Chúa nhật 4 mùa chay có thể được gọi là Chúa nhật mầu hồng vì Giáo hội hé mở cho chúng ta MC4-B151
Chúa nhật 4 mùa chay có thể được gọi là Chúa nhật mầu hồng vì Giáo hội hé mở cho chúng ta những lý do khiến chúng ta vui mừng. Phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên: ”Anh em hãy vui lên với thành Giêrusalem, anh chị em là những người đang mang tang chế”. Phụng vụ khuyến khích chúng ta hãy vui lên, chúng ta muốn vui lắm, nhưng nhiều khi không vui được vì còn gặp nhiều nỗi buồn phiền lo lắng, kể cả thất vọng nữa. Thực ra chẳng bao giờ chúng ta hết lo, hết khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng làm sao vui lên được?
Thì đây, thánh Gioan đã đưa ra lý do căn bản về niềm vui: Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta tới mức độ sai Con Một Ngài xuống thế cứu vớt nhân loại. Vậy muốn tham dự ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, còn cần phải tin vào Ngài! Đức tin thật cần thiết vì: ”Ai tin thì sẽ được sống đời đời”(Ga 3,16).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 2 Sb 36,14-16. 19-23.
Tác giả sách Biên niên điểm lại những giai đoạn lịch sử dân Israel trước, trong và cuối thời lưu đầy. Nếu Thiên Chúa ngoảnh mặt đi mà cho quân đội Babylon đến phá hủy đền thờ Giêrusalem và bắt dân ưu tuyển đi lưu đầy, chính là dân đã phản bội, đã bỏ Ngài trước. Dân Israel bị phạt vì tội bất trung, nhưng lại được tha thứ vì biết sám hối. Qua các biến cố trong lịch sử của họ, tác giả luôn tìm được những lý do để trông cậy, mà một trong những lý do quan trọng là Chúa trung thành bởi vì chính Ngài là Tình Thương.
+ Bài đọc 2: Ep 2,4-10. Thánh Phaolô nhắc lại cho tín hữu Êphêsô biết là mọi người được cứu độ nhờ ân sủng khi Ngài nói:”Chính là bởi ân sủng mà chúng ta đượcï cứu độ nhờ đức tin”. Chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng miễn là có lòng tin. Đó là giáo thuyết thánh Phaolô dạy chúng ta về ơn cứu độ “nhưng không” màThiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ được ban “nhưng không” chứ không do một điều gì trong con người chúng ta có quyền đòi hỏi. Vì thế, thánh Phaolô xác quyết rằng:”Tất cả là hồng ân”.
+ Bài Tin mừng: Ga 3,14-21.
Ông Nicôđêmô là một người biệt phái đến gặp Đức Giêsu ban đêm. Đây là đoạn nối tiếp câu chuyện giữa Đức Giêsu và ông. Trong buổi nói chuyện này, ông được hiểu thêm về ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Qua đó, ông biết được rằng tin vào Đức Kitô, chính là nhận biết Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến, là người Con đã được Chúa Cha ban cho thế gian vì yêu thương, ngõ hầu thế gian được cứu độ.
Nói khác đi , là nhìn nhận ơn cứu độ con người đến từ trời cao, do mối liên hệ cha con, tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nhưng ta chỉ biết một sự thật như vậy khi “sống sự thật “ ấy, khi thực sự dấn buớc vào một cuộc sống được soi sáng không ngừng bởi phận làm con.
Theo ý nghĩa đó, không tin vào Đức Kitô, đó là tự kết án chính mình, vì tự tách rời khỏi nguồn sống và tất nhiên đi vào con đường những việc làm xấu xa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lòng Chúa yêu thương tha thứ
I. THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ.
1. Tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”(Ga 3,15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
2. Nhưng dân Chúa lại phản bội.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ, Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ. Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
3. Các tiên tri nhắc nhở dân chúng.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.
Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn: đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
4. Dân hối cải, Chúa thứ tha.
Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng. Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
II. TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ.
1. Sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời thánh Gioan đã nói:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). và Ngài còn nói tiếp:”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ”(Ga 3,17).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu ước. Ta có thể nói Cựu ước là hình ảnh của Tân ước. Cựu ước là hình ảnh, Tân ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sóng đôi giữa Cựu ước và Tân ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân ước.
Chẳng hạn , họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào:
. Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế. . Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế.
. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.
Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu ước và Tân ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết:”Con
người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống... Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời”(1 Cr 15,45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).
2. Thập giá, dấu tích của tình yêu.
Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
3. Truyện con rắn đồng.
Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen:”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi”. Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.
Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông:”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi”. Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen:”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống”. Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.
Rắn lửa nói đây không phải nó đỏ như lửa, nhưng vết thương nó gây ra cho người ta rát như bỏng lửa. Tại miền nam xứ Palestine có rất nhiều thứ rắn và rắn có nọc.
Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta , nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho.
Sau này, những con rắn đồng đã trở thành vật dị đoan cho dân Do thái: Họ đốt hương trước rắn đồng. Vì thế, trong cuộc cách mạng tôn giáo Ezechias truyền đập nát con rắn đồng
(4 Sb 18,4).
Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).
III. HÃY TIN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ CỨU CHÚA.
1. Ngài đã cứu chuộc bằng máu Ngài.
Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc”. Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, thánh Phaolôâ trong thư gửi cho tín hữu Do thái đã khẳng định:”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ”(Dt 9,22).
Truyện: máu của Telmachus.
Ngày đại hội năm 444 sau kỷ nguyên, làn sóng người từ khắp nơi kéo về Rôma. Rôma tưng bừng với vẻ của một ngày hội.
Hoàng đế Honorius cho tổ chức các trận giác đấu mừng ngày giải phóng dân Goths. Giữa đám đông lũ lượt đi đi lại lại, một ông già trong bộ y phục đơn giản của một vị tu trì Đông phương trầm lặng bước đi. Tên ông là Telmachus. Nhà tu trì này chỉ chăm lo chuyên khảo Thánh kinh và cầu nguyện. Cái trò chơi đẫm máu bỉ ổi này đã chấm dứt ở miền Đông nơi phát xuất ra ông. Nhưng nó vẫn còn đang tiếp diễn ở Rôma, đất nghìn năm muôn thuở, mặc dầu đã có ba vị hoàng đế tìm cách chấm dứt. Telmachus đăm chiêu, vì ông đang suy nghĩ phải làm gì để chấm dứt trò chơi này.
Những tay giác đấu gồm đủ mọi hạng người: có khi là những phạm nhân đã bị án tử, có khi là Kitô hữu, thường hơn là tù binh, đôi khi có người vì tham tiền, ham danh tình nguyện...
Trận đấu đầu tiên ghi lại trong lịch sử diễn ra năm 264 trước kỷ nguyên với 3 cặp đấu. Con số mỗi ngày một tăng. Quốc hội phải hạn chế chỉ cho Julius Cesar được có 320 cặp để chiến đấu trong một trận. Dưới triều Augustô, có lúc tới 10.000 tham dự trận đấu.
Hôm nay ngày tổ chức giác đấu, 85.000 chỗ ngồi trong đại thao trường Colosseum chật ních không còn chỗ trống.
Cái ung nhọt này không còn cơ cứu chữa. Nhân vật duy nhất đã dám lên tiếng chỉ trích là nhà hiền triết Sénèque. Ngoài ra còn có 3 vị hoàng đế chống lại trò chơi này, nhưng không dám thi hành vì sợ sự phản ứng mạnh phía quần chúng.
Đến giờ, những tay giác đấu xếp thành hàng dài chậm chạp diễn quanh đấu trường. Tới chân khán đài danh dự, chỗ vua ngồi, họ la to: kẻ hạ thần là những người sắp chết xin kính chào bệ hạ.
Khán giả quanh đấu trường chọn tay giác đấu nào họ ưa thích rồi la hét kích thích họ xung trận.
Khi hai tay giác đấu đang sát phạt đến hồi gây cấn nhất, bỗng một người ăn mặc đơn giản xông vào giữa hai đấu thủ gạt họ ra. Đám đông khán giả giận dữ la hét vang dội. Một số bực tức quá chạy ra tận đấu trường xé ông ra hàng trăm mảnh vì làm cho họ cụt hứng. Con người đó chính là Telmachus.
Kinh hoàng trước sự việc xẩy ra, Honorius chính thức tuyên bố bãi bỏ trò chơi bỉ ổi đã giết hại không biết bao nhiêu sinh linh ở Rôma cũng như ở các nơi khác.
Kể từ đó lịch sử không còn nói những trận đấu gươm tại Rôma nữa.
Không đổ máu không có ơn cứu rỗi.
Nhờ dòng máu Telmachus làm tắt dòng máu nhiều kẻ khác (Op, cit, tr 271-273).
2. Ai tin thì sẽ được sống.
Thánh Gioan nói:”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3, 20 ). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma qủi. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại:”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu”(Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ,
Truyện: Tượng Thánh giá ban phép lành.
Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe:”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”. Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài:”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy”.
"Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ." (Ga 3,14)
Trong Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, ngài thuật lại việc Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đi-mô MC4-B152
Trong Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, ngài thuật lại việc Chúa Giê-su nói với ông Ni-cô-đi-mô rằng: "Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, thì Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời." Hình ảnh con rắn là biểu tượng của loài sảo huyệt trong sách Sáng thế thuật lại, nó dụ dỗ Adam và Eva sa ngã phạm tội, chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng, Tin Mừng hôm nay lại nói, ai nhìn lên con rắn đồng thì lại được sống. Chúng ta sẽ đặt ra đặt câu hỏi, con rắn đồng của Mô-sê có ý nghĩa gì? Đây là vấn đề cho chúng ta tìm ra ý nghĩa ánh sáng Lời Chúa.
Thánh Kinh thuật chuyện dân Do Thái khi họ trên đường tiến vào vùng đất hứa đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Họ nặng lời với Môi-se, ngài có sứ mạng dẫn dân Chúa đến vùng đất hứa, họ nói rằng: "Vì sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập, khiến chúng tôi phải chết trong sa mạc này? Chúng tôi chẳng có nước uống, cũng chẳng có gì ăn ngoài loại bánh đạm bạc mà chúng tôi đã chán ngấy!" Thiên Chúa đã sai rắn đến và cắn nhiều người chết. Người ta chạy đến với Môi-se kêu lên rằng: "Chúng tôi có tội, vì đã nói xúc phạm đến Chúa và ông. Xin ông cầu với Chúa để Ngài đuổi rắn đi." Môi-se tha thiết khẩn cầu thay cho dân. Thiên Chúa đã đáp lời, Ngài phán cùng Môi-se rằng: "Con làm một con rắn đồng, treo trên cây. Người nào bị rắn cắn chỉ cần nhìn nó là được sống." Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, treo trên một cây sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn lên con rắn đồng, liền được thoát chết. (Dân Số 21:6-9)
Đoạn Tin Mừng này, thánh Gioan nhắc lại sự kiện lịch sử thời của Môi-sê dẫn dắt dân chúng thoát khỏi lưu đày. Nhưng ai bị rắn cắn và nhìn lên con rắn bằng đồng thì sẽ được cứu sống. Con rắn bằng đồng là hình ảnh của Chúa Giê-su bị treo lên cây thập giá. Ngài chịu đau khổ, bị sỉ nhục, đóng đinh và chết trên cây thập giá, để chuộc tội cho nhân loại, hễ ai nhìn lên Thánh giá Chúa và tin vào Ngài, thì dù bị nọc độc tội lỗi tàn hại cũng được chữa lành, mỗi hành vi sám hối của chúng ta đều được Ngài tha thứ. Các phòng mạch bác sĩ ngày nay cũng dùng hình ảnh con rắn để nói đến sự chữa lành. Qua hình ảnh con rắn bằng đồng trong Cựu Ước, chúng ta thấy rằng: nhiều người đã bị rắn độc cắn chết, không có thứ thuốc nào chữa được, nhưng nhìn lên con rắn thì được cứu chữa.
Cũng vậy, nhân loại ngày nay không có phương cách nào để tự giải trừ tội lỗi, giải cứu linh hồn mình ra khỏi lửa địa ngục: "Vì mọi người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa" và "tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rm 3:23). Cho dù, ngày nay khoa học có tiến bộ hơn, nhưng khi con người không biết kính sợ Thiên Chúa- Đấng Tạo Hóa, thì con người vẫn đi trong tăm tối, vô vọng, và trở nên tàn ác hơn. Tội lỗi gian ác là nọc độc phá hoại tâm trí và linh hồn con người bởi nọc độc của quỷ vương từ khi tổ phụ loài người phạm tội, và nọc độc tội lỗi ấy lan truyền cho con người hôm nay. Nhưng, Chúa Giê-su đã đến trần gian để đã nhận chịu nọc độc của tội lỗi thay cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta đến với Chúa Giê-su thì tất cả nọc độc của tội lỗi trong chúng ta đều tan biến, mắt chúng ta nhìn biết Đấng Tạo Hóa mình, tai chúng ta nghe được tiếng êm dịu đầy tình yêu của Ngài, để chúng ta kịp thời ăn năn, thống hối và được ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là ân phúc Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Người Con Chí Thánh của Ngài, chúng ta được sự sống đời đời.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con nhận ra ơn huệ lớn lao này, nhờ đó chúng ta được chữa lành vết thương và nọc độc đang phá hoại tâm hồn và thể xác con. Căn bệnh của sự kiêu ngạo, ích kỷ, tham lam, dục vọng đang bám lấy tâm hồn con, thì xin cho con biết nhìn lên Thánh Giá Chúa Giê-su mỗi ngày để được chữa lành tâm hồn và thể xác con. Amen.
Trong Cựu ước, Thiên Chúa vừa được trình bày như Đấng sáng tạo muôn loài, vừa như Đấng giải MC4-B153
Trong Cựu ước, Thiên Chúa vừa được trình bày như Đấng sáng tạo muôn loài, vừa như Đấng giải phóng dân tộc Israen. Là Đấng sáng tạo, Ngài làm cho muôn vật từ hư vô trở thành hiện hữu. Là Đấng giải phóng, Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh mà giải phóng dân riêng ra khỏi cảnh nô lệ áp bức của người Ai Cập. Trải qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sáng tạo và làm cho công trình tạo vật trở nên hoàn hảo. Ngài cũng tiếp tục giải phóng con người, giúp họ thoát khỏi tội lỗi, cho họ được hưởng tự do của con cái Chúa. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta: Ơn cứu độ là một cuộc giải phóng nhờ Đức Giêsu Con Thiên Chúa Bài đọc trích sách Sử Biên niên mang nội dung suy tư của các bậc hiền nhân. Tác giả đã nhìn lại lịch sử, tìm ra nguyên nhân của cuộc lưu đày đau thương. Đó là hậu quả do sự bất tuân của dân tộc Israen. Họ đã tôn thờ ngẫu tượng, xa lìa Luật Chúa, vi phạm các giới răn. Vì thế, Đền thờ bị phá hủy, lưỡi gươm của quân thù đã lấy đi biết bao mạng người, và cuối cùng là cuộc lưu đày sang Babylon. Sau mấy chục năm lưu đày, Chúa đã sai một vị cứu tinh đến để giải phóng dân tộc, đó là Kirô, vua Ba Tư. Vừa sau khi lên ngôi, vị vua này đã quyết định cho người Do Thái hồi hương, về với quê cha đất tổ. Hơn thế nữa, ông còn cung cấp tiền bạc cho các vị kỳ mục để tái thiết Đền Thờ đã bị phá hủy. Vì vậy, người Do Thái suy tôn vị vua này, và cho rằng ông chính là người được Chúa sai đến để cứu họ khỏi ách lưu đày, phục hưng xứ sở. Chính vị vua này cũng tin rằng ông làm việc theo lệnh truyền của Thiên Chúa: “Đây hoàng đế Kirô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa”. Vua Kirô đã giải phóng dân Do Thái khỏi kiếp lưu đày. Kitô giáo sau này nhận ra vị vua này là hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Người là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian, để giải thoát con người khỏi đau khổ và khỏi chết. Trong cuộc đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Vâng, nếu vua Ki-rô của vương quốc Ba Tư đã giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ trần gian, thì Đức Kitô giải phóng nhân loại khỏi tội lỗi. Người là Đấng Thiên sai, đến trần gian để soi sáng cho con người đang bước đi trong u tối. Những ai đón nhận giáo huấn của Người sẽ được ánh sáng thiêng liêng chiếu rọi. Trước ánh sáng thiêng liêng ấy, người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta, sinh thời, Chúa Giêsu đã chữa lành rất nhiều người, thuộc đủ mọi chứng bệnh khác nhau, thậm chí Người còn cho kẻ đã chết được sống lại. Trong một số trường hợp, Chúa vừa chữa bệnh, vừa tha tội cho bệnh nhân. Như thế, Người là Đấng giải phóng con người khỏi đau khổ, bệnh tật. Người cũng giải phóng con người khỏi ách ma quỷ ràng buộc. Nhiều người bị quỷ ám, khi đến với Chúa, Người đã cứu thoát họ khỏi ách ma quỷ và cho họ được lành. Trong Mùa Chay, Giáo Hội nhắc lại lời mời gọi sám hối canh tân. Canh tân là can đảm bước ra khỏi tối tăm, nhờ quyền năng của Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ và là Đấng Chúa Cha sai đến, đó là một điều kiện để chúng ta được giải thoát khỏi tối tăm, đón nhận ánh sáng vĩnh cửu của Chúa. Chúng ta đừng tự ti mặc cảm về quá khứ tội lỗi của mình. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Đức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi” (Bài đọc II). Vâng, quyền năng tối cao của Thiên Chúa đã thể hiện trong Đức Giêsu. Hãy tin tưởng và mạnh dạn đến với Người, xin Người chỉ cho chúng ta biết con đường về với Chúa Cha.
Thiên Chúa tạo dựng nên vạn vật trong vũ trụ nầy và Ngài điều hành vũ trụ bằng các quy luật MC4-B154
Thiên Chúa tạo dựng nên vạn vật trong vũ trụ nầy và Ngài điều hành vũ trụ bằng các quy luật bất di bất dịch. Ví dụ, theo quy luật Chúa truyền thì nước phải chảy về chỗ trũng, khi gặp nóng thì bốc thành hơi, khi gặp lạnh dưới 0 độ thì đông cứng như đá… Cứ thế, nước luôn tuân hành quy luật đó không bao giờ sai chạy.
Và loài người cũng phải tuân theo quy luật mà Thiên Chúa đã an bài, một trong những quy luật đó là: Tội lỗi gây ra sự chết. Ai có tội thì người đó phải chết (nghĩa là phải chịu cực hình trong hỏa ngục đời đời.)
Quy luật nầy đã được tiên tri Ê-dê-ki-ên công bố từ ngàn xưa: “Ai phạm tội, người ấy phải chết” (Ê-dê-ki-ên 18,20).
Quy luật nầy lại được thánh Phao-lô lặp lại trong thư Rôma: “Chỉ vì một người mà tội lỗi đã đột nhập trần gian và tội lỗi gây nên cái chết” (Rm 5, 12. Rm 6, 23. Galat 6,7).
Điều đáng tiếc là mọi người sinh ra trên đời đều có tội và chiếu theo luật thì tất cả đều phải bị án chết. Nhưng nếu để cho muôn người phải chết vì tội lỗi họ gây ra thì Thiên Chúa quá đau lòng. Còn nếu để cho loài người mắc tội mà không phải chết thì chính Thiên Chúa lại tự huỷ bỏ lề luật mà Ngài đã ban hành. Như thế, loài người sẽ tha hồ phạm tội mà chẳng sợ hậu quả nào; thế là nhân loại sẽ sa đoạ, con người dần dần hư hỏng và trần gian này sẽ hoá nên địa ngục.
Vậy phải giải quyết thế nào?
Giải pháp chết thay
Để giải quyết vấn đề này, Thiên Chúa chọn một giải pháp tuyệt vời, đó là tìm người chết thay.
Thiên Chúa Cha đã cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, trở nên Anh cả của loài người, trở nên người đại diện chính thức của loài người, nhờ đó, Ngài mới có thể nhận tội, đền tội và chết thay cho muôn người được.
Đây quả là một giải pháp tuyệt vời: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11, 50).
Tình yêu Thiên Chúa vô biên
Thế là Chúa Giê-su, Con Một của Thiên Chúa Cha, vì chấp nhận gánh lấy tội lỗi của muôn người trên thế gian, nên Ngài phải mang lấy hậu quả của tội, là bị kết án như một tên gian phi, chịu chết treo trên thập giá để đền tội cho muôn người, đúng như lời Ngài báo trước với ông Ni-cô-đê-mô:
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” Ga 3,14-15).
Và thánh Phê-rô đã xác nhận điều này như sau:
“Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (I Pr 2, 24).
Khi chịu khổ nạn đau thương và chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đền tội cho chúng ta, chết thay cho chúng ta. Nhờ Ngài phải chịu đòn vọt đau đớn mà chúng ta được tha tội, nhờ Ngài chịu chết thay mà chúng ta thoát khỏi án chết mà được sống đời đời.
Từ đó, thập giá Chúa Giêsu trở thành biểu tượng cao nhất của tình yêu.
Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương bất tận của Chúa Con: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình” (Ga 15, 13).
Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.
Tôi tớ thấp hèn chết thay cho ông chủ cao sang quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết thay cho đức vua cao trọng, hoặc con cái trong gia đình chết thay cho cha mẹ tốt lành… là điều tuy hiếm nhưng có thể hiểu được; còn việc Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa tể trời đất, vốn rất cao sang, quyền phép… chấp nhận chết thay cho con người thấp hèn, tội lỗi là điều không trí óc nào tưởng tượng được.
Duy chỉ có Thiên Chúa mới dám nghĩ, dám làm điều không tưởng đó.
Duy chỉ có tình yêu cao vời của Thiên Chúa mới đủ sức thực hiện điều phi thường đó mà thôi.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Vua thống trị muôn loài, là Đấng vô cùng cao cả; trước mặt Ngài, con người chỉ là tro bụi thấp hèn bé mọn, thế mà vì yêu thương, Ngài đã hạ mình xuống thế làm người và hiến thân chết thay cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng con. Chúa đã dành cho chúng con một tình yêu vô lượng vô biên. Xin cho chúng con cố gắng sống tốt, sống đẹp, sống thánh thiện mỗi ngày, để đền đáp phần nào tình yêu cao vời của Chúa.
Mỗi khi ngước nhìn bầu trời, ta tìm một hình thù kỳ lạ từ những đám mây trắng bồng bềnh. Gió MC4-B155
Mỗi khi ngước nhìn bầu trời, ta tìm một hình thù kỳ lạ từ những đám mây trắng bồng bềnh. Gió đẩy đưa từng đám mây và chúng trộn lẫn vào nhau trở thành một con cún con, một hình tròn và từ cái hình tròn ấy từ từ lại trở thành một trái tim. Có khi ta ngước nhìn trời mong tìm một cơn mưa giữa mùa hè oi ả. Có những cái ngước nhìn để tìm lại sự sống của dân Itrael khi họ bị rắn cắn. Theo lời Đức Chúa truyền dạy, ông Môsê cho đúc con rắn đồng và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì được cứu.
Đó là câu chuyện của thời Cựu Ước, là hình ảnh tiên trưng cho việc Con Người cũng sẽ phải được treo lên để cứu chuộc muôn người. “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14- 15). Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, ta cũng tự hỏi chính mình: Tôi đã ngước nhìn lên Đấng Chịu Đóng Đinh với tâm tình và thái độ nào? Giữa những gian truân của kiếp người, chắc hẳn không ít lần ta đã tìm đến để tâm sự với Người. Ta như một bệnh nhân tìm đến vị bác sĩ của mình để được chữa lành. Dân Itrael xưa bị rắn độc cắn đã nhìn lên con rắn đồng để được chữa khỏi phải chết. Thầy Giêsu đã khẳng định rằng chính Người cũng sẽ phải được giương cao lên để ai tin thì được cứu độ. Mỗi lần ngước nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, tâm hồn ta như được nâng đỡ giữa những đau khổ của kiếp người. Ta cần ngước lên kêu cầu thánh danh Đức Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương ta. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Chính nhờ đức tin vào Thiên Chúa mà ta hành động và khi ấy ta sống trong Thần Khí và sự thật. “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 21). Hãy cảm tạ Chúa về hồng ân được làm con Chúa và được sống trong ân sủng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã làm người và chịu chết trên cây thập tự vì Chúa yêu con và nhân loại. Xin cho con can đảm bước đi trong ánh sáng tình yêu của Chúa để nhờ đó, con được tự do làm con cái Chúa. Những khi kiệt sức và chán chường, xin cho con biết ngước nhìn lên Thánh giá để thấy rằng, Chúa đang rất yêu con. Amen.
Ánh nắng xế chiều. Bóng tối buông xuống. Những ánh đèn được thắp lên trong khắp mọi nhà MC4-B156
Ánh nắng xế chiều. Bóng tối buông xuống. Những ánh đèn được thắp lên trong khắp mọi nhà và các đường phố. Nơi miền quê xa xôi phải chịu nguồn điện yếu hơn ở thành phố. Bởi đó, cứ đến mùa hè, việc cúp điện thường xuyên xảy ra. Mỗi khi mất điện, lũ trẻ sợ hãi và hét lên. Mọi người phải nhanh tay nhanh chân đi tìm nến và đèn để thắp sáng lên. Ánh sáng của nến đu đưa theo làn gió, có lúc sáng rực lên, có lúc mập mờ như muốn vụt tắt. Dù là vậy, lũ trẻ con vẫn an tâm khi nến được thắp lên.
Còn mỗi người chúng ta mỗi khi đi ra đường, thường muốn đi dưới con đường đầy ánh sáng cũng như luôn muốn sống trong một căn nhà thoáng mát và đầy đủ ánh sáng. Những ánh sáng ấy thường do con người chế tạo nên. Còn có một thứ ánh sáng mà mọi người chúng ta ít quan tâm là Ánh Sáng Chúa Giêsu. Ánh Sáng Chúa được tỏa sáng trong cuộc sống nơi bổn phận hằng ngày. Ánh sáng ấy chính là những sự thật, những chân lý, sự công bằng và bác ái với nhau. Song vì thân phận yếu đuối và nhiều lý do khác khiến chúng ta dễ buông mình vào trong bóng tối của sự chết. Lời Chúa đã nói “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm không bị chế trách” (Ga 3, 20).
Với cuộc sống hiện nay, dường như chúng ta có nhiều lối suy nghĩ nhằm biện minh cho hành động của mình. Chẳng hạn chúng ta thường nói “thật thà mà chết đói à”. Do đó, chúng ta dễ bị lôi cuốn vào lối sống ấy. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người sống trong sự thật nhưng không đủ niềm tin vào Chúa và bản thân mà phải thất bại trước thử thách hằng ngày. Nhưng, dám chắc một điều là ai cũng muốn được sống trong ánh sáng hơn là sống trong bóng tối.
Không có gì là bí mật mãi. Dù chúng ta giấu, bao bọc, luồn lách đến thế nào thì sự thật vẫn là sự thật, ánh sáng vẫn tỏa sáng. Tin tức cập nhật 24h, các bài báo, bài viết đã liên tục đưa tin cho chúng ta hay về những nhân vật đã ẩn nấp sau nhiều năm cũng phải xuất hiện. Bởi đó, chúng ta đừng quá sợ, hãy can đảm sống trong ánh sáng của Chúa. Ánh sáng bất diệt không bao giờ tắt. Để sống trong ánh sáng của Chúa, chúng ta cần phải nỗ lực cố gắng từng ngày. Mỗi ngày chúng ta hãy can đảm giảm một chút bóng tối trong cuộc đời mình với niềm tin tưởng tín thác vào Chúa, và tin tin rằng chỉ có ánh sáng Chúa mới có thể giúp cho cuộc sống của ta thêm bình và hạnh phúc.
Lạy Chúa, thời gian này là quý báu nhất cho chúng con. Chúng con cảm tạ Chúa và xin Chúa ban cho mỗi người chúng con nhận ra giá trị ánh sáng của Chúa. Đồng thời biết xa lánh những việc làm không đẹp lòng Chúa. Amen.
Lữ hành sa mạc hoang vu, Đám dân phạm tội, dập trù oán than. Môi-sen treo rắn lên ràn, Người MC4-B157
Lữ hành sa mạc hoang vu, Đám dân phạm tội, dập trù oán than. Môi-sen treo rắn lên ràn, Người nào rắn cắn, cầu van khỏi liền. Con Người sẽ phải treo lên, Ai tin được sống, cõi thiên muôn đời. Chúa sai Con Một từ trời, Xả thân cứu độ, mọi người trần gian. Ai tin Con Chúa thiên nhan, Nguồn ơn Thập giá, trao ban sống đời. Không tin danh Chúa rạng ngời Chịu phần án phạt, một đời gian nan. Chúa là nguồn sống thương ban, Đi trong sự thật, ơn ban bởi trời Chối từ nguồn sáng trong đời, Đi trong bóng tối vào nơi thảm sầu.
Đỉnh cao của ơn cứu độ đó là thập giá Chúa Kitô. Xưa Môisen treo con rắn lên trong hoang địa, để những ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng sẽ được cứu khỏi. Chúa Giêsu vâng ý Chúa Cha, hiến dâng mình làm lễ hy tế trên thập giá để cứu mọi người. Những ai tin vào Chúa sẽ có sự sống đời đời. Tin vào Chúa là tin vào công trình cứu độ của Ngài.
Chương trình cứu độ của Thiên Chúa xảy ra trong lịch sử của loài người. Từ khi tổ tiên sa ngã phạm tội, con người đã lần bước trong bóng đêm của tội lỗi. Thiên Chúa không ngừng mời gọi và dẫn dắt trở về. Qua các biến cố trong lịch sử cứu độ, Chúa đã sai các tổ phụ, các tiên tri và sau cùng sai chính Con Một của Ngài để mang ánh sáng cứu độ giải thoát con người. Chính Chúa Giêsu đã nhập thể hoá thân làm người. Ngài đã dâng hiến thân mình làm hy tế xóa tội trần gian. Chúa còn hiện diện thực sự qua các Bí Tích để mang ơn cứu độ cho chúng ta.
Chúa không sai Con Ngài giáng trần để luận phạt mà là để cứu độ. Rất nhiều người chưa nhận biết Chúa. Rất nhiều người chối từ Chúa. Chúa vẫn hóa thân len lỏi vào cuộc sống con người qua hình ảnh của những kẻ bần cùng, những người đói khổ, nghèo nàn, cô đơn, góa bụa và bệnh hoạn tật nguyền. Chúa chiếu dọi ánh sáng qua những kẻ thấp hèn nhất. Chính họ là hình ảnh của Chúa.
Ánh sáng của Chúa đến thế gian nhưng thế gian không muốn tiếp nhận ánh sáng. Con người đã nhiều lần từ chối ân huệ của Thiên Chúa. Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ với lòng yêu thương. Tình yêu của Chúa không vơi giảm cho dù con người tệ bạc và phản bội. Chúa luôn sẵn lòng mở rộng cánh tay đón những người con phung phá và tội lỗi trở về.
Trong Mùa Chay Thánh, mỗi người chúng ta hãy dừng lại đôi phút gẫm suy về tình yêu Chúa. Đã biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ và biết bao lần chúng ta đã phản bội lời thề hứa, mùa chay là dịp thuận lợi cho chúng ta trở về. Trở về với nguồn tình yêu là Cha nhân hiền. Ngài giang tay trên thập giá, trong khi chờ đón chúng ta để ôm ấp và tha thứ. Xin ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào tâm hồn để chúng ta nhìn nhận được lòng yêu thương vô bờ của Chúa.
Tin mừng Chúa nhật 4 Mùa Chay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Đức Giêsu MC4-B158
Tin mừng Chúa nhật 4 Mùa Chay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó, Người mạc khải về tình thương của Thiên Chúa:
“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người Con ấy, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.
Khi đề cập đến tội lỗi loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: “Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian, không phải để phạt loài người, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.
Xưa kia trong sa mạc, Môsê đã treo con rắn đồng lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được khỏi chết, được chữa lành (Ds 21, 8-9). Hình ảnh con rắn đồng biểu tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá: “Ai tin vào Người sẽ được cứu sống, không phải chết và được sự sống đời đời”.
Tình thương cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô: Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người qua Đức Giêsu Kitô và tình thương của Thiên Chúa được hiện thực nơi con người Đức Giêsu Kitô. Tin vào Đức Giêsu Kitô là điều kiện để được ơn cứu độ:“Những ai tin vào Con Ngài được sống đời đời. Thánh Augustinô đã diễn tả cho mọi thế hệ nhân loại về hình ảnh của Đức Kitô giương cao trên thập giá:
“Trong cái chết của Chúa Giêsu, sự chết đã bị chết, sự viên mãn của cuộc sống đã nhận chìm sự chết, sự chết đã bị tiêu tan trong cái chết thân xác của Đức Kitô. Những ai bị vết cắn của con rắn, bởi ngước nhìn con rắn sẽ không chết. Cũng giống vậy, những ai nhìn vào đức tin vào cái chết của Đức Kitô sẽ được chữa lành mọi vết tổn thương của tội lỗi. Những người Do Thái đã tránh khỏi cái chết cho một cuộc sống lữ hành. Đức Kitô cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu. Dấu chỉ biểu tượng của con rắn đồng cho cuộc sống tạm thời ở trần gian, nhưng nội dung của biểu tượng là Đức Kitô cho chúng ta cuộc sống muôn đời”.
Đức Giêsu đã đem ơn cứu độ cho nhân loại qua cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài để chúng ta được sống muôn đời. Tin vào Đức Kitô và sống theo Đức Kitô là điều kiện được cứu rỗi. Sống theo Đức Kitô là chết cho con người tội lỗi, nết xấu, những đam mê xấu, những hành vi bất chính để chúng ta có tương quan tốt với Chúa và tha nhân trong tình thương mến để được phục sinh với Chúa.
Ngược lại, nếu không tuân theo Đức Giêsu Kitô thì chúng ta sẽ bị luận phạt “Án phạt là sự sáng đã đến thế gian và người đời yêu thế gian hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa”. Chúa Giêsu là ánh sáng, là chân lý, là sự sống đã đến thế gian. Người đời yêu sự tối tăm hơn sự sáng: tham lam, bất công, gian dối, hận thù ghen ghét, giết người, đánh bom liều chết… Ngày hôm nay bóng tối dường như thắng sự thiện trong xã hội, trong gia đình nhân loại. Hơn bao giờ hết, con người hôm nay cần phải tuân nghe theo lời giáo huấn của Giáo hội “Sống nền văn minh tình thương và sự sống” bằng những việc làm cụ thể đạo đức, lương thiện, bác ái phục vụ tha nhân.
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi người tín hữu sống tinh thần Mùa Chay thánh bằng cách tin và sống theo Chúa Kitô để được sống muôn đời.
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B – Ga 3, 14-21) Thánh sử Gio-an viết: “Như ông MC4-B159
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B – Ga 3, 14-21) Thánh sử Gio-an viết: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15). Khi còn đi chia sẻ Tin Mừng tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc VN, kẻ viết bài này đã gặp thật nhiều thắc mắc xoay quanh hình ảnh con rắn được giương cao: Theo sách Sáng thế thì “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra.” (St 3, 1). Vậy không hiểu sao Kinh Thánh lại lấy nó làm biểu tượng cho sự cứu độ, đồng thời còn nói là Đức Giê-su cũng được giương cao như vậy. Một chuyện tương tự cũng khiến chúng tôi thắc mắc là ngành Y Dược cũng lấy con rắn làm biểu tượng cho sự cứu chữa bệnh nhân. Tại sao vậy?
Trước hết xin nói về con rắn trong Y học. Tra cứu trên Wikipedia thì được biết: Đối với Tây y, rắn chiếm vị trí khiêm nhường trong số khổng lồ các phương thuốc trị liệu nhưng lại có vinh dự trở thành biểu tượng có tính chất truyền thống của cả ngành Y và ngành Dược. Biểu tượng ngành Y là hình con rắn quấn quanh cây gậy. Còn biểu tượng ngành Dược là con rắn có đuôi quấn quanh chân một cái ly đựng thuốc và thân của nó vòng qua miệng ly để đầu chúi xuống, thè lưỡi nếm thuốc. Biểu tượng ngành Dược thường được gọi bằng nhiều tên như: “Cái ly con rắn”, “Cái cốc con rắn” hoặc “Chén thuốc Hygeia”. Câu chuyện khá dài dòng, có thể tóm tắt như sau:
Theo thần thoại Hy Lạp, một lần, thần Esculape (ông Tổ ngành Y) đến thăm một người bạn bị bệnh. Trông thấy một con rắn độc đang bò vào nhà, ông liền lấy cây gậy đang cầm trên tay đánh chết nó. Ngay sau đó, một con rắn khác lại tiến vào và trên miệng ngậm một lá cỏ đến mớm cho đồng loại vừa mới bị đánh chết. Kỳ lạ thay, con rắn chết bỗng hồi sinh. Esculape tình cờ biết được thứ cỏ lạ ấy, nghiên cứu và tìm hiểu thêm, từ đó trở thành một thần y chữa bệnh cứu sống rất nhiều người. Đó là “con rắn quấn quanh cây gậy” biểu tượng ngành Y. Còn ngành Dược là “con rắn quấn quanh cái ly”, con rắn này có tên là Hygeia (đây là tên con gái của Esculape, cũng là một vị thần chuyên về thuốc chữa bệnh).
Riêng về con rắn đồng trong bài Tin Mừng hôm nay thì xin chia sẻ: Bài Tin Mừng Chúa nhật trước (CN III.TN-B – Ga 4, 14-16) trình thuật về “Cơn thịnh nộ bất thường của Đức Giê-su”. Cứ tưởng đến thời Tân Ước thì Đền thờ Giê-ru-sa-lem mới bị ô uế bởi hàng tư tế và dân Do Thái khiến Đức Giê-su nổi giận, thật không ngờ ngay từ thời Cựu Ước đã có chuyện “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế.” (xc. Bài đọc 1 CN III.TN-B – 2Sb 36, 14-16.19-23; nói chung cả chương 36 của Sử biên niên). Thế mới biết “tội lỗi là bản tính con người” dù ở bất cứ thời đại nào, môi trường nào, và hình như càng tiến bộ con người càng tội lỗi nhiều hơn. Nhận xét này có vẻ bi quan, nhưng nhìn kỹ lại vấn đề, thấy quả nhiên không xa sự thật chút nào. Duy có điều tội lỗi ở cái thế kỷ XXI này không giống như thời thượng cổ, mà thiên biến vạn hoá đến độ có nhiều khi con người không nhìn ra được chân tướng của nó, thậm chí còn hiểu lầm mà khoác cho nó cái áo chân thiện nữa. Đáng sợ thật!
Suy cho cùng, từ Nguyên tổ cho đến hậu lai – ngoại trừ Đức Maria được đặc sủng vô nhiễm nguyên tội – tất cả loài người đều có tội, không nặng thì nhẹ, chẳng ít thì nhiều. Ấy cũng bởi vì con người thường muốn dễ dãi hơn là khó khăn, muốn đi trên những con đường rộng thênh thang hơn là những con đường nhỏ hẹp, muốn bóng tối hơn là ánh sáng. Cái nghịch lý của con người như thánh Phao-lô nói (“Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” – Rm 7, 15…19) tưởng cũng dễ hiểu, vì ”Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người đó, khi chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác.” (Ep 2, 3). Như vậy thì phải chăng tội lỗi của loài người đã tới hồi “hết thuốc chữa”?
Đọc sách Xuất Hành trình thuật cuộc hành trình trở về Đất Hứa của dân tộc Do Thái, ai mà không chú ý đến câu chuyện “CON RẮN ĐỒNG”. Đó là trên lộ trình đầy gian nan thử thách, khi đã gần tới Đất Hứa, dân Do Thái lại kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê, Đức Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng mới kinh hoàng nhận ra sai lầm, tỏ vẻ hối hận, chạy đến kêu cầu với ông Mô-sê xin cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin cùng Đức Chúa và Người bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên rắn đồng thì sẽ được khỏi. Con rắn đồng trở thành một biểu tượng ơn cứu độ của Thiên Chúa và vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B: Ga 3, 14-21), Đức Giê-su đã mượn hình ảnh đó để nói lên công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Người – Người cũng sẽ bị treo lên như con rắn đồng.
Con rắn đồng chỉ là một vật thể vô tri vô giác được Thiên Chúa đặt làm biểu tượng Tình Yêu Cứu Độ, chỉ được một số ít người Do Thái biết ăn năn hối cải nhìn lên và được chữa khỏi; nhưng khi trở về tới Đất Hứa thì họ lại quên đi một cách vô tư. Họ lại tiếp tục phạm tội, lại tiếp tục than trách Chúa và nhất là lại tiếp tục thích dễ dãi hơn là khó khăn, thích đi trên những con đường rộng thênh thang hơn là những con đường nhỏ hẹp, khoái bóng tối hơn là ánh sáng. Hơn thế nữa, họ còn cố tình huỷ bỏ giao ước bằng cách phản bội lại Thiên Chúa nữa.
Dân được tuyển chọn còn như thế, huống hồ dân ngoại. Tất cả nhân loại đã hầu như quên mất hình ảnh con rắn đồng và chính vì thế, nên Thiên Chúa phải lập một giao ước mới bằng cách sai chính Con Một xuống thế làm một con rắn bằng xương bằng thịt, bằng cả bản thể Thiên Chúa, treo lên thập giá để không chỉ là một biểu tượng mà còn là chính Máu Thịt Con Chiên làm lễ vật hy sinh (hy tế) cứu độ loài người (“Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.” – Gr 31-32). Điều đó chứng tỏ dù con người có tội lỗi đến thế nào mặc lòng, Thiên Chúa vẫn thương yêu, vẫn dang rộng vòng tay mong họ trở về đường ngay nẻo chính.
Căn bệnh trầm kha, căn bệnh truyền kiếp của loài người vẫn không phải, chưa phải là “hết thuốc chữa”, bởi “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” – Mc 2, 17). Người Thầy Thuốc Chí Nhân Chí Ái đã đến và đã được treo lên như con rắn đồng thủa xưa. Sự kiện Con Người được “giương cao” bao hàm một ý nghĩa vô cùng thâm thúy: Đức Ki-tô không chỉ chết khổ nhục trên thập giá vì tội lỗi loài người, mà còn phục sinh và được đưa lên ngự bên hữu Chúa Cha. Vì thế, khi Con Người được treo lên thập tư thì thập tự đã trở thành Thánh Giá để những ai biết nhìn lên biểu tượng Tình Yêu cao vời khôn ví đó, sẽ được cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá (cũng như thủa xưa, dân Chúa biết nhìn lên con rắn đồng) không phải và không thể như nhìn một hình ảnh kiều diễm, hay một chiếc cúp quán quân, hoặc một thần tượng siêu nhân nào đó. Điều kiện tiên quyết là phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm thiếu sót, toàn tâm toàn ý ăn năn hối cải, nhiên hậu nhìn lên Thánh Giá với một đức tin chân thành vào Ơn Cứu Độ. Chỉ có như thế mới có hy vọng được cứu, bởi “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11, 1).
“Nhìn lên con rắn đồng” thì được cứu chữa; “nhìn lên Con Người” trên thập giá sẽ được cứu độ. Việc “nhìn lên” và việc “được cứu chữa” liên kết chặt chẽ với nhau và mối dây liên kết đó phải chăng chính là đức tin? Vâng, “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Một hệ luận bất di bất dịch: “Có bệnh thì mong được khỏi, muốn khỏi bệnh phải biết nhìn lên Thầy Thuốc được giương cao trên Thánh Giá, đến với Thiên Chúa Cứu Độ bằng một đức tin kiên cường.” Ấy cũng bởi vì “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3, 18). Cho nên có thể nói: Không phải ai nhìn lên con rắn đồng, nhìn lên Thánh Giá đều được cứu sống, mà chỉ có những ai có cái nhìn đức tin (nhìn lên với một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa qua biểu tượng con rắn đồng, hoặc chính Con Thiên Chúa) mới được cứu độ mà thôi.
Tóm lại, Dân Chúa thời Cựu Ước đã thật vui mừng khi Thiên Chúa phán bảo ông Mô-sê giương cao con rắn đồng để những ai biết nhìn lên sẽ được cứu chữa. Mở đầu kỷ nguyên Tân Ước, thì chính Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật được giương cao trên Thánh Giá làm hy tế cứu chuộc nhân loại, và như thế thì còn nỗi vui mừng nào sánh bằng Dân Chúa thời kỳ Tân Ước cho đến thiên thu vạn đại? Vì thế, Chúa Nhật IV Mùa Chay thường được gọi là Chúa Nhật “Hãy vui lên” (Ca Nhập Lễ mở đầu bằng câu “Hãy vui lên!…” – Is 66, 10-11); áo lễ được dùng màu hồng. Vâng, sau những hy sinh hãm mình, làm việc từ thiện trong suốt Mùa Chay, hãy vui lên trong Chúa là Đấng đã yêu thương cứu chuộc nhân loại. Hãy vui lên vì Thánh Giá là nguồn ơn cứu rỗi. Hãy vui lên để hướng tâm hồn về niềm vui Phục Sinh. Hãy vui lên!
Trong niềm hân hoan tận cùng đó, hãy vui mừng nhìn lên Thánh Giá, hướng tâm hồn lên Đấng Cứu Độ, để cùng hiệp lời cầu nguyện cho bản thân, cho mọi người biết dùng nhiều thời giờ hơn trong Mùa Chay Thánh – nhất là trong Mùa-Chay-cuộc-đời – để từ đó biết nhìn lại mình mà sám hối lỗi lầm, biết từ bỏ những tính hư, tật xấu, canh tân đời sống; đồng thời cầu nguyện cho những người tội lỗi biết ăn năn hối cải, và cầu nguyện cho những người chưa biết Chúa được có dịp chiêm ngắm Thánh Giá, ngõ hầu trở về cùng Chúa. Ước được như vậy.
Ôi! “Hãy vui lên muôn loài trên thế giới. Hãy ca lên muôn loài khắp vũ hoàn. Hãy tôn vinh khen ngợi Đấng Hóa Công. Hãy cảm tạ tôn thờ Vua chí nhân. Cùng với tiếng ca vang vang ngợi khen Chúa huy hoàng. Cùng tiếng đàn trổi râm rang ngợi khen Vua cả sáng. Nào hợp lời tôn vinh Cha, trần hoàn cùng vang câu ca: Chúa chúng ta là Đấng Hóa Công quyền năng oai hùng.” (TCCĐ “Hãy Vui Lên”).
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):
(14) Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):
Hẳn có nhiều người Do Thái thời Đức Giê-su đã thắc mắc và tự hỏi: Đức Giêsu đến trần gian này MC4-B160
2.1 Hẳn có nhiều người Do Thái thời Đức Giê-su đã thắc mắc và tự hỏi: Đức Giêsu đến trần gian này đế làm gì? Chắc chắn ngày nay cũng có nhiều người đặt lại câu hỏi ấy.
Trong đoạn Phúc âm theo Thánh Gio-an của Phụng Vụ hôm nay, chúng ta có được câu trả lời:
”Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3,16-18).
2.2 Vậy là đã quá rõ: Đức Giê-su, Con Một của Cha, đã đến thế gian để mặc khải Cha cho loài người và cũng là để cho loài người được cứu chuộc khi họ TIN vào Người. Chúa Cha là nguồn cội và cùng đích của mọi loài mọi vật, nên con người chỉ đạt tới trình độ viên mãn khi khám phá và nhìn nhận Cha là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Trong tiến trình ấy, ân sủng và lòng tin hòa quyện vào nhau. Ân sủng là quà tặng của Thiên Chúa, lòng tin là công sức của con người. Ân sủng hay ơn trời và lòng tin hay công người là hai yếu tố làm nên ơn cứu độ.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):
3.1 Giáo hội nói chung và mỗi Ki-tô hữu nói riêng, cùng lúc có hai nhiệm vụ: đón nhận và giới thiệu ân sủng của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô và thể hiện lòng tin của mình vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến.
3.2 Nói cách cụ thể hơn, Giáo Hội và mỗi Ki-tô hữu phải lớn tiếng chúc tụng Tình Thương của Cha và chứng tỏ Lòng Tin mạnh mẽ của mình vào Đấng đã dựng nên vũ trụ vạn vật và đã mời gọi con người đi vào huyền nhiệm của Tình Yêu và Lòng Tin. Ân sủng của Thiên Chúa thì đã có sẵn đó và có một cách dư thừa. Quan trọng là lòng tin hay công người thì phải có sự tác động của Giáo Hội và của các Ki-tô hữu thì mới có và càng có tác động mạnh thì càng có nhiểu kẻ tin. Đó chính là động lực cho các hoạt động làm chứng và loan báo Tin Mừng của chúng ta.
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):
Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha vì Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con để Người mạc khải Cha cho chúng con và dẫn đưa chúng con về với Cha.
Xin Cha ban cho chúng con lòng Tin mạnh mẽ vào Tình Yêu của Cha, vào sứ mệnh của Con Một Cha, vào ơn phúc mà Cha muốn ban cho chúng con.
Chúng con cầu xin Cha nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con Amen.
Bài tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối đáp giữa Đức Giêsu và Ông Nicôđêmô, một bậc Thầy MC4-B161
Bài tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối đáp giữa Đức Giêsu và Ông Nicôđêmô, một bậc Thầy trong dân Israel. Ông là một nhà thông thái đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Hẳn ông muốn biết về con người và giáo lý của Chúa Giêsu. Qua cuộc đối thọai này, Người cho ông và qua ông đến mỗi người tín hữu chúng con nhận ra sứ mệnh mà Thiên Chúa Cha trao cho Người, khi đến trần gian này :”Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời“. Người nói cho ông về tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa với con người.
Nhân lọai mà khởi đi từ Adam đã bất tuân phục Thiên Chúa, chối bỏ và tự cắt đứt mối liên lạc với Thiên Chúa. Cũng từ đó con người phải chịu bao đau khổ trong cuộc đời, dẫn đến sự chết. Thế nhưng tình yêu của Thiên Chuá thì vượt qua tất cả. Thiên Chúa chẳng những không chấp nhất tội lỗi con người, như lời Đức Giêsu :” Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời “. Đức Giêsu như một “Adam mới” đến cứu độ muôn người. Nhưng con người không phải ai cũng nhận ra được tình yêu ấy và đáp trả. Nhiều người trong chúng con đã không đón nhận Chúa, đón nhận Lời Người như ánh sáng soi đường mà vẫn chìm ngập trong bóng tối sự chết, như những lời tiên báo trong Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa . . .” .
Lạy Chúa,
Lời cảnh báo của Chúa cách đây hơn 2000 năm vẫn còn nguyên giá trị. Con đã được diễm phúc đón nhận vào làm con Thiên Chúa qua bí tích Thanh Tẩy, con đã được đón nhận ánh sáng Tin Mừng, tức là luôn có sự sáng của Chúa chiếu tỏa trong cuộc đời, giúp con dễ dàng phân biệt điều xấu, điều ác mà tránh xa, từ bỏ, Biết nhận ra điều tốt, điều đẹp lòng Chúa để hướng theo và thực hiện. Thế nhưng bóng tối lại che phủ cuộc đời con lớn hơn, lấn át sự sáng khiến con không dám tiến đến cùng ánh sáng.
Nhân những ngày mùa chay Thánh này xin Chúa giúp con biết sám hối và tin vào Tin Mừng. Biết sửa đổi con người mình, hầu thóat ra khỏi bóng tối đang từng ngày, từng ngày đe dọa đời sống đức tin của con. Xin Chúa giúp con biết “Sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ:các việc của người ấy được thực hiện trong Thiên Chúa.”
Xin cho con biết nhìn lên Chúa treo trên thập tự, chính Người đã đến trần gian chịu chết vì tội lỗi của con, để con sẽ được phục sinh với Người, luôn ý thức về mình là người con, gắn bó với Thiên Chúa là Cha, với Hội Thánh để đón nhận được tình yêu Chúa trao ban và làm triển nở tình yêu ấy tên trái đất này. AMEN.
“Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” (Thánh Phanxicô Assisi).
Một ước muốn tuyệt vời, xem chừng đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê! Tình yêu luôn quan trọng MC4-B162
Một ước muốn tuyệt vời, xem chừng đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê!
Tình yêu luôn quan trọng trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh, vì ai cũng muốn “yêu” và “được yêu”. Không ai định nghĩa được tình yêu, vậy có thể ví nó như cái gì để dễ hiểu? Người Ấn Độ có cách so sánh độc đáo: “Tình yêu giống như một dây leo, nó sẽ khô héo và chết đi nếu không có gì để nó quấn quýt”. Quả thật, cuộc sống không có tình yêu thì không còn là cuộc sống nữa. Tình yêu vô hình nhưng khả dĩ cảm nhận, và nó là báu vật: “Tình yêu thương là tài sản quý giá nhất của con người” (Ngạn ngữ Ả Rập).
Tông đồ trẻ Gioan đã được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu và được mệnh danh là người-môn-đệ-Chúa-yêu, ông xác định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Và ông nhấn mạnh: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10).
Trong cuộc sống, khi nói đến vấn đề vô ân bạc nghĩa, người Việt thường nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Cái trái tai cần thiết mà luôn bị lãng quên. Chúng ta cũng thường đối xử với Chúa theo kiểu như vậy. Nhưng Ngài vẫn “làm ngơ”, coi như không biết, vì tình yêu thương của Ngài luôn bao la, là bản trường ca đầy những Nốt Tình kỳ diệu dệt thành Giai Điệu Xót Thương tuyệt vời nhất để chúng ta tận hưởng. Khối Thánh Tình đó của Ngài được phát xuất từ Thánh Tâm, Nguồn Mạch Yêu Thương, và đó cũng chính là Lòng Thương Xót vô biên của Ngài.
Hôm nay, vậy là chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay. Xin mạn phép nhắc lại một chút cho dễ hiểu: Chúa Nhật IV Mùa Chay còn được gọi là Chúa Nhật Vui (Lætare), với lễ phục màu hồng, xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày này (Lætare Jerusalem – Hãy vui lên hỡi Giêrusalem). Niềm vui này dẫn chúng ta tới đỉnh Đồi Sọ để cùng chết với Thầy Chí Thánh.
VÌ LÀ TỘI NHÂN…
Thánh Vịnh gia xác định: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Đó là “kiếp tội nhân” của mọi phàm nhân. Tất cả chúng ta đều là những hạt-bụi-nhỏ-nhoi-và-yếu-hèn, đều là những tội nhân, ngay cả những người công chính cũng vẫn phạm sai lầm mỗi ngày 7 lần (x. Cn 24:16).
Thật vậy, sách Sử Biên Niên nói: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế” (2 Sb 36:14). Do đó, Thiên Chúa không ngừng sai sứ giả của Ngài đến cảnh cáo, vì Ngài hằng thương xót dân và thánh điện của Ngài. Thế nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Ngài và chế giễu các ngôn sứ của Ngài. Dân Chúa phạm tội tăng theo cấp số nhân, dân Chúa cũng chính là chúng ta. Và rồi Thiên Chúa buộc lòng phải bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Ngài đến vô phương cứu chữa. Nhưng Ngài trách phạt chúng ta vì yêu thương, vì thương xót, chứ không vì ghét bỏ, để chúng ta có thể “sáng mắt” và giác ngộ mà nhận ra những sai lầm thái quá của mình.
Chuyện kể trong sách Sử Biên Niên thế này: Ngày xưa quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Theo “luật nhân quả” thì “gieo gì gặt nấy”, và chúng ta cũng thường nói: “Gieo gió thì gặt bão”. Hình phạt là hậu quả từ sự ngang ngược của chúng ta: Lỗi tại tôi mọi đàng – một hệ lụy tất yếu!
Chỉ vì to gan, lớn mật, coi trời bằng nắp bia, dám phạm tội phản nghịch Thiên Chúa mà dân chúng phải đi đày. Khổ nên buồn, buồn nên nhớ quê hương, thế nên dân chúng than thở thảm thiết: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn” (Tv 137:1-2). Mỗi người trong chúng ta cũng đã bao lần tự cắt mối dây liên lạc với Chúa vì phạm tội, đến lúc ở “bước đường cùng” rồi thì chúng ta chỉ còn biết năn nỉ ỉ ôi: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Lời cầu nguyện này không chỉ được chúng ta đấm ngực và kêu xin trong thánh lễ hằng ngày mà còn nhiều lần khác trong ngày. Rõ ràng “cứ trái tai mà sờ”. Thật tồi tệ, thế nhưng lại là tốt, bởi vì Thiên Chúa tươi cười khi thấy chúng ta biết sám hối!
Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Đã khổ sở vì lòng ray rứt, dân chúng còn bị bọn lính canh “khiêu khích” để chạm vào vết thương lòng đang sưng tấy: “Hát đi, hát thử đi xem! Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:3). Ui da, vần thơ lục bát êm đềm thế mà sao nhức buốt quá! Đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn não lòng như vậy thì còn đâu hứng khởi mà hát xướng, dù là bài ca kính Chúa Trời? Và rồi lòng lại dặn lòng: “Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi, thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:5-6). Con cái chẳng bao giờ rời khỏi cha mẹ, chúng ta cũng chẳng bao giờ thoát khỏi Thiên Chúa. Chắc chắn như thế!
…NÊN CẦN TÌNH CHÚA
Thiên Chúa là Đấng THẤU SUỐT mọi sự (1 Sbn 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), Ngài biết rõ chúng ta đau khổ vì đã chống lại Ngài, nhưng Ngài vẫn “làm như không hay biết” vì muốn chúng ta tự nhận thức và sám hối thật lòng. Chừng nào chúng ta “đầu hàng vô điều kiện” thì Ngài sẽ ra tay ngay. Thánh Phaolô trần tình: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2:4-5). Ôi, chúng ta thực sự hạnh phúc vô cùng, nhưng đừng ảo tưởng mà cho rằng Thiên Chúa “phải” yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta vì thương xót chúng ta, “chính do ân sủng mà chúng ta được cứu độ” (Ep 2:5), chứ chúng ta chẳng là gì mà Ngài phải bận tâm!
Tất cả là hồng ân. Ngài không chỉ cứu độ chúng ta mà còn “cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6). Ngài tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau thấy ân sủng dồi dào và phong phú của Ngài. Thánh Phaolô tái xác định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa, cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2:8-9). Quả thật, chúng ta không hề có mảy may gì để mà hãnh diện!
Đó là điều vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, bởi vì “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu”, và chúng ta có trách nhiệm “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Đó là sự công bình hoàn toàn hợp lý!
Qua sách Dân số, chúng ta biết rằng, từ núi Horép, dân Chúa lên đường theo đường Biển Sậy (Sea of Reeds, còn gọi Biển Đỏ – Red Sea), vòng qua lãnh thổ Êđôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, với lương thực duy nhất là “món” mana, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn nên kêu trách Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này!” (Ds 21:5). Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn khiến nhiều người chết. Thấy vậy, dân chúng hoảng sợ quá nên đành phải cầu xin ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi” (Ds 21:7). Ông Môsê cầu nguyện, và Thiên Chúa “mủi lòng” nên bảo ông đúc một con rắn bằng đồng, đem treo lên cây cột, và “hễ ai bị rắn cắn mà NHÌN lên con rắn đồng thì ĐƯỢC CỨU SỐNG” (Ds 21:9).
Biểu tượng ơn cứu độ thời Cựu Ước là “con rắn đồng treo trên cây cột trong sa mạc”, biểu tượng ơn cứu độ thời Tân Ước là “Đức Kitô bị treo trên Thập giá”, để “ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:15). Lời hứa đó là niềm hy vọng chắc chắn đối với chúng ta, nhưng tất cả đều là hồng ân, và nhờ Lòng Chúa Thương Xót. Thật vậy, Thiên Chúa không hề tiếc chúng ta điều gì: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá đỗi lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của nhân loại: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Thiên Chúa công minh chính trực (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7), không thiên tư tây vị bất kỳ ai, không “ưu tiên” người “có thế giá”, cũng chẳng “chèn ép” người cô thân – dù là người cùng đinh nhất thế gian: “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:18). Đó là sự công bằng – vừa minh nhiên vừa mặc nhiên.
Đâu là nguyên nhân của bản án? Rất đơn giản: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3:19). Thiên Chúa giải thích: “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:20-21). Rất rõ ràng, rất rạch ròi!
Còn chúng ta? Trách nhiệm của chúng ta là gì? Đó là “thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”, nếu ai hoàn thành tốt thì “việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”. Một hệ lụy rất lô-gíc và quá tuyệt vời! Nếu vậy, mỗi chúng ta sẽ trở thành một “nốt tình” trong bản tổng phổ của bài “Trường ca Lòng Chúa Thương Xót”.
Tuy nhiên, Thánh Phêrô cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Ma quỷ rất tinh quái, đủ mánh khóe để đưa chúng ta vào tròng, thế nên phải luôn cảnh giác như Thánh Têrêsa Hài Đồng: “Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó làm tự mãn”. Đáng sợ là nó làm cho chúng ta cảm thấy mình đạo đức, vì thế mà kiêu ngạo và khinh người khác.
Ba thù rất đáng quan ngại, mỗi loại có “chiêu” riêng, vì thế mà phải ăn chay để khuất phục chúng. Chịu khó ăn chay một chút nhưng được nhiều ích lợi. Thánh GM TS Augustinô cho biết: “Ăn chay tẩy sạch linh hồn, nâng cao tâm trí và thể lý, làm cho tâm hồn khiêm nhường và hối hận, phá tan những ham muốn trần tục, kiềm chế nhục dục, và thắp sáng lửa tinh tuyền. Hãy đi vào nội tâm của chính mình”. Cố vượt qua chính mình và phải cậy nhờ vào Đấng toàn năng: “LẠY CHÚA TRỜI, XIN TỚI GIÚP CON! – DEUS, IN ADJUTORIUM MEUM INTENDE ! – O GOD, COME TO MY ASSISTANCE !”.
Dù ở vào hoàn cảnh nào thì cũng “đừng sợ!”, bởi vì chúng ta luôn có Chúa Giêsu đồng hành và cùng chiến đấu với chúng ta. Tưởng cũng cần biết điều thú vị này: Thành ngữ “đừng sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, trong suốt cả năm, mỗi ngày chúng ta đều được Thiên Chúa động viên trong các trường hợp khác nhau với mệnh lệnh: “ĐỪNG SỢ!”. Tạ ơn Chúa!
Lạy Thiên Chúa, còn biết bao người chịu đau khổ đủ cách và đủ mức ở khắp nơi trên thế giới này, xin Ngài thêm sức và cứu thoát họ. Thưa Ngài, con là kẻ bạc tình bạc nghĩa – với Ngài và với tha nhân, chỉ lo ngoại tại mà quên nội tại, nói nhiều mà chẳng làm được bao nhiêu, xin Ngài đại lượng tha thứ. Xin ban ánh sáng Thánh Linh để thức tỉnh lòng con và giúp con biết sống khiêm nhường để có thể thực sự trở nên lợi khí của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Chúa nhật IV Mùa Chay hôm nay là Chúa nhật Mừng (Laetare), còn gọi là Chúa nhật Hồng. Vui MC4-B163
Chúa nhật IV Mùa Chay hôm nay là Chúa nhật Mừng (Laetare), còn gọi là Chúa nhật Hồng. Vui mừng vì Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến độ thí ban Con Một để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hoà giải với Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày đến tột cùng qua hình ảnh Chúa Giêsu chấp nhận chịu treo trên thập giá vì trần gian. Vui mừng vì ơn cứu độ, vì sự sống đời đời sẽ được ban cho những ai, với lòng tin tưởng và thống hối, biết nhìn lên Đấng bị đóng đinh, Đấng bị “giương lên” trên cây thập giá, như con rắn đồng trong sa mạc năm xưa.
Nơi trang Tin Mừng chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đã lấy lại hình ảnh con rắn đồng được treo cao trong hoang địa để cứu sống dân Do thái khỏi nọc độc rắn lửa cắn, để giới thiệu thập giá là tình yêu cứu độ, khi Ngài chấp nhận bị chết treo lên cao để cứu con người khỏi nọc độc của tội lỗi. Câu chuyện con rắn đồng không lạ gì với ông Nicôđêmô, với dân Do thái. Trong sách Xuất hành, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, một cuộc hành trình dài 40 năm đầy cam go, khổ sở và nhiều thử thách. Khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách, xúc phạm đến Chúa và chống đối ông Môisen. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Dân chúng hoảng sợ và hối hận, họ chạy đến kêu cầu ông Môisen cứu giúp. Ông Môisen cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy đúc một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, đến nhìn lên rắn đồng với lòng ăn năn thống hối thì được khỏi. Trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô nơi bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng cứu chữa bất cứ ai tin cậy nơi Ngài. Chúa Giêsu bị giương cao trên thập giá và Ngài trở thành nguồn ơn cứu độ và giải thoát cho chúng ta.
Nhưng Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng cách nào? Phải chăng Ngài cứu chúng ta chỉ bằng đau khổ thập giá? Chúng ta hãy nhớ lại trên đồi Can-vê chiều hôm ấy có ba bản án tử hình và ba cây thập giá được dựng lên, nhưng chỉ có một cây được gọi là “Thánh giá” và hai cây kia thì bị gọi là “khổ giá” hay “thập ác”. Chỉ có cây thập giá treo Chúa Giêsu lên thì được gọi là Thánh giá. Trong khi đó cả ba người tử tội đều cùng một hình phạt, cùng chịu đau khổ và nhục nhã như nhau và cùng chết thê thảm như nhau. Nhưng cái chết của hai tên trộm cướp kia có cứu được ai đâu? Chỉ có cái chết của Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta. Thật vậy, Chúa Giêsu không cứu chúng ta bằng đau khổ nhưng là bằng tình yêu. Ở nơi thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa bày tỏ dung nhan của Người là tình yêu hiến ban, như Chúa Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”. Ở trên thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu tột cùng của Người, vượt lên trên sự hiểu biết và suy tưởng của con người. Thiên Chúa đã thí ban Con Một dấu ái của Người để gánh lấy tội lỗi nhân loại, để đền thay và chết thay cho mọi người, nhờ đó con người được tha thứ, được cứu sống và sống đời đời.
Thật vậy, thập giá của Chúa Giêsu đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Ngài. Không đâu xa, ngay tại nơi Chúa Giêsu bị treo lên, vào buổi chiều Thứ Sáu trước lễ Vượt qua năm ấy, khi ba cây thập giá được dựng lên, treo ba thân xác tả tơi đầy thương tích của ba người tử tội, người ta nghe tiếng của tên trộm bị treo bên tả chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Ngược lại, tên trộm phía bên hữu, như được sức mạnh của ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận vì tội lỗi ngập đầu của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết kêu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời cầu cứu đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Người trộm lành đã nhìn nhận tội lỗi của mình và chấp nhận chịu trừng phạt, khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dù cả đời anh ta xấu xa tồi tệ, cả đời trộm cướp, chiếm đoạt cách bất công tiền bạc, của cải của người khác, bất chấp đã gây ra biết bao đau khổ, mất mát cho tha nhân. Nhưng giờ đây, nhờ nhìn vào thánh giá Chúa Giêsu, tên trộm khét tiếng gian ác đã trở thành người trộm lành. Ánh sáng nơi thập giá Chúa Giêsu đã khơi dậy tâm tình thống hối nồng nàn tha thiết trong tâm hồn anh. Anh biết và thực tâm cảm nhận điều đó. Đồng thời tận đáy tâm hồn anh lòng kính sợ Thiên Chúa cũng đã được khơi gợi lên mạnh mẽ. Anh cũng đã nhận ra và tin tưởng Đấng cùng chịu đóng đinh với anh hôm nay là người vô tội, là Đấng thánh, là Đấng có thể cứu anh được sống đời đời. Nên khi quay sang thập giá Chúa Giêsu để cầu xin Ngài cứu giúp, thì lại chính là lúc anh được đón nhận ánh sáng từ thánh giá Chúa, và làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thánh giá, anh đã tin vào giá trị của thánh giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Đứng trước thập giá Chúa Giêsu, đám đông dân chúng thì đòi Chúa xuống khỏi thập giá, trái lại tên trộm lành thì lại muốn được Chúa đưa lên cao. Thế gian thì cầu mong Chúa rao giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lành thì lại tìm được niềm tin khi chịu đau khổ, bị treo trên thập giá. Anh ta đã thấy tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi cả đời của anh, một tình yêu không loại bỏ thân phận thấp hèn và nhơ nhớp của anh. Anh đã thấy sức mạnh và quyền năng vô biên nơi tình yêu của Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ, và cho anh được sống đời đời. Phải chăng sự hối cải và niềm tin của người trộm lành đang chất vấn chúng ta, và là mẫu gương cho đời sống đức tin và lòng sám hối của chúng ta hôm nay? Hãy học cách nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu của người trộm lành, người đầu tiên được hưởng tình yêu cứu độ nơi thập giá Chúa Giêsu, người đầu tiên được Chúa Giêsu hứa ban hạnh phúc thiên đàng.
Kể từ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, khi thập giá Chúa Giêsu được giương lên cao, thì khổ hình thập giá đã trở thành thánh giá ; và bóng mát của tình yêu cứu độ nơi thánh giá Chúa đã bao phủ cả trời đất. Biết bao người suốt 2.000 năm qua đã được cứu độ, được sống đời đời nhờ Thánh giá Chúa Giêsu. Biết bao người đã tìm thấy niềm tin, ý nghĩa và giá trị cuộc sống nhờ tin vào thánh giá Chúa Giêsu. Họ đã cống hiến đời mình để tiếp tục ra đi dựng cây thánh giá Chúa ở mọi nơi khắp cùng trái đất. Nhờ đó mà Tin Mừng và ơn cứu độ của Chúa đến được với mọi dân tộc trên hành tinh này.
Cùng với mọi thành phần dân Chúa giáo phận Qui Nhơn đang hợp mừng Năm Thánh hồng ân, với ánh sáng lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi hãy nhìn lên thánh giá Chúa với hết lòng tin yêu và chân thành sám hối; đồng thời cũng nhìn vào gương các bậc tiền nhân để tiếp tục dấn thân dựng xây gia đình giáo phận. Ước gì mỗi một người con của đất Mẹ Qui Nhơn hôm nay biết nhìn lên Thánh giá Chúa với tâm tình tạ ơn chân thành, với lòng tin tưởng mãnh liệt vào tình yêu Thiên Chúa mà biết sám hối, canh tân đời sống. Đồng thời cũng biết nhìn vào gương sống của các bậc tiền nhân, gương hy sinh quên mình và chấp nhận mọi gian lao khốn khó để loan báo Tin Mừng và gầy dựng giáo phận, để mỗi người thêm lòng nhiệt thành mà dấn thân phục vụ vô vị lợi và nổ lực sống chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa trên mãnh đất giáo phận thân yêu.
Hôm nay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta: “Mừng vui lên, Giêrusalem hỡi!… Các bạn đang sầu khổ MC4-B164
Hôm nay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta: “Mừng vui lên, Giêrusalem hỡi!… Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở reo mừng, và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan” (Is 66: 10-11). Tại sao Giáo Hội lại kêu gọi chúng ta hãy vui lên giữa lúc phải ăn năn sám hối của Mùa Chay? Câu chuyện sau đây có thể giúp trả lời.
William Willimon kể rằng: “Một trong những điều xảy ra lạ lùng nhất và ám ảnh nhất trong tuổi thơ của tôi đó là vết cắn của một con rắn. Bảo tàng viện The Field Museum ở Chicago, nơi cha tôi làm việc, có một bộ sưu tầm về những con vật sống cũng như những con đã chết được trưng bày và làm giống như còn sống. Câu chuyện xảy ra cho một nhà khoa học chuyên môn nghiên cứu về rắn. Một đêm nọ, trong văn phòng, ông làm việc rất khuya để ghi nhận những đặc điểm về vài loại rắn độc mà viện bảo tàng vừa có được. Có một con rắn mà ông đặc biệt chú ý đến vì chưa ai biết về nó. Rủi thay, đang khi nghiên cứu về con rắn này, nhà khoa học đã bị nó cắn. Ông nhận ra ngay rằng đây là một con rắn rất độc, và cũng biết rằng nó là loại rắn chưa ai biết và phân loại, nên cũng chưa có thuốc giải độc. Toàn bộ khu vực bảo tàng viện hoàn toàn vắng người, chỉ trừ mấy người gác gian ngoài cửa chính, nhưng lại rất xa chỗ văn phòng làm việc của ông. Chẳng còn cách nào để gọi cầu cứu, ông đã mau chóng quyết định trở lại bàn giấy và bắt đầu viết xuống, diễn tả những triệu chứng ông đang trải qua.
Sáng sớm hôm sau, khi những nhân viên làm việc đến, nhà khoa học đã chết gục trên bàn làm việc của ông. Những điều ông viết xuống kể lại những gì đã xảy ra là một di sản quý báu cho những người tiếp tục công việc ông làm. Qua cuộc khám nghiệm tử thi người ta đã biết được làm thế nào nọc độc đã giết chết ông, và từ đó đã có thuốc chống nọc độc thích hợp. Biết bao nhiêu người đã được cứu sống vì ông đã lãnh nhận toàn bộ nọc độc của con rắn trong người ông.”
Sự hy sinh của nhà khoa học nhắc nhở chúng ta về điều mà Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi dân thành Côrintô đã viết: “Nọc độc của sự chết là tội lỗi, và sức mạnh của tội là lề luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cor 15:56-57).
Lý do của sự vui mừng hôm nay là Tình Yêu Thiên Chúa. Nhà khoa học đã hy sinh mạng sống mình cho người khác được sống là một hình ảnh minh họa cho tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hy sinh mạng sống mình để cứu nhân loại được sống.
Con rắn đưa chúng ta trở về với câu chuyện Thánh Kinh đã diễn tả trong Cựu Ước. Trong sa mạc, nạn dịch đã xảy ra cho dân Do Thái. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê treo con rắn lên cây cột và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì được sống (Ds 21:9). Hình ảnh của con rắn bằng đồng biểu tượng cho ơn cứu độ nhờ Ngôi Lời Nhập thể (GLCG # 2130). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã phán dạy những lời mà các nhà chú giải Thánh Kinh gọi là “Thánh Kinh thu nhỏ lại – Bible in miniature”, hay “Trái tim của Thánh kinh – The heart of the Bible”: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3:16). Để dễ nhớ, một tác giả đã đơn giản hóa lại như sau:
– “Thiên Chúa”… Người Yêu vĩ đại nhất. – “Đã yêu… đến nỗi”… Cấp độ vĩ đại nhất. – “Thế gian”… Con số vĩ đại nhất. – “Đã ban”… Hành động vĩ đại nhất. – “Con Một Ngài”… Món quà vĩ đại nhất. – “Để tất cả những ai”… Thiệp mời vĩ đại nhất. – “Tin”… Sự đơn giản vĩ đại nhất. – “Vào Ngài”… Con Người vĩ đại nhất. – “Khỏi phải chết”… Sự giải thoát vĩ đại nhất. – “Nhưng”… Sự khác biệt nhất. – “Có”… Sự chắc chắn nhất. – “Sự Sống đời đời”… Sở hữu vĩ đại nhất.
Để diễn tả tình yêu, tiếng Hy Lạp có ba từ khác nhau cho ba loại tình yêu, trong khi Anh ngữ chỉ có một từ chung là “love” để chỉ ba tương quan đó: 1- Eros: tình yêu vợ chồng, nam nữ – romantic love – trong hôn nhân. 2- Philia: tình bạn hữu – fellowship love – trong xã hội. 3-Agape: tình yêu tận hiến, hy sinh – sacrificial love – như người mẹ liều thân mình bảo vệ và hy sinh cho người con còn trong bụng mẹ.
Tình yêu nam nữ, vợ chồng, thường có khuynh hướng muốn đón nhận nhiều hơn. Trong khi tình bạn lại muốn được chia sẻ, có qua có lại. Còn tình yêu tận hiến thì chỉ muốn cho đi. Với tình yêu tận hiến (agape or sacrificial love): “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban”. Đây là sự khác biệt lớn lao giữa tình yêu của Thiên Chúa và của chúng ta: Thiên Chúa cho đi và tha thứ; chúng ta đón nhận và lãng quên. Cho đi là dấu hiệu của tình yêu tận hiến.
Sách Giáo Lý Công Giáo diễn tả tình yêu Thiên Chúa như sau: “Tình yêu của Thiên Chúa dành cho Israel được ví với tình yêu của người cha đối với con mình (Hs 11:1). Tình yêu này mạnh hơn tình yêu của người mẹ đối với các con mình (Is 49:14-15). Thiên Chúa yêu Dân của Ngài hơn là vị phu quân yêu ái thê của mình (Is 62: 4-5); và tình yêu này sẽ thắng vượt tất cả những sự bất trung xấu xa nhất (Hs 11); và tình yêu này sẽ đi tới sự trao ban quý trọng nhất: ‘Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến mức đã ban Con Một của Ngài’ (Ga 3:16)” (số 219).
Đây là loại tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài cũng đòi hỏi chúng ta phải yêu nhau bằng tình yêu này (Ga 15:12). Có thể nói, đây cũng là loại tình yêu đang được sống trên thiên đàng. Và bất cứ nơi nào vắng mặt tình yêu tận hiến này đều làm cho chúng ta xa cách khỏi Thiên Chúa.
Có một vị thánh cầu xin với Chúa tỏ cho biết sự khác biệt giữa thiên đàng và hỏa ngục. Chúa mới sai một thiên thần dẫn bà đi xem, đầu tiên xuống hỏa ngục trước. Ở đó bà trông thấy quý ông quý bà ngồi quây quần xung quanh một bàn ăn đầy dẫy những lương thực thơm ngon. Nhưng chẳng có ai ăn được miếng nào cả. Tất cả ngồi buồn bã ngáp dài. Bà thánh mới hỏi một người trong họ, “Tại sao quý vị không ăn đi?” Người đó mới đưa bàn tay lên cho bà xem. Nó bị cột chặt vào một cái nĩa dài chừng một mét rưỡi, mỗi lần họ cố gắng lấy đồ ăn xúc vào miệng thì chỉ làm tung tóe xuống nền nhà. Nhìn thấy họ đói khát, thèm muốn mà tội nghiệp!
Rồi thiên thần đưa bà lên thiên đàng. Bà rất ngạc nhiên vì cảnh ở thiên đàng cũng hầu như giống với cảnh ở hỏa ngục. Quý ông quý bà cũng ngồi xung quanh một cái bàn tiệc với đủ loại đồ ăn ngon tuyệt vời, và tay mỗi người cũng bị cột vào một cái nĩa dài một mét rưỡi. Nhưng không giống như ở hỏa ngục, mọi người ở đây rất vui vẻ, cười đùa thỏa thích. Bà thánh mới hỏi một trong những người của họ, “Cái gì vậy? Tại sao các ngài lại vui vẻ trong tình trạng như thế này được?” Một người trả lời, “Ở đây, trên thiên đàng chúng tôi săn sóc, phục vụ và giúp cho nhau ăn uống.”
Chúng ta có thể nói rằng: “Ở đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời.” Theo thơ của Thánh Gioan Tông Đồ: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Jn 4:16). Ở đâu có sự săn sóc, phục vụ và giúp đỡ cho nhau, ở đấy là thiên đàng.
Một ngày nọ, em bé gái bày đồ chơi trong phòng nơi người mẹ đang may vá quần áo. Thình lình bé chạy đến chỗ mẹ ngồi may vá, trèo lên đùi mẹ, quàng hai tay xung quanh cổ mẹ, rồi hôn mẹ. Sau đó với một cử chỉ yêu thương bé nghiêng cái đầu nhỏ bé lên bờ vai của mẹ và thì thầm vào tai mẹ, “Mẹ ơi, bé yêu mẹ lắm!” Người mẹ mỉm cười ngọt ngào nói: “Bé ơi, tại sao bé thương mẹ?” Với những giọt nước mắt long lanh trên khóe mắt, bé trả lời, “Bé thương mẹ là bởi vì mẹ yêu bé khi bé còn quá nhỏ để thương mẹ lại.”
Tương tự như tình yêu của người mẹ dành cho con cái (Mt 7:11), Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta còn chưa có gì để yêu thương lại Ngài (Rm 5:8). Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta hãy vui mừng trong tình yêu của Thiên Chúa ban cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Đó là “đã ban Con Một Ngài” cho chúng ta (Rm 8:32).
Chúng ta được mời gọi để tin vào Con Thiên Chúa, dấu tích của tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta. Vì thế chúng ta phải dâng lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã làm (Ep 1: 3-5, 9-10). Trong Tông Sắc “Mầu Nhiệm Nhập Thể”, nhân dịp triệu tập năm thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Trong Đức Kitô, lịch sử cứu rỗi đạt đến chóp đỉnh và ý nghĩa cuối cùng…, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (Ga 1:16), và được giao hòa lại với Thiên Chúa Cha” (Rm 5:10; 2 Cr 5:18) (Bulla Apostolisca số 1).
Chúng ta cũng được mời gọi để sống một cuộc đời biết ơn Thiên Chúa bằng tình yêu thương đối với anh chị em đồng loại; không phải một tình yêu chỉ đi tìm sự đáp trả, nhưng với tình yêu hy sinh, tận hiến cho đi một cách quảng đại như Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi Ngài ban chính Con Một Ngài (Ep 4: 1-6; 3:17-19). Đây là ý nghĩa của Mùa Chay khi chúng ta ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái với một tình yêu hy sinh, tận hiến, và phục vụ cho tha nhân.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng MC4-B165
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì yêu thương, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.
2Sb 36: 14-16, 19-23 Bài Đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm lịch sử.
Ep 2: 4-10 Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta bởi và trong Đức Ki-tô.
Ga 3: 14-21 Trong đoạn trích Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
BÀI ĐỌC I (2Sb 36: 14-16, 19-23)
Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên). Bài Đọc I là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích này nhắc cho chúng ta nhớ những nguyên nhân sâu xa của tai họa và tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã trải qua vào năm 587 trước Công Nguyên: Đền Thờ và thành đô bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá.
Tội của dân Ngài
Tác giả ghi lại những biến cố này vào thời gian rất lâu sau này , cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử Thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en đã kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi việc dân Ít-ra-en trung thành hay bất tín với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân.
Vả lại, dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Việc dân bị trừng phạt là điều không sao tránh khỏi. Nhưng tác giả cho thấy rằng trước khi trừng phạt họ, Thiên Chúa “đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng”.
Dù ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên nhưng được ám chỉ rất rõ ở nơi những lời này: “Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ”. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé và bỏ vào lò sưởi cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, còn các chức sắc tôn giáo đã nhục mạ ông, tống giam ông.v.v…Thiên Chúa đã cảnh báo ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta” (Ed 2: 3). Vì thế, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên dân.
Thiên Chúa tha thứ
Nhưng cơn thịnh nộ này chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo của tác giả hai sách Sử Biên này . Sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Sách Ét-ra tiếp nối khi tường thuật cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ. Quả thật, phần cuối của đoạn trích này là phần đầu của sách Ét-ra, được lập lại ở đây để đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn chứa chan hy vọng.
Chúng ta lưu ý rằng tác giả tập trung mọi chú ý của mình vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa “làm nhơ nhuốc Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại Giê-ru-sa-lem”. Nếu Thiên Chúa sai phái các sứ giả của Ngài, chính “vì Ngài thương đến nơi Ngài ngự”. Hành động đầu tiên của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối cùng, khi sự thử thách chấm dứt, vua Ba-tư là Ki-rô tuyên bố “xây một đền thờ kính Người tại Giê-ru-sa-lem”.
Mầu nhiệm Đền Thờ là trọng tâm của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của tác giả, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, cộng đoàn ấy phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả hai sách Sử Biên, vừa sử gia vừa thần học gia, muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.
BÀI ĐỌC II (Ep 2: 4-10)
Thánh Phao-lô viết thư này từ Rô-ma trong hoàn cảnh bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra, thánh nhân viết thư này không chỉ cho cộng đoàn Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được luân lưu đến các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Thư này biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của thánh Phao-lô. Thư này là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi những thư khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng.
Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Dù đoạn trích này rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.
Quyền Tối Thượng của Chúa Cha
Thánh Phao-lô luôn luôn quy chiếu công trình cứu độ và tâm tình cảm tạ tri ân vào Chúa Cha. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư này , trong đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt động từ. Chính Chúa Cha là Đấng “giàu lòng xót thương” và rất mực “yêu thương” chúng ta, đã “biểu lộ tình yêu” của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki-tô, đã cho chúng ta được cùng “sống lại” và cùng “ngự trị” với Đức Ki-tô trên cõi trời, đã “tỏ cho chúng ta thấy” ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…
Chúa Cha giàu lòng xót thương
Diễn ngữ: “giàu lòng xót thương” đã là chủ đề, đồng thời cũng là nhan đề cho Tông Huấn “Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương” của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng diễn ngữ “lòng xót thương” muốn nói “quyền năng đặc thù của tình yêu, quyền năng này còn mạnh hơn tội lỗi”. Chính lòng thương xót này là từ then chốt nói lên ý định cứu độ của Ngài, bởi vì tội lỗi của con người là chướng ngại phải vượt thắng. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương chính là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Ngài con người đã “chết vì phạm tội” cũng được sống lại với Ngài. Trong vài hàng, thánh Phao-lô diễn tả chính xác thành quả ơn Cứu Chuộc: con người có thể gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.
Cuộc sống tương lai
Đoạn trích này thật sự là một bài suy niệm. Ở đây, cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả niềm hy vọng tương lai của các Ki-tô hữu, thậm chí tương lai này được diễn tả ở thì hiện tại: Thiên Chúa cho chúng ta “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người”, nghĩa là một sự liên tục, bất tận, không hề gián đoạn.
Phải chăng đây là tư tưởng suy niệm sâu xa nhất của thánh nhân trong những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã được chiêm ngưỡng trong một cuộc xuất thần “cho đến tầng trời thứ bảy”? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết của mình sắp đến gần? Hay đơn giản hơn, phải chăng đây là niềm xác tín thần học của vị Tông Đồ, niềm xác tín này đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ này? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống ân sủng là bước khởi đầu của cõi đời đời rồi.
Đức tin, việc làm và ân sủng
Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào tương xứng với ơn cứu độ này . Chúng ta được cứu độ là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một cách tinh tế rằng việc làm của chúng ta có tác sinh hiệu quả hay không chính là nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô; chính qua trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta mới thực sự là tốt lành và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy, nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Ngài, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất; nhờ Ngài, chúng ta mới có thể có giá trị và được sống đời đời. Đó chính là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.
TIN MỪNG (Ga 3: 14-21)
Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay được trích từ phần cuối cuộc trò chuyện của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh thuộc nhóm Biệt Phái đến gặp Ngài ban đêm. Với đoạn trích này , nhân vật Ni-cô-đê-mô biến mất khỏi câu chuyện: không còn cặp đối thoại giữa “tôi và ông” như trước, nhưng là “chúng tôi và các ông” (3: 11). Diễn từ của Đức Giê-su không còn ngỏ lời với người biệt phái thiện cảm này nhưng với tất cả những ai phải chọn lựa: “tin hay không tin”, đứng về phía ánh sáng hay bước đi trong bóng tối. Quả thật, hậu cảnh của “phiên tòa” lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ phiên tòa xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế gian.
Đoạn văn này gồm ba phần: trước hết, dấu chỉ của con rắn đồng; tiếp đó, ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người; sau cùng, tấn thảm kịch của sự chọn lựa.
Dấu chỉ của con rắn đồng(3: 14-15)
Đối với những người Biệt Phái chất vấn Ngài, Chúa Giê-su cho những câu trả lời thường bí ẩn. Đối với ông Ni-cô-đê-mô, Ngài ám chỉ đến một sự kiện sắp đến mà ông không thể nào hiểu được: việc Ngài bị treo lên trên thập giá được sánh ví với việc con rắn đồng được ông Mô-sê treo lên trên một cây sào trong hoang địa để mà những ai bị rắn cắn nhìn vào con rắn mà khỏi phải chết. Rõ ràng điều này muốn nói rằng những ai hiện ở trong thế gian như xưa kia trong hoang địa, bị sự Dữ tấn công, thì sẽ được cứu nếu đặt trọn niềm tin của mình vào Đấng chịu đóng đinh.
Ba lần trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su quy chiếu đến dấu chỉ của con rắn đồng (Ga 3: 14; 8: 28; 12: 32), loan báo hành vi cứu độ của Thập Giá. Tin Mừng Gioan trình bày thần học về Thập Giá là tột đỉnh ý định của Thiên Chúa.
Ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người(3: 16-18)
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất gọi Chúa Giê-su bằng tước hiệu “Con Một” có thể để quy chiếu đến chuyện tích tổ phụ Áp-ra-ham dâng I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của mình, làm lễ tế (St 22: 2); nhưng nhất là để nói rằng tất cả tình yêu của Chúa Cha đều gói trọn ở nơi quà tặng duy nhất này: chính ở nơi Người Con duy nhất này mà Thiên Chúa thực hiện ý định của mình là cứu độ hết mọi người, chứ không chỉ riêng dân Ít-ra-en. “Mọi người” đều có được sự sống đời đời, nếu “tin vào Con Một của Thiên Chúa”.
Thánh Gioan thường hằng khẳng định chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Đức Giê-su đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là một quan tòa. Chính con người tự kết án mình nếu họ từ chối ánh sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận biết Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này gợi lên rất rõ nét một tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con. Ở nơi tình yêu duy nhất này tràn ra cho hết mọi người, Giáo Hội đã nhận ra một cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”, Đấng thông truyền và khuếch trương sự sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ “Chúa Ba Ngôi”.
Tấn thảm kịch của sự chọn lựa (3: 19-21)
Ơn cứu độ, tức là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống này được dâng hiến cho hết mọi người, nhưng tùy thuộc vào lời đáp trả của mỗi người. Đó là tấn thảm kịch: tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đón nhận và từ chối “tin vào Con Một của Thiên Chúa”. Đoạn cuối này cô đọng Thần Học Gioan.
Trong hậu cảnh, ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki-tô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”. Nhưng sự chọn này cũng được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy, đức tin không phải là một điều dễ dàng, thái độ ngần ngại của ông Ni-cô-đê-mô là một bằng chứng.
Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gioan, có một khía cạnh lạc quan đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: “Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”.
Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo MC4-B166
Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân Nhưng Thiên Chúa vẫn không ngừng sai các sứ giả của Ngài đến để cảnh tỉnh họ, vì Ngài vẫn hằng yêu thương họ. Thế nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Ngài, khinh thường lời của Ngài và chế giễu các ngôn sứ. Nhưng nhờ lời cầu của Môsê mà ai nhìn lên con rắn đồng được treo lên thì được thoát chết để được vào miền đất hứa. Nhưng vào được đất hứa, dân Chúa lại thất trung, không nghe lời các ngôn sứ, nên Chúa lại để cho kẻ ngoại đến dẹp thánh địa của họ, và để cho dân Ngài bị bắt đi lưu đày bên Babylon.Lòng dạ con người là như thế đó. Nhưng trong thời kỳ lưu đày tại Babylon, dân Ngài đã biết sám hối, và Ngài lại cho vua Ba tư là Cyros giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở Babylon.Dầu cho con người bội tình bội nghĩa, tình yêu của Thiên Chúa đối với con người vẫn không thay đổi.
Bài Tin Mừng hôm nay, nhắc lại cho ông Nicôđêmô về việc ông Môsê giương cao con rắn đồng trong sa mạc để ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành, Đức Giê su muốn ám chỉ về số phận của Ngài: “ Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” Rồi Ngài quả quyết : “ Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” ( Ga 3: 14-15) Như thế, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ.
Một câu chuyện huyền thoại của Ấn Độ kể rằng: Thời xưa, lúc đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối ai bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói: “Già đói lắm! Suốt mùa nước lũ, già không có gì ăn. Chắc già sắp chết mất! Giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ. Pôlixa có cho già được không?” Thỏ nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá! Thỏ bảo ông: “Được rồi. Ông chờ cháu một lát.” Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống, rồi nổi lửa lên và nói: “ Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.” Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt và ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được được Thượng Đế cho phép đến thử lòng thỏ. Về sau, để thưởng công, Thượng Đế cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi bên mặt trăng.
Đây chỉ là một câu chuyện huyền thoại, nhưng hàm ý nói đến lòng bác ái thương người, sẵn sàng hy sinh chính mình vì người khác. Vì yêu thương và muốn cứu chuộc con người khỏi phải diệt vong, Đức Kitô đã vâng theo ý của Chúa Cha để chết cho con người được sống. Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu.
Con người tự lên án mình khi không tin vào Con Thiên Chúa là ánh sáng thế gian: “ Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm đều xấu xa ( c. 19). Ánh sáng xóa tan bóng tối ấy là Đức Kitô. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.Vì thế, “ Ai tin vào con của Ngài thì không bị lên án, nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi. Vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” ( Ga 3 : 18)
Ngày nay, nhìn lên thánh giá, chúng ta thấy được gì ở đó?Thấy tình yêu thủy chung, bao dung, luôn tha thứ của Thiên Chúa,thấy sự vô ơn bội phản của con người.Tình yêu của Thiên Chúa không dành riêng cho một dân tộc nào nhưng cho mọi dân tộc, không dành riêng cho con cái của ánh sáng, nhưng cũng cho những con cái của bóng tối. Điều kiện để được cứu độ, ngoài đức tin, còn phải có ân sủng của Thiên Chúa như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Êphêxô: “ Chính do ân sủng và lòng tin mà anh em được cứu độ.”( Ep 2 : 5a)
Tin và yêu là hai thực tại không thể tách biệt trong tình yêu. Không tin thì không thể yêu, và không yêu thì không thể tin. Ánh sáng và bóng tối là hai thực tại đối nghịch.Tin và yêu vào Đức Kitô là đi trong ánh sáng, ngược lại là đi trong bóng tối!
Bước vào vùng ánh sáng là chọn lựa sáng suốt Nicodemus đã chọn trở về vùng ánh sáng Đức Kitô MC4-B167
Bước vào vùng ánh sáng là chọn lựa sáng suốt Nicodemus đã chọn trở về vùng ánh sáng Đức Kitô. Ai bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô sẽ không vấp ngã và nếu có vấp ngã sẽ mau chóng nhận ân sủng Chúa, chỗi dậy tiếp tục con đường ánh sáng. Nicodemus đi tìm sự sống trong bóng tối và chỉ nhận được sự sống không bền vững. Ông luôn khao khát sự sống vĩnh cửu và nhận biết Đức Kitô là Đấng ban sự sống ấy. Nicodemus đến cùng Đức Kitô vào ban đêm vì ông sợ đồng nghiệp kết án hoặc chế diễu nên tìm đêm tối đến cùng Đức Kitô. Bóng tối theo nghĩa tâm linh đại diện cho sự tối, sự dữ. Ánh sáng biểu tượng của tình yêu Chúa, bác ái và thứ tha. Đi từ vùng tối sang vùng sáng chính là từ bỏ con đường tà về đường ngay chính. Đường công chính là con đường Đức Kitô hướng dẫn bởi
Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Gn 14,6
Trong Cựu Ước đoàn lữ hành trên đường về Đất Hứa họ đã mất kiên nhẫn, bất trung với Thiên Chúa và bị rắn độc giết hại. Con rắn đồng được dựng nên cảnh tỉnh toàn dân. Con đường tà thần là đường dẫn đến sự dữ, sự chết. Nhìn hình ảnh rắn đồng nhắc nhở họ biết nhận sai trái, đấm ngực, thống hối, ăn năn trở về con đường công chính. Đây là con rắn cuối cùng trong Cựu Ước. Con rắn đầu tiên cám dỗ nhân loại trong vườn Địa đàng và con rắn cuối cùng, hình ảnh của thần dữ, chết chóc xảy ra trong hoang địa.
Trong Tân Ước Đức Kitô dùng hình ảnh Ngài treo trên thập tự nói lên tình yêu tự hiến của Ngài. Nhìn vào hình ảnh Con Thiên Chúa treo trên thập tự để nhận ra tình yêu Chúa, lòng bác ái chan hoà từ con tim yêu mến Ngài mở ra tha thứ cho nhân loại. Nhìn lên thập tự Chúa để nhận ra Đức Kitô tự nguyện đến trần gian và tự nguyện hiến thân trên thập tự ban ơn cứu độ, ban ơn tha thứ cho những tâm hồn có lòng thống hối ăn năn. Đức Kitô đến trần gian không phải chỉ xoa dịu đau thương, sầu khổ. Ngài đến trần gian ban sự sống vĩnh cửu và những ai đáp trả lại tình yêu đó sẽ nhận được sự sống trường sinh. Tình yêu đáp trả tình yêu. Nhân loại không có gì quí hơn là dùng chính tình yêu trong tim ta và tâm tình tạ ơn đáp trả tình Chúa. Ngoài tình yêu và tâm tình tạ ơn ra con người không còn gì tốt hơn để báo đáp tình yêu Chúa. Chúa nhân từ cũng không mong gì hơn là tình yêu ta dành cho Ngài.
Đức Kitô xuống trần gian cứu độ toàn thể nhân loại nhưng Ngài ban cho cá nhân quyền tự do chọn lựa lối sống riêng. Nicodemus chọn ánh sáng Đức Kitô bởi ông mong mỏi tìm kiếm ánh sáng sự sống và ông vui mừng đón nhận ánh sáng đó. Số khác sợ ánh sáng bởi sợ sống theo ánh sáng Đức Kitô sẽ bị mất một sợ quyền lợi đang hưởng. Sợ ánh sáng, sợ sự thật, sợ điều tối đang làm bị phơi bày ra ánh sáng, sợ bị thiệt thòi, sợ mất bổng lộc. Tất cả những điều trên không đáng sợ. Có một điều cần sợ, cần hết sức mình tránh cho bằng được đó là sợ mất sự sống đời đời. Đó là điều đáng sợ nhất.
Đại đa số chọn sống theo ánh sáng và rồi trong cuộc sống bận rộn khi thì lầm lẫn trong chọn lựa, khi thì bị những bóng tối mê hoặc, mới đầu coi thường, rồi quen dần với chúng và càng lúc càng xa rời ánh sáng. Khi nhận biết sống xa ánh sáng lại thiếu can đảm chỗi dậy trở về con đường công chính. Từ tối ra sáng, từ sáng vào tối đều cần thời gian thích hợp với hoàn cảnh mới vì thế để trở về ánh sáng chúng ta cần khuyến khích nâng đỡ, hỗ trợ, cầu nguyện để tự tin hơn, can đảm hơn trở về với đời sống ánh sáng, đường công chính.
---------------------------
MC4-B168: AI TIN VÀO NGƯỜI THÌ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI.
P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn,
Sự sống hệ tại bởi cái chết, vì nếu không chết, thì làm sao có sự sống muôn đời. Người thê gian MC4-B168
Sự sống hệ tại bởi cái chết, vì nếu không chết, thì làm sao có sự sống muôn đời. Người thê gian cứ là , ăn , uống, ngủ nghĩ, bệnh hoan, chết chóc rồi cứ xoay vần như vậy, gọi là “ cuộc sống”, theo triết lý nhà Phật, như thế gọi là “ luân hồi”. Nhưng, luân hồi còn có “ quả báo”, nghĩa là : nếu kiếp nầy làm người ác, thì kiếp sau không được làm người, mà có thể làm súc vật.
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, làm người không phải là chuyện dễ, làm người lương thiện khó hơn, nhưng được làm con cái Thiên Chúa càng khó hơn nữa. Vì không phải tự chúng ta muốn làm con cái Chúa hay không là quyền của chúng ta đâu?! Mà là do ân ban nhưng không từ Thiên Chúa.
Vì thế, Đoạn Lời Chúa hôm nay, (Ga 3, 14 -21) là Đọan Lời Chúa Chi tiết , Cuộc đối thoại về “sự sống đời đời” giữa Chúa Giêsu và ông Ni-cô-Đe-mô, một thủ lãnh của người Dothai, thuộc nhóm Pharisieu. Theo đó, người Dothai cũng tin có sự sống đời đời, tin xác sống lại ngày sau hết. Nhưng, Chúa Giêsu cho Nicodemo biết “ nếu ai tin vào Người thì sẽ được sống đời đời”.
Nhưng, Đấng ấy phải từ Trời mà xuống, và pahi3 được “ giương cao như con rắn đồng xưa trong sa mạc”, vì “ như ông Moisen đã giương cao con rắn như thế nào, thì Con Người cũng phải được giương cao nhưa vậy” (Ga 3, 14)
Tám câu trong Đoan Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, từng Lời của Chúa Giêsu trong cuộc hội thoại trên, có thể nói ông Nicôdemo là người Dothai diễm phúc nhất , được Chúa Giêsu mặc khải trực tiếp mầu nhiệm của sự sống qua Con Người với sự sống đời đời, điều mà người Dothai cũng như mọi phàm nhân đều ước ao, nhưng không thể được, ngoại trừ “ TIN “ vào Người Con Một bởi Thiên Chúa.. “Thiến Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian, để ai tin vào Người Con ấy, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)
Nhưng, “ khỏi phải chết” ở đây phải được hiểu như thế nào? Vì, thực tế ai cũng phải chết. Vâng, cái chết ở đây là chết thân xác và chết siêu nhiên chết vĩnh cửu , chết đời đời. Vậy, nếu ai sống mà “tin” vào Chúa Giêsu, thì khỏi phải chết “đời đời” tức chết siêu nhiên.
Vâng, thưa các bạn, một chân lý dễ hiểu là gì khi “tin “ vào Con Một Thiên Chúa, thưa đó là : “NGƯỜI LÀ ÁNH SÁNG”, ánh sáng thì mặc nhiên ban sự sống, vì ai đi theo ánh sáng, thì nơi người đó không có tối tăm, tối tăm là quyền lực của sự dữ, sự ác, sự chết. tồi tăm không có ánh sáng, như vậy, sự chết là nơi tối tăm nghĩa đen và nghiã siêu nhiên.
Theo đó, ai sống mà tin vào Đức Giêsu- Kitô, thì mặc nhiên nơi người đó không có ánh sáng. Như vậy, rõ ràng,, một người được định nghĩa là “ sống “ thì phải hiểu cả hồn và xác, khi nói đến sự sống không phải chỉ có sự sống nới thân xác mà thôi , mà là linh hồn nữa . Linh hồn là một “đặc ân“ của Thần Khí, rõ ràng thân xác con người không hoàn toàn có sự sống, một sự sống hữu hình, rồi phải chết đi, thì không phải là sự sống đích thực , sự sống viên mãn được. Sự sống được nhìn thấy nơi thân xác, không biểu lộ sự sống vĩnh hằng. Vì, thế lực mạnh hơn sẽ tiêu diệt được sự sống nơi thân xác, nhưng, không thế lực nào tiêu diệt được sự sống Thần Linh là linh hồn thuộc về Thiên Chúa. Tội lỗi là những vết hoen, vết ố, chứ không phải là những tấm màn đen. Chỉ trừ phi phàm nhân không tin vào Con Một của Thiên Chúa, lúc ấy họ mới bị chết đời đời mà thôi.
Chết đời đời là vĩnh viễn lìa khỏi ánh sáng chân lý là Thiên Chúa, theo thần dữ là satan. Satan luôn quyến rũ những kẻ ngạo mạn, ngông cuồng, không suy phục Đấng Cứu Thế Giêsu, satan là những kẻ chạy theo thế gian. Với những tiện nghi giả trá của chúng.
Bài đọc II hôm nay (Ep 2, 4-10) , thánh Phao-lô cho chúng ta biết : “ … Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu cho chúng chúng đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô…” ( 4 -5)
Thánh Vịnh 136 hôm nay nhắc cho chúng ta về tâm trạng đau buồn, tủi nhục của người Dothai xưa. Tâm trạng bị lưu đày xa xứ là tâm trạng buồn thương, khắc khoải, Cũng giống như thân xác con người khắc khoải chờ mong ơn cứu độ, hay linh hồn con người đã chết còn trong chốn giam tạm, chờ ngày phan xét chí công.
Ngày 25/02/2018 , Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên đường viếng thăm Tòa Thánh , gọi là chuyến viếng thăm Ad Limina , ( Visital Ad Limina Apostorlorum ) .Nghĩa là viếng một hai thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô , và triều yết Đức Giáo Hoàng, theo chu kỳ ngũ niên, nhưng lần trước vào tháng 06 năm 2009, như vậy là 09 năm chứ không phải là 05 năm. Lần viếng thăm nầy không chỉ riêng có Hội Đồng Giám Mục Việt Nam , mà còn có mầy phái đoàn của Hội Đồng Giám mục anh em khác. Trong nội dung chuyến viếng thăm , chúng ta được theo dõi qua các kênh Công giáo mạng, được nhìn thấy tỏ tường 33 vị Giám Mục, hồng y Việt Nam yết kiến Đức Giáo Hoàng , quây quần bên vi cha chung của Giáo Hội Hoàn Vũ thật là đầm ấm, hùng hậu và vui vẻ, để múc lấy ân sủng từ Thánh Đô, và phép lành cũng như huấn từ truyền giáo từ vị Đại diện Tông Tòa thánh Phê-rô cho toàn thể giáo dân Việt Nam. Chúng ta thấy, sức sống Đức Tin từ Giáo Hội nhỏ bé Việt Nam thông qua 33 vị Giám Mục , là một giáo Hội thật mạnh mẽ, hùng hậu và tràn đầy sức sống của Đức Tin thật là một niềm vui tràn đầy ơn thiêng liêng và lời cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa tại Việt Nam và khắp nơi trên thế giới.
.Như thông tin vừa loan báo, Đức Tổng Giám Mục Phao-lô Bùi Văn Đọc, vị cha chung của Tổng Giáo Phận Sài gòn , vừa về với Chúa rạng sáng ngày 07/03/2018, hưởng thọ 74 tuổi. Vâng, thật là ngỡ ngàng, nhưng cũng thật là bình an, vì có mấy ai được chết như vậy, được chết trong ân sủng Thiên Chúa là quà tặng vô giá.được triều yết Đức Giáo Hoàng, được hôn nhẫn thánh, được chết tại thánh Đô, được chết trong khi dâng Hy Tế của Đức Kitô cũng là hy tế đời linh mục của mình, thì thật là diễm phúc “ ân phúc cá biệt”. Ngài được du học tại thánh đô cách đây 50 năm, năm mươi năm sau được trở lại và chết thân xác hữu hình, để hòa nhập vào vinh quang bất tử của Thiên Chúa trong Mùa Chay, là Mùa ân phúc Mùa Trở về. Chúa gọi ngài về trong khi còn tại vị, nếu sang năm thì, ngài cũng đủ tuổi hưu theo giáo luật, thì có lẽ không rực rỡ như còn tại chức, vâng ngài không cò phải lo lắng việc nghĩ hưu, thật là một cái chết bình an, một sự trở về nhà Cha thật tốt đẹp, điều gì tốt đẹp, điều đó là chân thật.
Xin cầu nguyện cho Đức Cố Tổng Phao-lô được lên chốn nghĩ ngơi – RIP. Lạy Chúa là Cha toàn năng hằng hữu Cha đã ưu ái ban muôn ơn lành cho những ai chạy đến với Đức Kitô, Người Con Chí Ái của Cha. Xin Cha thương ban cho nhiều con cái tin nhận Đức Giêsu- Kitô, để họ nhờ được ân sủng của Con Cha, mà cùng được sống đời đời với Người ./. Amen
Sống trên đời, ai cũng có quyền mơ ước hạnh phúc, dù hoàn cảnh, điều kiện, không giống nhau, “trầm MC4-B169
Sống trên đời, ai cũng có quyền mơ ước hạnh phúc, dù hoàn cảnh, điều kiện, không giống nhau, “trầm bổng, đắng cay hay ngọt bùi”, người ta vẫn có cơ hội để vươn lên, hầu sống tốt nhất theo “ơn gọi”: nồi nào úp vung nấy. Con người tự nhiên ưa nhìn lên, không thích nhìn xuống: một người làm quan cả họ được nhờ ; thấy sang bắt quàng làm họ. Khuynh hướng thích người hiền tài, mơ ước được người quyền cao chức trọng bao bọc chở che, không phải là không có lý, khi mà xã hội vẫn quan niệm: làm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại.
Khi nhắc tới con rắn, ai cũng biết chúng là loài đáng ghê sợ, rắn to, rắn nhỏ, đều có thể cắn chết người, do đó phải cảnh giác, tránh xa chúng. Không biết từ bao giờ và vì lý do nào, cha ông chúng ta có câu: gặp rắn thì đi, gặp quy thì về. Cũng không còn phải là chuyện tình cờ, hên xui, ông Môi-sê kêu gọi dân chúng, hễ ai bị rắn cắn, hãy nhìn lên con rắn đồng để được sống. (Ds 21, 9). Nhìn lên theo quán tính, nhìn lên theo mệnh lệnh, mang lại hiệu quả tức thời cho đám dân mà ông Môi-sê coi là tội lỗi, họ được tha thứ, thân xác họ được cứu khỏi rắn cắn, khỏi chết. Cũng là nhìn lên, nhìn lên cây thập giá, nhìn lên để thấy Một Con Người chịu chết treo trên đó, khác xa với việc nhìn lên con rắn đồng, nhìn lên thập giá để được tha thứ tội lỗi, để phần hồn được sống muôn đời.
Nhìn lên, là một quá trình hết sức tự do, một tình yêu kỳ diệu đến độ sẽ thu hút chúng ta dù lời nói, hành động, còn mờ nhạt, tình yêu đó vẫn đang biến đổi cách sống của chúng ta. Nhìn lên là nhìn về trời cao để cầu nguyện, là nhìn lên bàn thờ gia đình, nhìn lên thập giá, cũng là nhìn đến lòng nhân từ của Thiên Chúa. Nhìn lên để thấy mình còn thấp bé, để hiểu chúng ta cần được yêu thương, được tẩy rửa cho thanh sạch, hầu nhận ra lời giáo huấn: đức tin không có hành động là đức tin chết. (Gc 2, 17). Hãy nhìn lên, chúng ta sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ hiểu, đau khổ thập giá của Đức Kitô chính là tình yêu Thiên Chúa ban cho nhân loại để những ai tin, thì sẽ được sống, và sống đời đời.
Vì sao dân chúng thời ông Môi-sê phải nhìn lên con rắn ? vì sao chúng ta hôm nay được nhắc nhớ hãy nhìn lên thập giá ? tất nhiên là vì tội lỗi, vì sợ phải chết chết, và vì mọi người đều muốn được sống. Nhìn lên con rắn đồng, dấu hiệu của tha thứ, phép lạ của tình yêu Chúa thực hiện qua trung gian ông Môi-sê truyền dạy. Nhìn lên thập giá, nhìn tới sự khổ đau cùng tận của Đấng đã chết vì tội lỗi nhân loại, Đấng hết tình hết mình vì yêu. Khi trưng dẫn hình ảnh con rắn và Con Người, cùng bị treo ở trên cao, Đức Giêsu cho thấy có sự đối nghịch giữa đau khổ vinh quang, giữa chết và sống, đều được minh chứng bằng tình yêu và niềm tin.
Kinh nghiệm ở đời cho thấy, khi nhìn vào bức tranh chúng ta rất cần đến một chút kiến thức để hiểu tính nghệ thuật mà người nghệ sĩ chuyển tải. Nhìn thực tế cuộc đời, tuy mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh rất phong phú, nhưng chúng ta sẽ không khỏi giật mình khi cha ông chúng ta nhắn nhủ: người có lúc vinh lúc nhục, sông có lúc đục lúc trong. Tiền nhân chúng ta đầy khôn ngoan và sáng suốt, các ngài có ý mời gọi con cháu hãy đặt trọn vẹn tâm tình yêu thương khi nhìn lên, nhìn để thấy sau cơn mưa trời sẽ sáng. Có nhìn kỹ, nhìn nghiêm túc, người ta sẽ có cơ hội để hiểu, để biết, tình yêu mới là chiếc chìa khoá để mở ra một khung trời hạnh phúc ; tiền của vật chất chỉ là phương tiện đưa tới một giấc mơ thoáng qua. Hôm nay chúng ta được mời gọi nhìn Đức Giêsu, nhìn lên thập giá, Đức Giêsu sẽ giúp chúng ta hiểu: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.
Ngày hôm nay, chúng ta vẫn nhìn nhận thân xác con người rất quý vì được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Ở hoang địa người Do-thái dù tội lỗi, bất xứng, họ chỉ cần nhìn lên con rắn đồng là được cứu sống. Thân xác linh hồn chúng ta quý trọng biết bao, khi đức tin mách bảo có sự hiện diện của tình yêu Chúa. Một lần nữa, Đức Giêsu đã nói rõ ràng Ngài là sự sáng thế gian, là Đấng sẽ xua tan bóng đêm tội lỗi, dẫn đưa chúng ta đến sự sống, khi chúng ta thông hiệp với mầu nhiệm thập giá. Tin và sống niềm tin, là cách diễn tả chúng ta có sự hiện diện của tình yêu Đức Kitô, Đấng đã vượt qua đau khổ sự chết để đến vinh quang phục sinh. Hãy nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy niềm tin của mình đang lớn lên mỗi ngày, đang trổ sinh hoa trái mỗi ngày trong tình yêu của Đấng Kitô. Amen.
---------------------------
MC4-B170: THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT CHÚNG TA LÀ KẺ TỘI LỖI
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (2 Sb 36:14-16, 19-23; Ep 2:4-10; Ga 3:14-21)
Mùa Chay không những giúp chúng ta nhìn lại mình, nhưng cũng nhìn lên Chúa nữa. Nhìn lại mình MC4-B170
Mùa Chay không những giúp chúng ta nhìn lại mình, nhưng cũng nhìn lên Chúa nữa. Nhìn lại mình để chúng ta nhận biết tình trạng tội lỗi và những sai trái mình đã phạm. Tuy nhiên nhìn lại như thế không phải để chúng ta thất vọng, mà là động lực khiến chúng ta nhìn lên Chúa để chiêm ngưỡng lòng từ bi nhân hậu của Người cũng như để cầu xin Người xót thương. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của lòng Chúa thương xót. Thiên Chúa tỏ lòng thương xót cho dân Ít-ra-en bị lưu đày bên Ba-by-lon. Qua đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô chỉ cho chúng ta thấy nơi Chúa Giê-su Ki-tô lòng thương xót ấy được biểu lộ như thế nào. Sau hết, con rắn đồng do ông Mô-sê treo cao giữa trại dân Ít-ra-en là tiền ảnh của Chúa Giê-su chết trên thập giá, đã nói lên tột đỉnh của lòng Chúa thương xót.
Trước hết chúng ta hãy xem trong hoàn cảnh nào Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót đối với dân riêng của Người. Sau khi vương quốc Ít-ra-en miền bắc bị ngoại bang chiếm đóng, thì vương quốc Giu-đa miền nam cũng bắt đầu rơi vào tình trạng suy đồi đạo đức. “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế”. Chúa sai các ngôn sứ đến cảnh báo họ, nhưng “họ nhạo cười các sứ giả, chế diễu các ngôn sứ của Người”. Do đó Chúa đã trừng phạt họ bằng cách để cho quân Can-đê tràn vào đốt Đền Thờ, triệt hạ tường thành, thiêu rụi các lâu đài và chém giết dân chúng. Những ai còn sống sót thì quân địch bắt họ đem đi đày tại Ba-by-lon. Nhưng Chúa không bỏ quên họ. Người can thiệp bằng cách tác động tâm trí vua Ky-rô của Ba-tư, để vua cho phép dân Chúa hồi hương và vua còn ra lệnh giúp đỡ họ tái thiết đất nước và xây lại Đền Thờ nữa. Tội lỗi của dân Ít-ra-en vô cùng nặng nề, thế mà lòng Chúa thương xót còn trổi vượt thật xa trên cả tội lỗi của họ!
Tuy nhiên Chúa không chỉ tỏ lòng thương xót với dân riêng Người, mà Người còn tỏ lòng thương xót hết thảy chúng ta, vì Người là “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta”. Thánh Phao-lô còn cho chúng ta thấy Chúa thương xót chúng ta như thế nào. Dù chúng ta đã chết vì tội tổ tông và không còn được làm con cái Chúa nữa, thì Người vẫn thương cho chúng ta được cùng sống với Chúa Ki-tô để trở về làm con cái Người. Rồi nếu chúng ta sống trọn bổn phận làm con Chúa “mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”, thì Người sẽ cho ta “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời”. Chỉ có một Thiên Chúa giàu lòng thương xót mới quan tâm tới chúng ta như vậy, mặc dù chúng ta không xứng đáng. Cho nên thánh Phao-lô khẳng định rằng không phải bởi sức riêng chúng ta hay bởi những việc ta làm mà ta được cứu độ, nhưng hoàn toàn là do ân sủng Chúa và lòng tin của ta. Ngài còn quả quyết rằng Thiên Chúa “tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su”. Bài Tin Mừng đã trình bày việc làm này của Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đó chính là cách Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu đối với ta “trong Đức Ki-tô Giê-su”. Thiên Chúa muốn cho mọi người “thấy được” lòng thương xót và tình yêu của Người, nên Người sẵn sàng để cho Con Một là Chúa Giê-su bị đóng đinh thập giá và được giương cao lên. Giống như ông Mô-sê đã treo con rắn bằng đồng lên cây cột cao giữa trại dân Do-thái trong sa mạc, đế cứu chữa những người bị rắn độc cắn, thì Chúa Giê-su cũng bị giương cao trên thập giá để chúng ta là những kẻ tội lỗi tin vào Người mà được cứu độ.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Tại sao trong mùa Chay, ta phải thực hiện lòng sám hối? Là vì ta xác tín rằng Chúa giàu lòng thương xót sẽ tha thứ chúng ta và dẫn chúng ta tới nguồn ơn cứu độ. Nếu quả thực Chúa không có lòng thương xót, thì dù ta có sám hối thế nào đi nữa củng chỉ là vô ích thôi! Lời Chúa hôm nay đã trưng dẫn lịch sử dân Ít-ra-en, lời giảng dạy của thánh Phao-lô và nhất là sự kiện Chúa Giê-su chịu đóng đinh thập giá để giúp ta xác tín rằng: Thiên Chúa giàu lòng thương xót! Đấy là chân lý không thể quên, nhất là trong mùa Chay!
Chúng ta thấy bất cứ một quốc gia nào trên thế giời đều có một lịch sử, và trong lịch sử ấy MC4-B171
Chúng ta thấy bất cứ một quốc gia nào trên thế giời đều có một lịch sử, và trong lịch sử ấy được đánh dấu bởi những cuộc thăng trầm. Cuộc đời và hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng thế được đánh dấu bởi tội lỗi và ân sủng. Nhìn vào lịch sử dân Do thái, còn được gọi là Dân Chúa, qua Kinh thánh, chúng ta thấy lịch sử của họ cũng được đánh dấu bởi ân sủng và tội lỗi, trung thành và bất tín, đón nhận và từ chối, ánh sáng và bóng đen. Ðó là lịch sử một tình thương hải hà, nhưng vô cùng mầu nhiệm. Thiên Chúa giàu lòng yêu thương đã sai nhiều sứ giả đến với họ, nhưng họ vẫn giả điếc làm ngơ, và hơn thế nữa, họ còn nhạo báng, hành hạ và giết chết các tiên tri. Thiên Chúa, dù là Ðấng nhân ái từ bi, đã buộc lòng phải trừng phạt để cảnh tỉnh và lôi cuốn họ trở về với Người. Chúa cho dân đi lưu đày, mất quê hương, mất đền thờ, mất tất cả, để từ đó họ khám phá lại những hồng ân lớn lao của Chúa.
Thánh Phao-lô ý thức sâu xa về thực trạng tội lỗi của con người và hồng ân của Chúa. Người đã kinh nghiệm về ảnh hưởng của tội trong chính bản thân, trong môi trường người sống và những nơi người đến rao giảng. Về bản thân, thánh Phao-lô đã phải thốt lên những lời chua xót: “Tôi thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội.” (Rm 7,14). Và “Không phải tôi hành động, nhưng chính là tội lỗi cư ngụ trong tôi.” (Rm 7,17) Thánh Phaolô không những thấy rõ tội lỗi của riêng mình và của mọi người, nhưng cũng cảm nhận được tình thương yêu vô biên và cao cả của Thiên Chúa. Người xác định rằng: “Thiên Chúa là Chúa của hồng ân, và “tội lỗi phát sinh càng nhiều, ân sủng càng dồi dào gấp bội.” (Rm 5, 30)
Thật vậy, chính Chúa Giê-su Kitô là hồng ân trọn vẹn và cao quí của Thiên Chúa cho chúng ta. Người là dấu hiệu của tình thương và chính là tình thương sâu thẳm bao la của Thiên Chúa. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình… để thế gian nhờ Người mà được cứu độ.” Chúa Giê-su đã dùng cây Thánh giá để cứu độ con người chúng ta. Thế nhưng hồng ân cứu độ này có liên hệ đến một số sự kiện đã xảy ra và được kể trong sách Dân số.
Hồi ấy, sau khi ra khỏi Ai cập để về đất hứa, dân Do thái phải qua sa mạc. Ngày thì nóng như thiêu, đêm thì lạnh như cắt. Hơn nữa đời sống trong sa mạc đâu có phải là đời sống bình thường vì thiếu thốn đủ thứ. Có lúc bị đói và khát, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho họ có thức ăn, thức uống, nhưng vì sống lâu trong sa mạc, sức chịu đựng của họ có giới hạn, họ đã kêu trách Chúa và ông Mô-sê. Nhiều khi chúng ta cầu xin ơn này ơn nọ mà Chúa chưa kịp ban cho, thì chúng ta cũng kêu trách Chúa như họ! Họ kêu trách Chúa không tiếc lời. Sự kiện đó đã khiến Chúa phải dùng đến hình phạt để cảnh tỉnh họ. Chúa đã cho những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc và tang thương cho họ. Sau đó, họ ăn năn hối hận và Chúa lại thương, truyền cho Mô-sê đúc một con rắn đồng rồi treo lên một cây cột cao để như lời Chúa nói với Mô-sê: “Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống.” Và quả đúng như thế, tất cả những ai bị ra71n lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó thì đều được sống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giê-su đã nhắc lại câu truyện xưa để giúp cho ông Ni-cô-đê-mô hiểu một việc Chúa sắp làm, và nói với ông: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.” Hay nói một cách khác Chúa muốn bảo chúng ta con rắn đồng trong sa mạc xưa là hình bóng cho sự việc Chúa chịu chết trên Thánh giá để ban ơn cứu độ cho con người, có nghĩa là làm cho con người được hưởng sự sống đời đời.
Thế nhưng, ông bà anh chị em thân mến, ngày hôm nay muốn được Chúa cứu độ thì chúng ta phải làm gì?
Thưa, trước hết, phải xác tín vào tình yêu thương vô biên và cao cả của Thiên Chúa. Qua những biến cố trong lịch sử, Thiên Chúa đã từ từ mạc khải cho dân Do thái thấy rằng Người không phải là một Thiên Chúa hay phạt, nhưng là Thiên Chúa nhân từ hay tha thứ. Mỗi lần họ phản bội, không trung thành và cứng lòng ngoảnh mặt đi thờ thần khác, như trong bài đọc 1 hôm nay, Chúa dùng mọi phương cách để cảnh tỉnh và nhiều người để lôi cuốn họ về với Chúa. Khi họ biết ăn năn sám hối thì Chúa sẵn lòng tha thứ và lại yêu thương họ. Dần dần họ nhận ra Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chính Con Một Người là Chúa Giê-su, để những ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Chúng ta phải tin vào Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ chúng ta.
Nhưng tin vào Chúa thì phải làm gì? Thưa phải sống lời Chúa dạy và nhìn ra và nhận tội lỗi của mình, ăn năn sám hối, quay trở về và quyết tâm sửa lại, sống đời sống mới.
Tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em những phương cách ăn năn sám hối của thánh Gioan Kim khẩu sau đây. Thứ nhất là lên án tội lỗi của mình. Ngài khuyên chúng ta hãy là người đầu tiên xưng tội lỗi của mình với Chúa để được Chúa tha thứ và trở nên công chính. Vì chúng ta không thể nào che dấu Chúa tội lỗi của mình được, cho nên hãy trước hết xưng tội ra với Chúa. Cách thứ hai không kém gì cách thứ nhất là nếu người khác sỉ nhục, nói xấu, thù hằn và ghen ghét thì đừng để tâm, hãy chế ngự tính giận hờn của mình và biết tha thứ tội lỗi cho anh chị em mình. Như thế, khi chúng ta xin Chúa tha thứ điều gì xúc phạm đến Chúa thì Chúa cũng sẽ tha thứ cho chúng ta. Cách thứ ba là phải siêng năng và sốt sắng cầu nguyện, và thành tâm lắng nghe Lời Chúa. Cách thứ tư là có lòng yêu thương, hy sinh và quảng đại, làm những việc bác ái, phúc đức vì những việc này có hiệu lực, ảnh hưởng tốt đến tâm hồn. Ngoài ra thánh Gioan Kim khẩu cũng khuyên chúng ta có cuộc sống khiêm nhường, vì cuộc sống khiêm nhường sẽ tiêu diệt tội lỗi tận căn.
Như ông bà anh chị em nhìn lên tấm băng rô trên đây, mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta nhận biết chúng ta là những người tội lỗi và chúng ta xác tín vào tình yêu thương của Chúa. Chúa đã dùng cây Thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta nhìn lên Cây Thánh Giá và thành khẩn xin Người tha tội, Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta.