Do sắc lệnh Tông Toà "Christi mandata", đề ngày 24/11/1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã thiết lập Giáo Phận Long Xuyên, gồm 2 tỉnh hành chánh bấy giờ, là An Giang và Kiên Giang, kiêm cả đảo Phú Quốc.
Về sau, chính phủ đã đặt lại tỉnh Châu Đốc và sửa lại ranh giới phía tây tỉnh An Giang và Kiên Giang: lấy một phần của An Giang ( Thốt Nốt ) cho vào tỉnh Cần Thơ; một phần tỉnh Kiên Giang ( Kiên Lương, Đức Long, Kiên Long ) cho vào tỉnh Chương Thiện; một phần nữa ( Tân Bằng ) cho vào tỉnh An Xuyên. Tuy nhiên, về tôn giáo, cứ phải theo ranh giới cũ nên không phức tạp.
Vậy Giáo Phận Long Xuyên là một phần đất ở về phía tây nam Nam phần Việt Nam: đông giáp tỉnh Kiến Phong và Vĩnh Long, tây là vịnh Thái Lan, bắc giáp biên thuỳ Campuchia, nam giáp tỉnh Cần Thơ, Chương Thiện và An Xuyên.
Trên một diện tích chừng 10.150 cây số vuông này, sống rải rác 1.558.000 người, thuộc nhiều sắc tộc và tôn giáo. Số tín đồ công giáo là 109.285 người, trong đó có một số lớn gồm linh mục, tu sĩ và giáo dân từ Bắc Việt và Trung Việt, di cư vào Nam, từ năm 1954, và hầu hết định cư ở vùng Cái Sắn, thuộc hai quận Thốt Nốt và Tân Hiệp.
Đây là nơi định cư rât thích hợp cho nông dân, mỗi gia đình được một diện tích 3 mẫu tây: phía trước quay ra kênh, rộng 30 mét; phía sau dài 1km.
Ban đầu, nhóm di cư nào cũng muốn giữ lấy cha sở của mình. Nên có nơi nhiều cha sở, có nơi không có cha. Đức Giám Mục phải vất vả vận động lắm, mới có thể thực hiện chương trình lý tưởng. Là mỗi kênh dài 12 cây số, có kênh Đòn Giông cắt làm đôi, mỗi phần dài 6 cây số, làm thành một xứ đạo, có cha có dân đầy đủ.
Giáo phận Long Xuyên chia làm 4 giáo hạt: Long Xuyên, Thốt Nốt, Kiên Tân, Rạch Giá.
1. Hạt Long Xuyên, gồm tỉnh An Giang, Châu Đốc, không có Thốt Nốt; có 36.423 tín hữu, với 18 giáo xứ, có linh mục thường xuyên.
2. Hạt Thốt Nốt, có 23.174 tín hữu, với 21 gíao xứ, có linh mục thường xuyên.
3. Hạt Kiên Tân, có 29.304 tín hữu, với 21 giáo xứ, có linh mục thường xuyên.
4. Hạt Rạch Giá, có 20.384 tín hữu, với 9 giáo xứ, có linh mục thường xuyên.
Giáo xứ nào cũng có nhà thờ, nhà xứ, nhà trường: bé là tiểu học ( 966 ), lớn là trung học ( 22 ), để phụ lực với chính phủ bảo đảm nền học vấn và giáo dục cho con em.
Ngoài ra cho được đào tạo kẻ giảng là linh mục, còn có một viện giáo lý, 2 Tiểu chủng viện và một Đại Chủng Viện. Tổng cộng, Giáo phận có 55 giáo lý viên, 500 tiểu chủng sinh, 200 đại chủng sinh và 123 linh mục, ngoài ra, còn có nhiều nam, nữ tu sĩ giúp Giáo phận: 5 linh mục, 16 nam tu sĩ, 197 nữ tu sĩ.
Làm việc gì cũng có tổ chức, và khi có tổ chức đàng hoàng, thì công việc như đã hoàn thành được một nữa rồi. Giáo phủ là như đầu não cho sinh hoạt của giáo phận. Tổ chức này, gồm có Toà Giám Mục, Hội đồng tư vấn, Hội đồng linh muc, Hội đồng mục vụ, Toà án giáo phận, Hội đồng tài sản, Uỷ ban cứu trợ.
1. Trên hết là Toà Giám Mục với Đức Giám Mục chính toà và Đức Nguyên Giám Mục Lạng Sơn, Anrê Jacq Mỹ, tạm ở đây, sau khi bỏ Lạng Sơn. Ngài như là một cố vấn, một chuyên viên dọn bài suy gẫm cho các buổi tĩnh tâm. Rồi đến cha Tổng đại diện, cha bí thư và cha quản lý.
2. Sau là Hội đồng tư vấn của Đức Giám Mục, kiêm cả chức vụ của Kinh sĩ hội cho giản tiện. Các thành phần gồm có 4 cha hạt trưởng, đã được các cha bầu cử, cha tổng đại diện, và hai cha giám đốc Tiểu và Đại chủng vịên. Phàm những việc quan trọng trong Giáo phận, theo giáo luật, đều phải hay nên bàn hỏi các vị này. Trong Giáo phận, từ đầu tới nay, mọi việc được thông qua rất khả quan.
3. Hội đồng linh mục, hay linh mục đoàn ( presbyterium ), do Công đồng Vatican II đề xướng và bó buộc ( LG 28 ), được coi như thượng viện của Đức Giám mục và đại diện cho các linh mục giáo phận; cho nên gồm các cha sở, cha phó, cha giáo sư, cha tuyên uý và đại diện các dòng linh mục, hoạt động trong Giáo phận. Hội đồng đã gíup ý kiến rất thiết thực và đắc lực trong việc cai quản Giáo phận.
4. Hội đồng mục vụ, trước này đã được thiết lập, nhưng xem ra chưa chín mùi, phải đợi cho các giáo xứ đi vào qui củ, rồi có lẽ sẽ trao trách nhiệm mục vụ cho Hội đồng gíao dân, cộng tác với hàng giáo sĩ, lo việc chăn dắt đoàn chiên Chúa.
5. Toà án giáo phận, gồm những linh mục thông thạo giáo luật và kinh nghiệm mục vụ, để cùng nhau giúp Đức Giám mục giải quyết các nỗi khó khăn về hôn phối vv...fin
6. Hội đồng tài sản, điền địa và kiến thiết có mục đích tìm kiếm và quản trị tài sản giáo phận; lo việc giấy tờ và thu góp hoa lợi ruộng đất nhà chung; kiểm nhận và đệ trình Đức Giám mục phê chuẩn các đề án kiến thiết nhà thờ, nhà cha, trường học và các cơ sở văn hoá từ thiện, xã hội, trong giáo phận. Cơ quan này sưu tầm hồ sơ về các ruộng đất nhà chung ( phỏng có 20.000 mẫu tây ).
7. Uỷ ban cứu trợ: khi linh mục già yếu hay bị tai nạn, thì Uỷ ban này sẽ lo coi sóc, giúp đỡ. Quỹ của Uỷ ban này do sự đóng góp của các linh mục, sự gíup đỡ của gíao dân và sự tài trợ của Toà Thánh. Hội đồng linh mục phụ trách uỷ ban này.
Để áp dụng việc cải tổ của HĐGM 19/6/1971, Giáo phận Long Xuyên đã qui tụ các hoạt động mục vụ và truyền giáo vào 4 Uỷ ban sau đây:
1. Uỷ ban phát triển, lo canh tân và thăng tiến đời sống vật chất của người dân, theo tinh thần Phúc âm, để gíup vào việc đó, có cơ quan bác ái công giáo, ban giáo dục công dân và các hội đoàn chăm lo cách riêng về việc đó như: Hội bác ái thánh Vinh Sơn, Thanh niên thánh nghiệp, Thanh lao công, Trí thức công giáo và các cán sự gia đình, xã hội y tế….
Mỗi ngành, hằng năm, thường có những khoá hội thảo, trên bình diện giáo phận, quốc gia và quốc tế.
2. Uỷ ban giáo dục, gồm ban học chánh lo về các trường tiểu và trung học công giáo; ban nghiêm huấn lo tổ chức khóa tu nghiệp, hội thảo cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân, để nền học vấn cũng như đạo đức của học viên đựơc luôn luôn cặp nhật hoá, ngõ hầu đáp ứng với sứ mạng của họ trong thế giới ngày nay. Các đoàn thể thuộc Uỷ ban giáo dục vừa là thành phần, vừa là trợ tá trong việc giáo dục đó, như Thiếu nhi Thánh Thể, Hội con Đức Mẹ, Hứơng đạo công giáo, Thanh sinh công, Sinh viên công giáo vv...
3. Uỷ ban phục vụ và Truyền thông: Uỷ ban phụng vụ kiêm Thánh nhạc và Nghệ thuật thánh. Lo việc thờ phượng Chúa làm sao cho xứng đáng và sinh lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn.
Uỷ ban Truyền thông phải hết sức lợi dụng kỹ thuật tân tiến để Lời Chúa được vang dội khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, vào các hang cùng ngõ hẻm. Uỷ ban này có một tờ báo "LÊN ĐƯỜNG" làm tờ thông tin của giáo phận.
Uỷ ban ơn thiên triệu cũng thuộc mục này, vì sẽ dùng phương tiện truyền thông và sợ thờ phượng Chúa, mà hô hào người ta tiến thân phụng sự Chúa trong bậc linh muc và tu sĩ.
Các chủng viện có thể là môi trường thuận tiện nhất để thực hiện tinh thần phụng vụ.
4. Uỷ ban truyền bá Phúc Am, lo rao giảng Lời Chúa cho hết mọi người, nhất là cho lương dân, Ban này kiêm các tông hội truyền giáo và việc gây quỹ cho Đức Giáo Hoàng, văn phòng các tôn gíao, ban truyền giáo lưu động và các hội đoàn, đặc biệt lo việc truyền giáo, như: đạo binh Đức Mẹ, Liên minh Thánh Tâm, Gia đình phạt tạ, Gia trưởng hìên mẫu, Con Đức Mẹ, Cursillos v..v….
Mục đích của uỷ ban này là làm sao cho người ta có tinh thần truỳên giáo và nhiệt thành truyền giáo, cũng như gíup đỡ tinh thần và vật chất cho các nhà truyền giáo và các nơi truyền giáo.
Và chương trình Phúc âm hoá trong Giáo phận Long Xuyên là củng cố các giáo điểm cũ, lập thêm các giáo điểm mới, và đào tạo cán bộ truyền giáo.
Công đồng Vatican II nói " Chức linh mục trong Giáo hội hết sức cao trọng… và trong cuộc canh tân Giáo Hội, hàng linh muc giữ một vai trò tối quan trọng và càng ngày càng khó khăn hơn " (PO 1 ) . Chỗ khác còn nói: " Công cuộc canh tân Giáo Hội, phần lớn tuỳ thuộc ở việc thi hành chức vụ linh mục. Do dó thánh Công đồng tuyền bố: việc đào tạo linh mục là việc vô cùng quan trọng" ( OT, tựa )
Cho nên, khi nhận Giáo phận, Đức Giám mục chăm chú đặc biệt đến việc đào tạo linh mục, bằng cách mở các chủng viện, tổ chức các khóa bổ túc mục vụ, các cuộc tĩnh tâm và các kỳ hội thảo.
Trong Giáo phận chưa có một cơ sở nào, để có thể dùng làm một Tiểu chủng viện.
1. Tiểu chủng viện ở Xóm Mới.
Mở một Tiểu chủng viện thì tiền không có: khi chia Giáo phận Cần Thơ cho được 300.000$, thì đã dùng làm cái nhà bếp cho Toà Giám Mục. Lại giáo sư cũng không có. Thế mà Hội đồng các cha hạt trưởng ngày 22/3/1961, họp ở trụ sở Lạng Sơn, Xóm Mới, Gò Vấp, Gia Định. Nơi Đức Cha tạm trú, khi rút khỏi Đại chủng viện Lê Bảo Tịnh, các cha cứ yêu cầu cho có một Tiểu chủng viện!
Cũng may, mà Đức nguyên Giám mục Lạng Sơn, Anrê Jacq Mỹ thoả thuận cho mượn ngôi nhà Tiểu chủng viện Lạng Sơn, ở Xóm Mới. Đàng khác, Đức cha Nguyễn văn Bình, Tổng Giám mục Sài Gòn, ngày 21/4/1961, vui lòng cho phép mở Tiểu chủng viện Long Xuyên tạm thời trong giáo phận ngài. Lại được Đức Cha Lê Hữu Từ cho mượn cha Vũ Kim Điện làm gíam đốc cho Tiểu chủng viện mới này, Cha chính Cao Xuân Túc ( TB), ngày 24/3/1961, cho mượn cha Bùi Đức Ngoạn làm quản lý, các cha Long Xuyên đề nghị cha Trần Văn Năng làm linh hướng. Ban gíam đốc và giáo sư, như thế gồm có các cha như sau.
Vũ Kim Điện, giám đốc Trần Văn Năng, linh hướng Bùi Đức Ngoạn, quản lý.
Thêm các thầy Đại chủng sinh đi thử là: Vũ Khắc Nghiêm, Đỗ Tiến Hiệp, Nguyễn Văn Vũ.
Tiểu chủng viện Long Xuyên lấy tên là Á Thánh Lê Văn Phụng, đã chịu tử đạo cùng với cha Đoàn Công Quí, ở thị trấn Châu Đốc, ngày 31/7/1859
Nhưng đây, chỉ là Tiểu chủng viện tạm thời, cho các chủng sinh lớp VIII. Còn các chủng sinh khác được chia cho giáo phận Long Xuyên, vốn phải nhờ giáo phận Cần Thơ giữ giùm cho các lớp đệ I cấp, và Sài Gòn cho các lớp đệ II cấp.
Cho được gây quỹ chủng viện, thông cáo số 8/61 của Giáo Phận đã hô hào ân nhân gíup đỡ và mỗi họ đạo quyên chủ nhật đầu tháng, mỗi gia đình ngày mùa cho một giạ lúa hay 30 đồng. Các cuộc quyên góp này đã gíup đỡ rất nhiều. Nhưng đã chấm dứt năm 1973, vì từ đó về sau, mỗi năm chỉ quyên góp một lần cho các công cuộc chung của Giáo Hội, của Quốc Gia và của Giáo Phận.
Làm sao, sau một khoá tuyển sinh mà dám nhận cả 115 em trúng tuyển vào Tiểu chủng viện.. vì, ngày nọ, nhân dịp đi họp Công đồng Vatican II, ở Roma, Đức Giám mục đến gặp Đức Cha Sigismundi, tổng bí thư Hội Truyền giáo, và trình bày cho ngài biết, là ơn kêu gọi ở Việt Nam nhiều lắm, mỗi khóa tuyển sinh, có hằng 3,4 trăm thiếu niên dự thi và đậu cũng nhiều. Nếu nhận tất cả, thì lấy gì mà nuôi chúng; nếu loại bỏ nhiều, thì tội nghiệp cho chúng! Ngài trả lời: " Tất cả những em có dấu hiệu ơn kêu gọi, thì nhận hết… vì nếu sau này, chúng không đi tới chức linh mục; thì với nến giáo dục của chủng viện, chúng sẽ thành những Kitô hữu tốt !… còn việc nuôi chúng. Toà Thánh sẽ gíup …"
2. Tiểu chủng viện ở Châu Đốc.
Tiểu chủng viện Á Thánh Phụng ở Xóm Mới chỉ là tạm thời, vì nhà đó nhỏ bé, chỉ chứa được một lớp thôi. Phải tìm một nhà rộng lớn hơn và ở trong gíao phận. Để tiếp tục thu nhận chủng sinh mới cho năm kế tiếp.
Đang khi lo lắng, Đức Gíam Mục đến bàn hỏi Đức Khâm Mạng Toà Thánh, thì ngày 23/8/1961, ngài bằng lòng trên nguyên tắc, là xin Toà Thánh giúp Long Xuyên xây một Tiểu chủng viện trong Giáo phận.
Nhưng bao giờ mới có tiền, bao nhiêu và có kịp cho niên khóa 62-63 không ? May thay, ngày 23/9/1961, gặp bà Glossinte, bề trên Dòng Chúa Quan Phòng Cần Thơ, bà cho biết là nhà cô nhi ở Châu Đốc, chỉ còn một ít em, bà tính đem cả về Cù Lao Giêng cho tiện, và có thể nhường lại nhà cô nhi cho Giáo phận. Tuy nó là của Giáo Phận đã trao cho các bà làm việc xã hội, nhưng nhà Dòng xin bán lại cho Giáo Phận, với giá là 1.500.000$, và không buộc phải trả cả một trật trật, mà mỗi năm chỉ phải trả 200.000$, cho đến khi xong.
Thật là một sự may mắn không hề nghĩ tới! Hẳn là Chúa quan phòng muốn Tiểu chủng viện, mang tên Á Thánh Phụng, phải được đặt ở chính nơi Ngài đã chịu chết vì Chúa!
Ngày 11/12/1961, nhà Dòng làm giấy bán, như đã nói, và cũng may thay, là Giáo phận không phải đợi lâu: ngày 28/4/1963 đã trả hết nợ.
Đây là một cô nhi viện, bây giờ phải sửa sang và trang bị cho một chủng viện, công việc không khỏi tốn kém, cho niên khóa 62-63.
Lại cha Vũ Kim Điện chỉ giúp một năm, bao lâu Tiểu chủng viện còn ở Xóm Mới. Năm tới phải tìm cha giám đốc khác và thêm một số giáo sư.
Một sự xếp đặt của Chúa quan phòng đã được nhìn thấy tỏ tường: Chủng viện Hải Phòng ở Mỹ Tho sẵn sàng chuyển về Châu Đốc, cả thầy lẫn trò và đồ trang bị; Chủng viện Thái Bình cũng gởi chủng sinh còn lại vào chủng viện khác, và các gíao sư, đã xin nhập tịch Giáo phận Long Xuyên, đều trở về Châu Đốc cả. Như vậy, ban gíam đốc và giáo sư cho niên khoá tới, gồm có 7 cha và 5 thầy,
Cha Đặng Công Hiến, gíam đốc Cha Nguyễn Quang Thản, phó gíam đốc Cha Bùi Tuần Cha Nguyễn Quốc Vận Cha Nguyễn Toàn Thư Cha Bùi Đức Ngoạn Cha Đỗ Xuân An. Các thầy Dũng, Định, Hoàng, Việt , Sự.
Niên khóa khai giảng ngày 1/7/1962, ở Châu Đốc, với 204 chủng sinh, chia như sau.
85 do lớp còn lại; 34 do Cần Thơ chia cho Long Xuyên 8 chủng sinh của Lạng Sơn; 15 chủng sinh của Hải Phòng. 52 chủng sinh mới, chọn trong số 103 em. Và chia làm 5 lớp như sau;
Nhưng chủng viện Châu Đốc năm nay cũng như chủng viện Xóm Mới năm qua, đã hết chỗ, phải tính xây thêm nhà ở Châu Đốc và phải nghĩ đến việc xây một tiểu chủng viện khác cho các lớp đệ II cấp, vừa khỏi quá đông ở một chủng viện, vừa để thích hợp với bầu khí giáo dục.
3 Tiểu chủng viện ở Long Xuyên.
Vấn đề đã được đặt ra là xây một Tiểu chủng viện đệ II cấp ở Long Xuyên. Và ngày 24/4/1963. Đức Khâm Mạng cho biết là Toà Thánh đã chấp nhận cho như vậy. Tìm mãi chỉ thấy miếng đất ở giữa nhà thờ mới và nhà xứ cũ: nhưng lại là một nghĩa trang và một cái hầm sâu. Phải chấp nhận cái chỗ đó thôi. Phải bốc mấy cái mả còn lại, ra nghĩa trang mới. Phải lấy cát lấp đầy hầm hố. Nhưng lại lấy cát ở đâu? Lấy tiền ở đâu mà mua cát?… cũng may thay! Khi đó có chiếc máy xáng của chính phủ về Long Xuyên, thổi đất lên khu hành chánh. Nhờ cha Nguyễn Thanh Minh, liên lạc với ông giám đốc ở Sài Gòn. Ông chấp nhận cho máy thổi hai ngày đêm: các hầm đầy, lại còn cao thêm khá, để làm nền nhà, và cho sân khỏi bị ngập lụt. Nhưng mình cũng phải thù lao cho nhân viên nhà máy.
Đầu năm 1964 đã có thể khởi công xây cất một Tiểu chủng viện 3 tầng lầu, dài 80m, với kinh phí dự trù là 10 triệu, kịp cho niên khoá 64-65, với số chủng sinh lớn nhất là 165 em, đã trúng tuyển, chia làm 2 lớp đệ VIIb.
Ngày 11/5/1964, các cha giám đốc và giáo sư Tiểu chủng viện Châu Đốc đã hội họp và đề nghị là tháng 8/1964, Tiểu chủng viện Long Xuyên nhận 2 lớp mới, với cha Đỗ Xuân An làm gíam đốc. Vậy Tiểu chủng viện Long Xuyên đã khai giảng ngày 22/8/1964, lễ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, với ban gíam đốc và giáo sư quản lý.
Cha Đỗ Xuân An, giám đốc kiêm quản lý; Cha Vũ Sửu, linh hướng. Thầy Nguyễn Đức Thịnh, Nguyễn Việt Hưng, Lê Sơn Hà, Lê Chiếu Khấp, Trương Quang Trạch, Hồ Kinh Doanh.
Ngày 27/1/1965. Các cha gíam đốc Tiểu chủng viện Châu Đốc hội họp xin chấn chỉnh ban giáo sư như sau:
Tiểu chủng viện Long Xuyên: Cha An, Tiệp, Vận, Tuần, Thư, Vinh, Thử, Dũng và một thầy văn phòng.
Ban giáo sư và giám đốc hằng năm được tăng cường hoặc thay thế với những linh mục mới, hoặc hồi hương. Và chủng viện đã duy trì đựơc phong độ khả quan: Đệ I cấp ở Long Xuyên.
Số đại chủng sinh Long Xuyên, từ đầu tới nay vốn gởi học ở Đại chủng viện Sài gòn, theo một sự thoả thuận giữa các giám mục, từ khi Đại chủng viện Sài Gòn thuộc quyền điều khiển của linh mục bản quốc ( 1961-1962 ).
Nhưng, số giáo phận mỗi ngày một gia tăng, thì số chủng sinh cũng đông lên mãi. Trong những năm họp Công đồng Vatican II, ba Đức cha Cần Thơ, Vĩnh Long và Mỹ Tho, đã thoả thuận mở thêm một Đại chủng viện ở Vĩnh Long và trao cho các linh mục hội Xuân Bích điều khiển.
Tuy nhiên, số chủng sinh cứ đông lên mãi, mìên Trung phải xin mở rộng Đại chủng viện. Đức cha Long Xuyên thấy hai Đại chủng viện Sài Gòn và Vĩnh Long cũng sẽ chật một ngày gần đây, mà một Đại chủng viện quá đông, thì khó cho nền giáo dục được chu đáo. Cho nên ngài chủ trương xin mở một Đại chủng viện.
1. Xin lần thứ nhất.
Tháng 9/1967 trong tuần cấm phòng Giám mục ở Đà Lạt, Đức cha Long Xuyên đã thảo luận với Đức Khâm Mạng Angelo Palmas, và với sự ưng thuận của Ngài, ngày 17/7/1967, đã làm đơn lần thứ nhất, xin Thánh bộ truyền giáo cho mở một Đại chủng viện ở Long Xuyên, với chương trình là xây một Tiểu chủng viện ở Rạch Giá, rồi biến Tiểu chủng viện Long Xuyên thành Đại chủng viện, lấy tên thánh Thomas Aquinô, một tiến sĩ lừng danh, lại là bổn mạng của nhà thờ cũ họ đạo Long Xuyên, nhưng không được thánh bộ trực tiếp trả lời.
Năm 1967 này, trong một buổi họp của Thánh bộ truyền giáo, ở Roma, Đức cha Long Xuyên có nhắc đến việc xin Thánh bộ giúp tiền xây một chủng viện… Đức cha Long Xuyên đã nói… Nếu Thánh bộ cho ít tiền,thì tôi chỉ làm được mấy cái "baraques" (lều), và cứ 3,4 năm lại phải làm lại. Còn nếu Thánh bộ giúp khá, tôi sẽ xây được một chủng viện kiên cố, tồn tại hằng trăm năm.. và đỡ tốn phí cho Thánh bộ biết bao… ". các ngài đa số tỏ vẻ chấp thuận lâp trường của Đức cha Long Xuyên.
Năm 1968, trong kỳ họp HĐGM, từ 3-5/1/1968, vấn đề Đại chủng viện lại được đưa ra thảo luận, và theo ý Thánh bộ, thì Đức cha Hòang văn Đòan, phụ trách chủng viện, sẽ phúc trình cho Thánh bộ biết số tiểu chủng sinh, trong 3 năm cuối cùng là bao nhiêu, mục đích là để phân phối các chủng sinh vào các Đại chủng viện đã có, khỏi phải mở thêm. Và đại chủng sinh Long Xuyên sẽ được gởi vào đại chủng viện Vĩnh Long.
Nhưng chủng viện Vĩnh Long cho biết là năm nào ít chủng sinh, thì còn dư được vài ba chỗ, chứ không đủ để tiếp nhận cả một lớp mấy chục chủng sinh của Long Xuyên.
Ngày 30/5/1969, Đức Cha Hoàng Văn Đoàn Phúc trình cho Thánh bộ là số tiểu chủng sinh trong 3 năm cuối cùng quá đông, không thể phân phối vào các Đại chủng viện đã sẵn có, mà đề nghị xin cho mở thêm Đại chủng viện.
2. Xin lần thứ hai.
Trước hoàn cảnh đó, ngày 25/7/1969, Đức Cha Long Xuyên lại làm là đơn thứ hai, có chữ ký của Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn, chủ tịch HĐGM, nhờ Đức Khâm Mạng gởi sang Thánh bộ, xin mở một Đại chủng viện ở Long Xuyên ngày 24/12/1969, theo lời yêu cầu của Đức Khâm Mạng, Đức Cha Long Xuyên đã gởi cho ngài một bản danh sách 24 linh mục giáo phận có thể được sung vào ban giáo sư tương lai của Đại chủng viện ấy.
Năm 1970, ban đầu HĐGM (5-8/1/1970) đề nghị một giải pháp nữa, là cho Đại chủng vịên Vĩnh Long tách làm 2 ban: thần học ở Vĩnh Long, triết học ở một nơi khác, và cho các Đại chủng sinh Long Xuyên nhập vào đó. Nhưng đến kỳ họp sau (8-12/6/1970), HĐGM lại muốn giữ tình trạng cũ ở Vĩnh Long và đề nghị cho Giáo phận Long Xuyên mở một Đại chủng viện.
3. Xin lần thứ ba.
Vậy ngày 20/6/1970, Đức Cha Long Xuyên làm một là đơn thứ ba, có chữ ký của Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, chủ tịch HĐGM, và cũng nhờ Đức Khâm Mạng chuyển cho Thánh bộ xin cho Giáo phận Long Xuyên mở một Đại chủng viện.
Ngày 31/8/1970, trong văn thơ số 4557/70, gời cho Đức Cha Long Xuyên, Thánh bộ có nói: "Thánh bộ rất vui mừng được biết là HĐGM, đã thoả thuận ưu tiên cho mở một Đại chủng viện liên Giáo phận ở Long Xuyên và xin Đức cha vui lòng gởi sang Thánh bộ, để phê chuẩn, bản nội qui của Đại chủng viện, đã được các Đức cha liên hệ chấp nhận (OT 7), dự án kinh phí xây cất và thành phần ban giáo sư tương lai. Mong rằng: quyết định đó sẽ giúp đón nhận và đào tạo ơn thiên triệu linh mục rất dồi dào nơi ngài".
4. Xin được chấp nhận và viện trợ.
Ngày 25/11/1970, văn thơ số 5408/70, của Thán bộ, gởi cho Đức cha Long Xuyên, có nói: "Còn về Đại chủng viện liên Giáo phận, chúng tôi muốn biết công việc đã đến đâu và bản nội qui do các Giám mục liên hệ thiết lập và gởi cho chúng tôi phê chuẩn".
Ngày 25/9/1970, Đức Cha Long xuyên đã gởi cho Đức Khâm Mạng, để nhờ chuyển sang Thánh bộ, dự án kinh phí xây cất và danh sách ban giáo sư.
Năm 1971, một thắc mắc được nêu ra, là Thánh bộ cứ nhắc đến Đại chủng viện liên Giáo phận mà không nói liên với Giáo phận nào? Thắc mắc đó đã được giải đáp sau thơ đi thơ lại, là liên với Giáo phận Cần Thơ, sau ngày 6/11/1971. Hội Thánh Phêrô đã bắt đầu viện trợ ngân khoản để xây cất chủng viện ở Rạch Giá: nhà ba tầng lầu, dài 100m, rộng 12m; ngân khoản dự trù là 100 triệu, có người ủng hộ tất cả đá sỏi, để đổ bê tông cốt sắt.
Năm 1972, ngay 24/3/1972, Đức Cha Long Xuyên đã gởi sang Thánh bộ, qua Đừc Khâm Mạng, bản nội qui của Đại chủng viện liên Giáo Phận , đã được hai Đức Cha liên hệ, là Cần Thơ và Long Xuyên chấp nhận (bằng việt và pháp ngữ). Ngày 10/4/1972, văn thơ số 1884/72 của Thánh bộ cho biết là đã nhận được nội qui, sẽ hỏi ý kiến các Đức Giám mục khác và sẽ phê chuẩn. Ngày 15/5/1972, Đức Cha Long Xuyên lại phải thanh minh với Thánh bộ rằng: Đại chủng viện đó chỉ liên hệ đến hai Giáo phận Cần Thơ và Long Xuyên, và bản nội qui đó đã được hai Đức Cha chấp nhận, cho nên khỏi phải có ý kiến của các Đức Cha khác. Và do văn thơ số 3053/72, Thánh bộ xác nhận là Đại chủng viện đó chỉ liên hệ đến hai Giáo phận Cần Thơ và Long Xuyên, và theo văn thơ số 3172/72, đề ngày 22/6/1972, Thánh bộ đã phê chuẩn nội qui với một vài nhận xét riêng.
5. Khai giảng niên khoá đầu.
Với sự viện trợ của Toà Thánh, sự giúp đỡ của giáo dân trong cũng như ngoài nước, chủng viện Rạch Giá đã được xây cất xong một phần, và niên khóa thứ nhất 72-73, đã có thể khai giảng ngày 9/9/1972, với 50 chủng sinh lớp triết học, năm thứ nhất và ban giáo sư tại chỗ gồm có các cha:
Nguyễn Trọng Quí: giám đốc Phan Văn Khả: phó giám đốc Bùi Tuần: linh hướng Bùi Đức Ngoạn: quản lý.
Với một số giáo sư đi đi về về và một thầy văn phòng.
Niên khóa tới, 73-74, sẽ có thêm một lớp Triết hai, 58 chủng sinh, và tổng số sẽ là 105 chủng sinh; nhà cũng đã xây xong. Niên khoá 74-75 sẽ thiên về Long Xuyên, tiện lợi cho cả hai Giáo phận.
6. Đại học hoá ban triết học.
Từ mấy năm nay, phong trào đại chủng sinh đi đại học là một biến cố quá mạnh, không sao ngăn cấm được. Để thoả mãn nguyện vọng đại chủng sinh, đồng thời bảo đảm nền giáo dục thuần tuý cho linh muc, nhiều Giáo phận đã thí nghiệm cách này, cách nọ. Nhưng thấy quá lộn xộn và gây hoang mang, cho nên trong kỳ cấm phòng năm, các Gíam Mục đã dành một buổi ( 15/6/1973 ), để bàn bạc và giải quyết vấn đề đó, bằng cách biến ban triết học của Đại chủng viện thành một chi nhánh văn khoa của Đại Học Đà Lạt, với nhiệm ý triết học thuần tuý. Các giáo sư cử nhân và tiến sĩ của Đại chủng viện sẽ được bổ nhiệm làm giáo sư đại học và dạy ở nhà. Vấn đề thi cử, một là ở Đà Lạt, hai là ở tại chỗ, với sự chứng gíam của đại học. Lại để duy trì thế giá của Đại Học. Chủng sinh phải thi vào lớp; ai đậu thì học cours universitaire, ai không đậu thì học cours séminaristisque.
7. Đại học khoá ban thần học.
Đàng khác, HĐGM cũng đang chuẩn bị cho sát nhập phân khoa thần học vào đại học Đà Lạt: "Giáo Hoàng học viện", phụ trách về chuyên môn, còn đại học phụ trách về phạm vi bằng cấp.
Mong những biện pháp đó giải quyết và thoả mãn được ước vọng và nhu cầu vào đại học hoá nền học vấn của chủng sinh, đồng thời bảo đảm được nền giáo dục thuần tuý của linh mục. Chương trình triết học của Đại chủng viện Thánh Thomas là bốn năm (dĩ nhiên trong đó có cả thần học nữa), cho nên ăn khớp với chương trình văn khoa đại học, và như vậy, sau bốn năm, chủng sinh sẽ thi bằng cử nhân văn chương triết (philolettres)
Chủng sinh học trong Đại chủng viện là điều cần thiết, nhưng hoạt động trong các họ đạo cũng rất quan trọng, để hiểu biết đời sống thực tế, và nhu cầu gíao dân, hầu mai sau thành những linh mục thích ứng với mục vụ.
Mỗi kỳ hè, Giáo Phận Long Xuyên tụ tập các đại chủng sinh trong vòng môt tuần, để thụ huấn: Biết hoàn cảnh Giáo phận, đường hướng sinh hoạt và mỗi lần nhấn mạch đến một mục tiêu, một chiến dịch để thi hành trong tháng hè. Ban đầu chỉ có các đại chủng sinh Long Xuyên, sau đến anh em Cần Thơ, rồi nhiều Giáo phận khác cũng đến tham dự lớp tu nghiệp và công tác hè. Vì Giáo phận chịu hết phí tổn đi về và nuôi dưỡng trong kỳ thụ huấn cũng như trong khi công tác hè.
Những khóa tu nghiệp đã được thực hiện:
1. Năm 1961, chương trình chưa được chuẩn bị, cho nên các thầy được nghỉ tự do suốt kỳ hè (xem thông cáo 3/61, ngày 6/6/1961). Nhưng từ 1962 (thông cáo 4/1962, ngày 24/2/1962) nói rõ: "kỳ hè là dịp tốt để chủng sinh thực hiện những điều mình đã học hỏi tại trường, cũng là lúc thu lượm kinh nghiệm truyền giáo và mục vụ cho nghệ thuật tông đồ mai sau". Cho nên mỗi kỳ hè, các thầy nghỉ tự do chừng một tháng, rồi về Giáo phận tụ tập một tuần học hỏi về chiến dịch mục vụ, sau đó, đi hoạt động trong các họ đạo. Dưới sự hứơng dẫn của cha sở, cũng đã được thông báo về chiến dịch đó.
2. Năm 1962, chiến dịch nhằm tập cho các gíáo dân hiểu và biết dự thánh lễ cộng đồng, theo tinh thần phụng vụ mới, khoá tu nghiệp kéo dài từ 1-8/6/62 và hoạt động trong các họ đạo từ 9/6/62 đến 15/7/62. Long Xuyên có 40 thầy.
Lần đầu tiên hoạt động như vậy, các thầy còn ngỡ ngàng và e lệ. Nhưng kết quả rất khả quan, là hầu hết các họ đạo biết dự thánh lễ cộng đồng, theo đúng tinh thần của Hiến Chế Phụng vụ mới, đối đáp với các linh mục bằng tiếng Latinh, các bài đọc bằng tiếng Việt.
3. Năm 1963, chiến dịch là tiếp tục giáo huấn về thánh lễ cộng đồng, theo đúng tinh thần Hiến chế phụng vụ mới của Công đồng Vatican II. Với bài hát và kinh thưa bằng tiếng Việt cả. Khoá tu nghiệp kéo dài từ 16-21/5/1963, hoạt động trong các họ đạo từ 22/5/63 đến 31/6/63. Khoá này qui tụ 70 thầy (Long Xuyên 34, Cần Thơ 26)
Các chủng sinh hoạt động có bề quen thuộc hon và bạo dạn hơn. Giáo dân cũng xem lễ thích thú hơn và linh động hơn.
4. Năm 1964 chiến dịch là học hỏi và phổ biến Thánh Kinh theo tinh thần trở về nguồn của Công đồng Vatican II. Lần này nói chung về Thánh Kinh, nhất là về 4 Phúc Âm. Khoá tu nghiệp kéo dài từ 1-8//6/1964, hoạt động trong các họ đạo từ 19/6/64 đến 9/7/64, có 78 thầy tham dự (Long Xuyên 46, Cần Thơ 32, )
5. Năm 1965 chiến dịch tiếp tục học hỏi và phổ biến Thánh Kinh, nhấn mạnh đến mấy thắc mắc về Phúc Âm và học riêng cuốn Phúc Âm Luca, lại kiện toàn về tham dự thánh lễ linh động, khóa tu nghiệp kéo dài từ 1-10/6/65 và hoạt động trong các họ đạo từ 10/6/65 đến 10/7/65. Khóa tu nghiệp gọi là phụng vụ và Thánh Kinh được 57 thầy tham dự (Long Xuyên 51, Cần Thơ 05, dòng Ba-Nam 01)
6. Năm 1966, chiến dịch tiếp tục học hỏi và phổ biến Thánh Kinh, nhất là thánh Máthêu. Khoá tu nghiệp kéo dài từ 10-19/5/1966; và hoạt động trong các họ đạo từ 20/5/66 đến 20/6/66. Có 112 thầy tham dự (Long Xuyên 76 Cần Thơ 24, Đà Nẵng 02, Sài Gòn 04, Đà Lạt 03, Nha Trang 03). Năm nay có cả một ban điện ảnh đi chiếu phim đạo cho giáo dân. Các thầy làm việc thật là mỏi mệt, nhưng giáo dân rất hâm mộ được dự các lớp học hỏi và sống Thánh Kinh như vậy.
7. Năm 1967, chiến dịch tiếp tục học hỏi và phổ biến Thánh kinh, đặc biệt Phúc Âm Marcô và phụng vụ. Khóa tu nghiệp kéo dài từ 8-18/5/1967; hoạt động trong các họ đạo từ 18/5/67 đến 16/6/67. Có 108 thầy tham dự (Long Xuyên 76, Cần Thơ 29, Xuân Lộc 03)
8. Năm 1968, không có khóa tu nghiệp và hoạt động muc vụ, vì thiếu an ninh (xem thông cáo 1/68). Các thầy được nghỉ tự do, chỉ có thầy nào tự nguyện đi giúp họ. Giáo phận đã phát động phong trào thi đua học hỏi giáo lý công giáo phần thứ nhất (xem thông cáo 11.12.1967)
9. Năm 1969, chiến dịch thi đua học hỏi giáo lý công giáo phần thứ hai. Khóa tu nghiệp từ 9-17/6/1969, hoạt động trong các họ đạo từ 17/6/69 đến 10/7/69. Có 79 thầy tham dự (Long Xuyên 72, các Giáo phận khác 05, Dòng Chúa Cứu Thế 02). Các thanh thiếu niên hào hứng thi đua học hỏi giáo lý và tranh giải rất là hăng say!
10. Năm 1970, chiến dịch học hỏi giáo lý phần ba, Khoá tu nghiệp từ 9-17/6/1970, hoạt động trong các họ đạo từ 17/6/70 đến 9/7/70, có các cha Bùi Văn Nho giúp huấn luyện và 76 thầy tham dự (Long Xuyên 71, các giáo phận khác 05)
11. Năm 1971, tiếp tục chiến dịch học hỏi giáo lý, nhưng nhấn mạnh đến sư phạm giáo lý và sắc lệnh về Tông đồ gíáo dân (Apostolicam Actuositatem) của Công đồng Vatican II do ban giáo lý và các cha tuyên uý Hội đoàn phụ trách, từ 27/5 đến 3/6. Công tác trong các họ đạo, từ 3/6 đến 3/7/71. Số các thầy tham dự là 85, trong đó có 06 thầy Dòng Thánh Gia.
12. Năm 1972, Gíáo Hoàng học viện Đà Lạt không nghỉ sớm như mọi khi, thành ra chỉ tập trung chỉ tập họp được các chủng sinh học ở Sài gòn hoặc đang giúp trong giáo phận: và chương trình đa diện: truyền bá Phúc Âm, giáo dục đời sống giáo sĩ trong Giáo phận, hội đoàn thiếu nhi Thánh Thể, con Đức Mẹ, Hướng đạo công giáo. Công việc giúp họ đạo cũng chỉ trong phạm vi dạy giáo lý, dọn trẻ em chịu lễ lần đầu, chịu phép Thêm Sức, tập hát, dạy học, coi hội đoàn, truyền giáo. Có 91 thầy tham dự. Tu nghiệp từ 8-13/5/72, công tác hè từ 13/5 đến 15/6/72. Các thầy học ở Đà Lạt nghỉ sau, thì đi giúp địa điểm truyền giáo.
13. Năm 1973 có một tính cách đặc biệt, trong thư Đức Cha gửi cho các thầy ngày 10/3/73 có nói: ” Sau khi đã nghiên cứu các đề nghị của các thầy học ở Sài gòn và thu lượm nguyện vọng của một số cha cần các thầy giúp hè, tôi quyết định như sau: Năm nay các thầy không có tuần hội thảo chung và cũng không phải giúp hết cả, mà chỉ có các thầy lớp thần học II, III và một vài thầy được đích danh yêu cầu, đi giúp một tháng hè, từ 25/6 đến 25/7. Theo danh sách sau đây.." tức là chỉ có 21 thầy. Ngoài ra, kỳ hè năm nay cũng có khoá tu nghiệp sư phạm và quản trị học đường, do viện đại học Đà Lạt mở tại TCV Cái Răng Cần Thơ , Long Xuyên có 22 thầy tham dự.
Như vậy, kỳ hè rất hữu ích cho đại chủng sinh. Khi đại chủng viện giải tán, chủng sinh được đi nghỉ chừng 2 tuần, rồi tụ tập tại TCV Châu đốc, là nơi đất rộng và mát mẻ, để dự khoá tu nghiệp, nhờ những người chuyên môn hướng dẫn, về một chiến dịch sẽ được thực hiện ngay sau đó trong các họ đạo. Sau một tháng công tác ở họ đạo, chủng sinh trở lại Long Xuyên, với sự hiện diện của Đức Cha, cha chính, các cha hạt trưởng, để kiểm điểm công tác, rút ưu khuyết điểm và giải quýêt các thắc mẵc.
Các khóa tu nghiệp và công tác hè đã giúp các thầy hiểu biết giáo Phận, đời sống và việc làm của linh mục, lại giúp gíao dân đi vào con đường mục vụ đồng đều trong toàn Giáo phận.
Ban đầu có đại chủng sinh của nhiều Giáo phận tới tham dự, nhưng về sau, hầu hết các Giáo phận đều có tổ chức công tác hè, cho nên các "đồng minh" rút lui dần. Và về sau, số chủng sinh của Giáo phận cũng đông đủ, cho nên cũng không chiêu mộ "đồng minh" nữa.
Mấy năm gần đây có phong trào đại chủng sinh thi đại học trong kỳ hè, cho nên tổ chức hè không dễ dãi như xưa. Chủng tôi phải tìm giải pháp khác thích hợp với hoàn cảnh mới.
Tĩnh tâm cũng là dịp rất tốt và là điều kiện cần thiết để chủng sinh ở chủng viện cũng như đi giúp xứ có thời giờ suy nghĩ, kiểm điểm đời sống trước mặt Chúa và bàn hỏi anh em, hầu tiến bước mạnh hơn và chắc chắn hơn trên đừơng thánh hóa bản thân và thánh hoá tha nhân.
1. Cấm phòng tháng cho chủng sinh
Từ năm 1969, Giáo phận Long Xuyên đã tổ chức cấm phòng tháng cho các thầy gíup xứ: Cứ chiều thứ bảy, đầu tháng, các thầy tập họp tại Toà Giám mục Long Xuyên. Sau cơm tối làm giờ thánh, có linh mục hứơng dẫn, rồi xét mình, xưng tội và giữ thinh lặng.
Sáng hôm sau, có thánh lễ riêng, do Đức Cha cử hành và giảng thuyết.
Sau lót lòng, là một giờ huấn đức do Đức Cha thuyết trình, sau lại có một giờ hội thảo, thường do một chuyên viên về một vấn đề liên hệ đời sống chủng sinh và mục vụ. Sau hôị thảo là giải đáp thắc mắc. Các đề tài giờ thánh, giảng thuyết, huấn đức và hội thảo, đều hướng về đời sống chủng sinh dưới nhiều khía cạnh: đạo đức, học thức, tông đồ và mục vụ.
Cấm phòng tháng chẳng những giúp chủng sinh thanh tẩy lương tâm, mà còn thêm ý thức kinh nghiệm cho đời sống linh mục tương lai của mình.
2. Cấm phòng tháng cho linh mục.
Đối với linh mục, việc c ấm phòng tháng cũng rất cần để chỉnh đốn lương tâm, tu chỉnh nếp sống, giải quyết những thắc mắc gặp thấy trong tháng. Giáo phận chia làm 3 nơi tĩnh tâm, để các linh mục có thể tới dễ dàng và Đức Cha dễ tới dự, là Long xuyên, Kiên Tân, Rạch Giá. Cứ thứ hai Long Xuyên, thứ ba Rạch Giá, thứ tư Kiên Tân. Mỗi tháng có một bài gợi ý để suy niệm, rồi xét mình, xưng tội, và sau bữa cơm trưa, hội thảo, trong đó Đức Cha trình bày những vấn đề thời sự trong Giáo phận, hoặc những tài liệu của Toà thánh, của Hội Đồng Giám Mục, và giải quyết thắc mắc. Cũng trong dịp này, Đức Cha có thể trực tiếp giải quyết vấn đề cá nhân cho từng cha.
Mỗi kỳ cấm phòng tháng là dịp thuận tiện vô cùng, để linh mục thanh lọc tâm hồn và giải toả mọi thắc mắc, để lại tiếp tục cuộc đời mục vụ một cách hăng say hơn, chu đáo hơn.
3. Cấm phòng năm cho linh mục.
Theo tinh thần Vatican II (PO 19), trên nguyên tắc, mỗi năm Giáo phận tổ chức 2 cuộc hội thảo cho linh mục một cho các cha nói chung và một cho các cha trẻ, để giúp các ngài luôn luôn được cập nhật hó kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho chức vụ của mình ở một thế giới luôn luôn thay đổi. Ban đầu, chính Đức Cha, hoặc cha chính phải khởi xướng, tổ chức và chỉ định thuyết trình viên cho các cuộc hội thảo, như những cuộc hội thảo về công giáo tiến hành (13-16 và 27-30 tháng 5; 10-13/6/63) hoặc hội thảo về tông đồ giáo dân (17-22/10; 7-12 và 14-19/11/66)
Nhưng từ khi thành lập uỷ ban nghiêm huấn ngày 22/10/1966, thì ban này có nhịêm vụ tổ chức, điều hành và tìm thuyết trình viên cho các cuộc hội thảo linh mục. Uỷ ban đó tổ chức những khoá hội thảo như sau:
1. Năm 1967, từ 13-16/2, đã hội thảo về sắc lệnh truyền giáo, với những vài thuyết trình: Dân Thiên Chúa; thái độ của Giáo hội đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo; tự do tôn giáo; Sứ mệnh và tư cách của nhà truyền giáo; phương pháp truyền giáo chung; truyền giáo bằng phụng vụ và thánh nhạc.
2. Năm 1967 từ 27-29/6, đã nghiên cứu về Hiến chế Giáo hội (Lumen gentium) với những bài thuyết trình: Giáo hội, bí tích hợp nhất với Thiên Chúa và với nhân loại: Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô ở thế gian: Tính chất phẩm trật của Giáo hội; giáo hội tham dự chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô; địa vị tu sĩ trong Giáo hội; Đức Maria Mẹ Gíáo Hội; Huấn thị Musica in sacra Liturgia: Huấn thị về tôn thờ phép Mình Thánh.
3. Năm 1968, từ 9-10/9 hội thảo về nhiều vấn đề thời sự; Bậc độc thân của linh mục: thông điệp Humanae vitae.
4. Năm 1969, từ 1-6/6 hội thảo đặc biệt, để các cha có cái nhìn tổng quát về các môn thánh, theo tinh thần Công đông Vatican II
a. Về Thánh Kinh: Những phán quyết của Giáo hội về Thánh Kinh: Mấy vấn đề thuộc Thánh Kinh đã được Gíáo Hội nhắc tới từ Vatican II; Vatican II với Thánh Kinh trong hiến chế Dei Verbum.
b. Về Thần học: Vai trò Giáo Hội trong thế giới; Giáo Hội và các vấn đề chính trị; Giáo hội trước vấn đề hoà bình.
c. Về Triết học: Tìm hiểu về chỉ thị của Vatican II về triết học trong chương trình huấn luyện linh mục; Nhìn qua triết học hiện đại.
d. Về luân lý thần học: Vấn đề canh tân luân lý theo Vatican II; Hình thức và nội dung luân lý canh tân.
đ. Về giáo luật cải tiến theo Vatican II
e. Về muc vụ: Chiều hướng mục vụ của Vatican II: Vatican II là công đồng mục vụ.
f. Về truyền giáo: Công đồng Vatican II với truyền giáo.
h. Về phụng vụ: Kinh nguyện cải tổ.
5. Năm 1970: từ 20-25/5, khoá hội thảo dành cho các linh mục trẻ, với những bài thuyết trình: Chức linh mục; Liên hệ với Giáo phẩm; Gíáo dân mong gì; Kinh nghiệm linh mục; Liên hệ với các cha lớn tuổi; Liên hệ với giáo dân; Liên hệ với lương dân.
Cũng năm 1970, từ 25-27/5, một khóa hội thảo cho các linh mục về tôn giáo bạn; Phật Giáo Nam Tông, Phật Giáo Bắc Tông, Khổng Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao Đài Gíáo, Hồi Giáo, Bà Hai Giáo
6. Năm 1971, từ 23-26/5, cuộc hội thảo về sư phạm gíáo lý, do cha Nguyễn Trọng Tri, một sư huynh Lasan và một bà phước Dòng Chúa Quan Phòng thuyết trình. Thêm vào đó có những bài suy gẫm ban sáng; Thân phận linh mục trẻ hôm nay; sứ mệnh riêng biệt của linh mục; Linh mục trước hoạt động trần thế
Trong kỳ hội thảo (25-27/10/71) cũng bàn luận và thông qua bản Qui chế Hội đồng giáo xứ; Bản chỉ nam linh mục; và tờ giao kèo giữa Giáo phận và các Hội dòng hoạt động trong Giáo phận.
7. Năm 1972 từ 26-27/6, có khoá hội thảo cho các linh muc trẻ, có 3 đề tài của cha Thân Văn Tường; tự do của con cái Thiên Chúa; tự do và lề luật; tự do trước sự chết.
Trong năm nay, các linh mục thuộc HĐLM cũng lo huấn luyện các nhân viên trong Ban thường vụ của Hội đồng gíao xứ cách tổng quát về mục đích, trách nhiệm và hoạt động của Hội đồng, dần dần sẽ đi xa mãi về kỷ thuật và hoạt động của giáo dân trong giáo xứ.
9. Năm 1973, ngày 17/5/73, ban nghiêm huấn đã bầu lại ban điều hành, và đã đệ trình một chương trình hội thảo dài hạn.
Cho chủng sinh đi du học là một điểu cần thiết, để đào tạo nhân tài, đặc biệt về tôn giáo và học ở Roma, thủ đô công giáo, lại là một may mắn, giúp nâng cao giá trị cho hàng giáo phẩm địa phương.
Khi còn là Cha chính đại diện Đức Giám Mục Giáo phận Lạng Sơn, cha Nguyễn Khắc Ngữ đã giúp cho 4 thầy Lạng Sơn du học ở Roma.
- Năm 1953, Thầy Thân Văn Tường Và Thầy Phạm Phúc Khánh. - Năm 1955 Thầy Nguyễn Văn Lãng Và Thầy Đào Văn Nhường
Khi coi Giáo Phận Long Xuyên, Ngài tiếp tục chính sách đó, không những cho Giáo phận Long Xuyên, mà còn có ý giúp cho Giáo phận miền Bắc và miền Trung, có giáo sĩ và giáo dân định cư trong Giáo phận Long Xuyên, mà không có phương tiện gửi người đi du học được. Ngài đã gửi đi học trường Truyền giáo Roma những thầy sau đây:
- Năm 1962, thầy Nguyễn Văn Bảo (LS) và thầy Trương Quang Hiền (HP). - Năm 1964, thầy Nguyễn Trung Chính (HP) và thầy Nguyễn Đức Thành (HN) - Năm 1965, thầy Nguyễn Đoàn Gia Cư (HP) và thầy Trần Xuân Tiếu (HN) - Năm 1967 thầy Nguyễn Văn Khánh (BN) và thầy Trần Cao Tường (PD) - Năm 1968 thầy Bùi Ngọc Tỷ (LX) và thầy Hồ Trí Trạch (LX)
Kết quả, có 6 thầy làm linh mục (Hiền, Thành, Tiếu, Tường, Tỷ, Trạch)và 4 thầy rút lui ( Bảo, Chính, Cư, Khánh ). Có điều yên ủi là các linh mục này hăng say với mục vụ, và các tính hữu kia nhiệt thành sống đạo và truyền đạo. Đúng như lời Đức Cha Sigismundi đã nói trên kia:" Nếu chúng khôn làm linh mục được, thì với nền giáo dục ở chủng viện, chúng sẽ là những tín tốt"
Tư thục công giáo là phương tiện cần thiết nhất cho đường gieo rắc, vun trồng và phát triển đức tin, "chúng ta phải lo thiết lâp, bảo vệ và phát triển tư thục công giáo" (thông cáo 4/61, ngày 7/6/61). Lại thông cáo số 11/69, ngày 15/11/69, đã qui định rõ ràng những vấn đề liên hệ với tư thục công giáo trong Giáo phận Long Xuyên. Để tiếp tục giáo huấn đức tin và sự giữ đạo nơi người công giáo, trường công giáo được coi là khí cụ sắc bén nhất để theo dõi trẻ em từ nhỏ đến lớn qua các trường sơ tiểu học, trung học và đại học.
1.Trường sơ tiểu học.
Trong Giáo phận Long Xuyên, họ đạo nào cũng có trừơng sơ tiểu học, không trừ một họ đạo nào, theo nguyên tắc đã ra từ đầu, là mỗi họ đạo phải có một trường tiểu học, và hiện nay có 66 trừơng như vậy.
2. Trường trung học.
Về trường trung học cũng theo nguyên tắc đã ra là mỗi quận lỵ và nơi đông đúc phải có một trường trung học, nhưng cho đến nay, mới có 22 trừơng như vậy (Châu Đốc, Năng Gù, Long Xuyên, Cù Lao Giêng, Thốt Nốt, Thạnh An, Tân Hiệp, Rạch Giá, Phú Quốc,….)
Để đoàn ngũ hoá giáo dân theo lứa tuổi và xu hướng, để huấn luyện họ thành những công dân chân chính và những tín hữu tốt lành, thì có các hội đoàn, như Thiếu Nhi Thánh Thể, Con Đức Mẹ, Hứơng Đạo Công Giáo, Liên Minh Thánh Tâm, Gia Đình Phạt Tạ, Đạo Binh Đức Mẹ, Cursillos,vv…
Đoàn thể nào cũng cha tuyên uý và các huynh trưởng, để huấn luyện, hứơng dẫn và theo dõi, đôn đốc các hoạt động đạo đức xã hội, từ thiện, các tuyên uý và các huynh trưởng có những khoá huấn luyện, trên bình diện giáo dân hoặc toàn quốc.
Trong Giáo phận có những cơ sớ rộng lớn, thuận tiện cho các khoá huấn luyện, hội thảo, tĩnh tâm như vậy: Châu Đốc, Năng Gù, Long Xuyên, Cù Lao Giêng, Mỹ Thới, Thạnh An, Ngọc Thạch, Kiên Tân, Rạch Giá và một vài kênh. Mai sau mong rằng: Cần Say sẽ là một trung tâm cho toàn giáo phận.
Để huy động toàn gíáo dân trong Giáo phận hứơng về một hoạt động chung có tính cách tăng cường đạo đức. Học tập, hoặc nêu lên gương Kitô giáo, nhiều khi Gíáo phận tự động hoặc hưởng ứng chương trình toàn quốc, đã tổ chức những chiến dịch như sau:
a. Năm 1961-1964, hưởng ứng chiến dịch đền tạ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ của toàn quốc (xem thông cáo 21.11.61), Giáo phận Long Xuyên (xem thông cáo 1/61) đặt mỗi năm một công tác riêng.
b. Năm 1962, rước tượng Đức Mẹ Fatima tuần du các họ đạo trong Giáo phận, mỗi xứ họ được phép đón tiếp và giữ lại một tuần lễ, để làm việc đền tạ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Bắt đầu từ họ Long Xuyên, ngày 7/1/62, và dừng lại ở họ đạo Hoà Hưng, ngày 20/1/63
c. Năm 1963, rước Xương các thánh tử đạo Việt Nam: Quí, Phụng, Liêm, Khang trong toàn Giáo phận, mỗi xứ được giữ lại một tuần và được làm lễ Votiva kính các Thánh Tử đạo Việt Nam (theo thư của Thánh Bộ truyền giáo, số 1419/62, đề ngày 16/3/62 và thông cáo Giáo phận số 13/62). Cuộc thánh du cử hành tại Châu Đốc, nơi hai Thánh Quí, Phụng chịu tử đạo ngày 31/7/1859, ngày 1/1/63 và chấm dứt tại Phú Quốc ngày 31/12/63. Mục đích cuộc thánh du xương Thánh tử đạo là để thúc dục gíáo dân bắt chước gương trung thành sắt đá vơi đức tin: "Thà máu chảy da rời, thà tan xương nát thịt, chẳng thà để cho đức tin phai mờ nơi chúng ta" (thông cáo 13/62)
d. Năm 1965 thi hành ba mệnh lệnh Fatima là giải pháp hữu hiệu nhất để cứu vãn tình thế trong giai đoạn cực kỳ nghiêm trọng của đất nước. Theo ý nguyện của Đức Thánh Cha đã tuyên dương Đức Maria là Mẹ Giáo Hội (21.11.64) và đã ban bố thông điệp "Tháng Năm"cho Giáo Hội (30.4.65, thông cáo về chiến dịch giáo phận 1965-1966)
c. Năm 1967, từ 5/67 đến 5/68 là kim khánh Đức Mẹ Fatima hợp ý với Đức Thánh Cha Phaolô VI, nài xin Đức Mẹ cầu bầu cho nhà thờ chánh toà Long Xuyên được hoàn thành, để đánh dấu sự cậy trông Đức Mẹ và kỷ niệm nền hoà bình, mà Ngài đã đem lại cho chúng ta (thông cáo 7/67)
g. Năm 1968, từ 29/6/67 đến 29/6/68, là năm tuyên xưng đức tin, có mục đích chấn chỉnh Đức Tin, khai mạc và bế mạc long trọng tại Long Xuyên, với sự hiện diện của đông đủ giáo sĩ và giáo dân. Ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cũng tổ chức tuyên xưng đức tin long trọng ở nhiều địa điểm: Châu Đốc, Cù Lao Giêng, Rạch Giá, Kiên Tân, phát động phong trào học hỏi và thi giáo lý theo cuốn giáo lý công giáo: Những ngày chầu lượt, tổ chức long trọng hơn thường, có thể rước Mình Thánh Chúa.
h. Năm 1969, bế mạc năm cầu xin Đức Mẹ cho hoà bình: các họ đạo và các gia đình năng lần chuỗi và dâng mình cho Trái Tim vô Nhiễm Đức Mẹ, có thể rước kiệu Đức Mẹ các ngày thứ bảy.
i. Năm 1970, theo chiến dịch toàn quốc cầu cho hoà bình đất nước.
k. Năm 1971, cầu cho Thượng hội đồng Giám Mục, họp tại Roma, nghiên cứu về hai đề tài quan trọng, là chức linh mục thừa tác và công bình xã hội.
1. Năm 1972, hưởng ứng hội nghi Thánh Thể quốc tế tại Melbourne. Đặc biệt Thiếu Nhi Thánh Thể có một chương trình hành động rộng lớn trên bình diện giáo phận và toàn quốc.
m. Năm 1973, là năm toàn xá thường lệ: được khai mạc long trọng tại nhà thờ chánh toà Long Xuyên, cũng được khánh thành dịp đó, ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời 1.8.1973 và bế mạc ngày lễ Đức Chúa Thành Thần hiện xuống 2.6.74, trong dịp này, các họ đạo gửi đại diện về nhà thờ chánh toà, dự lễ và lãnh ân xá. Đồng thời Đức Cha cũng chỉ định một số nhà thờ cho giáo dân tiện tới lui: Châu Đốc, Cù Lao Giêng, Thạnh An, Kiên Tân, Rạch Giá, Hoà Hưng, An Thới (Phú Quốc)
Những dịp lễ lớn như vậy, giáo dân có thể gặp nhau, tập họp nhau, và nhận thấy sức sống của tôn giáo mình, để thêm lòng can đảm giữ đạo và truyền đạo chung quanh mình.
Trong số Giáo phận, nhà thờ chánh toà là nơi Đức Giám Mục đặt toà (cathédra) của ngài, tượng trưng quyền bính và nguyên lý hợp nhất Dân Chúa trong Giáo Phận. Cha Luca Huy đã nói: ”Đền Thờ Thánh Phêrô Ơ Roma là mẹ các đền thờ trong toàn Giáo Hội thế nào, thì nhà thờ chánh toà cũng là mẹ các nhà thờ, nhà nguyện trong một giáo phận như vậy."
Đức Giám mục phải chính thức nhận Giáo phận mới thi hành chức vụ cai quản (GL. 382…). Khi cử hành nghi lễ nhận Giáo phận hay lễ tựu chức, thì vị đại diện Đức Giáo Hoàng cho công bố sắc lệnh toà Thánh cắt cử Đức Gíam Mục tháp tùng từ Sài Gòn tới Long Xuyên, được đón tiếp rất long trọng trên nền nhà thờ mới, còn nghi lễ tựu chức đã được cử hành trong nhà thờ cũ của họ đạo Long Xuyên
Nhà thờ này bé nhỏ, không đựơc nhìn nhận làm nhà thờ chánh toà. Cho nên, trong sắc lệnh "Venerabilium nostrorum", thiết lập hàng gíáo phẩm Việt Nam, đề ngày 24.11.1960, khi nói đến Giáo phận Long Xuyên, có thêm câu "Với nhà thờ chánh toà sắp được xây dựng"
Dĩ nhiên phải có nhà thờ chánh toà, nhưng nhà thờ này sẽ lấy danh hiệu gì, sẽ chọn vị thánh nào làm bổn mạng ?…. Kiểm điểm 19 nhà thờ chánh toà ở Việt Nam, thì thấy: 3 nhà thờ chọn Chúa Giêsu làm bổn mạng: 2 dưới danh hiệu Thánh Tâm Chúa Giêsu (TB, CT), 1 dưới danh hiệu Chúa Kitô Vua (NT); 12 nhà thờ chọn Đức Mẹ làm bổn mạng; 4 dưới danh hiệu Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi (HP, BN, BC, PD), 4 dưới danh hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (th, kt, SG, Tin Mừng ), 3 dưới danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời (HH, V, QN) 1 dưới danh hiệu Trái Tim Cức sạch Đức Mẹ (Huế); 4 nhà thờ chọn các thánh làm bổn mạng: Thánh Giuse (HN), thánh Anna (VL), thánh Đaminh (LS), thánh Nicola Bari (ĐL)
Đức Gíam Mục Long Xuyên đã chọn Đức Mẹ làm bổn mạng nhà thờ chánh toà, nhưng dưới danh hiệu nào cho phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh lúc đó đất nước Việt Nam nói chung và Giáo phận Long Xuyên nói riêng, đang phải trải qua khói lửa chiến tranh. Ai cũng đều mong muốn hoà bình. Dĩ nhiên, phải hoà bình với Thiên Chúa là căn bản cho được hoà bình với nhau. Và cho được như vậy, phải có phần đóng góp của mình, với ơn Chúa giúp, nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ Maria, Nữ Vương Hoà Bình. Cụ thể, chúng ta phải cầu nguyện, hy sinh và hoạt động, để xây dựng và hiến dâng ngôi thánh đường đẹp đẽ cho Đức Mẹ, vừa để tỏ lòng trông cậy, biết ơn, vừa để nài xin Đức Mẹ chuyển cầu cùng Chúa ban hoà bình cho quê hương và Giáo phận chúng ta.
Còn tượng Đức Mẹ, thì cũng phải chọn tượng nào phù hợp với ý hướng và hoàn cảnh.. cũng may, là nhân dịp đi họp Công đồng Vatican II, năm 1962, Đức Cha Long Xuyên được gặp lại một linh mục quen thân. Cha Mare Trémeau, và kể cho ngài biết về hoàn cảnh và ý định của mình về vấn đề nhà thờ chánh toà… Ngài cho biết là hoàn cảnh ấy giống như hoàn cảnh nước Pháp năm 1870-1871 và đã được Đức Mẹ hiện ra ở Pontmain cứu gíup.
Thật vậy, năm 1870-1871 nước Pháp bị quân Đức xâm lăng.. đại bác vang rền như sấm, cách Pontmain chừng 50 cây số, dân chúng hoang mang chờ đợi quân thù tràn đến.. Nhưng cha sở Pontmain, Micae Guerin, rất sùng kính Đức Mẹ, hằng thúc gịuc giáo dân kiên tâm cầu xin Đức Mẹ.. Thì tối hôm 17.1.1871, Đức Mẹ hiện ra trên trời, từ 6 đến 9 giờ. Nhưng chỉ có 3 trẻ em trông thấy mà thôi. Đó là 2 cậu giúp lễ và em gái, lưu học tại nhà bà phước. Và thấy gì, các em nói ra cho người ta biết.
Dần dần, dân làng tuôn đến, và người ta mời cha sở ra coi… Lúc đó có một thánh giá nhỏ xuất hiện trên trái tim Bà…
Cha sở bảo giáo dân lần chuỗi.. rồi hát Magnificat, Salve Regina. Ave Maris stella… Khi bắt đầu hát Magnificat, thì có một băng vải trắng dài căng thẳng, xuất hiện dưới chân bà, rồi từ từ được viết những chữ cái vàng, các em đánh vần được, cho nên mọi người nghe biết, sau bài Salve Regina, thì băng đó được viết xong, thành hai hàng: "nhưng các con hãy cầu nguyện, Chúa sắp nhận lời. Con Mẹ động lòng thương".
Một bà phước xướng bài "Mẹ là hy vọng chúng con", thì thấy Bà giơ hai tay lên ngang vai, các ngón tay múa máy, như đánh nhịp cho họ hát.
Lại một bài thống hối: "Lạy Chúa Giêsu, đã đến lúc rủ lòng thương", thì thấy "Bà buồn rầu". Rồi một tượng Chúa chịu đóng đinh, chừng 50 centimetres, xuất hiện, mình Chúa đỏ lòm: Bà giơ hai tay đón lấy, áp vào ngực, rồi giơ ra cho các em coi, mặt bà vốn buồn.
Khi hát "Ave Maris stella", thì tượng Chúa biến đi, nụ cười của Bà trở nên vui như trước. Nhưng có hai thánh giá xuất hiện trên hai vai Bà.
Cha sở bắt đầu đọc kinh tối, thì xuất hiện một bức màn từ dưới chân Bà kéo lên che phủ mất Bà. Các em kêu lên "Thôi hết rồi"!
Ai nấy ra về, lòng đầy hy vọng. Sáng hôm sau, họ được tin là: ngay đêm 17.1.1871, quân Đức ngưng tiến, và 10 hôm sau, cuộc đình chiến được ký kết.
Vậy tượng Đức Mẹ, Nữ Vương Hoà Bình, bổn mạng nhà thờ chánh toà Long Xuyên, là tượng Đức Mẹ hiện ra ở Pontmain. Chúng tôi xin cha quản đốc đền thờ Pontmain (Chanoine Paulain) gởi cho chúng tôi một tượng nhỏ, và chúng tôi đã nhờ thợ tượng ở Sài Gòn làm một tượng cao 8m, đặt ở tháp chuông, trên cửa chính vào nhà thờ.
1. Ý nghĩa kiến trúc: Phải cầu nguyện và hy sinh mới trông được hoà bình.
Ý nguyện này đã được kiến trúc sư Nguyễn Mỹ Lộc phác hoạ cho Đức Cha và các cha xem, khi ông đến thăm các ngài, dịp cấm phòng ở Tân Hiệp. Cụ thể cây tháp chuông là hai cánh tay giơ lên cao, hai bàn tay chắp lại, ôm lấy khổ giá: đó là dâng lời nguyện và hy sinh cho Chúa, khổ giá này còn được lập lại rất nhiều lần ở hai bên hành lang nhà thờ, và trong các khung cửa sổ.
Bên trong nhà thờ rất đơn sơ, nhưng ở gian cung thánh, gắn liền vào vách hậu là cây khổ giá với tượng Chúa đóng đinh, cao 8m. dưới khổ giá là trái đất, tượng trưng cho nhân loại nói chung, và cho Giáo phận Long xuyên nói riêng, mà hằng ngày, trong thánh lễ cũng như khi cầu nguyện, chúng tôi dâng lên Chúa, để xin tha thứ và ban mọi ơn lành…
2. Khởi công xây cất: Năm 1958, khi Long Xuyên còn thuộc Giáo phận Cần Thơ, cha sở Nguyễn Hữu Mỹ đã khởi công xây cất nhà thờ này, để thay thế nhà thờ cũ, quá bé nhỏ. Ngài đã vận dụng mọi cách cho có tiền, như quyên góp, ký sổ vàng, mở tombola, vv.. tuy nhiên chỉ xây được một cái nền, rồi phải đình chỉ, năm 1960.
Năm 1962, với Đức Gíam Mục, cha sở và Toà Giám Mục lại bắt đầu quyên góp… nhưng đó là những năm lụt lội, hay mất mùa, lại các giáo xứ nhất là di cư, phải làm lại nhà ở, nhà thờ, nhà xứ, trường học… vì các cơ sở tạm thời lúc định cư, đã bắt đầu hư hỏng: đó là không kể chiến tranh phá hoại… Tất cả tiền quyên góp được 3 triệu và Toà Thánh cho được 3 triệu rưỡi, cũng may, là những năm đi họp Công đồng Vatican II (1962-1965). Đức Cha có dịp tiếp xúc với nhiều nơi và đã xin được đủ tiền xây nhà thờ này, mà kinh phí tổng quát là 30 triệu. Lại trong họ Long Xuyên cũng có nhiều người hảo tâm: có người cho cả bộ ghế nhà thờ, có người trả tiền đá rửa, có người trông coi xây cất. Chúng ta phải biết ơn và xin Chúa trả công bội hậu cho những người đã giúp công, giúp của vào.
3. Khánh thành nhà thờ: Với sự cầu nguyện, hy sinh và công lao vất vả, từ năm 1962 đến 1963, chúng tôi đã may mắn hoàn thành ngôi thánh đường, mà không xảy ra tai nạn nào cả. Nhà thờ dài 60m, rộng 18m (ở tay thánh giá 26m ). Cao 20m, với cây tháp 55m.
Vì trong thời chiến tranh, lễ khánh thành đã được tổ chức đơn giản, vào lễ Đức Mẹ Lên Trời, ngày 15.8.1973, với sự hiện diện của 5 vị Gíám mục và vô số giáo hữu của Giáo phận, tuốn về Long Xuyên mừng lễ và nhân tiện lãnh ơn toàn xá của năm thánh. Cuộc rước được tổ chức từ trường phụng sự đến nhà thờ chánh toà, rồi Đức Giám Mục Long Xuyên làm phép tượng Đức Mẹ, làm phép nhà thờ và dâng lễ.
Sau thánh lễ, các Đức Cha, các cha và các thầy điểm tâm sơ sài, còn giáo dân, thì mỗi người nhận một tấm bánh mì kẹp thịt.
d. Hoà bình đã đến: Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện và hy sinh cho hoà bình, với niềm cậy trông chắc chắn, vì biết Đức Mẹ ở giữa chúng tôi, cầu nguyện với chúng tôi, và cầu bầu cho chúng tôi: "Nhưng các con hãy cầu nguyện, Chúa sắp nhậm lời. Con Mẹ động lòng thương"…
Gần 2 năm sau, cụ thể là ngày 30.4.1975, chiến tranh chấm dứt, đất nước được hoà bình và thống nhất. Hơn thế nữa! Đức Mẹ còn ban cho Giáo phận chúng tôi một Đức Giám Mục phó, để giúp Đức Chà già coi sóc Giáo phận, với quyền kế vị Ngài.
Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương Hoà Bình! Chúng con đã dâng nhà thờ này cho Đức Mẹ, để được hoà bình. Xin Mẹ gìn giữ nhà này cho Chúa, cho Mẹ và cho chúng con, xin Mẹ luôn duy trì và củng cố hoà bình cho chúng con: hoà bình với Chúa, hoà bình với nhau.
Chớ gì được như vậy Amen.
------------------------------------------------- Thành khẩn
Các bài viết của
- Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ,
- Cha Giuse ThânVăn Tường và
- Cha Gioakim Mai Xuân Triết
Thời trước, được in RONÉO rải rác trong các tập TĨNH TÂM hàng tháng,
hoặc những cuốn sách Đạo đức, Tu đức, in Ronéo.
Nay kẻ hèn này muốn sưu tầm lại, để lưu giữ trên trang https://linhmucmen.com/
hầu có thể giúp ích cho những thế hệ mai sau lâu dài, kẻo mai một đi thì tiếc lắm.
Vậy, những ai còn giữ những cuốn Tĩnh Tâm đó, hoặc những sách đó,
có bài viết của - Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ
- Đức Cha GB. Bùi Tuần - Cha Giuse ThânVăn Tường và - Cha Gioakim Mai Xuân Triết
Xin giúp đánh máy lại, hoặc Photo, rồi gởi cho con (con sẽ đánh máy), theo địa chỉ:
- Email: [email protected] Hết lòng cám ơn. Lm.Nguyễn Văn Mễn -------------------------------------------