Suy Niệm Tin Mừng Lễ Thăng Thiên ABC- Bài 451-483 Chúa lên trời là đi dọn chỗ cho chúng ta
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên ABC- Bài 451-482 Chúa lên trời là đi dọn chỗ cho chúng ta -------------------------------------- Năm A: Phúc Âm: Mt 28,16-20 Thầy đã được trao toan quyền trên tời dưới đất.
Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu Khi ấy, mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giê-su đến gần, nói với các ông : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” - Ðó là lời Chúa. ---------------------------------------------------- Năm B:
Phúc Âm: Mc 16, 15-20 "Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô. Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh". Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------------------------------------------- Năm C: Phúc Âm: Lc 24, 46-53: "Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Chúng ta đã cùng Giáo hội hân hoan mừng đón Chúa Phục Sinh và giờ đây giống như mười một LênTrời ABC-451
Chúng ta đã cùng Giáo hội hân hoan mừng đón Chúa Phục Sinh và giờ đây giống như mười một Tông đồ, có lẽ chúng ta lòng cũng buồn rười rượi, bịn rịn phải nói lời chia tay với Chúa Giê-su vì hôm nay Người lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Nhưng con thiết nghĩ nỗi buồn này được lấp đầy với niềm vui chan chứa, và ngôn từ chia tay này được thay thế bằng lời trấn an đầy xác tín của Chúa Giê-su Ki-tô với các môn đệ và với mỗi người chúng ta: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20). Các bài đọc hôm nay chúng ta vừa nghe, đặc biệt trình thuật ngắn gọn của Thánh Sử Mác-cô về sự kiện Chúa Thăng Thiên cho chúng ta thấy: Mác-cô không đơn thuần thuật lại chuyện Đức Giê-su được đưa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, mà còn nhắn nhủ mỗi người chúng ta hãy nhớ “bài sai” của Chúa Giê-su gửi cho mọi người tin nhận vào Người rằng: “Các con hãy đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16, 15-16). Nói cách khác, mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi và được sai đi làm chứng nhân cho Chúa tình yêu trong mọi hoàn cảnh sống, mọi thời đại và mọi lãnh vực.
Trước tiên, chúng ta nên hỏi bản thân: ai là chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu? Và chứng nhân cho Chúa là người như thế nào? Thông thường, anh chị em nghe quý cha, quý sơ, quý thầy được nhận bài sai đi truyền giáo, phục vụ ở nơi này hay nơi khác, ở quê hương hay trên một vùng đất xa lạ nào đó, chứ ít ai nghe giáo dân được sai đi?!! Nghĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, nhưng chúng ta nên biết rằng: khi được chịu Bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên người thuộc về Chúa Ki-tô (Ki-tô hữu), người được thông phần vào sứ vụ tiên tri, tư tế và vương đế của Ngài; còn nữa, chúng ta cam kết từ bỏ mọi âm mưu đen tối của tội lỗi, ma quỷ và hứa sống tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa qua việc sống đức tin và làm chứng cho Chúa qua đời sống hằng ngày. Như vậy, chứng nhân cho Thiên Chúa tình yêu chính là mỗi một người Ki-tô hữu chúng ta, là những người được khắc sâu trong tâm khảm mình ấn tín thánh thiêng không bao giờ phai mờ, là người mặc lấy thánh danh Ki-tô hay là người mang tên Ki-tô hữu. Như bài đọc 1 trích trong sách Công Vụ Tông Đồ, Chúa Giê-su khẳng định: các tông đồ sẽ được lãnh nhận sức mạnh của Thánh thần khi Người ngự xuống trên các ông. Bấy giờ các ngài sẽ là chứng nhân của Thầy Chí Thánh Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri-a cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). Chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu là người được Thánh thần thúc giục, nâng đỡ, ban sức mạnh, can đảm, quả quyết, dũng cảm ra khỏi con người yếu đuối, sợ sệt, nhút nhát của mình, vứt bỏ những thú vui trần tục, thói quen đam mê mà dám tuyên xưng vào Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao ban Con Một yêu dấu của mình để cứu độ con người tội lỗi (x. Ga 3, 16). Còn gì đẹp hơn, cao cả hơn tình yêu của một Thiên Chúa trao ban chính sự sống mình cho chúng ta dù chúng ta bất xứng, vô ơn!
Như vậy, anh chị em chúng ta phải khẳng định một điều: đã là người Ki-tô hữu, tất cả chúng ta đều là chứng nhân của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, chúng ta sẽ làm chứng cho ai và cho điều gì? Một câu hỏi dường như không cần thiết và có lẽ hơi dư thừa, nhưng nếu nhìn vào cuộc sống gia đình, lịch sử bản thân,những thăng trầm, và bước ngoặt lớn trong đời sống đức tin của mỗi người, chúng ta sẽ nhận ra: lắm lúc chúng ta không làm chứng cho Chúa tình yêu và cho Chân lý. Lý do thì ôi thôi vô số, hơn cả 1001 lý chứng để biện hộ, biện minh hay giải trình. Thay vì làm chứng cho Chúa Ki-tô đã yêu thương tôi, đã chết cứu chuộc tôi, tôi lại làm chứng cho “cái tôi”, cho “bản ngã” tự kiêu của mình. Thay vì làm chứng cho lòng thương xót, lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa dành cho tôi, tôi lại làm chứng cho sự cứng nhắc, hành vi lên án và ghen ghét đối với chính mình và đối với tha nhân. Thay vì làm chứng cho cử chỉ khoan dung, chờ đợi và vòng tay rộng mở của Chúa dành cho con người tội lỗi như tôi, tôi lại làm chứng cho lối suy nghĩ kết án, xua đuổi và tách biệt của mình đối với anh chị em trong cộng đoàn; và còn vô vàn nhiều điều khác mà đáng lẽ chúng ta phải làm chứng, nhưng vì sự yếu đuối, chúng ta đã nhiều lần thỏa hiệp với điều bất chính hoặc cho tư lợi cá nhân. Là con cái Chúa, chúng ta phải sống trong sự thật, làm chứng cho chân lý, nhưng lắm lúc chúng ta lại làm chứng gian. Chính vì nhận biết con người thật mỏng manh, yếu đuối và dễ sa ngã như vậy, thánh Phao-lô đã nhắn nhủ chúng ta qua bài đọc II, thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô: “Anh em được ban thần khí khôn ngoan và mạc khải để nhận biết Người. Xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh…” (Ep 1, 17-18). Lời nguyện xin của thánh Phao-lô cho tín hữu Ê-phê-sô cũng chính cho mỗi người Ki-tô hữu chúng ta. Thật không sai khi chúng ta nhận mình yếu đuối, nhưng với ơn Chúa, chúng ta trở nên can đảm làm chứng cho Ngài. Chẳng chút gì sai khi chúng ta nhận biết mình mù quáng trước lợi danh, tiền, tài, tình, tham vọng và đam mê, nhưng với Thần khí khôn ngoan, đôi mắt tâm hồn của chúng ta sẽ trở nên sáng suốt, can trường đứng về phía chân lý và làm chứng nhân cho tình yêu đích thật, làm chứng tá cho Thiên Chúa.
Anh chị em rất thân mến, chúng ta đã biết mỗi một người trong chúng ta được Thiên Chúa mời gọi trở nên chứng nhân cho tình yêu Chúa và cho chân lý. Tuy nhiên, sống trong một thế giới đầy chuyển biến như ngày nay, chúng ta phải sống chứng tá như thế nào? Một niềm vui an ủi chắc chắn cho các Tông đồ, cho Giáo hội và cho chúng ta, đó là: mặc dù Chúa Giê-su vinh hiển lên trời, nhưng Người luôn đồng hành, ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Bằng chứng cụ thể, mỗi ngày Ngài hiện diện qua bí tích Thánh thể, trao ban chính sự sống Người cho chúng ta. Trong mọi phút giây, những khi ta quỵ ngã vì phạm tội, Ngài đồng hành với chúng ta qua bí tích Giải hòa để ban ơn tha thứ và bình an cho ta. Khi ta ốm đau bệnh tật phần hồn cũng như phần xác, Ngài đỡ nâng và cảm thông với ta, v.v…Những cảm nghiệm này, tiên vàn các Tông đồ là nhân chứng hùng hồn nhất “…phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo” (Mc 16, 20).
Trong đời sống mục vụ và truyền giáo ở xứ sở hoa anh đào này, con cũng được nhiều anh chị em chia sẽ: làm sao sống giữ vững đức tin ở đất nước phồn thịnh Nhật Bản này; làm sao sống chứng tá cho Tin Mừng và rao truyền Nước Chúa cho những người chưa tin nhận Chúa, v.v…Và câu chuyện đó luôn kết thúc bằng bốn chữ “khó lắm cha ơi”. Thật sự, bản thân con cũng đồng cảm với quý ông bà, anh chị em; nhưng cũng nên khẳng định một điều: “khó không có nghĩa là không thực hiện được”. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng bắt đầu làm chứng tá cho Chúa từ những việc làm bé nhỏ nhất, cử chỉ yêu thương, vị tha, sống hài hòa và hiệp thông với nhau. Và rồi từ tình yêu thương trong cộng đoàn dù bé nhỏ ấy sẽ như hương hoa lan tỏa khắp nơi. Hơn nữa, nếu chúng ta luôn tin tưởng rằng: chúng ta không ‘đơn thân độc mã’ sống chứng tá cho Tình yêu, nhưng các anh chị em khác đang cùng với ta và nhất là Chúa Ki-tô Phục Sinh luôn đồng hành, nâng đỡ ta trên bước đường trở nên nhân chứng Tình yêu như tâm tình trong một bài hát sinh hoạt “Phao-lô trồng, A-pô-lô tưới, Thiên Chúa sẽ cho mọc lên. Tôi trồng, anh tưới, Thiên Chúa cho bông lúa vàng”.
Với niềm tin xác tín vào Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa đã chịu chết cho nhân loại vì tình yêu. Và hôm nay Ngài lên trời, về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài luôn ở cùng chúng ta cho đến ngày tận thế, chúng ta xin Chúa giúp sức cho mỗi người biết ý thức, can đảm trở nên chứng tá cho tình yêu mà Ngài đã dành cho chúng ta.
Chung lời ngợi khen Chúa Con, Hân hoan thờ kính sắt son một niềm. Ứng viên của Chúa tình yêu Nhiệt tâm, nhiệt huyết, đìu hiu xa rời, Gần gũi, gắn bó đầy vơi Nghị lực Thần khí, biển trời cậy trông. Hoạt động hăng say vun trồng, Ân sủng chan chứa tình nồng thánh ân Người người chung sức tảo tần, Ra đi làm chứng, xếp vần yêu thương. Amen.
Chúa Giêsu lên trời mở ra những chân trời mới cho chúng ta: Phận người không chỉ ở nơi đất LênTrời ABC-452
Chúa Giêsu lên trời mở ra những chân trời mới cho chúng ta: Phận người không chỉ ở nơi đất thấp mà còn vươn tới tận trời cao. Đạo Chúa không chỉ giới hạn ở 1 quốc gia mà mở ra cho toàn thiên hạ.
Phận người vươn tới trời cao. Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế làm người. Thế rồi, con người Giêsu đã chịu chết, sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là tin mừng vĩ đại cho loài người: Thân phận con người từ nay không dừng lại nơi đất thấp, mà vươn tới trời cao. Chúa mở ra cho toàn thể loài người một chân trời hy vọng được hưởng sự sống vinh quang đời đời trên trời. Phận người không phải là an nghỉ nơi huyệt mộ trong lòng đất, nhưng là vui sống hạnh phúc trên trời với Thiên Chúa. Phải chăng vì thế mà Chúa đã tạo dựng con người trong tư thế: Đầu đội trời, chân đạp đất. Sống nơi đất thấp, nhưng con người lại luôn hướng lên trời cao. Đất cho ta sinh sống, nhưng Trời mới cho ta lẽ sống.
Đạo Chúa lan tỏa thiên hạ. Khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, thì Đạo Chúa mới chỉ giới hạn ở 1 quốc gia, nhưng khi Chúa lên trời, thì Đạo Chúa đã mở ra toàn thiên hạ khi Ngài truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” Như vệ tinh cần phải bay lên trời thì mới phủ sóng rộng toàn cầu, Chúa Giêsu lên trời cũng phủ sóng Tin Mừng khắp thế giới. Vệ tinh trên trời cần các thiết bị dưới đất tiếp nhận tín hiệu rồi truyền sóng, Chúa lên trời cũng cần các môn đệ của Ngài truyền sóng Tin Mừng, ra đi làm chứng nhân cho Chúa. Hãy ra đi lan tỏa Đạo Chúa khắp thiên hạ.
Và như thế, không phải đợi sau khi chết chúng ta mới được về trời với Chúa, mà ngay khi đang sống dưới đất chúng ta cũng đã được vui hưởng niềm vui Nước Trời khi loan báo và làm chứng Tin Mừng yêu thương. Bởi vì, đâu có tình yêu thương ở đó có Đức Chúa Trời. Amen.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời. Trong bài đọc I tác giả sách Công Vụ Tông LênTrời ABC-453
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời. Trong bài đọc I tác giả sách Công Vụ Tông Đồ miêu tả biến cố này như sau: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,9-11).
Có thể nói rằng đây là sự miêu tả bên ngoài của biến cố. Thánh Phaolô trong bài đọc II nói đến ý nghĩa ẩn dấu bên trong của biến cố này. Theo ngài, “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ep 1,22). Như thế, lễ Lên Trời cử hành sự đăng quang vinh hiển của Chúa Kitô như là Chúa của hoàn vũ.
1- Lên trời nghĩa là gì?
Trong biến cố này, lời nhắc nhở của hai thiên thần mặc áo trắng làm chúng ta nhớ đến những lời của những người vô thần thường nói với các Kitô hữu: “Sao các ông còn đứng nhìn trời?” Thật vậy, triết gia Hegel đã từng mỉa mai rằng: “Người Kitô hữu đã hoang phí những kho tàng quý báu ở dưới đất khi mải mê hướng về trời.” Karl Mark cũng cho rằng: “Các Kitô hữu đã phỏng chiếu lên trời những khao khát không được thỏa mãn của họ ở dưới đất này.” Vì thế, thánh lễ hôm nay thúc đẩy chúng ta suy tư về việc “hướng về trời.” Đây là một hạn từ được các bài đọc Kinh Thánh nói tới.
Triết gia Platon, một trong những người thầy vĩ đại nhất của nhân loại, đã nói về ý nghĩa thiêng liêng của trời. Ông để lại vũ trụ quan của mình qua dụ ngôn về cái hang. Platon hình dung loài người là một đoàn người tù nhân bị trói chặt trong một hang động u tối. Họ quay mặt vào vách tường ở dưới đáy động. Vì bị trói chặt, đám người không thể nhìn ra cửa hang, cũng không thể đi ra ngoài hang. Bên ngoài cửa hang là cả một thế giới được Platon cho là Chân, Thiện, Mỹ. Trong thế giới đó có vô số thứ tốt lành mà ông gọi là thế giới các Ý Tưởng (Ideas). Theo ông, tất cả các ý tưởng đều tuyệt đẹp, vĩnh cửu và bất biến. Các vị thần là những sinh linh hay siêu nhân có thể nhận biết tất cả những ý tưởng đó. Thương loài người bị cầm tù, các thần làm một bản sao một số ý tưởng để mang vào hang cho loài người xem. Chúng giống như những con rối hay búp bê, được làm bằng vật liệu nào đó, chúng thực là những con rối, nhưng không phải là cái thực của hình mẫu lý tưởng. Để cho mọi người trong hang nhìn thấy chúng, các thần đốt lửa đằng sau để chiếu bóng của con rối lên bức tường. Nhờ ánh sáng mà người ta thấy được bóng của các con rối.
Như thế, theo Platon, thế giới vĩnh hằng với các ý tưởng chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên. Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, đối tượng được các thần sao chép từ các ý tưởng. Thế giới của các cái bóng những con rối là hình ảnh về những sự vật khách quan theo cảm nhận chủ quan của con người. Platon nói rằng đây là điều kiện của con người chúng ta ở trong thế giới. Thế giới này chỉ là một hang. Những điều mà chúng ta tin rằng là thực chỉ là bóng của thực tại ở đằng kia, ở trên trời. Chúng là sự bắt chước của thực tại trên trời. Vì thế, cần phải thoát khỏi thân xác là ngục tù nhốt chúng ta trong thế giới vật chất với những ảo tưởng, để “thoát khỏi hang tối” mà nhận biết thực tại đích thực. Vì thế, Platon hiểu rằng trời là quê hương vĩnh cửu của con người, chứ không phải là một không gian địa lý nào đó xa xôi trong vũ trụ này. Trời có ý nghĩa hoàn toàn khác, ở ngoài không gian và thời gian. Ông gọi đó là “thế giới của các ý tưởng” hay thế giới bên kia.
Danh họa Raffaello đã tóm tắt một cách tuyệt hảo ý tưởng của Platon trong một bức tranh nổi tiếng gọi là “Trường Athens.” Trong đó, chúng ta thấy hai nhà triết gia vĩ đại cổ, một Platon và một Aristotes, đại diện cho hai thái độ đối lập nhau. Với bàn tay chỉ xuống dưới, Aristotes nói rằng thực tại là ở trên mặt đất và sự hiểu biết của chúng ta phải khởi đi từ những sự vật mà chúng ta thấy và đụng chạm; còn Platon với ngón tay chỉ lên trời lưu ý rằng thực tại ở trên cao, trên trời.
Ngày hôm nay, tất cả chúng ta ít nhiều là những người theo Aristotes, ai cũng có cái nhìn và chú ý đến trần gian. Chúng ta cần bổ túc bởi cái nhìn của Platon.
Nếu chúng ta sống tình yêu mang tính “platonist,” nghĩa là tình yêu này có tính thiêng liêng hơn, hướng thượng hơn và lý tưởng hơn, lúc đó, cả trong tình yêu, tình yêu của chúng ta có ý nghĩa hơn, có giá trị hơn. Bởi lẽ, chúng ta thấy rằng mối nguy hiểm lớn nhất là hạ giá tình yêu khi chỉ giảm thiểu nó ở trong phạm vi thuộc thể lý, cảm xúc và tính dục.
2- Sự khác biệt của Kitô giáo về trời
Có những đoạn Kinh Thánh xem ra như phác họa lại khuôn mẫu của Platon để nhìn các sự vật như được miêu tả từ dụ ngôn cái hang. Nhân vật trong bức tranh của Raffaello với ngón tay chỉ về trời chính là hình ảnh rất đẹp về thánh Phaolô khi ngài nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3,1-2).
Như vậy, Đức tin Kitô giáo có phải là một dạng cập nhật tư tưởng Platon chăng? Đức Giêsu đến không mang lại gì mới mẻ chăng? Không, chúng ta phải nói rằng có một sự khác biệt nền tảng; trời trong mạc khải Kitô giáo không phải là trời như Platon quan niệm. Kitô giáo không quan niệm thế giới theo sơ đồ không gian trên/dưới, hoặc trên cao/dưới thấp, nhưng với lược đồ thời gian hiện tại/tương lai. Khi chúng ta nói về trời, chúng ta không hiểu rằng đó là một không gian ở trên chúng ta, nhưng là một biến cố trước mặt chúng ta, hướng về biến cố đó chúng ta tiến bước. Biến cố này chính là sự trở lại vinh quang của Chúa Kitô, sự trở lại lần thứ hai (parusia) là “trời mới đất mới.”
Đó là lý do tại sao hai thiên thần nhắc nhở các Tông Đồ không hướng nhìn lên trời mà phải hướng về sự trở lại của Chúa Kitô: “Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” Liên quan đến điều này, thánh Phaolô nói: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Kinh Thánh nói rằng: “Vì trên đời này, chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai” (Hr 13,14).
Có ai đó sẽ nói: “Nhưng đâu có gì khác biệt?” Quả thật, có sự khác biệt lớn lao! Đối với cái nhìn của Platon, thế giới này không còn giá trị của nó. Thế giới này là một cái hang, nghĩa là một nhà tù. Nên ông dùng hai từ trong tiếng Hy Lạp khi nói: thân xác (soma) là một ngôi mộ (sema). Hãy chạy trốn, thoát khỏi thế giới này. Không có ơn cứu độ nơi thân xác và thế giới, nhưng chỉ khi con người rời khỏi thân xác và thế giới này mới có ơn cứu độ.
3- Hướng về sự trở lại của Chúa Kitô
Đối với người Kitô hữu không như thế, Kitô giáo không phải theo nhị nguyên luận như Platon. Thân xác không chỉ đơn giản là “phương tiện” hoặc là “tù ngục” cần phải trốn thoát. Thân xác con người được Thiên Chúa tiền định để tham dự vinh quang phục sinh với linh hồn. Sự phục sinh và sự lên trời của Đức Kitô minh chứng cho chúng ta chân lý này. Chúng ta được hạnh phúc “trong chính thân xác mình,” như đức tin đảm bảo điều đó cho chúng ta. Cuộc gặp gỡ với Chúa Đấng sẽ đến và “ra đi để được ở với Đức Kitô” (Pl 1,23), Người chính là “trời, là thiên đàng đối với người Kitô hữu chúng ta.”
Hơn nữa, nếu thế giới này thuộc về Thiên Chúa, được tạo dựng bởi Người, thì nó cũng được cứu độ (x. Rm 8,19), do đó, chúng ta không được tách khỏi vận mệnh thế giới, nhưng đóng góp để gìn giữ và xây dựng thế giới này đẹp hơn, tốt hơn và nhân bản hơn. Chúng ta có bổn phận phải làm cho những điều kiện sống ở đời này tốt hơn. Đức tin dạy chúng ta khi trông chờ Đức Kitô đến và hướng về tương lai không cho phép chúng ta an nhiên tự tại trong sự lười biếng hay bỏ bê bổn phận xây dựng xã hội trần thế. Thời gian được ban cho chúng ta để “làm điều thiện cho mọi người” (Gl 6,10) như thánh Phaolô dạy. Vì thế, “không được lãng phí những kho báu dưới đất khi hướng về trời.”
Nếu trời đối với chúng là “Chúa đến,” như thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức, bởi vì Người đang đến lúc này trong phép Thánh Thể, trong người nghèo, trong người đau khổ, cô đơn. Chúng ta hãy tỉnh thức để đón Chúa đến với cặp mắt không chỉ nhìn lên, nhưng còn phải biết nhìn xuống để nhận ra Chúa nơi anh chị em của mình. Amen!
Trước khi về trời, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra căn dặn các môn đệ của mình và ban cho các LênTrời ABC-454
Trước khi về trời, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra căn dặn các môn đệ của mình và ban cho các ông lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (Mc 16, 15). Lệnh truyền ấy đã hối thúc muôn tâm hồn miệt mài ra đi trên cánh đồng sứ vụ. Họ hăm hở ra đi truyền rao Tin Mừng. Từng thế hệ nối tiếp nhau, không có khó khăn hay gian khổ nào có thể cản bước tiến của họ, vì trong tâm hồn họ và bên cạnh họ luôn có Thầy Giêsu hiện diện.
Ta cũng là người môn đệ của Chúa, đã lãnh nhận hồng ân đức tin và được ơn cứu độ. Ta sẽ ra đi truyền rao Tin Mừng bằng cách nào đây?
Khi muôn người tông đồ của Chúa ra đi, can đảm đến những vùng đất truyền giáo xa xôi, họ mang ánh sáng của Tin Mừng đến cho những “người mù” chưa nhận biết Chúa; cũng có những tâm hồn không có cơ hội cất bước đến vùng truyền giáo, nhưng tâm hồn họ đầy tràn nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ rằng, một nữ tu dòng kín như Chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu lại trở nên một vị thánh bổn mạng cho các xứ truyền giáo. Cũng có những con người ngày đêm âm thầm gieo vãi hạt giống đức tin và Thiên Chúa vẫn không ngừng chúc lành cho những hạt giống ấy. Thầy Giêsu đã khẳng định rằng: “Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ…” (Mc 16, 17). Nếu như ta bắt đầu một công việc tốt lành nào đó và ý thức rằng ta đang làm trong tình yêu Giêsu, đang nhân danh Thầy mà thực thi tình yêu thì chắc hẳn chính Thầy sẽ chúc lành cho công việc ta làm. Từ những việc nhỏ nhặt nhất như cho một em bé ăn, chăm sóc một người bệnh, tiếp chuyện một người và nhiều việc không tên khác, nếu như ta đặt trọn tình yêu thì tình yêu chân thành của ta gửi đến họ, họ sẽ cảm nhận được.
Cũng vậy, khi ta sống cuộc đời mình với từng phút giây luôn ý thức có Chúa cùng hoạt động với ta thì quả thật là một niềm hạnh phúc lớn lao. Các Tông đồ cũng đã trải qua từng phút giây hạnh phúc tuyệt vời. “Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Đâu là dấu lạ sẽ kèm theo để xác nhận lời ta rao giảng đây? Đó chẳng phải là nụ cười hồn nhiên trong sáng của những bé thơ bên cạnh ta, hay đơn giảng chỉ là một ánh mắt tin tưởng của một bà cụ được ta dẫn qua đường, … Niềm vui và hạnh phúc chân thành ta trao ban sẽ còn lưu lại trong trái tim những người ta gặp gỡ. Không phải chính tài năng của ta đã đem lại cho họ điều đó nhưng là chính tình yêu Giêsu cháy bừng trong ta đã thắp lửa hạnh phúc cho họ.
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã lên trời nhưng Chúa vẫn còn ở lại với chúng con luôn mãi nơi Bí tích Thánh Thể. Xin cho con từng ngày đón nhận Chúa bằng cả tâm hồn mình và luôn dâng hiến chính mình cho Chúa. Lạy Chúa! Chúa đã muốn đến với con và cùng con đến với mọi người. Con tạ ơn Chúa! Amen.
Cuộc đời là cay đắng. Cuộc đời thật là chông gai. Cuộc đời như những cơn sóng có lúc vỗ mạnh LênTrời ABC-455
Cuộc đời là cay đắng. Cuộc đời thật là chông gai. Cuộc đời như những cơn sóng có lúc vỗ mạnh dồn dập, có lúc gợn nhẹ và có lúc lặng lẽ, nhẹ nhàng thướt tha. Xưa kia các môn đệ chẳng phải trải qua những thăng trầm ấy khi sống cùng với Thầy sao?
Khi mới theo Thầy Giêsu, các môn đệ có những ước mơ hoài bão và dự tính cho tương lai. Trong khoảnh khắc Thầy Giêsu chưa đi vào cuộc Vượt Qua, các môn đệ có cuộc sống thân mật, vui vẻ cùng Thầy. Các ông được Thầy Giêsu yêu thương và nâng đỡ, được đồng bàn mỗi ngày. Mọi người xung quanh cũng vui và kính nể các ông. Thế rồi, giờ đã tới, Thầy Giêsu đi vào cuộc sóng gió, thì các môn đệ nhận thấy hoang mang, lo sợ và chạy tán loạn. Các ông không dám đối diện với sự thật đang diễn ra và bắt đầu khép mình lại trong bốn bức tường. Ngày ngày, các ông sống trong sự buồn rầu, bóng tối thì thỏa sức bao phủ, chiếm lấy tâm hồn và lòng trí các ông. Rồi, một luồn tia sáng chiếu soi căn phòng đã đánh tan bóng tối ấy. Ánh sáng ấy là sự sống của Thầy Giêsu.
Từ lúc ấy, các ông bắt đầu tiếp xúc với Thầy trong nhịp sống xuất hiện bất ngờ và biến đi bất ngờ. Dầu là vậy, các môn đệ vẫn được Thầy Giêsu giảng dạy và khơi nguồn sức sống nơi tâm hồn, trái tim mỗi ngày. Thầy mời gọi các môn đệ hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. (x. Mc 16,15). Thầy Giêsu còn mời gọi các môn đệ hãy mở lòng ra, hãy sống lại và thoát ra khỏi sự u buồn, sợ hãi và hãy vui lên, ra đi loan báo Tin Mừng, loan báo mầu nhiệm Đức Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang. Các môn đệ sẽ ra đi trong ân sủng của Thầy Giêsu là trừ được quỷ, nói những tiếng mới lạ cùng đặt tay trên những bệnh nhân. (x. Lc16,17-18). Sau khi nói những lời ấy nơi ngọn núi cao, Thầy Giêsu được các Thiên Thần rước lên trời. Còn các môn đệ lòng đầy hân hoan. Bên trong các môn đệ bây giờ đã có một tình yêu siêu thoát và tâm trạng nặng nề không còn là gánh nặng nữa. Những ngày qua, các môn đệ đã đi vào dĩ vãng thì từ nay các ông hướng tất cả tâm trí về sứ mạng của Thầy trao ban với một lòng tin yêu nhiệt thành; và được chứng kiến việc Thầy rước lên Trời như đã thôi thúc các môn đệ tìm kiếm những điều trên cao, nơi Thầy đang ngự bên hữu Chúa Cha.
Thầy Giêsu phải ra đi, phải về Trời thì Thầy mới sai Chúa Thánh Thần và chính Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi các môn đệ và hướng dẫn cho các ông. Đó cũng là những tâm tình và vẻ đẹp tình yêu của Thiên Chúa mà Hội thánh đã mừng lễ Thăng Thiên, lễ vui tươi và trông cậy. Nào, chúng ta hãy hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, cùng lắng nghe và thực hành sứ mạng của mình trong mỗi ngày sống như các môn đệ.
Lạy Chúa, xin cho con đừng u mê và mải mê trần thế mà cùng hướng lên Trời. Xin cho mỗi người chúng con thi hành sứ mạng là bổn phận hằng ngày một cách vui tươi, nhiệt thành. Nhờ đó, trong ngày sau hết chúng con cũng được rước lên Trời với Thầy. Amen.
Giê-su ngước mắt nguyện cầu, Lạy Cha chí thánh, khấu đầu khấn van. Những người Cha đã LênTrời ABC-456
Giê-su ngước mắt nguyện cầu, Lạy Cha chí thánh, khấu đầu khấn van. Những người Cha đã trao ban, Kết đoàn hợp nhất, chung đàn chiên con. Xin Cha gìn giữ chúng con, Không ai bị mất, héo hon loại trừ. Trừ ra môn đệ thoái hư, Trọn lời Kinh Thánh, riêng tư phản Thầy. Khi còn dưới thể tỏ bày, Vui mừng phấn khởi, khi Thầy ra đi. Những điều Con đã thực thi, Từ Cha ban xuống, phát huy rạng ngời. Chúng còn hiện diện trong đời, Người ta ghét bỏ, một thời gian nan Vì chúng không thuộc thế gian, Xin Cha thánh hóa, ban tràn ân thiêng.
Chúa Giêsu tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha để xin cho chúng ta được ơn hợp nhất nên một. Chúa không cầu xin để cất nhắc con cái ra khỏi thế gian mà vẫn sống trong thế gian, nhưng không ai bị hư mất. Sống giữa thế gian là sống giữa một xã hội xô bồ. Chúng ta phải chiến đấu từng ngày với những cơn cám dỗ, những khó khăn và phải phấn đấu không ngừng.
Không ai có thể bảo đảm được rằng mình sẽ luôn đứng vững và sống thánh thiện. Cuộc đời mỗi ngày là một thách thức mới và những nhu cầu đòi hỏi mới. Ai có thể nói, tôi bấy nhiêu tuổi rồi, tôi vẫn kiên vững trong niềm tin, trong sạch trong việc làm, dịu hiền trong các cư xử, thật thà trong mọi lời nói và trong trắng trong tâm hồn. Hãy ý tứ! Chúng ta cần cầu nguyện luôn để được đứng vững trước mặt Chúa.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho chúng ta sống giữa thế gian mà không bị nhiễm tội thế gian. Chúa biết trước các môn đệ của Chúa sẽ phải đối diện với muôn vàn thách thức ở đời. Chúa không còn hiện diện bên cạnh để nâng đỡ và ủi an. Chúa đã xin Chúa Cha sai Thánh Thần Chân Lý đến để phù trợ. Chúa quan tâm đến sự hợp nhất giữa anh em, sự kiên trì trong niềm tin và bảo toàn trong sự thật. Chúa không cầu nguyện để họ khỏi bị đau khổ và bắt bớ nhưng cầu cho họ được sự kiên trì.
Giáo Hội Công Giáo cũng đã trải qua biết bao thăng trầm. Nhiều cuộc chia rẽ đưa đến phân biệt Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương, ly giáo, Chính Thống Giáo, thệ phản Tin Lành có trên 700 Giáo phái khác nhau, rồi các nhóm riêng tư muốn tự lập trong Giáo Hội. Sự hợp nhất nên một rất quan trọng. Giáo Hội muốn hợp nhất nhưng con người lại không muốn. Ai cũng khư khư nghĩ mình là đúng nhất, tốt nhất và truyền thống nhất. Để rồi tự tách mình ra khỏi thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Chúng ta hãy nhìn về Chúa Kitô, Ngài chính là trung tâm điểm của thế giới.
Chúng ta cứ tiếp tục truyền rao lời chân lý của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mỗi người có cách rao giảng và sống lời Chúa riêng biệt. Truyện kể có một bà cụ già sống dưới chế độ vô thần đã viết thơ cho cháu ở Hoa Kỳ. Lá thơ nào bà cũng viết Phúc âm. Cháu nghĩ là lời khuyên của bà ngầm chứa điều gì. Sau đã nhận ra rằng bà có ý viết và cho người kiểm duyệt được đọc. Biết đâu lời Chúa sẽ thay đổi tâm hồn của họ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới hưởng thụ. Rất khó để nhận ra đâu là chân lý và đâu là sự dữ vì xã hội bị dẫn đi vào con đường tục hóa. Hãy cầu nguyện để chúng ta vững vàng trong niềm tin. Tiếp tục sống chứng nhân cho chân lý giữa dòng đời.
Chúa Giê su lên trời đánh dấu một lịch sử mới của nhân loại. Từ nay, trong Chúa Ba Ngôi có LênTrời ABC-457
Chúa Giê su lên trời đánh dấu một lịch sử mới của nhân loại. Từ nay, trong Chúa Ba Ngôi có một con người, như nhà thần học Romano Guardini đã nhận định. Dù con người vẫn đang sống dưới thế này, nhưng cuộc sống luôn được quy hướng về Chúa Cha, vì con người đã có mặt ở nơi Chúa Con đang ngự bên hữu Chúa Cha.
Cuộc sống luôn hướng về.
Con người tín thác vào Chúa luôn là con người “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17, 16). Là một lữ hành trên hành trình về với Chúa Cha, nên con người tin Chúa luôn xác tín quê hương đích thực là trên trời.
Một hành trình sống trong trần gian không thuộc về thế gian, mời gọi người tín hữu “Tiên vàn mọi sự hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, các điều khác Người sẽ ban cho sau” (Mt 6, 33). Không quá mải mê trần thế mà quên mất thiên đàng, vì thiên đàng ở ngay trong trần thế khi xây dựng được sự công chính và trật tự, an sinh, bình an.
Xin Chúa giữ gìn.
Thế gian bị lên án là một thế gian của sự tham lam, hưởng thụ, kiêu căng, loại trừ Thiên Chúa, tranh giành sự sống của người khác, làm mất phẩm giá của con người… Một thế gian đầy bất công, giả dối, lường gạt và vơ vét… Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17, 15).
Đấng được Chúa Cha ban cho con người là Chúa Thánh Thần, Đấng giữ gìn con người tin vào Chúa Giêsu khỏi ác thần. Đấng làm cho người tín hữu được sáng tỏ trong chân lý, vững mạnh trong đức tin, sẵn sàng sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian.
Mưu chước của thế gian vô lường, người tín hữu dù là con cái sự sáng nhưng lại dễ bị mắc bẫy và thường thật thà lại thua thiệt, Chúa Giêsu trong câu truyện người quản lý bất lương nói: “Vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng” (Lc 16, 8)
Chúa hứa ban gấp trăm đời này và đời sau, có ý nghĩa gì cho cuộc sống người tín hữu, khi thường sống giữa những sự dữ? Sống lương thiện không dễ dàng! Ra đường thì nạn mãi lộ, đồng lương không bằng đồng lậu, ngay thẳng thì ra bên ngoài, không nịnh hót, bè phái thì không có chỗ dung thân… Chính vì những khó khăn như vậy, người Kitô hữu cần nhờ đến Chúa Thánh Thần soi dẫn và trợ lực. Đấng xoay chuyển sự dữ ra sự lành. Đấng làm cho mọi sự đều có thể, như Thánh Phaolô, ngài xác tín khi đương đầu với khó khăn: “Ơn Ta đủ cho ngươi” (2Cor 12, 9).
Hướng về và ở lại trong Chúa Cha qua đời sống kinh nguyện.
Đời sống kinh nguyện của người Kitô hữu khác hẳn với kinh nguyện khác. Trong mọi lời cầu nguyện đều ở trong Thiên Chúa, chứ không ở bên ngoài kêu cầu đến. Chúa Thánh Thần luôn hoạt động làm cho lời cầu nguyện được ở trong Chúa Giêsu và dâng lên Chúa Cha, Thánh Phaolô viết cho người tín hữu Galat: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! ” (Ga 4, 6).
Lời kinh nguyện dù đọc dưới hình thức cá nhân nhưng vẫn là kinh nguyện của cộng đoàn. Người tín hữu không đơn độc trên đường lữ hành về nhà Cha. Luôn có Chúa Giêsu là Đấng đồng hành, có Chúa Thánh Thần là sức mạnh hỗ trợ khi chân mệt gối mỏi. Cùng nhau tiến bước trong Chúa Thánh Thần, kết hợp cùng Chúa Giêsu. Kinh nguyện trở nên hơi thở cho đời sống, để sống dồi dào và sống vững mạnh trong niềm phó thác và trông cậy.
Cầu nguyện là ở trong Chúa, nên không chỉ là nguyện xin mà thường là tạ ơn. Những ơn lành mọi điều thiện hảo đều từ Chúa Cha ban cho, hết ơn này đến ơn khác, “tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cor 15, 10). Tạ ơn như thế là hướng về nguồn cội của người tín hữu, đưa hoàn vũ này hướng về Chúa.
Chúa Giêsu về trời, mang theo con người nhân loại về cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Thánh Thần, con người được tham dự vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Xin cho chúng con sống sức sống vui tươi, mạnh mẽ, tươi trẻ trong Chúa để gắng làm cho xã hội đang sống được tốt hơn, con người sống hạnh phúc hơn, nhiều người nhận biết Chúa.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay hướng về biến cố Chúa Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha LênTrời ABC-458
Phụng vụ lời Chúa hôm nay hướng về biến cố Chúa Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha sau khi hoàn tất công việc cứu độ nhân loại qua sự chết và sự Phục Sinh của Người. Ơn cứu độ có tính phổ quát, Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người. Vì thế trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc của Người là rao giảng Tin mừng cho muôn dân: “Anh em hày đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin mừng x cho mọi loài thụ tạo”. Vì thế, qua bài Tin mừng, chúng ta thấy viễn tượng Truyền Giáo của giáo hội.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay giáo hội muốn chúng ta xác tín vào sự sống đời sau, vào quê hương Nước Trời, hạnh phúc Thiên Đàng là nơi các Thánh được hưởng hạnh phúc trong Thiên Chúa, nơi dành riêng cho những người được Thiên Chúa ân thưởng: “Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà, là quê hương của ta” (GLHTCG 2795). Quê trời là nơi vĩnh cửu, diễm phúc mà con người hướng tới trong khi chu toàn trách nhiệm xây dựng và phát triển quê hương trần gian (GLHTCG 373).
Như thế theo sách GLHTCG, thì Thiên Đàng là quê hương vĩnh cửu của chúng ta, nhưng trần thế là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Quê hương Thiên Đàng tùy thuộc vào cuộc hành trình trần thế của người Kitô hữu. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng, thì có lẽ là không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn nhiệm vụ của mình ở đời này, thực hành lời Chúa, sống bác ái yêu thương, giúp đỡ những người nghèo khổ… Bài đọc 1, sách Cv đã ghi lời sứ thần: “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng đó mà nhìn trời”. Các thiên thần nhắc các tông đồ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, đó là việc ra đi loan báoTin mừng cho muôn dân để tất cả mọi loài thọ tạo đều được hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự hoàn thành các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng vinh phúc tuyệt hảo và vĩnh viễn (GLHTCG 1024). Như thế, Thiên đàng là mục đích, cứu cánh của con người, nơi mà tất cả chúng ta phải hướng tới là quyết tâm phấn đấu đạt được quê hương nước Trời. Nếu kết thúc cuộc sống trần gian chúng ta không đạt được Thiên đàng, thì chúng ta là người bất hạnh nhất. Chúa Giêsu đã có lần nói: “Lời lãi cả thế gian này, mà thiệt mất linh hồn thì được ích lợi gì”.
Ngày nay trong một xã hội văn minh, kinh tế thị trường, của cải vật chất phong phú, người ta chủ trương hưởng thụ, tục hóa, muốn loại bỏ Thiên Chúa, không tin có sự sống đời sau… Họ không muốn ngước mắt nhìn trời vì quá mỏi cổ, vì mải mê thực tại trần gian: tiền tài, danh vọng, địa vị, thú vui vật chất. Họ muốn xây dựng một thiên đàng tại thế. Nhiều người kitô hữu hôm nay cũng có thái độ vô thần, thờ ơ bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, có thái độ duy vật coi của cải trần gian là mục đích cuộc đời, chết là hết!
Biến cố Chúa lên trời là câu trả lời cho con người trong xã hội hôm nay: chúng ta sẽ được lên trời hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời trong nhà Cha nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa và thực thi lời Chúa.
Những ngày sống lữ hành trần gian là để đi vào Nước Trời, chúng ta phải cố gắng phấn đấu đạt cho bằng được, luôn đi tới đích. Đường vào Nước Trời thiên niên vạn nạn. Kinh thánh nói: “Người ta phải dùng sức mạnh, và chiếm lấy Nước Trời. Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”. Tất cả mọi thành công, hạnh phúc trên đời đều phải trả giá rất mắc, đòi hỏi nhiều cố gắng, công lao, vất vả…
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên nhắc nhở chúng ta: luôn hướng về quê hương thật là Nước Trời và sống đạo thật tốt để sau này được về nhà Cha hưởng hạnh phúc Thiên đàng. Đồng thời mời gọi chúng ta đi sâu vào thế giới loan báo Tin mừng cho mọi người bằng cuộc sống chứng nhân, bằng cuộc sống lương thiện, cuộc sống tốt đẹp của mình trong xã hội hôm nay.
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh Chúa trên khắp hoàn cầu, chúng ta hân hoan mừng Chúa Giê-su LênTrời ABC-459
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh Chúa trên khắp hoàn cầu, chúng ta hân hoan mừng Chúa Giê-su lên trời vinh hiển. Sự kiện Chúa lên trời chứng tỏ cho chúng ta biết trần gian chỉ là quán trọ còn quê thật của chúng ta ở trên thiên quốc.
Chúa Giê-su lên trời để dọn chỗ cho chúng ta như lời Ngài nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3).
Chết là bước vào đời sống mới
Có người cho rằng: Chết là hết, không có sự sống đời sau, không còn gì hết.
Tuy nhiên, theo giáo huấn của Hội thánh Công giáo: Chết không phải là chấm dứt nhưng là bắt đầu một cuộc sống mới.
Đời nầy và đời sau là hai giai đoạn của một cuộc sống
Hôm nay, con lăng quăng ngo ngoe trong vũng nước, nhưng mai đây nó sẽ hoá thành muỗi, giã từ vũng nước và bay sang môi trường khác.
Hôm nay, con sâu còn nằm yên trong tổ kén; mai đây, nó hoá bướm bay lượn đó đây.
Hôm nay, hạt lúa bị chôn vùi trong bùn đất, tưởng sẽ mục nát đi, ai ngờ mấy tháng sau nó hoá thành bụi lúa sum suê mang nhiều bông hạt…
Con lăng quăng mạt hạng kia, con sâu tí ti hèn hạ kia hay hạt lúa bé nhỏ kia… còn có đời này và đời sau, không lẽ con người là tác phẩm tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại chỉ có đời này mà chẳng có đời sau?
Thực ra, hôm nay, con người ở trọ trên mặt đất, nhưng mai đây sẽ từ giã nhà trọ trần gian để bước vào một thế giới khác.
Như thế, chết không phải là bị tiêu diệt, nhưng là biến đổi. Thánh Phaolô viết:“Chúng ta sẽ không chết, nhưng hết thảy chúng ta sẽ được biến đổi… vì chưng cái hư hoại nầy sẽ mặc lấy bất hoại, đồ chết dở nầy sẽ mặc lấy trường sinh bất tử” (I Cor 15, 51. 53).
Chúa Giê-su dạy có sự sống đời sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giê-su về cuộc sống đời sau, Chúa Giê-su khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).
Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giê-su cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời” (Mt 25,46). Như thế, Chúa Giê-su khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”
Ngoài ra, Chúa Giê-su còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Anh em hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em. … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giê-su còn lấy cả cuộc đời của Ngài để minh chứng có cuộc sống đời sau.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su chứng tỏ có sự sống đời sau
Sở dĩ Chúa Giê-su nộp mình chịu khổ nạn, chịu chết trên thập giá cách đau thương tủi nhục là để đền tội và chết thay cho muôn dân, nhờ đó nhiều người được hưởng hạnh phúc mai sau trên thiên đàng.
Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng, hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su là hoàn toàn vô ích; cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?
Chính vì để mang lại cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau cho muôn người, Chúa Giê-su đã không ngại nộp mình chịu chết để cứu muôn người được sống. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa lên trời là để dọn chỗ cho chúng con, để bày tỏ cho chúng con biết đời này chỉ là quán trọ và đời sau mới là chốn định cư muôn thuở muôn đời.
Xin cho chúng con luôn bước theo đường lối Chúa, tức là sống theo lệnh Chúa truyền, nhất là tuân giữ cho trọn luật yêu thương, để mai đây được đoàn tụ vĩnh viễn với Chúa trên thiên quốc.
Có những niềm vui vỡ oà, nước mắt cứ rơi, mà tuôn rơi hoàn toàn vì sung sướng. Tại phòng cách LênTrời ABC-460
Có những niềm vui vỡ oà, nước mắt cứ rơi, mà tuôn rơi hoàn toàn vì sung sướng. Tại phòng cách ly ở sân bay, rất nhiều cuộc chia tay: đi định cư, đi đoàn tụ gia đình, đi du học, dù tương lai rực sáng đầy hứa hẹn, ấy vậy mà lệ vẫn trào tràn đến khó hiểu. Khóc hay cười, vui hay buồn, đó có phải là cảm xúc chung của những ai mang trái tim bằng thịt, trái tim biết rung nhịp yêu thương ? Cuộc sống có khổ đau, có hạnh phúc, có những lúc đi xa, có những ngày đoàn tụ, có nước mắt nụ cười, không làm chúng ta ngạc nhiên, bởi vì tương quan yêu thương của chúng ta với gia đình, quê hương, bao giờ cũng quan trọng. Vì chưa khôn ngoan, hay do chưa đặt tình yêu vào việc bổn phận, nhiều người đang sống theo một lập trình cứng ngắc, họ thường bị xếp vào loại rô-bốt không hồn ; nếu làm việc tuỳ hứng, không lưu tâm đến kết quả, lại bị suy xét là kẻ thiếu trách nhiệm.
Tình yêu thương giữa Đấng phục sinh và các học trò, không phải là có hay không, nhiều hay ít, dù các môn đệ lúc đó chưa hiểu cảnh biệt ly rồi sẽ ra sao, nhưng các ông có quyền hy vọng vào tình yêu của Đấng đã sống lại từ cõi chết. Thông thường, chúng ta vẫn cho rằng người khôn ngoan là người biết tận dụng thời giờ, công sức của mình cách hiệu quả nhất ; người cơ hội là người biết đối phó theo từng hoàn cảnh: gió chiều nào theo chiều đó. Người môn đệ theo Đức Kitô, ngoài việc sống có kỷ luật, làm việc có khoa học, có mục đích, họ còn phải sống đức yêu thương, hiệp thông. Không biết nhờ kinh nghiệm, hay do muốn khích lệ con cháu sống lạc quan hơn, cha ông chúng ta có câu: trai khôn lắm nước đái, gái khôn lắm nước mắt.
Sinh ra làm người, ai cũng có gia đình, có quê hương tổ quốc, sinh ra trong Hội thánh, người tín hữu luôn được ý thức quê hương thật phải là nơi không còn đau khổ, là nơi hạnh phúc. Mừng Chúa về trời, trở về quê hương, là dịp để người kitô hữu xác thực rõ hơn về ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô, ơn gọi đặc biệt không có chia tay, không có nước mắt, ơn gọi thuần tuý là tình yêu và hiệp thông. Về trời, về bên Chúa Cha, không phải như một quan chức “mãn nhiệm”, không phải như vận động viên hết tuổi thi đấu, Đức Giêsu cho thấy: có một quê hương thật. Tuy chúng ta không còn thấy Đấng phục sinh hiện diện cách hữu hình, nhưng tình yêu và sứ mạng mới của Đức Kitô lại rõ ràng cụ thể nơi những ai đang sống tinh thần môn đệ của Ngài. “Các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng các phép lạ kèm theo”.
Quê hương mà hôm nay Đức Giêsu trở về có phải là vương quốc không phân biệt giai cấp, không còn cảnh giầu nghèo bổng lộc nhiều hay ít, không còn quy định: con vua thời lại làm vua ? Khác với truyền thống: tre già măng mọc, con chị nó đi, con dì nó lớn, Đức Giêsu không cắt đặt, bổ nhiệm, một vài đối tượng theo cảm tính, thay mặt Ngài lên làm vua làm chúa. Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền: “các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ”. Tất cả những ai tin và ở trong Đức Giêsu đều trở thành kitô hữu, trở nên môn đệ, được gọi là thần dân của Nước Trời, của quê hương thật, nếu họ cùng hiệp thông và sống giáo huấn của Đức Kitô.
Quê hương là gì hả mẹ, mà cô giáo dạy phải yêu, quê hương là gì hả mẹ, ai đi xa cũng nhớ nhiều. (Đỗ Trung Quân). Nhà thơ dạt dào tình cảm, ông đặt lời yêu và nỗi nhớ nơi tình mẹ con, tình thầy trò, ông đã thành công, đã mang lại nhiều cảm xúc cho nhiều đối tượng, dù tác giả chỉ hướng độc giả tới quê hương trần gian. Hôm nay đây và mai sau, người kitô hữu chúng ta còn hướng tới quê hương thật, hạnh phúc thật, và còn mơ ước đạt tới quê hương thật. Đức Giêsu hôm xưa không hỏi, không mong các học trò trả lời quê hương thật là gì, Ngài cũng không nói quê hương thật chỉ có tình yêu và nỗi nhớ. Dù có hứa hẹn về phép lạ cho những người đã tin: “nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói được các thứ tiếng mới lạ”. Tuy nhiên đời sống và sứ mạng tông đồ của những người tin luôn là một khám phá mới, thế nào là quê hương thật.
Chúa về trời, hay Chúa về quê hương thật, là cuộc chiến thắng thế gian, là vinh quang của Đấng Kitô, nhưng cũng là niềm tin, là khởi đầu, là mệnh lệnh lên đường cho tất cả những ai muốn được là môn đệ Đức Kitô. Tình yêu thật, quê hương thật, hạnh phúc thật, chỉ rõ ràng khi mỗi người tín hữu: tin và sống trọn vẹn với tình hiệp thông mà từng giây phút trong ngày chúng ta hằng tuyên xưng: nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Chúa thăng thiên, Chúa trở về quê hương thật, sự ly biệt hôm đó cho thấy người đi kẻ ở không có nước mắt, tất cả như muốn nói tình yêu không có xa mặt cách lòng, không vô cảm, tình yêu thật sẽ tồn tại và sống động khi các học trò tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Amen.
Qua thời gian hơn một tháng, chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Đức Kitô, đã ca tụng Đức Kitô LênTrời ABC-461
Qua thời gian hơn một tháng, chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Đức Kitô, đã ca tụng Đức Kitô là ánh sáng thế gian, đã thắp lên cây nến phục sinh bằng những tiếng hát Alleluia, đã nghe các chứng nhân thuật lại những lần hiện ra của Đấng Phục sinh. Cây nến phục sinh rồi sẽ cất đi, những bài hát alleluia sẽ ít được nghe hơn. Đúng là lễ Thăng Thiên có một chút u buồn và luyến tiếc: “ Hỡi những người Galilê, sao còn đứng đó nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến như các ông đã thấy Người lên trời.” ( Cv 1: 11) . Thôi, đừng đứng đó mà tiếc nuối, u sầu! Hãy trở về thực tại với nhiệm vụ mới.
Ngày Đức Giêsu được rước lên trời, không phải là ngày chấm dứt nhiệm vụ ở trần thế để về nơi Ngài đã ra đi. Sau một thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng môt nền móng đạo đức dựa trên tình yêu và bác ái công bằng và sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh, được vào trong vinh quang của Chúa Cha với quyền cai trị vũ trụ, và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Đức Giêsu lên trời, đánh dấu sự kết thúc giai đoạn thi hành sứ vụ ở trần thế và mở ra một giai đoạn mới qua vai trò của Giáo Hội đưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh thần, một giai đoạn chuyển tiếp giữa thế giới hữu hình và vô hình, từ một vùng đất nhỏ hẹp với một thế giới rộng lớn, từ một dân tộc với một cộng đồng nhân loại.
Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài hết hiện diện nơi trần gian, nhưng là một sự thay đổi. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước kia, nhưng hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Ngài không còn bị lệ thuộc về không gian và thời gian.
Sự kiện Đức Giêsu lên trời chứng tỏ cho chúng ta thấy được mục đích của cuộc hành trình trên dương thế của chúng ta sẽ đi về đâu. Ngoài trái đất, còn có một thế giới linh thiêng, ngoài cuộc sống trần gian chóng qua còn có cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu về trời cho chúng ta một niềm hy vọng vào cuộc sống mai sau như lời Ngài đã nói: Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy.Ngài về trời nhưng Ngài không để con người mồ côi. Ngài hứa sẽ ban Đấng Phù trợ đến và quyền năng để cùng con người hành động và lướt thắng trở ngại.
Nhưng để được ở với Thầy,được vào trời mới, đất mới, thì việc trước tiên chúng ta phải làm là hoàn tất những công việc được giao phó. Nhiệm vụ đó là loan báo Tin Mừng, làm chứng về tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người. Con người là cánh tay nối dài của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người.Vì thế, trước khi về trời, Ngài đã truyền lệnh cho các môn đệ: “ Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ, anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” ( Cv 1: 8)
Việc Thầy Giêsulên trời không làm cho các môn đệ buồn sầu, chán nản; ngược lại, các ông lại vui mừng phấn khởi vì các ông tin rằng có Chúa cùng đồng hành và cùng hoạt động với họ. Các ông được trang bị sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cùng với khả năng làm những dấu lạ như sẽ trừ được qủy, nói được những tiếng mới lạ, sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, cũng chẳng sao, và nếu đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được khỏe mạnh.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời cũng là dịp Giáo hội nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho hết mọi người, mọi nơi. Chúa sẽ cùng đồng hành, cùng hoạt động với chúng ta. Chúa Giêsu, sau khi hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian, Ngài đã về trời. Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng phải nổ lực hòan tất nhiệm vụ Chúa đã giao phó cho hết mọi người, mọi nơi bằng chính cuộc sống của mình “ cho đến tận cùng trái đất” để rồi chúng ta cũng sẽ được rước lên trời trong vinh quang của Thiên Chúa.
Suy niệm Lời Chúa lễ Chúa thăng thiên (CN VII.PS-B: Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23. Mc 16, 15-20), thấy tình hình các môn đệ bộc lộ tinh thần hoang mang lo lắng, cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi” (Cv 1, 10). Tâm trạng băn khoăn đó khiến kẻ viết bài này bỗng nhớ lại bữa Tiệc Ly, khi Đức Giê-su nói với các môn đệ về vấn đề Người phải chịu khổ hình chết treo trên thập giá đến ngày thứ ba thì sống lại và đi về với Chúa Cha trên thiên quốc. Không chỉ người Do Thái thắc mắc và được Đức Ki-tô trả lời “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”; mà còn khiến ông Phê-rô tò mò: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga 13, 33-36).
Lời tiên báo của Đức Giê-su đã trở thành hiện thưc: Tháng 8 năm 64, hoàng đế Nero bắt đầu bách hại Đạo Chúa, Phê-rô bị bắt và bị kết án đóng đinh ở Rô-ma. Vào khoảng tháng 10/64, đang khi chạy trốn để tránh khỏi nhục hình, ngài đã gặp Chúa Giê-su và hỏi: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu?” (“Quo vadis, Domine?”), Chúa Giê-su trả lời: “Thầy vào thành Rô-ma để chịu đóng đinh một lần nữa”). Hiểu được ẩn ý của Chúa, Phê-rô đã quay trở lại thành Rô-ma để chịu kết án (chịu hình phạt “đóng đinh ngược” và tử nạn vào khoảng tháng 12/64 – Giáo hội ấn định lễ kính vào ngày 28/12; mãi tới năm 248, Giáo hội quyết định chính thức lễ kính 2 thánh Phê-rô và Phao-lô vào ngày 29/6).
Tâm trạng Thánh Phê-rô cũng là tâm trạng chung của các Tông đồ và rộng ra là của các Ki-tô hữu, của loài người. Nếu có khác chăng là khác ở cách ứng xử. Như Thánh Tô-ma thì cũng dịp này ngài hỏi lại Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 5); nhưng đến sau Phục Sinh, ông vẫn không tin Thầy mình đã sống lại (“nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không có tin” – Ga 20, 25), chỉ đến tám ngày sau đó, Người hiện ra và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27), Tô-ma mới thực sự tin. Riêng Thánh Phê-rô tuy có hay thắc mắc, nhưng khác người ở một điểm là trong lòng nghĩ sao thì nói ra như vậy, không hề giấu giếm, che đậy. Và nhất là khi được Thầy giải thích thì ngay lập tức Thánh Phê-rô tin tưởng và làm theo Lời dạy của Người.
Xin được trở lại với các bài đọc hôm nay: Bài đoc 1 (Cv 1, 1-11) tường thuật mầu nhiệm thăng thiên: Đức Giê-su Ki-tô dặn bảo các Tông đồ xong, thì Người được cất lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Tâm trạng các môn đệ hẳn nhiên là hoang mang lo sợ, bởi Người Thầy – mà cho đến giờ phút này các ông vẫn còn bán tín bán nghi (“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” – Mt 28, 17) – lại một lần nữa nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, thì ngay lập tức “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” Cái mâu thuẫn của hiện tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”.
Tâm lý thông thường của con người là vậy, cũng chẳng có gì đáng trách. Sống bằng và sống với giác quan: phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi hương (khứu giác). Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình cho đến ngày tận thế, thì ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu không muốn nói là lo sợ, đau đớn, buồn rầu. Chính vì thế nên các ngài chỉ lo nhìn theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị thử thách, quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy. Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ đến cảnh tỉnh: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 11).
Người đời vẫn thường nói: Có tin thì mới theo và có theo thì mới biết tỏ tường để niềm tin được củng cố vững vàng hơn. Các Tông đồ đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô nên khi được mời gọi thì lập tức đi theo, bỏ cả cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Cứ nhìn vào hình ảnh anh chàng thanh niên giàu có, thì đủ hiểu đức tin quan trọng như thế nào. Anh ta muốn theo Đức Ki-tô, nhưng vì vẫn chưa tin tưởng cho lắm nên khi nghe Người bảo về bán hết của cải chia cho người nghèo thì ỉu xìu như mèo bị cắt tai, bỏ đi một nước. Và vì thế “Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19, 16-24).
Đến như các Tông đồ đã tin mới đi theo Thầy, vậy mà ròng rã 3 năm theo Thầy đi khắp đó đây, chứng kiến biết bao nhiêu việc làm và nhất là những phép lạ chứng tỏ Thầy là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thậm chí còn tuyên xưng, còn đấm ngực thề không chối Thầy, vậy nhưng đến cơn thử thách thì lại hoài nghi, lại nửa tin nửa ngờ, lại chối Thầy tới 3 lần trong một đêm (Mc 14, 66-71). Hoá cho nên mới có vụ một Tô-ma khi nghe Thầy nói: “Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” thì thắc mắc liền: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 4-5). Thêm một Phi-líp-phê đặt một câu hỏi bộc lộ rõ tâm trạng chưa tin tưởng Thầy mình là Con Thiên Chúa, nên khi nghe Thầy nói: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” Phi-líp-phê mới thưa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” (Ga 14, 6-7).
Ở Việt Nam xưa có câu “nhìn lên chẳng bằng ai, nhìn xuống cũng còn chán vạn kẻ không bằng mình”, ý nói nhìn lên thì thấy thua kém nhiều người dễ sinh thất vọng, nhưng nhìn xuống thì lại được an ủi vì thấy còn nhiều người thua kém mình. Nòi cách khác, đây là một châm ngôn sống: Có nhìn lên thì cũng cần nhìn xuống. Nhìn lên thấy thua kém sẽ hun đúc chí tiến thủ (chớ đừng thất vọng), nhìn xuống để mà sống (tránh khỏi thất vọng). Nhưng nếu cứ nhìn lên hoài thì chắc chắn từ thất vọng sẽ đi tới tuyệt vọng, hết sống nổi; mà giả thử cứ nhìn xuống không thôi, thì sẽ trở thành tự kiêu tự mãn, rồi cũng không thoát khỏi tội đầu tiên trong 7 mối tội đầu (kiêu ngạo). Trường hợp các Tông đồ cứ mải miết nhìn lên mãi với nỗi thất vọng Thầy đã bỏ đi, thì liệu các ngài sẽ ra sao? Thiên sứ đã can thiệp đúng lúc, nhắc nhở các ngài đừng nhìn lên trời nữa mà hãy nhìn xuống (nơi các ngài đứng là trên đỉnh núi), để thấy được còn biết bao nhiêu sinh linh đang trông chờ được như các ngài (một cách khéo léo nhắc nhở các ngài nhớ lại Lời Thầy truyền dạy mà đến với muôn dân).
Rõ ràng là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Người được cất lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng như thế không có nghĩa là Người rời bỏ các môn đệ – những bạn hữu của Người – mà là “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nghe Lời dạy này, không phải chỉ các Tông đồ tiên khởi nghĩ rằng Chúa Giê-su sẽ ở cùng các ngài một cách cụ thể như thời gian trước khi bước vào cuộc khổ nạn; mà ngay đến cả chúng ta hiện nay cũng vẫn cho rằng đó chỉ là lời an ủi suông. Chúng ta đã quên mất một điều là khi suy niệm về Thánh Kinh, cần chú ý đến cả hai phương diện: “nghĩa chiểu tự” và “nghĩa thiêng liêng”. Trong “nghĩa thiêng liêng” lại cần chú ý đến “nghĩa ẩn dụ”, “nghĩa luân lý” và “nghĩa loại suy” (xc. Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” ” (1).
Vâng, hãy nhìn lên dõi theo con đường Giê-su, cố gắng hiểu cho được việc làm của Đức Ki-tô (nghĩa chiểu tự: biến cố “thăng thiên”); để từ đó tin vào mầu nhiệm cứu chuộc (nghĩa ẩn dụ) qua Lời Chúa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4). Và hãy nhìn xuống bản thân mình cùng với anh em mình để mà thực thi sứ vụ do chính Người Thầy Chí Thánh truyền dạy trước khi về trời (nghĩa luân lý). Chỉ có như thế mới mong vươn tới cứu cánh Nước Trời (nghĩa loại suy) là mục đích cuối cùng của hành trình thực thi sứ vụ một Ki-tô hữu.
Tuy nhiên, cũng rất cần phải ghi nhớ lời dạy của ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI: “Như thế, muốn tái khám phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá (transcended) chữ viết: “lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ viết trong bản văn. Muốn nắm được lời của Người, phải có một sự vượt quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn trình sống.” (“Tông huấn Lời Chúa”, mục “Cần phải vượt quá “chữ viết”). Như vậy, có thể nói mầu nhiệm thăng thiên nhắc nhở mọi Ki-tô hữu 2 điều: 1- Chúa Giê-su về trời – 2- Chúng ta phải làm sao để được về trời với Chúa, vì đấy mới là quê hương đích thực. Vâng, hãy nhìn lên và cầu nguyện để hiểu được mầu nhiệm thăng thiên, và hãy nhìn xuống để sống Lời Chúa cách cụ thể với mục đích tối hậu là chiếm hữu và giúp anh em cùng chiếm hữu Nước Trời. Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỉ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.
———————————
Chú thích: (1) Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, PHẦN MỘT: LỜI CHÚA – Mục “Nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (số 37) đã giải thích rõ ràng: “Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng thời các giáo phụ và thời trung cổ, mọi hình thức chú giải, kể cả hình thức chiểu tự, cũng đều được tiến hành trên căn bản đức tin, mà không nhất thiết phải phân biệt giữa nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng. Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria,/ Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; Ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; Loại suy nói về số phận ta).” (xc thêm GL/HTCG số 115, 116 và 117).
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
Ý CHÍNH:
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho LênTrời ABC-463
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, để ai tin và chịu phép rửa thì được trở nên con Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su. Còn những kẻ không tin thì sẽ bị kết án là bị loại khỏi Nước Trời. Chúa còn hứa hỗ trợ các tông đồ bằng việc ban quyền làm phép lạ Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời. Còn các Tông đồ thì đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi với sự trợ giúp của Người.
CHÚ THÍCH:
– C 15-16:
+Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
+Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người lại trao sứ mạng phổ quát “loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”.
+Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là “chính Tin Mừng được Đức Giê-su công bố. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người.
+ Còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên bị khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời (x. Ga 15,5-6).
+Còn những người không tin Đức Giê-su nhưng không do lỗi của họ thì có được ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn. Chỉ những kẻ cố tình theo phe ma quỷ làm điều gian ác và không chịu hồi tâm sám hối thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục. Vì hỏa ngục được lập ra để dành cho ma quỷ và những kẻ đi theo chúng (x. Mt 25,41).
– C 17-18:
+Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Đức Giê-su lại trao quyền làm các dấu lạ cho các ông.
+Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), Thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông đồ thực hiện. Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv 14,8-10); Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay và cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
– C 19-20:
+Chúa Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác Chúa Giê-su cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa.
+Và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14), được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18; Ep 1,21-22).
+ Thiên Đàng là gì? Thiên Đàng ở đâu? Ta phải làm gì để được lên Thiên Đàng?:
** Thiên Đàng hay Địa Đàng (Hy ngữ là Pa-ra-dei-sos) có nghĩa là Hoa viên hay vườn đầy hoa tươi cỏ lạ (x St 2,8). Địa đàng là một khu vườn hoan lạc nơi mà con người được sống trong hạnh phúc. Nhưng nguyên tổ lòai người là ông Ađam và bà Evà đã liên kết với nhau phạm tội kiêu ngạo, cãi lệnh Chúa mà ăn quả cây bị cấm, nên hai ông bà đã bị đuổi ra khỏi Địa đàng, bị lọt vào trần gian là thung lũng đầy nước mắt, gai góc và đau khổ (x. St 3,7.16-19). Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến khôi phục lại tình trạng nguyên thủy cho con người (x. St 3,15). Ngài sẽ biến nơi đau khổ lưu đầy này thành Thiên đàng hoan lạc và hạnh phúc như thuở ban đầu (x. Ed 36,35 ; Is 51,3).
+ Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). + Có Chúa cùng hoạt động với các ông…: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần cho Hội thánh để tha tội cho người ta giống như Người đã làm (x Ga 20,21-22). Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn hơn Người là đi rao giảng cho các dân tộc nhờ Thánh Thần (Ga 14,12).
CÂU HỎI:
1) Mầu nhiệm Phục Sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi? Các Tông đồ được Chúa sai đến với những ai?
8) Thời Cựu Ước, ngôn sứ nào được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa Giê-su thăng thiên khác với việc mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao?
9) Một người lương dân luôn ăn ngay ở lành mà chết thì có được hưởng ơn cứu độ không?
10) So sánh lời Chúa Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”(x Mt 28,19) với Lời Chúa được ghi trong sách Công Vụ “Hãy nên chứng nhân của Thầy…” (x Cv 1,8) giống và khác nhau ra sao?
11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn ở với Hội thánh nữa không?
12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội thánh để làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Chúa Giê-su được rước lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19):
CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA NIỀM TIN VÀO MỘT CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU:
Một vị Tù trưởng của một bộ tộc Phi Châu đau nặng gần chết. Ông cho gọi ba người con có khả năng nắm giữ chức vụ tù trưởng của ông đến bên giường và nói:
– Một trong ba người chúng con sẽ kế vị ta. Để biết xem ai xứng đáng, các con hãy lên đỉnh núi thiêng của bộ tộc chúng ta tìm mang về một linh vật nào quý giá nhất.
Mấy ngày sau người con thứ nhất trở về mang theo một bức tượng bằng vàng ròng.
Người con thứ hai cũng mang về một viên ngọc to quý có giá trị lớn.
Còn người con thứ ba thì trở về với hai bàn tay không.
Ngạc nhiên, viên tù trưởng hỏi anh ta: “Linh vật quý giá nhất con mang về đâu?”
Anh ta bình tĩnh trả lời:
– Thưa cha. Khi leo lên tới đỉnh núi thiêng và đi tìm kiếm báu vật như cha căn dặn, thì con đã khám phá ra phía sau rặng núi thiêng có một rặng núi khác. Con vượt qua thì đã tìm thấy một miền đất mới rất phì nhiêu mầu mỡ, có suối nước trong, cây cỏ xanh tươi với nhiều loài thú sinh sống. Theo con nghĩ nếu bộ tộc chúng ta sống ở miền đất này thì sẽ trở nên hùng cường.
Nghe vậy viên tù trưởng rất vui và nói:
– Cha rất mừng khi đã tìm ra người thừa kế chức vị tù trưởng bộ tộc là con. Con đã đem về cho chúng ta báu vật vô giá chính là niềm hy vọng vào một tương lại tươi đẹp về một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Không ai biết trước cuộc sống của mình ra sao sau khi chết. Chỉ mình Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, mới mạc khải cho chúng ta biết quê hương thực sự của chúng ta là nước trời đời sau: Một Trời mới Đất mới như sau: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21,1-4).
2) THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?
Ngày 5-9-1961, Liên Xô đã phóng một phi thuyền mang theo một người lên không gian và bay được ba vòng chung quanh trái đất. Sau đó trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev đã nói với ký giả của tờ New York Time của Mỹ như sau: ” Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung là: YOURI GARARINE. Anh ta đã đi vòng quanh quả địa cầu mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy đặc, không thấy Thiên đàng ở đâu cả. Sau đó chúng tôi lại gửi một thám tử khác lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh ta: “Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy Thiên đàng vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”. Titov đã trẩy đi, rồi trở về và anh xác nhận lời tuyên bố của Gagarine là sự thật: “Hư vô! Chỉ có Hư vô!” Rồi sau đó Krouchev kết luận: “Vì thế chúng tôi không tin có đời sau”.
Đó là cái nhìn của một người vô tín theo chủ nghĩa duy vật. Cái nhìn đó không phải là cái nhìn của người có đức tin như chúng ta.
Trong kinh Tin Kính các tín hữu chúng ta cũng tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su và cuộc sống Thiên đàng, về một Nước Trời hằng sống như sau: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”.
3) THIÊN ĐÀNG Ở NGAY TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG:
Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này! hay “Ở kia kìa! , vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17,20-21).
Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.
4) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP LÊN NGON ĐÈN YÊU THƯƠNG TRONG LÒNG NGƯỜI:
Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta vốn là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy những người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ờ ngoài lề đường. Sau khi chết xác liền bị quẳng vào đống rác như một con vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình sống chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người sống đói khát không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày. Mẹ Tê-rê-sa đã lăn xả vào việc phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: “Ô, cây đèn đẹp quá”. Ông già nói: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa”. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa liền đề nghị: “Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không?” Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn cháy sáng ấm áp trong căn lều. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đến thăm mọi người và được mọi người đến thăm. Cuộc đời của ông đã vui trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng và mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ đi soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận ra nhau là anh em.
SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su nhiều lần nói đến trời cao: Trời hay Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Chẳng hạn : Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa Cha là Đấng ngự trên trời (x. Mt 6,9) ; Người cũng dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16.45).
2) Đức Giêsu đã từ trời mà đến: Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống để rồi lại trở về trời (x. Ga 3,13 ; 6,62). Người là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, là bánh đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6,33).
3) Đức Giê-su đã được rước lên trời: Sau khi sống lại, Đức Giê-su tuyên bố Người đã được ban “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (x. Mt 28,18), “Người là vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời, để giờ đây đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 9,25). Qua hình ảnh được rước lên trời, Chúa Phục Sinh sẽ không còn hiện ra với các tông đồ như trong thời gian 40 ngày qua. Từ đây, Người sẽ hiện diện cách thiêng liêng, không bị lệ thuộc vào thời gian và không gian như Người đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
4) Niềm hy vọng lên Trời của chúng ta: Chúa Giê-su lên trời là để dọn chỗ cho các môn đệ và Người sẽ trở lại lần thứ hai để đem họ về với Người (x. Ga 14,2-3). Thiên đàng là nơi trú ngụ của Thiên Chúa mà thánh Phao-lô đã cảm thấy vui thoả khi được chiêm ngắm những thực tại khôn tả (x 2 Cr 12,4); Là Vương Quốc dành cho những người công chính được hưởng hạnh phúc muôn đời (x. Mt 25,34.46). Đây là Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập ở trần gian và sẽ phát triển cho tới tầm mức viên mãn vào ngày Tận Thế khi Người tái lâm, trở lại lần thứ hai trong uy quyền vinh quang. Thiên Đàng còn là nơi dành cho tội nhân có đức tin vào Chúa Giê-su và có lòng sám hối cậy trông vào lòng thương xót của Đức Giê-su, như kẻ trộm lành cùng chịu chết với Chúa trên cây thập giá khi xưa (x. Lc 23,43).
5) Để được vào Thiên đàng với Đức Giê-su sau này, các tín hữu phải làm gì ngay từ hôm nay?
-MỘT là tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và được tái sinh bởi nước và Thánh Thần trong phép rửa tội.
-BA là phải sống giới răn yêu thương là mến Chúa yêu người bằng cách năng nghĩ đến tha nhân, khiêm tốn phục vụ, quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người bệnh tật nghèo đói để trở nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su.
-BỐN là phải đi con đường hẹp và leo dốc, từ bỏ ý riêng mình để vâng phục ý Thiên Chúa, sẵn sàng vác thập giá là các tai nạn gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
-NĂM là phải biết dùng của cải vật chất Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân hầu mua lấy Nước Trời đời sau.
-SÁU là phải chu toàn sứ mệnh tông đồ truyền giáo, nghĩa là làm chứng cho Chúa bằng đời sống gương sáng ngay từ trong gia đình và ra ngoài xã hội.
NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con mừng đại lễ Thăng Thiên. Chúng con thật vui mừng và hãnh diện tuyên xưng Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Chúa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mở đường về trời cho chúng con, để dọn chỗ cho chúng con và đến ngày tận thế Chúa sẽ trở lại để đem chúng con lên trời với Chúa. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Quê hương chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con”, để dù đang sống giữa thế gian, nhưng chúng con không thuộc về trần gian. Xin cho chúng con biết dùng của cải đời này để sắm cho mình kho báu thiêng liêng trên trời, bằng việc chia sẻ cơm bánh cho những người đói khát, quần áo cho những kẻ rách rưới, chữa lành các bệnh nhân đau liệt, thăm viếng an ủi những người đau khổ thể xác cũng như tâm hồn, giúp tội nhân ăn năn sám hối trở về với Chúa… như kinh “thương người” đã dạy.
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta xin Chúa cho chúng ta lòng yêu mến những sự trên trời, yêu LênTrời ABC-464
TMĐP- Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta xin Chúa cho chúng ta lòng yêu mến những sự trên trời, yêu mến Đền Thánh nơi Chúa ngự.
Lễ Chúa Lên Trời là giao điểm của lễ Phục Sinh và lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ở thời điểm này, mầu nhiệm phục sinh được bùng phát, lan toả và mở ra sự trông đợi ơn Chúa Thánh Thần đã được Đức Giêsu hứa ban, đồng thời đánh dấu sự hiện diện của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài dưới một cách thế mới.
Là thời điểm mầu nhiệm phục sinh bùng phát và lan toả, vì đây mới chính là lúc các môn đệ nhận ra Đức Giêsu đã thực sự sống lại từ cõi chết, sau khi đã chịu khổ hình (x. Lc 24,46); đây mới là lúc Đức Giêsu chính thức báo cho các môn đệ của Ngài biết: hãy chuẩn bị lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, làm chứng Ngài đã chịu chết và sống lại, nhưng tạm thời “hãy cứ ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,49) tức chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống với ơn của Ngài, như sách Công Vụ Tông Đồ đã kể lại: Bấy giờ các môn đệ có mặt hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 6-8). Bằng chứng là “đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?”, như nhắc nhở các môn đệ sứ vụ loan báo Tin Mừng “Chúa đã chết, đã phục sinh và sẽ trở lại trong vinh quang” đang chờ các vị.
Thực ra, Đức Giêsu chỉ nhắc lại điều quan trọng nhất mà Ngài đã nói với các môn đệ thân tín của Ngài trước khi đi chịu chết, đó là Chúa Thánh Thần sẽ hiện xuống trên các ông, điều màTin Mừng Gioan đã cẩn thận ghi lại: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dậy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26). “Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em” (Ga 16,7).
Như thế, Chúa Thánh Thần đến từ trời, thì Đức Giêsu trở về trời, và sẽ không ai còn thấy Đức Giêsu “với thân xác con người” ở giữa nhân loại nữa.
Quả thực, như hai môn đệ Phêrô, Gioan khi ra đến mộ và nhìn vào mộ, họ đã chỉ thấy “những băng vải còn ở đó”, mà không thấy Đức Giêsu đâu (x. Ga 20,12), thì hôm nay, các môn đệ cũng không còn thấy Đức Giêsu phục sinh như khi Ngài hiện ra giữa các ông, chuyện trò, ăn uống, chỉ bảo và ban bình an cho các ông, vì “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1, 9).
Nhưng có thực là Đức Giêsu không còn hiện diện giữa các ông; không còn có mặt trong Giáo Hội của Ngài?
Thưa không, Ngài vẫn hiện diện như lời Ngài hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20) trong bí tích Thánh Thể mà Ngài đã thiết lập cùng với chức linh mục. Điều khác biệt là từ nay Ngài dành cho các môn đệ của Ngài, và những ai muốn đi theo Ngài “không gian của đức tin”, ở đó mỗi người hoàn toàn tự do tin hoặc không tin vào Ngài, hoàn toàn tự nguyện đi với Ngài hay chối bỏ Ngài. Nói cách khác, “Người đã mở ra cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người” (Dt 10,20), để từ nay sự hiện diện của Đức Giêsu bao trùm tất cả, trên trời dưới đất, trong Giáo Hội là Đền Thờ của Ngài mà tất cả chúng ta là những viên đá sống động và “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” (Dt 10,19).
Tóm lại, Đức Giêsu lên trời không những không rời xa chúng ta, nhưng còn gần chúng ta hơn, vì bức màn thân xác của Ngài đã được vén lên, để chúng ta được “tiến lại gần Thiên Chúa với lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn…, được tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,22.23).
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta xin Chúa cho chúng ta lòng yêu mến những sự trên trời, yêu mến Đền Thánh nơi Chúa ngự, ở đó chúng ta được cùng muôn dân vỗ tay, reo hò chúc tụng Thiên Chúa, vì “Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 46, 2-3), và không bao giờ quên: Đền Thờ Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, Thiên Chúa đang ngự giữa chúng ta chính là “Mình Máu Đức Giêsu”, Bí Tích Thiên Chúa Tình Yêu ở với con người, trong Giáo Hội cho đến tận thế.
Từ nhiều năm trở lại đây, để thuận lợi cho giáo dân tham dự lễ trọng, đa số các Giáo phận chuyển LênTrời ABC-465
Từ nhiều năm trở lại đây, để thuận lợi cho giáo dân tham dự lễ trọng, đa số các Giáo phận chuyển dịch ngày lễ Thăng Thiên vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh. Tại Tổng giáo phận Hà Nội vẫn cử hành long trọng lễ Thăng Thiên vào thứ Năm sau Chúa nhật VI Phục sinh, vì theo truyền thống của Giáo Tỉnh miền Bắc, lễ này thuộc “Tứ Quý”: lễ Giáng Sinh, lễ Chúa Thăng Thiên, lễ Đức Mẹ Lên Trời và lễ các Thánh Nam Nữ. Trong bốn ngày lễ này, người tín hữu phải kiêng việc xác và tham dự thánh lễ.
Dù mừng lễ Thăng Thiên vào ngày nào, thì Phụng vụ vẫn nhắc người tín hữu hướng về Quê Trời, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận dưới đất. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Người về trời sau khi đã hoàn tất chương trình cứu độ. Người về với Chúa Cha, vì Người đã từ Chúa Cha mà đến. Dưới ánh sáng phục sinh, một nhãn quan mới về nhân sinh Kitô giáo đã mở ra: con người không đơn giản chỉ là “đầu đội trời, chân đạp đất”, mà họ đã thuộc về trời ngay khi họ đang sống nơi trần gian. Nói cách khác, Kitô hữu luôn hướng về trời, và đối với những người đạo đức thánh thiện, họ được nếm trước vinh quang Nước Trời ngay ở đời này. Khi suy niệm Kinh Mân côi, ở mầu nhiệm thứ hai Mùa Mừng, chúng ta xin cho được yêu mến (ái mộ) những sự trên trời, để dầu còn sống trên trần gian, một cách nào đó, chúng ta đã hưởng hạnh phúc như các thánh trên trời.
Hướng về trời không phải là một ảo tưởng hão huyền hay là một thứ “thuốc phiện mê dân”, nhưng là niềm hy vọng và niềm xác tín của Kitô hữu. Chúng ta dựa vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong Tin Mừng Thánh Gioan chương 17. Qua lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu vừa thân thưa với Chúa Cha, vừa thể hiện tâm tình thương mến đặc biệt đối với các môn đệ. Người xin Chúa Cha cho các môn đệ được ở với Người, vì các môn đệ – và những người kế tiếp các ngài là chính chúng ta hôm nay – là những quà tặng mà Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu. Như thế, những ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ở với Người và cùng Người chiêm ngưỡng vinh quang vĩnh cửu. Vinh quang này đến từ nơi Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu cũng được đón nhận vinh quang ấy, rồi Người lại chia sẻ cho chúng ta.
Hướng về trời mở ra cho người tín hữu một chân trời hy vọng. Hy vọng là chờ đợi những điều tốt đẹp ở phía trước. Người tin Chúa biết rõ tương lai hậu vận đời mình, đó là được sống với Chúa, được chia sẻ vinh quang hạnh phúc với Ngài. Nhờ có niềm hy vọng, chúng ta vững tin ngay cả khi gặp những gian nan thử thách, với xác tín rằng, người yêu mến Chúa sẽ vượt thắng tất cả. Trong lời cầu nguyện vừa nêu ở trên, Chúa Giêsu khẳng định những ai tin vào Người sẽ được Chúa Cha yêu thương. Ở một nơi khác trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Con trong tâm hồn những ai yêu mến và thực thi giáo huấn của Chúa Con “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Đây là hạnh phúc kỳ diệu. Chúa Ba Ngôi sẽ ở trong tâm hồn người công chính.
Hướng về trời cũng giúp cho người tín hữu có được những nghị lực siêu nhiên. Thế gian là bãi chiến trường, là thung lũng nước mắt, là bể khổ. Đức tin khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa hiện diện giữa bãi chiến trường ấy, vì Ngài là Cha giàu lòng thương xót. Ngài luôn nâng đỡ trợ lực chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã kể lại chứng từ của thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Kitô giáo: trong lúc sắp tắt thở vì bị ném đá, ông đã nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa”. Đức tin vào đời sống vĩnh cửu đã ban cho vị tử đạo của chúng ta sức mạnh và niềm xác tín phi thường, với niềm xác tín: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
“Hỡi những người Galilêa, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Lời của hai sứ thần mặc áo trắng nói với các môn đệ năm xưa lúc thày trò chia tay, cũng là lời ngỏ với chúng ta hôm nay. Mừng Chúa lên trời hướng chúng ta về quê hương vĩnh cửu, đồng thời nhắc chúng ta về bổn phận đối với quê hương trần thế. Kitô hữu không phải là người bị “bứng” khỏi cuộc sống đời này, nhưng là những người dấn thân trong mọi môi trường cuộc sống, để làm chứng cho niềm vui của Đức tin, nhất là làm chứng cho Chúa Giêsu trong khi mong đợi Người lại đến.
“Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến! Đời sống Kitô hữu là sự chờ đợi liên lỉ, với tâm tình cầu nguyện và phó thác cậy trông. Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Người sẽ đến trong vinh quang vào ngày tận thế. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy. mục lục
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện LênTrời ABC-466
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển rất nhanh. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Chủ đề của Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 56 năm nay là “Hãy lắng nghe bằng con tim”.
Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).
Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới - theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x.Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).
Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa...Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối con đường hiệp hành “con đường Giêsu” để thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.
1. Hiện diện mới
Chúa Giêsu đã tiên báo với các môn đệ: “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x.Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giêsu, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giêsu coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gioan không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt.Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.
Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này, Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).
2. Trao Sứ Vụ
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Truyền thông và hiệp hành
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông.Toàn thể Dân Chúa khắp nơi đang tích cực thực hiện tiến trình của Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới lần thứ 16 vào năm 2023, bắt đầu từ cấp giáo phận, với chủ đề : “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành : hiệp thông – tham gia – sứ vụ”. Để có được lối sống hiệp hành như thế, cần làm ba việc như Đức Kitô phục sinh đã làm đối với hai môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24, 13-35). Trong bài giảng khai mạc Thượng Hội Đồng (10/10/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ rõ có 3 việc cần làm là: Gặp gỡ trực tiếp; Lắng nghe và Phân định. Chúa Giêsu đã lắng nghe bằng con tim, với thái độ bình tĩnh và kiên nhẫn. Chúng ta cần lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau.
Trong sứ điệp Truyền thông năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh những điểm quan trọng: lắng nghe bằng con tim, lắng nghe là điều kiện giao tiếp tốt, và lắng nghe trong Giáo hội.
a. Lắng nghe là điều kiện giao tiếp tốt
Lắng nghe là bước đầu tiên không thể thiếu của đối thoại và giao tiếp tốt. Người ta không thể làm truyền thông nếu không lắng nghe trước và không thể trở thành một nhà báo tốt nếu không có khả năng lắng nghe. Hơn thế nữa, cần phải lắng nghe nhiều nguồn để có độ chính xác của thông tin muốn truyền tải. Và điều đặc biệt là phải lắng nghe kiên nhẫn, điều này không dễ, như Đức Hồng y Agostino Casarli, một nhà ngoại giao lớn của Toà Thánh đã nói về “tử đạo của kiên nhẫn”. Đối với Đức Hồng y, trong các cuộc đàm phán cần lắng nghe và được lắng nghe kiên nhẫn để đem lại lợi ích tốt nhất có thể trong điều kiện tự do bị giới hạn.
b. Lắng nghe trong Giáo hội
Đức Thánh Cha mời gọi trong Giáo hội, mọi người cần phải lắng nghe người khác và lắng nghe nhau, vì đây là món quà quý giá nhất mà các tín hữu có thể dành cho nhau. Và điều này phải được thể hiện cụ thể trong hoạt động mục vụ, như Thánh Tông đồ Giacôbê khuyên: “Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói” (Gc 1,19). Dành thời gian để lắng nghe người khác là cử chỉ đầu tiên của bác ái.
Hướng đến tiến trình hiệp hành của toàn thể Giáo hội đang thực hiện, Đức Thánh Cha mời gọi: “Chúng ta hãy cầu nguyện để đây là một cơ hội tuyệt vời cho mọi người lắng nghe nhau. Thực tế, hiệp thông không phải là kết quả của các chiến lược và chương trình, nhưng được xây dựng trong sự lắng nghe nhau. Như trong một dàn hợp xướng, sự hiệp nhất không đòi hỏi phải giống nhau, đơn điệu nhưng là sự đa dạng của các giọng khác nhau. Mỗi người khi hát cần lắng nghe người khác để tạo nên sự hoà hợp tổng thể. Sự hoà hợp các giọng ca là ý tưởng của nhà soạn nhạc, nhưng hiện thực nó thì phụ thuộc vào mỗi giọng ca. Trong Giáo hội, Thánh Thần là nhà soạn nhạc.
Truyền giáo là truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo.Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.
Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích tín hữu vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngay từ khi internet lần đầu tiên xuất hiện, Giáo hội luôn tìm cách thúc đẩy việc sử dụng nó để phục vụ cho sự gặp gỡ giữa mọi người và cho sự đoàn kết giữa tất cả mọi người” (Sứ điệp Truyền thông 2019).
Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông 53, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận tầm quan trọng và sự lan rộng của internet và các mạng xã hội trong đời sống con người ngày nay. Đó là nguồn kiến thức và những tương quan giữa con người với nhau. Tuy nhiên, cũng không thiếu những khía cạnh tiêu cực do các mạng xã hội. Đó là nơi dễ bị những tin tức giả mạo và xuyên tạc xâm nhập và lan tràn; các dữ kiện cá nhân nhiều khi bị lèo lái để mưu những lợi lộc về chính trị hoặc kinh tế, không tôn trọng nhân vị và các quyền của họ. Sứ điệp cũng cảnh giác chống lại sự tự cô lập qua các mạng xã hội, có hiện tượng những người trẻ trở thành “những ẩn sĩ xã hội”, trở nên hoàn toàn xa lạ với xã hội chung quanh (x. vaticannews.va/vi).
Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ lắng nghe nhau trong xây dựng yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệp Truyền thông 50).
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự lắng nghe bằng con tim và tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương.
Khi đọc câu chuyện Chúa Giêsu lên trời chắc chắn tâm trí chúng ta sẽ thấy có những hình ảnh LênTrời ABC-467
Khi đọc câu chuyện Chúa Giêsu lên trời chắc chắn tâm trí chúng ta sẽ thấy có những hình ảnh lướt qua mà có lẽ chúng ta đã từng thấy nơi những bức tranh của một họa sĩ bậc thầy vĩ đại thời Phục hưng hoặc đơn giản là những bức tranh được sinh ra từ trí tưởng tượng của chúng ta. Quả thực, nếu tiếp nhận câu chuyện này bằng những từ ngữ đơn giản thì lý trí của chúng ta khó có thể diễn tả hết được.
Sách Công Vụ Tông Đồ cũng như Tin Mừng Luca kể câu chuyện về sự kiện này và chúng ta có thể tiếp nhận với đức tin, hoặc với nụ cười trên môi. Nhưng trên thực tế, cơ sở rõ ràng để hiểu biến cố Chúa Giêsu Thăng Thiên này phải đối mặt với một mầu nhiệm vĩ đại và kỳ diệu. Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chỉ lên trời để nghỉ hưu ở đó; Như tác giả Thư Hípri chỉ rõ Chúa Giêsu được “đưa lên trời” để “vào trong đó”, “Quả thế, Chúa Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Hípri 9:24). Và bây giờ những gì chúng ta phải giữ lại từ câu cơ bản này, vốn dĩ nói lên trung tâm của mầu nhiệm, đó là cụm từ “cho chúng ta” - Chúa Giêsu đại diện cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa… cho chúng ta, một lần nữa.
Chúa Giêsu được sinh ra cho chúng ta, để bày tỏ cho chúng ta Lời của Thiên Chúa, Cha của Ngài; Chúa Giêsu đã chết thay cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi của chúng ta; Chúa Giêsu đã sống lại để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta, và cuối cùng Chúa Giêsu đã vào thiên đàng để báo trước cho chúng ta sự cứu rỗi của chúng ta.
Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Thăng Thiên này và lắng nghe các bản văn thánh trong bầu khí Phục sinh trọn vẹn. Việc Chúa Giêsu lên trời được trình bày cho chúng ta, cùng với sự Phục sinh, như những chuyển động độc đáo; trong khi sự Phục sinh của Chúa Giêsu là một chuyển động từ trong kẻ chết, Ngài đã phục sinh: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Luca 24: 46), thì việc Chúa Giêsu lên trời một chuyển động đưa Chúa vào vinh quang: “rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Luca 24: 51). Và đây chính là nơi đặt ra mầu nhiệm mà chúng ta đang chiêm ngắm. Do đó, lễ Thăng Thiên cử hành long trọng mầu nhiệm hoàn tất sự Vượt Qua trong toàn thể thân mình Chúa Kitô; Thân mình này vốn xưa nay là một sự trọn vẹn bởi vì nó được cấu thành bởi Chúa Kitô, là thủ lãnh và là đầu, và các chi thể là chúng ta, là dân Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta không thể tách rời khỏi mầu nhiệm Vượt qua, vì tất cả những gì Chúa Cha đã làm là vì chúng ta!
Từ đó chúng ta có thể hiểu rằng lý do cuối cùng của việc Chúa Giêsu lên trời chính là để dẫn đến mục đích này: làm cho con người được nên thần thánh giống Thiên Chúa; khi Chúa Giêsu đến thế gian, Thiên Chúa trở thành con người để con người được nên thần thánh, như thánh Clêmentê Alexandria và Grêgôriô Nazianxê đã nói: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner, trong bộ sách thần học “Mysterium Salutis” của mình cũng đã viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, dựa vào lời thánh Phêrô: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Ngài đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” (2 Phêrô 1: 4). Hôm nay, Chúa Giêsu đến ngự bên hữu Thiên Chúa, là Cha ngài, và đây là cách thế bản tính con người của chúng ta được nâng lên trên các tầng trời; vì một người trong chúng ta đã vào trong vinh quang của Thiên Chúa. Kinh Tiền Tụng lễ Thăng Thiên còn nói thêm rằng: hôm nay, Đức Kitô đã “lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Ngài, tin tưởng được theo Ngài đến nơi mà chính Ngài là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước.”
Chính mầu nhiệm chưa từng được biết đến này đã làm cho lễ Chúa Thăng Thiên trở thành lễ của chúng ta; Ludolph the Carthusian vào thế kỷ XIV nhận xét rằng “Sự thăng thiên của Đấng Cứu Độ là nguyên lý cho sự thăng thiên của chính chúng ta”, Vì thế, ngày lễ này đối với chúng ta là một nguồn vui lớn trong hy vọng của chúng ta.
Tóm lại, chúng ta có thể nói: chắc chắn, Chúa Giêsu ra đi, nhưng chúng ta vẫn hợp nhất với Ngài! Và do đó hơn bao giờ hết, mầu nhiệm này trở thành mầu nhiệm của sự hiện diện khuất mặt. Và các tông đồ hiểu rõ điều này, như Thánh Luca nói với chúng ta, “trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Luca 24: 53-53). Từ đó chúng ta thấy có một sự song hành với sự kiện Emmau. Niềm vui của hai môn đồ khi trở về từ Emmau là kinh nghiệm về sự phục sinh, niềm vui của các môn đồ khi chứng kiến sự thăng thiên là kinh nghiệm về sự sống vĩnh cửu, về sự cứu rỗi. Không khác gì hai môn đồ ở Emmau, các môn đồ ở Bêtania vui mừng khi chiêm ngưỡng, không phải là chiếc bánh được bẻ ra nữa, mà là đám mây trên trời.
Thật vậy, nếu chúng ta hình dung ra rằng một người rời bỏ chúng ta bằng cách bay lên trên mây, chúng ta sẽ không coi đó là mầu nhiệm thăng thiên: chúng ta coi đó chỉ là một sự khuất mặt, trong khi việc Chúa Giêsu lên trời là một mầu nhiệm của sự hiện diện được nhân lên của Ngài, sự hiện diện khuất mặt. Do đó, như Bí tích Thánh Thể đem sự hiện diện của Chúa Kitô vào trong tâm hồn của muôn ngưởi, cũng vậy việc chiêm ngắm thiên đàng không phải là sự bỏ trốn đối với các Kitô hữu. Do đó, nếu các thiên thần nói với các Tông đồ rằng Chúa sẽ trở lại, thì đó là sai họ quay trở lại với nhiệm vụ trở nên sự hiện diện của Chúa Kitô, là Đấng đã trở nên vắng mặt trong thân xác, nhắc nhở họ về sứ mệnh làm chứng cho tất cả những gì họ đã thấy: Chúa Giêsu đã nói với họ “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Luca 24: 48) và “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Công vụ 1:8). Do đó, đây là kết quả từ mầu nhiệm của sự hiện diện được nhân lên của Chúa Giêsu.
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm này, chúng ta đi từ thị kiến thực tế của các tông đồ sang cái nhìn đức tin của chúng ta. Đó là tìm kiếm Chúa Giêsu trên trời và làm việc với Ngài dưới đất. Nỗ lực của đức tin đòi hỏi chúng ta là hợp nhất hai mối tương quan này với Chúa Giêsu; chắc chắn chúng có thể biểu lộ rất khác nhau, nhưng chúng ta hãy yên tâm rằng cuộc sống của chúng ta đã được sự sống của Chúa Giêsu trên trời thu hút, là Đấng thu hút chúng ta ngày này qua ngày khác khi chúng ta “gắn chặt khát khao của mình vào nơi mà ánh mắt không chạm tới được”, theo lời nói nổi tiếng của Thánh Lêô.
Chúng ta tin tưởng nơi Chúa Giêsu này, Đấng sẽ Hiện diện cho chúng ta, là những người mở rộng đời sống của mình cho Ngài. André Sève nói câu này như một lời nhắn nhủ: “Chưa bao giờ đức tin của chúng ta lại bị đòi hỏi nhiều như trong mầu nhiệm Thăng Thiên này, nơi mà đức tin phải học cách sống với Chúa Giêsu trên trời và dưới đất.”
Phêrô Phạm Văn Trung Phỏng theo ĐGM. Jean Scarcella – Tu viện Thánh Maurice.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài LênTrời ABC-468
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc một và trình thuật Tin Mừng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay tuy có một chút khác biệt, nhưng nội dung chính yếu là nói về việc Đức Giê-su được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Như vậy câu hỏi đầu tiên chúng ta cần san sẻ cho nhau là trời ở đâu?
Chúng ta không biết nhiều về khoa học không gian, nhất là môn học về vũ trụ thì lại càng khó hiểu. Đó là việc của các nhà chuyên môn. Vào thời Đức Giê-su, và hầu hết những người dân thường ít hiểu biết như chúng ta vẫn còn cho rằng trời ở trên cao, đất là nơi chúng ta đang sống và được bao quanh bởi biển cả và đại dương, và dưới hay trong lòng quả đất này là hỏa ngục.
Từ khái niệm đơn sơ này chúng ta suy diễn về các mốc điểm trong hành trình của chúng ta. Các Thiên Thần và các Thánh thì ở trên trời. Quỉ dữ và những ai thuộc về nó thì bị giam cầm dưới Hỏa Ngục, trong lòng đất. Còn trái đất là nơi chúng ta đang sống và chiến đấu. Chính vì thế, đôi khi chúng ta cho rằng về trời hay lên thiên đàng là phần thưởng dành cho ai đã chiến đấu và chiến thắng quyền lực của sự ác chi phối và hoành hành trên cuộc sống của chúng ta. Vì thế quan niệm sống để thu tích các công việc đạo đức và đưa vào kho lẫm để chờ ngày lãnh nhận phần thưởng đời sau vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sống của tín hữu. Với lối suy luận như thế, chúng ta có thể sẽ quên đi trách vụ và bổn phận cần phải làm để biến đổi môi trường mà chúng ta đang sống trở thành trời mới đất mới.
Trời là nơi Chúa ngự. Ngự trị không nhắm đến nơi chốn cho bằng mô tả sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện này sẽ không còn tuỳ thuộc vào một khoảng không gian nào đó hay một mốc thời gian nào của lịch sử; nhưng là một sự hiện diện không bị giới hạn bởi không gian và không lệ thuộc vào thời gian. Thiên Chúa hiện diện từ trước và cho đến muôn đời, vô thủy vô chung. Như vậy ở đâu có Chúa là ở đó có trời. Và như lời Chúa đã phán thì ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Chúa thì Chúa hiện diện giữa họ. Ý nghĩa của câu này có thể giải thích là ở đâu có sự hiệp nhất, thông cảm, yêu thương thì có Chúa ở đó; nói khác đi tại nơi đâu mà con người cùng chia sẻ một đức tin, cùng san sẻ và trao ban một lòng mến thì tại nơi đó có sự hiện diện của Chúa. Như vậy, trời hay thiên đàng không ám chỉ đến địa danh hay nơi chốn nào đó cho bằng một cách mà con người dùng để diễn tả khi nói đến nơi ngự trị của Chúa. Nói khác đi, khi mô tả việc Chúa lên trời có nghĩa là chúng ta nói đến việc Chúa Giê-su ngự trị bên hữu Thiên Chúa.
Trên thực tế, làm sao chúng ta có thể giải thích về ý niệm về một vị Thiên Chúa vừa hiện diện lại vừa vắng mặt trong cuộc sống của chúng ta nói riêng và trong các sinh hoạt của thế giới này nói chung. Rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn sống với quan niệm về một vị Thiên Chúa ở trên trời, xa vắng với các sinh hoạt của con người. Với cái nhìn như thế, mỗi khi chúng ta gặp khó khăn là lúc chúng ta chạy đến cầu xin với Ngài đến can thiệp và giải quyết thay cho chúng ta.
Trái lại, với sự hiện diện mới, Chúa Giê-su không còn hiện diện bằng xuơng bằng thịt và cũng không còn bị giới hạn và ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa. Người sẽ hoạt động trong con người, nhất là nơi các kẻ tin. Vì thế việc trao ban uy quyền và sứ mạng cho họ cần được thực hiện truớc khi Người trở về với thân phận hằng có trong Thiên Chúa của Người.
Có phải cho đến hôm nay Chúa mới đuợc đưa lên trời hay không? Thật ra, Đức Giê-su đã về nhà Cha, tiếp nhận vinh quang như đã có từ Thiên Chúa ngay khi Người trút hơi thở và trao ban Thần Khí cho những ai đứng bên Thập Giá. Việc Chúa Giê-su được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà chúng ta và các môn đệ cần nhận ra bằng con mắt đức tin và thể hiện bằng việc làm để minh chứng điều mà chúng ta và các môn đệ đã tin.
Vì thế, không có chuyện vắng mặt. Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua; Người vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ; Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và với họ như những gì mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một hôm nay, đó là “sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa.” Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ, Người đã không thể ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay qua sự chết trong vâng phục mà Người đã được tôn vinh và hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người trong mọi cảnh huống của đời họ.
Chúng ta mừng sự thay đổi, hân hoan đón nhận cách thức hiện diện mới của Chúa. Tuy, chúng ta không còn đuợc tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta đuợc liên kết với Người như Lời Người đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ.”
Mặc dầu các dấu chỉ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa có thể thay đổi so với các việc làm của các tín hữu thuộc các công đoàn sơ khai; nhưng nguồn gốc và sức mạnh vẫn xuất phát từ Chúa. Người vẫn hoạt động thông qua những kẻ đi theo Người. Người về trời ngự bên hữu Thiên Chúa không phải để đuợc tôn vinh mà thôi, nhưng còn tiếp tục làm việc nơi các môn đệ qua quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, đó chính là sức mạnh của Thánh Linh như Chúa đã hứa “các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong tất cả xứ Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, và cho đến tận cùng trái đất”.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Linh, các Tông Đồ và nhóm môn đệ mọi thời đã hoàn tất sứ mạng của họ. Còn chúng ta hôm nay thì sao?
Sống trong một thế giới đầy tranh chấp và bạo lực, chúng ta đuợc mời gọi trở nên sứ giả của hoà bình.
Sống trong một tập thể mà người ta tìm cách loại bỏ nhau vì ghen ghét, đố kỵ và thù hằn thì chúng ta lại đuợc mời gọi sống yêu thương, tương tác và liên đới với nhau.
Đối diện với một cộng đoàn chỉ biết tham lam và tranh dành địa vị thì chúng ta lại được mời gọi sống bác ái và khiêm nhường trong việc phục vụ.
Tất cả đều là dấu chỉ nói lên lời mời gọi của Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn của các kẻ tin.
Vì thế, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện hôm nay là sống thế nào trong vai trò chứng nhân về sự hiện diện của Chúa? Đó cũng là thử thách mà Tin mừng đề ra cho các tín hữu tại Ga-li-lê-a khi xưa và cho chúng ta hôm nay “Hỡi những người Ga-li-lê-a, sao còn đứng đó nhìn trời.” Có nghĩa là tại sao chúng ta vẫn còn ngồi đó mà tiếc nuối quá khứ! Sao cứ khư khư ôm lấy vinh quang mà không dám trở về với cuộc sống hiện tại để chu toàn phận sự đã được trao phó?
Khi thi hành nhiệm vụ mà Chúa trao phó hôm nay, chúng ta ý thức rằng mình không tự làm; nhưng sứ mạng được trao ban từ Chúa; Người là vị cứu tinh nhân hậu, đang đồng hành trong mọi sự kiện của cuộc đời chúng ta.
Chúng ta vẫn nương tựa vào Chúa.
Chúng ta vẫn gắn bó và nối kết mật thiết với Người.
Tuy nhiên, chúng ta không ngồi đó chờ Người làm thay các việc mà chúng ta cần làm.
Chúng ta sẽ không yêu cầu Chúa đến để thay đổi những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta.
Thay vào đó, trong niềm tin, chúng ta biết chắc Người đang đồng hành với chúng ta, soi sáng và mở mắt để chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trong các sự kiện đang xảy ra. Thiên Chúa đã không rời bỏ chúng ta nhưng hiện diện trong những gì đang diễn ra trong cuộc sống của chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi.
Như vậy, Chúa lên trời để dọn chỗ cho chúng ta. Nhưng ngay bây giờ chúng ta cần thực hiện lịnh truyền mà Chúa phán trước khi được cất nhắc lên trời, đó là: “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”, và nhờ việc làm của anh em mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Người. Amen!
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin LênTrời ABC-469
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3)
Chúa Giêsu không chỉ động viên mà Ngài còn hứa. Chắc chắn không có lời hứa nào kỳ diệu như vậy: Ngài ở đâu thì những người tin nhận Ngài cũng ở đó. Mà Ngài ở đâu? Ngài ở trên trời – Thiên Quốc. Như vậy, tín nhân cũng được về trời và ở với Ngài. Thực sự quá đỗi kỳ diệu, bởi vì phàm nhân chỉ là bụi tro mà lại được ở chung với Ngài, nên giống Ngài. Thế thì loại bụi tro này rất quý giá, không như người ta tưởng.
Tất nhiên cái gì cũng có cái gia nhất định của nó. Muốn ăn thì lăn vào bếp, muốn sướng thì phải chịu cực, muốn xài tiền thì phải làm việc. Muốn về trời thì phải hy sinh nhiều thứ, cụ thể là vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Đó là cách định hướng cần thiết. Chúa Giêsu định hướng cho những ai muốn thuộc về Ngài: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6)
Chúa Giêsu đã định hướng cách sống để tín nhân cố gắng sống tốt, chờ Ngài trở lại đón về trời – quê hương đích thực. Ngài về trời trước, chúng ta còn ở lại. Đó là cuộc chia tay đầy ý nghĩa, không buồn thảm mà lại tràn trề hy vọng. Vả lại, chúng ta không hề mồ côi, vì Ngài hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14:26)
Người ta lầm tưởng Chúa Giêsu là nhà cách mạng lỗi lạc, chính trị gia đại tài, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Không, Vương Quốc Thiên Chúa không ở thế gian này. Người ta lại hỏi dò: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Cv 1:6) Nhưng Ngài xác định: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:7)
Khi Chúa Giêsu được cất lên, có đám mây quyện lấy Ngài, không ai thấy Ngài nữa. Người ta ngơ ngẩn, không biết vì tiếc Chúa hay tiếc cảnh lạ. Họ đang đăm đăm nhìn lên trời theo hướng Ngài bay lên, có hai người mặc áo trắng xuất hiện ngay bên cạnh họ và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11) Thật lạ lùng! Phàm ngôn không thể diễn tả.
Sự kiện Chúa Giêsu về trời là dấu chỉ bảo đảm rằng tín nhân cũng sẽ về trời với Ngài. Điều đó chắc chắn chứ không mơ hồ, viển vông, hoặc ảo tưởng. Với niềm hy vọng đó, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.” (Tv 47:2-3)
Tín nhân thực sự hạnh phúc vì được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Niềm vui chan hòa: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên tòa uy linh cao cả.” (Tv 47:6-9) Hạnh phúc nối tiếp, hy vọng kéo dài và lan tỏa.
Thánh Phaolô nói rất rõ ràng: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh.” (Dt 9:24-25)
Như có ý giải thích, Thánh Phaolô cho biết: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để CỨU ĐỘ NHỮNG AI TRÔNG ĐỢI NGƯỜI.” (Dt 9:26-28) Vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh.” (Dt 10:19) Quả thật, tín nhân chúng ta vô cùng hạnh phúc vì được Chúa trao ban cho quyền đó, mặc dù chúng ta hoàn toàn bất xứng.
Nhưng còn hơn thế nữa, chính “Ngài đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Ngài. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa.” (Dt 10:20-21) Và Thánh Phaolô khuyên: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín.” (Dt 10:22-23)
Thánh Augustinô nói: “Đức tin là tin những gì bạn không thấy, và phần thưởng của đức tin là thấy những điều bạn tin.” Thánh Tôma Aquinô lý giải: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng đức tin, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc.”
Sống đức tin là thực thi lòng thương xót, việc làm cần thiết, nhưng phải kiên trì và không ngừng canh tân. Thật vậy, có thể nói rằng sống đức tin là mối phúc thứ 9 mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Sống đức tin là thể hiện cách thức sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ, thậm chí là phức tạp, thế nên cần phải ý thức và can đảm.
Chính Chúa Giêsu đã phân tích: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24:46-47) Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà lại không đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu nỗi buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo. Chắc chắn như vậy!
Thế nào là sống đạo? Là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu Thiên Chúa, về Lòng Chúa Thương Xót, vì chính Ngài đã truyền lệnh cho mỗi chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24:48) Rất rõ ràng!
Cuộc chia tay của Chúa Giêsu với các môn đệ là cuộc chia tay hoan hỷ chứ không buồn thảm: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.” (Lc 24:49) Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời. Niềm hy vọng tràn đầy tâm hồn họ, giúp họ thêm can đảm vào đời và ra khơi trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Luca kể rõ: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, LÒNG ĐẦY HOAN HỶ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.” (Lc 24:52-53) Đức Kitô chịu chết nhưng phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hạnh phúc khôn tả, niềm hy vọng tuyệt vời và niềm hy vọng cuối cùng của mỗi Kitô hữu.
Nhập đề, thân bài và kết luận là ba phần thiết yếu của một bài luận. Tương tự, cuộc đời cũng có ba khoảng – tuổi thơ, tuổi trẻ và tuổi già. Có thể có người chỉ có tuổi thơ mà không có tuổi trẻ và tuổi già, hoặc có người có tuổi thơ và tuổi trẻ mà không có tuổi già. Nhưng ai cũng có ba khoảng thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Bởi vì “nhân vô thập toàn” nên đừng quay lại quá khứ mà nuối tiếc hoặc tự trách mình thái quá, hãy hướng tới tương lai để vươn lên. Ai nghĩ gì, mặc họ. Hãy cứ là chính mình. Đừng đếm những gì đã mất, hãy quý trọng những gì hiện đang có, và định hướng mới về những gì khả dĩ đạt được trong tương lai. Lý do rất đơn giản: Quá khứ không bao giờ trở lại, nhưng tương lai có thể bù đắp cho những gì đã mất mát hoặc sai sót.
Là Đất rất mực công bình, Thiên Chúa không thiên vị bất kỳ ai. (Gl 2:6; Cv 10:34) Cửa này khép lại thì sẽ có cửa khác mở ra. Hãy vững tin vào Ngài. Thánh Gioan Kim Khẩu (347-407) xác tín: “Thiên Chúa lượng định đau khổ theo mức cần thiết cho chúng ta.” Cứ an tâm, vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định, nghĩa là Ngài đã định hướng riêng từng người. Đừng chê trách hoặc đề cao bất cứ ai, cũng đừng mặc cảm, nhút nhát. Mỗi người đều có vị trí nhất định theo Thánh Ý Chúa, với mục đích là để làm vinh danh Ngài theo cách riêng của mỗi người.
Thánh Lêô nói: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh mà sống lại với đời sống ân sủng, và chúng ta cũng được tới trời cao qua cuộc thăng thiên Ngài. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Ngài, hoàn toàn phụ thuộc vào Ngài và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Ngài.” Giáo lý Công giáo nói: “Niềm hy vọng là nhân đức đối thần mà chúng ta mong ước Vương Quốc Thiên Đàng và sự sống vĩnh hằng là hạnh phúc của chúng ta, tin vào lời hứa của Chúa Kitô và dựa vào không chỉ bằng sức mạnh mà là sự trợ giúp đỡ của ơn Chúa Thánh Thần.” (GLCG số 1817)
Lạy Thiên Chúa nhân lành tuyệt đối, Ngài quan phòng và tiền định mọi sự, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin, xin giúp chúng con can đảm sống đạo và làm chứng về Ngài suốt cuộc lữ hành trần gian. Khi chúng con hoàn tất hành trình đức tin đời này, xin cho chúng con được ở nơi nào có Con Một Yêu Dấu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Chúa Giêsu sau khi đã từ cung lòng Chúa Cha, từ Trời thân hành xuống thế nhập thể làm người LênTrời ABC-470
Chúa Giêsu sau khi đã từ cung lòng Chúa Cha, từ Trời thân hành xuống thế nhập thể làm người, đi vào lịch sử loài người, sống kiếp phận con người, bước vào trong bóng sự chết, đã phục sinh và trở về Trời trong vinh quang mà từ thuở đời đời Người đã có với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh mô tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong...”. Và sau đó “Người lên Trời” (Cv 1,1- 11).
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, vinh hiển về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời, như thế chúng ta hy vọng sẽ được về Trời với Chúa. Theo lời thánh Lêo Cả, Chúa Giêsu Kitô, Vị Thủ Lãnh của chúng ta vinh hiển bước vào thiên đàng ngự bên hữu Đức Chúa và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. LÊÔ CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời). “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7,25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Lễ Chúa Giêsu lên Trời là lễ của niềm hy vọng, vì lễ này báo trước cảnh ngọt ngào của Thiên Đàng. Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể, Người đi trước để chúng ta được tiếp bước theo sau vào Thiên Đàng. Vẫn theo lời Thánh Lêô Cả: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh chúng ta sống lại với Người trong đời sống mới đầy ân sủng, chúng ta cũng đạt tới Trời nhờ sự lên Trời của Người. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Người, hoàn toàn phụ thuộc vào Người và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Người” (x. LÊÔ CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời).
Quả thật, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào sự sống của Chúa Kitô, nghĩa là chúng ta hy vọng phục sinh và được chia sẻ vinh quang của Người. Chúng ta cũng sẽ theo Người đến cùng Chúa Cha khi kết thúc cuộc sống trần gian này. Lễ Chúa lên Trời là sự kiện phản ánh rõ nhất về niềm hy vọng của chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
Là những người sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi không ngừng tin vào Chúa Kitô và sống khác với những người chưa biết đến Chúa Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở cùng chúng ta và Người đang dẫn chúng ta đến cuộc sống đời đời. Người chỉ cho chúng ta đường lên Trời của Người, bởi chính Người là Đường. Chúng ta phải tránh những cám dỗ, sợ hãi, hoảng loạn và tuyệt vọng. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng” (1 Tx 4,13). Ở đây chúng ta cũng thấy một dấu hiệu riêng biệt của các Kitô hữu là họ có tương lai. Đức Bênêđíctô XVI viết : “Không phải là họ biết chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết một cách chung chung rằng cuộc sống của họ sẽ KHÔNG KẾT THÚC trong sự trống rỗng. Chỉ khi tương lai chắc chắn là một thực tế tích cực thì mới có thể sống tốt trong hiện tại” (x. BENEDICTO XVI, Spe Salvi, số 2).
Chính khi tin vào Chúa Kitô mà chúng ta có thể sống trong an bình và hy vọng trong mọi hoàn cảnh, vì sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Ngay cả khi cái chết đến với chúng ta, chúng ta vẫn thanh thản trong niềm hy vọng cuối cùng là được lên Trời sống đời đời với Chúa. Đó là ý nghĩa của cuộc sống người tín hữu chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta biết rằng chúng ta sẽ không thoát khỏi đau khổ trong cuộc sống này. Cái chết đã bị đánh bại nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và con đường dẫn đến sự sống đời mở ra cho chúng ta qua sự lên Trời của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đức Bênêđíctô XVI nói: “Đối với tương lai, cửa thời gian tối tăm đã bị mở tung. Người hy vọng sống khác người đã được ban tặng sự sống mới”. Chúng ta đã được ban sự sống mới trong Chúa Kitô và đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta trong tất cả các cơn bão đang hoành hành xung quanh chúng ta.
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải “có hai người mặt áo trắng đứng gần” (Cv 1,10) và nhắc nhở: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1,11). Hãy ngước mắt lên trời và chăm chú nhìn vào Chúa Kitô, Đấng đã về trời với Chúa Cha, để chuẩn bị chỗ vĩnh cư cho mỗi người chúng ta.
Theo Tin Mừng Luca, Jerusalem là thị trấn của số mệnh. Nơi đây ơn cứu độ đã hoàn thành. Nơi LênTrời ABC-471
Theo Tin Mừng Luca, Jerusalem là thị trấn của số mệnh. Nơi đây ơn cứu độ đã hoàn thành. Nơi đây sứ vụ của các Tông Đồ bắt đầu. Và, Jerusalem là trung tâm điểm của sứ vụ, nơi xuất phát sứ vụ các Tông Đồ của Chúa Kitô rồi lan tỏa ra khắp mọi nơi đến “tận cùng thế giới”. Nơi nào có bóng dáng các môn đệ thì ở đó, cộng đồng sơ khai có những tiêu chuẩn giáo lý (x. Cv 15:2,6).
Hai câu đầu của bài đọc 1 (x. Cv 1:1-2) là gạch nối giữa sách Công Vụ Tông Đồ và Tin Mừng Luca, cho thấy các môn đệ đã được Chúa Giêsu Phục Sinh dạy dỗ đầy đủ (c 3-5), nhưng các ông vẫn tỏ ra áy náy vì câu trả lời của Chúa nên các ông đã hỏi: “Thưa Thầy, phải chăng đã đến lúc Thầy khôi phục lại vương quốc Israel?” Các ông nghĩ rằng Chúa Cha hứa sẽ mang lại thời đại chính trị thống lãnh của một quân vương như thời vua David. Nhưng Chúa trả lời không phải vấn đề đó. Cả hai việc đó không thể làm cho các ông nghĩ đến cái kết luận ấy, vì các ông không có bổn phận phải biết thời kỳ và ngày giờ việc đó xẩy ra. Thiên Chúa Cha đã định đoạt rồi. Lời hứa đó - nếu là khôi phục lại quyền bính chính trị quốc gia hay được ơn hiểu biết Thiên Chúa - cũng sẽ không làm cho cuộc sống của các ông trở nên dễ dãi hơn. Khi các ông nhận được Chúa Thánh Thần thì cũng là lúc các ông được chịu phép rửa không phải bằng nước mà bằng lửa. Các ông có quyền tiếp tục nhiệm vụ của Chúa Kitô là giảng dạy, nuôi dưỡng và phụng sự, đồng thời sẽ bị từ chối, bị đau khổ và chết vì Người.
Sau khi nói những lời đó, Chúa Giêsu được cất lên lên trời ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Quang cảnh đó huy hoàng và tuyệt vời biết bao! Các môn đệ cảm thấy thế nào khi ngắm nhìn Thầy mình từ từ bay về trời! Lời Thiên Thần hiện ra nói với người dân xứ Galilê đã gây cảm giác bi thương và khó hiểu: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Chúa Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11).
Các Tông đồ lúc đó đã nhận ra được một bài học: “Đừng tiếp tục đứng mà ngóng trông ở tương lai. Đừng quá để ý đến giờ nào Người sẽ trở lại.” Đừng đứng yên nhìn trời và than khóc quá khứ mà không hành động gì cả. Hãy phó thác nó trong bàn tay phù trợ và lòng thương yêu của Thiên Chúa! Chúa được tôn vinh thì các môn đệ cũng sẽ được dự phần vinh quang. Hãy tiếp tục mang một mảnh vụn - nhỏ thôi - của Thiên Đàng đi khắp thế giới. Đó là ý nghĩa Chúa Giêsu Phục Sinh và Lên Trời. Thiên Chúa ủy thác nhiệm vụ đó cho chúng ta không phải vì lý do con người nhưng vì sức mạnh của giấc mơ Tin Mừng!
KHỞI ĐẦU TỪ JERUSALEM
Luca miêu tả cảnh Chúa Phục Sinh đã xẩy ra tại Jerusalem hay đâu đó quanh Jerusalem. Ông kể câu chuyện Tin Mừng về thời Chúa Giêsu sát với câu chuyện Chúa Lên Trời (Lc 24:50-53). Tin Mừng kết thúc cũng như bắt đầu (1:9) trong đền thờ Jerusalem (c.53). Luca cũng bắt đầu câu chuyện thời đại của Giáo Hội bằng việc kể lại cảnh Chúa về Trời (Cv 1:6-11). Ở chương nói về Chúa Phục Sinh (24), Luca đã kể lại việc Chúa Lên Trời vào đêm Chúa Nhật Phục Sinh, do đó cũng có liên hệ với Chúa Sống lại.
Như trong những lần suy niệm trước về Lễ Phục Sinh, chương 24 Tin Mừng Luca có thể được chia làm 4 phần chính:
*- Câu chuyện các người phụ nữ nơi ngôi mộ trống kết thúc với việc Phêrô đến thăm mộ để kiểm soát lại (c 1-12).
*- Câu chuyện trên đường Emmaus đi tới việc biết được Chúa cũng đã hiện ra với Phêrô (c 13-35).
*- Chúa hiện ra với các môn đệ tại một bữa ăn dẫn tới việc Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ sứ vụ truyền giáo (c 36-49).
*- Chúa Giêsu thăng thiên (c.50-52)
Có lẽ nên hiểu đây là một biến cố (Phục Sinh, vinh quang, Lên trời, Chúa Thánh Thần hiện xuống – mầu nhiệm phục sinh) đã được Luca lịch sử hóa khi ông viết về việc Chúa Giêsu lên Trời rất rõ ràng sau 40 ngày sống lại và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đối với Luca, Chúa lên trời kết thúc sự xuất hiện của Chúa Giêsu, trừ trường hợp đặc biệt hiện ra với Phaolô. Theo Luca thì lễ Thăng Thiên kết thúc thời đại Chúa Giêsu (Lc 24:50-53) trong lịch sử ơn cứu độ, đồng thời báo hiệu khởi đầu thời đại Giáo Hội.
PHÙ HỢP VỚI KINH THÁNH DO THÁI
Cuối cùng Tin Mừng Luca nhấn mạnh những điều đã được ghi trong Kinh Thánh Do Thái phải được thi hành, bởi lẽ kế hoạch của Thiên Chúa không thể không được hoàn thành. Đời sống, sự Chết và Sống lại của Chúa Giêsu Kitô thì hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh. Vấn đề này có căn bản dựa trên chính lời Chúa Kitô phục sinh nói với các môn đệ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Xác quyết này nói lên việc ứng nghiệm lời Kinh Thánh về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh là có căn bản, được xác quyết tại nhiều đoạn trong Tin Mừng như: “Con Người phải chịu đau khổ vô cùng…. và sau khi chết 3 ngày Người sẽ sống lại” (Lc 9:22); “Nhưng như thế thì Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm ra sao? Vì theo đó mọi sự phải xẩy ra đúng như vậy” (Mt 26:54).“Lời Kinh Thánh này phải được hoàn thành nơi Thầy” (Lc 22:37).
THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN Ở TẤT CẢ MỌI NƠI
Việc Chúa lên trời, người ta cho rằng Chúa tự tách ra khỏi mình dưới một hình thức mới cách biệt với Thiên Chúa. Không phải vậy. Là Thiên Chúa, khi nói Chúa Giêsu “ở đây” nghĩa là dưới dạng khác và rất đặc biệt. Chỉ có tách biệt thân xác mình khỏi khung cảnh lịch sử thì mới có thể nối kết với toàn thể thế giới một cách trọn vẹn.
Khi “Thăng Thiên”, Chúa đã cam kết với thế gian là người vẫn luôn luôn hiện diện. Vết chân người không phải như vết chân khắc vào đá để cho người ta coi, nhưng nó hiện diện trong tâm khảm những ai bước theo Chúa. Vì Chúa từ bỏ khả năng hiện diện tại một nơi nên người có khả năng hiện diện tại muôn nơi. Khi Chúa tan biến thì Chúa hòa nhập tràn đầy trái đất bằng sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa có mặt ở đây nhưng Người cũng có khả năng hiện diện trước chúng ta khi chúng ta hoàn thành ước mơ cuối cùng. Chúng ta về Thiên Đàng là để gấn Chúa Giêsu. Chắc chắn Người không ngừng hiện diện với chúng ta qua mọi không gian và thời gian. Qua chúng ta, Chúa muốn hiện diện với nhiều người, ở nhiều nơi hơn nữa, nhất là với Giáo Hội của Người.
BÀI HỌC CẦN PHẢI BIẾT
Chúa Lên Trời dạy cho chúng ta một bài học rất quan trọng về quyền sở hữu. Qua cung cách Chúa Về Trời, nếu chúng ta cứ bám víu vào Người và lịch sử thì chặng có ích lợi gì. Người cũng không bám vào những người ở chung quanh Người vì sẽ làm cho họ mất tự do không tiếp tục được sứ mệnh Tin Mừng của họ. Trái lại, toàn thể cuộc sống của Chúa, cho đến cái chết và phục sinh của Người, đã dạy cho chúng ta biết chấp nhận mọi người và mọi sự như là quà tặng mà chúng ta đã vay mượn.
Chẳng tốt gì nếu cứ bám vào bạn bè và ôm chặt lấy kho tàng trần thế. Hãy học cách tôn trọng tất cả những gì chúng ta có với lòng biêt ơn sâu xa, giữ mọi sự trong bàn tay rộng mở với mọi người. Trong khi cầu nguyện, hãy mở rộng tay và trao tất cả mọi kho tàng quí báu, những liên hệ bạn bè trong cuộc sống của chúng ta cho Thiên Chúa. Hãy ý thức và nghĩ về tha nhân và những cái mà chúng ta đang có. Hãy dùng thì giờ để tạ ơn Thiên Chúa vì những điều chúng ta có. Điều quan trọng nhất là kiếm những phương cách cụ thể để nói lên sự yêu thương và long tri ân đối với những người mà chúng ta chịu ơn, gồm cả Chúa Giêsu. Giống như Chúa sống lại đã trao mình cho những kẻ đáng thương hại và hư hỏng thì Người cũng làm như vậy cho chúng ta. Chúa về trời nhắc nhở chúng ta là Chúa chấp nhận những thiếu sót của chúng ta. Người hiểu bản tính con người là bất toàn, giả dối, phản bội, tham lam và thích uy quyền. Tuy nhiên Người vẫn kêu gọi chúng ta, cho chúng ta đời đời làm con dân của Người, sai chúng ta đi phục vụ Người, yêu mến Người bất kể những thiếu sót của chúng ta.
Việc Chúa lên trời, người ta cho rằng Chúa tự tách ra khỏi mình dưới một hình thức khác. Không đúng mà là ngược lại như vậy. Về Thiên Chúa, khi nói Chúa “ở đây” tức là Chúa hiện diện ở một dạng thức khác và đặc biệt. Chỉ có tách biệt thân xác mình khỏi khung cảnh lịch sử mới có thể nối kết với toàn thế giới một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu rời thế gian về trời để có thể sẵn sàng cho mọi người ở mọi nơi và mọi lúc.
Nói như Thánh John Chrysostom: “Người mà bạn yêu mến không còn ở đây như trước kia nữa. Bây giờ người ở bất cứ nơi nào bạn hiện diện.”
Chúa về trời là để sửa soạn cho chúng ta một tương lai huy hoàng và vĩnh cửu, tức thiên đàng. Với Chúa Giêsu, chúng ta đã có tương lai.
Như đối với mọi trình thuật Khổ nạn và Phục sinh, chúng ta nên suy niệm các trình thuật Thăng Thiên LênTrời ABC-472
Như đối với mọi trình thuật Khổ nạn và Phục sinh, chúng ta nên suy niệm các trình thuật Thăng Thiên khác nhau đã được để lại, trong tính độc đáo của chúng, chứ chẳng nên coi cái nào cũng giống cái nào. Năm nay, chúng ta thậm chí có cơ hội nghe được hai trình thuật về cùng một biến cố do cùng một tác giả là thánh sử Lu-ca kể lại. Sở dĩ ngài đã chẳng tìm cách hòa hợp hoàn toàn hai bài mô tả của mình, hiển nhiên là vì chính các khác biệt có một ý nghĩa đối với ngài, một ý nghĩa vượt lên trên các chi tiết lịch sử.
Trong Tin Mừng, Lu-ca trình bày cuộc Thăng Thiên vào chính chiều ngày Phục sinh hay thậm chí trong đêm tiếp theo ngày đầu tuần ấy (x. Lc 24,1.13.36.50), nếu ta nhớ lại rằng “đã xế chiều” (Lc 24,29) khi hai môn đệ Em-mau ngồi vào bàn ăn, rằng họ phải cuốc bộ khoảng 12 km trong “hai giờ” (Lc 24,13) để trở về Giê-ru-sa-lem, rằng Đức Giê-su đã bỏ thời gian giải thích “Lề luật, Ngôn sứ và Thánh vịnh đã chép về Người” cho các môn đệ (Lc 24, 44) chính tối ngày Phục sinh ấy… trước khi dẫn họ đến Bê-ta-ni-a nơi Người được đưa lên trời (Lc 24,50). Trong Công vụ Tông đồ thì ngược lại, cũng chính Lu-ca đặt cuộc Thăng thiên vào cuối “bốn mươi ngày” (Cv 1,3).
Vượt lên trên mọi tưởng tượng ấu trĩ, chúng ta phải thấy rõ ràng là Đức Giê-su, giữa các lần “hiện ra” khác nhau, đã chẳng trốn trong một phường nào đó của Giê-ru-sa-lem, tại một nơi bí mật, chờ ngày “lên” với Cha trên trời! Trong thực tế, Phục sinh, Thăng thiên và Hiện xuống là ba mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất [*]: chính ngay khi phục sinh mà Đức Giê-su đã đi vào Vinh quang Chúa Cha, ngự “bên hữu Người” theo ngôn ngữ khải huyền mô tả, và ban Thánh Thần như hồn sống của Thân thể Mầu nhiệm vừa được khai sinh. Lu-ca đặc biệt nhấn mạnh sự kiện Đức Giê-su “rời khỏi” những ai Người hiện ra cho thấy… Người biến đi trước mắt họ (x. Lc 24,31.51).
Như thế, cuộc Thăng thiên chiều ngày Phục sinh đến đóng ấn lên cuộc sống nhân loài của Đức Giê-su, bằng việc tôn vinh Người làm Chúa… và đây là trang Tin Mừng cuối cùng! Trong khi cuộc Thăng thiên “ngày thứ bốn mươi” đến khai mở cuộc sống mới của Đức Giê-su qua không gian lẫn thời gian… và đó là trang đầu tiên của sách Công vụ! “Thời gian của Đức Giê-su Na-da-rét chấm dứt” là “thời gian của Giáo Hội bắt đầu”.
Ở đây chúng ta có thể thắc mắc: Đức Giê-su nán thêm “40 ngày” sau khi sống lại để làm gì? Trước hết để bổ túc những giáo huấn đã ban cho các Tông đồ, nhất là để dạy các ngài phải đọc toàn bộ Thánh Kinh và nhìn cuộc sống Người dưới ánh sáng biến cố Phục sinh (xem dưới). Thứ đến là để cho các ngài thấy Thầy của họ đã sống lại, không phải như một thiên thần thiêng liêng hay một con ma vô xương vô thịt (x. Lc 24,39), cũng không phải với hình hài cũ (như La-da-rô, như con bà góa…), nhưng là với một thể xác đã biến đổi, chẳng còn lệ thuộc không gian lẫn thời gian, hết chịu những định luật vật lý lẫn hóa học thông thường. Và như thế là mạc khải cho các Tông đồ và chúng ta biết là sự Phục sinh của Chúa đã khai mào một cách thức hiện hữu mới, với những đặc tính mới, của vật chất, của thể xác, mà con người dương gian đầu tiên được thụ hưởng chính là Đức Mẹ (tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời).
1. Nhận chỉ thị để đi làm chứng nhân
Để hiểu được trọn vẹn bài Tin Mừng hôm nay, thiết tưởng nên đọc nó bắt đầu từ câu 44: “Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh thánh”. Câu “Khi Thầy còn ở với anh em” là dấu cho thấy Đức Giê-su chẳng còn ở trên trần gian như trước. Cuộc Thăng Thiên lát nữa sẽ chỉ diễn lại cái đã xảy ra trong cuộc Phục sinh rồi: từ nay, sự hiện diện của Người trong tư thế phục sinh, dẫu rất thật, vẫn mang bản chất khác hẳn… Người đã đi vào trong thế giới Thiên Chúa. Và đức tin là phương tiện duy nhất giúp đi vào “thế giới” nầy, nơi Đức Giê-su đang ở sau khi đã giã từ cách hiện diện cũ với chúng ta. Ngay trên đường Em-mau, Người đã quở trách hai lữ khách là những kẻ “chậm tin và ngu độn” (Lc 24,25). Ngu độn và chậm tin “những gì đã chép về Người trong Lề luật, Ngôn sứ và Thánh vịnh” cũng phải. Vì chỉ sau khi Đức Giê-su “chết và sống lại” đã, người ta mới có thể thấy những gì đã được loan báo lúc đọc lại Thánh Kinh.
Thật vậy, Lu-ca nêu bật sự kiện chỉ vào lúc Phục sinh, các môn đệ rốt cục mới hiểu “điều đã được viết”. Vâng, các biến cố trong cuộc đời Đức Giê-su đều gây ngỡ ngàng, khó hiểu trước ngày đó! “Đau khổ” của Người trên thập giá đã xuất hiện như một rủi ro, một tai nạn, một thất bại. Nhưng này nó cho thấy đó là sự “hoàn thành” một ý định nhiệm mầu của Chúa Cha: “Phải hoàn tất những gì đã được loan báo…”. Đây không phải là một định mệnh bi đát, một số phận khắt khe… nhưng là một dự định “cứu rỗi”, mang lại ơn “tha thứ cho mọi người”! Một dự phóng tình yêu! Nhưng cho tới ngày đó thì các môn đồ không thấy được. Giờ họ sắp trở thành những “người chứng”. Họ phải ra đi, nhân danh Thầy mà rao giảng, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha tội.
Hôm nay, phải chăng chúng ta luôn làm chứng nhân cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa? Chứng nhân cho Đức Giê-su là Đấng, trước nỗi công phẫn của hạng “thanh sạch”, đã đứng về phía những tay lạc giáo, những kẻ trệch đường, những cô gái bán thân… những người dốt nát bị hạng thông thái khinh bỉ… những kẻ thỏa hiệp với lũ ngoại bang, những tay thu thuế cộng tác với quân xâm lược… những kẻ nghèo hèn, yếu đuối, bệnh tật, phong cùi bị xã hội loại bỏ? Thay vì hình phạt của Thiên Chúa như được Lề luật loan báo, Đức Giê-su đã công bố “ơn tha tội” vô giới hạn, chẳng loại trừ ai khỏi cứu rỗi phổ quát tặng ban cho mọi người. Vâng, Thiên Chúa là Cha các tội nhân. Tất cả đều được Người tha thứ. Và ai nấy phải bắt chước Người mà tha thứ cho tất cả, ngay cả kẻ thù mình! Chính vì rao giảng hết thảy những điều ấy mà Đức Giê-su đã bị lên án đóng đinh như một “tên phạm thượng”. Nhưng chính cuộc phục sinh đến xác nhận rằng Người có lý. Các đại diện Lề luật đều lầm lạc. Kẻ bị đóng đinh vẫn sống! Tất cả những gì Đức Giê-su đã nói và làm… sắp được tiếp tục, với sự xác nhận của chính Thiên Chúa. Và “anh em là chứng nhân về những điều này!”
Nhưng để được thế, “Thầy sẽ gởi cho anh em điều Chúa Cha đã hứa. Vậy anh em hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời ban”. Họ rất cần điều nầy! Ta cũng cần “sức mạnh” này, vốn không bởi ta nhưng từ trên cao mà đến! Vì các môn đệ sắp phải sống và nói trong một thế giới chẳng có chi thay đổi xét theo bên ngoài: sự dữ, bạo lực, hận thù, cái chết, các lạc giáo, các sai lệch, các áp bức đủ loại… sẽ còn tiếp tục. Đấng sắp ban sức mạnh đó không được nêu danh ở đây, vì như Chúa Cha, “Đấng đã chẳng ai thấy bao giờ”, và khác với Đức Giê-su, “Hình ảnh cụ thể của Thiên Chúa”, Thánh Thần không có khuôn mặt, vì Người là “Thiên-Chúa-ở-trong-chúng-ta”. Khi cây nến lớn phục sinh tắt vào ngày Thăng thiên, thì này thắp lên những ngọn lửa xuyên thâu mỗi môn đệ ngày Ngũ tuần.
2. Lãnh phúc lành để lên đường phụng sự
“Sau đó, Người dẫn các ông mãi tới gần Bê-ta-ni-a, rồi Người giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời”. Đây là sự “từ biệt” (như kiểu dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn: “thì Người đã từ biệt họ”)! Và Lu-ca là kẻ duy nhất sử dụng tiếng ý nghĩa nầy. So với cùng trình thuật trong sách Công vụ Tông đồ, ta nhận thấy bản văn Tin Mừng rất giản dị. Ở đây không có yếu tố mô tả nào, chẳng “mây” lẫn những người “đàn ông mặc áo trắng”. Không phải Lu-ca bất biết ngôn ngữ khải huyền. Ông sẽ sử dụng nó trong trình thuật kia. Nhưng trong đoạn văn này, ông muốn đơn giản hóa nó.
Tất cả đều rất kín đáo: “Người dẫn môn đệ…”, “giơ tay chúc lành…”, “rời khỏi các ông và được đem lên trời…”. “Chúc lành” cho các Tông đồ, việc này Đức Giê-su chưa bao giờ làm cả. Nhưng đây là cảnh giã biệt. Và Lu-ca tiếp nối một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các đại nhân vật của Thánh Kinh đều kết thúc cuộc sống bằng việc chúc lành cho những ai kế tục sự nghiệp: Gia-cóp (x. St 49), Mô-sê (x. Đnl 33), Đa-vít (x. 1 Sb 28-29). Nhưng riêng Lu-ca, thì mở đầu sách Tin Mừng, ông đã cho thấy tư tế Da-ca-ri-a bị câm vì thiếu lòng tin, và do đó không thể chúc lành cho dân: phụng tự thời Cựu Ước bị gián đoạn, bất lực trong việc thánh hóa dân Ít-ra-en, và sẽ bị phế bỏ. Kết thúc sách Tin Mừng, Đức Giê-su chúc lành cho môn đệ tượng trưng cho Ít-ra-en mới và được đem lên trời (cùng một động từ Hy-lạp dùng để nói làn khói hương bay tỏa lên trời và được Thiên Chúa chấp nhận). Phụng tự thời Cựu Ước đã nhường chỗ cho phụng tự của Giao Ước mới! Việc “chúc lành” của Đức Giê-su là cử chỉ sau hết của Người. Một cử chỉ Người sẽ không ngừng làm khi mỗi linh mục, đại diện của Người, “giơ tay” chúc lành cho ta nhân danh Ba Ngôi lúc giã biệt trong Thánh Lễ.
“Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Một nghịch lý. Đức Giê-su đã “rời khỏi” môn đệ, thế mà họ chẳng buồn, trái lại càng vui tươi. Cộng đoàn môn đệ Người đã trở nên nhóm “bái lạy” Người và cùng nhau hát ca “chúc tụng Thiên Chúa”. Tôn sư “lên Thiên quốc trên trời”. Môn đệ “trú Đền thờ dưới thế”. Cả một sự đối xứng đầy tính biểu tượng… Một phụng tự mới bắt đầu. Và cũng bắt đầu một công cuộc phụng sự mới. Trang chủ Suy niệm - Chia sẻ Lời Chúa SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN_2022 27-05-2022 95 lượt xem [Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23; Lc 24, 46-53]
Mục Lục
HƯỚNG VỀ TRỜI - + ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên
“HÃY LẮNG NGHE BẰNG CON TIM” - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI - Phêrô Phạm Văn Trung
VỀ TRỜI ĐỂ CÙNG HIỆN DIỆN - Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT
VỀ QUÊ ĐÍCH THỰC - Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
LỄ CHÚA LÊN TRỜI, LỄ CỦA NIỀM HY VỌNG - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA GIÊSU LÀ TƯƠNG LAI CHÚNG TA - Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, MD
NGÀY TỪ BIỆT - Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
RAO GIẢNG và LÀM CHỨNG - Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
“HÃY NHÂN DANH NGƯỜI MÀ RAO GIẢNG” - Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Thi ca: ƯỚC VỌNG CAO - Trầm Thiên Thu
Thi ca: PHÚC VỀ TRỜI - (Thế Kiên Dominic)
HƯỚNG VỀ TRỜI
Từ nhiều năm trở lại đây, để thuận lợi cho giáo dân tham dự lễ trọng, đa số các Giáo phận chuyển dịch ngày lễ Thăng Thiên vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh. Tại Tổng giáo phận Hà Nội vẫn cử hành long trọng lễ Thăng Thiên vào thứ Năm sau Chúa nhật VI Phục sinh, vì theo truyền thống của Giáo Tỉnh miền Bắc, lễ này thuộc “Tứ Quý”: lễ Giáng Sinh, lễ Chúa Thăng Thiên, lễ Đức Mẹ Lên Trời và lễ các Thánh Nam Nữ. Trong bốn ngày lễ này, người tín hữu phải kiêng việc xác và tham dự thánh lễ.
Dù mừng lễ Thăng Thiên vào ngày nào, thì Phụng vụ vẫn nhắc người tín hữu hướng về Quê Trời, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận dưới đất. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Người về trời sau khi đã hoàn tất chương trình cứu độ. Người về với Chúa Cha, vì Người đã từ Chúa Cha mà đến. Dưới ánh sáng phục sinh, một nhãn quan mới về nhân sinh Kitô giáo đã mở ra: con người không đơn giản chỉ là “đầu đội trời, chân đạp đất”, mà họ đã thuộc về trời ngay khi họ đang sống nơi trần gian. Nói cách khác, Kitô hữu luôn hướng về trời, và đối với những người đạo đức thánh thiện, họ được nếm trước vinh quang Nước Trời ngay ở đời này. Khi suy niệm Kinh Mân côi, ở mầu nhiệm thứ hai Mùa Mừng, chúng ta xin cho được yêu mến (ái mộ) những sự trên trời, để dầu còn sống trên trần gian, một cách nào đó, chúng ta đã hưởng hạnh phúc như các thánh trên trời.
Hướng về trời không phải là một ảo tưởng hão huyền hay là một thứ “thuốc phiện mê dân”, nhưng là niềm hy vọng và niềm xác tín của Kitô hữu. Chúng ta dựa vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong Tin Mừng Thánh Gioan chương 17. Qua lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu vừa thân thưa với Chúa Cha, vừa thể hiện tâm tình thương mến đặc biệt đối với các môn đệ. Người xin Chúa Cha cho các môn đệ được ở với Người, vì các môn đệ – và những người kế tiếp các ngài là chính chúng ta hôm nay – là những quà tặng mà Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu. Như thế, những ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ở với Người và cùng Người chiêm ngưỡng vinh quang vĩnh cửu. Vinh quang này đến từ nơi Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu cũng được đón nhận vinh quang ấy, rồi Người lại chia sẻ cho chúng ta.
Hướng về trời mở ra cho người tín hữu một chân trời hy vọng. Hy vọng là chờ đợi những điều tốt đẹp ở phía trước. Người tin Chúa biết rõ tương lai hậu vận đời mình, đó là được sống với Chúa, được chia sẻ vinh quang hạnh phúc với Ngài. Nhờ có niềm hy vọng, chúng ta vững tin ngay cả khi gặp những gian nan thử thách, với xác tín rằng, người yêu mến Chúa sẽ vượt thắng tất cả. Trong lời cầu nguyện vừa nêu ở trên, Chúa Giêsu khẳng định những ai tin vào Người sẽ được Chúa Cha yêu thương. Ở một nơi khác trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Con trong tâm hồn những ai yêu mến và thực thi giáo huấn của Chúa Con “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Đây là hạnh phúc kỳ diệu. Chúa Ba Ngôi sẽ ở trong tâm hồn người công chính.
Hướng về trời cũng giúp cho người tín hữu có được những nghị lực siêu nhiên. Thế gian là bãi chiến trường, là thung lũng nước mắt, là bể khổ. Đức tin khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa hiện diện giữa bãi chiến trường ấy, vì Ngài là Cha giàu lòng thương xót. Ngài luôn nâng đỡ trợ lực chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã kể lại chứng từ của thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Kitô giáo: trong lúc sắp tắt thở vì bị ném đá, ông đã nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa”. Đức tin vào đời sống vĩnh cửu đã ban cho vị tử đạo của chúng ta sức mạnh và niềm xác tín phi thường, với niềm xác tín: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
“Hỡi những người Galilêa, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Lời của hai sứ thần mặc áo trắng nói với các môn đệ năm xưa lúc thày trò chia tay, cũng là lời ngỏ với chúng ta hôm nay. Mừng Chúa lên trời hướng chúng ta về quê hương vĩnh cửu, đồng thời nhắc chúng ta về bổn phận đối với quê hương trần thế. Kitô hữu không phải là người bị “bứng” khỏi cuộc sống đời này, nhưng là những người dấn thân trong mọi môi trường cuộc sống, để làm chứng cho niềm vui của Đức tin, nhất là làm chứng cho Chúa Giêsu trong khi mong đợi Người lại đến.
“Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến! Đời sống Kitô hữu là sự chờ đợi liên lỉ, với tâm tình cầu nguyện và phó thác cậy trông. Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Người sẽ đến trong vinh quang vào ngày tận thế. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy. mục lục
+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên
“HÃY LẮNG NGHE BẰNG CON TIM”
Lễ Chúa Giêsu lên trời, Giáo Hội chọn làm ngày Quốc tế Truyền thông. Ngày nay, các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội phát triển rất nhanh. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Chủ đề của Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 56 năm nay là “Hãy lắng nghe bằng con tim”.
Lễ Thăng Thiên kính nhớ việc Chúa Giêsu “lên trời”, được cử hành vào ngày thứ 40 sau Lễ Phục Sinh (x. Mc 16, 19-20; Cv 1,1-11).
Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu việc Người trở về “nơi” mà Người đã hiện hữu trước khi nhập thể (x. Ga 3,13). Lễ này nói lên việc nhân tính của Người tiến vào trong vinh quang của Thiên Chúa một cách vĩnh viễn (x. Ga 16,28; 17,5). Nó đánh dấu sự kết thúc sứ mệnh hữu hình của Chúa Giêsu ở trần gian và khởi đầu sứ mệnh của Giáo Hội. Vào chính ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã được tôn vinh, được siêu thăng và “ngự bên hữu Chúa Cha” trong thân xác vinh quang của Người rồi. Tuy nhiên, theo trình thuật của Thánh Luca, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu còn hiện ra nhiều lần với các môn đệ trong khoảng thời gian 40 ngày. Đây là thời gian Chúa Giêsu dùng để khẳng định sự Phục Sinh của Người, củng cố niềm tin của các môn đệ, hoàn tất việc giảng dạy và sai các ông đi rao giảng Phúc Âm.Với biến cố thăng thiên, Chúa Giêsu không còn hiện diện trong thân xác hữu hình như trước kia, nhưng Người vẫn hiện diện với Giáo Hội cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20) theo phương cách mới - theo quyền năng của Chúa Thánh Thần, với tư cách là Chúa của vũ trụ (x. Pl 2,10-11). (x.Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN).
Chúa lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Theo Thánh Kinh, ngự bên hữu nghĩa là đồng hàng trong danh dự, phẩm vị và quyền năng. Chúa Giêsu lên trời sau khi hoàn tất công cuộc cứu độ. Người lấy lại vinh quang, uy quyền và danh dự của một Thiên Chúa đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người lấy lại những sự ấy là vì đã tự nguyện trút bỏ nó khi vào trần gian để thực thi chương trình cứu độ. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Chúa lên trời vì Người đã từ trời xuống: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Mầu nhiệm Chúa lên trời minh chứng cho nguồn gốc thần linh của Đức Kitô. Người không phải là phàm nhân được tôn lên hàng thần thánh. Người chính là Thiên Chúa có từ đời đời và mọi sự, mọi loài nhờ Người mà được hiện hữu. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa...Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Chúa lên trời với cung cách hiện diện mới, trao sứ vụ cho các Tông đồ và Giáo hội tiếp nối con đường hiệp hành “con đường Giêsu” để thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng yêu thương.
1. Hiện diện mới
Chúa Giêsu đã tiên báo với các môn đệ: “Thầy đến cùng Chúa Cha”. Lời này được lập lại 7 lần trong khung cảnh tiệc ly (x.Ga 14, 12.28; 16, 5.10.28; 17,11.13), đến nỗi trong số các môn đệ tự hỏi lời nói đó có ý nghĩa gì (Ga 16,17). Đối với Chúa Giêsu, Người không đi đến một nơi nào khác, nhưng Người đến với một người, đó chính là Chúa Cha. Chúa Giêsu coi cuộc sống ở trần gian và những hoạt động của mình như một hành trình đi đến với Chúa Cha, như một cuộc về trời với Chúa Cha. Khi hiện ra với Maria Madalena, Chúa Phục Sinh nói: “Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em (Ga 20,17). Như thế, Gioan không kể về việc “lên cùng Chúa Cha” như một “nơi chốn”, Người không đến một nơi chốn (trời), nhưng đến với một người, đó chính là “Cha của Người và cũng là Chúa của anh em”.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt.Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới. Các lời nguyện và Kinh Tiền Tụng của lễ Thăng Thiên cũng chứa đựng ý nghĩa này: “Người lên trời không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là đầu và là Thủ Lãnh, nên Người đã đi trước, để chúng con là những chi thể của Người vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.
Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này, Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).
2. Trao Sứ Vụ
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Truyền thông và hiệp hành
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông.Toàn thể Dân Chúa khắp nơi đang tích cực thực hiện tiến trình của Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới lần thứ 16 vào năm 2023, bắt đầu từ cấp giáo phận, với chủ đề : “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành : hiệp thông – tham gia – sứ vụ”. Để có được lối sống hiệp hành như thế, cần làm ba việc như Đức Kitô phục sinh đã làm đối với hai môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24, 13-35). Trong bài giảng khai mạc Thượng Hội Đồng (10/10/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ rõ có 3 việc cần làm là: Gặp gỡ trực tiếp; Lắng nghe và Phân định. Chúa Giêsu đã lắng nghe bằng con tim, với thái độ bình tĩnh và kiên nhẫn. Chúng ta cần lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau.
Trong sứ điệp Truyền thông năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh những điểm quan trọng: lắng nghe bằng con tim, lắng nghe là điều kiện giao tiếp tốt, và lắng nghe trong Giáo hội.
a. Lắng nghe là điều kiện giao tiếp tốt
Lắng nghe là bước đầu tiên không thể thiếu của đối thoại và giao tiếp tốt. Người ta không thể làm truyền thông nếu không lắng nghe trước và không thể trở thành một nhà báo tốt nếu không có khả năng lắng nghe. Hơn thế nữa, cần phải lắng nghe nhiều nguồn để có độ chính xác của thông tin muốn truyền tải. Và điều đặc biệt là phải lắng nghe kiên nhẫn, điều này không dễ, như Đức Hồng y Agostino Casarli, một nhà ngoại giao lớn của Toà Thánh đã nói về “tử đạo của kiên nhẫn”. Đối với Đức Hồng y, trong các cuộc đàm phán cần lắng nghe và được lắng nghe kiên nhẫn để đem lại lợi ích tốt nhất có thể trong điều kiện tự do bị giới hạn.
b. Lắng nghe trong Giáo hội
Đức Thánh Cha mời gọi trong Giáo hội, mọi người cần phải lắng nghe người khác và lắng nghe nhau, vì đây là món quà quý giá nhất mà các tín hữu có thể dành cho nhau. Và điều này phải được thể hiện cụ thể trong hoạt động mục vụ, như Thánh Tông đồ Giacôbê khuyên: “Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói” (Gc 1,19). Dành thời gian để lắng nghe người khác là cử chỉ đầu tiên của bác ái.
Hướng đến tiến trình hiệp hành của toàn thể Giáo hội đang thực hiện, Đức Thánh Cha mời gọi: “Chúng ta hãy cầu nguyện để đây là một cơ hội tuyệt vời cho mọi người lắng nghe nhau. Thực tế, hiệp thông không phải là kết quả của các chiến lược và chương trình, nhưng được xây dựng trong sự lắng nghe nhau. Như trong một dàn hợp xướng, sự hiệp nhất không đòi hỏi phải giống nhau, đơn điệu nhưng là sự đa dạng của các giọng khác nhau. Mỗi người khi hát cần lắng nghe người khác để tạo nên sự hoà hợp tổng thể. Sự hoà hợp các giọng ca là ý tưởng của nhà soạn nhạc, nhưng hiện thực nó thì phụ thuộc vào mỗi giọng ca. Trong Giáo hội, Thánh Thần là nhà soạn nhạc.
Truyền giáo là truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1Ga1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo.Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.
Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích tín hữu vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Ngay từ khi internet lần đầu tiên xuất hiện, Giáo hội luôn tìm cách thúc đẩy việc sử dụng nó để phục vụ cho sự gặp gỡ giữa mọi người và cho sự đoàn kết giữa tất cả mọi người” (Sứ điệp Truyền thông 2019).
Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông 53, Đức Thánh Cha Phanxicô ghi nhận tầm quan trọng và sự lan rộng của internet và các mạng xã hội trong đời sống con người ngày nay. Đó là nguồn kiến thức và những tương quan giữa con người với nhau. Tuy nhiên, cũng không thiếu những khía cạnh tiêu cực do các mạng xã hội. Đó là nơi dễ bị những tin tức giả mạo và xuyên tạc xâm nhập và lan tràn; các dữ kiện cá nhân nhiều khi bị lèo lái để mưu những lợi lộc về chính trị hoặc kinh tế, không tôn trọng nhân vị và các quyền của họ. Sứ điệp cũng cảnh giác chống lại sự tự cô lập qua các mạng xã hội, có hiện tượng những người trẻ trở thành “những ẩn sĩ xã hội”, trở nên hoàn toàn xa lạ với xã hội chung quanh (x. vaticannews.va/vi).
Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ lắng nghe nhau trong xây dựng yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. “Truyền thông, dù ở đâu và bằng cách nào, cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đây là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao”; “Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia” (Sứ điệp Truyền thông 50).
Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự lắng nghe bằng con tim và tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để góp phần cổ võ nền văn hóa gặp gỡ và tích cực loan báo tin vui bình an yêu thương. mục lục
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI
Khi đọc câu chuyện Chúa Giêsu lên trời chắc chắn tâm trí chúng ta sẽ thấy có những hình ảnh lướt qua mà có lẽ chúng ta đã từng thấy nơi những bức tranh của một họa sĩ bậc thầy vĩ đại thời Phục hưng hoặc đơn giản là những bức tranh được sinh ra từ trí tưởng tượng của chúng ta. Quả thực, nếu tiếp nhận câu chuyện này bằng những từ ngữ đơn giản thì lý trí của chúng ta khó có thể diễn tả hết được.
Sách Công Vụ Tông Đồ cũng như Tin Mừng Luca kể câu chuyện về sự kiện này và chúng ta có thể tiếp nhận với đức tin, hoặc với nụ cười trên môi. Nhưng trên thực tế, cơ sở rõ ràng để hiểu biến cố Chúa Giêsu Thăng Thiên này phải đối mặt với một mầu nhiệm vĩ đại và kỳ diệu. Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chỉ lên trời để nghỉ hưu ở đó; Như tác giả Thư Hípri chỉ rõ Chúa Giêsu được “đưa lên trời” để “vào trong đó”, “Quả thế, Chúa Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Hípri 9:24). Và bây giờ những gì chúng ta phải giữ lại từ câu cơ bản này, vốn dĩ nói lên trung tâm của mầu nhiệm, đó là cụm từ “cho chúng ta” - Chúa Giêsu đại diện cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa… cho chúng ta, một lần nữa.
Chúa Giêsu được sinh ra cho chúng ta, để bày tỏ cho chúng ta Lời của Thiên Chúa, Cha của Ngài; Chúa Giêsu đã chết thay cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi của chúng ta; Chúa Giêsu đã sống lại để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta, và cuối cùng Chúa Giêsu đã vào thiên đàng để báo trước cho chúng ta sự cứu rỗi của chúng ta.
Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Thăng Thiên này và lắng nghe các bản văn thánh trong bầu khí Phục sinh trọn vẹn. Việc Chúa Giêsu lên trời được trình bày cho chúng ta, cùng với sự Phục sinh, như những chuyển động độc đáo; trong khi sự Phục sinh của Chúa Giêsu là một chuyển động từ trong kẻ chết, Ngài đã phục sinh: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Luca 24: 46), thì việc Chúa Giêsu lên trời một chuyển động đưa Chúa vào vinh quang: “rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Luca 24: 51). Và đây chính là nơi đặt ra mầu nhiệm mà chúng ta đang chiêm ngắm. Do đó, lễ Thăng Thiên cử hành long trọng mầu nhiệm hoàn tất sự Vượt Qua trong toàn thể thân mình Chúa Kitô; Thân mình này vốn xưa nay là một sự trọn vẹn bởi vì nó được cấu thành bởi Chúa Kitô, là thủ lãnh và là đầu, và các chi thể là chúng ta, là dân Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta không thể tách rời khỏi mầu nhiệm Vượt qua, vì tất cả những gì Chúa Cha đã làm là vì chúng ta!
Từ đó chúng ta có thể hiểu rằng lý do cuối cùng của việc Chúa Giêsu lên trời chính là để dẫn đến mục đích này: làm cho con người được nên thần thánh giống Thiên Chúa; khi Chúa Giêsu đến thế gian, Thiên Chúa trở thành con người để con người được nên thần thánh, như thánh Clêmentê Alexandria và Grêgôriô Nazianxê đã nói: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner, trong bộ sách thần học “Mysterium Salutis” của mình cũng đã viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, dựa vào lời thánh Phêrô: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Ngài đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” (2 Phêrô 1: 4). Hôm nay, Chúa Giêsu đến ngự bên hữu Thiên Chúa, là Cha ngài, và đây là cách thế bản tính con người của chúng ta được nâng lên trên các tầng trời; vì một người trong chúng ta đã vào trong vinh quang của Thiên Chúa. Kinh Tiền Tụng lễ Thăng Thiên còn nói thêm rằng: hôm nay, Đức Kitô đã “lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Ngài, tin tưởng được theo Ngài đến nơi mà chính Ngài là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước.”
Chính mầu nhiệm chưa từng được biết đến này đã làm cho lễ Chúa Thăng Thiên trở thành lễ của chúng ta; Ludolph the Carthusian vào thế kỷ XIV nhận xét rằng “Sự thăng thiên của Đấng Cứu Độ là nguyên lý cho sự thăng thiên của chính chúng ta”, Vì thế, ngày lễ này đối với chúng ta là một nguồn vui lớn trong hy vọng của chúng ta.
Tóm lại, chúng ta có thể nói: chắc chắn, Chúa Giêsu ra đi, nhưng chúng ta vẫn hợp nhất với Ngài! Và do đó hơn bao giờ hết, mầu nhiệm này trở thành mầu nhiệm của sự hiện diện khuất mặt. Và các tông đồ hiểu rõ điều này, như Thánh Luca nói với chúng ta, “trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Luca 24: 53-53). Từ đó chúng ta thấy có một sự song hành với sự kiện Emmau. Niềm vui của hai môn đồ khi trở về từ Emmau là kinh nghiệm về sự phục sinh, niềm vui của các môn đồ khi chứng kiến sự thăng thiên là kinh nghiệm về sự sống vĩnh cửu, về sự cứu rỗi. Không khác gì hai môn đồ ở Emmau, các môn đồ ở Bêtania vui mừng khi chiêm ngưỡng, không phải là chiếc bánh được bẻ ra nữa, mà là đám mây trên trời.
Thật vậy, nếu chúng ta hình dung ra rằng một người rời bỏ chúng ta bằng cách bay lên trên mây, chúng ta sẽ không coi đó là mầu nhiệm thăng thiên: chúng ta coi đó chỉ là một sự khuất mặt, trong khi việc Chúa Giêsu lên trời là một mầu nhiệm của sự hiện diện được nhân lên của Ngài, sự hiện diện khuất mặt. Do đó, như Bí tích Thánh Thể đem sự hiện diện của Chúa Kitô vào trong tâm hồn của muôn ngưởi, cũng vậy việc chiêm ngắm thiên đàng không phải là sự bỏ trốn đối với các Kitô hữu. Do đó, nếu các thiên thần nói với các Tông đồ rằng Chúa sẽ trở lại, thì đó là sai họ quay trở lại với nhiệm vụ trở nên sự hiện diện của Chúa Kitô, là Đấng đã trở nên vắng mặt trong thân xác, nhắc nhở họ về sứ mệnh làm chứng cho tất cả những gì họ đã thấy: Chúa Giêsu đã nói với họ “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Luca 24: 48) và “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Công vụ 1:8). Do đó, đây là kết quả từ mầu nhiệm của sự hiện diện được nhân lên của Chúa Giêsu.
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm này, chúng ta đi từ thị kiến thực tế của các tông đồ sang cái nhìn đức tin của chúng ta. Đó là tìm kiếm Chúa Giêsu trên trời và làm việc với Ngài dưới đất. Nỗ lực của đức tin đòi hỏi chúng ta là hợp nhất hai mối tương quan này với Chúa Giêsu; chắc chắn chúng có thể biểu lộ rất khác nhau, nhưng chúng ta hãy yên tâm rằng cuộc sống của chúng ta đã được sự sống của Chúa Giêsu trên trời thu hút, là Đấng thu hút chúng ta ngày này qua ngày khác khi chúng ta “gắn chặt khát khao của mình vào nơi mà ánh mắt không chạm tới được”, theo lời nói nổi tiếng của Thánh Lêô.
Chúng ta tin tưởng nơi Chúa Giêsu này, Đấng sẽ Hiện diện cho chúng ta, là những người mở rộng đời sống của mình cho Ngài. André Sève nói câu này như một lời nhắn nhủ: “Chưa bao giờ đức tin của chúng ta lại bị đòi hỏi nhiều như trong mầu nhiệm Thăng Thiên này, nơi mà đức tin phải học cách sống với Chúa Giêsu trên trời và dưới đất.” mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung Phỏng theo ĐGM. Jean Scarcella – Tu viện Thánh Maurice. VỀ TRỜI ĐỂ CÙNG HIỆN DIỆN
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc một và trình thuật Tin Mừng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay tuy có một chút khác biệt, nhưng nội dung chính yếu là nói về việc Đức Giê-su được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Như vậy câu hỏi đầu tiên chúng ta cần san sẻ cho nhau là trời ở đâu?
Chúng ta không biết nhiều về khoa học không gian, nhất là môn học về vũ trụ thì lại càng khó hiểu. Đó là việc của các nhà chuyên môn. Vào thời Đức Giê-su, và hầu hết những người dân thường ít hiểu biết như chúng ta vẫn còn cho rằng trời ở trên cao, đất là nơi chúng ta đang sống và được bao quanh bởi biển cả và đại dương, và dưới hay trong lòng quả đất này là hỏa ngục.
Từ khái niệm đơn sơ này chúng ta suy diễn về các mốc điểm trong hành trình của chúng ta. Các Thiên Thần và các Thánh thì ở trên trời. Quỉ dữ và những ai thuộc về nó thì bị giam cầm dưới Hỏa Ngục, trong lòng đất. Còn trái đất là nơi chúng ta đang sống và chiến đấu. Chính vì thế, đôi khi chúng ta cho rằng về trời hay lên thiên đàng là phần thưởng dành cho ai đã chiến đấu và chiến thắng quyền lực của sự ác chi phối và hoành hành trên cuộc sống của chúng ta. Vì thế quan niệm sống để thu tích các công việc đạo đức và đưa vào kho lẫm để chờ ngày lãnh nhận phần thưởng đời sau vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sống của tín hữu. Với lối suy luận như thế, chúng ta có thể sẽ quên đi trách vụ và bổn phận cần phải làm để biến đổi môi trường mà chúng ta đang sống trở thành trời mới đất mới.
Trời là nơi Chúa ngự. Ngự trị không nhắm đến nơi chốn cho bằng mô tả sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện này sẽ không còn tuỳ thuộc vào một khoảng không gian nào đó hay một mốc thời gian nào của lịch sử; nhưng là một sự hiện diện không bị giới hạn bởi không gian và không lệ thuộc vào thời gian. Thiên Chúa hiện diện từ trước và cho đến muôn đời, vô thủy vô chung. Như vậy ở đâu có Chúa là ở đó có trời. Và như lời Chúa đã phán thì ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Chúa thì Chúa hiện diện giữa họ. Ý nghĩa của câu này có thể giải thích là ở đâu có sự hiệp nhất, thông cảm, yêu thương thì có Chúa ở đó; nói khác đi tại nơi đâu mà con người cùng chia sẻ một đức tin, cùng san sẻ và trao ban một lòng mến thì tại nơi đó có sự hiện diện của Chúa. Như vậy, trời hay thiên đàng không ám chỉ đến địa danh hay nơi chốn nào đó cho bằng một cách mà con người dùng để diễn tả khi nói đến nơi ngự trị của Chúa. Nói khác đi, khi mô tả việc Chúa lên trời có nghĩa là chúng ta nói đến việc Chúa Giê-su ngự trị bên hữu Thiên Chúa.
Trên thực tế, làm sao chúng ta có thể giải thích về ý niệm về một vị Thiên Chúa vừa hiện diện lại vừa vắng mặt trong cuộc sống của chúng ta nói riêng và trong các sinh hoạt của thế giới này nói chung. Rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn sống với quan niệm về một vị Thiên Chúa ở trên trời, xa vắng với các sinh hoạt của con người. Với cái nhìn như thế, mỗi khi chúng ta gặp khó khăn là lúc chúng ta chạy đến cầu xin với Ngài đến can thiệp và giải quyết thay cho chúng ta.
Trái lại, với sự hiện diện mới, Chúa Giê-su không còn hiện diện bằng xuơng bằng thịt và cũng không còn bị giới hạn và ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa. Người sẽ hoạt động trong con người, nhất là nơi các kẻ tin. Vì thế việc trao ban uy quyền và sứ mạng cho họ cần được thực hiện truớc khi Người trở về với thân phận hằng có trong Thiên Chúa của Người.
Có phải cho đến hôm nay Chúa mới đuợc đưa lên trời hay không? Thật ra, Đức Giê-su đã về nhà Cha, tiếp nhận vinh quang như đã có từ Thiên Chúa ngay khi Người trút hơi thở và trao ban Thần Khí cho những ai đứng bên Thập Giá. Việc Chúa Giê-su được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà chúng ta và các môn đệ cần nhận ra bằng con mắt đức tin và thể hiện bằng việc làm để minh chứng điều mà chúng ta và các môn đệ đã tin.
Vì thế, không có chuyện vắng mặt. Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua; Người vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ; Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và với họ như những gì mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một hôm nay, đó là “sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa.” Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ, Người đã không thể ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay qua sự chết trong vâng phục mà Người đã được tôn vinh và hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người trong mọi cảnh huống của đời họ.
Chúng ta mừng sự thay đổi, hân hoan đón nhận cách thức hiện diện mới của Chúa. Tuy, chúng ta không còn đuợc tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta đuợc liên kết với Người như Lời Người đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ.”
Mặc dầu các dấu chỉ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa có thể thay đổi so với các việc làm của các tín hữu thuộc các công đoàn sơ khai; nhưng nguồn gốc và sức mạnh vẫn xuất phát từ Chúa. Người vẫn hoạt động thông qua những kẻ đi theo Người. Người về trời ngự bên hữu Thiên Chúa không phải để đuợc tôn vinh mà thôi, nhưng còn tiếp tục làm việc nơi các môn đệ qua quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, đó chính là sức mạnh của Thánh Linh như Chúa đã hứa “các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong tất cả xứ Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, và cho đến tận cùng trái đất”.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Linh, các Tông Đồ và nhóm môn đệ mọi thời đã hoàn tất sứ mạng của họ. Còn chúng ta hôm nay thì sao?
Sống trong một thế giới đầy tranh chấp và bạo lực, chúng ta đuợc mời gọi trở nên sứ giả của hoà bình.
Sống trong một tập thể mà người ta tìm cách loại bỏ nhau vì ghen ghét, đố kỵ và thù hằn thì chúng ta lại đuợc mời gọi sống yêu thương, tương tác và liên đới với nhau.
Đối diện với một cộng đoàn chỉ biết tham lam và tranh dành địa vị thì chúng ta lại được mời gọi sống bác ái và khiêm nhường trong việc phục vụ.
Tất cả đều là dấu chỉ nói lên lời mời gọi của Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn của các kẻ tin.
Vì thế, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện hôm nay là sống thế nào trong vai trò chứng nhân về sự hiện diện của Chúa? Đó cũng là thử thách mà Tin mừng đề ra cho các tín hữu tại Ga-li-lê-a khi xưa và cho chúng ta hôm nay “Hỡi những người Ga-li-lê-a, sao còn đứng đó nhìn trời.” Có nghĩa là tại sao chúng ta vẫn còn ngồi đó mà tiếc nuối quá khứ! Sao cứ khư khư ôm lấy vinh quang mà không dám trở về với cuộc sống hiện tại để chu toàn phận sự đã được trao phó?
Khi thi hành nhiệm vụ mà Chúa trao phó hôm nay, chúng ta ý thức rằng mình không tự làm; nhưng sứ mạng được trao ban từ Chúa; Người là vị cứu tinh nhân hậu, đang đồng hành trong mọi sự kiện của cuộc đời chúng ta.
Chúng ta vẫn nương tựa vào Chúa.
Chúng ta vẫn gắn bó và nối kết mật thiết với Người.
Tuy nhiên, chúng ta không ngồi đó chờ Người làm thay các việc mà chúng ta cần làm.
Chúng ta sẽ không yêu cầu Chúa đến để thay đổi những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta.
Thay vào đó, trong niềm tin, chúng ta biết chắc Người đang đồng hành với chúng ta, soi sáng và mở mắt để chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trong các sự kiện đang xảy ra. Thiên Chúa đã không rời bỏ chúng ta nhưng hiện diện trong những gì đang diễn ra trong cuộc sống của chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi.
Như vậy, Chúa lên trời để dọn chỗ cho chúng ta. Nhưng ngay bây giờ chúng ta cần thực hiện lịnh truyền mà Chúa phán trước khi được cất nhắc lên trời, đó là: “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”, và nhờ việc làm của anh em mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Người. Amen! mục lục
Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT
VỀ QUÊ ĐÍCH THỰC
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3)
Chúa Giêsu không chỉ động viên mà Ngài còn hứa. Chắc chắn không có lời hứa nào kỳ diệu như vậy: Ngài ở đâu thì những người tin nhận Ngài cũng ở đó. Mà Ngài ở đâu? Ngài ở trên trời – Thiên Quốc. Như vậy, tín nhân cũng được về trời và ở với Ngài. Thực sự quá đỗi kỳ diệu, bởi vì phàm nhân chỉ là bụi tro mà lại được ở chung với Ngài, nên giống Ngài. Thế thì loại bụi tro này rất quý giá, không như người ta tưởng.
Tất nhiên cái gì cũng có cái gia nhất định của nó. Muốn ăn thì lăn vào bếp, muốn sướng thì phải chịu cực, muốn xài tiền thì phải làm việc. Muốn về trời thì phải hy sinh nhiều thứ, cụ thể là vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Đó là cách định hướng cần thiết. Chúa Giêsu định hướng cho những ai muốn thuộc về Ngài: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6)
Chúa Giêsu đã định hướng cách sống để tín nhân cố gắng sống tốt, chờ Ngài trở lại đón về trời – quê hương đích thực. Ngài về trời trước, chúng ta còn ở lại. Đó là cuộc chia tay đầy ý nghĩa, không buồn thảm mà lại tràn trề hy vọng. Vả lại, chúng ta không hề mồ côi, vì Ngài hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14:26)
Người ta lầm tưởng Chúa Giêsu là nhà cách mạng lỗi lạc, chính trị gia đại tài, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Không, Vương Quốc Thiên Chúa không ở thế gian này. Người ta lại hỏi dò: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Cv 1:6) Nhưng Ngài xác định: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:7)
Khi Chúa Giêsu được cất lên, có đám mây quyện lấy Ngài, không ai thấy Ngài nữa. Người ta ngơ ngẩn, không biết vì tiếc Chúa hay tiếc cảnh lạ. Họ đang đăm đăm nhìn lên trời theo hướng Ngài bay lên, có hai người mặc áo trắng xuất hiện ngay bên cạnh họ và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11) Thật lạ lùng! Phàm ngôn không thể diễn tả.
Sự kiện Chúa Giêsu về trời là dấu chỉ bảo đảm rằng tín nhân cũng sẽ về trời với Ngài. Điều đó chắc chắn chứ không mơ hồ, viển vông, hoặc ảo tưởng. Với niềm hy vọng đó, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.” (Tv 47:2-3)
Tín nhân thực sự hạnh phúc vì được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Niềm vui chan hòa: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên tòa uy linh cao cả.” (Tv 47:6-9) Hạnh phúc nối tiếp, hy vọng kéo dài và lan tỏa.
Thánh Phaolô nói rất rõ ràng: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh.” (Dt 9:24-25)
Như có ý giải thích, Thánh Phaolô cho biết: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để CỨU ĐỘ NHỮNG AI TRÔNG ĐỢI NGƯỜI.” (Dt 9:26-28) Vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh.” (Dt 10:19) Quả thật, tín nhân chúng ta vô cùng hạnh phúc vì được Chúa trao ban cho quyền đó, mặc dù chúng ta hoàn toàn bất xứng.
Nhưng còn hơn thế nữa, chính “Ngài đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Ngài. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa.” (Dt 10:20-21) Và Thánh Phaolô khuyên: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín.” (Dt 10:22-23)
Thánh Augustinô nói: “Đức tin là tin những gì bạn không thấy, và phần thưởng của đức tin là thấy những điều bạn tin.” Thánh Tôma Aquinô lý giải: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng đức tin, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc.”
Sống đức tin là thực thi lòng thương xót, việc làm cần thiết, nhưng phải kiên trì và không ngừng canh tân. Thật vậy, có thể nói rằng sống đức tin là mối phúc thứ 9 mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Sống đức tin là thể hiện cách thức sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ, thậm chí là phức tạp, thế nên cần phải ý thức và can đảm.
Chính Chúa Giêsu đã phân tích: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24:46-47) Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà lại không đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu nỗi buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo. Chắc chắn như vậy!
Thế nào là sống đạo? Là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu Thiên Chúa, về Lòng Chúa Thương Xót, vì chính Ngài đã truyền lệnh cho mỗi chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24:48) Rất rõ ràng!
Cuộc chia tay của Chúa Giêsu với các môn đệ là cuộc chia tay hoan hỷ chứ không buồn thảm: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.” (Lc 24:49) Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời. Niềm hy vọng tràn đầy tâm hồn họ, giúp họ thêm can đảm vào đời và ra khơi trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Luca kể rõ: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, LÒNG ĐẦY HOAN HỶ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.” (Lc 24:52-53) Đức Kitô chịu chết nhưng phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hạnh phúc khôn tả, niềm hy vọng tuyệt vời và niềm hy vọng cuối cùng của mỗi Kitô hữu.
Nhập đề, thân bài và kết luận là ba phần thiết yếu của một bài luận. Tương tự, cuộc đời cũng có ba khoảng – tuổi thơ, tuổi trẻ và tuổi già. Có thể có người chỉ có tuổi thơ mà không có tuổi trẻ và tuổi già, hoặc có người có tuổi thơ và tuổi trẻ mà không có tuổi già. Nhưng ai cũng có ba khoảng thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
Bởi vì “nhân vô thập toàn” nên đừng quay lại quá khứ mà nuối tiếc hoặc tự trách mình thái quá, hãy hướng tới tương lai để vươn lên. Ai nghĩ gì, mặc họ. Hãy cứ là chính mình. Đừng đếm những gì đã mất, hãy quý trọng những gì hiện đang có, và định hướng mới về những gì khả dĩ đạt được trong tương lai. Lý do rất đơn giản: Quá khứ không bao giờ trở lại, nhưng tương lai có thể bù đắp cho những gì đã mất mát hoặc sai sót.
Là Đất rất mực công bình, Thiên Chúa không thiên vị bất kỳ ai. (Gl 2:6; Cv 10:34) Cửa này khép lại thì sẽ có cửa khác mở ra. Hãy vững tin vào Ngài. Thánh Gioan Kim Khẩu (347-407) xác tín: “Thiên Chúa lượng định đau khổ theo mức cần thiết cho chúng ta.” Cứ an tâm, vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định, nghĩa là Ngài đã định hướng riêng từng người. Đừng chê trách hoặc đề cao bất cứ ai, cũng đừng mặc cảm, nhút nhát. Mỗi người đều có vị trí nhất định theo Thánh Ý Chúa, với mục đích là để làm vinh danh Ngài theo cách riêng của mỗi người.
Thánh Lêô nói: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh mà sống lại với đời sống ân sủng, và chúng ta cũng được tới trời cao qua cuộc thăng thiên Ngài. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Ngài, hoàn toàn phụ thuộc vào Ngài và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Ngài.” Giáo lý Công giáo nói: “Niềm hy vọng là nhân đức đối thần mà chúng ta mong ước Vương Quốc Thiên Đàng và sự sống vĩnh hằng là hạnh phúc của chúng ta, tin vào lời hứa của Chúa Kitô và dựa vào không chỉ bằng sức mạnh mà là sự trợ giúp đỡ của ơn Chúa Thánh Thần.” (GLCG số 1817)
Lạy Thiên Chúa nhân lành tuyệt đối, Ngài quan phòng và tiền định mọi sự, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin, xin giúp chúng con can đảm sống đạo và làm chứng về Ngài suốt cuộc lữ hành trần gian. Khi chúng con hoàn tất hành trình đức tin đời này, xin cho chúng con được ở nơi nào có Con Một Yêu Dấu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
LỄ CHÚA LÊN TRỜI, LỄ CỦA NIỀM HY VỌNG
Chúa Giêsu sau khi đã từ cung lòng Chúa Cha, từ Trời thân hành xuống thế nhập thể làm người, đi vào lịch sử loài người, sống kiếp phận con người, bước vào trong bóng sự chết, đã phục sinh và trở về Trời trong vinh quang mà từ thuở đời đời Người đã có với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh mô tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong...”. Và sau đó “Người lên Trời” (Cv 1,1- 11).
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, vinh hiển về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời, như thế chúng ta hy vọng sẽ được về Trời với Chúa. Theo lời thánh Lêo Cả, Chúa Giêsu Kitô, Vị Thủ Lãnh của chúng ta vinh hiển bước vào thiên đàng ngự bên hữu Đức Chúa và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. LÊÔ CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời). “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7,25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Lễ Chúa Giêsu lên Trời là lễ của niềm hy vọng, vì lễ này báo trước cảnh ngọt ngào của Thiên Đàng. Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể, Người đi trước để chúng ta được tiếp bước theo sau vào Thiên Đàng. Vẫn theo lời Thánh Lêô Cả: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh chúng ta sống lại với Người trong đời sống mới đầy ân sủng, chúng ta cũng đạt tới Trời nhờ sự lên Trời của Người. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Người, hoàn toàn phụ thuộc vào Người và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Người” (x. LÊÔ CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời).
Quả thật, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào sự sống của Chúa Kitô, nghĩa là chúng ta hy vọng phục sinh và được chia sẻ vinh quang của Người. Chúng ta cũng sẽ theo Người đến cùng Chúa Cha khi kết thúc cuộc sống trần gian này. Lễ Chúa lên Trời là sự kiện phản ánh rõ nhất về niềm hy vọng của chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
Là những người sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi không ngừng tin vào Chúa Kitô và sống khác với những người chưa biết đến Chúa Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở cùng chúng ta và Người đang dẫn chúng ta đến cuộc sống đời đời. Người chỉ cho chúng ta đường lên Trời của Người, bởi chính Người là Đường. Chúng ta phải tránh những cám dỗ, sợ hãi, hoảng loạn và tuyệt vọng. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng” (1 Tx 4,13). Ở đây chúng ta cũng thấy một dấu hiệu riêng biệt của các Kitô hữu là họ có tương lai. Đức Bênêđíctô XVI viết : “Không phải là họ biết chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết một cách chung chung rằng cuộc sống của họ sẽ KHÔNG KẾT THÚC trong sự trống rỗng. Chỉ khi tương lai chắc chắn là một thực tế tích cực thì mới có thể sống tốt trong hiện tại” (x. BENEDICTO XVI, Spe Salvi, số 2).
Chính khi tin vào Chúa Kitô mà chúng ta có thể sống trong an bình và hy vọng trong mọi hoàn cảnh, vì sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Ngay cả khi cái chết đến với chúng ta, chúng ta vẫn thanh thản trong niềm hy vọng cuối cùng là được lên Trời sống đời đời với Chúa. Đó là ý nghĩa của cuộc sống người tín hữu chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta biết rằng chúng ta sẽ không thoát khỏi đau khổ trong cuộc sống này. Cái chết đã bị đánh bại nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và con đường dẫn đến sự sống đời mở ra cho chúng ta qua sự lên Trời của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đức Bênêđíctô XVI nói: “Đối với tương lai, cửa thời gian tối tăm đã bị mở tung. Người hy vọng sống khác người đã được ban tặng sự sống mới”. Chúng ta đã được ban sự sống mới trong Chúa Kitô và đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta trong tất cả các cơn bão đang hoành hành xung quanh chúng ta.
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải “có hai người mặt áo trắng đứng gần” (Cv 1,10) và nhắc nhở: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1,11). Hãy ngước mắt lên trời và chăm chú nhìn vào Chúa Kitô, Đấng đã về trời với Chúa Cha, để chuẩn bị chỗ vĩnh cư cho mỗi người chúng ta. mục lục
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA GIÊSU LÀ TƯƠNG LAI CHÚNG TA
Theo Tin Mừng Luca, Jerusalem là thị trấn của số mệnh. Nơi đây ơn cứu độ đã hoàn thành. Nơi đây sứ vụ của các Tông Đồ bắt đầu. Và, Jerusalem là trung tâm điểm của sứ vụ, nơi xuất phát sứ vụ các Tông Đồ của Chúa Kitô rồi lan tỏa ra khắp mọi nơi đến “tận cùng thế giới”. Nơi nào có bóng dáng các môn đệ thì ở đó, cộng đồng sơ khai có những tiêu chuẩn giáo lý (x. Cv 15:2,6).
Hai câu đầu của bài đọc 1 (x. Cv 1:1-2) là gạch nối giữa sách Công Vụ Tông Đồ và Tin Mừng Luca, cho thấy các môn đệ đã được Chúa Giêsu Phục Sinh dạy dỗ đầy đủ (c 3-5), nhưng các ông vẫn tỏ ra áy náy vì câu trả lời của Chúa nên các ông đã hỏi: “Thưa Thầy, phải chăng đã đến lúc Thầy khôi phục lại vương quốc Israel?” Các ông nghĩ rằng Chúa Cha hứa sẽ mang lại thời đại chính trị thống lãnh của một quân vương như thời vua David. Nhưng Chúa trả lời không phải vấn đề đó. Cả hai việc đó không thể làm cho các ông nghĩ đến cái kết luận ấy, vì các ông không có bổn phận phải biết thời kỳ và ngày giờ việc đó xẩy ra. Thiên Chúa Cha đã định đoạt rồi. Lời hứa đó - nếu là khôi phục lại quyền bính chính trị quốc gia hay được ơn hiểu biết Thiên Chúa - cũng sẽ không làm cho cuộc sống của các ông trở nên dễ dãi hơn. Khi các ông nhận được Chúa Thánh Thần thì cũng là lúc các ông được chịu phép rửa không phải bằng nước mà bằng lửa. Các ông có quyền tiếp tục nhiệm vụ của Chúa Kitô là giảng dạy, nuôi dưỡng và phụng sự, đồng thời sẽ bị từ chối, bị đau khổ và chết vì Người.
Sau khi nói những lời đó, Chúa Giêsu được cất lên lên trời ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Quang cảnh đó huy hoàng và tuyệt vời biết bao! Các môn đệ cảm thấy thế nào khi ngắm nhìn Thầy mình từ từ bay về trời! Lời Thiên Thần hiện ra nói với người dân xứ Galilê đã gây cảm giác bi thương và khó hiểu: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Chúa Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11).
Các Tông đồ lúc đó đã nhận ra được một bài học: “Đừng tiếp tục đứng mà ngóng trông ở tương lai. Đừng quá để ý đến giờ nào Người sẽ trở lại.” Đừng đứng yên nhìn trời và than khóc quá khứ mà không hành động gì cả. Hãy phó thác nó trong bàn tay phù trợ và lòng thương yêu của Thiên Chúa! Chúa được tôn vinh thì các môn đệ cũng sẽ được dự phần vinh quang. Hãy tiếp tục mang một mảnh vụn - nhỏ thôi - của Thiên Đàng đi khắp thế giới. Đó là ý nghĩa Chúa Giêsu Phục Sinh và Lên Trời. Thiên Chúa ủy thác nhiệm vụ đó cho chúng ta không phải vì lý do con người nhưng vì sức mạnh của giấc mơ Tin Mừng!
KHỞI ĐẦU TỪ JERUSALEM
Luca miêu tả cảnh Chúa Phục Sinh đã xẩy ra tại Jerusalem hay đâu đó quanh Jerusalem. Ông kể câu chuyện Tin Mừng về thời Chúa Giêsu sát với câu chuyện Chúa Lên Trời (Lc 24:50-53). Tin Mừng kết thúc cũng như bắt đầu (1:9) trong đền thờ Jerusalem (c.53). Luca cũng bắt đầu câu chuyện thời đại của Giáo Hội bằng việc kể lại cảnh Chúa về Trời (Cv 1:6-11). Ở chương nói về Chúa Phục Sinh (24), Luca đã kể lại việc Chúa Lên Trời vào đêm Chúa Nhật Phục Sinh, do đó cũng có liên hệ với Chúa Sống lại.
Như trong những lần suy niệm trước về Lễ Phục Sinh, chương 24 Tin Mừng Luca có thể được chia làm 4 phần chính:
*- Câu chuyện các người phụ nữ nơi ngôi mộ trống kết thúc với việc Phêrô đến thăm mộ để kiểm soát lại (c 1-12).
*- Câu chuyện trên đường Emmaus đi tới việc biết được Chúa cũng đã hiện ra với Phêrô (c 13-35).
*- Chúa hiện ra với các môn đệ tại một bữa ăn dẫn tới việc Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ sứ vụ truyền giáo (c 36-49).
*- Chúa Giêsu thăng thiên (c.50-52)
Có lẽ nên hiểu đây là một biến cố (Phục Sinh, vinh quang, Lên trời, Chúa Thánh Thần hiện xuống – mầu nhiệm phục sinh) đã được Luca lịch sử hóa khi ông viết về việc Chúa Giêsu lên Trời rất rõ ràng sau 40 ngày sống lại và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đối với Luca, Chúa lên trời kết thúc sự xuất hiện của Chúa Giêsu, trừ trường hợp đặc biệt hiện ra với Phaolô. Theo Luca thì lễ Thăng Thiên kết thúc thời đại Chúa Giêsu (Lc 24:50-53) trong lịch sử ơn cứu độ, đồng thời báo hiệu khởi đầu thời đại Giáo Hội.
PHÙ HỢP VỚI KINH THÁNH DO THÁI
Cuối cùng Tin Mừng Luca nhấn mạnh những điều đã được ghi trong Kinh Thánh Do Thái phải được thi hành, bởi lẽ kế hoạch của Thiên Chúa không thể không được hoàn thành. Đời sống, sự Chết và Sống lại của Chúa Giêsu Kitô thì hoàn toàn phù hợp với Kinh Thánh. Vấn đề này có căn bản dựa trên chính lời Chúa Kitô phục sinh nói với các môn đệ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Xác quyết này nói lên việc ứng nghiệm lời Kinh Thánh về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh là có căn bản, được xác quyết tại nhiều đoạn trong Tin Mừng như: “Con Người phải chịu đau khổ vô cùng…. và sau khi chết 3 ngày Người sẽ sống lại” (Lc 9:22); “Nhưng như thế thì Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm ra sao? Vì theo đó mọi sự phải xẩy ra đúng như vậy” (Mt 26:54).“Lời Kinh Thánh này phải được hoàn thành nơi Thầy” (Lc 22:37).
THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN Ở TẤT CẢ MỌI NƠI
Việc Chúa lên trời, người ta cho rằng Chúa tự tách ra khỏi mình dưới một hình thức mới cách biệt với Thiên Chúa. Không phải vậy. Là Thiên Chúa, khi nói Chúa Giêsu “ở đây” nghĩa là dưới dạng khác và rất đặc biệt. Chỉ có tách biệt thân xác mình khỏi khung cảnh lịch sử thì mới có thể nối kết với toàn thể thế giới một cách trọn vẹn.
Khi “Thăng Thiên”, Chúa đã cam kết với thế gian là người vẫn luôn luôn hiện diện. Vết chân người không phải như vết chân khắc vào đá để cho người ta coi, nhưng nó hiện diện trong tâm khảm những ai bước theo Chúa. Vì Chúa từ bỏ khả năng hiện diện tại một nơi nên người có khả năng hiện diện tại muôn nơi. Khi Chúa tan biến thì Chúa hòa nhập tràn đầy trái đất bằng sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa có mặt ở đây nhưng Người cũng có khả năng hiện diện trước chúng ta khi chúng ta hoàn thành ước mơ cuối cùng. Chúng ta về Thiên Đàng là để gấn Chúa Giêsu. Chắc chắn Người không ngừng hiện diện với chúng ta qua mọi không gian và thời gian. Qua chúng ta, Chúa muốn hiện diện với nhiều người, ở nhiều nơi hơn nữa, nhất là với Giáo Hội của Người.
BÀI HỌC CẦN PHẢI BIẾT
Chúa Lên Trời dạy cho chúng ta một bài học rất quan trọng về quyền sở hữu. Qua cung cách Chúa Về Trời, nếu chúng ta cứ bám víu vào Người và lịch sử thì chặng có ích lợi gì. Người cũng không bám vào những người ở chung quanh Người vì sẽ làm cho họ mất tự do không tiếp tục được sứ mệnh Tin Mừng của họ. Trái lại, toàn thể cuộc sống của Chúa, cho đến cái chết và phục sinh của Người, đã dạy cho chúng ta biết chấp nhận mọi người và mọi sự như là quà tặng mà chúng ta đã vay mượn.
Chẳng tốt gì nếu cứ bám vào bạn bè và ôm chặt lấy kho tàng trần thế. Hãy học cách tôn trọng tất cả những gì chúng ta có với lòng biêt ơn sâu xa, giữ mọi sự trong bàn tay rộng mở với mọi người. Trong khi cầu nguyện, hãy mở rộng tay và trao tất cả mọi kho tàng quí báu, những liên hệ bạn bè trong cuộc sống của chúng ta cho Thiên Chúa. Hãy ý thức và nghĩ về tha nhân và những cái mà chúng ta đang có. Hãy dùng thì giờ để tạ ơn Thiên Chúa vì những điều chúng ta có. Điều quan trọng nhất là kiếm những phương cách cụ thể để nói lên sự yêu thương và long tri ân đối với những người mà chúng ta chịu ơn, gồm cả Chúa Giêsu. Giống như Chúa sống lại đã trao mình cho những kẻ đáng thương hại và hư hỏng thì Người cũng làm như vậy cho chúng ta. Chúa về trời nhắc nhở chúng ta là Chúa chấp nhận những thiếu sót của chúng ta. Người hiểu bản tính con người là bất toàn, giả dối, phản bội, tham lam và thích uy quyền. Tuy nhiên Người vẫn kêu gọi chúng ta, cho chúng ta đời đời làm con dân của Người, sai chúng ta đi phục vụ Người, yêu mến Người bất kể những thiếu sót của chúng ta.
Việc Chúa lên trời, người ta cho rằng Chúa tự tách ra khỏi mình dưới một hình thức khác. Không đúng mà là ngược lại như vậy. Về Thiên Chúa, khi nói Chúa “ở đây” tức là Chúa hiện diện ở một dạng thức khác và đặc biệt. Chỉ có tách biệt thân xác mình khỏi khung cảnh lịch sử mới có thể nối kết với toàn thế giới một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu rời thế gian về trời để có thể sẵn sàng cho mọi người ở mọi nơi và mọi lúc.
Nói như Thánh John Chrysostom: “Người mà bạn yêu mến không còn ở đây như trước kia nữa. Bây giờ người ở bất cứ nơi nào bạn hiện diện.”
Chúa về trời là để sửa soạn cho chúng ta một tương lai huy hoàng và vĩnh cửu, tức thiên đàng. Với Chúa Giêsu, chúng ta đã có tương lai. mục lục
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
NGÀY TỪ BIỆT
Như đối với mọi trình thuật Khổ nạn và Phục sinh, chúng ta nên suy niệm các trình thuật Thăng Thiên khác nhau đã được để lại, trong tính độc đáo của chúng, chứ chẳng nên coi cái nào cũng giống cái nào. Năm nay, chúng ta thậm chí có cơ hội nghe được hai trình thuật về cùng một biến cố do cùng một tác giả là thánh sử Lu-ca kể lại. Sở dĩ ngài đã chẳng tìm cách hòa hợp hoàn toàn hai bài mô tả của mình, hiển nhiên là vì chính các khác biệt có một ý nghĩa đối với ngài, một ý nghĩa vượt lên trên các chi tiết lịch sử.
Trong Tin Mừng, Lu-ca trình bày cuộc Thăng Thiên vào chính chiều ngày Phục sinh hay thậm chí trong đêm tiếp theo ngày đầu tuần ấy (x. Lc 24,1.13.36.50), nếu ta nhớ lại rằng “đã xế chiều” (Lc 24,29) khi hai môn đệ Em-mau ngồi vào bàn ăn, rằng họ phải cuốc bộ khoảng 12 km trong “hai giờ” (Lc 24,13) để trở về Giê-ru-sa-lem, rằng Đức Giê-su đã bỏ thời gian giải thích “Lề luật, Ngôn sứ và Thánh vịnh đã chép về Người” cho các môn đệ (Lc 24, 44) chính tối ngày Phục sinh ấy… trước khi dẫn họ đến Bê-ta-ni-a nơi Người được đưa lên trời (Lc 24,50). Trong Công vụ Tông đồ thì ngược lại, cũng chính Lu-ca đặt cuộc Thăng thiên vào cuối “bốn mươi ngày” (Cv 1,3).
Vượt lên trên mọi tưởng tượng ấu trĩ, chúng ta phải thấy rõ ràng là Đức Giê-su, giữa các lần “hiện ra” khác nhau, đã chẳng trốn trong một phường nào đó của Giê-ru-sa-lem, tại một nơi bí mật, chờ ngày “lên” với Cha trên trời! Trong thực tế, Phục sinh, Thăng thiên và Hiện xuống là ba mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất [*]: chính ngay khi phục sinh mà Đức Giê-su đã đi vào Vinh quang Chúa Cha, ngự “bên hữu Người” theo ngôn ngữ khải huyền mô tả, và ban Thánh Thần như hồn sống của Thân thể Mầu nhiệm vừa được khai sinh. Lu-ca đặc biệt nhấn mạnh sự kiện Đức Giê-su “rời khỏi” những ai Người hiện ra cho thấy… Người biến đi trước mắt họ (x. Lc 24,31.51).
Như thế, cuộc Thăng thiên chiều ngày Phục sinh đến đóng ấn lên cuộc sống nhân loài của Đức Giê-su, bằng việc tôn vinh Người làm Chúa… và đây là trang Tin Mừng cuối cùng! Trong khi cuộc Thăng thiên “ngày thứ bốn mươi” đến khai mở cuộc sống mới của Đức Giê-su qua không gian lẫn thời gian… và đó là trang đầu tiên của sách Công vụ! “Thời gian của Đức Giê-su Na-da-rét chấm dứt” là “thời gian của Giáo Hội bắt đầu”.
Ở đây chúng ta có thể thắc mắc: Đức Giê-su nán thêm “40 ngày” sau khi sống lại để làm gì? Trước hết để bổ túc những giáo huấn đã ban cho các Tông đồ, nhất là để dạy các ngài phải đọc toàn bộ Thánh Kinh và nhìn cuộc sống Người dưới ánh sáng biến cố Phục sinh (xem dưới). Thứ đến là để cho các ngài thấy Thầy của họ đã sống lại, không phải như một thiên thần thiêng liêng hay một con ma vô xương vô thịt (x. Lc 24,39), cũng không phải với hình hài cũ (như La-da-rô, như con bà góa…), nhưng là với một thể xác đã biến đổi, chẳng còn lệ thuộc không gian lẫn thời gian, hết chịu những định luật vật lý lẫn hóa học thông thường. Và như thế là mạc khải cho các Tông đồ và chúng ta biết là sự Phục sinh của Chúa đã khai mào một cách thức hiện hữu mới, với những đặc tính mới, của vật chất, của thể xác, mà con người dương gian đầu tiên được thụ hưởng chính là Đức Mẹ (tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời).
1. Nhận chỉ thị để đi làm chứng nhân
Để hiểu được trọn vẹn bài Tin Mừng hôm nay, thiết tưởng nên đọc nó bắt đầu từ câu 44: “Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh thánh”. Câu “Khi Thầy còn ở với anh em” là dấu cho thấy Đức Giê-su chẳng còn ở trên trần gian như trước. Cuộc Thăng Thiên lát nữa sẽ chỉ diễn lại cái đã xảy ra trong cuộc Phục sinh rồi: từ nay, sự hiện diện của Người trong tư thế phục sinh, dẫu rất thật, vẫn mang bản chất khác hẳn… Người đã đi vào trong thế giới Thiên Chúa. Và đức tin là phương tiện duy nhất giúp đi vào “thế giới” nầy, nơi Đức Giê-su đang ở sau khi đã giã từ cách hiện diện cũ với chúng ta. Ngay trên đường Em-mau, Người đã quở trách hai lữ khách là những kẻ “chậm tin và ngu độn” (Lc 24,25). Ngu độn và chậm tin “những gì đã chép về Người trong Lề luật, Ngôn sứ và Thánh vịnh” cũng phải. Vì chỉ sau khi Đức Giê-su “chết và sống lại” đã, người ta mới có thể thấy những gì đã được loan báo lúc đọc lại Thánh Kinh.
Thật vậy, Lu-ca nêu bật sự kiện chỉ vào lúc Phục sinh, các môn đệ rốt cục mới hiểu “điều đã được viết”. Vâng, các biến cố trong cuộc đời Đức Giê-su đều gây ngỡ ngàng, khó hiểu trước ngày đó! “Đau khổ” của Người trên thập giá đã xuất hiện như một rủi ro, một tai nạn, một thất bại. Nhưng này nó cho thấy đó là sự “hoàn thành” một ý định nhiệm mầu của Chúa Cha: “Phải hoàn tất những gì đã được loan báo…”. Đây không phải là một định mệnh bi đát, một số phận khắt khe… nhưng là một dự định “cứu rỗi”, mang lại ơn “tha thứ cho mọi người”! Một dự phóng tình yêu! Nhưng cho tới ngày đó thì các môn đồ không thấy được. Giờ họ sắp trở thành những “người chứng”. Họ phải ra đi, nhân danh Thầy mà rao giảng, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha tội.
Hôm nay, phải chăng chúng ta luôn làm chứng nhân cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa? Chứng nhân cho Đức Giê-su là Đấng, trước nỗi công phẫn của hạng “thanh sạch”, đã đứng về phía những tay lạc giáo, những kẻ trệch đường, những cô gái bán thân… những người dốt nát bị hạng thông thái khinh bỉ… những kẻ thỏa hiệp với lũ ngoại bang, những tay thu thuế cộng tác với quân xâm lược… những kẻ nghèo hèn, yếu đuối, bệnh tật, phong cùi bị xã hội loại bỏ? Thay vì hình phạt của Thiên Chúa như được Lề luật loan báo, Đức Giê-su đã công bố “ơn tha tội” vô giới hạn, chẳng loại trừ ai khỏi cứu rỗi phổ quát tặng ban cho mọi người. Vâng, Thiên Chúa là Cha các tội nhân. Tất cả đều được Người tha thứ. Và ai nấy phải bắt chước Người mà tha thứ cho tất cả, ngay cả kẻ thù mình! Chính vì rao giảng hết thảy những điều ấy mà Đức Giê-su đã bị lên án đóng đinh như một “tên phạm thượng”. Nhưng chính cuộc phục sinh đến xác nhận rằng Người có lý. Các đại diện Lề luật đều lầm lạc. Kẻ bị đóng đinh vẫn sống! Tất cả những gì Đức Giê-su đã nói và làm… sắp được tiếp tục, với sự xác nhận của chính Thiên Chúa. Và “anh em là chứng nhân về những điều này!”
Nhưng để được thế, “Thầy sẽ gởi cho anh em điều Chúa Cha đã hứa. Vậy anh em hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời ban”. Họ rất cần điều nầy! Ta cũng cần “sức mạnh” này, vốn không bởi ta nhưng từ trên cao mà đến! Vì các môn đệ sắp phải sống và nói trong một thế giới chẳng có chi thay đổi xét theo bên ngoài: sự dữ, bạo lực, hận thù, cái chết, các lạc giáo, các sai lệch, các áp bức đủ loại… sẽ còn tiếp tục. Đấng sắp ban sức mạnh đó không được nêu danh ở đây, vì như Chúa Cha, “Đấng đã chẳng ai thấy bao giờ”, và khác với Đức Giê-su, “Hình ảnh cụ thể của Thiên Chúa”, Thánh Thần không có khuôn mặt, vì Người là “Thiên-Chúa-ở-trong-chúng-ta”. Khi cây nến lớn phục sinh tắt vào ngày Thăng thiên, thì này thắp lên những ngọn lửa xuyên thâu mỗi môn đệ ngày Ngũ tuần.
2. Lãnh phúc lành để lên đường phụng sự
“Sau đó, Người dẫn các ông mãi tới gần Bê-ta-ni-a, rồi Người giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời”. Đây là sự “từ biệt” (như kiểu dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn: “thì Người đã từ biệt họ”)! Và Lu-ca là kẻ duy nhất sử dụng tiếng ý nghĩa nầy. So với cùng trình thuật trong sách Công vụ Tông đồ, ta nhận thấy bản văn Tin Mừng rất giản dị. Ở đây không có yếu tố mô tả nào, chẳng “mây” lẫn những người “đàn ông mặc áo trắng”. Không phải Lu-ca bất biết ngôn ngữ khải huyền. Ông sẽ sử dụng nó trong trình thuật kia. Nhưng trong đoạn văn này, ông muốn đơn giản hóa nó.
Tất cả đều rất kín đáo: “Người dẫn môn đệ…”, “giơ tay chúc lành…”, “rời khỏi các ông và được đem lên trời…”. “Chúc lành” cho các Tông đồ, việc này Đức Giê-su chưa bao giờ làm cả. Nhưng đây là cảnh giã biệt. Và Lu-ca tiếp nối một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các đại nhân vật của Thánh Kinh đều kết thúc cuộc sống bằng việc chúc lành cho những ai kế tục sự nghiệp: Gia-cóp (x. St 49), Mô-sê (x. Đnl 33), Đa-vít (x. 1 Sb 28-29). Nhưng riêng Lu-ca, thì mở đầu sách Tin Mừng, ông đã cho thấy tư tế Da-ca-ri-a bị câm vì thiếu lòng tin, và do đó không thể chúc lành cho dân: phụng tự thời Cựu Ước bị gián đoạn, bất lực trong việc thánh hóa dân Ít-ra-en, và sẽ bị phế bỏ. Kết thúc sách Tin Mừng, Đức Giê-su chúc lành cho môn đệ tượng trưng cho Ít-ra-en mới và được đem lên trời (cùng một động từ Hy-lạp dùng để nói làn khói hương bay tỏa lên trời và được Thiên Chúa chấp nhận). Phụng tự thời Cựu Ước đã nhường chỗ cho phụng tự của Giao Ước mới! Việc “chúc lành” của Đức Giê-su là cử chỉ sau hết của Người. Một cử chỉ Người sẽ không ngừng làm khi mỗi linh mục, đại diện của Người, “giơ tay” chúc lành cho ta nhân danh Ba Ngôi lúc giã biệt trong Thánh Lễ.
“Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Một nghịch lý. Đức Giê-su đã “rời khỏi” môn đệ, thế mà họ chẳng buồn, trái lại càng vui tươi. Cộng đoàn môn đệ Người đã trở nên nhóm “bái lạy” Người và cùng nhau hát ca “chúc tụng Thiên Chúa”. Tôn sư “lên Thiên quốc trên trời”. Môn đệ “trú Đền thờ dưới thế”. Cả một sự đối xứng đầy tính biểu tượng… Một phụng tự mới bắt đầu. Và cũng bắt đầu một công cuộc phụng sự mới. mục lục
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi --------------------- [*] Có thể thêm mặt thứ tư: Chết. Vì chính khi chết thật (chết tuyệt đối, đêm thứ 7 rạng Chúa nhật) thì Chúa bước vào cõi Phục sinh. Bởi lẽ theo khoa học, cái chết có 3 giai đoạn: chết lâm sàng, chết tương đối và chết tuyệt đối. Đối với Chúa Giê-su, chết lâm sàng là khi vừa tắt thở trên thập giá và chết tương đối là từ đó cho đến đêm thứ 7 rạng Chúa nhật. Giai đoạn chết tương đối dài hay ngắn tùy trường hợp: mắc cơn bệnh có sức tàn phá nhanh hay chậm, gặp tai nạn có sức hủy hoại mạnh hay yếu. Con trai bà góa, con gái ông Gia-ia và ông La-da-rô đều được hồi sinh trong giai đoạn chết tương đối, vì khi đã tiến đến giai đoạn (đúng ra là thời điểm) chết tuyệt đối thì con người bước qua cõi vĩnh cửu rồi, không lui lại dương gian được nữa. Xin xem lại bài chú giải “Chúa nhật thứ 2 Phục sinh năm C” của chúng tôi. ------------------------------
Sau khi sống lại từ cõi chết, và trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ của Ngài LênTrời ABC-473
Sau khi sống lại từ cõi chết, và trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và có bạn, một nhiệm vụ hết sức quan trọng và khá là nặng nề, đó là "Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem " (Lc 24:47).
Tuân theo mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh Giêsu, các Tông Đồ, các môn đệ và các Kitô Hữu trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã cố gắng làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh và trong mọi nơi, mọi lúc. Có thể nói việc làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh của họ rất đa dạng và rất phong phú. Ngoài việc rao giảng về cuộc đời, sự nghiệp và về Con Người của Đức Giêsu Kitô bằng lời nói, các môn đệ của Chúa Giêsu và các Kitô Hữu còn làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh qua những cử chỉ, hành động và những thái độ thật tuyệt vời khác nữa, ví dụ như:
• Họ đã làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh qua những việc bác ái, giúp đỡ cho người túng cực thiếu thốn và cho những người lâm vào cảnh bất hạnh: “Khi nạn đói xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô. Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tuỳ theo khả năng, sẽ gửi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ đã làm việc ấy: gửi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô” (Cv 11:28-30).
• Họ đã làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh qua việc tha thứ cho những kẻ ngược đãi & bách hại họ. “Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông…quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ‘Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.’ Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:59-60).
• Họ đã làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh bằng cách vui vẻ chấp nhận hy sinh, chịu sỉ nhục và chịu bách hại vì danh Ngài. “Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi!…Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2 Cr 11:24-27).
Bạn thân mến, ngày hôm nay, có thể nói chả có ai trong chúng ta có cơ hội làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh theo kiểu của các tông đồ hay của các Kitô hữu khi xưa, vì chẳng có ai tra tay bắt bớ, đánh đập, cấm cản chúng ta giữ đạo và làm việc truyền giáo cả. Nhưng như vậy không có nghĩa là chúng mình lơ là và quên đi nhiệm vụ nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Bạn và tôi, mỗi người chúng ta vẫn có thể trở thành nhân chứng của Chúa Kitô Phục Sinh qua những cách thức khác nhau, nhưng tôi xin đề nghị với bạn hai phương cách rất hữu hiệu sau đây, bạn thử xem sao nhé!
CHIA SẺ: Rộng rãi, quảng đại giúp đỡ về mặt vật chất cho Giáo Hội, cho các dòng tu trong việc mở mang, xây dựng và bảo trì các bệnh viện, trường học, trại mồ côi, trại tị nạn, trung tâm dạy nghề, những cơ quan bác ái…Bởi vì nhờ và qua những nơi này, các linh mục, các tu sĩ nam nữ và các nhà truyền giáo mới có dịp đem Tin Mừng của Chúa đến cho tha nhân. Không có những cơ sở vật chất lo cho việc giáo dục, chữa lành và giúp đỡ cho những người nghèo đói …thì khó lòng mà người ta biết đến Tin Mừng của Chúa Giêsu Phục Sinh lắm! Tiền bạc là một tên đầy tớ rất tốt, bạn là chủ của nó, bạn hãy sai nó đi làm việc truyền giáo ngay đi, đừng để nó ngồi một chỗ!
LẠC QUAN: Nếu bạn đang làm những việc thiện nguyện, ví dụ như chở người này đi lễ, đưa người khác đi bệnh viện, giúp thông dịch cho ông này, cho bà kia, làm vệ sinh nhà thờ, cắt cỏ, tỉa cây, tưới cỏ, nấu ăn giúp giáo xứ gây quỹ… Nếu bạn đang nỗ lực hy sinh thời giờ, công sức, tài năng và của cải vật chất cho việc dạy giáo lý, việt ngữ, tham gia ca đoàn, cắm hoa, trang trí, quản lý tài chánh, sửa chữa và bảo trì nhà thờ…vì ý ngay lành, vì Chúa và vì yêu mến Giáo Hội, vì yêu mến giới trẻ…nhưng lại bị cha mẹ, vợ chồng, anh chị em họ hàng thân thuộc hay người ngoài đàm tiếu, dèm pha, nói hành nói xấu, nói xiên nói xẹo, vu oan cáo vạ…thì xin bạn hãy lạc quan, hãy vui lên, bởi vì bạn đang làm chứng nhân cho Chúa đấy! Hơn thế nữa, bạn đang được hưởng mối phúc thứ tám mà Chúa Giêsu đã hứa ban: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:11).
Làm chứng cho Chúa qua việc chia sẻ và sống lạc quan, dám chấp nhận những đau khổ thử thách như vậy không phải là chuyện dễ dàng, nếu không muốn nói là vô cùng khó khăn và nặng nề. Thế nhưng, với lòng tin tưởng, phó thác, với sự quyết tâm của chính mình, cộng với sự trợ giúp của Thiên Chúa, tôi tin chắc rằng, bạn và tôi sẽ trở thành những nhân chứng sống động của Chúa Giêsu Phục Sinh trong môi trường mình đang sống, nơi mình đang làm việc, và ở những nơi chúng mình đang phục vụ, bởi vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1:37).
Nguyện xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh Cả Giuse và Mẹ Maria, ban ơn giúp sức để chúng mình luôn luôn chu toàn trách vụ mà Chúa Giêsu đã giao phó trước khi Ngài lên trời: “Các con sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
Tường thuật của thánh Luca trong sách Tin Mừng phải được bổ túc bằng bài tường thuật của ngài LênTrời ABC-474
trong đoạn đầu của sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta mới có đủ thông tin về cuộc thăng thiên của Chúa Giêsu.
Trong bản tường thuật này của thánh Luca, chúng ta lưu ý đến hai yếu tố: yếu tố vật chất và yếu tố thiêng liêng.
Nhiều người chỉ chú ý đến những dữ kiện vật chất, chỉ chú trọng đến tường thuật những sự kiện, người khác thì cho những sự kiện vật chất là thần thoại. Nhưng chúng ta không loại bỏ yếu tố nào, vì mỗi sự kiện có ý nghĩa và vai trò của nó.
Chúa Giêsu sau khi phục sinh vẫn hiện ra với các môn đệ, khoảng bốn mươi ngày, là một thời gian không xác định, nhưng cũng không quá dài cũng không quá ngắn. Trong thời gian đó, Ngài nói với các ông về Nước Chúa và nhắc đến biến cố quan trọng là chết và sống lại, là nền tảng đức tin: “Đấng Kitô chịu khổ hình, ngày thứ ba, sống lại”, và Ngài bảo họ phải nhân danh Ngài rao giảng những điều ấy.
Rao giảng và kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha thứ. Phải chăng đây là hiệu quả tất nhiên của sự chết và phục sinh của Chúa?
Ngay từ khi mới xuất hiện, Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Chúa Giêsu tiếp nối sứ điệp đó, và Tin Mừng của Chúa luôn là một lời mời gọi con người tự giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi để bước vào cuộc sống mới do Ngài mang đến. Ngài còn đòi buộc các Tông đồ phải là “chứng nhân cho các điều đó”, là sự chết và sống lại của Ngài, là suối nguồn sự sống: “Ta đến để họ được sống và sống dồi dào”.
Làm chứng nhân cho Chúa. Đó là mệnh lệnh, nhưng công việc này không thể thực hiện nếu không có nguồn sinh lực, “quyền năng từ trời ban xuống”, là Thánh Thần Ngài đã hứa. Vì thế, Ngài bảo các ông đợi cho đến khi mọi sự được thực hiện như Ngài đã báo.
Ngài chúc lành cho các ông và “được đem lên trời”. Trong sách Tông Đồ Công Vụ, thánh Luca nói rõ hơn: “Người được cất lên trước mắt các ông và có đám mây quyện lấy Người khiến các ông không còn thấy Người nữa…” (Cv 1,9) Hai người mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?...”
Những dấu hiệu thực tế này chứng tỏ Ngài đã rời các ông và trở về với Chúa Cha như lời Ngài đã nói trước. Lên trời ở đây không thể hiểu là lên không trung, và áng mây, theo Kinh Thánh, chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa. Ngài đã tuyên bố trước mặt Công Nghị Do Thái: “Rồi đây, các ông sẽ thấy Con Người ngự trên áng mây”. Thầy cả Caipha đã hiểu và đã xé áo…
Đây là những dấu hiệu hữu hình mà chúng ta không thể bỏ qua.
Chúng ta là những con người vừa vật chất vừa linh thiêng. Thiên Chúa thương xót con người ngu muội, và muốn họ hiểu được ý Ngài, Ngài phải dùng thứ ngôn ngữ mà Ngài đã ban cho họ. Ngài phải dùng những dấu hiệu hữu hình để giúp chúng ta đạt tới những thực tại linh thiêng. Ngài đã phải nhập thể để có thể nói với chúng ta trong chính ngôn ngữ của chúng ta. Các bí tích đều là những dấu hiệu vật chất hàm chứa những nội dung linh thiêng.
Trước khi rời khỏi các tông đồ, Ngài căn dặn họ chờ đợi cho đến khi nhận được quyền năng từ trời ban xuống.
Để làm gì?
Để làm chứng nhân và rao giảng.
Sứ mệnh quan trọng này được trao phó cho các tông đồ, cho Giáo hội và cho mọi tín hữu. Thế nhưng, hiện nay, chỉ có một số quá ít những người dám dấn thân làm chứng cho Chúa.
Chúng ta cần loan báo Tin Mừng phục sinh, “nhưng ngày nay, sứ điệp này không dễ dàng được chấp nhận. Cần những dấu chỉ đáng tin. Nhưng điều đáng tiếc là sự vắng bóng của những dấu chỉ và sự hiện diện của những phản chứng.
Công Đồng Vatican II, trong sắc lệnh về “Truyền Giáo” và “Tông Đồ Giáo Dân” đã vạch rõ con đường phải đi, phải mạnh dạn dấn thân vào một thế giới văn minh tiến bộ về khoa học nhưng nghèo nàn về chân lý.
Nhưng khó khăn không thiếu.
Con người hôm nay dựng lên rất nhiều bức tường thành kiến đối với những gì là tâm linh. Họ lo âu trước sự trống rỗng của tâm hồn, nhưng họ lại yêu thích sự vô nghĩa vì nó cho họ được thư thái vì khỏi phải suy nghĩ.
Điều khó hơn là chính chúng ta, người tín hữu, đã tạo ra những rào chắn làm họ nghi kỵ. “Nhiều cái trong cách hành xử của chúng ta (tập thể cũng như cá nhân) đi ngược lại với những gì chúng ta tuyên xưng”. Chính Công Đồng Vatican II, trong Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng cũng công nhận rằng: “Có thể các tín hữu phải chịu trách nhiệm không nhỏ trong việc làm nảy sinh chủ thuyết vô thần” (số 19).
Chúng ta có bi quan không?
Chúng ta không bi quan, nhưng can đảm nhìn sự thật, khiêm tốn và không tránh né.
Nhưng càng nhiều khó khăn, chúng ta cần nỗ lực nhiều hơn, cần gia tăng lòng mến và lòng tin hơn. Thánh Thần Chúa không bỏ chúng ta một mình, Ngài đủ sức giúp chúng ta dấn thân nhiệt tình hơn. Những thử thách là điều kiện giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, vững chắc trong hy vọng và mạnh mẽ trong tình yêu.
Chúng ta chỉ cần chăm chú lắng nghe Vị Tôn Sư Thần Linh mà Chúa Cha đã ban cho chúng ta, và không dừng bước. Các Tông đồ trở về Giêrusalem, lòng đầy hân hoan chứ không buồn như khi ở bàn Tiệc Ly, khi Chúa nói đến cuộc ra đi của Ngài: “Vì Thầy nói những điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền”. Hân hoan vì họ không còn nghi ngờ gì nữa. Thầy đã sống lại và vẫn sống. Thầy ra đi “dọn chỗ” cho họ và Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ sẽ đến.
Chúa Giêsu ra đi, nhưng Ngài vẫn hiện diện. Lương thực Ngài ban để nuôi dưỡng ý chí chúng ta là chính Ngài, Thịt Máu Ngài.
Ăn lấy Ngài, sống với Ngài, chúng ta sẽ “tràn đầy hân hoan” như các Tông đồ và luôn tiến bước vui tươi giữa mọi thử thách: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nhờ đó chúng ta cũng sẽ thăng thiên như Ngài.
Không phải trong nhà Đạo mới có “từ” này, mà trong ngôn ngữ dân gian, người ta nói nhiều đến LênTrời ABC-475
Không phải trong nhà Đạo mới có “từ” này, mà trong ngôn ngữ dân gian, người ta nói nhiều đến “từ” này. “Từ” đó là: trời, chầu trời, về trời; “từ” đó là “từ” thăng: ông ấy đã chầu trời rồi; cụ đã thăng rồi…
Hôm nay lễ Chúa về trời, lễ Thăng Thiên, tuy có cái khác rất xa giữa việc Chúa thăng thiên và con người thăng (ông kia, cụ nọ thăng) nhưng có cái giống giữa hai cái thăng đó, là xa cách, là không thấy bằng con mắt trần nữa. Ta không xét đến sự khác nhau giữa hai việc thăng: Chúa thăng thiên và con người thăng, mà chỉ dừng lại nơi điểm giống nhau giữa 2 việc thăng, tức là “thăng” là xa cách, với câu hỏi sau: Vì sao Chúa về trời, tức là vì sao Chúa xa cách ta?
Ta sẽ xét dưới góc độ con người và ta sẽ thử xét dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
1. Dưới góc độ con người.
Tại sao Chúa về trời, tại sao thầy Giêsu lại giã từ các đồ đệ?
- Thưa là để các đồ đệ trưởng thành. Nếu thầy cứ ở mãi, đồ đệ không trưởng thành được. Có thầy ở bên thì lúc nào cũng bám lấy Thầy, lúc nào cũng hỏi ý kiến Thầy. Cái này làm sao thưa Thầy? Cái kia làm sao hả Thầy? (Khổng Minh Gia Cát Lượng thì dùng túi gấm [cẩm nang] để thay mình chỉ dẫn).
Sư phụ Nasreddin đến Trung Quốc, ở đó ông thâu nhận một số môn đệ và dạy dỗ họ hầu giúp họ chuẩn bị giác ngộ. Nhưng khi đã giác ngộ rồi, các đồ đệ bỏ đi hết không nghe thầy Nasreddin giảng nữa. Người ta hỏi thầy có buồn không khi đồ đệ bỏ thầy như vậy. Nasreddin trả lời: “Không phải là danh sư (thầy nổi tiếng) nếu suốt đời đệ tử cứ phải ở với thầy”. Đệ tử phải ra đi xa thầy, thì thầy mới là danh sư. Trường hợp của thầy Giêsu thì ngược lại nhưng cũng cùng mục tiêu. Thay vì đệ tử xa thầy, thì thầy xa đệ tử, để đệ tử tự mình xoay sở và trưởng thành.
Bộ phim “Ở nhà một mình” với bé Mc Caulkin thủ vai chính cho ta thấy, khi cha mẹ đi vắng, bé này đã nảy ra nhiều sáng kiến độc đáo trong việc chống lại kẻ trộm. Đây là bộ phim, tưởng tượng, nhưng thực tế vẫn có thể như vậy. Những trẻ em mất bố mẹ sớm thường trưởng thành và chững chạc hơn những đứa trẻ đầy đủ mẹ cha và sống với cha mẹ cho đến già đầu.
Trong thuật lãnh đạo, người ta kể có 3 loại thầy:
- Loại 1: Thày và trò cùng làm. Tam cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm.
- Loại 2: Thầy không cần làm, nhưng sự hiện diện của thầy cũng đủ cho đệ tử phấn chấn.
- Loại 3: không có thầy hiện diện mà chỉ cần nhớ đến, nghĩ về thầy, là đệ tử hăng say làm việc.
Đức Giêsu chắc phải là loại thầy thứ ba này. Thứ ba theo liệt kê, nhưng lại là đệ nhất theo thứ hạng: đệ nhất danh sư. Chỉ cần nhớ đến thầy, là trò lên tinh thần. “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.”
Vậy ở góc độ con người suy nghĩ, vì sao Chúa xa cách ta: là để đồ đệ trưởng thành…
2. Dưới góc độ Thiên Chúa
Tại sao Chúa Giêsu lại xa cách các môn đệ? Ta hãy để chính Chúa Giêsu trả lời, và trả lời này được Sách Tin Mừng Gioan ghi rõ:
• Ga 14,3: Thầy đi là để dọn chỗ cho anh em. Không phải trên Nước Trời sẽ có ghế có bàn, phải dọn phải dẹp, nhưng Đức Giêsu muốn nói Ngài đi trước. Trong ngành du lịch gọi là tiền trạm.
Người thứ nhất từ kẻ chết sống lại là Ngài, thì người thứ nhất lên trời cũng là Ngài. Người thứ nhất chứ không phải người duy nhất. Thứ nhất là đi trước. Chúng ta sẽ là thứ hai, thứ ba, thứ một tỷ... Người thứ nhất như vậy là để dọn đường dọn chỗ. Và rồi Thầy sẽ trở lại đón đồ đệ, để Thầy ở đâu, đồ đệ cũng ở đó với Thầy.
• Ga 16,7: Thầy đi thì có lợi cho anh em.
Đức Giêsu không nói suông: Thầy đi, người khác tới. Mà nói rõ: có lợi cho anh em. Cán cân “lợi” đã nghiêng về người sẽ tới, tức Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ.
Người ta thường sánh ví thế này:
- Nếu Giáo hội là một toà nhà, thì người có sáng kiến xây toà nhà đó là Chúa Cha. Người thực hiện, người xây là Chúa Con, và người bảo trì, trang trí, làm cho toà nhà hoạt động là Chúa Thánh Thần. Vai trò bảo tri, trang hoàng, điều hành, quan trọng đến mức nào.
- Nếu Giáo hội là một đoàn thể, thì người có ý định lập đoàn thể là Chúa Cha. Người thành lập là Chúa Con và Người nuôi dưỡng đoàn thể đó sống là Chúa Thánh Thần. Thầy đi thì có lợi vì lúc đó Đấng nuôi dưỡng mới tới. Ta hay nói, lập một đoàn thể không khó cho bằng duy trì đoàn thể đó hoạt động.
- Nếu Giáo hội là một lớp học thì Đức Giêsu là thầy dạy, chất liệu để dạy là từ Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần là Đấng Ôn Tập, làm cho học trò nhớ và làm điều thầy dạy. Thầy đi thì có lợi cho anh em, vì lúc đó Đấng Ôn Tập sẽ tới (Ga 16,13-15; 14,26).
• Ga 14, 12 Họ làm những việc Thầy làm và còn làm những việc lớn hơn nữa khi Thầy về cùng Cha.
Thầy ra đi, là để chứng tỏ tin tưởng vào đồ đệ. Người ta kể rằng khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Người về trời. Thiên thần Gabriel đi đón từ xa, và phỏng vấn:
- Thưa Ngài, công trình Ngài được tiếp tục thế nào ở trần gian?
- Ta có 12 tông đồ, một nhóm môn đệ và vài ba phụ nữ. Ta đã trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng tới mút cùng trái đất.
Nghe vậy, chưa thoả mãn, thiên thần Gabriel hỏi thêm:
- Nếu nhóm nhỏ đó thất bại, Ngài có chương trình nào khác không? Có phương án 2, kế hoạch B… không?
Đức Giêsu mỉm cười:
- Không, ta không dự trù kế hoạch nào khác. Ta tin tưởng vào họ.
Tin Mừng Ga 14,12 ghi rõ: Họ làm những việc Thầy làm và còn làm những việc lớn hơn nữa khi Thầy về cùng Cha.
Chả trách gì Tin Mừng Luca thuật lại việc Chúa về trời, xa cách các môn đệ, lại ghi rõ ràng đầy ”mâu thuẫn”, khi xa cách Thầy, các môn đệ không buồn mà lại “lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24, 52).
Mỗi người chúng ta đều có lúc phải ra đi. Ông bà sẽ ra đi, cha mẹ sẽ ra đi. Ta đã chuẩn bị gì cho con cái chưa để khi ra đi, con cái, con cháu ta đã trưởng thành, đủ hành trang vào cuộc sống.
Ta là người lãnh đạo, người thợ chuyên môn… Khi rời vị trí, ta phải làm sao để không có một khoảng trống nào, không có một công việc nào bị suy sụp, mà trái lại, người đến sau vẫn hoạt động và hoạt động còn hơn ta nữa, như vậy ta mới là danh sư đệ nhất, giông đệ nhất danh sư Giêsu: Thầy đi thì có lợi cho anh em.
Tin mừng Lc 24: 46-53: Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại...
SUY NIỆM
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội Công Giáo mừng biến cố: Chúa Giêsu thăng thiên. Khi cử hành biến LênTrời ABC-476
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội Công Giáo mừng biến cố: Chúa Giêsu thăng thiên. Khi cử hành biến cố này, Giáo Hội không đơn thuần nhắc lại một biến cố, một sự kiện, nhưng là xác tín lại một niềm tin: quê hương đích thật của con người không phải ở trần thế, nhưng ở “núi thánh của Thiên Chúa” được hiểu là “chốn trời cao”, điều đó cũng có nghĩa là thân xác con người tuy được cấu tạo bởi những yếu tố hữu cơ, nhưng nhờ cái chết của Chúa Kitô trên Thập Giá, yếu tố hữu cơ ấy đã bị hủy bỏ, và thân xác được thần hóa qua việc Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ, ra khỏi thế giới hư hoại để biến thân xác đó thành bất tử và được dự phần vào sự sống vĩnh hằng với Thiên Chúa, nơi để sự sống đó hiện hữu chính là “chốn trời cao”.
Vì thế việc lên trời của Chúa Giêsu tiếp nối sau biến cố phục sinh của Chúa là một tiến trình của nhiệm cục cứu độ. Nhiệm cục đó khởi sự do chính Đấng ở ngự trên tròi, như thánh Phaolô đã khẳng định: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Phl 2, 6-7). Và sau khi đã hoàn tất sứ vụ Người trở về nơi Người phát xuất. Trở về không có nghĩa là chấm dứt, nhưng như lời Chúa Giêsu phán: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó (Ga 14, 2-3). Như vậy, Chúa về trời là để tiếp tục sứ vụ cứu chuộc qua việc “dọn chỗ” cho những người thuộc về Chúa, để “Chúa ở đâu, họ ở đấy với Chúa”. Việc dọn chỗ trước tiên chính là Người gởi Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ, để các ngài đi loan báo Tin mừng, qua nghe người ta tin và nhờ đó học được cứu độ.
Quả thật chỗ mà Đức Kitô dọn cho chúng ta không là một không gian ba chiều theo vật lý, nhưng là nơi cư ngụ của Đấng vô thuỷ vô chung, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, không lệ thuộc vào bất cứ một điều gì liên quan đến cấu trúc của thế giới này, bởi thế giới này chẳng có gì là tồn tại, vững bền. Vâng, nơi mà Đức Kitô lên ngự, chính là nơi được xây lên bởi những viên đá tình yêu, nơi đó không bao giờ bị huỷ diệt như thánh Phaolô khẳng định: “Đức mến không bao giờ mất được’’ (1Cor 13, 8). “Mất làm sao được” vì nơi đó không có hận thù ghét ghen, không có đố kỵ, hận thù, vì thế không có mầm mống của đau khổ và chết chóc, nơi đó chỉ có bình an và hạnh phúc, không có huỷ diệt chỉ có trường tồn, không có bóng tối chỉ có ánh sáng, không có sự chết chỉ có sự sống, vì gạch tình yêu làm nên nơi ở luôn thấm đượm điều mà thánh Phaolô nói: nơi đó toát lên sự: hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1Cor 13, 4-7). Thánh Gioan đã minh định: “Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy” (1 Ga 4,16), và Thánh nữ Têrêsa Hầi Đồng Giêsu đã cảm nghiệm được niềm vui của người ở trong tình yêu Thiên Chúa: “Tình yêu chỉ mong ước được trao hiến: Tôi cảm thấy tình bác ái đi vào trong tâm hồn tôi, nhu cầu phải quên mình để làm đẹp lòng, và từ đó tôi cảm thấy hạnh phúc. Đó không phải chỉ là hạnh phúc mà thôi, nhưng còn là niềm vui mừng sâu xa nữa”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong bài giảng vào ngày 17-04-2013 đã khẳng định rằng, chúng ta, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, đã được thánh hiến để trở thành con của Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, vì thế, mỗi người chúng ta đều có niềm hy vọng được đến nơi ở mà Chúa Giêsu đã dọn, ngài nói: Chúa Thánh Thần tạo ra trong chúng ta tình trạng làm con cái Thiên Chúa mới này, và đây là món quà lớn nhất mà chúng ta nhận được từ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu. Và Thiên Chúa đối xử với chúng ta như những người con, Ngài hiểu chúng ta, tha thứ cho chúng ta, ôm ấp chúng ta và yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta lầm lỗi. Trong Cựu Ước, ngôn sứ Isaia nói rằng mặc dù một người mẹ có thể quên con mình, Thiên Chúa chẳng bao giờ quên chúng ta, chẳng bao giờ (x Is 49:15). Và điều này tuyệt vời”, vì nhờ đó mà chúng ta được chung hưởng vinh phúc trong Vương quốc của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, việc đón nhận hồng phúc đến ở với Chúa không là một ân ban mang tính thụ động, nhưng còn là lời mời gọi mang ân ban đó đến cho người khác. Như vậy, việc “dọn chỗ” không là công việc của riêng Chúa về trời, mà còn là công việc của chính chúng ta, những người môn đệ của Chúa, những người con được Cha yêu thương. Quả thật, Chúa Giêsu đã chỉ thị rõ ràng: người môn đệ phải là chứng nhân về công trình cứu chuộc, chứng nhân về ân ban được làm con Thiên Chúa và được bước vào vương quốc của sự sống. Quả thật, việc loan báo công trình cứu chuộc của Chúa thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu, bởi qua phép Rửa, người Kitô hữu được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô, được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, được dự phần vào nhiệm vụ của Chúa Kitô, tức là dự phần vào việc “dọn chỗ trên trời” của Chúa. Vì thế, khi cử hành biến cố thăng thiên, cũng là lúc chúng ta minh định nhiệm vụ loan báo Tin Mừng của chúng ta, có như thế chúng ta mới hiểu được tâm tư của thánh Phaolô: Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.(1Cr 9, 16). Rao giảng Tin Mừng là chứng tá về một cuộc sống mới mà Chúa Kitô đã trao ban qua cái chết và sự phục sinh của Người, và nói tới một nơi cư ngụ vĩnh cửu mà Người dọn sẵn qua biến cố thăng thiên của Người. Có thể nói rằng, giữa cuộc đời trần thế chất chứa bao nỗi muộn phiền, chúng ta, những người Kitô hữu còn có cơ hội để kín múc được niềm vui và hạnh phúc, bởi khi thi hành nhiệm vụ loan báo chúng ta trao ban cho lương dân niềm hy vọng, niềm hy vọng sự sống đời trong Vương quốc của Thiên Chúa, và khi chúng ta cho ai niềm vui cũng là lúc chúng ta đón nhận niềm vui. Niềm hy vọng chúng ta loan báo không là chuyện hão huyền, nhưng đây là một thực tại không thể nào không có, bởi chính Chúa Kitô là thực tại đó, và chúng ta cũng đang là chứng tá cho thực tại đó, một thực tại mà thánh Gioan đã quả quyết: “Thật vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người” (1 Ga 1, 2-3).
Vâng, sự sống của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Kitô chúng ta vẩn thấy và vẫn nghe hằng ngày ngay chính trong lòng Giáo Hội, Đức Benêđictô XVI trong bài giảng ngày 29-04-2009 đã quả quyết: “Chính trong Giáo Hội mà Thiên Chúa hiện diện, Ngài tự hiến cho chúng ta trong Thánh Thể và ở lại đó để chúng ta thờ lậy. Thiên Chúa nói với chúng ta trong Giáo Hội. Trong Giáo Hội Thiên Chúa ‘đi dạo với chúng ta’ như thánh Germano đã nói. Trong Giáo Hội chúng ta nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa và học tha thứ”. Chúng ta làm chứng cho thực tại này, thực tại của niềm hy vọng mai sau bằng chính thực thi điều kiến tạo nên nơi ngự của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Đây cũng chính là huấn lệnh của Chúa để lại trước khi Người về trời: các con hãy yêu nhau như Thầy yêu các con”. (Ga 15, 9-17)
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được dự phần vào công việc thánh thiêng: dọn chỗ trên trời cho anh chị em của chúng con. Xin cho chúng con ý thức được hồng ân này để chúng con hăng say loan báo Tin Mừng, sống chứng ta cho niềm hy vọng mà chúng con đang hướng về. Amen.
Tin Mừng Lc 24: 46-53: Đức Giêsu nói với các môn đệ: “chính các con làm chứng về những điều ấy” (Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy...
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “chính các con làm chứng LênTrời ABC-477
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “chính các con làm chứng về những điều ấy” (Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy. Vậy làm chứng là gì? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.
Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất chính xác, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Chính vì thế khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Ra đi tuyên xưng niềm tin, niềm tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, vào Đấng đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “mỗi tín hữu, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, nhất là bí tích Thêm Sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa và cách thức làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống tốt lành thánh thiện của chúng ta.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được nghe nói. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu thật ý nghĩa: “người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Đức Kitô”.
Làm chứng cho Đức Kitô là làm sao diễn tả được dung mạo của Ngài ngay trong cuộc sống của mình. Làm chứng cho Đức Kitô là làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sống. Làm chứng cho Đức Kitô là làm sao diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa chúng ta.
Để có thể làm chứng về Chúa Giêsu cho những người khác, chúng ta phải thực hiện nơi chính bản thân của chúng ta như trong ngạn ngữ của Trung Hoa:
“Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân, Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia, Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.
Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp, Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa, Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị, Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.
Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới. Làm chứng một cách mạnh dạn như tổng thống Putin: báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm Thánh Giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ Rửa Tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm Thánh Giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế. Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “tôi tự hào là một người tín hữu… niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta dành ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta, nhưng chúng ta cũng sẽ không được thụ động mải mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. Chúa đã nhắc nhở chúng ta hôm nay: Đấng Kitô phải chịu đau khổ, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24,46-53). Phải trải qua đau khổ mới có thể tham dự vào vinh quang của Chúa. Phải cùng Chúa vác Thập Giá thì mới được vào vinh quang thiên quốc, cùng với Chúa hưởng niềm vui trên cõi trời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Anh Em HV Đaminh chuyển ngữ)
Vào đại lễ Thăng Thiên chúng ta đã cử hành việc Đức Giêsu trở về với Cha. Thánh Luca đã thuật LênTrời ABC-478
Vào đại lễ Thăng Thiên chúng ta đã cử hành việc Đức Giêsu trở về với Cha. Thánh Luca đã thuật lại cho chúng ta khoảnh khắc đó trong bài đọc một, trích từ sách Công vụ Tông đồ (1,1-11). Khi Đức Giêsu được cất lên khuất khỏi tầm mắt của các môn đệ thì xuất hiện "hai người đàn ông mặc áo trắng" đứng bên cạnh họ. Rồi hai người đó hỏi các môn đệ tại sao vẫn đứng đó mà ngước nhìn về trời. Họ đã quả quyết với các ông rằng Đức Giêsu sẽ ngự đến "y như các ông đã thấy người lên trời." Hai ông đã gợi lại những gì Đức đã hứa với các môn đệ: Thánh Thần sẽ đến để hoàn tất những gì Đức Giêsu đã khởi sự, bằng việc tăng sức cho họ để họ tiếp tục sứ vụ của Người cho đến khi Người trở lại. Họ cũng nói về sự trở lại của Đức Giêsu vào thời sau hết, khi Người đến để đưa mọi sự tới thành toàn.
Thông điệp mà hai người đàn ông đã nói với các môn đệ cũng là nói với chúng ta. Chúng ta sẽ không bị bỏ mặc một mình để hoàn tất một danh mục "những việc phải làm và không được làm" mà Đức Giêsu để lại. Không có loại danh mục như thế. Những gì Người hứa là gửi Thánh Thần để trợ giúp. Nếu Thánh Thần không đến thì các môn đệ và cả chúng ta chỉ có nước đóng cửa tiệm mà về nhà và quên đi việc cố gắng trở thành Kitô hữu trong một thế giới thờ ơ lạnh nhạt này! Nếu không có Thánh Thần, chúng ta có thể bị bỏ mặc với những cố gắng công thức hóa các lời dạy của Đức Giêsu thành một mớ những lối hành xử. Như thế thì thật là tẻ nhạt, quan liêu và trống rỗng làm sao!
Không phải mãi tuần tới mới là lễ Hiện Xuống, song ngay hôm nay chúng ta đang ở giữa thời điểm mà Đức Giêsu đã nói: mong đợi "lời hứa của Cha," Thánh Thần đến vào ngày lễ Hiện xuống. Dĩ nhiên, Thánh Thần đang ở với chúng ta; Đức Giêsu đã hoàn thành lời của Người, và gửi cho chúng ta Đấng Được Hứa. Cũng thế, Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta một cơ hội để đụng chạm đến những gì mang lại cảm giác giống như đang sống trong thời kỳ đợi trông và chưa hoàn tất. Dù có quà tặng của Thần Khí, chúng ta vẫn đang ở khoảng giữa của thời điểm đức Giêsu Thăng thiên và ngày Người trở lại vào giờ tận thế. Quá nhiều việc còn bỏ dở dang trong đời sống của mỗi chúng ta, trong giáo xứ và trong thế giới. Chúng ta vẫn còn nghe vang vọng lời khuyến dụ của bài đọc Khải huyền, "Ai nghe hãy nói 'Xin Ngài ngự đến." Ai khát hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh."
Chúng ta là một dân đang chờ đợi. Tuần này, Chúng ta được nhắc nhớ điều đó khi chúng ta cử hành ngày lễ vọng để đón Thần Khí đến cuộc sống chúng ta một lần nữa vào ngày lễ Hiện xuống. Trong lúc chờ đợi, chúng ta biểu tỏ qua lời Kinh Lạy Cha: "Nước Cha trị đến..." Chúng ta muốn được là khí cụ mang đến sự hoàn tất của vương quốc tình yêu, hiệp nhất và công bình mà Đức Giêsu đã loan báo. Trong sự chờ đợi, chúng ta cũng cầu nguyện bằng câu cuối cùng trong Tân Ước, được trích trong sách Khải huyền rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến."
Bài Tin mừng của ngày hôm nay trích lại diễn từ từ biệt của Đức Giêsu và lời cầu nguyện của Người trong đêm trước ngày chịu nạn. Người sẽ nhìn vượt khỏi những người đang cùng bàn và hướng đến tương lai, để thấy chúng ta những người sẽ tin vào Người nhờ những lời rao giảng của họ. Sách Công vụ Tông đồ bắt đầu các tường thuật về những gì các môn đệ đầu tiên đã thực hiện nhờ tác động của Thánh Thần. Họ không còn sợ hãi và đi rao giảng khắp mọi nơi. Chúng ta đã đón nhận và chấp nhận những lời của các môn đệ, và cùng với các ngài, chúng ta đã cảm nghiệm được sự sống của Thánh Thần. Thánh Thần đó làm cho chúng ta có thể sống một đời sống của tình yêu hy hiến mà Đức Giêsu đã dạy.
Chẳng hạn, trong bài đọc Công vụ hôm nay, chúng ta chứng kiến cái chết của vị tử đạo đầu tiên là Têphanô. Chúng ta đừng bỏ qua điểm tương đồng trong cái chết của Têphanô, cũng có lời cầu nguyện cho những kẻ hành hình, với cái chết của Đức Giêsu? Sẽ đến ngày chúng ta được thông ban Thần Khí của Đức Giêsu, chúng ta cũng sẽ cầu nguyện như Têphanô "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy linh hồn con."
Ngày đó có thể vẫn còn xa. Chúng ta đang trong thời điểm lưng chừng, đang mong đợi sự hoàn tất mọi sự trong Đức Giêsu. Chúng ta nghe thấy câu mà hai người đàn ông đã hỏi lúc Chúa Thăng Thiên, "Sao các ông còn đứng đó mà nhìn lên trời?" Trong lúc chờ đợi sự trở lại của Đức Giêsu, chúng ta có việc phải làm. Chúng ta phải sống đời sống thường nhật của mình với sự hướng dẫn của những lời cuối cùng mà Đức Giêsu nó với các môn đệ - chúng ta hành động vì hiệp nhất; hoa trái của sự hiện diện đầy yêu thương của chúng ta trong thế giới. Chúng ta được hứa ban cho Thần Khí và vì vậy chúng ta mở lòng ra với sự nhân ái và yêu thương đối với tất cả mọi người thuộc mọi tôn giáo và truyền thống.
Trong khi đợi chờ Đức Giêsu trở lại và mọi sự được hoàn tất trong Người, chúng ta tin rằng lời hứa của Đức Giêsu đã được hoàn trọn. Chúng ta đã được Thần Khí làm cho mạnh mẽ và vì thế có thể gạt đi những hận thù và trao tặng sự tha thứ. Nhờ Thần Khí của Người, đời sống của chúng ta được ghi dấu cũng bằng chính tình yêu của Đức Giêsu. Qua Thần Khí, chúng ta học được sự tín thác mỗi ngày và phó thác đời mình hơn nữa trong bàn tay của Thiên Chúa. Chúng ta sống mỗi ngày trong khoảnh khắc hiện tại khi chúng ta phục vụ và yêu thương những người thân cận. Trong tất cả lời nói, hành động, suy nghĩ, yêu thương và trao tặng, chúng ta nguyện rằng Đức Giêsu sẽ nối kết chúng ta lại trong một mái nhà, một công việc và trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống, để giúp chúng ta làm việc thiện trong danh của Người. Chúng ta cầu xin "Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến." Vì chúng ta cầnThánh Thần của Người để giữ vững niềm hy vọng và nỗ lực như môn đệ của Người trong một thế giới không ngừng chối bỏ và chống đối này.
Sứ vụ mà Đức Giêsu nhận từ Chúa Cha là bộc lộ qua đời sống của Người tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Giờ đây, lời cầu nguyện của Đức Giêsu cho thấy ước mong của Người rằng: Người và Cha sẽ cư ngụ trong cộng đoàn những người tin và tình yêu của cộng đoàn sẽ phản chiếu sự hiện diện yêu thương của Cha và Con. Nếu chúng ta làm chứng cho tình yêu linh thánh giữa chúng ta, thì tình yêu đó sẽ lôi kéo người khác đến với chúng ta ("... để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa"). Sứ vụ của Giáo hội là phản ánh tình yêu mà chúng ta đã biết nơi Đức Kitô.
Đức Giêsu muốn rằng chúng ta cũng sẽ phản ánh sự hiệp nhất giữa Người và Chúa Cha. Đó là một lệnh truyền cho chúng ta - cả trong Hội thánh cũng như giữa các Giáo hội. Nếu chúng ta chưa phản ánh hoàn toàn sự hiệp nhất như Đức Giêsu với Cha, chúng ta được khuyên hãy nghe Người nói, "Con đã cho họ biết danh Cha và sẽ còn cho họ biết nữa". Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta. Để nhận biết Thiên Chúa của chúng ta là công việc tiệm tiến; Đức Giêsu tiếp tục mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta và bày tỏ ước muốn của Thiên Chúa vì sự hiệp nhất của chúng ta,
Hôm nay, khi lên hiệp lễ, chúng ta sẽ hiểu được sự hiệp nhất đã có trong chúng ta: chúng ta sẽ nhận cùng một Mình và Máu của Chúa. Nhưng chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ việc thiếu sự hiệp nhất giữa chúng ta. Thực ra, dường như ngày nay sự khác biệt ngay trong Hội thánh của chúng ta lớn hơn gấp nhiều lần sự khác biệt giữa các giáo hội. Khi hiệp lễ sẽ cho ta một cơ hội để cầu xin Đức Giêsu rằng sự hiệp nhất Người với Cha được phản ánh một cách hoàn hảo hơn nữa trong chính giáo hội của chúng ta và giữa tất cả người tin.
Một thuyết minh viên trên truyền hình cách đây vài ngày đã cho rằng vụ bê bối về lạm dụng hiện nay trong Giáo hội của chúng ta là khủng hoảng tồi tệ nhất của chúng ta trong 200 năm qua. Thần Khí mà Đức Giêsu đã hứa cần đến để làm mới lại một lần nữa, như Người đã làm trong ngày lễ Hiện Xuống, với luồng gió và hình lưỡi lửa. Bởi vì chúng ta đang trong tuyệt vọng và cần hơi thở chữa lành và khôn ngoan của Thần Khí. Chúng ta cần Thần khí để nhóm lên một ngọn lửa mới trong chúng ta để chúng ta có thể chú tâm trọn vẹn cho sứ vụ Đức Giêsu đã trao cho chúng ta khi Người ra đi là: Hãy loan báo Tin Mừng bằng lời nói và cả việc làm.
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ LênTrời ABC-479
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).
Chúa Thăng Thiên mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Giáo hội, kỷ nguyên của chính chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa đã cho chúng ta tất cả kể cả Con yêu Dấu của Ngài bằng một đời sống vui tươi, cảm tạ, một mối tương quan bác ái, huynh đệ đối với mọi người chung quanh để làm sao thể hiện một con người được cứu độ, được Thiên Chúa yêu thương và loan báo tình yêu thương đó cho mọi người.
Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.
Chúa lên trời chẳng qua là sự Người trở về cùng Chúa Cha và được biến hình cả thể xác lẫn tình thần, việc Chúa lên trời đó đối với các môn đệ cũng là một dấu chỉ tối cao về việc Ngài trở lại và nhờ đó, các ông cũng được lên trời. Từ giờ đó, họ biết rằng đời họ là một cuộc hành trình tiến về ánh sáng và bất chấp mọi trở ngại của cuộc sống trần gian cũng như quân thù bách hại, mọi chuyện sẽ hoàn tất trong ánh sáng của sự biến hình.
Chúa lên trời cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Vì vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Chuẩn bị cho cuộc sống mai sau có nghĩa là chúng ta phải biết rằng cuộc sống này chỉ là tạm bợ, chóng qua, để chúng ta không bám víu vào mà chỉ lo tìm kiếm những thứ thuộc về đời này, những thứ mà Chúa Giêsu gọi là thuộc về thế gian. Đồng thời chúng ta phải sống thực tại Nước Trời ngay tại trần gian này. Mà thực tại Nước Trời là gì nếu không phải là tình yêu thương. Do đó dấu hiệu để chúng ta biết mình sống ở đời này mà có lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau hay không chính là việc chúng ta có thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống hay không.
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Khi ta nói Đức Giêsu lên trời, điểm cốt yếu phải tin là Chúa Kitô đã sống lại và siêu vượt khỏi cái thế giới tù túng, tội lụy, hay thay đổi và đầy đau thương này. Với thân xác phục sinh, Người đã đi vào một thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Thế giới đó là thế giới xác thực, thiêng liêng, mới mẻ và siêu việt. Chỉ trong thế giới đó mới có sự sống đích thực. Thế giới đó siêu việt (chứ không xa cách) thế giới chúng ta đang sống. Đó là một thế giới khác biệt hẳn về phương diện thực hữu, chứ không phải về phương diện không gian xa gần hay rộng hẹp. Chúng ta có thể “sờ đụng” vào thế giới đó trong lòng tin và nơi các bí tích cứu độ. Đó là một sự “tiếp cận” một thực tại mầu nhiệm nhưng đồng thời rất thật, rất gần, thật và gần hơn cả cái thế giới phàm tục mà ta đang sống đây.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy việc Giáo Hội nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô, nối tiếp những công việc Người đã làm, kể cả những công viêc lạ lùng như trừ quỷ, chữa lành các bệnh nhân. Giáo Hội thể hiện sự hiện diện của Đức Kitô giữa trần gian. Sự hiện diện này không còn bị đóng khung trong thời gian và không gian. Nhưng đã được mở ra để có thể đến với mọi người.
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.
Việc Chúa Giêsu lên trời mãi mãi là một huyền nhiệm. Dùng ngôn ngữ loài người để tả một huyền nhiệm của Trời thì thật khó biết bao. Nhưng điều quan trọng là biến cố đã xảy ra. Thật khó mà tưởng tượng rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu cứ thưa dần, thưa dần cho tới khi tắt hẳn. Nếu thế đức tin con người sẽ tàn lụi. Nếu như Chúa Giêsu biến thành Đấng Kitô của cõi trời và không còn liên hệ gì với cõi trần này, lúc đó chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng.
Sống mầu nhiệm Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quang mình. Sống chứng nhân là xây dựng nước trời ngay trong cuộc sống này, trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình.
Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải lập nhà dòng hay xây dựng những cơ sở để làm việc từ thiện như Mẹ Têrêsa, điều Ngài chờ đợi nơi mỗi người chúng ta là hãy bỏ đi tính ích kỷ xâm chiếm cuộc sống của chúng ta để mở tâm hồn mở con tim mở miệng ra để sống cho Ngài và cho tha nhân.
Chúa Về Thiên Quốc Sáng Ngời Vinh Hiển, Con Ở Thế Trần Kiên Vững Chứng Nhân. Triết gia LênTrời ABC-480
Chúa Về Thiên Quốc Sáng Ngời Vinh Hiển Con Ở Thế Trần Kiên Vững Chứng Nhân
Triết gia Henri Frédéric Amiel (1821-1881, Thụy Sĩ) nhận định: “Sự không chắc chắn là nơi trú ẩn của niềm hy vọng”. Vì không chắc hoặc chưa chắc nên mới cần nuôi dưỡng niềm hy vọng. Nhưng đó là đối với cuộc sống đời thường. Còn đối với cuộc sống tâm linh có phần khác: Tùy vào cách sống của mình mà có thể chắc chắn được về trời hay không, còn Chúa Giêsu hứa sẽ trở lại đón chúng ta về trời thì đó là điều chắc chắn tuyệt đối.
Đối với các Kitô hữu, niềm hy vọng về trời với Chúa Giêsu là điều cao xa – với ý cao thượng, cao cả, chứ không viễn tưởng hoặc mơ hồ. Niềm hy vọng đó là niềm khao khát cháy bỏng và mạnh mẽ, vì thế mà Kitô hữu không ngại từ bỏ mình và chấp nhận mọi thua thiệt ở trần gian này – kể cả sinh mạng của mình, mặc dù cuộc sống rất quý giá.
Là văn sĩ, họa sĩ, kiêm khoa học gia, nhưng Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, người Đức) nhận định rất chí lý: “Chín điều cần thiết để sống thỏa nguyện: Đủ sức khỏe để biến công việc thành lạc thú; đủ tiền bạc để đáp ứng nhu cầu bản thân; đủ sức mạnh để chống lại và vượt qua nghịch cảnh; đủ trang nhã để thú nhận tội lỗi và bỏ chúng lại sau lưng; đủ kiên nhẫn để lao lực cho tới khi đạt được điều gì đó tốt đẹp; đủ khoan dung để thấy được điểm tốt ở hàng xóm; ĐỦ YÊU THƯƠNG để khiến mình có ích cho mọi người; ĐỦ ĐỨC TIN để biến lời răn của Chúa trời thành hiện thực; ĐỦ HY VỌNG để vứt bỏ nỗi sợ hãi bất an hướng về tương lai”. Chín “cái đủ” ấy thật tuyệt vời biết bao!
Chúa Giêsu về trời trước, nghĩa là Ngài xa chúng ta một thời gian – chỉ xa theo dạng hữu hình mà thôi, vì chính Ngài vẫn ở cùng chúng ta cho tới tận thế – cụ thể là Thánh Thể. Tất nhiên cuộc chia tay nào cũng đầy lưu luyến, bịn rịn, đôi khi còn buồn thảm, và người ta luôn hẹn gặp lại nhau. Nhưng cũng có những cuộc chia tay khiến người ta vui mừng và hy vọng, đặc biệt nhất là cuộc chia tay giữa Chúa Giêsu và các môn đệ vào ngày Ngài về trời. Chúng ta vui mừng và hy vọng, vì chính Ngài đã hứa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:1-3). Lời hẹn “tái ngộ” của Chúa Giêsu là sự thật chắc chắn.
Khi hẹn gặp lại nhau, người ta luôn nôn nóng chờ đợi tới ngày đó – nhất là đối với đôi nam nữ yêu nhau mà ở xa nhau. Vương quốc của Chúa Giêsu không phải ở thế gian này, nhưng người ta lại tưởng Ngài là nhà cách mạng, đang tìm cách khôi phục vương quốc trần gian. Do đó, người ta đã hỏi dò Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1:6). Thế nhưng không phải vậy và không là vấn đề, rồi Ngài xác định: “Anh em KHÔNG CẦN BIẾT thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là CHỨNG NHÂN của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7). Vấn đề quan trọng là sống đời chứng nhân chứ không là gì khác.
Và rồi vừa nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt họ, có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, về phía Ngài đi mất hút, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11). Thật mà như mơ, mơ mà là thật. Nhớ Thầy và thương phận mình lắm, nhưng hy vọng rất nhiều.
Ôi thật lạ lùng quá chừng! Đối với phàm nhân, kể ra thì cũng thấy buồn khi Ngài đã đi xa, thế nhưng chúng ta không hề thất vọng, vẫn tràn trề hy vọng, và chúng ta cũng chẳng mồ côi. Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, và Ngài còn gởi Chúa Thánh Thần đến nâng đỡ chúng ta từng ngày, Đấng ấy là Đấng Bảo Trợ – Ngôi Ba Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đi mà chúng ta không hề buồn chi. Hy vọng tràn đầy, Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Ôi, thật hạnh phúc khi chúng ta được nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa như vậy.
Vui tiếp vui, mừng nối mừng, niềm hy vọng như được kéo dài và lan tỏa kỳ lạ: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:6-9). Cuộc chia tay nào cũng mặc vẻ buồn, không nhiều thì ít, dù mặc nhiên hoặc minh nhiên, nhưng cuộc chia tay của Chúa Giêsu với chúng ta lại không u buồn, ngược lại rất hân hoan.
Đất thấp, trời cao. Khác mà không lạ. Xa mà vẫn gần. Thánh Phaolô cho chúng ta biết: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh” (Dt 9:24-25). Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9:26-28).
Chính vì vậy, “nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh” (Dt 10:19). Chúng ta chẳng là gì, hoàn toàn bất xứng, thế mà được diễm phúc vô cùng, bởi vì chính Chúa ban cho “quyền sống” đó. Và còn hơn như thế nữa, cũng chính Người đã “mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. Chúng ta lại có một vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa” (Dt 10:20-21). Vì thế, Thánh Phaolô khuyên các tín nhân: “Hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. Hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10:22-23). Đối với Thiên Chúa, tất cả đều tuyệt đối. Bất cứ ai có đức tin càng mạnh và đức mến càng sâu thì càng được Ngài độ trì.
Đức tin là điều không thể đụng chạm nhưng có thể cảm nghiệm, nhưng cần phải cụ thể hóa bằng việc làm, nếu không thì đó chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Sống đức tin là hành động cần thiết, luôn phải kiên trì và không ngừng canh tân. Vì sống đức tin là mối phúc đặc biệt mà chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Đức tin sống nhờ “hơi thở” yêu thương. Sống đức tin là thể hiện đức tin một cách sống động và cụ thể. Sống đức tin là sống đạo, chứ không chỉ dừng lại ở việc giữ đạo hoặc chỉ giới hạn từ cửa nhà thờ vào phía trong. Giữ đạo thì không khó, có thể nói là dễ, nhưng sống đạo thì không dễ chút nào và phức tạp lắm, cần phải thực sự can đảm và dứt khoát. David Coperfield có biệt tài ảo thuật thế nào cũng chẳng hơn chúng ta: Là con chiên hiền lành khi vào trong nhà thờ, nhưng hóa con cọp dữ dằn khi ra ngoài nhà thờ. Đúng là “siêu” thật!
Chúa Giêsu nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Chẳng có niềm hạnh phúc nào mà vắng bóng đau khổ, chẳng có niềm vui nào thiếu khoảng buồn. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà còn chịu đau khổ đến tột cùng mới có thể vinh thắng, thế thì chúng ta không thể không đau khổ khi sống đạo một cách chân thành đúng nghĩa, tích cực chứ không chỉ theo luật buộc những điều tối thiểu (đi lễ Chúa Nhật, xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh).
Giữ đạo không hẳn là giống như sống đạo – giống mà khác. Sống đạo là làm chứng về Đức Kitô, về Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã truyền lệnh: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Và chắc chắn mệnh lệnh này không miễn trừ bất kỳ ai.
Ngày ấy, khi Chúa Giêsu chia tay các môn đệ để về trời, cuộc chia tay không buồn thảm mà lại chứa chan niềm hy vọng: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Nói xong những lời đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Đang khi chúc lành, Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời. Thầy đi rồi!
Thầy về trời thì trò phải vào đời, không thể khác được. Thánh Luca tường thuật rõ ràng: “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24:52-53). Đức Kitô chịu chết nhưng đã phục sinh khải hoàn và lên trời, chúng ta cũng hy vọng được sống lại và lên trời để vĩnh cư với Ngài. Đó là niềm hy vọng đích thực và niềm hạnh phúc khôn tả đối với các tín nhân.
Chúa Giêsu đã hẹn “see you again” với chúng ta, thế thì lẽ nào chúng ta lại không muốn hẹn tái ngộ với Ngài? Chắc chắn chúng ta cũng hẹn gặp Ngài để đoàn tụ tại Quê Nhà – nhưng trong ngày sum vầy đó, hy vọng chúng ta không bị xếp đứng bên bầy dê lông đen ngòm hoặc xám xịt, mà được xếp đứng bên đàn chiên lông trắng toát.
Lạy Thiên Chúa tối thượng duy nhất và giàu lòng thương xót, xin ban thần khí can đảm để chúng con sống đạo và thể hiện đức tin trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống tạm này. Để nhờ đó, chúng con chắc chắn được về trời đoàn tụ với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Mẹ cùng chư thần chư thánh, sau khi chúng con hoàn tất nhiệm vụ sống nơi trần gian. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Ngày thứ 40 sau Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Giêsu lên Trời. Lên trời LênTrời ABC-481
Ngày thứ 40 sau Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Giêsu lên Trời. Lên trời là lên đâu? Phải chăng là bầu trời cao xanh mà chúng ta nhìn thấy mỗi sớm mai thức dậy? Người ta bảo rằng, khi nhà du hành vũ trụ đầu tiên người Nga tên là Gagarin từ ngoài không gian vũ trụ trở lại trái đất, ông đã phát biểu: Tôi đã nhìn và tìm kiếm nhưng chẳng thấy Chúa Trời đâu cả. Một phi hành gia khác người Mỹ tên là Aldrin đã cùng Armstrong đặt chân xuống mặt trăng đầu tiên. Trước vũ trụ bao la, Aldrin đã đọc to: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến”.
Trời, nơi gặp gỡ Thiên Chúa
Nếu Trời mà Chúa Giêsu đi lên là bầu trời trong không gian vũ trụ thì thật buồn cười và phi nghĩa. Nhưng Trời mà Chúa Giêsu đi lên là Ông Trời, là Đức Chúa Trời, là Nước Trời, là Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ. Nơi ấy vượt ra ngoài không gian và thời gian của vũ trụ này. Nơi bình an và hạnh phúc tràn đầy và hoàn hảo trong tình yêu của Thiên Chúa.
Nhân loại, đặc biệt là Á Đông, cũng cố gắng hình dung ra nước trời. Quang cảnh của thiên đình được mô tả có ngọc hoàng, có các vị thần tiên. Nhưng đó là cái nhìn phóng chiếu từ cuộc sống của con người. Chính Đức Giêsu đã khẳng định “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Đấng từ Trời mà đến nên chỉ có Ngài biết rõ Trời là thế nào.
Đức Giêsu luôn hướng về Trời
Đức Giêsu trong thân phận là người, Ngài đã luôn luôn hướng về Trời. Và sau khi chiến thắng tử thần, Ngài đã sống lại từ cõi chết và trở về Trời, trở về với Chúa Cha.
Trong những năm tháng Đức Giêsu đi rao giảng, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước mỗi công việc. Ngài cầu nguyện một mình nơi hoang vắng. Đó là giờ phút Ngài gặp gỡ Thiên Chúa, tìm thánh ý Chúa. Ngài luôn thi hành công việc của mình theo ý Trời chứ không theo ý riêng của mình. Chỉ có một tâm hồn luôn hướng về Trời mới có tâm tình như Ngài đã nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
Mọi lời rao giảng của Đức Giêsu là rao giảng về Trời. Lời rao giảng đầu tiên của Ngài là: “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến bên; Hãy hối cải vào tin mừng” (Mc 1,14). Chỉ có Ngài là Đấng từ Trời mà đến nên mới có thể nói một cách chính xác Nước Thiên Chúa ấy là thế nào. Nhưng bởi trí khôn loài người có hạn nên Ngài luôn phải dùng những biểu tượng có tính tượng trưng để nói về Nước Trời: giống như hạt cải (Mt 13, 31-32), như nắm men (Mt 13,33)….
Ngài chữa lành các bệnh tật cho nhiều người. Nhưng sau khi chữa lành Ngài mời gọi họ hãy đi tạ ơn, hãy đi dâng lễ tế, hãy đi theo Ngài. Ngài mời gọi họ bước ra khỏi cuộc sống tầm thường này, Ngài đẩy họ đến với Trời.
Cả cuộc đời của Ngài luôn hướng về Trời cao. Ngay cả đến những giờ phút quyết liệt trước cuộc thương khó hay trên thập giá Ngài vẫn hướng về Trời mà thốt lên: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27); “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Không chỉ thế mà Ngài còn mong muốn kéo chúng ta lên Trời với Ngài: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Trước khi về Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra đi rao giảng và làm cho mọi người trở thành môn đệ của Ngài. Trở thành môn đệ của Ngài là đi theo Ngài. Đi theo Ngài để về Trời. Cuộc đời của người môn đệ, của những người đi theo Đức Giêsu có đời sống luôn thuận theo Ý Trời, luôn hướng về Trời cao, luôn ước ao được trở về với Trời.
Theo Đức Giêsu, chúng ta hướng về Trời
Tôi có thể là người đang điền viên với tuổi già, có thể là nhà khoa học trong những lãnh vực khác nhau, là sinh viên hay học sinh, là công nhân hay là nông dân, là người thành thị hay thôn quê. Nhưng dù là ai thì cùng đích đời tôi phải hướng về Trời. Công việc mà mỗi người đang đảm nhiệm chỉ là công cụ để giúp mình tiến về Trời. Mỗi nghề, mỗi lãnh vực đều có luật riêng của nó. Người bước theo Giêsu không hướng về những của cải vật chất mau qua, không hướng về quyền lực hay danh vọng, nhưng luôn sống trọn vẹn trong cương vị của mình với tâm hồn luôn hướng về Trời. Trời là đích điểm, là mục tiêu cuối cùng mà ta nhắm tới.
Trên hành trình tiến về Trời, ta không cô đơn. Chúa Giêsu đã hứa với nhân loại: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu luôn đồng hành với ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Lời Chúa Giêsu hứa ban Nước Trời cho những ai theo Ngài là bảo đảm chắc chắn. Bởi chính Ngài đã vượt qua cuộc sống khó khăn này và đã về Trời.
Đức Maria là người môn đệ đầu tiên bước theo Giêsu. Cả cuộc đời Mẹ đã luôn hướng về Trời. Những lúc khó hiểu, Mẹ vẫn tâm niệm một niềm tìm thánh ý Trời cao. Và Mẹ là người đã được về Trời cả hồn lẫn xác.
Có tình yêu của Chúa Giêsu ở với ta. Có Mẹ Maria đồng hành, ủi an, nâng đỡ ta. Trong niềm tin vào Chúa Giêsu và lòng yêu mến Mẹ Maria, chắc chắn ta đi đến được cùng đích của đời mình, sẽ được về Trời cùng với Giêsu.
Lạy Chúa, xin kéo tâm hồn con luôn hướng về Ngài. Xin Ngài đừng để con lạc hướng giữa dòng đời xô đẩy. Chỉ nơi Ngài con mới được an vui.
Chúa Giêsu trở về trời, nơi là quê hương nguồn gốc của Ngài, sau 33 năm sống trên trần gian. Nhưng LênTrời ABC-482
Chúa Giêsu trở về trời, nơi là quê hương nguồn gốc của Ngài, sau 33 năm sống trên trần gian.
Nhưng không vì thế mà Ngài bỏ rơi trần gian. Trái lại, Ngài đoan hứa hằng cùng đồng hành với trần gian trong mọi ngày.
Chúa Giêsu trở về với Thiên Chúa Cha của Ngài sau khi đã hoàn thành thánh ý của Thiên Chúa trên trần gian: dấn thân hy sinh mang ơn đức cứu độ cho con người.
Nhưng không vì thế mà sứ mạng của Ngài đến đó là hết. Trái lại, Ngài thành lập Giáo Hội để tiếp tục công việc Ngài đã thực hiện trên trần gian.
Chúa Giêsu trở về nơi là nguồn mạch của đời sống, sau khi Ngài đã rao truyền cho trần gian giá trị sự sống bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
Nhưng không vì thế mà trần gian bị cắt đứt xa lìa nguồn mạch sự sống. Trái lại, qua Giáo Hội Ngài để lại nguồn mạch ơn đức sự sống của Thiên Chúa nơi các Bí tích.
Những gì ta xem thấy hay đọc được qua biến cố Chúa Giêsu trở về trời?
1. Vầng mây bao phủ
Theo khía cạnh kỹ thuật chuyên chở ngày nay nay, biến cố Chúa Giêsu trở về trời được thuật lại trong Kinh Thánh: “Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông” (Cv 1,9).
Đọc những lời ngắn gọn này, ta có thể tưởng tượng như một chiếc máy bay cất cánh bay lao thẳng vào không trung xuyên lớp tầng mây.
Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu không dùng máy bay như bây giờ di chuyển từ nơi này đi sang khác. Nhưng vầng mây diễn tả điều gì huyền bí nhiệm mầu, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, của Thần Thánh.
Thiên Chúa hiện ra thiết lập giao ước với ông Noe sau trận lụt đại hồng thủy trong vầng mây (St 9, 12-13).
Trên đường trở về quê hương đất hứa, Thiên Chúa hiện ra dẫn đường cho dân Israel trong cột mây dẫn đầu chỉ đường đi (Xh 13, 21-22).
Trên đỉnh núi Sinai, Thiên Chúa hiện ra với Thánh Tiên tri Môsê trong vầng mây trao cho ông 10 điều răn của Chúa (Xh 24, 12-18).
Vầng mây bao phủ nói lều nhà tạm lên sự hiện diện vinh quang của Thiên Chúa ( Xh 40, 34-38).
Trên đỉnh núi Tabor, khi Chúa Giêsu biến hình, từ trong vầng mây có tiếng của Thiên Chúa Cha phán vọng ra (Mt 17,5).
Trong vầng mây bao phủ Chúa Giêsu trở về trời cao ( CV 1,9).
Thánh Gioan trong sách Khải huyền thuật lại thấy Chúa Giêsu hiện ra trong vầng mây (Kh 1,7; 14, 14-16).
Như thế, có thể nói vầng mây là dấu hiệu sự thánh thiện huyền bí về hiện diện của Thiên Chúa, và cũng sát gần gũi với con người.
Chúa Giêsu trở về trời quyện trong vầng mây cao trên nền trời, nhưng Ngài không rời xa trần thế con người. Người muốn Giáo Hội tiếp tục rao giảng làm chứng cho Ngài giữa trần gian.
2. Anh em là nhân chứng của Thầy
Khi người cha hay người mẹ đi xa vắng nhà. họ thường nói với các con mình: cha mẹ không quên, không bỏ các con một mình đâu. Cha mẹ luôn hằng nhớ đến các con. Các con nhớ giữ những lời cha mẹ đã dạy bảo căn dặn mà sống yêu thương đùm bọc nhau!
Cũng vậy, trở về trời Chúa Giêsu không bỏ rơi các học trò Tông đồ, những người tin theo Chúa. Người căn dặn họ: Anh em tiếp tục sống như Thầy đã dạy nhắn nhủ. Hãy tiếp tục rao truyền cùng làm nhân chứng cho Thầy, cho những lời giáo lý của Thầy giữa lòng xã hội trần gian (Mt 28,20).
Trung thành với lời Chúa Giêsu truyền lại cho, từ ngày đó hơn hai ngàn năm nay Giáo Hội không ngừng thi hành sứ vụ truyền giáo cho mọi người trải qua mọi thời đại, trong mọi hòan cảnh đời sống xã hội.
Và Giáo Hội đã trải qua thời kỳ hưng thịnh phát triển về nhiều mặt rất khả quan tốt đẹp. Nhưng cũng có những thời kỳ Giáo Hội gặp khó khăn bị nghi kỵ, bị theo dõi bắt bớ, bị cấm cách, gặp khủng hoảng từ trong lòng nội bộ.
Nhưng nhiệm vụ rao giảng làm chứng của Giáo Hội luôn trên căn bản làm sao những giá trị theo tinh thần Phúc âm của Chúa được loan truyền thể hiện trong đời sống xã hội về sự sống, về công bình bác ái, về tình liên đới giữa con người với nhau.
Trong dòng thời gian Giáo Hội đã luôn cố gắng rao giảng làm chứng cho Chúa:
– Xuyên suốt trải qua mọi thời gian ngày tháng, năm, thế kỷ.
– Tới cùng mọi biên giới hình thể địa lý trái đất.
– Nơi mọi con người trong các giai tầng hoàn cảnh thân phận đời sống về thể lý cũng như về tâm lý. Mang niềm vui cũng như sự an ủi giúp đỡ cảm thông đến cho con người.
– Gìn giữ bảo vệ ngôi nhà thiên nhiên là vũ trụ mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho con người. Và cùng với con người phát triển văn hóa, văn minh cho đời sống
– Củng cố các gía trị đạo đức tinh thần trong lòng đời sống xã hội của con người, nhất là cho mọi người biết Chúa, Đấng là nguồn tình yêu, nguồn hy vọng và ơn tha thứ cho con người.
*****
Vầng mây trên trời đã bao phủ đưa Chúa Giêsu trở về trời. Nhưng vầng mây cũng là dấu hiệu sự hiện diện, sự gần gũi của Chúa nơi con người.
Trở về trời Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội qua các Tông đồ nhiệm vụ rao giảng làm chứng cho Chúa giữa trần gian. Sự hiện diện sát gần của Chúa giúp Giáo Hội vững tâm làm nhiệm vụ này, cùng giúp lòng con người sống niếm hy vọng. Vì có Chúa hằng cùng đồng hành bên cạnh trong mọi hoàn cảnh.
Hơn ai hết các Tông Đồ trông chờ nhiều điều ở cuộc hẹn của Chúa Giêsu tại Galilê, vì Người vừa LênTrời ABC-483
Hơn ai hết các Tông Đồ trông chờ nhiều điều ở cuộc hẹn của Chúa Giêsu tại Galilê, vì Người vừa trải qua một biến cố trọng đại vô tiền khoáng hâu: sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu Phục Sinh đã không để các ông phải thất vọng: Người đã ban cho các ông một mệnh lệnh và một lời hứa. Mệnh lệnh là: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” Còn lời hứa là: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!” Mệnh lệnh và lời hứa được đặt trên nền tảng vững chắc là quyền bính của Đấng Phục Sinh: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.‘
Chúng ta hãy dành thời gian để chiêm niệm ý nghĩa của Lễ Chúa Giêsu Kitô Thăng Thiên và hãy mạnh dạn đi đến với chư dân như Chúa đã truyền.
II. LẰNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 1,1-11): "Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời" Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Đức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: "Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần".
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?" Người bảo họ rằng: "Đâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất". Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Đang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời".
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,17-23): "Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời". Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người; xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): "Mọi quyền năngg trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy" Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi. Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa Cha, Đấng “đã biểu dương sức mạnh toàn năng nơi Chúa Kitô, khi làm cho Chúa Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Chúa Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Chúa Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh.
Hành động trên của Thiên Chúa Cha chính là ý nghĩa của Sự Kiện Thăng Thiên (lên trời) của Chúa Giêsu Nadarét.
* Là Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng
- “đã dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.”
- đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”
- đã giao sứ vụ giảng dậy và làm phép rửa cho các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
- đã long trọng hứa với các Tông đồ: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”
- và đã lên trời trước mắt các Tông đồ: “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.”
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn ở bên cạnh và hành động cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Đấng được Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ để giúp các ngài thực thi sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó trước khi Người về trời.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm ba khía cạnh liên kết chặt chẽ với nhau:
Thứ nhất là tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu khổ hình (chết) và phục sinh, đã thăng thiên về trời.
Thứ hai là tin vào lời hứa của Người: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Thứ ba là thực thi lệnh truyền của Người cũng là sứ vụ Người giao cho chúng ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
Mỗi người được Thiên Chúa và Hội Thánh mời nhìn lại mình xem trong cuộc sống hàng ngày mình đã thể hiện lòng tin và đã chu toàn sứ vụ như thế nào?
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như người bạn sống với bạn mình, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa qua 2 bước:
* Bước 1: Tăng cường lòng tin đối với Chúa Giêsu Kitô và với lời Người hứa, nhờ:
- đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày; - chia sẻ Lời Chúa trong nhóm nhỏ; - học hỏi và cầu nguyện Thánh Kinh; - đào luyện tâm linh; - các việc bác ái, từ bỏ và dấn thân.
* Bước 2: Hiến dâng tài năng, tâm trí, của cải và thời gian cho công cuộc loan báo Tin Mừng và hướng dẫn đời sống tâm linh cho những người cần được giúp đỡ.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 “Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha của Người, để họ được Thần Khí khôn ngoan mặc khải về Mầu Nhiệm của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Ki-tô hữu trở thành người rao giảng Tin Mừng Cứu Độ!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người vững tin vào lời hứa và sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời mỗi người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” Chúng ta hãy cầu nguyện cho những nhà truyền giáo trên mọi nẻo đường để họ nhận được sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!