Giới thiệu về giáo phận Long Xuyên


Lược sử Giáo Phận Long Xuyên

 
Tòa Giám Mục Giáo phận Long Xuyên

Địa chỉ : 80/1 Bùi Văn Danh, Phường Mỹ Xuyên, Thành phố Long Xuyên, An Giang.

Tel:

(76)-841-903

(76)-846-917

E-mail:

 

Web site : 

 
Năm thành lập:  
Diện tích:  
Số Giáo dân: 274,000
Số Giáo hạt:  
Số Giáo xứ : 93
 

A. Lược Sử Giáo Phận Long Xuyên

Giáo phận Long Xuyên trước đây lần lượt thuộc các giáo phận: Ðàng Trong (1679), Tây Ðàng Trong (1844), Nam Vang (1850), Cần Thơ (1955). Cha F. José Garcia đến Hà Tiên lần đầu, đã cùng với giáo dân Hà Tiên dựng nhà thờ mới vào năm 1735. Ðến năm 1743, Ðức cha Armand Francois Lefèbvre đến ban phép Thêm Sức cho 100 người tại Hà Tiên, chứng tỏ vùng đất Long Xuyên được các thừa sai đến đây rao giảng Tin Mừng từ trước. Nhưng kể từ cha José Garcia, dòng Phanxicô và các thừa sai đến sau, các linh mục, tu sĩ và giáo hữu Long Xuyên dần dần xây dựng giáo phận của mình.

Từ năm 1735, khi cha José Garcia nhận coi sóc họ đạo Chợ Quán và các tỉnh miền Tây, vùng Long Xuyên "chính thức" phát triển. Năm 1745, cha José làm lại nhà thờ rộng lớn hơn, và mở rộng nhà xứ cho 8 thừa sai ở. Theo cha A. Launay, năm 1747, các cha dòng Phanxicô phục vụ các tỉnh phía Nam và có khoảng 5,500 giáo dân. Theo đề nghị của Ðức Khâm Sứ Tòa Thánh, năm 1749 tỉnh dòng Manila cử 8 linh mục sang giáo phận Ðàng Trong, cha Pedro Medina được phân công coi sóc giáo hữu tại Hà Tiên. Từ năm 1750-1754, tại Hà Tiên có 5 cha dòng Phanxicô phục vụ. Cha José Garcia qua đời ngày 1-11-1761, ngài là người có công lớn trong việc truyền giáo từ Saigòn đến Hà Tiên.

Năm 1769, Chủng viện Thánh Giuse ở Hòn Ðất được dời đến Pondichéry (Ấn Ðộ), cha Pigneau de Béhaine (Bá Ða Lộc) cùng đi với các chủng sinh. Ngài được tấn phong giám mục ngày 14-3-1774 tại Ấn Ðộ. Ngày 14-3-1776, Ðức cha về Hà Tiên, khi đó Hà Tiên có khoảng 1,000 giáo dân; ngài lập thêm họ đạo Pi Nha Lu, di dời chủng viện. Ðến năm 1778, Ðức cha Bá Ða Lộc lại cho chuyển chủng viện đến Tân Triều (Biên Hòa). Từ Hà Tiên, các cha Phanxicô đi tới Lào và Cao Miên để truyền giáo. Năm 1790-1800, các tỉnh miền Tây, Lào và Cao Miên được thêm 6 linh mục. Ðến năm 1813, khi cha Bề Trên ở Manila gọi hết các cha dòng Phanxicô về, các tỉnh miền Tây đã có số giáo hữu với cơ sở vật chất khá vững mạnh như ở Bò Ót, Năng Gù, Cù Lao Giêng (nơi có nhiều vị tử đạo, tiểu chủng viện, dòng Chúa Quan Phòng). Sau Công Ðồng Gò Thị, cha D. Lefèbvre Ngãi được tấn phong Giám Mục, ngài trở về Cái Nhum tiếp tục phục vụ.

Năm 1850, theo đề nghị của Ðức cha D. Lefèbvre Ngãi, Tòa Thánh tách một phần đất thuộc giáo phận Tây Ðàng Trong để thành lập giáo phận Nam Vang (trọn phần đất Khơ Me), đặt Ðức cha J.C. Miche Mịch coi sóc.

Cuối năm 1833, dưới triều vua Minh Mạng, nhiều giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân chịu tra tấn, lưu đày. Từ đó đến năm 1862 và thời Văn Thân, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân phải chịu nhiều cực khổ, dùng chính sự sống để minh chứng Tin Mừng Ðức Kitô tại Long Xuyên, nổi bật là cha Thánh Phêrô Ðoàn Công Quý và Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng (ông câu) lãnh triều thiên nhân chứng đức tin ngày 31-7-1859.

Năm 1938, An Giang có 4 giáo xứ, 30 giáo họ và 12,067 giáo dân; Kiên Giang có 3 giáo xứ, 18 giáo họ và 5,127 giáo dân; huyện Thốt Nốt (Cần Thơ) có giáo xứ Bò Ót gồm 1,807 giáo dân.

Ngày 24-11-1960, Ðức Gioan XXIII ban Sắc chỉ Christi Madata thành lập giáo phận Chính tòa Long Xuyên gồm: tỉnh An Giang, Kiên Giang và một phần tỉnh Chương Thiện thuộc giáo phận Cần Thơ trong giáo tỉnh Saigòn, và đặt Ðức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ làm giám mục chính tòa Long Xuyên. Lúc đầu, giáo phận Long Xuyên gồm hai tỉnh Kiên Giang và An Giang (gồm cả Thốt Nốt, trước 1975 Thốt Nốt thuộc tỉnh Cần Thơ). Ðức cha Nguyễn Khắc Ngữ cai quản giáo phận từ năm 1960-1997.
 

Trước cuộc di cư năm 1954, giáo phận Long Xuyên chỉ có hơn 10 xứ đạo với khoảng 30,000 tín hữu, nhưng số giáo dân từ miền Bắc ào ạt đến định cư tại các vùng kinh Cái Sắn đã nâng số giáo dân lên rất nhanh, đồng thời cũng đặt ra nhiều yêu cầu mới về mọi mặt. Ðức cha Micae đã tích cực giúp đỡ đồng bào di cư và làm cho giáo phận phát triển mạnh. Theo Niên Giám năm 1964, Long Xuyên có 93,739 giáo dân trên tổng số 1,252,705 người (chiếm 7.5%), 104 linh mục triều, 3 linh mục dòng, 185 nữ tu, 6 nam tu, 59 đại chủng sinh, 270 tiểu chủng sinh, 8 trường trung học, 78 trường tiểu học, 8 cơ sở bác ái từ thiện.

Ngày 30-4-1975, cha Gioan Baotixita Bùi Tuần được thụ phong giám mục với quyền kế vị. Giáo phận Long Xuyên được coi là một giáo phận có mức phát triển ổn định so với các giáo phận khác vì đây là vùng đồng bằng ít bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh (1963-1975). Năm 1994, giáo phận có 200,000 giáo dân trong tổng số 3,670,000 người, 179 linh mục, 250 nữ tu, 51 chủng sinh, 87 giáo xứ và 156 nhà thờ lớn nhỏ.

Năm 1997, Ðức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ nghỉ hưu và Ðức cha phó Gioan Baotixita Bùi Tuần lên kế vị giám mục Chính tòa.
 

Ngày 29-6-1999, Ðức cha Giuse Trần Xuân Tiếu được thụ phong và làm giám mục phó giáo phận Long Xuyên.

Ngày 2-9-2003, Ðức cha Gioan Baotixita Bùi Tuần chính thức nghỉ hưu và Ðức cha Giuse Trần Xuân Tiếu lên kế vị giám mục Chính tòa.

 

B. Ðịa Lý và Dân Số

Ranh giới: Giáo phận Long Xuyên gồm hai tỉnh An Giang, Kiên Giang và huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh Cần Thơ với diện tích 10,255 km2. Có dãy Thất Sơn với ngọn núi Cấm cao 716m ở tỉnh An Giang giáp giới Cambodia. Long Xuyên có mạng lưới kinh rạch chằng chịt, ngoài ra còn có sông Hậu, một nhánh của sông Mê Kông chảy qua địa bàn tỉnh An Giang, cùng với sông Cái Lớn đổ ra biển Rạch Giá thuộc Kiên Giang.

An Giang cũng là nơi xuất phát nhiều tôn giáo đặc biệt của Nam Bộ như: Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Giáo Hòa Hảo. Những tôn giáo này gắn liền với Thất Sơn, vùng núi huyền bí và linh thiêng. Ngoài ra còn có đạo Cao Ðài và Hồi Giáo.

Tổng số dân địa phương: 3,995,339 người. Ða số dân chúng làm nghề nông, nuôi trồng thủy sản và tiểu thủ công nghiệp (mộc, nuôi tằm, dệt lụa...).

Có nhiều sắc dân trong giáo phận: người Kinh, người Hoa, người Khơ Me, người Chăm...

C. Một số điểm đặc sắc của giáo phận:

1. Các thánh Tử Ðạo:

Hai vị tử đạo của giáo phận Long Xuyên: linh mục Phêrô Ðoàn Công Quý và ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng. Cả hai được phúc tử đạo tại Châu Ðốc ngày 31-7-1859 dưới triều Tự Ðức. Hiện có hai tượng đài để kính nhớ các ngài: một tại nhà thờ thị xã Châu Ðốc và một tại giáo xứ Cù Lao Giêng.

2. Danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử:

a. Tỉnh An Giang:

Tại Núi Sam có:

- Lăng Thoại Ngọc Hầu (1761-1829). Ông có công đào kênh Thoại Hà từ Long Xuyên đến Rạch Giá và kênh Vĩnh Tế dài 90km.

- Chùa Tây An với Ðức Phật Thầy Tây An, Giáo tổ của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương.

- Thánh địa của Phật giáo Hòa Hảo ở Phú Tân.

- Miếu Bà Chúa Xứ có rất đông khách hành hương, đặc biệt vào Ngày Vía Bà (24-27 tháng 4 Âm Lịch) hằng năm.

- Ngoài ra còn có Núi Cấm, đồi Tức Dụp.

Thành phố Long Xuyên có:

- Ðền Tôn Ðức Thắng tại Mỹ Hòa Hưng (Cù Lao Ông Hổ).

Núi Tượng, huyện Thoại Sơn có:

- Óc Eo nổi tiếng với những di tích khảo cổ.

b. Tỉnh Kiên Giang:

- Hà Tiên có Lăng Mạc Cửu, Ðông Hồ, Thạch Ðộng, Ðá Dựng, Mũi Nai.

- Hòn Chông có hang Tiền, Bãi Dương, chùa Hang và hòn Phụ Tử.

- Phú Quốc với những bãi biển thơ mộng tuyệt đẹp, có nhiều di tích lịch sử.

(dựa theo Niêm Giám 2005 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam)
Nguồn : http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnchurch/vnchurch.htm

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây