Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 151-200 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh

Thứ năm - 15/04/2021 09:33
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 151-200 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 151-200 Anh em là những nhân của Đấng Phục Sinh
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 3-B Bài 151-200 Anh em là những nhân chứng của Đấng Phục Sinh
---------------------------------
Mục Lục:

Phúc Âm: Lc 24, 35-48. 2
PS3 B-151: Tưởng là thấy ma. 3
PS3 B-152: Đừng sợ. 5
PS3 B-153: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 7
PS3 B-154: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 10
PS3 B-155: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 12
PS3 B-156: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 15
PS3 B-157: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 18
PS3 B-158: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 20
PS3 B-159: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 22
PS3 B-160: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 29
PS3 B-161: Chúa Nhật 3 Phục Sinh. 31
PS3 B-162: Làm chứng về Thầy. 33
PS3 B-163: ĐỪNG SỢ- 37
PS3 B-164: NHÂN CHỨNG PHỤC SINH.. 39
PS3 B-165: CHỨNG NHÂN TIN MỪNG.. 41
PS3 B-166: CHỨNG NHÂN.. 43
PS3 B-167: GIÁC QUAN.. 45
PS3 B-168: CÓ CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI LÀ CÓ BÌNH AN.. 47
PS3 B-169: CHIẾN THẮNG VINH QUANG.. 50
PS3 B-170: NHẬN RA CHÚA NƠI NGƯỜI ĐỜI 53
PS3 B-171: ANH EM HÃY LÀ CHỨNG NHÂN.. 55
PS3 B-172: THÂN QUEN VẪN LẠ.. 59
PS3 B-173: CHỨNG NHÂN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH.. 62
PS3 B-174: NIỀM VUI GẶP CHÚA.. 64
PS3 B-175: HÃY TIN.. 65
PS3 B-176: ĐỪNG SỢ.. 66
PS3 B-177: TIN CHÚA ĐANG SỐNG.. 68
PS3 B-178: VUI MỪNG VÀ NGỠ NGÀNG.. 70
PS3 B-179: HÃY SÁM HỐI 74
PS3 B-180: TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT.. 75
PS3 B-181: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH.. 78
PS3 B-182: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH. 80
PS3 B-183: EMMAU – ĐAMAS. 83
PS3 B-184: CÙNG THẦY TIẾN BƯỚC.. 87
PS3 B-185: CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN.. 89
PS3 B-186: CHÚNG TA RAO GIẢNG ĐIỀU GÌ VỀ CHÚA KITÔ PHỤC SINH.. 92
PS3 B-187: CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN. 94
PS3 B-188: CANH TÂN.. 98
PS3 B-189: ĐỔI THAY CUỘC SỐNG.. 100
PS3 B-190: NHẬN RA SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA PHỤC SINH.. 103
PS3 B-191: ĐẤNG KITÔ PHẢI CHỊU KHỔ HÌNH, RỒI MỚI PHỤC SINH.. 106
PS3 B-192: CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY.. 108
PS3 B-193: BẢN HÒA TẤU PHỤC SINH CỦA LUCA.. 109
PS3 B-194: LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊSU.. 112
PS3 B-195: CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_B.. 121
PS 3-B196: SỰ HIỆN DIỆN HUYỀN NHIỆM... 123
PS 3-B197: THẾ GIỚI RẤT CẦN BÌNH AN CỦA ĐỨC KITÔ PHỤC SINH.. 125
PS 3-B198: MỘT CUỘC VIẾNG THĂM BẤT NGỜ TUYỆT VỜI 127
PS 3-B199: NGƯỜI CÓ HIỆN DIỆN CHO CHÚNG TA KHÔNG?. 131
PS 3-B200: CHÚA SỐNG LẠI, TA LÀ CHỨNG NHÂN.. 134

----------------------------------    
Lời Chúa:

 

Phúc Âm: Lc 24, 35-48


“Họ nhận ra được Người khi họ nhận bánh do Người bẻ trao cho”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ”. Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: “Ở đây các con có gì ăn không?” Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: “Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh”. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: “Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”. - Ðó là lời Chúa.

-------------------------------

----------------------------

 

PS3 B-151: Tưởng là thấy ma


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

 

Những kitô hữu chúng ta thường nghĩ rằng. tin Thầy Giêsu phục sinh chẳng có gì khó. Chỉ cần PS3 B-151


Những kitô hữu chúng ta thường nghĩ rằng
tin Thầy Giêsu phục sinh chẳng có gì khó.
Chỉ cần thấy mồ không còn xác Thầy nằm đấy,
và thấy Thầy hiện ra với mình, là có niềm tin ngay.
Qua các sách Tin Mừng, ta lại thấy tin không dễ chút nào.
Đức Giêsu đã rất vất vả trong việc làm cho các môn đệ
tin rằng Ngài đã được Thiên Chúa phục sinh.
Khi Thầy Giêsu hiện ra với mười một môn đệ
trên một ngọn núi đã được báo trước, ở vùng Galilê,
có những ông quỳ xuống bái lạy,
nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi (Mt 28,17).
Khi Thầy Giêsu hiện ra với mười người trong nhóm Mười Hai,
ông Tôma không có mặt, và ông tuyên bố sẽ không tin
nếu không được tự mình kiểm chứng (Ga 20,25.27).
Thầy Giêsu trách Tôma cứng lòng, chỉ chịu tin khi thấy.
Nhưng Thầy còn trách cả Nhóm Mười Một (Mc 16,14)
vì họ không chịu tin những kẻ đã được thấy Ngài sau phục sinh.
Họ đã không tin vào lời chứng của các phụ nữ (Lc 24,10-11).
Quả thật không dễ để tin vào sự sống lại
của vị Thầy đã bị đóng đinh, chết và chôn táng trong mồ.
Chuyện này chưa bao giờ xảy ra, chưa bao giờ nghe nói.
Tuy vậy, niềm tin Đức Giêsu đã được phục sinh
lại là niềm tin cốt lõi và căn bản của Kitô giáo.
Sau khi về với Cha,Thầy Giêsu muốn các môn đệ
trở thành những chứng nhân cho sự phục sinh của Thầy.
Họ sẽ không đi rao giảng tin buồn về một vĩ nhân đã chết,
nhưng sẽ đi loan báo Tin Mừng
về một Đấng đã chết nhưng nay đang sống,
Đấng ấy đã đến gặp họ, và đang hoạt động với họ.
Chính vì thế các môn đệ cần một kinh nghiệm sâu xa.
Đấng phục sinh đích thân hiện ra để cho họ kinh nghiệm đó,
cho họ niềm xác tín không lay chuyển,
đến nỗi họ dám hiến mạng sống mình để làm chứng sau này.
 
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những nỗ lực của Thầy Giêsu
trong việc làm cho Nhóm Mười Một tin Thầy đã phục sinh.
Dù Thầy đã hiện ra cho Simôn và hai môn đệ về Emmau,
nhưng lạ thay, khi Thầy hiện ra cho Nhóm Mười Một
thì họ lại kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma (Lc 24,36-37).
Họ nghĩ ma là của hồn của người chết hiện về,
vì thế bóng ma thì mỏng manh như sương khói.                                                                                                        
Thầy Giêsu đã làm hết sức để họ không nghĩ Ngài là ma.
Ngài cho họ xem tay chân, thậm chí rờ vào tay chân Ngài.
Ngài thuyết phục họ bằng lý luận để họ tin:                                                                                                                                
“Chính Thầy đây mà, cứ rờ mà xem, ma đâu có thịt xương
như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39). 
Nhưng vì các ông vẫn chưa tin và còn ngỡ ngàng,
Thầy Giêsu đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông.            
Đấng phục sinh đã làm những điều cụ thể,
để cho các ông thấy Ngài không phải là ma,
nhưng là người đang sống với thân xác được phục sinh.
Đấng phục sinh không chỉ giúp các ông tin bằng thực nghiệm.
Những điều ấy cần nhưng không đủ.
Như đối với hai môn đệ Emmau, Ngài còn muốn cho họ thấy
đau khổ và cái chết của Ngài đã được ghi trong Sách Thánh.
Đó không phải là một thất bại hay rủi ro,
nhưng là điều nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Qua Khổ nạn mà Thầy Giêsu được vào vinh quang phục sinh.
Qua Phục sinh mà ơn tha tội đến với mọi dân tộc (Lc 24,47).
Với lời giải thích Kinh Thánh của Thầy Giêsu phục sinh,
mọi biến cố đau buồn đã qua trở nên hiểu được,
và mọi vết thương trong tâm hồn họ được chữa lành.
Chúng ta không được Đức Giêsu hiện ra giải thích Kinh Thánh,
cũng không được Ngài bẻ bánh và trao cho ta.
Nhưng chúng ta được tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật,
Nơi đây, Chúa phục sinh tiếp tục giải thích Kinh Thánh,
và tiếp tục trao cho ta Tấm Bánh là Mình Ngài.
Sự bao dung, kiên nhẫn và yêu thương của Ngài là vô bờ.
Chỉ mong chúng ta dám làm chứng cho Đấng phục sinh…

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin cho chúng con học được cách cư xử của Chúa.
Khi được Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất,
Chúa vẫn cư xử tế nhị như một người phục vụ.
Chúa nướng bánh và cá cho các môn đệ ăn.
Khi được Cha cho sống lại vinh quang,
Chúa vẫn là người đi bước trước đến với các môn đệ.
Chúa hẹn họ đến Galilê, để nối lại tình Thầy trò,
để chữa lành những vết thương do vấp ngã.
Khi được Cha nâng dậy từ cõi chết,
Chúa không quên tấm lòng của các phụ nữ,
những người đã theo Chúa từ lâu,
đã có mặt khi Chúa chịu đóng đinh và chôn táng.
Những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ
là những người đầu tiên được gặp Chúa,
và được Chúa trao sứ mạng loan báo Tin Vui.
Chúng con học nơi Chúa sự nhẫn nại,
khi thấy Chúa chịu đựng sự cứng lòng của ông Tôma,
học nơi Chúa óc hài hước,
khi thấy Chúa đồng hành với hai môn đệ bỏ đi vì thất vọng.
Chúa phục sinh cao cả nhưng đã tự hạ mình
để chinh phục lại nhóm môn đệ, không để mất một ai.
Chúa có nhiều cách để làm cho người ta nhận ra Chúa,
qua việc gọi tên hay làm cử chỉ bẻ bánh,     
qua mẻ cá lạ hay qua việc cho họ xem những vết thương…
Chúa đến qua hình dáng anh làm vườn hay người khách lạ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin dạy chúng con đem đến cho con người hôm nay
an bình và hy vọng, niềm tin yêu và Thánh Thần.
Xin cho khuôn mặt chúng con luôn tươi vui để làm chứng,
luôn bừng sáng để tỏa lan sức sống của Chúa. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-152: Đừng sợ


(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

 

Việc Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết tưởng chừng như đã rõ ràng và hết tranh cãi sau câu chuyện PS3 B-152


Việc Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết tưởng chừng như đã rõ ràng và hết tranh cãi sau câu chuyện liên quan đến ông Tôma Điđimô, lại tiếp tục “bùng nổ” ngay trong nội bộ các tông đồ. Quả vậy, đang khi các tông đồ đang hồ hởi kể cho nhau nghe về việc gặp lại Chúa sau khi Người đã từ cõi chết sống lại, thì khi chính Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đứng giữa họ, các ông lại hết sức hoảng sợ. Có ông lại nghĩ đó là ma. Chúa Giêsu đọc được ý tưởng của các ông và Người đưa ra những dẫn chứng xác thực để chứng minh: “Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. Người đã trấn an các ông: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?. Người cũng muốn các ông tin vào việc Người phục sinh, với một niêm xác tín, chứ không phải lý thuyết suông hay những công thức trống rỗng. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang nói với chúng ta: “Sao lại hoảng hốt? Đừng sợ!”.

Đừng sợ, vì Chúa đã sống lại thật! Trong thời đại hôm nay, nhiều người coi sự kiện Chúa Giêsu sống lại như một câu chuyện cổ tích xa vời trong quá khứ. Nhân vật Giêsu có lúc bị coi như một bóng ma. Những gì liên quan đến Người, có chăng chỉ là lễ nghi Tuần Thánh được cử hành một lần, rồi nhẹ nhàng lắng xuống và đi vào quên lãng. Khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu đã trách các ông là những người chậm tin. Ngày hôm nay, Đấng Phục sinh đang nói với chúng ta: đừng sợ và đừng ngại ngần khi tin vào Người. Sự kiện phục sinh là một sự kiện lịch sử. Sự kiện này đã xảy ra trong quá khứ, và hôm nay vẫn đang mang tính hiện tại. Vì vậy, mỗi khi dâng lễ, khi Linh mục tuyên bố: Đây là màu nhiệm Đức tin, cộng đoàn tín hữu thưa: Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa đến. Như thế, mỗi khi cử hành hy lễ tạ ơn, tức là Thánh lễ, là chúng ta tuyên xưng Chúa đã chết và đã sống lại. Như vậy, Đấng Phục sinh vẫn đang hiện diện giữa chúng ta, và câu chuyện Chúa sống lại là câu chuyện của hiện tại. Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh mà Giáo Hội đứng vững trước biết bao bão tố của thời gian. Đức Kitô Phục sinh không phải một bóng ma trong cuộc đời này. Người đang sống giữa chúng ta và truyền cho chúng ta sức sống mới của Người.

Đừng sợ, hãy can đảm lên đường làm chứng cho Đấng Phục sinh! Chúa Giêsu sai các ông đi để kể lại những gì tai nghe mắt thấy, khởi đầu từ Giêrusalem. Giêrusalem là nơi chứng kiến biến cố thập giá. Giêrusalem cũng là nơi được gặp gỡ Đấng sống lại. Đó cũng là nơi Chúa Thánh Thần ngự xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thành phố này cũng là điểm xuất phát để các tông đồ đem Tin Mừng đến với muôn dân. Được trang bị nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ lên đường để loan báo Đấng Phục sinh.

Đừng sợ đón nhận những điều mới mẻ mà Đấng Phục sinh ban tặng cho chúng ta. Thánh Luca đã viết trong Bài Tin Mừng: Đấng Phục sinh mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh. Nhờ hiểu biết Kinh Thánh, các môn đệ có một cái nhìn tổng quát và sâu xa về sứ mạng thiên sai của Chúa. Sau này, ông Phêrô đã hệ thống và minh chứng: những gì đã xảy ra với Đấng Kitô, là phù hợp với Thánh Kinh, tức là trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa. Mỗi chúng ta cần phải luôn khám phá những điều mới mẻ, khởi đi từ kinh nghiệm Phục sinh. Nói cách khác, người Kitô hữu phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa để lớn lên mỗi ngày trong ân sủng và trưởng thành mỗi ngày trong đời sống Đức tin. Hành trình theo Chúa Giêsu không phải là biến cố bất ngờ theo kiểu từ trời rơi xuống, cũng không phải dựa trên những điều không thể lý giải dưới cái nhìn nhân loại, nhưng đó là hoa trái từ một kế hoạch lâu dài của Thiên Chúa đối với Dân Ngài. Kế hoạch này được kể lại trong Kinh Thánh. Vì thế Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”.

Đừng sợ nhìn nhận lỗi lầm để canh tân trở lại. Bằng một giọng văn cứng rắn, nhưng xác tín và hùng hồn, Thánh Phêrô đã mạnh mẽ gán cho những người Do Thái trách nhiệm qua việc giết Chúa, đồng thời kêu mời họ hãy sám hối để được ơn tha thứ (Bài đọc I). Khi nghe Phêrô hùng hồn nói: “Các ông đã giết chết Hoàng tử ban sự sống. Các ông đã từ chối Đấng thánh và công chính”, chúng ta nghĩ ngay đến việc chối Thày của ông vào giờ Chúa Giêsu bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị. Tuy vậy, nếu Phêrô đã chối Chúa thì ông cũng đã sám hối ăn năn và trở thành người loan báo Đức Giêsu Phục sinh.

Đừng sợ sống theo sự thật, vì Sự thật sẽ giải phóng chúng ta. Sự thật chính là Chúa Giêsu. Cuộc sống hôm nay ảnh hưởng bởi lối sống hưởng thụ, khiến con người không ngại sống dối trá. Sự dối trá đã gây nên biết bao hệ luỵ, từ gia đình đến xã hội. Thánh Gioan Tông đồ (Bài đọc II) khuyên các tín hữu sống trung thực. Bí quyết để sống theo Sự thật rất đơn giản, theo Thánh Gioan: đó là tuân giữ giáo huấn của Chúa Giêsu. Người là Đấng bảo vệ chúng ta trước toà Chúa.

Cuộc sống hôm nay có biết bao điều làm chúng ta sợ hãi. Đấng Phục sinh khích lệ chúng ta: Đừng sợ!. Khi xác tín vào sự hiện diện quyền năng và đầy yêu thương của Người, mọi sợ hãi sẽ bị xua tan. Chính mỗi chúng ta, vì được mang danh Chúa Kitô, cũng hãy trở nên khí cụ của bình an, xua tan sợ hãi, lan toả yêu thương và chiếu sáng niềm hy vọng trong cuộc đời.

------------------------------

 

PS3 B-153: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

TÌNH YÊU - TÍNH VỮNG BỀN VÀ SỰ ĐÒI HỎI

 

Tình yêu như một đòi hỏi và phải mang tính bền lâu , “Ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy, tình yêu PS3 B-153


Tình yêu như một đòi hỏi và phải mang tính bền lâu

“Ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1 Ga 2,5).

Lá thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ vừa giúp khai sáng, nhưng lại vừa mang chở những tư tưởng xem ra có vẻ khá rời rạc. Nội dung gồm chứa những huấn dụ mạnh mẽ, nhưng dường như những tư tưởng đó không được liên kết với nhau chặt chẽ cho lắm. Bài đọc ngắn trong phụng vụ hôm nay cho ta thấy điều này. Nó chất chứa nhiều tư tưởng nhưng đan nối với nhau có vẻ như không được khúc chiết và cũng chẳng mạch lạc. Tư tưởng thứ nhất, thánh tông đồ trình bày: Nếu chúng ta phạm tội, chúng ta có một Đấng Bào Chữa trước mặt Chua Cha. Đó là Đức Giêsu Kitô - Đấng Công Chính. Sau đó, Thánh Gioan viết tiếp “Những ai không tuân giữ giới răn của Ngài, đó là kẻ nói dối”. Cuối cùng Ngài khẳng quyết “Ai giữ lời Ngài, tình yêu của Thiên Chúa sẽ thực sự nên trọn hảo nơi họ”. Đây là ba tư tưởng xem ra chẳng liên thông gì với nhau cả.

Khi tôi đọc luận văn của các sinh viên và thấy họ viết như thế, tôi sẽ nói các em phải viết lại, diễn nghĩa rõ hơn và nhất là phải nối kết những tư tưởng lại một cách rõ nét hơn.

Nhưng dường như Thánh Gioan tông đồ muốn chúng ta tự làm công việc này cho chính mình. Chúng ta sẽ dễ dàng đan nối các tư tưởng lại thành một hệ thống khi chúng ta nhận ra rằng, chủ đề chính yếu mà thánh Gioan muốn nói tới, chính là Tình yêu. Trong Tin mừng thứ tư, chúng ta thấy rất rõ điều này. Nền tảng thần học căn bản mà Thánh Gioan muốn diễn đạt, nằm trong lời tâm huyết của Đức Giêsu: “ Như thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng phải mến thương nhau” (Ga 13,24). Hãy yêu thương, nhưng phải sao chép lại chính tình yêu của Chúa Giêsu, và đó không phải là một việc giản đơn dễ thực hiện. Tác giả Dostoyevsky trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov cũng đã viết một tư tưởng giống như thế:“Tình yêu được thực hiện bằng hành động là một điều gì rất khó khăn và gian nan, không như tình yêu chỉ có ở trong mơ tưởng”. Tình yêu thực sự phải vươn tới một cấp độ cao hơn, và nó chạm tới chân lý tận sâu thẳm nơi hữu thể con người chúng ta: Bởi vì chúng ta được dựng nên, chính là để yêu thương. Vì lý do này, tình yêu là một huyền nhiệm rất cao đẹp và trong sáng. Chỉ trong tình yêu, chúng ta mới có thể tìm về căn tính và khám phá ra thiện ích đích thực ẩn sâu nơi mỗi người.

Vì vậy, tuân giữ Lời Chúa chính là chúng ta diễn bày tình yêu đối với Chúa, và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa được hiện thực tròn đầy nơi ta. Không tuân giữ giới răn của Chúa, chính là phủ nhận chân lý sâu xa ẩn tàng nơi mình, cũng như phủ nhận sự thật về mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện hữu trong thâm sâu cõi lòng của chính chúng ta.

Trên một bình diện, giới răn của Thiên Chúa được dàn trải qua nhiều dạng thức, từ việc sống ngay thật không gian dối như một nền tảng, đến việc thực hành những điều ngay chính trong cuộc sống đời thường. Nhưng trên một bình diện khác, tình yêu chỉ tóm kết vào một định thức giản đơn duy nhất: “Yêu mến là chu toàn lề luật”(Rm 13,8). Điều này dễ hiểu, bởi lẽ Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8). Nơi nào vắng bóng tình yêu, nơi đó không có Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta cho dù bề ngoài xem ra có vẻ tốt lành, nhưng nếu tâm hồn cằn cỗi tình yêu, sự thật sẽ không có nơi chúng ta.

Vì vậy, thực hành tình yêu không phải là một công việc đơn giản. Đó là một mệnh lệnh, và mệnh lệnh đó chạm tới sâu thẳm hữu thể nơi con người mình. Tình yêu đích thực và tinh ròng không bao giờ là tình yêu nửa vời. Nhìn vào bản thân, chúng ta có thể nghiệm ra rằng trong khi tình yêu của Thiên Chúa rất mực hoàn hảo trong ta, thì nơi con người chúng ta, vẫn còn quá nhiều bất toàn và thiếu xót.

Tuy nhiên, khi chúng ta sa ngã, chúng ta không được tuyệt vọng và buông xuôi, để mặc cho sự dữ tung hoành. Bài đọc hôm nay trấn an và cho chúng ta biết rằng “Chúng ta có một trạng sư bào chữa trước mặt Chúa Cha”. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp, và Ngài sẽ là một luật sư “cãi hộ” cho chúng ta trong ngày phán xét chung thẩm. Không phải thế đâu. Thánh Gioan muốn nói rằng Đức Giêsu đã tự nguyện hiến tế trên thập giá, và hiến tế đó diễn bày vai trò trạng sư của Ngài. Sự tự hủy ra không nơi Ngài là một quà tặng dâng lên Chúa Cha, thay cho chúng ta. Qùa tặng đó là cách thức diễn bày tình yêu của Chúa, một tình yêu vĩnh cửu và vững bền để cột trói chúng ta với Chúa Cha. Ơn cứu độ ở đây nói lên tính cách trạng sư biện hộ nơi Ngài, để phục vụ cho thiện ích của con người. Hiểu như vậy, chúng ta mới có thể khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện tròn hảo qua hy lễ thập giá. Tình yêu đó được ban trao, và chính Thiên Chúa gọi mời chúng ta đi vào trong quỹ đạo tình yêu của Ngài để sống chân lý sâu xa từ sâu tận trong tâm hồn chúng ta.

Cuộc sống anh hùng không phải là một cuộc sống với những hành động hiển hách được mọi người biết đến và vỗ tay ca ngợi. Song, sự anh hùng thực sự chính là khi chúng ta cho dù sống thầm lặng, nhưng luôn kiên trung trong một tình yêu bền vững.

Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã tôn phong Ngài tước hiệu tiến sĩ hội thánh. Cuộc sống của Ngài khá dung dị và thầm lặng, nhưng lại rất sâu sa. Ngài đã thuật lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn như sau: “Đây là cách thái mà cuộc sống tôi đã trải qua. Tôi chẳng biết làm những công việc phi thường, những chỉ thực hiện những điều rất bình thường tựa như kết dệt cuộc đời tôi bằng những bông hoa đơn sơ và nhỏ bé. Tôi không bỏ qua bất cứ sự hy sinh bé nhỏ nào mà tôi có thể làm được, tư ánh mắt, từ lời nói, hay cử chỉ. Và tôi luôn thực hiện những hy sinh nhỏ bé ấy bằng một tình yêu lớn lao dành trao cho Chúa.

------------------------------

 

PS3 B-154: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Tin Mừng Lc 24:35-48: Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào, mà việc đó nằm ngay chính nơi đời sống Kitô hữu, một con người cụ thể, trong môi trường sinh sống cụ thể.

 

Theo số liệu thống kê của Giáo Hội Công Giáo tính đến cuối năm 2012 số người Công giáo trên PS3 B-154


Theo số liệu thống kê của Giáo Hội Công Giáo tính đến cuối năm 2012 số người Công giáo trên toàn thế giới là 1,228 tỷ, Người Công giáo chiếm khoảng 17,5% dân số thế giới, như vậy còn 82,5% chưa nhận biết Chúa Kitô, mặc dầu Giáo Hội đã nỗ lực chu tất sứ vụ loan truyền của mình. Tại sao? Có thể những người Kitô hữu chúng ta chưa loan truyền đúng vè Đức Kitô Phục sinh
Có nhiều người Kitô hữu hiểu rằng, nhiệm vụ loan báo Tin Mừng là một nhiệm vụ được thêm vào, vì thế có người thơ ơ với nhiệm vụ nầy, có người thì coi nhiệm vụ loan báo đơn giản như một việc chỉ đường, hoặc quá khích hơn, người ta coi Tin Mừng như một món hàng đắt giá, để rồi ra sưc quảng cáo với một mục đích là chiêu dụ tín đồ, có người còn giới thiệu Tin Mừng bằng những lời hứa hẹn về một phần thưởng, hay đưa lời ngăm đe bằng những hình phạt… Và vì thế nhiều người khi nghe đến Tin mừng vội vàng quay lưng.

Quả thật, việc loan báo Tin Mừng không là nhiệm vụ được thêm vào nhưng thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu, có nghĩa là, khi được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Kitô qua bí tích Rửa tội, người tín hữu liền được dự phần vào sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó cho Giáo Hội mà không cần bất cứ một sự giao phó nào nữa. Vì thuộc bản chất nên mọi sinh hoạt đời sống của người Kitô hữu đều là lời loan báo Tin Mừng. Nhưng phải loan báo Tin Mừng Phục sinh như thế nào, để mang lại tính khả tín hầu người nghe có thể tin theo?

Tin Mừng Phục sinh đã tường thuật lời của Chúa Giêsu: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Việc loan báo Tin Mừng Phục sinh không là giới thiệu một Đức Kitô viễn vông, mơ hồ, mà ngày nay người ta gọi là “một con người ảo”, nhưng phải là một Đức Kitô phục sinh “có xương, có thịt”. Vâng, trong một thế giới mà sự phát triển khoa học kỹ thuật đang làm mưa làm gió, thì việc sống với thế giới ảo đang là một nhức nhối cho xã hội hôm nay. Có người đã chia sẻ: Tôi có một cô bạn. Cuộc sống trên Facebook của cô ấy cực kỳ hoàn hảo. Cô xinh đẹp, đi du lịch nhiều nơi. Cô share rất nhiều bài viết mang đậm hơi thở chính luận của các nhà báo nổi tiếng. Cô post lên Facebook hàng chục bài phát biểu của các chính trị gia, với caption đều bằng tiếng Anh. Hôm 2/9/2017 , cô được mời đến nhà chồng sắp cưới dùng cơm, nhân tiện bàn luôn chuyện cưới hỏi. Buổi gặp mặt rất được kỳ vọng ấy biến thành cơn ác mộng khi cô phát hiện ra bố mẹ chồng tương lai hóa ra đều là giảng viên của 2 trường đại học rất lớn. Họ trẻ trung, họ đều dùng Facebook và họ đều đọc tất cả những gì cô đưa lên Facebook.

Trong lúc trà dư tửu hậu, họ nghĩ rằng cô quan tâm tới lũ lụt, tới nước mắm thạch tín, tới startup, tới những bài phát biểu truyền cảm hứng của ông tổng thống Hoa Kỳ và họ hào hứng kéo cô vào cuộc trao đổi. Nhưng cô không biết gì cả. Đúng nghĩa đen của từ "không biết gì". Cô chỉ share lên Facebook làm màu. Cô chưa từng nghe ông Tổng thống Hoa kỳ phát biểu. Buổi gặp gỡ ấy kết thúc bằng cái lắc đầu ngán ngẩm của bà mẹ người yêu và cô đủ thông minh để hiểu rằng, sẽ không có thêm buổi gặp gỡ nào nữa. Vâng, sống ảo biến cư dân của nó thành những xác chết biết đi, vô hồn. Vào nhà hàng gọi một món ăn và thay vì mời bố mẹ - những người đang ngồi ngay trước mặt – chúng ta phải chụp ảnh, post Facebook để "mời 500 anh em ăn cùng cho vui". Thật là nực cười.

Tin mừng Phục sinh cần được loan báo, nhưng sự loan báo không là những thông tin chỉ dẫn trên các phương tiện truyền thông, không dừng lại nơi việc cử hành các nghi thức hoành tráng, trái lại việc loan báo phải được cụ thể hoá qua chứng nhân hiện thực cụ thể. Vâng, Tin mừng Phục sinh không là những lời nói trống rỗng, nhưng phải được trình bày sống động nơi những con người có xương có thịt, qua hoàn cảnh sống “nơi những cha mẹ nuôi nấng con cái họ với tình yêu thương bao la, nơi những người nam nữ làm việc chăm chỉ để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật, nơi các tu sĩ già cả mà không bao giờ mất nụ cười của họ” nói như Đức Phanxicô trong tông huấn Gaudete et Exultate.

Vào ngày 23-3-2018 tại cửa tạp hoá Trebes một thị trấn nhỏ ở miền Nam nước Pháp, một tay súng 25 tuổi người Hồi giáo Redouane Lakdim đã giết nhân viên một siêu thị, một dân thường đang mua đồ trong siêu thị và bắt giữ nhiều con tin. Sau khi nhiều con tin được giải cứu duy chỉ còn người phụ nữ bị tay súng giữ lại, và chính Trung tá Arnault Beltrame, một người công giáo, đã đề nghị đổi chỗ làm con tin thay cho người phụ nữ trên, cuối cùng viên sĩ quan đã bi tên khủng bố bắn trọng thương cuối cùng ông qua đời tại bệnh viện. Viên sĩ quan đã ngã xuống, và sự hy sinh của viên sĩ quan là bằng chứng hùng hồn cho niềm tin vào sự Phục sinh của Đức Kitô. Không có lời loan báo hùng hồn nào về Tin Mừng Phục sinh cho bằng sự hy sinh của viên sĩ quan.

Quả thậy, Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào, mà việc đó nằm ngay chính nơi đời sống Kitô hữu, một con người cụ thể, trong môi trường sinh sống cụ thể. Lời loan báo Tin Mừng không chỉ là lời thốt ra từ môi miệng, nhưng được bày tỏ cách trọn vẹn trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, để có thể nói được rằng, niềm hy vọng Phục sinh đã được minh chứng cách cụ thể qua đời sống của nguòi tín hữu. một đời sống được tôi luyện bằng những chiến đấu liên tục, cuộc chiến không chỉ đơn thuần chống lại “thế giới và não trạng thế gian" hay "chống lại các yếu đuối và xu hướng của con người chúng ta... Mà còn là một cuộc chiến đấu liên tục chống lại ma quỷ, hoàng tử của sự ác" (Đức Phanxicô). Chúng ta phải chiến đấu, để công việc loan báo Tin Mừng về sự sống không bao giờ bị dập tắt, trái lại nó được đâm rễ sâu vào trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, một cuộc sống thấm đẫm tình yêu thương được đúc nén từ việc kết hợp mật thiết với Đức Kitô, Đấng gần gũi với mọi hoàn cảnh của cuộc sống nhân gian, với những kẻ bị bỏ rơi, nghèo đói, và như thế người ta sẽ không còn cảm thấy xa lạ khi nghe về Tin Mừng, nhưng hơn hết người ta gặp gỡ được một Đức Giêsu thật gần gũi, thật dễ mến qua những con người cụ thể là chính chúng ta người Kitô hữu. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-155: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Chủ đề: ĐẤNG PHỤC SINH SOI LÒNG MỞ TRÍ ĐỂ HỌ AM HIỂU LỜI KINH THÁNH.

Kính thưa quý anh chị em,

 

Thuở xưa, bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa phán dạy qua các tổ phụ, các vị PS3 B-155


Thuở xưa, bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa phán dạy qua các tổ phụ, các vị ngôn sứ, nhưng trong thời đại sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã dạy dỗ chúng ta qua Người Con, mà Người đặt làm trung gian Giao Ước, để thông truyền ơn cứu chuộc cho cả thế gian.

Sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ, giải thích lời Kinh Thánh, nhằm thuyết phục các ông tin Người đã sống lại.

Biến cố Phục Sinh, không nằm trong phạm trù vật lý, tự nhiên, nhưng thuộc lãnh vực thần thiêng, vì thế, những lần tỏ mình ra đều cho thấy Người không còn phụ thuộc vào thời gian và không gian như trước khi chịu chết.

Sau khi sống lại từ cõi chết, Giê-su cũng vẫn là Ngài trước phục sinh. Những cử chỉ, lời nói, dấu đinh ở tay chân, vết thương nơi cạnh sườn đã ghi tạc vào tâm khảm các tông đồ, nên các ông không thể lầm lẫn Ngài là một nhân vật khác: tất cả đều tin đó là Chúa Giê-su và họ không dám hỏi Ngài thêm điều gì nữa.

Dầu vậy, biến cố Phục Sinh là độc nhất, chưa từng nghe hay nghĩ tưởng đến, nên vẫn gây ra những xôn xao, bàn tán, dao động và sợ hãi, rất cần phải được giải thích, trấn an và thuyết phục.

Hôm nay Đấng Phục Sinh tỏ mình ra thuyết phục môn đệ bằng sự hiện diện, đồng hành, ăn uống và giải thích lời Kinh Thánh chỉ về Người cho họ.

Các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa, nhất là tin Chúa đã sống lại, vì được truy tầm lời Kinh Thánh do chính Đấng Phục Sinh giải thích cách tường tận và chi tiết.

Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, đề cập đến lời rao giảng sơ khởi của thánh Phê-rô.

Nội dung bài giảng truy cập cội nguồn Đấng thiên sai được Thiên Chúa tuyển chọn. Chính các tổ phụ tôn vinh người Tôi Trung đó, nên không có lý do gì, dân Do Thái là con cái các tổ phụ lại chối bỏ Người.

Quả thật, anh em đã bỏ, dứt khoát xin Phi-la-tô giết Người và xin ân xá cho tên sát nhân, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại, về điều này, chúng tôi xin làm chứng.

Sở dĩ anh em làm thế, vì tại do tại vô tri, lầm lạc, hành động do không hiểu biết.

Vậy, anh em hãy ăn năn sám hối, xưng thú tội lỗi, trở lại cùng Thiên Chúa, Người thương xóa bỏ mọi tội lỗi, để anh em được ơn giao hòa và hưởng hồng ân cứu độ.

Nghe lời rao giảng, nhiều người đau đớn trong lòng nói với Phê-rô và các Tông Đồ: “Chúng tôi phải làm gì ?” (Cv 2, 37).

Lời rao giảng tông đồng cho kết quả tức thời, rất phong phú: có đến nhiều ngàn người xin gia nhập đạo và chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.

Chúng ta cũng phải tự hỏi: kết quả ấy do đâu. Trước hết và trên hết là do ơn Chúa soi sáng, lôi kéo tín đồ tin vào Chúa Giê-su.

Mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giê-su đồng hành giải thích lời Kinh Thánh, soi lòng mở trí để họ tin và nhờ tin mà được cứu độ.

Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy hối tiếc vì nhận ra Chúa muộn màng, mãi tới khi Người bẻ bánh trao cho: “Phải chăng lòng chúng ta chẳng cháy bừng lên khi người đi đàng, giải thích lời Kinh Thánh cho chúng ta. Lập tức, họ trỗi dậy trở về Giê-ru-sa-lem thuật lại các việc đã xẩy ra dọc đàng và các ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào” (Lc 24, 33 – 35).

Trong bài Tin Mừng, Đấng Phục Sinh tỏ mình ra bằng nhiều cách thức với những cử chỉ thuyết phục: ban bình an, thổi hơi ban thánh thần, bẻ bánh, và cùng ăn uống với môn đệ, cho xem dấu đinh ở tay chân, vết thương ở cạnh sườn... Nhắc cho họ những lời sách thánh ghi chép về Người đều đã ứng nghiệm. Nhất là, Ngài soi lòng mở trí để họ am hiểu những lời Kinh Thánh.

Chúa cần đến họ, Chúa cần mỗi người chúng ta, một khi đã vững vàng đón nhận Tin Mừng Phục Sinh, thì trở nên chứng nhân về sự phục sinh của Ngài: “Chính chúng con là chứng nhân về các điều đó” (Lc 24, 48).

Đó là lý do tại sao Chúa Giê-su dày công tỏ mình ra, soi lòng mở trí các môn đệ am hiểu Kinh Thánh, để họ tin mạnh mẽ Người đã sống lại và cũng để họ kiên trì, can đảm nên nhân chứng cho người giữa thế gian.

Bài đọc II, trích thư của thánh Gio-an tông đồ, nhấn mạnh chiều kích thực hành đức tin của người môn đệ. Đức tin không hệ tại hình thức bề ngoài, lý thuyết suông, nhưng hệ tại việc làm cụ thể: sống công chính, bình an và hy vọng trong Thánh Thần. Một trong những cách trắc nghiệm đức tin là thực thi thánh ý Chúa, chống lại tội lỗi và sự dữ dưới mọi hình thức.

Đối với Gio-an, tuân giữ giới răn là bằng chứng nhận biết Chúa và thuộc về Ngài. Càng trung thành thực thi ý Chúa, càng chứng tỏ tình yêu của người môn đệ đã đạt tới mức hoàn hảo.

Thưa anh chị em,

Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta, siêng năng đọc và suy gẫm Lời Chúa, vì chỉ Lời Chúa mới là đường đi, là sự thật và là sự sống. Chắc chắn khi thành tâm, chuyên chăm suy gẫm Lời, Thánh Thần Chúa sẽ soi lòng mở trí để chúng ta cũng thấu hiểu và nhận ra ý Chúa.

Bên cạnh đó, khi bắt đầu làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy cầu nguyện và hỏi Chúa như thánh Tông Đồ xưa: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì ?

Thực hành những điều đó, chúng ta làm phải và bình an của Chúa sẽ ở cùng chúng ta.

Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta đang cử hành mầu nhiệm Chúa Phục Sinh hôm nay. Amen!

------------------------------

 

PS3 B-156: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)

ĐỨC KITÔ PHẢI CHỊU KHỔ HÌNH, RỒI SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT

 

Sau khi đồng hành với các môn đệ làng Emmau và cho họ thấy Ngài đã sống lại, Chúa Giêsu hiện PS3 B-156


Sau khi đồng hành với các môn đệ làng Emmau và cho họ thấy Ngài đã sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ khác. Trong một đoạn ngắn, thánh Luca đưa ra nhiều bằng chứng rất cụ thể về việc Chúa phục sinh. Điều đó cho thấy rằng việc Chúa sống lại không phải là một việc dễ tin. Các môn đệ phải đi từ hoài nghi đến  niềm tin, từ sợ sệt đến vui mừng.

Lời tường thuật của các môn đệ Emmau cũng chưa đủ để họ tin. Chính Chúa Giêsu phải hiện ra với họ, nhưng họ lại tưởng là ma hiện về. Họ khiếp vía. Chúa phải trấn an họ và cho họ xem những dấu vết trên thân thể Ngài. Chúng ta không hiểu được tại sao họ sợ đến thế, vì vào thời bấy giờ người ta rất sợ ma. Đến ngày nay nhiều người vẫn còn sợ ma huống hồ thời bấy giờ.

Chúa phải từ từ cho họ xem tay và cạnh sườn, nhưng họ vẫn còn nghi nan. Chúa phải dùng một cách khác để giúp họ tin vững chắc hơn. Chúa bảo họ sờ vào Ngài: “Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây”. Tuy vậy, họ vẫn còn nửa tin nửa mừng không biết có thật không. Chúa phải dùng một cách khác. Chúa hỏi: “Anh em có gì ăn không”? Họ mang cho Ngài một chút mật ong và cá nướng. Ngài ăn trước mặt họ chứ không cùng ăn. Ngài để cho họ đủ thì giờ kiểm chứng.

Đó là những dấu chỉ bên ngoài, sau đó khi họ đã tin chắc chắn, Ngài mới bắt đầu làm những gì Ngài muốn làm. Ngài chứng minh cho họ thấy sâu hơn. Biến cố Chúa sống lại không phải chỉ là một việc xảy ra trong lúc đó mà thôi, nó là một chương trình đã được tiên báo từ xa xưa. Vì thế Ngài nói: “Tất cả những gì sách Luật Môsê, sách Ngôn Sứ, các thánh vịnh đã chép về Thầy phải được ứng nghiệm”. Cũng như đối với các môn đệ làng Emmau, Ngài giở lại Kinh Thánh và từ từ cho họ hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa là gì và diễn tiến như thế nào. Những trang giấy xưa, những gì họ đã nghe đọc suốt từ lâu, hôm nay sống lại. Các môn đệ Emmau đã ngạc nhiên cảm thấy như nóng sốt lên khi Ngài giải thích Kinh Thánh cho họ. Hôm nay, Ngài làm sống lại những hình ảnh còn đọng lại trong trí óc họ, và giúp họ xác tín về vai trò cứu thế của Ngài.

Chúa Giêsu đã ở lại với họ hôm đó trong một thời gian dài, có thể là một buổi hay suốt ngày đó, thánh Luca không nói rõ, nhưng đủ để họ biết rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”.

Chúa Giêsu giở lại những trang giấy xưa để cho thấy rằng Ngài là trung tâm của mọi sự, là điểm kết cùng của cả một lịch sử, là nền tảng của Đức tin Kitô giáo. Tất cả Cựu Ước đều quy tụ về Ngài. Ngài là Anpha và Ômêga, là đầu tiên và là cuối cùng của mọi sự. Đức tin của chúng ta bắt nguồn từ nơi Ngài và cuộc sống của chúng ta cũng kết thúc nơi Ngài mà thôi. Ngoài Ngài ra, không có gì có thể tồn tại. Ngài đã toàn thắng tội lỗi và sự chết là để chúng ta cũng được sống lại như Ngài và toàn thắng tội lỗi với Ngài. Ngài phải chịu khổ hình và sống lại vinh quang, thì chúng ta cũng phải đi ngang qua cơn thử thách của cuộc sống hôm nay để bước vào sự sống Ngài ban cho chúng ta qua sự phục sinh vinh hiển của Ngài.

Chúa Giêsu sống lại với thân xác của Ngài, thân xác đã được đổi mới, không còn lệ thuộc những định luật thể lý mà hoàn toàn được biến đổi. Chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài, đó là niềm tin vững chắc của chúng ta. Chúng ta sống hôm nay trong thân xác hay chết của chúng ta, nhưng đến lúc chúng ta mang lấy sự bất tử, chúng ta sẽ như Ngài. Ngài cho thấy rằng Ngài là sự sống lại và là sự sống. Chỉ có Ngài là sự sống thật, sự sống không tàn phai theo ngày tháng.

Sự sống vĩnh cửu đó phải được chuyển thông cho mọi người, vì thế Ngài bảo các môn đệ: “Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân… kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha tội”. Đó là sứ mệnh được trao. Các tông đồ đã hiểu. Giờ đây, sau khi được nghe Thầy giải thích Kinh Thánh, họ đã biết phải làm gì. Các ngài cũng giở Kinh thánh và đã chứng minh cho mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ, vì không có danh nào dưới gầm trời đã được ban cho nhân loại để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ”.

Bài giảng đầu tiên của thánh Phêrô trong ngày lễ Ngũ Tuần là một bài mẫu cho thấy ngài đào sâu vào Kinh Thánh để trình bày khuôn mặt của Chúa Giêsu qua Cựu Ước. Sau này, thánh Têphanô, trong cuộc tranh luận với người Do Thái, đã dùng Cựu Ước để chứng minh Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Thánh Phaolô, mặc dù không sống với Chúa như các tông đồ, cũng đi vào con đường đó.

Nguồn cội của Kitô giáo vẫn là một lịch sử dài, bắt đầu dưới cây sồi ở Mambêrê với Abraham, chuyển sang cuộc xuất hành của dân Do Thái, qua các tiên tri. Dân tộc Do Thái vẫn là hình ảnh của Đấng Cứu Độ qua những thăng trầm, nhục nhã máu lệ của một dân tộc, vẽ lên khuôn mặt đau khổ bi thương và sau cùng là vinh quang của Đấng phục sinh vinh hiển.

Đấng phục sinh hôm nay tiếp tục cuộc hành trình cứu độ của mình qua thân thể của Ngài là Giáo hội. Ơn cứu độ vẫn tiếp tục chảy tràn trong Giáo hội hôm nay cho mọi người, vì thế Chúa bảo: “Hãy đi rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”. Sứ mệnh được trao cho Giáo hội phải được con cái Giáo hội xông pha thi hành. Đức Giáo Hoàng Phanxicô luôn kêu gọi mọi người phải đi ra, không ở trong pháo đài của mình. Đi ra vùng ngoại biên…

Chúng ta đáp ứng thế nào với những lời kêu gọi tha thiết đó? Chúng ta cảm thấy ngại ngùng. Điều đó không lạ gì. Chúng ta đã quen sống đạo cho chính mình, chúng ta quên rằng sứ điệp Tin Mừng không chỉ dừng lại trong nhà thờ, mà phải được loan báo trên mọi mái nhà. Hãy tìm mọi cách trong khả năng của mình thi hành lệnh truyền của Chúa, nếu không, chúng ta sẽ là những người thất bại. Với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Giáo hội đang đi ra, đang dấn thân đi vào thế giới. Đức Giáo Hoàng đã nêu gương khi Ngài xông pha vào con đường của thế giới một cách cương quyết, không sợ hãi, không ngại đương đầu với những thế lực thù nghịch đến nỗi người ta sợ cho tính mạng của Ngài. Chúng ta ngồi chờ cơ hội? Chúng ta ngại nói lên sự tốt lành của Thiên Chúa?

Hơn nữa Chúa Giêsu lại đòi hỏi: “Anh em là chứng nhân về những điều này”. Chúng ta phải là đạo binh chứng nhân chứ không chỉ là những người ngồi đọc kinh ê a mà không dám làm gì. Các thánh Tông đồ đã hiên ngang làm chứng và dám dõng dạc tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”, như Phêrô trước dân chúng trong ngày lễ Ngũ Tuần, trước Công nghị Do Thái.

Mỗi thời đại có những hoàn cảnh khác nhau. Thời các thánh Tông đồ không phải là thời của chúng ta, nhưng sứ mệnh vẫn không khác. Chúng ta có nhiều phương tiện hơn các ngài, nhưng bằng chứng cụ thể nhất chính là đời sống của mỗi người chúng ta. Chúng ta phải là chứng nhân sống động trong mọi môi trường. Chúng ta có làm được không?

Những giáo dân đầu tiên đã làm gì? Họ yêu thương nhau, xem mọi người là anh em, đem của cải mình phục vụ anh em đến nỗi giữa họ không có người túng thiếu, nhờ đó số người tin Chúa càng ngày càng đông. Chúng ta đã làm được gì? Hãy cầu xin Thánh Thần ban cho chúng ta tinh thần sáng tạo để chúng ta biết phải làm gì cho danh Cha cả sáng, để chúng ta không còn thụ động đợi chờ cơ hội, mà dấn thân bằng cầu nguyện, bác ái, phục vụ không ngừng.

Chúa Giêsu hôm qua đứng giữa các môn đệ, sai họ đi, hôm nay Chúa Giêsu cũng đến giữa chúng ta, đến trong chúng ta bằng Mình Thánh Ngài, sai chúng ta đi ra, làm chứng cho Ngài. Ngài trở thành nguồn sinh lực không vơi cạn cho mỗi người chúng ta. Ăn lấy Ngài, sống với Ngài liên lỉ, Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết con đường dấn thân hữu hiệu nhất.

------------------------------

 

PS3 B-157: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

CÓ THIÊN CHÚA SẼ KHÔNG CÒN SỢ HÃI

 

Ma không ai thấy nhưng người ta lại tưởng tượng nó với nhiều hình thù thật đáng sợ nhất. Thế PS3 B-157


Ma không ai thấy nhưng người ta lại tưởng tượng nó với nhiều hình thù thật đáng sợ nhất. Thế nên mới có tích chuyện xưa kể rằng:

Có người thợ được vua mời vào vẽ tranh cho vua. Vua hỏi: “Vẽ cái gì khó?”

Thưa: “Vẽ chó, vẽ ngựa khó”.

- Vẽ cái gì dễ?
- Vẽ ma, vẽ quỉ dễ.
- Sao lại thế?
- “Chó ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống thì người ta chê cười, cho nên khó vẽ. Ma quỉ là giống vô hình, không ai trông thấy, tuỳ ý muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ”.

Điểm chung của con ma thường là không đầu. Chân không chạm đất. Nó không xương không thịt nên có thể xuyên tường, xuyên nhà và tự do đi lại ở khắp nơi. Đôi khi thần hồn nhát thần tính khiến người ta nhìn người ra ma, “nhìn cò ra quạ” đến khiếp nhược rụng rời tay chân.

Các tông đồ cũng chưa bao giờ chứng kiến người chết sống lại. Niềm tin các ông chưa đủ để hiểu những gì đang diễn ra. Thế nên, khi thấy Chúa Giê-su phục sinh các ông vẫn ngỡ là ma, các ông hoài nghi xen lẫn sợ hãi. Chắc là phải sợ hãi lắm nên Chúa mới phải trấn an: Đồ nhát ”Ma làm gì có thịt có xương như Thầy”.

Dù sao đi nữa thì niềm tin người chết sống lại vẫn vượt quá trí tưởng tượng của con người. Các ông chưa đủ niềm tin vào sự phục sinh của Chúa nên các ông vẫn mơ hồ tưởng Thầy là ma. Chưa đủ niềm tin vào sự phục sinh nên các ông vẫn sợ những bóng tối che phủ chung quanh. Lòng các ông nặng trĩu lo âu. Tâm trạng hoang mang sợ hãi trước cái chết của Thầy Giê-su.

Hôm nay Chúa Phục sinh đã mang lại bình an cho các tông đồ. Sự sợ hãi đã bị đẩu lùi. Bóng ma không còn nữa chỉ còn Thầy với thân xác phục sinh cùng ăn, cùng uống, cùng đồng hành với các môn sinh. Niềm vui của sự sum vầy dâng cao. Tình thầy trò lại sống lại. Chúa phục sinh đã nối họ lại trong một gia đình để cùng ra đi loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.

Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Có người sợ cho tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của dòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.

Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.

Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của dòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù dòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-158: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)

“NGƯỜI MỞ TRÍ CHO CÁC ÔNG AM HIỂU KINH THÁNH”

 

Theo tường thuật Tin mừng của thánh Luca, khi Chúa Phục Sinh hiện diện và đồng hành, một trong PS3 B-158


Theo tường thuật Tin mừng của thánh Luca, khi Chúa Phục Sinh hiện diện và đồng hành, một trong những ơn rất cần thiết mà Ngài ban cho các môn đệ đó là: Soi lòng, mở trí, để giúp các ông hiểu biết về Kinh Thánh, hiểu biết và tin nhận những gì Lời Chúa đã được viết ra, được công bố để tiên báo về sứ vụ và công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Câu hỏi được đặt ra: Tại sao các môn đệ của Chúa lại không thể nhận ra Chúa Phục Sinh khi Ngài hiện diện với họ. Cho dù “Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ. Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma.” Còn với mỗi người chúng ta, trong cuộc sống hiện tại, ơn thánh cần thiết cho mỗi người chúng ta muốn cầu xin Chúa Phục Sinh ban cho là ơn thánh gì? Lời Chúa hôm nay soi sáng hầu giúp chúng ta nhìn lại thái độ, cách sống và niềm tin của chúng ta vào Kinh Thánh và sức mạnh của Lời Chúa đã tác động-biến đổi  ra sao trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Câu hỏi được đặt ra: Mỗi ngày tôi dành bao nhiêu thời gian cho việc đọc và suy niệm Lời Chúa? Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, tâm tình, thái độ của tôi cho phần Phụng vụ Lời Chúa ra sao? Sau khi nghe công bố Lời Chúa, tôi có tin và để cho Lời Chúa soi lòng mở trí để tôi được am hiểu? Sau đây là một số thực trạng rất đáng buồn và báo động hiện nay: Có rất nhiều người đi Lễ trễ khi đã xong các bài đọc Lời Chúa. Nhiều người sau khi nghe bài Tin mừng, ngồi xuống, đã tranh thủ đôi ba phút để chợp mắt một chút. Với những người đi lễ mà ngồi bên ngoài hành lang, ghế đá, gốc cây…thì nhiều người lại tranh thủ để tán ngẫu, hút thuốc, nhắn tin…Nếu lỡ bài giảng của các Cha hơi dài, hơi dỡ, khó hiểu, thì thế nào cũng sẽ càm ràm, than trách…Tạ ơn Chúa, nếu tôi không vướng vào những thực trạng đáng buồn được kể trên. Thật vậy, nếu như chúng ta không được ơn thánh Chúa soi lòng mở trí để hiểu biết Kinh Thánh, thì chúng ta cũng sẽ giống như các Tông đồ và môn đệ Chúa, dẫu rằng thấy Chúa hiện diện ban ơn chúc phúc nhưng mà tâm hồn vẫn đầy lo lắng, bất an.

Trong câu xướng Alleluia mời gọi chúng ta: “Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con”. Đây phải là tâm tình, cung cách, thái độ sống của mỗi người chúng ta khi đến với Lời Chúa và Thánh Lễ. Thật vậy, trong bài đọc từ TĐCV, Phêrô khi đã được ơn Chúa Phục Sinh soi dẫn, Ngài đã mạnh dạn để rao giảng về Chúa Giêsu, Đấng mà Kinh Thánh đã tiên báo và đã lưu truyền qua nhiều thế hệ, Đấng mà các Tông đồ đã chứng thực với cả niềm tin, lòng mến và mạng sống của các Ngài. Do đó, Phêrô đã mời gọi chúng ta hãy tin những gì mà Ngài đã thừa hưởng và truyền lại cho chúng ta. Nhờ khiêm tốn cùng với lòng tin vào Lời Chúa được rao giảng, chúng ta cũng sẽ được ơn thánh hóa và biến đổi.
Cũng trong một cách thế tương tự, bài đọc hai trong thư của Thánh Gioan, chính Ngài đã tha thiết mời gọi chúng ta hãy đón nhận những gì mà ơn Chúa soi dẫn, hầu giúp Ngài viết ra, nhờ đó, ai chấp nhận, tin và sống theo Lời Chúa thì sẽ được ơn thánh hóa, được gìn giữ để tránh xa những dịp tội hầu trở nên những người con thảo, sống đẹp lòng Chúa. Nhờ tin vào Lời Chúa, Lời hằng sống, Ngôi Lời nhập thể ban ơn cứu độ, để khi chúng ta tuân giữ và thực hành, chúng ta được chính Đức Kitô Giêsu là Đấng sẽ ban ơn thánh hóa và thứ tha tội lỗi cho chúng ta. Thật vậy, qua Lời Chúa, chúng ta biết Chúa, biết những giới răn, huấn lệnh và thánh ý Chúa, nhờ nhận biết Lời Chúa mà chúng ta có thể sống thân mật và gắn bó với Ngài. Hơn thế nữa, nhờ tin, sống và thực hành Lời Chúa chúng ta được trở nên tinh tuyền và đạt tới đỉnh cao của sự hoàn hảo theo thánh ý Chúa. “Ai giữ lời Người, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy”.

Chúa đã soi lòng mở trí cho các môn đệ để các ông hiểu Lời Chúa, để các ông có thể chấp nhận sứ vụ Chúa trao, ra đi làm chứng và trao ban ơn Chúa cho tha nhân. Hôm nay, Chúa cũng đang tha thiết để mời gọi để ban ơn soi sáng, trao sứ vụ cho chúng ta. Điều còn lại là tùy thuộc nơi thái độ khiêm tốn, đơn sơ, tích cực và tín thác của mỗi người chúng ta vào Lời Chúa và mở lòng để cho ơn Chúa được thực hiện. Ước mong rằng, mỗi khi đọc và suy niệm Lời Chúa, đặc biệt hơn là mỗi khi đến tham dự Thánh Lễ ra về, chúng ta được ơn bình an của Chúa ban, lòng trí chúng ta bừng sáng lên vì đã được biết Chúa, sống gắn bó mật thiết với Chúa. Nhờ đó, trong cuộc sống thực tại, mỗi người chúng ta có thể làm sống động và lan tỏa ơn thánh Chúa cho những người thân yêu trong gia đình và cho những người trong các môi trường sống mà chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-159: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

 

Phụng Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh năm B dâng hiến cho chúng ta những lời chứng mới về PS3 B-159


Phụng Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh năm B dâng hiến cho chúng ta những lời chứng mới về biến cố Phục Sinh; nhưng mầu nhiệm vinh quang này được bày tỏ ở đây trong mối liên hệ với mầu nhiệm Thương Khó của Đức Ki-tô.

Cv 3: 13-15, 17-19

Trong diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Ki-tô. Lời công bố này vang dội trực tiếp trong đoạn trích Tin Mừng Lu-ca hôm nay.

1Ga 2: 1-5°

Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan suy gẫm về những đau khổ mà Đức Ki-tô phải chịu vì tội lỗi của chúng ta, nhờ đó chúng ta đạt được ơn tha thứ.

Lc 24: 35-48

Thánh Lu-ca thuật lại cho chúng ta chuyện Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Phục Sinh. Trong câu chuyện này, Chúa Giê-su giải thích cuộc sống và cái chết của Ngài bằng cách chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo rồi cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài, cũng như ơn tha thứ tội lỗi.

BÀI ĐỌC I (Cv 3: 13-15, 17-19)

Đây là bài diễn từ thứ hai trong số các bài diễn từ mà thánh Phê-rô ngỏ lời với dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, được sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại. Bài diễn từ thứ nhất được công bố vào ngày lễ Ngũ Tuần (2: 14-36).

Bối cảnh của câu chuyện thật ngoạn mục. Thánh Phê-rô và thánh Gioan lên Đền Thờ để tham dự “buổi cầu nguyện giờ thứ chín” (tức ba giờ chiều: Cv 3: 1). Niềm tin của các ngài tháp nhập rất tự nhiên vào khuôn mẫu phụng vụ Do thái giáo. Hai Tông Đồ chú ý đến một người ăn xin ngồi bên cửa Đền Thờ. Thánh Phê-rô nhìn thẳng vào anh, nắm chặc lấy tay anh và kéo anh đứng lên. Anh đứng dậy được, vừa đi vừa nhảy nhót theo chân hai Tông Đồ. Mọi người nhận ra anh, kinh ngạc và chạy ùa đến. Khi thấy đám đông, thánh Phê-rô ngỏ lời với họ.

Trong bài diễn từ thứ hai này, đối tượng thánh Phê-rô hướng đến vẫn là người Do thái. Điều khó khăn nhất là làm thế nào để người ta có thể chấp nhận rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là Đấng Ki-tô.

1. Anh em là Dân Giao Ước:

Trước tiên, thánh Tông Đồ gây nên niềm hứng phấn nơi thính giả của mình khi nhắc cho họ nhớ rằng họ là Dân Giao Ước, Giao Ước này Thiên Chúa đã ký kết với các tổ phụ: Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ấy vậy, chính “Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su”. Thánh Phê-rô gọi Đức Giê-su bằng tước hiệu “Tôi Trung” để hướng lòng trí của người nghe đến hình ảnh người tôi trung chịu đau khổ của I-sai-a. Vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị này đã tiên báo rằng Người Tôi Trung của Đức Chúa bị khinh bỉ và chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho muôn người. Tước hiệu “Tôi Trung” dành cho Đức Giê-su sẽ được lập lại một lần nữa trong các bài diễn từ Tông Đồ, tước hiệu này đem đến một lập luận quan trọng khi đối mặt với thái độ ngập ngừng của những người chờ đợi một Đấng Ki-tô vinh quang và quyền năng.

2. Anh em đã nộp Người:

Tiếp đó, thánh Phê-rô đưa ra lời buộc tội trực tiếp khi dẫn chứng những tương phản:

- Quan Phi-la-tô, người ngoại giáo, đã nhận ra sự vô tội của Đức Giê-su và muốn thả Ngài; nhưng trái lại, chính anh em, dân Chúa chọn, đã chối bỏ Ngài.

- Chính Ngài là Đấng Thánh và Đấng Công Chính, nhưng anh em lại chuộng một tên sát nhân hơn là Ngài.

- Chính Ngài là Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng anh em đã ra tay giết Ngài.

Ở đoạn văn này, chúng ta gặp lại một dấu ấn mà thánh Lu-ca đã nhấn rất mạnh trong bài trình thuật của mình về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô: trách nhiệm của quan Phi-la-tô về cái chết của Đức Giê-su thì ít hơn dân chúng, những kẻ, bị các thượng tế khích động, kêu gào đóng đinh Ngài. Thật thế, quan tổng trấn Rô-ma đã công bố đến ba lần: “Ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả” (23: 4, 15, 22).

Còn đối với hai phẩm tính “Đấng Thánh và Đấng Công Chính”, đây là hai tước hiệu Kinh Thánh thường đi kèm theo tên của những tôi trung vĩ đại, chẳng hạn như ông Mô-sê (thánh Phê-rô sẽ nêu đích danh Mô-sê trong bài diễn từ này). Hai tước hiệu này vẫn là những tước hiệu Ki-tô học rất cổ xưa, nhưng căn cứ trên lời minh chứng của thánh Phê-rô: Đức Giê-su đã thực hiện ở nơi bản thân Ngài những lời Kinh Thánh: Ngài là Đấng Thánh và Đấng Công Chính mà các ngôn sứ đã tiên báo.

3. Thiên Chúa đã phục sinh Ngài:

Đây là Mặc Khải cốt yếu, lời quả quyết không thể tin được. Vị Tông Đồ còn nhấn mạnh: “Về điều này, chúng tôi xin làm chứng”. Đoạn, bằng một lý lẽ rất thấm thía, thánh Phê-rô làm yên lòng những người mà thánh Tông Đồ buộc tội: tội ác mà họ đã phạm vì không hiểu biết, thì Thiên Chúa đã sử dụng để  thực hiện kế hoạch của Ngài; họ có thể được hưởng ơn cứu độ và đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nếu họ sám hối mà trở lại cùng Thiên Chúa.

Chắc chắn lời kêu gọi sám hối này sẽ được lập đi lập lại như một điệp khúc trong các bài diễn từ các Tông Đồ, nhưng lời kêu gọi này được đặt ngay sau việc nêu lên những đau khổ tất yếu mà Đấng Ki-tô phải chịu, mặc lấy một sức mạnh đặc biệt.

BÀI ĐỌC II (1Ga 2: 1-5)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan gởi cho các cộng đồng Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Thánh Tông Đồ ngỏ lời với các tín hữu này với cung giọng trìu mến của người cha; thánh nhân biết những khó khăn và cuộc chiến đấu của họ chống lại những lạc thuyết đang dấy lên trong cộng đoàn. Thánh nhân muốn soi sáng cho họ và củng cố niềm tin của họ.

“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi”, lối xưng hô này được lập đi lập lại thường hằng trong thư tạo nên nét đặc trưng của bức thư này. Đây là cách nói biểu lộ tấm lòng trìu mến. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Tông Đồ đưa ra hai lời khuyên bảo: một liên quan đến cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi và một khác về hiểu biết Thiên Chúa.

1. Cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi (2: 1-2):

Để chiến đấu chống lại tội lỗi, phải nhận ra mình là tội nhân và Đức Giê-su là Đấng Bảo Trợ chúng ta.

A. Nhận ra mình là tội nhân:

Chính vì sự công chính mà Thiên Chúa cứu độ chúng ta và sự công chính cứu độ này có tên gọi là “Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”. Người Ki-tô hữu đích thật biết nhận ra rằng mình là tội nhân, trái với những kẻ tự cho mình là hoàn hảo. Hậu cảnh của những lời kêu gọi đạo lý này mang sắc thái của cuộc bút chiến: những người phổ biến lạc thuyết Ki-tô giáo tự cho mình là tinh tuyền. Họ xuất thân từ những cộng đoàn này và đã gây xáo trộn ở giữa lòng các cộng đoàn. Thánh Gioan đồng hoá họ với những kẻ dối trá khi nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1: 8). Khi phát biểu bằng đại từ: “chúng ta”, thánh Tông Đồ khiêm tốn tự đặt mình vào hàng các người Ki-tô hữu có thể phạm tội.

B. Đức Giê-su là Đấng Bảo Trợ của chúng ta:

“Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”. Danh xưng “Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý xuất phát từ động từ Hy-lạp có nghĩa “gọi đến bên cạnh để cứu giúp”. Chúng ta không gặp thấy danh xưng này trong các bản văn Tin Mừng Nhất Lãm cũng như trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng chỉ trong các bản văn thuộc truyền thống Gioan. Trong Tin Mừng Gioan, danh xưng “Đấng Bảo Trợ” được dùng để chỉ vai trò của Chúa Thánh Thần (x. Ga 14: 16-20); tuy nhiên, trong thư thứ nhất này, danh xưng này được dùng để chỉ Đức Giê-su Ki-tô, Ngài là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, mà thánh Gioan xác định phẩm tính là “Đấng Công Chính”. Phẩm tính này ám chỉ đến sự vô tội của Đức Giê-su, vì thế, không nhắm đến tính chất Công Chính hoàn hảo của Ngài cho bằng đến chức năng thẩm phán của Ngài. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng công chính hóa chúng ta, bởi vì Ngài trở nên một người như chúng ta và hiến dâng mạng sống mình làm “của lễ đền bù tội lỗi chúng ta”.

Thánh Gioan dùng kiểu nói: “của lễ đền bù tội lỗi”, gợi lên tức thời hy lễ đền tội của dân Ít-ra-en, nhưng hy lễ này chỉ có hiệu lực xoá tội của vị thượng tế và cộng đoàn Ít-ra-en, còn của lễ đền tội của Đức Giê-su Ki-tô có tầm mức hoàn vũ.

Ở đây cũng thế, ngoài nỗi bận lòng mục vụ của mình, thánh Gioan nhắm đến việc lên án những kẻ lạc giáo, họ phân biệt một Đức Giê-su phàm nhân với một Đức Ki-tô thiên giới. Đức Ki-tô thiên giới trở nên một với Đức Giê-su phàm nhân vào lúc chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, nhưng rồi sẽ rời bỏ Đức Giê-su phàm nhân này vào lúc Khổ Nạn. Vì thế, chính Đức Giê-su phàm nhân, chứ không phải Con Thiên Chúa, chịu chết trên thập giá. Theo thánh Gioan, những ai phủ nhận mầu nhiệm Nhập Thể, hệ luận tất yếu cũng phủ nhận luôn mầu nhiệm Cứu Chuộc.

2. Hiểu biết Thiên Chúa:

Một vấn đề có tính thời sự đặt ra cho các cộng đoàn miền Tiểu Á đang bị các nhà rao giảng ngộ đạo làm chao đảo đức tin của mình là làm thế nào nhận biết Thiên Chúa đích thật. Mục đích cốt yếu của thánh Gioan là làm yên lòng các tín hữu, đem lại cho họ niềm xác tín rằng họ đang ở trên chính lộ. Tiêu chuẩn để nhận biết Thiên Chúa đích thật không cốt ở nơi những suy luận trừu tượng, hay ở nơi thần khải nội tâm, nhưng ở nơi sự hiểu biết thực nghiệm, tức là tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa và hiệp thông với Ngài.

A. Tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa:

Các điều răn của Thiên Chúa là những điều răn nào? Ở đây, thánh Gioan xem ra vẫn ở trong tính tổng quát các giáo huấn Tin Mừng; tuy nhiên, xuống dưới một chút, thánh nhân xác định: “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta” (3: 23). Những đòi hỏi này được nhắc đi nhắc lại xuyên suốt bức thư này, đó là những đòi hỏi mà các nhà ngụy rao giảng không tuân giữ. Ví dụ, các nhà rao giảng ngộ đạo thuyết tự cho mình đạt được một tình trạng hiểu biết về những mầu nhiệm thiên giới, điều này khiến họ khinh thường những người dốt nát không thể đạt đến những phạm vi cao siêu này.

Chính vì thế thánh Gioan nhấn mạnh rằng người Ki-tô hữu phải tin vào Đức Giê-su Ki-tô và tuân giữ điều răn yêu thương, có như thế họ mới có thể vào trong cõi tâm giao với Thiên Chúa, trong mối liên hệ cá nhân với Chúa Cha và Chúa Con. Chúng ta gặp lại ở đây đề tài hiệp thông với Thiên Chúa, đây là đề tài trung tâm của bức thư và là nền tảng của sự hiểu biết chân thật về Thiên Chúa.

B. Hiệp thông với Thiên Chúa:

“Còn hể ai giữ lời Người truyền dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (2: 5). Trong lời phát biểu này “Tình yêu Thiên Chúa” muốn nói lên điều gì? Phải chăng “tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta” thực sự nên hoàn hảo nơi người Ki-tô hữu trung tín; hay là “tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa” trở nên hoàn hảo qua việc tuân giữ điều răn yêu thương?

Chúng ta gặp thấy câu trả lời nhờ một đoạn văn song đối lập lại cùng một kiểu nói: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (4: 12). Như vậy, chính “tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta” mới làm cho chúng ta nên hoàn hảo. Tuy nhiên, xuyên suốt bức thư này, thánh Gioan xem việc tuân giữ các điều răn là bản trắc nghiệm tình yêu của người Ki-tô hữu đối với Thiên Chúa. Lời nhắc nhở này được thánh Tông Đồ lập đi lập lại nhiều lần trong diễn từ Cáo Biệt của Chúa Giê-su: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21).

Quả thật, hai viễn cảnh được đan quyện mật thiết với nhau. Vả lại, hai mệnh để phụ: “Còn hể ai…” và “Nếu chúng ta…”  đều dẫn đến cùng một câu kết luận: “Tình yêu Thiên Chúa thực sự nên hoàn hảo”. Mục đích thật sự ở đây là làm cho người Ki-tô hữu thông phần vào cuộc sống thần linh. Đây là ý nghĩa của động từ “ở lại” mà thánh Gioan thường hằng lập đi lập lại.

TIN MỪNG (Lc 24: 35-48)

Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm những lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ Ngài. Vào Chúa Nhật trước, chúng ta đã đọc bài trình thuật của thánh Gioan, vào Chúa Nhật này, chính là bài trình thuật của thánh Lu-ca.

Trước đoạn trích Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca thuật lại cho chúng ta sự kiện Chúa Giê-su Phục Sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau. Như vậy, ngày Phục Sinh này là ngày dài nhất: khởi đầu với việc các thánh nữ đến viếng mộ lúc trời vẫn còn tối cho đến tận đêm khuya khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ. Quả thật, Chúa Giê-su chấp nhận đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau suốt ngày hôm ấy. Vào lúc trời đã xế chiều, Ngài đồng bàn với hai ông. Khi cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ thì họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài biến mất (x. Lc 24: 29-31). Ngay lúc đó, hai môn đệ này vội vả quay trở lại Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ đang tụ họp tại đó.

1. Kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau:

Xem ra thánh Lu-ca đã cô động những biến cố Phục Sinh vào cùng một ngày. Điều đáng chú ý chính là thánh ký luôn luôn nêu bật chiều kích Giáo Hội ở nơi cử chỉ của hai môn đệ trên đường Em-mau. Chính ở nơi các Tông Đồ mà hai người môn đệ quy chiếu về. Nhóm Mười Một vẫn là những chứng nhân cốt yếu của sự kiện Phục Sinh. Tuy vậy, kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau không bị giảm thiểu, nhưng đã được củng cố và được thu tóm một cách nào đó vào trong kinh nghiệm cộng đoàn. Vả lại, hai môn đệ này chắc chắn rất thân cận với các Tông Đồ, vì họ biết nơi các Tông Đồ bí mật tụ họp cùng nhau.

Như trong các bài trình thuật biến cố Phục Sinh của Tin Mừng Gioan, ở đây Đức Giê-su cũng bất ngờ xuất hiện giữa các môn đệ Ngài. Thân thể bằng xương bằng thịt của Ngài, như Ngài sắp chứng tỏ điều đó, vẫn như trước kia khi Ngài còn sống giữa họ, nhưng cũng hoàn toàn khác. Đức Giê-su trở về bên cạnh Chúa Cha trong vinh quang đã không rũ bỏ nhân tính của Ngài. Sau khi sống lại, Đức Giê-su vẫn mãi mãi là Thiên Chúa và con người.

2. Bình an cho anh em:

Lời cầu chúc này, chúng ta đã thấy rồi, còn hơn cả lời chào hỏi thông thường theo phong tục của người Do thái. Đây là bình an thời Thiên Sai, bình an mà Chúa Giê-su đã hứa ban khi Ngài tham dự Tiệc Ly với các môn đệ vào chiều thứ năm trước đó: “Thầy để lại cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14: 27). Bình an mà Đấng Phục Sinh trao ban cho các môn đệ là bình an của Nước Trời, bình an của một đời sống trong Thần Khí sự thật (Ga 16: 13), nhiều lần được gợi lên trong Tin Mừng Lu-ca (Lc 2: 14; 2: 29; 7: 50; 8: 48; 10: 5-6; 11: 21; 19: 38; 19: 42; 24: 36).

3. Tầm quan trọng của bằng chứng thể lý:

Thánh Lu-ca nhấn mạnh hơn thánh Gioan về nỗi khiếp sợ của các môn đệ, về sự cứng tin của các ông và về những vết thương khổ nạn mà Chúa Giê-su đưa ra để làm bằng chứng cho thấy Ngài thực sự đã sống lại. Thánh ký ngỏ lời với những người Hy-lạp và những người Rô-ma, những người này đã không biết đến Kinh Thánh. Chính vì thế thánh ký không trích dẫn Kinh Thánh, nhưng kể ra việc Chúa Giê-su “ăn một khúc cá nướng” trước mặt các ông.

Xem ra cử chỉ này không là một bằng chứng riêng lẽ. Để nhận ra Đức Giê-su thật sự đã sống lại, đây chỉ là một trong những bằng chứng như thánh Phê-rô sẽ công bố: “Chúng tôi đã cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10: 41). Trong chương 21 Tin Mừng Gioan, vì các môn đệ chưa nhận ra Ngài, Chúa Giê-su đã dọn sẵn một bữa ăn cho các môn đệ Ngài, sau khi các ông đã vất vả đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cả. Sau mẻ lưới cá lạ lùng, Ngài nói với họ: “Anh em đến mà ăn!”. Xem ra Chúa cùng ăn với họ bánh và cá mà Ngài đã nướng sẵn trên than hồng.

4. Tầm quan trọng của bằng chứng Kinh Thánh:

Bằng chứng Kinh Thánh cũng quan trọng không kém gì bằng chứng thể lý. Chúa Giê-su đã nhấn rất mạnh bằng chứng Kinh Thánh khi Ngài giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (24: 44).

Cũng như hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa Giê-su cũng soi lòng mở trí cho các Tông Đồ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem để các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài cũng như những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước.

Việc “ôn cố tri tân” này (nhắc lại Cựu Ước để hiểu Tân Ước) được Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ hai lần trong cùng một ngày này (trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau; sau đó, các Tông Đồ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem) chắc chắn không thể thiếu được. Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca cho chúng ta biết rằng các Tông Đồ quy tụ chung quanh Đấng Phục Sinh đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không ?” (Cv 1: 6). Với những tâm trí chậm hiểu này phải nhắc đi nhắc lại mới mong các ông ngộ ra rằng vương quốc mà Kinh Thánh loan báo không là vương quốc Ít-ra-en trần thế, nhưng là vương quốc Thiên Chúa hoàn vũ. Biến cố Phục Sinh không là kết thúc một cuộc mạo hiểm thần linh, nhưng là bắt đầu một công trình bao la mà giờ đây được trao gởi cho các môn đệ thực hiện bằng cách công bố cho muôn dân nước lòng sám hối và ơn tha thứ tội lỗi.

 5. Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem:

Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca nhấn mạnh nhiều nhất về tầm quan trọng của thành thánh Giê-ru-sa-lem. Thánh ký đã bắt đầu sách Tin Mừng của mình với cuộc truyền tin cho ông Da-ca-ri-a về cuộc sinh hạ của Gioan Tẩy Giả trong đền thờ Giê-ru-sa-lem và kết thúc sách Tin Mừng của mình với cuộc hội ngộ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ cũng tại thành thánh Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, thánh Lu-ca đánh dấu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem với những móc điểm rõ nét nhất (“trên đường lên Giê-ru-sa-lem”: 9: 51; 13: 22; 17: 12). Theo thánh Lu-ca, thành thánh Giê-ru-sa-lem là nơi Chúa Giê-su hoàn tất sứ mạng của mình và cũng là nơi Giáo Hội khởi sự thi hành sứ mạng của mình.

------------------------------

 

PS3 B-160: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

BÌNH AN CỦA CHÚA KI-TÔ PHỤC SINH

 

Trong xã hội đầy chuyển biến, thế giới với biết bao nhiêu nhiễu nhương, mâu thuẫn giữa các quốc PS3 B-160


Trong xã hội đầy chuyển biến, thế giới với biết bao nhiêu nhiễu nhương, mâu thuẫn giữa các quốc gia, giữa các châu lục, nhất là thời điểm dịch bệnh ngày càng gia tăng, hơn ai hết, con người chúng ta cần đến sự bình an tâm hồn thật sự, cần đến tình yêu mến, lòng tương thân tương trợ, và đoàn kết vượt qua cuộc khủng hoảng chung này.

Đối với mỗi người, được bình an trong đời có thể khác nhau ở cách diễn tả, khác nhau cách biểu lộ, cũng như những biểu hiện của nó. Tuy nhiên, với người Công giáo chúng ta, sự bình an thật sự nơi tâm hồn không gì khác chính là được kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô Phục Sinh, và được cảm nghiệm niềm vui Phục Sinh mà chính Ngài đã mang lại cho chúng ta trong đời sống thường nhật, qua việc tham dự bàn tiệc Thánh, qua việc đọc-suy gẫm Lời Chúa, qua việc cầu nguyện không ngừng mỗi ngày, qua việc bác ái, tha thứ, chia sẻ với tất cả mọi người, nhất là những ai túng thiếu kể cả về vật chất cũng như tinh thần.

Khi ngẫm suy các trình thuật Kinh Thánh về Chúa Phục Sinh, chúng ta biết rằng: sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Ki-tô thấu tỏ nỗi bất an trong tâm hồn, tâm trí của các môn đệ. Ngài biết rõ sự sợ hãi, e dè, nhút nhát sâu kín nơi họ. Ngài hiểu thấu các ông đang trong tình cảnh tinh thần sa sút, thái độ bỏ cuộc, tâm lý ‘nhắm mắt đưa chân’ thà về quê làm lụng vất vả còn hơn ở lại Giê-ru-sa-lem với tâm thế bị dằn xé, hồi tưởng thời khắc Thầy mình chịu khổ hình nhục nhã, rồi bị đóng đinh trên thập giá như một tên tử tù! Chính vì vậy, mỗi lần hiện ra với các ông, điều Ngài làm trước hết, chẳng phải nhắc lại chuyện cũ, hoặc than phiền trách móc vì sự bỏ mặc, chạy trốn của các ông, mà là trao ban bình an từ chính Ngài, Đấng đã chiến thắng sự chết, chiến thắng bức tường ngăn cách cuối cùng trên dương gian mà mỗi con người sớm muộn gì cũng phải đối mặt, “bình an cho các con, Thầy đây, đừng sợ!” (Lc 24, 36). Nói cách khác, Chúa Giê-su rất ư tâm lý, Ngài chỉ muốn lấp đầy con tim, tâm trí các môn đệ với sự yên hàn, an bình thật sự mà thôi.

Thế nhưng, với bản tính yếu đuối con người, các môn đệ chưa ra khỏi tình trạng bối rối, hoang mang, thậm chí mơ tưởng, nghi ngờ, không dám tin vào đôi mắt bản thân đang được nhìn thấy Thầy mình đã sống lại, hiện diện trước mặt. Sự bất an nơi tâm hồn kéo theo vô vàn hệ luỵ trong đời. Tương tự như các Tông đồ, mỗi lúc bất an, bất ổn, chúng ta thường rơi vào tình cảnh rối bời, lo âu, mất niềm tin, trở nên ngờ vực, đa nghi…, và nếu cứ để hoài như vậy, thì chúng ta sẽ chẳng thể nào cầu nguyện được, chẳng thể nào làm việc, hay sinh hoạt ở bất cứ bậc sống nào, kể cả đời sống tu trì, đời sống gia đình, cũng như đời sống thường ngày. Hiểu rõ điều này, nên sau khi chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Ki-tô Phục Sinh cho họ tương tác thân tình như Ngài đã từng hiện diện trực tiếp, cùng đi, cùng sống với các ông trong ba năm ròng rã đó đây rao truyền Nước Trời, “hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây” (Lc 24, 38); ngoài ra, “Người ăn trước mặt các ông, và đưa phần còn lại cho họ” (Lc 24, 43). Người mà các ông kề cận, thân tình trước kia, giờ đây vẫn với thân hình ấy, với đôi mắt nhân ái ấy, với đôi tay, đôi chân bị đóng đinh ấy, người mà đã cùng ngồi chung, ăn uống với các ông…chứ đâu phải một người nào khác xa lạ. Thật sự, khi tảng băng bất an tan chảy, nhường cho sự tin tưởng, kết thân tình, tương tác mến thương, thì đây chính là kết quả của bình an đích thật chân chính, mà Chúa Ki-tô Phục Sinh trao ban.

Kế đến, niềm bình an Chúa Ki-tô Phục Sinh được toả lan, sưởi ấm cái lạnh giá, khô cứng, đóng băng trong tâm hồn các môn đệ, và hơn hết, mở đôi mắt, mở đôi tai, mở lòng trí các ông ra, ngõ hầu biết đón nhận, am hiểu Kinh Thánh: “đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh” (Lc 24, 44). Thế nên, dần dần tâm hồn các ông được tràn đầy sự bình an của Chúa Ki-tô, tâm trí các ông được khai sáng, hiểu ra sứ mệnh của Thầy mình, đó là: phải chịu tử nạn, nhưng ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại (x. Lc 24, 47). Và khi đã được thấm nhuần, các môn đệ can đảm ra đi làm chứng cho Thầy Giê-su. Điển hình, Thánh Phê-rô trở nên chứng tá cho Chúa Ki-tô Phục sinh: “Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Ki-tô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ" (Cv 3, 18-19). Nói cách khác, khi được đón nhận sự bình an đích thật của Chúa Ki-tô Phục Sinh, các môn đệ ‘chiến thắng chính bản thân’, chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, vì tin chắc: Chúa Ki-tô Phục Sinh đang hiện diện, đang cùng sống, đang cùng đi với các ngài, nên chẳng cần lo chi! Theo Thánh Gio-an, “…thì chúng ta có Đức Giê-su Ki-tô, Đấng công chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian” (1Ga 2, 1-2)

Sau cùng, chúng ta cũng được mời gọi đón nhận sự bình an nơi Chúa Ki-tô Phục Sinh, và can đảm ra đi chia san với hết mọi người trong mọi lĩnh vực, mọi thời, mọi nơi như Lời Chúa nhắn nhủ chúng ta: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 48).

Chúa Ki-tô Phục Sinh
Đem an bình khắp nơi
Nào ta hãy nhớ Lời:
Loan truyền người muôn nơi. Alleluia. Amen!

------------------------------

 

PS3 B-161: Chúa Nhật 3 Phục Sinh


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

TIN MỪNG CÓ NGHĨA LÀ PHẢI ĐƯỢC RAO GIẢNG.

TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA LÀ RAO GIẢNG TIN MỪNG.

 

Bài Tin mừng hôm nay là phần kết của câu chuyện hành trình đi về Emmaus, và cũng là trình PS3 B-161


Bài Tin mừng hôm nay là phần kết của câu chuyện hành trình đi về Emmaus, và cũng là trình thuật về  lần hiện ra đầu tiên của Chúa Giêsu với 11 Tông đồ còn lại. Bài đọc này cho thấy những phản ứng trước biến cố phục sinh cũng như những nhận thức để trở thành chứng nhân Chúa Kitô. Bài Tin mừng cũng sắp xếp để Luca nối tiếp trình thuật nơi sách Công vụ tông đồ.

Việc phục sinh của Chúa Giêsu nơi Tin mừng Luca có một vài yếu tố độc đáo. Khi bà Maria Mađalêna, bà Gioanna, bà Maria (mẹ của Giacôbê) và những người phụ nữ khác kể lại cho các tông đồ về cuộc gặp gỡ của họ với các sứ thần tại ngôi mộ trống, các Tông đồ đã không tin, dù vậy Phêrô vẫn đi viếng  mộ (Lc 24,6-12). Các bà cũng kể cho các môn đệ khác, trong đó có hai môn đệ đã gặp Chúa Giêsu trên đường đi Emmaus (Lc 24,13-27). Chúa Giêsu trò chuyện với họ trong lúc họ đang đau buồn trước cái chết của Ngài, mà không hoàn toàn hiểu rằng Ngài đã phục sinh. Vào cuối ngày gặp gỡ này, Chúa Giêsu bẻ bánh, giúp họ họ nhận ra Ngài (Lc 24,28-32). Phần đầu của bài Tin mừng hôm nay là phần kết của câu chuyện đi về Emmaus, khi hai môn đệ chia sẻ cảm nghiệm của họ với 11 tông đồ.

Sau lời kể của hai môn đệ, Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, khiến các ông hoảng sợ. Trong bài trình thuật, vào thời điểm này, các Tông đồ đã nghe hai lần tường thuật khác nhau về sự sống lại, nhưng họ vẫn ngạc nhiên và hoảng sợ khi thấy Chúa Giêsu. Chúa Giêsu gặng hỏi về phản ứng của họ và Ngài đưa ra bằng chứng qua dấu đinh trên tay và chân của Ngài. Chúa Giêsu thậm chí còn ăn cá với họ như một dấu hiệu khác cho thấy rằng Ngài thực sự hiện diện cách thể lý với họ chứ không phải là ma.

Sau khi đưa ra bằng chứng về thể lý, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa thần học về cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Ngài giảng dạy các Tông đồ qua việc mở “trí cho họ hiểu Kinh thánh,” nối kết sứ mạng và công việc của Ngài với lề luật, các tiên tri và các thánh vịnh trong Cựu ước.

Chúa Giêsu cũng loan báo rằng cuộc thương khó, tử nạn và sự phục sinh của Ngài là để mang lại việc thống hối. Khi giảng dạy Kinh thánh, Chúa Giêsu nói với các môn đệ, “Thật vậy, có lời chép rằng Đấng Kitô phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại, rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối để lãnh ơn tha tội cho muôn dân.” Việc lắng nghe sứ điệp này trong suốt mùa Phục sinh sẽ nhắc chúng ta nhớ lại khởi điểm của Mùa Chay. Thứ tư Lễ tro bắt đầu với một lời nhắc nhở về sự chết và lời kêu gọi sám hối tội lỗi. Bài Tin mừng hôm nay lặp lại sứ điệp đó, giải thích lý do nền tảng để hiểu cái chết và sống lại của Chúa Giêsu.
Điều quan trọng là đoạn cuối của Tin mừng Luca chỉ mới là một nửa chặng đường. Sách Công vụ Tông đồ dựa trên Tin mừng Luca để mô tả khởi đầu của phong trào Kitô và sự lan rộng của Kitô giáo đến dân Do Thái và dân ngoại. Ở cuối trình thuật của Luca, Chúa Giêsu ủy quyền cho các Tông đồ, sai họ ra đi chia sẻ Tin mừng nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần (Lc 24,49, xem Cv 1,8).

Trong Tin mừng Luca, mỗi lần hiện sau khi phục sinh ra đều mạc khải một điều gì đó và sau đó được chia sẻ với những người khác. Những người phụ nữ kể lại cho các Tông đồ và các môn đệ về biến cố phục sinh. Các môn đệ trên đường Emmaus chia sẻ kinh nghiệm của họ về Đức Kitô phục sinh với các Tông đồ. Chúa Giêsu dạy cho các Tông đồ ý nghĩa của việc sống lại, và họ được sai đi loan báo cho người khác (trong tiếng Hy Lạp từ Apostolos có nghĩa là “người được sai đi”). Đây là những thí dụ để hiểu chứng nhân Kitô giáo nghĩa là gì. Chứng nhân Kitô giáo không chỉ là có đức tin vào cái chết và sự sống lại của Đức Kitô, cũng như hiểu được mối liên hệ của biến cố đó với việc tha thứ tội lỗi; nhưng đúng hơn, làm chứng là chia sẻ Tin mừng cho những người khác.

-----------
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/03/18/third-sunday-easter-gospel-reflection-catholic-scripture-240200

------------------------------

 

PS3 B-162: Làm chứng về Thầy


(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin Mừng Lc 24: 35-48: Niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống lại đó, nó phải diễn tả trong đời thường của chúng ta, chứ không phải ở trên môi trên miệng trên lời nói của mỗi người chúng ta.

 

Có thể nói vấn nạn lớn nhất của người Kitô Hữu đó là niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Là con PS3 B-162


Có thể nói vấn nạn lớn nhất của người Kitô Hữu đó là niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Là con người, ai ai cũng phải giới hạn bởi sự chết. Và đối diện với cái chết, khi con người nhắm mắt xuôi tay rồi, không ai có thể sống lại được. Rõ ràng rằng, trong cuộc đời mỗi người chúng ta, những người đã chết chúng ta thấy chẳng ai sống lại cả. Và ngay cả Lazarô chết, được Đức Kitô cho phục sinh nhưng rồi sau đó Lazarô cũng phải chết.

Thế nhưng rồi, nơi Đức Kitô Ngài đã phục sinh. Ngài đã dùng nhiều cách để bày tỏ cho các môn để biết rằng: Ngài đã sống lại.

Sự kiện mà cái Ngôi Mộ trống đó chưa phải là bằng chứng của Đức Kitô đã phục sinh. Nhưng rồi, sự kiện mà ngôi mộ trống đó đã mời gọi mỗi người chúng ta suy nghĩ về niềm tin của mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra cho Maria Madalena, với 11 môn đệ, và cho đám đông 500 người còn sống.Và như thế, chúng ta không thể nào gọi là ảo giác, bởi vì tất cả những người đó đã thấy được Đức Kitô phục sinh.

Và thánh Luca thuật lại, thì các ông tưởng thầy mình là ma. Chúng ta thấy ma làm gì có xương có thịt. Và đặc biệt, Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho các môn đệ, Ngài đã cho các môn đệ xem thương tích nơi tay chân để chứng tỏ Ngài có xương có thịt, chứ không phải là một Oan Hồn hay là một Vong Hồn.

Và rồi hình như các môn đệ vẫn nghi ngờ và Người lại đề nghị cho họ sờ chân tay để kiểm chứng và thấy họ hoài Chúa Giêsu lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để chứng tỏ cho họ thấy rằng Ngài đã phục sinh. Thật sự nếu mà làm là ma nếu mà là vong hồn thì không thể nào mà nhai, nuốt như vậy! Cách diễn tả như thế để cho chúng ta thấy rằng: một Đức Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ. Đức Kitô Phục Sinh đã khắc niềm tin nơi các ông: Cho xem cạnh sườn luôn! bởi vì cạnh sườn bị dấu đinh đóng là cái kết quả của sự gian ác của con người và rồi chúng ta thấy:

Với Máccô khi nói về các lầm lỗi của các môn đệ thì Ông chẳng che giấu và nói toạc móng heo. Thánh Luca thì luôn luôn bênh vực các môn đệ. Những lỗi lầm của các môn đệ thì Luca luôn tìm cách để che đậy! Ở đây cũng vậy, Luca luôn luôn bao che cho các môn đệ, lý do rằng các ông chưa tin Chúa Giêsu phục sinh là vì các ông mừng quá đấy thôi! chứ không phải các ông yếu tim.

Thế nhưng mà, chúng ta thấy tâm tình quý trọng các môn đệ nơi thánh Luca rất là đặc biệt. Và ngày hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đã phục sinh thực sự.

Và lời mời gọi của Chúa Giêsu phục sinh ngày hôm nay rất tuyệt vời cụ thể nơi bài đọc thứ nhất. Thánh Phêrô kể ra một cách cụ thể để mà làm chứng Đức Giêsu phục sinh đó là cái cách chúng ta Sám Hối:

“Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng ngôn sứ mà báo trước, Đức Kitô của Người đã chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu anh em được xóa bỏ tội lỗi”

Sự thật rõ ràng là: tôi đã làm chứng. chúng ta đánh mất một đức tin nơi Thiên Chúa, nơi Đức Kitô phục sinh. Vì thế, chính vì tội đã làm cho con người ta không còn tin vào Chúa nữa. Và vì thế cần phải ăn năn sám hối, để chừa bỏ tội lỗi chứ thường thì, những người quen phạm tội thì dần dần mất đức tin, và nếu còn đức tin thì rất yếu ớt khi gặp sóng gió giữa cuộc đời. Do đó Câu hỏi đặt ra lúc đầu về sự nghi ngờ về Đức Kitô phục sinh và sự Phục Sinh Của Đức Kitô không phải là không có lý do vậy Muốn nhìn thấy niềm tin của mình còn vững chắc hay không thì theo Thánh Phêrô xét xem mình có phạm tội hay không và biết ăn năn sám hối hay không?

Sám hối là gì? Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh là Đấng công chính mà tha cho kẻ sát nhân.

Sám hối là chúng ta thay đổi cách nhìn về Chúa Giêsu. Từ đóng đinh, giết chết, treo trên thập giá mà nay chúng ta phải tin Ngài là Đấng Công Chính chúng ta phải thay đổi cách nhìn về Chúa Giêsu, thay đổi cái đời sống chúng ta.

Và rồi chúng ta được mời gọi rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh, là trước hết chúng ta phải Sám Hối. Bản thân của chúng ta Sám Hối, bản thân của chúng ta thay đổi về cái nhìn của Chúa Giêsu phục sinh.

Cùng với Chúa Giêsu phục sinh chúng ta thay đổi về cái nhìn của giá trị, tận tâm can của chúng ta. Nó thực tế, vì trong kinh Tin Kính chúng ta đọc: " Tôi tin xác loại người ngày sau sống lại." Tuyên xưng như vậy có rất nhiều câu hỏi nơi mỗi người chúng ta.

Và cái niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống đó, nó phải diễn tả trong đời thường của chúng ta, chứ không phải ở trên môi trên miệng trên lời nói của mỗi người chúng ta. Và rất, rất khó khăn, bởi vì ngày hôm nay, giữa một cái trào lưu của một thế giới hưởng thụ, văn minh lên cao; con người thích lợi nhuận, thích tìm những việc thực tế, con người ưa thực dụng hơn là suy nghĩ động não, thì Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy làm chứng cho Người.

Chúng ta làm chứng cho Đức Kitô là: chúng ta giới thiệu một Đức Kitô đã sống lại và đang hiện diện với con người, với nhân loại. Và làm chứng rằng cho thế giới biết rằng: Chúa Giêsu phục sinh không đòi hỏi lợi nhuận tiền bạc, nhưng chúng ta sống bằng chính cái đời sống đức tin của chúng ta. Và đặc biệt, đó là sống cái niềm tin của chúng ta bằng đời thường, bằng lòng mến, bằng lòng bác ái của chúng ta.

Thì chúng ta nhìn vào các môn đệ, chính các môn đệ đã chấp nhận đòn roi khổ cực, tù ngục và sẵn sàng chết vì Đức Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta không phải đối diện bằng những cái chết tử đạo, bách hại đạo như các thánh tử đạo ngày xưa, nhưng chúng ta được mời gọi loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh bằng đời sống yêu thương, bằng đời sống tha thứ, bằng những việc làm cụ thể. Đức Cố giáo hoàng Phaolô 6 nói: ngày hôm nay, người ta cần những chứng nhân chứ không cần những thầy dạy nữa!

Mà quả thật những thầy dạy nghiên cứu về thánh kinh về thần học, về triết học về khoa bảng quá nhiều! Ngày hôm nay những người làm chứng về Chúa Kitô phục sinh bằng đời sống của mình rất hiếm. Nhưng mà «hiếm», nhưng mà có! chứ không phải không!

Chúng ta hãy nhìn nơi gương của Mẹ Têrêsa Calcutta, một người phụ nữ tiều tụy ốm yếu, đau khổ, nhưng mẹ đã có một trái tim của Giêsu, mẹ mang trong mình trái tim của Giêsu: một trái tim yêu thương.

Chúng ta nhìn vào gương của một Phanxicô khó khăn, đã chấp nhận, đã từ bỏ tất cả sự giàu có vinh hoa phú quý của gia đình, để sống nghèo, để yêu thương và lo lắng cho người nghèo. Hay đơn giản, chúng ta có thể nở một nụ cười, nở một nụ cười như Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất. Và đặc biệt gương của lòng tha thứ gương của sự vị tha còn đó nơi Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, cái sự tha thứ đã làm nên khuôn mặt của ngài, ngài đã yêu thương đã diễn tả lòng thương xót.

Tất cả những chứng nhân đó tất cả những vị thánh đó làm chứng cho một Đức Kitô Phục Sinh. Thật sự ra, nơi con người của chúng ta vẫn là những con người yếu đuối, chúng ta vẫn mang trong mình cái phận người. Nói yêu thương, nói tha thứ, không phải là chuyện đơn giản. Đó là những cái thách đố của cuộc đời chúng ta.

Thế nhưng, không phải là không làm được! và không bao giờ làm được! Làm được, Nếu có ơn Chúa! Đặc biệt chúng ta biết kết hợp vào với Đức Kitô Phục Sinh, nơi mỗi thánh lễ chúng ta tham dự. Khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta rước Đức Kitô Phục Sinh vào trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Để rồi khi CHÚA ở trong ta, ta ở trong CHÚA. Chúng ta kết hợp với Đức Kitô, thì chính khi ấy Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa.

Nhờ vào ơn Chúa chúng ta sẽ diễn tả cái đời sống Yêu Thương, bác ái đó cho anh chị em chúng ta, nơi những người chúng ta gần gũi.

Có thể chúng ta còn nghèo, có thể chúng ta không có tiền bạc, có thể chúng ta không có tài sản; nhưng mỗi người chúng ta vẫn có một nụ cười. Mỗi người chúng ta vẫn có một lòng vị tha. Mỗi người chúng ta vẫn có ánh mắt nhân từ, để tha thứ cho anh chị em những người làm tổn hại chúng ta, những người sát hại chúng ta và những người gây đau khổ cho chúng ta.

Thế đấy, một Đức Kitô Phục Sinh đã, đang, và đã sống lại, và mời gọi chúng ta hãy lên đường làm chứng về Thầy, làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Là người Môn Đệ của Đức Kitô, chúng ta luôn luôn được mời gọi để sống Tin Mừng Phục Sinh đó, trong cuộc đời của chúng ta.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để đặc biệt, trước hết, chúng ta sám hối về tội lỗi của chúng ta. Vì chúng ta đã đóng đinh Đức Kitô vào thập giá, và chúng ta lại lên đường loan báo một Đức Kitô Phục Sinh đã yêu thương chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân. Chúng ta lên đường loan báo một Đức Kitô Phục Sinh yêu thương, và tha thứ cho những người xúc phạm, cho những người giết hại mình, bằng chính đời sống Yêu Thương, phục vụ và tha thứ, là chính lúc chúng ta tuyên bố Đức Kitô Phục Sinh rõ nét nhất trong cuộc đời chúng ta.

Xin Đức Kitô Phục Sinh đến, ở lại với mỗi người chúng ta. Và xin cho chúng ta luôn luôn biết kết hợp với Đức Kitô Phục Sinh để chúng ta diễn tả đời sống của một Đức Kitô Phục Sinh trong lời ăn, tiếng nói, trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-163: ĐỪNG SỢ-


Lm. Jos DĐH.

 

Đừng Sợ, cố lên, hãy bình tĩnh, hãy tự tin, đó thường là những lời động viên khích lệ từ nơi PS3 B-163


Đừng Sợ, cố lên, hãy bình tĩnh, hãy tự tin, đó thường là những lời động viên khích lệ từ nơi bậc sinh thành, nơi thầy dạy, hoặc từ bạn bè thân thiết. Nói sao cho con cháu hiểu, làm thế nào mà thầy có thể truyền kiến thức, truyền lửa nhiệt huyết cho các trò gặt hái những thành tựu to lớn ở phía trước ? Vâng, sợ người nói phải, hãi người cho ăn ; có ơn phải sợ, có nợ phải trả. Sống ở đời, nợ và sợ, hai từ không ai muốn gặp, có chăng mỗi người vẫn tuân theo quy luật chung: nợ ơn cha mẹ, sợ mất uy tín. Kinh nghiệm cho thấy, nói ngon nói ngọt đã khó rồi, sống đúng, sống đẹp, còn khó hơn. Nợ tình, nợ tiền, nợ đời, đều khủng khiếp, bao lâu trái tim và khối óc của ta còn đập nhịp đập yêu thương, khao khát bình an và niềm vui hạnh phúc thật.

Cứ theo suy nghĩ tự nhiên, muốn không sợ, ta cần phải có sức mạnh, cần phải sống nghiêm túc với bản thân, sống có kỷ luật, sống có trách nhiệm với gia đình, xã hội. Nếu không phản Thầy, không bỏ Thầy, có thể các môn đệ đã chết cùng Thầy, hoặc các ông đã sớm chứng minh được cho nhân loại: “chúng tôi” rất tự hào vì đã hoàn thành sứ vụ là đệ tử của Thầy Giêsu. Nếu không sợ chết, không sợ bị liên luỵ, làm gì các ông phải đóng cửa then cài ? Lại nữa, nếu không phải là con người giới hạn bất toàn, những môn đệ ấy làm chi phải sợ ma, sợ bóng vía, như trẻ con vậy ? Chúng ta cũng có thể nói, nếu không phải “vì yêu”, vì muốn cứu nhân loại khỏi chết đời đời, làm gì có đau khổ thập giá, hoặc sẽ không ai nói đến chuyện kẻ chết sống lại !

“Sao các con hoảng sợ như thế, sao các con nghĩ trong lòng như vậy, ma đâu có xương thịt như các con thấy đây” ? Đúng như tiền nhân nói: thuốc duy nhất chữa được “bệnh tình” vẫn là tình yêu. Đúng như quy luật, nước mắt chảy xuôi: tình yêu của Thầy Giêsu, ơn bình an của Đấng phục sinh, mới giúp được các học trò, mới cứu được nhân loại thoát vòng tội lỗi. Nỗi đau càng to thì hạnh phúc càng lớn, sợ hãi, mất mát, nơi các học trò càng nhiều, niềm vui Chúa sống lại trong các ông càng vĩ đại. Mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay đang sống trong tình trạng nào, ta có ưu tư lo lắng về sự giới hạn của mình, có sợ hãi vì tội lỗi của mình, có thành tâm ăn năn thống hối về lối sống của mình không ? Nếu có, lời trấn an: “đừng sợ”, “bình an cho các con”, chắc chắn phải là niềm vui, là hạnh phúc lớn nhất nơi tâm hồn người theo Đức Kitô.

“Đừng sợ”, sẽ còn cần thiết cho những ai khiêm tốn, nhận ra con người quả là bất xứng trước “hồng ân” Đấng phục sinh ban tặng, khích lệ. Các học trò Đức Kitô không thể tự trau dồi kiến thức, không thể hiểu tại sao Đấng Kitô sẽ chịu đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, và rôi các ông lại thực sự hạnh phúc khi được Chúa phục sinh mở trí mở lòng để các ông hiểu thánh kinh. “Đừng sợ” có phải vừa là lời trấn an, vừa là lời nhắc bạn tin Thầy Giêsu thế nào, bạn có tin Thiên Chúa vẫn đang mang vác tội lỗi của từng người lên cây thập giá, hầu cứu nhân loại khỏi chết không ? Dấu hiệu của Thiên Chúa yêu thương, tình yêu của Đấng phục sinh, chúng ta hôm nay sẽ cảm nhận, gặp gỡ Ngài bằng niềm tin, bằng hành động của sám hối cầu nguyện ?

Đấng phục sinh năm xưa cho các học trò xem tay chân, ăn uống trước mặt các ông, mở trí mở lòng, giúp các học trò hiểu tất cả vì yêu, tất cả vì hồng ân cứu độ, và đừng sợ thế gian, đừng sợ bản thân mình giới hạn yếu đuối. Tục ngữ có câu: thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ anh hùng cố thây. Khi Đức Giêsu chịu khổ nạn, không ai gọi các học trò Đức Giêsu là anh hùng, cũng chẳng ai gọi người theo Đức Kitô là kẻ anh hùng cố thây đâu, dù tất đang theo Thầy Giêsu, đang tin Đấng phục sinh bằng một niềm tin nhỏ bé. Hẳn Chúa phục sinh rất vui khi các học trò biết xấu hổ, biết nhận ra mình hèn nhát, mơ hồ khi theo Thầy Giêsu, và biết để Chúa trợ giúp bằng sức mạnh của niềm tin, chứ không phải là danh hiệu anh hùng rơm, hay liều mình cố thây.

Tất cả vì tình yêu Đức Kitô, tất cả khởi đầu từ lời trấn an: đừng sợ, mỗi người kitô hữu theo Chúa hôm nay, sẽ tin Chúa bằng một tình yêu tín thác, chúng ta được mời gọi để nhận ra lòng thương xót Chúa, hạnh phúc vì được làm chứng nhân Chúa phục sinh. Nghe, hiểu và tin lời trấn an: đừng sợ, chính là lúc ta có Đấng phục sinh ở cùng, có sức mạnh, có ơn bình an, có sức biến đổi tâm tính khi tin theo Ngài. Đấng phục sinh sẽ còn gọi chọn các môn đệ, sẽ còn trấn an các học trò đừng sợ, Chúa không ưa thích môn đệ khôn ngoan kiểu thế gian, cũng chẳng thích các học trò khờ dại như con “thiêu thân”. Chúa sẽ rất vui khi ta khiêm tốn, đầy nhiệt huyết tông đồ. Xuân Diệu nói: đố ai sống được mà không yêu, Chúa phục sinh vẫn đang nói qua giáo hội: đố ai tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, mà tâm hồn còn đầy sợ hãi, chưa bình an. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-164: NHÂN CHỨNG PHỤC SINH


Lm. Thái Nguyên

 

Đang khi các môn đệ hội họp và nghe kể lại chuyện về Thầy Giêsu đã hiện ra trên đường Emmau, thì PS3 B-164


Đang khi các môn đệ hội họp và nghe kể lại chuyện về Thầy Giêsu đã hiện ra trên đường Emmau, thì Thầy lại xuất hiện giữa các ông. Ngài trao ban bình an cho các ông, nhưng “các ông hoảng sợ tưởng là thấy ma”. Chúa lại cho các ông xem chân tay và sờ chạm đến Ngài. Thấy các ông còn ngờ vực, nên Ngài liền ăn uống trước mặt các ông. Cũng như trên đường Emmau, một lần nữa Chúa giải thích cho các môn đệ: cuộc khổ nạn của Ngài không phải là một thất bại, mà để những gì tiên báo về Ngài phải được ứng nghiệm, đó là “Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”.

Các tông đồ đã hoảng loạn trước cái chết của Thầy. Giờ đây việc Ngài phục sinh lại làm cho các ông“kinh hồn bạt vía”, vì họ vẫn nghĩ đó là điều không thể, cũng như trước đây các ông nghĩ việc Thầy tử nạn cũng là điều không thể. Nhưng mọi việc đều có thể và xảy ra như thế. Chúa Giêsu đã báo trước ba lần việc tử nạn và phục sinh, nhưng các ông vẫn không để ý tới, vì thấy Thầy đầy quyền năng nên đang háo hức trước một tương lai huy hoàng, một vương quốc mới mà họ nghĩ Chúa Giêsu sắp đứng lên thành lập. Chẳng lạ gì mà mẹ Giacôbê và Gioan mới xin cho hai con mình “một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” (Mt 20, 21).

Việc Chúa Giêsu phục sinh không phải là một thứ kinh nghiệm tôn giáo nào đó, mà rõ ràng là chuyện thực tế trước mắt, vì các tông đồ đã chứng kiến tận mắt. Có thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các tông đồ như cũng đã chết: tinh thần các ông hoàn toàn suy sụp, nhóm mười hai tan tác, còn lại vài người thì co cụm với nhau trong căn phòng đóng kín cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng. Nhưng sau khi Đức Giêsu sống lại, Ngài đã làm cho họ sống lại: họ không còn sợ hãi, nghi ngờ; không còn mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng. Con người cũ của các ông đã thay đổi, các ông sống lại trong con người mới, sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người.

Việc Đức Kitô phục sinh không chỉ là một sự kiện lịch sử hay một biến cố đã qua, mà còn là một thực tại luôn sống động, nghĩa là Đức Kitô đang sống, đang hiện diện, đang hành động trong đời sống con người, qua mọi biển chuyển và trong mọi thời đại. Giáo hội chính là nhiệm thể của Đức Kitô đang lớn lên từng ngày giữa lòng thế giới. Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình và mời gọi chúng ta hãy chứng kiến việc Chúa phục sinh bằng đức tin, bằng việc sống với Chúa hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa, qua mọi biến cố trong đời… Mọi sự xảy ra trong đời ta đều mang bóng dáng và dấu vết của Chúa phục sinh, Đấng đang đồng hành, đang âm thầm tỏ mình, đang ngỏ lời, và không ngừng mở ra sự sống mới cho chúng ta trong mọi thời điểm, nhất là những lúc thất bại, đau thương, chán chường và thất vọng.

Không đặt niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đang sống với ta, trong ta, thì ta vẫn sống trong cô đơn, lạc loài, buồn thảm, và cuộc đời là sự trống rỗng mênh mông. Có bao nhiêu thành công hay lợi lộc cũng chẳng có nghĩa lý gì, nếu cuộc sống con người còn nằm trong bóng tối, không lối thoát. Đau khổ và cả cái chết nữa không phải là điều đáng kinh hãi, mà là điều làm ta không dám dấn thân cho một niềm tin: niềm tin Giêsu, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta. Chính vì niềm tin đó mà chúng ta hân hoan tiếp nhận sứ mạng“phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”, nghĩa là trở thành chứng nhân cho sự sống mới của Đức Kitô nơi chính mình. Điều đó thể hiện qua một cuộc sống đơn sơ, hồn nhiên, trong sáng, âm thầm lan tỏa yêu thương và bình an.
Ðức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin, nhưng lại là điều mà người khác luôn có thể cảm nhận được từ một Kitô hữu biết sống quên mình để dấn thân xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Sau khi phục sinh, Chúa đã tỏ mình ra,
nhưng các tông đồ lại tưởng ma,
vì Chúa hiện ra quá bất ngờ,
khiến các ông càng hoang mang lo sợ.
Đúng là các tông đồ không thể ngờ,
vì đã xây dựng đời mình trên giấc mơ,
mơ sống trong danh vọng và quyền hành,
nên có lần các ông đã phân tranh,
xem ai ngồi ghế nhất trong thiên hạ,
được vinh quang mà không qua thập giá.
Nhưng rồi mơ ước đã tiêu tan,
biến cố tử nạn làm các ông hoảng loạn,
Chúa chết đi khiến các ông bàng hoàng,
Chúa xuất hiện, các ông càng choáng váng,
có ngờ đâu vui sướng lại dâng tràn,
niềm hân hoan thật quá đỗi ngỡ ngàng.
Để rồi từ đó Chúa trao ban sứ vụ,
là những người thực thụ giảng Tin Mừng,
đem mạng mình làm chứng cho trần gian,
về sự sống mới được ân ban cho thế giới.
Xin cho con đừng ngây ngô tiếc nuối,
bám víu vào những danh lợi đời này,
vì biết rằng mọi sự sẽ đổi thay,
để từ nay không lo sống cho mình nữa.
Xin cho con niềm phấn khởi giữa đời,
đem an bình của Chúa đến mọi nơi,
cho u buồn và sầu khổ lắng vơi,
để thế giới quanh con được tươi mới,
nhờ nhận ra tình yêu Chúa sáng ngời,
là ân phúc của cõi Trời vinh hiển. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-165: CHỨNG NHÂN TIN MỪNG


Thiên San

 

Sau khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu phục sinh hiện ra với bà Maria Macđala, hai môn đệ trên PS3 B-165


Sau khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu phục sinh hiện ra với bà Maria Macđala, hai môn đệ trên đường Emmau, các Tông đồ… Người không hiện ra với toàn dân nhưng chỉ với một số người do Người tuyển chọn. Họ là chứng nhân được tuyển chọn: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).

Khi còn đi rao giảng khắp đó đây, Đức Giêsu đã từng nhiều lần loan báo về cuộc Thương khó của Người cho các môn đệ. “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy (Mt 17,22-23); “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 20,17-19). Lúc bấy giờ, các môn đệ chưa thể hiểu và đón nhận điều ấy (x. Mc 9,32). Bởi đó, ngay cả khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các ông, các ông còn ngờ vực, kinh hồn bạt vía, tưởng thấy ma (x. Lc 24,37).

Các ông còn đang ngỡ ngàng vì mừng quá thì Đức Giêsu tiến đến, hỏi các ông có gì ăn không và chính Người đã ăn trước mắt các ông. Những lần hiện ra với các môn đệ, Người đều ban bình an cho các ông. Đức Giêsu phục sinh vẫn là một Đức Giêsu yêu cho đến cùng, cúi mình phục vụ trong khiêm tôn, rất bình dị và gần gũi. Tại biển hồ Tibêria, chính Người đã chuẩn bị sẵn bếp than hồng cùng cá nướng và bánh để đón chờ các học trò yêu quý. Người chẳng hề nhắc lại các lỗi lầm, yếu đuối của các học trò.

“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24, 45-48). Các Tông đồ là những người diễm phúc được sống cùng Đức Giêsu suốt ba năm trời, được cùng Thầy “nay đây mai đó” và nhất là được Đức Giêsu phục sinh tỏ mình cách riêng. Các ông được chọn làm chứng nhân cho Tin Mừng.

Sách Công vụ Tông đồ thuật lại cho chúng ta về công việc loan báo Tin Mừng, làm chứng nhân của các Tông đồ thời kỳ đầu. Sau khi nhận lãnh Thánh Thần, các ngài hăng say loan báo và làm chứng nhân về tất cả những điều ấy. Bởi các ngài xác tín: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Phêrô, Tông đồ trưởng đã mạnh dạn làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh, chỉ cho dân thấy tội lỗi của họ, kêu mời họ trở về cùng Thiên Chúa. “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em … Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3, 17-19).

Theo chân các Tông đồ, chúng ta được mời gọi trở nên những chứng nhân Tin Mừng bằng chính cuộc sống của mình. Tuy không được diễm phúc như các Tông đồ nhưng chúng ta là thế hệ của những kẻ mà Đức Giêsu nói đến: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 21,29). Bởi đó, chúng ta cũng được mời gọi làm chứng về những điều chúng ta không thấy mà tin. Đức tin của chúng ta hoàn toàn có nền tảng. Thiết nghĩ, một đời sống tin yêu, tuân giữ mọi giới răn của Chúa, sống sự sám hối và tha thứ mỗi ngày là lời chứng hùng hồn nhất ta cần có. Vì “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người” (1Ga 2,3). Nếu sống như vậy, chẳng ai dám nghi ngờ lời chứng của chúng ta.

------------------------------

 

PS3 B-166: CHỨNG NHÂN


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất PS3 B-166


Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca.

Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nỗi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm hân hoan vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Vui Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.

Tin mừng hôm nay kể chuyện, hai môn đệ nhận ra Chúa cho nên như mọc thêm cánh bay về Giêrusalem, loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, khi đó chính Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (c 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (c 40). Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (c 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng, Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).

Chúa Phục Sinh xuất hiện như người mục tử đứng giữa đàn chiên vừa gom về. “Bình an cho anh em”.Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Chúa phải ổn định tinh thần các ông, ban bình an để làm cho tâm trí các ông bình tĩnh mà sáng suốt nhận định rõ ràng. Rồi Chúa các ông thấy vết đinh ở tay, chân của Chúa, cho các ông sờ để thấy đúng là Chúa,Đấng có xương có thịt vẫn ở giữa các ông. Chúa còn cho thêm một dấu hiệu khác nữa là ăn trước mặt các ông. Ăn cho thấy để chứng minh Chúa sống lại có thân xác như người thật. Chúa ăn là để cho các môn đệ yên lòng và thấy rằng Ngài sống lại thật rồi. Một hành động tức thời và rất tâm lý của Chúa là ăn để đảm bảo rằng mình đang sống. Chúa ăn để minh chứng rằng Chúa sống và Ngài vẫn là “một” trước khổ nạn cũng như sau sống lại…Ma thì không có thân xác nên không thể ăn được. Chỉ những ai còn sống mới biết đói biết khát. Chỉ những ai đói mới đòi ăn và khát mới đòi uống. Chúa Phục Sinh không phải vì đói mà xin ăn, nhưng chính là để chứng minh cho các môn đệ biết rằng Ngài đã sống lại.Một người sống thì đứng được, đi được, nói được, ăn được. Chúa cho các ông tất cả các bằng chứng ấy để nhận biết chính là Chúa đang sống và đứng giữa các ông.

Sau khi các môn đệ vững tin, Chúa dạy dỗ các ông. Ngài nhắc lại những lời đã nói khi còn ở giữa các ông liên quan tới sự ứng nghiệm mọi lời chép về Chúa trong Cựu ước. Trên đường Emmau, Chúa giải thích cho hai môn đệ “tất cả những gì liên quan đến Người trong Sách Thánh”, bây giờ Chúa tóm tắt nội dung gồm hai phần:sứ mạng của Chúa và sứ mạng của các môn đệ. Chúa đã hoàn thành sứ mạng của Chúa. Bây giờ đến phiên các môn đệ phải thi hành sứ mạng của mình. Chúa đã chết và phục sinh đem lại ơn tha tội. Đến phiên các môn đệ phải rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Họ phải rao giảng với tư cách là chứng nhân. Để thực thi sứ vụ này, các môn đệ phải lãnh nhận Thánh Thần là quyền năng từ trên cao ban xuống.

Trong bài đọc 1, thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv 2,41).

Bài đọc 2, thánh Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi hãy làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống, đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa còn là yếu tố quyết định để xác định tính chân thực của người môn đệ Chúa Kitô.

Đức Giêsu Phục Sinh đã làm nhiều cách để chứng minh rằng Ngài đã sống lại thật. Thánh Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu thế hệ tín hữ nối tiếp đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Các ngài làm chứng nhân bằng việc từ bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quảng đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính mạng sống.

Ngày nay, chúng ta làm chứng về Chúa Phục Sinh bằng cách thuật lại cho người khác về cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu; bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua môi miệng chúng ta; bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái; bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin…

Xin Chúa cho chúng con biết chuyên chăm năng học hỏi Lời Chúa hằng ngày, biết lắng nghe Lời Chúa khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con ngày càng lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con biết chu toàn sứ mệnh Chúa trao cho Hội Thánh: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-167: GIÁC QUAN


Lm Vũđình Tường

 

Ngũ giác giúp ta nhận biết sự việc quanh ta. Chúng được tạo dựng để giúp ta sống, sinh hoạt, nhận PS3 B-167


Ngũ giác giúp ta nhận biết sự việc quanh ta. Chúng được tạo dựng để giúp ta sống, sinh hoạt, nhận xét, và thưởng thức cuộc sống. Mắt giúp nhận biết, tai giúp nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm mùi vị và cảm xúc xung quanh. Chúng rất bén nhậy và chính xác khi cần nhận biết sự việc hữu hình. Khi gặp vấn đề vô hình, không hình ảnh nhất định, màu sắc luôn đổi thay, mùi vị không thuần nhất, giác quan rất bất định trong việc phán đoán. Vì thế cần phải rất cẩn thận để đưa đến phán quyết nên tin theo, hay nên tránh. Giác quan tự chúng không đủ khả năng giúp ta nhận biết vấn đề liên quan đến nước trời, đặc biệt vấn đề liên quan đến sự sống lại của Đức Kitô. Phải cần có thêm những yếu tố khác giúp nhận ra Đức Kitô Phục Sinh. Môn đệ Đức Kitô biết rõ giờ Ngài bị bắt, bị xử án chết trên thập tự. Từ lúc bị bắt cho đến khi Ngài sống lại cách biệt có ba ngày. Sau ba ngày, môn đệ gặp lại Đức Kitô Phục Sinh, họ không nhận ra Ngài. Họ nhìn thấy Ngài, nghe được tiếng của Ngài, và cùng đồng hành với Ngài trên đường đi, nhưng không nhận ra Ngài. Bà Maria Magdala gặp Ngài, nghe tiếng Ngài nhưng lầm tưởng Ngài là người làm vườn. Bà nhận ra Đức Kitô Phục Sinh khi Ngài gọi tên bà Gn.20,17. Hai môn đệ trên đường về quê Emmaus gặp Ngài dọc đường, nghe Ngài giảng giải. Họ không nhận ra Ngài. Gần tối,

‘Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho các ông’. Lc.24, 30.

Các ông nhớ lại hình ảnh bữa Tiệc Li và nhận ra Ngài. Đức Kitô hiện ra với các môn đệ khác, và chúc bình anh cho các ông,
‘Các ông kinh hồn, bạt vía, tưởng là thấy ma’ Lc 24,38.

Kinh Thánh giải thích sự kiện huyền bí trên bằng một câu vắn gọn,
‘Mắt họ bị ngăn cản, không nhận ra Người’. Lc 24,16.

Điều ngăn cản ngũ quan môn đệ nhận biết Đức Kitô Phục Sinh chính là sức mạnh mầu nhiệm Phục Sinh. Không vật nào có thể ngăn cản sức mạnh mầu nhiệm Phục Sinh. Đức Kitô đi qua cửa đóng kín, cài then dễ dàng. Bình thường, người ta phải mất cả ngày đường mới đến được nơi muốn đến. Đức Kitô đến nơi đó trong nháy mắt. Ngài vượt lên trên không gian và thời gian nên có thể xuất hiện bất cứ nơi đâu mà không sức mạnh nào có thể ngăn cản. Như thế yếu tố chính để nhận ra Đức Kitô Phục Sinh chính là ơn Chúa ban. Ngài chọn ban riêng cho ai người đó hân hạnh, may lành được đón nhận, hưởng ơn riêng.
 
Ngũ quan thường bị cảm xúc chi phối. Lúc vui, lúc buồn, khi hờn, khi hận đều ảnh hưởng đến ngũ quan. Khi cần tìm gấp thứ gì, tìm hoài không thấy. Dù biết rõ vật đó đang ở đâu mà không nhìn ra. Khi lo lắng, sợ sệt, người ta làm những quyết định sai lầm, mà lúc bình thường điều đó không thể xảy ra. Bà Maria gặp Đức Kitô trong khi tâm hồn bà thổn thức, tâm trí bà bất an, tinh thần bà căng thẳng. Hai môn đệ trên đường gặp Đức Kitô Phục Sinh trong lúc các ông tâm tư buồn vời vợi, tương lai mù tối. Chính hai ông tự nhận, không nhận biết Đức Kitô Phục sinh vì

‘Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?’ Lc.24,32.

Lòng các ông không bừng cháy chính là lúc con tim các ông đóng kín. Nếu con tim các ông rộng mở đón chào người khách lạ, có lẽ các ông đã nhận ra Ngài từ sớm. Con tim đóng kín che phủ ánh sáng Phục Sinh. Điều này chính tiên tri Isaiah có lần nghe Đức Chúa phán,

‘Cứ nghe cho rõ, nhưng đừng hiểu, cứ nhìn thật kĩ, nhưng đừng nhận ra…. vì lòng dân này ra đần độn’ Is.6,9.

Giác quan cần đi chung với tâm hồn thanh thản, an bình, mới hy vọng nhận biết Đức Kitô Phục Sinh. Con đường dẫn đến, nhận ra Đức Kitô Phục Sinh cần có một con tim chân thành, cộng tác chung với giác quan, mới hy vọng nhận ra ơn Phục Sinh. Hy vọng bởi Đức Kitô Phục Sinh cho biết yếu tố quan trọng nữa là đức tin. Thiếu điều này thì cả giác quan lẫn con tim đều không giúp nhận ra Đức Kitô Phục Sinh. Người ta từ chối đón nhận tin Đức Kitô Phục Sinh vì

‘Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ’. Lc 24,25.

Gặp Đức Kitô Phục Sinh, con tim các môn đệ tràn ngập niềm vui nhưng lòng các ông vẫn chưa hoàn toàn mở, chưa hoàn hồn. Các ông cần thời gian để cảm nghiệm mầu nhiệm sống lại của Đức Kitô.

Trước khi chết, ba lần Đức Kitô tiên báo về việc Ngài sẽ bị bắt, chịu đóng đanh và sau ba ngày sẽ sống lại vinh quang. Các ông nhớ rõ điều đó, còn hiểu thì phải chờ cho đến khi Đức Kitô khai sáng tâm trí các ông.

Đức tin giúp con tim rộng mở cùng cộng tác với ngũ quan để nhận ra Đức Kitô hoạt động trong cuộc sống Kitô hữu.

------------------------------

 

PS3 B-168: CÓ CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI LÀ CÓ BÌNH AN


Lm Trần Bình Trọng

 

Mặc dầu Ðức Giêsu đã tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người ba lần, các môn đệ vẫn PS3 B-168


Mặc dầu Ðức Giêsu đã tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người ba lần, các môn đệ vẫn chưa hiểu đường lối của Ðấng Cứu thế.

Biến cố của ngày Thứ Sáu Chịu nạn đã làm tiêu tan những mối hi vọng của các ông, như hi vọng Thầy mình sẽ thiết lập một vương quốc trần thế, hi vọng được một chỗ đứng trong vương quốc của nước Người.  Thảm cảnh thập giá vẫn còn làm các ông hoang mang và sợ hãi. Hai môn đệ đi làng Em-mau quyết định bỏ cuộc về quê. Đột nhiên có người khách xuất hiện giải thích cho các ông hiểu lời Thánh kinh liên quan đến Đấng Cứu thế, mà lúc đầu các ông không nhận ra đó là chính Thầy mình.

Kế đó hai môn đệ vội vã trở về Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và hai ông được bảo là Chúa đã sống lại và hiện ra với ông Simon (Lc 24:33-34). Hai môn đệ làng Em-mau cũng thuật lại cho Nhóm Mười Một và các bạn đồng chí đang tụ họp về việc Chúa hiện ra với hai ông và các ông đã nhận ra Người lúc Người bẻ bánh. Lúc này Chúa lại hiện ra đứng giữa các ông và chúc: Bình an an cho các con (Lc 24:36). Tuy nhiên các tông đồ vẫn: Kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma (Lc 24:37). Ðức Giêsu liền trấn an các ông bằng cách chứng minh bản thể nhân loại của Người, chỉ cho họ tay chân của Người có xương thịt, chứ không phải là ma. Trước cảnh tượng đó, lòng các ông mừng rỡ, nhưng trí lại hoang mang ngỡ ngàng (Lc 24:41). Rồi Chúa giải thích lời Thánh kinh cho các ông hiểu về cuộc khổ hình và phục sinh của Ðấng Cứu thế để đem lại bình an cho các ông.

Trường hợp các tông đồ lúc đầu không nhận ra Chúa trong Phúc âm hôm nay cũng giống trường hợp bà Maria Mácđala, hai môn đệ đi làng Em-mau và các tông đồ lúc đầu cũng không nhận ra Chúa (Ga 20:14; Lc 24:16; Ga 21:4). Tại sao lại có chuyện như vậy? Lí do thứ nhất là vì các tông đồ không mong đợi với lòng tin tưởng việc Chúa sống lại như là Chúa đã tiên báo. Lí do thứ hai theo thánh Mác-cô là khi hiện ra với các môn đệ và tông đồ: Chúa tỏ mình dưới một hình dạng khác (Mc 16:12), nghĩa là hình dạng đã biến đổi. Hình dạng khác không phải là hình dong tiều tuỵ của một người đã bị tra tấn và nằm trong mộ ba ngày, không ăn uống nên Chúa bị xuống kí và yếu sức. Thánh Phaolô giải thích thân xác phục sinh của Chúa khác thân xác trước kia như sau: Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: ..gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1Cr 15:44).

Trước đó Ðức Giêsu cũng đã hiện ra với bà Maria Mácđala và mấy bà khác để trấn an các bà (Mt 28:1-10; Lc 24:1-11; Mc 16:1-11; Ga 20:1-18). Ðức Giêsu còn hiện ra với các tông đồ để củng cố đức tin của các ông và ban bình an cho các ông và trao sứ mệnh cho các ông (Mt 28:16-20; Mc 16:12-15; Ga 20:19-23). Ðặc biệt Chúa còn hiện ra với ông Tôma để ông có dịp phục hồi đức tin đã bị dập tắt và lấy lại bình an cho tâm hồn (Ga 20:24-29).

Lời chúc bình an của Chúa mang ý nghĩa đặc biệt cho người môn đệ của Chúa. Không những cho các tông đồ khôi phục lại sự bình an, Chúa truyền cho họ rao giảng sứ điệp sám hối để được ơn tha tội (Lc 24:47) vì không thể có bình an nội tâm nếu người ta sống trong tình trạng tội lỗi. Do đó mà thánh Phêrô rao giảng sự sám hối và trở lại cùng Chúa để được ơn tha tội (Cv 3:19) và được bình an. Còn thánh Gioan bảo tín hữu phải xa tránh tội lỗi (1Ga 2:1) để duy trì sự bình an.

Ða số người tín hữu cũng có những lần mang những tâm trạng hoang mang, bối rối, lo lắng và sợ hãi khác nhau trong cuộc sống. Người thì lo sợ mất công ăn việc làm, sợ mắc bệnh nan trị, sợ mất sức khoẻ. Người khác lo sợ phải sống cảnh chia ly xa cách vì gia đình đổ vỡ. Người khác lo sợ những ngày giờ khủng hoảng, đen tối đè nặng trên tâm hồn. Nếu vậy thì Chúa muốn ta trút tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi vào lòng từ ái của Chúa. Chúa muốn ta đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Việc tín thác vào Chúa là điều mà ta có thể học được bằng kinh nghiệm. Sau khi người ta đã thử đặt tin tưởng vào tiền của, thế lực, địa vị, và rồi cuối cùng người ta thấy không đi đến đâu, có khi còn khổ hơn nữa. Từ đó họ mới tìm đến Chúa.

Ngày nay người ta nghe nhiều về những khao khát, ước vọng hoà bình. Nếu đi du lịch bên Do thái vào thập niên tám mươi, chín mươi của thế kỉ hai mươi mà gọi điện thoại, người ta sẽ nghe thấy người ở đầu giây nói bên kia trả lời shalom, có nghĩa là bình an. Sự kiện đó nói lên người Do thái khao khát hoà bình như thế nào! Trên bình diện quốc gia và quốc tế, hoà bình theo nghĩa từ điển Webster có nghĩa là tình trạng, hay thời kỳ hoà hoãn, thời kỳ đình chiến giữa các quốc gia, hoặc phe nhóm. Tuy nhiên hoà bình có nghĩa gì đối với cá nhân mỗi người? Cũng theo từ điển Webster, hoà bình có nghĩa là trạng thái tĩnh, không bị tư tưởng xung khắc đè nén, nhưng là một sự hoà hợp trong mối tương quan và liên hệ của mỗi ngưòi.

Hoà bình, mà Thánh kinh quen gọi là bình an bình an, là một ân huệ Chúa ban. Do đó bình an phải phát xuất từ tâm hồn mỗi người, phải được ăn rễ và phát triển trong tâm hồn. Bình an sẽ ngự trị trong tâm hồn ta, và xung quanh ta, nếu ta có được bình an trong tâm hồn. Ðể có được sự bình an nội tâm, người ta cần làm hoà với Chúa qua Bí tích Cáo giải. Ðể có được sự bình an trong tâm hồn, người ta cần sống theo đường lối của Chúa và tuân giữ giới răn Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho được sự bình an nhờ lòng tin vào Chúa phục sinh:

Lậy Ðức Kitô phục sinh!
Sao có những điều trong đạo, con còn hoải nghi?
Con đã được chịu Phép Thánh tẩy:
cũng học đạo, đọc kinh và dự thánh lễ,
nhưng lòng thì không mấy xác tín.
Xin Chúa đánh động tâm tồn con, uốn mềm lòng trí con,
ban cho con một dấu chỉ nào đó,
như xưa Chúa đã ban cho các tông đồ và môn đệ,
để tâm hồn con được nghỉ an trong Chúa. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-169: CHIẾN THẮNG VINH QUANG


Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

 

Chúng ta có thể tóm tắt sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật III này bằng một câu: “Đấng Phục Sinh PS3 B-169


Chúng ta có thể tóm tắt sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật III này bằng một câu: “Đấng Phục Sinh đã chiến thắng sự chết một cách vinh quang.” Trong bài đọc I, chúng ta nghe thánh Phêrô tuyên bố trước đám đông về Chúa Giêsu:

“Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3,15).

Tin Mừng tiếp tục kể lại cho chúng ta một cuộc hiện ra nữa của Đấng Phục Sinh. Khi hai môn đệ Emmau vội vã trở về Giêrusalem và đang kể lại những gì vừa xảy ra dọc đường thì Chúa Giêsu hiện ra với họ và nói rằng: “Bình an cho anh em!” Quả thật, các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, rồi họ ngờ vực, chưa tin và cuối cùng họ vui mừng. Sự ngờ vực và niềm vui đi liền với nhau: “Các ông còn chưa tin vì mừng quá và còn đang ngỡ ngàng.” Sự nghi ngờ của họ là một sự nghi ngờ đặc biệt. Đó là thái độ của người đã tin, nhưng không hiểu lý do thế nào, dường như họ không dám tin vào mắt mình nữa. Như người ta hay nói: quá đẹp đến mức không thể tin nổi! Chúng ta có thể gọi đây là một sự nghịch lý, niềm tin ngờ vực! Để làm cho họ tin, Chúa Giêsu hỏi họ có gì ăn không, bởi lẽ, không có gì có thể củng cố và tạo nên sự hiệp thông cho bằng việc ăn uống với nhau. Tất cả những điều trên đây muốn nói với chúng ta về điều gì đó rất quan trọng liên quan đến sự phục sinh. Nó không phải đơn thuần là một phép lạ, một ý tưởng, hay một chứng cớ liên quan đến chân lý về Chúa Kitô. Nó chứa đựng điều gì đó sâu xa hơn. Phục sinh mở ra một thế giới mới mà trong đó con người đi vào nhờ đức tin cùng với sự ngạc nhiên và niềm vui. Sự phục sinh của Đức Kitô là cuộc “sáng tạo mới.” Bởi thế, chúng ta không chỉ đề cập đến niềm tin vào Chúa Phục Sinh, nhưng còn là sự hiểu biết và kinh nghiệm về “Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh” (Pl 3,10).

1. Ý nghĩa sự phục sinh

Để đón nhận ý nghĩa sâu xa nhất của biến cố phục sinh, trong lần này, chúng ta tìm hiểu về kho tàng đức tin của những anh em Chính Thống Giáo liên quan đến mầu nhiệm phục sinh. Đối với các Kitô hữu Chính Thống Giáo, sự phục sinh của Đức Kitô là tất cả. Cả chúng ta, những người Công Giáo, tự bản chất chúng ta tin tất cả những gì họ tin, nhưng mỗi Giáo Hội có đặc sủng riêng, quà tặng riêng để chia sẻ với các Giáo Hội khác. Quà tặng riêng của Giáo Hội Chính Thống là cảm thức mãnh liệt nhất mà họ có về Đấng Phục Sinh. Chỗ trung tâm điểm trong nhà thờ và thánh đường Công Giáo là cây thập giá, thì đối với họ, là hình ảnh Đấng Phục Sinh, được gọi là Pantocrator (Đấng Toàn Năng) luôn ở vị trí trung tâm.

Trong Mùa Phục Sinh, khi gặp nhau, họ chào nhau: “Chúa Kitô đã sống lại rồi!” và người kia trả lời: “Người đã sống lại thật, Alleluia.” Tập tục tốt lành này được bắt rễ sâu trong dân chúng, đến nỗi người ta kể giai thoại này xảy ra vào thời kỳ đầu cuộc cách mạng Xô Viết. Người ta tổ chức một cuộc tranh luận công cộng về sự phục sinh của Chúa Kitô. Người đầu tiên lên tiếng là một người vô thần, ông quả quyết: niềm tin của các Kitô hữu vào sự phục sinh sẽ sụp đổ. Ông đi xuống, rồi một linh mục Chính Thống lên bục phát biểu bảo vệ niềm tin. Ngài khiêm tốn nhìn đám đông và chỉ đơn giản nói: “Chúa Kitô đã phục sinh!” Bỗng nhiên tất cả đồng thanh đáp: “Người đã sống lại thật!” Rồi vị linh mục đi xuống trong thing lặng. Vào thời đó, Cộng Sản Đông Âu gặp khó khăn nhất đó là niềm tin phục sinh đã ăn sâu vào tâm khảm của tín hữu. Đại tướng Ceaucescu nước Romania đã dọn sạch quảng trường, nhưng ông không dám đụng đến những nghi lễ và truyền thống phục sinh. Vì ông biết rằng nếu đụng vào, cuộc chiến sẽ bùng nổ. Người Chính Thống có truyền thống rất tốt lành. Vào chiều ngày áp lễ, tất cả tập trung xung quanh nhà thờ Chính Tòa để nghe giám mục loan báo tin Chúa sống lại. Trong khi đó, mỗi người cầm nến cháy trong tay và bắt đầu hát một bài thánh ca mà người ta lặp đi lặp lại trong suốt mùa Phục Sinh: “Chúa Kitô đã sống lại rồi, Người đã chiến thắng tử thần và ban sự sống cho mọi kẻ chết trong mồ.”

Có một ca khúc khác được lặp đi lặp lại trong phụng vụ phục sinh Chính Thống làm chúng ta nghĩ tới bản hòa tấu số 9 của Beethoven với những ca từ: “Đây là ngày phục sinh! Chúng ta hãy chia sẻ niềm vui vì đại lễ này, chúng ta hãy yêu thương nhau. Chúng ta hãy nói với anh chị em và những ai thù địch với chúng ta. Hãy tha thứ cho nhau vì tình yêu Chúa Phục Sinh.”

2. Chiến thắng của Đấng Phục Sinh

Thế giới không chỉ cần tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô, nhưng còn cần sống và kinh nghiệm về sự phục sinh. Điều này là rất có thể bởi vì, nhờ Chúa Kitô, chúng ta sẽ được sống lại, nếu thân xác chưa sống lại, thì ít ra tâm hồn sống lại trong đức tin và hy vọng. Như thánh Phaolô viết:

“Dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2,5-6).

“Người đã cho chúng ta được sống lại” và “được sống lại với Đức Kitô” (x. Cl 3,1)! Chúng ta đề cập đến điều này. Chúng ta cũng được giúp đỡ từ nền tu đức của Chính Thống Giáo. Chúng ta biết truyền thống Tây Phương trình bày về sự phục sinh. Chúng ta lấy tranh phục sinh của Piero thành Francesca là một bức tranh có lẽ nổi tiếng nhất. Chúng ta thấy gì? Chúa Giêsu đứng dậy, tay cầm cây thập giá như là lá cờ chiến thắng. Khuôn mặt phản chiếu một niềm tin vững vàng, chắc chắn và chiến thắng. Đây quả là một tuyệt phẩm! Sự chiến thắng của Người trên những kẻ thù bên ngoài và trần gian. Người chiến thắng những thế lực đã niêm phong mộ và còn lính gác thì đang thiếp ngủ. Con người được trình bày chỉ như những chứng nhân trơ trọi và thụ động, không tham dự tích cực gì vào sự phục sinh.

Giờ đây, chúng ta trở lại với sự trình bày sự phục sinh bằng Icône của Đông Phương. Cảnh tượng hoàn toàn khác. Chúng ta không nhìn lên trời, nhưng hướng xuống lòng đất. Khi phục sinh, Chúa Giêsu không lên trời, nhưng xuống âm phủ. Với sức mạnh lạ thường, Đấng Phục Sinh tới nắm lấy Ađam và Evà đang chờ đợi Người trong vương quốc kẻ chết và Người lôi kéo họ về với mình để tiến về sự sống và sự phục sinh. Đằng sau nguyên tổ là một đám đông vô số người đang chờ đợi ơn cứu chuộc. Chúa Giêsu đạp đổ các cửa âm phủ và bẻ gãy hết mọi xiềng xích tội lỗi và sự chết. Ở phần bóng tối, nơi những thần dữ hoạt động, hai thiên thần giao chiến với Xatan. Như thế, chiến thắng của Chúa Kitô không phải là chiến thắng trên kẻ thù hữu hình, nhưng là kẻ thù vô hình, đó là kè thù nguy hiểm nhất: cái chết, bóng tối, đau khổ và quỷ dữ.

3. Niềm vui của tôi là Chúa Phục Sinh

Chúng ta thực sự say mê với sự trình bày này. Sự phục sinh của Đức Giêsu cũng là sự phục sinh của chúng ta. Mỗi người chúng ta có liên hệ và được mời gọi giống như Ađam và Evà, là hãy chìa tay ra để cho Chúa Kitô lôi kéo và đưa ra khỏi âm phủ. Đó là một cuộc xuất hành mới mang tính hoàn vũ và phục sinh. Nghĩa là chúng ta được Chúa Phục Sinh giải thoát khỏi mọi tội lỗi khi ban ơn bình an, ơn tha tội và Thánh Thần cho chúng ta. Bởi thế, chúng ta được mời gọi đừng phạm tội, nhưng nếu lỡ phạm tội, hãy chạy đến với Đức Kitô, Đấng Bảo Trợ của chúng ta (bài đọc II) để được tha tội.

Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã đưa “cánh tay quyền lực” để giải thoát dân Người khỏi sự nô lệ tội lỗi, cái chết nguy hiểm và lớn lao hơn sự nô lệ Ai Cập. Khi chiêm ngắm và cầu nguyện bằng Icône này, chúng ta hãy để cho mầu nhiệm đức tin in vào trong tâm trí, như đã gợi hứng cho họa sĩ. Bức icône như là cửa sổ mở ra với thế giới vô hình.

Chúng ta cảm ơn anh em Chính Thống đã giúp chúng ta đón nhận điều gì đó rất ý nghĩa từ biến cố Chúa phục sinh và chúng ta hãy chào nhau như vị thánh của họ đã dạy, thánh Serafino thành Sarov: “Niềm vui của tôi là Chúa Phục Sinh!” Amen!

------------------------------

 

PS3 B-170: NHẬN RA CHÚA NƠI NGƯỜI ĐỜI


Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 

Hôm ấy, đang khi các môn đệ họp nhau trong phòng, Chúa phục sinh bất thần hiện ra giữa các PS3 B-170


Hôm ấy, đang khi các môn đệ họp nhau trong phòng, Chúa phục sinh bất thần hiện ra giữa các ông. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là ma!

Chúa Giê-su phải dùng đủ cách để tỏ cho họ biết Ngài đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma.

Trước hết, Ngài cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Ngài đã thực sự bị đóng đinh vào thập giá, nay sống lại.

Vì họ vẫn còn nghi ngờ không tin nên Ngài đề nghị họ sờ tay chân Ngài để biết chắc Ngài có xương có thịt chứ chẳng phải là ma.

Thế nhưng họ vẫn còn hoài nghi, nên Ngài lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vầy.

Ngoài ra, Chúa Giê-su còn vận dụng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Ngài là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.

Nhờ đó, các môn đệ mới tin là Chúa Giê-su đã sống lại thật.

Rất khó nhận ra Chúa đang hiện diện nơi người chung quanh

Các tông đồ xưa thật đáng trách vì dù được giáp mặt Chúa Giê-su mà vẫn không nhận ra Ngài. Nhưng xét lại, chúng ta cũng đáng trách không kém vì hằng ngày Chúa Giê-su phục sinh vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng biết.

Qua thánh Phao-lô, Chúa Giê-su dạy chúng ta biết rằng Ngài đang sống, đang làm việc, đang hiện diện nơi những người chung quanh, vì họ là chi thể, là tay chân Ngài. Thánh Phao-lô viết:

“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15).

Chúng ta nghĩ rằng Chúa là đấng rất cao cả, còn bao người chung quanh chỉ là người phàm yếu hèn mang đầy tội lỗi, nên thật khó chấp nhận họ là thân mình của Chúa.

Vì thế, thánh Phao-lô nhấn mạnh lần nữa: “Anh em là thân thể Đức Ki-tô và mỗi người là một bộ phận” trong thân mình Ngài (I Cr 12, 27).

Vì chúng ta là một phần trong thân mình Chúa Giê-su, nên Chúa Giê-su thật sự hiện diện nơi mỗi người chúng ta.

Chính Chúa Giê-su cũng khẳng định rằng Ngài đang hiện diện nơi người đói khát bần cùng, ai cho người đói miếng cơm manh áo là cho Ngài ăn, cho Ngài mặc; Ngài hiện diện nơi những người đau yếu nên ai thương xót cứu giúp người đau yếu là giúp đỡ chính Ngài… và khi ta làm gì cho những người chung quanh là làm cho chính Chúa Giê-su vì Ngài đang ở trong họ (Mt 25, 40).

Chúng ta đã nghe Chúa dạy điều nầy nhiều lần, nhưng dường như ít người chấp nhận sự thật Chúa truyền.

Vì thế, khi nghe tin có Chúa hay Đức Mẹ hiện ra ở đâu đó thì rất nhiều người đổ xô tìm đến để bái lạy, tôn thờ; vậy mà khi nghe chính Chúa Giê-su nói rằng Ngài đang hiện diện thực sự nơi người ăn xin nghèo đói đang cần cơm cháo, đang hiện diện nơi những bệnh nhân đau khổ đang cần chăm sóc… thì chẳng mấy ai đoái hoài. Sở dĩ không đoái hoài là vì người ta chưa tin vào lời Chúa dạy, chưa đón nhận sự thật khó hiểu này.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa đã sống lại và đang hiện diện nơi những người chung quanh chúng con, nơi người cha người mẹ, nơi người bạn trăm năm, nơi người cùng lối xóm… Chúa đang đồng hành với chúng con, cùng làm việc, cùng sinh hoạt trong một mái nhà, một xưởng máy… với chúng con. Vậy mà chúng con không nhận ra Ngài nên tỏ ra thờ ơ hờ hững với Ngài.

Xin khai mở con mắt tâm hồn để chúng con nhận ra Chúa nơi người chung quanh và tận tình yêu thương, phục vụ Chúa nơi những người đó. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-171: ANH EM HÃY LÀ CHỨNG NHÂN


Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

 

Mahatma Gandi, người được coi là một vị thánh của dân tộc Ấn Độ, trong cuốn tự thuật của mình PS3 B-171


Mahatma Gandi, người được coi là một vị thánh của dân tộc Ấn Độ, trong cuốn tự thuật của mình ông đã thú nhận rằng: ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là bài giảng trên núi…ông thật sự nuôi ý định trở thành một Kitô hữu. Một ngày kia, ông bước vào một nhà thờ Công Giáo để dự lễ và nghe giảng, người ta đã chặn ông lại và nói với ông, nếu ông muốn dự lễ xin mời ông đến một nhà thờ dành cho người da đen. Ông đã ra đi và không bao giờ trở lại.

Người ta thường nói rằng “tin đạo nhưng không tin người có đạo”. Câu nói đó có thực sự làm chúng ta suy nghĩ không? Câu chuyện của Mahatma Gandi ở trên như là hồi chuông cảnh báo mỗi người chúng ta về đời sống đạo hôm nay. Phải chăng chúng ta đang sống đạo theo kiểu hai mặt trái ngược giữa đời sống nhà thờ và đời sống xã hội? Chúng ta đang trở nên bức tường ngăn cách hay trở nên chiếc cầu nối kết mọi người? Đời sống chúng ta có thật sự là chứng nhân để mọi người nhận ra Đức Giê-su Ki-tô không? Như thế, làm chứng nhân hay nhân chứng về đời sống đức tin của mình trong thế giới ngày hôm nay là điều cần thiết và tối quan trọng.

I/ Chứng nhân hay nhân chứng là gì?

Theo từ điển Tiếng Việt:chứng nhân là người đứng ra nhận thực về việc gì. Người làm chứng. Theo từ điển Hán Việt: 1.Người làm chứng. § Cũng gọi là “bảo kiến nhân”. 2.Trên pháp luật, ngoài các người đương sự, những người thứ ba, ra trước tòa án tường thuật kinh nghiệm, sự thật đều gọi là “chứng nhân”. Theo đó, chứng nhân là người làm chứng cho sự thật và những điều mắt thấy tai nghe. Như vậy, chứng nhân của Chúa Ki-tô là những người đã cảm nhận được tình yêu, ân sủng và lòng thương xót để sống chứng tá bằng cuộc sống thường ngày nơi môi trường chung quanh nhằm lan toả đức tin sống động cho mọi người, nhất là những ai chưa nhận biết Chúa.

II/ Tại sao chúng ta cần là chứng nhân cho thế giới hôm nay?

Giữa một thế giới hỗn loạn bởi nhiều tranh chấp về kinh tế, chính trị và các vấn đề khác, chúng ta không thể không gặp những khó khăn và thử thách, nhất là đời sống đức tin. Sự giả dối lên ngôi, chưa muốn nói là bành trướng khắp nơi với nhiều người. Hận thù ghen ghét giữa các quốc gia, giữa con người với nhau cũng đã len lỏi và bùng phát hằng ngày. Sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng làm nảy sinh ra nhiều hệ luỹ là chết chóc, cướp bóc, tham lam, bóc lột, đau khổ và bất hạnh. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã và đang hoành hành lây nhiễm, giết chết hàng triệu triệu người trêp khắp thế giới làm cho mọi người rất hoang mang lo sợ,…Đứng trước những vấn đề nhức nhối và cam go đó, là những ki-tô hữu, chúng ta được mời gọi kiến tạo nên nền văn minh tình thương bằng những việc làm cụ thể trong đời sống thường ngày. Giữa những giả dối sai lầm, chúng ta hãy sống sự thật và công chính. Giữa những nghi ngại và lo sợ, chúng ta hãy trở nên những chứng nhân của lòng tin và can đảm. Giữa những thất vọng và chán chường, chúng ta được mời gọi trở nên những chứng nhân của niềm hy vọng và niềm vui. Thật vậy, chúng ta phải trở nên chứng nhân vì đây là mệnh lệnh của Đức Giê-su Ki-tô mà Tin Mừng của thánh Luca trình thuật hôm nay: “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24, 45-48). Vậy,

III/ Chúng ta phải trở nên chứng nhân như thế nào?

Là những người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa (x.St 1, 26-31), chúng ta được mời gọi hướng về Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất để tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài hầu tin yêu và phó thác mọi sự cho Ngài. Tuy nhiên, làm sao gặp gỡ được một Thiên Chúa cao vời khôn sánh và vô hình nếu không có sự hiện diện của Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể. Ngài là Thiên Chúa hữu hình ở với nhân loại chúng ta bằng cách làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã sống ẩn dật 30 năm tại làng Nazaret và 3 năm rao giảng công khai để nhằm“ Nước Cha trị đến, Danh Cha cả sáng và Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Ngài thi ân giáng phúc nơi Ngài hiện diện. Ngài là chứng nhân mạnh liệt về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại tội lỗi ngang qua việc chạnh lòng thương dân không có người chăn dắt, qua việc làm cho người mù được sáng, kẻ điếc nghe được, kẻ câm được nói, kè què được đi được, người bại liệt được chữa lành, người tội lỗi được đón gặp và ăn chung cùng bàn, ngay cả kẻ chết cũng được hoàn sinh,…Như vậy, để trở nên chứng nhân cho người khác, tiên vàn chúng ta phải có được sự gặp gỡ với Đức Giê-su một cách sâu thẳm. Vì không có Đức Giê-su, chúng ta không làm được gì. Muốn trở nên chứng nhân của Chúa cho mọi người, chúng ta phải cố gắng tìm kiếm và gặp cho được Đức Giê-su Phục Sinh để kín múc sự bình an đích thực cũng như sức mạnh của Ngài. Chính Đức Giê-su Phục sinh đã hiện ra nhằm trấn an, củng cố đức tin và ban bình an cho các môn đệ nói riêng và mỗi chúng ta nói chung. (x.Ga 20, 19-31)

Quả thật, không ai gặp gỡ Đức Giê-su mà không được biến đổi và trở nên người thừa sai. Trong Tin mừng, chúng ta bắt gặp nhiều con người đã được biến đổi cuộc đời mình sau khi gặp Đức Giê-su như ông Mathêu, như ông Gia-kêu, như bà Maria Madalena, như Phê-rô Tông Đồ, như Phaolô Tông đồ dân ngoại cũng như các tông đồ khác…Chính các ngài đã trở nên chứng nhân mạnh mẽ qua việc giảng dạy và thậm chí chấp nhận hy sinh tính mạng của mình để minh chứng cho niềm tin sắt son của mình. Thánh Gioan Tông Đồ đã khẳng quyết: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người.” (1 Ga 1, 3). Nơi khác, các Tông đồ cũng nói:“Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy”.(Cv 2,32). Quả thật, không ai được biến đổi chính mình nếu không có sự gặp gỡ Đức Giê-su, Đấng Phục sinh của Thiên Chúa. Cũng vậy, không ai gặp Đức Giê-su Phục sinh mà lại không phải đòi buộc ra đi làm chứng cho anh em – tìm gặp gỡ tha nhân nơi môi trường sống của mình. Như vậy, chúng ta phải sống như thế nào để trở nên chứng nhân đích thực của Chúa Giê-su trong thế giới hôm nay?

Thật vậy, chúng ta không thể mang danh ki-tô hữu mà đời sống chúng ta tồn tại sự buồn bã, thất vọng, đầy hận thù, đầy hiềm khích, đầy lỗi đức công bằng và bác ái, đầy sợ hãi và nhát đảm. Vì đạo của chúng ta là đạo của niềm vui, đạo của yêu thương. Đạo của chúng ta là đạo của Thiên Chúa Tình Yêu ngang qua Đức Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể. Là người thuộc về Chúa Ki-tô và tin vào Ngài, chúng ta được mời gọi: “…phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi… phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. (Mc 12, 30-31). Như vậy, chúng ta không thể yêu mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình. Hơn nữa, một khi đã tin – yêu Chúa thì ắt hẳn chúng ta phải yêu thương anh chị em đồng loại. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2,27). Đời sống ki-tô sẽ là chứng nhân đích thực cho anh chị em đồng loại nếu chúng ta thực hành điều răn mến Chúa yêu người liên lỉ và nên một với nhau trong đời sống thường ngày. Khi nói về điều này, Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã không ngần ngại nói “con người ngày nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy” là vậy. Vì thế, chúng ta sống đạo và thực hành các giới răn, các lời kinh chúng ta đọc trong nhà thờ ngang qua những lời nói, hành vi cử chỉ chúng ta sống và làm nơi đời sống xã hội là chúng ta đang giới thiệu Chúa Giê-su cách thực tế cho tha nhân, nhất là những người chưa cùng niềm tin Công Giáo.

Bên cạnh đó, thánh Phê-rô Tông đồ đã nhắn gửi với chúng ta về cách thức làm chứng nhân như sau: “tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc. Thật thế, ai là người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; người ấy phải làm lành lánh dữ, tìm kiếm và theo đuổi bình an, vì Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu xin, nhưng Người ngoảnh mặt đi, không nhìn kẻ làm điều ác. Ai làm hại được anh em, nếu anh em nhiệt thành làm điều thiện? (1 Pr 3, 8-13). Quả thật, đúng như vậy, ‘lời nói lung lay gương bày lôi kéo’ hay ‘hữu xạ tự nhiên hương’, qua cách sống tốt của chúng ta, mọi người sẽ nhận được niềm vui, sự bình an và hương hoa yêu thương của đạo, của người Công Giáo. Chính Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh điều đó, khi ngài nói: “…trong Đức Kitô Giêsu, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái.”(Gl 5, 6). Hành động bác ái, quan tâm và giúp đỡ những hoàn cảnh khổ đau, bệnh hoạn tật nguyện là dấu chỉ làm chứng cách rõ ràng của người môn đệ Chúa Ki-tô cho mọi người chung quanh. Mặt khác, trong cuốn “Chỉ nam về Huấn giáo” được ĐTC Phanxico phê chuẩn ngày 23/03/2020, ngài nhấn mạnh “Giáo hội phát triển không phải là chiêu dụ, nhưng bằng sự hấp dẫn”. Phải chăng, đời sống thực hành đạo của chúng ta ngang qua lối sống bao dung, tha thứ, yêu thương, quan tâm và hiệp nhất với nhau sẽ dễ dàng trở nên bằng chứng thiết thực để thu hút nhiều người, nhất là những đồng bào chưa cùng niềm tin với chúng ta?

Thật vậy, Tin mừng Phục Sinh hôm nay như một sự trấn an cho mỗi chúng ta khi có sự hiện diện của Chúa Giê-su, Đấng Phục Sinh của Thiên Chúa. Khi các môn đệ đang ở trong tinh thần sợ sệt và hãi hùng vì Thầy Giê-su đã chết, thì chính Đấng Phục sinh đã hiện ra với họ để củng cố niềm tin, thổi thêm sức mạnh của Chúa Thánh Thần, là nguồn mạch của sự tình yêu và bình an để từ đó các môn đệ trở nên những nhân chứng mạnh mẽ thay vì sợ hãi, can đảm dấn thân thay vì khép kín co ro,…Phải chăng giữa một xã hội đầy dẫy những sợ hãi và chết chóc do dịch bệnh, bạo lực, đói nghèo, vô cảm và thiên tai, chúng ta cũng rất cần sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, là Đức Giê-su nơi Lời Chúa, nơi Mình Máu Thánh Ngài để chúng ta mạnh mẽ và can đảm trở nên chứng nhân của niềm vui và niềm hy vọng? Mong ước rằng lời Kinh Hoà Bình “Ðể con đem yêu thưong vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.” luôn luôn khắc ghi nơi tâm khảm mỗi người và được thực hành liên lỉ trong suốt cuộc lữ hành trần thế để nhiều người ở mọi nơi tìm gặp được Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất.

------------------------------

 

PS3 B-172: THÂN QUEN VẪN LẠ


Trầm Thiên Thu

 

Nỗi lo làm co niềm tin, khiến hai môn đệ trên đường Emmau gặp Thầy Giêsu mà cứ tưởng người PS3 B-172


Nỗi lo làm co niềm tin, khiến hai môn đệ trên đường Emmau gặp Thầy Giêsu mà cứ tưởng người lạ. Và đó mới là điều rất khác lạ, rất đặc biệt.

Về địa danh Emmau có ý nghĩa khá thú vị. Tiếng Latin là Emmaus, tiếng Hy Lạp là Ἐμμαούς, tiếng Ả Rập là عِمواس‎ (Imwas), tiếng Do Thái là חמת‎ (Hammat), và có nghĩa là “mùa xuân ấm áp.” Emmaus cách Giêrusalem 7 dặm, khoảng 11 km.

Đã từng ở bên Chúa suốt 3 năm, vậy tại sao hai ông đồng hành và trò chuyện với Ngài mà không nhận ra người thân quen như thế? Chắc là không phải họ quá lo sợ mà quên hết trơn. Tình huống “gặp người quen mà thấy lạ” không phải là chuyện bình thường như chúng ta cố ý làm ngơ, mà có sự khác biệt giữa người-bình-thường và người-phục-sinh. Vẫn thân xác đó với tiếng nói đó nhưng có gì đó rất khác, bây giờ chúng ta không thể hiểu được.

Thật vậy, sự khác biệt đó đã khiến bà Maria Mácđala không nhận ra Chúa Giêsu mà cứ tưởng người làm vườn. Vẫn xác thể đó nhưng Chúa Giêsu không còn lệ thuộc không gian, không bị ngăn cản bởi bất cứ thứ gì nữa: Cửa phòng vẫn đóng kín mà Ngài bất ngờ đứng ở giữa khi các môn đệ đang ở trong phòng, họ tưởng ma nhưng Ngài chứng minh bằng cách ăn cá nướng; ở bờ biển cũng vậy, Ngài gọi các ông tới ăn cá rồi bất ngờ Ngài biến mất.

Chúa Giêsu phục sinh là động lực thúc đẩy chúng ta cố gắng “nằm gai” đời này để có thể “nếm mật” với Ngài đời sau. Khi Kinh Thánh nhắc lại Người Tôi Tớ Đau Khổ thì như “chạm” vào ký-ức-buồn của chúng ta, tức là sự ngu muội của chúng ta: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã NỘP và CHỐI BỎ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã CHỐI BỎ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại XIN ÂN XÁ cho một tên sát nhân. Anh em đã GIẾT Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi XIN LÀM CHỨNG.” (Cv 3:13-15)

Không còn nhát đảm như khi ở sân dinh Philatô, bây giờ ông Phêrô mạnh mẽ làm chứng về Đức Giêsu Kitô, đồng thời ông cũng thông cảm với người khác: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động VÌ KHÔNG HIỂU BIẾT, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em HÃY SÁM HỐI và TRỞ LẠI cùng Thiên Chúa, để Người XOÁ BỎ TỘI LỖI cho anh em.” (Cv 3:17-19) Là Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót, Thiên Chúa chỉ cần chúng ta chân thành ăn năn sám hối thì Ngài tha thứ ngay.

Chính Thiên Chúa đã hứa điều từ ngàn xưa: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.” (Is 1:18) Ngài thực sự muốn cứu chúng ta nên vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta quay về. Thật vậy, tướng cướp Dismas cả đời sống ngang ngược, nhưng vì biết sám hối nên được hưởng lời hứa đó ngay trên Núi Sọ: Theo Chúa Giêsu vào thẳng Thiên Đàng, (Lc 23:43) mặc dù người này chưa biết về Chúa Giêsu và cũng chưa được rửa tội trước đó. Thật kỳ diệu!

Rõ ràng Thiên Chúa vô cùng nhân lành, nhất là với những ai thành tâm sám hối: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn.” (Tv 4:2) Ngoài Thiên Chúa, chắc chắn chẳng có thần linh nào hoặc phàm nhân nào khả dĩ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc đích thực. Vì thế, tín nhân phải thiết tha cầu nguyện liên lỉ, van nài không ngừng: “Lạy Chúa, xin toả ánh tôn nhan Ngài trên chúng con.” (Tv 4:7)

Con người luôn cần Thiên Chúa, khi có Ngài rồi thì an tâm, chẳng lo lắng chi. Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã chia sẻ kinh nghiệm quý giá này: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn.” (Tv 4:9) Ôi, thế thì thật vui sướng biết bao!

Chân thành mong muốn chúng ta tỉnh ngộ nên Thánh Gioan nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em ĐỪNG PHẠM TỘI. Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính.” (1 Ga 2:1) Không nên phạm tội, đó là điều chính đáng, nhưng tay lỡ “nhúng chàm” thì lại được Luật Sư uy tín biện hộ cho chúng ta, đó là chính Chúa Giêsu. Thật diễm phúc cho chúng ta, nhưng đừng vì thế mà lạm dụng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Và Thánh Gioan cho biết: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa.” (1 Ga 2:2) Thật là trên cả tuyệt vời, và Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới.” (Nhật Ký, #1485) Mọi diễn biến từ Cựu Ước tới Tân Ước đều lô-gích, chính xác, không chút sai lệch. Thật là mầu nhiệm đối với sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.

Có hai điều kiện: Đừng phạm tội, và tuân giữ các điều răn – nhất là luật yêu. Đức ái (đức mến) là một trong ba nhân đức đối thần, nhưng là nhân đức quan trọng nhất. Bởi vì đức mến còn mãi mãi, trên Thiên Đàng không còn đức tin và đức cậy (hy vọng) mà chỉ còn đức mến.

Bằng cách phân tích, Thánh Gioan xác định: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.” (1 Ga 2:3-5) Tương tự, Thánh Phaolô nói: “Anh em ĐỪNG mắc nợ gì ai, NGOÀI món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13:8-10) Người biết yêu mến là người chu toàn lề luật của Thiên Chúa, đó là cách mặc lấy con người mới, sống niềm vui phục sinh.

Trên đường Emmaus, Chúa Giêsu gặp hai môn đệ và giải thích cho họ những gì đề cập trong Sách Thánh và liên quan Ngài, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Họ không hề biết đó là Chúa-Giêsu-phục-sinh, mãi đến khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ, mắt họ mới mở ra và nhận ra Ngài, thế nhưng Ngài lại biến mất. (Lc 24:27-30)

Một lần khác, khi các môn đệ ở trong phòng và đang nói, chính Đức Giêsu đứng giữa họ và chúc bình an cho họ. Các ông kinh hồn bạt vía, tá hỏa tam tinh, vì tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài vừa cười vừa nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39) Rồi Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Đúng rồi, ma đâu có thế này. Tại thần hồn nhát thần tính thôi mà!

Tuy nhiên, các ông vẫn bán tín bán nghi, chưa dám chắc, phần vì mừng quá, phần vì bỡ ngỡ. Thấy vậy, Ngài hỏi họ có đồ gì ăn thì đem ra cho Ngài. Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn ngon trước mặt họ. Thế thì thật rồi, không phải mơ. Thầy thực sự sống lại rồi.

Chúa Giêsu giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” (Lc 24:44) Rồi Ngài mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh, và Ngài nhấn mạnh: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là CHỨNG NHÂN về những điều này.” (Lc 24:46-48)

Làm chứng nhân là bổn phận và trách nhiệm của mọi tín nhân, mang danh Kitô hữu. Không cần phải làm công to việc lớn, mà chỉ cần những điều bình thường theo hoàn cảnh của mình, quan trọng là sự kiên trì. Chúng ta cứ hành động, kết quả do Chúa quyết định. Thánh Seraphim Sarov có bí quyết độc đáo thế này: “Hãy duy trì tinh thần hòa bình và anh em sẽ cứu được hằng ngàn linh hồn.”

Lạy Thiên Chúa toàn trí và toàn tri, xin soi lòng mở trí để chúng con có thể hiểu đúng và hiểu rõ Kinh Thánh, luôn biết thể hiện tình thương xót, nhiệt tâm loan báo Tin Mừng Phục Sinh, và xin cho chúng con nhận ra Ngài nơi mọi người. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-173: CHỨNG NHÂN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH


Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 

Nếu chúng ta hôm nay được hồng phúc lãnh nhận đức tin Kitô giáo, đó là nhờ những chứng nhân PS3 B-173


Nếu chúng ta hôm nay được hồng phúc lãnh nhận đức tin Kitô giáo, đó là nhờ những chứng nhân Phục sinh đầu tiên, tức là các môn đệ của Chúa Giêsu. Hành trình chứng nhân của họ không đơn giản, vì lúc đầu, chính họ cũng không tin Chúa đã sống lại. Nhiều nơi trong Tân ước, cụ thể là bài Tin Mừng Thánh Luca hôm nay cho thấy điều đó. Khi Chúa Giêsu từ cõi chết đến với họ, họ tưởng Người là một bóng ma. Bằng việc ăn uống trước mặt họ và cho họ rờ tận tay để thấy đây là một thân xác thực sự, Chúa đã chứng minh, Người đã sống lại. Với những bằng chứng ấy, các môn đệ đã tin tưởng và vui mừng. Không những thế, họ còn trở nên những chứng nhân của Đấng Phục sinh.
 
Đối với khá nhiều Kitô hữu, ý nghĩa và thông điệp của lễ Phục sinh cũng chấm dứt cùng với những lễ nghi được cử hành ồn ào. Tệ hại hơn, có người chỉ coi ngày lễ này như một cuộc tưởng niệm đơn thuần, giống như tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hay một vị anh hùng dân tộc nào đó. Đối với họ, Đức Giêsu Phục sinh cũng chỉ như một “bóng ma”, một ảo ảnh hay một vĩ nhân của lịch sử đã qua. Lời Chúa hôm nay muốn giúp chúng ta xác tín vào sự phục sinh của Chúa. Thánh Phêrô đã làm cho cả cử tọa tâm phục khẩu phục, vì chứng minh Thiên Chúa của Đức Giêsu cũng là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, tức là Thiên Chúa của lịch sử, Đấng đã can thiệp và dẫn dắt các Tổ phụ của dân tộc Do Thái. Phụng vụ cũng muốn khẳng định với chúng ta, Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta hãy làm chứng nhân cho Người.
 
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này!“. Đây là một lệnh truyền của Đấng Phục sinh. Lệnh truyền này cũng là một trong những sứ mạng cốt lõi của đời sống Kitô hữu, là sứ mạng gắn liền với Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ, Bí tích này trao cho người được thanh tẩy ba sứ mạng: Ngôn sứ, Tư tế và Vua. Chuyên tâm thực thi ba sứ mạng này, chính là làm chứng cho Đấng Phục sinh trong cuộc đời.
 
Hãy trở lại với những chứng nhân đầu tiên của Đấng Phục sinh, đó là Thánh Phêrô và các tông đồ. Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, Phêrô đã lược lại lịch sử cứu độ để chứng minh Đức Giêsu chính là Tôi trung của Thiên Chúa. Người đã chịu đau khổ và đã sống lại từ cõi chết. Lời giảng của ông kèm theo lời cam kết chắc chắn: “Về điều này, chúng tôi xin làm chứng”. Ông cũng bạo dạn quả quyết rằng, những người đang hiện diện trước mặt ông cũng có một phần trách nhiệm trong cái chết của Chúa Giêsu, nhưng vì thiếu hiểu biết, nên trách nhiệm ấy cũng nhẹ hơn. Từ đó, Ông kêu gọi họ hãy sám hối ăn năn để xin ơn tha thứ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục vác thánh giá và chịu khổ hình nơi gương mặt của những người bất hạnh, bệnh tật, nghèo đói. Mỗi chúng ta đề có bổn phận quan tâm đến họ. Và thật lạ lùng, khi quan tâm giúp đỡ những người trên đây là quan tâm giúp đỡ chính Chúa Giêsu. Xóa bỏ hận thù, thực thi bác ái, cổ võ hiệp nhất, đó là những việc cần thực thi để xứng đáng là chứng nhân của Đấng Phục sinh.
 
Làm sao có thể làm chứng cho Đấng Phục sinh, nếu chúng ta không thực sự xác tín vào Người? Vì vậy, Lời Chúa mời gọi chúng ta: Hãy sám hối và cố gắng sống thánh thiện. Thánh Gioan đã cho chúng ta những lời khuyên cụ thể và chi tiết: sống trong sạch, không dối trá, trung thành với các giới răn (Bài đọc II). Chỉ khi nào tuân giữ những điều này, chúng ta mới có khả năng làm chứng cho Đấng Phục sinh đang hiện diện trong đời sống hôm nay.
 
Nếu lúc ban đầu, các tông đồ nghi ngờ sự kiện Phục Sinh, thì sau này, các ông lại sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự kiện ấy. Cuộc gặp gỡ với Đấng Sống lại đã tiếp sức cho các môn đệ. Từ những người sợ hãi nhút nhát đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, các ông trở nên những chứng nhân can đảm, sẵn sàng loan báo Chúa đã sống lại, và còn hân hoan vì được xứng đáng chịu đau khổ vì Chúa (x. Cv 5,41). Sau này, tất cả các tông đồ đã chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng về điều họ đã được gặp gỡ, tức là  Đấng đã từ cõi chết sống lại.
 
Xã hội hôm nay rất đang cần những chứng nhân của Đấng Phục sinh. Giữa đêm đen của thù hận, bạo lực, gian dối và mưu mô mánh lới, cần lắm những ánh sáng đến từ cuộc sống lương thiện, bao dung, trung thực. Để có thể trở nên một nhân chứng của Đấng Phục sinh, chúng ta phải gặp gỡ Người, phải xác tín nơi Người và phải cảm nhận niềm vui của Đấng đã sống lại. Như thế, mặc dù không nhìn thấy Đấng Phục sinh bằng con mắt thể lý, những người đương thời có thể nhận ra Người nơi chính cuộc sống của chúng ta.
 
“Hướng ngược gió, càng hợp để bay, tôi không sợ ngàn vạn người ngăn cản, mà chỉ sợ chính bản thân mình đầu hàng” (Sưu tầm).

------------------------------

 

PS3 B-174: NIỀM VUI GẶP CHÚA


Bông hồng nhỏ

 

Có những khi ta mong mỏi một điều gì đó nhưng khi đạt được rồi ta lại trở nên bối rối và phản PS3 B-174


Có những khi ta mong mỏi một điều gì đó nhưng khi đạt được rồi ta lại trở nên bối rối và phản ứng cách kỳ cục. Sau khi Thầy Giêsu bị kết án, chết nhục nhã trên cây thập giá, các môn đệ rơi vào trạng thái sợ hãi và bơ vơ. Các ông buồn bã vì Thầy đã không còn. Có lẽ các ông cũng từng ước Thầy còn bên cạnh để sống những tháng ngày bình yên và êm ấm. Rồi khi Thầy trỗi dậy, các ông đã kể cho nhau nghe về biến cố lạ lùng ấy.

Niềm vui tràn ngập tâm hồn, hai môn đệ từ làng Emmau khấp khởi trở về Giêrusalem, gặp các anh em để báo tin mừng vì chính các ông đã được gặp Chúa, và kể lại cách tường tận về việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. (x. Lc 24, 33-35). Niềm vui được chia sẻ sẽ lan rộng và tăng lên gấp bội phần. Họ kể cho nhau nghe về biến cố Chúa trỗi dậy mà lòng như chẳng còn sợ hãi. Thế nhưng lạ thay, chính khi ấy, Chúa đứng giữa các ông mà ban bình an thì các ông lại kinh hồn bạt ví, còn tưởng là thấy ma. (x. Lc 24, 36-37). Các ông vẫn chưa quen với cách hiện diện bất ngờ của Chúa. Thánh sử Luca bảo rằng “các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng”. (Lc 24, 41). Nếu ta ở trong hoàn cảnh của các môn đệ lúc ấy, ta sẽ phản ứng thế nào? Ta thử lắng nghe xem Chúa nói gì nhé. “Ở đây anh em có gì ăn không?” ( Lc 24, 41 b). Các ông đã chia sẻ một khúc cá và Chúa đã ăn trước mặt các môn đệ. Thầy Giêsu đã phục sinh và “thân thể ấy là thân thể vinh hiển, có những đặc tính mới: không còn bị ràng buộc bởi không gian và thời gian nữa, Người tự do hiện diện nơi nào và lúc nào Người muốn, cũng như Người có thể hiện diện dưới nhiều hình dạng.” (GLTK – bài 10). Lời của Chúa cũng đang mời gọi ta ngay hôm nay: Tôi có gì để cho Chúa và cho anh em? Chúa đã phục sinh và Người có thể hiện diện nơi những người bên cạnh ta. Họ là những người lỡ đường, đói khát, nhưng người nghèo mà ta có thể trao ban chút thức ăn mình có. Chúa đã mở trí lòng cho các ông hiểu Kinh Thánh và mời gọi các ông: “nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này.” (Lc 24, 47- 48). 

Lạy Chúa! Chúa đã hiện diện và ban niềm vui cho tâm hồn con. Xin cho con khám phá ra sự hiện diện của Chúa nơi từng người con gặp gỡ và lắng nghe được lời Chúa vẫn mời gọi con: “Chính anh em hãy cho họ ăn.”Amen.

------------------------------

 

PS3 B-175: HÃY TIN


Anna Cỏ May

 

Chúa đã sống lại, trên trời các triều thần hân hoan cất tiếng ngợi ca. Thế nhưng các cửa phòng của PS3 B-175


Chúa đã sống lại, trên trời các triều thần hân hoan cất tiếng ngợi ca. Thế nhưng các cửa phòng của các môn đệ vẫn còn đóng kín.

Với phép ẩn dụ, các cửa phòng đóng kín chính là tâm hồn của các môn đệ không thể mở ra được. Tâm hồn và trái tim họ đã bị khép chặt lại trong sự sợ hãi, đau buồn và mất niềm tin. Các ông đã nhận thấy thái độ của mình khi Thầy đứng trước cái chết, các ông hối hận trong lòng, tâm hồn chìm ngập trống vắng, khô khan, chán nản. Bên ngoài, các ông sợ không dám đối diện với sự thật, với những người dân Do Thái vì các ông đã từng có một cuộc sống sung túc, đầy đủ, được yêu thương, bao bọc, nâng đỡ dạy dỗ mỗi ngày. Bây giờ Thầy không còn, các ông cảm thấy mất tất cả rồi, không còn chút gì là hy vọng. Họ cũng chẳng nhớ lời Thầy nói. Các ông như đang té ngã cả thể xác, tâm hồn, còn đức tin có lẽ cũng đang bị lung lay. Đầu tiên là hai môn đệ trên đường Em-mau đã trở về thuật lại cho các ông biết về những gì đã gặp đã thấy về Thầy. Cũng ngay lúc ấy, Chúa Giêsu đã hiện ra đứng giữa các môn đệ và nói “ Bình an cho anh em. Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” ( Lc 24, 36). Thấy vậy, Chúa Giêsu liền cho các ông thấy chân tay và sờ xem xương có thịt thật.

Tuy nhiên, theo tâm lý, các môn đệ vẫn chưa tin vì quá vui mừng, và còn đang ngỡ ngàng hết sức về sự sống vinh quang của Thầy. Biết làm sao đây? Chúa Giêsu tiếp tục dùng hành động gần gũi quen thuộc hằng ngày khi ở chung với các môn đệ. Ngài đã hỏi “ Ở đây các anh có gì ăn không ? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” ( Lc 24,41- 43). Cũng như hai môn đệ trên đường Em-mau đã nhận ra Chúa ngay lúc “các ông ngồi đồng bàn với Thầy” thì các môn đệ cũng vậy. Và chính hành động ngồi ăn trước mặt các ông đã xua đuổi tư tưởng Chúa Giêsu là ma và thức tỉnh tâm hồn, củng cố niềm tin nơi các môn đệ. Khi nhận ra Thầy, tâm hồn các ông cũng đã mở ra và Chúa Giêsu bắt đầu mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và nói “Chính anh em là chứng nân về những điều này” (Lc 24, 48). Các ông sẽ làm chứng về việc Chúa chịu khổ hình, chịu chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Ngài mời gọi các ông đừng sợ hãi nữa mà hãy vui lên và chuẩn bị hành trang lên đường làm chứng nhân cho Ngài cũng như tiếp nối công trình mang tình yêu ơn cứu độ đến cho mọi người.

Lời mời gọi ấy vẫn còn vang vọng mãi trong Giáo Hội, nơi mỗi người Kitô hữu. Chúng ta là những người được tiếp nối từ nơi các môn đệ. Vậy trong thời đại này, chúng ta sẽ làm gì để thực hiện lời Chúa mời gọi? Lời mời gọi ấy có quá khó với chúng ta không? Thực sự mỗi người có những khả năng riêng. Chúng ta hãy dùng những khả năng ấy để làm và sống với lời Chúa. Chúa không đòi những gì quá sức chúng ta, nhưng sẽ ban đủ sức cho chúng ta thực hiện như lời Ngài đã nói “ Ơn Ta đủ cho con”. Chúng ta hãy thử sức mình, đừng nhụt chí, nản lòng, nhưng hãy tin tưởng, tín thác vào Chúa mỗi ngày.

Lạy Chúa, Chúa biết rõ từng người chúng con. Xin Chúa tiếp tục nâng đỡ chúng con mỗi ngày như Chúa đã làm với các môn đệ. Quả thật, không có Chúa chúng con có cố gắng đến bao nhiêu cũng không thành công được. Bởi đó, chúng con luôn cần ơn Chúa trong từng mỗi phút giây của ngày sống. Xin hãy ở lại với chúng con. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-176: ĐỪNG SỢ


Lm. Trần Việt Hùng

 

Khi hai môn đệ trở về, Tâm hồn thanh thản, cận kề bên nhau. Các ông kể sự trước sau, Giê-su PS3 B-176


Khi hai môn đệ trở về,
Tâm hồn thanh thản, cận kề bên nhau.
Các ông kể sự trước sau,
Giê-su bẻ bánh, biến mau khỏi bàn.
Nhận ra Chúa đã khải hoàn,
Tâm tư thổn thức, hân hoan trong hồn.
Thầy đây, đừng sợ, lời đồn,
Phục sinh cõi chết, cao tôn vĩnh hằng.
Đừng lo bối rối nghĩ sằng,
Chân tay xương thịt, rõ ràng Thầy đây.
Chia phần ăn uống cùng Thầy,
Chứng minh sự thật, khởi xây Nước Trời.
Chu toàn ứng nghiệm tuyệt vời,
Mọi lời Kinh Thánh, trong đời Ngôi Hai.
Thi hành thánh ý thiên sai,
Chết đi sống lại, ngự ngai Vua trời.

Các Tông đồ cùng tụ họp chia xẻ niềm vui với nhau. Những ngày hoảng sợ và đau buồn đã dần qua. Các Tông đồ đã từ từ lấy lại niềm tin nơi Chúa. Trong khi các ngài đang thuật lại những lần Chúa đã hiện ra, Chúa Giêsu xuất hiện giữa các ông một lần nữa và xác tín rằng: Thầy đây, đừng sợ! 

Tuy Chúa hiện ra nhiều lần nhưng các Tông đồ không hoàn toàn xác tín. Vì sau khi sống lại, Chúa không mang thân xác nặng nề như con người, mà là thân xác phục sinh như thiên thần. Lúc ẩn, lúc hiện, Chúa hiện ra dưới nhiều hình ảnh khác nhau. Lúc thì như người làm vườn, khi thì như người bạn đồng hành, khi thì như người chài lưới bên bờ hồ và các tông đồ không nắm bắt được một cách cụ thể. Đôi khi các ngài nửa ngờ, nửa tin. Các Tông đồ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng nhưng không thể hiểu thấu vì sự chết và sự sống lại là một mầu nhiệm. 

Sự sống lại của Chúa Giêsu đã hoàn toàn vượt trên mọi kinh nghiệm. Chúa sống đời sống mới và vượt ngoài khung cảnh vật chất. Chúa muốn chứng minh sự khác biệt giữa hồn ma và sự sống lại vinh hiển của Chúa. Ma làm gì có xương thịt như các con thấy Thầy có đây. 

Chúa đã tiếp tục dùng Kinh Thánh để dạy dỗ các ông. Chúa phải bước qua đau khổ và phải chết đi mới bước qua sự sống mới. Hạt miến cần chôn vùi và tan rữa mới biến thành bông hạt. Đau khổ là một mầu nhiệm. Phục sinh vinh quang là một mầu nhiệm. Đau khổ chỉ hiểu được khi có sự vinh quang. Vinh quang chỉ hiểu được khi những đau khổ đã qua đi. Chúng ta không thể đi ra ngoài con đường mà Chúa đã đi qua. Qua thứ Sáu Tuần Thánh mới tới Chúa Nhật Phục Sinh. Phải qua đau khổ mới vào vinh quang. 

Chúng ta không thể đi đường tắt tới vinh quang được. Nếu không có thánh giá và đau khổ sẽ không có vương miện chiến thắng. Chúa Kitô là đầu nhiệm thể, Ngài đã đi trọn con đường và hoàn tất hành trình về cõi sống. Ngài kêu mời chúng ta vác thập giá và bước theo Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đến cùng đích là sự sống vĩnh cửu bên Ngài.

Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng nơi Chúa Phục Sinh. Làm nhân chứng, không chỉ nói về sự kiện lịch sử Chúa đã sống lại. nếu chỉ nói, ai cũng nói được. Làm nhân chứng cho Chúa ở giữa dòng đời bằng chính cuộc sống và niềm tin. Chúng ta hãy là nhân chứng cho sự Phục Sinh qua cách sống, qua việc cư xử, qua lời nói và việc làm hằng ngày để mọi người chung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô Phục Sinh.

------------------------------

 

PS3 B-177: TIN CHÚA ĐANG SỐNG


Lm Giuse Hoàng Kim Toan

 

Đức tin dựa trên hai yếu tố: Tin là điều Chúa muốn muốn bày tỏ và tin là việc con người đón nhận PS3 B-177


Đức tin dựa trên hai yếu tố: Tin là điều Chúa muốn muốn bày tỏ và tin là việc con người đón nhận điều Chúa phán.

Thiên Chúa bày tỏ.

Trong sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu. Người muốn bày tỏ cho những người Chúa chọn về việc Chúa đang sống: ”Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24, 6). Sứ điệp này không chỉ bằng Lời mà còn bằng chứng : “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây? Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24, 39 – 40).

Đức tin đến từ Thiên Chúa, Người biểu lộ chính mình cho con người trong Chúa Giêsu Kitô. Làm sao con người có khả năng đón nhận? Chính Chúa Thánh Thần lay động từ trong sâu thẳm của trái tim con người: “Có một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phao-lô nói.” (CVTĐ 16, 14). Chúa mở lòng trí con người, con người mới có khả năng đón nhận điều Chúa phán dạy.

Quyết định tin là hành vi của con người nhưng cũng là tác động của Thiên Chúa từ trong lòng của con người, để con người xác tín và tuyên xưng. Thánh Phaolô giảng dạy: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ.” (Rm 10, 9 -10).

Tin còn là điều Thiên Chúa tác động đưa lòng dạ con người về với Thiên Chúa. Con người thụ tạo vốn sống trong thế gian, thuộc về thế gian, nên không có khả năng hướng về Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không tác động. Thế nên, mọi người đều được Thiên Chúa quy hướng về Người, tuy với nhiều Danh Xưng khác nhau về Thiên Chúa, nhưng bài giảng của Thánh Phao lô ở Athene, chỉ rõ: 

“Thưa quý vị người A-thê-na, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: “Kính thần vô danh”. Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị.

“Từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta. Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: “Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người.” (Cv 17, 22 – 28)

Tin là một sự hoán cải. Tuy là Thiên Chúa bày tỏ, con người vẫn cần được Thiên Chúa biến đổi từ bên trong. Chúa Giê su ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để chính Chúa tHanh Thần biến đổi các môn đệ từ những con người theo Chúa, bây giờ xác tín vào Chúa, từ con người yếu đuối, kém tin để trở nên những con người mạnh mẽ, dám lấy mạng sống mình ra làm bằng chứng cho Chúa Phục Sinh.

Chúa Thánh Thần vẫn còn tiếp tục làm cho đức tin ngày càng tăng trưởng và hiểu thấu hơn về Lời Chúa đã mạc khải để ngày càng vâng phục hơn trong hiểu biết và yêu mến.

Thánh Augustine cầu nguyện : “Chúa sẽ khiến con quay về với Chúa..Chúa sâu thẳm hơn chính sự sâu thẳm của con, cao hơn những nơi cao nhất của chính con”

Tin Chúa bằng cả ý chí và lý trí.

Trong sự kiện của Toma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25). Lý trí đòi hỏi cần được minh chứng để tùng phục trong ý chí. Cuối cùng, Chúa đã hiện ra và mời gọi hãy xem tay chân Thầy và Toma đã thưa lên: “”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! ” (Ga 20, 28).

Tin có một chiều kích khác là ý chí. Đòi hỏi một dấn thân, bền bỉ và đời sống cầu nguyện. Như các môn đệ đầu tiên, “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1, 39).

Công đồng Vat II đưa ra một đề nghị về niềm tin là “tự do phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa”. Hành vi của niềm tin này là một cuộc mạo hiểm sáng suốt: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lc 9, 24).

Chính Chúa lôi kéo và quyến rũ được tôi, đó là kinh nghiệm của Giêrêmia. Thánh Phaolô thì nói: “Tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt , bởi lẽ chính tôi đã được Chúa Kitô chiếm đoạt” (Pl 3, 12). Như vậy, chính Chúa là Đấng đã tự thông ban chính mình cho nhân loại và nhân loại cũng đã tự nhiên thấy mình khao khát về ý nghĩa sống, cuộc đời đang sống này có trị gì, rồi đi đâu, để đi tìm Chúa. Kết qủa Thiên Chúa đến với con người và con người đi tìm kiếm Thiên Chúa, được gặp gỡ Người. Tìm kiếm và gặp gỡ là hành trình của con người mãi mãi sẽ lớn lên trong đời sống với Chúa và với nhau.

Các Tông Đồ là những người đã trải qua kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Các ngài là các Đấng tường thuật mãi cho các thế hệ mai sau, những kinh nghiệm ở với Chúa, học với Chúa và quy tụ cộng đoàn trong tin Mừng Chúa Phục Sinh trong các quyển Tân Ước.

Thay cho lời kết:

Lời cầu nguyện của Thánh Augustine:

“Lạy Chúa! Hướng mọi nỗ lực của con theo quy luật đức tin này, con đã tìm Chúa, chừng nào con có thể, chừng nào Chúa cho con khả năng đó; con đã ước ao nhìn thấy bằng trí hiểu điều con tin… Xin nhận lời con, vì con sợ rằng, do mệt mỏi chán chường, con không còn muốn tìm kiếm Chúa nữa.”

------------------------------

 

PS3 B-178: VUI MỪNG VÀ NGỠ NGÀNG


Lm. Nguyễn Thái

 

Có một câu chuyện kể rằng khi Chúa Giêsu về trời, tất cả các thánh, các thiên thần quy tụ lại PS3 B-178


Có một câu chuyện kể rằng khi Chúa Giêsu về trời, tất cả các thánh, các thiên thần quy tụ lại xung quanh Ngài để phỏng vấn. Giống như báo chí thường phỏng vấn các tân giám mục hoặc hồng y, các thiên thần nhìn thấy những vết thẹo trên mình Ngài, những vết đinh trên bàn tay, bàn chân, những mũi gai nhọn trên đầu, vết đòng đâm bên cạnh sườn, và những vết roi bị đánh đòn phía sau lưng… Thánh Giuse mới hỏi: “Ắt hẳn là Ngài phải chịu đau đớn kinh khủng lắm vì sự tàn bạo của con người chứ?” “Đúng vậy!” Chúa Giêsu trả lời. “Thế họ có nhận ra tình yêu của Ngài dành cho họ và điều Ngài đã làm cho họ không?” Thánh Giuse hỏi tiếp. “Không!” Chúa Giêsu trả lời, “Chưa đâu, có thể là sau này thôi!” “Thế Ngài đã làm gì để bảo đảm rằng mọi người sẽ nhận ra?” Thánh Giuse lại hỏi. “Ừ, Ta đã yêu cầu ông Phêrô, Giacôbê, bà Maria, và vài người khác nói lên điều đó, và yêu cầu tất cả những ai nghe họ cũng phải loan truyền cho những người khác, cho đến khi nào tất cả mọi người ở mọi nơi đều biết đến điều đó.” “Nhưng nếu ông Phêrô, Giacôbê, và bà Maria không nói với ai hết thì sao? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ trở nên mệt mỏi, nhàm chán? Hoặc giả những người đến sau họ quên luôn? Hoặc là họ nghe, rồi quên nói lại? Ngài có dự phòng một kế hoạch nào khác nữa không?” Thánh Giuse đặt vấn đề. Chúa Giêsu trả lời: “Không! Ta đã chẳng dự trù một kế hoạch khác nào cả. Ta hoàn toàn tin tưởng và trông cậy nơi họ.”

Bài Phúc Âm hôm nay, Lc 24: 35-48, diễn tả việc Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trong lúc họ đang sợ hãi và ngờ vực. Nhưng Chúa đã biến đổi sự sợ hãi và ngờ vực thành niềm vui và kinh ngạc, để rồi sau cùng Chúa đã tin tưởng và trao phó sự nghiệp truyền giáo cho họ: “Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem… Chính anh em là những chứng nhân của những điều này” (Lc 24:47-48).

Đó là lúc ban đêm, cái đêm sau những kinh hoàng về cái chết của Chúa, một đêm chuyển tiếp giữa sự kiện Chúa đã chết và Ngài sống lại, giữa thập giá và vinh quang, giữa quá khứ và hiện tại, giữa cũ và mới. Các tông đồ tụ họp nhau trong căn phòng kín đáo trên gác. Cửa đóng chặt, im lặng vì sợ. Bóng của họ đổ dài trên tường qua ánh đèn dầu le lói. Chúa Giêsu xuất hiện. Các tông đồ sợ hãi. Theo Thánh Luca họ sợ vì nghĩ là ma: “Các ông kinh hồn, bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24: 37). Còn Thánh Gioan lại cho rằng: “vì sợ người Do Thái” (Ga 20: 19).

Mỗi Thánh Ký diễn tả nỗi sợ hãi của các tông đồ một cách khác nhau, nhưng có nguyên nhân giống nhau. Sợ người Do Thái có nghĩa là sợ một quyền lực bắt bớ từ bên ngoài, nhưng có nguyên nhân của nội tâm. Sợ ma là một nỗi ám ảnh bên trong tâm hồn, một sự trống vắng niềm tin. Nói chung, các tông đồ sợ vì họ đã có kinh nghiệm riêng tư với Chúa Giêsu. Họ sợ vì mặc cảm tội lỗi, như đã chối Chúa, đã chạy trốn, đã để Chúa bị chết… Tất cả đều là những nguyên nhân làm cho họ sợ hãi.

Trong cả hai bản tường thuật, Chúa Giêsu đều chào các tông đồ với lời chào theo truyền thống của người Do Thái: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36; Ga 20:19). Nhưng trong mạch văn của Gioan, những từ này được hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của một lời chào. Chúa Giêsu đã trấn an nỗi sợ hãi của các tông đồ tương tự như Ngài đã làm dịu trận cuồng phong bão tố trên biển (Mc 4: 35-41). Trong Luca, những chữ này thực sự là những lời chào hỏi, làm họ phải chú ý đến sự hiện diện của Ngài ở trong phòng. Các ông đã sợ hãi khi trông thấy Ngài.

Thánh Luca giải thích rõ hơn. Chúa Giêsu đã hỏi: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?” (Lc 24:38). Chúng ta đã hiểu nỗi sợ hãi của các môn đệ là do sự nghi ngờ mà ra. Quả vậy, ở một khía cạnh nào đó, chúng ta cũng thường cảm nghiệm điều này trong đời sống tinh thần của mình. “Nghi nan chỉ thấy cản ngăn. Vững tin nhìn thấy phăng phăng thẳng đường. Nghi nan toàn thấy đêm trường. Vững tin chỉ thấy sáng trưng như ngày” (Thơ Lệ Hằng).

Cha Anthony De Mello đã ghi lại cảm nghiệm sợ hãi vì nghi ngờ lòng thương xót của Thiên Chúa như sau: “Tôi sống mối quan hệ rất tốt với Chúa. Tôi trò chuyện với Ngài, cầu xin, chúc tụng, tạ ơn Ngài. Nhưng tôi cứ có cảm giác khó chịu là Ngài muốn tôi nhìn vào mắt Ngài. Nhưng tôi không nhìn. Tôi chỉ nói và nhìn ra nơi khác nếu tôi cảm thấy như thể Ngài đang nhìn tôi. Tôi thường xuyên nhìn ra nơi khác như thế, vì tôi sợ! Tôi nghĩ rằng cặp mắt Ngài sẽ tố giác tôi về những tội lỗi nào đó chưa chừa được! Hoặc là cặp mắt đó sẽ đòi hỏi tôi phải làm điều gì đó. Cuối cùng, một ngày kia, tôi thu hết can đảm và nhìn lên. Không có tố giác! Chẳng có đòi hỏi! Cặp mắt ấy chỉ muốn nói: “Cha yêu con!” Tôi nhìn lại nữa. Cũng vẫn lời nhắn nhủ ấy: “Cha yêu con!” Tôi bước ra ngoài, và như Thánh Phêrô xưa, tôi khóc.”

Chúa Giêsu đã nói lên nguồn gốc của sự sợ hãi là nghi ngờ. Sợ hãi và nghi ngờ là hai mặt của một vấn đề. Và sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu đã biến đổi sợ hãi và nghi ngờ trở nên an bình và vui tươi. Ngài đã đưa tay chân cho họ xem và rờ vào vết thương của Ngài (Lc 24:39). Điều này, trong Phúc Âm của Gioan, chỉ xảy ra với Tôma mà thôi!

Thánh Luca diễn tả sự biến đổi này một cách khéo léo và tài tình như sau: “Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin, và còn đang ngỡ ngàng…” (Lc 24:41). Đang trong tâm trạng hỗn độn, nghi ngờ và lo sợ, các môn đệ lại phải đối diện với một thực tại siêu phàm quá sức tưởng tượng; họ nhìn thấy Chúa Giêsu đã sống lại. Người bình dân gọi điều lạ lùng này là “quá trí”, vượt quá trí hiểu biết, trí tưởng tượng của loài người. Họ đã thực sự trông thấy Thiên Chúa sống động, nhưng điều này vĩ đại quá làm họ chưa dám tin vào con mắt trần gian của mình. Điều này cũng không thể nào xảy ra được so với sự hiểu biết nông cạn của họ. Vì thế, họ chưa dám tin!

Tâm trạng này lại được diễn tả trong bài đọc thứ nhất, Cv 3:11-26, trích từ sách Công Vụ Tông Đồ cũng được coi là của Luca. Chúng ta thấy Phêrô và Gioan vừa bước vào cổng đền thờ liền gặp một người què được bạn bè khiêng tới mỗi ngày để xin ăn. Vừa gặp hai ông, anh què xin các ngài giúp đỡ. Các môn đệ không có tiền, nhưng Phêrô đã cho anh một điều còn quý giá hơn tiền bạc. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Phêrô chạm đến anh và chữa anh què được lành. Quá vui mừng, anh nhẩy nhót sung sướng, chạy đi đây đó. Mọi người vây quanh lại trong kinh ngạc, có lẽ đầy sợ hãi nữa vì điều lạ lùng vĩ đại đã xảy ra trước mắt họ một cách không thể ngờ được! “Quá trí!” Họ quá ngỡ ngàng và kinh ngạc đến độ khó mà tin được vào con mắt của mình. Người què bị tàn tật từ khi mới sanh, nhưng bây giờ, sau khi Phêrô chỉ nói vài câu, anh đã không còn què nữa. Rồi Phêrô bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu chết, sau ba ngày đã sống lại, hiện ra với các ông. Các ông đã chứng kiến tất cả những điều lạ lùng xảy ra như mọi người cũng đang thấy. “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24:48).

Một câu chuyện khác cũng xảy ra tương tự như vậy, Luca nói về Phêrô đang ở trong tù. Các bạn hữu của Phêrô quy tụ lại với nhau để cầu nguyện cho ông được ra khỏi tù. Lời cầu nguyện của họ sẽ được chấp nhận. Giữa đêm khuya, một thiên thần đến dẫn Phêrô ra khỏi nhà tù. Phêrô đi thẳng đến nhà bạn hữu của ông. Ngài gõ cửa. Một người tớ gái đi ra cửa đã nhìn thấy Phêrô. Giống như các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay, nàng rất đỗi kinh ngạc. Trong niềm vui, thay vì mở cửa và mời Phêrô vào, nàng chạy vào trong nhà báo tin cho mọi người biết Phêrô đang đứng ngoài cổng. Họ đang cầu nguyện cho Phêrô, nhưng thay vì tin vào lời cầu nguyện của mình, họ đã trả lời với cô: “Đồ khùng!” Trong khi đó Phêrô tiếp tục đập cửa. Mở cổng ra, thấy ông, họ ngỡ ngàng vì chứng kiến một điều vượt quá trí khôn của con người! (Cv 12: 1-15).

Phép lạ quá vĩ đại cũng làm chúng ta vui mừng “quá trí” đến độ ngỡ ngàng. Cảm xúc ngỡ ngàng trước những mầu nhiệm siêu việt hay thực tại linh thiêng làm con người chưa dám tin vào con mắt trần gian, trí hiểu biết hay sự nhận thức nông cạn của mình. Đó là kinh nghiệm đã xảy ra cho các môn đệ khi xưa và cho cả chúng ta ngày nay.

Một người đã được ơn trở lại với niềm tin Kitô Giáo kể lại rằng sau khi theo đạo, những người bạn vô tín ngưỡng đã đến chất vấn anh. Họ nói với anh rằng: “Tôi nghe tin anh mới gia nhập đạo Công Giáo có đúng vậy không?” Anh trả lời: “Phải”. Họ hỏi: “Như vậy anh phải hiểu biết rất nhiều về Đức Kitô, hãy nói cho chúng tôi biết, Ngài đã sinh ra ở quốc gia nào?” Anh trả lời: “Tôi không biết”. “Ngài đã chết năm nào?” họ hỏi. Anh trả lời: “Tôi không biết”. “Vậy anh có thể nói cho chúng tôi biết vài điều về giáo huấn của Ngài, vài phép lạ, hay làm thế nào Ngài đã sống lại từ cõi chết được không?” Anh trả lời: “Tôi cũng không biết!” “Nhưng chắc chắn rằng anh phải biết tí gì về Người đã tự xưng là Đức Kitô chứ?” Anh trả lời: “Các anh nói đúng. Tôi rất xấu hổ vì biết rất ít, nhưng điều tôi thực sự biết: Đó là ba năm trước, tôi đã là một người nghiện rượu và bị mang nợ. Gia đình tôi tan rã. Vợ tôi và con cái phải khiếp sợ vào mỗi buổi tối khi tôi trở về nhà. Tôi đã tuyệt vọng, nhưng tôi đã dâng hiến tâm hồn tôi cho Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của tôi. Bây giờ, tôi đã bỏ rượu, trả hết nợ, vợ chồng tôi yêu thương nhau. Tất cả điều này Đức Giêsu Kitô đã làm cho tôi. Đấy là điều duy nhất tôi biết.

Những chuyện không thể ngờ và không thể tin được như thế vẫn tiếp tục xảy ra hằng ngày trong cuộc sống. Hãy mở mắt tâm hồn ra mà đón nhận! Câu chuyện Chúa Giêsu hiện ra sau khi sống lại, và những điều các tông đồ đã làm chứng nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh vẫn còn đang hiện diện ngay trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Hãy tìm kiếm và để Ngài biến đổi nỗi sợ hãi và ngờ vực của chúng ta trở thành vui mừng và ngỡ ngàng!

------------------------------

 

PS3 B-179: HÃY SÁM HỐI


Micae Bùi Phúc Hòa

 

Trong một lần nói về ơn Đại xá năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ rằng: “Cha kêu mời PS3 B-179


tất cả mọi người hãy sám hối, nhất là những ai đang sống xa ân sủng của Chúa, hoặc đang là thành viên trong các băng nhóm tội phạm. Vì lợi ích của chính mình, hãy thay đổi. Nhân danh Chúa Kitô, cha kêu mời chúng con hãy chiến đấu chống lại tội lỗi và đừng bao giờ từ chối một người tội lỗi nào có ý muốn trở lại. Hãy nhớ rằng tiền bạc không đem lại hạnh phúc thật sự và chúng ta cũng không thể mang theo một khi chết rồi. Đây là thời gian để thay đổi, hãy mở rộng cõi lòng để con tim đón nhận sự tha thứ của Chúa”. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha không loại trừ một ai, tất cả chúng ta được kêu mời sám hối và thay đổi con người của mình. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống tinh thần cần phải thường xuyên được nuôi dưỡng bởi việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể và lắng nghe Lời Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô phục sinh đã hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau. Hôm đó là ngày thứ ba sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá. Có hai môn đệ chán nản bỏ về làng cũ. Các môn đệ đang hoảng loạn vì không tin vào những gì đã xảy ra. Một không khí buồn bã bao trùm khắp mọi nơi. Giữa lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các ông, Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh cho các ông hiểu rằng Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Khi nhận ra Chúa Giêsu, hai môn đệ đang từ tâm trạng thất vọng trở nên tràn trề hy vọng, đón nhận một sức sống mới từ Đức Kitô Phục Sinh và hăng say ra đi loan báo Tin Mừng.

Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh được truyền cho mọi người kể từ ngày đó, và niềm tin ấy cũng truyền đến cho mỗi người chúng ta. Mỗi khi thất bại, chúng ta cũng buồn. Khi nghĩ về tương lai mờ mịt, chúng ta hoảng sợ. Nhưng có Chúa Giêsu bên cạnh thì mọi nỗi ưu phiền tang biến hết và được thay bằng sự hy vọng. Trích sách công vụ tông đồ đã cho chúng ta một giải pháp rất rõ ràng: Anh em đã hành động mà không hiểu biết mình đang làm gì. Anh em hãy sám hối, trở lại cùng Thiên Chúa để Người xó bỏ tội lỗi của anh em.

Các tông đồ xưa thật đáng trách vì đã có những  lúc bỏ rơi Chúa, thậm chí còn không nhận ra Người đang đi cùng đường. Nhưng nhìn kỹ lại, chúng ta cũng chẳng hơn gì khi Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta hàng ngày mà chúng ta cũng chẳng nhận ra Người. Thật không dễ chút nào để nhận ra Chúa Giêsu trong hình ảnh tha nhân, trong những người nghèo đói, trong những người bé nhỏ…Làm sao tránh khỏi những lúc chúng ta nghi ngờ Chúa khi cái xấu vẫn xảy ra hàng ngày, vận đen luôn đeo đuổi bên mình, nhất là những lúc bị bắt bớ vô cớ vì danh Chúa. Tâm trạng đó cũng đã xảy đến với các môn đệ ngay sau khi Chúa chịu đóng đinh, nhưng khi nhận ra Chúa Phục Sinh, họ đã can đảm ra đi làm chứng cho Người.

Chúng ta cũng hãy can đảm như các môn đệ của Chúa, hãy tin vào Ngài và hãy bước theo Ngài. Thánh Gioan Tông Đồ trong thư thứ nhất đã khẳng định: chúng ta biết Thiên Chúa khi chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.

Ước gì ánh sáng đức tin luôn mạnh mẽ trong mỗi người chúng ta, để nhờ đó chúng ta trở thành những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương và không quên truyền rao Lời Chúa cho mọi người.

------------------------------

 

PS3 B-180: TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT


Lm. GB. Trần Văn Hào

 

Có một phụ nữ cõng đứa con trai 12 tháng tuổi vào rừng kiếm củi. Bà đặt đứa bé dưới một gốc PS3 B-180


Có một phụ nữ cõng đứa con trai 12 tháng tuổi vào rừng kiếm củi. Bà đặt đứa bé dưới một gốc cây và một mình tiến vào rừng sâu. Bỗng những tiếng hú kinh hoàng của một bầy chó sói vang lên. Người phụ nữ vội vàng trở ra để tìm đứa con nhưng đã quá muộn. Bầy chó sói đã mang đứa bé đi thật xa. Những ngày sau đó, người mẹ đau khổ đi tìm kiếm đứa con, nhưng bà hoàn toàn tuyệt vọng. Cuối cùng, người mẹ đó đã chết trong đau khổ tột cùng. Mười hai năm sau, đứa bé lớn lên giữa bầy chó sói, và nó sống giống hệt một con thú hoang. Thay cho ngôn ngữ loài người, thằng bé chỉ biết rống lên những tiếng hú ai oán làm xé lòng người. Một bữa kia, một nhóm thợ săn đã giăng bẫy và bắt được đứa bé. Một chị vú nuôi được cắt đặt để cho thằng bé ăn và dạy nó nói, nhưng nó chỉ liếm láp và vẫn cất lên những tiếng hú nghe rất não nuột. Một bữa nọ, thằng bé tìm cách chạy trốn để trở về với bầy sói, nhưng bầy sói đã đi thật xa. Vài ngày sau, vì quá đói đứa bé tìm đường trở về làng. Bà vú nuôi nhẹ nhàng đứng bên cạnh nó, vuốt ve nó cách trìu mến. Chú bé người sói đứng yên bất động. Nó khẽ cầm đôi bàn tay của người vú nuôi và đưa lên áp sát vào ngực. Những giọt nước mắt từ từ lăn dài trên cả hai khuôn mặt. Đó là cuộc hội ngộ và gặp gỡ giữa 2 trái tim của 2 con người, một phụ nữ và một đứa bé người sói. Sức mạnh của tình yêu đã tạo nên một luồng điện cao thế diễn bày sự đồng cảm. Tình yêu chính là tần số mạnh nhất để đem con người đến với nhau, cho dù con người đó đã một thời trở thành sói dữ.

Cũng vậy, cuộc hội ngộ của Chúa Giêsu và các môn đệ mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại cũng chính là cuộc hội ngộ trong tình yêu. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã thắng vượt sợ hãi. Trong tình yêu, các môn đệ đã nhận ra Đức Giêsu, Đấng Phục sinh đang ở bên cạnh và thoát vượt bóng tối u ám đang phủ ngập tâm hồn mình.

Tình yêu mạnh hơn sự chết

Đây là sự xác tín mà thánh Phaolô đã khẳng quyết trong thơ gửi giáo đoàn Rôma (Rm 8, 31-39). Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách tròn đầy qua cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu. Chính tình yêu đã thắng vượt cái chết và ánh sáng Phục sinh là dấu chỉ cuộc vinh thắng nơi tình yêu Thiên Chúa. Cái chết là một bóng tối khủng khiếp bao trùm lên phận người, khiến chúng ta luôn chìm nhập trong nỗi khiếp sợ. Con người chúng ta ai cũng run sợ khi đối diện trước cái chết. Cũng vậy, khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu cũng đã rơi lệ cầu xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7). Khi đối diện trước cái chết của Đức Giêsu, các môn đệ cũng thất vọng và tinh thần suy sụp hoàn toàn. Sự sợ hãi dâng cao tột độ. Thánh Luca thuật lại rằng, các ông kinh hồn bạt vía vì tưởng thấy ma (Lc 24, 27). Bóng ma luôn ám ảnh và đeo bám nơi các học trò của Đức Giêsu. Tâm hồn của các ông trở nên bất an và hoang mang tột cùng. Vì thế, khi Đức Giêsu Phục sinh xuất hiện, động thái đầu tiên Chúa thực hiện là trao ban bình an cho các học trò yêudấu. Ngài cất đi bóng ma dầy đặc đang phủ kín tâm hồn các ông. Sau đó, từ tâm trạng sợ hãi, các tông đồ đã trở nên can trường. Từ sự tuyệt vọng, tâm hồn các ông đã tràn ngập niềm vui và hy vọng (c. 41).

Cuộc hội ngộ giúp biến đổi

Trong Tin mừng Gioan, thánh ký đã liên kết các sự kiện thành một chuỗi mầu nhiệm duy nhất, gồm việc Sống lại, thổi hơi ban Thánh thần để khai sinh Giáo hội và Lên trời để đi vào trong vinh quang với Chúa Cha. Trong góc nhìn thần học ấy, chúng ta thấy được chiều kích linh thánh của mầu nhiệm Phục sinh nhằm khơi dậy niềm tin nơi các độc giả. Còn trong Tin mừng nhất lãm, nhất là trong trình thuật của thánh Luca mà bài Tin mừng hôm nay nói tới, thánh ký liên kết sự kiện Chúa Phục sinh với đời sống đức tin của Giáo hội sơ khai, mà chính Thánh Luca đã viết lại trong sách Tông đồ Công vụ. Trong bài đọc 1 hôm nay, thánh Luca, tác giả sách Công vụ Tông đồ, đã ghi lại bài giảng của thánh Phêrô, vị tông đồ trưởng. Sau khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh, các tông đồ đã hăng hái lên đường đi đến mọi ngõ ngách, từ thành phố đến thôn quê, từ hội đường Do Thái giáo đến các quảng trường công cộng để làm chứng về Đấng mà họ đã mục kích khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết. Thánh Phêrô nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Tình yêu ấy là động lực mời gọi chúng ta thực hành việc sám hối. Khi kết thúc bài giảng, thánh Phêrô đã nói : “ Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi của anh em” (Cv 3, 19). Khi bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu cũng công bố lời hiệu triệu : ‘Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng’. Tương tự như thế, sau khi đã hoàn tất cuộc hành trình vượt qua, Chúa Giêsu nhắc lại cho các môn đệ : “Có lời Kinh thánh chép rằng, Đấng Kitô phải chịu đau khổ rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24, 45). Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca nhắc lại giáo huấn trên của Đức Giêsu như một tiêu chí căn bản, giúp chúng ta diễn bày đức tin và tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa.

Sống ơn gọi tình yêu

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các môn đệ là cuộc gặp gỡ trong tình yêu. Tình yêu là tâm điểm của mầu nhiệm Phục sinh mà thánh Phêrô đã lớn tiếng rao giảng ngoài công trường. Cũng trong triền tư tưởng đó, trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Gioan tông đồ cũng khuyến mời chúng ta cách thức sống ơn gọi tình yêu. Ngài viết : “Những ai tuân giữ những lời dạy bảo của Đức Giêsu, nơi người ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thực sự trở nên trọn hảo (1 Ga 2,5). Tình yêu là tên gọi và cũng là thuộc tính của Thiên Chúa, đồng thời tình yêu cũng là thẻ căn cước để chứng minh chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu.

Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử, bởi lẽ tình yêu mạnh hơn sự chết. Trong những tuần lễ sau Phục sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta đi sâu hơn vào quỹ đạo tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã chọn Chúa Nhật ngay sau lễ Phục sinh để tôn vinh Lòng Thương xót Chúa. Như Ngài đã từng cắt nghiã, lòng thương xót là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, và dưới một khiá cạnh nào đó, lòng thương xót cũng chính là cách thức bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa một cách tròn đầy.

Kết luận

Thánh Augustinô đã nói : “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis). Trong tình yêu, chúng ta sẽ trở nên bất tử, bởi vì tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu sẽ giúp biến đổi con người chúng ta, cho dù chúng ta đầy tội lỗi hay vướng mắc nhiều yếu đuối. Bởi vì tình yêu Thiên Chúa có thể lấp che mọi hố sâu tội lỗi nơi tâm hồn con người. Tình yêu của Ngài như một luồng sáng, hắt dọi vào những bóng tối phủ kín cuộc sống nhân sinh, giúp chúng ta thắng vượt những sợ hãi và tuyệt vọng. Xin Chúa giúp chúng ta biết thể hiện niềm tin nơi tình yêu của Ngài.

------------------------------

 

PS3 B-181: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

 

Tin mừng Chúa nhật III Phục Sinh tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra lần thứ ba với các tông PS3 B-181


Tin mừng Chúa nhật III Phục Sinh tường thuật việc Chúa Giêsu hiện ra lần thứ ba với các tông đồ tại nhà tiệc ly. Lần này Chúa Giêsu chứng minh cho các ông thấy Ngài đã Phục sinh từ cõi chết để củng cố niềm tin phục sinh và truyền cho các ông phải làm chứng nhân Tin mừng Phục sinh cho mọi người, hầu nhân loại được hưởng ơn cứu độ: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”.

Để củng cố niềm tin cho các tông đồ về việc phục sinh của mình. Đức Giêsu đã đưa ra những bằng chứng xác thực và cụ thể sau đây:

– “Hãy sờ mà xem, ma đâu có xương thịt”. Chúa Giêsu đưa ra những bằng chứng có tính khả giác. Những thương tích, dấu đinh nơi tay chân, dấu lưỡi đòng đâm nơi cạnh sườn… để minh chứng Ngài vẫn đang sống. Con người của Người trước khi chịu chết và sau khi phục sinh là một. Ngài đã từ cõi chết sống lại thật chứ không phải là ma đâu mà sợ.

“Chính Thầy đây. Hãy sờ mà xem, ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”.

– “Người ăn trước mặt các ông”. Người sống mới ăn, người chết thì không ăn nữa. Chúa Giêsu minh chứng Người đang sống qua hành vi ăn, một hành động cần thiết của thân xác, để chứng tỏ sự sống sau khi Ngài đã phục sinh.

– Đức Giêsu nhắc lại những điều Ngài đã nói với các tông đồ khi xưa: ‘Con Người sẽ bị giết chết, ngày thứ ba sẽ sống lại”. Những lời này phải được ứng nghiệm để nói lên tính cách xác thực về việc Người đã phục sinh:“Cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy, trong luật Môsê, trong sách các tiên tri và thánh vịnh”.

– Sau cùng Chúa Giêsu đã giải thích kinh thánh cho các ông, giúp các ông hiểu về biến cố Chúa phục sinh: “Người chịu đau khổ, chịu chết và sống lại như lời thánh kinh”. Cũng như hai môn đệ đi trên đường về Emmaus, nhận ra Chúa phục sinh khi Người dẫn giải thánh kinh và khi bẻ bánh. “Lời Chúa và bí tích Thánh Thể” giúp chúng ta xác tín, tin nhận Đức Giêsu đã phục sinh. Chính Đức Giêsu phục sinh hiện diện trong Lời của Ngài và trong bí tích Thánh Thể một cách sống động và thật sự.

Qua bài Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu đưa ra nhiều bằng chứng cụ thể để cho thấy “Người đã sống lại thật” “Ngài đang sống” để củng cố niềm tin của người Kitô hữu hôm nay, và để qua các tông đồ, Chúa trao cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta sứ mạng loan báo Tin mừng Phục sinh cho mọi người: “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về các điều ấy”.

Như thế, sự phục sinh của Đức Kitô là nền tảng cho việc tông đồ, việc loan báo Tin mừng cho muôn dân. “Hãy đi loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đó là những lời cuối cùng của Đức Giêsu phục sinh nói với các tông đồ, trước khi Người lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.

    – Lời Chúa và bí tích Thánh Thể là nguồn sống, nguồn sức mạnh giúp người Kitô hữu tin tưởng mạnh mẽ vào Đức Giêsu Kitô phục sinh như hai môn đệ Emmaus đã hăng say ra đi loan báo Tin mừng phục sinh cho anh em. Cần phải yêu mến Lời Chúa và gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể“Không biế kinh thánh, không biết Chúa Kitô”.

– Niềm tin vào Đức Giêsu Kitô phục sinh phải xây dựng và phát triển trên căn bản: yêu mến, học hỏi, suy niệm lời Chúa… để Chúa mở lòng trí cho chúng ta hiểu được thánh ý của Ngài mặc khải trong thánh kinh.

– Sự phục sinh của Chúa Giêsu là một tin vui: Con người sẽ được sống lại nếu biết cùng chết với Đức Kitô, nghĩa là thực sự sống trong ơn nghĩa của Chúa; tương quan tốt với Chúa và tha nhân.

Nguyện xin Đức Giêsu phục sinh luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta và đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trần thế hôm nay.

------------------------------

 

PS3 B-182: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH.


Lm Giuse Đinh Tất Quý
I. SỰ KIỆN

 

Sự kiện ngôi mộ trống sẽ thật khó mà giải thích nếu không chấp nhận việc Chúa đã sống lại và PS3 B-182


Sự kiện ngôi mộ trống sẽ thật khó mà giải thích nếu không chấp nhận việc Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ. Thế nhưng đó chẳng qua cũng chỉ mới là một bằng chứng tiêu cực.

Thêm vào đó là việc Chúa Giêsu xuất hiện rõ ràng cho hai môn đệ trên đường Emmau cũng thế. Những bằng chứng này quả cũng vẫn chưa đủ. Có thể có người sẽ cho rằng sự kiện ấy chỉ là một dị tượng, một bóng ma hoặc bóng dáng của một vị thần nào đó.

Chính vì thế mà hôm nay khi kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một tông đồ lúc đêm xuống, Luca đã cố ý nhấn mạnh vào việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Người.

Vâng Chúa đã hiện ra cho các môn đệ với một thân thể vật chất còn in những dấu đinh độc ác, một thân thể có thể ăn được, một thân thể có thể đụng vào và cảm nhận được.

Hơn nữa Người còn trang nghiêm tuyên bố rằng Người không phải là thần linh không có thể xác. Người còn chỉ cho họ thấy những vết thương ở tay và chân và Người quả quyết với họ rằng thần linh thì chẳng có xương thịt như họ thấy Người đang có.

Rồi cuối cùng để đánh tan mối nghi ngờ hãy còn sót lại, Người cầm lấy một miếng cá nướng và ăn trước mặt các môn đệ. Có lẽ chẳng còn hình thức nào có thể minh chứng về Người mà Người đã không sử dụng để làm cho các môn đệ tin và từ niềm tin đó Ngài biến họ thành những nhân chứng cho Người sau đó.

Tóm lại, qua những lần Chúa Giêsu hiện ra và biến đi sau khi Người sống lại từ cõi chết chúng ta có thể coi đó như là những phép lạ chẳng khác gì những phép lạ Người làm lúc còn sống với các môn đệ trong cuộc đời công khai của Người vậy.

II. BÀI HỌC.

Chúng ta có thể rút ra được bài học nào?.

1.      Niềm tin vào Sự Phục Sinh của Chúa.

Chúa Giêsu xuất hiện không như một bóng ma, hoặc là một ảo tưởng của tâm trí. Đây là một sự thật: Đấng đã chết nay sống lại. Kitô giáo không xây dựng trên nền tảng các giấc mơ của người hoại trí hay ảo ảnh của những người loạn thị. Kitô giáo xây dựng trên những sự kiện thực tế của lịch sử: Đức Giêsu một con người đã đối đầu và chiến thắng tử thần và để rồi cuối cùng đã phục sinh để trở thành Cứu Chúa cho muôn loài. 

Trước đây người ta có cho trình chiếu một cuốn phim. Cuốn phim mang tựa đề là “Thế giới trong tối tăm”. Nội dung câu chuyện nói về việc một nhà khảo cổ danh tiếng đã tổ chức một cuộc khai quật ở Giêrusalem và tìm được xác của Chúa Giêsu.

Vâng! Sau bao công khó đào bới, một ngày kia nhà khảo cổ đã dõng dạc tuyên bố:

– Tôi đã tìm ra được xác ông Giêsu.

Thế rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ qui tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày đào bới và khảo cứu vất vả.

Trong cuộc họp báo này, nhà khảo cổ đã trưng ra trước mắt mọi người một xác người đã khô đét nhưng còn có thể nhận ra là tay, chân của người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu.

Cuốn phim đang quay lại cảnh mọi người đang im lặng, chăm chú theo dõi lời thuyết trình của nhà khảo cổ về cái xác mà ông bảo là xác của ông Giêsu thì tình cờ có một phụ nữ đứng lên phát biểu lớn tiếng.

– Đây là một sự thật hiển nhiên rồi. Ông ta đã bị đóng đinh, đã chết và đã được mai táng.

Và nhà khảo cổ tiếp lời:

– Vâng đúng thế, bị đóng đinh, chết và được mai táng, và bây giờ chúng tôi khám phá ra xác của ông ấy đây, vì thế làm gì có chuyện ông ấy phục sinh?

Tiếp ngay sau đó cuốn phim cho thấy hậu quả của việc tìm ra xác ông Giêsu: đó là không còn chỗ nào và không còn ai mừng lễ Phục Sinh nữa. Những ngọn đèn chầu trong các nhà thờ tắt ngúm. Nhà thờ đóng cửa. Chuông nhà thờ im tiếng. Thánh giá trong các nhà thờ bị hạ xuống! Thế giới đắm chìm trong một màn đêm dày đặc. Thật là một cảnh kinh khủng!

Rồi sau đó điều gì sẽ xảy ra? Cuốn phim trình chiếu cận cảnh cảnh hấp hối của nhà khảo cổ. Và đây mới là điều đáng ghi nhớ: Trước khi trút hơi thở cuối cùng ông ta đã đau đớn thú nhận:

– Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm ra cái xác giả của ông Giêsu rồi bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước, trước khi khởi sự công việc đào bới tìm xác ông.

Sau lời tuyên bố đó của nhà khảo cổ, cuốn phim lại quay lại cảnh hàng ngàn người tuôn đến mộ thánh ở Giêrusalem như người ta thường thấy trong những dịp Tuần Thánh.

Những ngọn nến lại được thắp lên và những tín hữu, tay mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng để soi sáng cho những con đường đang chìm ngập trong bóng đen của hận thù, của chán nản thất vọng .

Chuông các nhà thờ lại đổ để báo tin Chúa Giêsu đã phục sinh để nói với mọi người rằng: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi, sự sống mạnh hơn sự chết.

Vâng! cuộc phục sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài, nhưng nó ảnh hưởng trực tiếp đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, lòng tin và niềm hy vọng của chúng ta nữa.

2.      Sứ mạng khẩn cấp loan báo Tin mừng.

Phải ra đi, kêu gọi mọi người ăn năn để tiếp nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Hội Thánh không thể ngồi yên tại phòng họp mãi mà phải ra đi. Phải lìa phòng họp mà nhận lấy sứ mạng của mình. Hãy để cho những ngày than vãn lùi vào quá khứ. Giờ đây, ta phải đem niềm vui mừng Phục sinh chia sẻ cho mọi người.

Hãy chứng tỏ cho thế giới biết về một Đức Giêsu hằng sống. Người đang hiện diện giữa cuộc sống của mọi người.

Có rất nhiều cách để làm chứng, nhưng cách hay nhất và hữu hiệu nhất vẫn là chính cuộc sống thánh thiện, đầy tình yêu thương của mỗi người.

Từ một chàng thanh niên không biết Chúa, sau khi bị trận mạc cướp đi hai cánh tay và hai con mắt, Jacques Lebreton thay vì thất vọng, hận đời, anh đã tìm về với Chúa. Sau đó anh lao đầu vào việc học để được hiểu biết Chúa nhiều hơn. Khi thấy hành trang đã tạm đủ, anh quyết lên đường để làm chứng.

Trong buổi lễ phong chức phó tế cho anh, Đức Giám Mục địa phận Beauvais đã nói: “Thầy Jacques nay cụt cả hai tay, nên sẽ không thể giúp lễ và rửa tội. Thầy Jacques nay mù cả hai con mắt, nên sẽ không thể đọc Sách Thánh được. Nhưng Thầy còn tiếng nói và với tiếng nói Thầy sẽ có thể rao giảng  niềm vui của cuộc sống”

Vâng quả thực Thầy đã làm cho mọi người phải ngỡ ngàng ngạc nhiên. Thầy đã giảng hơn kém 200 bài giảng mỗi năm. Ngoài thời giờ giảng về niềm vui của cuộc sống có Chúa, Thầy còn để hết tâm lực vào việc giúp đỡ những bệnh nhân, giúp họ cũng có được niềm vui như thầy.

Có lần người ta hỏi: “Nếu phải chọn một từ nào để rao giảng thì Thầy sẽ chọn từ nào.?

Thầy trả lời ngay, không một chút suy nghĩ: “Tình yêu” Rồi Thầy nói tiếp: “Tật bệnh nặng nhất chính là không còn yêu thương và không được yêu thương”

Một con người cụt cả hai tay, mù cả hai con mắt thế nhưng vẫn thấy cuộc đời của mình hạnh phúc và muốn chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Còn chúng ta, chẳng lẽ chúng ta lại không tìm được niềm vui nào với cuộc sống của một người tin Chúa hay sao!

Vâng chúng ta hãy đi làm chứng cho mọi người biết về một Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-183: EMMAU – ĐAMAS


Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Có thể nói đường đi Emmau có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô PS3 B-183


Có thể nói đường đi Emmau có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô hăng hái lên đường bắt bớ.Tiếc thương Đức Giêsu trên đường đi Emmau hay thù ghét Ngài trên đường đi Đamas, cả hai đều chỉ thấy Ngài trong cõi chết. Họ đều cần ơn “trở lại” để đổi mới cuộc đời.

Chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp họ trở lại bằng sự hiện diện đồng hành, bằng đòn quật ngã khỏi yên ngựa.

Dưới tác động của ân sủng, họ được biến đổi và trở nên chứng nhân loan báo Tin mừng Phục sinh.

1.      Hành trình Emmau:

Ai đã từng có một lần thất bại trong tình yêu hay trên đường sự nghiệp sẽ hiểu được tâm trạng buồn phiền chán nản, nặng trĩu ưu sầu của hai môn đệ trên đường Emmau. Mộng vàng tan bay, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu hy vọng bỗng dưng đổ vỡ tan tành. Những năm tháng theo Thầy đi rao giảng, họ luôn ôm ấp hoãi bảo lớn lao. Thầy sẽ lập quốc, đánh đuổi đế quốc La mã.Thầy sẽ là vua. Họ sẽ là các quan đại thần quyền thế. Khát vọng vinh quang trần thế này không đúng ý Chúa, nhưng là động lực thúc đẩy các môn đệ.

Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối họ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục.

Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Họ đã không nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh đang cùng đi với họ. Ưu tư duy nhất là ưu tư về chính mình. Thái độ ấy đã bịt mắt, đã che đi nguồn sáng nên họ đã không nhận ra sự hiện diện đầy thân tình của Đấng Phục Sinh.

Đức Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Ngài chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Ngài đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Ngài và chỉ có ý nghĩa vì Ngài. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của Đức Kitô “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi.

Trong quán trọ, họ nhận ra Ngài qua cử chỉ bẻ bánh. Mắt họ mở ra khi “Đức Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho họ”. Đó là cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly, một dấu ấn đã in sâu vào tâm hồn các môn đệ. Cảm nhận bừng cháy trong tâm hồn khi Đức Giêsu ngõ lời, nhưng Ngài đã biến đi. Hai ông đã phục hồi niềm tin, đã tìm lại được Chúa, Đấng Hằng sống trên đường đời của họ.Từ nay, Chúa ở với họ,tỏ ra cho họ qua những dấu chỉ niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm Phục sinh.

Con đường dẫn đưa những người lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về Giêrusalem lại hoá nên gần gũi thân quen, bởi vì Tin mừng đang cháy bỏng trong tim và trên môi của họ. Họ gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục sinh.

Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen.

Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các Ngài nữa vì Đấng Phục sinh đang cùng họ đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.

2.      Hành trình Đamas:

Trước khi trở lại, đối với Phaolô,Tin mừng về Đức Kitô quả là một chuyện vô lý nhất chưa từng nghe nói bao giờ. Giêsu đã sống lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống lại.

Nghe bài diễn văn của Simon-Phêrô, người dân chài rao truyền rằng:Giêsu Nazareth, người mà Thiên Chúa đã uỷ thác bằng các phép lạ tuyệt diệu, người mà các ông đã bắt và đã kết tội tử hình,đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài. Phải,Thiên Chúa đã cho cho sống lại…chúng tôi đã chứng kiến, tất cả chúng tôi đã là nhân chứng tại chỗ..

Saolô với tư cách là người có học, một biệt phái mộ đạo. Ông có thông biết thánh kinh bằng hay hơn kẻ chài lưới có bàn tay chai cứng ? Phêrô, Gioan đã nhân danh Đức Giêsu đặt tay lên người bệnh và người bệnh được khoẻ mạnh. Phêrô và Gioan đã bị nhốt trong ngục tối, cửa sắt khoá chặt, quân đội súng ống canh gác ngày đêm trước dãy tường kiên cố. Thế nhưng, Phêrô, Gioan đã được thả tự do bởi một bàn tay kỳ diệu. Người lạ gặp thấy hai ông đang lên tiếng to trong hành lang của đồn là Đức Giêsu đã sống lại, hai ông đã chứng thực về những phép lạ các ông cử hành nhân danh Thầy Chí Thánh.

Saolô không thể chấp nhận như thế mãi được, phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Nhận lệnh từ Giêrusalem, Saolô lên đường đi Đamas. Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, bụi tung mịt mù, trời nóng như thiêu đốt. Không quan trọng ! Saolô ra đi, điều cần thiết nhất là nhanh chóng bắt hết bọn tà đạo về Giêrusalem.

Và bỗng chốc, một luồng ánh sáng chói lọi bao phủ lấy Saolô làm ông ngã ngựa. Ông không còn thấy gì nữa. Ông nghe có tiếng gọi ông: “Saun,Saun,sao ngươi lại bắt bớ Ta?”

Ông hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Tiếng nói lại âm vang: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại”( Cv 9,5). Saolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi ! Thê rồi ông chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ ngài là một, và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa,Chúa muốn con làm gì?”.Chúa truyền cho Saolô vào thành gặp Khanania. (Cv 9,5-8). Saolô đứng dậy, ông chớp mắt mà không thấy gì. Ông được đưa về Đamas. Sau ba ngày,có một người Dothái thuộc cộng đoàn mới đã đến gõ cửa và bảo: “Saolô,người anh em,hãy nhìn thấy lại”.Phép lạ đã xảy ra, Saolô lại thấy được. Saolô đã chịu phép rửa bởi tay Khanania. Ông cần thời gian để tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện.Thế là ông rời bỏ Đamas để sang vùng Ảrập sống trong thanh vắng. Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị ba năm (Gal 1,17). Ba năm trời ông nghiền ngẫm thánh kinh, đối chiếu trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin mừng. Ba năm trời đã cho ông tâm tình của Chúa Kitô,đã đồng hoá ông với Đức Kitô đến nổi ông phải tuyên bố: “Không phải tôi sống,nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi” ( Col 2,20).

Kể từ lúc sáng mắt, Saolô đã hoàn toàn đổi mới. Ông nhiệt thành loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”( 1Cor 5,14). Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã ra đi khắp chân trời góc biển rao giảng Tin mừng và trở nên vị tông đồ dân ngoại lừng danh. Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”( Gal 2,20).

Hành trình Đamas đã làm thay đổi cuộc đời Phaolô. Sống và chết cho Đức Kitô trong tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân,bắt bớ, đói khát,trần truồng, nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta “(Rm 8,35-39).

Đọc lại hành trình Emmau, hành trình Đamas để nhận thấy người Kitô hữu chỉ bắt đầu là Kitô hữu thực sự khi khởi đi từ niềm tin Chúa Kitô sống lại.

Trong hành trình theo Chúa, người tín hữu có lúc phải đối diện với vô vàn khó khăn phức tạp của đời sống muôn mặt. Có những thất bại, có những chống đối làm choáng váng, ngỡ ngàng hoang mang vì Đức Giêsu như không còn hiện diện và can thiệp. Ngài dường như bỏ mặc cho thế gian hoành hành.

Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.

Hãy biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như hai môn đệ Emmau. Hãy biết nhận ra Ngài qua từng biến cố đau đớn như Phaolô té ngựa trên đường Đamas.

Với tất cả niềm tin và lòng yêu mến, nhất định người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân của niềm hy vọng, chứng nhân của sự sống, chứng nhân của niềm vui.

------------------------------

 

PS3 B-184: CÙNG THẦY TIẾN BƯỚC


Lm. Jos. DĐH.

 

Sòng phẳng, tiền trao cháo múc, cách hành xử như thế có phải đa phần thuộc về những ai chỉ PS3 B-184


Sòng phẳng, tiền trao cháo múc, cách hành xử như thế có phải đa phần thuộc về những ai chỉ chuyên sống bằng lý mà không sống bằng tình ? Phải chăng bậc làm cha mẹ mới nói: con dù khôn lớn cũng là con của cha mẹ, con dù vụng dại cũng là con của mẹ cha. Có hay không, tình yêu tính toán là thứ tình yêu bất thường: khi yêu nói nhớ nói thương, hết yêu, thương nhớ bay theo cùng người. Suy nghĩ về tình đời, tình đôi lứa, tình mẹ cha, có thể nhiều người sẽ nói rằng: tình chỉ đẹp khi còn dang dở, tình chỉ tồn tại, khi biết chấp nhận tâm tính tương đối của nhau ? Trọng tâm của đức tin Kitô giáo mời gọi chúng ta cùng bước theo Thầy Giêsu, có thao thức, có tin yêu, có lắng nghe, mới có cơ hội hiểu đâu là tình đẹp đâu là tình bền vững.

Đức Giêsu gọi chọn số học trò hầu hết họ là những người tầm thường: chài lưới, thu thuế, nóng tính, ham hố bổng lộc chức vị. Các ông theo Thầy Giêsu, nhưng cũng chẳng khác gì những kẻ không có lập trường: khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai ! Dù sao chúng ta cũng đọc được nơi các ông sự chân thật, đầy nhiệt huyết, không hề quanh co che đậy những khuyết điểm xấu xa tội lỗi của mình. Chúng ta cũng đọc thấy nơi những con người bất toàn ấy, họ toan tính từ giã, chia tay nhau về quê làm ăn, mạnh ai nấy sống, dù tâm tư của các ông còn đầy ký ức đẹp về Thầy Giêsu. Nếu như người ta có thể khích lệ nhau: còn nước còn tát, hoàn cảnh các tông đồ lúc đó thật bi đát, có gì để mà tát ? chỉ còn chờ tình yêu và phép mầu của Chúa mà thôi.

Làm sao những người học trò hết sức giới hạn năm xưa hiểu được, theo Thầy Giêsu phải trải qua những ngày tháng huấn luyện, phải biết mình là ai, nếu là môn đệ của Thầy Giêsu, cần được yêu thương và được biến đổi từng ngày. Nhiều người hôm nay vẫn chưa hết thắc mắc, tại sao các môn đệ, họ là những học trò sống sát gần với Thầy, vậy mà mỗi lần Chúa phục sinh hiện đến, các ông đều giật mình hoảng hốt hoặc tưởng là gặp ma ! Cuộc đời theo Thầy Giêsu làm môn đệ, theo Đấng phục sinh nói chung, đừng nghi ngờ, ai cũng cần được Ngài hiện diện biến đổi, được tăng cường bồi bổ tình yêu và lòng mến.

Người Việt chúng ta có câu thành ngữ: vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm, ý nói đến những người con mới lớn, chúng nghịch phá, mỗi khi người lớn vắng nhà. Đấng phục sinh hiện diện, hẳn Ngài cũng muốn thấy các học trò “quậy phá” trong giai đoạn các ông là người trưởng thành đức tin, là hãy mang tình yêu thương của Chúa sống lại đến với muôn dân thiên hạ. Để trưởng thành, những người học trò phải được lơn lên về mọi mặt, các ông có vấp váp, đã từng xấu hổ đến độ được gặp Thầy, mà các ông tưởng nghĩ gặp ma. Thầy cho các trò xem thương tích của cuộc khổ nạn, ăn uống thân tình trước mặt các trò, Thầy mở trí cho các ông hiểu kinh thánh, và nhắc nhớ các trò ấy hãy tiến bước, hãy làm chứng về những điều các trò đã lĩnh hội.

Thông thường, chúng ta vẫn quan niệm người trưởng thành là người được trau dồi kiến thức, được lớn mạnh lên nhờ ăn uống bồi bổ dĩnh dưỡng hợp lý, đúng chuẩn. Chúa phục sinh nuôi dưỡng các học trò của Ngài bằng tình yêu thương, bổ sức cho các học trò bằng tình yêu Thánh Thần, cùng tiến bước với các học trò bằng sự hiện diện như Ngài từng nói: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nhờ tình yêu thương và ơn biến đổi, những học trò nhút nhát ấy đã biết nhận ra Thầy sống lại bằng mắt đức tin, cảm nhận sự hiện diện của Đấng phục sinh là ơn bình an, là những phép lạ đi cùng các ông. Cuộc đời người kitô hữu là cuộc đời theo Thầy Giêsu vừa học hỏi, vừa sống niềm tin, nếu có cùng Thầy chiến đấu, cũng sẽ đủ sức mạnh chiến thắng sự chết như Đấng đã sống lại vì yêu thương.

Thứ vũ khí hữu hiệu nhất của người đi trong đêm tối là cây “đèn pin” ; khả năng hiểu biết, sự giầu có và quyền lực ở đời, vẫn là chỗ dựa để người ta sống một cách an toàn. Trên hành trình làm người tốt hôm nay, ai cũng nói đó là nhờ tấm lòng quảng đại bao dung, biết sống yêu thương nhau. Đấng phục sinh sẽ còn nói mãi: tình yêu, ơn bình an, là ơn soi sáng cho những ai có lòng khao khát làm công dân của Nước Trời, tất cả sẽ ở trong tình hiệp thông duy nhất là TIN và sống NIỀM TIN nơi Đấng phục sinh. Có tin Chúa phục sinh, có gặp Đấng sống lại, sẽ có cơ hội được biến đổi, được những ơn cần thiết, dù chúng ta có xét thấy mình còn thiếu sót tội lỗi, Chúa phục sinh vẫn hằng yêu thương tha thứ, phục hồi ơn làm nghĩa tử cho chúng ta.

Lý luận ở đời vẫn cho rằng, người mạo hiểm là người dám sống theo câu châm ngôn: được ăn cả ngã về không, hoặc sống vinh hơn chết nhục. Trong khi đó, những người lười biếng, thiếu lập trường sống,  những người chưa thành công, lại dễ tự ti vì thiếu tài, thiếu đức, không được cố nhân phù hộ. Đấng phục sinh luôn tha thiết mong chúng ta hôm nay hãy TIN, hãy cùng Thầy tiến bước trên hành trình người môn đệ, đừng cậy dựa vào sức mạnh thế gian, hãy sống tình hiệp thông và chúng ta sẽ gặp được tình yêu của Thánh Thần. Xin tình yêu của Đấng phục sinh tiếp tục hiện diện và đỡ nâng tất cả những ai đang thao thức theo Thầy Giêsu làm học trò, làm thần dân của Nước Trời. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-185: CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN


Lm. Giuse Nguyễn Bá Trung

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

 

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với nhiều người, ở nhiều nơi, có khi cùng một PS3 B-185


Sau khi sống lại, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với nhiều người, ở nhiều nơi, có khi cùng một lúc. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh trước hết là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, rằng Ngài đã sống lại thực sự. Kế đến là sự bình an đích thực trong tâm hồn cho những kẻ tin vào Ngài, vì từ đây họ không còn sợ gì nữa. Và sau cùng là sứ mạng phải loan báo tin mừng Phục Sinh cho mọi người:“Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24, 48).

Những lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh đem lại niềm vui lớn lao và củng cố đức tin cho các Tông Đồ. Thật vậy, với cái chết của Thầy Giêsu, cánh cửa tương lai của các Tông Đồ như bị đóng lại. Trước mắt các ông chỉ còn là một màu đen tối, u buồn, sợ hãi lẫn thất vọng. Có nhiều người trong họ đã buông xuôi và tính đến việc bỏ về quê như hai môn đệ trên đường Emmaus, có người bỏ đi một nơi nào đó như Tôma. Các Tông Đồ khi đi theo Chúa, họ đã đặt biết bao hy vọng và niềm tin vào Thầy mình, giờ đây họ như bị bế tắc.

Đang lúc các ông rơi vào tình trạng chán nản, thất vọng như thế, chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã nhiều lần xuất hiện một cách bất ngờ.

Chúa Giêsu không báo trước cho các Tông Đồ trong những lần Ngài hiện ra. Vì thế, trong lúc các ông đang ở trong phòng đóng kín, Ngài đã xuất hiện bất ngờ, khiến các Tông Đồ sợ hãi và hoang mang (Ga 20, 19). Chúa Giêsu Phục Sinh cũng bất ngờ hiện ra ở Biển Hồ Tibêria vào lúc trời mờ sáng, giữa lúc các Tông Đồ đang đánh cá và họ đã không nhận ra Ngài (Ga 21, 1-14). Chúa Giêsu Phục Sinh cũng hiện ra với Maria Mađalêna một cách bất ngờ khiến bà không nhận ra Ngài, nhưng tưởng là người làm vườn (Ga 20, 15). Chúa Giêsu Phục Sinh cũng bất ngờ xuất hiện bên cạnh hai môn đệ làng Emmaus, khiến hai ông không nhận ra Chúa (Lc 24, 12-35). Và đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đột ngột xuất hiện giữa các Tông Đồ, khiến các ông hoảng sợ tưởng là ma hiện hình (Lc 24, 37).

Những lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta thấy Chúa hiện ra không phải trong cảnh huy hoàng sáng láng, với dung mạo một Thiên Chúa đầy vinh quang. Nhưng Ngài xuất hiện trong vóc dáng của một con người tầm thường khiêm tốn : như một khách bộ hành, như một bác làm vườn, hay như một ngư phủ…

Ngài hiện ra với những vết thương nơi thân xác, Ngài ăn uống bình thường trước mặt các Tông Đồ. Ngài tỏ ra những cử chỉ thân thương đối với các Tông Đồ : cho các ông chạm vào người, bẻ bánh trước mặt các ông, hoặc dọn bữa cho các ông trên bờ biển…

Chính vì Chúa Giêsu Phục Sinh thường xuất hiện bất ngờ với những điều bình thường như thế nên những đôi mắt đức tin còn mờ tối của các Tông Đồ sẽ khó mà nhận ra Ngài.

Thế nhưng, sau khi đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh, các Tông Đồ đã được hoàn toàn đổi mới. Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các Tông Đồ ba món quà quý giá trong những lần hội ngộ đầy thân thương ấy. Ba món quà đó là: Bình an: “Bình an cho các con ! Này Thầy đây, đừng sợ!” (Lc 24,36). Ánh sáng “Ngài đã mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45). Sức mạnh: các Tông Đồ nhận lãnh sức mạnh từ Chúa, họ đã can đảm mở tung cánh cửa của sự hèn nhát và sợ hãi để lên đường đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Đó chính là điều mà Chúa đã tín nhiệm trao cho các Tông Đồ như một sứ mạng:“Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24, 48).

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Ngày nay, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn hằng hiện diện với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta, Ngài đến trong những khoảnh khắc bất ngờ trong cuộc sống, Ngài đến trong những cái tầm thường và thấp hèn nhất của đời ta. Ngài đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng:

– Ngài đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh thật sự là chi thể của Ngài ( ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17);

– Ngài tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài (Mt 25, 40).

Ngoài ra, Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ngày cũng ban cho chúng ta ơn bình an qua thánh lễ, qua việc lãnh nhận các bí tích, qua đời sống cầu nguyện. Mỗi khi chúng ta đến với Chúa, mở tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa, Chúa cũng sẽ giúp chúng ta thấu hiểu Lời Ngài. Và Chúa còn ban cho chúng ta sức mạnh khi chúng ta biết chạy đến với Chúa và nương tựa vào Chúa để qua đó Chúa mời gọi chúng ta noi gương các Tông Đồ làm chứng nhân cho Tin Mừng Phục Sinh của Chúa.

Theo lịch Công giáo của Giáo Phận Qui Nhơn, Giáo huấn số 20 của Chúa Nhật 3 Phục Sinh có mời gọi chúng ta: Năm thánh của Giáo phận là dịp thuận tiện nhất để mọi người cùng nhắc nhở nhau, động viên nhau, nâng đỡ nhau cùng lên đường gặp gỡ thân mật với Đấng Phục Sinh và ra đi làm chứng cho Ngài, một sứ mệnh khẩn thiết của người kitô hữu trong thế giới hôm nay.

Trong cuộc điều tra để phong thánh cho cha Gioan Maria Vianney, tòa án phong thánh cho mời tất cả những ai đã từng tiếp xúc với cha Vianney đến để làm chứng cho ngài. Trong số các chứng nhân được mời đến, có một bác nhà quê chất phác nói một câu đơn sơ, vắn tắt nhưng đầy ý nghĩa: “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.

Thánh Gioan Maria Vianney đã chiếu tỏa dung mạo của Thiên Chúa qua đời sống thánh thiện và bác ái của mình. Vì thế, người ta đã nhìn thấy Thiên Chúa qua ngài. Vậy, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh chính là chúng ta phải sống thế nào để cho người khác luôn nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện trong con người và cuộc sống của chúng ta. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói: “Con người ngày nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy. Nếu họ có tin vào thầy dạy thì thầy dạy ấy đồng thời đã là những chứng nhân”.

Chớ gì, xin Chúa giúp chúng ta biết làm chứng cho Chúa bằng cách luôn nhận ra Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo hèn để sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ cho họ, thăm viếng những kẻ đau liệt, khoan dung tha thứ những kẻ xúc phạm đến mình, động viên những người đau buồn thất vọng… hầu chúng ta có thể chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. AMEN.

------------------------------

 

PS3 B-186: CHÚNG TA RAO GIẢNG ĐIỀU GÌ VỀ CHÚA KITÔ PHỤC SINH


Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Cv 3:13-15, 17-19;  1 Ga 2:1-5a;  Lc 24:35-48)

 

Mỗi lần hiện ra với các tông đồ và môn đệ, Chúa Giê-su Phục Sinh trước hết thuyết phục họ tin PS3 B-186


Mỗi lần hiện ra với các tông đồ và môn đệ, Chúa Giê-su Phục Sinh, trước hết thuyết phục họ tin rằng Người đã sống lại thật.  Tiếp đến Người trao cho họ sứ mệnh làm chứng Người đã sống lại và sứ mệnh đi rao giảng Tin Mừng cứu độ.  Bài đọc 1 kể lại việc tông đồ Phê-rô giảng bài giảng thứ hai về Chúa Giê-su là Đấng Thánh và Đấng Công Chính, đồng thời ngài kêu gọi người ta sám hối.  Trong bài đọc 2, thánh Gio-an đề cao vai trò của Chúa Giê-su là làm “trạng sư” cho chúng ta trước Thiên Chúa Cha.  Còn bài Tin Mừng thì thuật lại việc Chúa Giê-su mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, để họ tin những điều Kinh Thánh nói về Người đã được thể hiện.  Nhưng điều quan trọng nhất, đó là Chúa sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, tức là sự thống hối và ăn năn giúp người ta lãnh ơn tha tội.

          Trước hết chúng ta dừng lại ở bài Tin Mừng để cùng các môn đệ Chúa Phục Sinh đón mừng Người hiện đến.  Chúa tới bất ngờ khiến mọi người hoảng hốt tưởng mình thấy “ma”.  Sau lời chào bình an, Chúa Giê-su trấn an họ.  Chúa còn “đưa tay chân cho họ xem”, để chứng minh đây thực sự là Chúa, vì ma làm gì có xương có thịt.  Hơn thế, Chúa còn ăn mẩu cá nướng trước mặt họ nữa.  Chúa Giê-su muốn các môn đệ hoàn toàn tin là Người đã sống lại, không một chút nghi ngờ, nên Người đã làm tất cả những gì có thể để củng cố đức tin của họ.  Điều này là cần thiết, vì nếu họ hoàn toàn xác tín Chúa đã sống lại, thì họ mới có thể làm chứng nhân cho sự phục sinh của Người.  Tuy nhiên đó mới chỉ là làm chứng bằng những gì họ đã mắt thấy tai nghe.  Nhưng họ còn phải tin vào Người và sứ mệnh của Người, dựa trên tất cả những điều Kinh Thánh đã nói về Người.  Mấy thế kỷ sau, thánh Giê-rô-ni-mô, một học giả Kinh thánh, đã phát biểu một câu nói để đời:  “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô”.  Như thế, chúng ta mới hiểu được tại sao Chúa Giê-su đã “mở trí cho các môn đệ am hiểu Kinh Thánh”.  Bởi vì một khi đã biết Chúa Giê-su và tin vào Người, môn đệ mới có thể “nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân”.  Đúng vậy, Chúa Giê-su đã từng rao giảng sự thống hối để kêu gọi người ta trở lại làm con cái Thiên Chúa.  Giờ đây môn đệ Người cũng phải làm điều Người đã làm, tức là kêu gọi người ta tin vào Chúa Giê-su và hãy sám hối.

          Vị tông đồ đầu tiên đã thi hành sứ mệnh rao giảng sự thống hối, đó là thánh Phê-rô.  Sau phép lạ Phê-rô làm cho một người què từ khi lọt lòng mẹ được khỏi và đi lại bình thường, dân chúng kéo nhau tới đông đảo.  Nhân cơ hội này, ngài giảng bài giảng thứ hai về Chúa Giê-su.  Ngài nhắc đến cái chết của Chúa là do tội lỗi của họ, những kẻ đã gián tiếp giết Chúa Giê-su, hoặc tội lỗi của các thủ lãnh của họ là những kẻ đã trực tiếp giết Chúa.  Để kết luận, Phê-rô kêu gọi dân chúng:  “Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xóa bỏ”.

          Còn thánh Gio-an tông đồ, khi suy niệm về sứ vụ rao giảng ơn thống hối, ngài đã trình bày theo chiều hướng thần học.  Trước hết ngài nhắc nhở rằng hết thảy chúng ta đều là những kẻ phạm tội, nên đều cần đến Chúa Giê-su là vị trạng sư của chúng ta trước Thiên Chúa Cha.  Vì là Đấng Công Chính nên Chúa Giê-su giữ vai trò làm “trạng sư” để cầu bầu cho chúng ta là những kẻ đã được Người đền tội thay.  Tuy nhiên để thực sự được Chúa Giê-su, vị trạng sư có quyền thế trước tòa Chúa Cha, nhận làm “thân chủ” của Người, chúng ta phải “biết” Người, phải “giữ giới răn Người”.  “Biết” Chúa là có mối tương quan yêu mến Người, chứ không phải biết bằng trí khôn.  Thử hỏi có thân chủ nào dám cãi lời luật sư của mình trước tòa án không?  Trước tòa án thế gian, người ta đôi khi còn cãi lời luật sư, nhưng chắc chắn chúng ta không thể cãi lời trạng sư Giê-su của chúng ta được, như thánh Gio-an đã lý luận:  “Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý”.  Phải, Chúa Giê-su không thể bào chữa cho kẻ nói dối đâu!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Giáo Hội dành cho chúng ta bảy tuần lễ để đặc biệt suy niệm biến cố và ý nghĩa mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa.  Giờ đây ta đã bước vào tuần thứ ba rồi!  Ta hãy tự hỏi mình đã thực sự “biết” Chúa Giê-su như thánh Gio-an diễn tả chưa?  Nghĩa là tin vào Chúa và yêu mến Người, để thực hành sự thống hối và ăn năn, rồi sẵn sàng làm chứng rằng sở dĩ Chúa Ki-tô đã chịu chết và sống lại là để ta được lãnh ơn tha tội và được phục hồi danh phận làm con cái Thiên Chúa.  Như thế rao giảng Chúa Phục Sinh chính là rao giảng Tin Mừng cứu độ và ơn thống hối vậy!

------------------------------

 

PS3 B-187: CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN.


JM. Lam Thy

 

Trong cuộc đời nhiễu nhương, chuyện sợ ma cũng là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nói chung PS3 B-187


Trong cuộc đời nhiễu nhương, chuyện sợ ma cũng là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nói chung, con người ai cũng sợ ma quỷ, nhưng có dám tự nhận mình là “sợ ma” hay không thì… “hãy đợi đấy!” Ấy cũng bởi vì thực tế đã chứng minh những kẻ “yếu bóng vía” thường hay vỗ ngực xưng mình là “không sợ ma”; nhưng chỉ cần đối diện với thực tế (đi trong đêm tối nơi những phong cảnh âm u, hiu hắt), lại là những người “sợ ma năm-bờ-oăn”! Ngoài mặt thì không sợ ma, nhưng trong lòng thì bất cứ một cảnh giới, một hiện tượng nào cũng có thể là ma được cả. Câu tục ngữ Việt Nam “thần hồn nát thần tính” để chỉ những hạng người ấy quả thật không sai. Cũng giống như các Tông đồ thủa xưa khẳng định chắc nịch: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” nhưng khi thấy Thầy đi trên mặt biển (Mt 14, 25-33) hoặc hiện ra sau Phục Sinh, thì lại cho Thầy là “ma”. Bài Tin Mừng hôm nay (CN III.PS-B – Lc 24, 35-48) là một ví dụ:

Thánh sử Lu-ca trình thuật câu chuyện 2 môn đệ trên đường Em-mau sau khi được Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra, liền trở về Giê-ru-sa-lem gặp nhóm mười một và “thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”. Chính nhóm mười một cũng nói cho 2 môn đệ trên đường Em-mau biết: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. Ấy vậy mà “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma.” Thái độ đó đã khiến Người phải quở trách: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.”

Sự kiện Đức Giê-su Ki-tô bị bắt, chịu xét xử, bị kết án tử hình, chết treo thảm khốc trên thập giá, đã như một nỗi ám ảnh kinh hoàng tột đỉnh, khiến các môn đệ sợ hãi và tuyệt vọng. Không còn một tia hy vọng nào rọi vào tâm trí nữa. Tất cả là bóng tối và tảng đá liệm mồ Chúa đã trở nên như một tảng đá nặng nề khô cứng niêm kín tâm hồn họ. Nói cách khác, họ cho rằng Thầy đã chết thật vì chính tay họ đã chôn Thầy trong hang đá; vậy thì những hiện tượng khác lạ xảy ra đối với họ chỉ có thể là do ma quỷ gây ra; chớ Thầy đã chết thì làm sao Thầy còn đi đứng được?!! Cái hành trình đức tin của các Tông đồ tiên khởi kể ra cũng éo le và gian nan thật.

Sống liền bên, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ, nghe biết bao lời giáo huấn thánh thiện chân tình, nhất là được chứng kiến tận mắt rất nhiều phép lạ Thầy mình đã làm, vậy mà vẫn bán tin bán nghi, lúc thì tuyên xưng Thầy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, lúc thì coi Thầy là ma. Khi Thầy còn sinh tiền và chưa bước vào cuộc thương khó, thấy Thầy đi trên mặt biển mà coi là ma, thì còn có thể chấp nhận được, vì bản chất con người là thế. Nhưng đến lúc Chúa đã phục sinh và đã được những nhân chứng sống (bà Maria Mac-đa-la, 2 môn đệ trên dường Em-mau) báo trước, vậy mà khi được thực mục sở thị vẫn không tin, vẫn tưởng là thấy ma, kể cũng lạ thật! Lạ, nhưng không trái thường nghịch lý chút nào, vì đó chính là bản chất con người. Hoá cho nên cũng chẳng lạ khi thấy có một Tô-ma “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25).

Các Tông đồ tiên khởi còn như thế, huống hồ là những tin hữu sống sau các ngài tới 2000 năm. Các tín hữu ngày nay được mang tước hiệu Ki-tô hữu (“nhãn hiệu trình toà – marque déposée” đàng hoàng!) xem ra còn thê thảm hơn các môn đệ thủa xưa. Vẫn còn không ít người tin vào thần nhà thần bếp, thần cây đa cây đề, thần sông thần núi, thần sấm thần chớp, thần năm tuổi, thần hộ mệnh nọ kia… Và nếu có tin vào Đấng Ki-tô thì chỉ là tin trên môi trên miệng, chỉ cần sợ bóng sợ vía đã vội vàng “chối Thầy không chỉ ba lần mà có thể lên tới ba mươi lần ba” bằng cách cất bàn thờ vào một xó xỉnh nào đó để chưng hình lãnh tụ, khai vào lý lịch là không tôn giáo, theo đạo thờ ông bà v.v…và v.v… Chính vì thế, vấn đề thiết thân đặt ra luôn luôn và mãi mãi phải là củng cố đức tin, không thể khác hơn.

Thánh Tô-ma ngày xưa vẫn còn cơ may khi được chính Người mà mình không tin là đã sống lại, trưc tiếp phán dậy: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27). Đối với Ki-tô hữu ngày nay, không được như Thánh Tô-ma để thốt lên tự đáy lòng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28) và được chính Người mà mình tin phán bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Thật vậy, Ki-tô hữu ngày nay tuy không được “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin”, nhưng lại có nhiều cơ hội được chiêm ngưỡng những dấu chỉ thời đại, những phép lạ dưới nhiều hình thức chứng tỏ thật sự đã có một Đấng “không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi” đến độ hy sinh cả tính mạng để giúp họ được sạch. Ki-tô hữu ngày nay còn được thử thách, đối diện với những mưu ma chước quỷ thâm độc hơn, cọ xát với những cám dỗ mời mọc ma mãnh hơn các Tông đồ thủa xưa. Vì thế, nếu từ bỏ được tội lỗi, xa lánh được cám dỗ, vượt qua được thử thách – tức là ”thắng được chính mình, thắng được thế gian” – chắc chắn sẽ được “Phúc thay những người không thấy mà tin!”.

”Thắng được thế gian” ư? Nghe ra thì có vẻ là điều không tưởng, nhưng nghĩ cho kỹ, suy cho cùng thì đó chính là vượt qua được chính mình. Mình là thế nhân (người thế gian), vượt qua được chính mình tức là vượt qua, là chiến thắng được thế gian. Mà muốn được như thế thì điều kiện tiên quyết phải là làm sao hiểu cho thấu lý đạt tình mình hoàn toàn không phải là con cái thế gian, mà chính là con cái Thiên Chúa, Đấng là Cha Toàn Năng hằng hữu. Ấy cũng bởi “vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.” (1Ga 5, 4). Đó là điều tất yếu và cũng chính điều đó đã đưa chúng ta về với nguồn mạch đức tin: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” (1Ga 5, 5-6).

Nói về hành trình đức tin của các Tông đồ tiên khởi, thì nhân vật điển hình không ai khác hơn là thánh Phê-rô. Ngài làm nghề chài luới mà theo Chúa vì tin Chúa có thể  “làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 19). Theo Thầy, ở liền bên Thầy không rời nửa bước, vậy mà lúc thì tuyên xưng Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, khi thì lại tưởng Thầy là ma đi trên mặt biển. Vừa mới leo lẻo: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy. thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã… Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” (Mt 26, 33-35); vậy mà chỉ cần một đứa tớ gái nhà Cai-pha nói: “Bác này cũng đã ở với ông Giê-su người Na-da-rét đấy”; đã vội thề độc mà chối tới ba lần: “Tôi thề là không biết người ấy” (Mt 26, 71-74). Chỉ đến khi được chính Thần Khí Sự Thật chiếu tỏa trong ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh nhân mới thật sự vững lòng tin và nhờ thế ngài đã chữa cho 1 người què đi được và giảng cho dân chúng nghe bằng cách trưng dẫn tất cả những lời tiên tri căn bản trong Cựu Ước, để chứng minh cho mọi người có thể tin nhận “Chính Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại.” (Cv. 3, 13-15, 17-19).

Nhìn vào tấm gương chân thực của người đứng đầu Hội Thánh tiên khởi ấy, có thể kết luận: Hành trình đức tin của mỗi Ki-tô hữu – dù xưa hay nay – không phải là một lộ trình rộng thênh thang, trơn tru phẳng lặng; mà là một con đường hẹp, gồ ghề, khúc khuỷu, sỏi đá, gai góc, ấy là chưa kể còn biết bao nhiêu rắn độc, thú dữ rình mò. Nói cách cụ thể, hành trình đức tin luôn là một hành trình gian khổ, chứa đầy thử thách và chỉ khi nào vượt qua được thử thách mới tới được cùng đích (“Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì.” – Gc 1, 2-4). Và vì thế mới nói: Đức tin là ân sủng Thiên Chúa ban nhưng không cho con người và chính nhờ Đức Tin, con người mới đến được với Thiên Chúa hằng sống.

Vậy thì không lý gì khi niềm tin bị chao đảo vì những thử thách, người tín hữu lại không biết “cầu xin với lòng tin” (Gc 1, 5-7) để được chính suối nguồn Đức Tin là Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh thương ban Thần Khí Sự Thật, hầu củng cố niềm tin cho vững mạnh. Ấy cũng bởi vì chính “Thần Khí là chứng nhân” (”Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” – 1Ga 5, 6; “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.” – Ga 15, 26-27).

Tóm lại, Người Thầy chí thánh đã dạy rất rõ ràng: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24, 46-48). Vậy thì người Ki-tô hữu cần ý thức sứ vụ “Ngôn sứ + Tư tế + Vương giả” của mình bằng cách rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho những điều mình đã rao giảng. Rao giảng ở đây không nhất thiết phải đứng trên bục giảng (phần này chỉ dành riêng cho những người có năng khiếu hoặc đã được đào tạo: Giáo sĩ – Giáo lý viên); mà là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm hàng ngày.

Nói cụ thể là rao giảng Lời Chúa, loan báo Tin Mừng bằng chính cuộc sống chứng nhân của mình.  Ấy cũng bởi vì “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân.” (Thông điệp Loan báo Tin Mừng “Evangelii nuntiandi”, số 41). Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người, một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay những lập luận lý thuyết mà không có hành động minh họa (Lời nói không đi đôi với việc làm => Đức tin không có hành động => Đức tin chết – Gc 2, 17).

Ôi! Lạy Chúa! Con biết rõ rằng, với thân phận mỏng giòn và bất toàn, đức tin của con luôn bị chao đảo. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí Sự Thật – Thần Khí Chứng Nhân cho con, để con có đủ sáng suốt và nhất là dũng khí thi hành sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô phục sinh giữa đời thường. Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con! Con tin! Amen. Alleluia! Alleluia!

------------------------------

 

PS3 B-188: CANH TÂN


Lm Vũdình Tường

 

Canh tân theo tinh thần của Đức Kitô Phục Sinh chính là trung tâm điểm bài giảng của Thánh Phêrô PS3 B-188


Canh tân theo tinh thần của Đức Kitô Phục Sinh chính là trung tâm điểm bài giảng của Thánh Phêrô ghi lại trong Tông Đồ Công Vụ 3,13 tt.

Cuộc thương khó của Đức Kitô có thể chia thành ba giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn một là niềm hy vọng của toàn dân, xảy ra trước cuộc thương khó. Trên môi miệng mọi người ai cũng nói về phép lạ Đức Kitô thực hiện và người ta hy vọng được gặp Ngài để được cứu chữa. Giai đoạn hai pha trộn giữa ngạc nhiên lẫn thất vọng trong thái độ bàng hoàng, sợ hãi nơi dân chúng khi họ hay tin các nhà lãnh đạo Đền Thờ Giêrusalem, âm thầm, vội vàng kết án Đức Kitô ngay trong đêm họ bắt Ngài. Ngay đêm đó họ đã đưa ra bản án khắc nghiệt của hận thù. Hận thù, ghen tị của cả một tập đoàn lãnh đạo đổ lên đầu một cá nhân vô tội với bản án tử hình dã man, đóng đinh chờ cái chết chầm chậm đến trong nắng, khát, cô đơn, một mình trên đồi vắng. Đám đông khóc thầm, thương tiếc. Ai cũng cảm thấy mất mát nhưng bất lực trước bất công và bạo hành. Người ta cảm thấy bất lực đến độ không dám khóc lớn, hay lên tiếng than vãn vì thái độ hung hăng, tính bạo hành, cách hành xử vừa vô nhân đạo vừa tàn ác nơi nhà lãnh đạo ra lệnh cho đám hành hình thi hành. Mọi người đều uất ức nhưng làm gì được vì họ nắm binh quyền trong tay. Mọi người âm thầm, nhìn nhau, cắn răng chịu đựng vì hở môi đau khổ ập vào. Ai cũng biết, cũng nghe nói đến. Cả người xót thương, đau khổ lẫn kẻ hả hê vì đã thực hiện được dã tâm muốn thực hiện. Điều này thể hiện rõ ràng khi Clêo nói với người lạ ông gặp trên đường:

Có lẽ ông là cư dân duy nhất không biết việc vô cùng dã man vừa mới xảy ra tức thì tại thành thánh Giêrusalem Lc 24,18.

Giai đoạn ba là tin tức nóng hổi loan tin Đức Kitô bị đóng đanh chết trên thập giá, an táng ba ngày trước nay đã sống lại và hiện ra với rất nhiều người, trước hết là các môn đệ sống gần thành thánh Giêrusalem và sau đó là những môn đệ khác. Tin loan nhanh không gì ngăn cản nổi. Trên môi miệng mọi người, kẻ tin Đức Kitô lẫn kẻ không tin đều bàn tán xôn xao về tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Các môn đệ vui mừng đón nhận tin vui, lòng họ rộn rã mong chờ được gặp lại Thầy mình; kẻ chống đối Đức Kitô thì bồn chồn lo lắng, làm thế nào để bịt miệng toàn dân và tránh bị chính quyền trù dập. Loan tin giả và hối lộ là cách họ thực hiện. Điều này cho thấy giả dối sau dùng để bao che giả dối trước và cứ thế chồng chất lên nhau.

Về phần các môn đệ sau khi gặp lại Thầy các ông trở nên mạnh dạn, khôn ngoan phi thuờng. Nghe những tuyên bố của thánh Phêrô ghi lại trong sách Tông Đồ Công Vụ 3,13tt cho thấy khôn ngoan của ông đến từ Đức Kitô Phục Sinh. Phêrô cho biết chương trình cứu độ của Thiên Chúa thực hiện không thế lực trần gian nào có thể ngăn cản. Người ta tưởng giết Con Một Thiên Chúa là Đức Kitô là phá tan chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Họ không thể ngờ được là Đức Kitô họ giết đi được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết tạo thành làn sóng Kitô hữu nói về Ngài, làm chứng nhân cho Ngài và trung thành, vui mừng được đổ máu đào ra làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh. Điểm thứ hai là Đức Kitô Phục Sinh đổi mới cuộc sống Kitô hữu, ban cho họ tinh thần mới, sự sống mới và khả năng mới, mạnh dạn làm chứng nhân không sợ gian nguy, khó khăn và ngay cả cái chết. Đức Kitô đổi mới con người và đổi mới mọi loài thụ tạo. Điểm thứ ba Đức Kitô làm Vinh Danh Chúa Cha bằng cách tự nguyện chết trên thập tự trong khi đó Chúa Cha làm Vinh Danh Chúa Con bằng cách cho Ngài sống lại vinh quang từ cõi chết.

Các môn đệ Đức Kitô làm Vinh Danh Đức Kitô bằng cách công khai loan tin Đức Kitô Phục Sinh và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng Phục Sinh. Điểm thứ tư thánh Phêrô cho biết í kiến của tập thể lãnh đạo sai lầm khi cùng lòng giết Đức Kitô, họ biết họ sai do ích kỉ nhưng vì tự kiêu nên họ không dám nhận điều sai trái và tìm cách tránh né, giải thích lệch lạc sự việc, dùng tuyên truyền tạo chia rẽ trong dân chúng. Điểm thứ năm cho thấy tập thể lãnh đạo luôn vỗ ngực tự nhận mình khôn ngoan nhưng không biết là càng tự nhận mình khôn càng đi sâu vào con đường u tối bởi họ từ chối ánh sáng chân lí Phục Sinh. Điểm thứ sáu cho biết chỉ cần khiêm nhường tự nhận mình sai trái, thống hối ăn năn sẽ nhận được ơn Chúa thứ tha. Điều này cho thấy tình yêu Chúa lơn hơn tội ta phạm, tội cá nhân và tội tập thể.

Bài đọc thứ hai thánh Gioan (1Gn 2,1-5) cũng nói về tình yêu Chúa khi Ngài cho biết tình yêu Chúa mạnh hơn tội lỗi. Tình yêu Chúa có sức ban sự sống, tạo dựng, đổi mới đời ta và đổi mới toàn vũ trụ; đối nghịch với tình yêu Chúa là sự ác, thể hiện qua tội lỗi. Hậu quả của tội lỗi là tàn phá, gây chia rẽ, hận thù, giết hại và án phạt muôn đời. Để được hưởng tình yêu Chúa con người cần sống theo giáo huấn của Đức Kitô, làm cho giáo huấn của Ngài đi chung với hành động trong cuộc sống hàng ngày. Khi Lời Chúa thấm nhập vào trong lòng ta, Lời Chúa biến thành nguồn suối tình yêu, đến từ cõi lòng, mang sinh lực cho cuộc sống và chính suối nguồn tình yêu này sẽ làm trôi đi những rác rưởi cuộc đời, rửa sạch tội đời và làm cho cuộc sống ta trở nên mới trong Đức Kitô. Lời Chúa không những rửa sạch tội đời mà còn thiêu huỷ mọi mầm mống tội đang nảy mầm trong tâm hồn.

------------------------------

 

PS3 B-189: ĐỔI THAY CUỘC SỐNG


Lm. Giuse Nguyễn

 

Bài hát “Vì Chúa đã phục sinh” của Lm nhạc sĩ Thái Nguyên có đoạn: “Vì Chúa đã phục sinh nên PS3 B-189


Bài hát “Vì Chúa đã phục sinh” của Lm nhạc sĩ Thái Nguyên có đoạn: “Vì Chúa đã phục sinh nên con hết lòng đổi thay cuộc sống, biết phụng thờ Ngài trên tất cả, không sa ngã theo trần gian”. Quả thật xã hội ngày hôm nay đang rất cần thay đổi khi càng ngày sự dữ càng tinh vi và táo tợn hơn. Tất cả đang chờ đợi sự thay đổi. Nhưng điều quan trọng nhất là tự mỗi người ý thức để thay đổi chính cuộc sống của mình. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta có sự thay đổi để phù hợp với cuộc sống mới của Đấng Phục Sinh.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

1.      Bài Đọc I: Cv 3, 13-15.17-19

Đoạn sách Tông đồ công vụ được trích đọc hôm nay nằm sau phép lạ của Phêrô và Gioan cho một người bại liệt đi được. Thấy sự lạ như vậy, dân chúng kéo nhau đến xem quá sức. Nhân cơ hội này, Phêrô đã rao giảng về ĐGK đã Phục Sinh. Để kết thúc bài giảng của mình, cũng như đưa ra một hành động cụ thể cho dân chúng, Phêrô đã kêu gọi: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa để được Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em”. Đó là lời mời gọi thay đổi cuộc sống.

2.      Bài Đọc II: 1Ga 2,1-5°

Là những lời rất tha thiết của thánh Gioan: “Tôi viết cho anh em những điều này để anh em đừng phạm tội”. Tuy nhiên ngài cũng biết điều đó là rất khó vì làm sao con người tránh được những tội lỗi, những thiếu sót, nên ngài thêm: “Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ là ĐGK”. Nghĩa là ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối để trở về với Chúa mỗi khi sa ngã phạm tội.

3.      Tin Mừng: Lc 24, 35-48

Khi 2 môn đệ trên đường Emmaus quay về Giêrusalem kể lại những sự việc 2 ông vừa trãi qua, chủ yếu là 2 ông xác quyết Đức Giêsu đã sống lại. Dĩ nhiên có người tin nhưng cũng có người không tin. Đợi đến khi Đức Kitô Phục Sinh đứng giữa họ, lúc đó họ không cần phải tin nữa, vì sự thật đã xảy ra trước mắt rồi. Ngài cắt nghĩa kinh thánh cho họ, soi lòng mở trí cho họ hiểu. Cuối cùng Ngài sai họ đi rao giảng sự sám hối. Vì vậy sự sám hối là đề tài xuyên suốt cả 3 bài đọc hôm nay.

 Chúng ta có thể rút ra được một sứ điệp của phụng vụ lời Chúa  hôm nay là: Chúa đã phục sinh, Ngài mời gọi chúng ta bước vào sự sống mới, nên chúng ta phải thay đổi cuộc sống hiện tại, từ xấu sang tốt, từ tốt sang tốt hơn, từ tốt hơn đến tốt hơn nữa.

II. NHỮNG “HỘI CHỨNG” CẦN SÁM HỐI

Muốn sám hối phải biết mình sai. Muốn biết mình sai phải nhìn vào thực tế cuộc sống, như việc chúng ta soi gương để tìm những vết bẩn trên gương mặt mà tẩy rửa. Xã hội ngày hôm nay có nhiều mặt đã xuống cấp trầm trọng, nhiều đến mức mà người ta gọi nó là “hội chứng”, một danh từ trong y học để chỉ những triệu chứng cùng xuất hiện một lúc của căn bệnh. Chúng ta hãy nhìn đến một vài “hội chứng” đang làm ảnh hưởng đến xã hội, và nhất là làm cho đức tin của chúng ta xuống cấp.

1.      Hội chứng “bình thường thôi”

Có một nhà báo nói rằng giới trẻ bây giờ đã thấy, đã biết tận dụng triệt để cái nhìn “bình thường thôi”, dẫn đến chuyện tự nhiên quay cóp mà không xấu hổ, xạo bạn dối thầy mà vẫn cứ tự nhiên, chửi thề như đọc ráp mà không biết ngượng miệng. Có người nói những phát hiện đó cũng “bình thường thôi” vì nó xảy ra nhan nhản (lại bình thường thôi). Điều chúng ta cần nói ở đây là tại sao lại xảy ra hiện tượng bình thường hóa sự xấu như vậy? Có phải tại một nền giáo dục có vấn đề, hay tại người lớn vô tình hoặc cố ý “bình thường hóa sự xấu” ngay trước mắt trẻ em, để rồi khi lớn lên nó trở thành một tập quán?

Những ai có xem tin tức bóng đá cũng đều biết câu chuyện của thần đồng bóng đá Việt Nam vào những năm 2012 : Hoàng Danh Ngọc. Khi bị trọng tài phạt thẻ đỏ, anh đã chửi thề rất rõ, rất nặng trong khi VTV3 đang truyền hình trực tiếp nên khán giả nghe rất rõ, có nhiều người đã tắt TV vì con cái họ đang xem. Điều đáng nói hơn là sau đó mặc dù anh thừa nhận mình có chửi thề, nhưng anh nói đó chỉ là những câu bình thường thôi. Chưa hết, HLV trưởng của đội bóng Ninh Bình đã phát biểu: “Việc cầu thủ chửi thề là hết sức bình thường. Không có gì phải làm to chuyện”. Vấn đề là ở chỗ một vị HLV đáng tuổi cha chú, lại là người có vai trò uốn nắn, giáo dục lại nghĩ rằng “Chửi thề là hết sức bình thường”, thì việc các học trò của ông chửi thề một cách vô tội vạ như vậy cũng là điều không lạ; một ngày nào đó, nó quay lại chửi thề vô mặt thầy nó thì cũng là điều “bình thường thôi”. Điều này nếu không phải tại người lớn dung dưỡng sự mất nết của giới trẻ, thì cũng bởi tầm nhận thức của người lớn chỉ là “bình thường thôi”.

Chúng ta sám hối với hội chứng này, đừng hùa theo đám đông mà làm những chuyện xấu, những chuyện mà vì nhiều người cùng làm nên nó trở thành “bình thường thôi”. Vì cuộc sống nên 1 số người đã bỏ nhà thờ, không còn nhớ đến Chúa nữa; không vì thế mà tôi cũng giống như họ để việc bỏ đạo, bỏ Chúa trở thành “bình thường thôi”. Có những người đối xử tệ bạc với tôi, nhưng không vì thế mà tôi cũng đối xử tệ bạc với họ. Có những người rãnh khi thấy người khác đi lễ ngày thường họ lại nói đạo đức giả, nhưng không vì thế tôi cũng lười biếng giống họ…Đặc biệt hơn chúng ta phải biết hội chứng “bình thường thôi” là hậu quả của người lớn để lại cho thế hệ trẻ. Vì vậy khi chúng ta dám lội ngược dòng thì nó cũng là tấm gương cho thế hệ mai sau.

2.      Hội chứng Chịu Chơi

Hội chứng thứ hai xuất phát từ những người nổi tiếng, đó là “hội chứng chịu chơi”. Hội chứng này chỉ bắt đầu rầm rộ từ câu chuyện của cầu thủ mua tặng người yêu của mình chiếc đồng hồ trị giá 4 tỷ đồng. Ai dám nói Việt Nam là một nước nghèo khi phiên bản của chiếc đồng hồ này trên thế giới chỉ có 15 chiếc, mà Việt Nam đã sở hữu một chiếc? Điều đáng nói là trước đây gia đình của cầu thủ này rất nghèo trong một xã nghèo của một tỉnh nghèo miền trung. Người ta có tiền thì người ta có quyền tiêu xài, ăn chơi, nhất là khi người ta đã trở thành sao rồi thì phải chứng tỏ đẳng cấp của mình trước công chúng. Điều đáng nói ở đây là cách suy nghĩ trong việc tiêu xài đồng tiền mình có (nhiều khi một cách bất công). Hội chứng chịu chơi này ảnh hưởng rất lớn trong một số thành phần giới trẻ. Không có tiền nhưng sẵn sàng mượn để mua điện thoại mới. Không có tiền nhưng sẵn sàng bán đất để mua xe. Không có tiền nhưng mẫu thời trang nào mới cũng mua cho bằng được… Nói như vậy không phải những người có tiền thì được quyền chịu chơi một cách phung phí. Chúng ta nên nhớ, tất cả những điều đó không chỉ đơn thuần là sự “chịu chơi” mà nó còn thể hiện sự kiêu ngạo muốn khẳng định bản thân mình. Chúng ta phải sám hối vì sự kiêu ngạo là đầu mối mọi tội lỗi, là nguyên nhân để thiên thần trở thành ác quỷ. Để chống lại sự kiêu ngạo, đòi hỏi chúng ta phải có sự khiêm nhường. Khiêm nhường là nhìn nhận và sống thật giá trị của mình. Có sao chịu vậy chứ không phải cố tỏ ra cho người ta thấy những cái mình không có.

Những hội chứng này ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống đức tin của chúng ta, khi chúng ta giữ đạo hay không cũng là “Bình thường thôi”; khi chúng ta giữ đạo vì “chịu chơi”, để cho người ta thấy mình đạo đức, thánh thiện, để cho bạn bè nể phục… Tất cả những điều đó phải được sám hối, sửa đổi, để chúng ta có một cuộc sống mới, một cuộc sống phi thường chứ không còn bình thường nữa khi chúng ta biết hướng về những giá trị cao siêu trên trời. Khi chúng ta thực lòng “chịu chơi” và chơi hết mình với Chúa không phải để chứng tỏ bản thân mình, nhưng để muốn gắn bó mật thiết với Đấng Phục Sinh.

“Vì Chúa đã Phục Sinh nên con tin vào quyền năng của Ngài sẽ đổi mới thế gian này, đổi mới mọi sự từ đây”.

------------------------------

 

PS3 B-190: NHẬN RA SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA PHỤC SINH


Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

Vừa qua, trên trang facebook của người mẹ tên Dan Nguyen đã kể lại cuộc “VƯỢT QUA CÕI CHẾT PS3 B-190


Vừa qua, trên trang facebook của người mẹ tên Dan Nguyen đã kể lại cuộc “VƯỢT QUA CÕI CHẾT” tại chung cư Carina Plaza, trong vụ hỏa hoạn ngày 22/3 làm 13 người chết như sau:

“Tầm khoản 1h40 sáng, tự nhiên Mẹ giật mình thức dậy, nghe âm thanh la hét. Mẹ mở cửa sổ nhìn xuống. ‘Cháy!’ Mẹ kêu Bố dậy, Mẹ bế Ella (1 tuổi), Bố bế Kathy (3 tuổi). Mẹ đập cửa phòng Daisy (chị giúp việc). ‘Chạy! khói đã sắp vào nhà’. Và chỉ còn cách duy nhất là cầu thang bộ. Nhưng không biết cháy từ hướng nào, càng chạy, khói phía cầu thang càng nhiều. Từ tầng 9, chạy xuống đến gần tầng 4, thấy đoàn người khác từ dưới chạy ngược lên: ‘nóng, nóng lắm! chạy ngược lên thôi!’. Thế là chạy theo ngược lên. Có người gọi điện báo: ‘chạy ra tầng trệt đi, nhanh lên, nhanh lên’. Mẹ cùng Ella chạy từ tầng 10 trở xuống lại tầng Trệt. Đến tầng Trệt, vẫn thấy nhóm người nói: ‘nóng quá, cửa đóng rồi’. Mẹ nghĩ, đây là cửa thoát hiểm, mình có thể mở được, mặc dù rất nóng. Mẹ mở bật cánh cửa ra như một Phép Màu! Mẹ la lớn: ‘cửa mở được rồi, cửa mở được rồi!’. Ngay sau khi mở được cánh cửa, Mẹ ngã quỵ xuống, không thở được nữa. Khói mù mịt, không thấy gì cả, nhưng Mẹ cảm nhận được Ella vẫn đang động đậy! Mẹ đã gượng đứng dậy ‘sắp đến rồi con ơi, mình sắp đến rồi!’

Mẹ quay lại tìm, ‘Bố và Kathy đâu?’. Mẹ như chết đi. Họ bị kẹt rồi. Mẹ gào thét, kêu cứu với tất cả bảo vệ, hàng xóm, lính cứu hỏa. Nhưng không ai dám vào trong. Mẹ chạy vào thêm lần nữa, mọi người níu Mẹ lại. Thế giới của Mẹ như dập tắt. Hết rồi, hết thật rồi! Mẹ chỉ biết ngồi bệt xuống đất cầu nguyện, cầu xin Chúa, chỉ có Ngài mới có Phép Màu! Điện thoại Mẹ reo, Bố hỏi ‘Mẹ và Ella an toàn chưa, Bố lạc mất Mẹ nên chạy lên trên tìm. Giờ Bố cùng đoàn người ở lầu một, đang tìm cách xuống. Còn chị giúp việc đang bị kẹt ở Tầng 7. Cầu nguyện, cầu nguyện, chị ấy sẽ qua được’. Một lúc sau, cậu Đằng báo, ‘Daisy thoát ra được rồi!’ Thế là cả nhà an toàn nhập viện. Mẹ bị nặng nhất nên phải nằm khu chăm sóc đặc biệt. Lúc này là 3 giờ khuya, ngồi viết lại câu chuyện vượt ra từ cõi chết của cả nhà chúng ta.

Nhờ cậu Đằng cho biết tầng trệt không cháy. Nhờ Ella kiên cường, nhúc nhích mà Mẹ tỉnh dậy khi quỵ gối gần như ngất đi. Nhờ Kathy kiên cường cho Bố có động lực dũng cảm. Nhờ tình yêu của Bố, Mẹ dành cho các con. Nhờ tình thương người với nhau mà Daisy đã vượt qua được”.

Nhưng sau cùng, người mẹ kia cảm nhận được một điều là: “TẤT CẢ NHỮNG CHỮ ‘NHỜ’ ẤY, CHÍNH LÀ PHÉP MÀU CỦA CHÚA. Nó không tự nhiên mà diễn ra, đó là mục đích đã lập ra sẵn từ Ngài. Nếu Chúa không để Mẹ tỉnh giấc nửa đêm, thì cả Nhà đã tiếp tục ngủ. Nếu Chúa không chỉ đường quay lại tầng trệt, thì Mẹ đã bị ngộp và hết sức ở tầng 10. Nếu Chúa không giữ để Ella còn động đậy nhúc nhích thì Mẹ đã không đứng dậy nổi để chạy ra. Cảm ơn Ngài, Đấng quyền năng đã bảo vệ gia đình chúng con thoát chết!”.

Thưa quý OBACE, sau khi thoát ra khỏi đám cháy, người mẹ nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa đã cho họ vượt qua cái chết, để được sống đoàn tụ cả gia đình. Lời Chúa hôm nay cũng cho thấy, sau biến cố kinh hoàng của cuộc tử nạn của Chúa Giêsu khiến các tông đồ hoảng loạn, nay các ông đã bình tĩnh lại và nhận ra Chúa Phục Sinh vẫn đang đồng hành trong cuộc đời của họ.

Tin Mừng hôm nay kể tiếp câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus đã nhận ra Chúa Phục Sinh. Sau khi nhận ra Chúa, các ông trở lại Giêrusalem kể cho mọi người nghe, thì chính Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ. Cũng như những lần hiện ra trước, Chúa Phục Sinh trấn an họ bằng ơn bình an: “Bình an cho các con!” Chúa cũng khiển trách họ vì họ vẫn còn nghi ngờ, chưa tin. Tuy nhiên, Chúa cũng rất kiên nhẫn và thông cảm với các môn đệ của mình. Chúa đã cho các ông xem các vết thương nơi tay chân Chúa, để xua tan ý nghĩ và dư luận cho rằng các môn đệ bị ám ảnh hoặc tưởng tượng. Chúa Giêsu đã muốn cho các môn đệ thấy, Ngài đã sống lại thực sự, Ngài hỏi họ: “các con có gì ăn không?”. Chúa Giêsu đã ăn trước mắt các môn đệ, để họ tin rằng, Ngài đang hiện diện cách cụ thể bằng xương bằng thịt với các ông.

Điều quan trọng hơn, Chúa Giêsu muốn nhắn gửi các môn đệ là: để có thể tin Ngài từ cõi chết sống lại thì cần phải đọc lại Kinh Thánh, vì tất cả các Kinh Thánh nói về Ngài đều phải ứng nghiệm. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng thấy các môn đệ của mình hết sức giới hạn. Vì vậy, Ngài đã phải mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Đây cũng chính là ơn đặc biệt Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho các môn đệ và cho mỗi chúng ta. Với khả năng giới hạn của trí khôn, chúng ta không thể hiểu và đón nhận được lời Kinh Thánh. Khi ta thành tâm thiện chí, thì chính Chúa sẻ mở trí để chúng ta hiểu và Ngài còn mở lòng để chúng ta tin Ngài là Đấng Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu và là Đấng Cứu Thế.

Tin Đức Giêsu là Đấng Kitô đã chịu khổ hình, và từ trong cõi chết sống lại. Niềm tin này phải là một sự xác tín của mỗi người và là nội dung sứ điệp mà các môn đệ phải tiếp tục minh chứng cho toàn thế giới. Chúa Giêsu đã tin tưởng trao cho các môn đệ sứ mạng rao giảng và trở thành chứng nhân về niềm tin này. Các tông đồ sau khi được mở trí để hiểu Kinh Thánh, được đón nhận đức tin, các ông đã trở thành những người không mệt mỏi nói về Chúa Giêsu cho thế giới. Sách Công Vụ kể lại lời rao giảng và cũng là lời tuyên tín của Phêrô trước mặt mọi người. Trước đây, đức tin của Phêrô còn yếu ớt mong manh, giờ đây ông xác tín với mọi người về Chúa Giêsu với nhiều danh hiệu: Tôi Trung Của Thiên Chúa; Ngài là Đấng Thánh và là Đấng Công Chính; Ngài là Đấng Khơi Nguồn Sự Sống.

Phêrô muốn nói cho mọi người về sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông nói cho mọi người biết Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể rút điều tốt ra từ điều xấu, biến sự ác của con người thành cơ hội thể hiện tình yêu thương. Thiên Chúa đã biến đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Dù vẫn phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu, nhưng thánh Phêrô khuyên người Do Thái tin tưởng vào lòng khoan dung của Thiên Chúa: “Hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để được xóa bỏ tội lỗi”. Theo Phêrô, Thiên Chúa biến tất cả trở thành cơ hội để Ngài thể hiện lòng xót thương và tình yêu đến cùng dành cho từng người.

Phêrô cũng nhận ra sự hiện diện và quan phòng của Chúa trên chính cuộc đời của ông. Mặc dù đã hèn nhát, chối Chúa, song qua biến cố này Phêrô lại đón nhận được cái nhìn yêu thương của Chúa để chỗi dậy. Ông hoàn toàn tin tưởng và nói lên tình yêu của mình khi Chúa hỏi: “Con có yêu mến ta hơn những anh em này không?” Ông mạnh dạn trả lời: “Thưa Thầy! Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Phêrô đã nhận ra rằng, Chúa biết ông yếu đuối, song Chúa vẫn chọn ông và trao cho ông sứ mạng củng cố đức tin cho anh em. Ông cũng ý thức rất rõ các ông là những người được chọn làm chứng nhân về cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu: “Sau khi sống lại Người đã hiện ra với chúng tôi là những kẻ được tuyển chọn từ trước”.

Thưa quý OBACE, nhìn nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa trong mỗi biến cố của mình, của gia đình và xã hội, là điều hết sức quan trọng. Giống như người mẹ Dan Nguyen sau khi vượt qua cái chết trong vụ hỏa hoạn Carina đã nhận ra bàn tay của Thiên Chúa, chúng ta cũng cần có cái nhìn đức tin, để nhận ra Chúa đang hiện diện che chở ta trong các biến cố xảy ra cho gia đình cho bản thân.

Để nhìn thấy Chúa cần phải có một con mắt đức tin đủ sáng và để nhận ra Chúa cần phải có một tâm hồn lắng đọng, gẫm suy. Hai yếu tố này bổ xung cho nhau. Chắc chắn Chúa Giêsu vẫn hiện diện bên ta như Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng với các con mọi ngày cho đến tận thế”, nhưng nhiều khi chúng ta không nhận ra Người. Có những khi chúng ta bị những cơn sóng gió thử thách, vùi dập tối tăm mặt mũi, đức tin của ta chao đảo, ta sẽ không nhận ra Chúa. Simon Phêrô khi ở bờ hồ cũng không nhận ra Chúa. Chỉ khi Gioan nói với ông: “Chúa đó!”, ông mới nhận ra Người. Như vậy khi bị sóng gió hoặc tối tăm bao phủ, đừng ngại tìm đến với mẹ Giáo Hội, Mẹ Giáo hội sẽ chỉ cho chúng ta nhìn và nhận ra Chúa.

Cũng vậy khi gia đình gặp thử thách hoặc các biến cố xảy ra chung quanh, chúng ta cần bình tâm như các tông đồ, để cho Chúa soi lòng mở trí, giúp ta hiểu lời Kinh Thánh. Vì, Kinh Thánh là lời khôn ngoan, là đèn soi lối giúp ta nhận ra ý Chúa muốn nói với mình qua các biến cố đó, để ta kịp điều chỉnh lại đời sống của mình và gia đình cho phù hợp với đường lối của Chúa và Tin Mừng.

Chúa vẫn hiện diện cách cụ thể qua Thánh Lễ mỗi ngày, qua Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, nhưng nhiều khi nại vào lý do công việc bận rộn, ta đã bỏ qua sự hiện diện cụ thể và đặc biệt này. Xin cho mỗi chúng ta luôn nhìn thấy và nhận ra Chúa hằng ở bên chúng ta, dù lúc vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại để ta có thêm sức mạnh sống và làm chứng về Chúa. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-191: ĐẤNG KITÔ PHẢI CHỊU KHỔ HÌNH, RỒI MỚI PHỤC SINH


Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

 

Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng ..... Đó là lời giải thích của Đức Giê-su Ki-tô tử nạn và phục PS3 B-191


 “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại từ cõi chết”. Đó là lời giải thích của Đức Giê-su Ki-tô tử nạn và phục sinh đối với các tông đồ và môn đệ khi Người hiện ra trao ban bình an và củng cố niềm tin cho các ông.

Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giê-su nói về việc Người ‘chịu chết, rồi ngày thứ ba mới sống lại hiển vinh’ mà trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Người đã đề cập đến điều này nhiều lần. Nhưng các tông đồ và môn đệ “không hiểu, từ trong cõi chết sống lại là gì” (x. Lc 18,34).

Chẳng những không hiểu mà một người trong số họ, tên là Phêrô, còn tỏ vẻ thương thay cho Đức Giêsu, không muốn Đức Giê-su phải chịu khổ nạn, đã kéo riêng Người ra một nơi mà nói: “Xin Thiên Chúa thương gìn giữ Thày, đừng để Thày phải như vậy . Nhưng Đức Giê-su liền mắng Phê-rô: Satan, hãy lui ra đàng sau Thày, tư tưởng của anh không phải là của Thiên Chúa mà là của loài người”(x. Mt 16, 22- 23.

Quả thật, đối với loài người, chết là hết chuyện. Nếu có ai chết rồi mà hiện về thì cũng chỉ là hồn ma. Chứng kiến Đức Giê-su chết, chết một cách tất tưởi đau thương, các tông đồ và môn đệ nghĩ rẳng mọi sự đã kết thúc và chấm dứt.

Tuy nhiên, điều không thể xảy ra đối với loài người, thì lại có thể xảy ra đối với Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng ban sự sống. Ngài đã sáng tạo mọi sự từ hư vô, thì Ngài cũng có thể làm cho kẻ chết sống lại. Và Ngài đã thực hiện điều này khi làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại, đúng như lời Ngài đã loan báo trong Thánh Kinh qua miệng các ngôn sứ.

Thiên Chúa đã làm cho Đức Giê-su trỗi dạy từ cõi chết, đúng như lời đã loan báo trong Thánh Kinh. Nhưng khi hiện ra cho các tông đồ và môn đệ, họ ‘tưởng Đức Giê-su phục sinh là ma’.

Để đánh tan tưởng nghĩ sai lầm đó, Đức Giê-su đã vận dụng mọi giác quan nhằm chứng tỏ cho các ông thấy và tin: Người có một thân thể ‘bằng xương bằng thịt’, chứ không phải ‘không xương không thịt’ và thân thể của Người cũng chính là thân thể đã bị đóng đinh trên cây thập giá, được an táng trong mộ đá. Chỉ có khác là từ nay thân thể Người đã được bước vào vinh quang phục sinh không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian, sự chết và trần thế chẳng còn quyền chi đối với Người nữa, Người chỉ còn lệ thuộc vào quyền năng thần linh của Chúa Cha, nên Người có thể tự do hiện diện ở đâu, lúc nào và dưới hình dạng nào tùy ý Người muốn, không giống hình dạng các tông đồ và các môn đệ đã quen- như ‘dưới hình dạng một người làm vườn’ (x. Ga 20, 14-15) hoặc dưới ‘hình dạng một khách bộ hành’ (x. Lc 24,13-34) – để khơi dậy đức tin của các ông và làm cho các ông nhớ lại tất cả những gì Người đã nói trước khi bước vào cuộc tử nạn, rồi truyền cho các ông phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.

Vâng lệnh Đấng Phục Sinh, các nhứng nhân đã ra đi rao giảng và làm chứng về Người cho đến tận cùng trái đất, dù có phải mất đi cả mạng sống mình. Như thánh Phê-rô, ông đã lên tiếng nói với dân Israel rằng: Thưa anh em, Thiên Chúa của tổ phụ Ab-ra-ham…, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà anh em đã trao nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính… Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Về điều này, chúng tôi xin làm chứng…” (x. Cv 3,13-15).

Tóm lại: Đức Giê-su tử nạn và phục sinh ‘đúng như lời Thánh Kinh’, là việc hoàn thành những lời hứa của Cựu Ước và của chính Người trong cuộc đời trần thế, giúp nhân loại khử trừ tội lỗi và khai mở kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ, kỷ nguyên con người được giải án tuyên công, để trở thành con cái Thiên Chúa.

Rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su tử nạn và phục sinh là sứ mạng khẩn thiết của Giáo Hội cũng như của người môn đệ Chúa. Và niềm tin về Đấng Phục Sinh của Giáo Hội và người tín hữu xưa cũng như nay, được dựa trên đời sống và lời rao giảng của những chứng nhân gặp gỡ trực tiếp Đấng Phục Sinh, chứ không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người.

Lạy Chúa Giê-su tử nạn và phục sinh, xin ban thêm lòng tin cho con, để trong mọi giây phút cuộc đời, con luôn biết sống và rao giảng về Người cho những anh chị em đồng loại. Amen.

------------------------------

 

PS3 B-192: CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY


Fx Đỗ Công Minh

 

Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra với các Tông đồ sau khi Người đã Phục Sinh PS3 B-192


Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra với các Tông đồ sau khi Người đã Phục Sinh. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa hiện ra với các ông. Trước đó Người đã hiện ra với Ông SiMon Phêrô, hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau. Chúa đến với các tông đồ, việc đầu tiên, Người muốn  các ông đón nhận từ nơi Người sự bình an: “Bình an cho anh em “. Sau biến cố Thầy bị chết treo trên thập tự, các môn đệ quá sợ hãi chạy tứ tán vì sợ bị liên lụy. Cũng vì quá lo sợ nên người này dựa dẫm người kia, hỏi han nhau về tình hình thế sự, bàn tính với nhau về chuyện tương lai “biết ra sao ngày sau?”. Hiểu được tâm trạng của các ông đang bất an, lo lắng, Chúa đã nhân lúc các môn đệ trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp nhóm mười một và các bạn hữu đang tụ họp nhau tại đó mà hiện ra với các ông. Chúa còn muốn nhân dịp này củng cố đức tin cho các ông, dù trong suốt những ngày Thầy trò rao giảng, nhiều lần Đức Giêsu đã loan báo cho các ông biết những điều viết về Người trong sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh, nhưng các ông vẫn không hiểu được và không tin, hay nửa tin nửa ngờ.

 Diễn tiến tâm trạng của các ông khi Chúa hiện ra trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca đã phân tích rất kỹ. Khởi đi từ sự kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, đến mức Chúa phải trấn an :”Sao anh em lại hỏang hốt, sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây “. Các ông từ chỗ vẫn còn chưa tin, chuyển sang vì mừng quá, dẫn đến ngỡ ngàng. Cũng ngay lúc ấy, Người cùng ăn uống với các ông để các ông tin Người đã sống lại thật, và giữ đúng lời hứa khi gặp hai môn đệ trên đường Emmau là, sẽ gặp các ông tại Giê-ru-sa-lem.

Ngày hôm nay, chúng con có được lời chứng của các Thánh Sử để lại; có được” Lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ 3, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này “. Những Lời Đức Giêsu Kitô sau khi Phục sinh để lại không chỉ dành cho các Tông đồ, mà là cho hết mọi tín hữu. Các Thánh Tông đồ đã vâng nghe Lời Chúa, đã làm tròn sứ mạng Chúa trao. Phần con, con vẫn tự nhận là có phúc vì được thừa hưởng Đức tin do các Tông đồ truyền lại,nhưng việc rao giảng và làm chứng về việc Chúa đã sống lại thật, con có làm và sẵn sàng làm ?

Xin Lời Chúa giúp con nhìn lại đời sống Đức tin của mình. Con có thực sự vui mừng vì Chúa đã sống lại để con cũng được sống lại với Người? Trong đời sống hằng ngày, con có sống niềm vui Phục Sinh như các Tông đồ ngày ấy, là ra đi khỏi con người hằng lo sợ cho bản thân. Các Ngài dám đi đến mọi nơi, mọi chỗ rao truyền Tin Mừng của Chúa cho anh em và làm chứng Người đã sống lại thật?
Lời Chúa vẫn thôi thúc con: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”

Xin cho con biết vượt qua những sợ hãi, như sợ mất đi những vui thú đang có, sợ phải đơn độc trong cuộc chiến chống lại cái ác, cái xấu; sợ mình sống khác người, sợ phải mất mát  chức quyền, địa vị; sợ phải mất quyền lợi  cho bản thân, gia đình; sợ phải khép vào khuôn khổ; sợ phải sống . . .  thánh thiện.

Xin cho con mạnh dạn sẵn sàng vượt qua nỗi sợ, dấn thân phục vụ Chúa, qua những người anh em con còn nhiều bất hạnh, thiếu thốn, bị lọai trừ trong xã hội. Có như thế Niềm vui Phục sinh mới thực sự có ý nghĩa trong cuộc đời con.

Lạy Chúa,
Xin Người ban thêm Đức tin cho con .

------------------------------

 

PS3 B-193: BẢN HÒA TẤU PHỤC SINH CỦA LUCA


Bác sĩ Ng Tiến Cảnh

 

Chương 24 Tin Mừng Luca quả là một bản hòa tấu Phục Sinh tuyệt vời gồm 4 chuyển động. Chuyển PS3 B-193


Chương 24 Tin Mừng Luca quả là một bản hòa tấu Phục Sinh tuyệt vời gồm 4 chuyển động. Chuyển động một là câu chuyện những người phụ nữ trước cửa mồ và Phero đến mộ để kiểm chứng sự việc (c.1-12). Chuyển động hai là câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau, đưa tới đỉnh điểm là họ nghe nói Chúa cũng  hiện ra với Phero (c 13-35. Chuyển động ba Chúa xuất hiện trong bữa ăn với các môn đệ và kết thúc Chúa trao sứ vụ cho các ông (c 36-49). Và chuyển động bốn Chúa lên trời (c.50-52).

TÂM TRANG HAI MÔN ĐỆ TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS

Câu chuyên hay và phổ thông nhất là chuyển đường Emmaus bắt đầu từ câu 13. Đây là chuyện chuyển đề giữa các biến cố Chúa chịu nạn và lúc khám phá ra ngôi mồ trống. Khác với sống lại của người thường, Chúa xuất hiện trong chốc lát rồi biến mất. Câu chuyện trên đường Emmaus (c.13-35) như một cây cầu nối giữa ngôi mồ trống (24:1-12) và Chúa Giesu tỏ mình cho các môn đệ (24:36ff) tiếp theo sau bữa ăn của các môn đệ trên đường Emmaus, rồi khi họ nhận ra Chúa họ liền trở lại Jerusalem.

Cleopas và bạn ông rời nơi ở là nơi đã xẩy ra những biến cố lón và quan trọng, đi về một làng xa không rõ. Họ không tin là Chúa sống lại do những lời đồn đây đó. Góp nhặt tin tức vui rồi thất vọng, họ không tài nào có thể tin được những chuyện như ngôi mồ trống, Chúa hiện ra với các môn đệ khác. Dưới con mắt họ, sứ mạng của Chúa coi như đã thất bại hoàn toàn. Họ chẳng còn gì để bám víu vào Chúa Giesu nữa.

Thế rồi, trên đường Emmaus, hai môn đệ bất ngờ gặp một khách lạ đồng hành, tim họ từ từ bừng sáng khi hiểu ra sự thật về đấng Thiên Sai đã bị đau khổ và chết. Rồi tại bữa ăn ở Emmaus, họ cảm thấy vững tin hơn về việc Chúa sống lại. Bẻ bánh, Ăn cá. 

CÂU CHUYỆN EMMAUS VÀ HỘI NGHỊ LỜI CHÚA  

Thượng hội nghị về Lời Chúa vào tháng 10 năm 2008  đã thường nhắc tới câu chuyện Đường Emmaus của hai môn đệ (Lc 24:13-35). Trong số những hồng y, giám mục, chuyên viên và khách đặc biệt đến từ khắp thế giới đã trình bày nhiều vấn đề, nhưng  câu chuyện Đường Emmaus lại được nhắc tới và coi là tuyệt tác, đặc biệt nhất để dạy giáo lý, giảng huấn, nghiên cứu Kinh Thánh, nhất là Sống đời sống Kito giáo.

Lý do cuộc hành trình, không phải là đường xa từ Jerusalem đến Emmaus, nhưng là một cuộc hành trình Lời Chúa đều đặn, lâu dài và gian khổ khởi đầu từ bộ óc đến con tim. Khi niềm tin đạt được rồi thì đem nó chia sẻ với tha nhân, qua tình liên đới đến với người xa lạ không ai khác ngoài Chúa Giesu. 

ĂN UỐNG VỚI CHÚA GIESU

Bài Phúc Âm hôm nay là nối tiếp câu chuyện con đường Emmaus. Thiên Chúa đã khéo léo dẫn con người đi tới cộng đồng và bàn tiệc để họ cùng nhau cảm nghiệm (Lc 24:36-48). Câu chuyện được trình bày dưới nhiều dạng thức: Chúa hiện ra và các môn đệ hoảng sợ bối rối (c 36-43); những lời trong Kinh Thánh được ứng nghiệm, nhiệm vụ của các tông đồ (c 44-48). Mọi yếu tố của câu chuyện đường Emmaus đã rõ ràng. Luca trình bày việc Chúa sống lại và một người khách lạ nhập cuộc đồng hành với họ, nói chuyện với hai ông rồi các ông mời khách lạ cùng ăn  tối. Chỉ sau khi hai ông mời người khách lạ ở lại đêm với họ thì họ mới phần nào nhận ra Chúa.Trên đường đi lúc nói truyện, họ không nhận ra được Chúa, nhưng nhìn cách bẻ bánh họ mới thực sự nhận ra Chúa.

Bữa ăn chứng tỏ tính đặc thù của Chúa. Hỏi thức ăn cá. Cung cách bẻ bánh. Ngồi ăn chung với các ông. Chỉ có người mới ăn. Ma đâu có ăn. Tất cả những chi tiết đó khiến  các ông nhận ra được Thầy mình, dù nó chẳng phải là chứng cớ thần hoc hay tín lý gì cả. Chỉ có cung cách ngồi ở bàn ăn mới xác quyết được Chúa Giesu là Thầy mình còn sống.

Dù mấy người phụ nữ và hai ông bạn đi đường Emmaus quả quyết, các môn đệ vẫn không thể tin được con mắt trần của mình khi chúa Giesu hiện ra trước mặt các ông. Chỉ có chúa Giesu mới đánh giá những kinh nghiệm và làm cho chúng ta hiểu đúng những kinh nghiệm đó. Chúa đã chứng minh cho các ông là những gì các ông nhìn thấy là thật như việc Toma để tay vào vết thương ngực, cạnh sườn và chân tay Chúa, dù Chúa chỉ hiện ra trong chốc lát. Nhưng Chúa là Chúa thật với thân xác bằng xương thịt. Không phải ma.

Tuy nhiên, trọng tâm của câu chuyện không phải là bữa ăn nhưng là giá trị của việc Chúa hiện ra. Chúa hiện ra như một sinh vật sống, linh động, và rắn chắc có thể nhìn, sờ được. Thiên Chúa thánh thiêng và thiêng liêng mà vẫn có thể nhận biết được dưới dạng hữu hình, không phải như tình trạng xuất hồn, ngây ngất quên hết mọi sự trần tục…Thiên Chúa đến với con ngưởi qua sự tạo dựng của Người. Cảm nghiệm này đã trở thành nền tảng của Giáo Hội, tự biết mình như là thân thể Chúa Kito, thể hiện qua việc thờ lạy Mình và Máu Thánh Chúa. Người tín hưu ngày nay gặp Chúa Kito Phục Sinh qua cảm nghiệm thân xác Người như sờ mó, nghe, nhìn, tôn thờ, nhận Minh Thánh Chúa, chia sẻ bí tích thánh thể, làm chứng nhân và phục vụ tha nhân.

Phép Mính Thánh Chúa là tổng hợp đời sống Chúa Giesu, nhắc lại việc Chúa hy sinh mạng sống, chịu chết vì nhân loại. Bẻ bánh cũng là một dấu hiệu sức mạnh hiệp nhất. Khi chúng ta bẻ bánh là chúng ta chia sẻ với nhau, với mọi người trong thân xác Chúa Kito. Thánh Phaolo đã nói: “…Và khi chúng ta bẻ bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể. (1Cr 10:16-17).

Đúng thế, không phải chí một người chia sẻ rượu và bánh để tạo hiệp nhất với Chúa Kito, nhưng cùng với bánh rượu đó phải được phân chia sẻ cho mọi thành viên cộng đồng đang tham dự lễ. Sự hiệp nhất này không nằm trong khuôn khổ một bữa tiệc của loài người, mà là một tặng phẩm có được nhờ nghi thức bẻ bánh, chia sẻ mình và máu thánh Chúa Kito. Phép Thánh Thể cũng nói lên tính duy nhất của cộng đồng, được cảm nghiệm dưới ba mức độ: với Chúa Giesu Kito, giữa các thành viên với nhau và phục vụ tất cả mọi người, mọi dân tộc trên toàn thế giới.

------------------------------

 

PS3 B-194: LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊSU


Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Lc 24,35-48

(35)  Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. (36) Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”. (37) Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. (38) Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. (40) Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. (41) Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không? (42) Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. (43) Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. (44) Rồi Người bảo: Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. (45) Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. (46) Và Người bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, (47) và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân của những điều này.

2.Ý CHÍNH:

 

Bài Tin Mừng của Thánh Lu-ca thuật lại sự kiện Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra lần thứ ba với PS3 B-194


Bài Tin Mừng của Thánh Lu-ca thuật lại sự kiện Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra lần thứ ba với các tông đồ tại nhà Tiệc Ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp ma, bằng cách cho họ xem tay chân của Người bằng xương thịt, và Người  còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự Phục Sinh của Đấng Ki-tô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mệnh cho các ông phải đi rao giảng sự ăn năn để được ơn tha tội, và làm chứng nhân của Chúa về những điều mắt thấy tai nghe.

3.CHÚ THÍCH:

– C 35-36: + Còn hai ông: Đây là hai trong số bảy mươi hai môn đệ của Đức Giê-su (x. Lc 10,1). Một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát (x. Lc 24,18). + Nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh: Bẻ bánh là cử chỉ của Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,19 ; 15,36), và trong bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể (x. Lc 22,19). Nhờ cử chỉ bẻ bánh này mà hai môn đệ đã nhận ra người khách bộ hành chính là Thầy Giê-su đã chết và giờ đây sống lại.+ “Bình an cho anh em”: Là lời chào thông thường của người Do Thái (Sha-lom!). Nhưng lời này còn bao hàm sự chúc lành của Thiên Chúa. Sau khi sống lại, Đức Giê-su đã thực hiện lời Người hứa là ban bình an cho các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27).

– C 37-39: + Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà !: Chân tay Đức Giê-su có những vết thương do đã bị quân lính đóng đinh vào thập tự (x. Lc 23,33). + Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?: Đức Giê-su Phục Sinh đã chứng tỏ Người không phải hồn ma, khi cho các môn đệ xem Người có xương thịt như mọi người.

– C 40-43: + Người đưa tay chân ra cho các ông xem: Cũng như trong Tin Mừng Gio-an (x. Ga 20,20), Chúa Phục Sinh đã chứng tỏ Người chính là Đấng bị đóng đinh, đã chịu chết trên thập giá, mà nay sống lại và đang đứng trước mặt các ông. + Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Xem ra các vết thương ở tay chân vẫn chưa thuyết phục được các tông đồ tin Đức Giêsu đã thực sự sống lại, nên Người cho họ có thêm một bằng chứng Người không phải hồn ma, khi cầm lấy và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông.

– C 44-45: + Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em: Đức Giê-su tiếp tục cho các môn đệ có thêm bằng chứng về việc Người đã từ cõi chết sống lại, bằng cách nhắc lại lời Kinh Thánh tiên báo đã được ứng nghiệm nơi Người.. + Sách luật Mô-sê, sách các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh: Ở đây, Lu-ca lại kể ra Sách Thánh gồm các sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh. * Sách luật Mô-sê: Năm cuốn sách đầu của Thánh Kinh Cựu Ước, được xếp thành bộ Ngũ Thư gồm: Sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lê-vi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. * Sách Ngôn Sứ: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa gặp gỡ rồi sai đến để thay Chúa nói với dân Người, giúp dân Do Thái nhận ra lỗi lầm của họ, kêu gọi họ ăn năn trở về với Giao Ước. Nhưng sứ mạng quan trọng nhất là tuyên sấm về Đấng Mê-si-a (Thiên Sai) sẽ đến để ban ơn cứu độ. Bộ sách Ngôn sứ gồm 16 cuốn, trong đó có 4 Ngôn sứ lớn như: I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en, và 12 Ngôn sứ nhỏ. Lớn hay nhỏ được phân biệt do các ngài đã để lại lời sấm ngôn của Chúa nhiều hay ít * Thánh vịnh: Là bộ sưu tập các bài thánh thi hay bài thơ tôn giáo từ thời Đa-vít đến thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Đây là kho tàng kinh nguyện của Dân Chúa trong Cựu Ước cũng như Tân Ước. Có 150 Thánh vịnh đọc trong Giờ Kinh Phụng Vụ và Đáp Ca trong Thánh lễ.

– C 46-48: + Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Là chứng nhân, nghĩa là loan báo Tin Mừng về những điều đã xảy ra trong cuộc đời Đức Giê-su, từ khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả, đến cuộc tử nạn, sống lại và lên trời của Người. Đặc biệt các ông còn sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho những điều mình rao giảng là chân thực vì chính các ông đã được tận mắt chứng kiến.

4.CÂU HỎI: 1) Hai ông trong đoạn Tin Mừng này thuộc Nhóm 12 Tông đồ hay Nhóm 72 môn đệ ? 2) Đức Giê-su đã “bẻ bánh” mấy lần trong gần 3 năm giảng đạo? Bẻ Bánh ám chỉ bí tích nào trong 7 phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập? 3) Lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh có ý nghĩa thế nào? 4) Tại sao các môn đệ lại kinh hồn bạt vía khi nhìn thấy Chúa Phục Sinh hiện ra? 5) Chúa Phục Sinh đã nói và làm gì để các môn đệ khỏi bị sợ ma và tin Người đã từ cõi chết sống lại? 6) Khi nói với các môn đệ các bằng chứng về việc Người từ cõi chết sống lại, Chúa Giê-su đã nêu tên các sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh. Vậy ba loại sách này là những sách gì? 7) Lệnh truyền hãy đi truyền giáo gồm hai đặc tính quan trọng nào?
 
II. SỐNG LỜI CHÚA.

1.LỜI CHÚA: Chúa phán: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”(Lc 24,48).

2.CÂU CHUYỆN:

1) ĐI TRONG ÁNH SÁNG SẼ KHÔNG CÒN SỢ HÃI:

Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông dân, ông bố âu yếm đưa mắt nhìn đứa con trai với vẻ hài lòng vì thấy con bắt đầu khôn lớn. Ông nghĩ đã đến lúc cậu con trai phải ra chuồng ngựa một mình vào ban đêm để cho ngựa uống nước. Sau đó ông bảo con hãy cầm đèn đi ra chuồng ngưạ một mình. Cậu con tỏ vẻ do dự thưa với cha:

– Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ phải đi một mình.

Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy tay cầm cây đèn và dắt con đi ra hè trước nhà. Ông thắp đèn lên đặt vào tay con và hỏi:

– Với đèn sáng này, con nhìn thấy rõ đến đâu?

Cậu trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.

Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi với theo: từ chỗ đang đứng đó con nhìn được tới đâu ?

– Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.

Ông giục cậu đi cổng. Từ cổng cậu đã nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:

– Con hãy đổ nước vào máng cho ngựa uống rồi trở về nhà.

Cậu con làm theo và từ ngày đó cậu không còn cảm thấy sợ hãi khi phải một mình ra chuồng ngựa mỗi đêm nữa.

Khi thiếu niềm tin, người ta sẽ bị hoài nghi và sợ hãi. Cậu bé trong câu chuyện trên do thiếu tự tin nên sợ ở trong bóng đêm. Khi sợ hãi người ta sẽ cảm thấy bất an và dễ tưởng tượng bị ma quỷ hãm hại. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ em. Can đảm thắng sự sợ hãi bóng tối là dấu hiệu của một con người trưởng thành.

2) EM BÉ NGỦ YÊN TRONG VÒNG TAY CHA:

Một cậu bé 5 tuổi bị thức giấc do tiếng sấm to trong một đêm giông tố. Cậu mở mắt thì thấy cảnh vật tối tăm. Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm rú như đang giận dữ như muốn đạp đổ nhà cửa và cây cối. Cậu bé hốt hoảng cầu cứu cha:

– Ba ơi ! Con sợ quá !

– Ba đây ! Cậu nghe thấy có tiếng cha từ xa vọng lại.

– Ba đang ở đâu mà sao con không thấy ba ? Cậu giơ hai tay ra phía trước quờ quạng.

– Ba đây ! Người cha bước lại gần và ngồi xuống bên con. Cậu ôm lấy cha, áp đầu vào ngực cha. Người cha đã đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy bàn tay của cha và chìm dần vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng cậu không còn cảm thấy sợ khi ở trong vòng tay của Cha.

Trong cuộc sống hằng ngày, Chúa Phục sinh vẫn luôn ở trong và gần bên chúng ta như xưa Người vẫn luôn hiện diện bên các môn đệ. Người hằng mời gọi chúng ta tin cậy phó thác mọi sự trong bàn tay quan phòng của Người. Dù đời còn nhiều giông tố, nhưng nếu chúng ta vững tin và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng thì sẽ được bình an.

3) BÀN TAY CHÚA DẪN ĐƯA:

Trước khi hiến thân phụng sự Chúa, thánh An-phong-sô là một luật sư tài ba lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì có tài hùng biện và lý luận sắc bén, nên đã thành công trong nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho Am-phong-sô bị thất bại : Trong một vụ án đơn giản, dễ dàng chiến thắng, thế mà ngài lại thua thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, An-phong-sô thấy như bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan thành mây khói. Uy tín cũng không còn được như trước. Cả một màn đen u ám phủ xuống cuộc đời của ngài.

Không biết tìm an ủi ở nơi nào khác, An-phong-sô đã chạy đến với Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa giúp, ngài đã lấy lại sự bình an cho tâm hồn. Ngài như nghe thấy tiếng Chúa mời đi vào con đường mới để phụng sự Chúa. Từ đó, An-phong-sô đã hiến thân trọn vẹn phục vụ Chúa. Ngài học làm linh mục, rồi lên chức giám mục và thành lập một dòng tu lớn là dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại quãng đời đã qua, ngài đã hiểu rằng : Chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại và đã dùng những thất bại đau khổ để thanh luyện ngài nên khiêm nhường và tin yêu phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống khỏi danh vọng trần thế để đưa vào trong vinh quang Nước Trời.

4) BÁC TÀI XẾ TẮC-XI LÀM TÔNG ĐỒ:

Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức truyền giáo của một bác tài lái xe tắc-xi như sau:

“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách đó theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp; một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo; một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường…

Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi anh tài xế:

– Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

– Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người cầm mang về nhà nữa.

Tôi hỏi tiếp:

– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?

Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì có thể làm hai việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thì giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc thật tuyệt vời!”

Một số hội đoàn Công giáo Tiến hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc lát-tích treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang cùng lái xe với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước xe quá giá, sẵn sàng trao trả đồ đạc khách bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con đuợc khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn bình an và thần kinh con luôn thoải mái. Xin đừng để con lái xe khi uống rượu say không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn THƯỢNG LỘ BÌNH AN”.

3.SUY NIỆM:

1) Chúa Phục Sinh mang lại niềm tin yêu giúp vượt qua nỗi sợ hãi:

Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa nhà Tiệc Ly đều đóng kín. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông khiến các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Tuy nhiên, các tông đồ cho rằng mình thấy ma chứ không phải Thầy đã sống lại. Vì vậy, Chúa Phục Sinh đã cho các ông sờ vào thân xác mang thương tích của Người để xác định Người: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. Nói xong, Người giơ tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,39-40). Và để giúp các ông vững tin hơn, Đức Giê-su còn ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông. Nhờ gặp Chúa mà các tông đồ đã vững tin và không còn cảm thấy sợ hãi nữa.

Ngày nay chúng ta cũng sẽ vững tin nếu gặp được Chúa trong thánh lễ, trong giờ kinh tối gia đình hay những lúc cầu nguyện riêng tư. Hãy năng dự các buổi Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần để dễ thực hành theo Lời Chúa dạy. Nhờ đó chúng ta sẽ không bị ảo giác hồ đồ, nhưng sẽ nhận biết quyền năng của Chúa qua các biến cố may rủi giữa đời thường.

2) Mầu nhiệm Phục Sinh mang lại niềm hân hoan hy vọng:

Các môn đệ đã bị lung lạc đức tin khi thấy Thầy Giêsu bị bắt bớ, bị giết chết đau thương trên cây thập gía, thì giờ đây khi gặp Chúa Phục Sinh, các ông đã tìm lại được niềm vui hân hoan.

Đức Giê-su thường quở trách các tông đồ về đức tin như sau: “Đừng sợ, hãy tin!”; “Vì sao sợ hãi, hỡi những kẻ yếu tin?”; “Thầy đây, đừng sợ!”; “Dọc đường hai ông nói chuyện gì với nhau mà buồn bã thế?”; “Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin?”… Nhưng “Các ông đã vui mừng vì xem thấy Chúa”.

Người Kitô hữu sống đạo là người chứa đầy niềm vui và hăng say chiếu giãi niềm vui khi gặp được Chúa. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và không bị khiếp nhược sợ hãi bóng tối nếu chúng ta vững tin vào sự phục sinh của Chúa như Người đã động viên các tông đồ: “Các con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian rồi”.

3) Chúa Phục Sinh ban Thần Khí giúp chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng:

Trong Tin Mừng những người đã được phúc gặp Chúa Phục sinh, đều mau mắn chu toàn lệnh truyền của Chúa, là loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho tha nhân. Chẳng hạn: Mấy người phụ nữ sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã trở về báo tin vui cho các môn đệ rằng: “Chúa đã sống lại”. Hai môn đệ về làng Emmaus, sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người bẻ bánh, đã lập tức trỗi dậy trở về thủ đô Giêrusalem, loan báo tin vui cho các anh em khác: “Chúa đã sống lại rồi và chúng tôi đã nhận ra Người khi Người bẻ bánh”. Các Tông đồ sau khi đã đón nhận đầy ơn Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần, đã mở tung cửa nhà Tiệc Ly ra đường để rao giảng Tin Mừng cho dân chúng thuộc mọi nước mọi dân ở thủ đô Giê-ru-sa-lem. Các ông còn sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã loan báo Tin Mừng Phục sinh cho tha nhân như thế nào?  Chúng ta đã làm gì để trở thành chứng nhân cho tin mừng Phục Sinh?

4) Phải làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội hôm nay ? :

Ngày nay các tín hữu dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:

+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su: như bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng nguyên việc này khó lòng mang lại hiệu quả để thuyết phục được người nghe tin theo (x. Lc 24,11).

+ Làm chứng bằng cách để Chúa Thánh Thần nói với tha nhân qua chúng ta: Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại và chúng ta nhờ ơn Thánh Thần ban, có bổn phận chia sẻ niềm vui và sự bình an mình cảm nghiệm được cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp dụng. Sau khi đón nhận Thánh Thần, ông Phê-rô đã rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su như sau: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại. Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe…” (Cv 2,32-33). Nhờ ơn Thánh Thần tác động, cách làm chứng đầy xác tín này của ông Phê-rô đã khiến ba ngàn người xin theo đạo (x. Cv 2,41).

+ Làm chứng bằng lối sống quên mình, vị tha bác ái: noi gương cộng đòan Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47). Cách làm chứng này hữu hiệu và rất phù hợp với các cộng đoàn tu sĩ, các hội đoàn công giáo tiến hành và các cộng đoàn giáo xứ giáo họ.

+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin, noi gương các anh hùng tử đạo: Các ngài đã không hèn nhát chối Chúa để được sống, nhưng đã sẵn sàng chịu chết vì đức tin để trở thành những “Chứng nhân đức tin”. Đây cũng là phương cách truyền giáo hữu hiệu như lời ông Téc-tuy-li-a-nô đã nhận định: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”.

Ngày nay tuy chúng ta không bị giết hại vì đức tin như các anh hùng Tử Đạo Việt Nam, nhưng chúng ta cũng có thể  trở nên chứng nhân đức tin khi can đảm sống vị tha bác ái giữa một xã hội gian ác như lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà ngợi khen Cha của anh em Đấng ngự trên trời”.

 4.THẢO LUẬN: Hôm nay bạn sẽ áp dụng phương cách truyền giảng Tin Mừng cụ thể nào để giúp các bạn học cùng trường, các người hàng xóm, bạn đồng nghiệp được tin vào Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Chúa với chúng ta.

5. NGUYỆN CẦU

– LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

Giữa một thế giới chỉ biết tìm kiếm hưởng thụ tiện nghi vật chất và thỏa mãn các đam mê khoái lạc. Xin cho chúng con biết chấp nhận lối sống đơn sơ khó nghèo như lời Chúa dạy: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ. Con người không có hòn đá gối đầu”.

Giữa một thế giới khinh thường và chà đạp nhân phẩm những người nghèo khó bất hạnh. Xin cho chúng con biết quý trọng mọi người và sẵn sàng phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi.

Giữa một thế giới sống không lý thưởng, không có niềm hy vọng vào tương lai. Xin cho chúng con biết vững tin vào quyền năng và tình thương của Chúa và tích cực góp phần xây dựng một “Trời Mới Đất Mới” công bình nhân ái và hạnh phúc ngay từ ngày hôm nay.

– LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã củng cố đức tin của các tông đồ bằng việc cho xem tay chân đã từng bị đóng đinh trên cây thập giá và còn ăn uống trước mặt các ông. Rồi khi các ông đã tin, Chúa lại trao sứ mệnh làm tông đồ cho các ông. Xin giúp chúng con hôm nay biết ăn năn sám hối tội lỗi và quảng đại chia sẻ cơm áo tiền bạc cho những người nghèo đói, thăm viếng an ủi những người đau liệt, tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con… để chúng con trở nên những tông đồ giáo dân nhiệt thành làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống và làm việc của chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

------------------------------

 

PS3 B-195: CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH_B


Lm. Antôn

 

Có một người mẹ trẻ đã tâm sự như sau.  Trong những bậc cha mẹ làm gương mù gương xấu cho PS3 B-195


Có một người mẹ trẻ đã tâm sự như sau.  Trong những bậc cha mẹ làm gương mù gương xấu cho con cái của mình có tôi.  Tôi phải tự thú nhận từ lúc đặt chân lên quốc gia Hoa kỳ này tôi chỉ theo đuổi đồng tiền mà thôi. Chúa của tôi là tiền. Ai chỉ cho tôi nhiều mánh lới hái ra tiền thì người ấy là bạn tốt và là thầy của tôi.  Tôi thường nghĩ tiền và làm được nhiều tiền ai lại chẳng ham chẳng muốn!  Ai kêu gọi tôi sống sốt sắng, đạo đức, quảng đại và công bằng kể cả cha xứ thì tôi đều coi họ là những người đạo đức giả và tránh xa họ.  Càng giầu có thì tôi chẳng cần nghe ai và tha thiết đến ai. Chẳng cần phải hy sinh, đóng góp, quảng đại hay phục vụ ai.  Ai sao mặc! Miễn đừng làm phiền đến tôi là được!

Tuy giàu có nhưng nhiều khi tôi cũng thường thắc mắc sống ở trên đời này để làm gì?  Tại sao tôi chỉ biết làm nô lệ cho vật chất, tiền bạc, và cảm thấy cuộc sống của tôi không có ý nghĩa gì hết!  Chẳng gì làm cho tôi vui và thỏa mãn được!  Và còn biết bao nhiêu câu hỏi liên quan đến cuộc sống cá nhân, gia đình và đức tin mà tôi không có câu trả lời, nên tôi luôn cảm thấy bất an.  Tôi lại càng lao đầu vào việc tính toán thương mại, phải luôn bận rộn, tranh dành, tìm cách làm ra nhiều tiền hơn.  Tôi không có nhiều thời giờ cho việc đi tham dự Thánh lễ, cho gia đình con cái. Tôi chỉ biết sống cho chính bản thân, mọi thứ hầu như trở nên vô nghĩa.

Cho đến một hôm tôi mất tất cả.  Sức khỏe, sự nghiệp và tiền bạc của tôi đã trở thành tiêu tán.  Tôi không còn làm chủ được cuộc sống.  Thế là mất cả ý chí và hy vọng.  Mất hết sự kiêu ngạo, tự ái và hãnh diện. Trong số bạn của tôi, có người may mắn nhưng con cái của họ thì một đứa nghiện ngập cờ bạc, đứa thì ma túy, đứa đi theo băng đảng đem bạn bè về nhà để khảo tiền cha mẹ. Bởi chúng biết cha mẹ giấu tiền mặt ở nhà!  Nên cha mẹ bị một trận tra khảo nhớ đời.  Bây giờ thì gia đình bị tan vỡ.  Hạnh phúc, tình yêu và mái nhà trở thành mây khói.  Có những gia đình vợ chồng khác thì gia đình như một cái địa ngục trần gian, bất hòa, xung đột và cãi lộn nhau suốt ngày.

Giờ đây chính tôi, tiền bạc và cơ sở thương mại bị điều tra và nhất là bị mất sức khoẻ vì biết mình đang mang chứng bệnh trầm trọng, và biết chắc rằng sự chết sẽ đến một ngày gần đây. Ăn năn nhìn lại cuộc đời thì đã muộn, nhưng bây giờ tôi thật sự tìm được bình an của Chúa. Tôi cảm nghiệp được rằng có đi qua những đau khổ trong cuộc sống thì mới tìm được bình an.  Có qua thập giá thì mới được phục sinh.  Tôi chỉ còn mang một niềm hy vọng vào Chúa.

Hôm nay tôi tin và nhận biết rằng Chúa không muốn tất cả chúng ta đi vào con đường của tôi đã đi, vì vậy tôi muốn để lại tâm sự này làm chứng cho mọi người thấy và biết rõ.  Tiền bạc vật chất và tự do cần thiết cho đời sống, nhưng nếu để cho tiền bạc, hay sự tự cao và ích kỷ làm chủ cuộc sống, thì chúng ta sẽ không còn thực tâm muốn nghe và sống lời Chúa dạy, hay trở thành chứng nhân cho Chúa, cho những người sống chung quanh, con cái, vợ hay chồng, và nhất là không có sự bình an thực của Chúa trong đời sống.   

Ông bà anh chị em thân mến.  Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh muốn ban cho chúng ta sự bình an thực của Chúa, và muốn chúng ta trở thành những chứng nhân cho Người trong cuộc sống hôm nay.  Thật vậy, bài Tin mừng kể cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa hiện ra một lần nữa với các môn đệ, có sự hiện diện của cả 2 môn đệ trở về trên con đường về làng Emmau.  Chúng ta biết các môn đệ là những người thật may mắn vì Chúa đã hiện ra với họ nhiều lần, để xác định Người đã sống lại thật, để an ủi và khích lệ các ông trong lúc lo sợ, nhất là để củng cố niềm tin cho các ông trong lúc nghi ngờ.  Các môn đệ cần có một niềm tin vững mạnh và kiên cường vào Chúa Kitô Phục Sinh, vì chính họ sau này sẽ là những chứng nhân đích thực, làm chứng cho Chúa với mọi người và ở mọi nơi, kể cả khi phải chịu những sự gian nan khốn khó, hay lúc bị chống đối và tù đày.   Đó chính là lý do Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với họ nhiều lần.

Thật vậy sau khi ban bình an, Chúa đã nói với các ông rằng: “Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân.”  Chúa đã trao ban cho các môn đệ sứ mạng trở thành những chứng nhân cho Người, và đó cũng chính là sứ mạng của mỗi người Ki-tô hữu chúng ta.

Chúng ta nhận biết rằng trong xã hội này muốn trở thành những chứng nhân cho Chúa Giê-su Kitô Phục sinh, chúng ta sẽ phải chấp nhận những hy sinh, khó khăn và thiệt thòi.  Sống trong xã hội này, chúng ta có tự do cá nhân và có nhiều cơ hội tạo ra mọi thứ như vật chất và tiền bạc, nhưng sự nguy hiểm là để những thứ ấy không những đưa chúng ta vào cuộc sống nô lệ, bất an và mất đức tin, mà còn gây ra những ảnh hưởng xấu đến đời sống những người thân thuộc sống chung quanh chúng ta. Tâm sự của một người mẹ trong câu truyện trên là muốn để lại một bằng chứng sống động trong xã hội này.

Xin Chúa giúp chúng ta có một niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh trong Bí tích Thánh Thể, và trong giây phút nữa cũng sẽ hiện diện trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta có sự bình an thực của Chúa.  Xin Chúa cũng ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta đối phó và vượt qua những cám dỗ của tiền bạc, vật chất, sống đúng với danh nghĩa Kitô hữu, trở thành những chứng nhân cho Chúa và làm sáng danh Người.

------------------------------

------------------------------

 

PS 3-B196: SỰ HIỆN DIỆN HUYỀN NHIỆM

 

Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy một điều kỳ lạ: sau khi Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, các môn PS 3-B196


Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy một điều kỳ lạ: sau khi Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, các môn đệ không nhận ra Người. Trước đó, các ông đã có những tháng năm sống với Thầy mình, đã cùng ăn uống với Thầy, đã được Thầy giáo huấn dạy dỗ, mà nay lại không nhận ra Người! Cả những người phụ nữ đã đi theo Chúa để phục vụ Người, nay cũng không nhận ra. Ma-ri-a Ma-đa-lê-na tưởng Chúa là một người làm vườn, nên xin với “người làm vườn” ấy chỉ cho biết chỗ để xác Thầy mình. Hai môn đệ trên đường Em-mau không nhận ra Chúa khi đàm đạo với Người. Thánh Lu-ca còn thêm chi tiết: mắt các ông bị bao phủ. Và trong Bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ kinh hồn bạt vía khi thấy Chúa và tưởng là thấy ma.

Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su không còn hiện hữu với cách thức trước đây nữa. Người hoàn toàn linh thiêng, không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Vì vậy, Người có thể vào nhà khi cửa đóng kín. Người có thể vừa ở Giê-ru-sa-lem vừa đồng thời ở Em-mau. Sự hiện diện của Đức Giê-su Phục sinh là một huyền nhiệm, không thể cảm nhận bằng giác quan, nhưng bằng đức tin.

Tại sao các môn đệ và những người đương thời với Chúa không nhận ra Người sau khi Người từ cõi chết sống lại? Chúng ta có thể trả lời như sau: vì Thiên Chúa là Đấng cao cả và linh thiêng, nên con người không thể cảm nhận Ngài chỉ bằng thuần tuý giác quan. Chỉ có đức tin và lòng yêu mến mới giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa. Ngay cả trước khi nhận ra Chúa Giê-su Phục sinh, các môn đệ vẫn có lối nhìn thuần tuý con người. Vì vậy mà các ông không nhận ra Chúa, thậm chí còn tưởng là ma. Chỉ khi được nghe lời Chúa và được xem thấy vết đinh, các ông mới nhận ra chính là Thầy mình. Đức Giê-su mở trí cho các ông để từ nay các ông hiểu Kinh Thánh một cách hoàn toàn mới mẻ.

Lịch sử hai ngàn năm đã chứng minh: Đức Giê-su hiện diện cách huyền nhiệm trong Giáo Hội. Quả thực, mặc dù chỉ một số rất ít các thánh nhân được nhìn thấy Chúa khi còn sống trên trần gian, Giáo Hội vẫn luôn tin rằng Đức Giê-su đang hiện diện để hướng dẫn Giáo Hội và ban sức mạnh cho Giáo Hội khi phải đương đầu với trăm ngàn nguy khốn. Giáo Hội không chỉ có Chúa Giê-su hiện diện, mà Giáo Hội còn LÀ thân thể huyền nhiệm của Đức Giê-su. Bí tích Thanh tẩy cho người tín hữu được tháp nhập vào thân thể ấy. Sứ mạng của người đã lãnh phép Thánh tẩy là làm chứng cho Chúa Phục sinh. Đây là lệnh truyền của Đức Giê-su. Khi nỗ lực sống ơn gọi chứng tá, người Ki-tô hữu khẳng định bằng chính cuộc sống cụ thể của mình rằng: Đức Giê-su đã sống lại và Người đang hiện diện giữa chúng ta.

Là chứng nhân của Đức Giê-su Phục sinh, người Ki-tô hữu cũng phải luôn canh tân biến đổi cuộc đời để nên giống Chúa. Thánh Phê-rô đã nói với những người Do Thái: dù nhiều người trong các bạn đã giết Chúa Giê-su hoặc đồng loã trong việc này, nhưng các bạn đã làm thế vì không hiểu biết. Nay các bạn hãy sám hối thì chắc chắn sẽ nhận được ơn tha tội của Thiên Chúa. Vì Đức Ki-tô đã chịu chết chính là để xoá bỏ tội lỗi chúng ta, người Do Thái cũng như dân ngoại (Bài đọc I).

Cùng một ý tưởng sám hối, thánh Gio-an tông đồ khích lệ chúng ta hãy tín thác vào lòng từ bi của Thiên Chúa, vì “chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (Bài đọc II). Lời mời gọi sám hối dàn trải trong suốt nội dung của Thánh Kinh. Sám hối cũng là một điều kiện căn bản để đón Chúa đến trong cuộc đời cá nhân mỗi người. Một khi đón Chúa đến tâm hồn, chúng ta sẽ được phục sinh vinh quang với Chúa, và sẽ được nếm hưởng hạnh phúc Nước Trời ngay khi còn sống trên thế gian.

Ngày nay cũng như ở mọi thời đại, vẫn có rất nhiều người không nhận ra Đức Giê-su là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ. Phải chăng họ chỉ nhận định về Người theo lối suy luận thuần tuý nhân loại, nên không thể nhận ra sứ mạng đích thực của Người?

Bầu không khí sôi động của lễ Phục sinh đang dần lui về quá khứ. Một khi ý thức được sự hiện diện huyền nhiệm của Đấng Phục sinh trong Giáo Hội và trong cuộc sống, chúng ta sẽ thấy bình an và niềm vui Phục sinh còn lắng đọng và kéo dài, thận chí bao trùm trọn vẹn đời sống Ki-tô hữu. Đây là bình an và niềm vui do chính Đấng Phục sinh ban tặng cho chúng ta.

“Ai giữ lời Đức Ki-tô dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo”. Tuân giữ giáo huấn của Chúa Giê-su là một điều kiện căn bản để chúng ta đạt tới mức hoàn hảo của tình yêu.

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

---------------------------------

 

PS 3-B197: THẾ GIỚI RẤT CẦN BÌNH AN CỦA ĐỨC KITÔ PHỤC SINH


Cuộc chiến không ngừng

 

Bom đạn vẫn không ngừng rơi tại Ucraina khi thế giới mừng lễ Phục Sinh. Bạo lực tiếp diễn, máu PS 3-B197


Bom đạn vẫn không ngừng rơi tại Ucraina khi thế giới mừng lễ Phục Sinh. Bạo lực tiếp diễn, máu người vô tội vẫn đổ ra, sợ hãi và đau khổ. Chúng ta cố gắng tin rằng Chúa Giêsu đã thực sự sống lại, rằng Người đã thực sự chiến thắng sự chết. Liệu điều đó có thể chỉ là một ảo ảnh, hay chỉ là một phần trong trí tưởng tượng của chúng ta chăng?

Không! Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta nghe vang vọng lời loan báo Phục sinh rất đỗi thân thương đối với Ki-tô giáo Ðông phương: “Chúa Ki-tô đã sống lại! Ngài đã sống lại thật rồi!” Hơn bao giờ hết, nhân loại đang cần Chúa bị đóng đinh và phục sinh. Chỉ có một mình Chúa Giê-su phục sinh mang những vết thương mới có quyền nói với chúng ta về hòa bình. Những vết thương ấy là của chúng ta bởi vì chúng ta đã gây ra cho Ngài bởi tội lỗi của chúng ta, bởi sự cứng lòng của chúng ta, bởi sự thù hận anh em của chúng ta. Những vết thương trên thân thể của Chúa Giê-su phục sinh là dấu chỉ của trận chiến mà Người đã chiến đấu và chiến thắng cho chúng ta, đã chiến thắng bằng vũ khí của tình yêu, để chúng ta có được hòa bình và sống trong bình an.

Các Tông đồ làm chứng tỏ tường

Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng ” (Cv 10, 37-41).

Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết: “Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười Hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy.  Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh“ (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt!

Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong Đêm Vọng Phục Sinh nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa Phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).

Quả thật, Chúa Ki-tô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ.

Tin Mừng Luca hôm nay mô tả, Người đã hiện ra với các môn đệ, khi các ông đang bàn chuyện. Họ khiếp đảm, kinh hoàng tưởng là ma". Sống lại, Chúa Giêsu mạc khải sự phục sinh và thần tính của Người cho họ với thân xác phục sinh, đem lại cho họ niềm vui và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.

Lời Người trách họ: tại sao hoảng hốt và có những suy nghĩ như thế ở trong lòng, khiến chúng ta lại nhớ lại chuyện Chúa đến với họ lúc gặp sóng gió trên biển. để ngầm ý nói rằng: Người đã ngủ dậy, tức là đã sống lại; cộng đoàn của Người không còn gì phải sợ sóng gió trần gian nữa. Việc Người phục sinh là chiến thắng vĩnh viễn.

Để thuyết phục họ. Chúa bảo họ sờ vào thân xác mang thương tích của Người để biết rõ đây không phải là "linh hồn" Người hiện về, nhưng là thân xác Người đã sống lại. Và để giúp họ tin hoàn toàn và dứt khoát, Người còn ăn một chút cá nướng trước mặt họ để họ thấy đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải linh hồn hiện về hay là ma. Có thể nói sự thật trước mắt đã xua đuổi hết mọi hồ nghi khỏi lòng môn đồ. Họ là những người có phúc vì được xem thấy. Nhưng họ còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục sinh cho những người không được phúc xem thấy.

Bình an của Đức Kitô Phục Sinh

Dưới dáng dấp của một người lữ hành, tỏ ra không biết, rồi đồng cảm với hai môn đệ trên đường Emmaus, đã dùng Kinh Thánh để giải thích, bẻ bánh trước mặt hai ông, giúp các ông nhận ra Người (x. Lc 24, 13 - 35).

Trở lại Giêrusalem, hai ông thuật lại cho các Tông Đồ. Đang lúc đứng bàn chuyện, Chúa Giêsu hiện đến với họ khiến họ kinh hoàng khiếp sợ và nói : "Bình an cho các con ! Thầy đây, đừng sợ" (Lc 24, 36). Đó là lời cầu chúc đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh, kèm theo là những chứng tích ở tay chân với những vết thương, họ "vẫn còn chưa tin" (Lc 24, 41). Chúa phải nghĩ đến cách ăn cá nướng và mật ong, trích dẫn luật Môisen, lời các tiên tri và Thánh Vịnh là những bằng chứng không thể sai lầm về sự phục sinh và cuộc sống mới của Chúa. Chính Chúa thực hiện những lời Sách Thánh đã chép, và tiếp theo bằng miệng : "Chính Thầy đây" (Lc 24, 39), đúng Thầy là sự thật và là sự sống. Đó là lý do tại sao các tông đồ, những người ban đầu nghi ngờ, thậm chí khi nhìn thấy cơ thể sống của Chúa cũng chưa tin đã trở nên những chứng nhân rao giảng về sự sống lại của Chúa cách hùng hồn (x. Cv 4). Lạy Đức Ki tô Phục Sinh, xin ban cho thế giới bình an của Chúa. Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

---------------------------------

 

PS 3-B198: MỘT CUỘC VIẾNG THĂM BẤT NGỜ TUYỆT VỜI

 

Trình thuật từ Tin Mừng Luca hôm nay cho chúng ta biết phần kết đầy đủ của câu chuyện Emmau. Khi PS 3-B198


Trình thuật từ Tin Mừng Luca hôm nay cho chúng ta biết phần kết đầy đủ của câu chuyện Emmau. Khi hai môn đệ kể lại những gì vừa xảy ra với họ trong hành trình của mình, thì chính Chúa Giêsu phục sinh đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Nhưng trình thuật ngay tức khắc cho thấy những người hiện diện ở đó đã phản ứng không bình an chút nào cả. Trái lại họ hoảng hồn và kinh sợ trước sự xuất hiện của Chúa Phục Sinh: “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24:37). Vậy ý nghĩa của lời chào chúc “bình an” này, ở đây và trong các câu chuyện phục sinh khác là gì?

1. Sự sợ hãi của các môn đệ

Sau cái chết của Thầy mình, các tông đồ hầu như không dám mạo hiểm ra ngoài vì sợ rằng những gì đã xảy ra với Thầy Giêsu cũng có thể xảy ra với họ. Họ chứng kiến những sự kiện đau thương và tàn bạo trong cuộc khổ nạn của Ngài. Thầy Giêsu đã chết rồi, chết thật rồi, chết đau đớn, nhục nhã ê chề. Mấy người trong số họ đã chôn Ngài trong huyệt mộ, thậm chí có binh lính Rôma và quân binh của các thầy thượng tế niêm phong kỹ càng, canh gác cẩn mật. Giuđa đã tự tử rồi. Các Tông đồ chỉ dám co cụm lại với nhau trong căn phòng trên lầu, sợ hãi những gì bên ngoài. Các cánh cửa đều bị khóa. Bất cứ ai có liên hệ với Chúa Giêsu thành Nadarét đều là người bị theo dõi. Nếu họ công khai nói về Chúa Giêsu thì thập giá cũng có thể dành cho họ, là tự chuốc lấy sự ngược đãi cho chính mình. Họ đang hoang mang về những gì sắp xảy ra với họ. Thật ra nỗi sợ hãi như vậy của các tông đồ là thường tình. Mỗi người chúng ta đều có nỗi sợ đe dọa mạng sống mình như thế.

Thế mà mấy ngày nay, các bà trong nhóm cứ kể rằng họ đã nghe thiên thần nói rằng Ngài đã sống lại, thậm chí cô Maria Mađalêna còn nói rằng đã gặp thấy Ngài, nghe Ngài dặn điều này điều kia. Có lẽ chỉ là chuyện ảo tưởng và vẽ vời của cánh phụ nữ thôi. Nhưng mới đây hai người môn đệ về làng Emmau cũng đã gặp Ngài, nghe Ngài giải thích Sách Thánh, dùng bữa với Ngài; họ vừa quay trở lại Giêrusalem ngay trong đêm, và còn đang có mặt ở đây. Mọi chuyện cứ rối lên, kinh ngạc xen lẫn vui mừng, sợ hãi xen lẫn hy vọng, nhưng chuyện thật sự đang xảy ra là gì thì không ai rõ được! Chuyện cứ như hoang đường, nhưng sao các nhân chứng lại quá thật; các nhân chứng quá thật nhưng sao sự thật lại cứ như không thực!?

“Các ông còn đang nói, thì chính Chúa Giêsu đứng giữa các ông” (Lc 24:36). Ôi trời, chuyện gì đang xảy ra vậy? Đây là ai? Thầy Giêsu của chúng ta đó sao? Hay chỉ là hồn ma của Thầy hiện về! “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24: 37). Có đúng đây là Đấng Phục Sinh mà các phụ nữ, cô Maria Mađalêna và hai người anh em Emmau của chúng ta đã chứng kiến, gặp gỡ và nói chuyện không? “Bình an cho anh em!... Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Chúa Giêsu “Nói xong, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24:40). Không thể hoang đường được, điều tưởng như không thực đang trở nên quá thực ngay trước mắt các ông, vượt quá xa những gì các ông có thể tưởng nghĩ. “Các ông còn chưa tin vì mừng quá” (Lc 24:41). Chưa tin nhưng vẫn mừng, mừng nhưng lại chưa hẳn tin. Cảm xúc chưa hẳn là thước đo chuẩn xác của niềm tin, nhất là đức tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. “Và còn đang ngỡ ngàng, thì Ngài hỏi: Ở đây anh em có gì ăn không?  Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc 24:41). Bằng cách đơn giản ăn một miếng cá, Chúa Kitô cho các môn đệ thấy rằng đó chính là Chúa mà họ đã biết trước đây.

Chúa Kitô không phải là ma. Ngài không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng của tôi, cũng không phải là kết quả của suy nghĩ viển vông của tôi. Chúa Kitô sống lại, hiện diện thật hơn nỗi sợ hãi của tôi. Khi các môn đệ có những phản ứng trái chiều trước sự hiện diện của ngài, Ngài mời gọi họ hãy bình tâm và suy ngẫm Lời Ngài: “Ngài bảo: Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24: 44-46). Suy niệm Lời Chúa luôn dẫn đến sự thật về Chúa Kitô. Có phải tôi đang sống trong một thế giới ảo tưởng do chính tôi tạo ra bởi vì tôi không dựa vào Lời của Chúa Kitô khi suy nghĩ về những thực tại và kinh nghiệm trong cuộc sống của tôi? Tất cả những gì tôi cần làm là tin vào Lời của Chúa Kitô để vượt qua sự hoài nghi của mình.

Chúng ta cảm nhận nỗi sợ hãi, lo lắng và thất vọng cùng các tông đồ. Trong mối tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu, chúng ta cũng bị cám dỗ nghĩ về Ngài như một bóng ma, một ảo tưởng xa xôi nào đó. Nhưng như Ngài nói với các môn đệ, Ngài cũng có máu thịt như chúng ta. Ngài biết chúng ta được dựng nên như thế nào. Ngài chia sẻ mọi điều chúng ta cảm nghiệm và muốn cho chúng ta chia sẻ mọi điều Ngài trải qua, kể cả sự phục sinh của Ngài. Chúa Phục Sinh muốn gặp gỡ chúng ta, để từ bóng tối nghi ngờ, sợ hãi, chúng ta đến với ánh sáng hân hoan. Chúng ta hãy để Ngài nhắc nhở chúng ta: “Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây” và mang lại cho chúng ta sự tin tưởng, bình an.

2. Bình an của Đấng Phục Sinh

Sự quen thuộc của câu chuyện Tin Mừng này có thể khiến chúng ta quên đi sự khó tin của nó. Theo cách nhìn con người, cung cách của Chúa Giêsu hoàn toàn không ai có thể hình dung ra được. Hãy tưởng tượng bạn giảng dạy và hướng dẫn một nhóm mười hai người bạn trong ba năm, và rồi vào lúc bạn cần họ nhất, họ lại phản bội và bỏ rơi bạn. Không ai trong số họ đứng ra bảo vệ bạn khi bạn bị kết án tử hình một cách oan uổng. Chúng ta phản ứng thế nào khi bạn bè bỏ chạy vào thời điểm chúng ta đau khổ nhất? Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu không có ai đứng lên bảo vệ chúng ta trước đám đông thù hận? Chúa Giêsu có thể trở lại với các tông đồ và lên án: “Những kẻ đạo đức giả kia! Các ngươi nói sẽ chết vì Ta nhưng lại bỏ trốn hết! Ta đã làm cho các ngươi toàn những điều tốt lành mà sao các ngươi lại đối xử với ta như thế?” Thay vào đó, câu nói đầu tiên của Chúa Giêsu, khi gặp lại các tông đồ kể từ đêm Ngài bị phản bội và bỏ rơi, lại là: “Bình an cho anh em”. Chúa Giêsu không hạch hỏi và yêu cầu các môn đệ giải thích. Ngài không bận tâm chút nào đến việc lên án, đào sâu thêm nỗi lo lắng, sợ hãi, bất an của các tông đồ. Trước cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27). Bình an của Chúa Giêsu phục sinh hoàn toàn là phúc lành của Đấng Mêsia, đã thắng mọi kẻ thù, kể cả cái chết. Phúc lành bình an của Ngài lớn lao hơn sự yếu đuối, tội lỗi và chính cái chết của chúng ta. Nơi Ngài bây giờ chỉ hoàn toàn là bình an, thứ bình an vượt qua cái chết, đến từ cõi hằng sống bên kia trần thế.

Chúa Giêsu ban bình an và dường như Ngài không còn nhớ chút gì những hành vi phản bội của Phêrô, của Gioan và của mỗi người trong nhóm mười hai thân tín của Ngài. Ngài tha thứ. Sự tha thứ của Chúa Giêsu, sau khi sống lại từ cõi chết, đã làm các môn đệ của Ngài bình an, không còn nghĩ ngợi, băn khoăn, lo âu về bất cứ điều gì nữa. Họ sống lại. Tình yêu thương xót, vốn mãi mãi tha thứ của Ngài, ban cho họ Thần khí sự sống, và sự sống đó là bình an. Ngài trở lại để ban cho các tông đồ của Ngài ân huệ bình an, bình an làm phát sinh sức sống mới. Thánh Phaolô viết trong thư Rôma: “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8:6). Sự chiến thắng trọn vẹn của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết được thông truyền cho các tông đồ khi xưa, và cả chúng ta hôm nay, bằng một từ “bình an”. Ở đây, Ngài đang hỏi những câu hỏi để giải trừ mọi rối loạn và tháo gỡ mọi nút thắt của chúng ta: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?” (Lc 24:38). Chúa Giêsu đứng giữa sự dao động, sợ hãi, u mê, thiếu đức tin của chúng ta và nói: Tại sao anh em tiếp tục bất an? Ta đã sống lại, đã chiến thắng tử thần. Còn gì để anh em lo sợ cơ chứ?

3. Được tha thứ và tha thứ

Chúa Giêsu muốn tha thứ mỗi người chúng ta tương tự như vậy. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là mang lại ơn cứu độ cho chúng ta, để khôi phục lại sự bình an đã bị phá hủy bởi tội lỗi của chúng ta. Thiên Chúa không khư khư kể lể tội lỗi của chúng ta. Thiên Chúa không thu được gì khi để chúng ta sống trong tội lỗi. Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu là đền bù tội lỗi của chúng ta, như Thánh Gioan nói trong bài đọc thứ hai: “Chính Chúa Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1Ga 2:2). Chúa Giêsu đã vượt qua trần thế. Ngài ở với chúng ta, bảo vệ và bênh vực chúng ta. Ngài muốn ban cho chúng ta sự bình an. Sự bình an của Chúa có nghĩa là dù cả thế giới có chống lại chúng ta thì điều đó thực sự không thành vấn đề.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ cho người khác như chúng ta đã được Ngài tha thứ. Sự tha thứ của chúng ta làm cho người khác bình an như được sống lại. Tha thứ là giúp người khác biết rằng họ vẫn có thể trở nên tốt lành, ngay cả khi họ đã làm sai. Tha thứ là để người khác biết rằng họ vẫn có thể được yêu thương, ngay cả khi họ chưa biết yêu thương. Đồng thời, sự tha thứ mang lại cho chính chúng ta sự bình an, làm cho chúng ta sống lại, giải thoát chúng ta khỏi mối hận thù, tức giận, khiến chúng ta bất an. Tha thứ sẽ giải thoát, mang lại bình an. Chúa Phục Sinh đã làm như thế cho các tông đồ khi xưa. Đó cũng là ân huệ của Chúa Giêsu dành cho mỗi người chúng ta hôm nay. Ngài mời gọi chúng ta trao tặng món quà này cho nhau.

Khi lời chào “bình an” này phát ra từ môi miệng của Chúa Giêsu, nó xua tan mọi bóng tối, mọi sợ hãi của chúng ta và giúp chúng ta tự do vui mừng trong chiến thắng của Ngài, bởi vì đó cũng là chiến thắng của chúng ta. Sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh xua tan nỗi sợ hãi, mang lại bình an. Tôi có chấp nhận sự bình an mà Ngài đem lại không?

Phêrô Phạm Văn Trung

---------------------------------

 

PS 3-B199: NGƯỜI CÓ HIỆN DIỆN CHO CHÚNG TA KHÔNG?

 

Theo thông lệ hằng năm, như Chúa nhật 1 và 2 Phục sinh, bài Tin Mừng Chúa nhật thứ 3 này cũng PS 3-B199


Theo thông lệ hằng năm, như Chúa nhật 1 và 2 Phục sinh, bài Tin Mừng Chúa nhật thứ 3 này cũng tường thuật một cuộc hiện ra của Đấng Sống lại. Câu chuyện bắt đầu từ sau chuyến trở về của hai môn đệ làng Em-mau. Họ vừa “thuật lại cho nhóm Mười Một và các bạn hữu những gì đã xảy ra dọc đường, và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”, thì Người lại một lần nữa đến đứng giữa họ.

Ở đây, ta gặp lại 3 phần tiêu biểu của các cuộc hiện ra sau Phục sinh: 1- Đức Giê-su có sáng kiến; 2- Người tự tỏ mình; 3- Người ủy thác cho các môn đệ một sứ mệnh. Bản văn được Lu-ca soạn rất kỹ nhằm cho thấy Đức Giê-su đã làm thế nào để đưa các môn đồ từ từ đi tới đỉnh cao của thông điệp Vượt qua. Ở cc.36-43 (…ăn trước mặt các ông) : Đức Giê-su khắc phục tâm trạng yếu tin của các ông bằng những dấu chỉ cụ thể chứng tỏ Người đã phục sinh; ở cc.44-48 : Người giúp các ông hiểu rõ Kinh Thánh và xác định nhiệm vụ của các ông là làm chứng Người đã sống lại.

1. Người lại hiện diện giữa các môn đệ

Một lần nữa, Đức Giê-su lại hiện đến đứng giữa họ. “Người đã đứng giữa họ”. Để đánh giá được lời khẳng định này, phải nghĩ lại những gì các môn đệ vừa trải qua: cái chết của Đức Giê-su và việc an táng Người. Khi đặt tử thi này vào trong mộ, họ đã chôn cả niềm hy vọng của họ luôn : “Trước đây chúng tôi vẫn hy vọng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en… Thế nhưng các thượng tế và thủ lãnh đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi” (Lc 24,20-21). Nhưng đột nhiên Người có đó ! Kẻ đã chết, đã bị đóng đinh, đã bị chôn vùi đang đứng đó. Sống động ! “Giữa họ”. Điều chúng ta đọc hôm nay, có lẽ rất ư bình thản, chính là điều họ đã cố gắng kể lại, và chẳng phải là việc dễ dàng. “Người đã tự tỏ mình”, họ bảo. Họ đã chẳng thấy Người đến, đã chẳng nghe Người gõ cửa (Gio-an sẽ nói rõ : cửa đóng). Người đứng đó, mỉm cười, bình thản, kẻ từng được tháo khỏi thập giá và đặt vào trong một nấm mộ.

Họ nhớ lại những gì mình đã nghĩ: “Không thể được ! Đây là một bóng ma, là tất cả những gì người ta muốn, nhưng không phải là con người chúng ta đã thấy từ trần”. Họ đã chần chừ! Và các chần chừ ấy đã được kể lại cách trung thực cho ta để ta sống lại hết sức có thể kinh nghiệm Phục sinh của họ: “Người đã chết, nhưng nay Người đang sống”.

Đức Giê-su lường đúng cái bước mà môn đệ Người phải làm, và chúng ta cũng phải làm sau họ. “Vâng, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Đấng hiện ra với các môn đệ không phải là một xác chết hiện hình, cũng chẳng phải là “hồn mai phách quế”. Đó chính là kẻ đã từng ăn uống với họ, từng đụng chạm đến họ trước khi chịu khổ hình. Hoàn toàn không phải là một ảo ảnh… Họ có thể thấy Người, sờ đến Người. Đúng là Người. Và vì họ sướng điên lên (Lu-ca tìm một cái lý để bào chữa cho sự cứng tin của các môn đồ) nhưng vẫn còn hoài nghi, Người cho họ thêm một bằng cớ nữa: “ăn trước mắt họ”.

Mắt họ! Đó bây giờ là những con mắt của đức tin chúng ta. Vì có nhiều người, cách đây hai ngàn năm, đã thấy Đức Giê-su chết rồi sống lại, nên khi tin vào mắt họ (đức tin chúng ta dựa trên chứng nhân và chứng từ), chúng ta đi vào đức tin Ki-tô giáo : Đức Giê-su đúng là Con Thiên Chúa trở thành một con người, bị đóng đinh, chịu an táng, và được công nhận là vẫn sống sáng ngày Vượt qua.           

 2. Một sự hiện diện mới mẻ giữa chúng ta

Nhưng không phải là một kẻ sống như La-da-rô sau cuộc hồi sinh của mình. Lu-ca nhấn mạnh đến “xác thể tính” của Đức Giê-su phục sinh để chúng ta chớ nghĩ rằng các Tông đồ đã có những ảo tưởng, ảo tưởng cá nhân hay tập thể ; họ đã thực sự cảm nghiệm “một” sự hiện diện của Đức Giê-su hằng sống. Chính đó là điều cần tin, mà đừng cố hình dung, tưởng tượng “thân xác phục sinh” của Người. (Chớ nghĩ Đấng Phục sinh vẫn còn có những nhu cầu ăn uống. Thần học sẽ chỉ nói rằng đó là một thân xác chẳng còn lệ thuộc thời gian và không gian nữa).

Đức Giê-su từ nay thuộc về “thế giới khác”, mà cái nhìn của chúng ta cũng như các môn đệ không thể vươn tới được. Với các từ của mình, Lu-ca cố gắng tả cho chúng ta điều khó tả : Đức Giê-su đã trở lại với sự sống. Dẫu mặc hình thức nào mới chăng nữa, thì để vẫn là của con người, sự sống này cần phải diễn ra trong một thân xác và qua một thân xác. (Nên nhớ Lu-ca viết cho giới Hy-lạp quen xem thể xác là vật hèn mạt và sự kiện Phục sinh là điều phi lý. (x. Cv 17,32; 1 Cr 15,12).

Từ đó, tất cả đều là mầu nhiệm, và các tác giả Tân Ước, ngoài từ phục sinh (sống lại, chỗi dậy: résurrection) còn dùng một từ khác: tôn vinh (siêu thăng, rước lên trời: exaltation). Nghĩa là một sự phục sinh tuyệt đối độc nhất vô nhị. Đức Giê-su đã trở về với cuộc sống con người, nhưng là một cuộc sống con người cách khác hẳn, có thể vươn đến mọi người và cứu rỗi mọi người. Nhờ cuộc phục sinh, Người hiện diện với bất cứ ai, bất cứ đâu và bất cứ lúc nào.

Việc La-da-rô, con gái ông Gia-ia, con trai bà góa thành Na-im đã tìm lại được sự sống cho một vài năm, điều đó đã chẳng thay đổi cuộc sống chúng ta lẫn thế giới. Trái lại, cuộc phục sinh-tôn vinh của Đức Giê-su từ nay không những làm cho Người trở thành Đấng Sống trên đó cái chết chẳng còn quyền hành gì, nhưng còn là Nguồn sự sống nữa.

Sự sống nào đây? “Sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu” như thánh Gio-an sẽ nói, chính sự sống của Đấng Vĩnh cửu, Đấng Đời Đời mà Đức Giê-su phục sinh từ đây có thể thông ban cho mọi người : “Ai khát, hãy đến với tôi ! Ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!” (Ga 7,37). “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sự sống đời đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (6,54)

Tin vào Người, uống sự sống xuất phát từ Người, ăn mình và máu Người, biết mình chiến thắng sự chết như Người, những điều này tùy thuộc việc chúng ta tán đồng nhiều ít câu chuyện chúng ta suy niệm hôm nay: “Người đã đến, đứng giữa họ”. Chúng ta có tin Người đang hiện diện giữa chúng ta, trong thế giới hiện thời của chúng ta không ? Hiện diện qua hoạt động Người, qua các hành vi bí tích, hiện diện trong anh em ? Hiện diện trong tôi đến độ tôi có thể nói : “Sự sống của tôi chính là Đức Ki-tô” như thánh Phao-lô đã phát biểu không?

Đây chẳng phải là những mơ mộng đạo đức hay những sự thật chơi vơi giữa trời, nhưng là những kinh nghiệm phải có ngay lập tức, những kinh nghiệm sống với Đấng Hằng Sống. “Bất cứ tôi ở đâu, Đức Ki-tô cũng ở đó với tôi, trong giờ làm việc cũng như khi cầu nguyện, trong lúc buồn rầu và khi vui thỏa. Chúa đồng hành với tôi ở khắp mọi nơi tôi đi tới” (Thellier de Poncheville). Có như thế, chúng ta mới trở thành chứng nhân đích thực!

Một thanh niên kia hôm nọ tình cờ đi trên một con đường vắng và gặp quỷ Xa-tan. Mặt mày thật hung dữ, Xa-tan cầm chĩa ba tấn công anh ta tới tấp. Hắn hét to đến rợn người, đòi giết anh cho được. Sợ khiếp vía, anh nhìn chung quanh tìm người cầu cứu. Anh chợt thấy Đức Giê-su đứng cạnh đó, thản nhiên nhìn quỷ tấn công mình. Anh lùi về phía Chúa. Quỷ bước đến, anh lại lùi về phía Chúa nhưng Người lại lùi xa hơn. Cả ba lần như vậy, hoảng quá anh hét lên: “Chúa ơi, xin ra tay làm một việc gì mau đi! Xin cứu con với!” Tức thì lúc đó Chúa bước ngay vào người anh. Quỷ Xa-tan thấy vậy, liền hoảng sợ bỏ chạy.

Nếu chúng ta có Chúa ở một bên cuộc đời, chúng ta sẽ lùi bước trước ma quỷ. Nhưng nếu có Chúa hiện diện trong con tim, làm chủ cuộc đời mình, thì quỷ Xa-tan lùi bước, không dám tấn công chúng ta.

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

---------------------------------

 

PS 3-B200: CHÚA SỐNG LẠI, TA LÀ CHỨNG NHÂN


Anh chị em thân mến,

 

Trong những tuần qua, chúng ta đã được nghe các trình thuật nói về việc Chúa đã sống lại. Người PS 3-B200


Trong những tuần qua, chúng ta đã được nghe các trình thuật nói về việc Chúa đã sống lại. Người đã sống lại, đang hiện diện, đồng hành và sống với chúng ta, và chúng ta hãnh diện là các chứng nhân về sự sống lại đó của Người. Đó chính là sứ điệp trong bài Tin Mừng hôm nay. Mời anh chị em cùng nghe các diễn tiến trong lần hiện ra này.

Hai môn đệ, mà chúng ta chỉ biết một người tên là Cleopas, đang say sưa và vui sướng kể lại cho các môn đệ khác biết, trên đường đi Em-mau, Chúa Giê-su đã hiện ra cho các ông như thế nào. Bất thình lình, không biết từ đâu Chúa hiện đến, cắt ngang cuộc trò chuyện của họ và đứng giữa các ông rồi nói “Bình an cho anh em.” Họ nhìn thấy Chúa, nghe Chúa nói, nhưng lại không nhận ra Chúa mà còn tưởng là ma.

Họ không nhận ra bản tính thần linh và thánh thiêng của Chúa, Đấng đang ở giữa họ. Họ tiếp tục sống trong lối suy nghĩ của họ. Họ vẫn chưa nhìn ra sự sống và sự đổi mới mà Chúa Phục Sinh đem lại. Sự Phục Sinh không thể là một biến cố dựa trên lối suy nghĩ hay khám phá bằng lý trí của con người. Đó là một sự kết hợp và nối tiếp giữa chết và sống lại. Vẫn biết thân xác sống lại của Chúa là thân xác đã bị thương tích nhưng hôm nay thân xác của Chúa không bị ràng buộc bởi các qui luật tự nhiên của không gian và thời gian trong thế giới mà chúng ta đang sống nữa.

Bài tường thuật củng cố niềm tin của chúng ta. Tin thôi cũng chưa đủ mà còn phải làm chứng về sự sống lại của Chúa bằng chính lối sống của mình như Lời Chúa nói hôm nay rằng: anh em là chứng nhân về những điều mà anh chị em đã có kinh nghiệm.

Việc các môn đệ làm nhân chứng không có nghĩa là họ đã tìm và có được câu trả lời cho tất cả mọi sự. Cuộc sống nhân chứng có nghĩa là bây giờ họ và chúng ta có được cuộc sống theo đúng ý Chúa. Họ là nhân chứng không dựa trên những gì họ biết, nhưng dựa trên mối quan hệ của họ với Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại và cùng sống với họ.

Thật vậy, nhìn lại từ những ngày đầu tiên của Ki-tô giáo cho đến hôm nay, chúng ta nhận ra rằng chỉ có một chứng cớ thuyết phục con người mọi thời đó chính là đời sống chứng tá của các tín hữu. Với Chúa Phục Sinh, những ai tin vào Chúa đã đuợc biến đổi, sẵn sàng quay lưng lại với các tiêu chuẩn của nền văn hoá sự chết, rồi quyết tâm biểu dương văn hoá sự sống qua lối sống yêu thương, tha thứ và trao ban cho nhau sự sống.

Họ làm chứng cho thế giới nhận ra rằng Chúa đã sống lại và hiện đang sống mãnh liệt trong lối sống của họ. Đó là những gì mà Chúa Giê-su đã làm cho các môn đệ, và đó cũng là những gì Người muốn chúng ta lĩnh nhận.

Anh chị em thân mến,

Tôi vẫn biết rằng trong cuộc sống, chúng ta đã trải qua những khoảnh khắc khó quên. Những khoảnh khắc này đã ảnh hưởng và làm thay đổi lối suy nghĩ, hành động, cách cư xử của chúng ta. Trong các thời điểm đó, chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục Sinh, Đấng đổi mới cuộc sống của chúng ta. Đó chính mục đích mà Chúa Phục Sinh muốn chúng ta có.

Tuy nhiên trong bài Tin Mừng hôm nay, có một chi tiết mà chúng ta nên để ý đó là giây phút mà hai môn đệ nhận ra Chúa đã sống lại là lúc Người bẻ bánh. Và giờ đây, theo dấu chân họ, chúng ta hãy tự hỏi là mình đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh như thế nào?

Khi nói đến việc nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh là lúc chúng ta tin và nhận ra sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể và trong Thánh Lễ. Quả thực không sai!

Căn cứ vào sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta nhận thấy việc bẻ bánh đã có từ thời các Tông Đồ. Họ chuyên cần nghe giáo huấn của các Tông Đồ, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng… Họ sống hiệp nhất và yêu thương, mọi sự đều là của chung và ai nấy tiêu dùng theo nhu cầu của mình… Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được người người thương mến.

Và Chúa cho cộng đoàn thêm nhiều người tin vào Chúa và đuợc cứu độ. Qua đó chúng ta nhận thấy việc bẻ bánh đuợc thực hiện tuy với tâm hồn đơn sơ, nhưng lại rất thực tiễn. Họ không chỉ tham dự các nghi thức nhưng còn chia sẻ lối sống và san sẻ cho nhau tuỳ theo lợi ích và nhu cầu của từng người.

Lối sống này được nhấn mạnh như một lời mời gọi chúng ta nhìn lại việc làm của mình! Viêc cùng nhau cử hành bữa tiệc Thánh Thể, bẻ bánh mà chúng ta gọi là Thánh Lễ ngày nay có phản ảnh lối sống hiệp nhất và yêu thương của chúng ta hay không? Bằng không thì chúng ta đang lập lại những gì mà anh chị em tín hữu thuộc công đoàn Cô-rin-thô đã phạm phải trước đây.

Và sau đây là phản ứng và huấn dụ của Thánh Phao-lô:“…tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại… Khi anh em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say. Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!”

Sau đó Thánh Phao-lô nhắc lại cho họ biết sự hiện diện của Chúa Ki-tô Phục Sinh khi Người bẻ bánh. Rồi Ngài tiếp tục khuyên dậy họ cần xét mình, biện phân để khỏi bị xét xử. “Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án…” (1Cor 11: 17-34)

Như vậy việc nhận ra hay tin rằng Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện qua việc bẻ bánh thật cần thiết và quan trọng. Tất cả đã đuợc lưu truyền và làm chứng bởi đời sống của các chứng nhân qua bao thế hệ. Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn được mời gọi sống vai trò của những chứng nhân không chỉ bằng lối sống phụng vụ mà còn bằng chính cuộc sống chia sẻ và yêu thương của chúng ta nữa.

Và khi thực hiện đuợc như thế, chúng ta đã sống thật đúng như lời nhắn nhủ của Chúa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Thật vậy, sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thiên Chúa ở lại với chúng ta mãi mãi vì Ngài là Em-ma-nu-en. Đó là tinh thần mà chúng ta mang đến cho nhau qua bữa tiệc bẻ bánh. Không phải chỉ có chúng ta, nhưng Chúa Kitô Phục Sinh đồng hành và cùng hiện diện với chúng ta nữa. Vì Danh Nguời mà chúng ta chia sẻ và yêu thương nhau. Và chúng ta là những chứng nhân về các điều ấy.

Sau cùng, chúng ta biết rằng niềm tin của chúng ta dựa trên lối sống của các chứng nhân. Họ đã và đang làm chứng về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời họ. Và qua những lần bẻ bánh, chúng ta có bổn phận làm chứng cho nhau biết về sự hiện diện của Chúa.

Nói chung, Chúa Phục Sinh chính là trung tâm của cuộc sống chúng ta vậy. Amen.

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

-------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây