"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng".
* Thánh Phanxicô chào đời tại Tây Ban Nha năm 1506. Khi đang học văn chương ở Pa-ri, người nhập đoàn với thánh I-nha-xi-ô. Người chịu chức linh mục ở Rôma năm 1537 và chăm lo thực hành việc bác ái. Năm 1541, người lên đường sang phương Đông. Trong mười năm, người can đảm loan báo Tin Mừng cho người Ấn Độ và Nhật Bản, giúp cho nhiều người hoán cải mà đón nhận đức tin. Người qua đời năm 1552 ở đảo Xanxian, cửa ngõ vào Trung Quốc.
--------------------------------
LỜI CHÚA: Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt.
Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Chúa Giêsu phục sinh hiện ra để củng cố đức tin của các môn đệ, để ban bình an cho họ sau những biến cố buồn đau, nhưng cũng là để sai các môn đệ lên đường đi sứ vụ. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). “Hãy đi và làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ…” (Mt 28, 19-20). “Phải nhân danh Đức Kitô mà rao giảng cho mọi dân tộc” (Lc 24, 47). “Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho mọi thọ tạo” (Mc 16, 15). Thế hệ các Kitô hữu đầu tiên rất trân trọng mệnh lệnh này. Bao vị tông đồ đã chịu tử đạo chỉ vì tuân giữ mệnh lệnh ấy. Ước mơ của Chúa Giêsu phục sinh thật lớn lao. Ước mơ ấy muốn ôm cả trái đất với muôn dân tộc. Ngài đã sống, đã chết và đã sống lại, chính là để cứu độ cả loài người. Ngài đã đem lửa đến trên mặt đất, và Ngài muốn chúng ta tiếp tục làm cho ngọn lửa ấy bùng lên (Lc 12, 49). Phanxicô Xaviê đã muốn sống mệnh lệnh này cách đặc biệt. “Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (c. 20). Phanxicô cũng muốn đi khắp nơi để nói về Chúa Giêsu cho ai chưa tin. Một năm trời lênh đênh trên biển để đi từ Bồ Đào Nha đến Ấn Độ. Ba mươi sáu tuổi bắt đầu công việc của một nhà truyền giáo ở Goa, Phanxicô chịu mọi lao nhọc để giảng dạy và rửa tội cho người bản xứ. Rồi Phanxicô lại lên đường đi Malaixia, Inđônêsia. và là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên tại Nhật Bản. Nhưng trái tim Phanxicô vẫn chưa dừng ở đó. Ngài còn muốn đặt chân đến Bắc Kinh để gặp Hoàng đế Trung Quốc. Phanxicô chết vì kiệt sức khi đang chờ trên hòn đảo Thượng Xuyên, mắt vẫn hướng về Quảng Đông chỉ cách đó 14 cây số. Hôm ấy là ngày 3-12-1552, khi Phanxicô mới bốn mươi sáu tuổi. Mừng lễ thánh Phanxicô, Bổn mạng các xứ truyền giáo, chúng ta nhớ Việt Nam vẫn là nơi cần được loan báo Tin Mừng, và Trung Quốc vẫn là nơi gần như Kitô giáo chưa được biết đến. Hơn 90% người dân Việt chưa nhận biết Đức Kitô. Hơn một tỷ người Trung Quốc cần được nghe lời rao giảng. Có ai còn nhớ đến những mệnh lệnh của Chúa phục sinh không? Có người nghĩ rằng chẳng cần phải loan báo Tin Mừng nữa, vì đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành, dạy sống theo lương tâm, vì các tôn giáo đều có nét hay riêng, đều là những con đường cứu độ, vì Đức Kitô Giêsu chẳng phải là Đấng Trung Gian duy nhất! Anh em hãy đi khắp thế giới, hãy làm cho muôn dân thành môn đệ! Lời ấy của Đức Giêsu phải là lời nhắc nhở Hội Thánh. Loan báo Tin Mừng hôm nay thuận lợi hơn xưa rất nhiều. Chúng ta không phải đi thuyền buồm để mà sợ đứng gió. Chỉ gửi một email, làm một trang web, là nhiều người nghe được Tin Mừng. Điều chúng ta thiếu lại là chút nhiệt thành nóng bỏng của Phanxicô. Xin cho tôi hiểu và yêu Ngài hơn, để dám giới thiệu Ngài cho thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái tim Chúa, ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại. Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày, nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau, và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống. Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định. Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng của những thất bại đắng cay trên đường đời. Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành để hết lòng phụng sự Nước Chúa, lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ. Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa. Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa để chúng con đi khắp địa cầu loan báo về Tình yêu và gieo rắc Tình yêu khắp nơi. Amen.
Sứ điệp: Được sống hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa là ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống con người. Không thể có hạnh phúc đích thực, khi con người chỉ biết nghĩ đến cuộc sống đời tạm này, mà không thiết tha với đời sống vĩnh cửu mai sau trên Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thánh Phanxicô Xaviê đã cảm nếm được hạnh phúc đích thực trong Chúa, nên thánh nhân đã hy sinh vất vả, đi nhiều nơi, vượt biển khơi, gặp gỡ mọi hạng người, làm sao để cho họ biết được giá trị thật của cuộc sống. Bởi vì: “Nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có ích lợi gì.”
Lạy Chúa, tâm hồn con luôn bị giằng co giữa sứ điệp của Tin Mừng và cuộc sống cụ thể từng ngày. Con vẫn biết rằng: được cả thế giới mà mất mạng sống, thì chẳng có ích lợi gì. Thế nhưng “mất mạng sống” thì còn xa quá, ở mãi tận cuối kiếp người, còn thế gian thì lại luôn hiện diện thật gần, ngay trong con người của con.
Lạy Chúa, có được những giây phút bình an khi thinh lặng, cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Chúa, thật là hạnh phúc khôn tả, đến nỗi, lúc đó chẳng tha thiết sự gì trên trần gian này nữa. Nhưng thật là hiếm và nhất thời. Khi con trở về với cuộc sống hằng ngày, đầy dẫy những bon chen, gian dối, con lại bị xoáy vào cơn lốc của chủ nghĩa hưởng thụ, chỉ biết có vật chất, rồi sống cho qua ngày, mà không thấy được một ý nghĩa nào cho cuộc sống của mình. Xin Chúa ban sức mạnh để con nhìn vào cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê mà bước đi trong chân lý của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”
Đây là đoạn cuối của Phúc Âm theo Thánh Máccô, ghi lại chỉ thị cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi về trời:
- Chúa chỉ thị: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Phúc Âm cho mọi loài thụ tạo”.
- Ngài hứa tích cực hỗ trợ những sứ giả loan truyền Phúc Âm bằng những dấu lạ kèm theo.
- Các tông đồ đã làm theo chỉ thị đó: rao giảng Phúc Âm khắp nơi, và “dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
Ý nghĩa “Những dấu lạ kèm theo”: Những dấu lạ như trừ quỷ (x. Cv 5, 12-16; 8, 7; 16, 16-18), nói tiếng lạ (x. Cv 2, 4-13; 10, 44-46; 1Cr 14, 2-40), đặt tay chữa bệnh (x. Cv 4, 30; 9, 10-17), cầm rắn mà không sao cả (x. Cv 28, 3-6) v.v… là bảo đảm có Chúa Giêsu trợ giúp các ông để chiến thắng mọi thế lực gian tà.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Thánh Phanxicô Xaviê được Giáo Hội đặt làm bổn mạng của các xứ truyền giáo. Ngài là người thực hiện đúng đoạn Phúc Âm hôm nay.
2. Người truyền giáo vừa rao giảng vừa “dùng những dấu lạ kèm theo” để củng cố lời rao giảng của mình. Trong bối cảnh thời nay, “những dấu lạ kèm theo” là một cuộc sống “lạ lùng” trước con mắt người đời nhưng đúng với tinh thần Phúc Âm.
3. Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi muốn muôn dân đến với Người. Phần chúng ta, hãy cộng tác với Người: hãy đi đến muôn dân để rao giảng Phúc Âm cho họ. Đến với muôn dân (Ad Gentes) là chủ đề lớn, là đầu đề của một sắc lệnh của Vatican II.
4. Một mục sư nói chuyện với một tín đồ lười biếng:
- Anh có thường đến nhà thờ không?
- Không. Người trộm lành hấp hối trên thập giá đâu cần đến nhà thờ thế mà vẫn lên thiên đàng.
- Có khi nào anh nói về Chúa cho bạn bè nghe không?
- Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có nói về Chúa cho ai nghe.
- Anh có đi truyền giáo không?
- Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có truyền giáo cho ai.
- Anh tưởng mình giống người trộm ấy ư? Không đâu. Có một khác biệt cơ bản: anh ta là một tên trộm đang hấp hối, còn anh là một tên trộm còn sống nhăn. (Ottobein Teacher)
5. Khuôn vàng thước ngọc: “Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, con tin rằng trong cuộc sống của con, bất cứ sự việc gì, ở đâu, lúc nào, Chúa vẫn tiếp tục công trình của Chúa. Con tin rằng con được mời gọi để nhận biết và hợp tác với Chúa, đồng thời đem công trình của Chúa, cũng như giới thiệu Chúa cho bạn bè thân thích, cho những người chung quanh con.
Lạy Chúa, xin ban cho con hiểu rõ trách nhiệm này, cho con lòng tin và can đảm, để thực hiện. Amen.
Có những người trực tiếp đi rao giảng Tin mừng cho người ta, ví dụ các nhà truyền giáo chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, các Linh mục, họ có thể loan báo một cách trực tiếp. Còn hầu hết mọi người chúng ta không có khả năng loan báo trực tiếp, mà chỉ bằng cách gián tiếp nhưng rất hữu hiệu như cầu nguyện, tham gia các hội đoàn, nâng đỡ các nhà truyền giáo, đóng góp vào qũy truyền giáo, nhất là bằng gương sáng.
Loan báo bằng cách sống đời thường
Chỉ có một cách loan báo Tin mừng thích hợp với mọi người, mọi nơi, mọi lúc, đó là loan báo bằng cách sống đời thường với châm ngôn: “Các con là ánh sáng thế gian. Các con là muối đất. Các con là men trong bột”. Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã loan báo bằng cách này và đã được một tác giả cổ xưa mô tả và gửi cho ông Thêôphilê như sau:
“Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một đời sống khác biệt. Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người kia.
“Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tuỳ theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như người khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ”(Trích Các Bài đọc Kinh sách, tập 2, tr 354).
Truyện: Đọc Thánh kinh hằng ngày
Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc…
Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi nhà láng giềng, tình cờ thấy cuốn Thánh kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng:
- Sao ông không đọc Kinh thánh? Nếu đọc, ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.
Người láng giềng lạnh nhạt trả lời:
- À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh!!!
Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì?
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).
* Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê trong một gia đình quyền quý của Vương quốc Navarre nhỏ bé miền Bắc nước Tây ban Nha ngày nay. Khi Ngài 5 tuổi, nước Tây ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình Ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi Ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris Ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Favre, và sau đó với Thánh Ingatio. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ingatio thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của Thánh Ingatio khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venezia miền Bắc nước Ý. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
* Tháng 4 năm 1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở vùng Mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Inđônêsia. Là vị Giám mục đầu tiên của Tỉnh Dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục Thánh Ingatio, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội Thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551) ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi, ngài trao lại cho một Linh mục Bồ đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Hoa truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
* Thánh Phanxicô qua đời ngày 3.12.1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ingatio vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Thánh Phanxicô Xaviê là vị truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời mới. Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến; ngài sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
B. TRÊN ĐUỜNG TRUYỀN GIÁO.
* Động lực thúc đẩy Ngài đi truyền giáo
Con đường truyền giáo của Ngài bắt nguồn từ lòng yêu mến Chúa và các linh hồn. Đây chúng ta hãy nghe chính tâm tư của Ngài. Tâm tư được bộc lộ trong lá thư Ngài gửi cho thánh Ignatio
“Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các Đại học bên Châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: “Khốn thay, có vô số linh hồn, vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục”.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã uỷ thác cho họ” (CGKPV trang 535)
* Phương pháp của Ngài là luôn kết hiệp mật thiết với Chúa.
Ở thành phố Yamaguchi miền Nam nước Nhật, Ngài dựng được một túp lều nhỏ để làm nhà nguyện. Ngài vẫn dâng lễ và cầu nguyện ở đó hàng ngày. Nhiều buổi sáng sớm người ta phát hiện Ngài ngủ say mê ngay cạnh bàn thờ.
Người ta nói rằng có nhiều ngày Ngài làm việc say mê đến mức độ không có đến cả giờ để đọc sách nguyện. Tuy nhiên, dù đêm khuya, Ngài vẫn muốn đến chia sẻ gian khổ và hy vọng của mình với người bạn chí thân là Chúa Giêsu. Lịch sử kể lại rằng một lần kia ngài quì gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vì quá mệt mỏi nên ngài ngủ gục ngay trên bục bàn thờ. Biết rằng làm như thế là không phải nên ngài đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa"
Rồi ngài đã lăn ra ngủ thiếp đi cho đến sáng.
* Và không quên cuộc sống của một chứng nhân.
Một ngày kia Thánh Phanxicô Xaviê đang giảng trong một thành phố Nhật bản, một người đến gặp ngài và muốn nói chuyện riêng với ngài. Ngài cúi đầu xuống để nghe cho rõ, thì bỗng nhiên kẻ kiêu ngạo đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Không có một lời hay có cử chỉ phản đối, ngài lấy khăn tay lau mặt và tiếp tục cuộc nói chuyện. Chàng kia kinh ngạc, tỏ vẻ kính phục thánh nhân. Một trong những người trí thức nhất thành phố có mặt một hôm ấy nhận định rằng đức tính khiêm hạ như thế nâng cao đạo đức, lòng can đảm và tự chủ, chỉ xuất phát từ Thiên Chúa cho các tôi trung của Chúa. Củ chỉ khiêm hạ của Thánh Phanxicô đã đánh động lòng ông, ông trở lại đạo công giáo và lôi cuốn rất nhiều người khác theo đạo. Đức khiêm hạ của nhà truyền giáo đã mang lại biết bao thành công cho việc mở mang nước Chúa.
Đây là lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Và lời Đức Mẹ: “Chúa hạ kẻ quyền thế khỏi địa vị của họ và nâng các kẻ khiêm nhường lên” (Lc 1,52)
“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: “Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy!”.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu… Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí, mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: “Hãy theo Thầy!”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy!”.
1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi, ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó, với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô, khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau, mới đến được Goa bên Ấn độ.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số.
Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó, đến Indonésia.
Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh, chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3/12/1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị: lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có gì, thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết, thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.
Ở Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức công phá, không gì có thể cầm lại được. “Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô, thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
- “Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi” (Bt 48,1: bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
- “Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại” (Bt 20,14);
- “Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình” (Bt 55,10).
- “Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau” (Bt 48,1).
- “Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài” (Bt,16).
- “Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm” (Bt 97,1).
- “Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được” (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6/5/1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết.
Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3/12/1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dở… Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại, chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân: “Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người” (Bt 78,2).
Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẵn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng, nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.
3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên.
Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “Hãy theo Thầy” để “ra đi và rao giảng cho muôn dân” (Mt 28,19).
Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: “Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình” (Bt 90,8.9).
Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc “Chúa đến viếng thăm”, là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, thuộc giáo phận Pampelune, nước Tây ban nha. Năm 17 tuổi đến Paris theo học tại trường đại học danh tiếng Sorbonne nước Pháp. Tám năm sau Phanxicô tốt nghiệp và được tuyển làm giáo sư triết học tại đại học này. Nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian.
Ngài có một người bạn thân là Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo lời Chúa vào tai Phanxicô: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì nào có ích gì”(Mt 16,26). Được ơn thánh Chúa tác động, Phanxicô đã cùng 7 anh em bạn đến Montmartre thành lập dòng Chúa Giêsu (ngày nay là dòng Tên) do Inhaxiô Loyola đứng đầu, cùng khấn khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ.
Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venetia miền bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tầu từ Lisbonne (Bồ đào nha) đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức thánh Cha Phaolô III.
Suốt 11 năm ngài đã đi giảng đạo tại Ấn độ, Tích lan, qua Nhật và còn dự định vào Trung quốc. Tại Ấn độ ngài rửa tội cho nhiều bậc quân vương. Tại Nhật ngài cũng được Nhật hoàng Bungolu hết sức cảm phục. Ngài đã vượt hàng ngàn cây số đường bộ nhất là đường biển và đã đem lại cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn. Ngoài thánh Phaolô chắc có ít vị thánh nào có hành trình truyền giáo như thánh Phanxicô.
Lòng nhiệt thành cứu các linh hồn còn thôi thúc ngài tới lục địa Trung quốc bao la để truyền giáo, nhưng đang trên cuộc hành trình tới đó, ngài đã qua đời tại đảo Tân châu (Trung quốc) ngày 03/12/1552. Xác ngài được đưa về mai táng tại Goa (Ấn độ). Năm 1622, tức sau 70 năm, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã phong thánh cho ngài cùng với thánh Inhaxiô và được đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ các môn đệ: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và con và Thánh Thần”(x. Mt 16,16). Sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ chia nhau đi khắp nơi để rao giảng Tin mừng. Việc rao giảng Tin mừng ấy còn phải được kế thừa trong Giáo hội. Như vậy, mọi người đều có trách nhiệm phải rao giảng Tin mừng trong hoàn cảnh thực tế của mình.
Thánh Phanxicô đã ý thức về điều đó. Ngài thấy rằng không có gì quí trọng bằng một linh hồn, bởi vì “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì có ích gì” (Mt 16,16). Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la, nhiều người đang sẵn sàng đón nhận Tin mừng, nhưng tiếc thay, không có người đi rao giảng cho họ. Mối thao thức của ngài được diễn tả trong bức thư ngài gửi về cho thánh Inhaxiô:
“Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ trở nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các đại học bên châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: “Khốn thay, có vô số linh hồn vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã ủy thác cho họ (Các giờ kinh Phụng vụ, tr 535).
Thượng hội đồng Giám mục Á châu đã cho thấy mối ưu tư của các Giáo hội ở Á châu. Về việc truyền giáo cho các dân tộc Á châu. Nhìn vào bản đồ Á châu, chúng ta thấy đây là một lục địa đông dân cư nhất, nhưng lại là lục địa có con số Công giáo thấp nhất, khoảng 2,6%. Đây là một thách đố lớn cho công việc truyền giáo. Giáo hội Á châu là một Giáo hội bé nhỏ trong một lục địa mênh mông được mời gọi rao giảng về sứ mạng tình yêu và phục vụ của Chúa Giêsu Kitô tại Á châu.
Thánh Phanxicô đã làm gương cho chúng ta về lòng nhiệt thành truyền giáo vì yêu Chúa và các linh hồn, ngài đã hy sinh tất cả bởi vì như ngài nói: “Tất cả đau khổ phiền muộn là nguồn vui sướng cho tôi”. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Ở đâu có tình yêu ở đó không còn khó nhọc nữa. Mà nếu có khó nhọc thì họ lại yêu thích chính sự khó nhọc đó”.
Vì thế, sau khi rửa tội cho một bà già đau nặng, ngài đã kêu lên: “Lạy Chúa, bỏ cha mẹ, quê hương, vượt trùng dương để cứu một linh hồn mà thôi thì con cũng thỏa mãn lắm rồi. Nay có chết con cũng vui lòng”. Điều đó chứng tỏ ngài yêu các linh hồn như thế nào.
Gương truyền giáo của thánh Phanxicô thật tuyệt vời, còn chúng ta thì sao? Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để “đi rao giảng cho muôn dân” (x. Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hằng ngày.
Một cách cụ thể, chúng ta thực hiện việc truyền giáo trước hết bằng lời cầu nguyện và bằng những việc hy sinh hãm mình. Chỉ có Chúa mới làm cho người khác tin Chúa mà thôi. Chứ người phàm không có khả năng làm được điều đó vì Chúa đã phán: “Hãy xin thì sẽ được” (Mt 7,7-8; Lc 11,9-10; Ga 14,13-14).
Thứ đến phải sống một đời sống tốt lành thánh thiện để làm gương sáng cho người khác vì như người ta nói: “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo”. Gương sáng có tính cách thuyết phục và hấp dẫn hơn lời nói như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Người thời này không thích những thầy dạy cho bằng nhân chứng”.
Chúng ta chỉ có thể truyền giáo bằng gương sống của chúng ta qua việc sẵn sàng giúp đỡ mọi người, qua việc thực thi bác ái của Tin mừng mà thôi. Ước gì đời sống mỗi người, mỗi gia đình là tấm gương tốt lành, công bằng, yêu thương minh chứng cụ thể cho đức tin và lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
Thánh Phanxicô Xaviê được mệnh danh là Phaolô thế kỷ XVI. Thánh nhân có tinh thần truyền giáo cao độ. Ngài luôn hướng tới Chúa và yêu mến các linh hồn. Phanxicô đi đi mãi tới các nước Châu Á. Ngài đến với Á Châu, đến với những con người chưa biết Chúa. Ngài luôn mang trong mình Ngài hai tình yêu đã nên một: tình yêu Ðức Giêsu Cứu Thế và tình yêu các linh hồn.
CON NGƯỜI ÐẶC BIỆT
Thánh Phanxicô sinh năm 1506 tại miền Xaviê thuộc địa phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình giầu sang, quyền quí, vị vọng. Thánh nhân có trí thông minh đặc biệt, nên vào năm Ngài lên 19 tuổi, cha mẹ Ngài gửi Ngài qua Paris để tiếp tục công việc đèn sách. Tám năm sau đó, Ngài tốt nghiệp đại học và trở thành giáo sư danh tiếng tại nước Pháp. Thánh nhân lúc đó miệt mài chạy theo danh vọng trần tục. Ngài coi trần gian là tất cả. Ý Chúa nhiệm mầu, cao sâu, huyền bí nào ai hiểu nổi. Một lời của Chúa đã khiến Phanxicô thay đổi tất cả: "Ðược lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?". Chúa đã dùng miệng lưỡi của thánh Ignatiô cũng là thầy dạy Ngài để nói lên điều đó. Chính lời Chúa đã biến đổi cuộc đời của Ngài tận căn. Chúa đã chiếm đoạt con tim của Ngài toàn vẹn. Thánh nhân đã trở thành khí cụ bình an đem Tin Mừng cho người Á Châu. Năm 1539, Ðức Thánh Cha Phaolô III đã sai Ngài đi truyền giáo cho dân tộc Ấn Ðộ.
Thánh Phanxicô đã miệt mài với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ðâu đâu Ngài cũng nghe tiếng thúc bách của các linh hồn: Ấn Ðộ, Macao, Nhật Bản, Trung Hoa cũng nằm trong trí óc và hiện ra trước mắt Ngài. Ngài đi mãi, đi hoài không mệt mỏi, không lo âu, sợ sệt và do dự. Mười một năm ròng rã loan báo Tin Mừng, cuộc đời thánh nhân là một cuộc hành trình dài không ngừng. Ngài lúc nào cũng được thúc bách bằng tấm lòng nồng cháy các linh hồn. Ngài đã đem không biết bao người về với Chúa, với Giáo Hội. Ngài có lòng khiêm nhượng tuyệt đối, Ngài luôn yêu mến và kính trọng bề trên của Ngài là thánh Ignatiô. Chúa đã giúp Ngài bằng nhiều phép lạ phi thường vì lòng nhiệt thành hăng say của Ngài đối với các linh hồn.
CHÚA ÐỘI MŨ TRIỀU THIÊN CHO PHANXICÔ XAVIÊ
Lòng hăng say nhiệt thành của Phanxicô, quên bản thân mình để cho nhiều người được hạnh phúc. Thánh nhân nhìn nước Trung Hoa với tình thương lênh láng, Ngài ước mong đem Tin Mừng và Giáo lý của Chúa Giêsu cho một dân tộc đông dân nhất thế giới. Ước mơ của Ngài chưa thể thực hiện thì ngày 02/12/1552, Ngài qua đời khi trên đường gần tới nước Trung Hoa, tại cửa ngõ bước vào Trung Hoa tại đảo Tân Châu. Xác thánh nhân được đem về an táng tại thành Goa nước Ấn Ðộ. Năm 1622, Ðức thánh cha Grêgoriô XV đã phong Ngài lên bậc hiển thánh và đến năm 1904, Ðức Giáo Hoàng Piô X đã đặt Ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Lạy Thánh Phanxicô Xaviê, xin ban cho mọi người chúng con ơn nhiệt thành, lòng quảng đại và tinh thần truyền giáo, để chúng con đem nhiều người về với Chúa và với Giáo Hội.
Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Favre, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được tuyên thánh trong thời gian gần đây theo thể thức “tuyên thánh tương đương”. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhaxiô thành Loyola.
Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì."
Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.
Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartres, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn Thánh Kinh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến giây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venitia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuộc hành hương đi thánh địa. Đức Thánh Cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhaxiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.
Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.
Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh Cha gửi các thừa sai sang Ấn Độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Ngài bộc lộ cho một người bạn: "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la: "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa".
Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.
Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo".
Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.
Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp Ấn Độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói: "Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".
Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...
Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trước đây sao?
Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: - "Thì tôi bơi tới vậy".
- Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao?
Ngài nói: - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.
Rồi Ngài thêm: "Ôi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".
Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhaxiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.
Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.
Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản.
Phanxicô trở lại Ấn Độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".
Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.
Năm 1619, Đức Thánh Cha Phaolô V đã tuyên chân phước cho Ngài. Năm 1622, Đức Thánh Cha Grêgôriô XV đã ghi tên Ngài vào sổ bộ các vị hiển thánh. Ngài được tuyên thánh cùng với thánh Inhaxiô. Thánh Phanxicô Xaviê được đặt làm bổn mạng các xứ (vùng, miền) truyền giáo.
Thánh Lm Phanxicô Xavie (Francis Xavier), vị Đại Thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, trong đó có Việt Nam, được Giáo Hội mừng kính ngày 3-12 hàng năm, và cũng là ngày giỗ của ngài, vì ngài mất ngày 3-12-1552.
Ngài sinh ngày 7-4-1506 tại Xavier, thuộc Vương quốc Navarre (nay là Tây Ban Nha). Tên khai sinh của ngài là Francisco de Jasso y Azpilicueta. Ngài là con út của ông Juan de Jaso, cố vấn riêng của Vua John III (Jean d’Albret, cai trị Navarre) và bà Doña Maria de Azpilcueta y Aznárez. Ngài có bà con với thần học gia và triết gia Martín de Azpilcueta danh tiếng.
Ngài là học trò của Thánh Inhaxiô Loyola (lập Dòng Tên, Society of Jesus= SJ), đồng sáng lập viên của Dòng Tên, là nhà truyền giáo và là một trong bảy tu sĩ đầu tiên của Dòng Tên tại Montmartre năm 1534. Ngài làm trưởng nhóm truyền giáo tại Á châu. Ngài có công truyền bá và duy trì Công Giáo ở Ấn Độ, kể cả Nhật, Borneo, quần đảo Maluku, và những vùng chưa có dấu chân các nhà truyền giáo. Tại những vùng này, ngài tiên phong và cố gắng học tiếng bản xứ, ngài thành công nhất ở Ấn Độ. Thật lòng ngài muốn tới Việt Nam, nhưng Chúa có kế hoạch khác, nên Việt Nam không được đón tiếp ngài.
Năm 1525, ngài học ĐH Sainte-Barbe ở Paris (Pháp). Năm 1530, ngài nhận bằng thạc sĩ văn chương và dạy triết học Aristotes tại ĐH Beauvais, tương lai rộng mở, danh vọng hứa hẹn. Ngài gặp Inhaxiô Loyola và Pierre Favre tại ĐH Sainte-Barbe. Thánh Inhaxiô đặt vấn đề với ngài: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Thế là ngài bỏ tất cả để đi tu và làm linh mục, rồi tình nguyện đi truyền giáo.
Thánh Inhaxiô cùng với Thánh Phanxicô Xavie và năm anh em khác thành lập Dòng Tên ngày 15-8-1534 tại một nhà nguyện ở Montmartre, cùng nhau khấn đức nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời, đồng thời khấn hoán cải người Hồi giáo ở Trung Đông. Dòng Tên đã được Đức Giáo Hoàng phê chuẩn, khi đó tu sĩ Phanxicô Xavie tới Venice (Ý) để thụ phong linh mục vào ngày 24-6-1537. Đến cuối tháng 10, bảy anh em tới Bologna và cùng làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie phục vụ một thời gian ngắn tại Rôma với tư cách thư ký của Thánh Inhaxiô. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie dành phần nhiều cuộc đời để truyền giáo tại Á châu, chủ yếu qua lại bốn nơi là Malacca, Amboina, Ternate (Nhật) và Trung Hoa.
Ngài rời Lisbon ngày 7-4-1541 lúc ngài 35 tuổi, đi cùng hai tu sĩ Dòng Tên khác. Từ tháng 8-1541 tới tháng 3-1542, ngài tới Goa, lúc đó là thủ phủ của Ấn Độ (thuộc địa của Bồ Đào Nha), ngày 6-5-1542, 35 tháng sau khi rời Lisbon. Mùa Xuân năm 1545, Lm Phanxicô Xavie đi Malaca (cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Khoảng tháng 1-1546, ngài rời Malacca đi quần đảo Maluku, nơi ngài truyền giáo 1 năm rưỡi cho dân đảo Ambon. Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1546, ngài trở lại Malacca.
Tháng 12-1547, tại Malaca, Lm Phanxicô Xavie gặp một người Nhật tên là Anjirō. Chính Anjirō cũng đã nghe nói về Lm Phanxicô Xavie từ năm 1545. Sau khi bị kết tội sát nhân, Anjirō trốn khỏi Nhật. Ông hết nói với Lm Phanxicô Xavie về quá khứ của mìn, về văn hóa và văn chương Nhật. Anjiro làm thông dịch cho Lm Phanxicô Xavie để giao tiếp với người Nhật. Và rồi Anjirō trở thành Kitô hữu người Nhật đầu tiên và lấy tên là Paulo de Santa Fe.
Sau khi qua đời, thi hài Thánh Phanxicô Xavie được an táng trên đảo Shangchuan. Tháng 1-1553, người ta khai quật mộ ngài và thấy thi hài ngài còn nguyên vẹn. Rồi người ta đưa thi hài ngài tới Nhà thờ Thánh Phaolô tại đảo Malaca vào ngày 22-3-1553. Ngày 11-12-1553, thi hài ngài lại được chuyển tới Goa. Hòm thánh tích của ngài được chuyển tới Nhà thờ Chúa Giêsu Giáng Sinh tại Goa từ ngày 2-12-1637.
Cánh tay phải, đã từng chúc lành và rửa tội cho nhiều người, được Tổng bề trên Claudio Acquaviva tách ra từ năm 1614 để trưng bày cho mọi người kính viếng tại Nhà thờ Il Gesù ở Rôma. Cánh tay trái của ngài được đưa về Macau. Cuối cùng được chuyển tới Nhà thờ Thánh Giuse năm 1978, rồi lại chuyển tới nhà nguyện Thánh Phanxicô Xavie trên đảo Coloane. Mới đây, thánh tích của ngài được chuyển tới Chủng viện Thánh Giuse và Viện bảo tàng Nghệ thuật Thánh (Sacred Art Museum).
Lm Phanxicô Xavie được ĐGH Phaolô V tôn phong chân phước ngày 25-10-1619, và được ĐGH Grêgôriô XV tôn phong hiển thánh ngày 12-3-1622, cùng với Thánh Inhaxiô Loyola. Cuối cùng, ĐGH Piô XI tôn phong Thánh Phanxicô Xavie làm bổn mạng các xứ truyền giáo (Patron of Catholic Missions).
Đọc các thư của thánh Phanxicô Xavier, ai cũng phải nhìn nhận đó là một con người hoàn toàn vị tha. Ngài luôn luôn nghĩ đến người khác, không màng đến lợi lộc, danh vọng, địa vị, và cả đến mạng sống mình nữa. Có khi ngài quan tâm đến một thanh niên cần chút vốn để về quê; có khi là một cô gái mồ côi vô danh cần lấy chồng. Tuy nhiên, quan tâm lớn nhất của ngài là phần rỗi linh hồn người ta. Chúa Giêsu nói: “Được lời lãi cả thế gian mà đánh mất sự sống mình thì nào được ích gì?” (Mt 16,26). Tính cách triệt để của câu nói ấy hẳn là đã thôi thúc trái tim vị tha của thánh Phanxicô Xavier. Ngài coi việc cứu rỗi các linh hồn là tối quan trọng và khẩn cấp, không gì có thể thay thế được. Chính vì vậy, ngài đi hết nơi này đến nơi khác, làm như không biết mệt mỏi và sợ hãi. Phải nói là ngài đã gào thét ‘như kẻ mất trí’ để kêu gọi giới học thức đừng chỉ vùi đầu vào sách vở để ủm kiếm vinh hoa phú quí, nhưng biết dấn thân cứu vớt các linh hồn. Ngài đòi các quan chức Bồ Đào Nha, và cả vua João III, phải tích cực giúp đỡ công cuộc truyền giáo. Trước mắt nhiều người, hẳn ngài là một kẻ quấy rầy dai dẳng. Tuy nhiên, ngài không chỉ kêu gào: chân trời góc biển nào ngài cũng có thể đến, bất chấp mọi khó khăn và nguy hiểm.
Ngài không chỉ là một tông đồ đơn độc. Mở được một con đường, ngài tìm người đến địa điểm mới để giúp đỡ các linh hồn ở đó. Dĩ nhiên người đặc biệt để ý đến Dòng Tên, dù mới khai sinh, nhưng rất năng động. Ngài xin Dòng ở Châu Âu gửi người sang tăng cường. Ngài tiếp nhận Học viện Thánh Phaolô ở Goa, rồi mở các trường học khác, để chuẩn bị cho tương lai. Gửi anh em đến các nơi, ngài hướng dẫn cách sống và cách làm việc, an ủi khi gặp khó khăn, khích lệ khi có kết quả, sửa bảo khi cần thiết. Ngài thấy điều quan trọng nhất nơi các thừa sai ở Ấn Độ là sức khỏe dẻo dai và đức hạnh vững chắc, để đối diện với hoàn cảnh hết sức khó khăn, để vượt qua những thử thách và cám dỗ, và để nêu gương sáng cho mọi người. Ngay từ đầu, ngài đã nghĩ đến việc gầy dựng hàng giáo sĩ bản xứ. Mặc dầu kinh nghiệm nhiều lần cho thấy là khó khăn, nhưng ngài vẫn quyết tâm theo đuổi. Cũng có lúc ngài hầu như ngã lòng, nhưng được thánh I-nhã khích lệ, ngài lại dứt khoát hơn. Đây là một trong những lý do chính khiến xảy ra bất đồng giữa ngài với cha Antonio Gomes, để rồi cuối cùng ngài phải khai trừ cha này ra khỏi Dòng Tên.
Đứng trước mọi vấn đề, quan điểm của ngài luôn luôn là quan điểm tông đồ. Trên tàu từ Bồ Đào Nha đi Ấn Độ, người ta khuyên ngài nên nhận một người giúp việc, nhưng ngài từ chối. Ngài tự giặt quần áo lấy. Phần ăn, ngài nhận từ bàn vị Tổng Trấn, dùng vừa đủ, những gì còn lại chia cho người nghèo. Phòng dành cho ngài, ngài cho người bệnh ở, còn chính mình ra nằm ngủ ở đống thừng chão, bên cạnh những thanh niên nghèo đi tha phương cầu thực. Khi có người bệnh, ngài chăm sóc phần xác và phần hồn. Con tàu chở ngài vượt biển được ngài biến thành giáo điểm. Ở Goa, trong lúc chờ đợi hai bạn đồng hành đến sau, ngài đi dạy giáo lý cho trẻ em, đi giảng cho người lớn, đi thăm bệnh viện, trại giam và trại phong. Chưa làm tông đồ ở địa điểm của mình được, ngài làm tông đồ ngay tại nơi lẽ ra người khác chỉ ngồi chờ. Khi xảy ra tranh chấp giữa các tiểu vương địa phương, ngài luôn luôn chủ trương chính quyền Bồ Đào Nha phải can thiệp để giúp đỡ công việc truyền giáo. Trong khi ngài chỉ chú tâm vào việc giúp đỡ các linh hồn, các quan chức Bồ Đào Nha thường lại chỉ chú tâm vào lợi lộc vật chất, do đó nảy sinh bao mâu thuẫn. Khi thấy ở Ấn Độ hoạt động tông đồ gặp nhiều trở ngại, không tiến lên được, vì các tín hữu bản xứ ‘bị mẹ Ấn Độ ruồng rẫy, cha Bồ Đào Nha khinh bỉ’, trong khi ở các nơi khác như Maluku, Nhật Bản, Trung Hoa, lại có triển vọng, ngài ra đi.
Vừa để duy trì vừa để phát triển hoạt động tông đồ, những người được sai đi phải giữ bầu khí yêu thương. Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em thương yêu nhau” (Ga 13,15). Chúa cũng cầu nguyện với Chúa Cha: “Xin cho chúng nên một để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,23).
Hàng ngũ giáo sĩ và tu sĩ ở Ấn Độ lúc ấy có Đức Giám Mục, vị Tổng Đại Diện, các đại diện giám mục ở mỗi địa điểm quan trọng, các linh mục triều khác, các thừa sai dòng Thánh Phanxicô và dòng Thánh Đaminh, cuối cùng là Dòng Tên. Phải hợp tác với nhau, thăm viếng giúp đỡ nhau, không nói xấu nhau, tránh làm gương xấu cho giáo dân. Đặc biệt phải tôn trọng Đức Giám Mục và các đại diện của ngài. Riêng trong nội bộ Dòng Tên, một mặt phải giữ kỷ luật chặt chẽ, mặt khác, và hơn nữa, phải giữ cho được bầu khí yêu thương. Thánh Phanxicô Xavier đưa ra một định nghĩa thời danh: “Dòng Tên là dòng yêu thương”. Không có cưỡng ép, nhưng phải chia sẻ. Ngài luôn luôn muốn biết tin tức về từng anh em ở Ấn Độ cũng như ở Châu Âu. Đặc biệt là lòng yêu mến ngài dành cho thánh I-nhã và các bạn đầu tiên của Dòng: lúc ngài qua đời, người ta thấy trên cổ ngài đeo một gói nhỏ, trong đó có bản lời khấn của ngài và chữ ký của các bạn ngài cắt từ các lá thư nhận được.
Thánh Phanxicô Xavier là một tông đồ di động. Ngài không phải là người có máu du lịch. Trước khi gặp thánh I-nhã, ngài ước mơ làm giáo sư, làm bác sĩ hay làm giám mục… để được hưởng vinh hoa phú quí. Ngài không hề ước mơ theo vết chân Christophe Colombo sang Châu Mỹ hay Vasco da Gama sang Châu Á, như cha Cosma de Torres chẳng hạn. Hơn nữa, là dân miền đồi núi, ngài xa lạ với biển. Một trong những điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với ngài là những nguy hiểm trên biển. Dầu vậy, ngài đã vượt gần 100.000 cây số đường biển. Theo tính toán của cha X. Léon-Dufour, S.J., trong mười hai năm hoạt động truyền giáo, thánh Phanxicô Xavier ở trên biển ba năm bảy tháng, tức là cứ ba ngày thì có một ngày trên biển, và mỗi ngày di chuyển trung bình 60 km. Ngài tự coi mình là người mở đường cho anh em, Dòng Tên cũng như các thừa sai khác. Và khi mở ra được một con đường, ngài vui mừng, rồi lại đi mở con đường khác. Một cha Dòng Tên cùng ở Ấn Độ với ngài nói: ngài không ở đâu yên được quá hai tuần lễ! Một cha khác nói: ngài không ngồi yên được bao giờ!
Chúng ta chỉ có thể lấy lời của Thánh Phaolô để hiểu được sự thôi thúc thâm sâu và mãnh liệt trong trái tim thánh Phanxicô Xavier: “Chúng tôi có điên thì cũng vì Thiên Chúa; chúng tôi có khôn thì cũng vì anh em: Tình Yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5, 13-14)
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, có đoạn (1 Cr 9, 16-19.22-23) thánh Phao-lô muốn chia sẻ ý thức trách nhiệm và thái độ cần phải có của một người ra đi rao giảng Lời Chúa. Ngài rao giảng không phải để tự hào, nhưng đó là sự cần thiết mà lương tâm bắt buộc ngài phải làm. Ngài rao giảng với thái độ của một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tự nguyện chấp nhận trở thành nô lệ của mọi người vì phần rỗi của họ, và theo lời Thầy Giêsu mời gọi: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo." (Mc 16, 15).
Như vậy Lời Chúa đã chỉ rõ, việc rao giảng Tin Mừng không hề có biên giới, cũng không phân biệt màu da hay chủng tộc, tầng lớp giai cấp hay chính kiến xã hội...Tất cả mọi người đều có quyền được thông chia phần phúc của Tin Mừng.
Và trao ban, theo Tin Mừng không phải là một việc tùy tiện. Muốn trao ban hay không tùy ý. Nhưng đó là ơn gọi bẩm sinh của con người. Không thể trao ban những thứ thừa thãi, hay những thứ không còn sử dụng được nữa. Mà là trao ban chính mình. Việc trao ban chỉ ý nghĩa và có giá trị khi được trao ban với ý thức và liên đới với tha nhân. Một hành động trao ban nhưng không, như Thầy Giêsu đã trao ban chính mạng sống mình, không vì tư lợi cá nhân hay vì mục đích nào khác, ngoài tình yêu thương. Mà sau này Người cũng truyền lại cho chúng ta: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." (Ga 15, 12)
Nhận ra ý nghĩa cuộc đời mình, từ lời thách thức của Tin Mừng: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?", đã khiến một vị giáo sư trẻ tuổi nhiều tham vọng, từ bỏ tương lai đầy hứa hẹn, chỉ để đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của tha nhân.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo. Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến gần, Phanxicô Xaviê đã nhận được lời thách thức trên đây từ một người bạn thân Ignaxiô.
Không thể cưỡng lại với Lời Chúa, Phanxicô đã đến Montmartre để cùng với Ignaxiô sống đời khó nghèo, khiết tịnh và phục vụ tông đồ theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha.
Đến năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô Xaviê lãnh chức Linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisbon của Bồ Đào Nha để lên dường đi truyền giáo tại Ấn Độ.
Trong 10 năm ngắn ngủi (1542-1552), Phanxicô Xaviê đã rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai, Indonésia và Ấn Độ. Chưa đạt được giấc mơ đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức vì bệnh tật tại một hải đảo xa xôi, cách Hồng Kông 100 cây số.
Thánh Phanxicô Xaviê là hiện thân của Tin Mừng phổ quát, không biên giới. Ngài nhận ra giá trị đích thực của Tin Mừng, và bổn phận của người tôi tớ Chúa. Từ giã vinh hoa phú quí, thánh nhân rong ruổi trên những nẻo dường Châu Á xa lạ. Cuộc đời của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ, bất hạnh thuộc mọi chủng tộc, mọi quốc gia. Ngài phục vụ họ suốt hành trình không biết mệt mỏi, nhưng luôn tràn ngập niềm vui, mà chỉ những người phục vụ trong yêu thương mới có được.
Như sự nghiệt ngã của rừng thiêng nước độc ở vùng đất xa xôi hẻo lánh, đã lấy đi mạng sống của ngài trong trơ trụi nghèo nàn.Thì sự nghiệt ngã mà ngày nay vẫn còn kéo dài và đang hằn sâu trên gương mặt khắc khổ của những con người, vì sự thật: bị cầm tù, bị nhục mạ, và chịu nhiều bất công, đói nghèo trên mảnh đất Châu Á nhỏ bé này Nghiệt ngã phận người, nhưng vinh quang cho tôi tớ Chúa.
Mừng kính thánh Phanxicô Xaviê, với tâm tình cảm tạ Chúa và tri ân, vì nhờ ngài chúng ta được biết Chúa để tôn thờ và mến yêu, được biết chân lý Sự Thật. Chúng ta xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh nhân, cho mỗi người Việt Nam hôm nay luôn ý thức trách nhiệm người thợ gặt của Chúa, trên cánh đồng truyền giáo mênh mông tại quê hương mình. Đặc biệt, xin Chúa ban ơn can đảm và bền đỗ đến cùng, cho những người đang bị bách hại vì sự công chính, xin cho họ biết đón nhận mọi thử thách, như dấu chỉ của lòng tín thác và niềm hy vọng cậy trông vào ngày Chúa quang lâm.
Ngày xưa con tầu là phương tiện vận chuyển người cùng vật dụng, hay trong dịch vụ buôn bán, từ nước này sang nước khác vượt sông biển xa xôi ngàn dặm, rất phổ thông trong đời sống.
Ngày nay, tuy có những phương tiện vận chuyển mới khác nhanh lẹ hơn, nhưng phương tiện bằng tầu thủy vẫn còn thích hợp.
Một con tầu không chỉ là phương tiện vận chuyển đồ trên thủy lộ, nhưng tầu còn là phương tiện đưa con người đi du lịch tham quan thắng cảnh trên sông ngòi, biển cả từ vùng này tới vùng khác, từ nước này sang nước khác. Phương tiện du lịch bằng tầu thủy ngày nay phát triển mạnh, đưa con người đến miền có nhiều cảnh thiên nhiên mới lạ thi vị mơ mộng.
Hình ảnh một con tầu có liên quan gì tới đời sống đức tin của chúng ta không?
Theo Kinh Thánh thuật lại ( St 7,1-24) khi nạn lụt đại hồng thủy dâng lên bao phủ khắp mặt đất 40 ngày đêm, gia đình Ông Noe đã vào sống trong một con tầu. Và nhờ sống trong tầu gia đình Ông mới sống sót không bị nước cuốn tiêu diệt như bao người khác.
Hình ảnh con tầu lịch sử Noe thầm nói lên ý nghĩa: Một ngôi nhà dùng để vượt qua những nguy hiểm trong đời sống. Ngôi nhà đó là Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Trong ngôi nhà đó, các Bí tích là nguồn nước sự sống, là nguồn lương thực đời sống đức tin cho con người.
Vì thế, xưa nay nhiều thánh đường được xây cất theo mô hình nhà thờ dài như một con tầu.
Khi sang loan truyền Tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa, mang con tầu Giáo Hội Chúa đến cho vùng đất xa lạ, các nhà Truyền Giáo cũng đã dùng phương tiện di chuyển bằng tầu vượt qua biển cả từ Âu châu sang tới Á châu, sang Việtnam. Trong số những vị đi truyền giáo đó có Thánh Phanxico Xaviê.
Thánh Phanxicô Xavie không chỉ dùng tầu vượt biển sóng nước đến Á Châu, nhưng Ông còn xây dựng con tầu Giáo Hội ở nơi đó nữa.
Sử sách không thấy nói đến Ông xây những ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy theo mô hình con tầu. Nhưng chỉ nói đến sứ vụ truyền giáo rao giảng Tin mừng với lòng nhiệt thành hăng say của ông thôi. Sứ vụ truyền giáo của Thánh nhân qui vào việc xây dựng ngôi nhà Giáo Hội nơi tâm hồn con người. Những ngôi nhà thờ tâm hồn con người, mà Thánh nhân đã xây dựng, để lại “ dấu vết ngàn xưa lưu ký”.
Cũng theo sử sách thuật lại, Thánh nhân đã mang làn nước Bí tích Rửa tội đến cho hàng chục ngàn người bên Trung Hoa bên Ấn Độ.
Làn nước Bí tích rửa tội Thánh nhân mang đến cho những con người đó, là chỉ lối cho họ đi vào ngôi nhà Giáo Hội của Chúa, nơi có nguồn nước sự sống, nguồn lương thực tâm linh cho tâm hồn con người.
Làn nước Bí tích rửa tội, Thánh Phanxico Xaviê đã mang đến cho họ, không chỉ có ánh sáng đức tin soi đường tới ngôi nhà con tầu Giáo Hội của Chúa, nhưng họ còn tiếp nhận một con đường, đúng hơn một truyền thống, giáo dục đào tạo Kitô giáo nữa.
Nền giáo dục đào tạo đó thể hiện theo chiều thẳng đứng: Trời và đất, Thiên Chúa và con người liên kết với nhau; theo chiều ngang nền chân trời: con người với nhau, con người với thiên nhiên, với quê hương đất nước, nơi sinh ra nơi sinh sống, cùng trong tương quan liên đới với nhau.
Nền giáo dục đào tạo đó đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật:
"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.”(Mt 5,2-12)
Nền giáo dục đào tạo đó lấy bác ái, khiêm nhường làm mẫu mực cho đời sống: “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.” (Kinh hòa bình của Thánh Phanxico)
Thánh Phanxicô Xaviê đã về trời từ hằng trăm năm nay, nhưng ngôi nhà đền thờ tâm hồn con người, qua làn nước Bí tích rửa tội, ngài đã xây dựng vẫn còn đó và tiếp tục phát triển nơi con người.
Thánh nhân không còn sống trên trần gian từ hàng thế kỷ nay. Nhưng nền giáo dục đào tạo Kiô giáo, mà ngài đã gieo trồng nơi những con người xưa kia, vẫn ăn rễ sâu nơi đời sống tin thần con người, vẫn luôn vang vọng ảnh hưởng đến suy nghĩ cùng cách sống của những thế hệ con người.
Nền Giáo dục đào tạo Kitô giáo đã giúp nhiều người xây dựng đời sống, tìm được niềm vui cùng bình an trong đời sống.
Phanxicô sinh năm 1506 tại Xaviê thuộc giáo phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài sang Ba Lê để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư đại học đó. Ðược nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục.
Nhưng một ngày kia, Chúa đã dùng miệng lưỡi thánh Ignatiô, cũng là thầy dạy, để nói cùng ngài: “Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi?”. Và Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Năm 1539, Phanxicô hăng hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ.
Mười một năm trường nhiệt thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đời sống thánh nhân là một cuộc hành trình không ngừng. Bước chân ngài len lỏi qua khắp các thành thị cũng như thôn quê để rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu. Tiếng ngài vang vọng từ Ấn Ðộ, Tích Lan đến Nhật Bản. Riêng tại Ấn Ðộ, ngài đã đem về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn và Rửa Tội cho nhiều bậc quân vương. Dù vậy, ngài luôn ấp ủ một tâm hồn khiêm nhượng hiếm có: Ngài thường quỳ gối để viết thư cho thánh Ignatiô là Bề Trên của mình. Chúa đã hỗ trợ lòng nhiệt thành của thánh nhân bằng nhiều phép lạ phi thường.
Ngày 02/12/1552, khi đang trên đường tới gần Trung Hoa thì ngài ngã bệnh và từ trần tại đảo Tân Châu (Sancian). Xác ngài được đem về mai táng tại thành Goa bên Ấn Ðộ.
Ðúng 70 năm sau, Ðức Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh (1622).
Và đến năm 1904, Ðức Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời Giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy”.
“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
“Hãy theo Thầy” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu…Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm ta nghe âm vang lời mời gọi. “Hãy theo Thầy”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy”.
1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 4.1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Indonésia. Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quãng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3.12.1552, được ĐTC Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
ĐGM Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị; lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng không có gì thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Sách Huấn ca viết:”Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc,ai gặp được người bạn như thế, là gặp được kho tàng” (Hc 6,14).
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt, Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Tình bạn là một ân huệ Chúa ban, là một “cơ duyên” Trời cho. Hiểu như vậy nên triết gia Platon đã nói: “Thượng Đế dựng nên các người bạn, và dẫn người bạn này đến với người bạn kia”. Ông vẫn nghĩ tình bạn là tia chớp huyền bí của thần thánh. Cicéron cũng phát biểu như sau: “Tình bạn như mặt trời trong cuộc sống chúng ta, là ơn lớn nhất sau sự khôn ngoan mà các thần linh ban cho con người”. Người ta không thể chế tạo được tình bạn. Sự nẩy sinh tình bạn vẫn còn là một bí ẩn. Bỗng dưng một ngày, tình bạn đã có đó. Thiên Chúa đã mở cánh cửa của lòng Phanxicô Xaviê.
Ở Paris sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Theo Thánh Augustinô: “Không có bạn, cuộc đời không thể nào hạnh phúc”. Chính tình nghĩa bạn bè đã nâng nhau lên. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì qúa uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh có sức công phá không gì có thể cầm lại được. ” Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó cùng với Ignaxiô thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu ” cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo. Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi (Bt 48,1);( bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1); Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại (Bt 20,14)…Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình (Bt 55,10). Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau (Bt 48,1). Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài (Bt,16)…Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm (Bt 97,1)…Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách đựoc (Bt 1,7).
Trên đường truyền giáo đến Nhật bản và Trung Quốc, Phanxicô Xaviê đã tuôn trào ngấn lệ khi đọc lá thơ của Inhaxiô. Cuộc trao đổi thơ từ đã làm cho tình bạn của họ trở nên sinh động, gây phấn chấn cho nhau dù không còn gặp lại nhau nữa. Họ cảm nhận được tình yêu thương nồng hậu của nhau, và điều đó đã giúp Phanxicô can đảm thực hiện cuộc hành trình đầy nguy hiểm và hoàn tất sứ vụ. Chính tình bạn thâm sâu tự cõi lòng đã hình thành những dòng chữ có giá trị vô song, khơi dậy sự sống tinh thần và niềm tin yêu quả cảm.
Trên hành trình truyền giáo, thánh nhân kết thân rất nhiều bạn bè. Đặc biệt, tại Maluco, Phanxicô quen thân vua Hồi giáo Hairun. Nhà vua mong mỏi Hồi giáo và Thiên Chúa giáo sau cùng có thể gặp nhau. ”Nhà vua tỏ ra ưu ái tôi khiến những kỳ lão buông lời trách móc. Nhà vua muốn tôi kết thân và nhà vua sẽ chịu phép rửa tội. Hairun muốn rằng tôi là bạn thân, vì người Công giáo và Hồi giáo đều là con một cha và một ngày kia cả hai sẽ hiệp nhất.”.
Một tình bạn trong sáng, thủy chung, nâng con người lên những tầm cao của sứ vụ loan báo Tin Mừng.
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản. Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6.5.1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết. Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên khinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu, tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quãng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3.12.1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dỡ…Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân:Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người (Bt 78,2). Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẳn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.
3. Triều thiên Hiển Thánh.
Cuộc đời truyền giáo của Phanxicô Xaviê tuy ngắn ngủi, nhưng công lao sự nghiệp của ngài thật lớn lao. Trong 12 năm truyền giáo, ngài đã đi bộ tới 100 ngàn cây số, và đã rửa tội với con số kỷ lục phỏng độ ba vạn người. Dẫu được thành công, và làm được những việc lớn lao, như lần kia có một người chết chôn từ hôm trước mà cha đã gọi ra khỏi mồ, thánh nhân vẫn một mực khiêm tốn, vâng lời bề trên. Mỗi khi viết thơ cho bề trên, bấy giờ là thánh Inhaxiô, Phanxicô Xaviê qùy gối mà viết. Với sự nghiệp và nhân đức như vậy, Phanxicô Xaviê xứng đáng được Giáo Hội liệt kê vào sổ những bậc đại thánh và làm gương mẫu muôn đời cho các nhà truyền giáo. Cha Phanxicô được phong Chân phước năm 1619 và được cất lên bậc hiển thánh năm 1622. Đức Giáo hoàng Biển Đức XIV lại đặt Thánh Phanxicô làm quan thầy nước Ấn Độ. Về sau Đức Giáo hoàng Piô XI lại tuyên phong thánh nhân làm quan thầy các xứ truyền giáo bên Á đông. Giáo dân Việt Nam từ lâu hằng tỏ lòng kính mến thánh Phanxicô Xaviê cách riêng. Nhiều xứ đạo, nhiều nam nhân đã nhận Ngài làm bổn mạng.
4. “Hãy theo Thầy”
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi. Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên. Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Mọi tiếng gọi đều hướng về lời mời gọi cao cả nhất: ” Hãy theo Thầy”.
“Hãy theo Thầy”, lời mời năm xưa cũng là lời mời được lặp lại trong từng ngày sống.
“Hãy theo Thầy”, sau những vấp ngã, yếu đuối và chối Thầy như Thánh Phêrô đã từng trải nghiệm.
“Hãy theo Thầy”, sau khi những giấc mơ trần tục bị tan vỡ bởi biến cố Núi Sọ mà các Tông đồ đã kinh nghiệm.
“Hãy theo Thầy” để dang tay ra và đến nơi mình không muốn đến như cuộc đời Thánh Phêrô.
“Hãy theo Thầy” để củng cố anh em và chăn dắt chiên của Thầy (Lc 22, 31-32).
” Hãy theo Thầy” để “ra đi và rao giảng cho muôn dân” (Mt 28,19).
Theo là phải biết, phải tin, phải yêu mến và phải làm như lời Thầy dạy.
Theo Chúa Giêsu là từ bỏ và vác thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác Thập Giá mình mà theo.” (Mc 8, 34).Chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh là nguồn linh hứng cho mọi ơn gọi. Hồng ân Thánh Thần của Thập giá là nguồn gốc mọi hồng ân. Khi từ bỏ mình, Thánh Phanxicô Xaviê không đi tìm danh lợi và sự hãnh diện cho chính bản thân. Từ bỏ mình cũng có nghĩa là từ chối nhiều điều kiện “thuận lợi ” trong cuộc sống giúp thăng tiến bản thân. Khi lựa chọn bước theo Chúa Giêsu, như các Tông đồ, thuyền lưới buông bỏ, gia đình cũng xin chia tay, ghế thâu thuế cũng trả lại. Từ bỏ mình chưa đủ, Chúa Giêsu còn đòi hỏi phải vác thập giá của mình mà bước theo. Vác Thập giá của mình đó chính là thái độ sẵn sàng đón nhận những vất vả, đau khổ, thử thách mà các môn đệ sẽ gặp suốt hành trình. Con đường theo Chúa Giêsu không trải đầy nhung lụa mà là những gai nhọn và gian nan. Con đường đó dẫn lối về hạnh phúc cho những ai dám từ bỏ để sống cho Chúa, dám sống đời hèn mọn, dám sống đời tận hiến với quyết tâm thuộc trọn về Chúa suốt đời. Đó là Ơn Gọi cho những người bước đi theo Thầy Giêsu.
Nhờ lời Thánh Phanxicô Xaviê chuyển cầu, xin Chúa cho chúng con được trung thành đi theo Chúa. Nhờ đó, chúng con thật sự trở nên chứng nhân, làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh, và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
Sau khi Phục Sinh khải hoàn, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và sai các ông: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15) Theo lệnh truyền đó, các tông đồ đã ra đi đem Tin Mừng cứu độ đến khắp mọi nơi. Thánh Phanxicô Xaviê mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, ngài cũng từ bỏ tất cả và tiếp nối sứ vụ của các tông đồ khi xưa, mang Tin Mừng tình yêu của Chúa Giêsu đến khắp vùng Á châu rộng lớn.
Thánh Phanxicô Xaviê chào đời vào năm 1506 tại Tây Ban Nha trong một dòng tộc quý phái. Khi cảm nhận sâu sắc bởi câu Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì” (Lc 9,25), ngài đã gác lại những khát vọng hoài bảo của mình và trở thành cánh tay cộng tác đắc lực với thánh Inhaxiô trong việc truyền giáo. Trong sứ vụ của mình, thánh nhân đã mang về rất nhiều linh hồn cho Chúa Kitô. Chính thái độ hiền lành, cung cách lịch sự và đời sống cầu nguyện kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa đã trở thành khí cụ hữu hiệu giúp cho thánh Phanxicô gặt hái được nhiều hoa trái trong sứ vụ của mình. Thánh nhân qua đời ngày 03/12/1552, được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XV tuyên thánh cùng với thánh Inhaxiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo (x. Phụng Vụ Chư Thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
Thật vậy, thánh nhân là một người con hiếu thảo muốn đem về nhà Cha những anh em đã lưu lạc xa gia đình. Nhìn vào tấm gương của nhà truyền giáo tài ba lỗi lạc này có nhiều nét giống với vị thánh tông đồ dân ngoại Phaolô: Phanxicô có tấm lòng nhiệt huyết dồi dào. Một ngọn lửa truyền giáo lúc nào cũng bừng cháy trong lòng, thoi thúc thánh nhân đem ánh sáng đức tin loan truyền cho mọi người. Dù gặp vô vàn khó khăn thử thách từ điều kiện sống, điều kiện ăn ở, khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa ở những nơi ngài đặt chân đến… Nhưng trên tất cả, ngài vẫn vui lòng đón nhận mọi sự “Miễn là Đức Kitô được rao giảng.” (Pl 1,18) Về phần chúng ta là những Kitô hữu, những nhà truyền giáo trong thời đại mới, chúng ta học được gì từ thánh nhân và sẽ làm được gì để tiếp nối sứ mạng Chúa Giêsu đã trao phó?
Trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có nói: “Vì vậy chúng ta hãy đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục.” (Số 49) Quả vậy, lệnh truyền của Chúa Giêsu không dành riêng cho một cá nhân hay một nhóm người nào. Từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu đều mang trên mình sứ mạng ngôn sứ, mọi người đều được mời gọi hãy ra đi để Chúa Kitô được đến với tất cả mọi người mọi nơi. Hãy nhớ rằng, khi loan báo Tin Mừng cho người khác cũng chính là phương thế hữu hiệu để chúng ta tự loan báo Tin Mừng ấy cho chính mình vậy.
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Phanxicô Xaviê đi đến các dân tộc Á châu để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Xin Chúa cũng đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tông đồ truyền giáo như thánh nhân, để chúng con biết noi gương thánh nhân để lại, biết can đảm ra đi, ra khỏi ranh giới an toàn của bản thân, để mang hạt giống Lời Chúa đến cho mọi người chung quanh bằng gương sáng việc lành, bằng những hành động yêu thương cụ thể, hay chí ít là bằng lời cầu nguyện chân thành cho anh chị em xung quanh mình. Amen.
Hôm nay mừng lễ kính thánh Phanxicô Xaviê, Giáo hội cho đọc đoạn Tin Mừng về mệnh lệnh Chúa trao cho các Tông Đồ đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian. Thánh Phanxicô Xaviê – vị thánh linh mục dòng Tên này – đã thực hiện triệt để lệnh truyền ấy, đã đem Tin Mừng đến cho Á Châu và đem rất nhiều người trở về với Chúa, và nay được phong làm Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo, trong đó có Việt Nam chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay tập chú đến hai điểm chính:
1. Lệnh truyền rao giảng Tin Mừng.
Trước khi về trời, lời trối cuối cùng của Chúa Giêsu là: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà rao giảng Tin Mừng cho mọi lời thọ tạo”.
Hãy đi: Đây là một mệnh lệnh mang tính trách nhiệm, chứ không phải một lời khuyên. Vì thế, đã là môn đệ Chúa, thì mọi người đều mang trong mình trách nhiệm truyền giáo. Đi: Nghĩa là lên đường, đến với nơi mình làm việc, nơi mình sinh sống, nơi mình tham gia các sinh hoạt… Truyền giáo là một hành động cụ thể qua lời nói và đời sống chứng nhân, chứ không phải “đạo tại tâm”.
Khắp tứ phương thiên hạ: Nghĩa là, việc rao giảng và làm chứng cho Chúa không hệ tại ở một không gian nhất định, nhưng bất kỳ nơi nào mình đến và trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Rao giảng Tin Mừng: Rao giảng Tin Mừng là rao giảng “Lời Chúa”, việc Chúa, và làm chứng cho Chúa, chứ không phải rao giảng “lời hay ý đẹp của mình bịa ra”, hoặc làm công việc của mình hay ngầm ý vinh danh mình.
Cho mọi loài thọ tạo: Lệnh truyền không giới hạn mình phải làm chứng cho Chúa trước một tôn giáo nào hay một tầng lớp xã hội nào, mà là cho bất cứ ai mình gặp gỡ.
2. Điều kiện để được cứu độ.
Tiếp theo lệnh truyền là lời khằng định của Chúa Giêsu: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án”.
Điều kiện bắt buộc để được cứu độ là tin và chịu phép rửa. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa. Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận Bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”).
Cần phân biệt giữa việc được rao giảng mà không tin và chịu phép rửa, khác hẳn với việc không được nghe rao giảng. Ơn cứu độ trước việc người ta cứng lòng không tin khác với việc người ta lầm lạc không được nghe biết Tin Mừng. Vì thế, việc truyền giáo luôn là một trách nhiệm khẩn thiết của mỗi chúng ta.
– Phép lạ kèm theo.
Cần lưu ý, những phép lạ chỉ là “kèm theo”, chỉ đóng vai trò phụ trong việc minh hoạ cho Lời Rao Giảng, nâng đỡ niềm tin người đón nhận và xoa dịu bớt phần nào nỗi đau khổ của kiếp nhân sinh; Lời Rao Giảng mới đóng vai trò chính trong niềm tin và ơn cứu độ.
Chính vì thế, mà chính Chúa Giêsu cũng nhiều lần từ chối làm phép lạ, vì người ta đòi hỏi Người. Niềm tin mà chỉ dựa trên phép lạ thì không còn là niềm tin nữa.
Lạy Chúa Giê-su, từ ngày chịu phép rửa tội, chúng con mang trên mình vai trò ngôn sứ, là luôn phải biết đem Tin Mừng đến cho người khác trong bất cứ hoàn cảnh nào, xin Chúa cho chúng con biết noi gương thánh Phanxicô Xaviê, luôn hăng say rao giảng Lời Chúa với cả sự khao khát, lời nói và hành động, hầu quê hương đất nước chúng con ngày một thêm nhiều người nhận biết và tôn thờ Chúa. Amen.
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại Tây Ban Nha. Năm 1525 Ngài du học Paris, nước Pháp. Nhờ sự hướng dẫn của chân phước Phêrô Favre và thánh Ignatiô, Ngài đã gia nhập Dòng Tên với ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 1537, được thụ phong linh mục ở Rôma. Năm 1541, Ngài đi truyền giáo vùng Á Đông theo lệnh của Đức Giáo Hoàng Phaolô III. Trong 10 năm truyền giáo tại Ấn Độ và Nhật Bản Ngài đã đi hàng trăm ngàn cây số và rửa tội được khoảng 100 ngàn người. Ngài qua đời năm 1552, tại đảo Xanxian, cửa ngỏ vào Trung Quốc. Năm 1622, Đức Thánh Cha Grêgôriô XV đã phong Ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1904, được Đức Giáo Hoàng Piô X đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Qua một vài điểm liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Thánh Phanxicô và qua Lời Chúa hôm nay, xin được gợi ý suy niệm vài ý tưởng sau đây:
1. Loan báo Tin mừng là nhiệm vụ bắt buộc mỗi Kitô hữu
Có một thời người ta quan niệm rằng “Việc loan báo Tin mừng là của các Giám mục, linh mục, tu sĩ”. Còn giáo dân chỉ cần giữ đạo là đủ. Đây là một quan niệm hết sức sai lầm. Nhiệm vụ truyền giáo là của tất cả mọi kitô hữu. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”(Mc 16,15). Khi dùng động từ “Hãy đi”, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở việc loan báo Tin mừng là nhiệm vụ của mọi người kitô hữu. Trong bài đọc I, Thánh Phaolô đã ý thức việc loan báo Tin mừng là nhiệm vụ “Bắt buộc”, Ngài nói: “Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm”. Ngài còn nói thêm: “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16).
Như vậy, ai cũng có nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Nhưng việc loan báo Tin mừng như thế nào thì tuỳ thuộc vào khả năng và hoàn cảnh của từng người. Có người lên đường đem Chúa đến với dân ngoại như thánh Phaolô, thánh Phanxicô Xaviê. Có người suốt đời cầu nguyện cho việc truyền giáo và cho phần rỗi các linh hồn như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Có người loan báo Tin mừng bằng việc bác ái như Mẹ Têrêxa Caculta. Có người loan báo Tin mừng bằng chứng tá đời sống, nhất là làm chứng bằng máu như các thánh Tử đạo…Mỗi chúng ta đã và đang loan báo Tin mừng bằng cách nào?
2. Loan báo Tin mừng vì ý thức được sự cao trọng của linh hồn
Khi còn học tại Paris, Thánh Phanxicô Xaviê đã thấm nhuần Lời Chúa mà thánh Ignatiô nhắc đi nhắc lại rằng: “Được lời lãi cả thế gian, thiệt mất linh hồn nào được ích gì”(Mc 8,36). Thật vậy, linh hồn là kho tàng vô giá, không có gì đánh đổi được. Mất linh hồn là mất tất cả. Giữ được linh hồn là được tất cả. Ý thức được điều đó, Ngài đã quyết định lên đường tới các miền xa xôi như Ấn Độ, Nhật Bản để giúp họ biết Chúa, biết cách sống để được rỗi linh hồn. Ngài đã làm việc tông đồ một cách nhiệt tâm, đến nỗi không còn giờ để nghỉ ngơi. Trong thư gửi cho Thánh Ignatiô, Ngài viết: “Từ khi đến đây, tôi chẳng ngưng chút nào: Tôi rảo khắp làng mạc, làm phép rửa cho nhiều trẻ em chưa được lãnh bí tích này. Tôi đã làm phép rửa cho một số rất đông các em chưa biết phân biệt bên phải với bên trái. Khi tôi đến các làng, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho chúng một kinh”(x. Bài đọc II, kinh sách ngày 03 tháng 12).
Ngài khao khát phần rỗi linh hồn người khác và mong muốn có nhiều người làm việc tông đồ. Cũng trong lá thư gửi cho Thánh Ignatiô, Ngài kể: “Tại các miền ấy, có nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu. Nhiều lần tôi đã có ý định tới các đại học ở Châu Âu, trước hết là đại học Paris, mà kêu gào khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng: Tiếc thay vì lỗi của các ông mà biết bao linh hồn thay vì lên thiên đàng lại phải xuống hoả ngục. Ước chi họ miệt mài với văn chương chữ nghĩa thế nào thì họ cũng miệt mài với công việc tông đồ như vậy, để có thể trả lẽ với Thiên Chúa về học thuyết của họ cũng như các nén bạc đã được trao phó cho họ”( x. Bài đọc II, kinh sách ngày 03 tháng 12).
Đó là những lời tâm huyết thốt ra từ một tâm hồn nhiệt tâm làm việc tông đồ: Khát khao vì phần rỗi linh hồn người khác. Sau này, chính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng đã thốt lên những lời tương tự: “Con cảm thấy lòng con khao khát phần rỗi linh hồn người ta lắm; Con muốn dùng hết tài, xuất hết lực, hy sinh mọi lẽ để cứu kẻ tội lỗi cho khỏi lửa hoả ngục”.
Mong rằng, mọi người chúng ta cũng ý thức được sự cao trọng của linh hồn và có được lòng nhiệt tâm tông đồ như Thánh Phanxicô và Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Ước ao phần rỗi linh hồn người khác để dấn thân không mệt mỏi cho công cuộc loan báo Tin mừng.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng: Loan báo Tin mừng là sứ mạng Chúa trao phó cho mọi người kitô hữu chúng con. Nhưng trong thực tế, không mấy ai nhớ để chu toàn sứ mạng này. Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Phanxicô Xaviê, xin cho mỗi chúng con từ nay biết quyết tâm chu toàn bổn phận ấy hầu Giáo Hội ngày càng có nhiều con. Amen.
Công đồng Vaticanô II xác định rất rõ: Truyền giáo không chỉ là mệnh lệnh của Đức Giêsu, nhưng còn chính là bản chất của người Kitô hữu. Lời khẳng định như thế được khởi đi từ đâu, nếu không phải là từ những lời chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin mừng hôm nay. Khung cảnh của nó gợi lên trong ta về một lý tưởng rất cao đẹp, đẹp từ suy nghĩ, đẹp đến ngôn từ, và đẹp cả những bước chân của người được sai đi, đó là hành trình của những con người được mời gọi ra đi trên nẻo đường truyền giáo.
Thế nhưng, khi đọc lại và suy gẫm đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta sẽ nhận ra Đức Giêsu nói đến không chỉ với người được sai đi: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”, nhưng Ngài còn nhắc đến những người được lãnh nhận Tin mừng nữa: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. Chính vì điều đó mà chúng ta sẽ thấy rõ hơn hình ảnh và dáng dấp của mình qua những lời giáo huấn của Đức Giêsu: Tôi vừa là người được lãnh nhận Tin mừng, đồng thời, tôi cũng là người được sai đi. Vậy thì điều gì chúng ta cần khám phá, suy gẫm và sống qua đoạn Tin mừng hôm nay?
Trước hết, chúng ta phải nói rằng, giáo huấn của Đức Giêsu, tuy có vẻ rất đơn giản và bình dân, ai cũng có thể tiếp cận và thực hành. Tuy nhiên, đơn giản không có nghĩa là hời hợt – bình dân không có nghĩa là thiếu đi sự dứt khoát. Hàm chứa trong lời giảng dạy của Đức Giêsu đó chính là sự quyết liệt và tính triệt để của Tin mừng: Tin thì được cứu, không tin sẽ bị kết án. Như thế, trong lời giáo huấn này, chúng ta sẽ không nhận ra một chỗ nào cho sự nửa vời: 50-50. Khi nhận ra điều đó, chúng ta cũng bắt đầu khám phá ra được con người thật của chính mình: Một đàng, chúng ta là những người đã tin và cũng đã được rửa tội; đàng khác, chúng ta lại nhận ra, trong tôi, vẫn còn tồn tại cái gọi là “không tin” trong cách suy nghĩ, trong lối hành động, và đôi khi ngay cả trong đời sống chứng tá.
Thứ đến, chúng ta cũng cần nhắc đến “qui luật nhân quả” mà Đức Giêsu đã áp dụng và được các Thánh Sử ghi lại rất rõ: lòng tin và lời tuyên xưng niềm tin, luôn đi kèm với hiệu quả. Hễ ai tin sẽ được chữa lành và được cứu độ. Và ngày hôm nay, Đức Giêsu cũng lập lại những hiệu quả đó cho những người tin: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” Hiệu quả và ân sủng sẽ nói lên chính niềm tin và mức độ tin của mỗi người chúng ta.
Nếu quả là thế, thì một lần nữa, lại có dịp để chúng ta phải đấm ngực ăn năn về chính thái độ và vai trò của mình trong tư cách là những người môn đệ của Đức Giêsu, và được Ngài trao cho một sứ vụ. Bởi lẽ, cả một đời theo bước Đức Giêsu, chúng ta vẫn chưa nhận được nhiều sự biến đổi của anh chị em mà mình đang phục vụ và đang sống với họ. Tuy nhiên, điều đó không làm cho chúng ta nhục chí và bỏ cuộc, bởi lẽ, khi bước đi trong hành trình phục vụ anh chị em của mình, chúng ta vẫn có Chúa đang cùng hoạt động với chúng ta, và Ngài không ngừng dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận những lời rao giảng và việc làm của chúng ta.
Với khoé nhìn như thế, chúng ta mới thực sự nhìn ra điểm nổi bật trong cuộc đời của Thánh Phanxicô Xaviê, một giáo sư triết học trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón. Phanxicô Xaviê đã nhận ra tiếng gọi từ những lời của Đức Giêsu: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có lợi gì?” (Mt 16,26a). Lời chất vấn đó tuy nhẹ nhàng và vắn gọn, nhưng sức mạnh và giá trị của nó thì không nhỏ chút nào. Lời đó đã trở nên một lời tâm niệm của Thánh Phanxicô Xaviê. Quả thật, lời của Đức Giêsu đã trở nên sự lựa chọn, trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống của mình.
Để kết luận, chúng ta cũng nên nhắc lại lời của Thánh Inhaxiô đã nói với Phanxicô Xaviê, một con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”. Mong thay đó cũng chính là hướng đi và lối hành động của chúng ta trong cuộc đời phục vụ anh chị em của mình.
Ở Châu Âu thế kỷ 18, các thầy ngay khi được thụ phong linh mục đã nhận sứ mạng rao giảng Tin Mừng ở các nước Viễn Đông. Năm 1927, vị mục tử trẻ người Pháp thuộc Hội Thừa sai Paris đã đến miền đất Di Linh – Lâm Đồng nơi dân tộc K’Ho sinh sống. Buổi đầu về nhận xứ, linh mục bận rộn với nhiều công việc khác nhau: truyền và dạy đạo lý Công giáo và nâng cao đời sống cho người dân. Ngài cũng thấu hiểu nổi khổ của các bệnh nhân phong, nên còn xây dựng các ngôi nhà tranh để chăm sóc và ngài ở trong trại phong Di Linh do mình thành lập cho đến khi qua đời năm 1973. Đó là Giám Mục Jean Cassaigne là một trong số 25 người Công giáo được Hội Giáo hoàng Truyền giáo, chọn làm mẫu gương cho đời sống đức tin và loan truyền đức tin Công giáo.
Hồng Y Bergogilo (Giáo Hoàng Phanxicô) chia sẻ: “Giáo Hội được kêu gọi ra khỏi chính mình, để đi đến các vùng ngoại vi, không chỉ về mặt địa lý, còn đến các vùng ngoại vi về mặt hiện sinh: vùng ngoại vi của huyền nhiệm tội lỗi, của nỗi đau, của bất công, của dốt nát và lãnh đạm với tôn giáo, của những trào lưu tư tưởng và của mọi hình thức nghèo khổ” .
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay là lời truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ: ai không Tin, sẽ bị luận phạt”. Hiện nay, Giáo Hội Việt Nam đã triển khai rất nhiều giáo điểm, các linh mục và nữ tu sĩ đã lên đường với lòng nhiệt thành đem Lời Chúa đến tận các vùng heo hút, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn để hòa đồng và gắn bó với người dân tộc, người nghèo khổ… Là Huynh đoàn giáo dân Đa Minh chúng ta có cảm nhận được điều mà Thánh Phanxicô Assisi đã nói: “Nếu chúng ta không rao giảng bằng chính cuộc đời của mình, thì dù có đi bất cứ nơi đâu rao giảng cũng vô ích”.
Theo thống kê tôn giáo năm 2019, đạo Công giáo có hơn 9 triệu Kitô hữu, con số còn khiêm nhường so với 96 triệu người Việt, cánh đồng truyền giáo còn rất mênh mông, đang cần chúng ta chung sức với Giáo Hội.
Chúa vẫn luôn đồng hành và chúc lành cho những người thực hiện sứ mạng rao giảng: “Và đây là phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại.”
Lạy Chúa, chúng con biết rằng việc loan báo Tin Mừng là trách nhiệm của tất cả Kitô hữu, nhắc nhở nhau vun đắp cho đời sống đức tin thêm bền chặt. Bài hát “Chứng nhân tình yêu” của linh mục Nguyễn Duy mời gọi chia sẻ yêu thương: “Trong tâm tư biết bao người ngày đêm cô đơn buồn không nói, nhưng đâu ai đến với họ để hát tiếng hát trong niềm vui. Vì nhiều người vẫn nghèo đói, thế giới thiếu vắng bao nụ cười. Xin cho nhau những tình thương, sớm mai cơn mê đã tan rồi….”.