hai nhân vật của Cựu Ước là Môsê – đại diện cho Lề Luật, và Êlia – đại diện cho các ngôn sứ xuất hiện và cùng đàm đạo với Thầy. Các ngài là đại diện cho tất cả những lời Kinh Thánh được tiên báo về Đấng Mesia giờ đây được ứng nghiệm nơi Thầy Giêsu. Con đường thập giá mà Thầy Giêsu sắp bước vào không phải là dị biệt nhưng chính là con đường mà Đấng Mesia của Thiên Chúa phải đi qua. Cùng với các chứng nhân của Cựu Ước, chính Thiên Chúa Cha đã lên tiếng: “Đây là Con ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (9,7). Cuộc hiển dung trên núi hôm nay ắt hẳn nhắc các môn đệ nhớ tới cuộc thần hiện trên núi Sinai năm xưa. Hôm nay, các môn đệ, đại diện cho một Dân mới Của Thiên Chúa được chính Thầy Giêsu dẫn dắt phải vượt qua gian nan của thập giá mới đi đến vinh quang của phục sinh. Tiếng Chúa Cha mạc khải căn tính của Thầy Giêsu, hơn cả nhân vật có thế giá nhất của Cựu Ước là Môse, Giêsu là chính Con yêu dấu của Thiên Chúa. Vì thế, lời của Người là chân thật và đáng tin, các môn đệ hãy vâng nghe lời Người dù đó là những lời chói tai, gây hoang mang và sợ hãi.

Các môn đệ, những người đã rất gần gũi Thầy Giêsu, đã chứng kiến biết bao phép lạ, đã nếm đủ mùi vinh nhục với Thầy, nhưng dường như các ông đã vấp ngã khi Thầy mạc khải con đường thập giá. Phêrô cản Thầy (8, 32-ABC33) còn các môn đệ khác thì bàn tán. Đau khổ và cái chết qủa thật là một ngõ cụt không thể chấp nhận được. Trong nhãn quan tôn giáo thời ấy, sự thất bại này còn là dấu chỉ cho thấy bị chính Thiên Chúa bỏ rơi (x. Mt 27,42-ABC43). Thánh Maccô nhắc đến sáu ngày như muốn ám chỉ quãng thời gian các môn đệ tự loay hoay tự tìm lời giải đáp cho con đường thập giá mà Thầy Giêsu đã công bố. Sau đó, ngày thứ bảy, ngày của Thiên Chúa, ngày Đức Giêsu mặc khải vinh quang Thiên Chúa để thắp lên cho các ông niềm hy vọng và củng cố niềm tin vào Ngài.

“Hãy vâng nghe lời Người” Con đường của người môn đệ xưa và nay đều là con đường thập giá. Cũng như các môn đệ xưa đã có lúc phải vấp ngã, dường như mất hết hy vọng, sống trong hoang mang, sợ hãi… và bước đi trong tăm tối của đức. Những lúc ấy, lời mời gọi “hãy vâng nghe lời Người” và kinh nghiệm về Đức Giêsu phục sinh là động lực và sức mạnh giúp các ngài vững bước và trung thành với Chúa đến cùng. Ngày nay, người môn đệ theo Chúa cũng không thể chọn con đường khác ngoài con đường thập giá. Để đi hết con đường này, chúng ta cần có trải nghiệm về sự thân tình với Thiên Chúa qua cầu nguyện, được nghe Chúa nói ít là trong Kinh Thánh, được hưởng nếm trước vinh quang phục sinh của Chúa trong chiêm niệm, được cảm nghiệm những điều kỳ diệu Chúa làm trên cuộc đời chúng ta… Chính những kinh nghiệm này mới giúp chúng ta đi trọn con đường thập giá với niềm vui và hy vọng được tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Chúa.

Sr. Anna Nguyen Hiep

----------------------------

 

MC 2-ABC407: Cuộc chiến đấu thiêng liêng

 

Trong bốn mươi ngày Chay Thánh, Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa tập luyện MC 2-ABC407


Trong bốn mươi ngày Chay Thánh, Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa tập luyện cuộc chiến đấu thiêng liêng, chịu ma quỷ cám dỗ. Đó là một quá trình để Chúa Giêsu nên vững mạnh, không những khi bị ma quỷ cám dỗ trước những nhu cầu ăn uống là điều căn bản nhất, mà còn cả khi Người đối diện với cuộc khổ nạn và cái chết.

Nhưng cảnh tượng diễn ra trên núi Tabor trong đoạn Tin Mừng hôm nay thật khác xa với những gì đã diễn ra trong bốn mươi đêm ngày trong hoang địa. Trước đó, Phêrô đã đại diện anh em đồng môn tuyên bố: “Thầy là Đấng Kitô” (MC  8,29). Giờ đây đến lượt Chúa Cha tôn vinh Con Chí Ái của Ngài, có Thánh Thần dưới hình đám mây bao phủ: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Vinh quang ấy được hai nhân vật lịch sử Cựu Ước là Môisen và Êlia làm chứng. 

Cũng bởi vì Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn khiến các ông bị sốc, nên Người đã củng cố đức tin cho các ông bằng cuộc biến hình trên núi Tabor. Tuy biến cố này không phải là chóp đỉnh, nhưng đây được xem là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì nó tóm tắt tất cả mạc khải. Biến cố này còn có sự hiện diện của vị đại điện Lề Luật và Tiên tri.

Như vậy, toàn bộ Cựu Ước giới thiệu và quy hướng về Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Tin Mừng được mạc khải trước cho ba môn đệ thân tín Phêrô, Giacôbê và Gioan. Nhờ đó, các ông sẽ không bị ngã lòng thất vọng khi cùng trải qua với Chúa trong vườn Dầu ảm đạm, thậm chí Chúa sợ hãi đến nỗi đã đổ mồ hôi máu; cũng như qua cuộc khổ nạn đau thương trên thánh giá. Việc biến hình này để giúp các môn đệ vững tin, xác tín khi làm nhân chứng cho biến cố phục sinh sau này, hăng say loan báo Tin Mừng cứu độ. Và bởi vì các ông là những người sẽ trở nên ‘cột trụ’ của Giáo Hội, nên sẽ củng cố đức tin cho anh chị em mình. Tuy nhiên, việc biến hình đi đến trọn vẹn không phải khi các môn đệ ngây ngất và Phêrô muốn dựng lều ở mãi trên núi với Chúa, cũng không phải khi Chúa được truyền tụng chữa được bệnh và trừ được quỷ, hay được tung hô làm vua vì đã hóa bánh cho dân chúng ăn no nê, mà là khi Người phó thác để “Vâng theo ý Cha”.

Giây phút các môn đệ thật hạnh phúc khi được chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu biến hình. Và trong cuộc sống chúng ta, cũng có những giây phút mà chúng ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh tích tắc. Và rồi, con người chúng ta cũng được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, vậy chúng ta có hy vọng được “biến hình” không?

Cuộc “biến hình” của chúng ta không phải như trong phim Tây Du Ký, Tề Thiên Đại Thánh có phép thần thông biến hóa. Chúng ta có thể được “biến hình” vì chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, được Thiên Chúa phú cho có một lương tâm biết làm lành lánh dữ. Dầu thế, vẫn là “Nhân vô thập toàn”, do ảnh hưởng của cuộc sống trần thế này mà con người còn nhiều khiếm khuyết. Và ai trong chúng ta dám tự hào mình không có tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong con mắt anh chị em hay trong lòng mọi người.

Cho nên, chỉ khi chúng ta sống dưới sự chỉ dạy của Chúa, dưới những điều Răn của Ngài, để cho lương tâm mình được ánh sáng Thiên Chúa chiếu qua, chúng ta mới có thể được Chúa “biến hình” nên sáng láng tốt lành. Như người cha giải thích cho con mình rằng những hình người trong các tấm kính màu được gắn lên các khung cửa nhà thờ chính là những vị thánh. Họ được gọi là thánh vì đã để cho ánh sáng của Chúa soi chiếu vào trong cuộc đời họ để họ nên tốt lành thánh thiện vậy. Amen.
Lm Anfonso Nguyễn Quang Hiển

----------------------------

 

MC 2-ABC408: CHÚA NHẬT II MÙA CHAY A


Mt 17, 1-9

 

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng lên núi với Chúa Giêsu, không phải để được biến hình MC 2-ABC408


Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng lên núi với Chúa Giêsu, không phải để được biến hình nhưng là để biến đổi đời sống, nhờ biết lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu, Con chí ái của Chúa Cha mà trở nên hoàn thiện hơn như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt. 5, 48).

Nếu Chúa nhật thứ I MC , Tin mừng mời gọi chúng ta cùng nhịp bước theo chân Chúa Giêsu tiến vào sa mạc dưới sự tác động của CTT để chay tịnh và cầu nguyện, nhằm múc lấy sức mạnh ơn thiêng của Chúa mà chiến đấu và chiến thắng những mưu chước cám dỗ của ma quỷ thì Chúa nhật II MC  hôm nay, mời gọi chúng ta tiếp tục dấn bước theo Chúa Giêsu tiến lên núi cao mà biến đổi đời sống hầu trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha.

Ơn gọi của người Kitô hữu chính là trở nên người con trong Người Con yêu dấu của Chúa Cha là Đức Giêsu. Nhưng làm thế nào để ta trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu? Tin mừng hôm nay chỉ ra cho chúng ta một vài gợi ý sau đây:

- Chấp nhận đi vào con đường thập giá.

Nếu trước đó, khi loan báo về cuộc thương khó mà Chúa Giêsu sắp trãi qua, các môn đệ, nhất là Phêrô đã không chấp nhận và quyết liệt can ngăn đi vào con đường hẹp ấy; thì với cuộc biến hình này, Chúa Giêsu như muốn giúp các ông hiểu rằng: vinh quang chỉ đến sau khi chấp nhận đi vào con đường thập giá.

- Tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

Tin mừng cho biết trong khi cầu nguyện trên núi cao, thì hình dạng Đức Giêsu bổng biến đổi lạ thường: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”. Và rồi ngay lúc ấy, Chúa Cha cũng đã xác nhận Đức Giêsu chính là Con yêu dấu của Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”(Mt 3,16-17).

- Vâng nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy.

Với sự hiện diện của Môsê (đại diện cho luật cựu ước) và Êlia (đại diện cho ngôn sứ cựu ước) trong biến cố biến hình trên núi cao muốn xác định cho ta biết: Đức Giêsu là Môsê mới và Êlia mới. Nơi Ngài gom tóm toàn thể lề luật và lời các ngôn sứ được nói trong cựu ước. Từ nay nay lề luật và lời ngôn sứ được kiện toàn nơi Chúa Giêsu. Bởi thế khi rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã xác quyết: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Vì thế mà Chúa Cha kêu gọi tất cả chúng ta từ nay hãy “vâng nghe lời Người”.

* Tóm lại, để trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu, đòi buộc chúng ta phải thực hiện hai việc sau đây:

- Chấp nhận từ bỏ tất cả để tiến bước trên hành trình đức tin theo Đức Giêsu, với niềm tín thác tuyệt đối vào thánh ý Thiên Chúa như tổ phụ Abraham khi xưa. (x. bài đọc 1).

- Phải luôn chú tâm lắng nghe và thực hành lời Chúa Giêsu chỉ dạy. Hãy để cho lời Chúa thấm nhập vào mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta trong mọi sinh hoạt đời thường theo gương thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Được như thế thì Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự tất cả những yếu hèn trong ta và sẽ biến đổi chúng ta trở nên vinh sáng như Ngài (x. bài đọc 2). Nhờ thế, chúng ta mới xứng danh là “con yêu dấu của Chúa Cha”. Amen.

----------------------------

 

MC 2-ABC409: Mạc khải Thiên Tính của Chúa Giêsu

 

Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi cao nhằm củng cố niềm tin MC 2-ABC409


Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi cao nhằm củng cố niềm tin cho các môn đệ và mạc khải Thiên Tính của Người. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào Chúa Giêsu mà sẵn sàng đón nhận những thập giá xảy đến trong đời sống.

Biến cố biến hình trên núi Tabor xảy ra sau khi Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết về con đường thập giá mà Ngài phải trãi qua. Nhưng trước đó, Phêrô đã không chấp nhận con đường ấy, nên đã can ngăn cản quyết liệt khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Vì vậy mà ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách rất nặng lời: “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”(MC  8, 33). Đặt sự kiện biến hình trong bố cảnh ấy, ta mới hiểu được biến cố hiển dung của Chúa Giêsu hôm nay là nhắm đến 2 mục đích:

- Củng cố đức tin cho các môn đệ: Qua lời tuyên bố của Chúa Cha từ trên cao: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Chúa Cha như muốn các môn đệ xác tín niềm tin vững vàng hơn vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.

- Giúp các môn đệ can đảm chấp nhận con đường thập giá: Con đường thập giá là đường đau khổ, chẳng ai muốn đi. Sự kiện biến hình rực rỡ trên đỉnh đồi Tabor chính là liều thuốc đắng bọc đường, gíúp các môn đệ dễ dàng nuốt lấy vị đắng của hy sinh thập giá mà Chúa Giêsu sắp bước vào; cũng như đủ sức vượt qua những khó khăn, gian khổ ngay cả hy sinh mạng sống khi thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng nước trời sau này.

Chỉ có đức tin mới đem lại cho ta niềm hy vọng để dấn bước theo Chúa trên con đường thập giá. Đức tin chính là sức mạnh giúp ta can đảm đón nhận những nghịch cảnh trong cuộc đời. Nhờ đức tin mà chúng ta dễ dàng vâng theo thánh ý Chúa, ngay khi mạng sống của ta bị đe dọa. Bởi ta tin rằng phía sau thập giá sẽ vinh quang phục sinh. 

Xin Chúa thương củng cố đức tin cho chúng ta, để chúng ta luôn trung kiên bước đi theo Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống theo gương các thánh tử đạo Việt Nam. Nhất là trong mùa chay thánh này biết hy sinh thời giờ, sức khỏe, đam mê xấu, tiền của... để tích cực phụng thờ Chúa và hy sinh phục vụ mọi người trong tinh thần bác ái yêu thương.

----------------------------

 

MC 2-ABC410: Qua Thập Giá để đến vinh quang


- Huệ Minh

 

Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh MC 2-ABC410


Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu.

Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.

Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay.

Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này.

Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (x. 2 Pr 1,16-20).

Hiểu được vinh quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả Phêrô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (x MC  8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy nghi cao cả của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu, bằng trọn cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Ngài.

Thập giá là những biến cố xảy đến trong cuộc sống con người; có thập giá do Chúa gửi đến; có thập giá do tự con người đem đến, và có thập giá do người khác, do xã hội đem đến. Đó là những điều cần thiết cho cuộc sống con người, để thanh luyện, để đào tạo con người ngày càng trưởng thành hơn.Thật vậy, sống ở đời, không ai tránh được những đau khổ mà chúng ta gọi là những thập giá Chúa muốn chúng ta vác. Bậc sống nào cũng có thập giá riêng của mình. Ngay chính lúc này, có lẽ mỗi người chúng ta đều có những lo âu, những buồn phiền, những khổ đau... Tất cả đều là thập giá.

Nếu chúng ta biết đón nhận và vác thập giá hằng ngày với thái độ khiêm nhường, với cái nhìn tích cực, cái nhìn đức tin, thì những thập giá ấy sẽ được thánh hóa, để trở thành những Thánh Giá đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Còn nếu ngược lại, chúng ta từ chối vác thập giá, chúng ta tránh né thập giá, thì chắc chắn những thập giá kia sẽ trở thành khổ giá cho chúng ta.

Mỗi người chúng ta hãy xem lại thập giá mà mình đang vác đó là gì, chắc chắn nó làm ta đau đớn lắm, khó chịu lắm và ngao ngán lắm; nếu chúng ta biết tận đụng để thông phần với đau khổ của Chúa thì thập giá kia sẽ được thánh hóa và trở thành Thánh Giá cho chúng ta. Một hình ảnh rất cụ thể, khi ta vô ý té đau, cái đau làm chúng ta tức tối, khó chịu; cái tức tối, khó chịu đó có ích gì đây, nó chỉ làm cho ta đau hơn; nhưng nếu ta ý thức cái đau này do lỗi của chúng ta, cái đau này giúp chúng ta kết hiệp với Chúa để hy sinh cứu rỗi các linh hồn,... thiết nghĩ lúc đó cái đau không còn nữa.

Hình ảnh hai tên trộm treo trên thập giá cùng với Chúa Giêsu trên đồi Golgôtha cũng cho ta thấy rõ:

Tên trộm dữ không chịu trách nhiệm về mình, anh ta than thở, trách móc, nguyền rủa cây thập giá và những người treo anh; anh ta còn chỉ cách cho Chúa Giêsu làm phép lạ nữa; anh ta là hình ảnh đại diện cho những ai thích bắt Chúa làm theo ý mình. Thập giá lúc này trở thành khổ giá cho anh.

Còn tên trộm lành thì khác, anh dám nhận trách nhiệm, anh nhận ra lỗi của mình và ăn năn thống hối, anh chạy đến với Chúa. Thập giá lập tức trở thành Thánh giá cho anh.

Ta đừng dừng lại ở thập giá để rồi than van, khóc lóc, kêu la với Chúa; nhưng chúng ta hãy vác lấy nó mà theo Chúa; Chúng ta hãy dùng đau khổ, bệnh tật, chết chóc để kết hiệp với Chúa Giêsu, để mang ơn cứu độ đến tận cùng trái đất; thật vậy, đau khổ, bệnh tật, chết chóc không những có lý do mà còn hữu ích mang ơn cứu độ cho mình và cho người khác. Đó là lý do mà Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi đi thăm một bệnh viện, ngài đã đến bắt tay từng người và nói với họ: “Xin hãy nâng đỡ Giáo Hội”; tức là ngài muốn xin họ dâng những đau khổ mà họ đang chịu lên Chúa để cầu nguyện cho Giáo Hội, đó là những lời cầu nguyện có giá trị thật cao cả.

Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người." … "Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"

Lắm khi Thiên Chúa cũng gởi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá. Sự sần sù và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm ta ngao ngán, khó chịu. Tuy nhiên, chúng ta cần phải luôn xác tín rằng, Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta. Tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến nguồn hạnh phúc cao cả hơn, như lời Thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Roma: “Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8, 28)

Thánh Phaolô cũng xác tín rằng: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.” (Rm 8,18); và ngài còn nói thêm: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời.” (2 Cr 4, 17). Cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đón nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống; dù là vui hay buồn, dù là sướng hay khổ, dù là thành công hay thất bại,... chúng ta đều đón nhận với niềm tin yêu, phó thác; và luôn xác tín, qua thập giá sẽ đến Vinh Quang.

----------------------------

 

MC 2-ABC411: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Ở đời, để thu phục người khác theo mình, người ta thường hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp ở đời MC 2-ABC411


Ở đời, để thu phục người khác theo mình, người ta thường hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp ở đời nay như: tiền bạc, địa vị và danh vọng. Với Đức Giêsu thì khác, Ngài không hứa hẹn những điều tốt đẹp ở đời này, nhưng trái lại Ngài mời gọi những ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo (x. Mt 16, 24).

Hơn thế nữa, Ngài còn cho biết, chính Ngài cũng phải đi con đường đau khổ: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16, 21). Trước lời mời gọi từ bỏ mình và vác thập giá, đặc biệt là lời tiên báo về sự đau khổ của Ngài, hầu hết các Tông đồ đều lo lắng, buồn phiền. Thậm chí, Thánh Phêrô còn can ngăn Đức Giêsu không nên dấn thân vào con đường đau khổ: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" (Mt 16, 22). Vì thế, Phêrô đã bị Đức Giêsu quở mắng một cách nặng nề: "Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16, 23). Mặc dầu Đức Giêsu trách mắng Phêrô và không hài lòng về thái độ của các Tông đồ, nhưng trong thâm tâm, Ngài vẫn thông cảm cho “tư tưởng con người” nơi các ông. Ngài muốn tìm cách khác để thuyết phục các ông chấp nhận đau khổ, chấp nhận “tư tưởng của Thiên Chúa.” Chính vì thế, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sáu ngày sau, Ngài đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi và biến hình trước mặt các ông: “Mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người” (Mt 17,1-2). Chứng kiến cảnh tượng đó, các ông thích thú vô cùng. Các ông không muốn rời khỏi nơi đó. Thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia” (Mt 17,4).

Tuy Thánh Phêrô tha thiết xin Thầy ở lại đó, nhưng Đức Giêsu lại mời gọi các ông xuống núi. Nghĩa là Ngài mời gọi các ông trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả hạnh phúc lẫn đau khổ. Cuộc biến hình trong chốc lát nhắc nhở các ông muốn tới vinh quang phải trải qua đau khổ. Đó là con đường Đức Giêsu đã đi. Đó cũng là con đường của các Tông đồ và các kitô hữu qua mọi thời đại phải đi qua. Vì “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).

Qua Tin Mừng chúng ta thấy, chỉ có Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan được vinh dự chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu. Bởi vì, rồi đây, ba vị sẽ đóng những vai trò quan trọng trong Giáo hội sơ khai: Thánh Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên, Ngài đã đổ máu mình ra làm chứng cho Đức Giêsu; Thánh Giacôbê là vị tử đạo tiên khởi trong số các Tông đồ; Thánh Gioan là vị chứng nhân cuối cùng của các Tông đồ. Như thế, cuộc biến hình của Đức Giêsu không những cũng cố đức tin cho ba vị, mà qua đó, ba vị có nhiệm vụ cũng cố đức tin cho các Tông đồ khác và cho các kitô hữu và toàn thể Giáo hội. Bởi vì, khi có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh, ba vị, các Tông đồ cũng như các kitô hữu mới can đảm vượt qua được những thử thách, đau khổ trong cuộc sống, nhất là những đau khổ trong sứ vụ loan báo Tin mừng.

Bài đọc II, Thánh Phaolô mời gọi Timôthê rằng: “Hãy đồng lao cộng khổ với tôi vì Tin mừng” (2Tm 1,8b). Thật vậy, để cộng tác trong việc loan báo Tin mừng cần phải chấp nhận hy sinh, đau khổ. Chính Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy kinh nghiệm đau khổ của bản thân Ngài qua thư Côrintô. Ngài kể lại rằng: “Năm lần tôi bị người Dothái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” (2 Cor 11, 24-28).

Không phải chỉ trong thời Tân Ước, mà ngay chính thời Cựu Ước, Thiên Chúa cũng mời gọi con người chấp nhận sự hy sinh và từ bỏ. Bài đọc I, cho chúng ta thấy Thiên Chúa mời gọi ông Abraham từ bỏ quê hương xứ sở để lên đường đi tới nơi Ngài sẽ chỉ cho: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi”(St 12,1). Từ bỏ nơi đang sống yên ổn để đi đến nơi chưa biết quả là một sự hy sinh to lớn. Nhưng ông Abraham đã vâng lời Thiên Chúa, ông đã chấp nhận từ bỏ quê hương xứ sở, phó thác tương lai cho Chúa, để lên đường đến nơi Thiên Chúa đã định.

Đối với chúng ta ngày hôm nay, mặc dầu mang danh là kitô hữu nhưng có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng giống như Phêrô và các Tông đồ xưa, “thích sướng ngại khổ.” Nhiều khi chúng ta khăng khăng đòi hỏi quyền lợi cho mình nhưng lại không muốn chu toàn bổn phận. Chúng ta phấn khởi có mặt trong những ngày vui của Giáo xứ, của đoàn thể này khác, nhưng lại ít dấn thân trong các công việc được giao. Chúng ta mong muốn được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng nhưng lại không muốn đi con đường hẹp.

Ước gì mỗi người kitô hữu chúng ta hiểu được ý nghĩa của đau khổ. Để từ đó luôn chấp nhận dấn thân trong việc đi theo Chúa, chu toàn bổn phận người kitô hữu, đặc biệt nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Ngõ hầu, chúng ta không chỉ được chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu trong chốc lát mà còn được hưởng trọn vẹn vinh quang của Đức Giêsu trên thiên quốc muôn đời. Amen.

----------------------------

 

MC 2-ABC412: Tin để lên núi - Huệ Minh

 

Có thể nói câu chuyện về việc Abraham sát tế người con yêu của mình là một câu chuyện hấp dẫn MC 2-ABC412


Có thể nói câu chuyện về việc Abraham sát tế người con yêu của mình là một câu chuyện hấp dẫn. Không chỉ hấp dẫn mà còn gây cho người đọc cảm giác sợ hãi, hồi hộp.

Ta vừa nghe sách Sáng Thế kể lại câu chuyện lâm li đầy bi đát ấy.

Để thử lòng tin của Abraham, Đức Chúa bảo Abraham rằng ông hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ông, và đi đến đất Moria, ở đó ông sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Đức Chúa sẽ chỉ cho ông.

Nghe lời Đức Chúa, ông đã làm những gì Đức Chúa đã dặn.

Thế là hai cha con lên đường. Chuyện gì đến sẽ đến. Đến nơi Đức Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Đau lòng lắm nhưng Abaraham vẫn phải làm đó là giơ tay lấy sao sát tế con của mình để dâng cho Đức Chúa. Thế nhưng, ngay trong giây phút cay nghiệt đó, Đức Chúa đã nói với ông rằng "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta".

Bỗng lúc ấy, Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con của ông.

Và rồi, thiên thần Chúa gọi Abraham và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".

Trên núi này, núi Moria là núi của niềm tin. Chính nơi đây, Abraham đã bày tỏ niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha của ông.

Núi trong Thánh Kinh, ta thường thấy để biểu thị cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Ta thường thấy ông Môsê lên núi để gặp Thiên Chúa, nghe lời Thiên Chúa. Không những thế, núi chính là nơi để con người dâng lên Thiên Chúa của lễ hiến tế như trong trường hợp Abraham hiến tế đứa con yêu của mình. Bàn tiệc hiến tế thường được đặt trên núi. Của lễ toàn thiêu được đặt trên bàn thờ trên núi để hiến tế cho Thiên Chúa.

Núi mà Abraham sát tế con của mình cũng chính là hình ảnh bàn thờ thập tự mà Chúa Giêsu hiến thân mình cho Chúa Cha. Trên núi Sọ, Chúa Giêsu đã hiến dâng lên Thiên Chúa của lễ toàn thiêu chính là cuộc đời của Ngài.

Ngày hôm nay, ta được thấy Chúa Giêsu vén mở cho các môn đệ thân tín được thấy vinh quang của Ngài ở trên núi cao. Chính ở trên núi cao ấy, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ thấy được vinh quang mà Thiên Chúa Cha trao ban cho Ngài.

Và rồi khi xuống núi, Chúa Giêsu căn dặn các ông không nói cho ai biết vinh quang mà Thiên Chúa Cha ban cho Ngài. Ta thấy, chính các môn đệ khi đó cũng chưa hiểu được vinh quang ấy và cũng tự hỏi nhau "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?". Chỉ đến khi đón nhận vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu thì khi ấy các ông mới hiểu và mới tin.

Thật sự để có niềm tin vào Chúa Phục Sinh như các môn đệ hay hoàn toàn tin tưởng phó thác cuộc đời mình vào tay Chúa như Abraham không phải là chuyện giản đơn. Ngày nay, khi ta đọc lại, ta nghe như thế ta thường hay nghĩ rằng chuyện nhỏ! Thế nhưng, thật sự chuyện không nhỏ chút nào khi ta phải đối diện với những thử thách trong cuộc đời nhất là những thử thách đòi hỏi ta phải từ bỏ một cách triệt để.

Để có một niềm tin như Abraham không phải là chuyện dễ. Nhìn lại cuộc đời ta, đôi khi Chúa gửi đến cho ta những thử thách nho nhỏ không đáng gì một chút so với những thử thách bi đát như Abraham nhưng liệu rằng ta đáp trả như thế nào?

Có một anh bạn hớt tóc thân quen. Hỏi thăm thì mới ba mươi ngoài nhưng anh có 4 cháu! Cuộc sống cơm áo gạo tiền của anh quả thật là chật vật, quả thật là khó khăn. Thế nhưng, khi nhìn đến nhiều mảng đời xung quanh còn có những mảng đời còn vất vả hơn anh nhiều. Khi chia sẻ điều đó, anh vui vẻ nói rằng anh chẳng bao giờ phàn nàn với Chúa cả bởi lẽ Chúa đã thương ban cho anh rất nhiều.

Nói thì dễ nhưng để cảm được tình yêu thương mà Thiên Chúa trao ban trên cuộc đời này không phải là chuyện dễ. Cũng dễ hiểu bởi lẽ ai ai cũng muốn cho cuộc đời mình sung sướng, may mắn và luôn đạt được những ước mơ của mình.

Cũng chẳng có gì để khó hiểu. Ngay cả các môn đệ ngày xưa cũng thế. Được chiêm ngưỡng vinh quang tận mắt, được sống với cái vinh quang đó nhưng rồi khi xuống núi, khi trở về với đời thường các ông cũng đã không tin, không cảm nhận một thầy Chí Thánh đang sống bên đời. Chỉ đến khi Thầy Phục Sinh thì lòng các ông mới bừng cháy ngọn lửa của niềm tin.

Và như thế, để có niềm tin vào Chúa Phục Sinh, có niềm tin vào Thiên Chúa trong đời ta, không có phương cách nào tốt hơn đó chính là đời sống cầu nguyện cũng như tín thác và từ bỏ. Như các môn đệ lên núi, như Abraham lên núi thì càng nhẹ hành trang thì mới có thể lên núi được. Và, của lễ hiến tế không gì tốt hơn đó chính là bản thân ta, cuộc đời ta như chính Isaac.

Nhìn lên núi Thánh, xin Chúa thêm ơn đức tin cho ta để ngày mỗi ngày giúp ta luôn hướng về núi Thánh và can đảm từ bỏ mọi sự bám víu ở đời để ta bước theo Chúa lên trên bàn thờ thập tự và dâng chính bản thân ta là của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha.

----------------------------

 

MC 2-ABC413: “DẠ, CON ĐÂY!”


CHÚA NHẬT II MÙA CHAY NĂM B (28/02/2021)

[St 22,1-2.91.10,15-18; Rm 8,31b-34; MC  9,2-ABC10]

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ      

 

Mùa Chay là thời gian mà các Ki-tô hữu được mời gọi và tạo điều kiện để nhìn lại bản thân và MC 2-ABC413


Mùa Chay là thời gian mà các Ki-tô hữu được mời gọi và tạo điều kiện để nhìn lại bản thân và cách sống xem có phù hợp với ơn gọi, sứ mạng và tư cách Ki-tô hữu của mình không? Nếu có tư tưởng, lời nói và hành động nào chưa hay không phù hợp thì phải điều chỉnh.

Điều đáng nói là ơn gọi, sứ mạng và tư cách Ki-tô hữu của chúng ta đều được xuất phát từ một lời mời của Thiên Chúa và một lời đáp của chúng ta. Lời mời của Thiên Chúa thì không bao giờ thay đổi, nhưng lời đáp của chúng ta thì có thể được thay đổi, bổ sung hay cập nhật hóa. Đó chính là việc sám hối và sửa mình của mỗi Mùa Chay thánh.

Trong tuần lễ II Mùa Chay này, Hội Thánh nêu hai tấm gương cho chúng ta soi: đó là tổ phủ Abraham và nhất là Chúa Giêsu. Cả hai vị đã thưa với Thiên Chúa: “Dạ, con đây!”  và hăm hở thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong bài đọc 1 (St  22,1-2.9a.10-13.15-18): "Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta" Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi".

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".

2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,31b-34): "Thiên Chúa không dung tha chính Con mình" Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta?

2.3 Trong bài Tin Mừng (MC  9,2-ABC10): « Đây là Con Ta rất yêu dấu» Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa   

(1°) Trong bài đọc 1 (St 22,1-2.9A.10-13.15-18) chúng ta thấy Thiên Chúa thử thách lòng tin cậy, phó thác và vâng phục của tổ phụ Abraham khi truyền lệnh cho ông hiến dâng I-xa-ác, người con trai độc nhất và cũng là con thừa tự, làm lễ tế cho Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy tổ phụ Abraham đã thể hiện lòng tin cậy, phó thác và vâng phục Thiên Chúa như thế nào. “Dạ con đây!” là lời đáp thật vắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa của ông Abraham, người được mệnh danh là cha các kẻ tin! Nhờ lòng tin cậy, phó thác và vâng phục tuyệt vời ấy mà bao người được Thiên Chúa chúc phúc.

(2°)  Trong bài đọc 2 (Rm 8,31b-34) Thánh Phao-lô Tông đồ lý luận một cách đầy sức thuyết phục: một khi chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương đến độ đã ban Con Một Yêu Dấu của Người cho chúng ta thì chúng ta chẳng còn gì phải sợ và cũng chẳng thiếu thốn chi nữa. Chính Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng bênh vực, chở che và ban mọi ơn lành cho chúng ta.

(3°) Trong bài Tin Mừng (MC  9,2-ABC10) Thánh Mác-cô tường thuật lại một sự kiện ‘phi thường’ đã xẩy ra trong đời của Chúa Giê-su Na-da-rét: Chúa Giê-su cho ba môn đệ thân tín nhất của Người chứng kiến ánh hoàng quang chói ngời ở nơi Người và hé mở cho các ông nhận ra chân dung đích thực của Người. Thánh Mác-cô  miêu tả quang cảnh cuộc Hiển Dung y hệt như quang cảnh “Thần Hiện” (Epiphania) trong Cựu Ước. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật của Lể Luật và Ngôn Sứ mà xuất hiện bên Chúa Giê-su và đàm đạo với Người thì các môn đệ phải hiểu rằng: Thày mình là Đấng đến từ Thiên Chúa và vượt trội hơn hai nhân vật kia bội phần. Tuy Phúc âm không nói ra, nhưng chúng ta hiểu ngay rằng chính vì Chúa Giê-su luôn sẵn sàng thi hành Thánh Ý Chúa Cha mà Thiên Chúa mới có lời phán dạy từ trên đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người!”

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa   

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay nằm trong tiếng nói từ trong đám mây tức tiếng nói của Thiên Chúa Cha: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người." Sứ điệp gồm hai phần: hãy tin & đón nhận và hãy vâng nghe lời Chúa Giê-su.

(*) Hãy tin & đón nhận Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu, là Con Một của Cha, là Đấng được Cha sai đến trần gian, để nói lời của Cha cho nhân loại được sống.

(*) Hãy vâng nghe lời Chúa Giê-su: vì Lời Người là Lời của Cha, là lời chân thật và cứu độ, đem ơn giải thoát cho những ai biết tuân giữ lời ấy.

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY

4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã chọn tổ phụ Abraham và Con Một Yêu Dấu của Người là Chúa Giê-su Ki-tô làm gương mẫu cho các tín hữu vì hai Vị đã tin cậy phó thác và tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa và thi hành cách trọn vẹn thánh ý Người.

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta kiểm điểm và điều chỉnh đời sống cho phù hợp với sứ điệp của Lời Chúa. Hai câu hỏi giúp chúng ta trong việc hệ trọng này:

* Tôi có thật sự tin & đón nhận Chúa Giê-su là Con Yêu Dấu, là Con Một của Thiên Chúa không?

* Tôi có thật sự vâng nghe Lời Người không?

Hãy chứng minh cho chính bản thân mình trước khi muốn chứng minh cho người xung quanh lòng tin và sự vâng nghe lời Chúa của chúng ta!

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI

[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý:  ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]

5.1 «Một khi đã ban Con Một Người, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban ơn cho mọi người, mọi nước nhận ra Thiên Chúa là Thiên Chúa Tình Yêu.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

 

5.2 «Abraham thưa: "Dạ, con đây!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa biết thưa với Thiên Chúa:  “Dạ con đây, xin Chúa hãy nói, con đang lắng nghe!”

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.3 «Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, cảm nghiệm được sự bảo vệ và bênh đỡ của Thiên Chúa mà  tin cậy phó thác nhiều hơn nữa vào Tình Yêu của Người.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.4 «Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người thực hành việc nghe/đọc, học hỏi Lời Chúa mỗi ngày/tuần để họ vâng nghe Lời Thiên Chúa qua Con Yêu Dấu của Người là Chúa Giê-su Ki-tô.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa  Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

Sàigòn ngày 23 tháng 02 năm 2021
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

----------------------------

 

MC 2-ABC414: CHÚA GIÊSU KITÔ LÀ GƯƠNG MẪU


“Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người"

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ:

 

Mùa Chay không chỉ là thời gian để chúng ta ăn năn sám hối và cải tổ đời sống mà còn là thời MC 2-ABC414


Mùa Chay không chỉ là thời gian để chúng ta ăn năn sám hối và cải tổ đời sống mà còn là thời gian để chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa làm người. Nhưng để nên giống Chúa Giêsu Kitô thì trước hết chúng ta phải nhận biết Người cách tường tận. Kế đó chúng ta mới nỗ lực trở nên giống Chúa Giêsu Kitô trong suy nghĩ và hành động của mình.

Trong Bài Phức âm Chúa Nhật II Mùa Chay Năm B chúng ta đọc hôm nay chúng ta được nghe một lời “cực trọng” của Thiên Chúa Cha: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người"  Nghe lời Chúa Giêsu Kitô không chỉ là nghe những lời Chúa Giêsu Kitô đã và đang nói, mà nghe lời còn có nghĩa là vâng lời, là làm theo, là thực hành những điều Chúa Giêsu Kitô truyền dậy. Bài học của ngày hôm nay là chúng ta hãy nghe lời Chúa Giêsu Kitô mà nói lời “xin vâng” (này con đây) với Chúa Cha, như tổ phụ Apraham và như Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ các tín hữu chúng ta.

II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM MC  9,2-ABC10:  Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"

III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM  MC  9,2-ABC10:

3.1 Xin phép được gọi cuộc hội ngộ trên núi Tabor giữa Chúa Giêsu Nagiaret  và hai đại diện của Lề Luật (Môsê) và Ngôn Sứ Cựu Ước (Êlia) là Hội nghị G.3: Dù cho Tin Mừng Mác-cô không cho biết là ba vị Đại Biều Cao Cấp nhất của Kitô giáo đàm đạo với nhau về chuyện gì, chúng ta cũng dễ dàng đoán được nội dung của Hội Nghị G.3 này: Đó là ba vị bàn bạc về Kế họach hay Chương trình Cứu Độ mà Thiên Chúa Cha giao phó cho Con yêu dầu của Người là Chúa Giêsu Kitô: Cứu độ bằng Thập Giá và Phục Sinh!

3.2 Thông điệp/Tuyên bố của Hội Nghị G.3 núi Tabor: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người"

(1) “Đây là Con Ta rất yêu dấu”: Chúa Giêsu Kitô là Con rất yêu dầu của Cha, vì Người đã được Chúa Cha sinh ra (chứ không tạo thành) từ đời đời và vì Người vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối: “Lạy Cha, này con đây…con sẵn sàng thực thi mệnh lệnh của Cha, con hoàn toàn vâng theo Ý Cha”

(2) “Các ngươi hãy nghe lời Người”: Với vị thế có một không hai kể trên, Chúa Giêsu Kitô xứng đáng là tấm gương cho chúng ta noi theo bắt chước, đáng chúng ta nghe lời. Hơn nữa chính Người là Lời của Cha (Word of God), là Lời hằng sống, lời vĩnh cửu nên chúng ta phải chuyên chăm nghe Lời ấy và thực thi Lời ấy.

IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM MC  9,2-ABC10:

4.1 Nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô là con rất yêu dấu của Cha: Đó là điều thứ nhất chúng ta có thể làm và phải làm.  Để chúng ta dễ dàng nhìn nhận Chúa Giêsu là con rất yêu dầu của Cha, có hai cách nào giúp chúng ta: một là chúng ta siêng năng cầu nguyện, sống thân mật với Chúa Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần; hai là chúng ta dành thời gian học hỏi, suy niệm Lời Thánh Kinh, nhất là Lời Phúc Âm.

4.2 Nghe lời Chúa Giêsu Kitô vì Ngưới là con rất yêu dấu của Cha:  Đó là điều thứ hai chúng ta có thể làm và phải làm. Tổ tiên chúng ta đã nói: “Cá không ăn muối cá ươn, con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư”. Hẳn nhiên là không ai trong chúng ta lại muốn là con hư. Trái lại hết mọi người chúng ta đều muốn là con ngoan, con thảo của Cha trên trới. Vậy thì chúng ta hãy siêng năng nghe Lời Chúa Giêsu Kitô trong tâm hồn mình, trong các sự kiện lớn nhỏ của cuộc sống và nhất là trong các Sách Thánh. Nghe Lời Chúa không là chưa đủ; Nnghe rối thực hành mới là đủ!

V. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM MC  9,2-ABC10:

KHAI MỞ:  Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô cho chúng con để Người dậy chúng con cách làm con ngoan con thảo của Cha. Xin Cha lắng nghe lời cầu xin tha thiết của chúng con. 

Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN

1.- «Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả mọi người lớn bé già trẻ đều có lòng khát khao được thầy Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống, nhất là trong những phút giây sống riêng với Chúa.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

2.- «Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy được phúc có nhiều dịp đàm đạo tay đôi với Chúa Giêsu Kitô để chia sẻ sứ mạng cứu thế của Người.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

3.- «Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu tích cực nhận biết và nghe lời Chúa Giêsu Kitô là Lời của Cha.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

4.- «Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những người đang thành tâm hoán cải trong Mùa Chay thánh này để họ được nếm hương vị ngọt ngào của Chúa Giêsu Kitô.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

LỜI KẾT:

Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban cho chúng con Con rất yêu dầu của Cha để Người dậy dỗ và làm gương cho chúng con trong cách sống của người con ngoan con thảo của Cha.

Chúng con xin Cha ban cho chúng con hồng phúc được khám phá ra chân dung đích thực của Chúa Giêsu Kitô là Con rất yêu đấu của Cha. Chúng con quyết nghe Lời Người để sống tình con ngoan con thảo với Cha theo gương Người đã sống.

Chúng con cầu xin, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô Con Cha, Chúa chúng con, là Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến để đưa mọi người về với Cha. Amen.

Sàigòn ngày 24 tháng 02 năm 2021
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 

----------------------------

 

MC 2-ABC415: Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người – ViKiNi


(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

“Lạy Thầy, chúng con ở đây sướng quá, chúng con xin dựng ba nhà, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia”.

 

Đây là tâm sự của Phêrô lúc được hưởng hạnh phúc Chúa biến hình rực rỡ vinh quang, một hạnh MC 2-ABC415


Đây là tâm sự của Phêrô lúc được hưởng hạnh phúc Chúa biến hình rực rỡ vinh quang, một hạnh phúc thiên đàng vừa hé mở. Phêrô đã thuật lại rất sống động tâm sự này cho các tín hữu đang chịu thử thách cam go vì đạo, và được Marcô, con tinh thần của Phêrô viết lại.

Thánh Phêrô đã quả quyết có hạnh phúc đời đời để cho mọi người tin tưởng vững vàng sống theo lời Chúa, sẵn sàng hy sinh vì đức tin, họ sẽ được vinh quang nước trời. Một thứ hạnh phúc làm ngây ngất mãi mãi. Một thứ hạnh phúc sáng láng rực rỡ toát ra từ chính con người của Đức Giêsu, chứ không phải thứ ánh sáng bên ngoài bao phủ Người. Ánh sáng đó là chính ánh sáng Ngôi Lời Thiên Chúa. Gioan đã được cùng với Phêrô hưởng ánh sáng rực rỡ này nên khi mở đầu sách Tin mừng thứ bốn, Gioan đã viết: “Ngôi Lời là sự sáng đích thực, sáng soi cho mọi người” (Ga. 1, 9).

Trong lễ dâng Đức Giêsu vào đền thờ, tiên tri Simêon đã nhìn thấy “Người là ánh sáng muôn dân, là vinh quang của dân Chúa” (Lc. 2, 32). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai tin Tôi sẽ không ở trong tăm tối” (Ga. 12, 46). Nhất là khi “Người sống lại sáng chói rực rỡ khiến quân dữ ngã lăn bất tỉnh” (Mt. 28, 3-4). Do đó, trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng”. Và trong kinh cầu chúng ta tung hô: “Chúa Giêsu là mặt trời soi đường công chính”.

Ánh sáng đó làm cho những người công chính như Môisen, Êlia được vinh phúc tràn ngập đời đời, còn người phàm đã biết theo Chúa như Phêrô, Giacôbê, Gioan cũng được ngây ngất chút đỉnh rồi lịm đi vì chưa đủ sức chứa đựng ánh sáng huy hoàng của nước trời, còn kẻ dữ phải khiếp sợ chết xỉu đi.

Từ hạnh phúc biến hình núi Tabor, Đức Giêsu dẫn đưa các môn đệ vượt qua đau khổ núi Sọ để đến hạnh phúc vinh quang phục sinh muôn đời.

Hôm nay Giáo hội là mẹ nhân lành theo gương Chúa Giêsu, cũng muốn dẫn đưa con cái mình là chúng ta từ hạnh phúc núi Tabor vượt qua biển khổ trần gian đến hạnh phúc vinh quang phục sinh bất diệt.

Không một thứ hạnh phúc thế gian nào sánh được. Hạnh phúc thế gian luôn luôn chất chứa đắng cay, đau khổ như ma túy, rượu chè, cờ bạc, trai gái. Khi chưa được thì thèm khát, khi mắc vào thì chán ngán, thất vọng, càng sa bẫy, càng bị kìm kẹp trong đau khổ tuyệt vọng.

Thí dụ: Tôi biết có anh chị đậu cao học (Master), quen nhau, yêu nhau nồng nàn suốt hai năm trời. Lễ cưới chi phí đến 20.000 đô. Họ hàng bạn bè, ai cũng mừng cho đôi uyên ương hạnh phúc. Nhưng chỉ được một tuần, giận nhau, bỏ nhau, đoạn tuyệt. Cha mẹ khuyên can cực lòng đến sinh bệnh, con cũng chẳng nghe.

Đấy là những hạnh phúc của thế gian.

Còn hạnh phúc của Thiên Chúa ban thì chưa thấy một đấng thánh nào chán cả. Phêrô được hưởng rồi, đã ra sức cố gắng nghe lời Con Yêu Dấu đến nỗi phải hy sinh chịu đóng đanh chết trên thập giá, vẫn luôn luôn “sướng quá”. Phaolô khi té ngựa được thấy ánh sáng rực rỡ của Đức Giêsu, dù mắt mù đi, ông đã bỏ đạo Biệt phái, đạo tổ tiên mà ông đã hăng say học hỏi từ nhỏ và cuồng nhiệt chống đối, bắt bớ kẻ phản đạo đó, để trở về với ánh sáng Đức Kitô, làm tông đồ của Đức Giêsu, một tông đồ vĩ đại nhất, nhiệt thành truyền đạo Ánh sáng nhất, chịu nhiều cực hình đau khổ nhất. Biết bao nhiêu các thánh tử đạo chỉ được thấy ánh sáng đức tin, đã coi cực hình thân xác nhẹ như lông hồng.

Muốn được hạnh phúc như các ngài, ta phải đến với ánh sáng Đức Kitô, nghe lời Con yêu dấu Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.

Abraham đã triệt để nghe lời Người, đến nỗi sẵn sàng sát tế con mình để tỏ lòng trung thành kính mến Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hài lòng về tinh thần nghe lời Người của Abraham hơn là của lễ sát tế con ông. Vì: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần tế lễ” (Mt. 9, 13). Và nhờ đó “mọi dân trên mặt đất sẽ được chúc phúc, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Môisen đã nghe lời Người, dù kinh hoàng run sợ nghĩ đến phải trở về đối diện với vua Pharaon đang lùng bắt ông. Dù phải cực khổ vào sinh ra tử suốt bốn mươi năm trong sa mạc để dẫn đưa dân về đất Hứa.

Êlia đã nghe lời Người dù biết mình phải lao vào lưỡi gươm trả thù của hoàng hậu Giêzabel, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tà thần. Và hàng triệu, hàng tỷ người đã nghe lời Con yêu dấu của Chúa Cha, vì biết rằng: “Thiên Chúa bênh đỡ ta, ban tất cả cho chúng ta, chí như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc cho Con mình phải chết vì hết thảy chúng ta”, để “Con Người từ cõi chết sống lại” “sẽ cho chúng ta được sống lại vinh phúc với Người” (Rm. 8, 31-34).

Lạy Chúa, xin cho con lắng nghe lời Con yêu dấu Ngài, dù phải nhục nhã ê chề. Xin cho con trung kiên giữ trọn lời Người, dù phải chịu sát tế với Người, con vẫn một lòng thưa như tổ phụ Abraham: “Dạ con đây”.

----------------------------

 

MC 2-ABC416: Đức tin và đau khổ


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang - Joshepus Quang Nguyễn)

 

Giáo Lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên MC 2-ABC416


Giáo Lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mặc khải: Nhờ bao gồm cả hai điều trên, đức tin Kitô giáo khác với việc tin tưởng một người phàm. Thật là chính đáng và phải đạo khi phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa và tin tuyệt đối điều Người dạy” (số 150). Như vậy, đức tin không phải là một mớ giáo lý mà ta đã học, cũng không phải là một sự chinh phục, mà là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa. Nhờ ân ban ấy, con người có được một lối sống tin tưởng, phó thác và chủ động theo Chúa. Lối sống đó là soi mình dưới bóng Chúa, đặt hành vi luân thường đạo lý dưới Lời Chúa qua từng biến cố của cuộc đời. Nghĩa là biết đáp ứng bằng đức tin trong mọi tình huống bằng hành động cụ thể. Tóm lại, Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang.

Bài đọc 1, Sách Sáng Thế kể rằng khi gần trăm tuổi, ông Abraham được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau khổ, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Rõ ràng đức tin của ông Abraham mạnh mẻ đến nỗi giúp ông sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn là đẹp lòng Chúa.

Đến bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài đó là đón lấy đau khổ, chiến đấu với đau sổ. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.

Chúa Giêsu nói “ngày nào cũng có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Như vậy, đau khổ tự nó không phải là xấu, và tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ: biết chấp nhận và sống với đau khổ. Vì thế, khi gặp đau khổ tinh thân thần cũng như thân xác, đừng tuyệt vọng, đừng than thân trách phận, cũng đừng để mất đức tin! Nhưng, trước hết phải sống Lời Chúa hằng ngày, nghĩa là xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào hay dù đau khổ mấy đi chăng nữa. Anh chị em có công nhận với tôi rằng bệnh hoạn không phải là do Chúa phạt, càng không phải là do tội mình hay ông bà cha mẹ anh chị em mình gây ra nhưng mình bệnh hoạn như thể là một trật thông phần vào đau khổ của Chúa Giêsu một trật để quyền năng Chúa được tỏ hiện nơi ta. Qủa thế, Phúc Âm kể: “Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? " Đức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 1-7).

Cho nên, ngay lúc này, Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng đau khổ bên cạnh đó giúp chúng ta kiên trì giữ vững đức tin để rồi đến một lúc nào đó chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Đúng như Lời Chúa trong thư Do thái quả quyết “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Vì vậy, sống Lời Ngài từng giây trong đời giúp đức tin kiên cường hơn và bền đỗ hơn đồng thời phát huy tính hiệu quả của lòng tin. Cho nên, Thánh Giacôbê xác tín: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-ABC4).

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy dâng những khó khăn, đau khổ lên cho Chúa trong các giờ kinh lễ của chúng ta hằng ngày. Vì khi cầu nguyện chúng ta chuyển những khó khăn đau khổ ấy cho Chúa. Lập tức ta có được sự trợ giúp của Chúa, có thêm những sức mạnh siêu nhiên giúp chúng ta chịu đựng đớn đau. Cầu nguyện với Chúa trong đau khổ sẽ tạo ra một sức mạnh làm thêm ơn thánh, giúp ta tin rằng khi biết chịu đựng đau khổ vì danh Thiên Chúa, nhất định Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn lành. Vì Lời Chúa xác quyết: “Đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, hãy đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Chúa. Và… Chúa sẽ ban cho bình an vượt lên trên hết mọi hiểu biết. Và bình an ấy sẽ điều khiển cách suy nghĩ và cảm nhận của bạn” (Pl 4,6-7). Vì vậy, dù bất cứ nguyên nhân hay bất cứ điều gì xảy ra, chúng ta phải kiên trì và kiêm tốn cầu nguyện, chắc chắn Chúa làm mọi điều tốt đẹp cho cho chúng ta (Rm 8,28). Amen.

 

MC 2-ABC417: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

 

Biến cố Biến hình của Đức Giêsu trên núi cao được Tin mừng Nhất lãm tường thuật lại và được MC 2-ABC417


Biến cố Biến hình của Đức Giêsu trên núi cao được Tin mừng Nhất lãm tường thuật lại và được đọc trong Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A,B,C. Chúa nhật II Mùa Chay, năm B, Giáo hội cho chúng ta đọc Tin mừng theo thánh Marcô. Với những gì Thánh Marcô ghi lại, chúng ta có thể rút ra một số điểm suy niệm sau đây:

Thứ nhất, biến cố biến hình giúp củng cố niềm tin nơi các Tông đồ: Thật vậy, biến cố biến hình xảy ra sau 6 ngày Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Trong 6 ngày đó, các Tông đồ sống trong cảnh sầu buồn vì các ông nghĩ rằng Đức Giêsu chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn đồng nghĩa với việc thất bại và như thế thì bao nhiêu ước mơ, hoài bảo của họ sẽ tan thành mây khói, chắc chắn các ông không khỏi thất vọng về Thầy. Sầu buồn, thất vọng vì trong tâm trí các ông còn mang tư tưởng trần tục, hy vọng theo Thầy để được làm ông nọ bà kia khi Thầy công thành danh toại. Cũng vì mang tư tưởng lệch lạc như thế nên trước đó Phêrô đã can ngăn Thầy bước vào cuộc khổ nạn và bị Đức Giêsu quở trách một cách nặng nề. Về phần Đức Giêsu, cho dù bị các môn đệ phản đối, Đức Giêsu vẫn giữ lập trường của mình, vì đó là sứ mạng của Ngài được Chúa Cha trao phó. Vì thế, để thuyết phục các ông, hôm nay Ngài đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Qua biến cố này, Ngài muốn nói với các tông đồ rằng: phải qua đau khổ mới tới vinh quang, qua khổ nạn mới bước vào phục sinh vinh hiển.

Thứ hai, biến cố biến hình mời gọi các tông đồ và chúng ta “phải vâng nghe Lời Người”: Trong cuộc sống hằng ngày, vâng lời là một đức tính nhân bản. Chúng ta được dạy phải vâng lời người trên như ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô…Trong đời sống đức tin, chúng ta được dạy phải vâng lời Thiên Chúa và những người thay mặt Ngài. Chúng ta cũng được mời gọi vâng lời Đức Giêsu. Bởi vì, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ trần gian. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Cha đã dạy chúng ta phải vâng nghe lời Đức Giêsu rằng: “Này là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người.” (MC  14,9). Lời của Đức Giêsu được thể trong toàn bộ cuốn Tin mừng. Vì thế, thực hành theo Tin mừng là chúng ta vâng nghe lời Đức Giêsu. Và đó cũng là cách chúng ta thể hiện lòng yên mến Đức Giêsu. Vì, chính Đức Giêsu đã dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…”(x. Ga 14,21). Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua Giáo huấn chính thức của Hội Thánh, qua Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục. Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua những lời dạy bảo chính thức của các vị Bề trên, qua ông bà, cha mẹ, anh chị... Vậy chúng ta hãy biết vâng nghe Lời Người. Bài đọc I cho chúng ta tấm gương vâng lời của tổ phụ Abraham. Khi Thiên Chúa đòi ông sát tế Isaac, đứa con duy nhất của mình, để dâng kính Ngài. Mặc dầu, đây là một đòi hỏi phi lý theo cái nhìn của con người và rất mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa với ông, nhưng Abraham không hề thắc mắc hay phản đối, trái lại ông hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Điều đó, cho chúng ta thấy ông luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng lời Người. Kết quả cho thấy: Isaac được cứu sống và ông Abraham được gọi là kẻ công chính. Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ cũng đã sống chết vì Lời của Đức Giêsu. Ước mong rằng, mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần vâng phục như tổ phụ Abraham và như các Tông đồ xưa.

Thứ ba, biến cố biến hình đem lại niềm vui cho các Tông đồ: Sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu, ba môn đệ cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì, biến cố biến hình diễn tả trong chốc lát hạnh phúc Thiên đàng. Vì thế, các môn đệ muốn được ở mãi với Ngài trên núi để tận hưởng hạnh phúc đó. Thánh Phêrô nói với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.”(MC  9,5). Nhưng Đức Giêsu mời gọi các ông phải xuống núi, nghĩa là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó, phải trải qua đau khổ mới có thể được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trên Thiên đàng. Ước mong của các tông đồ cũng là ước mong của mỗi người chúng ta hôm nay. Vì thế, trong đời sống đức tin, mỗi người chúng ta phải cố gắng để được ở với Chúa. Được ở với Chúa khi chúng ta sống trong ơn nghĩa với Ngài. Được ở với Chúa khi chúng ta cầu nguyện sốt sắng. Được ở với Chúa khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Được ở với Chúa khi chúng ta đọc và suy gẫm Lời Chúa. Nếu chúng ta cảm nghiệm được niềm vui trong những lúc như thế tức là chúng ta đang nếm trước hạnh phúc Thiên đàng, giống như ba môn đệ cảm nghiệm hạnh phúc trên núi Tabor. Nhưng để được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu trên Thiên đàng chúng ta cũng cần phải xuống núi, tức là phải chu toàn bổn phận của mình, phải trải qua đau khổ thì mới tới vinh quang.

Thứ tư, biến cố biến hình nhắc nhở mọi người chúng ta phải biến hình mỗi ngày: Lâu nay, các môn đệ chỉ thấy Đức Giêsu với con người bình thường như những người khác. Nhưng qua cuộc biến hình, các Tông đồ đã thấy dung nhan Thiên Chúa của Đức Giêsu. Ngài không chỉ là con người bình thường nhưng Ngài chính là Thiên Chúa. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta không còn là người “bình thường” nữa mà chúng ta được gọi là kitô hữu, trở nên con cái Thiên Chúa. Kitô hữu tức là có Chúa trong mình. Chúng ta có Chúa trong mình, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nên phải sống như Chúa đã sống. Để qua cuộc sống của chúng ta, mọi người sẽ nhìn thấy Chúa. Chúng ta phải nói được như Thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nếu lúc nào đó bản chất kitô hữu trong chúng ta bị biến dạng, hãy mạnh dạn biến đổi mình bằng sự sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa để tiếp tục trở thành người kitô hữu đích thực.

Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin cho chúng con như xưa Chúa đã củng cố đức tin cho các tông đồ để chúng con biết chấp nhận đau khổ trong cuộc sống, nhất là luôn biến đổi bản thân nên giống Đức Giêsu mỗi ngày. Amen.

----------------------------

 

MC 2-ABC418: Đây là Con Ta yêu dấu


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Biến cố Chúa biến hình trên núi đã trở thành một câu chuyện quen thuộc đối với chúng ta và MC 2-ABC418


Biến cố Chúa biến hình trên núi đã trở thành một câu chuyện quen thuộc đối với chúng ta và như thế, chúng ta không còn chú trọng đến nhiều mà chỉ xem như một câu chuyện thông thường. Nhưng nó vẫn là một biến cố không thường, đối với các môn đệ và cho cả chúng ta hôm nay.

Chúa biến hình như một khúc nhạc dạo đầu của một bi kịch độc nhất vô nhị trên trần gian sắp diễn ra trên thập tự.

Chúa Giêsu chỉ chọn ba môn đệ mà thôi. Những môn đệ sau nầy sẽ chứng kiến rõ rệt nhất cuộc khổ nạn của Ngài, những trụ cột quan trọng nhất của Giáo Hội. Ngài đã sống giữa các ông như các ông. Xem ra Ngài tầm thường như mọi người trừ những khi Ngài làm phép lạ. Nhưng hôm nay, trên đỉnh núi, Ngài trở nên như một người không còn thuộc về trần thế nầy nữa. Vinh quang của Ngài rực sáng qua y phục của Ngài và có sự hiện diện của hai nhân vật là tiên tri Êlia và ông Môsê đàm đạo với Ngài. Những việc xảy ra gần như vượt xa khỏi tầm hiểu của các môn đệ, vì thế Phêrô ngây ngất vì thấy vinh quang của Thầy, vừa thấy hai nhân chứng quan trọng nhất của Cựu Ước hiện ra.

Ông xin làm ba lều cho Thầy và cho hai nhân vật kia, để ở lại với các Ngài lâu dài. Thời điểm nầy, dân Do thái đang mừng lễ Lều, nhắc lại thời cha ông của họ lưu lạc trong sa mạc, sống dưới lều tạm. Nhưng ý của Phêrô lại khác, vinh quang của Thầy làm ông choáng ngợp và mong ước cất ba lều để kéo dài những giây phút ngất ngây đó. Thánh Maccô không nói rõ là hiện tượng ánh sáng đó kéo dài bao lâu, và cuộc đàm đạo đó ngắn hay dài. Đối với Phêrô và các môn đệ, đây là một kinh nghiệm không thể quên. Sau nầy Phêrô còn nhắc lại trong thư thứ hai của ngài: “chúng tôi đã thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Ngài”.

Phêrô, trong thư thứ hai cũng nhắc đến lều là thân xác với ý nghĩa là chúng ta chỉ sống tạm trong thân xác mà thôi: “Tôi thiết nghĩ: bao lâu còn ở trong cái lều nầy… vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều nầy…” Khi viết những giòng chữ nầy, chắc thánh nhân cũng nhớ đến ngày nào đó, ông đã xin dựng ba lều cho Chúa và hai vị khách thiên quốc trên đỉnh núi. Giờ đây, ông đã hiểu bài học Chúa Giêsu đã cho ông trên đỉnh núi kia là thân xác chúng ta, dù chỉ là tro bụi, cũng tàng trữ vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta, khi chúng ta dám theo Ngài lên đỉnh núi vinh quang và theo Ngài cho đến đỉnh núi thống khổ Canvê.

Thánh Phêrô cũng nói đến thị kiến trên đỉnh núi: “Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang danh dự, khi có tiếng từ trời phán với Người: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quí mến”. Tiếng nói đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người. Lời chứng của Phêrô trùng hợp với lời tường thuật của thánh Maccô.

Chính Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Chí Ái của Người. Người Con đó, Chúa Cha đã ban cho chúng ta làm giá chuộc cho chúng ta như thánh Gioan cũng nói: “Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian”. Và hôm nay, Giáo Hội cũng nhắc đến ông Abraham được lệnh Chúa sát tế Isaac, đứa con duy nhất của ông. Một lệnh truyền rất khó thực hiện, nhưng Abraham đã vâng phục. Chúng ta hiểu thế nào là sự vâng phục tuyệt đối của ông. Ông dám vâng phục vì ông đã tin vô điều kiện. Nhưng mệnh lệnh đó đã kết thúc trong niềm vui. Phải chăng đây là hình ảnh của tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với chúng ta. Abraham dâng con một mình cho Thiên Chúa, Thiên Chúa lại trao ban cho chúng ta Con Một của Người. Hai hình ảnh quyện vào nhau để nói lên mối liên hệ thật sâu đậm giữa Thiên Chúa với chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Ngài cái gì quí nhất của chúng ta và ngược lại, chính Ngài lại ban cho chúng ta cái gì quí báu nhất của Ngài, là đứa con một yêu dấu của Ngài.

Chúa Giêsu được trao ban cho chúng ta, chính Chúa Cha đã xác nhận như thế: “Nầy là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ngài là lời nói duy nhất của Chúa Cha. Nghe lời Ngài chính là nghe lời Chúa Cha. Nghe lời Ngài không phải chỉ nghe bằng lỗ tai, cũng không như một tiếng nói, một âm thanh, mà là chấp nhận chính bản thân Ngài vì Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, vì thế Ngài là sự sống. Tin vào Ngài sẽ được sống. Chúng ta nhận được một quà tặng hết sức quí báu là chính Con Một Thiên Chúa. Ngài đã được trao tặng để sống với chúng ta, và chính Ngài lại gánh vác tội lỗi chúng ta, mang lại cho chúng ta ơn tha thứ và hạnh phúc thiên đàng. Ngài làm người để biến trần gian nầy thành thiên quốc. Nhưng chúng ta không bước theo Ngài, không mấy người tin vào Ngài, không sống như Ngài, làm sao biến trần gian nầy thành thiên quốc được? Nhiều người có thể xem điều nầy chỉ là mơ mộng viễn vông, nhưng chỉ vì họ không thể thực hiện được. Chúng ta có dám sống như Ngài không? Dám hy sinh cái gì quí nhất là bản thân mình để phục vụ Chúa không? Abraham, xưa đã dám liều, và hôm nay cũng có những kitô hữu cũng đang liều mình cho Chúa và anh em trên khắp thế giới. Những người đó mới thực sự là Kitô hữu, là những chứng nhân can đảm cho tình yêu Chúa.

Chúa Giêsu đến trong trần gian, mang thân con người, sống như con người để biến hóa mọi sự. Ngài làm cho trần gian nầy mang một ý nghĩa. Trước tiên, “Ngài sẽ chết cho chúng ta… sẽ biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”. Tất cả thực tại trần gian sẽ mang lấy ánh sáng của Ngài, sẽ được biến hình trong vinh quang như Ngài, chúng ta cũng sẽ được biến đổi như Ngài để thành con ánh sáng. Trần gian đang cần những con người mang ánh sáng vì càng ngày bóng tối của tội lỗi đang phủ lấp thế gian và con người càng lún sâu vào một cuộc sống vô nghĩa, không có ngày mai, không một ánh sáng hy vọng nào.

Hãy mang lấy ánh sáng của tình yêu, như Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, Ngài đã đến thắp lên ngọn đèn hy vọng, chúng ta đừng để nó tắt đi.

Mùa Chay chính là lúc chúng ta nhìn về Chúa với tất cả lòng tin cậy, nhìn về tâm hồn chúng ta để hoán cải vì nhiều lúc chúng ta cũng trở thành bóng tối. Chúng ta đã được gọi từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Chúa để thành con cái ánh sáng. Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái…” Ngài cũng bảo chúng ta hãy mặc lấy khí giới của ánh sáng. Đó chính là ơn gọi của Kitô hữu. Giữa một thế giới mịt mù anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời, thánh Phêrô cũng căn dặn như thế.

Chúng ta chỉ có một chọn lựa là theo Chúa chúng ta trên con đường Ngài đã vạch ra cho chúng ta. Phải từ bỏ những hành vi ám muội và sống thánh thiện. Muốn như thế, chỉ có một con đường:đóng đinh con người cũ vào thập giá, đi vào cuộc tử nạn với Chúa.

Nói thì nghe rất dễ, nhưng thực tế không dễ. Chúng ta vẫn thích an nhàn, sống không có vấn đề. Đặt lại vấn đề đã là khó rồi, thực hiện càng cam go hơn. Con đường nên thánh không loại trừ hy sinh và can đảm. Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã run lên sợ hãi đến nỗi mướt mô hôi máu, nhưng Ngài đã đi đến cùng, vâng phục đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Từ bỏ những tật xấu là một điều ai cũng muốn, nhưng dám can đảm đi đến cùng là một điều không dễ. Chúng ta ngại ngùng, điều đó là điều không thể tránh. Đó là cái giá phải trả. “Xác thịt thì nặng nề”. Chúa không bảo chúng ta ngồi bóng mát ăn bát vàng, mà ngược lại dấn thân quyết liệt vào con đường hoán cải, tín thác vào tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đủ sức vực chúng ta dậy để bước tới mỗi ngày.

Chúa Giêsu đã đi đến cùng, đã dám đối mặt với mọi đau đớn nhục hình chỉ vì ngài đã yêu Chúa Cha và Ngài đã chứng minh tình yêu của Ngài bằng sự vâng phục triệt để như thế. Chúng ta không thể nên thánh nếu không biết yêu mến Chúa và yêu mến Chúa chính là giữ lời Người. Đó là điều Chúa Cha đã dạy chúng ta. Đó cũng chính là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến hạnh phúc Thiên đàng.

Hôm nay, trong giờ phút nầy, Chúa Giêsu có mặt bằng Tấm Bánh nhỏ, tấm bánh tình yêu. Chỉ vì yêu mà Ngài đã chấp nhận thân phận một chiếc bánh nhỏ. Và chính đó là dấu hiệu rõ rệt nhất của tình yêu vô biên của Ngài. Ngài không từ chối một điều gì để yêu mến chúng ta. Chúng ta từ chối Ngài chăng?

Trong mùa Chay thánh nầy, hãy đến với Ngài thường xuyên, ăn lấy Ngài để cùng với Ngài, trở nên ánh sáng cho trần gian như Ngài đã mong ước.

----------------------------

 

MC 2-ABC419: Tuân phục

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

 

Tuân phục là vâng lời, còn gọi là thanh tuân. Vâng lời là nhân đức quan trọng: “Vâng phục thì MC 2-ABC419


Tuân phục là vâng lời, còn gọi là thanh tuân. Vâng lời là nhân đức quan trọng: “Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ” (1 S 15:22). Vâng lời là một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy dòng) lời khấn của các tu sĩ: Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Con cái phải biết vâng lời cha mẹ, người nhỏ phải biết vâng lời người lớn, nhân viên phải biết vâng lời giám đốc,… Nếu không vâng lời thì mọi thứ sẽ đảo lộn. Tất nhiên vâng lời phải theo nghĩa tích cực, không thể vâng lời khi người trên dạy làm điều sai trái hoặc độc đoán.

VÂNG LỜI TUYỆT ĐỐI

Trình thuật St 22:1-2.9-13.15-18 kể chuyện về đức vâng lời của tổ phụ Ápraham.

Sau nhiều chuyện, Thiên Chúa lại thử lòng ông Ápraham. Người gọi ông: “Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người phán: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”.

Ông Ápraham chỉ có một đứa con trai yêu dấu, mà theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất quan trọng vì là con thừa tự và có quyền trưởng nam, thế mà Chúa lại bảo dâng đứa con đó làm lễ toàn thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông Ápraham không hề so đo, không hề thắc mắc, không hề nghi ngờ, không hề tiếc, mà ông còn mau mắn tuân phục lời Chúa dạy.

Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Ápraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Gay cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Ápraham! Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”.

Thật tuyệt vời! Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Càng tin tưởng thì người ta càng có thể mau mắn vâng lời. Tác giả Thánh vịnh bộc bạch: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: “Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà còn tin ư? Thật khó quá! Thật thế, thường thì chúng ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp ý mình”, còn nếu “trái ý mình” thì chắc hẳn chúng ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy là “phi lý”, thậm chí có người còn có thể trách Chúa! Tuy nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả đều là Hồng ân Thiên Chúa, vì “thân này là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm hãnh diện và hạnh phúc của chúng ta.

Trong Rm 8:31-34, thánh Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”.

Những câu hỏi đó lại chính là những câu trả lời rạch ròi và chính xác. Đúng là không phải nói gì thêm!

HẠNH PHÚC MIÊN MAN

Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài mặc trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Các ông còn thấy có ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Các ông được thấy “hiện tượng lạ” không chỉ là người “may mắn” mà còn là người có trọng trách nặng nề hơn. Tặng phẩm nào cũng gắn liền với trách nhiệm nào đó, như tục ngữ Việt Nam nói: “Cây càng cao, gió càng rung”.

Ông Phêrô thấy vậy, quá phấn khởi, nên ông thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (MC  9:5). Vừa kinh hoàng vừa hạnh phúc tột đỉnh vì được “nếm thử” vinh quang Thiên đàng, ông Phêrô không còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh và quên cả chính mình, chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu, cho ông Môsê và ông Êlia mà thôi.

Bỗng có đám mây bao phủ các ông, và có tiếng nói vọng ra: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (MC  9:7). Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng ta vâng lời Đức Kitô, vì Ngài vừa là Con “cưng” của Chúa Cha vừa tuyệt đối vâng lời. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa rất quý trọng đức vâng lời.

Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Hẳn là các ông còn dư âm niềm hạnh phúc ấy và chắc là tiếc những giây phút kia lắm. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nên giữ bí mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con người thật yếu đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ lòng tin!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống khiêm nhường và vâng lời, đồng thời xin thêm đức Tin, đức Cậy và đức Mến cho chúng con, để chúng con làm đẹp lòng Chúa là vui lòng tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu Dấu của Cha, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

----------------------------

 

MC 2-ABC420: Ngộ ra – Lm. Vũ Đình Tường

 

Ngộ ra là nhận thức bất ngờ biết được của sự vật đã từng coi qua, nhìnlại, xem đi, xem lại rất MC 2-ABC420


Ngộ ra là nhận thức bất ngờ biết được của sự vật đã từng coi qua, nhìnlại, xem đi, xem lại rất cẩn trọng hay của đoạn văn từng nghiền ngẫm nhiều lần, rồi bất thần nhận biết điều hay, ý tốt, hiện ra trong tâm trí làm cho tâm hồn hứng khởi, tâm trí vui, rạo rực điều vừa cảm nhận được. Ngộ ra là nguồn hứng khởi cho tâm trí, giúp tâm trí giầu mạnh, mở ra một chân trời mới, cánh cửa mới cho tâm hồn.

Đối với Kitô hữu ngộ ra điều mới mẻ về đức tin là một bước tiến nhảy vọt trong linh đạo, dẫn đến yêu mến Chúa nhiều hơn và phục vụ tha nhân tích cực và hăng say hơn. Ngộ ra thoả mãn điều con tim khao khát, mong đợi. Ngộ ra gây hứng khởi cho tâm hồn, làm cho tinh thần sảng khoái, sức mạnh nội tâm nhảy vọt. Ngộ ra điều mới mẻ về tình yêu Chúa, điều này không chỉ có lợi cho đức tin mà còn làm cho ta nhận ra giá trị thực và rõ hơn mục đích của cuộc lữ hành trần thế. Ngộ ra còn xác tín điều quan trọng khác là Thiên Chúa hiện thực và hiện diện trong cuộc lữ hành của ta. Ngộ ra còn thay đổi nhận thức về Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa yêu thương, giầu bác ái, chậm phê bình và hay tha thứ là hình ảnh Thiên Chúa ta tôn thờ. Ngộ ra còn giúp nhận biết đau khổ trần thế, bệnh tật, già nua không phải do Chúa dựng nên nhưng đó là một phần của tiến trình sống. Cây cối, thú vật và mọi sinh vật khác đều trải qua chương trình lột xác để trưởng thành hơn. Riêng con người thì đó là tiến hoá để trở nên tốt hơn trước khi tiến vào cuộc sống vĩnh cửu.

Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo Đức Kitô đã lâu. Các ngài chưa bao giờ nhận biết vinh quang thực của Đức Kitô mãi cho đến khi được chính mắt nhìn thấy trên núi thánh. Chính kinh nghiệm trên tỏ cho các ông biết rõ hơn về Đức Kitô, Đấng các ông đang tin theo. Con mắt đức tin mở ra, tâm trí các ông rộng mở, tinh thần cao vút và con tim nhảy mừng vì được diện kiến vinh quang Thiên Chúa. Trong giây phút mừng vui tột cùng các ông không biết nói gì. Phúc âm thuật lại lưỡi các ông hầu như co cứng, không phát lên lời.

Các ông không biết phải nói gì vì các ông kinh hoàng MC . 9,6

Đứng trước cảnh huy hoàng, rực rỡ của Thiên Chúa, ngôn ngữ loài người bế tắc, ngôn ngữ trần gian chỉ đủ để diễn tả niềm vui trần thế mà không thể diễn ta nổi niềm vui đến từ trời cao. Nhớ lại ngày Chúa Giáng Sinh các thiên thần cũng không diễn tả niềm vui bừng lên như ánh sáng ban mai bằng lời nói nhưng cất tiếng hát vang vọng không trung để diễn tả niềm vui. Các tông đồ dù cảm thấy vui mừng nhưng không biết làm cách nào diễn tả nguồn vui trào dâng trong tâm hồn. Các ông không hát nhưng cúi gục mặt thầm thán phục và kinh hãi trước hào quang vượt quá sức nhìn của mắt thường. Tai các ông còn nghe được tiếng đối đáp của các tổ phụ và rồi Đức Kitô đã khuyến khích các ông. Khi tỉnh lại các ông nhận ra Đức Kitô còn các vị khác đã biến khỏi mắt các ông. Kinh nghiệm trên núi thánh bồi bổ đức tin các ông tin tưởng bước theo Đức Kitô. Đức tin trở nên vững vàng hơn, dấn thân tích cực hơn và hy sinh trọn vẹn hơn. Kinh nghiệm trên núi thánh ban cho các ông con mắt mới, quả tim mới, tâm hồn mới và cuộc sống mới. Cuộc sống đơn sơ nhưng đầy bình an, hy vọng. Điều các ông nghe được trên núi thánh

Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài MC  9,7

Đây chính là điều Chúa Cha mời gọi Kitô hữu trung thành đi theo Đức Kitô, theo Con yêu dấu Thiên Chúa để nhận tình yêu Chúa Cha dành cho. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ dấu kín những gì đã chứng kiến. Các ông ấp ủ điều đó trong lòng. Miệng không nói ra nhưng tâm hồn khắc ghi những gì đã chứng kiến và trong cuộc sống rao giảng Tin Mừng tâm trí các ông luôn quay lại khúc phim núi thánh. Dù đã nhìn thấy, nghe được nhưng các ông vẫn chưa hiểu rõ í nghĩa câu

Sống lại từ cõi chết có nghĩa gì MC  9,11

Mãi cho đến khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết hai tông đồ trên đường Emaus đã chẳng xác nhận điều đó là gì khi các ông miệng nói ra:

Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? (Luca 24,32)

----------------------------

 

MC 2-ABC421: Thiên Chúa trên hết


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

1. Thiên Chúa có quyền đòi hỏi như vậy không?

 

Abraham không con, Thiên Chúa đã ban Isaac cho ông, và hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đòi MC 2-ABC421


Abraham không con, Thiên Chúa đã ban Isaac cho ông, và hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế con của mình trên một ngọn núi.

Isaac là người con duy nhất của Abraham với Sara. Thiên Chúa cũng hứa rằng chính từ nơi Isaac mà Abraham có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển!

Thiên Chúa ban Isaac cho Abraham, rồi bây giờ Thiên Chúa muốn đòi lại! Thiên Chúa hứa ban cho Abraham dòng giống đông đảo qua Isaac, nhưng bây giờ Thiên Chúa muốn Abraham hiến tế Isaac cho Ngài! Tại sao Thiên Chúa lại oái oăm như vậy? Giết Isaac, có khác nào Abraham giết mình!

Trong Kinh Thánh chúng ta còn thấy có nhiều đoạn văn cho thấy như thể Thiên Chúa coi thường mạng sống con người:

Thiên Chúa đã giết các con đầu lòng của người Aicập để giải phóng dân tộc Do thái;

Thiên Chúa đã ra lệnh thần tru "giết tất cả người và súc vật không chừa một mạng sống" trong một số thành mà dân Do thái đánh chiếm.

Tại sao Thiên Chúa lại đòi điều khủng khiếp như vậy nơi con người? Thiên Chúa có thể bắt con người phải giết người, và đặc biệt là giết con của mình, để hiến tế Ngài không? Thiên Chúa có quyền thử con người và đòi buộc con người như thế không?

Phải chăng là Thiên Chúa bất nhân?

2. Thiên Chúa đã hiến con của Ngài cho chúng ta

Thiên Chúa thử để cho thấy Abraham chọn Thiên Chúa trên hết, trên cả con mình, và trên cả chính mình. Tương tự vậy, Thiên Chúa đã cho Satan hành hạ Gióp, để người ta thấy rõ Gióp là người công chính và thánh thiện như thế nào!

Có thể chúng ta không dám hiến mạng con chúng ta cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã dám hiến mạng Con của Ngài cho chúng ta: "Thiên Chúa không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta; và như vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không ban mọi sự cho chúng ta cùng với Con của Ngài sao?" (Rm.8, 31-32).

Thiên Chúa không đòi, nhưng Thiên Chúa mời, và nếu chúng ta dám dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa, thì chắc Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta. Thiên Chúa mời gọi, để chúng ta được trổi trang hơn, được trổi vượt hơn.

Nếu chúng ta bất bình trước những đòi hỏi của Thiên Chúa đối với Abraham và đối với nhiều người, thì đáng lẽ chúng ta phải rung động sâu xa trước biến cố Thiên Chúa dám hiến Con của Ngài cho chúng ta! Thiên Chúa dám hy sinh Con của Ngài, và như vậy là hy sinh chính Ngài cho chúng ta.

Chúng ta dễ phản đối Thiên Chúa vì cho rằng Ngài đã đòi hỏi chúng ta, chứ dường như chúng ta chưa rung động trước tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài hiến Con Ngài cho chúng ta! Và nếu vậy, chúng ta là loài phản loạn, yêu sách, đòi hỏi, và không khiêm tốn nhận biết mình thực sự: con người có là gì trước Thiên Chúa. "Nhân bản" thì không bằng "Chúa bản", vì lấy Chúa làm nền tảng thì hàm chứa luôn tôn trọng con người thực, giúp con người thực sự, làm con người hạnh phúc thật.

3. Đây là Con Ta rất yêu dấu

Các môn đệ không hiểu nhiều về biến cố này, vì các ông chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Các ngài chỉ biết Đức Yêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa. Biến cố "Chúa hiển dung" này soi sáng biến cố phục sinh, và giúp các tông đồ nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa.

Đức Yêsu là Thiên Chúa. Nếu đúng như vậy, thì Thiên Chúa yêu con người biết bao, vì Ngài đã hiến Con của Ngài vì tất cả chúng ta! Ôi tình yêu Thiên Chúa thật thâm sâu, thật nhiệm mầu.

Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài là tuyệt đối, Ngài có quyền đòi hỏi mọi sự, và trên nguyên tắc con người phải dâng hiến tất cả cho Ngài, dâng hiến Ngài những gì qúy nhất, và thậm chí cả con người của mình.

Con người phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, cho dù Ngài có đòi hỏi gì đi nữa:

những con đầu lòng của người Aicập vẫn được Thiên Chúa thương;

những em bé bị chết ở Bêlem dưới tay bạo chúa Hêrôdê được tôn kính "các thánh anh hài";

các thánh tử đạo được thưởng công xứng đáng.

Tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, là những nhân đức đối thần, tức là những hành vi căn bản và nền tảng mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Không tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa được.

Con người phải bỏ mình để Thiên Chúa trở nên nhất nơi mình.

----------------------------

 

MC 2-ABC422: Thử thách trong cuộc sống


(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP

 

Bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor trước mặt ba MC 2-ABC422


Bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor trước mặt ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Việc biến hình này có ý nghĩa gì? Chắc chắn nhờ việc chứng kiến vẻ vinh quang tương lai của Chúa, Ngài muốn chuẩn bị cho các ông đối diện với biến cố khổ nạn của Ngài sẽ xẩy ra sau này.

Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải theo gương các môn đệ mà trèo lên núi, bất chấp khó khăn, can đảm dấn thân bước theo Đức Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài. Cuộc đời của chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách và có hàng ngàn lý do khiến chúng ta bỡ ngỡ, bối rối trước những hoàn cảnh éo le. Chúng ta sẽ không hiểu tại sao lại có những thử thách ấy! Chúa không thương yêu chúng ta sao? Không thắc mắc, chúng ta hãy bắt chước ông Abraham hoàn toàn tin tưởng phó thác đời mình trong tay Chúa quan phòng, vâng theo thánh ý Chuá, Ngài sẽ lo liệu, và ta hãy tâm niệm rằng: “Khi Chúa đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở những cửa sổ”. Ngài sẽ có cách giải quyết.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: St 22,1-2.9a,10-15

Theo nghiên cứu, người ta thấy dường như việc dùng trẻ con để tế lễ rất thịnh hành vào các thế kỷ thứ 8 và thứ 7 trước công nguyên. Cho nên khi nhắc nhở rằng mọi con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, lề luật liền nhấn mạnh đến việc buộc phải chuộc con đầu lòng bởi một của lễ thay thế. Câu chuyện tế lễ Isaac minh hoạ cho lề luật trên, đồng thời nhấn mạnh đến hành động đặc biệt của Abraham.

Thiên Chúa đã hứa với Abraham là ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân lớn lao. Ông chỉ có một người con duy nhất là Isaac do bà Sara sinh ra. Thế mà Thiên Chúa đã truyền cho ông phải hiến tế người con yêu dấu của mình. Như thế làm sao có thể dung hòa được giữa việc hiến tế Isaac và lời hứa của Thiên Chúa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển?

Abraham tiến thoái lưỡng nan, không biết theo con đường nào. Tuy thế, ông đã phải trấn áp nỗi đau khổ của người cha, ông lấy nghị lực đức tin mà thưa“Xin vâng” với thánh ý Chúa. Ông đã làm một việc vượt trên cả mức độ anh hùng. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Chúa.. Đức tin và lòng tuân phục của ông sẽ được phần thưởng liền sau đó.

+ Bài đọc 2: Rm 8,31-34

Có nhiều người còn nghi ngờ vào tình yêu của Thiên Chúa đến nỗi còn sợ sệt và tuyệt vọng. Thánh Phaolô với giọng điệu cảm kích sâu xa đã tuyên bố rằng không có gì phải thất vọng, bằng chứng là: Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một mình. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.

Việc Đức Giêsu bị chết trên thập giá đã khiến chúng ta không còn lý do nào phải hoài nghi và sợ sệt. Lỗi lầm lớn nhất chúng ta có thể vấp phải sẽ là hoài nghi, thiếu tin tưởng:”Nếu Thiên Chúa yểm trợ chúng ta, còn ai chống lại nổi chúng ta “Rm 8,31)?

+ Bài Tin mừng: MC  9,2-ABC10

Khi đi theo Đức Giêsu, các Tông đồ có cùng hoài bão của người Do thái là Đấng Cứu thế của họ sẽ là Đấng Cứu thế vinh thắng oai hùng tái lập vương quốc của Đavít và Salomon. Nhưng khác với cái nhìn trần tục của các ông, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Thiên sai sẽ là một “tôi tớ đau khổ và khiêm tốn đã được các tiên tri phác hoạ”.

Để củng cố niềm tin cho các môn đệ trước cuộc thương khó đầy xỉ nhục của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ lên núi Tabor, biến hình trước mặt các ông để các ông thấy khuôn mặt sáng ngời của Ngài hầu củng cố niềm tin cho các ông truớc những ngày đen tối sắp tới.

Theo gương các tông đồ, chúng ta cũng phải có một niềm tin như vậy trước gian nan thử thách trong cuộc sống của một Kitô hữu. Hẳn nhiên, cũng như các tông đồ, Chúa cũng dành cho chúng ta những giờ phút sáng tươi hoan hỉ nội tâm để giúp chúng ta đi tới tận cùng điểm dốc Calvê.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Từ Tabor đến Golgotha.

I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.

1. Diễn tiến việc biến hình.

Thánh Marcô cho biết: sáu ngày sau khi thánh Phêrô truyên xưng Đức Giêsu tại Cêsarêa của vua Philippe, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu qúi là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Thánh sử không cho biết là núi nào: núi Tabor hay Hermon. Các nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay nghiêng về núi Hermon, song cổ truyền cho biết chính Tabor đã được hồng ân ấy.

Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy”. Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây:”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Sau đó, Đức Giêsu trở lại tình trạng bình thường. Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.

2. Ý nghĩa việc Chúa biến hình

Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem, và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi Ngài đã chấp nhận đôi về quyết định của Ngài.

a) Sự hiện diện của Elia và Maisen

Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.

b) Biến hình giúp môn đệ vững tin

Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài.

Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe.

c) Lời mời gọi biến đổi

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong đó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.

Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy qui luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù vẫn là một bầu trời.

Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Héraclite đã nói:”Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”.

Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa.

Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy. Bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).

Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải thay hình đổi dạng linh hồn mình. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta phải cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn:”Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em””(Ep 4,22).

Thánh Tông đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết:”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-ABC24).

Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải đổi mới toàn diện, phải đổi từ con người cũ sang hẳn con người mới tốt lành. Đổi mới toàn diện là phải đổi mới tận căn chứ không phải chỉ đổi mới nửa vời hoặc đổi mới hời hợt một số cái, hoặc chỉ đổi mới cái bên ngoài để rồi trở thành con người mà người đời gọi một cách mỉa mai: ”Nửa người ngửa ngợm nửa đười ươi”, đúng như người ta nói:

Thay quần thay áo thay hơi,
Thay dáng thay dấp mà người chẳng thay.
(Ca dao)

Truyện: Cách làm cho trắng da.

Người ta thuật rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia đình người da đen ở. Gia đình đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi. Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau hết, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.

Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học trò về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem mầu da mất chưa. Nhưng! Màu đen quá sậm, cậu mất công. Vài phút sau, thầy giáo gọi cậu:

- Này em làm gì đấy?

Cậu giật mình thưa:

- Con cố sức trừ bỏ màu da đen để nên người da trắng, song không sao được..

(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)

II. BIẾN ĐỔI VÀ THỬ THÁCH

1. Thử thách của tổ phụ Abraham

Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình. Việc này cho chúng ta thấy cá tính và đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.

2. Thử thách của chúng ta

Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng... nhiều khi đường lối Chúa lại chẳng xem ra đi ngược với mục đích đang tìm kiếm sao? Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi:”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy”?

Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chuá luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói: Có cứng mới đứng đầu gió (Tục ngữ)

Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng:

Có gió lung, mới biết tùng bá cứng,
Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao.
(Tục ngữ)

Thánh Giacôbê Tông đồ nói về vấn đề này:”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài”(Gc 1,12).

Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn? Hãy noi gương Chúa Kitô! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở:”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài:”Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha”.

3. Thử thách và đức tin

a) Đức tin cần được thử thách

Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có gia trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa:”Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen”(MC  9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?

Người đời cũng cảm nghiệm thấy giá trị và ích lợi của thử thách. Chính thử thách làm cho con người thêm giá trị. Con người chỉ được đánh giá đúng qua thử thách như thi sĩ Nguyễn công Trứ nói lại câu nói của cổ nhân:

Văn vô sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài.

Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải có đức tin vững mạnh. Tuy thế đức tin không phải lúc nào cũng ở đỉnh cao, đức tin có lúc lên cao, có lúc xuống thấp theo nhịp điệu vui buồn, sướng khổ, may mắn hay trắc trở.

Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và sán lạn như đức tin của các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vười Cây Dầu (Mark Link).

Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đo chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi. Đó là lúc chúng ta thấy mình có nhiều kẻ thù hơn là thực tế, và thấy người bạn nào của mình cũng đều có lỗi với mình cả. Vào những ngày như vậy, chúng ta khó mà biết được tại sao có những lúc chúng ta lại nghĩ rằng cuộc đời này là dễ dàng vui tươi” (Anthony Padovano).

b) Tin tưởng và phó thác

Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như thánh Phaolô đã nói:”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”(2Cr 12,10).

Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa:”Khi Thiên Chúa đóng của chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.

Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới.

Truyện: Niềm đau tượng hình.

Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.

Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.

Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.

Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.

(Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159)

Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Niềm tin của Abraham yếu ớt và dường như phai mờ khi ông nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông.

Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta như thế. Khi bị thử thách, tâm hồn chúng ta cũng đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.

Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu. Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu thì: ”Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Đức Giêsu ta trèo lên đồi Calvê”. Hiểu được đau khổ là con đường tình yêu, thì thánh nữ Bernadette đã cầu nguyện:”Con không xin cho mình khỏi đau khổ, nhưng chỉ xin Ngài đừng bỏ con trong đau khổ”.

----------------------------

 

MC 2-ABC423: Crux est lux – thập giá là vinh quang!


(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

 

Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo là một trong những sự kiện MC 2-ABC423


Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải cứu độ. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và Ê-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời là đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Kitô của Tin Mừng cho các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Các môn đệ này sẽ là các nhân chứng được coi là ‘trụ cột’ của Giáo Hội (theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát), những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xem chú thích MC  9:1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu quả thật là như thế thì hiển dung đâu chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần suy sụp của các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương Đức Giêsu sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc hẳn phải lớn lao hơn nhiều…, và vì thế đáng để ta dành đôi chút thời giờ tìm hiểu thêm.

Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người mọi thời đại và mọi tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật Cựu Ước được mô tả như đã có diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ; Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem sách Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh núi Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-dê-ven (xem 1 Vua chương 19). Tuy nhiên thứ vinh quang Đức Chúa mà hai ông được chứng kiến thực tế đã rất khác nhau; một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19:18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở cửa hang… (1 V 19:12-ABC13). Nếu thế vinh quang mà Đức Giêsu muốn hiển thị trong lần biến dạng trên núi Ta-bo có chi khác với những lần đó không? Trước hết đó hẳn phải là một thứ vinh quang đích thực, vì được hiển thị do chính Người Con duy nhất từ Thiên Chúa mà đến. Vinh quang đó không những phải vượt xa mọi thứ hào quang đôi mắt phàm tục có thể nhìn thấy, mà còn phải vượt xa những gì cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã được chứng kiến trong những lần thị kiến Đức Chúa thời Cựu Ước.

Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9:31), điều đó chứng tỏ cuộc xuất hành sắp tới mới biểu hiện vinh quang thật, khác với những gì các ông đã biết hoặc đang được chứng kiến lúc này. Thứ hào quang mà hai ông hiện đang được chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang phải là cuộc xuất hành các ông đang được nghe đề cập tới. Đức Giêsu cũng hàm cùng một ý đó khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng vậy, cuộc tử nạn hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì vinh quang chói lọi của Người không thể là điều gì khác hơn biểu hiện của tình yêu đầy từ nhân và xót thương thông qua hành động cứu chuộc. Sau này khi gần tới giờ ra đi chịu chết và khi cầu nguyện với Chúa Cha, chính Đức Giêsu đã không ngần ngại gọi giờ phút ‘tang thương’ đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ phút Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17:1.8).

Chính Mô-sê và Ê-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được chứng kiến thứ vinh quang đó, vinh quang của Thập Giá. Và Đức Giêsu thật sự mong muốn và khích lệ các môn đệ, đặc biệt ba môn đệ thâm tín nhất, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại làm ba lều bên thứ vinh quang ‘giả tạo’ của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định nhất của mọi niền tin, từ Cựu Ước bước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ quan niệm về một Đức Chúa quyền phép qua hình ảnh một Thiên Chúa là Cha của Đức Kitô Giêsu đầy xót thương nhân hậu? Đối với các môn đệ là những người Do Thái chính hiệu, sự chuyển tiếp này không thể không gây ngỡ ngàng và đặt ra nhiều vấn nạn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì’, và Đức Giêsu còn phải cất công giải thích nhiều lần hơn nữa. Điều này cũng sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, tiếp tục là vấn đề then chốt độc đáo của niềm tin Kitô hữu (so với các tôn giáo khác, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo) khi phải vẽ lên trong tâm linh các tín hữu hình ảnh về một Thiên Chúa… lòng lành, xót thương và cứu độ, những nét không tuân theo bất cứ thứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào, nhưng chỉ dựa trên mạc khải duy nhất của Đức Kitô thập giá. Cách duy nhất họ có thể làm là để mình hoàn toàn bị khuất phục bởi mạc khải vinh quang thập giá, điều làm cho họ, trước mặt khôn ngoan của người đời, bị liệt vào hạng ngu đần và hèn nhất; do đó “Hãy vâng nghe lời Người!”

Mùa chay chính là thời gian để mỗi chúng ta vâng nghe và đón nhận thứ vinh quang cứu độ này của Thiên Chúa, vì thế đó là thời gian của thanh lọc và củng cố niềm tin Kitô.

Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phêrô dựng lều, nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen.

----------------------------

 

MC 2-ABC424: Đệ tam nhãn - Lm. Vincent Travers.

 

Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabôrê. Phêrô la lên: "Lạy Chúa, chúng ta ở đây thú vị biết MC 2-ABC424


Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabôrê. Phêrô la lên: "Lạy Chúa, chúng ta ở đây thú vị biết bao!". Thật thế, các ông thấy được một khía cạnh nơi Chúa Giêsu mà các ông chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Điều nầy lưu lại một ấn tượng sâu xa giúp các ông đứng vững trong những ngày đen tối đầy thử thách đang trải dài trước mắt các ông. Từ đây trở đi, Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là một rabbi, con ông thợ mộc ở Nagiarét. Giờ đây Ngài là Đức Kitô, con yêu dấu của Thiên Chúa.

Đã thấy vinh quang

Dòng chữ đầy ý nghĩa nhất ở trong phần mở đầu của đoạn Phúc Âm nầy là: "Chúa Giêsu đã đem ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện." Chúng ta cũng có thể nhớ lại một dịp về sau khi Ngài đem riêng bộ ba đó theo Ngài. Đó là khi ở trong vườn Giếtsêmani. Ở trên núi Tabôrê họ đã thấy vinh quang của Chúa. Ở trong vườn cây dầu, họ đã chứng kiến cảnh hấp hối của Chúa. Đó là lúc trèo lên núi cao. Đó là lúc tụt xuống đất thấp. Ở trên cao họ đã được hỗ trợ cho khi phải xuống đất thấp. Kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay đã ghi lại như sau: "Ngài đã mạc khải vinh quang của Ngài để tăng sức cho họ khi phải đối diện với sự nhục nhã của thập giá." Thật đúng như vậy, nhưng một câu hỏi đã được đặt ra: "Còn đối với chúng ta thì sao?".

Chúng ta có thể đối đầu với nhiều chống đối và bách hại, thử thách và áp lực, nếu chúng ta có được một dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa cho thấy rồi ra cuối cùng mọi sự sẽ được êm xuôi, đâu vào đấy. Chúng ta có điều gì để bám víu vào, có mạc khải nào cho thấy chúng ta sẽ trải qua cơn khủng hoảng khi mất đi một người thân yêu, khi bị sa thải mất việc hoặc bị chối bỏ trong một sự tương giao... mà những điều đó xem ra là cả một vũ trụ đối với chúng ta? Câu trả lời là "có". Trong thực tế, chúng ta đã có những lúc được thấy Chúa biến hình khi Ngài tự mạc khải cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta thấy - thấy và nhận thấy điều gì đang xảy ra đó. Sự nghịch lý lớn lao ở trong Thánh kinh là: "ai có đôi mắt thì bị mù, còn ai mù thì có thể thấy".

Thiên Chúa vô hình

Những nhà thần bí học đã đề cập đến đệ tam nhãn - con mắt thứ ba. Họ nói tới việc nhìn thấy với con mắt của tâm hồn. Họ nói cho chúng ta rằng nếu chúng ta nhìn xem bề ngoài thì chúng ta đánh mất điều cơ bản, cái thực tại ở bên trong. Có một câu đầy ý nghĩa trong sách "The Little Prince"(Vị Tiểu Hoàng Tử). Câu đó là: "Điều gì cơ bản thì con mắt không thể thấy được."

Một quyển sách khác - quyển "Reaching For The Invisible God"(Đạt Tới Thiên Chúa Vô Hình) - đã đặt câu hỏi: "Ở đâu chúng ta có thể trông mong gặp được Thiên Chúa Vô Hình?".Joseph Mary Plunket, thi sĩ người Ái-Nhĩ-Lan là với khả năng con người, đã nhìn thấy Thiên Chúa vô hình ở trong thiên nhiên. Ông đã cảm hứng viết ra bài thơ sau đây:

"Tôi đã thấy huyết Ngài trên đóa hoa hồng,
Và vẻ đẹp của đôi mắt Ngài trên những vì sao.
Thân thể Ngài chiếu sáng giữa màn tuyết trắng muôn thuở,
Những giọt lệ Ngài rơi lã chã từ bầu trời cao."

Thiên Nhiên đã cung ứng cho thi sĩ Plunket những dịp biến hình và ngạc nhiên thay, ông đã chiêm ngắm vinh quang Thượng Đế trong một đóa hoa tươi, một hạt mưa rơi và một cụm tuyết trắng.

Chúng ta cũng thế, chúng ta được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa vô hình với khả năng con người chúng ta. Phải chăng đôi khi chúng ta đã không hỏi một người thân yêu hãy "nhận ra chúng ta" trong đám quần chúng đông đảo sao? Sự thật họ đã nhận ra và chúng ta vui sướng biết bao khi thấy họ nhận ra chúng ta trong đám đông đó. Chúng ta hãy nhận ra Thiên Chúa với con mắt của tâm hồn. Ngài đến với chúng ta không phải theo cung cách chúng ta nhưng theo cung cách của Ngài. Có thể chúng ta không nhận chân sự hiện diện của Ngài trừ khi chúng ta cố nhìn ra Ngài.

Thiên Chúa trong tô cháo gà

J.D. Salinger đã viết quyển sách "Fanny and Zooey" khiến người đọc phải choáng váng. Một cảnh gây nên ấn tượng lớn là khi Fanny từ trường cao đẳng về nhà, thần kinh bại hoại thê thảm. Cô đang nghiên cứu tỉ mỉ nền thần bí học về đạo giáo và cố gắng đó đã khiến cô căng thẳng tột độ. Thêm vào đó, mẹ cô cảm thấy lo lắng bồn chồn và để biểu lộ điều đó, bà đã dọn cho cô một tô cháo gà. Fanny rõ biết mẹ cô đang ra sức vỗ về cô nhưng sự trao tặng đó chọc giận cô khiến cô văng tục.

Em trai Fanny đang ngồi bàn ăn, nhảy nhổm lên và đối đầu với cô. Cậu thẳng thừng bảo cô là toàn bộ lối tiếp cận của cô đối với tôn giáo đều sai lầm hết: "Nếu tôn giáo là điều chị truy tầm, thì đây là lúc có người nói cho chị biết là chị đang đánh mất mỗi một tác động về tôn giáo đang xảy ra trong căn nhà nầy. Chị không có chút nhận thức khi thưởng thức một tô xúp đã được thánh hóa và đó là loại xúp duy nhất mà mẹ dọn ra trên bàn ăn nầy."

Cậu em đã thấy điều mà cô chị không thấy. Cậu đã nhìn thấy với đệ tam nhãn, sự mạc khải của tình yêu Thiên Chúa ở trong tô cháo gà của mẹ cậu. Fanny mù mắt. Cô có đôi mắt nhưng cô đã không thể thấy. Cô đã không thể thấy Đức Kitô ở trong cuộc sống tầm thường. Cô không thể thấy Ân sũng Thiên Chúa trong một tô cháo gà. Có thể cô đã ganh tị với Phêrô, Giacôbê và Gioan ở trên núi Tabôrê, nhưng cô cũng có một kinh nghiệm về biến hình và giả như cô đã quan sát, có thể cô đã được biến đổi và cô sẽ la lên: "Lạy Chúa, Con tạ ơn Chúa, thật thích thú được ở nơi đây, tại bàn ăn nầy."

Sự mạc khải có thể đã nuôi dưỡng cô, nâng đỡ cô khi xuống tinh thần và giúp đỡ cô qua cơn khủng hoảng.

Thiên Chúa ở đây

Đối với chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể chứng kiến những cuộc biến hình trong đời sống chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều đó nhưng thường khi đôi mắt chúng ta mất cơ hội thấy Ngài trong cuộc sống thường nhật, khi chúng ta thưởng thức một tô xúp nóng, khi ngắm xem một buổi chiều tà hay một đóa hoa xinh, khi được trao tặng một nụ cười tươi, khi đón tiếp những người anh chị em bất hạnh nhất của chúng ta. Thánh kinh cho chúng ta rõ hoặc là chúng ta thấy Chúa khắp mọi nơi hoặc là chúng ta không thấy Ngài ở đâu hết. Mỗi một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa vô hình là một lúc đầy ân sũng khiến chúng ta phải la lên: "Lạy Chúa, chúng con ở đây thật thích thú biết bao!"

Thích thú cho đến đỗi Phêrô, Giacôbê và Gioan đã muốn ở lại mãi trên đỉnh núi Tabôrê. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn dắt họ xuống núi. Không ai sống mãi trên một đỉnh núi. Thỉnh thoảng lên đó một lúc và rồi sau đó phải đi xuống thật xa để có những hoài vọng và cảm hứng mới. Chúng ta phải xuống núi. Sống là sống trong những thung lũng, làng mạc và thị thành. Chính ở đó có nhà cửa, trường ốc, bệnh xá, nhà tù, công sở, hảng xưởng và dinh thự...Đó là nơi người ta sinh hoạt, nơi có sự yêu thương và tha thứ, nơi có được miếng cơm manh áo, nơi vác thánh giá hằng ngày, nơi pha lẫn tiếng khóc và tiếng cười, đàn hát nhảy múa kể cả sinh hoạt cho phần rỗi linh hồn. Đó là nơi làm cho những mảnh đời chúng ta có ý nghĩa. Đó là nơi chúng ta đem thi thố những hoài bão và ước vọng. Chúng ta nên làm chiếu tỏa ánh sáng của núi Tabôrê trong đời sống chúng ta, ánh sáng mà qua đó bộ mặt nhân loại của chính Thiên Chúa được mạc khải.

----------------------------

 

MC 2-ABC425: Thiên Chúa trên hết


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

 

Thiên Chúa có quyền đòi hỏi như vậy không? Abraham không con, Thiên Chúa đã ban Isaac cho MC 2-ABC425


1. Thiên Chúa có quyền đòi hỏi như vậy không?

Abraham không con, Thiên Chúa đã ban Isaac cho ông, và hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế con của mình trên một ngọn núi.

Isaac là người con duy nhất của Abraham với Sara. Thiên Chúa cũng hứa rằng chính từ nơi Isaac mà Abraham có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển!

Thiên Chúa ban Isaac cho Abraham, rồi bây giờ Thiên Chúa muốn đòi lại! Thiên Chúa hứa ban cho Abraham dòng giống đông đảo qua Isaac, nhưng bây giờ Thiên Chúa muốn Abraham hiến tế Isaac cho Ngài! Tại sao Thiên Chúa lại oái oăm như vậy? Giết Isaac, có khác nào Abraham giết mình!

Trong Kinh Thánh chúng ta còn thấy có nhiều đoạn văn cho thấy như thể Thiên Chúa coi thường mạng sống con người:

Thiên Chúa đã giết các con đầu lòng của người Aicập để giải phóng dân tộc Do thái;

Thiên Chúa đã ra lệnh thần tru "giết tất cả người và súc vật không chừa một mạng sống" trong một số thành mà dân Do thái đánh chiếm.

Tại sao Thiên Chúa lại đòi điều khủng khiếp như vậy nơi con người? Thiên Chúa có thể bắt con người phải giết người, và đặc biệt là giết con của mình, để hiến tế Ngài không? Thiên Chúa có quyền thử con người và đòi buộc con người như thế không?

Phải chăng là Thiên Chúa bất nhân?

2. Thiên Chúa đã hiến con của Ngài cho chúng ta

Thiên Chúa thử để cho thấy Abraham chọn Thiên Chúa trên hết, trên cả con mình, và trên cả chính mình. Tương tự vậy, Thiên Chúa đã cho Satan hành hạ Gióp, để người ta thấy rõ Gióp là người công chính và thánh thiện như thế nào!

Có thể chúng ta không dám hiến mạng con chúng ta cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã dám hiến mạng Con của Ngài cho chúng ta: "Thiên Chúa không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta; và như vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không ban mọi sự cho chúng ta cùng với Con của Ngài sao?" (Rm.8, 31-32).

Thiên Chúa không đòi, nhưng Thiên Chúa mời, và nếu chúng ta dám dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa, thì chắc Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta. Thiên Chúa mời gọi, để chúng ta được trổi trang hơn, được trổi vượt hơn.

Nếu chúng ta bất bình trước những đòi hỏi của Thiên Chúa đối với Abraham và đối với nhiều người, thì đáng lẽ chúng ta phải rung động sâu xa trước biến cố Thiên Chúa dám hiến Con của Ngài cho chúng ta! Thiên Chúa dám hy sinh Con của Ngài, và như vậy là hy sinh chính Ngài cho chúng ta.

Chúng ta dễ phản đối Thiên Chúa vì cho rằng Ngài đã đòi hỏi chúng ta, chứ dường như chúng ta chưa rung động trước tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài hiến Con Ngài cho chúng ta! Và nếu vậy, chúng ta là loài phản loạn, yêu sách, đòi hỏi, và không khiêm tốn nhận biết mình thực sự: con người có là gì trước Thiên Chúa. "Nhân bản" thì không bằng "Chúa bản", vì lấy Chúa làm nền tảng thì hàm chứa luôn tôn trọng con người thực, giúp con người thực sự, làm con người hạnh phúc thật.

3. Đây là Con Ta rất yêu dấu

Các môn đệ không hiểu nhiều về biến cố này, vì các ông chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Các ngài chỉ biết Đức Yêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa. Biến cố "Chúa hiển dung" này soi sáng biến cố phục sinh, và giúp các tông đồ nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa.

Đức Yêsu là Thiên Chúa. Nếu đúng như vậy, thì Thiên Chúa yêu con người biết bao, vì Ngài đã hiến Con của Ngài vì tất cả chúng ta! Ôi tình yêu Thiên Chúa thật thâm sâu, thật nhiệm mầu.

Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài là tuyệt đối, Ngài có quyền đòi hỏi mọi sự, và trên nguyên tắc con người phải dâng hiến tất cả cho Ngài, dâng hiến Ngài những gì qúy nhất, và thậm chí cả con người của mình.

Con người phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, cho dù Ngài có đòi hỏi gì đi nữa:

những con đầu lòng của người Aicập vẫn được Thiên Chúa thương;

những em bé bị chết ở Bêlem dưới tay bạo chúa Hêrôdê được tôn kính "các thánh anh hài";

các thánh tử đạo được thưởng công xứng đáng.

Tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, là những nhân đức đối thần, tức là những hành vi căn bản và nền tảng mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Không tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa được.

Con người phải bỏ mình để Thiên Chúa trở nên nhất nơi mình.

----------------------------

 

MC 2-ABC426: Hãy lắng nghe – Rolland Dionne.


Tha hồ lựa chọn.

“Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin Mừng”.

 

Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ MC 2-ABC426


Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc? Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không?

Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số những vị “giảng đạo” xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tự hỏi: Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho chúng ta biết điều này?

Tầm quan trọng của việc lắng nghe.

Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi lắng nghe: “Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài”. Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người chống lại luật của Ngài: “Chúng không nghe lời Ta”.

Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.

Kẻ lòng Ta ưu ái.

Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu: “Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài”. Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người duy nhất đã thể hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.

Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để làm cho chúng ta trở nên những kẻ “được ưu ái”.

Tin tưởng.

Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.

Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.

Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn không? Chúng ta có sẵn sàng “lắng nghe” không? Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền được gọi là “Con yêu dấu”

----------------------------

 

MC 2-ABC427: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?


(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

 

Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải MC 2-ABC427


Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?

Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người sẽ chứng kiến cảnh sầu khổ của Chúa trong vườn cây dầu. Vì thế Chúa đưa ba tông đồ lên đỉnh núi để biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Chúa biến hình có mục đích là củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong cái viễn tượng của cuộc khổ hình và thánh giá. Sau cảnh biến hình, Chúa ra lệnh cho các tông đồ không được thuật lại cho ai những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con người từ cõi chết sống lại (MC  9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?

Trong Mùa Chay ta cùng với các tông đồ suy gẫm ý nghĩa của lời Chúa: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Các tông đồ bày tỏ nỗi buồn sầu khi Chúa Giêsu tiên báo, Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị lên án tử hình, và ngày thứ ba sẽ sống lại (MC  8:31). Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thày mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Đức Kitô đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá. Vì thế Phêrô đại diện cho các tông đồ kéo riêng Người ra và trách Người (MC  8:32).

Từ đó các tông đồ quan sát và suy niệm những cảnh: Thày mình bị bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bách hại và lăng nhục Thày mình phải chịu làm các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được loan tin là Thày mình đã sống lại họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư. Chỉ sau khi đối diện với Chúa phục sinh họ mới trở nên xác tín. Và từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Để chia sẻ cái niềm vui phục sinh của Thày mình, họ cũng đã phải trải qua những bách hại, chịu tù đày và chịu khổ hình trên thập giá. Đúng như lời Chúa phán: Đày tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thày, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy các tông đồ dần dần đã hiểu được từ cõi chết sống lại như thế nào? Các vị tử đạo trong đó có tiền nhân Việt Nam, 117 vị anh hùng tử đạo, cũng đã hiểu đuợc tư cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử.

Đối với ta, tư cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống ta, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta cũng được sống lại từ cõi chết. Cái tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại nho nhỏ, không phải như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu, ta sẽ đuợc tham dự vào đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa: Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu mục nát đi, nó sẽ sinh nhiều bông trái (Ga 12:24). Khi ta chịu cắt tỉa những tính mê nết xấu, ta sẽ được vươn lên về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng. Bấy giờ ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: chết đi sống lại như thế nào.

----------------------------

 

MC 2-ABC428: Chú giải của Noel Quesson

 

Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình Maccô không nói MC 2-ABC428


Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình

Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"... "Môsê"... "đám mây"... "núi "... Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.

Phêrô, Giacôbê và Gioan

Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (MC  5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (MC  14,83).

Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.

Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao...

Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.

Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt các ông

Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:

Một quan niệm "bi quan": Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.

- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.

- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là "hình ảnh", là "họa ảnh" tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt", nhưng cần được "biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần.

Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại “Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).

Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).

Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.

Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.

Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).

Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.

Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì". Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?

Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-ABC24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (MC  9,11-13).

Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.

Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.

Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (MC  8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (MC  8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng" không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.

Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người".

Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (MC  1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.

Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.

Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩ a là gì?

Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.

----------------------------

 

MC 2-ABC429: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY

 

Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay có nhiều tên gọi: Người thì gọi là Chúa Nhật Chúa biến hình. Người MC 2-ABC429


Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay có nhiều tên gọi:

Người thì gọi là Chúa Nhật Chúa biến hình

Người thì gọi là Chúa Nhật Chúa hiển dung.

Gọi là Chúa Nhật Chúa biến hình hay Chúa Nhật Chúa hiển dung... đàng nào cũng có lý.

Riêng đối với cha, cha thích gọi là Chúa Nhật Chúa biến hình và hiển dung. Chúng con có thấy cha tham làm không. Lý do cha chọn như thế vì có gọi như thế mới diễn tả được hết những gì câu chuyện hôm nay muốn diễn tả. Bây giờ chúng con nghe cha giải thích.

1. Biến hình

Thế nào là biến hình chúng con ? Cha xin mượn câu chuyện này để chúng con hiểu.

Đã có lần cha nói với chúng con về bức tranh rất nổi tiếng của nhà danh họa Leonardo da Vinci. Bức tranh Bữa tiệc ly giữa Chúa Giêsu và 12 Tông Đồ trong bữa ăn sau hết. Sau khi đã vẽ xong 10 Tông Đồ, Leonard de Vinci muốn đi tìm một khuôn mặt thật dịu dàng và nhân từ, đẹp đẽ, để làm mẫu cho ông vẽ Chúa Giêsu. Thật là may mắn làm sao một hôm ông dự thánh lễ ở một nhà thờ kia, ông thấy trong đám thanh niên hát lễ, có Pietro Bandenelli, một thanh niên có nét mặt khôi ngô phi thường. Sau một hồi nói chuyện trao đổi, người thanh niên này đã bằng lòng theo ông về chỗ ông làm việc để làm mẫu cho ông vẽ. Cặm cụi vẽ xong, họa sĩ đem treo ở xưởng, và ai hỏi mua ông cũng không bán.

Sau đó hai năm, họa sĩ lại băn khoăn vì đã mất nhiều thời gian mà chưa tìm ra được người nào có nét mặt cứng cỏi và xấu xí tượng trưng cho khuôn mặt của Giuda. Ông vào một ngõ hẻm, thì gặp một người bẫn thỉu, xấu xa, xốc xếch, giơ tay xin ông bố thí. Ông nghĩ bụng, dầu có đi hết các phố chợ, có lẽ cũng chẳng gặp ai xấu hơn chàng này. Ông bảo chàng đứng dậy đi theo về nhà để ông vẽ cho xong bức ảnh kia, bức ảnh còn thiếu Giuda nữa là xong.

Khi bước vào nhà, trông thấy bức tranh, chàng tự nhiên khóc lên. Chủ nhà cũng như mọi người trong phòng đều ngạc nhiên không hiểu lý do. Người ta gặng hỏi, chàng trỏ tay lên bức ảnh và nói:

- Ông quên tôi rồi sao ? Cách đây hai năm, tôi đã được ông mời đến đây để làm mẫu cho ông vẽ. Khi ấy tôi đẹp đẽ, đã được ông ca tụng và lấy làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu. Nhưng sau đó tôi đã nhẹ dạ theo chúng bạn, tôi đâm ra chơi bời, sa đọa; ngày nay trong cảnh túng thiếu, bị các bạn và anh em bỏ rơi, tôi chỉ còn trông cậy vào đức ái của ông mà thôi.

Đây đúng là một cuộc biến hình đáng ghê sợ. Từ một khuôn mặt được làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu đã trở thành khuôn mặt được dùng làm mẫu để vẽ Giuđa chúng con thấy có sợ không!

2. Hiển dung

Thế nào là hiển dung chúng con ? Hiển dung là làm lộ ra nhũng gì bị che khuất, bị giấu kín. Cha mượn câu chuyện này cho chúng con hiểu.

Hồi đó, hoàng đế Sabat cai trị vương quốc Ba Tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một nhân công nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận dưới hầm tối của lâu đài, là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hàng ngày là mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.

Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ: ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta điều gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:

Bấy lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân nghèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua, ta rất quý mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban.

Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm.

Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông lên giàu sang, danh vọng.

Cụ già cúi đầu đáp:

Tâu hoàng thượng, con đã hiểu tấm lòng của hoàng thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao quý nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một điều là hoàng thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quý giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.

Chúng con biết Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng khi xuống thế làm người Chúa đã giấu không để ai biết điều đó ngay. Chúa cho người ta biết nhưng biết từ từ. Hôm nay thì Chúa tỏ ra cho ba Tông Đồ “ruột” của Chúa được biết trước. Dù vậy khi từ trên núi đi xuống Chúa vẫn nói với các ông đừng cho ai biết việc này cho tới khi Chúa muốn.

3. Chúa Giêsu biến hình

Việc Chúa biến hình hôm nay cũng tương tự như thế. Chúa làm biến đi cái con người hằng ngày đang có của mình. Đồng thời Chúa để lộ ra hình ảnh đích thực của một Thiên Chúa của Ngài mà Ngài đã giấu đi khi mặc lấy thân phận một con người. Các Tông Đồ được cùng đi theo Chúa đã phải ngất ngây trước hình ảnh kỳ diệu tuyệt vời này.

Cha hỏi chúng con khi thực hiện cuộc biến hành và hiển dung này Chúa muốn gì nơi chúng ta ?

Lời của Thiên Chúa Cha từ trời phán: “Hãy vâng nghe lời Người”.

Nhưng vâng nghe để làm gì nếu không phải là để chúng ta cố gắng làm biến đi con người tầm thường của mình để cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình được hiển lộ ra.

Cha John Diamond một nhà giảng thuyết nổi tiếng bên Mỹ có kể lại câu chuyện này: “Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên đi lên trước cửa Thiên Đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng hỏi vọng ra: “Ai đó” - Linh hồn trả lời: “Con đây ạ”.

Cửa vẫn đóng.

Sau đó linh hồn lại trở về với đời sống ở trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa Thiên Đàng một lần nữa. Lại một tiếng hỏi từ bên trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách quả quyết hơn: “Dạ chính con đây”.

Cửa vẫn đóng.

Linh hồn lại phải trở về trần thế... mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi là con đường nào. Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường phải làm chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, hay tự mãn, hay ghen ghét. Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất chính để làm cho con người của mình dần dần được giống Thiên Chúa là Cha ở trên trời.

Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa thì linh hồn lại lên trời... lại gõ cửa... lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra: “Ai đó ?”.

Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp lại ngay: “Dạ thưa chính Chúa đấy ạ”.

Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên Đàng được mở ra và cả một đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào Thiên Đàng.

----------------------------

 

MC 2-ABC430: CHÚA NHẬT II MÙA CHAY


Dẫn nhập đầu lễ

 

Trên núi Ta-bo Chúa biến hình, Cho ta bằng chứng sẽ hoàn sinh. Xác ta sáng chói trong Thiên Chúa MC 2-ABC430


Trên núi Ta-bo Chúa biến hình

Cho ta bằng chứng sẽ hoàn sinh

Xác ta sáng chói trong Thiên Chúa

Nếu biết tin yêu Chúa hết tình.

Các bạn thiếu nhi thân mến, hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay: Đức Giêsu củng cố đức tin cho các môn đệ (MC  9,2-ABC10).

Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt các môn đệ (MC  9,2). Con mắt đức tin của các ông đã mở ra vì nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện nơi Đức Giêsu. Việc nhận ra Đức Giêsu là ai đã củng cố đức tin yếu kém của các môn đệ, và cũng là bước chuẩn bị cho các ông bước vào cuộc thương khó với Chúa ở Giê-ru-sa-lem.

Dâng Thánh lễ hôm nay, mời các bạn thiếu nhi cùng lên núi Ta-bo với Chúa Giêsu và các môn đệ. Xin Chúa mở con mắt đức tin của chúng ta, để luôn sáng suốt nhận ra Chúa đang hiện diện mọi nơi mọi lúc. Mời cộng đoàn đứng.

 Lời nguyện chung

Chủ tế: Chúng con thiếu nhi thân mến, Chúa Giêsu biến hình trên núi báo trước cho chúng ta hạnh phúc Nước Trời, nơi Chúa hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

1. Niềm tin vào Đức Kitô biến đổi cuộc đời con người. Xin cho các Kitô hữu trong Giáo hội/ luôn vững tin vào Con Thiên Chúa, để đời sống họ được biến đổi nhờ Lời Chúa và các bí tích. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

2. “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Xin cho các dân tộc trên thế giới/ được nghe Lời Chúa và đón nhận niềm tin Kitô giáo. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

3. “Áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết”. Xin cho các Kitô hữu đang công tác trong ngành y tế/ luôn là những chứng nhân của niềm tin vào sự sống lại. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

4. “Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm”. Xin cho các thầy cô giáo lý viên, các anh chị trưởng và các bạn thiếu nhi/ biết gia tăng cầu nguyện để được ở bên Chúa nhiều hơn trong Mùa Chay này. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa đã biến hình vinh hiển trên núi Ta-bo, và các môn đệ đã tin Ngài là Đức Kitô. Xin đổ tràn ơn đức tin trên chúng con, để chúng con cũng tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lm Thiên Vy

----------------------------

 

MC 2-ABC431: Học hỏi Phúc Âm CN 2 Mùa Chay


Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.

 

So sánh Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Có gì khác biệt không? Đâu là nét đặc biệt của Luca? 2. So MC 2-ABC431


1. So sánh Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Có gì khác biệt không? Đâu là nét đặc biệt của Luca?

2. So sánh Lc 3,21-22 với Lc 9,28-35. Có gì giống nhau và khác nhau không?

3. So sánh tiếng nói từ trời ở Lc 3,22 với tiếng từ đám mây ở Lc 9,35, có gì khác nhau không?

4. Trong các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu được hiển dung sau những biến cố nào? Đọc Mt 17,1-9; Mc 9,2-10; Lc 9, 28-36 và những đoạn đi trước ba đoạn này.

5. Mục đích chủ yếu của việc Đức Giêsu được Chúa Cha hiển dung là gì?

6. Hai vị Môsê và Êlia nói về cuộc xuất hành của Đức Giêsu mà Người sẽ hoàn tất ở Giêrusalem (câu 31). Cuộc xuất hành (exodos) ở đây nghĩa là gì? Đọc Lc 24,246.

7. Trong bài Tin Mừng này có mấy từ vinh quang, mây. Tại sao ba môn đệ lại hoảng sợ?

8. Tại sao Giáo hội luôn cho đọc bài Tin Mừng về việc Chúa Hiển dung vào tuần 2 Mùa Chay? Chúa Giêsu được hiển dung, có nâng đỡ chúng ta trong Mùa Chay không?

9. Chúa Cha phán: “Các ngươi hãy lắng nghe Người” (Lc 9,35). Câu này có giống chút nào với câu Đức Maria nói với gia nhân ở tiệc cưới Cana không: “Các anh hãy làm tất cả những gì Người bảo.”

CÂU HỎI SUY NIỆM:

Nhiều người đi thẩm mỹ để có được khuôn mặt đẹp. Trong Mùa Chay, chúng ta cần làm gì để có được khuôn mặt bừng sáng như Chúa Giêsu?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Có hai khác biệt giữa Mc 9,2-3 với Lc 9,28-29. Theo Mác-cô, biến cố Hiển Dung xảy ra “sáu ngày” sau khi Đức Giêsu tiên báo cái chết và sự phục sinh của Ngài, nghĩa là vào ngày thứ bảy (xem Xh 24,16). Còn theo Luca, biến cố này xảy ra “khoảng tám ngày sau.” Nhìn chung biến cố Hiển Dung xảy ra khoảng một tuần sau khi Đức Giêsu tiên báo cuộc Khổ nạn. Điểm khác biệt quan trọng hơn, đó là chỉ Luca mới nói rõ mục đích của Đức Giêsu khi lên núi là để cầu nguyện. Và Ngài đã được bừng sáng khi đang cầu nguyện.

2. Lc 3,21-22 và Lc 9,28-35 có những điểm giống nhau: đang khi Đức Giêsu cầu nguyện thì xảy ra biến cố, và có tiếng của Chúa Cha. Tuy nhiên cũng có những điểm khác nhau: lúc Đức Giêsu chịu phép rửa thì chưa có mặt các môn đệ; lúc Đức Giêsu hiển dung thì không nói đến sự hiện diện của Thánh Thần, nhưng lại có mặt hai ông Môsê và Êlia; khi chịu phép rửa, tiếng Chúa Cha từ trời nói trực tiếp với Đức Giêsu (Lc 3,22), còn khi hiển dung, tiếng Chúa Cha từ đám mây nói với các môn đệ (Lc 9,35).

3. Trong Mc 3,22, Chúa Cha từ trời long trọng tuyên bố cho Đức Giêsu biết Ngài thật là Con yêu dấu của Cha, được Cha yêu dấu và hài lòng. Còn trong Lc 9,35, Chúa Cha từ dám mây giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ và khuyên họ hãy vâng lời Người.

4. Trong các sách Tin Mừng Nhất lãm, Đức Giêsu được hiển dung sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin (Mc 9, 27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,18-21), sau khi Ngài tiên báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (Mc 8,31-33; Mt 16,21-23; Lc 9,22), và dạy về những đòi hỏi của ơn gọi làm môn đệ (Mc 8,34 – 9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).

5. Ba môn đệ thân tín đã có những kinh nghiệm độc nhất vô nhị trên núi. Họ đã được thấy vinh quang của Đức Giêsu, và của hai ông Mô-sê và Êlia (Lc 9, 31-32). Kinh nghiệm được thấy tận mắt khuôn mặt và y phục của Đức Giêsu bừng sáng khi Ngài đang cầu nguyện (câu 29), kinh nghiệm thấy Ngài trò chuyện với hai nhân vật quan trọng là Mô-sê và Êlia (câu 30), cùng với kinh nghiệm được nghe tận tai lời nhắn nhủ của Chúa Cha từ đám mây (câu 35). Tất cả những kinh nghiệm đó chủ yếu nhằm nâng đỡ đức tin của ba môn đệ, trước khi họ chứng kiến cuộc khổ nạn nhục nhã và cái chết kinh hoàng của Đức Giêsu trên thập giá.

6. Trong Lc 9,31, hai ông Mô-sê và Êlia nói đến cuộc xuất hành mà Đức Giêsu sắp hoàn tất tại Giêrusalem. Cuộc xuất hành ở đây (exodos) để chỉ cái chết, sự phục sinh và lên trời của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ chết ở Giêrusalem, sẽ được phục sinh và hiện ra ở đó, rồi cuối cùng lên trời từ đó (Lc 24,51). Cuộc xuất hành cũng là cuộc Vượt qua của Đức Giêsu, vượt qua đau khổ mà vào vinh quang (Lc 24,26), vượt qua cõi chết để vào cõi sống (Lc 24,46).

7. Trong bài Tin Mừng này có hai từ vinh quang (các câu 31 và 32) và ba từ đám mây (các câu 34 và 35). Ba môn đệ hoảng sợ khi thấy mình ở trong đám mây (Lc 9,34). Đối với người Do-thái, đám mây là dấu hiệu cho sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 24,15-18), và Thiên Chúa phán ra từ đám mây (Lc 9,35). Các môn đệ hoảng sợ vì họ tin rằng “không ai thấy Thiên Chúa mà còn sống được” (Xh 33,20).

8. Trong tuần 1 Mùa Chay, Giáo Hội luôn cho chúng ta đọc bài Tin Mừng về Chúa chịu cám dỗ và đã chiến thắng. Tuần 2 Mùa Chay luôn là bài về Chúa Hiển dung. Mầu nhiệm Chúa Hiển Dung nâng đỡ đức tin chúng ta, để khi chúng ta nhìn thấy khuôn mặt dị dạng của Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta vẫn tin Ngài là Người Con yêu quý của Thiên Chúa.

9. Cả hai câu cho thấy Chúa Cha và Mẹ Maria đều mời gọi chúng ta vâng phục Đức Giêsu.

-------------------------------------

 

MC 2-ABC432: Đấng tín trung”


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Một trong những phẩm tính của Thiên Chúa được Kinh Thánh nhấn mạnh, đó là sự trung thành của MC 2-ABC432


Một trong những phẩm tính của Thiên Chúa được Kinh Thánh nhấn mạnh, đó là sự trung thành của Ngài. Thiên Chúa là Đấng tín trung. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Kinh Thánh chính là cuốn sách về lòng tín trung của Thiên Chúa.

Tín trung, hay trung thành, là luôn giữ những gì mình đã hứa, trước sau như một, dù có phải thiệt thòi hệ luỵ. Trong lịch sử, khi thiết lập mối tương quan với con người, Chúa đã khởi đầu bằng giao ước với ông Abraham. Đây là giao ước đầu tiên Thiên Chúa ký kết với con người. Một vị Thần linh cao cả mà lại đi ký giao ước với con người! Đó là điều không tưởng theo suy luận trần thế, nhưng là một điều kỳ diệu của tình thương. Bởi lẽ ở đời, người ta chỉ ký kết hợp đồng giữa các đối tác tương đương về khả năng tài chính hoặc ảnh hưởng quyền lực. Một người có số vốn một ngàn tỷ đồng chẳng bao giờ ký hợp đồng làm ăn với người chỉ có vốn vài trăm triệu đồng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng ngôn ngữ của giới kinh doanh để nói rằng, Thiên Chúa đầu tư luôn luôn chấp nhận lỗ và thua thiệt. Thiên Chúa là Đấng cao cả. Abraham chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt, đến người nối dòng còn chẳng có vào lúc gần đất xa trời. Ấy vậy mà Chúa lại ký kết giao ước với ông, đồng thời hứa hẹn với ông những điều ông không dám mơ ước: đó là một dòng dõi (Dân tộc) và một quê hương (Đất hứa).

Và thế là, từ đời nọ đến đời kia, Chúa luôn trung thành giữ giao ước của Ngài.

Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể đến trần gian để thiết lập giao ước mới. Nói cách khác, Người đến trần gian để đưa giao ước này lên một tầm cao mới. Qua Đức Giêsu, mối tương quan Thiên Chúa – Nhân Loại không còn phải qua trung gian như thời xưa nữa, tức là thời của ông Môisen và ông Êlia. Con người có thể được gặp gỡ trực tiếp Thiên Chúa, “ai thấy Thày là thấy Cha” (x. Ga 14,9).  Cuộc biến hình trên núi mà cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều kể lại, chính là một bằng chứng về lòng trung thành của Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa trong Cựu ước đã ngỏ lời qua truyền thống Lề luật (ông Môisen) và truyền thống Ngôn sứ (ông Êlia) nay đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu nhân độ thế. Đức Kitô vừa là Ngôn sứ vừa là Lề Luật. Kitô giáo tách ra khỏi truyền thống Do Thái, nhưng không đi ngược lại với truyền thống đó. Do Thái giáo, hay truyền thống Ngôn sứ và Lề luật nay đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử. Hình ảnh ông Môisen và ông Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu, như một gạch nối và chuyển giao giữa Cựu ước và Tân ước.

Nếu như Thiên Chúa là Đấng trung tín, thì con người lại dễ dàng phản bội. Lịch sử Cứu độ ghi lại những bất trung của dân riêng. Đã bao lần Thiên Chúa yêu thương bao bọc và chở che tha thứ, nhưng con người vẫn chống lại Ngài. Không chỉ lịch sử Do Thái, mà là lịch sử nhân loại, là chính chúng ta, những con người sống ở mọi nơi mọi thời cũng đang có khuynh hướng chống lại Thiên Chúa, khi vô tình hay hữu ý phá vỡ chương trình của Ngài. Con người từ khởi đầu luôn có khuynh hướng kiêu ngạo chống lại Thiên Chúa và có ý định phản loạn. Tội lỗi chính là sự phản loạn ấy. Tội lỗi cũng là sự bất trung. Tội lỗi gây hậu quả huỷ diệt chính bản thân mình.

Ba môn đệ gần gũi với Thày Giêsu, là ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, đã trải qua kinh nghiệm biến hình. Các ông được chiêm ngưỡng Chúa như Người là, tức là được chiêm ngưỡng Người trong chính vinh quang do bản tính Thiên Chúa của Người. Những lúc thông thường khác trong cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã ẩn vinh quang của Người. Trên núi cao, Người đã tỏ bày vinh quang cho các ông thấy, như một lời hứa hẹn và khích lệ để khẳng định với các ông: nếu các ông trung tín với Thày, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang với Thày.  Trên núi cao, một cuộc thần hiện (Epiphany) kỳ diệu đã diễn ra: lời Chúa Cha khẳng định: Đây là Con Ta yêu dấu, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Lời này đã vang lên lúc Đức Giêsu chịu phép Rửa ở sông Giordan, để dân chúng nghe thấy và nhận biết Đấng Messia (x. Mt 3,17). Lời này hôm nay lại vang lên trên đỉnh núi, trong giờ phút Chúa Giêsu biến hình, như một nhắc nhở: hãy trung tín với Người.

Mùa Chay là thời điểm lắng đọng tâm hồn, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng tín trung trong lịch sử nhân loại và lịch sử cá nhân mỗi người. Mùa Chay cũng là thời điểm tự vấn lương tâm, để soi xét về lòng trung thành của người tín hữu đối với Chúa và đối với tha nhân. Thánh Phaolô đau lòng ứa lệ khi thấy có những tín hữu bất trung. Họ không tìm Thiên Chúa, mà chỉ tìm những gì dễ dãi cho đời mình. Vinh quang và lý tưởng của họ là những thứ chóng qua. Người yêu mến Chúa sẽ tìm vinh quang thượng giới, là hạnh phúc vững bền. Chính lòng yêu mến và trung thành sẽ giúp chúng ta biến đổi cuộc đời, trở nên con người mới, mặc lấy Đấng Phục sinh, sáng láng tinh tuyền và vinh quang thánh thiện, như Đấng đã biến hình trên núi năm xưa.

--------------------------------

 

MC 2-ABC433: Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

 

Chúng ta bước vào tuần thứ hai Mùa Chay thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng dung mạo MC 2-ABC433


Chúng ta bước vào tuần thứ hai Mùa Chay thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng dung mạo Chúa Giêsu khi Ngài cầu nguyện trên đỉnh núi.

Thánh Luca hơn các thánh sử khác, luôn chú tâm đến một đặc điểm của Chúa Giêsu là cầu nguyện. Ngài cầu nguyện khi chịu phép rửa của Gioan tại sông Giođan, trước khi chọn các tông đồ, và hôm nay, chúng ta thấy Ngài cầu nguyện trên núi. Đây là lúc khởi đầu của giai đoạn quan trọng nhất của đời Ngài là cuộc tử nạn sắp tới. Ngài biết những gì Ngài phải làm và những gì đang chờ đợi Ngài, và Ngài sẵn sàng dấn thân vào con đường đau khổ mà Cha trên trời đã định cho Ngài.

Ngài cầu nguyện vì Ngài không làm việc một mình, Ngài luôn kết hiệp với Cha Ngài. Đây chính là một bài học quí báu đối với chúng ta. Chúng ta thường làm việc một mình, không cần đến Chúa. Khi gặp gian nan thử thách, lúc ấy chúng ta mới nhìn về Chúa, mới cảm thấy cần Chúa.

Ngài đang cầu nguyện, “dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa”. Không phải vô tình mà thánh Luca chú ý đến chi tiết này. Vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ hiện khi Ngài hoàn toàn chìm sâu trong Chúa Cha, lúc ấy Ngài thực sự là Con của Chúa Cha, là “Người Con Một đầy ân sủng và chân lý”, và chính lúc ấy Ngài được Chúa Cha công nhận là “người Ta tuyển chọn”.

“Y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa” Không những dung mạo Ngài biến đổi mà cả y phục của Ngài cũng chói ngời rực rỡ.

Điều này chứng tỏ Ngài không thuộc về thế gian nữa. Ngài mang lấy xác phàm, nhưng Ngài là Thiên Chúa. Vì thế, dù Ngài có bước vào cuộc Xuất Hành của Ngài, nghĩa là bước vào đau khổ và tử nạn, Ngài vẫn là Thiên Chúa.

Vinh quang phục sinh đã tỏ hiện nơi thân xác của Ngài.

Hai nhân vật tiêu biểu của Cựu Ước xuất hiện, “rạng ngời vinh hiển”, và đàm đạo với Ngài về cuộc Xuất Hành Ngài sắp thực hiện tại Giêrusalem. Chỉ có Luca mới nói đến nội dung của cuộc đàm đạo này. Môsê, đại diện cho Lề Luật, Êlia đại diện cho các tiên tri. Sự xuất hiện của hai vị này minh chứng rằng sứ mệnh của Ngài là kiện toàn Giao Ước và những lời tiên tri. Chúa Giêsu sẽ thiết lập Giao Ước mới và vĩnh cửu mà Giao Ước thời Môsê chỉ là hình bóng. Ngài đến “không phải để hủy bỏ mà kiện toàn”. Ngài kiện toàn Luật cũ nơi thân xác của Ngài bằng sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha. Ngài thay thế những cách thờ phượng của Giao Ước cũ bằng cách hiến dâng chính bản thân Ngài. Ngài là của lễ thay thế cho của lễ chiên bò. Ngài dạy chúng ta phải thờ phượng Chúa Cha thế nào, là thờ phượng “trong tinh thần và sự thật”: “Hãy hiến dâng thân mình anh em làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài lập Giáo Ước mới trong máu Ngài. Dòng máu thần linh này sẽ tẩy xóa tội lỗi nhân loại và biến chúng ta thành con cái của Chúa Cha. Ngài trở thành vị tư tế duy nhất và hiến lễ của Ngài cũng là hiến lễ duy nhất. Hãy biến đổi mọi lao nhọc cực khổ của chúng ta thành của lễ, cùng với Ngài.

Vì thế, chúng ta hãy làm như thánh Phaolô dạy: “Anh em hãy cởi bỏ con người cũ là con người hư nát… Anh em hãy để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa…”

Nhờ đó, thân xác hay chết của chúng ta sẽ mặc lấy vinh quang của Người Con Một…

Phêrô và các bạn ngủ mê mệt. Tại sao lại ngủ đang lúc ở với Thầy? Rồi đây các ông sẽ ngủ nữa trong vườn cây dầu khi Thầy của các ông “buồn có thể chết được” và mướt mồ hôi máu.

Chúng ta cũng như các ông, cứ ngủ vùi trong sự hờ hững của chúng ta. Chúng ta không cảm thấy cần phải cố gắng. Chúng ta ngại khó, ngại những gì đòi hỏi chúng ta cố gắng. Chúng ta chọn sự dễ dàng, nhàn hạ, mặc cho ai chết sống…

Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu. Phêrô xin dựng ba lều. Để làm gì? Để sống với Thầy trên đỉnh núi, vì “chúng con ở đây thật là hay!” Chúng ta cũng thế thôi. Khi gặp gian khó, chúng ta chạy trốn hay ngủ vùi; khi gặp điều vừa ý, chúng ta hăng hái ủng hộ.

Chúa Giêsu không như thế. Cuộc sống trần gian của Ngài mãi mãi là một hiến dâng. Ngài chấp nhận một cách bình thản những gì là lao khổ, cực nhọc và cả cái chết thê thảm trên thập giá, miễn là đẹp lòng Chúa Cha.

Mặc dù chúng ta ham vui… nhưng không phải lúc nào cũng chỉ tìm thỏa mãn những đòi hỏi của bản thân mà quên đi những gì cao đẹp. Nhiều người đã sống như thế và cuộc đời của họ trở thành một cực hình cho những người chung quanh. Thánh Phaolô căn dặn chúng ta: “Đừng theo thói thế gian… Đừng sống đối nghịch với thập giá Chúa Kitô… Đừng thờ cái bụng… Quê hương chúng ta ở trên trời… Bộ mặt thế gian này qua đi…” “Chúng ta đang chờ đợi trời mới đất mới” (Thánh Phêrô).

Nơi Chúa Giêsu hiển dung, chúng ta nhìn thấy vinh quang của chính chúng ta. Chúng ta sẽ được vinh quang như Ngài vì chúng ta đã được dìm mình với Ngài trong phép rửa tội để được sống lại vinh quang với Ngài. Vì “Ngài có quyền năng biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”.

Trên đỉnh núi, chính Chúa Cha, một lần nữa đã xác nhận: “Này là người Ta tuyển chọn, Hãy nghe lời Người”.

Chính Chúa Cha đã cho chúng ta biết, Người đã sai Con Một của Người đến cứu chúng ta, đưa chúng ta vào sự sống thần linh của Người. Chúng ta không thể nào trở lại với cuộc sống tội lỗi, với ách nô lệ gian ác. Chúng ta hãy vui mừng tạ ơn vì tình thương của Người đã thể hiện qua Chúa Giêsu. Bình minh của sự sống lại đã rạng ngời, chúng ta không thể nghi ngờ về hạnh phúc tương lai của chúng ta, khi “thân xác hư hèn của chúng ta mặc lấy sự bất tử”.

Vì thế, chúng ta hãy vui mừng luôn mãi… và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.

Sống hôm nay của chúng ta là nghe lời Đấng mà Chúa Cha đã sai đến cho chúng ta. Ngài là Lời ban sự sống, là Đấng dẫn đưa chúng ta đến sự sống…

Chúa Giêsu hiển dung hôm qua cũng là Chúa Giêsu hôm nay. Ngài hiện diện với chúng ta và cho chúng ta nơi bàn tiệc yêu thương này. Hãy ăn lấy Ngài hôm nay để được hiển dung với Ngài trong Nước Tình Yêu của Ngài, dù phải Xuất hành qua nhiều gian khổ.

-------------------------------

 

MC 2-ABC434: Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 2 Mùa Chay


Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay là Chúa Nhật của biến cố Biến Hình. Biến cố MC 2-ABC434


Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay là Chúa Nhật của biến cố Biến Hình. Biến cố Biến Hình vừa soi sáng mầu nhiệm Nhập Thể, đồng thời cũng vận mệnh nhân loại. Chúng ta sẽ khám phá mầu nhiệm này trong các bản văn của Chúa Nhật II Mùa Chay năm C này.

St 15: 5-12, 17-18

Lộ trình tâm linh của nhân loại được vén mở lên cho đến kinh nghiệm tôn giáo của ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đặt trọn niềm tin của mình vào những lời hứa của Chúa.

Pl 3: 17-4: 1

Theo thánh Phao-lô, cuộc Biến Hình của Đức Giê-su loan báo cuộc “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”, đó là giai đoạn cuối cùng lộ trình của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải trung tín.

Lc 9: 28-36

Tin Mừng tường thuật biến cố Biến Hình theo thánh Lu-ca.

BÀI ĐỌC I (St 15: 5-12, 17-18)

Chuyện tích này được trích từ “chuyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham từ chương 12: 1 đến chương 25: 18 sách Sáng Thế. Chuyện tích này tường thuật cuộc Thần Hiển. Nỗi sợ hãi của tổ phụ Áp-ra-ham trước việc Thiên Chúa tỏ mình ra có thể sánh ví với nỗi khiếp sợ của thánh Phê-rô và các bạn đồng môn vào lúc Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài trong biến cố Biến Hình.

Đức Chúa tái khẳng định những lời hứa mà Ngài đã hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham. Ngài đã hứa ban đất cho người du mục lang thang này (St 12: 2-3 và 12: 7) và cũng đã hứa ban một dòng dõi đông đúc như sao trên bầu trời cát dưới bãi biển cho một cụ già hiện nay không con này (St 13: 14-16). Nhưng những lời hứa này chậm được thực hiện, vì thế, vị tổ phụ bắt đầu sốt ruột. Trước hết, Đức Chúa trấn an ông, đoạn đưa ra một lời cam kết long trọng được đóng ấn bởi một hy lễ.

1. Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của niềm tin

Đức Chúa tái khẳng định với tổ phụ Áp-ra-ham rằng ông sẽ có một đứa con nối dõi tông đường sinh ra từ huyết thống của ông (St 15: 4), đoạn Ngài bảo ông ngước mắt lên trời thử đếm các vị sao và nói với ông: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”.

Đức Chúa mở ra cho vị tổ phụ một viễn cảnh không thể tin được, ấy vậy, “ông tin Đức Chúa”. Đây là lần đầu tiên trong Cựu Ước động từ “tin” xuất hiện. Theo ngôn ngữ Híp-ri, từ ngữ này có cùng ngữ căn với từ “A-men”, từ gợi lên sự vững bền, chắc chắn. Như vậy cuộc mạo hiểm của tổ phụ Áp-ra-ham không chỉ đánh dấu việc chào đời của một dân tộc, nhưng còn khai mào lịch sử của niềm tin, bước khởi đầu của lịch sử cứu độ. Tổ phụ Áp-ra-ham là người tín hữu đầu tiên; ông tin vào lời Thiên Chúa, bất chấp mọi sự việc có thể khiến ông nghi ngờ. Ông là cha của những người tin. “Đức Chúa kể ông là người công chính”, nghĩa là, ông sống một lòng một dạ với những gì Thiên Chúa chờ đợi từ ông. Chúng ta biết thánh Phao-lô sẽ khai triển thần học của mình từ câu này, qua đó thánh nhân sẽ minh họa đề tài đức tin của mình: chính nhờ đức tin, chứ không Lề Luật và công nghiệp của mình, mà chúng ta được ơn công chính hóa.

2. Tổ phụ Áp-ra-ham, con người của Giao Ước:

Lời hứa thứ hai nhắm đến việc sở hữu đất. Đức Chúa lập lại lời hứa này cho ông Áp-ra-ham: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu”. Đây là biểu thức tiêu biểu cho phần dẫn nhập của một hiệp ước, như người ta đọc thấy trong nhiều bản văn miền Cận Đông, vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Vị bá vương đề xuất giao ước của mình, mở đầu với việc nhắc lại những ân lộc mà ông đã ban cho chư hầu của mình. Sách Xuất Hành dẫn nhập Thập Giới hay điều khoản Giao Ước Xi-nai theo cùng một cách như vậy: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20: 1).

3. Hy tế Giao Ước:

Tổ phụ Áp-ra-ham xin Thiên Chúa một dấu chỉ. Dấu chỉ này sẽ là một hy tế có tính chất đặc biệt, một hy tế giao ước. Trong loại giao ước này, những con vật bị sát tế, được xẻ đôi và hai bên ký kết đi qua giữa các tế vật xẻ đôi, nữa này đối diện với nữa kia, theo cách nào đó gợi lên số phận sẽ là như vậy, nếu hai bên không chu toàn những lời cam kết của mình. Từ đó, nguyên ngữ Híp-ri “cắt một giao ước” đồng nghĩa với ký kết một giao ước. Loại hy tế này còn được gợi lên vào thời ngôn sứ Giê-rê-mi-a khi Đức Chúa công bố Ngài sẽ trừng phạt những ai đã không tuân giữ huấn lệnh bảy năm một lần phóng thích những người nô lệ: “Những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng qua giữa hai phần” (Gr 34: 18).

4. Giấc ngủ mê:

“Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ra-ham”. Từ ngữ Híp-ri được dùng ở đây không chỉ giấc ngủ tự nhiên. Từ ngữ này chỉ xuất hiện trong Cựu Ước để diễn tả giấc ngủ siêu nhiên. Cũng một từ ngữ được dùng để chỉ giấc ngủ của nguyên tổ A-đam vào lúc Đức Chúa lấy cái xương sườn của ông để dựng nên người đàn bà. Chuyện tích về giấc ngủ của nguyên tổ A-đam và giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham đều có chung một tác giả Gia-vít. Giấc ngũ huyền nhiệm nầy muốn nói rằng con người không xứng đáng được nhìn thấy công việc của Thiên Chúa. Trong tất cả văn chương tôn giáo, giấc ngủ hay cái chết muốn nói lên cuộc vượt qua từ cuộc sống này đến cuộc sống khác cao vời hơn. Tổ phụ Áp-ra-ham sắp trở thành người cùng phe với Thiên Chúa, người được ân nghĩa với Thiên Chúa. Đức Chúa cam kết với ông, và lời cam kết này được chuẩn nhận bởi một hy tế.

Vì chính Thiên Chúa có sáng kiến ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham, nên chỉ mình Thiên Chúa, dưới hình ngọn lửa, đi băng qua giữa những tế vật: “Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bổng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật bị xẻ đôi”. Việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước với ông Áp-ra-ham căn cứ trên đức tin của tổ phụ và có tính cách đơn phương về phía chỉ một Thiên Chúa. Giao Ước Xi-nai sẽ là Giao Ước được ký kết bởi đôi bên và căn cứ trên Lề Luật.

BÀI ĐỌC II (Pl 3: 17-4: 1)

Trước khi đề cập đến câu chuyện Biến Hình theo Tin Mừng Lu-ca, chúng ta đọc đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân nói về cuộc thay hình đổi dạng của chính chúng ta. Khi nói về cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta, thánh nhân không trực tiếp dựa trên sự kiện Biến Hình của Chúa Ki-tô, nhưng trên cái lô-gíc của biến cố Phục Sinh. Quả thật, thánh Phao-lô trước tiên là nhà thần học về biến cố Phục sinh: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.

Xin được nhắc lại rằng thánh Phao-lô thành lập Giáo Đoàn Phi-líp-phê, thuộc miền Ma-xê-đô-ni-a, vào những năm 49-50. Bức thư mà thánh nhân gởi cho cộng đoàn này xem ra được viết vào năm 56 hay 57, lúc đó, thánh nhân đang bị cầm tù, chắc chắn ở Ê-phê-xô.

1. Bắt chước thánh Phao-lô như thánh nhân bắt chước Đức Ki-tô:

Thánh Phao-lô đã sinh ra các tín hữu Phi-líp-phê trong đức tin; lòng nhiệt thành tông đồ của thánh nhân được sánh ví với nỗi bận lòng của một người cha mong muốn con cái noi gương mình mà sống phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Thánh nhân liên kết những cộng tác viên của mình vào chung cùng mẫu gương mà thánh nhân đưa ra. Đây không là lần duy nhất thánh nhân diễn tả ước nguyện của mình (x. 1Cr 4: 16; 11: 1; 1Tx 1: 6; 2Tx 3: 7-9). Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân xác định: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1).

2. Hai con đường:

Thánh Phao-lô phác họa hai bức tranh tương phản: bức tranh thứ nhất nêu lên tất cả những người “chỉ nghĩ đến những sự thế gian” và bức tranh thứ hai nói về những công dân Nước Trời.

Ở đây, chúng ta nhận ra đề tài kinh điển về hai con đường như trong Thánh Vịnh 1, sách Đệ Nhị Luật (11: 26-28; 30: 15-20), sách Châm Ngôn (8: 32-36), cũng như sự đối lập giữa hai con đường thường được sử dụng trong các giáo huấn của các kinh sư. Chúa Giê-su lấy lại kiểu nói này trong dụ ngôn của Ngài về hai con đường: con đường thênh thang dẫn đến họa diệt vong, còn đường chật hẹp thì dẫn đến sự sống. Theo giáo huấn của thánh Phao-lô, con đường dẫn đến họa diệt vong là con đường mà những kẻ phóng đãng, những kẻ trụy lạc đi theo: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn”. Tuy nhiên, qua những từ ngữ này, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh Phao-lô nhắm đến những Ki-tô hữu gốc Do thái vẫn duy trì quá mức những kiêng cử đồ ăn thức uống theo luật Mô-sê; còn trầm trọng hơn nữa, họ vẫn cứ đòi buộc những người Ki-tô hữu gốc lương dân phải chịu phép cắt bì. Quả thật, kiểu nói: “cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn” gợi lên điều này, bởi vì thánh nhân vừa mới bàn đến những kẻ cắt bì giả mạo và những người cắt bì đích thật, tức là những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Giê-su Ki-tô, chứ không cậy vào tính xác thịt (Pl 3: 2-3).

3. Trời và Đất:

Dù thế nào, thánh Phao-lô đối lập những công dân Nước Trời với những người mà Chúa của họ là cái bụng. Dường như thánh nhân đã chọn kiểu nói này khi quy chiếu đến thể chế chính trị đặc thù của thành phố Phi-líp-phê. Thành phố này là thuộc địa của Rô-ma, dân cư có “quyền công dân”; vì thế họ là công dân Rô-ma. Thánh nhân nói cho họ biết rằng quê hương đích thật của người Ki-tô hữu là Nước Trời.

Chính ở nơi tước vị công dân Nước Trời này mà chúng ta mong đợi cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta”. Thánh Phao-lô dùng cùng những ngôn từ như khi thánh nhân nói về Đức Ki-tô trong bài thánh thi ở đầu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này. Như vậy, sau khi tự hạ mình và chịu chết, Đức Ki-tô được tôn vinh để đảm bảo cuộc thay hình đổi dạng của chúng ta.

TIN MỪNG (Lc 9: 28-36)

Câu chuyện Biến Hình được cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ trình bày một trong ba bài trình thuật này vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Vào Phụng Vụ Năm C này, chúng ta đọc bài trình thuật theo thánh Lu-ca.

Xét về cơ bản, cả ba bài trình thuật khá giống nhau. Tuy nhiên, chính những sắc thái của mỗi bài trình thuật làm cho chúng khác nhau. Thánh Lu-ca đem đến những xác định riêng của mình.

Trước tiên, thánh Lu-ca gợi lên khoa thần học về vinh quang được liên kết với viễn cảnh của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh; nhờ sắc thái này, bài trình thuật của thánh ký mang một âm hưởng của Tin Mừng Gioan. Người ta đã nghĩ rằng nguồn thông tin của thánh ký đã có thể là thánh Gioan, một trong ba nhân chứng trực tiếp của biến cố Biến Hình này.

Thứ nữa, như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca định vị biến cố Biến Hình chỉ vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Chúa Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ngay liền biến cố “hóa bánh ra nhiều” như thánh Gioan, chứ không sau này như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu.

Ngoài ra, thánh Lu-ca cũng khác biệt với hai Tin Mừng nhất lãm kia về một điểm có ý nghĩa khác, ngay trước bài trình thuật của mình về cuộc Biến Hình. Khi Chúa Giê-su loan báo cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp tới của Ngài, Ngài liên kết lời loan báo của Ngài với hai thị kiến để làm yên lòng các môn đệ: thị kiến “Con Người từ cõi chết sống lại” và thị kiến “Con Người ngự đến trong vinh quang”. Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu viết: “Con Người ngự đến trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8: 38; Mt 16: 27); còn thánh Lu-ca đính chính: “Người ngự đến trong vinh quang của mình và vinh quang của Chúa Cha” (Lc 9: 26). Theo thánh Lu-ca, vinh quang của chính Chúa Giê-su sẽ là một nét đặc trưng trong bức tranh về biến cố Biến Hình.

Biến cố này phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố Biến Hình được sống bởi Chúa Giê-su và biến cố Biến Hình được sống bởi các nhân chứng.

1. Biến cố Biến Hình đối với Chúa Giê-su:

A- Chúa Giê-su cầu nguyện:

“Đức Giê-su lên núi cầu nguyện”. Địa danh của Núi không được nêu tên, có lẽ một ngọn đồi miền Ga-li-lê mà Đức Giê-su có thói quen rút lui một mình. Nhưng trong Kinh Thánh, núi được liên kết với mặc khải của Thiên Chúa. Vả lại, núi này sắp mặc lấy một dáng dấp núi Xi-nai trong vài giây phút. Hơn nữa, khi kể ra việc Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện, thánh Lu-ca có chủ ý nhấn mạnh thái độ này của Đức Giê-su. Quả thật, chỉ một mình thánh ký kể ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện vào giây phút này, cũng như chỉ một mình thánh ký đã chỉ ra việc Chúa Giê-su cầu nguyện khi Ngài chịu phép rửa của Gioan Tầy Giả. Trong cả hai trường hợp, “Trời” đã đáp trả bằng mặc khải hầu như giống nhau.

Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, “dung mạo của Ngài bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Thánh Lu-ca mô tả những thay đổi như vậy để tránh kiểu nói: “biến đổi hình dạng” được thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu sử dụng, bởi vì đối với thánh Lu-ca, kiểu nói: “biến đổi hình dạng” âm vang ngôn từ ngoại giáo. Như vậy, thánh ký định vị biến cố Biến Hình ở lòng cuộc sống nội tại của Chúa Giê-su, như một thực tại thần bí xuất phát từ chính Chúa Giê-su; Ngài không đón nhận biến cố này từ bên ngoài; vào lúc đó, nhân cách thực sự của Ngài được bày tỏ ra một cách tỏ tường.

B- Sự hiện diện của hai nhân chứng có thế giá: ông Mô-sê và ông Ê-li-a:

“Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a”. Rõ ràng, thánh ký ám chỉ luật Mô-sê, theo đó tính xác thực của một sự kiện chỉ được chấp nhận nếu ít nhất có hai nhân chứng (Đnl 19: 15). Cả hai nhân vật này: ông Mô-sê và ông Ê-li-a, đều đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi thánh; và cả hai, theo truyền thống, đều được đưa lên trời bên cạnh Thiên Chúa một cách mầu nhiệm: ông Ê-li-a được đưa lên trời trên một chiếc xe lửa, trước mắt của người môn đệ mình là ông Ê-li-sê (2V 11-12); còn ông Mô-sê, không ai đã thấy ngôi mộ của ông (Đnl 34: 5-6). Chắc chắn ông Mô-sê tiêu biểu Lề Luật, còn ông Ê-li-a đại diện trào lưu ngôn sứ, nhưng trên hết, không ai xứng đáng hơn hai nhân vật này làm chứng về Đấng Mê-si-a.

“Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. Đây là lời ghi chú riêng của thánh Lu-ca, ông Mô-sê và ông Ê-li-a được dự phần vào ánh vinh quang của Thiên Chúa. “Họ nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Chỉ một mình thánh Lu-ca xác định điều này. Từ “xuất hành” gợi lên rằng Chúa Giê-su là Mô-sê mới, Đấng sắp giải phóng con người khỏi cảnh đời nô lệ và hướng dẫn dân Ít-ra-en Mới về vương quốc Thiên Chúa, qua cuộc Vượt Qua của Ngài từ Tử Nạn đến Phục Sinh.

Như vậy, biến cố Biến Hình nhằm củng cố niềm tin của chúng ta: hậu cảnh của cuộc quy tụ ở trên núi Biến Hình này là đồi Gôn-gô-tha và vinh quang sau này của Ngài. Vào lúc Chúa Giê-su khởi sự phần khó khăn nhất của sứ mạng Ngài, Ngài nhận được niềm an ủi đặc biệt. Chúa Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp đi qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi nhập thể, và vào lúc này Ngài lấy lại một thoáng ánh vinh quang này. Biến cố Biến Hình là sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng bậc nhất mà Chúa Giê-su đã đón nhận trong suốt sứ vụ của Ngài, ít ra trong chừng mực mà chúng ta có thể biết.

2. Biến cố Biến Hình đối với ba môn đệ:

A- Họ sẽ là những nhân chứng:

Đức Giê-su “đem theo các ông Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê”. Đây cũng là ba vị Tông Đồ mà Chúa Giê-su cũng đã chọn làm nhân chứng về cuộc phục sinh bé gái của viên trưởng hội đường, ngỏ hầu họ hiểu một cách chính xác mối liên hệ giữa Biến Hình và Phục Sinh. Cũng chính ba người môn đệ này mà Chúa Giê-su sẽ đem theo riêng với Ngài vào vườn Ô-liu ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài.

B- Giấc ngủ của ba môn đệ:

Trong khi Chúa Giê-su cầu nguyện, các môn đệ “ngủ mê mệt”. Sự kiện chính xác sẽ được tái diễn ở vườn Ô-liu ở đó cũng chính ba môn đệ này ngủ mê mệt. Chắc chắn là giấc ngủ tự nhiên, trừ phi là một trong trong những giấc ngủ đánh dấu khoảng cách giữa con người và mầu nhiệm Thiên Chúa, như giấc ngủ của tổ phụ Áp-ra-ham trong Bài Đọc I, hay giấc ngủ của ông A-đam trong sách Sáng Thế.

“Khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giê-su và hai nhân vật đứng bên Người”. Việc kể ra vinh quang của Chúa Giê-su ở trung tâm bài trình thuật của Lu-ca khiến người ta nghĩ đến Tựa Ngôn của Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14). Sau này, thánh Phê-rô và các bạn đồng môn của ông sẽ phải đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút này lại chiêm ngưỡng cũng một Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật nổi danh của lịch sử Ít-ra-en. Núi Biến Hình là phản đề của đồi Gôn-gô-tha.

C- Cuộc Thần Hiển:

Thánh Phê-rô, bốc đồng và nhiệt thành, muốn thời gian dừng lại, cố định thị kiến này mãi mãi. Thánh nhân đề nghị dựng ba cái lều, một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a; thánh nhân không nghĩ đến mình, cũng như các bạn đồng môn của mình. Nhưng “ông không biết mình đang nói gì” vì biến cố vượt quá khả năng hiểu biết của thánh nhân.

“Ông còn đang nói, thì bổng có một đám mây bao phủ các ông”, như quyền năng của Chúa Thánh Thần đã bao phủ Đức Ma-ri-a, và như Đám Mây trong Cựu Ước biết bao lần vừa bày tỏ vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là đám mây trên đó Con Người sẽ ngự xuống vào ngày cánh chung…

“Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ”. Đám mây này bao phủ các ông, như vậy hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông với mầu nhiệm của Ngài, vào trong bí mật của một mặc khải mà các ông sẽ không dám thuật lại cho bất kỳ ai về những điều mình đã chứng kiến.

Một tiếng nói vang lên ngỏ lời với các ông công bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Cha đã chọn, như vào lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng thêm vào một mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy vâng nghe lời Người”. Mệnh lệnh này chắc chắn ám chỉ đến kinh “Shema Israen”, kinh bắt đầu với “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”. Thánh Phê-rô và các bạn đồng môn đại diện dân Ít-ra-en mới.

“Hãy vâng nghe lời Người!”: mọi điều Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại Ngài đã nói qua Đức Ki-tô, thời gian viên mãn đã đến (x. Dt 1: 1). Thánh Gioan Thánh Giá giải thích: “Hãy chăm chú nhìn vào một mình Ngài, vì ở nơi Ngài Ta đã nói và mặc khải cho con mọi điều, và ở nơi Ngài con sẽ gặp thấy thậm chí nhiều hơn điều con xin và ước muốn… Hãy lắng nghe Ngài, vì Ta không có thêm niềm tin để mặc khải, cũng không có thêm những điều gì để tuyên bố” (Ascent o f Mount Carmel, book 2, chap. 22, 5).

3. Bài học của biến cố Biến Hình:

Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ Ngài bằng cách mặc khải thân thể vinh quang của Ngài sau khi Ngài sống lại. Ngài muốn họ nhận ra rằng cuộc Tử Nạn của Ngài sẽ không là dấu chấm hết, nhưng đúng hơn con đường Ngài phải đi qua để đạt đến vinh quang của Ngài. “Đối với một người đi liền một mạch trên đường, người ấy phải có một sự hiểu biết nào đó về cùng đích – giống như một cung thủ sẽ không bắn liền ngay mũi tên trừ khi trước hết người ấy thấy mục tiêu… Điều này đặc biệt cần thiết nếu con đường thì cam go hay gập ghềnh, cuộc ra đi nặng nhọc, thì cùng đích lại thú vị” (St Thomas Aquinas, Summa theologiae, III, q. 45, a. 1).

Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su vén mở một trong những phẩm chất của thân thể được tôn vinh, thân thể của các thánh sẽ rạng ngời vinh hiển như lời của Chúa Giê-su được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu: “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ” (Mt 13: 43). Về phẩm chất thân xác được tôn vinh này, thánh Phao-lô khi thì gọi vinh quang: “Gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang” (1Cr 15: 43), khi khác thì gọi vinh hiển: “Người có quyền năng… mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21). Về vinh quang này, dân Ít-ra-en đã chiêm ngắm một hình bóng nào đó trong sa mạc, khi gương mặt của ông Mô-sê, sau cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, đã chói sáng rạng rỡ đến mức họ không thể nhìn vào gương mặt của ông (Xh 34: 29; 2Cr 3: 7). Tất cả mọi thân thể của các thánh sẽ không bị hư nát, nhưng dự phần vào hạnh phúc trọn vẹn bên cạnh Thiên Chúa.

----------------------------------

 

MC 2-ABC435: Tin là tín thác vào Chúa


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Bài đọc 1 nghe kể lại câu chuyện việc Thiên Chúa lập giao ước với tổ phụ Abraham vì ông tin MC 2-ABC435


Bài đọc 1 nghe kể lại câu chuyện việc Thiên Chúa lập giao ước với tổ phụ Abraham vì ông tin Chúa. Qủa thế, tổ phụ Abraham đã tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, tin vào lời Ngài hứa và tương lai mà Thiên Chúa hoạch định ra cho ông, ngay khi mà ông chưa có được gì cả. Chính thái độ tín thác hoàn toàn này khiến Abraham thành mẫu gương và là cha của những người có lòng tin thuộc mọi thời đại. Tin như tổ phụ Abraham nghĩa là tín thác bước đi theo chương trình Thiên Chúa đề nghị với chúng ta. Một chương trình bí nhiệm khác với những gì chúng ta tưởng nghĩ và mong ước. Tin có nghĩa là sẵn sàng ra khỏi môi trường sống đảm bảo, ra khỏi những thói quen, kiểu cách sống qui ước của loài người để đưa ra tay ra nắm chặt lấy bàn tay của Chúa để cho Ngài hướng dẫn và bước đi theo Ngài, chỉ cậy dựa vào và tín thác vào Thiên Chúa và Lời Thiên Chúa.

Cho nên, bài Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giêsu biến hình có ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Tại sao không phải là tổ phụ Abraham hay Gia-cóp mà là ông Mô-sê và Ê-li-a, bởi vì hai ông là hai gương mặt diễn tả tất cả Thánh Kinh, diễn tả tất cả Lời Chúa mà tín hữu cần phải biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa chỉ dạy mỗi ngày. Qua biến cố biến hình, Thiên Chúa không chỉ mời gọi chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Ngài là Tin Mừng của Chúa Giêsu, mà còn mời gọi chúng ta bước vào cuộc sống giao ước mà chúng ta ký kết với Ngài trong sự phó thác và tin tưởng khi nhận lãnh Bí tích Rửa Tội.

Vì vậy, đối với Kitô Giáo, tôi theo Đạo không chỉ là tin Chúa và Lời Chúa mà theo Đạo là tôi bước vào một giao ước với Thiên Chúa, có nghĩa là tôi bước vào đời sống đức tin với Chúa trong yêu thương, tín thác và sẵn sàng thi hành Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Như vậy, người có Đạo Công giáo là người có đức tin sống động giữa ta với Thiên Chúa, gọi là sống Đạo. Qủa thế, đức tin dẫn chúng ta vào giao ước với Thiên Chúa. Giống như cuộc sống hôn nhân đòi hỏi quan trọng của giao ước là trung tín. Ví dụ, một anh thanh niên có thể có 5-7 cô bồ nhưng khi thành hôn với một cô nào đó thì phải giữ lời cam kết giao ước là trung tín đến cùng: “Anh sẽ giữ lòng trung tín với em khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe…”. Đời sống với Thiên Chúa cũng vậy, chúng ta được mời gọi trung tín với Thiên Chúa và tín thác vào lòng thương xót Chúa trong lúc bình an cũng như trong đêm tối của cuộc sống đức tin.

Chúng ta đang trong Tháng Kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Mẹ Maria, Tin Mừng kể chúng ta thấy cuộc đời Ngài cũng lắm thách đố và đau khổ. Chẳng hạn, chàng trai cưới vợ nhưng chưa chung sống thì vợ mình đã có thai, Giuse phải đau khổ lắm! Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “rước Maria về nhà mình” (Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24) trong khi bị người đời chê trách, vì có ai biết đó là ý Chúa đâu? Rồi, Đức Mẹ sinh Chúa khó khăn cực khổ tại Bêlem, thì Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày. Cuộc sống trước mắt của Thánh Giuse lúc ấy là lắm gian truân vất vả, nhưng thánh Giuse luôn tin và tín thác vào Chúa nên ngài đã vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14). Rồi khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng, Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi, đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21), thánh Giuse vâng lời thánh ý Chúa lên đường về lại quê hương. Rồi các môn đệ hôm nay trên núi Tabor, họ thấy vinh quang Chúa tỏ hiện như một ánh chớp. Sau đó vinh quang ấy tắt lịm rồi đến vườn cây Dầu nơi đó Thầy mình như một con người bình thường run rẩy sợ hãi đến nỗi toát mồ hôi máu. Rồi, Quan Philatô giới thiệu Chúa Giêsu cho toàn dân “Đây là người, các ngươi nhìn coi con người này có đáng là người không?” Bởi vì bị đánh bơi tờ cả đêm đau còn hình tượng người ta nữa. Tiếp sau đó là đồi Gôngôtha Thầy bị treo lơ lững trên không gian bị người ta sỉ vả, nguyền rủa.

Trong tăm tối của đức tin đó, Thánh Giuse, các môn đệ vẫn tín thác vào Chúa và theo Chúa đến cùng. Còn đời sống đức tin của chúng ta như thế nào? Chắc chắn đời sống đức tin của chúng ta cũng lắm lúc tăm tối: tăm tối đến từ chính bản thân, gia đình và xã hội. Lúc mới theo Đạo, chúng ta sốt sắng lắm nhưng 1,2,5-10 năm.. thì việc sống Đạo của chúng ta trở nên lạnh nhạt, Đức tin của chúng ta yếu dần, không còn hăng hái trong việc kinh lễ đều đặng nữa vì hoàn cảnh của cuộc sống: học hành, sự nghiệp, thành công, thất bại trong tình trường và thương trường, trong tu trì, sức khỏe, bệnh tật, nghèo quá, giàu quá… Thêm vào đó, văn hóa hưởng thụ, tệ nạn xã hội tràn lan, văn hóa vứt bỏ, văn hóa dững dưng vô cảm của xã hội làm chúng ta chẳng còn kính mến Chúa, tin Chúa và tín thác vào Chúa nữa! Và lại nữa, thời đại hôm nay giá trị Tin mừng: yêu thương, hiền lành, bao dung, thương xót, tha thứ… bị người ta đóng đinh vào thập giá, phủ nhận chúng. Lúc đó, liệu chúng ta có còn tin và tín thác vào Chúa? Chúng ta có còn gắn bó, tín thác với một Đấng trao ban cho tôi niềm hy vọng và sự tin tưởng? Chúng ta có ý thức được rằng chính Thiên Chúa đã tự tỏ lộ ra nơi Đức Kitô, đã cho thấy gương mặt thương xót của Người và thực sự Ngài đang sống, đồng hành với ta? Chúng ta có thầm tín rằng không phải ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người thương xót ta và luôn ban sự lành từ những sự tối tăm trong cuộc sống chúng ta như thánh Giuse và các tông đồ?

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng Thiên Chúa vẫn hằng nâng đỡ và “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21). Vì vậy, ước gì Mùa Chay Thánh này, xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sống hết mình cho giao ước tình yêu với Chúa trong niềm tin yêu và tín thác vào Chúa, nhờ đó, chúng ta sẽ lớn mạnh trong đức tin, mạnh mẽ trong yêu thương và tín thác vững vàng đời mình cho Thiên Chúa như Thánh Giuse, các Tông đồ cho dẫu đời sống chúng ta có hạnh phúc, bình an hay khi gặp thử thách hay đau khổ vì “CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? CHÚA là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27,1). Amen.

------------------------------

 

MC 2-ABC436: Biến hình trong đời thường


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Lc 9: 28-36: Trên núi Tabor, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở Vườn Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.

1. Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi Tabor

 

Vừa nghe bài Phúc Âm hôm nay, chắc có người thắc mắc là tại sao Chúa Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê MC 2-ABC436


Vừa nghe bài Phúc Âm hôm nay, chắc có người thắc mắc là tại sao Chúa Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan. Tại sao Đức Giêsu lại quyết định chọn ba ông từ Nhóm Mười Hai và cho ba ông chiêm ngưỡng vinh quang của Người trên núi Tabor?

Phải chăng các ông là những người tốt lành thánh thiện hơn trong số Mười Hai anh em? Đọc lại Tin Mừng, chúng ta thấy chính ba ông lại đầy những khiếm khuyết lỗi lầm. Chúa Giêsu biết rõ điều này hơn ai khác. Chúa biết biết rõ tâm tính của các ông. Người biết các ông vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng lại bộp chộp. Các ông hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát.

Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy Simon Phêrô có lần đã can ngăn Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa quở trách nặng lời: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt cho biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Và nhất là đang khi Chúa Giêsu chuẩn bị cho các ông chấp nhận tiến về Giêrusalem thì hai ông lại là người muốn tranh giành chỗ cao chỗ nhất trong anh em. Vì biết rõ sự yếu đuối của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Các ông cần phải được lĩnh hội những bài học tâm linh. Niềm tin của các ông phải được kiện cường hầu đủ sức để đương đầu với những khó khăn sắp xảy tới: con đường đau khổ, con đường Thập Giá.

2. Bây giờ chúng ta cùng nhau trở lại Núi Tabor trong bài Tin Mừng.

Trên Núi Tabor, bầu trời trong sáng và Đức Giêsu đang cầu nguyện. Trong khi Người cầu nguyện, khuôn mặt toả sáng, áo Người trắng như tuyết. Bên cạnh Người, có Môsê - người ban bố luật vĩ đại và Êlia - vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ. Rồi một đám mây bao phủ họ, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa.

Họ được nghe thấy tiếng nói của Chúa Cha phát ra từ đám mây:“đây là Con yêu dấu của Ta, Người Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Phêrô thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hạnh phúc! Nếu Thầy muốn, con sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Êlia, và một cho Môsê”. Phêrô muốn được ở lại trên núi. Ông muốn xây dựng một thiên đàng an toàn tại đó, xa khỏi những rắc rối và nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuộc biến hình không phải để khuyến khích họ trốn thoát thực tại, mà để khích lệ các ông, giúp các ông có khả năng đương đầu với những thử thách sau này.

Họ cần rất nhiều sự nâng đỡ! Bởi vì sẽ đến một ngày và ở trên một ngọn đồi khác, lúc đó bầu trời sẽ trở nên tối tăm, khuôn mặt Đức Giêsu, sẽ đầm đìa mồ hôi và máu. Áo của Người sẽ không còn chói sáng nữa. Sẽ không còn tiếng nói phát xuất từ trời cao, nhưng là những giọng nói chế giễu và nhạo báng, chính vì vậy làm chúng ta liên tưởng đến Vườn Dầu. Tabor và Vườn Dầu, cả hai đều xảy ra trên núi.

- Trên núi Tabor, Chúa Giêsu từ hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở Vườn Dầu, từ hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.

- Trên núi Tabor, các môn đệ thấy được thiên tính vinh quang của Chúa Giêsu, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; trên Vườn Dầu, họ thấy Chúa Giêsu trong nhân tính yếu đuối của một con người.

Hai biến cố giúp chúng ta hiểu được con người của Chúa Giêsu và cũng giúp chúng ta nhận ra thân phận con người trên trần thế. Quả thực hai sự kiện có liên hệ chặt chẽ với nhau. Và cả hai lần, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu lại thức để cầu nguyện. Điều duy nhất còn lại, đó là một lần nữa, Đức Giêsu vẫn cầu nguyện. Điều giúp Người trải qua, cả trong những giây phút sáng sủa lẫn tối tăm ảm đạm, đó chính là mối tương quan của Người với Thiên Chúa Cha.

3. Tabor và Vườn Dầu đối với chúng ta

Hy vọng rằng tất cả chúng ta đều có thể có được những kinh nghiệm về Tabor, ngọn núi của niềm vui mừng và hớn hở, nhưng chắc hẳn chúng ta cũng cần phải làm quen với Vườn Dầu. Trên Núi Tabor, chúng ta được thoáng thấy vẻ đẹp của Thiên Đàng: do được khích lệ, được phấn chấn, có thể chúng ta đã nghĩ rằng “thật tốt đẹp khi được ở đây”, nhưng chúng ta lại cũng cần phải được chìm đắm trong u tối của Vườn Dầu “tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14,34).

Tabor và Vườn Dầu mạc khải nét tương phản sinh động giữa nhân tính và thiên tính của Ngài. Hai biến cố này không thể tách lìa nhau như hai mặt của một đồng tiền, và như thế cho chúng ta thấy Ngài vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật. Hãy chấp nhận thập giá cuộc đời để nhờ đó chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.

4. Biến Hình trong Đời Thường

Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ như sau: "vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình. Nhà bếp chan hòa ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nói lên lời."

Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang ở trong một thế giới khác.

Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta hiểu được phần nào những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.

Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.

Đó chính là mục đích của việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi Tabor. Tuy nhiên trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm Vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm Vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ngài đã bỏ đi hết, thì lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ngài thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho các ngài thấy Người là “Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm Vườn Dầu sắp đến.

Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm Vườn Dầu và đêm khổ nạn. M.Twain người Mỹ đã từng nói “ai cũng có một vầng trăng và một đám mây đen.” Quả thật, trong cuộc sống, có những giây phút chúng ta cảm thấy thật hân hoan phấn khởi, nhưng cũng không thiếu những lúc chúng ta phải lầm lũi trong cô đơn trong sầu muộn. “Vầng trăng” và “đám mây” luôn đan xen trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang trên núi Tabor để củng cố đức tin cho các môn đệ khi các ông gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt đêm đen của Vườn Dầu hôm nay thì chắc chắn cũng được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.

------------------------------

 

MC 2-ABC437: Hình ảnh Đức Kitô vinh quang


(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin mừng Lc 9: 28-36: Tin mừng hôm nay ghi lại một khung cảnh vừa hùng vĩ vừa huyền nhiệm: Chúa Giêsu biến hình trước các môn đệ thân tín.

 

Với thân phận yếu đuối phải chết, cuộc đời con người hầu như tiến bước trong đêm tối. Cuộc đời MC 2-ABC437


Với thân phận yếu đuối phải chết, cuộc đời con người hầu như tiến bước trong đêm tối. Cuộc đời xem ra được hình thành từ nghi ngờ, sợ hãi và nước mắt. Chúng ta cần một chút ánh sáng chiếu soi vào bóng tối của mỗi người. Ánh sáng ấy đến từ đâu?

Cuộc biến hình của Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời: Chính Người là ánh sáng. Ngay khi vừa loan báo về cuộc khổ nạn của mình cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã cho thấy vinh quang rực rỡ của Người. Sống kết hiệp với Người thì ngay trong đau khổ sẽ có ánh sáng chiếu tỏa từ Người, từ trái tim của Người làm cho chúng ta đựơc hạnh phúc, được vui sống. Khi ấy chúng ta cũng sẽ thốt lên như Phêrô: "Lạy Chúa, chúng con được ở đây thì tốt lắm."

I. Tìm Hiểu Lời Chúa

1. Bài đọc I: St 15, 5-18

Giao Ước Với Abraham

Thiên Chúa ký kết một giao ước với Abraham, theo ngôn từ của giao ướic này thì Thiên Chúa hứa ban cho ông có một dòng dõi đông đúc và một miền đất phì nhiêu làm gia sản. Mặc dầu đã già và vợ không sinh nở được, nhưng Abraham vẫn tín thác hoàn toàn vào lời hứa của Thiên Chúa.

Một cảnh tượng dị thường để đóng dấu cho giao ước. Để nắm bắt được ý nghĩa của biến cố này, cần phải hiểu rõ về những lễ nghi thực hành của một lễ ký kết giao ước theo văn hóa Phương Đông, khi hai người hay hai hai bên muốn hợp tác với nhau. Ở Cận Đông cổ đại, khi giao ước với nhau, đôi bên đi qua giữa những mảnh thịt đầy máu và cầu cho mình số phận mà các con vật bị xẻ đôi này phải chịu, nếu họ vi phạm điều cam kết.

Ở đây, chính Thiên Chúa đã mời gọi và chủ động ký kết giao ước với Abraham, khi chỉ có một mình Thiên Chúa, dưới biểu tượng lửa đi qua các con vật bị xẻ đôi. Như thế, đây là một giao ước đơn phương từ sáng kiến giao ước đến tương lai của giao ước đều do Thiên Chúa chủ động thực hiện. Với Abraham, Thiên Chúa chỉ cần ông tin mà thôi.

Thiên Chúa là Đấng trung tín không thay đổi, chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng phó thác mọi sự trong tay của Ngài. Trình thuật Kinh Thánh cho thấy Abraham đã tin vào Thiên Chúa, ông tin vào những lời hứa của Chúa sẽ được thực hiện. Ông đã tin nên Chúa đã cho hành động ấy là một công nghiệp, kể ông là người công chính (Đnl 24, 13; Tv 106, 31). Từ đó, Thánh Phaolô kết luận rằng con người được cứu độ, nên công chính vì tin chứ không phải vì công kia việc nọ.

2. Bài đọc II: Pl 3, 17-4,1

Sự biến hình của Kitô hữu

Thánh Phaolô thúc giục mạnh mẽ các công sự của Ngài, những tín hữu Philipphê phải sống không như những người Do thái thù nghịch với thập giá Đức Kitô nhưng như những công dân của nước Trời, theo hình ảnh của Đức Kitô. Tất cả sẽ được người biến đổi nênh giống như thân xác vinh quang của Người.

Thánh Phaolô, theo như Ngài nói, đã gặp phải một đau khổ lớn lao, một sự buồn sầu ứa lệ, là vì có những người gọi là sống theo Đức Kitô, nhưng họ lại chỉ muốn chọn lựa theo những sự dưới đất để rồi lấy cái bụng là Chúa tể của mình.

Trái lại, qua bí tích Thanh Tẩy Kitô hữu trở nên công dân của Nước Trời phải đồng hóa với Đức Kitô, phải biến đổi trong Người, đồng thời, phải khuân theo những cách cư xử của Người như Thánh Phaolô đã sống.

Thánh Phaolô mời gọi hãy "vững vàng trong Chúa." Vững vàng trong Chúa là thái độ tin tưởng và theo Chúa để Người hướng dẫn, biến đổi trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống. Vững vàng trong Chúa là thái độ biết từ bỏ mọi sự thế gian, từ bỏ chính mình để trung thành theo Đức Kitô.

3. Tin mừng: Lc 9, 28-36

Chúa Giêsu Biến Hình

Tin mừng hôm nay ghi lại một khung cảnh vừa hùng vĩ vừa huyền nhiệm: Chúa Giêsu biến hình trước các môn đệ thân tín.

Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, Người đưa theo ba Tông đồ: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đang khi cầu nguyện 'dung mạo Người biến đổi khác thường'. Chỉ có Luca ghi lại rõ Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và cuộc biến hình sảy ra đang khi Người cầu nguyện, như thể là kết quả của cầu nguyện.

Như các biến cố khác trong cuộc đời của Chúa Giêsu, biến hình cũng qui chiếu vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Sự kiện Người biến hình như một chứng từ củng cố cho niền tin của các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp tới của Người.

Qua bí tích Thanh Tẩy, Kitô hữu cũng được biến hình với Đức Kitô, nghĩa là cũng chiếu tỏa vinh quang của Người cho con người và thế giới hôm nay. Nhưng vinh quang chỉ thực sự tỏ rạng khi băng qua những đau khổ và sự khiêm hạ củathập giá.

II. Gợi Ý Suy Niệm

1. Biến Hình, lời khích lệ đức tin: Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là lời đáp trả của Chúa Cha đối với việc Người chấp nhận chịu tử nạn vì tình yêu. Trước khi biến hình Chúa Giêsu đã loan báo với các môn đệ về cuộc thương khó sắp đến của Người. Người biết Người đang tiến đến Giêrusalem đón nhận cái chết theo ý muốn của Chúa Cha để cứu chuộc nhân loại. Đáp lại sự vâng phục đầy tình yêu của Chúa Giêsu, Chúa Cha sẽ ban lại vinh quang, danh dự và quyền uy tối thượng cho Người. Biến hình là hình ảnh báo trước vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu mà Chúa Cha sẽ dành cho Người. Khi nghe Thầy mình tuyên bố về cuộc khổ nạn, các Tông đồ mà đại diện là Phêrô đã cảm thấy bất an, lo âu và muốn tháo lui. Các ông đã ngăn cản Người lên Giêrusalem. Cho nên, việc Người biến hình cho các ông thấy trước vinh quang mà người sẽ nhận được sau khổ nạn là lời động viên các ông hãy can đảm đón nhận những biến cố bi thương sắp sảy đến; là lời khích lệ đức tin các ông hãy kiên tâm, bền đỗ đến cùng.

Trong đời sống đức tin, việc theo Chúa Giêsu sống vâng phục Thánh ý Chúa Cha luôn là những thách đố, những thập giá phải vác, chúng ta hãy tin chắc rằng tương lai sau sự vâng phục, sau khổ nạn luôn là niềm vui và vinh quang lớn lao. Như Abraham đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa để can đảm dấn thân lên đường theo lời Chúa và đã trở nên Cha của những kẻ tin; như lời Thánh Phaolô khẳng định: theo Đức Giêsu Kitô Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người, ngày nay mỗi Kitô hữu cần trung thành với đức tin của mình và bền tâm vững chí hy vọng vào lời hứa của Chúa.

2. Biến Hình, lời mời gọi dấn thân theo Đức Giêsu Kitô: Trong biến cố biến hình, Chúa Cha đã xác nhận Chúa Giêsu chính là " Con yêu dấu của Chúa Cha" và mời gọi hãy nghe lời Người. Đây là lời mạc khải cho biết về thân phận của chính Chúa Giêsu, Người là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Vì thế, việc nghe lời Người là điều tất yếu. Nghe theo Người là chấp nhận vác thập giá, chấp nhận khổ đau vì phần rỗi của tha nhân. Nghe Người là cộng tác với Người để đưa tình yêu cứu độ đến với mọi người. Nghe Người là lên đường dấn thân mang ánh sáng Tin mừng chiếu soi vào trong cuộc đời đầy tăm tối của sự dữ, của tội lỗi và của sự chết chóc. Sau khi biến hình trên núi với một thoáng vinh quang, một chốc lát ngập tràn hạnh phúc, Thầy trò lại xuống núi để tiếp tục hành trình lên Giêrusalem đến tận đồi Canvê. Đây chính là lúc để các môn đệ xác tín vào quyết định dấn theo theo Thầy mình vào cuộc khổ nạn. Đã nghe báo trước cuộc khổ hình, đã thấy trước vinh quang Thầy sẽ có sau khổ giá vậy mà các Tông đồ vẫn sợ hãi, trốn chạy, thế mới hay: Nghe theo Chúa Giêsu, đi con đường của Người không phải dễ dàng đơn giản cứ muốn là được. Đòi hỏi mỗi người phải mạnh chí trong đức tin, bền gan trong đức cậy và sắt son trong đức mến mới có thể đi trọn được.

Biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, biết là phải nghe lời Người nhưng thực tế cuộc sống, Kitô hữu ngày nay đã làm gì? Đã sống như thế nào để có thể nói được là đã tin nghe và dấn thân theo Người trên đường khổ giá?

3. Biến Hình, lời nhắc nhở con người nhớ mình là hình ảnh của Thiên Chúa: Ngay từ khởi đầu, con ngừơi đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Nghĩa là nơi con người đã được mang lấy những phẩm chất cao quí, vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang ấy nơi Thiên Chúa không bao giờ thay đổi hay bị suy giảm mất đi theo thời gian. Với con người cũng vậy, Thiên Chúa muốn cho những phẩm giá cao quí ấy tồn tại mãi mãi và không ngừng gia tăng. Tuy nhiên, con người đã phản bội lại tình yêu Thiên Chúa; tội lỗi đã làm lu mờ đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi mỗi người, làm suy giảm thận chí mất đi những phẩm giá cao quí mà Thiên Chúa đã ban tặng khi tạo dựng. Chúa Giêsu đã đến để phục hồi phẩm gía con người là hình ảnh của Thiên Chúa bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Hơn thế nữa, không chỉ mang hình ảnh, mang những phẩm giá của Thiên Chúa, con người còn đựơc nâng lên địa vị làm Con Thiên Chúa như Người. Lời Chúa Cha mạc khải trong biến cố biến hình về Chúa Giêsu: Đây là Con yêu dấu của Ta cũng sẽ là Lời Chúa Cha nói với mọi người ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Thánh tẩy.

Vì thế, Biến hình còn là lời Thiên Chúa nhắc nhở con người về thân phận của mình, tất cả đựơc dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, qua cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu tất cả đã trở nên Con Thiên Chúa. Vậy phải sống thế nào để luôn chói sáng những phẩm giá của một người con. Cuộc Biến hình của Chúa Giêsu phải được mỗi người tiếp nối trong hiện tại này, để qua chúng ta mọi người nhận biết vinh quang của Thiên Chúa là Cha chúng ta.

III. Lời Cầu Chung

* Lời Mở: Anh chị em thân mến, trên đường tiến tới cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã mạc khải vinh quang của Người qua biến cố biến hình để củng cố niềm tin cho các môn đệ. Trong niền tin tưởng chúng ta cùng dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta.

1. Giáo Hội là nhiệm thể của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần của Giáo Hội luôn tỏa sáng khuân mặt khả ái của Người giữa lòng trần thế hôm nay bằng chính đời sống gương mẫu của mọi người.

2. "Đây là con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà lãnh đạo quốc gia luôn biết đề ra những quốc sách đưa dân nước đi đúng vào con đường phát triển đề cao công lý, hoà bình và tự do; làm cho mọi công dân được sống đúng phẩm giá của mình.

3. Chúa Giêsu biến hình mạc khải vinh quang của Người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết nỗ lực sống thực thi Lời Chúa để cuộc đời mỗi người dù trong đau khổ, thử thách vẫn rạng ngời hình ảnh của Chúa Giêsu đầy lòng nhân ái.

* Kết Nguyện: Lạy Chúa là Cha nhân từ, Chúa đã muốn cho Chúa Giêsu biến hình để thắp sáng con đường đức tin của chúng con và để đổi mới con tim chúng con. Xin cho chúng con được tràn đầy ơn thánh của Chúa để chúng con cũng tỏa sáng nhân đức làm cho mọi người nhận biết tình yêu và vinh quang của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
 
33.    Vinh quang và đau khổ - Thu Băng, CMR

Chúa đưa Phêrô, Giacobê, và Gioan lên núi cao và biến hình trước mặt các ông, lại có Elia và Moise hiện đến nói chuyện với Ngài. (Lc.09:28-36).

Chúa Giêsu đưa 3 môn đệ lên một ngọn núi cao, khoảng chừng 600 thước và các ông chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa cũng như đã xem thấy sự đau khổ của Ngài trong vườn cây dầu.

Ngài mạc khải cho thấy sự đau khổ của Ngài pha lẫn với vinh quang sáng lạn. Ngài phải chết nhục nhã, đau thương rồi mới khải hòan trong phục sinh vinh hiển. Đau khổ như cánh bèo trôi dạt trên sông, đau thương là thung lũng nước mắt. giữa thế gian đau khổ, là nguyên nhân gây nên bực bội buồn phiền. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì sau đau khổ là vinh quang phục sinh, cũng như sau cơn mưa trời lại sáng, sau mùa xuân trời lại sang xuân.

Xưa có một anh làm nghề bưng trống tên là Năm. Anh thường đem đến làng khác để bán. Một hôm leo đồi lặn suối gánh trống đi bán, đến gốc cây đa đầu làng anh mệt lả, liền nghỉ chân thì thấy bác Sáu đã ngồi thở hổn hển bên cạnh. Hai người bắt chuyện rồi Năm đem cơm nắm ra chia sẻ. Cuối cùng anh Năm nhờ ông Sáu gánh giúp một đoạn đường. Hai người bắt đầu xuống dốc và khát nước, họ liền ghé cái giếng kiếm nước uống, thành giếng lại rêu rong và dốc lại không có gầu. Anh Năm nghĩ ra kế buộc dây vào lưng ông Sáu cho tụt xuống uống nước, uống xong anh kéo lên. Đến lượt anh Năm xuống giếng thì ông Năm để cho anh uống nước no rồi gánh gánh trống đi biệt. Anh la hét cũng không có tiếng trả lời, chịu trận cho đến tối mới có người ra giếng kéo anh lên. Đi một quãng đường nữa thì tối, anh phải vào một ngôi chùa xin sư cụ cho trú chân. Trong chùa lại có 4 con qủy hay đi ăn đêm về trễ, sợ bị ăn thịt, sư cụ chỉ cho một cái hang bên chùa để trú an toàn. Nữa đêm bầy qủy về trước cửa chùa nói chuyện:

- Nhà chùa có chôn 4 chum bạc bên cạnh và 4 chum vàng đàng sau cửa ra vào. Tên khác lại nói:

- Trong hang có một cục Ngọc Thạch nguy hiểm ai mà nhặt được ném chúng ta thì chết. Nghe thấy vậy, anh Năm thò tay vơ lấy cục Ngọc mà ban chiều anh đã trông thấy. Anh ném bày qủy, bất chợt bị chết tốt, thế là anh thoát nạn, cám ơn sư cụ cầm cục Ngọc ra đi rồi hôm sau quay trở lại đào lấy mấy chum vàng và bạc về làm giầu.
Ông Sáu gánh trống đi xa, đến chập tối vào xin trọ ở cái miếu cây đa đầu làng. Miếu cũng thường có qủy hiện hình ban đêm, ông nằm lăn ra ngủ, để gánh trống ở cửa miếu. Đến khuya qủy hiện hình bước lên mặt trống kêu tùng tùng khiến chúng hoảng sợ bỏ chạy. Một con qủy chạy trốn vào trong miếu thấy có người liền bóp cổ chết. Nó lại ra ghõ trống kêu gọi lũ qủy về miếu ăn mừng vì đã hạ sát được kẻ bày mưu.

Trong lúc đau khổ mất trống, anh Năm lại gặp hên là được của về làm giầu. Trong lúc ông Năm đánh cáp được gánh trống, lại gặp xui (lũ qủy bóp cổ chết). May rủi, sống chết là đau khổ và vinh quang, cũng như Chúa tỏ cho các môn đệ thấy cái khổ nhục, bị chết treo trên thánh giá rồi mới được phục sinh. Cuộc đời chúng ta cũng sẽ gặp những lúc đau khổ, nhục nhã, mất mát, tàn lụi rồi mới đến lúc vinh quang. Chúng ta hay biết tuân theo thánh ý Chúa trong mọi lúc và trong mọi sự.

-----------------------------

 

MC 2-ABC438: Ai được lên Núi Chúa? - AM. Trần Bình An

 

Vào ngày 12-4 -1961, Yuri Gagarin trở thành phi hành gia người Nga đầu tiên. Chiếc phi thuyền MC 2-ABC438


Vào ngày 12-4 -1961, Yuri Gagarin trở thành phi hành gia người Nga đầu tiên. Chiếc phi thuyền Vostok-1 bay được một vòng quanh qũy đạo trái đất trong 1 giờ 48 phút, với vận tốc 17,000 miles một giờ. Anh trở thành một anh hùng của dân tộc Nga vào lúc đó, vì đã làm cho cả nước Nga hãnh diện vì sự tiến bộ của họ. Sau đó, đã có một buổi tiếp tân rất lớn để vinh danh anh. Người bạn thân và đồng nghiệp của anh là phi hành gia Alexei Leonov thuật lại.

Lúc đó Tổng bí thư Nikita Khrushchev hỏi dồn Gagarin: "Vậy nói cho tôi biết, anh có thấy Thiên Chúa trên đó không?" Lưỡng lự một chút, Gagarin trả lời dứt khoát: "Vâng thưa ngài, tôi có thấy!” Khrushchev cau mày, ông dặn dò: "Đừng nói với bất kỳ ai." Vài phút sau, người đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Nga lại bên, hỏi Gagarin: "Vậy, con cho cha biết, con có nhìn thấy Thiên Chúa trên đó không?" Gagarin do dự trả lời: "Không, thưa cha con không thấy." Ngài dặn: "Đừng nói với bất cứ ai." (Giai thoại trong New Age Journal, Vol. 7 (1990), p. 176)

Thực tế Yuri Gagarin đã được rửa tội trong Giáo Hội Chính Thống, nhưng do áp lực của Soviet đối với Kitô giáo, anh buộc phải dè chừng lại chính mình. Sau khi bay vào vũ trụ, Gagarin đã tới nhà thờ Ba Ngôi Thiên Chúa của Đan viện Thánh Sergi lớn nhất nước Nga, để tạ ơn Thiên Chúa đã cho chuyến bay thành công tốt đẹp...

Xưa kia, ông Môsê lên núi Sinai, được Thiên Chúa ban 10 Điều Răn, rồi ngôn sứ Êlia lên núi Khôrép, được Thiên Chúa ban cho sứ vụ. Nay Chúa Giêsu lên núi Tabor cùng với ba vị Tông đồ, Phêrô, Gioan, Giacôbê, diện mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Người đàm đạo với hai vị tiền bối Môsê và Êlia về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.

Nhưng muốn được vinh dự lên núi Chúa, đâu phải đơn giản, dễ dàng và thoải mái như bây giờ leo núi bằng cáp treo.

Thanh tẩy

Chuẩn bị lên núi Thiên Chúa, Ông Môsê nhắc nhở dân chúng phải tấy uế, giữ mình thanh sạch cả tâm hồn lẫn thể xác. “Ông Môsê từ trên núi xuống nói với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt quần áo. Ông Môsê bảo: “Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng. Đừng gần gũi đàn bà.” (Xh 19, 14 -15)

Trước khi bước vào công cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu vốn chẳng hề vương vấn tội nhơ, vẫn lặng lẽ, khiêm hạ đến cùng ngôn sứ Gioan Tiền Hô, để được chịu phép Thanh Tẩy, cùng được tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần.
Nhưng than ôi, chiếc áo trắng ngày chịu Phép Rửa Tội của tôi, nay đã hoen ố, lốm đốm, đen đúa, vền vện đỏ đen, lấm lem dầu nhớt, lỗ chỗ vết thủng, rách rưới, tả tơi. Chẳng còn tươm tất, nguyên vẹn, sạch sẽ, trinh nguyên, như tâm hồn trẻ thơ nữa. May thay, sau khi ăn năn, sám hối, nhờ ơn Hòa Giải, tấm áo đã được tấy trắng, tuy không còn được như mới, nhưng cũng trở nên sạch sẽ, thơm tho, lành lặn, không còn là mớ giẻ rách bỏ đi, chỉ đáng vất vào lò lửa không bao giờ tắt.

Chay tịnh và cầu nguyện

Ông Môsê dẫn dắt dân Israel bốn mươi năm trong sa mạc, một cuộc lữ hành trường kỳ, gian lao, khổ cực, một cuộc chay tịnh hoàn hảo, chỉ có bánh manna và nước lã. Tuy nhiên lòng dạ dân Israel vẫn chưa tĩnh, còn ngồn ngang trăm bề, nhung nhớ củ hành của tỏi Ai Cập, lẫn bụt thần dân ngoại.

Khi đào thoát khỏi tay hoàng hậu Ideven, ngôn sứ Êlia chạy trốn trong sa mạc, kiệt sức, ông được thiên sứ dưỡng nuôi bánh và nước. Tâm hồn thanh tịnh, phó thác vào tay Chúa Quan Phòng, ngôn sứ Êlia đi một mạch, suốt bốn mươi đêm ngày tới Khôrép, là núi của Thiên Chúa, để được giao sứ vụ. (1V 19, 8)

Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu độ nhân thế, bằng bốn mươi ngày đêm chay tịnh và cầu nguyện trong hoang mạc, chịu tôi luyện hết cơn cám dỗ này đến cám dỗ khác. Một lòng một dạ trung kiên, đi theo Thánh Ý Chúa Cha, đã được công khai xác nhận: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng lời Người!” (Lc 9, 35)

Bước vào Mùa Chay Thánh, tôi lại coi chay tịnh chỉ như nghi thức bắt buộc của tín hữu Công giáo, nên chỉ tuân giữ theo hỉnh thức: kiêng thịt và ăn chay. Mà lòng dạ chẳng hề chay tịnh, chẳng hề thay đổi được gì. Vẫn cứ ham hố sự đời: tình, tiền, chức tước, địa vị… Cứ làm như tôi qua mặt Chúa dễ dàng, như lừa dối ông giám thị nhà trường, hay đốc công, giám sát tại công ty, xí nghiệp. Tôi đang theo đạo, giữ đạo, sống đạo hình thức, chứ nào sống trung thực Tin Mừng! Làm sao tôi xứng đáng lên núi Chúa?

Từ bỏ mình & Vác thánh giá

Cuộc xuất hành của dân Israel ra khỏi Ai Cập trước tiên có ý nghĩa từ bỏ tất cả những gì dính líu đế thân phận nô lệ. Ông Môsê đã giải thoát dân Israel, và dẫn đưa về miền Đát Hứa. Còn Chúa Cứu Thế sau này giải phóng con người toàn diện, khỏi ách nô lệ cũa ma qủy.

Không những từ bỏ những cám dỗ của thế gian, xác thịt và ma quỷ, Chúa Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ chính mình, bỏ cái tôi kiêu căng, tự phụ, lố bịch, để chấp nhận đau khổ, sỉ nhục và đọa đầy, vác thánh giá mà theo Người, nếu ai muốn lên Núi Chúa.

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay thiệt thân, thì nào có lợi ích gì?” (Lc 9, 23 -25)

Ông Môsê, ngôn sứ Ê lia, và cả Chúa Giêsu đã sẵn sàng từ bỏ mình, nhập thể, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận đau khổ, thử thách, để được vinh dự đến với Thiên Chúa. Còn tôi lại chạy trốn khó khăn, khổ cực, đòn vọt, để yên thân, no cơm ấm cật. Tôi từ bỏ vợ con, anh em, bè bạn, để lấy vợ bé, để ngoại tình, để kết bè kết bạn với kẻ xấu, với ma quỷ, hầu được vinh hoa phú quý, sao dám mơ tưởng lên Núi Chúa?

“Abraham đã ra đi, vì hy vọng đến Đất Hứa. Maisen đã ra đi, vì hy vọng cứu dân Chúa khỏi nô lệ. Chúa Giêsu đã ra đi từ trời xuống đất, vì hy vọng cứu nhân loại.” (Đường Hy Vọng, số 4)

Lạy Chúa Giêsu, được diện kiến Thiên Chúa là cõi phúc tuyệt vời, xin cho con luôn sống trong nguồn ơn thánh của Chúa, để linh hồn con có thể cảm nghiệm được sự vui sướng ngọt ngào, khi có Chúa ở cùng.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con thanh tẩy, thắng vượt mọi cám dỗ, biết từ bỏ mình, để được diện kiến Thánh Nhan Chúa. Amen.

---------------------------------

 

MC 2-ABC439: Vinh quang Chúa


(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)

Người Việt Nam đã quan niệm "Sống gửi thác về".

 

Quan niệm này thật đáng trân trọng. Tuy nhiên "về đâu" thì lại còn tùy thuộc vào kinh nghiệm tâm MC 2-ABC439


Quan niệm này thật đáng trân trọng. Tuy nhiên "về đâu" thì lại còn tùy thuộc vào kinh nghiệm tâm linh của từng người.

Riêng người tín hữu, được lời Chúa hướng dẫn, trên cuộc lữ hành trần thế, họ bước đi theo ánh sáng của vinh quang thiên giới mà đích đến sẽ là quê trời vĩnh cửu.

Là người, ai cũng cần đến nhu cầu vật chất để tồn tại. Để có vật chất, nhiều người đã vất vả ngược xuôi để tìm định cư nơi những miền đất trù phú tràn trề sữa mật...; không ít người xây dựng cuộc đời trên những theo cách trần thế. Nhiều vị vua trần gian còn xây những lăng mộ cho chính mình để kéo dài sự tồn tại của bản thân bên kia cái chết.

Trái lại, ngày nọ, trong khi ông Áp-ra-ham già nua cùng với gia đình sống giàu sang sung túc thì Đức Chúa đã kêu gọi ông phải từ bỏ tất cả để đi theo tiếng Chúa (x. St 12, 1-9). Đức Chúa đã hứa ban cho cho ông: có đất làm gia nghiệp, có con để nối dõi. Người còn hứa ban cho ông được dòng dõi đúc như những vì sao trên vòm trời. Để giữ đúng lời hứa, Đức Chúa đã kết giao ước với ông (x. St 15, 5-12.17-18).

Thì ra, tất cả sang trọng của thế gian chỉ là phù vân; của cải, tài sản, niềm vui, ngay cả những khôn ngoan của con người cũng chỉ là phù vân. Ông Áp-ra-ham đã không rơi vào cơn cám dỗ đắm mình trong những phù vân. Ông đã hoàn toàn tin tưởng Đức Chúa và bước đi theo đường lối của Người.

Nối tiếp lòng tin của ông Ap-ra-ham, hôm nay, các môn đệ Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê cũng theo Đức Giêsu lên núi và đã chiếm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu.

Trên núi cao Đức Giêsu đã mạc khải chính Người là trung tâm của lịch sử khi đàm đạo với hai nhân vật đặc biệt trong lịch sử cứu độ: ông Mô-sê đại diện cho lề luật, ông Ê-li-a đại diện cho các ngôn sứ. Như thế, tất cả lề luật và lời dạy của các ngôn sứ đã hướng về Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người.

Đang khi Đức Giêsu cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa (Lc 9, 28). Thánh Mác-cô còn xác định "Y phục người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy" (Mc 9, 3). Rõ ràng không có điều gì ở trần gian có thể so sánh được với Đức Giêsu. Người là Thiên Chúa vĩnh cửu "là một hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời (Dt 13, 8).

Dung mạo Đức Giêsu rực rỡ, y phục Người đã chói lòa vinh quang thiên giới. Vinh quang ấy đã tỏa sáng trên cuộc đời các môn đệ, cuốn hút các ông đến nỗi ông Phê-rô tràn ngập niềm hạnh phúc quyết định nhanh chóng và vui sướng thốt lên: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a" (Lc 9, 33).

Vinh quang thiên giới đã được Đức Giêsu mạc khải và cuốn hút ông Phê-rô khiến ông quên đi tất cả chuyện trần gian, quên luôn bản thân mà chỉ còn biết phục vụ Thiên Chúa, phục vụ lề luật, phục vụ lời ngôn sứ, phục vụ ơn cứu độ.

Vinh quang thiên giới tiếp tục cuốn hút thánh Phao-lô khi ngài xác tín: "Quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta" (Pl3, 3) và mời gọi: "Anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy" (Pl 4, 1).

Vinh quang thiên giới cũng đang cuốn hút người tín hữu hướng tới và mở ra cho họ cách thế để đạt thấu bằng đời sống đón nhận và "vâng nghe lời Người" (Lc 9, 35).

Vinh quang thiên giới đã được Đức Giêsu mạc khải nhưng trong thực tế nhiều người trong nhân lọai vẫn "sống đối nghịch với thập giá của Đức Ki-tô" (Pl 3, 18). Họ chỉ nghĩ đến "cái bụng" nghĩ đến chuyện thế gian, đắm mình trong những đam mê của thế trần,

Mùa chay thánh là lúc Hội Thánh khẩn thiết nhắc nhở người tín hữu:

- Hướng về Chúa Giêsu nguyện xin Người soi sáng để cảm nhận ánh sáng siêu nhiên của Chúa đang chiếu soi tâm hồn mình và sẽ cuốn phăng đi những tội lỗi và thay thế vào lòng yêu mến Chúa và dấn thân yêu thương phục vụ tha nhân.

- Từ bỏ cái tôi hầu mở rộng tấm lòng thiện chí để vâng nghe lời Chúa, để ý thánh Chúa được lớn lên trong cuộc đời, để ý kiến của người khác được đón nhận, để cộng đòan được hòa điệu hầu trở thành nơi tin tưởng chốn yêu thương.

- Nhìn mọi sự với ánh mắt tâm linh để chọn lựa thánh ý Chúa, hầu tự chủ đới với bản thân, kiên nhẫn với người vô kỷ luật, nâng đỡ những người yếu, khuyến khích người nhút nhát, luôn làm điều thiện.

- Theo gương Đức Giêsu, trước những thử thách không óan trách thiên hạ, đối thủ, xã hội, Thiên Chúa... không chui vào cái vỏ tủi thân, cay đắng buông xuôi chán đời... nhưng đón nhận đón nhận khổ chế như cơ hội "vàng" để rèn luyện và thánh hóa bản thân nên giống Chúa Giêsu.

Tất cả những điều nêu trên sẽ thể hiện qua những việc thực hành đạo đức: gia tăng cầu nguyện, xưng tội, dâng lễ, nghe giảng dạy, chay tịnh, khổ chế... hầu trở thành thói quen nhân đức khiêm tốn, giúp tan biến đi những tội lỗi hư đốn, thêm sức mạnh để vực dậy những đau khổ, hướng đến quê trời là niềm hy vọng bất diệt.

Thiên Chúa tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp. Sử dụng những tiện ích trần gian thuộc họat động chính đáng của con người.

Tuy nhiên, mùa chay Hội Thánh nhắc nhở người tín hữu đừng ngủ quên trong những phù vân trần thế mà hãy chọn con đường về trời là con đường luyện tập chiến đấu thiêng liêng.

Con đường ấy Đức Giêsu đã đi với thập giá trên vai.

------------------------------

 

MC 2-ABC440: Những câu chuyện biến hình


(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)

 

Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People (“Bảy Thói Quen Của Người Làm MC 2-ABC440


Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People (“Bảy Thói Quen Của Người Làm Việc Có Hiệu Quả”), Steve Covey, trên một chuyến xe điện ngầm tại thành phố New York vào một sáng Chúa nhật, đã thu được một kinh nghiệm sống rất quí như sau. Steve kể:

Mọi người ngồi yên lặng. Vài kẻ đang đọc báo. Số khác đang chập chờn ru giấc ngủ. Số khác nữa đang suy nghĩ miên man. Thật là một cảnh yên tĩnh, thanh bình.

Tàu dừng lại tại một nhà ga. Một người đàn ông và mấy đứa nhỏ, có lẽ là con ông ta, bước lên. Lập tức bầu khí yên bình bị phá tan. Những đứa bé la hét om sòm. Chúng vất đồ đạc qua lại. Thậm chí còn lấy báo của người khác vò lại ném nhau. Thật là phiền hà hết sức! Nhưng sao người cha của mấy đứa bé kia lại không có phản ứng nào?

Steve cảm thấy bực bội khó chịu trước thái độ của cha con những người khách mới. Anh ta không thể hình dung ra được trên đời này lại có những kẻ vô cảm và vô tâm như gã đàn ông kia. Con cái quậy phá làm phiền biết bao nhiêu người, thế mà vẫn cứ ngồi im. Steve quan sát và thấy nhiều hành khách khác cũng có vài nếp nhăn khó chịu.

Cuối cùng, khi sức kiên nhẫn đã vượt mức tối đa, Steve bèn lên tiếng với người bố: “Thưa ông, con ông đang làm phiền nhiều người lắm đấy. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông không làm gì để kiềm chế chúng một chút.” Người đàn ông nhướng mắt nhìn Steve như vừa sực tỉnh lại từ một ưu trầm lắng. Nén tiếng thở dài, ông ta nói: “Tôi thành thật xin lỗi. Tôi cũng không biết phải làm sao. Chúng tôi mới rời khỏi bệnh viện nơi mẹ chúng nó vừa qua đời cách đây một giờ. Tôi suy nghĩ mãi mà không biết cuộc đời rồi đây sẽ ra sao khi không còn nhà tôi, và chắc là chúng nó cũng không biết chịu đựng thế nào khi chẳng còn có mẹ.”

Steve kết luận bài viết của mình: “Bạn có thể tưởng tượng được cảm giác của tôi lúc đó như thế nào không? Ngay lập tức tôi thấy mọi sự đổi khác. Vì thấy mọi sự đổi khác nên thái độ của tôi cũng đổi theo. Cơn khó chịu bực bội trong tôi biến mất. Thay vào đó là niềm cảm thông cho nỗi đau của người chồng mất vợ và những đứa con mất mẹ.”

Nhờ “thấy” được chiều sâu tâm hồn của cha con người đồng hành mà Steve đã thắng vượt những khó chịu bực bội trong mình, và sau đó đã đến với họ bằng tâm tình cởi mở chân thành. Phải chăng trong đời sống, người ta cũng cần có con mắt nội tâm để “thấy” được nền tảng và ý nghĩa của cuộc đời hầu có những thái độ và cách sống thích hợp? Phải chăng nhờ sự biến hình trên núi Tabor, các môn đệ đã “thấy” được hình ảnh phục sinh vinh quang của Đức Giêsu, để từ đó họ bớt nao núng khi bước vào nẻo đường thánh giá và đón nhận khổ nạn với Ngài? Phải chăng đời ta và đời người cũng cần những giây phút biến hình để dung nhan Thiên Chúa, trong tha nhân và nơi mình tôi, được bừng sáng, đón nhận, và tin yêu hơn?

Trong một bài báo tự thuật, Malcolm Muggeridge có kể lại việc nhóm chuyên viên truyền hình của anh ta cố gắng thực hiện một bộ phim tài liệu về Mẹ Têrêsa Calcutta.

Họ muốn quay cảnh mẹ cùng các chị nữ tu Bác ái đang làm việc trong căn nhà Hấp Hối, bên cạnh những kẻ sắp từ biệt cõi đời. Thế nhưng nhóm của Malcolm đã gặp phải một vấn đề khó khăn: căn phòng họ tính quay phim hơi tối, không đủ ánh sáng cần thiết cho việc thâu hình, mà trong nhà lại không có một ổ cắm điện nào cả.

Tuy nhiên, sau khi bàn thảo, họ quyết định cứ tiến hành thu hình trong cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng Hấp Hối.

Nhưng rồi, kết quả, trước bao cặp mắt ngạc nhiên, những thước phim thâu được lại tuyệt vời quá sức tưởng tượng. Ánh sáng trong các hình ảnh đạt đến mức độ hoàn hảo. Dường như đã có một luồng sáng ấm dịu nào đó phát ra trong lúc họ đang quay phim.

Malcolm, người mà sau này trở thành một Kitô hữu, lúc bấy giờ đã bị thuyết phục hoàn toàn với ý nghĩ là ánh sáng đã phát ra từ tình thương mà người ta có thể bắt gặp khắp nơi trong căn nhà Hấp Hối kia. Malcolm viết lại trong nhật ký của mình: “Chính tình yêu đã chiếu sáng, một thứ ánh sáng giống như hào quang trên đầu các thánh mà tôi từng được xem thấy.”

Phải chăng đó cũng là thứ ánh sáng mà Đức Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacobê khi Ngài biến hình trước mặt các ông? Trong cuộc biến hình này, các môn đệ được nghe một lời phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Lc 9:35). Trong chương kế tiếp, Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày việc “nghe lời” Đức Giêsu không gì khác hơn là ra đi rao giảng Tin mừng Tình thương. Chương 10 đã kể việc Chúa sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, đồng thời cũng làm nổi bật giáo lý của Đấng Cứu Thế qua câu hỏi “giới răn nào trọng nhất” của một luật sĩ và qua câu chuyện “Người Samari Nhân Hậu” như những minh hoạ cho giáo lý yêu thương.

Cao điểm của cuộc biến hình là lời mời gọi “Hãy nghe Ngài”. “Nghe Ngài” là để tiếp nối những cuộc biến hình khác, giữa cuộc đời này, bằng tình yêu. Chính nhờ tình yêu mà Mẹ Têrêsa đã biến những thân xác tanh hôi, đau yếu, bị bỏ rơi, nên những con người có đầy đủ phẩm giá và đáng tôn trọng. Chính nhờ tình yêu mà mẹ đã biến đổi tâm hồn của Malcolm, một kẻ “coi trời bằng vung”, nên cung điện tươi xinh cho Thiên Chúa ngự trị.

Không phải Chúa Giêsu đã từng nói: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ của Ta: ấy là các ngươi có lòng mến thương nhau” (Ga 13:35)? Chính với yêu thương, cảm thông, cứu giúp, chia sẻ mà tha nhân thấy được dung mạo của Đức Kitô trong cuộc đời của bạn và tôi.

Ước gì tình yêu thương nhau sẽ biến hình đời ta và biến đổi đời người. Ước gì tình yêu đó cũng giúp ta thắng vượt bao gian nan, trắc trở, và khổ giá trên đường đời, để tiến đến một ngày Phục sinh tươi sáng.

--------------------------------

 

MC 2-ABC441: Rất sáng và rất ngắn


(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

 

Trong thánh lễ cưới, cô dâu thường mặc áo trắng, hoặc soirée trắng hoặc áo dài trắng với voile MC 2-ABC441


Trong thánh lễ cưới, cô dâu thường mặc áo trắng, hoặc soirée trắng hoặc áo dài trắng với voile phủ đầu cũng trắng. Nhưng màu trắng đó khi gặp bóng chiều buông xuống – nếu lễ cưới vào buổi chiều. Hoặc như mấy nhà thờ quê, lễ cưới vào giấc 4:30 hay 5 giờ sáng, gọi là sáng, nhưng trời còn tối. Ngoài trời tối mà trong nhà thờ, đèn có sáng mấy cũng không đủ làm cho màu trắng áo cô dâu sáng lên được. Chỉ thỉnh thoảng khi ánh đèn flash của máy ảnh loé lên để ghi hình cô dâu chú rể, thì màu trắng của y phục cô dâu mới thật là trắng. Đèn flash bật lên rất sáng và cũng rất ngắn.

Cuộc hiển dung của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay cũng rất sáng và cũng rất ngắn.

Sáng đến độ diện mạo Chúa biến đổi khác thường, còn áo Ngài mặc thì trắng tinh sáng láng [Marcô thì ghi rõ: không thợ giặt trần gian nào giặt trắng đến thế! Chuyên viên tẩy rửa Omo, hay Tide+ cũng không làm trắng đến như thế. Bột giặt với mẩu quảng cáo yêu nhau cởi áo cho nhau trên TV hẳn cũng không cho màu áo trắng sáng được như áo Chúa trong cuộc hiển dung!].

Rất sáng, nhưng lại cũng rất ngắn.

Phêrô vui mừng tột độ, nhưng nói chưa hết câu “làm 3 lều”, thì đã thấy chỉ còn mình Chúa Giêsu, bình thường, chẳng sáng là mấy... Cuộc hiển dung của Chúa rất sáng và rất ngắn. Tại sao?

Tại sao Vinh quang của Chúa lại xuất hiện rất sáng, nhưng cũng rất ngắn như một tia chớp mau qua như thế?

Thưa đó là qui luật muôn đời của đức tin.

Vinh quang Thiên Chúa bao giờ cũng chỉ được ban cho ta trong một chớp sáng mau qua vào những lúc ta cần được an ủi nhất: vừa sáng đủ để củng cố đức tin của ta mà cũng vừa ngắn đủ để khỏi xâm phạm tự do của ta. Ta tìm hiểu thêm về sáng và ngắn.

 Rất sáng:

Các nhà giảng thuyết cũng như các nhà giải thích Kinh Thánh đều đồng ý với nhau về ý nghĩa bối cảnh của cuộc hiển dung. Đó là sau khi tiên báo mình sẽ chịu đau khổ, chịu chết tại Giêrusalem, những môn đệ theo Chúa buồn bã rồi nghi ngờ về người Thầy mà mình đang theo. Ông Giêsu này là ai, mà tương lai ông đen tối như thế: nào là đau khổ, nào là chết trên thập giá. Ông lại còn nói “ai theo ông cũng phải vác thập giá”: cả một bầu trời u ám tối đen! Giữa lúc ấy thì Chúa hiển dung vinh quang sáng láng, trước khi Ngài hai lần nữa loan báo về khổ đau và cái chết của Ngài: lần 2, lần 3 (thêm: bị nộp, bị khạc nhổ, xỉ vả, đánh đập).

Các nhà canh tân Phụng vụ cũng muốn đồng ý với lối giải thích trên, nên trong Mùa Chay, mùa sám hối đền tội, mùa trời giăng màu tím, ngay sau lễ tro rồi Chúa nhật I Mùa Chay bị cám dỗ, trước khi đến CN 3, 4, 5 thì chen nằm vào ngay giữa một ngày tường thuật cuộc hiển dung của Chúa: hôm nay Chúa nhật II, năm A hay B hay C đều là hiển dung sáng láng.

Vậy giữa mùa chay dài 40 ngày mang tính buồn rầu than khóc, sẽ có một Chúa nhật nói đến sự hiển dung vinh quang. Và Phụng vụ muốn mô phỏng 2000 năm về trước, giữa bầu khí u buồn và nghi hoặc nơi các tông đồ, Chúa đã hiển dung sáng láng ..

Cuộc hiển dung này phải thật sáng thì mới chiếu đủ ánh sáng vào không gian (bầu khí) ảm đạm u buồn khá đậm nơi các đồ đệ của Đức Giêsu. Và cũng phải thật sáng thì mới ảnh hưởng đến thời gian còn rất lâu mới tới một cuộc hiển dung khác là sự phục sinh của Ngài.

Giống như đèn flash phải thật sáng để chiếu vào không gian đen tối hầu lưu ảnh cho thời gian dài lâu, thì cuộc hiển dung phải rất sáng để đủ chiếu soi không gian u buồn rất lớn, và thời gian nghi hoặc rất dài. Cuộc hiển dung rất sáng để phá tan được ảm đạm và nghi ngờ nơi các Tông đồ, giúp củng cố niềm tin của các ông vào người Thầy mà mình đang đi theo. Nhưng cuộc hiển dung rất sáng đó, cũng diễn ra rất ngắn.

Rất ngắn. Tại sao lại rất ngắn

Thưa là để khỏi xâm phạm đến tự do của các Tông đồ. Tự do đi theo Ngài, và tin Ngài cách tự do. Giả sử Đức Giêsu cứ xuất hiện dưới dạng uy nghi sáng láng, thì tin vào Ngài là dễ dàng, là đương nhiên. Triết lý gọi là bó buộc, không tự do tin hay không tin tùy ý nữa. Và nếu Ngài cứ uy nghi sáng láng mãi thì đi theo Ngài cũng là bó buộc đương nhiên, nhất là khi Ngài hứa ai theo Ngài sẽ nên giống như Ngài. (Đèn flash mà cứ sáng hoài, ta cũng mất tự do, không dám co tay duỗi chân đập con muỗi!).

Trong cuộc sống thử thách ở trần gian này, Thiên Chúa vẫn cứ muốn là Thiên Chúa mai ẩn, giấu mình đối với những kẻ tin vào Ngài. Ngài muốn họ tự do. Tự do tin Ngài, theo Ngài, yêu mến Ngài. Khi cần, khi rất cần, để an ủi khích lệ những kẻ tin Ngài, Thiên Chúa mới tỏ vinh quang. Nhưng cũng như tia chớp, trong chốc lát. Rất rất ngắn. Vừa đủ sáng để củng cố đức tin ta vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm đến tự do của ta.

Một hôm có người đến báo cho vua Louis IX (nước Pháp) là hãy đến ngay xem phép lạ tại nhà thờ kia: vị linh mục đọc lời truyền phép xong, thì chính Chúa Giêsu hiện nguyên hình trên tấm bánh. Tấm bánh sáng láng lạ thường. Vua Louis đáp lại: Ta không cần đến, vì ta vẫn tin như thế. Không phải vì thấy được ngời sáng mà ta tin hơn đâu. Những ai yếu tin, nghi ngờ thì cứ đến mà xem.

Không thấy sáng, không sờ được mà vẫn tin, cái tin đó mới tự do. Cái tin đó mới là Đức. Đức tin. Phúc cho ai không thấy mà tin. Chỉ cần nghe mà tin mới là phúc, mới là tự do. Tôi nghe nói, tôi nghe dạy: Chúa ngự thật trong hình bánh. Tôi tin. Tin “chất lượng” nhất vì có tự do, tức là tôi có thể tin hay không tin mà chẳng ai cho tôi là mát, là dị.

Còn khi vừa truyền phép xong, tấm bánh sáng láng lạ lùng và cứ sáng mãi bao lâu Chúa còn hiện diện thì tôi chỉ còn một con đường không có chọn lựa nào khác, là tin, là công nhận; nếu không thiên hạ gọi tôi là khùng là mát… Chính vì để khỏi xâm phạm đến tự do của các tông đồ mà Chúa đã hiển dung sáng láng rất ngắn.

Trong cuộc sống tại trần gian của Kitô hữu chúng ta, rất nhiều khi và rất rất nhiều người không hề gặp được một cuộc hiển dung nào của Chúa cả, cho dù là rất ngắn. Một chút của rất rất ngắn cũng không có!

Nhưng đừng có ganh tị. Bởi cuộc hiển dung xưa kia trên núi, Chúa Giêsu cũng chỉ mang theo ba vị: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chín vị khác và đông đảo đệ tử có thấy được tí loé sáng vinh quang nào của Chúa đâu. Mà họ vẫn tin theo Chúa. Mà ba vị đó khi xuống núi cũng bị cấm không tiết lộ cho chín tông đồ khác và các môn đệ ngơ ngác kia, nhưng họ vẫn tin.

Xin cho chúng ta cũng được như vậy, dù Chúa không hoặc chưa hiển dung với ta, nhưng ta vẫn tin Ngài là Chúa, như kinh Tin Kính ta sẽ tuyên xưng bây giờ đây.

-------------------------------

 

MC 2-ABC442: Chúa Nhật 2 Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Alfonso)

Tin mừng Lc 9: 28-36: Nếu lúc nào đó trong cuộc sống, sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa xem ra là một thập giá nặng nề, chúng ta hãy học nơi mẫu gương tổ phụ Abraham, ngài đã hoàn toàn đặt lòng tin tưởng vào Chúa hoàn toàn.

Suy niệm:

 

Những nghiên cứu khoa học gần đây đã chứng minh rằng vẻ bề ngoài có thể là yếu tố giúp người MC 2-ABC442


Những nghiên cứu khoa học gần đây đã chứng minh rằng vẻ bề ngoài có thể là yếu tố giúp người khác đánh giá tính cách và mức độ đáng tin cậy của bạn.

Thực ra ông bà ta cũng nhìn nhận “Trông mặt mà bắt hình dong”, khuôn mặt có nhiều khả năng là sự định giá của người khác dành cho bạn chỉ sau vài giây gặp gỡ. Ai cũng muốn mình có khuôn mặt tươi sáng, khả ái. Và người ta sẵn sàng chi nhiều tiền thẩm mỹ cho khuôn mặt mình, đặt mua nhiều loại sữa rửa mặt làm trắng da… chỉ vì muốn người khác có cái nhìn tốt đẹp về họ. Thế nhưng, khuôn mặt cũng phản ánh nét đẹp đời sống nội tâm của con người mà chúng ta cần nhắm tới.

Trong trang Tin Mừng Chúa Nhật thứ II Mùa Chay năm C hôm nay, Hội thánh mời chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt ngời sáng của Chúa Giêsu trên núi Tabor khi Người biến hình. Chỉ mình thánh Luca nói rõ chi tiết Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Kết quả của lời cầu nguyện đó là: "Ðang khi Ngài cầu nguyện, thì khuôn mặt Ngài biến đổi". Việc gặp gỡ Thiên Chúa làm biến đổi con người, biến đổi từ nội tâm đến thân xác, khuôn mặt, thậm chí "y phục Ngài nên trắng ngời".

Và rồi khi chứng kiến việc biến hình của Chúa Giêsu, có sự hiện ra của Môisen và Êlia, các môn đệ lúc này chỉ muốn ở mãi trên núi để tận hưởng vinh quang hiển dung. Họ xin sẵn sàng làm ba lều cho Chúa Giêsu Thầy mình, cho Môisen là người đại diện cho Lề Luật và cho Êlia đại diện cho người loan báo lời ngôn sứ của Thiên Chúa.

Lúc này đây, Chúa Giêsu đang ở trong một khúc quanh quan trọng của sứ mạng Chúa Cha trao phó. Điều tất yếu của sứ mạng cứu chuộc nhân loại không thể nào thiếu chặng đường thập giá. Trước đó, Chúa Giêsu đã loan báo cho các tông đồ về cuộc khổ nạn sắp tới và việc Người sẽ chịu chết. Người hoàn toàn ý thức mình đang tiến về cái chết được biểu hiện bằng việc tiến về Giêrusalem. Người không phải là một thủ lãnh giải phóng chính trị oai phong hiển hách mà người đương thời mơ tưởng, nhưng là Đấng Messia, Người Tôi Trung chịu đau khổ. Và để đáp trả lời vâng phục đầy tự nguyện vì tình yêu của Con, Chúa Cha mặc cho Người Con ánh sáng và vinh quang trên núi cao, một hình ảnh tiên báo hoa trái của cuộc khổ nạn sẽ dẫn Người đến sự phục sinh. Có ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacôbê được chiêm ngưỡng việc tỏ mình của “Người Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha” để các ông được động viên tinh thần khỏi sa sút, thất vọng với những gì sẽ diễn ra trong đêm Vườn Dầu.

Trong đời sống nhân loại, ai mà không muốn mình được vinh quang, an nhàn, mãn nguyện và hạnh phúc. Chẳng ai dạy gì tìm kiếm khổ cực truân chuyên. Nhưng những nhà tu đức đã dạy các Kitô hữu rằng con đường Chúa đi không thể nào thiếu vắng thập giá. Vì thế, các Kitô hữu của Chúa cũng cần phải được thập giá thanh luyện, như “lửa thử vàng” vậy.

Nếu lúc nào đó trong cuộc sống, sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa xem ra là một thập giá nặng nề, chúng ta hãy học nơi mẫu gương tổ phụ Abraham, ngài đã hoàn toàn đặt lòng tin tưởng vào Chúa hoàn toàn. Ngay chính lúc tuyệt vọng khiến không còn lý do để tin tưởng, nhưng nhờ có đức tin vững mạnh, Abraham đã được toại nguyện như lời Chúa hứa. Và cao cả hơn, nhìn lên gương vâng phục của Thầy Chí Thánh trên thập giá, chúng ta sẽ được ủi an vì Chúa Giêsu sẽ biến thập giá khổ nạn thành Thánh giá cứu đời. Chính khi chịu treo như một kẻ tử tội bị chế nhạo thì lúc đó Người được vinh thắng vì Chúa Cha sẽ phục sinh Con Ngài trong ánh sáng và vinh quang.

Vậy phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta đặt trọn niềm tin của mình vào Chúa Kitô để biết biến đổi đời sống mình: những tính mê nết xấu, những lời gièm pha châm chọc, việc thiếu sống công bằng, sự thiếu sót trong các mối tương quan... Sẽ có những lúc Thiên Chúa ban cho chúng ta niếm chút vinh quang như một chớp sáng mau qua để an ủi đời sống thiêng liêng, vừa sáng đủ để củng cố cho đức tin, vừa ngắn ngủi để khỏi xâm phạm tự do đáp lại. Nhờ đó mà chúng ta luôn sống trong hy vọng cần phải hoán cải đời sống mình mỗi ngày để cũng xứng đáng được Chúa gọi là “con yêu dấu”. Khi chúng ta sắt son trong đức tin, muốn nên sống tốt và chân thành thay đổi, Chúa sẽ ban cho chúng ta hoa quả của lòng tin là một cuộc sống của người con Chúa.

Lạy Chúa, con cũng sẽ được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa chỉ khi con biết sống và đi con đường như Chúa Giêsu, Con Dấu Ái của Ngài, con đường thập giá đi đến vinh quang. Xin cho con đừng mỏi mệt mà nản lòng và cần luôn ý thức rằng “Nếu con tìm Chúa Giêsu mà không với Thánh giá thì con chỉ gặp được thập giá mà không có Chúa Giêsu”. Amen.

-------------------------

 

MC 2-ABC443: Kiên nhẫn vượt qua


(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

 

Có ai đó nói rằng: kiên nhẫn là chỗ dựa của thành công. Tài năng chỉ là xúc tác. Trên đời này MC 2-ABC443


Có ai đó nói rằng: kiên nhẫn là chỗ dựa của thành công. Tài năng chỉ là xúc tác. Trên đời này có nhiều người có tài nhưng không thành công là do thiếu kiên nhẫn. Kiên nhẫn và dũng cảm là chìa khóa vạn năng đưa con người tới thành công.

Trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam cũng có những câu nhớ đời, ai đọc cũng phải suy ngẫm cho đến suốt đời, lúc nào cũng thấy đúng, đó là:

“Muốn no thì phải chăm làm, một hạt thóc vàng chín giọt mồ hôi”.

“Ở đời khôn khéo chi đâu, chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần”.

 “Có công mài sắt có ngày nên kim”.

“Kiến tha lâu cũng đầy tổ”.

Có một chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một hôm, bác nông dân có một chú lừa chẳng may bị lọt xuống một cái giếng cạn. Chú lừa tội nghiệp kêu la thảm thiết cả buổi mà bác chẳng biết làm cách nào đưa nó lên. Cuối cùng bác nông dân nghĩ ra cách đổ thêm cát vào giếng, thề là bác liền gọi hàng xóm giúp bác một tay.

Tất cả mọi người hè nhau lấy xẻng xúc cát đổ xuống giếng. Lúc đầu, chú lừa chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình nên la hét khủng khiếp. Rồi bỗng dưng lừa ta im lặng khiến mọi người ngạc nhiên. Sau khi đổ đất được một hồi, bác nông dân nhìn xuống và kinh ngạc vô cùng trước những gì mình thấy: cứ một lớp đất đổ xuống lưng mình, nó giũ lớp cát xuống và giẫm chân lên. Khi mọi người tiếp tục đổ xuống đầu con vật, nó lại giũ lớp cát và giẫm chân lên một bước nữa. Cứ thế, cứ thế. Chẳng bao lâu con vật đã leo lên được thành giếng và bước ra ngoài trước sự sửng sốt của mọi người.

Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Qua biến cố Chúa hiển dung, Ngài mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giê-su đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh.

Cuộc đời con người cũng là một hành trình đầy cam go và thử thách. Hãy xin Chúa cho ta được gặp gỡ thân tình với Chúa như các môn đệ trên núi Tabor để can đảm dấn thân vào cuộc sống. Năm xưa, trên núi Tabor Chúa Giêsu đã tỏ rõ dung nhan của một vì Thiên Chúa quyền năng. Ngài muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, để các môn đệ hiểu được “phải qua đau khổ mới tiến tới vinh quang”. Trên núi Tabor, Chúa Giê-su cho ba môn đệ nếm trước sự sống thần linh vinh quang của Chúa để thêm sức cho các ông, nhờ đó mà vượt qua những thập giá gian truân. Chính nhờ ánh sáng trên núi Tabor, sẽ giúp cho các ông can đảm đón nhận từng đớn đau, từng gian truân trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan.

Năm nay với chủ đề “đồng hành với gia đình khó khăn” như lời mọi gọi các gia đình đừng thất vọng, đừng buông xuôi. Hãy tin tưởng phó thách nơi Chúa. Hãy chạy đến với Chúa để thêm sức mạnh từ Ngài. Cuộc sống luôn có thập giá nhưng Chúa bảo phải qua đau khổ mới tới vinh quang. Đừng thất vọng than van trước khó khăn cuộc sống, nhưng hãy kiên nhẫn vượt qua. Đừng bi quan về những gì đang diễn ra chung quanh cuộc sống chúng ta, vì Chúa bảo sau đêm dài là ánh bình minh. Hãy can đảm đứng lên từ trong khó khăn vì phần thưởng chiến thắng đang chờ chúng ta phía trước. Hãy như con lừa biết trút bỏ mọi lo âu để tâm hồn được thảnh thơi, được nhẹ nhõm để bước đi trong thánh ý Chúa.

Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận thập giá trong đời sống của mình với hai tiếng xin vâng. Xin cho chúng ta cùng đi với Chúa trong cuộc khổ nạn để mai sau cùng được chia sẻ vinh phúc trên quê trời. Amen.

-----------------------------

 

MC 2-ABC444: Biến đổi cuộc đời như Chúa


(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Lc 9: 28-36: Với trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.

 

Với trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến MC 2-ABC444


Với trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi, trong lúc Ngài biến hình thì các ông có lẽ đang ngủ và câu chuyện hình như xảy ra vào ban đêm. Đêm thường là biểu tượng của sự tối tăm khiến chúng ta không còn nhận ra cách trực tiếp những thực tại siêu nhiên.

Rồi các môn đệ bắt gặp Ngài nói chuyện với Môsê và Elia. Sự hiện diện của hai vị này cũng như câu chuyện trao đổi liên kết một cách mầu nhiệm trong thân phận con người và vinh quang của cuộc đời mai hậu. Điều này chứng tỏ rằng giữa những đau khổ ở đời này, con người sẽ được sống lại và được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.

Khi Phêrô đang nói thì có đám mây che các Ngài, và có tiếng từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Thiên Chúa muốn con người vâng nghe Đức Giêsu. Thiên Chúa không muốn Con Ngài và những người theo Con Ngài ở hoài trên núi; Ngài muốn họ xuống núi để sống cuộc sống bình thường của họ giữa con người thời đại mình. Giây phút biến hình không biết kéo dài khoảng bao nhiêu phút, nhưng thất bại và thập giá còn hoài trong suốt cuộc sống của Đức Giêsu và các tông đồ, kể cả khi Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.

Sau đó tầng trời mở ra và có tiếng nói: Này là con Ta. Cảnh tượng giống như lúc Ngài chịu phép rửa bên bờ sông Giođan. Vì thế, Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là Chúa Giêsu biến hình. Ngài là người đầy tớ thực hiện ý định của Chúa Cha, cho nên chúng ta phải tin tưởng, lắng nghe và thực thi những điều Ngài truyền dạy.

Biến cố Chúa Biến Hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, để chúng ta cũng biết biến đổi hình dạng như thế: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Với biến cố biến hình nay, người Kitô hữu chúng ta được mời gọi từng ngày sống của mình không ngừng lột xác, không ngừng đổi mới để được trở nên giống Đức Kitô hơn. Đây cũng là ý tưởng câu thánh Phaolô, ngài nói: Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài. Đồng thời ngài rất đau buồn khi nhận thấy có những kẻ sống thù nghịch với thập giá. Hãy góp phần vào sự biến hình của chính thân xác mình bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu, để trong ngày sau hết chúng ta sẽ được mặc lấy ánh vinh quang của Thiên Chúa.

Trong thư gởi giáo đoàn Philipphê 3,17-4,1 thánh nhân khuyến khích mọi người bắt chước ngài và theo gương các anh chị em có lòng tin vững mạnh, sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng của Chúa. Thánh Phaolô không tự cho mình là người hoàn thiện, vì Ngài cũng đang phải chiến đấu với thân xác yếu hèn của chính mình, với mọi đam mê và chước cám dỗ như tất cả mọi Kitô hữu khác. Cũng như mọi người, ngài đang chạy đua với hết sức lực mình để đạt đích.

Thánh Phaolô cũng không khuyên nhủ tín hữu tôn thờ thần tượng một ai đó trong cộng đoàn. Bởi vì những người này cũng đang chạy đua và cố gắng như mọi người khác, chiến đấu với những thiếu sót bất toàn và tội lỗi của họ, và bởi vì vị thầy duy nhất đáng tôn thờ là chính Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là mẫu gương duy nhất cần phải theo và Tin Mừng của Ngài là kim chỉ nam duy nhất có thể đảm bảo cho con thuyền cuộc đời của người tín hữu đến bến bình an. Khi khuyến khích tín hữu cộng đoàn Philipphê bắt chước mình, thánh Phaolô mời cố gắng chạy, cố gắng chiến đấu như ngài, luôn hướng tấm lòng về tới đích cuộc đời là Thiên Chúa, là hạnh phúc mai sau. Đừng để các thú vui mau qua của đời này níu kéo mà khiến cho họ quên đi mục đích tối hậu của cuộc sống là ơn gọi Kitô.

Nói cách khác, thánh nhân nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cuộc sống của chúng ta trên trần gian này là cuộc hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu, là quê trời nơi Thiên Chúa đang chờ đón để ban cho chúng ta cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu. Do đó phải luôn biết ý thức và tỉnh thức, đừng để cho các thú vật chất hay bất cứ thứ gì trên đời này trói buộc và cầm chân chúng ta. Ngoài ra, thánh nhân cũng khuyến khích tín hữu cũng noi gương ngài không chạy theo các điều luật, các cấm đoán tỉ mỉ và các hình thức lễ nghi bề ngoài, mà chỉ lấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh làm chỉ huy duy nhất và làm bánh lái sống lòng tin mà thôi.

Cuộc đời luôn có khó khăn, nhưng lại luôn mở ra những lối đi để chúng ta vượt qua. Khó khăn nào cũng sẽ qua đi. Sau bóng đêm là ánh bình minh. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm đi vào thử thách với niềm tín thác vào Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Thập giá là nhịp cầu đưa ta tới vinh quang Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã đi trước trên con đường thập giá. Chính Chúa đã đi qua thập giá để tiến vào vinh quang phục sinh. Chính Chúa vẫn đang chờ đợi để trao phần thưởng Nước Trời cho những ai trung tín theo Ngài.

Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang; được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình.

Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người Kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống mà chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.

--------------------------

 

MC 2-ABC445: ĐƯỢC BIẾN ĐỔI


Lm. Jos DĐH.

 

Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã đọc 2 câu thơ của Xuân Diệu: Thà một phút huy hoàng MC 2-ABC445


Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã đọc 2 câu thơ của Xuân Diệu: Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt, còn hơn buồn le lói suốt cả trăm năm. Được danh thơm tiếng tốt, được kính trọng nể phục, ai chẳng vui, được sống trong cảnh giầu sang phú quý ai chẳng thích. Vấn đề ở chỗ, ta phải làm gì để có phút huy hoàng, hoặc sống thế nào để nỗi buồn le lói không đe doạ ? Không được sinh ra trong gia đình quyền quý cao sang, nhưng ta có tự do trong học tập, sống kỷ luật với bản thân để rèn luyện nhân cách, để từng bước, từng bước tới thành công. Ngày huy hoàng ở phía trước, ngày điêu tàn cũng ở phía trước, nhưng hạnh phúc thật, vẫn là câu trả lời ta đang sống có nghĩa hay vô nghĩa ở giây phút hiện tại này ?

Hành trình lên núi cầu nguyện của Đức Giêsu, vừa ánh lên vẻ đẹp đạo đức tôn giáo, vừa tỏ rạng sự kỳ diệu giữa tình yêu Thiên Chúa dành cho những ai tin và bước đi theo Ngài. Cuộc gặp gỡ thân tình mà Đức Giêsu dành cho Chúa Cha, trước tác động của Thánh Thần, cùng sự hiện diện của hai chứng nhân cựu ước, có chăng đã phản ánh một chân lý: hạnh phúc gặp trên đường đi chứ không phải chỉ ở cuối đường. Diện mạo Đức Giêsu được biến đổi khác thường, cuộc đàm đạo với hai vị “tiền bối”, đại diện cho lề luật và ngôn sứ, các ngài cùng nhau trao đổi về mầu nhiệm cứu độ tại Giêrusalem. Ba môn đệ được vinh dự theo Đức Giêsu lên núi, được chứng kiến Thầy biến hình, được nhìn thấy Môisê và Êlia, dù không hiểu sứ mạng của Thầy, nhưng các ông đều khao khát được sống mãi trong bầu khí cầu nguyện trên núi cao.

Trong cầu nguyện, Đức Giêsu thao thức được nhận biết thánh ý Chúa Cha, được sống trọn vẹn mầu nhiệm cứu độ, trong liên đới hiệp thông, Đức Giêsu luôn nghĩ đến các học trò, đến chúng ta, đầy giới hạn, cũng sẽ được biến đổi nên giống tình yêu Chúa. Tại núi cao, các môn đệ được nhìn, được thấy, được nghe “tiếng phán từ trời”, nhưng được biến đổi diện mạo, được nên giống Chúa, lại là một tiến trình các ông phải tập luyện, phải sống niềm tín thác. Vì chưng, ở đời người ta có thể nói những lời tốt đẹp, người ta có thể hiểu đâu là việc đúng, việc cần làm, nhưng trên hết, chỉ khi sống, khi hành động, người ta mới chứng minh được “tôi” là môn đệ của Thầy Giêsu.

Tiền nhân chúng ta có một lời khuyên: nếu bạn muốn đạt tới hạnh phúc, đừng ngồi chờ cơ hội, hãy trau dồi một thái độ sống tốt. Đức Giêsu không yêu cầu ba môn đệ thân tín lao động, làm việc kiếm tiền, tập làm quan làm tướng, nhưng các ông đã hiểu phải được biến đổi tâm tính, phải được trau dồi một thái độ sống đúng, sống đẹp ý Chúa mỗi ngày. Được biến đổi con người tội lỗi bất xứng của mình, được thay đổi lời ăn tiếng nói việc làm, sống chuẩn mực với tình yêu của Chúa, rất cần đến sự buông bỏ. Ta giới hạn không thay đổi được thế giới, nhưng ta có thể thay đổi chính bản chất xấu xa ích kỷ của mình. Tại núi cao hôm xưa, các môn đệ được nghe nhìn, được sự sáng toả chiếu sâu thẳm cõi lòng, được hạnh phúc trước lời chứng thực: “đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời người”. Không chỉ riêng 12 tông đồ, mà tất cả những ai theo Thầy Giêsu, đều khao khát có tâm hồn xinh đẹp, và được gọi là con yêu dấu.

Được biến đổi từ nghèo khó tới giầu sang, được biến hoá từ người xấu xí trở nên xinh đẹp, từ một người dại khờ trở nên lanh lợi, đó là thành công vĩ đại mà người đời hằng mơ ước. Đức Giêsu cho ba môn đệ theo Thầy lên núi, nhưng Ngài mơ ước cả 12 người học trò cùng được biến đổi tâm tính và trở nên xứng hợp với tình yêu Chúa. Tiếng nói từ trời khích lệ bước đường phía trước của Thầy, vừa đủ khai thông cho ba vị đại diện theo Thầy lên núi, Thầy Giêsu còn ước mong cả “nhân loại” này, ai cũng được biến đổi để trở nên con chí ái của Chúa. Niềm vui được thấy thiên tính của Thầy, hạnh phúc được biến đổi, được nên giống Thầy: “lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con sẽ làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Môisê, một cho Elia…”. Vâng, ba môn đệ khao khát được nên giống tình yêu của Thầy, những ai theo Đức Giêsu, đều có quyền mơ ước được hạnh phúc mãi mãi trong tình liên đới hiệp thông với Thầy.

Thà rằng đừng ham hố danh lợi thú ở thế gian này, thà rằng được thoáng nghe và nhìn thấy hạnh phúc ở bên tình yêu nhan thánh Chúa, còn hơn cả kiếp người mù mịt trong mưu mô tính toán hơn thiệt, ngay cuộc sống hiện tại này. Ai trong chúng ta cũng có cơ hội, có thời gian để lên núi, để cùng hiệp thông cầu nguyện, và có quyền tin tưởng vào lòng thương xót Chúa. Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu, tham vì ông lão tốt râu mà hiền. Chẳng tham nhà ngói 3 toà, tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành. Với mỗi người theo Đức Kitô, chúng ta đang mơ ước điều gì ? Chắc chắn là mong được hạnh phúc, được có tình yêu của Chúa suốt cả đời này đời sau. Hãy cầu nguyện, hãy lắng nghe để biết, để hiểu, để được biến đổi con người đầy bất xứng của mình, cũng là để sống thánh ý Chúa, sống bổn phận của mình cách tốt đẹp nhất. Vâng, thước đo sự thật giầu có của bạn, là giá trị bạn có sau khi đã trải qua cả cuộc đời sống trong tin yêu. Amen.

---------------------------------

 

MC 2-ABC446: BIẾN ĐỔI


Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

 

Tướng tá và diện mạo của con người vẫn luôn là sự phản chiếu từ cái tâm: “Tướng tự tâm sinh MC 2-ABC446


Tướng tá và diện mạo của con người vẫn luôn là sự phản chiếu từ cái tâm: “Tướng tự tâm sinh”. Ít ai suy nghĩ về điều này, nên cũng ít lo chỉnh đốn từ cái tâm, mà thường chỉ lo sửa sang ở cái tướng, nghĩa là chỉ lo cho diện mạo bên ngoài của mình sao cho thật đẹp. Ai cũng muốn người khác đổi mới cái nhìn về mình, nhưng nếu bên trong ta không đổi mà chỉ đổi bên ngoài, thì cũng chỉ là những đắp vá và tô trát giả tạo, không phải bản chất đích thực của một tình trạng nội tâm.

Tâm quyết định về tướng trong mọi tình trạng và từng giai đoạn của đời người, vì thế nên có câu: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh. Vô tâm hữu tướng, tướng tòng tâm diệt”. (Có tâm không có tướng – Tướng tự tâm mà sinh. Có tướng không có tâm – Tướng theo tâm mà mất). Cũng vậy, “Tâm sinh tướng, tướng sinh hình”. Tướng đây không chỉ diện mạo hay thần sắc bên ngoài mà còn biểu hiện bản chất từ thâm tâm của một con người, là căn cơ nguồn cội của một tính cách.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng hé mở một chút bản chất đích thực của con người Đức Giêsu:“Đang khi Người cầu nguyện, thì khuôn mặt Người biến đổi, y phục Người nên trắng ngời như chớp sáng”. Trong quang cảnh này, Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa là Êlia và Môsê, bàn về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Các môn đệ ngây ngất trước vẻ đẹp rạng rỡ ấy. Cuộc biến hình sáng láng này có lý do sâu xa của nó, nhưng cũng để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đó tám ngày: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” (Lc 9, 20).

Nhìn thấy Thầy chói lọi trong ánh quang, Phêrô vui sướng muốn dựng lều và ở lại mãi trên núi thánh. Khi Thầy cầu nguyện thì ông và các bạn cứ ngủ vùi, bây giờ thì lại bám cứng vào một cảm nghiệm hạnh phúc thoáng qua, không muốn xuống núi để sống cuộc đời thường. Chắc chắn các môn đệ chưa nhận ra ý nghĩa của biến cố này. Các ông chỉ muốn vui hưởng những gì trong hiện tại khi đi theo Chúa, muốn tránh tất cả những gì là bấp bênh, đau thương, thất bại hay khổ giá (x. Mt 16, 21-23). Thế nhưng ta thấy ý định của Chúa Giêsu thật rõ ràng, Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.

Để thi hành sứ mạng, Đức Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, Ngài sống đời nghèo khó, có vẻ như bất lực và tầm thường dưới mắt người đời. Ngài gặp nhiều chống đối, bị khinh chê và chế nhạo. Công cuộc rao giảng Tin Mừng xem ra đã thất bại. Đau thương hơn nữa, là Ngài phải đối đầu với cuộc tử nạn sắp đến. Lòng Ngài cũng mang nặng lo âu và sợ hãi. Nhưng điều cao vượt là Ngài sẵn lòng đón nhận thánh ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha tuyên dương: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”.

Điều quan trọng ta cần lưu ý là Đức Giêsu biến đổi dung mạo sáng ngời đang khi Ngài cầu nguyện. Thật ra, trọn đời sống của Đức Giêsu là cầu nguyện, và Ngài dạy chúng ta phải cầu nguyện luôn. Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta chỉnh đốn và thống nhất con người mình đúng theo dự định của Thiên chúa. Chính trong cầu nguyện hằng ngày mà chúng ta được biến đổi dần dần để trở nên con yêu dấu của Thiên Chúa. Đó mới chính là sự biến hình đổi dạng của chúng ta hôm nay, nghĩa là biểu lộ được khuôn mặt của Đức Giêsu cho mọi người trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy mà chúng ta được gọi là Kitô hữu.

Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường, Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui khôn tả mà thỉnh thoảng Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Ngài vẫn tiếp tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống. Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa Cha qua việc Ngài chấp nhận cuộc khổ hình, thì sự vâng theo ý Chúa hôm nay, xem ra thật vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng ta ngày mai. Thánh Phaolô cũng hứa hẹn với các tín hữu rằng: “Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài.” (Pl 3,17 – 4,1).

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
khuôn mặt phản ánh đời sống nội tâm,
non nớt cạn cợt hay sâu sắc thâm trầm,
là người sống âm thầm hay ham tỏ vẻ,
là kẻ khoe mẽ hoặc e dè thâm hậu.

Có ai muốn mình là người xấu đâu,
mà muốn luôn được tươi thắm đẹp mầu,
muốn người khác nhìn mình với chiều sâu,
bằng sự tôn trọng và cảm thông hiểu thấu.

Thế nhưng mọi sự lại tùy tâm,
tâm hiền lành thì khuôn mặt dễ mến,
tâm khiêm nhường thì sắc diện thanh cao
tâm hung hăng thì tướng người kiêu ngạo,
tuy nhiên cũng khó nói cho vừa,
nhiều người ranh mãnh lọc lừa giả trang.

Giữa cuộc đời đầy vàng thau lẫn lộn,
tâm con cũng dễ dàng bị xáo trộn,
làm mất đi nét trong sáng của tâm hồn,
không còn khả năng tỏ lộ hình ảnh Chúa,
cho bao người đang sầu úa quanh mình,
mà không dám sống tận tình cho nhau.

Muốn thế con phải luôn kề bên Chúa,
để tâm con trong tư thế yên hàn,
vì gần mực thì đen gần đèn thì sáng,
trong cầu nguyện mà diện mạo phát quang.

Gặp được Chúa rồi mới làm con biến đổi,
nếu chưa thì con vẫn trôi nổi nhập nhằng,
chẳng biết bao giờ mới đơm hoa kết trái,
để tâm con biểu lộ một thần thái như Ngài.

Xin giúp con làm chủ lấy cái “Tôi”,
để luôn biết nối kết với nguồn cội,
và cho con biết tận dụng mọi cơ hội,
để nói lên lòng mến Chúa mà thôi. Amen.

-----------------------------

 

MC 2-ABC447: THIÊN ĐÀNG CHỚM NỞ NGAY DƯỚI THẾ


Jorathe Nắng Tím

 

Chia sẻ Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay năm C với quý Bạn, người viết xin được dùng lời MC 2-ABC447


Chia sẻ Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay năm C với quý Bạn, người viết xin được dùng lời của bài thánh ca “Giêsu Khoan Nhân” do linh mục nhạc sư Antôn Tiến Dũng viết nhạc làm đề tựa bài suy niệm, vì quả thực, các bài đọc cũng như Tin Mừng của chúa nhật hôm nay đều nói lên hạnh phúc được nếm sự ngọt ngào của Thiên Đàng ngay ở thế gian này, như ca từ đã diễn tả: “Thiên Đàng chớm nở ngay dưới thế, tháng năm hoan lạc trôi từ đây”.

Kinh nghiệm sống đức tin của cha ông cũng như kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa của mỗi người ít nhiều đã cho chúng ta thấy: giữa những khó khăn, thách đố của cuộc sống, những trắc trở, nhiêu khê của đuờng đời, những Thánh Giá to nhỏ trên hành trình của người Kitô hữu, Thiên Chúa luôn có mặt và khi cần thiết Ngài cho chúng ta được  nếm sự ngọt ngào của Thiên Đàng, nghĩa là cho tâm hồn những ai yêu mến Ngài cảm nghiệm niềm hoan lạc thiên đàng, đích tới của hành trình đi theo Đức Giêsu của người Kitô hữu.

Cựu Ước đã làm chứng điều này, khi Ápram sợ  trước lời hứa cho ông trở thành tổ phụ  dân riêng, qua lời ông thưa với Thiên Chúa: “Con ra đi mà không con cái, và người thừa tự gia đình con là Êlieđe, một người Đamát…  Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con” (St 15, 2-3). Chính trong lúc hoang mang, buồn tủi, Thiên Chúa đã trấn an ông: “Hỡi Ápram, đừng sợ. Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi: phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn”.. ”. Rồi người đưa ông ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không”. Người lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó” (St 15,1.5-6).

Chỉ cho Ápram các vì sao trên trời, Thiên Chúa Giavê không những cho ông biết dòng dõi của ông sẽ đông như sao trên trời, mà còn cho ông thấy trước hạnh phúc của ông và dòng dõi ông sau này sẽ được hưởng trên Thiên Đàng. Nói cách khác, Thiên Chúa muốn chỉ cho Ápram thấy tương lai hằng phúc của những ai đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa như “ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6).

Thánh Tông Đồ Dân Ngoại khẳng định hạnh phúc mai hậu trên trời sẽ được dành cho những ai đặt niềm hy vọng vào Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống cứu nhân loại. “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3, 21), vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20).

Và trong Tin Mừng Luca,  Đức Giêsu  đã chứng thực chân lý trên khi cho ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê  lên núi với Ngài, ở đó “dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà”, lại có hai nhân vật quan trọng là Môsê và Êlia “hiện ra, rạng ngời vinh hiển”. “Nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người” (Lc 9,29.32), các tông đồ ngất ngây sung sướng, xin được cắm lều ở mãi trên núi, mà không còn muốn xuống núi, trở lại đời thường (x. Lc 9,33).

Thực vậy, trên hành trình đức tin, nghĩa là trên con đường “vừa đủ sáng để thấy, vùa đủ tối để tin”, Thiên Chúa không để những ai yêu mến, tin tưởng Ngài phải lầm lũi, sầu buồn đi mãi, đi hoài trên con đường dày đặc bóng tối, hoàn toàn tăm tối, chìm ngập trong đêm tối, mà  không một tia sáng hy vọng, không một khoảnh khắc phấn khởi, ủi an. Trái lại, Ngài có mặt để nâng đỡ đức tin yếu đuối của chúng ta bằng tỏ ra quyền năng vinh quang của Ngài như đã tỏ ra cho ngôn sứ Êlia trên núi Hôrép, hay cho Môsê trên núi Sinai; cũng như đã tỏ ra cho dân chúng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa khi Ngài chiu phép rửa bên bờ sông Giođan, và chính Đức Giêsu đã tỏ ra vinh quang Thiên Chúa của Ngài khi hiển dung trên núi như Tin Mừng kể lại.

Mùa Chay là mùa trở về, nhưng để trở về, chúng ta cần biết sẽ trở về đâu, trở về với ai?

Chúng ta trở về với Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, người cha nhân hậu,  vì chúng ta là những chiên lạc đàn, những người con thứ hoang đàng; chúng ta trở về với “lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”, vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20), vì chúng ta là công dân Nước Trời, là con cái Thiên Chúa, là những người ở trong xác thịt, nhưng không sống theo xác thịt, ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, phải tuân giữ lề luật nhưng cách sống thì hoàn hảo hơn lề luật. Và trên đường trở về, Thiên Chúa luôn làm chớm nở hạnh phúc của quê hương Thiên Đàng trong tâm hồn ngay trên những bước chân của chúng ta trên đường dương thế, khi chúng ta đặt niềm tin và tình yêu vào “Đức Giêsu  rất khoan nhân, ngọt ngào” là hy vọng và hoan lạc của những tâm hồn khao khát tìm kiếm Ngài.

----------------------------

 

MC 2-ABC448: CHÚA BIẾN HÌNH ĐỂ BIẾN ĐỔI TA


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Nếu như Chúa nhật I Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu chịu MC 2-ABC448


Nếu như Chúa nhật I Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu chịu Ma Quỷ cám dỗ thì Chúa nhật II mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng về việc Đức Giêsu biến hình cho cả 3 năm phụng vụ, để khích lệ chúng ta bắt chước Chúa Giêsu chống trả Tên Cám Dỗ, cởi bỏ con người cũ, thay hình đổi dạng, mặc lấy con người mới, chết đi cho tội lỗi, sống cho Chúa, để qua cuộc biến đổi này mà trở thành một tạo vật mới với ân sủng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần.

Abraham được Chúa biến đổi

Nhân loại cũ do Adong kể như đã hư mất vì tội lỗi. Nhưng để biến đổi thành nhân loại mới, Thiên Chúa đã ký kết với Abraham một giao ước dưới dạng một bản giao kèo theo tập tục các chiến binh thời đó: được đóng ấn bằng việc xẻ thịt một bò cái tơ, một dê cái và một cừu đực. Thiên Chúa nhận của lễ Abraham dưới hình dạng ngọn lửa thiêu. Theo giao ước này, nếu Abraham nhận Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ ban cho ông hai điều: một dòng dõi đông đúc và một vùng đất rộng rãi phì nhiêu. Abraham tin và tuân giữ nên ông được như Chúa hứa ban.

Biến đổi như Phaolô

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã tường thuật về sự biến đổi đời ngài khi gặp Đức Kitô Phục Sinh, đồng thời mời gọi họ noi gương ngài biến đổi. Từ một kẻ hung ác bắt bớ Hội Thánh, Phaolô được Chúa biến đổi thành tông đồ hăng say rao giảng Tin Mừng. Ngài viết: “Anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi” (Pl 3,17). Ngài than phiền khi thấy còn nhiều kẻ chưa biến đổi như ngài, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã khóc thương khóc cho số phận của họ, vì nếu họ không biến đổi thì số phận họ sẽ hư vong là chắc. Thánh Phaolô khẳng định: “Quê hương chúng ta là quê trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Pl 3, 20). Ngài cầu nguyện cho họ nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống khăng khít với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của thánh Phaolô.

Chúa biến hình để ta được biến đổi

Thánh sử Luca nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia. Việc Chúa Giêsu biến hình là mẫu gương cho mọi người noi theo để cố gắng biến đổi con người cũ thành con người mới. Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta được biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Trong lịch sử dân Chúa, chúng ta phải nhìn nhận ơn Chúa biến đổi phận người. Cụ thể như Abraham người thành Ur thuộc Mesopotamia đã từ bỏ ruộng vườn, nhà cửa đang ổn định để đi tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn tiến về xứ Canaan. Trước mặt ông là dải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Chúa đã biến đổi ông thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc.

Phaolô, từ kẻ kiêu căng cuồng tín biệt phái, hung hăng bắt đạo, được biến đổi thành người Tông đồ Dân ngoại dễ mến dễ thương.

Lịch sử Giáo hội còn ghi nhận nhiều cuộc biến đổi khác. Có những vị từ gái giang hồ biến đổi thành thánh nhân, từ kẻ khô khan đến người sốt mến, từ người tham lam, hà khắc trở thành người rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.

-------------------------------

 

MC 2-ABC449: CHIÊM NGƯỠNG NHAN CHÚA


Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Muốn theo sau Chúa thì cũng phải đi cùng một con đường, không có “xa lộ” song song, không có MC 2-ABC449


Muốn theo sau Chúa thì cũng phải đi cùng một con đường, không có “xa lộ” song song, không có “cầu vượt” dành cho các môn đệ. Biết là các môn đệ không dễ gì chấp nhận nổi “thập giá” nên Chúa muốn cho ba người đại diện thoáng thấy vinh quang phục sinh của Chúa. Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Chúa Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó, những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Chúa Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Chúa Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Chúa Giêsu.

Đưa các môn đệ lên đỉnh núi Tabor, Chúa Giêsu cho họ chiêm ngắm vẻ đẹp của thế giới thần linh, sau đó Người đưa các môn đệ xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Sọ.

Núi Tabor

Sách Thủ lãnh kể chuyện: Theo lệnh của Đêbôra, một nữ ngôn sứ, làm thủ lãnh xứ Israel, “Ông Barắc từ núi Tabor đi xuống với 10.000 quân theo sau” (Tl 4,14) để đánh bại Giavin, vua Canaan, trị vì tại Khaxo. Đó là một trong những trận đánh do người Israel phát động nhằm chinh phục đất Canaan. Quân Israel chiếm đóng vị trí chiến lược này và tướng Xixôri dù có 900 chiến xa, không dám leo lên núi để tấn công quân Israel được. Barắc đánh bại quân thù, còn các chiến xa bị sa lầy (x.Tl 4,12-24).

Flavius Joseph, viên chỉ huy lực lượng Do thái ở Galilê, ngay từ đầu cuộc nổi loạn chống lại đế quốc Rôma vào năm 66 đã mô tả thành luỹ của núi Tabor.Nhiều pháo đài bao quanh ngọn núi, những vết tích còn thấy được, không hữu dụng bao nhiêu, vì thiếu nước nên dân chúng phải đầu hàng quân Rôma.

Những nhà thờ xuất hiện trên núi Tabor vào đầu thế kỷ thứ V. Tu viện được các tu sĩ Biển Đức xây dựng vào thời Trung Cổ nhằm chống lại các cuộc tấn công của Saladin. Tuy nhiên, các tu sĩ bị bắt buộc phải bỏ đi sau khi Hattin đại bại vào năm 1187. Tất cả cửa nhà đều bị vua Beybara san thành bình địa. Mãi đến thế kỷ thứ XVII, các tu sĩ Phanxicô mới thu hồi và khôi phục lại.

Được xây dựng vào năm 1991, nhà thờ Chính Thống giáo Hy lạp Thánh Êlia mọc lên trên những vết tích thời Trung Cổ. Vương Cung Thánh đường Hiển Dung được thánh hiến vào năm 1924, là tác phẩm của kiến trúc sư Antôniô Barluzzi. Vương Cung Thánh Đường này nổi tiếng nhờ mặt tiền có hai tháp to lớn nối với nhau bằng một vòng cung theo kiểu Byzantin. Các cây cột chia bên trong thành 3 gian, gian giữa có một bức tranh khảm đá kể lại ước muốn của Thánh Phêrô xây dựng ba cái lều: một cho Chúa Giêsu, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia. Các cha dòng Phanxicô cũng xây một tu viện hoành tráng và một cơ sở xã hội kế bên Vương Cung Thánh Đường.

Tôi có dịp hành hương lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth, xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 4độ, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh.

Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.

Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môsê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại. Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.

Biến hình

Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26).

Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.

Chúa hiển dung trên núi Tabor là một sự kiện đặc biệt. Ông Môsê tiêu biểu cho Lề Luật, ông Êlia tiêu biểu cho các Ngôn Sứ, cả hai đến chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa đang tỏ hiện nơi Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa, cả hai cùng đàm đạo với Chúa Giêsu, Đấng mà “Lề Luật và các Ngôn Sứ” đã loan báo. Sự kiện này trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Kỷ niệm ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.

Câu chuyện Chúa Biến Hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Thánh Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các Tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27); sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến Hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (số 14;40). Nhiều năm huấn luyện trong nhà dòng, người thanh niên nam nữ nhiều khi phải “sinh” ra bốn năm lần mới biến hình nên một Tu sĩ: từ ứng sinh, thỉnh sinh, tiền tập sinh, tập sinh, khấn sinh, nhiều năm sau mới khấn trọn đời và vẫn tiếp tục hành trình biến đổi đời mình nhờ gặp gỡ Chúa Kitô.

Nghe Lời Người

Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai bằng mắt mà còn nghe bằng hết tâm hồn cũng như bằng cả cuộc đời quy chiếu sống theo Đức Kitô.

Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “ Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.

Muốn vâng nghe lời ai đó, trước hết phải tin vào người đó. Tin một ai thì phải hiểu biết về người ấy, phải có mối liên hệ thân thiết với người ấy. Muốn tin Chúa, chúng ta phải hiểu biết và sống tương quan mật thiết với Ngài. Nhờ Lời Chúa, chúng ta được hiểu biết về Ngài và được lớn lên trong niềm tin. Nhờ cầu nguyện, chúng ta gặp gỡ, hiểu biết và kết hiệp với Chúa ngày càng thân mật hơn, đức tin sẽ vững vàng hơn. Có tin mới yêu và nghe lời người mình yêu. Chúa Cha muốn chúng ta phải vâng nghe Lời Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Ngài. Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn nghe bằng lòng trí và bằng cả cuộc sống luôn quy chiếu suy nghĩ hành động theo Chúa Giêsu. Để có thể vâng nghe lời Chúa Giêsu, chúng ta phải gặp Ngài khi dự thánh lễ, khi đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày.Nhờ đó cuộc đời chúng ta sẽ biến đổi, dung mạo sẽ đổi khác. Vâng nghe Lời Chúa, dung mạo chúng ta sẽ ngày càng thân thiện hơn, bình an vui tươi hạnh phúc hơn.

Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật II Mùa Chay).

------------------------------

 

MC 2-ABC450: PHẨM GIÁ CAO QUÝ


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 

Trong sinh hoạt hằng ngày, Chúa Giê-su sống bình dị như mọi người, không bày tỏ thần tính của MC 2-ABC450


Trong sinh hoạt hằng ngày, Chúa Giê-su sống bình dị như mọi người, không bày tỏ thần tính của mình ra; vì thế, người đương thời chỉ nhận biết Đức Giê-su là người phàm, chứ không biết Ngài cũng là Thiên Chúa.

Thế rồi, qua việc Chúa Giê-su bày tỏ dung mạo uy nghi, sáng láng, vinh hiển của Ngài trên núi cao, ba môn đệ Phê-rô, Gioan và Gia-cô-bê mới phát hiện ra căn tính của Đức Giê-su: Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng cao cả tuyệt vời, ẩn mình dưới hình hài con người bình dị.

Việc Chúa Giê-su hiển dung trên núi giúp chúng ta biết được hai điều quan trọng nầy:

Thứ nhất, Ngài không chỉ là người phàm mà còn thực sự là Thiên Chúa, được Thiên Chúa Cha xác nhận trước mặt ông Mô-sê, Ê-li-a và 3 môn đệ rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.”

Thứ hai, qua việc bày tỏ dung nhan sáng láng, vinh hiển của mình, Chúa Giê-su cũng tỏ cho biết rằng những ai tin và bước theo Ngài, sẽ được chung phần vinh hiển với Ngài như thế, đúng như lời dạy của thánh Phao-lô được trích đọc trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay: “Ngài sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3, 21).

Chúa biến đổi chúng ta nên vinh hiển cách nào?

Dù chúng ta mang kiếp bụi trần, thân phận mỏng giòn yếu đuối, vậy mà Chúa Giê-su đã dùng Bí tích Thánh tẩy để nâng chúng ta lên, cho chúng ta được tái sinh để trở thành người con chí ái của Thiên Chúa Cha, được trở nên đền thờ cao cả của Chúa Thánh Thần. Vinh hiển biết bao!

Không những thế, Chúa Giê-su còn tháp nhập chúng ta vào Thân mình Ngài, cho chúng ta trở thành một chi thể trong Thân thể Ngài! Hạnh phúc biết chừng nào!

Và một khi trở thành một chi thể trong Thân thể Chúa Giê-su, sự sống của Thiên Chúa ba Ngôi, là sự sống rất cao vời, viên mãn, không bao giờ lụi tàn… được thông ban cho chúng ta, tựa như nhựa sống từ thân nho chuyển sang cành nho, để chúng ta được sống đời đời với Chúa!

Và qua Bí tích Thánh thể, Chúa Giê-su ban thịt máu Ngài cho chúng ta lãnh nhận, để nhờ đó, chúng ta được nên một với Chúa Giê-su, đồng huyết nhục với Ngài và nhờ đó, được sống vĩnh cửu với Ngài.

Đây là những hồng ân vô giá Chúa tặng ban, nhờ đó, “Ngài biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3, 21).

Bảo toàn phẩm giá cao quý của mình

Được Thiên Chúa ban tặng diễm phúc lớn lao như thế, chúng ta phải hết lòng cảm tạ tri ân và tuyệt đối không bao giờ để cho mình suy thoái, đánh mất phẩm chất tuyệt vời.

Về vấn đề nầy, thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng khuyên dạy chúng ta như sau:

“Hỡi các Ki-tô hữu, hãy ý thức về phẩm giá của bạn. Giờ đây bạn đã được thông phần bản tính Thiên Chúa, đừng để mình bị thoái hóa qua việc trở lại với lối sống bất xứng đã qua. Bạn hãy nhớ Ai là Đầu của bạn và bạn là chi thể của Thân Mình nào. Hãy nhớ rằng bạn đã được cứu thoát khỏi quyền lực tối tăm, đã được đưa vào trong ánh sáng và Nước Thiên Chúa.

Nhờ Bí tích Thánh tẩy, bạn đã trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần. Bạn đừng xua đuổi Vị Khách quý trọng như thế do những hành động xấu xa của bạn, đừng để mình lại rơi vào ách nô lệ ma quỷ, vì giá chuộc bạn là chính Máu Đức Ki-tô. (Trích bài giảng của Thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng).

Lạy Chúa Giê-su,

Từ địa vị thấp hèn, Chúa nâng chúng con lên bậc con Thiên Chúa, trở nên chi thể của Chúa, nên đền thờ Chúa Thánh Thần. Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ nếp sống cũ đầy tội lỗi và bất xứng, để bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời cao đẹp xứng tầm người con Thiên Chúa. Amen.

------------------------------

 

MC 2-ABC451: ĐẤT HỨA


Lm Vũđình Tường

 

Phúc Âm không ghi lại cho biết vị nào tổ chức cuộc họp, do ai hẹn ai. Chúng ta chỉ biết là có MC 2-ABC451


Phúc Âm không ghi lại cho biết vị nào tổ chức cuộc họp, do ai hẹn ai. Chúng ta chỉ biết là có cuộc gặp mặt trên núi thánh giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elijah. Sau đó có tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây kêu gọi môn đệ hãy ‘Vâng nghe lời Ngài’. Cuộc gặp mặt lần nữa xác định Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Ngài vác thập giá hoàn thành sứ mạng cứu độ nhân loại.

Tuần trước Thánh Thần Chúa dẫn Đức Kitô vào hoang địa. Ngài chịu cám dỗ sau bốn mươi ngày chay tịnh. Tuần này Đức Kitô chủ động, Ngài dẫn môn đệ lên núi thánh. Kinh nghiệm quí hiếm một đời không gặp, Đức Kitô dành riêng cho các môn đệ. Các ông được Đức Kitô ban ơn riêng. Các ông gặp tổ phụ Môisen, tiên tri Elijah và được nghe tiếng Chúa Cha phán bảo. Đức Kitô mặc khải vinh quang cho các môn đệ. Có khác biệt về vinh quang Thiên Chúa và các tổ phụ. Tổ phụ nhận vinh quang từ Chúa; trong khi chính Đức Kitô là nguồn vinh quang sáng hơn chớp trời sáng toả. Môisen sống một ngàn năm trăm năm trước Đức Kitô; tiên tri Elijah sống chín trăm năm trước Đức Kitô. Sự hiện diện của hai vị xác định sự thật niềm tin Kitô hữu. Đó là sau cuộc sống trần gian, còn cuộc sống mới sáng chói, chan hoà niềm vui, cho những ai tin theo Thiên Chúa.

Môisen và Elijah mỗi vị đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ dân Chúa. Môisen nhận Mười Điều Răn Chúa ban trên núi Sinai; Elijah đại diện cho tiên tri mọi thời đại. Tiên tri rao giảng tình yêu vô bờ Chúa dành cho toàn dân. Tiên tri kêu gọi con người thống hối, từ bỏ lối sống sa đoạ, trở về đường công chính. Tiên tri bị chế nhạo, phỉ báng. Tiên tri sống cho Chúa; sống là nhân chứng trung thành; chết làm sáng Danh Thiên Chúa. Đức Kitô một mình Ngài hoàn thành tất tốt đẹp hai vai trò. Thứ nhất là vai trò tiên tri; thứ hai là vai trò chính Ngài là Con Thiên Chúa. Tiên tri kêu gọi thống hối nhận ơn thứ tha, ơn cứu độ. Đức Kitô, Đấng có quyền ban ơn tha thứ, và ban ơn cứu độ. Tiên tri vác thập giá của chính mình bước theo Thiên Chúa. Đức Kitô vác thập giá thay nhân loại làm hoà cùng Chúa Cha. Tiên tri chết. Chúa ban sự sống trường sinh. Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ban ơn trường sinh cho ai tin, bước theo Ngài.

Thánh Luca ghi lại cuộc đàm đạo giữa Đức Kitô và các tổ phụ. Cuộc đàm đạo tóm gọn hai sứ vụ Đức Kitô trong một câu vắn gọn.

Các vị ‘nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Jerusalem’ Lc 9:31

Hai chữ ‘xuất hành’ và ‘Jerusalem’ đóng vai trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ câu nói. ‘Xuất hành’ chính là nhắc lại hành trình vượt qua Biển Đỏ Môisen dưới sức mạnh và ơn Chúa soi sáng dẫn dân Israelites thoát ách nô lệ bên Ai Cập để vào miền Đất Hứa. ‘Xuất hành’ của Đức Kitô chính là nói đến ơn Đức Kitô giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, khỏi chết muôn đời. Thập giá Đức Kitô giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài sống lại ban sự sống trường sinh cho những ai ‘Vâng nghe lời Ngài’, tin theo, bước theo. Jerusalem chính là nói đến cuộc thươngg khó, Đức Kitô bắt đầu tại Jerusalem và hoàn thành sứ mạng cứu độ cũng tại Jerusalem.

Tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây phán bảo môn đệ ‘Hãy vâng nghe lời Ngài’. Lc 9:35. Vâng nghe ba lần Đức Kitô tiên báo cuộc thương khó.

‘Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các Kì mục, Thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trôi dậy’ Lc 9: 22.

Ngay sau đó Đức Kitô phán bảo môn đệ: ‘Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo’ Lc 9: 23

Vâng nghe lời Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng Chúa tuyển chọn, chính là vâng nghe lời của chính Thiên Chúa. Vâng nghe bằng cách vác thập giá, bước theo.

Ngày lễ Chúa Biến Hình ban cho con tim các môn đệ niềm vui dạt dào. Các ông tràn ngập hạnh phúc, dù chỉ được nếm thử một chút vinh quang Thiên Chúa, các ông đã mong mỏi lưu lại đó luôn mãi. Các ông được ơn đặc biệt nếm thử ‘Miền Đất Hứa’ của sống trường sinh. ‘Miền Đất Hứa’ này Chúa ban cho những ai ‘Vâng nghe lời Ngài’.
Chúng ta dâng trọn con tim cho Đức Kitô để cuối đời vào ‘Miền Đất Hứa’.

--------------------------------

 

MC 2-ABC452: CHÚA GIÊSU VÀ TRÀO LƯU BIẾN HÌNH


Quỳnh Thoại

 “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh, chói lòa” (Lc 9,29)

Trào lưu biến hình

 

Ngày nay, chúng ta không lạ gì với những ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh, đặc biệt là trào lưu biến MC 2-ABC452


Ngày nay, chúng ta không lạ gì với những ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh, đặc biệt là trào lưu biến hình trên tiktok. Ứng dụng này đã thu hút lượng lớn những người theo dõi và sử dụng chúng như một phần sinh hoạt hằng ngày. Và cũng với ứng dụng này, người xem được mãn nhãn với màn biến hóa thần tốc từ dung mạo bình thường sang thần thái vô cùng sành điệu chỉ bằng một cái vỗ tay, hay một cái đạp chân trước ống kính camera.

Câu hỏi được đặt ra là: những ứng dụng này đã đáp ứng nhu cầu cốt lõi gì nơi những người đang theo dõi và sử dụng chúng? Phải chăng vì con người với tính hiếu kỳ luôn muốn trải nghiệm những gì mới mẽ, nhất là đối với những ai yêu thích công nghệ và giải trí. Hoặc có thể khi một bức ảnh được qua chỉnh sửa thì trông sẽ bắt mắt hơn, thú vị hơn, và sáng đẹp hơn ảnh gốc…Và càng đi vào tìm hiểu sâu xa hơn nữa những lý do bên trong của con người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng, sở dĩ những ứng dụng này luôn được đón nhận và thường xuyên sử dụng là do bởi nhu cầu bản thân muốn được người khác đón nhận, và để ý một cách tích cực nhất, đẹp đẽ nhất. Vì theo lẽ thường, ai cũng muốn xây dựng cho mình một hình ảnh thật đẹp, thật xinh tươi và dễ thương trong mắt người khác. Vậy nên những ứng dụng công nghệ kể trên mới được ứng dụng rộng rải bằng những cập nhật mới liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu này của con người.

Chúng ta có thể kể ra một vài ứng dụng biến hình với các phiên bản như: hất tóc biến hình, đá chân biến hình, chỉ tay biến hình…rồi giờ là biến hình thành siêu nhân giải cứu thế giới…Người chơi càng ngày càng bị cuốn vào ánh hào quang của những hiệu ứng màu sắc, âm thanh, và ánh sáng mà xa dần phiên bản đời thực của chính mình…

Chúa Giêsu biến hình

Hôm nay, Chúa Giêsu như hòa vào trào lưu biến hình của con người hôm nay. Nhưng khác với mọi cuộc biến hình trên các nền tảng mạng xã hội, Ngài biến hình trong sự đồng hành của Mô-sê và Elia, hai nhân vật trong Cựu Ước, như đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Ngài biến hình không bởi ánh sáng của những chiếc đèn màu rực rỡ nhưng trong đám mây. Ngài cũng không biến hình với tiếng nhạc xập xình nhưng bằng tiếng nói của Chúa Cha: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người!” (Lc 9,35).

Và điều đáng nói hơn ở đây, đó là: Các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan không chiêm ngắm việc biến hình này qua màn ảnh nhỏ của chiếc smartphone, với một sản phẩm đã hoàn tất. Các vị này chiêm ngưỡng Chúa Giê su biến hình một cách trực tiếp, và sống động, sống động đến nỗi dù đem đến cho các ông sự thích thú muốn được dựng lều để chiêm ngắm mãi vinh quang Chúa, nhưng cũng làm các ông “hoảng sợ, và nín thinh đến tận mấy ngày sau, không dám kể cho ai biết về những điều mình đã thấy…” (Lc 9,34). Vì sao vậy? vì dung mạo Chúa quá khác biệt với những gì các ông đã thấy hằng ngày, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. (Lc 9,29) Có thể các ông đã kinh nghiệm chút nào đó thiên tính của Thầy mình, điều vượt quá trí tưởng tượng và tiếp nhận của con người bình thường như các ông.

Cách thức Chúa biến hình

Thánh sử Luca chỉ cho chúng ta biết cách thức Chúa biến hình. Ngài không “hất tóc, cũng chẳng đá chân, hoặc chỉ tay”…như những gì chúng ta thường thấy trên các nền tảng mạng xã hội. Ngài chỉ làm một điều đơn giản: cầu nguyện! Và đang lúc cầu nguyện như vậy, dung mạo Ngài biến đổi. Điều này nói cho chúng ta điều gì? Sức mạnh của lời cầu nguyện, của những giờ phút kết hiệp với Chúa Cha luôn đem lại sinh khí và sinh lực cho Chúa Giêsu trong suốt hành trình làm người và thi hành sứ vụ trên trần gian của Ngài.

Chúng ta thường cảm thấy hả dạ trước một Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án những thói giả hình và lối sống bất công của những người quyền thế trong dân?  Chúng ta cũng thường ngưỡng mộ những lời Ngài phán ra có sức mạnh xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, và nuôi dưỡng những ai đói khát cơ cầu…Nhưng chúng ta có từng chiêm ngắm một Chúa Giêsu âm thầm lánh riêng ra một nơi để cầu nguyện không? Và chúng ta có thường nhận ra rằng trước và sau khi làm một việc gì đó quan trọng, Chúa Giêsu thường bắt đầu bằng việc cầu nguyện hay không?

Cầu nguyện

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa, vì Chúa không ngừng bày tỏ cho chúng con biết về Chúa để hiểu và yêu mến Ngài hơn. Ngài là một Thiên Chúa không ngại mặc lấy thân phận con người (nhân tính) để trở nên gần gủi với chúng con, nhưng cũng không quên nhắc nhớ chúng con về Thiên Tính của Ngài: là Con của Chúa Cha, và cũng là Thiên Chúa! Điều đó đem lại niềm vui và vinh dự cho chúng con khi được chia sẻ vinh quang với Ngài qua khát vọng biến đổi từng ngày của chúng con.

Xin dạy chúng con đang khi chạy theo những ảnh ảo, phù vân của những hào nhoáng bên ngoài, biết quay về với Chúa trong mùa chay thánh này, để tìm lại hình ảnh chân thực của chúng con: là con cái của Chúa!

Xin cho chúng con biết cài đặt, ứng dụng, và lưu giữ phiên bản Giêsu biến hình này trong cầu nguyện, ăn chay, và việc lành bác ái, để mỗi một hiện diện của chúng con đều đem đến giá trị tích tực cho mọi người xung quanh, nhất là xây dựng nơi chính chúng con dung mạo của một Giêsu biến hình để hiến mình cho nhân loại qua mầu nhiệm Thập Giá. Amen.

----------------------------------

 

MC 2-ABC453: LỘT XÁC

 

Có nhiều loài động vật phải lột xác để phát triển – rắn, cua, ve sầu, tắc kè, bướm,... Con người không MC 2-ABC453


Có nhiều loài động vật phải lột xác để phát triển – rắn, cua, ve sầu, tắc kè, bướm,... Con người không lột xác nhưng cũng phải thay đổi mạnh mẽ và dứt khoát như dạng “lột xác” vậy, đặc biệt vào mỗi Mùa Chay.

Về động vật, tạp chí The National Geographic cho biết:

RẮN – Tùy vào độ tuổi, mỗi năm rắn lột xác từ 4-8 lần, nó nằm yên một chỗ, từ từ uốn thân để loại bỏ lớp da cũ. CUA – Trước khi lột xác một ngày, cua bắt đầu hấp thụ nước biển để cơ thể bắt đầu phồng lên như trái bóng, giúp nó mở rộng lớp vỏ cũ và tạo một đường nứt nhỏ, nó thu mình lại nhiều lần và rút chân trước, tách hoàn toàn khỏi lớp vỏ cũ, quá trình lột xác thường kéo dài trong vòng 15 phút. VE SẦU – Ấu trùng ve sầu trải qua 3-6 năm sống trong lòng đất, đến lần lột xác cuối cùng, nhộng chui ra và bò lên cây, tự gồng mình làm nứt vỏ và từ từ chui ra theo phần lưng.

TẮC KÈ – Mỗi năm tắc kè lột da khá nhiều lần vì lớp da cũ không đủ đàn hồi với sự phát triển của cơ thể, sau khi lột da nó ăn lớp da cũ như phần ăn nhiều vitamin. BƯỚM – Sau 2-3 tuần ăn uống no nê, sâu bướm lớn hơn sẽ nhả tơ kết thành kén, nó chui vào đó, thoát xác và hóa thành nhộng. Khoảng 2 tuần sau, bướm cọ lưng vào kén tạo thành lỗ nhỏ để chui ra, sau khoảng 60 phút, đôi cánh có kích thước đầy đủ, khô ráo và sẵn sàng để bướm bay.

Như vậy, quá trình lột xác cần thiết để thay da đổi thịt, chắc chắn phải chịu đau đớn. Về thể lý, người ta muốn duy trì vẻ đẹp nên tìm cách để trì hoãn sự lão hóa, sẵn sàng chịu tốn nhiều tiền để “được” mổ xẻ, bơm, đắp, hút, cắt,... thế nhưng cũng chỉ được một thời gian, không thể vĩnh viễn. Vậy mà người ta vẫn chấp nhận để... “coi được” hơn. Còn về tinh thần, tại sao lại không cố gắng để “đẹp” hơn trong mắt Chúa?

Không gì bền vững, tất cả mọi thứ đều biến đổi theo dòng thời gian. Người trẻ hóa già, người đẹp hóa xấu, hoa tươi hóa héo, lá xanh hóa vàng, cổ thụ cũng khô,… Đá tưởng chừng trơ trơ cùng tuế nguyệt, nhưng rồi đá cũng mòn vì nức chảy qua. Ngay cả tình cảm của con người cũng có thể bị biến đổi: “Xa mặt, cách lòng.” Tình cảm cũng thất thường với thất tình, lục dục.

Khi nói biến đổi, có thể xuôi hay ngược, tiêu cực hay tích cực, nhưng người ta muốn nói đến chiều hướng tích cực, tốt hơn. Cuộc sống có nhiều thứ cần biến đổi, nên Chúa Giêsu đã nhắc nhở: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Mùa Chay là cơ hội tốt để biến đổi, là hành trình hoàn thiện, là “mùa lột xác” để từ tội nhân trở nên thánh nhân. Thiên Chúa khuyến cáo: “Các ngươi PHẢI nên thánh và PHẢI thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.” (Lv 11:44; Lv 19:2; Lv 20:7) Đó là cách “lột xác” mà Thiên Chúa mong muốn.

1. BIẾN ĐỔI THEO GIAO ƯỚC

Có một cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Thiên Chúa với ông Ápram và lời hứa của Ngài dành cho ông, đực trình bày qua trình thuật St 15:5-12, 17-18.

Thiên Chúa đưa ông Ápram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” Ông tin ngay, vì thế Đức Chúa kể ông là người công chính. Đức tin làm cho phàm nhân xấu xa trở nên công chính. Chính Chúa Giêsu xác định là một mối phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:19) Quả thật, đức tin vô cùng quan trọng!

Rồi Thiên Chúa nói với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Canđê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu.” Ông thưa: “Lạy Đức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” Ngài nói: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.”

Cuộc đối thoại rất đơn giản và tự nhiên, không có gì cầu kỳ. Điều đó cho thấy Thiên Chúa rất thân thiện với con người, và con người cũng rất chân thành. Đúng là “nhân chi sơ tính bổn thiện.” Rồi ông Ápram kiếm cho Ngài tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì để nguyên con. Mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Ápram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Ápram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông.

Khi mặt trời lặn, màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Ápram như sau: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai Cập đến Sông Cả, tức sông Êuphơrát.”

Mặc dù nhân loại bất xứng mà vẫn được Thiên Chúa yêu thương, được ký kết với Thiên Chúa. Và rồi Thiên Chúa đã thay tên đổi họ cho ông Ápram, nghĩa là ông trở nên một con người mới hoàn toàn: “Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Ápram nữa, nhưng là Ápraham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc.” (St 17:5) Thiên Chúa cũng muốn mỗi chúng ta phải thực sự biến đổi, từ con người CŨ trở thành con người MỚI, đặc biệt là trong mỗi Mùa Chay Thánh.

Chúng ta sẽ khả dĩ biến đổi nếu có Thiên Chúa, nhưng muốn có Ngài thì chúng ta phải đón nhận Ngài – tức là phải tin Ngài. Cứ tín thác vào Ngài thì Ngài sẽ hành động, Ngài sẽ soi đường dẫn lối, vì Ngài là Ánh Sáng Vĩnh Cửu, điều này được tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1)

Cn làm gia tăng đức tin. Do đó, cần phải cầu nguyện liên lỉ và xin ơn phù trợ: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con.” (Tv 27:7-9) Thật vậy, giả sử Ngài chỉ vắng bóng trong tích tắc, mọi loài sẽ chết ngay lập tức!

Lời hứa của Thiên Chúa là thật, chắc chắn sẽ nên trọn. Hãy tự động viên và lấy lại niềm tin: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 27:13-14) Tự giúp mình rồi trời sẽ giúp. Và hãy ghi nhớ điều quan trọng này: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con.” (Tv 27:10) Cuộc sống nhiêu khê, không ít lần chúng ta đã thất vọng về chính mình, thậm chí có lúc như muốn buông xuôi, cố gắng đừng chết trước khi tắt thở!

Con người dễ thoái hóa nên cần biến đổi, chưa biến đổi là đối lập với Thập Giá, vì Thập Giá là thuốc mạnh giúp “lột xác.” Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian.” (Pl 3:17-19) Chắc hẳn những điều này chẳng xa lạ gì, thế nhưng người ta nghe mãi hóa quen tai. Vì thế, người ta vẫn tranh giành nhau mọi thứ, tranh chấp nhau bằng mọi giá.

Thánh Phaolô phân tích: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3:20-21) Một cuộc biến đổi thú vị mà lại không dễ dàng chút nào, tức là khó lắm, nhưng KHÓ không có nghĩa là KHÔNG làm được. Khó mà làm được mới có giá trị.

“Từ bỏ chính mình và vác thập giá”là điều kiện theo Chúa. (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23) Hạnh phúc nào cũng không thể thiếu đau khổ, niềm vui nào cũng có nỗi buồn, thành công nào cũng do khổ luyện, nước mắt càng mặn thì nụ cười càng rạng rỡ. Tabor chói lọi thì cũng có Canvê u ám. Đó là sự cân bằng hợp lý của đời thường.

Loại ổ khóa nào cũng có chìa khóa, khó khăn nào cũng có cách xử lý, quá trình biến đổi cũng có bí quyết, như Thánh Phaolô cho chúng ta biết: “Hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng.” (Pl 4:1) Đơn giản nhưng không đơn điệu, mà lại rất hiệu quả.

2. BIẾN ĐỔI CỤ THỂ

Ước muốn dẫn tới hành động, lý thuyết dẫn tới kết luận, lời hứa dẫn tới việc làm,… Trình thuật Lc 9:28-36 (≈ Mt 17:1-8; Mc 9:2-8) nói về cuộc hiển dung của Đức Giêsu. Các nhân chứng là ba môn đệ thân tín: Phêrô, Gioan và Giacôbê. Chúa Giêsu muốn dẫn chứng cụ thể để củng cố niềm tin cho họ, nhờ đó họ đủ can đảm mà hành động quyết liệt, dứt khoát.

Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói lòa. Bỗng dưng có hai nhân vật đàm đạo với Ngài, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông thấy vinh quang của Đức Giêsu và hai nhân vật kia. Khi đó, ông Phêrô thưa với Ngài: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.”

Quá hạnh phúc nên ông không biết mình đang nói gì. Ông say sưa giữa không gian kỳ diệu, không thể cảm nhận hết. Bản tính ông chất phác, thật thà, nghĩ sao nói vậy, ông quên mình và chỉ nghĩ đến người khác. Tình yêu thương đã đạt tới đỉnh cao. Hạnh phúc tuyệt vời!

Vinh quang đó chính là vinh quang của Thiên Quốc, Chúa Giêsu cho ba ông được nếm thử để động viên các ông làm nhân chứng về Ngài, và có trách nhiệm hướng dẫn người khác biến đổi trên hành trình tâm linh. Trong khi ông Phêrô còn đang nói, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Thật tiếc! Khi thấy mình ở giữa đám mây, các ông hoảng sợ. Nhưng không sao, sự lạ đó là thật, không mơ hồ hoặc ảo giác. Và rồi còn lạ hơn nữa khi có tiếng nói vang từ đám mây: “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”

Lời đó nghe được rất rõ ràng. Nhưng tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Các môn đệ không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy, theo lời dặn của Thầy Giêsu. Từ đó, các ông thực sự được biến đổi, được “lột xác” hoàn toàn. Một Phêrô yếu đuối trở thành một Phêrô can đảm phi thường.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết tận dụng thời gian thuận tiện này để có thể thay da đổi thịt từ trong ra ngoài, tích cực hoán cải để xứng đáng là chứng nhân của Ngài giữa cuộc sống nhiêu khê này. Xin giúp chúng con dám trút bỏ con người cũ để thành con người mới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Trầm Thiên Thu

---------------------------

 

MC 2-ABC454: BIẾN DẠNG ĐAU KHỔ - BIẾN HÌNH VINH QUANG

 

Trong cuốn “Những cánh hoa đơn” kể về cuộc đời thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô với bạn hữu, có MC 2-ABC454


Trong cuốn “Những cánh hoa đơn” kể về cuộc đời thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô với bạn hữu, có câu chuyện về một tu sĩ tên Bê-na-đô Quin-ta-van-lê (Bernard of Quintavalle), môn đệ đầu tiên của thánh nhân. Bê-na-đô là một tâm hồn nghèo khó, yêu Chúa rất mực và hết sức sống trọn vẹn Tin Mừng. Chính vì thế, thầy thường được ơn ngất trí khi cầu nguyện. Một lần đang lúc dự lễ, tâm hồn thầy bay lên, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, không còn biết gì nữa. Vị linh mục tế lễ nâng Mình Thánh lên, thầy cũng chẳng thấy, chẳng quỳ, chẳng cất lúp đội đầu như các anh em khác. Mắt thầy vẫn mở và chăm chú nhìn, nhưng toàn thân như xác không hồn, chẳng nhúc nhích động đậy, gương mặt thì sáng ngời lên. Thầy xuất thần như thế từ sáng đến khoảng ba giờ chiều. Sau khi tỉnh lại, thầy chạy khắp cùng tu viện, nói thật to: “Anh em ơi! Nếu người giàu có sang trọng nhất ở miền này được Chúa hứa cho cái kho tàng quý giá như tôi vừa thấy, thì bảo người ấy làm gì người ấy cũng làm; bảo mang một bị bùn đất dơ dáy mà đi, người ấy cũng vui lòng mang ngay”. Vì được Chúa cho thấy kho tàng quý báu trên trời dành cho những ai mến Chúa, nên từ đó về sau, suốt 15 năm (thầy mất năm 1241), đi đâu Bê-na-đô Quin-ta-van-lê cũng hướng mắt đưa trí về trời. Và tâm hồn ngày càng thêm thoát tục.

1. Luật sống của con người

Câu chuyện thầy Bê-na-đô giúp ta hiểu thêm kinh nghiệm kỳ diệu của Đức Giê-su cũng như ba môn đệ thân tín trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Nhưng phải nói ngay, đoạn này đã bị Sách Bài đọc Chúa nhật cắt bớt cụm từ đầu: “Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy”. Quả là một thiệt hại lớn vì các Tin mừng Nhất lãm đều nhất trí liên kết chặt chẽ cuộc Biến hình với buổi nói chuyện thời danh về con đường khổ nạn (x. Mt 17,1; Mc 9,2; Lc 9,28). Đây là một trong những trường hợp họa hiếm trong đó hai giai thoại đời Đấng Cứu thế được liên kết với nhau về mặt thời gian. Tám ngày trước, đã có một cuộc trò chuyện đáng nhớ, diễn tiến trong hai thì: trước hết Đức Giê-su hỏi họ: “Anh em bảo Thầy là ai?” và chính Phê-rô tuyên xưng Người như “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”… Đức Giê-su lập tức loan báo cái chết cận kề của mình. Cuộc Biến hình như thế có liên quan tới cuộc Khổ nạn và Phục sinh. Trong vài tuần nữa, Người cũng sẽ lại đem theo ba ông bạn ấy vào vườn Ghet-sê-ma-ni (x. Mt 26,37; Mc 14,33). Khuôn mặt Đức Giê-su mà họ sắp thấy sáng ngời vinh quang, lúc ấy sẽ đầm đìa mồ hôi máu (Lc 22,44) lãnh đủ bạt tai (Lc 22,64) và phủ đầy đờm rãi (Mt 25,67).

Trong cuộc đàm thoại “tám ngày trước”, Đức Giê-su cũng đã loan báo cho họ hay chính họ cũng sẽ “vác thập giá theo Người” (Lc 9,23). Rồi còn thêm rằng “một số sẽ không phải chết trước khi thấy Vương quốc Thiên Chúa” (Lc 9,27). “Vương quốc” mầu nhiệm ấy, tức sự biểu lộ vinh quang Thiên Chúa trong bản tính con người, chẳng được bày tỏ trong cuộc Biến hình đó sao? Lạy Chúa, làm sao con dám đi tới niềm vui Phục sinh mà không đích thân đi qua con đường khổ nạn? Mùa Chay này đã chẳng cho con cơ hội hiệp thông vào các đau khổ của Ngài sao?

Như trong nhiều trình thuật khác, Lu-ca mở đầu câu chuyện với quang cảnh Đức Giê-su cầu nguyện, trước sự hiện diện của ba môn đồ thân tín. Đây là việc Người vẫn làm vào những giây phút quan trọng (x. Lc 3,21; 5,16; 6,12; 9,18.28; 10,21; 11,1; 22,32.41.42; 23,34 46). Và “đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa”. Lu-ca rõ ràng tránh từ “biến đổi hình dạng” mà Mt (17,2) và Mc (9,2) sử dụng. Độc giả của Lu-ca đều là những cựu lương dân, có văn hóa Hy-lạp, từng biết đến những “biến đổi hình dạng” (métamorphoses) của các thần minh ngoại giáo (như thần Zeus biến thành con thiên nga hay một trận mưa vàng). Sử dụng một ngôn ngữ bên ngoài xem ra khiêm tốn hơn, ông bảo rằng đang lúc cầu nguyện, dung mạo của Đức Giê-su bỗng “đổi khác”. Trong thực tế, khi nhìn một số người cầu nguyện thật sốt sắng như thầy Bê-na-đô Quin-ta-van-lê, như cha Piô Năm Dấu thánh, có khi ta thấy khuôn mặt của họ như tỏa ra một thứ ánh sáng lạ lùng, ánh sáng nội tâm: cũng là con người ấy, nhưng có một cái gì đó bất thường xuất hiện.

Trong nền văn hóa của Kinh Thánh, hình ảnh biểu tượng “y phục” đến bổ túc cho nhận xét đầu tiên vừa nêu. Y phục “trắng tinh chói lòa” là “dấu chi” của các hữu thể thiên giới (x. Đn 7,9; 10,5-6); các Ki-tô hữu đầu tiên cũng sẽ luôn mô tả Đức Giê-su phục sinh như vậy (x. Kh 1,13; Lc 17,23; 24,4). Chiếc áo trắng ngày chúng ta chịu phép rửa tội rồi thêm sức, chiếc áo trắng của cô dâu ngày chịu phép hôn phối, chiếc áo trắng của linh mục nơi bàn thánh… đều là những dấu chỉ của Phục sinh, dấu chỉ của các môn đệ được liên kết với vinh quang của Thầy (x. Kh 3,4.5.18; 4,4; 7,9.13).

Khi gợi lại cho ta hình ảnh Đức Giê-su “có dung mạo đổi khác” nhờ cầu nguyện, Lu-ca muốn khuyến khích ta rằng trong cuộc sống chúng ta, vốn ghi dấu thử thách và thất bại, khổ đau và tội lỗi, chỉ có lời cầu nguyện, vào những giờ phút nào đó, là có thể biến đổi chúng ta. Vì chúng ta cũng “được biến đổi mà phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương” (2Cr 3,18).

2. Thánh ý của Thiên Chúa

Và rồi “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Mt và Mc cũng ghi nhận sự hiện diện này, nhưng Lu-ca là người duy nhất cho ta biết đề tài cuộc nói chuyện giữa Đức Giê-su và hai đại chứng nhân Cựu Ước: họ bàn luận về cuộc ra đi, cuộc xuất hành của Người. Chúng ta khó mà nhận thức được Đức Giê-su đã bị viễn tượng cái chết ám ảnh và theo đuổi đến độ nào, cái chết mà Gio-an gọi là cuộc “vượt qua” của Người (x. Ga 13,1) còn Lu-ca thì gọi là cuộc “siêu thăng” (Lc 9,51; 24,51). Đức Giê-su là con người tự hy tế: Người biết tại sao mình đã đến và sẽ đi về đâu: đi về cùng Cha, “vào trong vinh hiển ngang qua cái chết”, theo như ý định của Thiên Chúa, lôi cả nhân loại theo mình. Mầu nhiệm vượt qua của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem tóm kết tất cả lịch sử nhân loại, tóm kết số phận của riêng tôi: muốn hay không, ý thức hay không, tôi cũng phải theo con đường dẫn tôi về cùng Thiên Chúa ngang qua cái chết, cũng ở trong tình trạng “xuất hành” rời mảnh đất nô lệ về miền đất hứa ban. Mở đầu mùa Chay ngày Lễ tro, Giáo hội đã nhắc ta chớ quên số phận của mình: “Người ơi hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về với bụi tro!” Nhưng cuộc Hiển dung biến đổi định mệnh tất yếu này thành viễn tượng vinh quang: hóa thành tro bụi, chúng ta đi về cùng Thiên Chúa.

Tuy nhiên, lúc này đây, đứng trước linh kiến lạ lùng mà họ đang mục kích, các Tông đồ một lần nữa không hiểu. Họ ở trong một thứ ánh sáng lờ mờ, nửa mê nửa tỉnh, ăn nói lung tung. Chính khi tất cả chấm dứt, lúc Mô-sê và Ê-li-a ra đi, họ mới nhập vào cảnh tượng, ấp úng phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!” Rồi tự nguyện dựng ba cái lều cho Đức Giê-su, cho Mô-sê và cho Ê-li-a. Hai nhân vật, như đã nói, là hai đại chứng nhân của Giao ước cũ. Cả hai tiêu biểu đầy đủ và trọn vẹn cho Lề luật và Ngôn sứ. Cả hai là những con người của núi Xi-nai, từng được thị kiến trên đó Đấng Khôn Tả (x. Xh 33,18-22; 1V 19,9-14). Cả hai đều đã đau khổ vì sứ mệnh trước khi được trở về với Thiên Chúa cách nhiệm mầu vinh quang. Sự hiện diện của họ bên cạnh Đức Giê-su xác nhận Người là Đấng làm cho các lời tiên báo được ứng nghiệm, các tiền ảnh (mà Mô-sê và Ê-li-a là tiền ảnh tiêu biểu) được hoàn thành. Chính vì thế, lời Chúa Cha nói về Đức Giê-su sẽ ám chỉ Tôi Trung đau khổ trong I-sai-a.

“Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn”. Nơi đây, Mát-thêu và Mác-cô sử dụng từ “Con yêu dấu”. Những tay duy lý sính lịch sử sẽ hỏi: trong thực tế, Chúa Cha đã nói thế nào? Các Tin Mừng chẳng chút ưu tư trả lời kiểu tò mò như vậy. Lu-ca thích từ “được chọn” là có chủ ý. Nó quy chiếu về nhiều đoạn của I-sai-a, trong đó nó chỉ nhân vật bí ẩn “Tôi Trung Đức Chúa” (x. Is 42,1; 49,7). Vào lúc mô tả cuộc đóng đinh, Lu-ca sẽ lại sử dụng từ này (x. Lc 23,35) để nói lại rằng Đức Giê-su chính là Tôi Trung được Thiên Chúa tuyển chọn để thực hiện ý định cứu độ của Người, kinh qua đau khổ ô nhục.

Chúng ta cũng đã được tuyển chọn qua phép rửa để phục vụ Thiên Chúa và mọi người. Nhưng con đường phục vụ không thể không qua đau khổ, vì không đau khổ, không bỏ mình thì không thể yêu thương. Và càng không thể vào Thế giới của Yêu thương, Vương quốc của Thiên Chúa, nơi “người công chính sẽ chói lọi như mặt trời” (Mt 13,43). Muốn biến hình vinh quang,  phải chấp nhận biến dạng đau khổ là vậy!

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

-------------------------------

 

MC 2-ABC455: VINH QUANG CHÚA TRÊN NÚI TABOR

 

Bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay nói về chúa Biến Hình trên núi Tabor. Đây là một trong những viễn MC 2-ABC455


Bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay nói về chúa Biến Hình trên núi Tabor. Đây là một trong những viễn kiến tuyệt vời và kỳ diệu nhất có liên quan đến chúng ta được diễn tả trong Ba Tin Mừng Nhất Lãm: Luca, Mathieu và Marco (Mc 9:2-8; Mt 17:1-8; Lc 9:28-36).

ĐỨC GIÊSU LÀ AI?

Theo Luca, câu chuyện tập trung ở chương 9 gồm những bài nói về căn tính của Chúa Giesu, đặc biệt là câu hỏi của Herode: “…Còn ông này là ai mà ta nghe đồn về những chuyện như vậy?” (Lc 9:9). Sau đó, là những câu trả lời cho Herode. Chúa Giesu là Thiên Chúa đầy quyền năng, có thể ban cho mọi người những điều cần thiết (Lc 9:10-17). Giesu là đấng Thiên Sai (Lc 9:18-21). Giesu là Con Người đau khổ (Lc 22:43-45). Giesu là Thầy mà mọi người phải bước theo dù có phải chết (Lc 9:23-27). Sau cùng Giesu là Con Thiên Chúa, người đã được Thiên Chúa tuyển chọn (Lc 9:28-36).

Cả Luca lẫn Mathieu và Marco đều kể chuyện Biến Hình liền sau lời tiên đoán về cuộc khổ nạn của Chúa. Việc này đã nâng cuộc Biến Hình thành quan trọng và ngang hàng với việc Chúa chịu Phép Rửa (Lc 3:21-22). Lúc chịu Phép Rửa và khi Biến Hình, đức Giesu đã được xác nhận là Con Thiên Chúa. Sau khi thông báo khổ nạn, cái chết và phục sinh, việc Biến Hình cho thấy cuộc khổ nạn của Chúa sẽ kết thúc trong vinh quang (Lc 9:32).

Trong sáu ngày, trên núi cao, diện mạo chúa tỏa sáng và mây trời bao phủ là những yếu tố đã thấy nói trong chuyện ông Maisen ở trên núi Sinai (Xh 19:16; 24:15-18; 34:19-35). “Núi” thường là nơi để cầu nguyện trong Tin Mừng Luca (Lc 6:12; 22:39-41). Elijah và Maisen là tiêu biểu cho luật cựu ước và các tiên tri. Theo tục truyền Do Thái thì các ông không chết mà đi thẳng về trời. “Nhà tạm” hay “lều” gợi lại hình ảnh Lễ Lều. Luca xác định cuộc đàm thoại trên đỉnh núi nói về cuộc “Xuất Hành” của Chúa Giesu là chịu khổ hình, chịu chết, sống lại và lên trời sẽ xẩy ra ở Jerusalem, thị trấn của số mệnh (Lc 9:51). Nói đến Xuất Hành, chúng ta nhớ lại biến cố dân Do Thái thoát khỏi Ai Cập đi về đất hứa. Tiếng nói từ trời, giống như tiếng nói lúc chúa chịu Phép Rửa ở sông Jordan xác định đức Giesu là đấng mà mọi người phải nghe lời (Lc 9:35).

HẬU TRƯỜNG CỦA CÂU CHUYỆN BIẾN HÌNH

Câu chuyện biến hình được Luca thuật lại làm ta nhớ tới sách Xuất Hành nói về Thiên Chúa tỏ mình ở trên núi (Xh 24:12-18). Trong chuyện này, “vinh quang Chúa bao phủ cả ngọn núi, và vào ngày thứ bảy tiếng Thiên Chúa gọi ông Maisen phát ra từ đám mây. Đối với dân Do Thái, vinh quang Thiên Chúa giống như lửa cháy trên đỉnh núi. Ông Maisen lúc đó đi vào đám mây cũng giống như ông đi lên đỉnh núi vậy. Và ông ở đó 40 ngày đêm.”

Câu chuyện Thiên Chúa Hiển Linh trong sách Xuất Hành có nhiều chi tiết giống truyện Biến Hình trong Tân Ước như núi, mây, sáu ngày (Mc 9:2), tám ngày (Lc 9: 28), Maisen, tiếng nói, vinh quang sáng chói. Thêm vào đó, mặt Maisen sáng chói khi đứng trước Thiên Chúa (Xh 34:29-35) chắc chắn có ảnh hưởng đến bài Tin Mừng hôm nay. Hiển Linh và Biến Hình đồng dạng với nhau.

Tiếp theo những ngày đêm bị cám dỗ trong hoang địa, và trước những giây phút đen tối trên đồi Golgotha, những tia sáng vinh quang trong lúc biến hình được bùng sáng trong bài Tin Mừng hôm nay. Rõ ràng là chúa Giesu và ba môn đệ lúc đó đã cảm nghiệm thấy có Thiên Chúa hiện diện. Số phận dân Kito hữu được nói ra giữa hai ngọn núi, Calvary lúc Chúa chịu chết và Tabor lúc Chúa biến hình. Đọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ thấy một xác quyết và hy vọng cho cuộc Hành Trình Mùa Chay Thánh này. Mỗi người chúng ta cần có một lúc vinh quang để giúp ta bước qua những đêm tối kinh hoàng trong đời mình.

ĐỊA DANH BIẾN HÌNH TRONG TIN MỪNG LUCA

Ở gần núi Tabor có hai thị trấn Dabborriyeh và Nain. Đức Giesu làm cho con trai một góa phụ đã chết được sống lại ở Nain. Chúa Giesu đã phải chiến đấu với sự chết. Chỉ cần chạm vào xác đứa bé, Chúa đã làm cho nó sống lại. Và tin đồn Chúa làm phép lạ đã nhanh chóng lan truyền toàn vùng.

Liền sau khi biến hình, Luca cho biết Chúa Giesu và các môn đệ xuống núi đến một tỉnh nhỏ ở dưới. Dù không nêu tên, nhưng tỉnh đó là Dabborriyeh, một tên Ả Rập theo truyện thần tiên và quan tòa Deborah trong sách Thẩm Phán. Khi chúa Giesu đến gần thị trấn thì một người từ đám đông chạy ra và xin Người chữa lành cho đứa con độc nhất của ông đang bị kinh phong. Một lần nữa, Chúa lại phải vật lộn với nỗi đau khổ và buốn phiền của con người. Chúa quở mắng ma quỉ, chữa lành đứa nhỏ rồi trao nó cho người cha (Lc 9:42).

Biến cố biến hình xẩy ra giữa Nain và Dabborriyeh coi như thời gian chuyển tiếp để Chúa Giesu bước vào hành trình đi đến Jerusalem. Làm sống lại đứa con bà góa phụ và chữa lành đứa nhỏ bị kinh phong là nền tảng cho những cảm nghiệm trên núi Tabor.

Các môn đệ thì uớc mong được ở lại trên núi. Họ muốn yên thân, không thích khó khăn, nguy hiểm, tranh luận và phấn đấu trong cuộc sống. Đúng lúc họ thích ở ẩn muốn xa lánh đám đông ồn ào giận dữ, cách biệt mọi nguy hiểm, không muốn đụng chạm với người chết, được miễn trừ mọi nghi thức tội lỗi ô uế, không phải chiến đấu với ma quỉ thì chúa Giesu lại dẫn họ xuống núi để đối đầu với ma quỉ và mang ơn chữa lành của Thiên Chúa cho những người đau khổ.

NHỮNG BÀI HỌC TRÊN ĐỈNH NÚI

Các môn đệ học được gì ở trên đỉnh núi? Họ biết được căn tính của chúa Giesu và hiểu rõ hơn sứ mệnh thiên sai của Chúa. Cảm nghiệm ở núi Tabor quả là cần thiết cho cuộc hành trình đi lên Jerusalem, vì nó làm cho chúa Giesu và các môn đệ trở nên mạnh mẽ, đồng thời giúp chúng ta thấy được một viễn ảnh cần thiết và đúng, có được sức mạnh phải có trong cuộc sống của người Kito hữu và làm môn đệ Chúa.

Những thắc mắc về hiện tượng Chúa biến hình. Tại sao Chúa lại che dấu vinh quang của chúa trên núi Tabor ngoại trừ Phero, Gioan và Giacobe? Tại sao Chúa không tỏ lộ vinh quang đó trên thập giá? Muốn biết ánh sáng chói lọi chan hòa thế nào, chúng ta cần phải cảm nghiệm bóng tối âm u dày đặc ra làm sao. Hiện tượng biến hình cho chúng ta thấy cuộc sống sáng chói của Thiên Chúa bao gồm cả sự chết, không có cách nào khác. Nó nhắc nhở chúng ta là bóng tối kinh hoàng có thể chiếu sáng và lan tỏa. Ánh sáng cũng có nghĩa là nó có thể xua đuổi đánh tan bóng tối của tội lỗi.

KẾT: NÚI TABOR CỦA CHÚNG TA

Nhìn lại quá khứ và xác định những lúc gọi là “Tabor” trong cuộc hành trình của chúng ta. Ai đã hiện diện với chúng ta lúc đó? Tại sao những lúc đó lại quan trọng? Cái gì khiến chúng ta sợ khi ở trên núi? Và tại sao ở đó lại tốt? Cái gì làm cho chúng ta sợ phải xuống núi? Ai và những gì đang chờ đợi chúng ta ở dưới chân núi? Đoạn đường nào trong cuộc hành trình của chúng ta giúp đưa chúng ta đến chỗ có được một viễn kiến mới? Viễn kiến mới là gì? Làm sao chúng ta có thể trở thành con người tràn đầy hy vọng giữa một chuyển tiếp để vượt qua đi vào cuộc sống mới.

Hãy coi chúa nhật này như một cuộc biến hình có Chúa Kito hiện diện. Người lo lắng mọi sự cho chúng ta, biến đổi mọi sự trong chúng ta, xâm nhập mọi nơi dù có trai đá đi nữa, cả những nơi bất ổn mà chúng ta không biết phải làm sao. Thiên Chúa sẽ xâm nhập những chỗ đó bằng ánh sáng chói lòa của Chúa Thánh Thần và ban cho diện mạo của chính Thiên Chúa.

Chúa nhật này, chúng ta nên để ý đến những người đã lắng nghe Lời Chúa Kito và được Lời Chúa biến đổi. Khi chúng ta xuống núi, hãy cầu nguyện bằng những lời nguyện của thánh Teresa thành Calcuta được linh hứng bởi Chân Phước Hông Y John Henry Newman.

Lạy Chúa Giesu!
Xin giúp con lan tỏa hương thơm Chúa
tới những nơi con đi tới.
Xin tràn ngập hồn con,
Với Thần Linh Chúa và cuộc sống của Chúa.
Xin xâm nhập và làm chủ hoàn toàn đời con,
Để đời con chỉ có thể tỏa ánh sáng của Chúa.

Xin chiếu sáng xuyên suốt đời con và ở trong con,
Để mọi linh hồn con tiếp xúc,
Có thể cảm nghiệm Chúa hiện diện trong con.

Xin để họ nhìn lên Chúa
Đừng nhìn con, chỉ nhìn Chúa mà thôi!

Xin hãy ở với con,
Để con chiếu soi như Chúa chiếu sáng,
Ánh sáng của Chúa cho tha nhân.

Lạy Chúa! Tất cả ánh sáng đều do Chúa, không phải của con:
Chúa chiếu rọi mọi người qua con.
Xin hãy để con cầu xin Chúa theo cách của Chúa:
Chiếu sáng trên những ai ở chung quanh con.

Xin cho con nói, không dám dạy bảo Chúa…
Không phải chỉ nói nhưng bằng gương sáng,
Bằng sức mạnh và ảnh hưởng những điều con làm,
Chứng tỏ tình yêu của con có Chúa bên trong rõ ràng.  Amen

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

------------------------------

 

MC 2-ABC456: KHUÔN MẶT CỦA CHÚA, MÀ TÔI TÌM KIẾM

 

Khuôn mặt của Chúa Giêsu, gần hai ngàn năm qua không ai có thể nhìn thấy lại, không ai có MC 2-ABC456


Khuôn mặt của Chúa Giêsu, gần hai ngàn năm qua không ai có thể nhìn thấy lại, không ai có thể hình dung nét mặt đó hoặc vẽ ra được nét mặt đó một cách chắc chắn, bởi vì khuôn mặt này của Chúa Giêsu, con người thật và Thiên Chúa thật, chỉ có thể phác họa qua lời nói.

Thế nhưng, lời của Thiên Chúa lại không bao giờ xác định cho chúng ta một hình ảnh nào về Khuôn mặt của Chúa Giêsu: lời của Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta ba hình ảnh, đôi khi hợp nhất và đôi khi nổi bật, ba hình ảnh phản chiếu qua lại với nhau, như chúng ta nói, “Ngài đang sống, Đấng mà bạn đang tìm kiếm; Ngài là một mầu nhiệm, Đấng mà bạn yêu mến, và bạn sẽ chỉ tìm thấy Ngài bằng cách bước theo Ngài”.

Hình ảnh đầu tiên của khuôn mặt Chúa Giêsu.

Đã làm say mê và vẫn còn mê hoặc tất cả các bạn hữu của Chúa, là Khuôn mặt đau khổ của Chúa Giêsu. Trước khuôn mặt này của Đấng bị kết án, của Đấng bị đóng đinh, của Đấng hấp hối, người ta chỉ có thể dừng lại nếu yêu thương, bởi vì đau khổ không bao giờ đẹp đẽ. Chúa Giêsu đang hấp hối: “Ngài chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích” (Isaia 53: 3), và Isaia mô tả Đấng Mêsia đau khổ như một con người của đau khổ, bị người ta khinh thường, bỏ rơi, trước khi người ta ngoảnh mặt đi và nghĩ rằng: “Tôi không muốn thấy điều đó; Tôi không muốn nhìn thấy một con người phải chịu đựng khổ đau nhiều như vậy”.

Trong cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, chỉ có tình yêu là rực sáng. Mọi thứ khác là bạo lực, hận thù và phản bội. Và cuối cùng nếu Khuôn mặt sầu thảm của Chúa Giêsu đẹp đẽ, cao quý, hấp dẫn đến thế, đối với chúng ta là những người tin Chúa, nhất là trong những lúc đau khổ và kinh hãi, thì đó là bởi vì Khuôn mặt đó nói với chúng ta, kêu lên với chúng ta hoặc thì thầm với chúng ta một tình yêu đã đi đến cùng cực, một tình yêu đã trải qua cái chết.

Hình ảnh thứ hai của khuôn mặt Chúa Giêsu.

Khuôn mặt Thần linh, là hình ảnh mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn thấy trong giây lát vào ngày Biến hình. Chúa Giêsu đã cùng họ leo núi để cầu nguyện, gặp gỡ Chúa Cha một cách mạnh mẽ trong thinh lặng và trong cuộc đối thoại đầy tin tưởng và hiếu thảo. “Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà”.

Các môn đồ đã nhìn thấy Khuôn mặt này của Chúa Giêsu được biến đổi trong lời cầu nguyện, được biến đổi bằng lời cầu nguyện. Không có gì chuẩn bị họ cho sự mặc khải này, cho sự tiết lộ bất ngờ này về mầu nhiệm Chúa Giêsu Con Thiên Chúa; họ thậm chí còn “ngủ mê mệt”; nhưng “nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu”.

Cũng không gì có thể mở lối cho chúng ta đi vào những khoảnh khắc ân sủng thuần khiết khi chúng ta dự cảm được vinh quang của Thiên Chúa lóe lên trên khuôn mặt của Chúa Giêsu trong chốc lát. Thậm chí còn hơn cả Phêrô và những người khác, chúng ta lên núi trong cơn mê ngủ. Cơn mê ngủ này, chúng ta biết rõ, ngay cả sau mười, hai mươi hay bốn mươi năm hành trình truyền giáo: - ngủ quên trong đức tin của chúng ta, quá quen thuộc với những kỳ công của Thiên Chúa, - ngủ quên trong hy vọng của chúng ta, mệt mỏi quá nhanh, chán chường quá nhanh, cam chịu quá nhanh, - ngủ quên trong tình yêu mến huynh đệ của chúng ta, khi chúng ta dừng lại giữa chừng trong một cuộc đối thoại thực sự, khi chúng ta đặt ra các điều kiện cho sự trao ban chính mình, khi chúng ta trả lại cho mình cái quyền có quyền lực.

Cơn mê ngủ đang rình rập chúng ta: chính vinh quang của Thiên Chúa giữ cho chúng ta tỉnh thức, “tỉnh thức trong đức tin của chúng ta”. Thuốc giải độc duy nhất cho sức nặng của tình yêu của chúng ta là sống toàn bộ cuộc sống của chúng ta như một khoảnh khắc ngạc nhiên, để cho phép chúng ta ngạc nhiên suốt đời trước vinh quang của Chúa Giêsu, và bước vào ánh sáng biến đổi của Ngài một cách khiêm nhường, nghèo khó.

Hình ảnh thứ ba của khuôn mặt Chúa Giêsu.

Và điều này dẫn chúng ta đến việc chiêm ngưỡng một khía cạnh thứ ba của Khuôn mặt Chí Thánh của Chúa Giêsu: Khuôn mặt vinh hiển của Chúa Phục sinh. Bởi vì sự Biến hình trên núi chỉ là phù du. Việc đó loan báo sự vinh hiển cuối cùng của Chúa, và chính sự vinh quang này, vinh quang của Giao ước mới và vĩnh cửu, mà ngay từ hừng đông chúng ta đã rình chờ trên Khuôn mặt của Chúa Giêsu: “Đã được chỗi dậy cùng với Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Côlôssê 3:1) .

Chúng ta đang ở nơi nào, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở nơi đó. Và bởi vì tình yêu của chúng ta nối liền với Ngài ở nơi Ngài đang ở, nên cuộc sống của chúng ta “sự sống mới của anh em hiện đang ẩn dấu với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa” (Côlôssê 3: 3). Cuộc sống của chúng ta bị che khuất trước mắt chúng ta, và đó là lý do tại sao đức tin vẫn là chuyện khó đối với chúng ta; nhưng sự sống của chúng ta ở trong Thiên Chúa, với Chúa Kitô; và ở đó, trong Thiên Chúa, với Chúa Kitô, trước Mặt Chúa Kitô, công việc của Chúa Cha tiếp tục trong chúng ta, vừa là sự soi sáng vừa là sự biến đổi.

Là sự soi sáng, vì Thiên Chúa, Đấng tự mình là ánh sáng, tự mình làm nên ánh sáng cho chúng ta. Và tại sao lại có sự soi sáng lòng trí chúng ta? - “Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Chúa Kitô” (2 Côrintô 4:6). Như vậy, chính ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi Khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu vì chúng ta và trong chúng ta.

Và nhờ đó, khi soi sáng Khuôn mặt Đấng Phục sinh bằng chính vinh quang của Ngài, Thiên Chúa là Cha biến đổi chúng ta, những người nhìn ngắm và hát trong Thánh Thần vinh quang này: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.” (2 Côrintô 3,18).

Khuôn mặt của Chúa Kitô “đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Isaia 53: 4), khuôn mặt của Đấng được biến hình trên núi, khuôn mặt của Chúa được tôn vinh trên trời: ba biểu tượng của Con Một mà Chúa Cha đã ban cho thế giới, ba khoảnh khắc Phục sinh đã cứu chúng ta. Nhờ Khuôn mặt này tất cả mọi thứ được nói ra, tất cả tình yêu được thể hiện. Vì Khuôn mặt này, chúng ta đã chấp nhận đánh mất tất cả:

“Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.

Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt” (Tv 27,8-9).

Phêrô Phạm Văn Trung,
phỏng theo Jean-Christian Lévêque, ocd, carmel.asso.fr.

-----------------------------

 

MC 2-ABC457: CHÚA KITÔ LÀ CHỦ LỊCH SỬ

 

Chúng ta chú ý đến hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước cùng đàm đạo với Chúa Kitô, đó là MC 2-ABC457


Chúng ta chú ý đến hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước cùng đàm đạo với Chúa Kitô, đó là:

1. Ông Môsê: Người đã được Thiên Chúa chọn để đem dân Itraen ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; Người đã nhận từ tay Thiên Chúa Bia Đá ghi khắc Mười Giới Răn. Mười giới răn ấy vừa là dấu chỉ cùa Giao Ước vừa tượng trưng cho Lề Luật mà Thiên Chúa đòi dân của Người phải tuân giữ. Đồng thời ông Môsê còn là người hướng dẫn dân tiến về Miền Đất hứa mà Thiên Chúa đã hứa với Áp-ra-ham từ xưa….

2. Ông Êlia: Ngôn sứ vĩ đại được giao sứ mạng củng cố lòng tin của dân vào lời hứa của Giao Ước mà Thiên Chúa đã cam kết với tổ tiên của Itraen là Apraham, Ixaac và Giacob.

3. Cả hai ông Môsê và Êlia đều có mặt bên Chúa Kitô. Kể từ nay, từ khởi đầu của kỷ nguyên Tân Ước, hình ảnh của cả hai: Môsê - Êlia tập trung nơi chính Chúa Kitô. Từ nay không cần phân biệt "Lề luật (ý nói đến ông Môsê) và các Tiên tri" như Cựu Ước từng cho biết. Từ nay không còn là hai nhưng chỉ là Một: Chúa Kitô, Đấng toàn thắng và vinh dự của chúng ta.

Từ nay, chỉ một mình Chúa Kitô, Đấng duy nhất là Môsê Mới và Êlia Mới của thời đại mới, Thời Cứu Độ. Từ nay:

- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà lãnh đạo, vừa là nhà giáo dục nhân loại.

- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà lập luật, vừa là nhà dẫn dắt nhân loại đi trong đường lối mà chính lề luật ấy mở ra.

- Chỉ một mình Chúa vừa là nhà giải phóng đích thực, vừa là Đấng bảo vệ lòng mến mà nhân loại phải dành cho Thiên Chúa.

- Chỉ một mình Chúa, Trung gian duy nhất thay thế tất cả mọi hình ảnh từ Tổ phụ, Thủ lãnh, đến Tiên tri.

- Chỉ một mình Chúa phục sinh và trao ban sức sống phục sinh cho từng con người.

- Chỉ một mình Chúa mới thực là hy tế duy nhất, hy tế dâng chính mình để cứu độ.

- Chỉ một hy tế duy nhất của Chúa mới có giá trị cứu độ vĩnh cửu, đưa nhân loại  đến Trời mới Đất mới và trường tồn.

Điều đó có nghĩa là Lịch Sử hay Giao Ước Cứu Độ, từ nay chỉ cần một mình Chúa Kitô là đủ. Chúa Kitô vừa là Giao Ước mới, vừa là lề luật mới.

Chính vì thế, Lời của Chúa Kitô là Lời đặc biệt quan trọng đối với mỗi chúng ta. Lời ấy chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Lời ấy chính là Lời Giao Ước vĩnh cửu, đưa chúng vào huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa, để ta được sống trong Chúa, sống bằng chính sự sống của Chúa.

Bởi Lời Chúa Kitô có tầm mức quan trọng và cần thiết đến vậy, nên Thiên Chúa không ngừng mời gọi: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người"!

Với phán quyết long trọng và công khai ấy, Thiên Chúa như muốn khẳng định: Vâng nghe lời Chúa Kitô, Con Duy nhất của Ngài là sống Giao Ước Mới, là chu toàn trách nhiệm của Lề Luật Mới.

Vâng nghe Lời Chúa Kitô, ta sẽ được biến đổi với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô như chính Chúa Kitô vinh hiển trong vinh quang phục sinh rạng ngời và đời đời của Ngài. Đó cũng là con đường duy nhất để đi về cùng Thiên Chúa nhằm đạt tới sự sống bất diệt mà Thiên Chúa ấn định cho cả nhân loại.

Bởi vậy, sống Lời Chúa Kitô là điều kiện tối cần thiết, không thể bỏ qua của cả cuộc đời người Kitô hữu. Vậy ta đừng chỉ nghe Lời Chúa bằng tai, bằng mắt mà còn bằng tất cả lòng trí, sự ham muốn và không rời quy chiếu suy nghĩ cũng như hành động của mình theo lời, theo nội dung những giáo huấn mà Chúa Kitô dạy.

Trên hết mọi điều kiện, hãy yêu mến Lời Chúa. Chỉ nhờ lòng yêu mến, ta mới có thể thực tâm ấp ủ, ngụp lặn trong Lời Chúa. Nhờ đó, ta sẽ suy nghĩ là suy nghĩ với Lời Chúa, phản ứng là phản ứng với Lời Chúa, hành động là hành động với Lời Chúa, thể hiện là thể hiện với Lời Chúa, tương quan với nhau hay với mọi hoàn cảnh là tương quan trong Lời Chúa...

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

-----------------------------

 

MC 2-ABC458: Con yêu dấu của Ta


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

 

Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu đã nói riêng với các môn đệ về những gì đang chờ MC 2-ABC458


Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu đã nói riêng với các môn đệ
về những gì đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem (Mt 16,21).
Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị giết, rồi được trỗi dậy.
Lời Ngài nói làm các ông sững sờ, và Phêrô vội vã can ngăn.
Nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi nói về thân phận các môn đệ.
Nếu họ muốn đi theo Thầy, làm môn đệ của Thầy,
họ cũng phải chịu chung số phận với Thầy,
chấp nhận mất cả mạng sống mình vì Thầy (Mt 16,24-26).
Chắc hẳn sau cuộc nói chuyện này, bầu khí khá buồn và căng thẳng.
Bóng tối của cái chết làm mọi sự trở nên nặng nề.
Sáu ngày sau, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao.
Đó là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mt 17,1).
Chính ở đây các ông đã có một kinh nghiệm không thể nào quên.
Bao năm sau, Phêrô vẫn nhớ như in điều ông đã thấy:
“chúng tôi đã được chứng kiến vẻ uy phong lẫm liệt của Người.”
Và ông cũng không thể quên điều ông đã nghe:
“ ‘Đây là Con của Ta, người Con Ta yêu dấu, Ta hết lòng quý mến.’
Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra,
khi chúng tôi ở với Người trên núi thánh” (2 Pr 1,16-18).
Kinh nghiệm này đã xóa đi phần nào nỗi buồn phiền lo âu,
và đem lại sự ủi an nâng đỡ cho các môn đệ.
Sau biến cố này, các ông hiểu Thầy mình là ai.
Chính Thiên Chúa chứng nhận Thầy là Người Con yêu dấu,
dù Người Con ấy sắp chịu chết như Người Tôi Trung đau khổ (Is 42,1).
Khi thấy Thầy Giêsu chói lòa rực rỡ, nơi khuôn mặt và nơi y phục,
thấy hai ông Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Thầy,
Phêrô quá đỗi hạnh phúc, chỉ muốn ở lại mãi trên ngọn núi này.
Ông quên rằng cuộc đời Thầy Giêsu gắn liền với những ngọn núi.
Thầy đã ở trên núi để chịu quỷ cám dỗ, đã giảng Bài Giảng trên núi đầu tiên.
Núi là nơi Thầy cầu nguyện và chữa bệnh cho đám đông (Mt 14,23; 15,29).
Hôm nay, Thầy được biến đổi hình dạng trên ngọn núi này,
Nhưng Thầy còn phải lên núi Ô-liu để làm chọn lựa cuối (Mt 26,36-46),
còn phải lên núi Sọ để hiến mạng sống mình (Mt 27,33),
để rồi cuối cùng hiện ra như Đấng phục sinh cho môn đệ trên núi (Mt 28,16).
Sau những giây phút ngất ngây của trải nghiệm thiêng liêng,
ba môn đệ sẽ phải xuống núi cùng với Thầy,
để cùng Thầy sẽ trèo lên những ngọn núi khác (Mt 17,9).
Mùa Chay là thời gian ta cùng lên núi với Thầy Giêsu.
Núi cao làm lòng ta thanh thoát nhẹ nhàng.
Nơi đây ta thấy được khuôn mặt bừng sáng rực rỡ của Thầy Giêsu,
nghe được lời Thiên Chúa Cha nhủ bảo,
và cảm được sự hiện diện của Thiên Chúa bao bọc như đám mây.
Hôm nay, Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển,
nhân tính của Ngài tỏa sáng, vĩnh viễn và trọn vẹn trên thiên quốc.
Chính khi vâng nghe và sống lời của Chúa Giêsu
mà ta được tham dự vào sự biến đổi sáng láng như Ngài.
Đời kitô hữu gồm nhiều cuộc biến hình, bắt đầu từ ngày được rửa tội.
Chúng ta đã được gọi là con yêu dấu, đã được mang tấm áo trắng tinh,
đã được đặt vào tay ngọn nến sáng.
Làm sao để khuôn mặt của tôi dần dần tỏa sáng như khuôn mặt Chúa?
Làm sao để tôi trở nên hình ảnh trung thực của Đấng đã dựng nên tôi?

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
Xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa,
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

--------------------------------

 

MC 2-ABC459: Đấng đang biến hình giữa chúng ta


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến MC 2-ABC459


Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Chúa nhật hôm nay, chúng ta được mời gọi cùng lên núi để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình. Hai sự kiện diễn tả hai khía cạnh cuộc đời Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể: trong sa mạc, Chúa thể hiện nhân tính của Người: yếu đuối, mỏng giòn, đói khát; trên núi cao, Chúa tỏ ra thiên tính của Người: cao cả, sáng láng, thánh thiện. Hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng xuất hiện để đàm đạo với Chúa, kèm theo lời chứng của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”.

Khi tường thuật sự kiện Chúa biến hình trên núi, thánh Matthêu mở đầu bằng chi tiết “sáu ngày sau”. Vậy, sáu ngày trước đó là sự kiện gì? Đó là lời loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Đối với các môn đệ, việc Đức Giêsu chịu thương khó là điều không thể chấp nhận được. Vì vậy, Phêrô đã can gián và thậm chí còn trách Người. Sự can gián của Phêrô bị Chúa quở trách là Satan (x. Mt 16 21- 23). Cùng với việc loan báo cuộc thương khó, Đức Giêsu cũng đưa ra những điều kiện cần phải có để trở nên môn đệ của Người, đó là vác thập giá theo Chúa. Như thế, việc Chúa Giêsu biến hình trên núi nhằm mục đích khai trí các môn đệ, để các ông hiểu hơn về thân phận và sứ mạng của Người. Qua sự kiện này, Chúa muốn khẳng định với các ông: dù Người có phải trải qua cuộc thương khó, nhưng Người sẽ chiến thắng sự chết và sẽ trỗi dậy. Ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê ngỡ ngàng trước việc Chúa Giêsu thay hình đổi dạng, vì lúc đó, các ông được thấy Chúa với một hình dạng hoàn toàn khác so với từ trước tới nay. Sự kiện này làm các ông bàng hoàng và sợ hãi.

Hai nhân vật của Cựu ước hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu, đó là Môisen và Êlia. Môisen là người dẫn đưa Dân tuyển chọn ra khỏi Ai Cập. Ông cũng là người được Chúa trao bia Giao ước và được người Do Thái tôn kính như tác giả của sách Luật. Êlia là vị ngôn sứ đã luôn “đứng hầu cận trước nhan Chúa hằng sống (x. 1 V 17). Trên núi Carmel, ông đã giúp dân Do Thái từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng để chỉ một lòng tin vào Thiên Chúa. Ông là biểu tượng cho những người được Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn và là những người phát ngôn nhân danh Thần Khí. Giống như Chúa Giêsu, cả hai vị này đã ăn chay 40 đêm ngày (x. Xh 24,18; 1 V 19,8). Cả hai vị đều được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa (x. Xh 33,18-23; 1 V 19,12-13). Qua sự kiện biến hình, Môisen và Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu. Họ được chiêm ngắm Con Thiên Chúa, Đấng liên kết hai nhân vật này nơi nhân tính của Người, tức là Người vừa là người ban lề luật, vừa là ngôn sứ. Thánh Máthêu trình bày Chúa Giêsu như Môisen mới. Một số bản văn của Tân ước cũng trình bày Chúa Giêsu như Êlia mới. Người đã liên kết truyền thống lề luật và truyền thống ngôn sứ nơi chính bản thân Người. Bởi lẽ hai truyền thống “lề luật” và “ngôn sứ” là tóm lược toàn bộ Kinh Thánh Cựu ước.

Cùng với chứng từ của Môisen và Êlia, còn có chứng từ khác quan trọng hơn nhiều, đó là lời phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Đức tin Kitô giáo khẳng định: đó là lời của Chúa Cha. Qua lời này, Chúa Cha nói lên tình thương mến của Ngài với Chúa Con, đồng thời nhắc bảo chúng ta: hãy nghe lời Người. Theo Thánh Gioan Thánh giá, Chúa Cha chỉ nói một lời và một lần nơi Chúa Con. Chúa Con là Lời của Chúa Cha. Nơi Chúa Con, có đầy đủ tất cả những gì Chúa Cha muốn ngỏ với nhân loại.  Vì thế, “hãy nghe lời Người” tức là đón nhận những gì Chúa Cha muốn mạc khải qua Chúa Con, nhờ đó, loài người được cứu thoát. “Hãy nghe lời Người”, đó cũng là đón nhận và thực hành giáo huấn của Đức Giêsu.

Phụng vụ hôm nay còn cho chúng ta nghe tường thuật về ơn gọi của Áp-ram, tổ phụ của dân Do Thái. Một lời gọi đơn sơ: “hãy đi đến đất Ta sẽ chỉ cho”. Áp-ram đã vâng lời, đã lên đường. Ông không tính toán, không vặn hỏi, nhưng hoàn toàn phó thác. Ông Áp-ram đã nghe lời Chúa và đã thực thi lời Ngài. Ông đã trở nên mẫu mực cho tất cả những kẻ tin ở mọi thời đại (Bài đọc I).

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Người trở nên hoàn toàn giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Người “biến hình” để trở nên giống như người trần thế. Trên núi cao, khi Chúa “biến hình” lại là lúc Chúa trở về tình trạng thiêng thánh nguyên thuỷ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đang “biến hình” giữa chúng ta. Quả vậy, chúng ta đâu có nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý. Chúa hiện diện qua Lời Chúa, qua cộng đoàn cầu nguyện, qua người nghèo khổ và nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Chúa đang biến hình trong đời sống của chúng ta. Mùa Chay là thời điểm giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, để chúng ta gặp gỡ Người. Thánh Phaolô nhắc chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người là Đấng tiêu diệt thần chết và đang hiện diện giữa chúng ta (Bài đọc II).

Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu biến hình, ba môn đệ xuống núi, có Chúa cùng đi. Các ông trở về với đời thường, với tâm trạng được biến đổi và với quan niệm mới mẻ về Đấng Thiên Sai. Sự kiện Chúa biến hình trên núi cũng nhắc chúng ta cần phải biến đổi đời sống, biến đổi hình ảnh của Chúa trong đời và biến đổi nhận định về tha nhân. Hãy nghe lại lời của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời đầu tiên Chúa Giêsu nói với các môn đệ liền tiếp sau đó là: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”. Hôm nay Chúa vẫn đang nói với chúng ta những điều ấy. Đừng sợ trước thân phận yếu hèn và tội lỗi, hãy trở về với Chúa vì Chúa bao dung nhân từ. Đừng sợ khi giúp đỡ anh chị em bất hạnh cô thế, cô thân, vì Chúa sẽ thưởng cho lòng quảng đại rộng rãi của chúng ta. Đừng sợ trước những bất ổn của cuộc ống do bạo lực, cạnh tranh và chia rẽ, vì Chúa hiện diện giữa cuộc đời. Người là Đấng đang biến hình giữa chúng ta.

----------------------------

 

MC 2-ABC460: Biến đổi khi vượt qua chính mình


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Chúa đã gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa sẽ chỉ cho. Abram đã thực hiện theo điều MC 2-ABC460


Chúa đã gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa sẽ chỉ cho. Abram đã thực hiện theo điều Chúa dạy! Phải đặt mình trong hoàn cảnh thời đó, khi con người còn sống theo luật rừng "mạnh được yếu thua" chứ chưa có luật pháp bảo vệ "ai đúng là người thắng", thì việc bỏ quê cha đất tổ, hàm chứa mình không còn được bảo vệ bởi một tập thể nữa, trở thành đối tượng hay miếng mồi cho bao người ham của. Nếu vậy, Abram thật liều lĩnh và mạo hiểm khi vâng lời Thiên Chúa để đi đến một nơi xa lạ. Thiên Chúa là nhất, và Abram đã vâng phục Thiên Chúa, ra đi theo tiếng gọi của Ngài.

Đức Yêsu đã biến hình, dung mạo Ngài ra khác, và Phêrô bị cuốn hút bởi điều này đến độ không muốn xuống núi nữa. Chúa biến hình chỉ trong giây lát, nhưng qua đó người ta biết:

. Ngài thế nào, chúng ta cũng sẽ như vậy (1Ga.3, 2); nếu chúng ta quảng đại đáp trả lời mời của Chúa như Abram đã đáp trả, chúng ta cũng sẽ được biến đổi, và chúng ta cũng sẽ nên giống Chúa Yêsu.

. Những gì chúng ta biết về cuộc sống mai hậu, không được làm chúng ta quên cuộc sống tại thế này. Chúng ta phải trở về với đời thường, để xây dựng thế giới này, để làm thế giới này đẹp hơn. Khi chúng ta làm như vậy, là chúng ta đang chuẩn bị hành trang để vào Nước Trời, quê thật của chúng ta.

Chúng ta được mời gọi trở nên con Thiên Chúa.

Để trở nên con Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi như Abram, hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, sẵn sàng phó thác đời mình trong tay quan phòng đầy thương yêu của Ngài. Ơn gọi của chúng ta là nên giống Đức Yêsu. Thân xác mỏng dòn của chúng ta, cũng như thân xác bị đòn vọt và mong manh của Đức Yêsu khi Ngài chịu khổ hình, sẽ được biến đổi như hôm nay chúng ta thấy Đức Yêsu.

Vượt qua chính mình, vác thập giá mình mà theo Đức Yêsu, trở nên giống Đức Yêsu mỗi ngày mỗi hơn. Đó là ơn gọi của chúng ta. Xin cho chúng ta được quảng đại để đáp trả tiếng Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

------------------------

 

MC 2-ABC461: Tuyệt vời qua từng hành vi


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

 

Thiên Chúa luôn mời gọi mỗi người trở nên người tuyệt vời. Chính những hành vi tuyệt vời làm MC 2-ABC461


Thiên Chúa luôn mời gọi mỗi người trở nên người tuyệt vời. Chính những hành vi tuyệt vời làm con người trở nên tuyệt vời. Những hành vi tuyệt vời vẫn luôn có thể xảy ra trong đời mỗi người, và giá trị con người được hình thành bởi những hành vi này.

1. Ra đi trong niềm tin phó thác

Thiên Chúa đã mời gọi Abram bỏ gia đình họ hàng để đi tới miền đất Ngài sẽ chỉ cho. Trong một xã hội chưa có luật lệ, người ta chỉ tựa vào sức mạnh, thì con người chỉ được bảo vệ nhờ vào những người thân quen họ hàng chống lại những kẻ bất lương. Việc cô thân cô thế đi vào vùng đất xa lạ với gia tài của cải và vợ đẹp, là một hành vi vô cùng nguy hiểm, vì như vậy rất dễ bị những kẻ bất lương giết hại nhằm chiếm đoạt của cải và vợ con. Ra đi như vậy, là một hành vi liều lĩnh và dại dột.

Nếu không có niềm tin phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Abram không thể ra đi như vậy. Thiên Chúa mời gọi Abram kèm với lời hứa. Thiên Chúa hứa sẽ cho Abram thành cha một dân vĩ đại; Ngài sẽ chúc phúc cho Abram; sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho Abram; đến độ mọi dân tộc dưới trần sẽ nhờ Abram mà được chúc phúc. Tuy vậy, liệu những lời hứa này có đủ bảo đảm để ra đi như vậy không? Phần lớn người Việt Nam đều biết chuyện thằng bờm và phú ông; phú ông là người giầu, khi thằng bờm nghèo xác nghèo xơ, chỉ có cái “quạt mo” (cái quạt làm bằng mo cau); xảy ra một hôm trời nóng, phú ông và thằng bờm gặp nhau; phú ông không có gì để che nắng, vì bị cái nóng nung nấu, phú ông muốn cái quạt mo của thằng bờm; phú ông đề nghị đổi cái quạt mo thằng bờm đang có với “ba bò chín trâu”, với “một ao cá mè”, “một bè gỗ lim”; thằng bờm lắc đầu không chịu, vì nó thấy điều đó quá xa vời, làm sao thành hiện thực; nhưng khi phú ông đề nghị đổi “nắm xôi” ông đang có để lấy cái quạt mo, thì bờm cười (đồng ý). Thiên Chúa hứa với Abram những điều tốt đẹp, những điều tuyệt vời, nhưng liệu có tin được không? Làm sao có thể an toàn trong một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm như vậy? Có gì chắc để trở thành một dân tộc vĩ đại? Có gì chắc mình sẽ là một mối chúc lành? chắc gì có đất! Ai trong chúng ta cũng biết, sau này khi vợ của Abraham là Sara chết, Abraham vẫn chưa có đất nên phải mua đất để chôn vợ; Isaac cũng chôn cha Abraham cùng nơi mà cha ông đã mua đất để chôn mẹ ông.

Abram đã tin vào Thiên Chúa và ra đi. Thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và điều kiện, làm Abraham trở thành tuyệt vời, trở thành cha những người tin vào Thiên Chúa. Hành vi tin vào Thiên Chúa, không phải là hành vi duy nhất, một lần trong đời của Abraham. Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi, và Abraham luôn luôn đáp trả lời mời gọi phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh; chẳng hạn khi có Isaac, Thiên Chúa lại muốn Abraham hiến tế Isaac cho Thiên Chúa, và Abraham cũng sẵn sàng vâng phục. Thái độ luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, làm Abraham luôn luôn tuyệt vời.

2. Được mời gọi nên thánh

Mỗi người được mời gọi nên thánh. Nên thánh, không phải là điều dành riêng cho một số người, nhưng là lời mời cho tất cả mọi người. Mỗi Kitô hữu đều là thánh. Thánh Phaolô trong các thư, Ngài gọi các Kitô hữu là thánh. Thánh, là người thuộc về Thiên Chúa; và mỗi người khi được rửa tội, là đã thuộc về Thiên Chúa, đã là thánh.

Sống theo lời mời gọi yêu thương, là nên thánh. Vì yêu Chúa yêu người, nên tôi tha thứ cho người xúc phạm tới tôi. Vì yêu thương, nên tôi lắng nghe những khốn khổ của người khác. Vì yêu thương, nên tôi giúp đỡ những người cần tôi cách đặc biệt. Vì yêu thương, nên tôi cố gắng làm cuộc đời đẹp hơn bằng nụ cười, bằng lời êm dịu dàng, bằng lời chào hỏi, v.v…

Một vị thánh, là người làm cho người khác hạnh phúc khi sống chung với họ, được gặp gỡ họ, được tiếp xúc với họ. Hãy coi hình ảnh Đức Maria: mẹ luôn là người giúp đỡ những người khốn cùng kêu đến mẹ: Mẹ Hằng Cứu Giúp. Một người là thánh, sẽ làm cho cuộc đời của những người sống chung quanh tươi hơn, vui hơn, dễ sống hơn, đẹp hơn. Một đời sống thánh, là đời sống toả hương và là lời rao giảng về Thiên Chúa tình yêu một cách tuyệt vời.

3. Giây phút biến hình là dấu chỉ thực trạng tuyệt vời tương lai

Đức Yêsu, cả cuộc đời lam lũ, chỉ có giây phút biến hình là huy hoàng. Ngài sinh trong chuồng chiên cừu, sống tại làng quê Nazaret, không được học hành như nhiều người, làm nghề thợ mộc. Khi đi rao giảng, cũng sống nay đây mai đó, rong ruổi từ nơi này tới nơi khác, màn trời chiếu đất, bữa đói bữa no. Khi chết, phải chết trần trụi trên thập giá, phải chôn nhờ vào ngôi mộ của người khác.

Xét về khía cạnh trần thế, Đức Yêsu quá lam lũ và vất vả. Tuy vậy, Đức Yêsu đã sống tự do với tất cả, để chỉ tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Giây phút biến hình trên núi mà Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe, chỉ là biểu hiện của bao giây phút sống tuyệt vời của Đức Yêsu trong đời sống của Ngài.

Ơn gọi Kitô hữu, là sống và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày, như Abraham đã sống, đã nghe và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày của ông. Sống ơn gọi Kitô hữu, là nhiều khi phải chấp nhận thua lỗ và dại dột theo cái nhìn nhân loại. Sống ơn gọi Kitô hữu, là sống như Đức Yêsu, chấp nhận cuộc sống như hoàn cảnh xảy tới cho mình, không oán trách Thiên Chúa và con người; và không chỉ thế, vẫn vươn lên và sống yêu thương từng ngày từng giây phút. Kitô hữu cần có đức tin của Abraham, để chấp nhận và sống thực tại hằng ngày của mình, như Đức Yêsu đã chấp nhận và sống trước. Sống như vậy, mỗi người được biến hình trong từng chọn lựa và hành động của mình. Yêu thương là hành vi tuyệt vời.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn liệt kê những giây phút “huy hoàng” trong cuộc đời của Đức Yêsu? Nếu cộng tất cả những thời gian này, nó kéo dài bao nhiêu giờ? Theo bạn, nhiều hay ít?
2. Cuộc đời bạn và cuộc đời Đức Yêsu, nếu được chọn, bạn chọn cuộc đời nào? Tại sao?
3. Yêu thương, dễ hay khó? Tại sao?

--------------------------------

 

MC 2-ABC462: Đây là con yêu dấu của Ta


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Các tông đồ không ngừng ngạc nhiên về Thầy của họ. Hằng ngày họ vẫn sống với Thầy, nghe Thầy MC 2-ABC462


Các tông đồ không ngừng ngạc nhiên về Thầy của họ. Hằng ngày họ vẫn sống với Thầy, nghe Thầy giảng dạy, thân tình và bình thường, nhưng hôm nay, họ khám phá ra nơi Thầy của họ một chiều kích bất ngờ và thật thú vị.

Ngài dẫn ba người Ngài chọn lên núi với Thầy. Ba người này sẽ có mặt trong vườn cây dầu, và sẽ chứng kiến một chiều kích khác nữa của Ngài, là con người thống khổ tột độ, van xin họ thức với Thầy một giờ.

Thầy trò lên núi cao, vắng lặng, xa tất cả mọi người, xa những ồn ào của những ngày bị đám đông bao vây. Và trong nơi thanh vắng đó, họ khám phá ra Thầy trong khuôn mặt tuyệt vời: dung nhan Người chói lọi như mặt trời… Họ được đưa vào trong một thế giới khác, thế giới của riêng Thầy, của vinh quang khôn tả của Người Con Một, đầy ân sủng và chân lý.

Chúng ta tin Chúa, nhưng chưa bao giờ chúng ta khám phá được khuôn mặt thật của Ngài. Chúng ta chỉ nhìn thấy những dấu hiệu, và chỉ biết Ngài sơ sài, nông cạn. Làm sao khám phá ra khuôn mặt thật của Thầy?

Chúng ta hãy lên núi cao, nơi vắng lặng, nơi mà chỉ có riêng một mình Thầy với ta. Núi cao hôm nay của chúng ta không phải là ngọn núi nào, mà trong một nơi không còn tiếng ồn ào náo nhiệt của tivi, điện thoại, con người, công việc… Một góc nhà thờ, một bờ sông, một căn phòng im lặng… Chúng ta sẽ thấy được dung nhan Ngài. Ngài sẽ tỏ cho chúng ta thấy khuôn mặt đáng yêu của Ngài. Ngài sẽ nói với chúng ta như đã nói với tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình… Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu… Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa”. (Biết ở đây có nghĩa là yêu).

Có những lời nào ngọt ngào hơn nữa không? Có những lời nào đầy ắp tình yêu như thế không?

Đó là khuôn mặt thật của Chúa chúng ta, Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta cần khám phá ra khuôn mặt đáng yêu đó, chúng ta mới nếm được sự êm dịu ngọt ngào của Thiên Chúa. Đức tin của chúng ta sẽ ấm lên trong ta. Chúng ta sẽ thấy muốn ở lại với Ngài mãi, như Phêrô: “Thưa Thầy, ở đây thật tuyệt vời! Xin Thầy cho chúng con dựng ba lều…” Chúng ta muốn nếm được sự êm dịu đó không? Hãy can đảm đi vào vắng lặng, chỉ chú tâm đến một mình Chúa thôi.

Phêrô, khi khám phá khuôn mặt vinh quang của Chúa, ông đã muốn ở lại với Thầy mãi, không muốn trở về với cuộc sống hằng ngày nữa. Ông muốn kéo dài, vui hưởng hạnh phúc với Thầy mãi. Ông đã sống những giây phút tuyệt dịu với Thầy, ông không còn muốn điều gì khác. Nhưng đây chỉ là một dấu chỉ, một nếm trước mà thôi. Còn nhiều việc phải làm, còn nhiều giai đoạn phải trải qua. Thị kiến đã hết, bây giờ phải xuống núi, phải bước vào giai đoạn quyết liệt: “Con Người sẽ bị nộp, sẽ chết… và ngày thứ ba, sống lại”.

Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn đang rất gần chúng ta, nhưng chúng ta quá xa Ngài. Hãy đến, hãy ở lại với Ngài như Ngài vẫn nài nỉ chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa phải nài nỉ chúng ta như thế sao? Có cái gì mà Ngài không làm để chứng tỏ tình thương của Ngài, nhưng chúng ta có chú ý đến Ngài đâu! Chúng ta chạy theo đủ các thứ thần tượng trần thế: minh tinh màn bạc, siêu sao bóng đá, ca sĩ ăn khách… Ngài là ai đối với chúng ta?

Các thánh đã say mê Chúa Giêsu, quỳ lâu giờ dưới chân Chúa, thâu đêm như Cha Charles de Foucauld và rất nhiều thánh khác. Sao chúng ta không thử ở lại với Chúa một vài phút sau khi ăn lấy Chúa? Sao chúng ta không mang Chúa vào cuộc sống, làm việc với Chúa, lao động với Chúa, phục vụ mọi người với Chúa. Biết bao nhiêu cách để gần gũi với Ngài.

Có lẽ chúng ta nói rằng, các tông đồ được diễm phúc hơn chúng ta, được thấy Ngài, còn chúng ta, chúng ta chỉ thấy dấu hiệu. Phải, nếu chúng ta chỉ thấy dấu hiệu, thì cũng đủ để chúng ta thấy Ngài. Nhưng chúng ta có ở lại với Ngài đâu! Chúng ta bận bịu đến nỗi không còn một giây phút nào để ở với Ngài. Chúng ta đủ lý do để từ chối Ngài. Chỉ vì chúng ta không yêu Ngài. Những người yêu nhau không bao giờ cảm thấy đủ thời giờ ở bên nhau. Đối với họ, thời giờ sao quá nhanh. Còn chúng ta, chúng ta cứ thấy thời gian quá dài khi đến với Chúa. Tình yêu của chúng ta là như thế sao? Những người yêu nhau , dù bận bịu thế nào, cũng tìm cách liên lạc với nhau. Vắng là nhớ là thương. Họ tìm mọi cách để gặp nhau, để chuyện trò, không cách này thì cách khác, phải nói với nhau cái gì đó… nhắn tin, điện thoại, thư từ... Một tiếng nói yêu thương thôi cũng đủ. Chúa Giêsu, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp được, không cần điện thoại hay một phương tiện nào, sao chúng ta không tìm cách liên lạc với Ngài? Sao chúng ta không nói với Ngài những tiếng nói yêu thương? Ngài xa lạ lắm sao?

Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn là Chúa Giêsu trên đỉnh núi, vẫn là Chúa Giêsu sáng chói như mặt trời, vẫn là Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Này là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Chúng ta tưởng hôm nay, Ngài chỉ là tấm bánh nhỏ thôi sao? Ngài vẫn là Đấng tràn đầy ân sủng, tràn đầy chân lý. Ngài vẫn là Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi trở nên một tấm bánh nhỏ vì chúng ta, để nuôi dưỡng những con người li ti nhỏ hèn là chúng ta, thế mà chúng ta đã đối xử tệ với Ngài, không chú ý đến Ngài, và vô tình lạnh nhạt một cách có thể nói là tàn nhẫn. Chúng ta có đạo không? Chúng ta có tin không? Chúng ta hà tiện một tiếng nói, một ánh nhìn sao?

Trên đỉnh núi đó, Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Ngài. Hai tổ phụ quan trọng đó đại diện cho Lề Luật và tiên tri đã đến, điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu gồm tóm nơi Ngài cả hai nền tảng của Cựu Ước. Ngài kiện toàn Lề Luật và thực hiện những gì các tiên tri đã báo trước. Ngài là điểm quy tụ của cả hai dòng lịch sử, Ngài là trung tâm của mọi hồng ân, của ơn cứu rỗi. Vì thế Chúa Cha đã bảo chúng ta: “Hãy lắng nghe lời Ngài”.

Chúng ta có nghe lời Người Con Yêu Dấu của Chúa không? Nghe như thế nào? Nghe với tất cả tình yêu hay lơ đảng, chán buồn?

Lời Chúa là ánh sáng. Hãy để cho ánh sáng thần linh đó rọi chiếu vào trong u tối của chúng ta, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên rực sáng niềm vui và can đảm. Ngài đã tỏ vinh quang phục sinh trước khi Ngài bước vào cuộc tử nạn tăm tối, nhờ đó, khi nhục nhã phủ đầy, các tông đồ mới nhận ra khuôn mặt đau thương của Ngài, Đấng xóa tội trần gian, người đầy tớ của Thiên Chúa, chết cho muôn người, mà tiên tri Isaia đã báo trước. Vì thế, khi xuống núi, Ngài căn dặn các môn đệ, đừng nói cho ai biết về thị kiến kẻo gây hiểu lầm. vì giờ của Ngài chưa đến.

Hôm nay, tham dự vào hiến tế này, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu với cái nhìn của các tông đồ trên đỉnh núi, một cái nhìn say mê, và hãy ước mong sống với Ngài mãi mãi, dù cuộc sống chúng ta không dễ dàng, dù mọi sự đều trở nên thập giá. Hãy như Phêrô, xin cất ba lều để chúng ta không tách rời Ngài ra khỏi cuộc sống trần gian của chúng ta. Liên kết bền chặt với Ngài vì chính Ngài đã liên kết chúng ta trước.

--------------------------------

 

MC 2-ABC463: Biểu lộ phẩm chất Ki-tô hữu


(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

 

Khi đến thăm Thái Lan, du khách thường tìm đến đền thờ Wat Traimit tại Bangkok để chiêm ngắm MC 2-ABC463


Khi đến thăm Thái Lan, du khách thường tìm đến đền thờ Wat Traimit tại Bangkok để chiêm ngắm bức tượng Phật đang ở tư thế ngồi cao đến 3 mét, được đúc bằng vàng nguyên khối, nặng đến 5 tấn rưỡi!

Theo sử sách ghi lại thì bức tượng này được đúc vào khoảng từ thế kỷ 13 đến 15. Trong thời chiến tranh nổ ra giữa Thái Lan và Miến Điện, người Thái sợ bức tượng vàng quý báu này lọt vào tay người Miến nên đã trát bê tông bao bọc tượng, che giấu khối vàng bên trong nhằm đánh lừa quân địch. Thế là những thế hệ người Thái sau này cứ tưởng đây chỉ là bức tượng bê tông tầm thường nên có thời bức tượng này bị đặt vào nơi bất xứng và bị lãng quên.

Vào năm 1955, bức tượng được di dời đến một ngôi đền mới, trong khi vận chuyển, một số giây thừng ràng quanh tượng bị đứt làm cho tượng ngã lăn xuống đất, lớp bê tông bọc tượng bị nứt ra, cho thấy ánh vàng lấp lánh bên trong. Thế là nhờ sự cố không may này, người ta phát hiện được đây là bức tượng vàng nguyên khối tuyệt đẹp và vô cùng quý báu đã bị che phủ bằng bê tông suốt hàng trăm năm qua.

Từ đó, bức tượng Phật vàng được rất nhiều Phật tử chiêm bái, được du khách khắp nơi thăm viếng, được xem là báu vật của Thái Lan.

Trong 33 năm sống ở dương gian, Chúa Giê-su cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Mặc dù Ngài vốn là Thiên Chúa toàn năng uy quyền vinh hiển, nhưng Ngài đã mặc lấy thân xác người phàm, xác thịt phàm trần đã che phủ thần tính vinh hiển của Ngài, vì thế Ngài bị người đời xem thường.

Thế rồi qua biến cố hiển dung trên núi được thánh Mát-thêu thuật lại trong Tin mừng hôm nay (Mt 17, 1-9), thần tính của Chúa Giê-su được biểu lộ, nên ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan mới thấy được sự sáng láng vinh hiển của Ngài, mới biết được Ngài là Con chí ái của Thiên Chúa Cha.

Hôm nay, Ki-tô hữu chúng ta cũng gặp hoàn cảnh tương tự.

Mặc dù chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, có giá trị cao quý hơn bất cứ kho tàng hay báu vật nào trên thế gian.

Tuy nhiên, sự cao quý tốt đẹp này có thể bị bao bọc bởi một “lớp bê tông”, tựa như bức tượng Phật vàng ở Thái Lan, làm cho chúng ta bị mất giá trị trước mặt người đời.

Nơi người này, lớp “bê tông” bao bọc có thể là tính kiêu căng, tự phụ, tham lam, ích kỷ… Nơi người khác là lòng ghen ghét, hận thù… Những “lớp bê tông” này làm cho người ta trở nên tầm thường, xấu xa, mất giá…

Tiếc thay, những “lớp bê tông” này rất cứng chắc, bám chặt vào người ta và khó lòng phá vỡ được.

Sở dĩ nhiều người không phá nổi những “lớp bê tông” này, không chừa bỏ được những thói hư tật xấu bao quanh mình, là vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, không tự biết mình.

Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời mà chúng ta không thể thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính ta. Người ta thấy rõ nốt ruồi nhỏ bằng hạt tấm trên khuôn mặt người khác; trong khi cả một vết dơ lớn như đồng tiền trên mặt mình thì lại không thấy.

Mà vì không nhìn thấy được những tì vết của mình, những thói hư tật xấu của mình nên người ta không thể lột bỏ chúng được, cũng như ta không thấy khuôn mặt mình dơ thì ta không cần rửa mặt, không thấy tay mình bẩn thì không cần rửa tay.

Ngoài ra, khi có ai đó chỉ cho thấy những khiếm khuyết, những lầm lỗi của bản thân mình, thì người được chỉ lỗi cảm thấy bị tổn thương, bị xúc phạm… nên đâm ra tức tối, căm giận người chỉ lỗi cho mình. Vì thế, không ai còn dám chỉ lỗi cho và người ta cứ mang tật xấu suốt đời.

Thứ hai, tính xấu bám chặt vào bản thân ta như da bọc thân.

Những “lớp bê tông” này bám chặt vào bản thân chúng ta, trở thành như da thịt của chúng ta nên không dễ gì lột bỏ đi được. Có một số người đã mang tính kiêu căng thì kiêu căng cho đến chết; mang tính tham lam, ích kỷ… thì cũng sẽ mang chúng xuống mồ. Chính vì thế mà xưa nay người ta thường nói: “Cái nết đánh chết không chừa.”

Thế là phẩm chất cao cả của người Ki-tô hữu bị những nết xấu bao bọc, che phủ như bê tông che phủ bức tượng vàng, khiến cho họ bị người khác xem thường và chê trách.

Lạy Chúa Giê-su,
Xưa kia trên núi cao, Chúa để cho thiên tính của Chúa biểu lộ ra, xuyên qua nhân tính phàm trần, để cho ba môn đệ thân tín được thấy chân dung đích thực của Chúa.
 
Xin Chúa cũng giúp chúng con lột bỏ “lớp bê tông” thói hư tật xấu đang bao bọc chúng con, để dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng con cũng được tỏ ra trước mặt mọi người.

--------------------------------

 

MC 2-ABC464: Vinh quang đích thực


(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)

 

Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor cho ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê được thấy vinh MC 2-ABC464


Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor cho ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê được thấy vinh quang sáng láng của Ngài. Aó Ngài trắng tinh như tuyết; mặt Ngài sáng chói như mặt trời. Chứng kiến cảnh tượng đó các tông đồ ngây ngất hạnh phúc (x. Mt 17,1-9).

Danh dự, vinh quang là điều thường ai cũng mong được. Danh dự vinh quang đôi khi còn được đặt cao hơn cả lợi lộc, hơn cả miếng cơm manh áo. Tục ngữ Việt Nam, có câu “Một miếng giữa làng bằng sàng xó bếp”. Hẳn là chúng ta cảm thấy hạnh phúc vui sướng khi có được danh dự, vinh quang.

Đức Giêsu tỏ mình vinh quang để làm gì? Phải chăng Ngài cũng thích danh dự vinh quang như con người chúng ta?

Có người tưởng như vậy, vì đã từng được nghe sách Thánh nói trên trời các thiên thần hằng ca tụng Thiên Chúa, hằng tung hô ngài là “Thánh, Thánh, Thánh”. Ở trần thế này, chúng ta được dạy rằng phải ca tụng Thiên Chúa, hãy làm vinh danh Ngài và để rồi chúng ta cũng được vinh quang với Ngài trên thiên đàng.

Vậy phải chăng Chúa Giêsu cũng muốn tỏ vinh quang kiểu như con người chúng ta, khi Ngài biến hình trên núi?

Chắc chắn là Chúa Giêsu không muốn tỏ vinh quang như kiểu con người chúng ta. Tuy nhiên, ta có thể hỏi, kiểu tỏ vinh quang của Ngài phải chăng là để chứng tỏ mình là đấng thánh, đấng thần thiêng, có đủ quyền năng, đầy cao sang, để rồi các tông đồ luôn trung thành theo Ngài?

Nếu chỉ như vậy thì xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại nặng nề, vì các tông đồ đã không trung thành gần ngay sau đó. Ở vườn Cây Dầu, khi Đức Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ trốn hết! Phêrô, người đứng đầu nhóm, chối Chúa đến ba lần!

Vậy thì việc biến hình trên núi Tabor của Chúa Giêsu có ý nghĩa như thế nào?

Chìa khóa để hiểu, chính là lời dạy của Chúa Giêsu: “Các con không được nói với ai thị kiến này cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mt 17,9). Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ loan truyền vinh quang của Ngài cho tới khi Ngài từ cõi chết sống lại. Điều này hàm ý rằng: Nếu loan truyền sớm trước đó, thì sẽ bị hiểu lầm. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ bị hiểu lầm như kiểu vinh quang thế gian.

Như thế vinh quang đích thực của Chúa Giêsu liên hệ mật thiết với sự chết và sống lại của Ngài.

Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng quay trở về bài Tin Mừng tuần trước: Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ. Ma quỷ đã nói: “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy biến đá thành bánh đi ... Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy nhảy từ nóc đền thờ xuống đi.” (x. Mt 4,1-11).

Đức Giêsu đã không tỏ mình ra là Con Thiên Chúa theo kiểu ma quỷ nói. Điều này có nghĩa là, Ngài đã không bày tỏ vinh quang bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Đức Giêsu đã từ chối chước cám dỗ đó. Nhưng Người sẽ tỏ mình ra là Con Thiên Chúa trong Mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh. Chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết mình là Con Thiên Chúa. Chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết, và nhờ đó chúng ta được vượt qua sự chết. Cái vinh quang thật sự của Thiên Chúa là sự cứu thoát chúng ta. Có thể nói đó là vinh quang cứu độ, vinh quang cứu giúp chúng ta khỏi tội lỗi và khỏi sự chết muôn đời.

Chính cái vinh quang mà Ngài tỏ cho ba môn đệ được thấy, sẽ chỉ đạt được trong Mầu nhiệm Thập giá. Qua sự biến hình, Ngài muốn cho các  ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là mơ ước rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được như những ông quan lớn, cao sang, có nhiều quyền lực. Đồng thời, Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản thất vọng sau này, khi đi rao giảng, bị bắt, bị lên án và chịu tử đạo.

Vì vậy, qua việc biến hình, Chúa Giêsu dạy cho các Tông đồ và các Kitô hữu rằng, vinh quang đích thực không là con đường của danh giá, của quyền lực, nhưng phải là con đường của hy sinh đau khổ vì yêu thương, yêu cho đến cùng, cho dù có chết vì yêu.

Ở trong tập nhật ký của Charles de Foucaul, người ta đọc thấy câu này:

“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới.”

Năm năm sau đó, người ta cũng lại đọc thấy câu này, nhưng có dài thêm một ít: “Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh cầu nguyện.” Ngài đã thêm dòng chữ: “bằng sự hy sinh cầu nguyện.”

Và mười năm sau, người ta lại đọc thấy câu đó, nhưng dài hơn một chút nữa:

“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh và cầu nguyện và bằng cái chết của tôi.” Ngài đã thêm dòng chữ: “và bằng cái chết của tôi”.

Và đúng như thế! Charles de Foucaul đã bị một kẻ cuồng tín đâm chết. Sau đó tu hội tiểu đệ tiểu muội đã nổi tiếng, phát triển nhanh, hầu như có mặt khắp nơi trên thế giới.

Con đường vinh quang qua đau khổ và cái chết của Đức Giêsu ban đầu đã bị các Tông đồ chối từ, nhưng sau này trở thành con đường cho chính các Tông đồ đã đi. Các ngài đã hy sinh, hy sinh ngay cả chính mạng sống mình để loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Tiếp theo sau các Tông đồ biết bao nhiêu thế hệ cha ông chúng ta cũng đã đi con đường vinh quang đích thực đó. Các ngài đã trở nên thánh. Cách riêng là các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Còn chúng ta chúng ta sẽ đi con đường vinh quang nào?

-----------------------------------

 

MC 2-ABC465: Chúa Nhật 2 Mùa Chay


(Suy niệm của Cao Nhất Huy)

BƯỚC VÀO HÀNH TRÌNH THẬP GIÁ CÙNG VỚI CHÚA GIÊSU

Tin mừng Mt 17: 1-9: Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông...

 

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ MC 2-ABC465


Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Con người của Chúa Giêsu là người tôi trung đau khổ như Isaia đã loan báo, sứ mệnh của Chúa Giêsu là hoàn tất con đường thập giá.

Vì thế, xét theo mạch văn của đoạn Tin Mừng hôm nay, thì cuộc Biến hình của Chúa Giêsu có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang này đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ phải nghe lời và cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.

Tiếp đến, chúng ta thấy 3 môn đệ của Chúa đã say trong vinh quang và muốn ở lại trong vinh quang đó nên nói rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a” (Mt 17, 4). Thế nhưng, tiếng của Thiên Chúa Cha đã phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Vinh quang không thể tự mà có, cũng không ai sống mãi trong vinh quang được, vinh quang phải được kín múc ra từ trong thập giá và được nuôi dưỡng nó trong thập giá. Vì thế, để có được vinh quang thì hãy vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu. Đó là bước theo con đường của Chúa Giêsu, con đường đi lên Giêrusalem để đón nhận thập giá.

Hình ảnh đó, cho chúng ta nghiệm thấy rằng, muốn tìm thấy được hạnh phúc thì con người phải chấp nhận bước vào những khó khăn và thử thách thì mới tìm thấy hạnh phúc, và hạnh phúc đó cũng phải tiếp tục được nuôi dưỡng trong những thử thách và thậm chí là đau khổ.

Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nghĩa là Ngài có đủ quyền năng để bỏ qua đau khổ của thập giá để tới thẳng vinh quang, nhưng Ngài lại không làm như vậy, Ngài ôm lấy đau khổ của thập giá vào mình để thanh luyện nó, biến đổi nó thành vinh quang vĩnh cửu. Và qua đó, Ngài muốn cho con người nhận ra rằng, không ai ngồi không mà có được hạnh phúc, không ai không chịu cực khổ mà có thể đạt được hạnh phúc, không ai bỏ qua được đau khổ trên bước đường đời mà có thể đến được vinh quang hạnh phúc được, cũng không có con đường tắt nào có thể đến thẳng vinh quang và hạnh phúc. Nghĩa là, hạnh phúc luôn phải đánh đổi bằng một hành trình gian khổ và thậm chí là đau khổ nữa. Điều này không cần phải chứng minh bằng những chứng cứ nào hết, nhưng chính mỗi người chúng ta, mỗi kinh nghiệm đời sống của chúng ta là những chứng cứ hữu hiệu nhất cho điều khẳng định trên.

Điều đó cũng khẳng định, nếu ai trong cuộc đời này chối bỏ hay bỏ cuộc trước thập giá là những đau khổ và thất vọng thì chắc chắn chúng ta không thể nào đạt tới vinh quang được. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong Tin Mừng rằng: “Hãy trỗi dậy, Đừng Sợ!” (Mt 17, 7). Bởi vì Ngài biết, các môn đệ sợ phải đối diện với hành trình thập giá, hay đúng hơn là các môn đệ chưa thực sự nhận ra rằng thập giá chính là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó ta thấy rõ ràng khi nhìn vào hình ảnh Phêrô ngăn cản không cho Chúa lên Giêrusalem (Mc 8,31-33)

Đôi khi trong hành trình đời sống đức tin, chúng ta sợ hãi khi đối diện với những khó khăn của cuộc sống xã hội, cuộc sống gia đình. Chúa ban cho chúng ta mỗi người một ơn gọi đặc biệt và riêng biệt, chính sự đặc biệt và riêng biệt đó lại trao ban cho chúng ta mỗi người một thánh giá đặc biệt và riêng biệt, không ai giống ai, nhưng đều là thánh giá Chúa gửi đến để chúng ta có thể vác trên vai cùng theo Chúa lên Giêrusalem mà tìm đến vinh quang của hạnh phúc bất diệt: “ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá và theo Thầy” (Mt 16, 24).

Tuy nhiên, khi đối diện với thánh giá Chúa trao, chúng ta thường sợ hãi và muốn trốn tránh. Ngày nay trong cuộc sống, rất nhiều các gia đình, vì sự khác biệt giữa vợ - chồng, con cái, và các thành viên trong gia đình không chấp nhận được những khác biệt đó khiến cho gia đình ngày càng trở nên nặng nề, rồi đến một lúc khi sự nặng nề đó trở nên quá sức thì gia đình tan vỡ. Chúng ta nên nhớ rằng, hành trình thập giá là một hành trình của sự biến tận căn. Biến đổi để trở nên phù hợp với vinh quang bất diệt. Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, thập giá của mỗi thành viên là sự biến đổi chính mình để nên phù hợp hơn với gia đình đặc biệt và riêng biệt của mình, chứ không mong người khác biến đổi theo ý mình.

Ta thấy hình ảnh của chú chim đại bàng, một loài chim được mệnh danh là chúa tể bầu trời, nhưng còn được biết đến như một loài động vật thông minh và sẵn sàng đối đầu với thử thách. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua cách chúng đối đầu với mỗi cơn bão.

Không như tất cả mọi loài đều chạy trốn cơn bão, Đại bàng sẽ bay lên đỉnh núi thật cao đứng chờ. Và khi cơn bão ập đến, Đại bàng sẽ tận dụng sức mạnh của cơn bão để đưa đôi cánh của mình bay thật cao lên bầu trời. Đối với Đại bàng, cơn bão không hề là một điềm dữ. Nó là đòn bẩy, là cơ hội để củng cố thêm quyền lực thống trị bầu trời cho Đại bàng.

Hầu hết những ai biết về câu chuyện của Đại bàng đều khâm phục bản tính kiên cường, trí thông minh và sức sống mãnh liệt của nó. Có lẽ chính những thử thách khắc nghiệt ấy đã rèn giũa nó trở thành một loài mạnh mẽ và đáng nể như ngày hôm nay. Hơn bất cứ điều gì, cuộc sống và cách Đại bàng đối đầu với khó khăn chính là nguồn cảm hứng cho tất cả các loài, kể cả loài người chúng ta.

Chúng ta thì thế nào? Khi đối diện với khó khăn, chúng ta có sẵn sàng đương đầu không hay chúng ta tìm cách chạy trốn nó?

Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Chúa Giêsu, đặc biệt là hành trình thập giá của Ngài, cũng như công trình tạo dựng của Ngài qua hình ảnh chim đại bàng, chúng ta tự xét lại chính mình, xem chúng ta đã thực sự bước vào hành trình thập giá của Chúa Giêsu qua đời sống thường ngày của chúng ta chưa?

Xin Thiên Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn biết can đảm đối diện với khó khăc của cuộc sống, nhất là cuộc sống gia đình, nhờ đó chúng ta có đủ sức mạnh và sự can đảm để vượt qua những khó khăc đó mà cùng với Chúa Giêsu tiến đến vinh quang bất diệt. Amen.

-------------------------------------

 

MC 2-ABC466: Chúa Nhật 2 Mùa Chay


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

DÕI THEO BƯỚC CHÚA TRÊN MỌI NẺO ĐƯỜNG ĐỂ ĐẾN VINH QUANG

 

Trong truyền thống Thánh Kinh núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và MC 2-ABC466


Trong truyền thống Thánh Kinh núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Chẳng hạn, Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Tabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, qua thị kiến Chúa Giêsu biến hình, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan đã thấy thần tính và nhân tính của Đức Giêsu. Thần tình được biểu lộ nơi dung nhan của Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời, đầy vinh quang, quyền lực. Y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết. Còn nhân tính của Ngài được biểu lộ qua việc sau khi Chúa biến hình các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi, con người bằng xương thịt đang ở bên các ông như mọi ngày và nhân tính của Chúa Giêsu biểu lộ rõ nết khi khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su nói về cuộc chịu nạn, chịu chết và ba ngày sống lại. Cho nên, về thiên tính, Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! "Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”. Còn nhân tính thì xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt, để rồi bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”.

Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào những ngày trong Mùa Chay nhằm muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đón nhận người, rước Ngài vào trong cuộc đời chúng ta để Ngài thức tỉnh chúng ta giúp chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mà vui sống với mọi gian nan đau khổ trên đường đời rồi sẽ đến đỉnh vinh quang chiến thắng tất cả như Thánh Phaolô xác quyết: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12). Còn Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương chúng ta cho đến chết trên Thập Giá sẽ luôn ở bên chúng ta. Ngài luôn ân cần nói với chúng ta: Hãy can đảm lên! Các con không vác Thánh Giá một mình, Ta mang nó với các con. Ta đã vượt qua cái chết để mang đến cho các con sự sống của tin yêu hy vọng” (ĐGH Phanxicô). Vì vậy,  niềm tự hào của chúng ta là Thánh Giá Chúa tôi. Niềm tự hào của chúng ta là vác Thánh Giá đi lên mỗi ngày trong hy vọng niềm tin sáng tươi, không hoang mang lo âu nhưng vui mừng hiên ngang tiến lên vì đường thập tự giá là đường vinh phúc. Qua bao nhiêu thương đau, tình yêu Chúa là lẽ sống chúng ta đi không có gì sợ lo đắn đo vì có Chúa bước đi cùng chúng ta.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi, Ngài đã chọn và đã đi đến đồi Canvê và đến đỉnh vinh quang. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày Chúa sống lại.

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường đời, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục dõi bước theo dấu chân của Ngài trên mọi nẻo đường dù có bình yên hay gian nan thử thách đau khổ để dành lấy vinh quang chiến thắng tội tội, đạt đến sự thánh thiện, bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi. Amen.

-------------------------------

 

MC 2-ABC467: Biến đổi giống Chúa mỗi ngày


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Thay đổi một thói quen của con người thì dễ, nhưng rất khó lòng thay đổi tính hư tật xấu một MC 2-ABC467


Thay đổi một thói quen của con người thì dễ, nhưng rất khó lòng thay đổi tính hư tật xấu một khi đã ăn sâu trong con người. Cho nên người ta thường nói “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, bản tính đây là tính xấu, tật xấu chứ tốt dời làm gì, đổi làm gì. Bởi vì ngay từ đầu con người đã là “nhân chi sơ tính bản thiện”, “ăn hiền ở lành”, “làm lành lánh dữ” cho nên tật xấu tính xấu này Ông Trời, Thiên Chúa không có làm ra, mà do con người tạo ra đó thôi. Vì chưng, trong Sách Thế nói rằng tất cả mọi sự Thiên Chúa tạo dựng đều tốt đẹp. Nhưng “vì một người duy nhất là Ađam, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12). Cho nên rõ ràng rằng tính hư tật xấu là do bởi ta mà ra. Chẳng hạn, tức quá hóa dại. Cho nên, Chúa ban cho ta ơn khôn ngoan, khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ đồng thời nhờ ơn Chúa chúng ta hãy biến đổi những khuynh hướng xấu của tội thành thánh và thiện. Cho nên, Mùa Chay là mùa của biến đổi, đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ; từ con người bất xứng sang thánh thiện; từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.

Tin Mừng Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau  khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Chúa. Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các Tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơm thử thách ập đến. Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người trở về tình trạng nguyên tuyền, là hình ảnh Thiên Chúa. Qua biến cố biến hình, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường tự hủy và khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang. Vì thế, muốn chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ chúng ta hôm nay phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, từ bỏ tính hư tật xấu để trở nên người con của Chúa, xứng đáng là hình ảnh của Chúa để vào Nước Ngài.

Chúng ta không được diễm phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Đức Giêsu như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cuộc biến hình đầu tiên, đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên tội lỗi tổ tông và tội riêng của chúng ta được Chúa biến đổi thành một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.  Nhờ cuộc biến hình này mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và là đền thờ Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi phủ vây. Vì vậy, chúng ta lại cần phải chạy đến Bí Tích giao hòa để Chúa biến đổi từ tội nhân thành trong sạch.

Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình nhờ năn chạy đến với Chúa và lãnh nhận các Bí tích, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thửa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người. Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

------------------------------

 

MC 2-ABC468: Biến hình trên núi Tabor


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 17: 1-9: Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo...

 

Người ta nói rằng trong số các loài chim thì chim ưng có tuổi thọ dài nhất; nó có thể sống đến MC 2-ABC468


Người ta nói rằng trong số các loài chim thì chim ưng có tuổi thọ dài nhất; nó có thể sống đến 70 năm.

Nhưng nếu muốn sống thọ như vậy, chúng buộc phải có một chọn lựa quan trọng và rất khó khăn ở tuổi 40.

Khi sống đến 40 tuổi, móng vuốt của chim ưng bắt đầu lão hóa, không thể túm chặt được con mồi nữa.

Mỏ của nó trở nên vừa dài vừa cong, gần như đụng đến ngực.

Ngoài ra, cánh của nó cũng trở nên vô cùng nặng nề, khiến nó mất rất nhiều sức khi bay lượn.

Lúc này, nó chỉ có hai lựa chọn: một là đợi chết, hai là trải qua quá trình lột xác và tái sinh vô cùng đau đớn.

Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, khoảng một trăm năm mươi ngày. Nó phải cố sức bay lên đỉnh núi và dựng tổ nơi vách núi cheo leo.

Việc đầu tiên mà nó cần làm ở đó là mổ liên tục vào vách đá cho đến khi cái mỏ cũ của nó hoàn toàn tróc đi.

Sau đó, nó phải nằm chờ đến khi cái mỏ mới được mọc lại.

Tiếp theo, nó phải trải qua một quá trình đau đớn hơn - dùng cái mỏ mới nhổ từng cái móng cũ ra và chờ móng mới mọc lại.

Cuối cùng, nó phải nhổ đi từng chiếc lông vũ và tiếp tục chờ đợi để đám lông vũ mới mọc ra.

Đến lúc này, diều hâu mới có thể bay lượn lại và sống thêm ba mươi năm nữa.

(First News, Điều bình dị thông thái p.57-58)

Hôm nay ngày lễ Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor.

Chúng ta sẽ chẳng hiểu được dụng ý của Chúa Giêsu khi hiển dung trên núi Tabor, nếu chúng ta không đặt trong bối cảnh của sự kiện.

Sau khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: vậy các con bảo Thầy là ai?

Simon Phêrô trả lời: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.

Tiếp đó, Chúa Giêsu nói về cái chết sắp đến của Người:

Thầy phải lên Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tế và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21).

Nghe thế Phêrô đã can ngăn Chúa.

Cho tới lúc này các môn đệ vẫn chưa hiểu sứ vụ Messia của Chúa Giêsu.

Các ông theo Chúa và các ông vẫn thầm mong rằng khi Nước Chúa hiển trị các ông cũng sẽ được chia chác quyền lợi cũng như địa vị trong vương quốc của Chúa.

Chính vì vậy sáu ngày sau, Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao.

Chúa đã tỏ vinh quang của Người trước mặt các ông.

Và Phêrô đã thốt lên: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy cho phép, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Elia.

Chính ở đây Phêrô hiểu ra rằng để được tham dự vào vinh quang của Chúa Phêrô phải chấp nhận con đường khổ giá mà Chúa Giêsu nói đến cách đây sáu ngày.

Để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor, chắc chắn chúng ta cũng phải qua con đường thập của Chúa Giêsu.

Chính con đường thập gía, chúng ta sẽ được biến đổi, biến đổi để được tham dự vào sự sáng láng của Chúa trên núi Tabor.

Nhưng phải biến đổi như thế nào?

Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói với tín hữu Êphêsô:

”Hãy lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.
Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân đến tận tâm linh của anh em” (Ep 4,22.24).
Phải  lột bỏ con người cũ như thế nào?

Hình dung lại những giai đoạn lột xác của chú chim ưng chúng ta sẽ thấy:

- Trước hết nó mổ liên tục vào vách đá để cho lớp mỏ già cũ tróc đi.

Quả là một hy sinh đau đớn và tốn nhiều công sức.

- Sau đó lại phải dùng chính cái mỏ mới này để rút những móng vuốt già cũ của đôi chân. Một tác động phải can đảm lắm.

- Sau cùng phải rút tỉa những chiếc lông già cũ.

Công việc này chắc chắn sẽ làm chú chim ưng ê ẩm đau nhức một thời gian khá dài.

Chú chim ưng chỉ muốn kéo dài kiếp sống thêm 30 năm mà còn phải chấp nhận 150 ngày thử thách đau thương, phương chi là con người chúng ta, từ một con người yếu đuối, tội lỗi để đi vào sự chia sẻ thiên tính vinh quang của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải trải qua những giai đoạn lột xác như con chim ưng.

Lột bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.

Và để Thánh Thần Thiên Chúa canh tân đến tận tâm hồn chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con muốn theo Chúa lúc Chúa biến hình trên núi Tabor, nhưng chúng con lại muốn dừng lại bên ngòai vườn Cây Dầu, và không muốn trèo lên núi Canvê.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mạnh dạn theo Chúa trên con đường Chúa đã đi, con đường thập giá, con đường dẫn lên Núi Sọ. Amen.

-----------------------------

 

MC 2-ABC469: Vẻ đẹp của phẩm giá con người


(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Tin mừng Mt 17: 1-9: Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá...

SUY NIỆM

 

Khi nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự phát triển khoa học kỹ thuật cách vượt MC 2-ABC469


Khi nhân loại bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự phát triển khoa học kỹ thuật cách vượt trội, thìon người kỳ vọng về một cuộc sống hạnh phúc hơn, an bình hơn. thế nhưng sự kỳ vọng luôn là một ước mơ xa vời, cho dẫu y khoa có tiến bộ đó, nhưng con người  vẫn luôn đối diện với những căn bệnh ngặt nghèo mà không có một phương thuốc chữa trị được; cho dẫu khoa học kỹ thuật đang nỗ lực tạo ra cho con người những tiện nghi để cuộc sống đỡ vất vả hơn, thế nhưng cuộc sống của con người vẫn luôn đầy dẫy khó khăn; sự văn minh có tiến bộ đó, nhưng đời sống con người luôn ở trong tình trạng bất an. Sự bất an đó không chỉ đến từ mối lo về vệ sinh an toàn thực phẩm, về an ninh xã hội…, nhưng trên hết chính là sự vô cảm ngày càng phát trển nơi cộng đồng xã hội về việc tôn trọng phẩm giá con người.

Con người trong thế kỷ tiến bộ nầy đã biến thành phương thế kiếm tiền cho các tổ chức tội phạm như nạn bắt cóc trẻ em để buôn bán nội tạng hoặc biến thành nô lệ tình dục cho những người nhiều tiên nhiều bạc nhưng bệnh hoạn, nạn buôn bán phụ nữ cho các quán lầu xanh để phục vụ cho những con người chỉ tìm thoả mãn nhục thú, và nhất là sự sống con người càng ngày càng bị khinh rẻ, cho nên người ta đã không gớm tay khi phá thai, hoặc ra tay giết chết đồng loại. Người thời đại hầu như không còn nhận ra đặc tính thần linh nơi con người, mà hầu như chỉ còn coi sự hiện hữu của con người giống như bao sinh vật khác, và vì thế phẩm giá con người bị chà đạp cách thô bỉ.

Biến cố biến hình trên núi Tabor của Chúa như một lời minh định về phẩm giá của con người, một phẩm giá được Chúa trao ban và qua đó con người được thần hoá. Nhờ phẩm giá đó mà con người được Thiên Chúa yêu thương và được gọi là con. Quả thật, lời Kinh Thánh đã minh xác: Đức Kitô đã mặc lấy thân xác con người như chúng ta, nghĩa là một thân xác được cấu tạo từ bụi đất, mỏng dòn và hư hoại. Nhưng thân xác đó đã được Đức Kitô biến đổi để trở nên chói lọi như mặt trời, có nghĩa là thân xác đó được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa. Và điều đó thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng về sự vinh quang mà thân xác của chúng ta sẽ được dự phần.

Niềm hy vọng đó không là chuyện hão huyền, bởi Đức Kitô đã trở thành trưởng tử của đàn em đông đúc, cũng có nghĩa là người anh cả không để đàn em hư mất, nhưng trái lại người anh ở đâu thì đàn em cũng ở đấy. Vì thế, cuộc biến hình trên núi của Chúa là lời mời gọi chúng ta bước theo Người để cùng được biến đổi như Người. Con đường theo Chúa, chính là con đường của Thập Giá, con đường của hy sinh, của từ bỏ lối sống hưởng thụ ích kỷ, để yêu thương và biết xót thương.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tôn trọng phẩm giá của chính mình và của ngừoi khác để chúng con luôn biết điểm tô cho phẩm giá bẳng tình yêu thương, và sự dấn thân phục vụ thiện ích cho nhau. Amen

---------------------------

 

MC 2-ABC470: Chúa Nhật 2 Mùa Chay


(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Trong cả chu trình ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình MC 2-ABC470


Trong cả chu trình ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Mùa Chay đều tường thuật biến cố Biến Hình. Biến cố này nhắc người Ki-tô hữu nhớ rằng trong thời gian Mùa Chay họ không chỉ được dự phần vào mầu nhiệm Thương Khó và Tử Nạn, nhưng cũng vào mầu nhiệm Phục Sinh vinh quang của Đức Giê-su.

St 12: 1-4a

Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, thuật lại ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Vâng theo tiếng gọi mầu nhiệm, ông Áp-ra-ham rời bỏ quê hương và gia tộc của mình để đi đến một vùng đất xa lạ. Ông gắn bó với một Thiên Chúa duy nhất, Đấng ông đã đón nhận Lời Hứa tuyệt vời của Ngài, như thư gởi tín hữu Do thái viết: “Vì thế, do một con người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 12).

2Tm 1: 8b-10

Viết cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân yêu của mình đang trải qua thời gian thử thách, thánh Phao-lô nhắc nhớ hiệu quả tâm linh của đau khổ, vì chỉ có đau khổ mới đảm bảo cho công cuộc loan báo Tin Mừng được sinh hoa kết quả và dẫn chúng ta đến cuộc sống bất tử.

Mt 17: 1-9

Tin Mừng trình thuật cuộc Biến Hình theo thánh Mát-thêu. Biến cố nầy được đặt vào trong bối cảnh Đức Giê-su loan báo lần đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Lời loan báo nầy đã khiến cho các môn đệ bàng hoàng. Vì thế, như một cách thức giải tỏa sự kỳ chướng của thập giá, Đức Giê-su đã đem ba môn đệ lên núi cao, ở đó Ngài cho các ông thoáng thấy trước vinh quang Phục Sinh của Ngài, qua đó Ngài đảm bảo với các ông rằng Thương Khó và Tử Nạn là con đường cứu độ mà Ngài phải đi qua, nhưng đây không là một ngõ cụt mà khai mào cho cuộc Phục Sinh vinh quang.

BÀI ĐỌC I (St 12: 1-4a)

Sách Sáng Thế được chia thành hai phần: phần thứ nhất (1: 1-11: 26) trình thuật nguồn gốc nhân loại và phần thứ hai (11: 27-50: 26) trình thuật nguồn gốc dân Ít-ra-en qua các Tổ Phụ của họ. Bài Đọc I, trích từ đoạn đầu của phần thứ hai sách Sáng Thế, bao gồm ơn gọi, lời hứa và lời chúc phúc.

1. Ơn gọi (St 12: 1)

Lời mở đầu của Bài Đọc 1: “Khi ấy, Chúa phán với ông Áp-ra-ham: ‘Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi’” (12: 1), quy chiếu đến những sự kiện trước đó (11: 27-32). Quê quán của ông Te-ra, cha của ông Áp-ra-ham, là thành Ua, một thành phố lớn ở Hạ Lưỡng Hà Địa. Thành Ua là một trong những chiếc nôi của nền văn minh Su-me rực rỡ. Một ngày kia, ông Te-ra quyết định rời bỏ thành Ua cùng với gia tộc của mình “để đi tới đất Ca-na-an” (St 11: 31). Nhưng ông Te-ra cùng gia tộc của mình định cư lập nghiệp ở Kha-ran phía bắc miền Lưỡng Hà Địa và ở đó ông qua đời (11: 32).

A- Cuộc hành trình đức tin

Phải chăng khi rời bỏ Kha-ran để đi tới đất Ca-na-an, ông Áp-ra-ham, người con trưởng của ông Te-ra, muốn tiếp tục thực hiện ước nguyện của cha mình? hay vâng theo một sự thôi thúc nội tâm? Thật khó xác định rõ ràng. Dù thế nào, truyền thống luôn luôn gìn giữ ký ức sống động về cuộc hành trình tâm linh của ông Áp-ra-ham. Đó là một đề tài gây kinh ngạc vì nhiều lẽ.

Trước hết, vị tổ phụ gắn bó mật thiết với một Thiên Chúa độc nhất khi loại bỏ các vị thần linh khác của tôn giáo cha ông. Đây là một kinh nghiệm mầu nhiệm đặc biệt, biến cố trọng đại, khởi điểm của ơn tuyển chọn Ít-ra-en. Thứ nữa, khi gọi ông Áp-ra-ham ra đi, Thiên Chúa đòi hỏi ông thực hiện một hành vi đức tin: cắt đứt mọi mối dây liên hệ với quê hương, bà con thân thuộc và nhà cha của mình để đi đến một miền đất chưa được xác định:“đến đất mà Ta sẽ chỉ cho người” (12: 1). Hơn nữa, vào lúc đó, Thiên Chúa chưa hứa với ông: “đến đất mà Ta sẽ ban cho ngươi” hay “đến đất mà hậu duệ người sẽ sở hữu”. Ông Áp-ra-ham chấp nhận vâng lời bằng hành vi tin tưởng và phó thác: “Ông A-bra-ham ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (12: 4).

B- Kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa

Chính trong khi sống trong kiếp lang bạt từ Kha-ran đến Ai-cập, đoạn đến Khép-rôn mà tổ phụ Áp-bra-ham đã chia sẻ thân phận của biết bao người vào thời đó, vì những biến động lịch sử họ phải tha phương lang bạt khắp nơi. Tuy nhiên, chính cũng trong kiếp sống lang bạt đó mà ông Áp-ra-ham càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa của ông hơn, gắn bó với Thiên Chúa mật thiết hơn, Đấng hiện diện với ông trong cảnh đời vô định và cũng phán với ông qua những bất tất lịch sử. Dù ông Áp-ra-ham không thấy ngay tức khắc tất cả những thành quả của lời hứa, nhưng ông đặt để tương lai của mình vào trong niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa của ông.

Đây là khuôn mẫu các bài tường thuật về ơn gọi trong Cựu Ước. Khi nào Thiên Chúa gọi những lãnh tụ, sứ giả, ngôn sứ … , Ngài đòi hỏi họ một sự thoát ly, tiến về phía trước mà không nhớ tiếc quá khứ hay lưu luyến tình thân. Đức Giê-su cũng sẽ có một thái độ từ bỏ cách dứt khoát như thế và Ngài cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài cũng phải có một hành vi tin tưởng và phó thác như vậy, Ngài cũng đòi hỏi những người mà Ngài chữa lành về phương diện thể xác hay luân lý như vậy: “Hãy đi và đừng phạm tội nữa”, hay “Hãy đi, đức tin của con đã cứu con”, hoặc “hãy chỗi dậy và đi!”.

2. Lời hứa (St 12: 2)

Lời đầu tiên Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn… Ta sẽ cho tên tuổi ngươi sẽ lẫy lừng…” (12: 2), lời hứa này sẽ còn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần xuyên suốt “truyện dài nhiều tập” của tổ phụ Áp-ra-ham (St 11: 27-25: 11).

Tuy nhiên, những gì Thiên Chúa hứa ban luôn luôn mâu thuẫn với thực trạng trước mắt. Thiên Chúa loan báo cho cụ già bảy mươi lăm tuổi không con nầy, lãnh tụ của một bộ tộc du mục nhỏ bé nầy, một tương lai huy hoàng rực rỡ hoàn toàn không tương xứng với những gì mà ông hiện có trong tầm tay: một kẻ không có gì bảo đảm cho tương lai (vợ ông, bà Xa-rai hiếm hoi, không con: St 11: 30) được mời gọi lên đường đến một nơi chưa được xác định. Tuy nhiên, truyền thống Ít-ra-en luôn luôn xem tổ phụ Áp-ra-ham là cha của lời hứa. Chính vì lời hứa nầy mà ông sống. Quả thật, chính từ lời hứa này, ông sinh ra một dân mà Chúa đặc tuyển làm dân riêng của Ngài, một dân mà Thiên Chúa ưu ái cách đặc biệt.

3. Lời chúc phúc (12: 3)

Lời chúc phúc của Thiên Chúa là dấu chỉ hữu hình cho thấy tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả tính hữu hiệu và nhắc nhớ ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa:

“Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho người;

ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.

Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12: 3).

Lời chúc phúc không bị giới hạn vào con người Áp-ra-ham, nhưng mở ra những viễn cảnh còn rộng lớn hơn. Theo mạch văn của sách Sáng Thế, ông Áp-ra-ham được định vị trong hàng hậu duệ của ông Sêm, vì thế phân biệt với hậu duệ của ông Kham và ông Gia-phết. Tuy nhiên, lời chúc phúc mà ông Áp-ra-ham cưu mang và qua trung gian của ông, sẽ trải rộng đến hết mọi gia tộc trên mặt đất. Nếu Thiên Chúa đã tuyển chọn một người, một dân tộc, trong cái khung lịch sử để truyền đạt giao ước, lời hứa và lời chúc phúc, thì muôn dân tộc trên mặt đất, ngay từ nguyên khởi của lịch sử cứu độ, đã là những người thụ hưởng những ân phúc nầy rồi. Vì thế, lời chúc phúc nầy vốn hàm chứa chiều kích phổ quát của Ki-tô giáo rồi.

4. Viễn cảnh thần học

Tác giả Gia-vít đã suy niệm sâu xa về địa vị ưu đẳng của con người và sự thất bại do tội lỗi gây ra (St 2: 4-19). Cũng chính tác giả đã nhắc nhớ huynh đệ tương tàn giữa hai anh em Ca-in và A-ben, lụt Hồng Thủy, tháp Ba-ben, nghĩa là nhân loại càng lúc càng lún sâu trong vũng lầy của sự ác và là đối tượng của những trừng phạt và những lời chúc dữ của Thiên Chúa.

A- Tổ phụ Áp-ra-ham là phản đề của nguyên tổ A-đam

Vào lúc ông Áp-ra-ham vâng lệnh Thiên Chúa mà ra đi, có điều gì đó thay đổi trong lịch sử của nhân loại. Không gì ngoài những lời chúc phúc: “Ta sẽ chúc phúc cho ngươi… Ngươi sẽ là một mối phúc lành…”. Trong tất cả kỳ tích của vị tổ phụ này, tác giả nêu bật ông Áp-ra-ham như một phản đề của nguyên tổ A-đam. Nguyên tổ A-đam đã nghi ngờ và đã bất tuân, trái lại tổ phụ Áp-bra-ham là con người của niềm tin và tuân phục. Chính từ nguyên tổ A-đam mà sự ác xâm nhập vào nhân loại và kéo theo lời chúc dữ của Thiên Chúa. Khởi đi từ tổ phụ Áp-ra-ham, nhân loại được mời gọi sống niềm hy vọng. Chắc chắn, qua vị tổ phụ này, Thiên Chúa chọn cho mình một dân tộc, nhưng sự chọn lựa nầy, thay vì giới hạn ý định của Ngài, trái lại loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ: “Nhờ ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc lành”.

B- Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của những người tin

Tổ phụ Áp-ra-ham sống trên đất Ca-na-an như người du mục của Thiên Chúa và ông sẽ không ngừng là người du mục nầy, trong khi tìm kiếm một nơi thờ phượng: Xi-khem, Bê-then… Từ cuộc sống du mục của vị tổ phụ nầy, tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã rút ra tầm mức tâm linh: “Nhờ đức tin, ông A-bra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như một nơi đất khách… vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng… Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được” (Dt 11: 8-12).

BÀI ĐỌC II (2 Tm 1: 8-10)

Thư thứ hai gởi ông Ti-mô-thê là bút tích cuối cùng của thánh Phao-lô. Lúc đó, thánh nhân đang bị giam cầm rất nghiêm ngặt ở Rô-ma: thánh nhân “phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” (2Tm 2: 9). Thánh nhân biết rất rõ số phận đang chờ đợi ngài: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính” (2Tm 4: 6-8).

1. Ông Ti-mô-thê

Ông Ti-mô-thê là người đồng sự thâm niên và rất trung thành của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã nhận ông vào chuyến hành trình truyền giáo thứ hai của ngài khi ngài đến Lýt-ra, miền Tiểu Á vào năm 46 hay 47 (Cv 16: 1-3).

Cha ông là người Hy lạp, còn mẹ ông là người Do thái đã theo Ki-tô giáo, ông Ti-mô-thê đã được mẹ ông là bà Êu-ni-kê và bà ngoại ông là bà cụ Lô-ít dạy Kinh Thánh lúc còn thơ ấu, vì thế ông đã có lòng tôn kính Kinh Thánh và có một vốn kiến thức sâu xa về Kinh Thánh, như thánh Phao-lô đã nhận định về lòng tin của ông: “Tôi hồi tưởng lại niềm tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (1Tm 1: 5).

Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau vô cùng mật thiết đến mức sáu bức thư của thánh Phao-lô đều có ông Ti-mô-thê là người đồng gởi, trong đó có thể ông đã biên soạn vài đoạn. Thánh Phao-lô giao phó cho ông Ti-mô-thê trông coi cộng đoàn Ê-phê-xô để đảm bảo công việc loan báo Tin Mừng vẫn được tiếp tục, vì ông là người đáng tin cậy. Thánh Phao-lô cũng đã bổ nhiệm ông Ti-tô ở Crète như vậy. Vì thế, các thư gởi cho ông Ti-mô-thê và ông Ti-tô được gợi “Các Thư Mục Vụ”, vì trong những thư này, thánh Phao-lô đưa ra những huấn thị của mình cho những người kế nghiệp ngài.

2. Lý do của bức thư

Vào lúc đó, cộng đoàn Ê-phê-xô gặp phải những khó khăn do những biện luận (thánh Phao-lô kể ra sau đó) dễ nẩy sinh lạc giáo. Khi phải đối mặt với những trào lưu tư tưởng, người tông đồ phải giữ vững một thái độ duy nhất là “loan báo Tin Mừng”. Trong đoạn trích dẫn ngắn này, thánh nhân lập lại hai lần diễn ngữ này. Thánh nhân khẩn khoản nhắc cho ông Ti-mô-thê nhớ rằng lời rao giảng của ông, dù thế nào đi nữa, đừng để bị ảnh hưởng bởi những học thuyết thịnh hành vào lúc đó. Tin Mừng không thể nào bị xuyên tạc bóp méo được.

3. Tính hiệu quả của sự đau khổ

Để lời khích lệ mình có tác dụng, thánh nhân trước tiên nhắc nhở tính hiệu quả của sự đau khổ. Ông Ti-mô-thê chịu đau khổ. Thánh Phao-lô cũng chịu đau khổ trong xiềng xích. Thánh Phao-lô nói với người môn đệ thân yêu của mình: “Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng” (1: 8). Nhờ đau khổ, lời rao giảng Tin Mừng được sinh hoa kết trái. Lời mời gọi nầy nhắc nhớ đến lời dạy của thánh nhân trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê: “Những gian nan thử thách Đức Giê-su còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1: 24).

4. Ơn gọi tông đồ

Tiếp đó, thánh nhân nhắc nhở ông Ti-mô-thê về sự cao cả của ơn gọi tông đồ, thuần túy ân sủng của Thiên Chúa, không có liên hệ gì với “công kia việc nọ chúng ta đã làm”. Những lời nầy âm vang Bài Đọc I về ơn gọi của tổ phụ Áp-ra-ham. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi khám phá ở đây một đạo lý về ơn cứu độ bởi đức tin, chứ không bởi công trạng. Chúng ta đang ở trong cùng một dòng tư tưởng. Chúng ta cảm nhận rằng đây là niềm xác tin mà thánh nhân đã sống: chính thánh nhân, xưa kia là một Biệt Phái tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật và là người nhiệt thành bách hại Ki-tô giáo, đã được Thiên Chúa chọn làm Tông Đồ của Ngài không do công trạng của mình, nhưng do “kế hoạch và ân sủng của Chúa”.

5. Sự chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh

Sau cùng, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê hãy vững tin vào những lời hứa ban “phúc trường sinh bất tử”, bao hàm cuộc khải hoàn phục sinh của Đức Ki-tô. Đó chính là sứ điệp mà ông phải loan báo. Kế hoạch này Thiên Chúa đã dự định từ muôn thuở được biểu lộ qua mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Đức Giê-su.

Trong những thư khác của thánh Phao-lô, chúng ta gặp thấy những diễn ngữ tương tự; chắc chắn trong đoạn trích nầy, nhờ mạch văn, những diễn ngữ nầy có mức độ chính xác hơn. Vì ở giữa những đe dọa lạc thuyết giữa lòng cộng đoàn Ê-phê-xô, có những quan niệm sai lạc về mầu nhiệm Phục Sinh. Thánh Phao-lô ra sức gìn giữ cho đến hơi thở cuối cùng làm thế nào sứ điệp Tin Mừng được thuần khiết.

Thư này không được gởi cho cộng đoàn như phần lớn các thư khác của thánh Phao-lô, nhưng cho một cá nhân đảm nhận một chức vụ đặc thù. Rõ ràng phải lưu ý đến điều nầy trong bản văn. Tuy nhiên, đoạn trích dẫn nầy mang lấy một tầm mức phổ quát hơn, vì lẽ nó có thể tách biệt ra khỏi mạch văn và có thể được hiểu như được gởi cho mọi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu là chứng nhân cho Đức Ki-tô và vì thế phải để cho mình bị chất vấn bởi lời căn dặn khẩn thiết của thánh Phao-lô trong đoạn thư nầy, như Karl Gatzweiler nhận định: “Không bản văn nào thích hợp cho việc nuôi dưỡng sứ mạng loan báo Tin Mừng của chúng ta hơn bản văn nầy. Nó quy chiếu chúng ta đến điều cốt yếu. Phải rao giảng Đức Giê-su Ki-tô, Đấng tỏ mình ra là vị Thiên Chúa cứu độ. Phải loan báo Tin Mừng về sự Phục Sinh của Ngài, Đấng chiến thắng sự chết và mở lối vào cuộc sống thần linh. Ngoài ra, bản văn nầy nhắc nhở cho mọi người Ki-tô hữu ơn gọi làm chứng nhân của họ, họ phải thực thi vai trò chứng nhân của mình không chút ngần ngại, với lòng can đảm và lạc quan, bất chấp những khó khăn. Vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (“Parole sur le chemin”, tr. 52). 

TIN MỪNG (Mt 17: 1-9)

Bài trình thuật về biến cố Biến Hình là một trong những bài trình thuật Tin Mừng chất nặng mầu nhiệm nhất, nhưng cũng là một trong những bài trình thuật phong phú nhất về giáo huấn. Cả ba tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều tường thuật biến cố nầy và đều đặt vào trong bối cảnh vài ngày sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô và lời công bố đầu tiên về cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Trước đó, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Thánh Phê-rô đáp: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15-16). Nghĩ rằng thời điểm đã đến để mặc khải Ngài là Đấng Mê-si-a như thế nào, Đức Giê-su loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô không thể nào dung hòa được một viễn cảnh như thế với lời khẳng định mà ông vừa mới tuyên xưng, vì thế ông đã ngăn cản Ngài. Biến cố Biến Hình mang đến một câu trả lời.

1. Thời điểm, nhân vật và nơi chốn

Bài trình thuật bắt đầu với thời điểm: “Sáu ngày sau”, diễn ngữ thời gian này, xét về phương diện văn chương, đóng vai trò chuyển tiếp vừa để giới thiệu bài trình thuật tiếp theo sau, nhưng đồng thời cũng để nối kết với bài trình thuật đi trước. Thời điểm “Sáu ngày sau” nghĩa là sáu ngày sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16).

Bài trình thuật đi trước kết thúc với một lời nói bí nhiệm của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị” (Mt 16: 28), trong khi bài trình thuật Biến Hình bắt đầu với việc kể ra ba nhân vật được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình này: “Đức Giê-su đem ông Phê-rô, cùng hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đi riêng với mình lên một ngọn núi cao”. Vì thế, đa số các Giáo Phụ và các nhà chú giải nhận thấy rằng câu nói bí nhiệm nầy loan báo trực tiếp đến biến cố Biến Hình, đặc biệt kiểu nói: “trong số người có mặt ở đây”, có thể nhắm đến ba môn đệ được tuyển chọn làm chứng nhân cho biến cố Biến Hình nầy. Ngoài ra, thời điểm “Sáu ngày sau” và nơi chốn “một ngọn núi cao” xem ra quy chiếu đến Xh 24: 16: “Vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê”. Chính ở trên núi cao nơi tách biệt nầy mà Đức Giê-su, Mô-sê mới, Đấng giải phóng dân Ngài, dẫn ba môn đệ được tuyển chọn, những người mà sau nầy cũng sẽ được chứng kiến lời cầu nguyện tha thiết của Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu (Mt 26: 37).

Trong khi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều xác định biến cố Biến Hình xảy ra “sáu ngày sau” lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Mc 9: 2; Mt 17: 1), thì thánh Lu-ca lại xác định “khoảng tám ngày sau” (Lc 9: 28), tức là ngày thứ nhất sau ngày sa-bát, ngày các truyền thống Tin Mừng tưởng niệm ngày Phục Sinh của Đức Giê-su. Tuy các Tin Mừng Nhất Lãm đưa ra thời điểm có khác nhau, nhưng cả ba đều có chung quan điểm thần học như lời nhận định của cha Guillemette: “Xét theo văn mạch, thì cuộc biến hình có mục đích cho các môn đệ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người của Đức Giê-su đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đệ đầy sợ hãi rằng họ phải vâng lời đi theo Đức Giê-su trên đường dẫn tới Giê-su-sa-lem, tiến đến vinh quang qua thập giá” (“L’Evangile de Matthew”, 195).

Tại sao Đức Giê-su phải nhọc công leo lên ngọn núi cao, đến nơi đồi núi hoang vắng nầy ? Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta câu trả lời: “Người lên núi để cầu nguyện”. (Lc 9: 29). Theo truyền thống Cựu ước, “núi” là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và là nơi Thiên Chúa bày tỏ mình ra. Vì thế, sự kiện núi không được nêu tên không phải là không có chủ ý, bởi vì “ngọn núi cao” không thuộc trật tự địa lý nhưng tâm linh. Trong vài giây phút nữa, ngọn núi nầy sẽ mang dáng dấp của núi Xi-nai, nơi các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình vinh hiển của Đức Giê-su và cuộc Thần Hiển.

2. Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Ngài

Thánh Mát-thêu mô tả cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giê-su thành một con người rạng ngời vinh hiển: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”, còn thánh Lu-ca thì mô tả sự biến đổi hình dạng nầy trong mối tương quan tăng dần của lời cầu nguyện mà Chúa Giê-su thân thưa với Cha của Ngài: “Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9: 29). Biến cố Biến Hình nầy mặc khải rằng con người xác thịt của Ngài được liên kết với chính Hữu Thể Thiên Chúa, có nghĩa, kể từ đây, cái chết không có quyền gì trên thân xác của Ngài; theo một cách nào đó, biến cố Biến Hình là tham dự trước cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.

3. Sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Ê-li-a

Chính trên một ngọn núi Xi-nai (còn gọi là Khô-rếp), ông Mô-sê và ông Ê-li-a đã lần lượt gặp gỡ Thiên Chúa. Cũng trên ngọn núi Biến Hình nầy, “ba môn đệ thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người”. Sự hiện diện của hai nhân vật này là một bảo chứng tuyệt vời cho tước vị Mê-si-a của Đức Giê-su, bởi vì cả hai ông được xem như báo trước Đấng Mê-si-a: ông Mô-sê đã báo trước rằng một vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, lời của Đấng ấy sẽ là lời của chính Thiên Chúa (Đnl 18: 18); còn ông Ê-li-a, theo truyền thống, phải trở lại để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến.

Hơn nữa, hai nhân vật nầy hiện diện bên cạnh Đức Giê-su vinh hiển, không chỉ như biểu tượng của Lề Luật và Ngôn Sứ, nhưng cũng như những người trung gian tuyệt mức của Giao-Ước. Như vậy, họ đại diện khởi đầu và chung cuộc của Lịch Sử Cứu Độ được hoàn thành nơi Đức Giê-su. Vì thế, biến cố Biến Hình nhấn mạnh mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước.

Bài trình thuật của thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng hai ông Mô-sê và ông Ê-li-a đàm đạo với Đức Giê-su về “cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9: 31). Thuật ngữ “xuất hành” nhắc nhớ đến cuộc hành trình gian khổ nhất của dân Ít-ra-en: ra khỏi đất Ai-cập và lang thang trong hoang địa. Cuộc hành trình ấy đòi hỏi dân Thiên Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dẫn họ đến miền Đất Hứa. Với một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng dấn thân vào một cuộc hành trình gian khổ nhất, một cuộc hành trình đến thập giá, nhưng cũng là cuộc hành trình đến vinh quang. Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su đã nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong kiếp sống phàm nhân trên con đường tiến về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, Chúa Giê-su được Chúa Cha an ủi cách đặc biệt bằng biến Cố Biến Hình. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã sở hữu trước khi Nhập Thể, vinh quang nầy Ngài lấy lại trong một khoảng khắc thoáng qua của cuộc Biến Hình.

4. Ba nhân chứng

Chỉ có ba môn đệ: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, được diễm phúc chứng biến cuộc Biến Hình. Trước đây, chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su cho phép chứng kiến việc Ngài phục sinh con gái ông Gia-ia (Mc 5: 37), và sau này cũng chính ba môn đệ nầy được Đức Giê-su dẫn theo với Ngài vào trong vườn Cây Dầu ở đó họ sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Ngài (Mt 26: 37). Trước đây, trong việc Phục Sinh con gái của ông Gia-ia, ba môn đệ nầy chứng kiến quyền năng của Ngài trên sự chết (Mc 5: 37), còn nay trong cuộc Biến Hình vinh hiển nầy, họ nghe Chúa Cha chứng nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 17: 5), để rồi sau nầy trong cuộc Khổ Nạn của Ngài, họ có đủ nghị lực chịu đựng và tin tưởng khi thấy Thầy mình phải chịu nhục mạ, khổ hình.

Việc thánh Phê-rô có mặt trong biến cố Biến Hình rất quan trọng, bởi vì ông gặp thấy ở đây sự cũng cố cho lời tuyên xưng trực giác của ông ở Xê-da-rê: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Mặt khác, ông chứng kiến một Đức Giê-su vinh hiển thay thế cho hình ảnh về một Đấng Ki-tô chịu đau khổ mà theo quan điểm của ông, ông không thể nào chấp nhận được. Sau này, vị lãnh tụ của các Tông Đồ sẽ đảm nhận một công việc khó khăn là rao giảng một Đức Ki-tô bị đóng đinh giữa hai tên gian phi, còn lúc nầy thánh nhân chiêm ngưỡng Đức Giê-su vinh hiển ở giữa hai nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Vì thế, cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Sọ. Như vậy, niềm tin, trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội dựa vào, được đặt nền móng ở nơi biến cố Biến Hình này.

Thánh Gio-an, người môn đệ trung thành, sẽ đi cho đến cùng và sẽ chiêm ngắm một thân xác bầm dập rách nát không còn hình tượng người của Đấng bị đóng đinh trên khổ giá, chính ông sẽ viết trong Tựa Ngôn Tin Mừng của mình:

“Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).

Ẩn hiện sau Tựa Ngôn này là bức tranh về biến cố Biến Hình. Còn thánh Gia-cô-bê là vị Tông Đồ đầu tiên chết vì niềm tin của mình.

5. Phản ứng của Phê-rô

Trong chương nầy, như trong những chương trước đây, thánh Mát-thêu nêu bật nhân vật Phê-rô. Trước đây, chỉ mình thánh Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su ở Xê-da-rê, và chỉ một mình thánh nhân bày tỏ nổi bất bình khi Thầy mình loan báo cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh.

Trong câu chuyện Biến Hình nầy, thánh nhân cũng là người duy nhất phản ứng. Vốn bản tính nhiệt thành, bộc trực, nghĩ sao thì nói vậy, thánh Phê-rô muốn dừng thời gian và hoạt cảnh nầy lại khi đề nghị dựng ba lều: một cho Đức Giê-su, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Khi phát biểu như vậy, thánh nhân không nghĩ gì đến mình và các bạn đồng môn của mình. Tuy nhiên, có thể thánh nhân liên tưởng đến lễ Lều, lễ tưởng niệm dân Ít-ra-en đã dựng lều trong hoang địa trước khi vào Đất Hứa: biểu tượng niềm mong đợi thời Thiên Sai.

Theo truyền thống Do thái, vào thời sau hết Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân Ngài (Ed 37:27 ; Hs 12: 10) trong lều vinh quang của Ngài, còn dân chúng sẽ dựng lều quanh Đấng Ki-tô của họ (Ga 1: 14) và các dấu lạ thời Xuất Hành sẽ tái diễn. Vì thế, qua phản ứng nầy, có thể trong tiềm thức, thánh Phê-rô chứng nhận rằng mình luôn luôn tin vào sự đăng quang vinh hiển của Đấng Ki-tô. Khi đề nghị dựng ba lều, ông nghĩ rằng thời sau hết đã đến và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên mặt đất ngỏ hầu cuộc Thần Hiển trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi.

6. Cuộc Thần Hiển

“Ông Phê-rô còn đang nói, chợt có một đám mây sáng ngời bay đến phủ bóng trên các ông”. Trong Cựu Ước, đám mây sáng ngời vừa bày tỏ nhưng đồng thời phủ che sự hiện diện hữu hình nhưng siêu việt của Thiên Chúa trước mắt phàm nhân (Xh 40: 34-35 ; 1V 8: 10-12 ; Ed 10: 3-4 ; Tv 18: 12). Một giọng nói vang lên như vào ngày Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy giả, tuy nhiên ở đây không còn là “các tầng trời mở ra và Thần Khí ngự xuống trên Người”, nhưng “dung mạo Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” với lời công bố tước vị “Con Thiên Chúa” của Đức Giê-su. Lời công bố này không chỉ nhấn mạnh đặc tuyển, nhưng cũng nhắm đến tầm quan trọng của sứ điệp: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Huấn lệnh nầy xem ra nhắc nhớ lời hứa của Đức Chúa với dân Ngài qua ông Mô-sê: từ giữa họ, Ngài sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ như Mô-sê, Ngài sẽ đặt lời Ngài trên môi miệng của Đấng ấy, vì thế “Các ngươi hãy nghe vị ấy” (Đnl 18: 15). Như vậy, Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.

Phải lưu ý rằng đám mây bao phủ ba vị Tông Đồ, như vậy hiệp nhất họ với Đức Giê-su, liên kết họ làm một với mầu nhiệm của Ngài, trong mặc khải kín nhiệm mà họ không được hé lộ ra cho bất cứ ai trước khi Ngài sống lại (17: 9). Nói cho cùng, chỉ trong ánh sáng Phục Sinh của Đức Giê-su, các ông mới có thể hiểu được những gì các ông đã chứng kiến trong cuộc Biến Hình này. Khi đám mây biến mất, các Tông Đồ không còn thấy ai ngoài chỉ một mình Đức Giê-su. Từ đây, Đức Giê-su hiện thân cho Lề Luật và Các Ngôn Sứ.

7. “Chỗi dậy đi”

Trước đây, các ông đã nghe lệnh truyền nầy vào lúc Ngài phục sinh con gái của ông Gia-ia, lúc này Đức Giê-su cũng lập lại lệnh truyền này với các ông: “Chỗi dậy đi!”, đó cũng là lời căn dặn được ngỏ với các ông: “Đừng nói cho ai hay điều anh em vừa thấy, cho đến khi Con Người chỗi dậy từ cõi chết”. Vào lúc nầy, các ông không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của lời căn dặn nầy. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su đã cho họ chứng kiến cuộc phục sinh con gái của ông Gia-ia và cuộc Biến Hình của Ngài. Họ sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng này, sẽ diễn tả rõ ràng: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết: “Đức Giê-su sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 21).

---------------------------------

 

MC 2-ABC471: CON THIÊN CHÚA TỎ MÌNH

 

Chạm vào ba môn đệ được lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình, Đức Giêsu cũng chạm vào mỗi MC 2-ABC471


TMĐP- Chạm vào ba môn đệ được lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình, Đức Giêsu cũng chạm vào mỗi người chúng ta và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” trong mùa chay trở về với Ngài và trên hành trình đi theo Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ.

Mùa chay nói riêng, và cuộc đời đi theo Đức Giêsu nói chung là con đường  Vượt Qua: vượt qua những nghi nan, sợ hãi, những  yếu đuối, lỗi lầm, những chán nản, thất vọng, những buông xuôi, gục ngã, những thử thách bên trong, và thách đố bên ngoài để đạt đến ngày phục sinh được cứu độ.

Các môn đệ của Đức Giêsu đều trải qua những kinh nghiệm vượt qua rất cam go khi đi theo Đức Giêsu, đến nỗi “nhiều môn đê rút lui, không còn đi theo Người nữa” (Ga 6,66) như Tin Mừng Gioan kể lại, khi các ông nghe chướng tai lời giảng dạy của Thầy mình: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54).

Sở dĩ các môn đệ  chưa dám liều lĩnh “từ  bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu” (x. Mt 16,24) như đòi hỏi của Ngài, vì niềm tin vào  Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng được sai đến thế gian để cứu thế gian  của các ông  chưa đủ lớn. Vì thế, Đức Giêsu đã “đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông” (Mt 17, 1-2). Ngài làm thế là để các ông tin Ngài là Con Thiên Chúa.

Như chúng ta biết, núi cao trong Cựu Ước là núi của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người, như trên núi Sinai, Thiên Chúa Giavê đã gặp Môsê và ban Lề Luật cho dân Ngài.



Khi biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đê, Đức Giêsu tỏ cho các ông thiên tính của Ngài, để các ông tin Ngài là Thiên Chúa, qua “dung nhan chói lọi như mặt trời, y phục trắng tinh như ánh sáng”, lại có hai nhân vật quan trọng của Cựu Ước là Môsê và Êlia có mặt đàm đạo với Ngài (x. Mt 17, 2-3).

Trước vinh quang của Thiên Chúa, ba môn đệ đã có sáng kiến và đề nghị ngay với Đức Giêsu một giải pháp tốt ưu, đó là “Thầy trò không xuống núi nữa , nhưng định cư vĩnh viễn ở nơi này, vì “chúng con ở lại đây thật qúa tuyệt!” (Mt 17,4), và lập tức Phêrô mau mắn xung phong dựng ba lều: một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia.

Giải pháp tức thời của ba môn đệ là chọn lựa quen thuộc của con người, vì không ai muốn vất vả, khó nhọc, cũng không ai chịu đổ mồ hôi máu, như hầu hết các ông đã chau mày khó chịu, không muốn nghe Đức Giêsu loan báo về cuộc thương khó và tử nạn Ngài sắp phải chịu ở Giêrusalem, hoặc như Phêrô đã không ngần ngại lên tiếng can gián Thầy mình: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22).

Không muốn xuống núi hôm ấy, ba môn đệ đã tưởng rằng theo Chúa là sẽ đi thẳng vào vinh quang phục sinh, mà không cần phải đi qua đau khổ của Thánh Giá, cũng như lầm tưởng đã thấy thiên tính huy hoàng, chói lọi của Thầy rồi, thì chẳng ngại gì mà không quên đi mầu nhiệm làm người của Thầy.

Đứng trước nỗi kinh hoàng, sợ hãi của ba môn đệ, sau khi các ông nghe tiếng phán từ đám mây sáng ngời bao phủ các ông: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, Đức Giêsu đã lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17,7).

Chạm vào các ông để các ông đừng sợ những bước chân ngày mai, dù là những bước chân do dự, run rẩy, lỡ nhịp giữa cuộc sống nhiều rủi ro, đe dọa; chạm vào các ông để các ông đừng sợ, nhưng “dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa” và  chấp nhận “đồng lao cộng khổ”để loan báo Tin Mừng (x. 2 Tm 1,8); chạm vào các ông để nâng các ông dậy từ những yếu đuối,  “vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ” (2 Tm 1,7); chạm vào các ông để đánh thức các ông tỉnh dậy từ bóng tối u mê, vì vinh quang Thiên Chúa của Ngài đã được biểu lộ; và sau cùng,  chạm vào các ông để các ông được chỗi dậy với Ngài từ cõi chết, vì chính Ngài đã “tiêu diệt thần chết mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” cho hết những ai tin Ngài là “Con yêu dấu của Chúa Cha”, và là  Đấng Cứu Độ tràn đầy ân sủng (x. 2 Tm 1,9).

Chạm vào ba môn đệ được lên núi chiêm ngưỡng Chúa biến hình, Đức Giêsu cũng chạm vào mỗi người chúng ta và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” trong mùa chay trở về với Ngài và trên hành trình đi theo Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ.

Jorathe Nắng Tím

--------------------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn