Trong một ngày đông giá lạnh, Martinô, lúc ấy đang còn phục vụ trong quân ngũ và chưa lãnh: 11/11-1
Trong một ngày đông giá lạnh, Martinô, lúc ấy đang còn phục vụ trong quân ngũ và chưa lãnh nhận niềm tin Kitô, gặp một ông ăn mày nghèo khổ đến độ không có lấy một mảnh vải che thân, đang ngồi tựa lưng vào bức tường giơ bàn tay khẳng khiu van xin từng đồng xu nhỏ của những người qua lại. Không sẵn tiền trong túi và cũng không có lương thực để cho, Martinô nhanh nhẹn leo xuống ngựa, tuốt gươm cắt phân nửa áo choàng của mình và quàng lên tấm thân gầy guộc của người ăn xin đang run rẩy vì cái lạnh buốt xương. Kẻ qua đường đồng thanh cười nhạo cử chỉ khác lạ của người thanh niên.
Đêm hôm đó, Martinô nằm mơ thấy chính Chua Giêsu bận nửa áo choàng mà chàng đã trao tặng cho người ăn mày và Chúa nói: "Martinô, tuy chưa lãnh nhận Phép Rửa Tội, đã đắp lên tôi chiếc áo này".
Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện truyền khẩu trên về hành động bác ái của thánh Martinô, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Chào đời vào khoảng thế kỷ thứ 4 tại Sabaria, nay thuộc nước Hungari, năm 20 tuổi, Martinô được gửi theo học tại Italia. Tuy là người không theo đạo Kitô, nhưng vì sống giữa các sinh viên Công Giáo, nên chàng đã suy nghĩ nhiều khi nghe bạn bè nói đến Đức Giêsu. Chàng nhất định tìm hiểu xem Giêsu là ai?
Nhưng chẳng bao lâu chàng bị động viên. Khoảng năm 350, rời khỏi quân ngũ, Martinô xin làm đồ đệ thánh Hilariô, giám mục thành Potiers. Nhận thấy Martinô là người đầy nhân đức và có học thức, giám mục Hilariô đã phong cho chàng các chức thánh.
Năm 350, bè rối Ariô bắt thánh Hilariô đem đi đày vì ngài chống lại họ. Martinô cũng bị giám mục thành Milan là người bệnh vực bè rối trục xuất khỏi giáo phận và sống trên một hòn đảo cùng với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được tha, Martinô trở lại Poachi và lập một dòng tu tại Luguygé. Năm 370, khi đến Cadet để hòa giải một bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, ngài đã ngã bệnh và từ trần tại đó.
Mỗi năm gần đến ngày lễ thánh Martinô thành Tôrinô, các trẻ em vùng nói tiếng Đức cũng náo nức như các trẻ em Việt Nam nôn nao đếm từng ngày trước lễ Trung Thu. Vì đây cũng là ngày các em rước đèn đi đến khoảng sân rộng để xem diễn tuồng thánh Martinô, với những bài hát ca ngợi tình yêu thương cụ thể của chàng sĩ quan trẻ tuổi, với vở tuồng được trình diễn bằng người ngựa thật và nhất là với những quà bánh thơm ngon được trình bày bán chung quanh chỗ diễn tuồng.
Chủ đích của cuộc lễ này vẫn là khắc ghi đậm nét vào lòng các trẻ em mẫu gương "xẻ áo" của thánh Martinô để giúp các em hiểu rõ lời Chúa Giêsu tuyên bố trong ngày phán xét: "Ta bảo thật: mỗi lần anh chị em làm những điều ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì là làm cho chính Ta vậy".
Thánh Martin sinh trưởng ở Sabaria bây giờ là Hung gia lợi. Ngài là con trai của một vị chỉ: 11/11-2
Thánh Martin sinh trưởng ở Sabaria bây giờ là Hung gia lợi. Ngài là con trai của một vị chỉ huy trong quân đội La mã nên theo luật thì ngài phải gia nhập quân đội khi đến 15 tuổi dù ngài không muốn vì bản tính ôn hòa. Tuy là người ngoại đạo nhưng ngài có một tâm hồn nhân ái rất gần gủi với tinh thần Kitô giáo.
hi đóng quân tại Amiens thuộc nước Pháp, một sự việc rất danh tiếng đã xẩy ra. Trong một mùa đông giá lạnh, thánh Martin gặp một người hành khất đang đói rét run rẩy xin bố thí. Không có tiền giúp đở, ngài liền dùng gươm cắt đôi chiếc áo choàng đang mặc, một nửa khoát cho người hành khất, nửa còn lại che ấm thân mình. Ịêm hôm đó ngài nằm mơ thấy Chúa Giêsu đang khoát nửa chiếc áo choàng mà ngài đã tặng người hành khất. Sáng hôm sau ngài quyết định xin rửa tội làm người Công giáo. Từ đó về sau thánh Martin nhìn hình ảnh Chúa Giêsu qua những người nghèo khó khốn cùng. Ý tưởng này trở thành lý tưởng cuộc sống của ngài.Với tinh thần hòa hiếu, thánh Martin xin thượng cấp ra khỏi quân đội. ẪTôi là chiến sĩ của Chúa Kitô tôi không thể chém giết kẻ khác.Ữ Trong lúc đó thì đơn vị của ngài đang sửa sọan đánh nhau với quân man rợ xâm lược. Bị kết án là người lính hèn nhát, ngày hôm sau Martin tình nguyện tiên phong ra trận tuyến, không mang vủ khí đến gặp quân thù nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Bị bắt cầm tù nhưng được thả ra sau khi hai bên đã giảng hòa, ngài được giải ngũ. Ngài liền đến Poitiers xin thụ huấn với thánh Hilary. Ngài gia nhập dòng tu Solesmes và chịu chức linh mục. Trong suốt mười năm sống cuộc đời tu sĩ trong thanh vắng yên tĩnh, ngài bị bắt cóc đến Tours để nhận chức Giám mục cũng ngoài ý muốn của ngài. Trong 25 năm tại vị, ngài tỏ ra rất yêu thương những người rối đạo lầm đường lạc lối, ôn hòa giúp đở họ trở về với đường ngay nẻo chính. Cuộc hành trình trần thế của ngài chấm dứt ở Candes năm 397. Từ đó cho đến nay người hành hương không ngớt đến viếng thăm mộ của ngài ở thành Tours nước Pháp. Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác
Chúng ta biết được thánh MARTINO nhờ Sulpicô Sêvêrê, thân hữu và nhà chép sử của Ngài: 11/11-3
Chúng ta biết được thánh MARTINO nhờ Sulpicô Sêvêrê, thân hữu và nhà chép sử của Ngài. Nhiều phép lạ động trời ông kể lại tuy khó tin nhưng đầy sống động và xác tín khiến các phép lạ chỉ còn khó tin đối với những ai chối bỏ thế giới thiêng liêng. Một cách chính yếu chúng ta có thể tin vào Sulpiciê được.
MARTINO sinh ra khoảng năm 315 ở Sabaria... miền Pannonia (hay là Hungaria) là con của một sĩ quan. Cha mẹ Ngài đều là lương dân, nhưng còn trẻ Ngài đã ghi tên làm dự tòng. Lúc 15 tuổi, MARTINO nhập ngũ và sớm được phái sang miền Gaule ngoại đạo (nước Pháp ngày nay). Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu gì, nhưng MARTINO tin vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai trò để đánh giày cho người hầu. Ơ cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ sẽ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. MARTINO nói:
- Tôi chỉ có áo quần và khí giới.
Rồi rút kiếm ra, Ngài xẻ đi chiếc áo cho người ăn xin. Câu chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó MARTINO thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa chiếc áo và nói với các thiên thần.
- Chính MARTINO đã mặc cho Ta đây.
Sau đó ít lâu vào khoảng 20 tuổi, MARTINO lãnh nhận phép rửa tội, nhưng vẫn phải miễm cưỡng ở lại trong quân đội hai năm sau khi quân rợ xâm lăng Gaule, MARTINO xin cấp chỉ huy, có lẽ là Constantinô để được từ nhiệm:
- Tôi là binh sĩ Chúa Kitô, thật sái phép nếu tôi phải phục vụ trong quân ngũ.
Bị coi là hèn nhát, Ngài bị giải pháp trong hành tiền quân tại chiến điạ. Tuy nhiên, quân rợ đã bao vậy nhưng không động binh. MARTINO được giai ngũ có lẽ năm 339.
Danh tiếng của thánh Hilariô giám mục Poitier đã thu hút MARTINO trở thành môn đệ của Ngài. Nhưng ao ước cho cha mẹ trở lại đạo, MARTINO đã trở về sinh quán ở Pannonia. Khi qua núi Alple, Ngài bị bọn cướp vây bắt. MARTINO đã nói với người sắp dùng búa giết Ngài:
- Một người Kiô hữu không sợ gì, nhưng chính anh lại phải sợ tất cả. Anh sẽ trả lời thế nào với Chúa khi anh phải trả lẽ cho đời sống đầy tội ác của anh ?
Ngài đã được tên cướp giải phóng và đưa hắn trở về với Chúa.
Tương truyền rằng: bên ngoài Milan, thánh MARTINO gặp qui và satan tuyên cáo rằng:
- Đi đâu mày cũng sẽ phải gặp tao.
Đáp lại, thánh MARTINO hứa hẹn với qủi một cuộc chiến cam go:
- Cả hai bên đều phải giữ lời nhé.
Thánh MARTINO được hạnh phúc thấy mẹ trở lại nhưng người cha không muốn nghe gì hết. Bị bắt bớ và bị người đồng hương đánh đòn, thánh MARTINO đi Gaule. Nhưng Ngài biết rằng: thánh Hilariô đã bị những người theo Kitô bắt đi đày. Ngài rút vào một tu viện gần Milan, nhưng bị những người theo lạc giáo săn đuổi và chạy ẩn vào một hoang đảo gần Ghênes, sống bằng cây cỏ. Ngày kia, Ngài bị trúng độc và như sắp chết. Theo thói quen, Ngài chống lại bệnh tật bằng lời cầu nguyện và cơn bệnh biến mất, Ngài gặp lại thánh Hilariô trên đường lưu đày trở về và xây dựng ở Lihugné. Gần Poitiers một nơi ẩn tu mà chẳng bao lâu đã trở thành cộng đoàn của các nhà ẩn tu.
Ngài được chọn làm giám mục thành Tour vì danh tiếng và sự thánh thiện của Ngài. Nhưng để đưa được Ngài ra khỏi tu viện, người ta phải kiếm cớ là có bệnh nhân ở Tours cần được chữa khỏi. Thày dòng vội vã ra đi nhưng chĩ gặp và một số giám mục đến tấn phong cho Ngài ngày 4 tháng 7 năm 371. Trong khi đó những người quí phái và lãnh Chúa chống lại “một người ăn mặc bẩn thỉu và đầu tóc rối bù”.
Vị tân giám mục vẫn giữ được chiếc áo len thô, ngai tòa Ngài là một chiếc ghế đẩu bằng gỗ. Càng nặng trách nhiệm Ngài càng cảm thấy cần hồi tâm. Ngài lập tu viện Marmoutiers với chủng viện và nhà trường. Các linh mục được đào tạo tại đó để nâng hàng giáo sĩ buông thả lên. Marmuotiers sắp sinh ra trường công lập đầu tiên là mẹ đại học Oparis.
Công cuộc truyền giáo của thánh MARTINO mở rộng khác thường. Đời sống luân lý của dân quê thật khắc khổ. Có những Kitô hữu hợp nhau với lương dân để mừng kính thần Jupiter, tập hợp quanh những dòng nước, nhưng cây cổ thụ. Vị giám mục truyền giáo không dừng lại ở giáo phận Ngài, nhưng đi khắp nơi tìm kiếm các linh hồn. Ở mỗi sào huyệt của ngẫu tượng, Ngài dừng lại giảng dạy cải hóa thay thế đền miếu bằng một thánh đường, và đặt linh mục Marmoutiers dẫn dắt. Thế là một giáo xứ thành hình. Thiên Chúa luôn giúp đỡ Ngài. Ở Ambroisé có một ngôi đền vĩ đại thờ thần Mars. Không ai dám nghĩ đến việc phá đổ. MARTINO cầu nguyện suốt đêm. Hôm sau một cơn bão lớn nổi lên phá đổ ngẫu tượng. Một nhà thờ được dựng lên và thế là giáo xứ Ambroise được thành lập.
Trong một thị trấn nhỏ, vị tông đồ truyền chặt bỏ cây cổ thụ được thần thánh hóa. Những người thờ ngẫu tượng nói:
- Nếu Thiên Chúa ông thờ quyên phép như ông nói, ông hãy nằm dưới chỗ cây đổ xuống, nếu ông thoát nạn, chúng tôi sẽ tin Thiên Chúa.
MARTINO nhận lời, cây bị đốn lung lay ngã xuống... sắp nghiền nát Đức giám mục... nhưng Ngài bỉnh tĩnh làm dấu thánh giá và cây bỗng quay ngược về phía đối diện.
Ở Apris Ngài chữa lành một người cùi, ở Treves Ngài làm phép dầu để chữa lành một cô bé bất toại, trên đường về Ngài phục sinh đứa con duy nhất Chúa một phụ nữ và toàn dân hò vang niềm tin vào Thiên Chúa. Tới gần Vandome tái diễn phép lạ: sau bài giảng làm động lương tâm người nghe, một phụ nữ đưa tới cho Ngài một em bé đã chết, quỳ xuống cầu nguyện và trả đứa bé sống lại cho mẹ nó.
Đây là một giai thoại đẹp về chiếc áo thánh MARTINO mặc, biến thành áo choàng sáng láng. Các Vua Chúa nhận lời thề của các chư hầu trên “chiếc áo choàng thánh MARTINO này” và người ta có lẽ đã hay gọi nơi giữ áo choàng này là nguyện đường (tiếng Pháp là Capelle hay Chapelle). Aix, nơi Charlemanghe ở trẻ thành Aix-la-chapelle, và tên chapelle này lan rộng để chỉ mọi nơi người ta đến cầu nguyện. Tới 80 tuổi, thánh MARTINO vẫn truyền giáo không mệt mỏi. Ngài còn chuộc các tù nhân, tham dự các cộng đồng. Ngài chỉ nghỉ ngơi đôi chút nơi các tu sĩ của mình, ở Marmoutiers để lại ra đi bằng bất cứ phương tiện nào dùng được cho việc truyền giáo. Trong một sứ vụ cuối tại địa phận, khi thấy cái chết tới gần, thánh MARTINO báo cho môn đệ biết, nhưng vẫn dâng lao lực của mình cho Chúa.
- “Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con không từ chối đau khổ và công việc nào, nguyện cho ý Chúa được thực hiện”.
Nằm trên tro như Ngài muốn. Thân thể lên cơn sốt, Đức giám mục vẫn đưa tay ngước mắt lên trời. Các tu sĩ xin Ngài xuôi tay, Ngài nói:
- “Các anh để tôi nhìn trời hơn là nhìn thế gian để hồn tôi theo đường ngay mà tới Chúa”.
Quỉ dữ tấn công Ngài lần chót, người ta nghe tiếng người hấp hối nói:
- “Đồ súc vật độc ác, mầy làm gì đó ? mầy không tìm được nơi tao điều gì đâu, đồ bị chúc dữ ! Chính lòng Abraham sẽ đón nhận tao”.
Đó là những lời sau cùng trước khi Ngài chết vào ngày 8 tháng 11 năm 379. Ba ngày sau ngày được mai táng ở Tours. Ngài là vị thánh đầu tiên không phải là tử đạo hay lừng danh vì cuộc tử đạo. Mộ của Ngài ở Tours là thành trì vững chắc chống lại dân man di. Toàn dân Pháp và các vị thánh của nước này suốt nhiều thế kỷ vẫn hành hương để khấn cầu vị cải hóa Gaule che chở.
Martinô chào đời trong một đồn binh của quân đội trú phòng tại Panônia khoảng năm 316, ngày 11/11-4
Martinô chào đời trong một đồn binh của quân đội trú phòng tại Panônia khoảng năm 316, ngày nay thuộc nước Hunggari, bởi vì thân phụ Martinô lúc ấy đang phục vụ trong quân đội Rôma. Lớn lên trong một gia đình ngoại giáo, nhưng Martinô như đã được ánh sáng nhiệm mầu soi chiếu, cậu đã sớm nghĩ đến đời sống thầm lặng của một ẩn sĩ để đáp lại tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa.
Lên 20 tuổi, Martinô được cha mẹ gửi sang Italia du học. Sống giữa nhiều bạn hữu Công giáo, hàng ngày được nghe nói đến Chúa Giêsu, tâm hồn Martinô, một hôm bỗng cảm thấy xao xuyến khác thường. Martinô tìm hiểu xem con người Giêsu ấy là ai mà được nhiều người kính yêu đến thế. Càng tìm hiểu, Martinô càng như bị một sức mạnh thôi thúc xin tòng giáo để được hiểu rõ hơn con người Giêsu kia.
Nhưng thật không may, công việc học đạo chưa xong thì Martinô phải theo lệnh Hoàng đế nhập ngũ lên đường viễn chinh. Phục vụ trong đội cận vệ của Hoàng đế Rôma, Martinô vẫn âm thầm cầu nguyện để mau được chịu phép Rửa tội. Lúc này trong đời sống quân ngũ, Martinô lại bị giằng co hơn nữa giữa hai cuộc sống: Một cuộc sống chơi bời dâm đãng, bóc lột dân chúng, hà hiếp kẻ nghèo và một cuộc sống thanh liêm, bác ái, trong sạch mà Martinô đã học được ở Panônia. Cuối cùng tâm hồn của con người thiện chí, giàu lòng bác ái ấy đã được mở ra để Chúa Giêsu bước vào.
Martinô đến Triviri xin làm môn đệ thánh Hilariô. Nhận thấy Martinô có nhiều khả năng về nhân đức và học thức, Đức Giám mục Hilariô muốn truyền chức Phó tế cho ngài. Nhưng vốn tính thích chìm lặng trong chiêm niệm và sống khiêm tốn nên Martinô nhất mực chối từ.
Ba năm sau khi trở về Panônia, Martinô đã thuyết phục được mẹ đón nhận ơn đức tin và theo Chúa. Còn người cha thì một mực chối từ không muốn hoán cải. Martinô trở lại Galia, nhưng vẫn một lòng tin tưởng một ngày nào đó thân phụ mình sẽ được đón nhận ơn Chúa.
Ngài đến ở Poitiers cũng là giáo phận và tòa của Đức Giám mục Hilariô. Martinô như đã tìm được một nơi thích hợp với chí hướng của mình. Vì nơi đây phong cảnh hữu tình, có đồi núi xanh tươi, có dòng sông uốn khúc quanh co. Lúc này Martinô đã có nơi chốn và thời giờ để phụng sự Chúa.
Ở đây, Martinô đã chiêu mộ được nhiều môn đệ và nhiều người trong vùng lân cận đến xin học đạo với ngài. Với nét hiền từ khả ái, sự thánh thiện và tình yêu Chúa như toả ra trên khuôn mặt, cử chỉ và lời nói, ngài đã chiếm được lòng mộ mến của mọi người. Từ đó danh tiếng thánh nhân ngày càng lan rộng, khiến dân chúng đem lòng ái mộ và họ đã nhất quyết bầu ngài làm Giám mục, năm 371.
Từ khi được làm Giám mục giáo phận Tours (372), thánh Martinô vẫn luôn sống cuộc đời khổ hạnh, không coi chức vị Giám mục như một vinh dự, nhưng muốn nên giống Chúa Kitô, vị Mục tử tối cao, xưa đã sống cuộc đời nay đây mai đó trên đường rao giảng Tin Mừng. Để làm hậu thuẫn cho việc truyền giáo, trước hết ngài đã thiết lập tu viện tại Ligugé quy tụ hơn 40 thầy dòng ngày đêm chuyên lo cầu nguyện để hỗ trợ cho công việc truyền giáo. Sau nhiều ngày âm thầm cầu nguyện tại tu viện, thánh Martinô đã bắt tay vào việc truyền giáo. Số 40 tu sĩ đan viện sẽ luân phiên một nửa ở tại nhà cầu nguyện, một nửa sẽ cùng với ngài đi rao giảng Tin Mừng trong khắp các giáo phận và các miền lân cận.
Quả thật, cuộc đời thánh Martinô là cả một chuỗi ngày lao nhọc vất vả vì Chúa và vì các linh hồn. Ngài đã biết trước giờ ra đi của ngài nhưng ngài chưa có thể nhắm mắt ra đi được: Vì các giáo sĩ của Hội Thánh ở Calde đang bất hoà với nhau, ngài phải tới đó để đem lại sự hoà thuận.
Sau một thời gian lưu lại thị trấn này và đã tái lập được sự hòa thuận giữa các giáo sĩ với nhau, ngài nghĩ đến việc trở về đan viện. Nhưng bỗng nhiên sức lực của ngài sút giảm trầm trọng. Ngài gọi anh em đến và cho biết mình sắp ra đi.
Họ khóc lóc khiến ngài cảm động. Ngài hướng về Chúa và chỉ đáp lại những người đang khóc bằng lời cầu nguyện sau: “Lạy Chúa, nếu con vẫn còn cần thiết cho dân Chúa, thì con không quản ngại vất vả. Chỉ xin cho ý Chúa được thực hiện”.
Nói những lời đó xong, ngài trút hơi thở cuối cùng để về trời... Đức Giám mục Martinô, con người khó nghèo và khiêm tốn tiến vào thiên đàng, hưởng phúc lộc tràn đầy của Thiên Chúa.
Thánh nhân qua đời ngày 8 tháng 11 năm 397 và được mai táng tại giáo phận Tours. Ngài đã được tôn phong Hiển thánh.
2. BÀI HỌC
* Đức tính đầu tiên mà người ta đặc biệt nói về ngài là lòng yêu thương những người nghèo khó
Một hôm, giữa lúc mùa đông trên đường đi công tác, thánh nhân gặp ngay ở cổng thành Amien một người ăn xin trần trụi, lạnh run lặp cặp. Ngài liền nhớ lại câu Chúa nói: “Ta trần trụi, các ngươi đã cho áo mặc”.
Đến gần người đó, ngài nói:
- Tôi không có tiền bạc, chỉ có áo quần và khí giới.
Nói xong thánh nhân rút kiếm ra, xẻ đôi chiếc áo choàng đang mặc, và trao cho người ăn mày một nửa.
Tương truyền đêm hôm đó trong giấc ngủ, thánh nhân thấy Chúa Giêsu choàng nửa chiếc áo ngài cho người ăn mày hôm qua và nói:
- Đây là chiếc áo Martinô đã cho Ta.
Một con người hy sinh, từ bỏ, dấn thân vì Chúa nên Chúa luôn yêu thương Ngài cách đặc biệt. Người ta có thể coi cuộc đời Ngài là một cuộc đời truân chuyên, gặp nhiều vất vả, khó khăn, đau khổ vì bị anh em bội bạc. Nhưng Ngài vẫn một niềm xác tín cậy trông vào Chúa. Ngài coi mọi sự là rác rến, thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là biết Ðức Kitô. Ðể bảo vệ đức tin và bác ái, Ngài luôn cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con sẽ không chối từ bất cứ việc gì”. Thánh nhân đã hăng say, giữ vững đức tin và củng cố đức tin để mong cho nhiều người nhận biết Chúa.
* Điểm thứ hai mà người ta nhận thấy ở nơi ngài là lòng yêu mến Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Truyền thuyết kể rằng: Một hôm, ma quỉ muốn cám dỗ thánh nhân đi vào con đường trụy lạc. Hắn liền hiện hình một vị vua oai phong huy hoàng đến với thánh nhân:
Martino hỡi con, cha cám ơn con về lòng tin của con đối với cha. Con cũng phải biết rằng cha luôn thành tín đối với con. Từ nay, con sẽ mãi mãi cảm thấy ở bên cạnh cha, con có thể hoàn toàn tín nhiệm ở cha.
Thánh nhân chăm chú nhìn ông vua kia hồi lâu rồi ngài hỏi:
- Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?
Tên quỉ đội lốt vua đáp:
- Ta là Giêsu Kitô đây.
Thánh nhân lại hỏi:
- Vậy thì vết thương đóng đinh ở chân tay ngài đâu?
Tên quỉ trả lời:
- Ta từ vinh quang trên trời xuống, nơi đó chẳng còn có thương tích nữa.
Thánh nhân đáp lại ngay:
-Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích. Tôi không thể tín nhiệm Đức Kitô không qua dấu hiệu thập giá.
Thấy mưu đồ bại lộ, tên quỷ lủi mất.
Lòng tín thác vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh phải là châm ngôn cũng như linh đạo của những ai muốn thuộc về Chúa thực sự.
Ít có nhân vật lịch sử nào mà cả cuộc đời có thể được tóm gọn trong một cử chỉ duy nhất, mạnh mẽ 11/11-5
Ít có nhân vật lịch sử nào mà cả cuộc đời có thể được tóm gọn trong một cử chỉ duy nhất, mạnh mẽ đến mức không thể phai mờ, sâu sắc đến độ gói trọn cả một đời người. Thánh Martinô thuộc về trường hợp đặc biệt này. Chiếc áo choàng nổi tiếng của ngài đã trở thành biểu tượng cho chính ngài. Thánh Martinô sinh khoảng năm 316 - 317 tại Pannonia thuộc vùng ngoại ô của Đế quốc Rôma vào thời suy tàn, ngày nay thuộc lãnh thổ Hungari. Là con của một viên sĩ quan quân đội, Martin lớn lên tại Pavie, nơi cha ngài là một cựu chiến binh được cấp đất định cư. Cha mẹ ngài đều là người ngoại giáo, nhưng cậu bé Martin lại sớm bị cuốn hút bởi Kitô giáo, và khi mới mười hai tuổi, ngài đã ước ao được sống đời khổ tu và ẩn dật trong sa mạc. Thế nhưng, một sắc lệnh hoàng đế đã buộc ngài phải đối diện với bộ quân phục và thanh gươm thay cho giấc mơ về đời sống cầu nguyện và cô tịch. Martinô bị gọi nhập ngũ và được phái sang xứ Gaule.
Một nửa cho Chúa Giêsu nghèo khó
Khoảng năm 335, khi đó người lính trẻ Martinô đang phục vụ trong đội cận vệ hoàng gia, vào một đêm mùa đông khi đang đi tuần tra, ngài bắt gặp một người ăn xin gần như trần trụi. Cảm động trước cảnh khốn khổ ấy, Martin liền cởi áo choàng của mình rồi xẻ đôi chiếc áo và trao cho người nghèo khó ấy một nửa. Đêm hôm sau, Chúa Giêsu hiện ra với ngài trong giấc mơ, mặc chính nửa chiếc áo choàng mà ngài đã tặng cho người ăn xin, và Chúa nói với các thiên thần: “Đây là Martinô, người lính Rôma chưa chịu phép Rửa, nhưng đã mặc áo cho Ta.” Giấc mơ ấy in đậm trong lòng người lính trẻ, và đến lễ Phục sinh năm sau, Martinô lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Trong suốt hai mươi năm tiếp theo, Martinô tiếp tục phục vụ trong quân đội Rôma, làm chứng đức tin giữa một môi trường hoàn toàn khác xa với những giấc mơ thời niên thiếu của mình. Nhưng đối với ngài, cuộc đời phía trước vẫn còn dài và Thiên Chúa vẫn tiếp tục dẫn ngài đi.
Từ hang ẩn sĩ đến chiếc áo Giám mục
Ngay khi có thể, Thánh Martinô đã rời bỏ quân ngũ và tìm đến gặp Thánh Hilariô, Giám mục Poitiers, một người kiên cường chống lại lạc giáo Ariô. Chính vì lập trường này, Thánh Hilariô bị trục xuất (vì hoàng đế Constantius II theo lạc giáo Ariô), còn Thánh Martinô, sau khi trở về quê nhà ở Pannonia, ngài cũng lánh đi đến sống cô tịch trong một đan viện ẩn tu gần Milan. Khi Đức Giám mục Hilariô được trở về, Thánh Martinô lại tìm đến gặp ngài và xin được phép thành lập một đan viện ở vùng phụ cận thành Tours. Những túp lều đơn sơ, đời sống khổ hạnh và cầu nguyện là khung cảnh quen thuộc của ngài. Người lính xưa từng khoác cho Chúa Kitô nghèo khó tấm áo giờ đây cũng trở nên nghèo khó như chính Người. Thánh Martinô cầu nguyện và đi rao giảng Tin mừng khắp nước Pháp, càng ngày càng có nhiều người biết đến ngài. Danh tiếng ấy dẫn đến việc Thánh Martin được chọn làm Giám mục thành Tours vào năm 371. Ngài nhận chức vụ ấy, nhưng vẫn giữ nếp sống đơn sơ chứ không sống như một vương giả, vì những người khốn khổ, những tù nhân và bệnh nhân vẫn tiếp tục tìm thấy nơi nương tựa dưới tấm áo choàng của ngài. Thánh nhân sống trong một đan viện ở Marmoutier, đan viện cổ nhất nước Pháp và không xa thành phố, nơi đây quy tụ hàng chục tu sĩ, phần lớn xuất thân từ giới quý tộc đã gia nhập đan viện cùng với ngài.
Một hiệp sĩ đích thực
Năm 397, tại Candes, vị Giám mục Martinô già yếu khi ấy đã tám mươi tuổi phải lên đường hòa giải một vụ chia rẽ trong hàng giáo sĩ địa phương. Nhờ sự hiền hòa và uy tín thiêng liêng, ngài đã đem lại hòa bình cho họ, nhưng trước khi kịp trở về, ngài bị một trận sốt dữ dội. Thánh Martinô qua đời khi nằm trên nền đất trơ trọi, theo như ngài hằng mong ước. Lễ an táng của ngài quy tụ một đám đông lớn những người đến tiễn biệt vị giám mục mà họ rất yêu mến, người đã hiến dâng cả đời mình trong sự quảng đại và liên đới như một hiệp sĩ chân thật của Chúa Kitô.
Martinô chào đời khoảng thế kỷ IV tại Sabaria miền Pannônia, nay thuộc nước Hung Gia Lợi 11/11-6
Martinô chào đời khoảng thế kỷ IV tại Sabaria miền Pannônia, nay thuộc nước Hung Gia Lợi. Năm 20 tuổi, Martinô được gửi theo học tại Ý. Tuy là người ngoại nhưng vì sống giữa các sinh viên Công Giáo, nên ngài đã suy nghĩ nhiều khi nghe bạn bè nói đến Giêsu. Ngài nhất định tìm hiểu xem Giêsu là ai?
Với ơn Chúa thúc đẩy, ngài quyết định học hỏi và tin theo dầu bị cha mẹ ngăn cản, nhưng chẳng bao lâu, ngài bị động viên. Trong những năm phục vụ tại quân ngũ, ngài vẫn thầm mong được trở thành Kitô hữu. Một ngày kia, sau khi đã chia cắt một phần áo choàng cho người ăn xin bên vệ đường, ngài cảm thấy có một sức lực mạnh mẽ thúc giục bên trong vì Chúa Giêsu đã hiện ra với ngài và sau đó, ngài đã hân hoan lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
Khoảng năm 350, rời khỏi quân đội, ngài xin làm đồ đệ thánh Hilariô, Giám Mục thành Potiers. Nhận thấy ngài là một người đầy nhân đức và có học thức uyên thâm, Ðức Giám Mục đã gọi ngài lãnh nhận các chức Thánh. Năm 350, bè rối Ariô bắt thánh Hilariô đem đi đày vì chống lại họ. Martinô cũng bị Giám Mục Milan là người bênh vực bè rối trục xuất khỏi địa phận và sống trên một hòn đảo cùng với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được tha, Martinô trở về Poachi và lập thành một dòng tu tại Liguygé. Năm 370, ngài được bầu làm Giám Mục thành Tours. Có thể nói trong thời kỳ này, ngài là một người truyền giáo lỗi lạc nhất. Năm 379, khi đến Cadet để hòa giải mối bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, ngài đã ngã bệnh và từ trần.
Cuộc đời thánh Martinô là cả một chuỗi ngày vất vả, đau khổ vì bị anh em bội bạc. Ðể bảo vệ đức tin và đức ái, ngài luôn cầu nguyện với Chúa: "Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con sẽ không chối từ bất cứ việc gì".
Một người chống đối hành động vô lương tâm muốn trở nên một tu sĩ; một tu sĩ bị gài ép để 11/11-7
Một người chống đối hành động vô lương tâm muốn trở nên một tu sĩ; một tu sĩ bị gài ép để trở nên một giám mục; một giám mục chống đối những người vô tôn giáo nhưng cũng xin tha thứ cho những người lạc giáo — đó là Thánh Martin ở Tours, một trong những vị thánh nổi tiếng.
Ngài sinh trong một gia đình vô tôn giáo ở chỗ bây giờ là Hungary và được lớn lên ở Ý. Là con của một cựu chiến binh, ngài bị ép buộc phải gia nhập quân đội vào lúc 16 tuổi. Ngài theo học đạo và được rửa tội lúc 18 tuổi. Người ta kể rằng ngài sống như một tu sĩ hơn là một binh sĩ. Năm 23 tuổi, ngài từ chối tham dự cuộc chiến của Hoàng Ðế Julian Caesar chống với thế giới bằng lập luận sau: “Tôi đã phục vụ ngài như một người lính; bây giờ hãy để tôi phục vụ Ðức Kitô. Hãy thưởng cho những người muốn chiến đấu. Nhưng tôi là một người lính của Ðức Kitô, và thật sai lầm nếu tôi đi đánh nhau.” Sau nhiều khó khăn, ngài được giải ngũ và trở thành môn đệ của Ðức Giám Mục Hilary ở Poitiers.
Martin được tấn phong làm người trừ quỷ và hoạt động tích cực chống với bè rối Arian. Ngài trở thành vị ẩn tu, trước hết sống ở Milan và sau đó sống ở một đảo nhỏ. Khi Ðức Hilary được phục hồi quyền bính sau thời gian lưu đầy, Martin trở về Pháp và thành lập tu viện có thể nói đầu tiên ở Pháp, gần Poitiers. Ngài sống ở đó trong 10 năm, đào tạo các môn đệ và đi rao giảng khắp nước.
Dân chúng ở Tours đòi hỏi ngài làm giám mục cho họ. Và ngài bị lừa đến thành phố này và được đưa đến nhà thờ, là nơi ngài lưỡng lự nhận chức giám mục. Một vài giám mục tấn phong nghĩ rằng ngài không xứng đáng làm giám mục vì cái bề ngoài xuề xòa và mái tóc thiếu chải chuốt của ngài.
Cùng với Ðức Ambrôsiô, Ðức Giám Mục Martin chống với Ðức Giám Mục Ithacius về đề nghị xử tử những người lạc giáo — cũng như sự can thiệp của hoàng đế vào vấn đề này. Ngài còn thuyết phục được hoàng đế tha chết cho Priscillian (người chủ trương những điều sai lạc về nhân tính của Ðức Kitô). Vì những nỗ lực này, Ðức Giám Mục Martin bị cho là cùng phía với bọn lạc giáo, và sau cùng Priscillian bị xử tử. Sau đó Ðức Giám Mục Martin xin chấm dứt việc bách hại những người ở Tây Ban Nha theo tà thuyết của Priscillian. Ngài còn muốn cộng tác với Ðức Giám Mục Ithacius về một vài lãnh vực, nhưng vì lương tâm không thấy ổn thỏa nên ngài đã bỏ dở ý định ấy.
Khi đến giờ chết, các môn đệ xin ngài đừng bỏ họ. Ngài cầu nguyện, “Lạy Chúa, nếu dân của Ngài vẫn còn cần đến con, con sẽ không từ chối làm việc. Nhưng con xin vâng theo ý Chúa.”
Lời Bàn
Ðiều Thánh Martin quan tâm về sự cộng tác nhắc nhở cho chúng ta biết hầu như không có gì hoàn toàn trắng hoặc hoàn toàn đen. Các thánh cũng là những tạo vật ở trần gian: Họ cũng phải do dự khi quyết định như chúng ta. Bất cứ quyết định nào của lương tâm đều ít nhiều có sự liều lĩnh. Nếu chúng ta chọn đi hướng bắc, có thể chúng ta không biết được những gì xảy ra ở hướng đông, hướng tây hay hướng nam. Tuy nhiên, quá thận trọng không dám quyết định thì cũng không phải là nhân đức khôn ngoan, thật vậy, nếu cho rằng “không quyết định là sự quyết định” thì đó là một quyết định sai lầm.
– Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh (khoảng 317-397), Lễ nhớ buộc
I. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Thánh Martin de Tours mất ngày 8 tháng 11 tại Candes (Touraine). Lễ nhớ được mừng từ thế 11/11-8
Thánh Martin de Tours mất ngày 8 tháng 11 tại Candes (Touraine). Lễ nhớ được mừng từ thế kỷ VIII, vào ngày 11 tháng 11, là ngày ngài được an táng tại thành phố Tours. Nhưng ở Gaule, việc tôn kính ngài đã phổ biến từ thế kỷ V.
Tên gọi Martin lấy từ tiếng Latinh Martinus = thần Marx nhỏ, thần chiến tranh. Theo ông Sulpice Sévère († 420), học trò và người viết tiểu sử ngài, ngài sinh tại Pannonie (Hungari) khoảng năm 317. Là con một sĩ quan Rôma, ngài được học hành tại Pavia (Ý) và được chiêu mộ vào đội cận vệ hoàng gia. Tuy cha mẹ ngài là dân ngoại, ngay từ tuổi nhỏ, ngài đã xin học đạo. Được gửi sang Gaule, người lính trẻ này khi đến cổng thành Amiens đã chia sẻ áo choàng của mình cho một người nghèo. Đêm hôm sau –Sulpice Sévère thuật lại– thánh Martin “thấy Đức Kitô mặc một nửa tấm áo choàng mà ngài đã phủ lên người nghèo khổ kia. Và ngài nghe Chúa Giêsu nói với các thiên thần bằng một giọng nói vang dội: Trong khi còn là người dự tòng, Martin đã mặc cho Ta tấm áo này.”
Ngài rời bỏ binh nghiệp và chịu phép rửa tội năm 20 tuổi, rồi trở thành học trò của thánh Hilariô, giám mục thành Poitiers. Giám mục Hilariô ban chức trừ tà cho ngài. Khi giám mục của ngài bị phe lạc giáo Arius bắt lưu đày, thánh Martin đã đến tận Pannonie để cải hóa mẹ ngài theo đạo. Sau đó ngài trở lại Gaule qua vùng Illyria và Bắc Ý rồi đến Poitiers với thánh Hilariô, lúc đó đã từ nơi lưu đày trở về.
Ở Ligugé, trong vùng Vienne, ngài lập tu viện đầu tiên ở Gaule. Nhờ lời cầu nguyện, ngài làm cho một người dự tòng đã chết sống lại, nhờ đó danh tiếng ngài lan rộng khắp vùng. Nhiều môn đệ đi theo ngài.
Thánh Martin được chọn làm giám mục thành Tours năm 371: nhiệm kỳ giám mục của ngài đánh dấu sự phát triển của Kitô giáo trong vùng Gaule phía tây. Vì có ơn gọi tu sĩ, ngài lập gần thành phố Tours một tu viện tên là Marmoutier; từ đó ngài thường xuyên cư ngụ trong tu viện này. Các môn đệ qui tụ quanh ngài rất nhiều, trong đó phải kể đến Paulin của Bordeaux, sau này là giám mục Nole, và nhà chép sử Sulpice Sévère, tác giả cuốn Tiểu sử Thánh Mác-ti-nô, tác phẩm có công lớn trong việc phổ biến tiểu sử của vị thánh thành Tours. Công cuộc truyền giáo của thánh Martin mở rộng ra bên ngoài giáo phận. Ngài rảo qua khắp vùng Touraine, Berry, Auvergne. . . Người ta gặp ngài ở Autun, ở Paris. Trong những vùng đồng quê, ngài đã tổ chức những giáo xứ đầu tiên và nhiều tu viện được thiết lập với các tu sĩ truyền giáo theo gương thánh Martin, vừa chăm lo đời sống tu đức, vừa hăng say hoạt động rao giảng tin mừng.
Là con người hoà bình, thánh Martin kết thúc cuộc đời ở Candes, gần thành phố Tours, nơi ngài đến để hoà giải hàng giáo sĩ đang chia rẽ. Hôm đó là ngày 8 tháng 11 năm 397. Ngài được an táng ở Tours, thành phố có toà giám mục của ngài, và phần mộ này đã trở thành trung tâm hành hương đầu tiên ở Gaule. Thánh Martin là một trong số các thánh đầu tiên được tôn kính mà không phải là một thánh tử đạo. Người ta kể ra rất nhiều phép lạ ngài đã làm; không vị thánh nào trong thời Pháp cổ xưa nổi tiếng như ngài. Bốn ngàn ngôi nhà thờ được dâng kính ngài và gần năm trăm làng mang tên của ngài.
Các ảnh thánh về ngài rất nhiều, thường vẽ ngài dưới dạng một lính lê dương Rôma hay một giám mục với mũ gậy, hay như một người làm phép lạ. Truyền thống dân gian đã giữ lại kỷ niệm về ngài qua lễ hội Mùa hè của lễ thánh Martin: người ta đặt tên như thế cho những ngày đẹp trời cuối cùng mà người ta thường tổ chức quanh ngày 11 tháng 11.
II. Thông điệp và tính thời sự
Lời Nguyện của ngày lấy ý tưởng từ cuốn Tiểu sử Thánh Martin của Sulpice Sévère, cũng như các điệp ca của Các Giờ Kinh Phụng Vụ: “Lạy Chúa, Chúa được tôn vinh nơi đời sống và cái chết của thánh giám mục Martin, xin canh tân nơi lòng chúng con những điều kỳ diệu của ơn sủng Chúa, để dù sự chết hay sự sống cũng không thể chia lìa chúng con khỏi tình yêu ngài.”
“Đời sống chứng tá” của thánh Martin, người lính, linh mục, giám mục, tu sĩ truyền giáo… chứng tỏ là một gương mẫu hoàn hảo của người chiến sĩ Chúa Kitô, biết qui hướng trước hết vào việc khám phá ra Chúa Giêsu nơi những anh em nghèo khổ nhất, hèn mọn nhất. Lời Tin Mừng (Mt 25, 31-40): … Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, và điệp ca Hiệp lễ: … Tất cả những gì các ngươi đã làm cho một trong số những người bé mọn này… đều chỉ về “lòng bác ái của thánh Martin” với điển hình là hành vi chia sẻ trên đường đến Amiens. Cái chết gương mẫu của thánh nhân cũng được nhắc đến trong Các giờ kinh Phụng vụ. Quả thực, chúng ta đọc trong đó: “Thánh Martin, con người khiêm nhường và nghèo khó ở dưới đất, nhưng giàu có Thiên Chúa, đã được đón nhận vào lòng ông Ábraham” (Điệp ca 3, Giờ Kinh Sáng). Điệp ca này lấy ý từ bài đọc tiểu sử của ngài: “Ngài (thánh Martin) thấy ma quỉ đứng gần ngài: “Mày đứng đây làm gì, hỡi con ác thú ? Đừng hòng làm gì được tao; ông Ábraham sẽ đón nhận tao vào lòng Ngài.” (Tiểu sử thánh Martin của Sulpice Sévère). Cái chết lành thánh của ngài còn được nhắc đến trong điệp ca 2 của Kinh Sáng: “Hai tay và cặp mắt hướng lên trời, ngài để lòng trí ngài chìm sâu vào kinh nguyện.”
Tác giả Sulpice Sévère ghi lại những lời thánh Martin nói với anh em tu sĩ của mình: “Anh em hãy để tôi nhìn lên trời…” Cũng thế, lòng sẵn sàng vâng theo thánh ý Thiên Chúa của ngài được làm nổi bật trong Điệp ca 2 của Giờ Kinh Chiều, trích từ Tiểu sử thánh Martin: “Lạy Chúa, nếu con còn có ích cho dân tộc con, con sẽ không từ chối làm việc. Xin cho ý Chúa được thể hiện.” Ngài đã trả lời như thế khi các anh em tu sĩ than khóc: “Cha ơi, sao cha bỏ chúng con ?.. Bày lang sói sẽ tấn công đoàn chiên của cha.”
Lời Nguyện trên lễ vật nhấn mạnh những “thử thách” của đời này và ám chỉ tới lòng can đảm của thánh Martin cũng như những đau khổ ngài đã phải chịu vì Tin Mừng. Luôn luôn trên đường đi loan báo Tin Mừng, ngài chiến đấu chống lại lạc giáo Arius ở Illyria và Milan, khiến ngài phải bị đánh đòn nơi công cộng, bị trục xuất và bị bạo hành. Cũng thế, với những người ngoại đạo, ngài luôn là mục tiêu tấn công của họ vì ngài phá huỷ các đền thờ và chặt bỏ những cây linh thiêng của họ. Vào cuối đời, ngài bị bách hại bởi các giám mục và linh mục khi họ chỉ trích quá khứ quân đội của ngài, lòng tốt lành đối với những kẻ lầm đường lạc lối, và đời sống đơn sơ của ngài. Chính vì vậy điệp ca của kinh Magnificat đọc: “Hạnh phúc thay thánh Martin ! Ngài đã yêu mến Vua Trời mà không sợ hãi các thế lực trần gian ! Ngài đã nhận cành cọ chiến thắng.” Và Đáp ca của Giờ Kinh Sách khích lệ chúng ta: “Đừng sợ hãi khiếp đảm: Chúa là Thiên Chúa của bạn ở với bạn bất cứ nơi nào bạn đến.”
Sulpice Sévère kết thúc sách tiểu sử thánh Martin bằng những lời sau: “Tôi hi vọng từ trên trời, ngài nhìn xuống và bảo vệ chúng ta, tôi là người viết, và bạn là người đọc những giòng này.”
Tìm hiểu xem Chúa Giêsu là ai mà các bạn bè sinh viên của thánh Mac-ti-nô đang hằng ngày đề 11/11-9
Tìm hiểu xem Chúa Giêsu là ai mà các bạn bè sinh viên của thánh Mac-ti-nô đang hằng ngày đề cập tới là nỗi khát khao của thánh nhân.
MÁC-TI-NÔ LÀ AI ?
Mac-ti-nô sinh vào khoảng thế kỷ thứ IV tại Sabaria miền Pannônia, nay thuộc nước Hung Gia Lợi. Năm 20 tuổi, Mác-ti-nô được gửi học tại Ý Ðại Lợi. Mặc dầu là người ngoại giáo, hằng ngày thánh nhân nghe nói về một tên Giêsu. Ngài tự nghĩ Giêsu là ai ? Ngài bắt đầu tìm hiểu về con người hết sức lạ lùng này. Dủ cha mẹ ngăn cản nhưng với ơn Chúa thúc đẩy, Thánh Thần Chúa tác động, thánh nhân hết sức học hỏi và tin theo con người mà bạn bè sinh viên luôn nói là Giêsu. Ngài tin Giêsu, nhưng chỉ ít lâu sau đó Ngài bị động viên. Ðời sống quân ngũ bắt buộc nhiều chuyện, nhưng Ngài vẫn ước mong được trở thành một kitô hữu. Một hôm bên vệ đường, thánh nhân đã cắt một phần tư chiếc áo choàng trao cho kẻ khó, Ngài cảm thấy có một sức mạnh bên trong khi Chúa Giêsu hiện ra với Ngài và Ngài đã xin rửa tội. Vào năm 350, khi thánh nhân được xuất ngũ, Ngài xin làm đệ tử của thánh Hilariô, Giám mục thành Poitiers. Ðức Cha Hilariô vì nhận thấy Mác-ti-nô là người có học thức, có lòng đạo đức thánh thiện, nên đã gọi Ngài lãnh nhận các chức thánh. Năm 350, Ðức cha Hilariô bị bè rối Ariô bắt giam vì đã dám chống lại họ. Mác-ti-nô cũng bị Giám mục Milan, Người bênh đỡ bè Ariô trục xuất ra khỏi địa phận và buộc sống trên một hòn đảo với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được tha, Mác-ti-nô trở về Poachi và lập một dòng tu tại Liguygé. Ngài được bầu làm Giám mục thành Tours vào năm 370. Người ta không tiếc lời ca ngợi Ngài như là nhà truyền giáo lỗi lạc nhất trong thời kỳ này. Ngài từ trần vào năm 379 khi đến Cadet để giải hòa mối bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ.
CHÚA YÊU THƯƠNG NGÀI Một con người hy sinh, từ bỏ, dấn thân vì Chúa. Chúa luôn yêu thương Ngài. Người ta có thể coi cuộc đời Ngài là một cuộc đời truân chuyên, gặp nhiều vất vả, khó khăn, đau khổ vì bị anh em bội bạc. Nhưng Ngài vẫn một niềm xác tín cậy trông, Ngài coi mọi sự là rác rến, thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là biết Ðức Kitô. Ðể bảo vệ đức tin và bác ái, Ngài luôn cầu nguyện;" Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con sẽ không chối từ bất cứ việc gì". Thánh nhân đã hăng say, giữ vững đức tin và củng cố đức tin để mong cho nhiều người nhận biết Chúa.
Lạy thánh Mác-ti-nô, giám mục xin giúp chúng con biết yêu thương người nghèo như thánh nhân.