Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày MC - Xếp gọn trong Tuần 5-2025

Thứ sáu - 11/04/2025 09:18
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày MC - Xếp gọn trong Tuần 5-2025
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày MC - Xếp gọn trong Tuần 5-2025
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày MC
Xếp gọn trong Tuần 5-2025
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: Thứ 2 MC 5 – 2025 Khủng hoảng niềm tin. 3
Lời Chúa: Ga 8, 12-20. 3
Suy Niệm 1: Tôi là ánh sáng của thế giới 3
Suy Niệm 2: Khủng hoảng niềm tin do không hiểu Lời Chúa. 5
Suy Niệm 3: Đức Giêsu ánh sáng thế gian. 7
Suy Niệm 4: Ánh sáng trần gian. 7
Suy Niệm 5: Luồng sinh khí mới 9
Suy Niệm 6: Ánh sáng lòng thương xót 9
Suy Niệm 7: Ánh sáng thế gian. 10
Suy Niệm 8: Ta là sự sáng thế gian. 11
Suy Niệm 9: Bước đi trong ánh sáng. 13

Thứ 3: Thứ 3 MC 5 - 2025. 14
Lời Chúa: Ga 8, 21-30. 15
Suy Niệm 1: Giương cao Con Người lên. 15
Suy Niệm 2: Thượng giới và hạ giới 17
Suy Niệm 3: Vai Trò Của Ðấng Messia. 18
Suy Niệm 4: Tin Nhận Chúa. 19
Suy Niệm 5: Nếu các ông không tin. 20
Suy Niệm 6: Đức tin và đời sống. 22
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu là Đấng Hằng Hữu. 23
Suy Niệm 8: Tin nhận Chúa Giêsu - Tin nhận Chúa Cha. 24
Suy Niệm 9: Tình thương và tội lỗi 25
Suy Niệm 10: Khi nào các ông đưa Con Người lên cao. 27
Suy Niệm 11: Biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu. 28
Suy Niệm 12: Khi Chúa chết là Chúa cứu chúng ta. 31
Suy Niệm 13: Trung thành tuân giữ lời Chúa. 32

Thứ 4: Thứ 4 MC 5 - 2025. 34
Lời Chúa: Ga 8, 31-42. 34
Suy Niệm 1: Sự thật sẽ giải phóng các ông. 34
Suy Niệm 2 : Nô lệ và tự do. 36
Suy Niệm 3: Ðức Tin Chân Chính. 37
Suy Niệm 4: Chân Lý Sẽ Giải Thoát. 38
Suy Niệm 5: Thiên Chúa hay các thần tượng. 39
Suy Niệm 6: Phạm tội là làm nô lệ cho tội 40
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu đến để mạc khải sự thật 41
Suy Niệm 8: Ở lại trong tình yêu của Thầy. 42
Suy Niệm 9: Nô lệ và tự do. 44
Suy Niệm 10: Giải thoát 46
Suy Niệm 11: Xin cho con biết Chúa và biết con. 47
Suy Niệm 12: Tự do là ơn Chúa ban. 50
Suy Niệm 13: Sự thật giải phóng. 51

Thứ 5: Thứ 5 MC 5 - 2025. 52
Lời Chúa: Ga 8, 51-59. 52
Suy Niệm 1: Tôi hằng hữu. 53
Suy Niệm 2: Đức tin ban sự sống. 54
Suy Niệm 3: Niềm tin và lý trí 55
Suy Niệm 4: Xét đoán mù quáng. 57
Suy Niệm 5: Trí nhớ hạn hẹp. 58
Suy Niệm 6: Ơn cứu độ của tôi nhờ hy vọng vào Chúa. 59
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chỉ tìm vinh quang từ nơi Chúa Cha. 60
Suy Niệm 8: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?. 61
Suy Niệm 9: Thực thi Lời Chúa. 62
Suy Niệm 10: Chuyện về Abraham và Chúa Giêsu. 64
Suy Niệm 11: Nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. 65
Suy Niệm 12: Tổ phụ Abraham là niềm tự hào của người Do Thái 68
Suy Niệm 13: Hy vọng được thấy ngày cứu độ. 69

Thứ 6: Thứ 6 MC 5 - 2025. 70
Lời Chúa: Ga 10, 31-42. 70
Suy Niệm 1: Tôi là Con Thiên Chúa. 71
Suy Niệm 2: Thoát khỏi tay họ. 73
Suy Niệm 3: Ðường chân lý. 73
Suy Niệm 4: Sống theo Chúa. 75
Suy Niệm 5: Bị dồn vào chân tường. 76
Suy Niệm 6: Giả hình nên giảm thiêng. 77
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu bày tỏ Ngài là Con Thiên Chúa. 78
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu mạc khải sự thật về Ngài 79
Suy Niệm 9: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. 80
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu mặc khải sự thật về Ngài 82
Suy Niệm 11: Chúa Giêsu các định: Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là Con Người 83
Suy Niệm 12: Họ bắt Chúa, nhưng Chúa thoát đi nơi khác. 86
Suy Niệm 13: Hưởng tự do đích thực. 87

Thứ 7: Thứ 7 MC 5 - 2025. 88
Lời Chúa: Ga 11, 45-56. 88
Suy Niệm 1: Chết thay cho dân. 89
Suy Niệm 2: Qui về một mối 91
Suy Niệm 3: Người công chính. 92
Suy Niệm 4: Chết thay người khác. 93
Suy Niệm 5: Đồng thuyền đồng hội 94
Suy Niệm 6: Một người chết, toàn dân được nhờ. 95
Suy Niệm 7: Quy tụ mọi người thành cộng đoàn con cái Thiên Chúa. 95
Suy Niệm 8: Chết thay cho dân. 96
Suy Niệm 9: Đức Giêsu chết thay cho dân. 98
Suy Niệm 10: Một người chết thay cho dân. 100
Suy Niệm 11: Chúa Giêsu đã chịu chết thay. 101
Suy Niệm 12: Chúa qui tụ mọi người lại bên Chúa. 104
Suy Niệm 13: Quy tụ về một mối 105

----------------------------------
 

Thứ 2: Thứ 2 MC 5 – 2025 Khủng hoảng niềm tin.

07/04 – Thứ Hai tuần 5 mùa Chay năm C.
"Ta là sự sáng thế gian".

 

Lời Chúa: Ga 8, 12-20


Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".
Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Đấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Đấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".
Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".
Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tôi là ánh sáng của thế giới


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu thường dùng lối nói “Tôi-là”
để long trọng khẳng định mình.
Sau đó, đôi khi Đức Giêsu còn đưa ra một lời mời, một lời hứa.
“Tôi là Bánh ban sự sống. Ai đến với tôi sẽ không hề đói,
Ai tin vào tôi sẽ không hề khát bao giờ” (6:35).
“Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào, người ấy sẽ được cứu thoát” (10, 9).
“Tôi là sự Sống lại và là sự Sống. Ai tin vào tôi thì dù có chết cũng sẽ sống;
và ai sống và tin vào tôi sẽ không chết bao giờ” (11, 25-26).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu long trọng tuyên bố:
“Tôi là Ánh sáng của thế giới. Ai theo tôi sẽ không đi trong bóng tối,
nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống” (8, 12).
Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể,
là Ánh sáng đến trong thế gian để chiếu soi mọi người (1, 9).
Ngài không phải chỉ là một ngọn đèn đứng yên một chỗ,
nhưng Ngài là nguồn sáng di động, lôi kéo nhân loại đi theo.
Đi theo Ngài là bước vào cuộc hành trình dẫn đến sự sống viên mãn.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài để được biến đổi:
“Hãy tin vào ánh sáng để anh em trở thành con cái ánh sáng” (12, 36).
Những người Pharisêu không tin Đức Giêsu.
Có một tranh luận căng thẳng giữa đôi bên.
Họ bảo lời chứng của Ngài cho chính mình là vô giá trị.
Thật ra Đức Giêsu không làm chứng một mình.
“Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi” (8, 18).
Ngài cũng không phán xét một mình,
nhưng phán xét cùng với Đấng đã sai Ngài (8, 16).
Đức Giêsu gắn bó chặt chẽ với Thiên Chúa Cha.
“Tôi biết tôi đã từ đâu đến và tôi đi đâu” (8, 14).
Ngài đến từ Cha, và Ngài sẽ trở về với Cha.
Cha vừa là khởi điểm, vừa là kết điểm của đời Đức Giêsu.
Nhưng các người Pharisêu không được biết mầu nhiệm này.
Họ không hiểu được tương quan thân thiết và độc đáo
giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa như Con đối với Cha.
“Các ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi.
Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng biết Cha tôi” (8, 19).
Chính vì thế họ coi những lời của Đức Giêsu là phạm thượng.
Khi đến giờ, họ sẽ tìm cách bắt và giết Ngài (8, 20).
Khi kính nhớ cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa,
Chúng ta cảm nghiệm được mãnh lực gớm ghê của bóng tối,
và sức mạnh của những người chuộng bóng tối hơn ánh sáng (3, 19).
Nhưng cuối cùng, Ánh sáng mới là người chiến thắng.
Chuẩn bị mừng lễ Phục sinh là chọn đứng hẳn về phía Đức Kitô,
là trục xuất khỏi đời mình mọi bóng tối, và cả những bóng mờ dày đặc.
Xin Ánh sáng của Đức Kitô phục sinh bắt đầu bừng lên trong tim tôi.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi,
để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng
vào những bóng mờ trong đời con.
Và ước gì con được trở nên trong suốt
nhờ để ánh sáng Chúa
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Khủng hoảng niềm tin do không hiểu Lời Chúa


Tin Mừng hôm nay Thánh sử Gioan thuật lại đoạn đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái, cụ thể hơn là giữa Chúa Giêsu và những người Pharisiêu. Cuộc đối thoại không đưa đến kết quả khả quan và cũng không giải quyết được những vấn đề còn khúc mắc; bởi vì những người Do Thái không hiểu cũng không nỗ lực tìm cách hiểu đúng được mạc khải của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu mạc khải về thiên tính của Ngài một đàng, người Do Thái hiểu và tìm kiếm Chúa Giêsu đàng khác. Cha Anthony de Mello Dòng Tên có kể lại một câu chuyện thú vị rất phù hợp với bối cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay như sau:

Một hôm, những người hàng xóm thấy một thanh niên đốt đèn lúi húi tìm kiếm vật gì đó ở ngoài sân. Đồng cảm với anh, những người hàng xóm tốt bụng đã phụ anh tìm kiếm chiếc chìa khóa mà anh đã đánh rơi. Sau một hồi chú tâm tìm kiếm mà không thấy, mọi người hỏi: “Anh đã làm rơi chìa khóa ở đâu?”. Người thanh niên trả lời: “Tôi làm rơi chìa khóa ở trong nhà”. Mọi người sững sờ hỏi: “Tại sao anh lại tìm ở đây?” Người thanh niên trả lời: “Tôi tìm ở ngoài sân cho dễ vì ở đây sáng hơn và không vướng các khe kẹt của bàn ghế”.

Người Do Thái cũng như anh thanh niên trong câu chuyện trên và cũng có thể là mỗi người trong chúng ta. Chúng ta khủng hoảng đức tin vì chúng ta không hiểu giáo lý của Chúa và nhiều khi chúng ta cố tìm kiếm Chúa theo ý của mình. Chúng ta tìm Chúa ở nơi không có Ngài. Chúng ta không hiểu và không cảm nghiệm được Thiên Chúa vì chúng ta không nghe cho thấu Lời Ngài.

Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu mạc khải: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống". Người Do Thái không hiểu và đáp: "Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông không thật!"  Chúa Giêsu mạc khải: “…Tôi biết tôi từ đâu tới và đi đâu…”, Tôi không xét đoán ai cả, cũng không xét đoán theo kiểu người phàm mà xét đoán theo đúng sự thật… Chúa Giêsu còn mạc khải thêm về chính Ngài trong tương quan với Thiên Chúa Cha và Ngài cũng nói đến sứ mạng Thiên Sai mà Ngài phải chu toàn. Nhưng tất cả những điều ấy đều trở nên tối tăm vô nghĩa đối với những người Do Thái.

Không hiểu hết các mạc khải của Chúa Giêsu sẽ dẫn đến tình trạng không tin và không yêu mến Chúa. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng dễ đi vào khủng hoảng mất đức tin nếu chúng ta không hiểu về Chúa Giêsu. Đối với những người chưa nhận biết Chúa họ sẽ không tin theo nếu họ không được giới thiệu về Chúa và không hiểu rõ về Ngài. Đối với những người Do Thái, một trong những lý do quan trọng khiến họ đi đến căng thẳng và muốn treo Chúa Giêsu lên thánh giá cũng vì họ không hiểu được các điều Chúa nói.

Ước gì mọi thành phần trong Hội Thánh cũng khát khao học hỏi Lời Chúa, để hiểu được điều mà Chúa muốn mạc khải. Ước gì mọi thành phần trong Hội Thánh cũng ý thức được sứ vụ phải loan giảng Lời Chúa cho muôn dân. Ước gì mỗi chúng ta cũng ý thức rằng: chúng ta sẽ được củng cố đức tin nếu chúng ta chăm chú học hỏi Lời Chúa.

Lạy Chúa,
Với khoa học hiện đại, với phương tiện mới, lăng kính mới.
Nhân loại ngày càng khám phá ra những điều kỳ diệu.
Thế nhưng, chúng con lại ít có cái nhìn mới,
với phương tiện mới mãi mãi là lời Chúa mạc khải.
Xin cho chúng con hiểu được các lời mạc khải của Chúa,
để chúng con tin yêu, phó thác và luôn sống cho Chúa.
Chúng con sẽ không ngừng khám phá những điều kỳ diệu, những giá trị cao cả,

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Đức Giêsu ánh sáng thế gian.


Chúa Giêsu tự giới thiệu mình là ánh sáng thế gian. Với tư cách là Đấng mạc khải, Ngài phá tan bóng tối tội lỗi và chiếu soi cuộc sống của con người, giúp họ hiểu biết ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, tìm ra con đường dẫn tới Thiên Chúa nguồn sống.

Mùa Chay, chúng ta hãy xét mình, đã bao nhiêu lần Chúa đã gởi đến cho chúng ta những luồng sáng qua Giáo hội, qua bí tích, qua từng biến cố trong đời sống, vậy mà chúng ta có thật lòng khiêm tốn đón nhận ánh sáng không? Đời sống chúng ta đang toả sáng hay đang trong u tối?

Sống Lời Chúa: Mỗi người là một ánh sáng, mỗi hành động tốt là một tia sáng cho tha nhân.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Ánh sáng trần gian


Đức Giêsu lại nói với người Do Thái: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8, 12)

2. Suy Niệm:

Nói đến ánh sáng, dù nghĩa đen hay bóng, luôn đóng vai trò thiết yếu cho cuộc sống con người. Cả vạn vật, cỏ cây cũng cần có ánh sáng. Ánh sáng đem lại cho con người một cuộc sống tiện nghi, sung túc và hưởng thụ biết bao niềm vui trong cuộc sống. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Thiên Chúa muốn mọi người nhận ra ánh sáng  không phải là thứ hiện hữu trên trần gian này, nhưng ánh sáng đó chính là hình ảnh Chúa Kitô, ánh sáng giúp tôi phải  từ bỏ chính mình vác thập giá theo chân Chúa tới đỉnh đồi Gôgôtha vì “Ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8, 12).

Do đó, đứng trước những sa đọa, gian trá, bất công, đen tối của trần gian, nếu không có sự đấu tranh bênh vực công lý và hòa bình, hoặc làm ngơ trước những hậu quả ta gây ra thì chúng ta đã đánh mất đi chính mình, tổn thương đến lương tâm mình. Con người ngày nay vẫn bước đi trong bóng tối của những tệ nạn xã hội. Hơn thế nữa, một bộ phận không nhỏ giới trẻ bị cuốn vào vào các cuộc ăn chơi trụy lạc, sa đọa, lầm lạc trên con đường định hình nhân cách và lối sống, đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa. Việc sống đức tin chỉ là chiếu lệ và bề ngoài cho qua, như khi đi tham dự Thánh lễ thì đứng xa xa ngoài thánh đường…

Trước thực trạng đó, người Kitô hữu phải đồng hành với giới trẻ, giúp họ nhận ra ánh sáng của Đức Kitô sẽ cứu rỗi được bao người lạc bước. Và Giáo hội luôn mời gọi mỗi người Kitô hữu luôn là gương sáng, sống chứng nhân Tin Mừng giữa đời từ công sở, trường học đến nơi buôn bán, họp chợ, hay ngay cả nơi Thánh đường, người Kitô hữu luôn là gương sáng giữa đời bằng sự khiêm nhường, hy sinh, phục vụ cho đi nhưng không, tránh những hành vi như nói hành nói xấu mất đi thanh danh của tha nhân, luôn sống bằng sự hiệp nhất trong tình huynh đệ Giáo xứ và xã hội. Từ đó, gương sáng luôn là tín hiệu nhắc nhớ, hay kim chỉ nam cho mọi người biết nhìn lại mình, dừng lại đúng nơi, đúng lúc, ánh sáng trần gian cũng là phương cách cảnh giác hoặc tỉnh ngộ, để đề phòng mưu hại của sa tan nhằm cướp lấy bao linh hồn mù quáng, có thể hối tiếc đã đánh mất đi một đời người sống vô nghĩa này.

Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1-5). Ánh sáng là chân lý, Thiên Chúa luôn chiếu soi trong trần gian những nơi âm u tối tăm, mù lòa giúp mọi người cảnh thức biết đón nhận theo Chúa, ánh sáng vinh hiển của Đức Kitô. Mùa chay là mùa ánh sáng tuôn đồ hồng ân, ân sủng này giúp con người luôn có cơ hội ăn năn sám hối, quay trở về với Chúa trong Ánh Sáng Phục Sinh và đặt mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa, tìm sự an bình, thánh thiện, sẽ không còn phải ngậm ngùi thương tiếc cho đời người qua đi trong lãng phí. Vậy giờ đây chúng ta có nhận ra ánh sáng lời Chúa đang thức tỉnh ta không?

3. Sống lời Chúa: Trong thư gởi Tín Hữu Ê-phê-sô có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn mê ngủ! Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5-14)

4. Cầu nguyện: Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết đem ánh sáng của Chúa đến với mọi người bằng tình thương, tình mến Chúa yêu người, chính Chúa là ánh sáng, là bánh hằng sống, bánh trường sinh bất diệt, để chúng con can đảm vượt qua cạm bẫy sa tan đang ẩn núp trong bóng tối. Xin thức tỉnh mọi người chúng con trong mùa chay Thánh này, luôn là ánh sáng chiếu soi qua máng chuyển lời Chúa chiếu tỏa trên tâm hồn mỗi người chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Luồng sinh khí mới


Đức Giê-su nói: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12-20)

Suy Niệm: Vụ án xử người phụ nữ ngoại tình là câu chuyện dẫn nhập để thánh Gio-an giúp chúng ta hiểu được lời Chúa nói hôm nay. Cái nhìn của Chúa đem lại luồng sinh khí mới: Ngài là nguồn ánh sáng đem lại sự sống. Những người tố cáo cũng được cái nhìn của Chúa soi sáng và thấy được sự thật tâm hồn mình: một con người cũng mang đầy tội lỗi như ai. Nhưng ánh sáng đó chưa kịp đem lại luồng sinh khí mới cho họ, thì họ đã vội rút lui. Còn bị cáo, người phụ nữ ngoại tình, cũng được cái nhìn đầy ánh sáng của Chúa chiếu rọi. Nhưng khác một điều, chị vẫn đứng đấy, một mình với Chúa, chấp nhận để ánh sáng Chúa soi rọi vào mọi ngõ ngách tâm hồn. Thật kỳ diệu, ánh sáng đó biến thành liều thuốc cải tử hoàn sinh. Chẳng những chị khỏi bị ném đá cho đến chết, chị còn được biến đổi thành một con người mới, con người được tha thứ tội lỗi: “Tôi cũng không kết án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”

Mời Bạn: Phải chăng biết bao lần bạn đã tránh né cái nhìn của Chúa? Từ nay, bạn đừng trốn tránh nữa. Nhưng hãy đến với Ngài trong bí tích Hoà giải để Ngài nhìn bạn và chuyển thông cho bạn sức sống mới.

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày dành ít phút, đặt mình trước cái nhìn của Chúa để kiểm điểm đời sống.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, thân phận yếu đuối tội lỗi của người phụ nữ đáng thương cũng là thân phận của con. Biết bao lần con đã phạm tội. Xin giúp con biết ăn năn trở về nhận lãnh ơn tha tội và luôn nhắc nhở lòng mình: “Hãy sám hối và từ nay đừng phạm tội nữa ».

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Ánh sáng lòng thương xót


"Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."

Suy Niệm: Có đặt mình vào vị trí của người thợ mỏ bị kẹt trong hầm sâu dưới lòng đất, khi bốn bề chung quanh đều chìm trong màn tối dầy đặc, mới thấy rằng chỉ cần một tia sáng le lói loé lên ở cuối đường hầm cũng có nghĩa là được sống, được giải cứu.

Chúa Ki-tô tuyên bố Ngài là ánh sáng đó, ánh sáng phát xuất từ nguồn sáng là lòng thương xót của Chúa Cha, ánh sáng duy nhất có khả năng cứu độ con người.

Quả thật, trong Thông điệp “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Đối với nhân loại ngày nay, không còn niềm hy vọng được cứu rỗi nào khác, ngoài lòng thương xót của Thiên Chúa.”

Và cũng từ niềm xác tín mãnh liệt vào mầu nhiệm này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai mở Năm Thánh Lòng Thương Xót (x. Tông sắc Dung nhan Lòng Thương Xót, số 11).

Mời Bạn: Giữa bến mê cuộc sống hôm nay, đâu là ánh sáng đích thực cho đời ta? Tôi có ý thức mình đang bước đi trong bóng tối không? Ai và cái gì có thể giải thoát tôi?

Bạn ơi, “việc tái chiêm ngưỡng mầu nhiệm Lòng Thương xót… là nguồn cội của niềm vui, của sự thanh thản và bình an…, cũng chính là điều kiện đối với ơn cứu độ của chúng ta” (số 02). Vậy, còn chần chừ gì nữa! Hãy để cho Chúa thương xót và cứu độ ta…!

Sống Lời Chúa: Sốt sắng tham dự các cử hành sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa Trong Mùa Chay của Năm Thánh này.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin thương xót chúng con là những người tội lỗi. Chúng con tín thác vào Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Ánh sáng thế gian


Khi nghe qua lời Chúa Giêsu nói: “Ta là ánh sáng thế gian”, rất có thể nhiều người trong chúng ta sẽ chất vấn như những người Do Thái: điều này có nghĩa là gì?

Đừng nghe Lời Chúa cách qua loa, nghe cho có, nghe rồi để đó mà không suy gẫm. Nếu chúng ta nghe Lời Chúa mà lòng không cảm xúc, trí không suy tư, tim không đụng chạm đến lời, thì Lời Chúa chỉ là một bản văn tham khảo.

“Ta là Ánh sáng thế gian; Ta là Mục tử tốt lành; Ta là đường, là sự thật và là sự sống; Ta là sự sống lại và là sự sống, v.v.”.

Chúng ta có liên tưởng gì về những điều Chúa Giêsu và Tin Mừng gọi “Ta là” và “Ta là”, đó chính là mặc khải căn bản và quan trọng nhất mà từ trong Cựu ước, qua Môsê, Chúa khẳng định danh của mình. Trong triết học, người ta gọi đây là xác định hữu thể. Tôi là ai? Căn tính của chúng ta chính là cái "ta là". Thiên Chúa tự bản thể là Thiên Chúa, Ngài khẳng định bản thể của Ngài là.

Chúng ta không thể hiểu cái "là", vốn là bản thể của Chúa Giêsu là gì nếu chúng ta không ở trong Người, không hiểu biết Người.

Người là ánh sáng. Chữ ánh sáng ấy không chỉ về ánh sáng vật lý, như của bóng đèn hay của môt ngôi sao. Đó là ánh sáng khác, ánh sáng mà trong kinh Tin Kính tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành...". Ánh sáng đó nói lên nguồn cội từ đời đời của Người, là khởi nguyên và cũng là cùng đích của nhân loại.

Chúa Giêsu là ánh sáng. Ai ở trong Người thì biết Người là Thiên Chúa. Ai biết Chúa Giêsu là biết Thiên Chúa Cha. Ai đi trong ánh sáng Người thì ở trong sự thật, và chính sự thật đó sẽ giải thoát con người, dẫn con người đến nguồn sống đích thực.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi khi nghe Lời Chúa, biết đặt tâm trí vào chính lời của Chúa và không ngừng suy niệm lời của Chúa nói với chúng con. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Ta là sự sáng thế gian


-- Ga 8:12 –20

1. Nhìn vào Chúa Giêsu:

a) Xem việc Chúa làm:

- Giữa lúc người Do Thái, nhất là các biệt phái và luật sĩ tìm bắt Đức Giêsu, vì họ gán cho Người về tội phạm thượng, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu lại tìm mọi cơ hội, dưới mọi hình thức: đối thoại, giảng dạy … để xác định Người là Đấng Cứu Thế, đồng bản tính với Chúa Cha…

+ Suy niệm việc của Chúa trên đây, chúng ta cần ý thức: không phải nói về Chúa một là là đủ, tìm hiểu về Chúa một lần là xong, nhưng phải học hỏi tìm hiểu về Chúa luôn mãi và giảng về Chúa trong mọi nơi, mọi lúc.

+ Khi rao giảng những chân lý về Chúa, những cản trợ, những bách hại và phải nhẫn nại, kiên trì trong việc rao giảng khi thấy người nghe chưa hiểu, chưa đón nhận…

- Chúa dựa vào thực tế để giảng dạy:

+ Người nghe nại đến lề luật làm chứng thì Chúa Giêsu nại đến chứng của Chúa Cha, thì người dẫn giải cách thấy Chúa Cha là tin vào Người … Mục đích rao giảng của Chúa là để giúp cho người nghe hiểu nguồn gốc thiêng liêng của Người.

+ Noi gương Chúa, người tông đồ phải dựa vào nhu cầu và những thực tại liên hệ đến người nghe để giảng dạy, đểtruyền giáo, để làm việc tông đồ.

b) Nghe lời Chúa nói:

-"Tôi là ánh sáng thế gian"

Qua phép rửa, chúng ta trở thành ki-tô hữu, nghĩa là thuộc về Chúa Ki-tô, và như vậy chúng ta được tham dự vào ánh sáng của Chúa: Chúng con là ánh sáng thế gian, là men trong bột, là muối cho đời. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tạo cho mình có đời sống gương sáng trong môi trường và đời sống gương mẫu thánh thiện đối với tha nhân.

-"Tôi làm chứng cho chính mình đi nữa, thì lời chứng của tôi vẫn là chứng thật":

Noi gương Chúa Giê-su, người tông đồ phải tạo cho mình một đời sống xứng đáng được tin cậy và tín nhiệm để nhờ đó lời giảng của chúng ta dễ được đón nhận.

-"Các ông xét đoán theo kiểu người phàm":

Chúa khiển trách thói xét đoán của các biệt phái theo kiểu người phàm: vì họ xét đoán cách bất công, vụ hình thức, hẹp hòi, ích kỷ: lợi cho mình hại cho người. Là Ki-tô hữu. Chúng ta phải noi gương Chúa: Chúa không xét đoán ai cả, nghĩa là phải có lòng khoan dung nhân từ và tôn trọng tha nhân. Đàng khác, chúng ta không xét đoán để khỏi bị đoán xét, tha thứ để được thứ tha.

2. Nhìn vào các biệt phái:

-Vì có óc vụ luật và vụ hình thức nên đã nhận nên đã nhận xét sai lầm về Chúa Giêsu: điều này nhắc nhủ ta cần phải chú ý đến nội dung hơn là hình thức, đến bản chất của sự việc hơn là đáng vẻ bên ngoài, để nhận xét của ta được quân bình, khách quan và đúng sự thực hơn.

- "Cha ông ở đâu?": Các biệt phái muốn biết Chúa Cha cách cụ thể theo nhãn quan của con người. Nhưng Chúa Giêsu lại đòi hỏi biết Chúa Cha bằng đức tin. Thiên Chúa là Đấng vô hình, vì thế ta biết Chúa Cha bằng đức tin, nhưng đức tin được dưạ vào bằng chứng cụ thể nơi con người, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu,vì "Nếu các ông biết tôi thì hẳn cũng biết Cha tôi"

3. Đặt bài Tin Mừng này và trong tâm tình và bầu khí Mùa Chay, phụng vụ muốn chúng ta:

Một đàng nhìn ngắm và suy niệm con đường thương khó của Chúa Giêsu để nhận ra tình thương cứu độ của Chúa.

Đàng khác phải thức tỉnh về đời sống và thánh hoá bản thân cho phù hợp với phẩm giá làm con Chúa hơn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Bước đi trong ánh sáng


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 5 Mùa Chay này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ tình thương tuyệt vời của Chúa, chúng ta được hưởng muôn phúc lộc chan hòa, xin Chúa giúp chúng ta biết từ bỏ tội lỗi và trở nên con người mới, để được vào quê trời hưởng phúc vinh quang.

Trở nên con người mới, để được hưởng phúc vinh quang, vì được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Là Thủ Lãnh của nhân loại mới, Đức Kitô mang bản tính loài người, để chúng ta trở nên anh em của Người. Cùng chung thân phận và chịu thử thách với chúng ta, Người tiêu diệt tội lỗi và xuất hiện như Thượng Tế của chúng ta. Vì Đấng thánh hóa và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc, nên Đức Kitô đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín. Thiên Chúa đã xuất hiện trên mặt đất và sống giữa loài người.

Trở nên con người mới, để được hưởng phúc vinh quang, vì được cứu nhờ máu của Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Gioan Phisơ nói về: Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha… Nếu ngay lúc chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Người đã để cho Con của Người phải chết, mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Đức Kitô. Đức Kitô đã chết vì ta, ngay khi, ta còn là những người tội lỗi.

Trở nên con người mới, để được hưởng phúc vinh quang, vì được Chúa che chở giữ gìn, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Đanien, bà Susanna đầy lòng trông cậy vào Chúa, bà nói: Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho con. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 22, vịnh gia cho thấy: Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đức Chúa phán: Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Tôi là ánh sáng thế gian. Bước theo đường lối Chúa là bước đi trong ánh sáng. Chúa là ánh sáng thế gian, ánh sáng soi đường cho chúng ta bước vào cõi sống. Cứ tin tưởng cậy trông vào Chúa, đừng lạc xa đường lối Chúa, thì chúng ta luôn có Chúa che chở phù trì, cho dẫu, thực tế trước mắt thật nghiệt ngã, như hoàn cảnh của bà Susanna. Chúa không muốn ta phải chết, nhưng, muốn ta từ bỏ con đường tội lỗi, để quay về nẻo chính đường ngay. Tuy nhiên, nếu ta yếu đuối phạm tội, thì cũng đừng thất vọng, bởi vì, chúng ta đã có Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha. Để chứng minh bà Susanna vô tội, hai kỳ lão phải bị xử tử vì tội hai ông đã phạm. Để chúng ta được vô tội, trắng án, Đức Giêsu đã bị giết vì tội chúng ta. Đức Kitô đã trình lên trước ngai Cha trên trời máu vô cùng quý giá Người đã đổ ra cho tất cả loài người tội lỗi. Lễ tế này đẹp lòng Chúa Cha và được Người thương chấp nhận: vừa thấy là Người đã xót thương chúng ta, và không thể không ban ơn tha thứ cho những ai thành tâm sám hối, thay đổi đường lối để được sống. Hết thảy những ai thật lòng thống hối ăn năn, vì những tội mình đã phạm, những ai đã cương quyết không mắc lại tật xấu, và dốc lòng bền chí thực hành các nhân đức: hết thảy những người đó đều được thông phần hy tế thánh thiện và vĩnh cửu của Đức Kitô. Nhờ tình thương tuyệt vời của Chúa, chúng ta được hưởng muôn phúc lộc chan hòa, ước gì chúng ta biết từ bỏ tội lỗi và trở nên con người mới, để được vào quê trời hưởng phúc vinh quang. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 3: Thứ 3 MC 5 - 2025

Vai Trò Của Ðấng Messia.
08/04 – Thứ Ba tuần 5 Mùa Chay.
"Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".

 

Lời Chúa: Ga 8, 21-30


Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được".
Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông".
Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".
Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Giương cao Con Người lên


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

“Khi các ông giương cao Con Người lên…” (c. 28).
Đó là cách diễn tả về cái chết của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan.
Cái chết trên thập giá đúng là một sự giương cao nhục nhã, đau đớn.
Đức Giêsu bị treo lên cây gỗ như một kẻ bị Thiên Chúa nguyền rủa.
Những kẻ giương cao Ngài lên là các ông, các nhà lãnh đạo Do-thái.
Họ đã giết Đức Giêsu vì nhiều lý do.
Lý do lớn nhất là vì Ngài đã dám sống trọn vẹn cho Cha và cho con người.
Sống công chính đã khiến Ngài trở nên nạn nhân cho cái chết bất công.
Cái chết của Đức Giêsu gắn kết Ngài với muôn triệu cái chết khác
của những người vô tội trong suốt dòng lịch sử.
Nhưng cái chết của Đức Giêsu còn nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã biến cái chết ghê rợn của Con Ngài thành dấu chỉ của tình yêu.
Nhìn lên thánh giá, chúng ta thấy tình yêu của Cha tặng trao cho nhân loại.
Cha đã tặng tình yêu lớn nhất là chính Con Một của mình.
Vì thế có thể nói chính Cha đã giương cao Con mình trên thánh giá.
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (Ga 3, 14).
Đức Giêsu được giương cao bởi chính Thiên Chúa qua cái chết của Ngài.
Như dân Do thái xưa đã nhìn lên con rắn bằng đồng để được sống,
ai nhìn lên thánh giá và tin vào tình yêu, người ấy sẽ được cứu độ.
Thập tự giá không còn là dấu hiệu của cái chết bất lực của một nạn nhân.
Nó đã trở nên thánh giá với sức mạnh phi thường.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất,
tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32).
Qua việc giương cao này, sức thu hút mạnh mẽ của thánh giá được bày tỏ.
Cả nhân loại được nâng lên khỏi cái nặng nề tội lỗi của chính mình.
Đấng chịu đóng đinh vẫn lôi kéo cả vũ trụ này mãi cho đến tận thế.
Cuối cùng, có thể nói chính Đức Giêsu đã tự giương cao mình trên thánh giá.
“Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được,
nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10, 18).
Cái chết là kết quả tất yếu của một cuộc sống dám để Cha chi phối trọn vẹn.
“Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì…
Chúa Cha dạy tôi thế nào thì tôi nói như vậy…
Tôi luôn luôn làm những điều đẹp ý Người” (cc. 28-29).
Đức Giêsu đã sống trung tín như một Người Con, người được Cha sai.
Cha lúc nào cũng ở với Ngài, nên Ngài không biết đến cô đơn (c. 29).
Mỗi Kitô hữu cũng được giương cao trên thánh giá riêng của đời mình.
Và khi tôi gắn thánh giá của tôi với thánh giá của Giêsu,
thánh giá nhỏ bé ấy sẽ có sức kéo nhiều người lên với Giêsu.
 
Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con dành cho Cha.

Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi. Amen. (Karl Rahner)
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Thượng giới và hạ giới


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giêsu nói mà người Do thái không hiểu. Hôm nay Chúa cho biết lý do: Vì Chúa thuộc thượng giới còn người Do thái thuộc hạ giới.

Hạ giới thuộc về đất thấp. Thượng giới thuộc về trời cao. Hạ giới tầm nhìn hạn hẹp. Thượng giới tầm nhìn vô biên. Hạn giới kiến thức nông cạn. Thượng giới hiểu biết khôn lường. Nhất là Chúa Giêsu đã nghe Chúa Cha nói và chiêm ngưỡng những việc Chúa Cha làm. Người chỉ nói những gì nghe thấy nơi Chúa Cha.

Hạ giới sống theo xác thịt. Thượng giới sống the Thần khí. Người Do thaisống theo xác thịt. Dù được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ, trở thành con người tự do. Nhưng trong sa mạc họ vẫn nhớ củ hành củ tỏi bên Ai cập. Họ mơ ước được miếng ăn ngon dù phải chịu nô lệ.

Họ giống như loài rắn lúc nào cũng bò sát mặt đất tầm thường. Để cảnh báo họ Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết họ. Ai sống theo xác thịt sẽ phải chết. Họ khóc lóc kêu xin. Chúa truyền Mô-sê làm con rắn bằng đồng treo lên. Ai nhìn lên con rắn treo trên ngọn cây sẽ được sống.

Treo con rắn lên là treo thói hư tật xấu. Treo dục vọng xác thịt lên. Để không còn sống theo dục vọng xác thịt nữa. Như thánh Phao lô nói: “Tôi cùng chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Đức Kitô”. Đóng đinh xác thịt là không còn sống cho mình nữa. Nhưng chỉ sống cho Thiên Chúa.

Chính Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá. Trần trụi chịu treo lên, Chúa Giêsu là gương mẫu dứt bỏ mọi ràng buộc của xác thịt trần gian. Người chiến thắng mọi cám dỗ về danh, lợi, thú. Người hoàn toàn tự do. Vì thế khi bị treo lên là Người chiến thắng và được tôn vinh.

Chúa mời gọi ta hãy treo mình cùng với con rắn đồng. Treo dục vọng xác thịt ta lên. Để ta không còn sống cho bản thân. Chỉ sống cho Chúa.

Khi được giương lên, Chúa muốn kéo ta lên với Chúa. Xin cho tôi biết thắng mọi cám dỗ của dục vọng xác thịt trần gian. Để tôi được kéo lên cùng Chúa. Lên trong Thần Khí. Lên thượng giới. Thuộc về Nước Trời.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Vai Trò Của Ðấng Messia


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Bài Tin Mừng trên đây là đoạn tiếp nối cuộc tranh luận về lời chứng của Chúa Giêsu đối với bản thân Người. Trong đoạn đầu của cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu đã nhắc đến Cha mình, nhưng những người pharisiêu không hiểu là Người nói đến Thiên Chúa Cha. Trong đoạn chúng ta nghe đọc hôm nay, Chúa Giêsu lại nói về nguồn gốc thượng giới của Người và lại nhắc đến Cha Người. Chúa Giêsu đứng trên quan điểm của Ðấng Mêssia để rao giảng sứ điệp cứu thế, trong đó Người nói lên nguồn gốc thần linh của mình và giới thiệu chương trình cứu độ mà Chúa Cha đã trao phó cho Người thực hiện ở trần gian.

Kể từ khi công khai ra đi rao giảng, tất cả những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu đều tập trung vào việc phổ biến ý định cứu thế của Thiên Chúa Cha. Từ việc kêu gọi mọi người ăn năn sám hối đến việc thi ân giáng phúc cho những người thành tâm thiện chí và cảnh cáo phê bình những kẻ lầm lạc cố chấp, Chúa Giêsu cho thấy Người luôn luôn làm theo thánh ý Chúa Cha. Những người Pharisiêu thì đứng trên quan điểm phe nhóm họ. Họ cũng nói về vai trò của Ðấng Mêssia, nhưng là một Ðấng Mêssia phù hợp với lối nghĩ lối sống đã bị tục hóa của họ. Bị chi phối mạnh mẽ bởi cách nhìn này, họ đọc nhưng không hiểu được những lời Kinh Thánh tiên báo về sự xuất hiện của Ðấng Kitô. Trong cách hiểu của họ, Ðấng Kitô có lai lịch và diện mạo khác hẳn với con người và tự xưng là Cứu Chúa này. Bởi thế, càng nghe những lời Chúa Giêsu giảng, càng thấy các việc Chúa Giêsu làm, họ càng tìm cách chống đối quyết liệt. Họ muốn chứng minh cho dân chúng thấy rằng Chúa Cha và Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng chỉ là một trò bịp bợm mà thôi.

Khi tự xưng mình là Ðấng Hằng Hữu, Chúa Giêsu có ý nhắc cho họ nhớ lại lời Giavê Thiên Chúa đã tỏ danh tánh Ngài ra cho ông Môisen trước khi giao cho ông sứ mạng giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ của người Ai Cập. Kể từ đó, danh xưng Giavê Thiên Chúa là Ðấng Hiện Hữu trở thành một danh xưng tối thượng đối với người Do Thái. Nhắc đến danh xưng này là nhắc đến chính Ðấng Tối Cao. Trong lịch sử Israel chưa hề có một ngôn sứ nào dám dùng danh xưng này để nói về chính bản thân mình, vậy mà Chúa Giêsu dùng đến danh xưng tối thượng ấy, ắt hẳn Người phải có một lý do cực kỳ trọng đại. Những người pharisiêu không hiểu và cũng chẳng muốn hiểu lời Chúa Giêsu nói. Lắm lúc chúng ta cũng sống theo cách nghĩ của những người pharisiêu trên đây. Trong lúc Chúa Giêsu phục sinh đang nỗ lực tác động trên mọi lãnh vực của thế giới hôm nay để kéo con người lên cùng Thiên Chúa, Người tác động qua Giáo Hội, qua Lời Chúa, qua các bí tích, các công việc phục vụ của người Kitô. Người cũng tác động các tập thể thành tâm thiện chí của nhân loại, các hệ thống tư tưởng quảng bá chân thiện mỹ, các mối quan hệ xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho con người, các công cuộc giúp thăng tiến đời sống đích thực và toàn diện của con người. Trong khi Chúa Giêsu làm như vậy, thì chúng ta, chúng ta lại làm theo hướng ngược lại, chúng ta dần dần phàm tục hóa đời sống của chính mình và của những người chung quanh bằng những suy nghĩ và hành động chỉ dựa trên những loài thú vật mà thôi. Con người và vũ trụ có nguồn gốc từ Thiên Chúa Hằng Hữu và sẽ trở về với cội nguồn Hằng Hữu ấy. Nhưng đôi khi chúng ta cứ muốn giữ tất cả nằm lại trong thế giới thụ tạo hữu hạn này mà thôi.

Lạy Thiên Chúa là Ðấng hằng có đời đời và là nguồn gốc của mọi sự. Xin ban cho con ơn biết cộng tác với Chúa và với anh chị em trong việc thăng tiến con người và thế giới, góp phần đưa con người và thế giới về với Chúa, về với nguyên thủy nguồn gốc của mọi loài mọi vật.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Tin Nhận Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Cụ Alexis đã viết thư cho mình 35 năm trước. Đúng ngày được 60 tuổi, cụ mở thư ra đọc: “Bạn thân mến, mừng kỷ niệm 60 năm sinh nhật của bạn, kể từ hôm nay, bạn bắt đầu bước đi trên một đoạn đường mới. 60 năm đã qua và kể như đời bạn đã xế chiều, dù bạn vẫn còn khỏe, nhưng sức dẻo dai đã kém hơn trước nhiều.

Bạn hãy bảo vệ sức khỏe để còn đóng góp sức lực vào phúc lợi chung. Bạn hãy biết ra đi, biết rút lui cách nhẹ nhàng và nhường chỗ cho đàn em có khả năng thể xác và tinh thần hơn bạn.

Nhưng không phải rút lui để tìm nhàn hạ. Bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm của 60 năm đầy nụ cười và nước mặt của bạn cho đàn em, và bạn hãy sung sướng khi thấy họ thành công hơn bạn, vì nhờ họ Thiên Chúa được vinh danh hơn. Bạn hãy tiếp tục dấn thân cho đến hơi thở cuối cùng theo sức bạn, theo tuổi bạn.

Bạn hãy chuộc lại những thời gian bạn đã lãng phí trong suốt 60 năm qua. Hãy kiểm điểm trước mặt Chúa, hãy rút kinh nghiệm từ quá khứ, hãy cảm tạ Chúa và sám hối trước mặt Ngài.

Bạn hãy dành quãng đời còn lại để làm một việc gì cho Chúa, một việc mà giờ đây Chúa đang mời gọi bạn cộng tác. Bạn đừng quên rằng bạn đang tiến về Nhà Cha mỗi phút một gần hơn. Bạn hãy sẵn sàng thoát ly địa vị và của cải trần gian.

Hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời bạn. Hãy sống đẹp lòng Chúa, vui lòng gia đình và bạn bè. Hãy quyết tâm mãnh liệt, hãy thực hiện nghiêm túc, hãy kết hiệp với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Ân sủng và bình an của Chúa ở cùng bạn”.

Thành tâm thiện chí của cụ Alexis đáng chúng ta suy nghĩ. Thực hiện thánh ý Chúa từng giây phút hiện tại là gì, nếu không phải là tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, để đừng chết trong tội lỗi.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Đấng “Ta là”, đồng thời mạc khải mầu nhiệm Tử nạn của Ngài để lôi kéo mọi người lên cùng Thiên Chúa. Mạc khải chính mình cho con người, Chúa Giêsu cũng mạc khải mối tương quan giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Tin nhận Chúa Giêsu, thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa, Đấng đã sai Con Một Ngài xuống trần, để cứu rỗi chúng ta. Đây là mầu nhiệm mà chúng ta cần phải chiêm ngắm và dâng lời cảm tạ để nhờ đó đời sống chúng ta được canh tân đổi mới.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Nếu các ông không tin


Đức Giêsu lại nói với họ:

“Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội mình mà chết.
Nơi tôi đi các ông không thể đến được.”

Người Do-thái mới nói: “Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: Nơi tôi đi các ông không thể đến được?

Người bảo họ: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới.

Các ông thuộc về thế gian này; Còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. (Ga. 8, 21-23)

Một Tin mừng đầy nghịch lý đối với bản chất loài người như trong đoạn văn của Thánh lễ hôm nay.

Một lần nữa, Đức Kitô thử giúp những người biệt phái cố chấp cứng lòng tin hiểu về Người.

Người là ai? Người đang bị họ tìm cách loại trừ bằng bất cứ giá nào, nhưng Người sẽ ra đi theo ý Người, khi Người muốn. Người bị họ tố cáo là kẻ tội lỗi, nhưng Người không khó chịu gì về lời họ, còn họ sẽ bị chết vì lời họ. Người sẽ về trời, còn họ vẫn ở dưới đất. Người sẽ bị họ treo trên thập giá, họ tưởng thế là đã trừ diệt được Người mãi mãi, trái lại khi họ treo Người lên, Người lại vinh quang đời đời.

Đức Kitô nói: “Nếu các ông không tin, các ông sẽ chết trong tội của các ông”. Họ không tin. Họ không tin Đấng không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy Người điều gì Người nói như vậy, vì Người là Thiên Chúa như Chúa Cha.

“Nếu các ông không tin …”. Vậy chỉ cần tin vào Thiên Chúa này thì được cứu độ, dù có vẻ nghịch lý đối với các ông. Hoàn toàn là thế. Chỉ cần chúng ta biết tiếp nhận một chút ánh sáng, thì sẽ được Người soi sáng cho ta thấy tỏ tường về Người. Chỉ cần chúng ta biết tiếp nhận Người, dù không thể giải nghĩa và thực hiện được theo nhãn quan con người. Chỉ cần chúng ta đừng bỏ qua những lời yêu sách của sứ điệp Phúc âm, dù có trái nghịch với bản chất con người chúng ta. Chỉ cần chúng ta bắt lý trí con người bái phục chân lý đức tin. Chỉ cần chúng ta biết cảm nghiệm sâu xa mầu nhiệm Đức Kitô bằng con tim trong đau khổ thập giá cũng như vinh quang phục sinh.

Nói khác đi, nếu chúng ta không tin Người, thì cũng không còn tin vào Thiên Chúa. Người trở nên một hữu thể vô danh vô tích sự mà thế giới ngày nay cho rằng Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô đã chết rồi.

Nếu chúng ta không tin vào Đức Giêsu Kitô của Thiên Chúa thì chúng ta sẽ đúc ra thần tượng khác để thờ vì người ta không thể sống vô thần được, dù người ta nói mình sống không cần thần thánh nào cả. Chúng ta sẽ giống như nhiều dân tộc, qua lịch sử của loài người, chế tạo ra những thần tượng. Họ thờ nhân vật thay Thiên Chúa của mặc khải, thờ những minh tinh màn ảnh, bóng đá, ca sĩ thay Đức Giêsu Kitô. Thật quá trớn.

G.F

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Đức tin và đời sống


Tin Mừng hôm nay, tác giả Gioan đề cập đến chuyện Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ về cùng Cha và những lời tiên tri cho những ai không tin Ngài.

Khi nói đến việc Ngài sẽ trở về cùng Cha, những kẻ chống đối Ngài không thể hiểu nổi. Ngược lại, họ nghĩ rằng Đức Giêsu tự tử. Lối nói này cho thấy họ mỉa mai Đức Giêsu, vì khi nói đến tự tử, ấy là nói đến nơi sâu thẳm, đau khổ dành cho những người khước từ sự sống bằng việc tự tử. Khi nói như thế, họ tự cho mình quyền không thể tin nổi Đức Giêsu vì Ngài sắp đi vào chỗ chết một cách bi đát!

Khi thấy họ phản ứng như vậy, Đức Giêsu đã nói cho họ biết Ngài bởi đâu mà đến và suy tưởng của họ do đâu! Đồng thời Ngài nói tiên tri về số phận của những kẻ cứng đầu do không tin, Ngài nói: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết".

Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta rút ra được những bài học sau cho đời sống đạo của mình:

Thứ nhất, hạnh phúc đích thực tùy thuộc vào chuyện chúng ta tin Chúa hay khước từ Ngài. Tin thì được sống vĩnh viễn và khước từ thì trầm luân muôn đời.

Thứ hai, chúng ta được Thiên Chúa trao ban cho nhiều cơ hội tốt, bổn phận là phải làm cho cơ hội ấy trở nên hữu ích cho phần hồn của mình và tha nhân. Nếu không biết nhạy bén để đón nhận cơ hội Chúa ban, hoặc vì coi thường và khinh dể thì sẽ bị luận tội nặng nề hơn những người không biết.

Ngày nay, chúng ta được học hành nhiều về Chúa, nhận biết có Thiên Chúa, nhưng có sống theo điều mình đã tin hay không mới là quan trọng.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa và đem Lời Ngài ra thực hành trong cuộc sống thường nhật, tránh chuyện môi miệng thì cầu kinh mà lòng không yêu mến. Thật vậy, không phải cứ lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là thực hành những gì Lời Chúa dạy thì mới được vào.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mãnh liệt và một đời sống đầy lòng mến. Xin cho đời sống và những điều chúng con tin được hòa quyện với nhau thành một. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu là Đấng Hằng Hữu


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu không thuộc thế gian này. Người là Đấng Hằng Hữu từ nơi Chúa Cha mà đến để dạy ta sự thật và cứu ta khỏi chết. Cần tín nhiệm vào Người để khỏi chết trong tội.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, biết bao tôn giáo dầy công đi tìm Thiên Chúa. Họ phải vất vả lắm mới biết được đôi điều mờ nhạt về Thiên Chúa. Trong khi ấy, Chúa đã đến giữa loài người chúng con để dạy cho chúng con biết sự thật về Thiên Chúa tình yêu. Đó là sự thật hoàn hảo và vững chắc, bởi vì Chúa là Thiên Chúa Hằng Hữu từ cung lòng Chúa Cha mà đến, để tỏ cho chúng con thấy khuôn mặt thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa rất sống động và đầy lòng yêu thương. Con hết lòng cảm tạ tri ân Chúa.

Lạy Chúa, chỉ vì yêu thương và muốn giải phóng chúng con khỏi vòng u mê của tội lỗi nên Chúa đã tỏ mình cho con. Xin Chúa giúp con sống xứng đáng với tình thương Chúa bằng cách bước đi theo chân lý của Chúa. Chân lý của Chúa sẽ đưa con vào tận cung lòng Chúa Cha để được trọn tình yêu của Người. Chân lý của Chúa cũng sẽ giúp con bước đi giữa đời trong bình an, trong niềm vui và hy vọng. Xin Chúa đừng để con lìa xa Chúa bao giờ.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa Cha luôn ở với Chúa vì Chúa luôn làm những điều đẹp Ý Cha. Ước gì con luôn biết làm những điều đẹp lòng Chúa để được Chúa ở cùng và ban tràn đầy ơn phúc.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con được mãi mãi trung thành với Tin mừng của Chúa và tìm được niềm hạnh phúc trong cuộc đời theo Chúa. Xin cho con biết mở rộng lòng để đón nhận Lời Chúa và biết quảng đại sống theo Lời Hằng Sống. Xin cho con có một tâm hồn sẵn sàng rộng mở như Samuen. “Lạy Chúa, xin hãy phán dạy vì tôi tớ Chúa đang sẵn sàng lắng nghe”. Amen.

Ghi nhớ: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Tin nhận Chúa Giêsu - Tin nhận Chúa Cha


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Vào thời thập tự viễn chinh, nhằm bảo vệ thánh địa và đảm bảo an ninh cho khách hành hương, vua Philipphê của nước Pháp đã làm một cử chỉ lạ thường. Trước mỗi lần lên đường, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu, rồi đặt nó lên một chiếc bàn và ghi dòng chữ như sau: “Dành cho người nào xứng đáng nhất”.

Sau đó, ông quy tụ tất cả tướng lĩnh, các hiệp sĩ, những người hầu cận lại trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua và là người chỉ huy của họ. Ông nói với mọi người rằng chiếc vương miện được dành cho người nào tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.

Cuộc viễn chinh đã hoàn tất một cách vẻ vang, mọi người hát khúc khải hoàn trở về quê hương. Họ tụ tập chung quanh vương triều và một tướng lĩnh tiến lại cầm lấy triều thiên đội lên đầu của Philpphê và nói: “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất”.

Suy Niệm

Trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái, Ngài mạc khải cho họ biết: Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người, nên giống chúng ta hoàn toàn, chịu đóng đinh và chết trên thập giá để cứu độ con người, đem sự giao hòa giữa con người với Thiên Chúa Cha.

Như vậy, Ngài mạc khải sứ mạng thiên sai của chính mình cho con người, và mạc khải mối tương quan chặt chẽ giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: “Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài”.

Cho nên, người tin nhận Chúa Giêsu thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài xuống trần gian làm người và cứu độ nhân loại như Giáo hội tuyên tín từ thời các tông đồ: Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ Trời xuống thế…


Chính niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô - hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đem ơn cứu độ cho nhân loại, sẽ làm cho chúng ta được biến đổi để vươn lên tới Thiên Chúa.

Sống trong Mùa Chay, chúng ta duyệt xét lại lòng mình theo lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sám hối vì niềm tin vào Đức Kitô chưa mạnh mẽ. Một niềm xác tín mãnh liệt vào Tin Mừng, trung tâm chính là Đức Giêsu Kitô - con Thiên Chúa, Đấng đã bị “gương cao” trên thập giá, đem ơn cứu độ, cứu độ duy nhất cho chúng ta.

Ý lực sống: ”Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống đời đời” (Ga 3,14-15).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Tình thương và tội lỗi


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau câu chuyện về người đàn bà phạm tội ngoại tình, Đức Giêsu ở lại Đền thờ và trong khi tranh luận với người Do thái, Ngài đã báo trước cái chết và ơn cứu rỗi của Ngài.

Qua câu chuyện con rắn đồng trong Cựu ước, Đức Giêsu cho họ biết chính Ngài là Đấng mà con rắn đồng là hình ảnh tiên báo. Ngài nói với những người Do thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế, việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.

2. Ngài là ai? Một lần nữa, Đức Kitô muốn cho những người biệt phái hẹp hòi và cứng lòng biết Ngài là ai? Và Đấng mà họ muốn loại trừ bằng mọi giá nhưng Ngài lại thong dong đi lại theo ý mình. Đấng mà họ lên án lả kẻ tội lỗi khi mà chính họ sẽ chết trong tội lỗi của mình, và Ngài không ngại gì nói cho họ biết điều ấy. Đấng sẽ lên trời, trong khi đó họ sẽ ở lại dưới đất. Đấng mà họ sẽ treo cao trên thập giá, ngỡ rằng có thể loại bỏ Ngài mãi mãi, nhưng ngược lại, họ đã nâng  Ngài lên vinh quang, cho đến muôn đời.

Đức Kitô nói: “Nếu các ông không tin, các ông sẽ mang tội lỗi mà chết”. Họ không tin. Họ không tin Đấng không tự mình làm điều gì nhưng chỉ nói điều Cha đã dạy, vì Ngài là Thiên Chúa cũng như Cha Ngài.

3. “Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ sẽ biết Ta Hằng hữu”.

Sử dụng ngôn ngữ biểu tượng, bài Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn của Ngài sắp chịu. Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Đức Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được“giương lên cao” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32). Con Người được giương lên cao, nghĩa là Đức Giêsu sẽ bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn cứu chuộc qua khổ giá, mà Ngài nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Ngài.

Theo chiều ngang, với cách nói Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là cùng phải đóng đinh chính mình vào thập giá như Thầy. Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến ơn Cứu Độ (Theo Hiền Lâm).

4. Trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và những người biệt phái, Ngài mạc khải cho họ biết: Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người, nên giống chúng ta hoàn toàn, chịu đóng đinh và chết trên thập giá để cứu độ con người, đem lại sự giao hòa giữa con người với Thiên Chúa.

Như vậy, Ngài mạc khải sứ mạng thiên sai của chính mình, và mạc khải mối tương quan chặt chẽ giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: “Ta không tự mình làm điều gì. Điều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Đấng đã sai Ta đang ở với Ta. Ngài không để ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm đẹp lòng Ngài”.

Cho nên, người tin nhận Đức Giêsu thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài xuống trần gian làm người và cứu chuộc nhân loại như Giáo hội tuyên tín từ thời các Tông đồ: Vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ trời xuống thế.

5. Vì thế, khi chiêm ngắm thập giá của Đức Giêsu, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về bóng tối của tội lỗi vẫn còn rình rập trong cuộc sống chúng ta. Đó là hai điều chúng ta cần suy nghĩ nhiều trong Mùa Chay và nhất là trong Tuần Thánh sắp tới.

Ngoài ra, hãy sống đạo thực thụ chứ đùng mang tên là Kitô hữu mà lại có cách sống phản lại với danh hiệu cao quí đó. Chúng ta hãy cố gắng là “chứng nhân” của Chúa trong cách sống, đừng bao giờ thảnh “phản chứng” kẻo làm ô danh Chúa và Hội thánh của Ngài.

6. Truyện: Đừng trở thành phản chứng.

Trong chương trình buổi tối của một đài truyền hình Hoa kỳ, một cô gái điếm đã được mời phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của một phóng viên truyền hình.

Cô gái ấy trang điểm thật diêm dúa và tỏ ra không những bình tĩnh mà còn có thái độ khiêu khích trước những câu hỏi của người phóng viên.

Chợt nhìn thấy trên cổ của cô gái có đeo một  dây chuyền bằng vàng với một cây Thánh giá nhỏ, người phóng viên thay đổi đề tài để hỏi cô gái.

Anh ta hỏi: “Tôi thấy cô có đeo một Thánh giá nhỏ ở trên cổ. Hẳn cô là người có tôn giáo đúng không”?

Khán giả thấy rõ sự bối rối của cô gái điếm. Có lẽ đây là một vấn đề mà cô không bao giờ nghĩ tới. Sau một chút do dự, cô ta liền trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”.

Người phóng viên hỏi dồn: “Thế tại sao cô lại mang Thánh giá trên người mình như dấu chỉ của người có đạo?

Cô gái điếm thinh lặng cúi nhìn xuống sàn nhà một hồi khá lâu, rồi cô trả lời với những lời lẽ thú tội: “Lúc còn nhỏ tôi có đạo. Nhưng đó là chuyện rất lâu rồi”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Khi nào các ông đưa Con Người lên cao


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

1. Bài đọc 1 kể chuyện con rắn đồng: Khi đó dân do thái đang đi trong sa mạc. Vì khổ cực và thiếu thốn, họ luôn miệng trách Môsê và còn trách cả Chúa. Chúa cho những con rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Khi đó họ kêu cầu Môsê. Chúa bảo Môsê đúc một con rắn bằng đồng treo lên cây, kẻ nào bị rắn lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu sống.

2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng là hình ảnh tiên báo. Ngài nói với những người do thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế, việc Chúa Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.

B.... nẩy mầm.

1. Chính khi Chúa Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho loài người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Chúa Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Chúa thì lại “bị” đuổi khỏi vườn địa đàng. Hãy suy nghĩ thêm về cái nghịch lý “bị” và “được” này.

2. Nhìn lên Thập giá, ta có thể thấy được rất nhiều điều:

- Thấy tội lỗi của mình
- Thấy tình thương của Chúa
- Thấy giá trị của đau khổ
- Thấy ơn cứu độ
- Thấy giải pháp cho vấn đề sự dữ v.v.

3. Một bà goá đến xin cha sở chứng nhận để bà xin trợ cấp, vì con trai bà đi lính và đang phục vụ ở nước ngoài. Cha sở chợt nhớ đến sứ điệp Thánh Kinh nên nói với bà:

- Có phải công lao của bà đáng lãnh số tiền đó?

- Không ạ. Đó là công của con trai con. Cháu muốn con được hưởng. Con chỉ việc kí tên và lãnh tiền.

- Phải, cũng như không phải công lao của bà mà bà được cứu độ, mà là công lao của Con Thiên Chúa trên núi Can vê. Ngài muốn bà hưởng công lao đó. Bà chỉ việc kí tên và lãnh nhận (Góp nhặt)

------------------------------

 

Suy Niệm 11: Biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúa Giêsu nói với những người Do Thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Tôi là ai” (Ga 8,28). Như thế, việc Chúa Giêsu chết trên Thập Giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.

Vậy, khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng nếu biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ “được” cứu độ. Ngược lại, ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn Địa đàng.

Đức Cha Fulton Sheen, một diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình Hoa Kỳ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ như sau:

Tôi ra khỏi nhà để hưởng chút ánh sáng mặt trời, tôi gặp một người đang quằn quại trên Thập Giá, tôi dừng lại và đề nghị:

- Xin cho phép tôi được giúp ông xuống khỏi Thập Giá

Nhưng người ấy trả lời:

- Hãy để cho tôi yên. Hãy để nguyên những cái đinh trong lòng bàn tay và bàn chân của tôi. Hãy để nguyên những gai nhọn trên đầu và lưỡi dòng trong trái tim tôi. Tôi không tự mình xuống khỏi Thập Giá, bao lâu những người anh em tản mác khắp nơi của tôi chưa hợp nhất với nhau.

Tôi liền hỏi người ấy:

- Ông muốn tôi làm gì cho ông?

Người ấy trả lời:

- Hãy đi khắp thế giới, và bắt gặp bất cứ ai hay nói với họ rằng: “Có một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá”.

Vâng, có một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá. Người đó chính là Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.

Trong thư thứ nhất gửi cho Giáo đoàn Côrinthô, Thánh Phaolô đã nói về Thập Giá rất hay: “Thật thế, lời rao giảng về Thập Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng tôi là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”. (1Cr 1,18)

Thánh Phêrô cho biết thêm: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây Thập Giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương để anh em được chữa lành”. (1Pr 2,24)

2. Nhìn lên Thập Giá, ta có thể thấy rất nhiều điều:

Thấy tội lỗi của mình.
Thấy tình thương của Chúa.
Thấy giá trị của đau khổ.
Thấy ơn cứu độ.
Thấy giải pháp cho vấn đề sự dữ

Thánh Phanxicô Assisi đã nói rất hay về vấn đề này: “Không phải quỉ dữ đã đóng đinh Ngài trên Thập Giá; chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Ngài vào Thập Giá; và còn đang đóng đinh Ngài nữa, nếu bạn cứ thích thú ở mãi trong thói xấu và tội lỗi của bạn”. (T.Phanxicô Assisi, khuyến dụ 5,3).

Trong tuyển tập ngụ ngôn của hai anh em người Đức vào thế kỷ thứ 19, người ta đọc được câu chuyện có nội dung như sau:

Hai cha con nọ đã thỏa thuận ngầm với nhau là người con được tự do làm bất cứ điều gì nó muốn. Chỉ có điều là mỗi khi nó làm một hành động xấu thì nó phải đóng một cây đinh vào cánh cửa. Ngược lại, khi làm được một hành động tốt thì nó có quyền nhổ một cây đinh đi.

Chưa đầy một năm, cánh cửa không còn một chỗ nào trống để đóng đinh vào được nữa. Người con chợt nhận ra cuộc sống quá xuống dốc của mình. Nó mới hồi tâm và quyết định tu sửa. Không đầy một năm sau, mọi cây đinh đều lần lượt được gỡ ra khỏi cánh cửa. Ngày cây đinh cuối cùng được tháo gỡ khỏi cửa người cha sung sướng chạy đến ôm lấy đứa con của mình. Ông vui mừng đặt trên trán đứa con những nụ hôn hạnh phúc. Thế nhưng, thật là lạ lùng, không những đứa con không tỏ ra một cảm xúc vui sướng nào mà còn đẩy người cha ra và khóc òa lên. Người cha ngạc nhiên thốt lên:

- Tại sao con khóc? Tất cả mọi cây đinh đã được nhổ ra khỏi cánh cửa, con không cảm thấy hạnh phúc vì đã sống tốt đẹp hơn sao?

Đứa con thổn thức:

- Thưa cha đúng thế, nhưng cho dầu những cây đinh đã nhổ đi rồi, nhưng chúng vẫn còn để lại những cái lỗ trên đó.

Trong cuộc sống, nhiều người trong chúng ta cũng như thế. Chúng ta đã chạy đến tòa cáo giải. Chúng ta đã tin là Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta không thể vượt qua được những “Mặc cảm tội lỗi”. Chính những mặc cảm này nhiều khi dày vò chúng ta. Mỗi lần như thế chúng ta hãy nhớ lại tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của Thập Giá,
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta).

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Khi Chúa chết là Chúa cứu chúng ta


(Lm Micae Võ Thành Nhân)

Chúa nói về cái chết chết của Chúa trên thập giá để cứu độ tất cả con người chúng ta, không phân biệt một ai cả: “Khi nào các ông đưa con người lên cao, các ông sẽ biết Ta là ai, Ta không tự mình làm điều gì. Điều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Đấng đã sai Ta đang ở với Ta, Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài” (Ga 8, 28 – 29), thế mà họ không hiểu biết gì cả, bởi vì họ không có tin vào Chúa: “Ta ra đi các ông sẽ tìm kiếm Ta, và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi, các ông không thể tới được” (Ga 8, 21), cho nên họ mới nói với nhau một cách ngớ ngẩn, ngốc nghếch của một kẻ lòng chai dạ đá: “Ông Ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta đi các ông không thể tới được” (Ga 8, 22).

Chúa nói về cái chết của Chúa trên thập giá là do thánh ý của Chúa Cha muốn Chúa thực hiện chứ không phải Chúa tự ý nghĩ ra và tự ý làm: “Và điều Ta nói trong thế gian này, chính là điều Ta đã nghe biết nơi Ngài…. Điều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta” (Ga 8, 26. 28). Quả thật, những người biệt phái luật sỹ tin vào Chúa Cha là Cha của họ, thế mà Chúa nói Chúa là con Chúa Cha, là Chúa xuất phát từ Thiên Chúa mà họ cũng không tin. Đây chính là điều mâu thuẫn, trái quấy trong niềm tin của họ về Thiên Chúa mà họ kính yêu, tôn thờ.

Họ không tin Chúa là Thiên Chúa thật, họ chối bỏ Thiên Chúa, mặc dù trong sách Xuất Hành, nơi bụa gai, Chúa mạc khải cho ông Môsê tên của Chúa là Đấng Hằng Hữu, bây giờ Chúa cũng nói lại như vậy, để nhắc họ về Chúa mà họ vẫn chối bỏ, cho nên họ sẽ không được Chúa cứu độ qua cái chết và sự phục sinh của Chúa. Lẽ tất nhiên Chúa nói các ông thuộc hạ giới, còn Chúa thuộc thượng giới, nghĩa là những người biệt phái, luật sỹ vẫn là thụ tạo, tro bụi, bất toàn: “Tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ nọ, nhưng ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở muôn đời muôn kiếp, dù sống trong danh vọng, con người không thể trường tồn, thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết” (Tv 49, 12 – 13). Chúa nói rõ ràng như thế mà họ cũng không chịu nghĩ lại, không chịu xét mình, không chịu chỉnh đốn lại lối sống của họ sao cho đẹp lòng Chúa để Chúa xót thương cứu họ, nâng họ lên bậc thần thánh, cho nên: “Ta  đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Và nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông”(Ga 8, 24).

Lạy Chúa, trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa nói với những người biệt phái và luật sỹ ngày xưa là Chúa cũng nói với chúng con ngày hôm nay về đức tin của chúng con đối với Chúa. Nếu chúng con còn tin Chúa vững mạnh thì trong Mùa Chay thánh này, chúng con phải nghe Chúa dạy, phải lo ăn năn thú tội bằng cách đi xưng tội và cố gắng tận dụng các ơn Chúa ban  để thay đổ lối sống, để làm theo ý Chúa, một cách cụ thể phải cố gắng làm nhiều các việc bác ái từ thiện cho anh chị em chúng con được hưởng nhờ, Chúa sẽ thương xót và cứu chữa chúng con hơn, cho chúng con sống tốt hơn. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Trung thành tuân giữ lời Chúa


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 5 Mùa Chay này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa giúp chúng ta luôn trung thành thực hiện ý Chúa, để nhờ đó, Giáo Hội trong thế giới hôm nay được phát triển không ngừng và thêm phần thánh thiện.

Luôn trung thành thực hiện ý Chúa, theo gương ông Môsê và Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Đức Giêsu là Trung Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin. Hình ảnh ông Môsê giúp ta hiểu vai trò của Đức Kitô. Vào những thời xa xưa, một thế hệ bất trung đã không được phúc vào Đất Hứa. Hôm nay cũng vậy, lời cảnh cáo đang được gửi đến cho ta: Chớ có cứng lòng! Với tư cách người Con, Đức Kitô đứng đầu nhà Cha của Người, và nhà đó là chính chúng ta. Được kết hợp với Đức Kitô, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh.

Luôn trung thành thực hiện ý Chúa, kết hợp với thập giá của Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Lêô Cả nói: Thập giá Đức Kitô là nguồn mọi phúc lành, là căn nguyên mọi ơn thánh… Sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta, Đức Kitô đã hủy bỏ nó, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người. Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là tôi hằng hữu.

Luôn trung thành thực hiện ý Chúa, đặt niềm tin tưởng vào Đấng được giương cao, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Dân Số: Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 101, vịnh gia kêu xin: Lạy Chúa, xin nghe lời con cầu khẩn, tiếng con kêu, mong được thấu tới Ngài. Buổi con gặp gian truân, xin Ngài đừng ẩn mặt, trong ngày con cầu cứu, xin Ngài lắng tai nghe và mau mau đáp lời.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Hạt giống là lời Thiên Chúa, người gieo giống là Đức Kitô. Ai tuân giữ lời Người sẽ muôn đời tồn tại. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu. Luôn trung thành thực hiện ý Chúa, thì được sống muôn đời. Đây là lời hứa chắc chắn, Chúa dành cho những ai hằng tin tưởng và cậy trông vào Người. Thần Khí Sự Thật chiếu soi tâm trí chúng ta, ước gì chúng ta biết mở lòng ra: đón nhận vinh quang của thập giá đang chiếu tỏa rạng ngời khắp cả hoàn cầu. Thập giá Chúa là nguồn mọi phúc lành, là căn nguyên mọi ơn thánh. Nhờ thập giá, chúng ta được sức mạnh, bởi, sự yếu hèn; được vinh quang, bởi, sự sỉ nhục; được sự sống, bởi, sự chết. Ngày nay, không còn lễ tế đủ thứ súc vật, vì Mình và Máu Đức Kitô thực hiện hiến tế duy nhất, tổng kết và kiện toàn mọi hiến tế khác, vì Người là Con Chiên đích thực, đã xoá bỏ tội lỗi trần gian. Đức Kitô đã hoàn thành nơi mình: toàn thể các mầu nhiệm, vì vậy, một tế phẩm duy nhất, thay thế, mọi lễ vật hy sinh; một vương quốc duy nhất, thành hình, từ mọi dân nước. Đức Kitô đã chịu chết, không phải cho, hàng công chính hay thánh thiện, mà cho, những người bất lương và vô đạo. Bởi vì, bản tính Thiên Chúa không thể bị nọc độc của tử thần chạm đến, cho nên, Đức Kitô đã nhận lấy bản tính con người, để có thể hy sinh chịu chết vì ta. Người đã lấy cái chết oai hùng của mình, mà, hủy diệt cái chết của ta, vì thế, chúng ta vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì nhờ liên đới với Đức Kitô, chúng ta sẽ được sống. “Nhìn lên” (ra’ah : ראה.) con rắn đồng, nhìn lên Đấng được giương cao, Đấng đã yêu thương và thí mạng vì ta, và “trông thấy rõ” (navat : נבט.) sự phản nghịch của ta, là một con đường mới, tức khắc mở ra, con đường dẫn đến sự thật, và sự sống. Ước gì chúng ta luôn trung thành thực hiện ý Chúa, để nhờ đó, Giáo Hội được phát triển không ngừng và thêm phần thánh thiện. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 4: Thứ 4 MC 5 - 2025

Ðức Tin Chân Chính.
09/04 – Thứ Tư tuần 5 Mùa Chay.
"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do".

 

Lời Chúa: Ga 8, 31-42


Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói "Các ngươi sẽ được tự do"?".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!"
Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Sự thật sẽ giải phóng các ông


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ)

Những dân tộc bị đô hộ nhiều năm mới hiểu được giá trị của giải phóng.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.
Những người Do thái đang tranh luận gay gắt với Đức Giêsu.
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài:
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).
Những người Do thái cố chấp, chỉ tìm cách giết Đức Giêsu (cc. 37, 40).
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như Ngài.
“Giả như các ông là con cái ông Abraham,
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng đã tuyên xưng
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2 : Nô lệ và tự do


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người Do thái cho rằng mình tự do. Thực sự họ sống trong nô lệ. Vì họ không sống trong sự thật. Họ bị lầm lạc.

Họ lầm tưởng mình tự do. Nhưng họ đã phạm tội. Phạm tội là nô lệ cho tội lỗi. Sống dưới ách ma quỉ. Bị dục vọng trói buộc. Chỉ có Chúa Giê-su tự do. Vì Chúa là Đấng Thánh. Chỉ khi nào người Do thái được Chúa giải phóng khỏi tội lỗi họ mới có tự do. “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội…Vậy nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thật sự là những người tự do”.

Họ lầm tưởng mình là con cháu Áp-ra-ham. Nhưng thực sự không phải. vì Áp-ra-ham luôn lắng nghe và tuân hành ý Chúa. Còn họ thì không: “Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm”.

Họ lầm tưởng họ là con Thiên Chúa. Nhưng không phải. Vì họ không yêu mến Chúa Giê-su là Đấng Cha sai đến: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến”.

Sống trong lầm lạc. Họ nô lệ cho sự lầm lạc. Họ ở ngoài Thiên Chúa. Cần phải có sự thật giải phóng họ mới được tự do. Chúa Giê-su chính là sự thật. Vì Người luôn ở trong Thiên Chúa.

Giống như Đa-ni-en và các bạn. Họ tự do. Vì họ luôn ở trong Thiên Chúa. Nên dù bị trói họ vẫn thảnh thơi. Có bị ném vào lò lửa, họ vẫn tự do. Đi lại ca hát chúc tụng Thiên Chúa. “Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì”. Họ tự do vì không chịu sống trong lầm lạc. Không chịu khuất phục trước cường quyền, Không sợ cả cái chết. Chính Na-bu-cô-đô-no-so là người bị nô lệ cho dục vọng và sự lầm lạc của mình.

Mùa Chay là mùa giải thoát. Ăn chay là để vượt thoát khỏi sự lầm lạc. Khỏi dục vọng. Khỏi ý riêng. Để ta được ở trong Thiên Chúa. Ở trong sự thật. Ta được tự do. Tâm hồn tự do khi ta trói buộc được xác thịt. Khi thả lỏng dục vọng ta sẽ bị mất tự do.

Lạy Chúa xin dùng sự thật giải phóng chúng con.

-------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðức Tin Chân Chính


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong bài Tin Mừng vừa đọc lại trên đây, số thính giả nghe Chúa Giêsu nói được thu gọn lại trong vòng những kẻ đã tin Người, và Chúa Giêsu đã khởi đi từ lòng tin này để mời gọi họ tiến xa hơn nữa bằng cách ở lại trong Lời của Người, nghĩa là bằng cách sống những gì Người truyền dạy để trở thành môn đệ của Người, và một khi trở thành môn đệ của Người, họ sẽ bước đi trong sự thật và được sự thật giải phóng khỏi vòng mê muội của tội lỗi. Tuy đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng những thính giả này vẫn chưa thay đổi được lối suy nghĩ chỉ dựa trên đời sống trần tục của họ. Khi nghe Chúa Giêsu nói đến việc giải phóng, họ nghĩ ngay tới tình trạng của những người nô lệ phải làm tôi mọi cho chủ, mà họ thì đang làm chủ chính mình, họ có làm tôi mọi cho ai đâu mà cần được giải phóng. Xét về mặt trần thế thì họ suy nghĩ rất đúng, nhưng Chúa Giêsu đâu muốn đề cập đến tình trạng nô lệ hay tự do về mặt xã hội. Người muốn nói với họ về sự tự do đích thực của những người thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi.

Sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Người là xóa bỏ quyền thống trị của sự dữ trên mặt đất này và mang lại cho loài người cuộc sống tự do, xứng với danh hiệu con cái Thiên Chúa. Họ xưng mình là con cái ông Abraham, là dòng dõi của một dân tộc được giải phóng khỏi ách nô lệ ngoại bang. Thế nhưng, cuộc sống của họ đang bị ràng buộc bởi vô số xiềng xích của ma quỉ, họ tự do bên ngoài, còn bên trong thì vẫn nô lệ cho sự dữ, cho tội lỗi. Sự thừa kế dòng dõi ông Abraham không đương nhiên biến họ thành những con người lương thiện công chính. Muốn trở nên công chính, họ cần phải làm một cuộc đổi đời, phải tẩy trừ cái ác ra khỏi lòng mình và cương quyết tiến lên trên đường trọn lành, có như thế, họ mới thực sự trở nên con cái ông Abraham và là những con người tự do đích thực.

Phần chúng ta đây, chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô, là những người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng không làm nên thực chất, cái áo không làm nên thầy tu, chỉ có danh nghĩa bên ngoài và thậm chí ngay cả những việc đạo đức bên ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống đức tin đích thực. Ðức tin chân chính được thể hiện qua những việc làm công chính. Người ta thường nói "xem quả biết cây", chúng ta đã suy nghĩ, nói năng, hành động như thế nào trong cuộc sống hàng ngày.

Lạy Chúa, nhiều lúc con cảm thấy yên tâm vì mình là người có đạo. Con có đạo như có một cuốn sách hay có một cái máy truyền hình, khi nào con cần hoặc khi nào con thích thì con mở ra xem, khi nào không cần thì con để yên ở đó, nhưng Chúa đâu muốn những người chỉ có đạo mà không sống đạo.

Lạy Chúa, xin giúp con can đảm lựa chọn đứng vào hàng ngũ con cái Thiên Chúa, một sự lựa chọn dứt khoát dẫn tới việc dấn thân quyết liệt cho điều mình lựa chọn. Xin cho con đừng chỉ hài lòng với danh xưng là người có đạo mà thôi, nhưng phải là một người sống đạo thực sự.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4: Chân Lý Sẽ Giải Thoát.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Khi thi hành nhiệm vụ khâm sứ Tòa thánh tại Bulgari, Đức cha Roncali nhận được một bức thư của một linh mục chỉ trích ngài về mọi mặt. Đọc thư xong, Đức cha Roncali không nói một lời, lòng vẫn yêu thương vị linh mục kia. Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Hồng Y, rồi đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan XXIII. Nhân dịp về Rôma yết kiến vị Tân Giáo Hoàng, vị linh mục cũng ghi tên đi theo phái đoàn và được đặc ân tiếp kiến riêng Giáo Hoàng. Vị linh mục đó thuật lại như sau:

Trong lúc đứng ở phòng khách đợi phiên vào triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư năm xưa và thầm nghĩ mấy chục năm qua rồi, chắc giờ đây Ngài không còn nhớ nữa đây. Đang suy nghĩ miên man thì cánh cửa mở ra, cha thư ký dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở bắt tay và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo phận, và nhắc đến các bạn ở Bulgari. Câu chuyện vẫn diễn ra trong bầu khí thân tình. Bỗng Đức Thánh Cha đưa tay lấy cuốn Kinh Thánh và từ từ mở ra và trong đó có bức thư của tôi, ngài dịu dàng nói: “Con đừng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người có nhiều khuyết điểm. Cha để bức thư của con vào cuốn Kinh Thánh và hàng ngày đọc vào đó mà xét mình. Mỗi lần như thế, cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những người Do Thái mới tin vào Ngài. Lòng tin của họ chưa được trọn vẹn và Ngài đề nghị những biện pháp để củng cố niềm tin đó, như sống theo lời Chúa, chấp nhận được giải thoát khỏi tội lỗi, phát triển mối tương quan với Ngài. Tuy nhiên, các người Do Thái không đủ khiêm tốn để chấp nhận đề nghị của Chúa, họ tự phụ cho mình là con cái của Abraham và do đó không cần ai dạy thêm điều gì nữa, cũng chính vì thế họ không thể tiến xa hơn trên con đường đức tin.

Tác giả tập sách Đường Hy vọng khuyên: “Lòng mến Chúa phải tuyệt đối. Chúa dạy không ai có thể làm tôi hai chủ. Con làm tôi mấy chủ? Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để sống đời nội tâm. Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất. Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn của các hành động của con, thì sẽ thế nào? Con chỉ có một của ăn là Thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là con sống và lớn lên bằng ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh sống vui, ngoài ý Chúa con sẽ chết. Con chỉ có giây phút đẹp nhất, đó là giây phút hiện tại. Đời con sẽ tuyệt đẹp nếu từng giây phút con tin vào Lời Chúa và thực hiện thánh ý Ngài”.

Ý Chúa muốn cho mỗi ngừoi chúng ta trong hiện tại là trở thành những người con thảo, hãy để lời Chúa thấm nhập và hướng dẫn cuộc sống chúng ta.

-------------------------------

 

Suy Niệm 5: Thiên Chúa hay các thần tượng


Vậy Đức Giêsu nói với những người Do-thái đã tin Người:

“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ của tôi;
các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.”

Họ đáp: “Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” Đức Giêsu trả lời:

“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội”. (Ga. 8, 31-34)

Nếu quả thật lập trường của chúng ta là phục vụ chỉ một Thiên Chúa và chỉ yêu mến Ngài thôi, thì lúc đó trái tim chúng ta có còn bị chia sẻ và gắn bó với nhiều thần tượng trần thế này không? Phải thú nhận rằng, tất cả chúng ta nhiều hoặc ít vẫn còn thờ thần tượng khác, như kinh tế, tiền tài, quyền lực, danh vọng, tiện nghi, thú vui, chỉ kể ba thứ trong đó nhiều thứ khác nữa. Chắc chắn chúng chống lại Thiên Chúa và chống lại cả chúng ta, buộc chúng ta phải thú nhận rằng trong những sự kiện đó đã làm chúng ta xa phụng sự một mình Thiên Chúa rồi. Chúng ta đã là đầy tớ của nhiều thứ, song chúng ta vẫn bào chữa như người Do thái rằng: “Chúng tôi là dòng giống Áp-ra-ham không bao giờ chúng tôi là nô lệ của ai”.

Như Si-rác, Mi-sác và Áp-đê-na-gô, chúng ta có bổn phận phải từ chối phục vụ bất cứ thần tượng nào, nếu đó không phải là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Và này, Người là ai mà có thể dẫn dắt chúng ta ngày nay được như thế. “Vậy nếu Người Con có giải phóng các ông, các ông mới thực sự tự do”. Chỉ mình Đức Giêsu Kitô mới chống lại các thần tượng các thời đại và có thể làm cho tâm thức trở lại và khám phá thấy sự khác biệt giữa hai lối sống: tự do hay nô lệ. Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta phải biết dùng của cải Thiên Chúa đã dựng nên, chứ đừng làm nô lệ cho của cải. Nếu không, chúng ta không được giải phóng.

Chúng ta biết rằng: Không ai có thể làm tôi hai chủ. Đó là chân lý làm cho chúng ta được tự do mà mỗi người phải tự trả lời trước mặt Thiên Chúa. Chỉ khi thực hiện được điều kiện này, trái tim chúng ta mới có thể gắn bó thực sự với việc phục vụ Thiên Chúa duy nhất mà thôi.

G.F

-------------------------------

 

Suy Niệm 6: Phạm tội là làm nô lệ cho tội


Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc đối chất giữa Đức Giêsu và người Dothái.

Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định cho họ biết rằng: nếu họ ở trong Lời của Ngài, tức là sự thật thì họ thuộc về Ngài và trở thành môn đệ, bằng không sẽ trở thành nô lệ cho tội và bị truất phế bất cứ lúc nào!

Khi xác định như thế, Đức Giêsu cảnh báo sự kiêu ngạo tự phụ của người Dothái. Bởi vì họ luôn nghĩ rằng mình thuộc hạng người ưu tuyển, dân riêng, nên có đặc quyền đặc lợi trước mặt Thiên Chúa và không ai có quyền đụng tới họ.

Tiếp theo, Ngài đã vạch trần sự giả tạo nơi người Dothái khi họ dựa vào tổ phụ Apraham và an tâm vì được đảm bảo bởi uy tín của tổ phụ, nhưng lại hành động ngược lại với những gì Apraham đã làm khi xưa. Vì nếu Apraham xưa kia có lòng mộ mến và sẵn sàng nghe lời các tiên tri, thì dân này lại đang tìm cách loại trừ vị tiên tri vĩ đại là chính Đức Giêsu.

Cuối cùng, nếu đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, từ câu 44 tiếp theo..., chúng ta thấy rõ Đức Giêsu tuyên bố thẳng thừng là họ không thuộc về Thiên Chúa mà thuộc về ma quỷ.

Ngày nay vẫn còn nhiều người tin một đàng, làm một nẻo. Có nhiều người tự xưng là đạo gốc, nhưng những hành vi của họ nơi chợ búa, ngoài đồng ruộng hay nơi đường phố thì ngược lại với những gì họ tự hào và tuyên xưng trong nhà thờ.

Lý do, họ không để cho Lời Chúa thấm nhập vào trong tâm hồn, mà chỉ ở trên đầu môi chóp lưỡi mà thôi.

Xin Chúa ban cho chúng ta hiểu và yêu mến cũng như siêng năng tuân giữ Lời Chúa để được thuộc trọn về Ngài. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu đến để mạc khải sự thật


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa đến để mạc khải sự thật. Ai tin và sống theo lời sự thật ấy, sẽ được giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi và được tự do trong cuộc sống làm con cái Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi con đứng trước một món nợ, trước một cám dỗ, con thường bị ma lực của đồng tiền, của danh vọng và lạc thú lôi cuốn. Con không còn đủ sáng suốt và tự do để chọn lựa. Khi thỏa mãn những đam mê của con, con tưởng mình như được tự do. Nhưng lạy Chúa, chính những đam mê ấy đã ràng buộc con. Bao nhiêu lần con được ơn Chúa soi sáng để thoát khỏi ách nô lệ ấy, vậy mà con vẫn chưa thoát được. Cảnh nô lệ tội lỗi ngày càng đẩy con xuống vực sâu. Càng tự do thỏa mãn đam mê, con lại càng ích kỷ và nô lệ. Lạy Chúa, xin cứu con.

Chỉ có Chúa mới thấy rõ giá trị của từng sự vật và hoàn toàn tự do để chọn lựa từng sự vật theo giá trị đích thực của nó. Chúa đã chọn lựa ý Cha hơn là ý riêng của mình. Chúa chọn đau khổ, nhục nhã trên thập giá hơn là vinh quang trần gian… Chúa hoàn toàn tự do để chọn lựa điều tốt nhất. Và nhất là, Chúa đã chịu chết như một nô lệ để giải phóng con và trả lại tự do cho con.

Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian để mạc khải sự thật cho con biết chỉ có Thiên Chúa là Cha nhân hậu và mọi người là anh em với nhau. Đó là điều cao cả nhất, còn tất cả các sự vật khác chỉ có giá trị khi nó giúp con sống tốt trong tương quan với Chúa và với anh chị em con.

Vì vậy, xin Chúa giúp con đừng bao giờ lệ thuộc vào bất cứ vật nào ngoài lệ thuộc Tình yêu và Thánh Ý Chúa Cha. Con muốn nô lệ Chúa để được tự do thật sự. Xin giúp con chỉ hưởng dùng tạo vạt khi nào chúng giúp con tìm vinh quang Chúa và phần rỗi cho con và cho anh chị em con. Xin dạy con quý trọng tự do được trả giá bằng Máu Thánh Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 8: Ở lại trong tình yêu của Thầy


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một sinh viên Nhật Bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, và nói: “Thưa Cha, con đang đi tìm một đời sống đẹp. Cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu?”

Linh mục đáp: “Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo?”

“Thưa không, con không muốn trao đổi về lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác. Cha biết không, khi còn ở ký túc xá Đại học Cambridge con ở chung phòng với một anh thợ mộc, người mà con cho là anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén dĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì. Nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp”, anh sinh viên đáp.

Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói: “Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời sống đẹp, anh hãy tìm trong đó”.

… Hai năm sau, người sinh viên Nhật ấy đến gặp cha cười cười nói: “Cha có nhận ra con không?”

“Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ”, vị linh mục đáp.
Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói: “Con đã tìm thấy đời sống đẹp. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô”.

Suy Niệm

Ðức Giêsu nói: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. “Ở lại trong Đức Kitô”, “ở lại trong Lời Ta (Thầy)” hay “ở lại trong tình yêu của Thầy”, sự gắn bó sâu thẳm với Thầy - một thực tại thiêng liêng khi đón nhận Đức Kitô hằng sống, đón nhận Lời chân thật của Thầy, nghiền ngẫm và sống Lời đó trong tận thâm cung lòng mình. Kết hiệp mật thiết với Thầy, người môn đệ sẽ được Thầy chỉ cho biết được sự thật về Thiên Chúa và về con người, và sự thật là nguồn mạch để giải phóng:

Giải phóng khỏi sợ hãi: Vì có Chúa cùng đồng hành, chúng ta không sợ gì.

Giải phóng khỏi bản ngã vì Chúa Giêsu sẽ tái tạo ta thành con người mới, hợp với ý Ngài.

Giải phóng khỏi bận tâm thế gian: Môn đệ Chúa không bận tâm điều người ta nói, vì họ chỉ nghĩ đến thánh ý của Thiên Chúa qua Lời.

Giải phóng khỏi tội lỗi: Thân phận con người mỏng giòn khó mà không phạm tội, nhưng ơn Chúa sẽ giúp chúng ta vượt thắng tội lỗi.

Giải phóng cho chúng ta tự do… Sự tự do mà Ðức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Ðức Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa - con của tự do.

Thật thế, chính Chúa Giêsu là con đường duy nhất dẫn tới sự tự do đích thực: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), Ngài là ánh sáng đã chiến thắng bóng tối đem lại tự do cho chúng ta bằng cái chết trên thập giá, tiêu diệt sự chết và tất cả những gì trói buộc chúng ta.

Chúng ta giục lòng tin vào Chúa bằng cách lắng nghe và đón nhận Ngài, xin Ngài giải phóng chúng ta bước đi trong tự do của Ngài, từng ngày và mọi ngày trong cuộc đời.

Ý lực sống: “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2Cr 3,17).

-------------------------------

 

Suy Niệm 9: Nô lệ và tự do


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đức Giêsu đã nói: Ai ở lại trong Ta thì biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho kẻ đó được tự do. Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Khi phạm tội, chúng ta bị trói buộc  vào con đường của ma quỉ, của những đam mê dục vọng. Chúng ta chỉ có thể sống hạnh phúc và tự do khi sống đúng địa vị làm con Thiên Chúa. Sự tự do ấy chỉ có được trong Đức Giêsu, khi chúng ta liên kết cuộc đời chúng ta với Ngài.

2. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói cho người Do thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phả làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do. Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”.

Giải phóng cho chúng ta tự do... Sự  tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Đức Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta  với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa – con cái tự do.

3. Khi nguyên tổ Adong-Evà phạm tội lỗi nghịch cùng Chúa, ma quỉ đã đem tội lỗi vào trần gian. Và khi tội lỗi xâm nhập trần gian, con người đắm chìm trong tội, nô lệ cho mọi khuynh hướng xấu, bị giam hãm trong tội nguyên tổ, sự xuống cấp của một luân lý suy đồi “tội trần gian” và làm tôi cho ma quỉ. Tự sức mình con người không thể tự giải thoát mình, nên cần đến ơn Cứu độ. Đức Giêsu đã phải trả giá đắt để chuộc con người và đem con người trở nên con cái tự do. Đức Giêsu cũng khẳng định: “Kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8,35).

4. Muốn được sống tự do, muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Có điều, như nhà văn Shakespeare nói: “Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại”. Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan. Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời: “Con chẳng có tội gì”!

Hồi học ở Đại chủng viện, cha giáo Phụng vụ có kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện có thật:

Một thanh niên bỏ xưng tội rước lễ nhiều năm, vào dịp Mùa Chay ngài khuyên anh ta nên dọn mình xưng tội. Anh nói:

- Con chẳng có tội gì.

Ngài hỏi anh ta có chơi gái hay không? Anh ta trả lời cách tỉnh bơ:

- Thưa cha, chuyện đó là chuyện bình thường.

Ngài nói:

- Anh có biết là tội lỗi điều răn thứ sáu không?

Anh ta cãi lại:

- Sao lại là tội được. Con trả tiền đàng hoàng mà!

5. Chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô hữu, là những người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng ấy không làm nên thực chất, cái áo không làm nên ông thầy tu, chỉ có danh hiệu bên ngoài và thậm chí ngay cả những việc đạo đức bên ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống đức tin đích thực. Đức tin chân chính được thể hiện qua những việc làm công chính. Người ta thường nói “xem quả biết cây”, chúng ta đã suy nghĩ, nói năng, hành động như thế nào trong cuộc sống  hằng ngày, nhất là trong Mùa Chay thánh này?

6. Truyện: Muốn có đời sống đẹp.

Một sinh viên Nhật Bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, và nói: “Thưa cha, con đang đi tìm một đời sống đẹp, cha có thể chỉ cho con  biết phải tìm ở đâu “?

Linh mục đáp: “Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo”?

Anh trả lời: “Thưa không, con không muốn trao đổi về lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác. Cha biết không, khi con ở ký túc xá Đại học Cambridge con ở chung phòng với một anh thợ mộc, người mà con cho là anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén đĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì. Nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.

Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói: “Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời sống đẹp, anh hãy tìm trong đó”.

... Hai năm sau, người sinh viên Nhật ấy đến gặp cha cười cười nói: “Cha có nhận ra con không”? Cha nói: “Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ”.

Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói: “Con đã tìm thấy đời sống đẹp. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 10: Giải thoát


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Phân tích (Hạt giống...)

Lời Chúa hôm nay đặt vấn đề “giải thoát”:

1. Bài đọc 1: Ba thiếu niên Sidrach, Misach và Abdênagô bị ném vào lò lửa. Vua Nabucôđônôsor bảo họ thờ lạy các thần Babilon thì họ sẽ được giải thoát. Họ không nghe vua, nhưng lại kêu xin Thiên Chúa và Ngài đã giải thoát họ.

2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì trói buộc họ khiến họ làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát khiến họ được tự do. Điều trói buộc họ thành nô lệ là tội, nhất là tội tự mãn mình là con cháu Abraham nhưng không làm theo gương Abraham là mở rộng cõi lòng để tin vào Thiên Chúa và Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến. Điều giải thoát cho họ được tự do là nghe lời Chúa Giêsu để biết Sự Thật, “Sự thật sẽ giải thoát con người”.

B. Suy Niệm (...nẩy mầm)

1. Bạn đang kẹt trong một tình thế rắc rối và muốn thoát ra. Có nhiều cách: dùng sức để đấu tranh, dùng mưu để đánh lừa, dùng tiền để mua chuộc…Có lẽ bạn sẽ thoát, nhưng chỉ tạm thời. Lòng bạn sẽ phập phồng lo lắng không biết lúc nào sẽ bị lôi trở lại tình thế rắc rối đó. Chỉ có một cách giải thoát bạn một cách thực sự, đó là sự thật: hãy bình tĩnh nhận định tình thế để thấy rõ sự thật của mình và của người và hai bên cùng nhau giải quyết thẳng thắn.

2a. Muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về những lỗi lầm và khuyết điểm đó.

2b. Khi Đức Cha Roncalli làm khâm sứ toà thánh tại Bungari, Ngài nhận được một bức thư của một vị Linh mục chỉ trích về Ngài nhiều mặt. Đọc xong bức thư, Ngài không nói một lời, lòng vẫn yêu thương vị Linh mục kia. Thời gian trôi qua Ngài được thăng chức Hồng Y, rồi đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan XXIII. Có lần vị Linh mục kia được Đức Giáo hoàng tiếp kiến. Vị Linh mục rất lo lắng, sợ Ngài trách về chuyện cũ. Nhưng Đức Gioan XXIII không trách mà còn nói: “Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người có nhiều khuyết điểm. Cha để bức thư của con vào cuốn Thánh kinh và hằng ngày đọc vào đó mà xét mình. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (Mỗi ngày một tin vui).

3a. Không gì trói buộc con người chúng ta chặt bằng tội lỗi. Không gì giải thoát chúng ta, ban cho chúng ta tự do trọn vẹn bằng sự thật chứa đựng trong Lời Chúa.

3b. Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách, một người buôn Châu Âu hỏi xem anh đang đọc gì. Anh ta trả lời: “Đọc Thánh kinh”. Nhà buôn buồn cười nói: “Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi!”. Người Phi Châu đáp: “Nếu ở đây mà Thánh kinh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi!”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 11: Xin cho con biết Chúa và biết con


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Lời Chúa hôm nay nói về vấn đề "giải thoát":

Ba thiếu niên Sidrach, Misach và Abdênagô bị ném vào lò lửa, nhưng kêu xin Thiên Chúa và Người  đã giải thoát các em.

Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phải làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do.

Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do là nghe Lời Chúa để biết Sự Thật, "Sự thật sẽ giải thoát anh em" (Ga 8,32).

Tạp chí kinh tế Viễn Đông mới đây có ghi lại chuyện tự nộp mình rất đáng khâm phục của một tên cướp như sau: Một đêm nọ, vì quá mỏi mệt với cuộc sống chui lủi, tên cướp khét tiếng đã ra đầu thú. Trước thái độ hồ nghi của viên công an trực, tên cướp đã chỉ vào vết sẹo để khẳng định rằng, chính mình đã từng bị lực lượng an ninh tầm nã trong mấy tháng qua. Mặc dầu làm thế nhưng viên công an vẫn tiếp tục nghi ngờ, nhất định không cho anh vào khám, còn kẻ cướp thì dứt khoát không chịu bỏ đi. Phải đợi đến sáng hôm sau, các viên chức công lực mới nhận diện được người mà họ đã truy nã trong mấy tháng qua. Tên cướp cho biết, anh đã kiệt sức vì cuộc chạy trốn. Hằng đêm anh không thể ngủ yên. Dù chỉ là tiếng chó sủa, hay ngay cả tiếng gà gáy cũng làm anh phải giật mình. Bước vào phòng giam, tên cướp nhìn vào viên công an trực của đêm hôm trước với vẻ đắc thắng.

Muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Có điều như nhà văn Shakespeare nói: "Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại." Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan.

Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời "Con chẳng có tội gì".

Hồi tôi học ở Đại Chủng Viện, cha giáo Phụng vụ của tôi có kể cho chúng tôi một câu chuyện có thật. Một người thanh niên bỏ xưng tội rước lễ nhiều năm, vào dịp Mùa Chay ngài khuyên anh ta nên dọn mình xưng tội. Anh ta nói:

- Con chẳng có tội gì.

 Ngài hỏi có đi chơi gái hay không. Anh ta trả lời cách tỉnh bơ:

- Thưa cha, chuyện đó là chuyện bình thuờng.

Ngài nói:

- Anh có biết đó là tội lỗi điều răn thứ sáu hay không?

Anh ta cãi lại:

- Sao lại là tội được. Con trả tiền đàng hoàng mà!

Hãy tập cho mình có thói quen biết nhìn nhận những yếu đuối bất toàn của mình và biết sống khiêm nhường. Chỉ có cách đó, chúng ta mới có thể có được cuộc sống thanh thản và bình an, không bị thế gian, ma quỉ và xác thịt quậy phá.

Đời Chiến Quốc, có vua nước Sở là Chiêu Vương gặp loạn phải trốn ra nước ngoài. Lúc ấy có người hàng thịt dê tên Duyệt chạy theo.

Khi Chiêu Vương trở về lấy lại được lãnh thổ, nhà vua tưởng thưởng cho những người đi theo, trong đó có cả anh hàng thịt dê nữa.

Trong lúc ai cũng vui mừng nhận lãnh, thì anh chàng bán thịt dê lại từ chối. Anh khiêm nhường tâu với vua rằng:

- Khi đức vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay đức vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là đủ rồi, đâu dám mong thưởng gì hơn nữa.

Chiêu Vương cố ép, người bán hàng thịt dê lại cố từ.

- Đức vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Đức vua lấy lại được nước, không phải là do công của tôi, nên tôi không dám nhận phần thưởng.

Chiêu Vương bảo:

- Vậy thì để ta sẽ đến chơi nhà ngươi.

Người hàng thịt dê nói:

- Theo phép nước, người nào có công to thì mới được trọng thưởng, vua mới đến nhà. Nay tôi tự xét mình không đủ trí mưu giữ được nước, không đủ dũng cảm để làm cho giặc phải lui. Quân giặc vào nước, tôi phải lánh nạn chạy theo vua, như vậy đâu phải chủ ý theo vua. Nay vua bỏ phép nước đến nhà tôi, tôi e thiên hạ chê cười chăng?

Chiêu Vương nghe nói, ngoảnh lại bảo quan đại phu Tư Mã Tử Kỳ:

- Anh này tuy làm nghề ti tiện mà giải bày nghĩa lý rất cao. Nhà ngươi làm thế nào mời được anh ta ra nhận chức Tam Công cho ta.

Thấy vậy người bán hàng thịt dê nói:

- Tôi biết chức Tam Công là quý, quý hơn cửa hàng thịt dê, bổng lộc lại nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê, nhưng tôi đâu dám nhận để nhà vua mang tiếng gia ơn không phải nghĩa. Vậy xin cứ cho tôi được giữ nghề cũ.

Nói xong, người bán hàng thịt dê lui ngay.

Lạy Chúa, xin cho con được biết con và biết Chúa, biết con chẳng là gì và biết Chúa là tất cả để con biết luôn sống khiêm nhường và tin tưởng nơi Chúa. Xin cho con biết tự hạ, để chỉ nghĩ đến Chúa mà thôi. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12: Tự do là ơn Chúa ban


(Lm Micae Võ Thành Nhân)

Người Do Thái hiểu từ “Tự Do” nghĩa là họ không có làm nô lệ cho bất cứ một ai trong cuộc sống này. Họ rất tự hào họ là con cháu tổ phụ Abraham, là vì Abraham sống đẹp lòng Chúa vô cùng, và Chúa luôn luôn nhớ lại những gì Chúa đã thương và đã làm cho tổ phụ Abraham, Chúa cũng thương dân tộc của họ như thế, cho nên Chúa đã nhờ ông Môsê để giải thoát họ ra khỏi cảnh làm nô lệ tôi mọi bên Ai Cập, cho họ được tự do như bây giờ, và rồi họ chẳng cần ai ban cho họ thêm tự do nào nữa.

Phần Chúa, Chúa cho họ và cho con người chúng ta biết rằng mỗi khi phạm tội là con người chúng ta bị nô lệ cho tội lỗi, chúng ta bị tội lỗi thống trị, đầy đọa, và chúng ta mất tự do, mất Chúa, không được ở trong nhà, nghĩa là không được ở lại trong tình thương của Chúa: “Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà” (Ga 8, 34 – 35).

Chính Chúa mới là Đấng duy nhất giải thoát con người chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi, khỏi sự chết, và phục hồi chức vị làm con của Chúa cho chúng ta, để chúng ta được thừa hưởng gia nghiệp nước thiên đàng qua cái chết và sự phục sinh của Chúa. Và đây, tổ phụ Abraham đã mơ ước ngày này và ngài đã qua đời rồi. Vậy nếu con người chúng ta là con cháu tổ phụ Abraham, thì cũng phải có tấm lòng mong ước như tổ phụ Abraham, và thực tế Chúa đang ở trước mắt của những người Do Thái, Chúa đang ở đây, họ thấy và trực tiếp nói chuyện với Chúa. Họ hạnh phúc hơn tổ phụ của họ rất nhiều. Nhưng mà tổ phụ Abraham tin Chúa, luôn làm theo ý Chúa, còn họ thì không tin Chúa, lời Chúa không thấm nhập vào lòng của họ (Ga 8, 37b), họ lại còn tìm cách để bắt và giết chết Chúa, điều mà tổ phụ Abraham của họ không có làm. Họ là con cháu của tổ phụ Abraham thì họ phải làm theo mẫu gương của tổ phụ Abraham, nhưng họ lại làm khác đi. Một điều quan trọng nhất là những người Do Thái luôn luôn làm theo ý riêng của mình, mà họ không làm theo thánh ý Chúa. Họ làm theo ý riêng của họ thì sẽ dẫn họ đến suy vong, bị Chúa bỏ rơi.

Mặt khác, người Do Thái gọi Thiên Chúa là Cha của mình: “Họ lại nói: Chúng tôi không phải là những đứa con hoang ! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa” (Ga 8, 41), mà Chúa đã nói với họ rất nhiều lần Chúa là con của Chúa Cha: “Chúa nói: Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến” (Ga 8, 42). Do đó, họ không tin Chúa thì họ đã làm sai thánh ý Thiên Chúa Cha, cho nên họ mãi mãi nằm dưới ách thống trị của tội lỗi, Chúa không thể làm gì để cứu họ được.

Lạy Chúa, Chúa nhân hậu từ bi vô cùng, chúng con ca ngợi, tôn vinh, chúc tụng Chúa, xin Chúa giúp đức tin của chúng con lớn mạnh theo thời gian nhờ việc chúng con siêng năng đi tham dự thánh lễ, ở đó chúng con sẽ được Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thề là hai nguồn lương thực, dưỡng chất thiêng liêng làm cho đức tin của chúng con thêm mạnh mẽ ơn, hiểu biết và sống gắn bó với Chúa hơn. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 13: Sự thật giải phóng


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 5 Mùa Chay này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chính Chúa đã làm cho chúng ta biết ăn năn hối cải, quyết tâm phụng sự Chúa, xin Chúa hằng thương soi sáng tâm hồn chúng ta và nhậm lời chúng ta khẩn nguyện.

Biết ăn năn hối cải, quyết tâm phụng sự Chúa, tin tưởng vào lời Chúa hứa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Thiên Chúa trung thành là niềm hy vọng của chúng ta. Thiên Chúa đã thề hứa sẽ giữ lời Người: chúng ta có lý do chắc chắn để hy vọng. Bên trong bức màn cung thánh, Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành Vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Menkixêđê. Người hằng sống để chuyển cầu cho ta. Vì phẩm vị tư tế của Đức Giêsu tồn tại mãi mãi, nên Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn, cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa.

Biết ăn năn hối cải, quyết tâm phụng sự Chúa, tin tưởng vào lời chuyển cầu của Đức Giêsu, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Đức Giêsu cầu nguyện cho chúng ta, cầu nguyện trong chúng ta, và là Đấng chúng ta kêu cầu… Cho đến bây giờ, anh em đã chẳng xin điều gì nhân danh Thầy. Anh em cứ xin thì sẽ được, để niềm vui của anh em được trọn vẹn. Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em xin Chúa Cha điều gì nhân danh Thầy, thì Người sẽ ban cho anh em.

Biết ăn năn hối cải, quyết tâm phụng sự Chúa, chúc tụng, ngợi khen về những gì Chúa đã làm cho ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Đanien: Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người. Trong bài Đáp Ca, ngôn sứ Đanien chúc tụng Chúa: Xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Lạy Chúa, chúc tụng Ngài là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển. Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh quang, chúc tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Hạnh phúc thay người thành tâm thiện chí, hằng ấp ủ lời Chúa trong lòng, nhờ kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do. Lời Chúa là sự thật sẽ giải phóng chúng ta, thành tâm thiện chí đón nhận và ấp ủ Lời Chúa trong lòng, kiên trì thực thi Lời Chúa, chúng ta sẽ thu hoạch được nhiều hoa trái tốt đẹp. Nhờ Đức Kitô, chúng ta không còn là những người nô lệ, những người đầy tớ nữa, nhưng, là những bạn hữu của Đức Giêsu, những người con của Thiên Chúa. Bạn hữu sẽ được tỏ cho biết những gì nơi Cha, và con cái sẽ được thưa chuyện với Thiên Chúa, như con thơ thưa chuyện với Cha hiền, vì thế, khi Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô là Hội Thánh cầu nguyện với Chúa Cha, thì Hội Thánh không tách biệt Đấng là Đầu với Hội Thánh là thân. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của thân thể mầu nhiệm, là Đấng vừa cầu nguyện cho chúng ta, vừa cầu nguyện trong chúng ta, lại là Đấng chúng ta kêu cầu. Người cầu nguyện cho chúng ta với tư cách là tư tế; Người cầu nguyện trong chúng ta với tư cách là Đầu; và là Đấng chúng ta kêu cầu, vì Người là Thiên Chúa chúng ta. Nếu chúng ta ở lại trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu, thì, chúng ta thật là môn đệ của Người, chúng ta sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng chúng ta. Thiên Chúa là Cha chúng ta, vì thế, chúng ta phải yêu mến Đức Giêsu, vì Người phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, Người không tự mình mà đến, nhưng, Người đến để làm theo ý Đấng đã sai Người. Chính Người sẽ làm cho chúng ta biết ăn năn hối cải, và quyết tâm phụng sự Chúa Cha, ước gì Người hằng soi sáng tâm hồn chúng ta và nhậm lời chúng ta khẩn nguyện. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 5: Thứ 5 MC 5 - 2025

Niềm tin và lý trí.
10/04 – Thứ Năm tuần 5 Mùa Chay.
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".

 

Lời Chúa: Ga 8, 51-59


Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tôi hằng hữu


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng việc Đức Giêsu bị ném đá.
Nhưng Ngài đã ẩn mình đi và ra khỏi Đền thờ (c. 59).
Ném đá là hình phạt của người Do thái chủ yếu dành cho kẻ phạm thượng.
Đức Giêsu đã làm gì để bị coi là mắc tội phạm thượng,
nghĩa là tội coi thường quyền tối thượng của Thiên Chúa?
Trước hết Đức Giêsu đặt mình lên trên tổ phụ đáng kính Abraham.
Ngài biết ông Abraham vui sướng mừng rỡ
vì hy vọng được thấy ngày của Ngài, thấy những việc Ngài làm đây (c. 56).
Abraham mừng vì chính Đức Giêsu, chứ không phải cá nhân mình,
mới là Đấng đem phúc lành cho mọi dân tộc trên thế giới.
Dù chưa tới năm mươi tuổi, Đức Giêsu dám coi mình là có trước ông Abraham.
“Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (c. 58).
Ta là Đấng Hằng Hữu là câu trả lời của Thiên Chúa cho ông Môsê
khi ông hỏi tên của Ngài bên bụi cây bốc cháy (Xh 3, 14).
Đức Giêsu cũng muốn trả lời câu hỏi về mình (c. 53) bằng lối nói đó.
Vì trước khi được sinh ra ở đời làm người, thì Ngài đã hiện hữu rồi.
Ngài là một với Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga 1, 14-18),
bởi đó Ngài có trước Abraham, người đã sống trước Ngài gần hai ngàn năm.
Chính khẳng định bị coi là phạm thượng này đã khiến Ngài bị ném đá.
Đức Giêsu thường bị coi là ngạo mạn, tự tôn vì những lời như vậy.
Thật ra Ngài chẳng tự tôn vinh mình.
Chúa Cha mới là Đấng tôn vinh Ngài qua cái chết tủi nhục (c. 54).
Đức Giêsu cũng chẳng coi thường Thiên Chúa bao giờ.
Ngài gọi Thiên Chúa là Cha một cách thân thương,
và nhìn nhận: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14, 28).
Có một sự phân biệt rất rõ giữa Chúa Cha và Đức Giêsu:
Chúa Cha là người sai đi; Đức Giêsu là Con, là người được sai đi.
Đức Giêsu chỉ làm điều Ngài thấy Cha làm (Ga 5, 19-20; 8, 28-29),
và nói điều Ngài nghe Cha nói (Ga 8, 26. 40; 12, 49-50).
Triệt để vâng phục và tùy thuộc là nét đặc trưng của Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng Gioan, bao lần ta gặp cụm từ không tự mình.
Đức Giêsu không tự mình nói, cũng chẳng tự mình làm.
Ngài đòi chúng ta tuân giữ lời Ngài (c. 51)
chỉ vì chính Ngài cũng đã tuân giữ lời của Thiên Chúa (c. 55).
Trong tuần lễ này, tại nhà thờ các ảnh tượng có thể được che lại.
Khi bị ném đá, Đức Giêsu đã tránh đi vì giờ của Ngài chưa đến.
Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm.
Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa.
 
Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Đức tin ban sự sống


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người Do thái nhặt đá ném Chúa Giê-su. Vi Người nói: “Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Khi ném đá Người họ phủ nhận Người là Con Thiên Chúa. Phủ nhận sự ứng nghiệm của Lời Chúa. Và phủ nhận Áp-ra-ham đang sống. Đồng thời cũng phủ nhận đức tin của Áp-ra-ham.

Áp-ra-ham đã tin vào Lời Chúa. Vì tin nên ngài bỏ quê hương xứ sở lên đường đi đến miền Đất Hứa. Vì tin nên ngài sẵn sàng sát tế I-sa-ác, người con duy nhất nối dõi. Đức tin mạnh mẽ của ngài đã khiến ngài trở thành cha của những kẻ tin.

Nhờ đức tin, tổ phụ Áp-ra-ham đã nhận được lời Chúa hứa. Dòng dõi Áp-ra-ham lớn mạnh về chiều rộng. Vì Áp-ra-ham trở thành “cha của vô số dân tộc”. Dòng dõi ngài sẽ tồn tại suốt chiều dài thời gian. Vì Chúa sẽ lập giao ước với dòng dõi của ngài “từ thế hệ này qua thế hệ khác”. Dòng dõi ngài sẽ trổi vượt về chiều cao. Vì “các vua chúa sẽ phát xuất từ Áp-ra-ham”.

Tất cả lời hứa ứng nghiệm vào Chúa Giêsu. Vì Người thuộc dòng dõi Áp-ra-ham. Nước Thiên Chúa do Người thiết lập sẽ trải rộng vô biên. Không còn giới hạn vào một miền đất, một dân tộc hay một ngôn ngữ. Trái lại “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Chúa”(Lc 13, 29). Nước Thiên Chúa sẽ trường tồn vĩnh cửu. Như lời thiên sứ Ga-bri-en đã loan báo: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33). Dòng dõi người là vua chúa vì “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người”(Lc 1, 32).

Qua câu trả lời của Chúa Giêsu ta biết Áp-ra-ham đang sống vì tổ phụ đã tuân giữ lời Chúa không sai mảy may. Vì thế ngài được sống. Không chỉ sống ngài còn vui mừng vì thấy Chúa Giê-su thuộc dòng dõi của ngài đang được vinh hiển. Ngài vui mừng vì thấy lời hứa của Thiên Chúa được hoàn thành hoàn hảo nơi Chúa Giê-su.

Mọi lời hứa đã bắt đầu với đức tin của Áp-ra-ham và hoàn thành viên mãn nơi Chúa Giê-su. Đức tin làm phát sinh sự sống. Nếu tổ phụ Áp-ra-ham hoàn toàn tin tưởng cả trong những việc khó khăn nhất là hiến tế I-sa-ác, thì Chúa Giê-su hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Cha trong thời điểm khắc nghiệt nhất là cái chết. Còn hơn thế nữa, Chúa Giê-su tự hiến tế thân mình với một đức tin trổi vượt. Đem lại sự sống muôn đời cho nhân loại.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Niềm tin và lý trí


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chàng Hải Âu Kỳ Diệu, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được ước mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các con chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới. Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trở lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe chàng nói, lòng chợt dậy lên khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện ước mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.

Khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Người, cho rằng Người bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Chúa Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Người dùng danh xưng Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến. Câu nói ấy đã khiến người Do Thái phẫn nộ và định ném đá Người.

Ðược sống mãi không phải chết là ước mơ muôn thuở của con người, thế nhưng khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng nếu họ tuân giữ Lời Người dạy bảo thì họ sẽ khỏi phải chết, họ lại chế nhạo Người là bị quỉ ám. Nếu xét thêm mặt ngoài của sự kiện thì quả thật họ là người có lý. Họ lý luận như sau: "Bây giờ chúng tôi biết chắc là ông bị quỉ ám. Ông Abraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy. Thế mà ông lại nói: ai tuân giữ lời tôi thì sẽ không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Abraham hay sao?" Họ lý luận rất chặt chẽ, nhưng chính cái chặt chẽ ấy lại là một sợi xích cột chặt họ lại khiến họ không thể cất cánh bay cao. Họ có lý nhưng tổ phụ Abraham ngày xưa đã chẳng lý luận gì khi nghe theo lời Giavê Thiên Chúa kêu gọi mà từ bỏ quê cha đất tổ để ra đi. Những người Do Thái có lý nhưng theo lối lý luận của con người. Thiên Chúa thì không dựa theo lý lẽ của con người để thực hiện công việc của mình, Thiên Chúa làm theo cách của Ngài. Những ai muốn nhận ra chương trình của Thiên Chúa thì cũng phải tập nhìn mọi sự theo cách nhìn của Ngài. Những người Do Thái không muốn nhìn như thế, họ nhìn vào Chúa Giêsu và họ chỉ thấy đó là một con người tuổi chưa đầy năm mươi mà dám khoác lác nói rằng mình đã thấy tổ phụ Abraham, lại còn dám xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa nữa. Họ không thể chấp nhận thái độ cao ngạo và phạm thượng ấy. Họ phải ném đá kẻ ngông cuồng này. Quả đúng như lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người. Người đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1, 9-11).

Cũng như tình yêu, đức tin không dựa trên lý lẽ. Lý trí có thể đưa chúng ta đến bên bờ của đức tin, rồi để mặc chúng ta ở đấy. Không phải lý trí bỏ rơi chúng ta nhưng lý trí không thể giúp chúng ta vượt qua được mép bờ huyền nhiệm của đức tin. Ðứng trên mép bờ huyền nhiệm ấy, tác động thích hợp duy nhất là yêu mến và phó thác. Tổ phụ Abraham đã yêu mến Thiên Chúa và đã phó thác mọi sự cho Ngài và đã được toại nguyện. Ðức Maria cũng đã khẳng định tương tự. Các thánh cũng hành động như thế; còn chúng ta, chúng ta hành động ra sao?

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: "Ai tuân giữ Lời Ta thì sẽ không bao giờ phải chết". Con không thể hiểu được lời này bằng lý luận mà chỉ có thể và sống lời ấy với tâm tình yêu mến và hoàn toàn phó thác vào Chúa mà thôi.

Lạy Chúa, xin hãy gia tăng đức tin cho con. Con tin nhưng xin Chúa thương trợ giúp cho sự cứng lòng kém tin của con.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Xét đoán mù quáng.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Khi mới về xứ Ars chỉ vỏn vẹn 300 người, cha Vianney đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng cầu nguyện, hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ tuôn đến để nghe Ngài dạy giáo lý và để xưng tội với Ngài.

Các linh mục đồng nghiệp đều biết cha Vianney trước đây rất tầm thường và học hành rất dốt, cho nên vì ghen tương đã trình lên Đức cha địa phận rằng nhiều lần cha Vianney đã giải sai các nguyên tắc thần học luân lý.

Nghe thế, Đức cha cho gọi cha Vianney đến và giao cho cha một số trường hợp tội khó giải để cha giải trên giấy tờ rồi nộp lại cho Đức cha. Vài ngày sau, cha làm xong đem nộp và được các nhà chuyên môn khen là giải đáp đúng và khôn ngoan.

Các linh mục đồng nghiệp của cha Ars đã xét đoán theo tiêu chuẩn tự nhiên của lý trí, cộng thêm lòng ghen tỵ. Những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài mù quáng tinh thần nhiều hơn. Đó cũng là thái độ của những người Do Thái, không tin Chúa, không chấp nhận chân lý mạc khải như được kể lại trong Tin Mừng hôm nay.

Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mạc khải thêm về thân thế của Ngài, về nếp sống của những ai tin nhận Ngài: “Ai giữ lời Ta thì muôn đời sẽ không phải chết”. Với cái nhín và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám”. Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ, chụp mũ. Con người dễ tin theo những sự thật khác hơn sự thật của Chúa. Vả lại, sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tỵ hám danh.

Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã viết: “Đức Kitô là Sự thật, không phải báo chí là sự thật, không phải truyền thanh, truyền hình là sự thật, con theo loại sự thật nào? Giàu hay nghèo, sang hay hèn, khen hay chê, không sao cả. Chấp nhận tiến trên đường hy vọng hồng phúc về ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Không nhượng bộ xác thịt, không nhượng bộ lười biếng, không nhượng bộ ích kỷ. Con không thể gọi đen là trằng, xấu là tốt, gian là ngay được”.

Trên con đường canh tân của Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy dừng lại xét mình về thái độ của chúng ta trước những chân lý mạc khải và trước chính Đức Kitô, Đấng đang thôi thúc chúng ta tiến trên đường tin, cậy, mến.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Trí nhớ hạn hẹp


Đức Giêsu đáp:

“Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả.

Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông.

Các ông không biết Người; Còn tôi, tôi biết Người.
Nếu tôi nói là tôi không biết Người, Thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông
Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. (Ga. 8, 54-55)

Trong một xã hội có cơ cấu tổ chức như xã hội chúng ta, mọi thứ trôi theo cuộc sống buộc chúng ta phải giữ trọn nhiều giao kèo, khế ước, hợp đồng. Chúng có nhiều loại, nhiều kiểu khác nhau. Thứ này thì lâu dài như khế ước kết hôn. Thứ khác thì ngắn hạn, như giao kèo mua bán. Dù là thứ nào, hai bên hợp đồng phải tự ràng buộc mình giữ đúng lời nói hay ký kết và tôn trọng sự cam kết của mình. Được như thế, người ta gọi là trung tín. Rất đáng trách kẻ bê trễ hay quên tôn trọng những lời cam kết của mình đối với phía cho vay mượn. Sự quên lãng hay bê trễ luôn là một sức nặng đè lên đời sống cá nhân.

Có thể chúng ta cũng có thứ trí nhớ hạn hẹp đó chăng? Có thể lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng hạn hẹp như vậy! Đã có lần trong lịch sử đời ta, Thiên Chúa đã can thiệp để ấn ký một giao ước đời đời giữa Ngài với chúng ta, như Thiên Chúa đã nói với Áp-ra-ham: “Và ngươi, ngươi sẽ giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi từ đời này tới đời kia”. Mỗi người chúng ta nhờ bí tích Rửa tội, đã ký kết một bản giao kèo với Thiên Chúa, một giao ước được ấn ký long trọng tuyên thệ dứt khoát và đời đời trong máu thánh Đức Giêsu Kitô.

“Chúa đã luôn nhớ lời minh ước của Ngài”. Thánh vịnh đã ca tụng Chúa như vậy. Vâng, Thiên Chúa luôn luôn trung thành và không bao giờ quên lời cam kết của Ngài đối với chúng ta. Còn chúng ta thì sao?

Noi gương Thiên Chúa, chúng ta phải trung thành nhắc nhở chúng ta nhớ đến minh ước tình yêu đã nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Bội ước, bất trung, nếu chúng ta không tôn trọng lời đã cam kết.

Đức Giêsu Kitô dạy chúng ta hôm nay: người nhận biết Thiên Chúa phải sống lời minh ước. “Tôi biết Ngài và giữ lời Ngài” (c. 55). Sống lời Chúa mỗi ngày, chúng ta sẽ được lời Chúa soi sáng, đó là dấu chỉ bảo đảm chắc chắn nhất về lòng trung thành của chúng ta đối với minh ước của Chúa. Lúc đó Thiên Chúa sẽ rất gần gũi với chúng ta. Chúng ta sẽ không còn sợ có một trí nhớ hạn hẹp chóng quên lời giao ước.

C.G

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Ơn cứu độ của tôi nhờ hy vọng vào Chúa


Trong tông huấn Thiên Chúa là Tình yêu, Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã viết: “Chúng ta được cứu độ là nhờ vào hy vọng”. Thật vậy, sống mà không hy vọng thì thật bi đát, nhưng điều quan trọng là chúng ta hy vọng vào ai và vào cái gì mới là điều đáng nói!

Là người Kitô hữu, niềm hy vọng chúng ta đặt ở nơi Đức Giêsu và những lời giáo huấn của Ngài. Tại sao vậy? Thưa bởi vì nơi Ngài là nguồn mạch sự sống đời đời. Ngài thông truyền sự sống ấy cho những ai tin và thuộc về Ngài.

Chân lý này chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay khi Đức Giêsu nói Ngài là: “Đấng Hằng Hữu”.

Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu muốn mặc khải Thiên tính của Ngài xuất phát từ Thiên Chúa.

Tuy nhiên, thay vì vui mừng và tạ ơn, những người Dothái cùng thời đã không thể chịu nổi những tuyên bố này của Đức Giêsu, nên sự đối đầu của họ với Ngài ngày càng quyết liệt, khiến họ quyết định lượm đá ném Ngài.

Ngày nay, trong xã hội thiên về thực dụng, coi trọng vật chất và thượng tôn chủ thuyết tương đối, nhiều người cũng không thể chấp nhận những sự thật của Tin Mừng, ngược lại, họ luôn đi tìm những điểm tựa mang tính nhất thời, những lời tuyên bố hão huyền và những chân lý nửa vời!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng và hy vọng nơi Chúa, chỉ có Ngài mới tồn tại vĩnh viễn, bởi vì Ngài Hằng Hữu. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi sống niềm tin và hy vọng ấy ngay trong những lựa chọn và hành động của mình để được thuộc Chúa và chung hưởng hạnh phúc cùng với những người thuộc về Nước Hằng Sống.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con trung kiên theo Chúa đến cùng, ngõ hầu chúng con trở nên môn đệ đích thực của Chúa trong thời đại hôm nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chỉ tìm vinh quang từ nơi Chúa Cha


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu không tự tôn vinh mình, nhưng chỉ tìm vinh quang từ nơi Chúa Cha. Đó là động lực giúp Người trung thành với sứ mạng. Và đó cũng phải là động lực cho đời sống Kitô hữu.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cúi mình trước sự khiêm tốn thẳm sâu của Chúa. Chúa quả quyết với người Do thái rằng: Chúa lớn hơn tổ phụ Ápraham, Chúa là Đấng Hằng Hữu. Nhưng dù vậy, Chúa không đi tìm vinh quang cho mình, không phô trương quyền lực, không tìm cách để cho người đời ca khen chúc tụng. Trái lại, làm gì hay nói gì, Chúa chỉ tìm cách làm rạng rỡ vinh quang của Chúa Cha và chờ đợi Chúa Cha tôn vinh Chúa. Con thấy trong suốt cuộc đời Chúa nơi trần gian, dù Chúa có bị người đời hiểu lầm, chê cười, chống đối, Chúa vẫn không nản lòng bỏ cuộc, một vẫn trung thành với sứ mệnh, vì Chúa chờ đợi Chúa Cha sẽ tôn vinh Chúa bằng sự phục sinh vinh hiển.

Lạy Chúa, xin dẫn dắt con theo đường lối Chúa để con chỉ đi tìm vinh quang của Chúa Cha. Con dễ thường theo thói đời đi tìm vinh quang cho mình bằng cách tự phụ, phô trương, khoe khoang, bắt người khác phục tùng mình. Con cũng dễ tìm vinh quang nơi người đời, tìm cách để họ chúc tụng khen thưởng, nên con dễ buồn lòng nản chí khi bị chê cười hoặc gặp thất bại.

Lạy Chúa, vinh quang người đời mau qua, đôi lúc nó đã làm con sống giả dối và mù quáng trước những lời nịnh hót. Xin Chúa giúp con làm mọi việc vì vinh danh Chúa Cha. Xin dạy con khiêm tốn để con sống thực lòng. Con xin trao phó trọn vẹn đời con cho tình thương và sự phán xét công minh của Chúa. Chỉ có Chúa mới thấu tỏ lòng con và ban thưởng vinh quang đời đời cho con. Con chỉ xin cho con được lòng trung thành luôn mãi. Amen.

Ghi nhớ: “Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chàng hải âu kỳ diệu, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được ước mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các con chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới.

Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trở lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe chàng nói, lòng chợt dậy lên khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện ước mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.

Suy Niệm

Sau khi Chúa Giêsu mạc khải về bí tích Thánh Thể, nhiều môn đệ cho rằng Chúa nói lời thật khó nghe, nên bỏ ra đi. Còn Phêrô đại diện cho những tông đồ trung thành tiếp tục theo Chúa, đã tuyên xưng rằng: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).

Giờ đây Ðức Giêsu khẳng định: “Ai giữ lời Ta thì sẽ không bao giờ phải chết”, cùng một thái độ sau diễn từ Thánh Thể người Do Thái không chấp nhận, và họ sôi sục căm giận lượm đá ném Ngài.

Hôm nay, Chúa vẫn đang nói với chúng ta qua Tin Mừng, qua Giáo hội, qua những vị có trách nhiệm, những người khôn ngoan mà ta được gặp gỡ trong cuộc sống. Chúng ta có khiêm tốn đón nhận hay cũng có thái độ cứng tin, cố chấp như người Do Thái xưa?

Chúng ta khao khát tìm nghe và đón nhận Lời Chúa với thái độ yêu mến vì điều cốt lõi trong cuộc đời người Kitô hữu là kiếm tìm và thực thi Lời Chúa dạy.

Ý lực sống: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,

là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Thực thi Lời Chúa


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Hôm nay vẫn tiếp tục cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người Do thái về thân thế của Ngài. Đức Giêsu khẳng định: “Ai giữ lời Ta thì không bao giờ phải chết”. Với những lời giáo huấn của Đức Giêsu, người Do thái không chấp nhận, và họ đã lượm đá ném Ngài.

Điều cốt lõi trong cuộc đời Kitô hữu là kiếm tìm và thực thi Lời Chúa dạy. Hôm nay, chúng ta đã nghe và đón nhận Lời Chúa với thái độ như thế nào? Chúa vẫn đang hướng dẫn chúng ta qua những người có trách nhiệm, những người mà ta được gặp gỡ trong cuộc sống. Chúng ta có khiêm tốn đón nhận hay cũng có thái độ như người Do thái xưa?

2. Càng đi sâu vào Mùa Chay, cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và những người luật sĩ cũng như người biệt phái ngày càng gây cấn hơn. Nếu như Đức Giêsu càng ngày càng tỏ rõ danh tính của mình là Con Thiên Chúa thì những người Do thái càng ngày lại càng căm thù và muốn giết Ngài. Nhưng người Do thái với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm hẹp hòi của cá nhân như thế, làm sao họ có thể biết được thân thế của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỉ ám” (Ga 8,52),

Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Đức Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó có cả những thành kiến do những người có đạo tạo nên.

3. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu lại tuyên bố một câu làm cho người ta hiểu sai: “Ai tuân giữ lời Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Người Do thái không hiểu nổi mạc khải này, bởi vì theo họ, Abraham và các tiên tri cũng đã chết, mặc dù vẫn tuân giữ Lời Chúa. Do đó, họ lên tiếng phản đối, cho Ngài là bị quỉ ám, và họ lượm đá ném Ngài.

Thật ra khi tuyên bố điều đó, Chúa có ý nói về sự sống siêu nhiên chứ không có ý nói về sự sống thể xác. Vì thế, khi nghe Chúa nói: “Ai tuân giữ lời Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết” thì phải hiểu rằng Chúa có ý nói: Ai đặt niềm tin vào Ngài, đón nhận và thực thi giáo huấn của Ngài, thì được thông hiệp vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của thân xác, các môn đệ cũng thế. Nhưng sự thật, các môn đệ của Đức Giêsu và cả chúng ta nữa được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa nếu chúng ta tin vào Ngài.

4. Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề “Chàng Hải Âu Kỳ Diệu”, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được giấc mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới. Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trởi lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe nói, lòng chợt dậy một khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện giấc mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.

Khi Đức Giêsu nói với người Do thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Ngài, cho rằng Ngài bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Đức Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Ngài dùng danh xưng Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến. Câu nói ấy đã khiến người Do thái phẫn nộ và định ném đá Ngài (Mỗi ngày một tin vui).

5. Suy Niệm Lời Chúa, ta thấy Chúa không nói: Ai là người Công giáo thì không bao giờ phải chết, nhưng lại nói: “Ai tuân giữ lời Ta”. Vì vậy, cho dù là người công giáo, là người có đạo mà không tuân giữ lời Chúa thì cũng phải chết. Trái lại, có những người chưa có đạo, nhưng cuộc sống của họ chứng tỏ họ đã tuân giữ lời Chúa một cách vô tình thì vẫn không bao giờ phải chết. Điều quan trọng là có tuân giữ Lời Chúa hay không, có sống Lời Chúa hay không. Chúng ta đọc hay nghe Lời Chúa, chúng ta tìm hiểu, học hỏi, Suy Niệm Lời Chúa, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là sống hay thực hành những điều đã nghe, đã đọc, đã tìm hiểu và Suy Niệm.

6. Truyện: Biết thực hành Lời Chúa.

Ngày nọ, Đức Giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.

Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được Rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin  đặt tên là John Selwyn, vì chính ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài” (Góp nhặt).

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chuyện về Abraham và Chúa Giêsu


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (hạt giống...)

Lời Chúa hôm nay nói về Abraham và Chúa Giêsu:

1. Bài đọc 1: Thiên Chúa gọi Abram, giao ước cho ông là tổ phụ nhiều dân tộc và đổi tên ông là Abraham. Bởi đó, Abraham rất được người Do Thái ngưỡng mộ. Họ coi ông là tổ phụ của họ.

2. Phúc Âm: Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu về Ngài. Trong bài trích Phúc Âm này, Ngài nói hơi xa xôi: Khi người Do Thái hỏi “Chẳng lẽ ông lại lớn hơn Cha chúng tôi là Abraham sao ?”, Ngài đáp: “Khi Abraham chưa sinh thì đã có Ta rồi”. Ý Ngài muốn họ hiểu Ngài là Thiên Chúa. Nhưng chẳng những họ không hiểu mà họ còn định lấy đá ném Ngài.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mặc khải thêm về thân thế của Ngài… Nhưng với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: Ông là ai ? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao ? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám… Sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ của tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tị tham lam (Mỗi ngày một tin vui).

2. Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó cũng có những thành kiến do một số người có đạo tạo nên. Mỗi người hãy tự kiểm xem có khi nào vô tình khiến người ta có thành kiến với Chúa và với Giáo hội không ?

3. Một du khách mới tới Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi bị sai lạc”. Và một người Á Đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin” Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn. (Góp nhặt).

4. Ngày nọ, Đức Giám Mục Jonh Selwyn thấy một người con trai người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, Ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trận. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi Ngài quay lưng ra và lặng lẽ bỏ đi.

Nhiều năm sau, một vị truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính Ngài đã dậy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh Ngài”. (Góp nhặt).

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu về Ngài. Trong đoạn Tin Mừng này, Ngài nói hơi xa xôi: “Khi người Do Thái hỏi: Chẳng lẽ ông lại lớn hơn Cha chúng tôi là Abraham sao ?” (Ga 8,53), Ngài đáp: “Khi Abraham chưa sinh thì đã có Ta rồi”. (Ga 8,58) Ý Ngài muốn cho họ hiểu Ngài là Thiên Chúa. Nhưng chẳng những họ không hiểu mà họ còn định lấy đá ném Ngài.

Như vậy, chúng ta thấy lúc Chúa Giêsu muốn mặc khải rõ hơn về thân thế của Ngài, thì với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm của một con người xác thịt, người Do Thái vẫn không nhận ra Chúa: “Ông là ai ? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao ? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông là người bị quỷ ám”. (Ga 8,52)

Nhiều người thời nay cũng vậy. Họ không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó có cả những thành kiến do những kẻ có đạo tạo nên.


2. Làm sao cho con người nhận ra được Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, điều đó không phải dễ.

Ngày nọ, Đức Giám Mục John Selwyn thấy con trai của một người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những cậu ta không chịu nghe, mà còn vung tay tát vào mặt vị Giám mục một cái nảy lửa. Mọi người thấy vậy định phản ứng. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng lại và lặng lẽ bỏ đi.

Nhiều năm trôi qua, một vị truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi ông muốn lấy tên thánh là gì. Ông đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài”. (Góp nhặt).

Vâng, John Selwyn đã làm cho một người được biết Chúa không phải do lời ngài giảng, cũng không phải do tài năng của ngài nhưng là do chính cuộc sống của mình. Chính cách cư xử tử tế quảng đại, không oán giận, không trả thù đối với một kẻ đã đánh ngài đã làm cho kẻ đó phải suy nghĩ và rồi cuối cùng ông ta đã trở về với Chúa.

Và còn một yếu tố này nữa: Chúng ta không thể tự mình nhận biết được Thiên Chúa. Đức tin là một hồng ân nhưng không Ngài ban cho. Đôi khi nó có tính cách rất bất ngờ.

Thời Giáo Hội sơ khai, người Rôma thường đem các nghi thức của Giáo Hội ra làm trò đùa, và dĩ nhiên có những người chuyên làm trò cho thiên hạ cười.

Một bữa tối nọ, hoàng đế Dioclétiano đến một quảng trường để tham dự những trò đùa phạm thánh này. Lúc đó có một tên hề nổi tiếng tên là Ghênesiô. Anh đã cùng với các bạn của mình chuẩn bị một nghi lễ rửa tội để trình diễn cho hoàng đế xem. Khi bắt đầu, Ghênesiô hô lớn:

- Hỡi các bạn, xin hãy đến giúp tôi. Tôi muốn trở thành Kitô hữu.

Tức khắc, một tên hề khác mặc phẩm phục linh mục bước ra, và tên thứ ba đem nước đến. Bắt chước công thức quen thuộc của Giáo Hội, họ hỏi Ghênesiô:

- Hỡi Ghênesiô, ngươi muốn xin gì ở chúng tôi ?

Ghênesiô bập bẹ nói: - Thưa xin phép rửa.

Nhưng kìa, khi tên hề Ghênesiô chưa đọc dứt câu, thì bỗng như có sức mạnh vô hình nào đó uốn lưỡi anh, bắt anh phải đọc trọn cả một câu: “Thưa, tôi xin phép rửa để được lãnh nhận ơn của Đức Giêsu Kitô”.

Tên hề đóng vai linh mục không chút nghi ngờ, bèn đổ nước trên đầu của Ghênesiô và đọc công thức của bí tích Rửa tội.

Hoàng đế Dioclétiano và cử tọa vỗ tay hoan hô màn kịch. Thế nhưng, tiếng vỗ tay chưa dứt thì Ghênesiô đã đứng lên ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi trịnh trọng tuyên bố:

- Tâu hoàng đế và quí vị vừa xem tôi. Chúng ta đến đây để cười nhạo những người Kitô hữu bằng những nghi thức phạm thánh của chúng ta, nhưng xin quí vị biết cho rằng: nước vừa đổ trên đầu tôi, đã biến tôi thành một Kitô hữu thực sự. Giờ đây, tôi đã là một tín hữu Kitô, và tôi tin Đức Giêsu Kitô là “Con Thiên Chúa”.

Khi Ghênesiô vừa dứt lời thì đám đông nhốn nháo lên. Tức giận, vị hoàng đế ra lệnh trói chân tay Ghênesiô lại cho đánh đòn và phân xẻo thân thể anh. Trong cơn đau đớn cùng cực, Ghênesiô không ngừng lập đi lập lại:

- Tôi là người Kitô hữu, tôi tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa độc nhất của chúng ta.

Để cho anh câm miệng, hoàng đế đã ra lệnh chém đầu anh.

Lạy Chúa,
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng !
Bấy giờ Chúa ở trong con,
vậy mà con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Chúa đã gọi con, đã gọi thật to
và phá tan sự điếc lác,
và xua đi sự mù lòa của con.
Giờ đây con hối hả quay về với Chúa.
Xin cho con luôn được ở gần Ngài. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Tổ phụ Abraham là niềm tự hào của người Do Thái


(Lm Micae Thành Nhân)

Chúa nhắc đi nhắc lại tổ phụ Abraham là người cha về phần xác của dân tộc họ, như là Chúa muốn khơi gợi lên, đánh động cõi lòng của họ về những điều này:

-Tin vào Chúa là Thiên Chúa thật: “Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Đấng các  ngươi xưng là Thiên Chúa các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói: Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người…Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abrahan chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi” (Ga 8, 54 – 58). Chúa cố gắng bằng mọi mọi cách, nhất là Chúa nại vào thế giá tổ phụ Abrahan như là mẫu gương tin vào Chúa để họ noi theo mà họ cũng không tin, chứng tỏ họ rất lì lượm trong đức tin của họ.

-Tuân giữ lời Chúa dạy: Vì họ tự làm theo ý riêng của họ, cho nên họ gây ra cho cuộc đời này có quá nhiều phức tạp trong các mối quan hệ giữa người với nhau, giữa họ với dân chúng để rồi dễ dẫn đến sự vong thân. Do đó, ước mơ của Chúa đối với họ là: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết” (Ga 8, 51). Chúa nói như thế vì lời Chúa chính là ngọn đèn soi cho con người chúng ta bước, là ánh sáng dẫn đường con người chúng ta đi (Tv 118, 105). Người Do Thái họ thuộc lời Chúa, họ biết, nếu họ nghe thì cuộc đời của họ sẽ tốt hơn, đẹp lòng Chúa hơn, nhưng mà họ không chịu tin và còn vặn vẹo lại Chúa: “Bây giờ chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám…Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao” (Ga 8, 52).

Vì không tin vào Chúa và muốn sống trong tình trạng cố bảo thủ, chống đối lại những ai đụng chạm đến họ, đụng chạm đến quyền lợi của họ cho nên họ không muốn thay đổi cách sống, để rồi họ: “Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình ra khỏi đền thờ” (Ga 8, 52). Như vậy, Chúa đã bỏ họ để Chúa đi nơi khác, họ sẽ chết trong tội lỗi của họ, chẳng có ai cứu họ được nữa rồi.

Con người chúng ta ngày hôm nay cũng giống như con người ngày xưa năm đó. Trong Giáo Hội của Chúa đây, có rất nhiều người khô khan, nguội lạnh, biếng nhác, bỏ kinh nguyện sáng tối, bỏ tham dự thánh lễ, bỏ xưng tội, sống ích kỷ, hưởng thụ, buông thả, nuông chiều xác thịt quá đáng, khó tính khó nết khi có một ai khuyên răn, giúp đỡ, chẳng còn biết gì đến Chúa và Đức Mẹ, vì thế, chúng ta hãy quan tâm và yêu thương những người anh chị em này nhiều hơn nữa bằng cách chúng gia tăng lời cầu nguyện, hy sinh hãm mình làm các việc lành phúc đức để xin Chúa xót thương anh chị em chúng ta, ban ơn, giúp họ sớm trở về với Chúa, giao hòa với Chúa để được hưởng ơn cứu độ do mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa mang đến.

Lạy Chúa, Chúa xót thương những người tội lỗi, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con, xin Chúa nhớ lại lời Chúa đã nói với chúng con qua tiên tri Êdêkiel năm xưa: “Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 33, 11), để cho chúng con được hưởng ơn cứu độ. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Hy vọng được thấy ngày cứu độ


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 5 Mùa Chay này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa rất từ bi, chúng ta hết lòng trông cậy vào Chúa, xin Chúa nhậm lời chúng ta khẩn nguyện, mà luôn che chở giữ gìn chúng ta, để từ đây thoát vòng tội lỗi, chúng ta bền tâm sống cuộc đời thánh thiện và đáng hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban.

Sống thánh thiện để hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban, nhờ Vị Thượng Tế Tối Cao, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Ông Menkixêđê, dưới ngòi bút của tác giả sách Sáng Thế, là một khuôn mặt bí ẩn. Truyền thống Dothái lại biến ông thành một vị cứu tinh từ trời xuống. Cha mẹ ông là ai thì không ai biết, ông cũng không có con cháu nối dõi tông đường. Ông Menkixêđê, vua thành Salem, mang bánh và rượu ra. Ông là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao. Ông giống Con Thiên Chúa. Đức Chúa đã thề hứa với Con của Người: Muôn thuở, Con sẽ là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê. Con Thiên Chúa đã trở nên tư tế không phải do lề luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng, do sức mạnh của một đời sống bất diệt.

Sống thánh thiện để hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban, nhờ Hội Thánh bí tích cứu độ, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Hiến Chế Tín Lý Ánh Sáng Muôn Dân nói: Hội Thánh, dấu chỉ hữu hình về sự hợp nhất mang lại ơn cứu độ… Anh em là dân riêng của Thiên Chúa. Xưa anh em chưa phải là Dân Thiên Chúa, nay anh em đã là Dân của Người rồi; xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót, nay anh em đã được xót thương. Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp.

Sống thánh thiện để hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban, nhờ lòng trung tín của Thiên Chúa với những gì Người đã hứa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Sáng Thế, Thiên Chúa phán cùng ông Ápraham: Ngươi sẽ là cha của vô số dân tộc. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 104, vịnh gia cho thấy: Giao ước lập ra, muôn đời Người nhớ mãi, nhớ lời đã cam kết đến ngàn thế hệ! Đó là điều đã giao ước cùng Ápraham, đã đoan thệ cùng Ixaác.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Ngày hôm nay, anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ông Ápraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông Ápraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy, nhưng, ai tuân giữ lời Đức Kitô, thì sẽ không bao giờ phải chết. Trước khi có ông Ápraham, Đức Kitô đã Hằng Hữu. Đấng tôn vinh Đức Kitô chính là Chúa Cha, Đấng mà chúng ta gọi là Thiên Chúa. Chúng ta không biết Người, còn, Đức Kitô thì biết Người, và giữ lời Người. Ông Ápraham đã hớn hở vui mừng, vì hy vọng được thấy ngày của Đấng Cứu Độ, và với lòng tin và niềm trông cậy vững vàng, ông đã thấy và đã mừng rỡ. Xưa kia, Ítraen theo huyết nhục, lang thang trong hoang địa, được gọi là Đại Hội của Thiên Chúa, thì nay, Ítraen mới đang tiến bước trong thế giới hiện tại, tìm về thành đô tương lai vĩnh cửu, cũng được gọi là Đại Hội của Đức Kitô. Đại Hội ấy, chính Người đã lấy máu mình mà cứu chuộc, đã tuôn đổ đầy tràn Thần Khí của Người, và trang bị cho những phương tiện thích hợp, để làm thành một cộng đoàn hữu hình hợp nhất. Hội Thánh đang nhìn lên Đức Giêsu như tác giả của ơn cứu độ và nguyên lý của hợp nhất và bình an. Chính Thiên Chúa đã triệu tập chúng ta và thiết lập thành Hội Thánh, để Hội Thánh trở nên dấu chỉ hữu hình về sự hợp nhất, mang lại ơn cứu độ cho mọi người và mỗi người. Chúa rất từ bi, chúng ta hãy hết lòng trông cậy vào Chúa, ước gì chúng ta bền tâm sống cuộc đời thánh thiện, để đáng hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 6: Thứ 6 MC 5 - 2025

Ðường chân lý.
11/04 – Thứ Sáu tuần 5 Mùa Chay.
"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".

 

Lời Chúa: Ga 10, 31-42


Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?"
Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".
Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tôi là Con Thiên Chúa


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài Tin Mừng hôm nay cũng giống bài hôm qua,
Đức Giêsu lại bị ném đá vì bị kết tội phạm thượng.
Có lần Ngài đã bị kết tội là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa
chỉ vì đã nói: “Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 18).
Bây giờ Ngài bị kết tội phạm thượng vì dám tự cho mình là Thiên Chúa (c. 33).
Thực ra Đức Giêsu không bao giờ nhận mình như vậy,
vì Thiên Chúa là Cha của Ngài, Ngài chỉ nhận mình là Con (c. 36).
Nhận mình là Con Thiên Chúa không phải là một lời phạm thượng.
Nhưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa độc nhất vô nhị.
Ngài là Con Một hằng ở nơi cung lòng Cha (Ga 1, 18),
đầy tràn ân sủng và sự thật (Ga 1, 14).
Người Con Một ấy đã trở thành người phàm mang tên Giêsu (c. 33),
trở thành quà tặng cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Đức Giêsu gắn bó với Chúa Cha đến nỗi Ngài có thể nói:
“Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (c. 38).
Hơn nữa, Ngài còn dám nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (c. 30).
Con và Cha hiệp nhất làm một với nhau,
Người được sai kết hiệp làm một với Đấng sai mình.
Con không tự mình làm điều gì, không làm theo cách của mình,
Con luôn sống như người được Cha sai.
Đây không phải chỉ là sự hiệp nhất trong công việc,
mà còn là sự hiệp nhất sâu thẳm giữa hai ngôi vị thần linh.
Đức Giêsu đã làm nhiều việc tốt đẹp (c. 32).
Các việc này không phải là việc của Ngài, mà là việc của Cha Ngài (c. 37).
Suốt đời Đức Giêsu chỉ tận tụy với việc của Cha.
Trên thập giá, trước khi lìa đời, Ngài nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30).
Ngài đã vuông tròn mọi việc Cha giao.
Những việc tốt đẹp này là một lời chứng hùng hồn cho con người của Ngài:
“Nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi,
ít ra cũng hãy tin các việc đó” (c. 38).
Tin vào việc làm dẫn đến tin vào con người.
“Tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian” (c. 36).
Thiên Chúa Cha đã thánh hiến Chúa Con để Ngài thi hành sứ mạng.
Chúng ta cũng là những người được thánh hiến qua bí tích Thánh Tẩy,
được sai vào thế giới này để chia sẻ sứ mạng còn dang dở của Chúa Giêsu.
Chúng ta còn nhiều điều tốt đẹp phải làm cho cuộc đời này
trước khi có thể nói như Chúa: “Thế là đã hoàn tất”.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen.

---------------------------------
 
 

Suy Niệm 2: Thoát khỏi tay họ


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ma quỉ chống lại Thiên Chúa. Đó chính là nguồn gốc sự dữ. Những kẻ ác tiếp tục công việc của ma quỉ chống lại các sứ giả của Thiên Chúa. Vì Lời Chúa kết án lối sống vô đạo của họ. Vì đời sống công chính của các ngài vạch trần lối sống xấu xa của họ. Vì thế kẻ ác luôn tìm giết kẻ lành. Thế lực kẻ ác rất mạnh. Vì chúng có quyền trên trần gian. Nhưng người công chính vẫn luôn can đảm làm chứng cho Chúa. Và sẵn sàng chịu mọi đau khổ vất vả. Vì các ngài tin tưởng Thiên Chúa sẽ đến giúp đỡ và giải thoát các ngài. Giê-rê-mi-a, giữa cơn khốn cùng vẫn luôn tin tưởng: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con”. Hơn nữa Thiên Chúa sẽ giải cứu các ngài: “Hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”.

Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa. Nhưng kẻ ác vẫn không buông tha Người. Dù họ chẳng có lý lẽ nào bào chữa. Họ nại đến Lề Luật. Nhưng Lề Luật làm chứng về Người. “Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: ‘Ông nói phạm thượng’ vì tôi đã nói: ‘Tôi là Con Thiên Chúa’”.Họ ném đá Chúa vì cho rằng Người phạm thượng. Nhưng Chúa đã làm những công việc của Chúa Cha. Những điềm kỳ dấu lạ. Xua trừ ma quỉ. Phục sinh kẻ chết. Rõ ràng nếu không phải là Thiên Chúa thì không thể làm được những điều kỳ diệu vượt sức loài người như thế. Tuy nhiên dù có ghen ghét họ chẳng làm gì được Chúa. “Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ”. Và dù họ có giết chết, Người đã phục sinh và hằng sống.

Thế gian thật dữ dội. Nhưng Thiên Chúa là sức mạnh. Tôi hãy đi vào con đường của Chúa Ki-tô. Không chạy theo thế lực trần gian. Chỉ tin tưởng và trung tín với Thiên Chúa. Tôi sẽ chịu thiệt thòi. Nhưng Thiên Chúa ở với tôi. Người giải thoát tôi khỏi mọi ràng buộc của thế lực sự dữ. Người giải thoát tôi khỏi dính bén với những cám dỗ trần gian. Thoát mọi mưu mô cạm bẫy trần gian. Cho tôi đạt tới Người. Kết hợp với Người.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðường chân lý


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ðây là lần thứ hai những người Do Thái muốn ném đá Chúa Giêsu vì Người xưng mình là Con Thiên Chúa. Sự xung khắc giữa hai bên, một bên vì sự thật, bên kia vì mê muội, càng ngày càng gia tăng. Chúa Giêsu cương quyết thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Người bất chấp mọi nguy hiểm, kể cả nguy cơ bị giết chết. Người Do Thái cũng nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu vì họ cho Người phạm thượng. Cuộc đối kháng sẽ đi đến cao trào vào ngày lễ Lá khi Chúa Giêsu công khai vào thành Giêrusalem với tư cách là Ðấng Mêsia. Về phía các đối thủ của Chúa Giêsu, họ cũng lập một kế hoạch để trừ khử Người.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Do Thái khăng khăng buộc tội Chúa Giêsu, họ cho rằng Người đã nói phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa. Họ không thèm đếm xỉa đến những việc tốt lành Chúa Giêsu đã thực hiện, cũng không thèm nghe những lời người khác làm chứng về Chúa Giêsu để xét xem Người có phải là Ðấng Mêsia hay không? Càng đối chất với Chúa Giêsu, họ càng trở nên ương ngạnh, ngoan cố. Vì tự ái và để bảo vệ tư lợi, họ không còn quan tâm đến tính cách khách quan của sự kiện, đầu óc họ bây giờ chỉ còn một ý nghĩ duy nhất chiếm ngự đó là phải khử trừ Chúa Giêsu bằng bất cứ giá nào. Sự giận dữ nung đốt lòng họ, biến họ thành những kẻ gian ác, như hình ảnh những tá điền hung dữ mà Chúa Giêsu đã mô tả trong các dụ ngôn Người giảng dạy trước đây.

Người xưa có nói: "Giận mất khôn", người Do Thái vì giận Chúa nên không còn kể gì sự khôn ngoan hay rồ dại nữa. Ðã biết bao lần Chúa Giêsu nhắc đến Chúa Cha. Người cố tình nhắc đi nhắc lại nhiều lần để mong họ thức tỉnh mà suy xét lại. Biết họ giận dữ, Người vẫn tiếp tục nói, không phải Chúa muốn chọc giận họ mà là muốn họ ăn năn sám hối và được cứu rỗi. Sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho Người, Người phải thi hành đến cùng. Chúa Giêsu càng thiết tha giảng dạy cho họ, họ càng tức điên lên, Chúa Giêsu càng nói họ càng tức giận và cuối cùng, không dằn được cơn giận họ đành tóm lấy Chúa Giêsu để trừng trị cho hả dạ. May thay, Chúa Giêsu đã lánh ra khỏi chỗ họ mà đi sang bên kia sông Giordan.

Khung cảnh bên kia sông Giordan lắng dịu và khách quan hơn, ở đó có nhiều người đến với Chúa Giêsu, những người này là những người thành tâm thiện chí, họ muốn tìm ra sự thật về vị Thầy Giêsu mà dân chúng xôn xao bàn tán bấy lâu. Dư luận nói tốt về Người cũng có, mà dư luận nói xấu về Người cũng chẳng thiếu, họ bình tâm đứng giữa hai luồng dư luận và để tìm hiểu những lời ông Gioan đã nói về Chúa Giêsu, họ tin vào sự chân thật của ông Gioan, bởi ông được mọi người công nhận là một ngôn sứ đích thực. Ông đã nói nhiều điều về Chúa Giêsu, và những điều đó đã xảy ra đúng như lời ông nói. Lời chứng của một người chân thật thì phải là một sự thật, thế thì chắc chắn Chúa Giêsu phải là Ðấng Mêsia mà Kinh Thánh đã từng tiên báo. Dù có nhiều điều họ chưa hiểu tường tận, nhưng dựa vào lời chứng của Gioan, họ đã tin vào lời Chúa Giêsu và họ đã tìm đến với Người. Tấm lòng rộng mở của họ đã dẫn họ đến với sự thật.

Hai cách hành xử của hai nhóm người trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây là những gợi ý quý báu cho chúng ta khi phải nhận định đánh giá các nguồn dư luận quanh ta hàng ngày về Chúa Giêsu. Là những người yêu chuộng sự thật, chắc chắn chúng ta biết mình sẽ chọn con đường nào để đạt tới chân lý, để đến với Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn chân lý và là nguồn sự khôn ngoan. Xin ban cho con một trí óc luôn bình tâm sáng suốt, một con tim luôn khách quan vô tư, để con có thể nhận xét mọi người mọi việc quanh con và tìm ra sự thật mà đến với Chúa. Xin cho con cũng biết tích cực làm chứng cho sự thật mà mình đã xác tín.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Sống theo Chúa.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Có người hỏi chị Lubich: “Làm sao chị có thể theo dõi hàng trăm ngàn người trên thế giới? Làm sao chị có thể hướng dẫn những người theo cùng một linh đạo?” Chị mỉm cười trả lời: “Tôi không theo dõi ai cả. Tôi chỉ theo Chúa từng giây phút và nếu tôi sống theo Chúa thì những người khác sẽ theo tôi”.

Bí quyết sống của chi Lubich thật ra được gợi hứng từ nếp sống của chính Chúa Giêsu. Ngài đã không nói suông, nhưng đã hành động, đã thi ân cho những ai thành tâm, tìm đến với Ngài. Ngài đã sống điều Ngài giảng dạy và luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa. Ngài đã như nài nỉ những kẻ không tin Ngài rằng: “Nếu các người không thể tin những lời Ta nói thì ít ra hãy tin những việc Ta làm”.

Trong các cuộc tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã mạc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan giữa Ngài và Chúa Cha: “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha”. Nhưng người Do Thái không thể hoặc không muốn tin vào Chúa, họ vẫn khăng khăng coi Ngài chỉ là một con người, do đó họ đã lượm đá ném Chúa vì cho Ngài lộng ngôn khi dám xưng mình là Thiên Chúa. Những người Do Thái này đã quá chìm sâu trong tội lỗi của họ. Họ vui lòng với những gì đang làm, họ không cảm thấy cần đến ơn cứu rỗi.

Người Kitô chúng ta ngày nay cũng có thể bị ảnh hưởng của tinh thần thế tục: chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu như một con người, một nhà cách mạng xã hội không hơn không kém. Chúng ta có thể bị cám dỗ lượm đá ném Chúa và những gì liên hệ đến Ngài.

Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã nhắn nhủ: “Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi người khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả, con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. Đó là trách nhiệm của người kitô hữu; không được làm ngơ để người khác ném đá Chúa… Mỗi phút giây, con đang thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Bị dồn vào chân tường


Người Do-thái lại lấy đá ném Đức Giêsu. Người bảo họ: “Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi”. Người Do-thái đáp: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một việc phạm thượng: Ông là người thường mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.” (Ga. 10, 31-33)

Một ông bạn nói, khi bị dồn vào chân tường thì chưa chắc đã xấu. Câu nói hóm hỉnh đó tiết lộ một kinh nghiệm nội tâm đặc biệt. Người ta có thể hiểu dễ dàng rằng toàn diện con người ông sẵn sàng sống với mọi biến cố.

Chính con người khi hoàn toàn bị dồn vào chân tường và thấy bất lực trước những biến cố, thì ý nghĩa của những biến cố đó giúp chúng ta thoát khỏi ngõ bí. Ai không sống trải qua cái cảm giác cùng cực và đối diện kinh khủng trước cái chế diễu của người thân yêu, của người tình tự tử hay một sự im lìm nặng nề, thì đó có phải là người của Thiên Chúa không?

Chính trong những lúc đặc biệt đó, chúng ta cảm nghiệm được sự nghèo khó tột độ thực sự của con người chúng ta. Người ta có thể muốn từ chối sự yếu đuối của mình, điều đó thường dẫn đến thất vọng, trái lại, người ta có thể biến nó thành bàn nhảy nhảy vọt tới hy vọng như lời thánh Phao-lô nói: “Chính lúc tôi yếu, là lúc tôi mạnh” (2Cor. 12, 10).

Câu nói trên theo kiểu loài người, thì người ta phải kêu lên là nghịch lý. Nhưng theo ngôn sứ Giê-rê-mi-a, thì người ta có thể nói: “Đấng thấu suốt tâm can tôi. Chính Ngài tôi phó trót mọi nỗi khúc mắc của tôi”. Vì “cái điều điên dại trước mắt kẻ lý trí, lại trở nên khôn ngoan trước mắt Thiên Chúa”.

Khi chúng ta khiêm nhường nhận ra sự nghèo khó của chúng ta và dâng sự khổ đó lên Đấng toàn năng, thì đó là cách diễn tả chân thực về nhu cầu cần thiết của chúng ta phải trông cậy vào Thiên Chúa. Chính nhờ thế, Thiên Chúa có thể hành động giúp chúng ta. Chúng ta chẳng có thể cho mình giàu, nhưng ước mong nên giàu nhờ Thiên Chúa ban.

Mùa chay kêu mời chúng ta ăn năn trở về cùng Thiên Chúa, Đấng đợi chờ mỗi người chúng ta trở về với Ngài, với con tim khó nghèo. Muốn thực hiện được như vậy, có cần phải bị dồn vào chân tường không?

C.G

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Giả hình nên giảm thiêng


Khi con người không còn coi trọng luân lý, thì tiếng nói lương tâm trở nên dư thừa với họ. Như vậy, chuẩn mực trong cuộc sống được đo bằng tiền, quyền, và lẽ tất yếu, chân lý thuộc về đám đông hay những kẻ mạnh! Đây là sự thật xót xa đã xảy ra thời Đức Giêsu!

Tin Mừng hôm nay thuật lại lối sống giả hình của những nhà lãnh đạo tôn giáo và xã hội thời Đức Giêsu, họ sống vụ luật thuần túy khi luật được đưa lên làm chuẩn mực chứ không phải con người, chú trọng đến hình thức hơn nội tâm, sống trên danh vọng, hào nhoáng bên ngoài hơn là nội dung bên trong...

Lối sống đó đã hoàn toàn ngược lại với lời giáo huấn của Đức Giêsu, vì thế, Ngài không ngừng vạch trần giã tâm của họ trước mặt mọi người, thế nên Đức Giêsu đã trở thành cái gai trước mắt họ, và họ tìm mọi cách bứng Ngài ra khỏi xã hội của họ càng sớm càng tốt.

Trong thời đại hôm nay, vẫn còn nhiều chuyện dở khóc dở cười khi nhiều người dựa trên nguyên lý tự nhiên để xét xử chân lý Tin Mừng! Hay, khi không còn cách nào nữa thì áp đặt và quyết định trắng trợn khi nhân danh tập thể, tức là dựa trên hiệu ứng đám đông mà không cần biết đúng hay sai!

Mặt khác, nhiều khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa, đó là: khó chịu, bực bội với Lời Chúa, bởi Lời Chúa gọt dũa, cật vấn lương tâm và dạy những điều mà chúng ta không muốn sống... hay chúng ta đã phản ứng bằng việc dửng dưng!

Sống với những thái độ như thế, nên không lạ gì nhiều Mùa Chay qua đi mà chúng ta không thấy tốt hơn là mấy?

Lý do tại sao lại có những chuyện như thế trong thời đại được coi là văn minh, khoa học? Thưa chỉ vì cái tôi của chúng ta quá lớn và sự ích kỷ thì quá nhiều, nên đã không chấp nhận sự thật củaTin Mừng!

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con được yêu mến Chúa và đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống hằng ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu bày tỏ Ngài là Con Thiên Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu bày tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, nhưng người Do thái đã không chấp nhận. Nay Chúa cũng đang tỏ mình cho ta và mời gọi ta tin nhận và bước theo Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người Do thái không tin vào Chúa bởi vì họ đã vẽ dung nhan Chúa theo quan niệm riêng của họ. Lòng họ vẫn mong chờ, nhưng khi đối diện với chính Chúa là Đấng được Chúa Cha sai đến thì họ không nhận ra, không tin vào Chúa là Thiên Chúa Nhập Thể.

Đời sống Kitô hữu nơi con nhiều khi cũng thế. Con khao khát ước mong được gặp Chúa, nhưng Chúa đã và đang hiện diện trong đời con mà con chẳng nhận ra và chẳng tin Chúa. Tệ hại hơn nữa là như dân Do thái đòi ném đá Chúa, con cũng ném đá Chúa khi con gạt bỏ Chúa ra khỏi con người và cuộc đời của con. Con ném đá Chúa khi con sùng bái đề cao cái “Tôi” của con, hoặc khi con xem sự thỏa mãn dục vọng là bí quyết hạnh phúc, là tiêu chuẩn để lựa chọn.

Xin Chúa giúp con xác tín rằng kính mến Chúa không chỉ hệ tại ở lời hay ý đẹp, kính mến Chúa không chỉ tại danh nghĩa bên ngoài với những hình thức tổ chức rầm rộ hào nhoáng. Con ao ước được lòng kính mến Chúa chân thành bằng cách đón nhận Chúa như chính Chúa tỏ mình cho con. Xin đừng để con bẻ ngoặt Lời Chúa và bắt Tin Mừng uốn theo quan niệm riêng tư để khéo léo che đậy cái tôi đầy tham vọng của con. Xin giúp con biết sống đức tin đích thực mỗi khi phải đối diện với sự giằng co nội tâm, đối diện với đòi hỏi bỏ mình, để nhờ đó con tin và bước theo Lời Chúa. Xin cho con dám hủy mình ra không để dám đi đến tận cùng, dám bước đi liều lĩnh nhưng chắc chắn đến tận cùng cuối đường, ở đó Chúa đã có mặt sẵn để chờ đón và ôm con vào lòng. Amen.

Ghi nhớ: “Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chúa Giêsu mạc khải sự thật về Ngài


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Qua những người dân trong vùng đến làm phu, dựng nhà cho lính tráng và các cung nữ, tiếng đồn có tây dương đạo trưởng đến thuyết pháp được lan truyền ra. Dân chúng đến nghe giảng mỗi ngày một đông, và số người trở lại mỗi ngày một nhiều. Trong hai tháng trời chờ đợi ở An Vực, hai cha đã rửa tội được hơn 200 người.

Người thứ nhất được ơn trở lại là một sư cụ danh tiếng trong vùng. Cụ rất chăm học đạo, hàng ngày luôn ở bên cạnh các cha để nghe giảng giải các mầu nhiệm trong đạo. Không dám phiền cụ, cha Đắc Lộ nhờ một thanh niên biết chữ chép ra chữ Nôm, những kinh cha đọc cho, để những người tân tòng theo đó mà học.

Thấy thế, cụ liền xin cho cụ hân hạnh được làm công việc đó “vì trước kia, cụ đã làm thầy dạy người ta những sự lầm lạc, thì lúc này, cũng xin nhận việc đó để dạy lại người ta những điều chân thật”.

Chưa đủ, nhận thấy gian nhà của hai cha ở chật chội, dân chúng đến nghe giảng phải chen chúc nhau, cụ liền dâng cho hai cha một khu đất bên cạnh, để hai cha làm một nhà thờ rộng rãi và xứng đáng hơn.

Suy Niệm

Người Do Thái vì cứng lòng, không chịu chấp nhận Chúa Giêsu và Lời giảng dạy của Ngài. Họ kết tội Ngài phạm thượng vì đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa. Dân Do Thái chỉ nhớ một điều họ không bằng lòng, mà quên đi nhiều điều tốt lành Chúa Giêsu đã làm cho họ: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng. Ông là người phàm, mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33).

Với họ Chúa Giêsu chỉ là con người bình thường, một thanh niên con bác thợ mộc Giuse và bà Maria ở làng quê Nadarét nghèo nàn.

Dù họ chấp nhận hay không, thì Chúa Giêsu vẫn là Con Thiên Chúa, như lời Chúa Giêsu đã mạc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan giữa Ngài và Chúa Cha: “Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha”. Ngài đến để làm chứng cho sự thật. Nhưng chính bởi sự thật đó, có nhiều người đã chống đối và cũng có nhiều người tin vào Ngài.

Ðức Giêsu bị kết tội khi dám nói sự thật. Chúng ta là môn đệ Ngài không bao giờ chấp nhận gian dối. Chúng ta nên chấp nhận sự thật, để hành động đúng, can đảm sống và làm chứng cho sự thật, dù có bị thiệt thòi, noi gương Ðức Giêsu, luôn trung thành với sự thật và luôn làm chứng cho sự thật. Sự thật giải thoát chúng ta (x. Ga 8,32).

Ý lực sống: “Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi người khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả, con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô” (ĐHY F.X. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, 611).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Vào dịp mừng lễ Cung hiến Đền thờ ở Giêrusalem, người Do thái vây quanh Đức Giêsu, cật vấn Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không? Đây là câu hỏi để gài bẫy: Nếu Ngài tự xưng mình là Đấng Cứu Thế, họ nghĩ chính quyền Rôma sẽ bắt tội Ngài. Nếu Ngài chối, họ sẽ buộc Ngài vào tội lừa dối dân.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi đó. Thừa dịp này, Ngài tuyên bố một chân lý quan trọng: Ngài là Con Thiên Chúa và đồng bản tính với Thiên Chúa: “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha”.

2. Chúng ta thấy người Do thái không tin Ngài là phải, vì bài Tin Mừng hôm nay cho thấy lý do tại sao người Do thái không tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa. Họ không tin nhận vì họ đứng ở vị thế chính trị: họ mong đợi một Đấng Cứu Thế giải phóng  dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại bang; trong khi đó, Đức Giêsu lại ở vị thế  hoàn toàn tôn giáo. Ngài đến giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi. Hai người đứng trên hai quan điểm khác nhau mà nói truyện thì không bao giờ đi đến kết luận chung.

3. Câu hỏi “Đức Giêsu là ai”, Ngài có phải là Con Thiên Chúa không? Câu trả lời vẫn còn lơ lửng, chưa ngã ngũ! Trong ba năm giảng dạy, với nội dung giảng dạy, và cách thức giảng dạy của Đức Giêsu đã khiến mọi người ngạc nhiên thán phục. Thêm vào đó, những phép lạ Chúa làm lại củng cố thêm cho sự thán phục này. Dầu vậy, thính giả của Ngài vẫn thắc mắc hỏi nhau: Giêsu là ai?  Nhiều người cho Ngài là  một tiên tri nào đó như Isaia, Êlia, Giêrêmia hay một tiên tri nào khác đã sống lại.

Chính các Tông đồ cũng vẫn thắc mắc: Ngài là ai? Câu hỏi này đã được chính Chúa Cha trả lời: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là con rất yêu quí của Chúa Cha. Bằng chứng: hai lần Chúa Cha đã tuyên bố công khai như vậy, một lần ở sông Giorđan lúc Ngài chịu phép rửa và một lần nữa ở trên núi Taborê khi Ngài biến hình.

Chính Đức Giêsu cũng đã nhiều lần tuyên bố như vậy. Chẳng hạn dụ ngôn ”những người làm vườn nho hung ác” đã giết đứa con duy nhất của ông chủ. Chúa đã dùng hình ảnh đó để ám chỉ chính Ngài đã được Chúa Cha sai đến trần gian và bị người Do thái giết chết nơi đồi Calvariô...

4. Người Do thái vì cứng lòng, không chịu nhận Đức Giêsu và lời giảng dạy của Ngài. Họ kết tội Ngài phạm thượng vì đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa. Dân Do thái chỉ nhớ một điều họ không bằng lòng, mà quên đi nhiều điều tốt lành Đức Giêsu đã làm cho họ: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng. Ông là người phàm, mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga 10,33). Với họ, Đức Giêsu chỉ là con người bình thường, một thanh niên con bác thợ mộc Giuse và bà Maria ở làng quê Nazareth nghèo nàn.

Dù họ chấp nhận hay không, thì Đức Giêsu vẫn là Con Thiên Chúa, như lời Đức Giêsu đã mạc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan quan giữa Ngài với Chúa Cha: “Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha”. Ngài đến để làm chứng cho sự thật. Nhưng chính bởi sự thật đó, có nhiều người đã chống đối và cũng có nhiều người tin vào Ngài.

5. Vậy chúng ta bảo Đức Giêsu là ai? Chúng ta phải tin và xác quyết rằng Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là người thật.

- Đức Giêsu là Thiên Chúa thật. Trong ba năm sống công khai, Ngài đã không ngừng xác quyết điều đó. Ngài tự xưng mình cao trọng hơn Abraham, lớn hơn Maissen... Tất cả những lời tuyên bố trên đã được Đức Giêsu chứng thực và xác nhận bằng các phép lạ, trong đó sự sống lại của Ngài là bằng chứng cao cả nhất về Thần tính của Ngài.

- Đức Giêsu cũng là con người thật. Con người đó cũng có một thân xác như chúng ta. Về phương diện tình cảm, Ngài biết rung động trước vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên, Ngài nghiêng mình và xoa dịu những vết thương đau của nhân loại, nhất là những kẻ yếu đau và người tội lỗi.

6. Truyện: Tin theo Chúa Giêsu.

Qua những người dân trong vùng đến làm phu, dựng nhà cho lính tráng và các cung nữ, tin đồn có tây dương đạo trưởng đến thuyết pháp được lan truyền ra. Dân chúng đến nghe giảng mỗi ngày một đông, và số người trở lại mỗi ngày một nhiều. Trong hai tháng trời chờ đợi ở An Vực, hai cha đã rửa tội được 200 người.

Người thứ nhất được ơn trở lại là một sư cụ danh tiếng trong vùng. Cụ rất chăm học đạo, hằng ngày luôn ở bên cạnh các cha để nghe giảng giải các mầu nhiệm trong đạo. Không dám phiền cụ, cha Đắc Lộ nhờ một thanh niên biết chữ chép ra chữ Nôm, những kinh cha đọc cho, để những người tân tòng theo đó mà học.

Thấy thế, cụ liền xin cho cụ được hân hạnh làm công việc đó “vì trước kia, cụ đã làm thầy dạy người ta những sự lầm lạc, thì lúc này, cũng xin nhận việc đó để dạy lại người ta những điều chân thật”.

Chưa đủ, nhận thấy gian nhà của hai cha ở chật chội, dân chúng đến nghe giảng phải chen chúc nhau, cụ liền dâng cho hai cha một khu đất bên cạnh, để hai cha làm một nhà thờ rộng rãi và xứng đáng hơn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Chúa Giêsu mặc khải sự thật về Ngài


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

1. Bài đọc 1: Nhất trí với nhiều ngôn sứ khác, ngôn sứ Giêrêmia tiên báo Đấng Messia sẽ bị chống đối và bách hại bởi chính dân mình. Nhưng Ngài sẽ được Thiên Chúa nâng đỡ và cứu thoát.

2. Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu cố gắng làm cho người do thái hiểu Ngài là ai. Ngài nói hơi xa xôi: “Khi Abraham chưa sinh ra thì đã có Ta rồi”. Họ không hiểu mà còn lấy đá định ném Ngài. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói rõ: “Ta là Con Thiên Chúa”. Lần này, họ kết Ngài tội phạm thượng.

B.... nẩy mầm.

1. “Trong các cuộc tranh luận với người do thái, Chúa Giêsu đã mặc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan giữa Ngài với Chúa Cha: “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha”. Nhưng người do thái không thể hoặc không muốn tin vào Chúa. Họ vẫn khăng khăng coi Ngài chỉ là một con người. Do đó họ đã lượm đá ném Chúa vì cho Ngài lộng ngôn... Những người do thái này đã quá chìm sâu trong tội lỗi của họ. Họ không cảm thấy cần đến ơn cứu rỗi. Người kitô hữu chúng ta ngày nay cũng có thể bị ảnh hưởng bới tinh thần thế tục: chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu như một con người, một nhà cách mạng xã hội không hơn không kém. Chúng ta có thể bị cám dỗ lượm đá ném Chúa v2 những gì liên hệ đến Ngài” ("Mỗi ngày một tin vui")

2. Nhìn thấy sự khó tin của người do thái đối với Chúa Giêsu, rồi nhìn lại đức tin của mình sao mà dễ dàng quá: ngay từ khi mới sinh ra mình đã được biết Chúa và tin Chúa, ta không nhận ra đức tin là một hồng ân sao? Hãy cám ơn Chúa đã ban đức tin cho ta, và xin Ngài gìn giữ cho đức tin ấy khỏi bị lạc mất.

3. Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi:

- Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân đáp:

- Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ: áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu (Góp nhặt).

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa Giêsu các định: Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là Con Người


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Trong đoạn Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu Ngài là ai. Thế nhưng, người Do Thái đã không những đã không chịu hiểu mà còn lấy đá định ném Ngài. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói trắng ra: “Tôi là Con Thiên Chúa” (Ga 10,36). Lần này, họ kết tội là Ngài phạm thượng.

Nhìn thấy sự khó tin của người Do Thái đối với Chúa Giêsu, rồi nhìn lại đức tin của mình sao mà đức tin của chúng ta dễ dàng quá: ngay từ khi mới sinh ra chúng ta đã được biết Chúa và tin Chúa.

Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả một năm sau mới gia nhập đạo. Trong một buổi phục vụ, người da trắng hỏi:

- Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế ? Người thổ dân đáp:

- Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử kia hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình và tự nhủ: Áo mình còn đẹp, để mai hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm áo cũ kỹ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới ngay. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. (Góp nhặt)

Hãy cám ơn Chúa đã ban đức tin cho chúng ta và xin Ngài gìn giữ đức tin ấy khỏi bị lạc mất.

2. Chúng ta tin Chúa nhưng Chúa là gì đối với chúng ta ? Trả lời được câu hỏi này không phải là dễ.

Trong tập thơ “Cát và sóng”, một thi sĩ nọ đã viết một bài thơ về Chúa Giêsu với nội dung như sau:

Cứ mỗi trăm năm,

Chúa Giêsu của thành Nazareth lại gặp Chúa Giêsu của người Kitô hữu.

Hai bên đàm đạo với nhau thật lâu giờ.

Và cứ mỗi lần gặp gỡ như thế, Chúa Giêsu Nazareth lại từ giã Chúa Giêsu của người Kitô hữu bằng những lời thật buồn như thế này:

“Này bạn, tôi sợ rằng, chúng ta sẽ không bao giờ đồng ý với nhau”.

Chúa Giêsu, con người của lịch sử đã sinh ra cách đây hơn 2000 năm tại Nazareth. Con người đã từng sống và chết như một con người ấy, lại cũng chính là Thiên Chúa. Có lẽ chúng ta sẽ tự hỏi: Làm sao Ngài có thể vừa là Thiên Chúa, vừa là Con Người được ?

Xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội và của thế giới, đã không thiếu những người thắc mắc như thế.

Thế nhưng, đọc lại Tân Ước, chúng ta thấy Chúa đã quả quyết rất rõ: Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa là Con Người. Tiếng La tinh đã có một kiểu diễn tả rất hay về việc này: Homo-Deus. (Người-Chúa)

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật. Trong ba năm sống công khai, Ngài đã không ngừng xác quyết rằng: Ngài cao trọng hơn Abraham, tổ phụ người Do Thái, lớn hơn Môisen, người lãnh đạo cuộc giải phóng dân tộc Do Thái ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập. Ngài còn tự cho mình có quyền tha tội và là quan xét tối cao của người sống, kẻ chết. Ngài tuyên bố mình là Đấng sẽ sai Thánh Thần đến và ban sự sống vĩnh cửu. Ngài muốn người ta tin nhận Ngài như tin vào Thiên Chúa. Ngài đòi hỏi con người phải yêu mến Ngài đến hy sinh mạng sống mình. Ngài quả quyết Ngài và Thiên Chúa là một. Tất cả những lời tuyên bố trên đã được Chúa Giêsu chứng thực và xác nhận bằng các phép lạ, trong đó sự sống lại của Ngài là bằng chứng cao cả nhất về Thần Tính của Ngài.

Là Thiên Chúa thật, nhưng Chúa Giêsu cũng là một con người thật. Con người đó cũng có một thân xác như chúng ta. Về phương diện tình cảm, Ngài biết rung động trước vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên. Ngài nghiêng mình và xoa dịu những vết thương đau của nhân loại, nhất là những kẻ yếu đau và người tội lỗi. Dù vậy, Ngài luôn luôn tỏ ra cương quyết và chín chắn, hoàn toàn làm chủ được lời nói và hành động của mình. Thêm vào đó, Ngài cũng để lộ một trí thông minh vượt bực, nhưng dĩ nhiên Ngài cũng phải học biết dần dần nhờ các cơ năng cảm giác và óc lý luận. Thu nhận được những hiểu biết trong đời sống thường ngày của người Do Thái, Chúa Giêsu đã biết lợi dụng những hiểu biết đó để diễn tả tư tưởng của Ngài cho dễ hiểu hơn.

Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Cha F. Lelotte

Lạy Chúa, xin cho con một lòng trung tín mạnh hơn cả cái chết,
hơn những sự hăng hái chóng qua, ngắn ngủi,
hơn những việc làm hay một thành công sáng tỏ nào đó.
Ước gì sức toàn năng của Chúa
thổi vào và làm cháy đỏ lên trong con
lòng nhiệt thành và làm bừng lên những ngọn lửa sáng,
giữa những sự tối tăm bên ngoài.

Lạy Chúa, Vua của con, xin ban cho con ngọn lửa thánh,
một đức tin mạnh như vũ bão, một nguồn sống dồi dào,
để con có thể sống như một chứng nhân
cho sự hiện diện của Chúa giữa cuộc sống này. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Họ bắt Chúa, nhưng Chúa thoát đi nơi khác


(Lm Micae Thành Nhân)

Những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão và những người Do Thái khác không tin Chúa là Thiên Chúa thật. Họ phao tin này ra khắp mọi nơi. Họ có rất nhiều người cộng tác với họ để làm lan rộng chuyện này. Còn Chúa thì chẳng có ai  giúp đỡ Chúa để chứng minh Chúa là Thiên Chúa thật, quanh đi quẩn lại chỉ có mỗi mình Chúa là rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu chữa dân chúng mà thôi. Có chăng thì chỉ là ông Nicôđêmô, người gặp Chúa vào ban đêm (Ga 7, 52 – 53). Qua đó, chúng ta thấy họ mạnh mẽ về dư luận, đầy quyền thế, còn Chúa thì quá bé nhỏ với họ, thế mà họ lại lượm đá để ném Chúa, dường như họ đuối lý khi đối diện với Chúa, chất vấn Chúa.

Họ không tin Chúa đã vậy rồi, họ còn ném đá Chúa, thái độ của họ như là của những người vô học, làm càn, họ cứ cho là Chúa lộng ngôn, cho là Chúa ngang hàng với Thiên Chúa. Giả sử họ không tin vào lời nói của Chúa, nhưng những việc Chúa làm quá tốt đẹp, quá quyền uy thì họ phải tin vào Chúa là Thiên Chúa mới là đúng: “Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, thì hãy tin vào các việc đó để các ngươi biết rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha” (Ga 10, 37 – 38). Đàng khác, Chúa nói: “Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: Ta đã nói: Các ngươi là thần. Vậy sách luật gọi những kẻ được nghe Lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không hủy diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Đấng đã được Chúa Cha thánh hóa và sai đến trong trần gian rằng: Ông nói lộng ngôn, vì Ta đã nói: Ta là Con Thiên Chúa” (Ga 10, 34 – 36). Do đó, họ phải tin vào Chúa thì họ mới là “Thần”, còn nếu không tin Chúa thì giống như con vật một ngày kia phải chết (Tv 49, 13).

Trước sự cứng lòng tin của họ, họ tìm cách bắt Chúa để giết Chúa, Chúa lánh đi sang nơi khác: “Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả, và có nhiều kẻ tin theo Chúa” (Ga 10, 41 – 42). Như vậy, dù họ có ra sức cản trở Chúa, bắt bớ Chúa, chửi bới dân chúng vì dân theo Chúa mà bỏ họ…họ cũng chẳng làm gì được Chúa, dân chúng vẫn cứ theo Chúa, nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, thấy Chúa làm nhiều phép lạ, nhất là thấy được Chúa thương dân Chúa, giúp dân Chúa sống tốt hơn chứ không như họ là chất những gánh nặng lên đầu lên cổ người dân mà chính họ lại không đụng ngón tay để lay thử nặng hay nhẹ (Mt 23, 1 – 12), cho nên dân chúng tin Chúa quả là điều chính đáng.

Lạy Chúa, cuộc đời của chúng con trên trần gian này gặp biết bao nhiêu là những thử thách, gian nan, khốn khó, có những lúc dường như sức lực chúng con không thể nào chịu nỗi sức nặng của những điều ấy, chúng con khẩn cầu Chúa, xin Chúa ra tay nâng đỡ cứu giúp chúng con, vì Chúa là dũng lực, là đá tảng vững chắc để chúng con nương nhờ, xin Chúa phù hộ chúng con và chúng con nguyện suốt đời ca ngợi lòng từ bi thương xót của Chúa giữa môi trường chúng con đang sống. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Hưởng tự do đích thực


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Yếu hèn và tội lỗi, được thứ tha và giải thoát, nhờ Vị Thượng Tế dâng hy lễ hoàn hảo, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Đức Kitô là Thượng Tế đời đời. Vẻ huyền bí của vua Menkixêđê có thể giúp ta hiểu Đức Kitô quả là Vị Thượng Tế độc nhất vô song. Chỉ mình Người mới có thể dâng hy lễ hoàn hảo. Không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm thượng tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Muôn thuở Con sẽ là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê. Các tư tế Lêvi đã trở nên tư tế mà không có lời thề, còn Đức Giêsu đã trở nên tư tế thì lại có lời thề của Đấng nói với Người.

Yếu hèn và tội lỗi, được thứ tha và giải thoát, nhờ máu của Đức Kitô đã đổ ra để hòa giải ta với Cha, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Phungienxiô Rútpê nói: Đức Kitô đã tự hiến mình vì chúng ta… Anh em vốn là những người xa lạ, là thù địch của Thiên Chúa vì những tư tưởng và hành động xấu xa của anh em, nhưng, nhờ Đức Kitô là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được hòa giải với Người, để anh em trở nên tinh tuyền, thánh thiện, chẳng có chi đáng trách trước mặt Người. Thiên Chúa đã định cho Đức Kitô phải đổ máu mình ra làm hy lễ đem lại ơn tha tội cho những ai tin.

Yếu hèn và tội lỗi, được thứ tha và giải thoát, nhờ lòng trông cậy vững vàng đặt ở nơi Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Giêrêmia: Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 17, vịnh gia cho thấy: Lúc ngặt nghèo tôi kêu cầu Chúa: Người đã nghe tiếng tôi. Lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ. Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Chúa, Lời Chúa là Thần Khí và là Sự Sống; Chúa có những lời đem lại sự sống đời đời. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan tường thuật: Họ tìm cách bắt Đức Giêsu, nhưng, Người đã thoát khỏi tay họ. Đức Giêsu đã thoát khỏi tay họ, Người hoàn toàn tự do trước sự truy bắt của họ. Nếu Người không tự nguyện nộp mình cho họ, thì họ sẽ chẳng thể làm gì được Người. Đức Giêsu hoàn toàn tự do, bởi vì, Người hằng vâng phục thánh ý Chúa Cha, hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Cha. Chúng ta cũng sẽ được tự do như thế, nếu, chúng ta biết nuốt lấy thanh kiếm Thần Khí, và nuốt lấy lưỡi gươm Sự Sống là Lời Chúa, để lưỡi ta trở nên dao sắc bén chặt đứt mọi lời quyến dụ: khiến ta đánh mất sự tự do của con cái Thiên Chúa. Chúng ta được giải thoát nhờ Ngôi Lời của Thiên Chúa, chúng ta hãy vâng nghe lời Người: hãy nắm vững, đừng hoài nghi chút nào rằng: Đức Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã làm Người và hiến mình làm tế phẩm, và của lễ thơm tho ngào ngạt, dâng lên Thiên Chúa thay cho chúng ta. Các lễ tế xưa kia là hình bóng ám chỉ hồng ân sẽ được ban cho chúng ta, còn lễ tế mới này, lại nêu rõ hồng ân đã được ban cho chúng ta. Các lễ tế xưa tiên báo Con Thiên Chúa sẽ bị giết vì hạng người vô đạo, còn lễ tế mới này loan báo Người đã bị giết vì hạng người vô đạo. Khi chúng ta không có sức làm việc gì, vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta, và ngay khi, chúng ta còn là thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết, mà cho, chúng ta được hòa giải với Người. Chúng ta là những kẻ yếu hèn, đã sa vòng tội lỗi, ước gì chúng ta biết mở lòng đón nhận ơn thứ tha, và giải thoát của Chúa, để chúng ta được hưởng sự tự do đích thực. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 7: Thứ 7 MC 5 - 2025

Người công chính.
12/04 – Thứ Bảy tuần 5 mùa Chay.
"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".

 

Lời Chúa: Ga 11, 45-56


Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.
Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Chết thay cho dân


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Đức Giêsu đã từng nhiều lần bị tìm bắt, bị ném đá, bị đe dọa.
Nhưng đây là lần đầu tiên các thượng tế, các người Pharisêu
và Thượng Hội Đồng của Do thái giáo quyết định giết Ngài (c. 53).
Theo Tin Mừng Gioan, lý do gần nhất đưa đến quyết định đó
là việc Đức Giêsu làm cho anh Lazarô chết bốn ngày sống lại (Ga 11).
Sự sống lại của anh đã khiến cho nhiều kẻ tin vào Đức Giêsu.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo sợ rằng phong trào theo Giêsu sẽ tiếp tục bành trướng,
mọi người sẽ tin, và quân Rôma sẽ đến phá hủy đất nước và nơi thờ tự (c. 48).
Caipha là vị thượng tế đương nhiệm năm ấy.
Đứng trước sự lúng túng và lo âu của các thành viên trong Thượng Hội Đồng,
đột nhiên ông phát biểu như không cần suy nghĩ thêm gì nữa:
“Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (c. 50).
Lời phát biểu bộc phát như thế,
nào ngờ lại là một lời tiên tri thốt ra từ miệng một vị thượng tế.
Caipha chỉ muốn loại trừ Đức Giêsu để bảo đảm an ninh cho đất nước và Đền Thờ,
nhưng ông lại vô tình nói tiên tri về tính cứu độ của cái chết Đức Giêsu.
Cái chết ấy sẽ cứu cả dân tộc Do thái khỏi bị tiêu diệt,
Đức Giêsu chết thay cho dân của Ngài.
Nhưng Caipha không ngờ ảnh hưởng của cái chết ấy còn vượt xa hơn nhiều.
Ngài chết “không chỉ thay cho dân (Do thái) mà thôi,
nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.”
Cái chết ấy có khả năng quy tụ mọi kẻ tin vào Đức Giêsu
về một đoàn chiên duy nhất, kể cả dân ngoại (Ga 10, 16).
Cái chết ấy có khả năng kéo mọi người lên chẳng trừ ai (Ga 12, 32).
Đức Giêsu đã bị kết án ngay khi chưa có phiên tòa chính thức.
Ngài bị kết án tử vì đã trao ban sự sống cho một con người.
Cái chết của Ngài không ngăn cản được sự sụp đổ của thành Giêrusalem
và sự tan hoang của cả đất nước Do thái vào năm 70.
Nhưng cái chết ấy đã đem lại ơn cứu độ cho mọi người tin.
Hiệu quả của cái chết ấy vẫn còn mãi đến tận thế.
Đức Giêsu đã hiến mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người (Mc 10, 45).
Năm 2008 người ta xác định được 20 nhà truyền giáo bị giết trên thế giới.
Họ đã can đảm sống trong những hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm,
và đón nhận cái chết như cái giá phải trả cho tình yêu muốn phục vụ.
Có bao tín hữu vô danh khác vẫn âm thầm nếm cái chết hàng ngày,
chỉ vì muốn theo gương Thầy Giêsu đem sự sống cho anh em.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Qui về một mối


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ngày cuối cùng của mùa Chay, Cai-pha đã tuyên án: Chúa Giê-su phải chết thay cho toàn dân. Nhưng đó là: Để qui tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi về một mối. Như Ê-dê-ki-en tiên báo từ thời xa xưa: “Ta sẽ qui tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng về đất của chúng. Ta sẽ làm cho chúng thành một dân tộc duy nhất trong xứ..; tất cả chúng chỉ có một vua duy nhất”.

Lịch sử con người là lịch sử chia rẽ. Chia rẽ với Thiên Chúa. Nghe lời ma quỉ chống lại lệnh Chúa truyền. Chia rẽ với nhau. Ca-in đã giết A-ben. Và câu chuyện tháp Ba-ben còn đó. Bất hòa cả với thiên nhiên, cỏ cây, súc vật. Nên phải lao động vất vả đổ mồ hôi mới có thể đủ ăn. Chia rẽ với chính mình. Như thánh Phao-lô nói: Điều tốt tôi muốn tôi lại không làm. Điều xấu tôi không muốn thì tôi lại làm.

Chúa Giê-su chết để hòa giải con người với Thiên Chúa. Thánh giá là chiếc cầu nối. Chúa Giê-su là trưởng tử chí hiếu dắt đoàn em bất hiếu đông đảo trở về nhà Cha. Thánh giá là bàn hội nghị cho con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Thánh giá là giao ước mới, nơi Thiên Chúa một lần nữa ký kết yêu thương con người.

Chúa Giê-su chết để hòa giải con người với nhau. Con người muốn áp bức người khác, giết chết người khác để độc chiếm, bá chủ. Chúa Giê-su tự nguyện chịu chết trong tay loài người. Tự nguyện hạ mình phục vụ loài người. Tự nhận là tôi tớ rửa chân cho loài người. Để chuộc lại tội lỗi loài người. Để hòa giải con người với nhau.

Chúa Giê-su chết để hòa giải nội tâm con người. Để thống nhất con người. Chúa chiến thắng tính xác thịt, thế gian. Để trong con người từ nay được thống nhất. Không còn phân tán hai lòng hai ý. Nhưng chỉ có một con người vâng phục linh hồn. Và linh hồn vâng phục Thiên Chúa.

Thế giới hôm nay là một thế giới phân rẽ đầy mâu thuẫn. Con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa nhưng lại qui phục những mê tín dị đoan. Con người cần lẫn nhau nhưng lại khai thác bóc lột nhau. Con người mơ ước gia đình hạnh phúc, nhưng lại cổ võ li dị. Thế giới e ngại tương lai chỉ toàn người già, nhưng không ai chịu sinh con. Con người muốn hưởng thụ khí lành, cây xanh, nhưng không ngừng tàn phá thiên nhiên và khí quyển. Ai cũng muốn được xưng tụng là người tốt, là ân nhân của nhân loại, nhưng lại làm những việc xấu xa, tàn phá con người. Trong tình hình đó, cần có những con người noi gương Chúa Giê-su để hàn gắn lại những chia rẽ, phân tán trong thế giới.

------------------------------

 

Suy Niệm 3: Người công chính


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tác giả thánh vịnh 58 đã có lời cầu nguyện như sau:

Lạy Thiên Chúa của con
Xin cứu con khỏi kẻ địch thù
Bênh đỡ con chống lại kẻ tấn công
Cứu vớt con khỏi vòng gian ác,
Giải thoát con khỏi bọn giết người.
Kìa mạng con, chúng rình hãm hại,
Lũ cường quyền xúm lại chống con.

Ðây là tâm trạng của một người công chính bị kẻ gian ác hùa nhau mưu hại. Tâm trạng này phù hợp với tâm trạng của Chúa Giêsu trong những ngày cuối cùng của Người ở trần gian. Sau ba năm vất vả để rao giảng Tin Mừng Cứu Ðộ và thi ân giáng phúc, Chúa Giêsu phải đối diện với một thực trạng đáng buồn. Những cố gắng của Người chỉ được những kẻ thành tâm thiện chí đón nhận, mà đa số thuộc thành phần nghèo khổ, bất hạnh. Còn những kẻ có vai vế, những kẻ tự xưng là đạo đức, là có học vấn thì lại chống đối Người. Nếu chỉ xét về bên ngoài thì công lao của Chúa ví như muối bỏ biển. Nhìn từ góc độ con người thì góc độ cứu độ của Chúa Cha dường như chẳng mang lại kết quả bao nhiêu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa bị những người Do Thái tìm cách khử trừ, vì Chúa không những không đáp ứng nguyện vọng của họ mà lại còn tạo nên xáo trộn bất lợi cho cuộc sống của họ nữa. Họ mong chờ một vị cứu tinh, nhưng vị cứu tinh này phải phù hợp với sở thích của họ, phải mang lại cho họ thấy được những quyền lợi trước mắt, phải làm cho cuộc sống trần thế của họ trở nên thoải mái hơn. Chúa làm cho họ thất vọng thế là họ loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống. Ngày hôm nay, hai mươi thế kỷ sau ngày Chúa chịu chết và sống lại, Chúa vẫn tiếp tục bị tẩy chay, bị loại trừ và điều đáng buồn nhất là Chúa bị loại trừ bởi chính những người mang danh hiệu là người Kitô, trong số đó có con. Con loại trừ Chúa khi con không sống theo tinh thần Tám mối phúc thật; con loại trừ Chúa khi con chạy theo những thú vui vật chất, khi con tôn vinh những gì thỏa mãn ước mơ trần thế của con. Con xưng mình là người có đạo, nhưng con lại đi tìm một cứu Chúa không phải là Chúa Giêsu Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương cứu con khỏi những ràng buộc hư ảo ấy. Xin cho con luôn luôn tôn thờ và tin yêu Chúa là Cứu Chúa duy nhất chân thật của con.

------------------------------

 

Suy Niệm 4: Chết thay người khác.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Cha Maximilien Kolbe, người Ba Lan, là một tu sĩ Phanxicô rất hăng say hoạt động. Cha đã tình nguyện sang truyền giáo tại Nhật trong ngành ấn loát. Nhưng sau vì bệnh lao phổi, cha phải về Ba Lan điều trị. Vào thế chiến thứ hai, vì thấy cha có ảnh hưởng mạnh trên quân chúng. Đức quốc xã đã bắt cha và giam vào tù, tại đây cha đã tình nguyện chết thay cho một người bạn đồng tù.

Phải chết thay người khác có thể là một hành động do hận thù bất công, nhưng với tình yêu Chúa, người Kitô hữu có thể hiến mạng sống mình cho người khác. Chính Chúa Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này: những người Do Thái không tin đã bắt Chúa phải chết thay để người Rôma khỏi hủy diệt dân tộc Do Thái, nhưng trong chương trình cứu độ, Ngài đã chấp nhận hiến mạng sống mình để mọi người được sống.

Những người Do Thái đã nhìn hành động của Chúa theo mầu sắc chính trị. Họ đã thắc mắc: “Ta phải làm gì? Vì con người ấy làm nhiều sự lạ. Nếu cứ để như vậy, mọi người sẽ tin vào ông ta và quân Rôma sẽ đến hủy diệt nơi thánh và dân tộc ta”. Lý luận của người Do Thái không tin thật lộn xộn: Dân chúng tin theo Chúa là việc tôn giáo, quân Rôma đến phá hủy là việc chính trị, làm sao việc tôn giáo lại kéo theo hậu quả chính trị như thế được. Vả lại chính quyền Rôma lúc đó cho người Do Thái được tự do hành đạo, và chính Tổng trấn Philatô sau này cũng đâu muốn kết án Chúa vì lý do tôn giáo. Người Do Thái đã phải tố cáo Chúa về tội chính trị: xúi dân làm loạn, không nộp thuế cho Hoàng đế César. Thật là trớ trêu, nhưng Chúa đã không phản đối. Ngài chấp nhận một cái chết bất công để biến nó thành cái chết hy sinh cứu chuộc nhiều người.

Tác giả tập sách Đường Hy vọng khuyên: “Đây là bằng chứng để biết được lòng mến, đó là Đấng ấy đã thí mạng vì ta và ta cũng phải thí mạng vì anh em. Con hỏi cha: đâu là mức độ dấn thân? Hãy làm như Chúa Giêsu… Cuộc đời con phải hiến dâng để bắt nhịp cầu hy vọng đưa người khác đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả. Nơi Chúa, nhân loại không còn ai xa lạ, nhưng tất cả là anh em. Con nắm vững một đường lối Tông đồ thí mạng vì anh em, con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục người khác về với Chúa”.

------------------------------

 

Suy Niệm 5: Đồng thuyền đồng hội


Trong một số người Do-thái đến thăm Ma-ri-a và được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. Nhưng Cai-pha một người trong thượng hội đồng nói rằng: “Các ông không hiểu gì cả, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối”. (Ga. 11, 45-49b-52)

Lý do người ta quy định với nhau là giống nhau, như câu châm ngôn: “Đồng thuyền, đồng hội”. Nhiều người Kitô không còn cảm nhận được hương vị tình thương của Thiên Chúa và cộng đồng dân Chúa đã làm cho họ nên giống nhau, và cần phải quy tụ lại với nhau, nhất là trong Thánh lễ ngày Chúa nhật. Nhưng hơn bao giờ hết, họ sống cô độc, chỉ vì họ khó chịu khi mang nhãn hiệu Kitô giáo. Nhiều kẻ bị thuyết phục theo chủ trương rằng: Tôn giáo là việc bản thân mỗi người, chỉ cần liên lạc chặt chẽ giữa Thiên Chúa với cá nhân thôi.

Chúng ta bỏ mất lãnh vực sống cộng đồng đức tin là chúng ta vi phạm nghiêm trọng đến kế hoạch cứu độ cộng đồng rất quý của Thiên Chúa: Ngài quy tụ chúng ta thành một gia đình trong an bình và tình yêu, để mọi người là anh em với nhau chung quanh một người Cha duy nhất của chúng ta là Thiên Chúa hằng sống.

Trước thời đại Tân ước của chúng ta, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch này rồi. Qua miệng ngôn sứ Ê-giê-ki-en, Thiên Chúa đã nói với con cái Ít-ra-en rằng: “Ta sẽ quy tụ các ngươi khắp nơi vào một xứ sở. Ta sẽ làm nên một dân tộc độc nhất trong xứ sở đó … và chỉ có một vua là vua tất cả”. Điều Thiên Chúa nói thì Ngài đã làm: “Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối”. Thánh Gio-an đã nhắc nhở chúng ta như vậy.

Để đạt tới sự đồng hội này, chúng ta có nhiều tác nhân giúp đỡ: “Chỉ một Thiên Chúa, chỉ một đức tin, chỉ một phép Rửa, chỉ một Thiên Chúa là Cha tất cả chúng ta” (Eph. 4, 5).

Cho nên hơn bao giờ hết, những từ: tình huynh đệ, hòa bình và hợp nhất đang vắng vẻ bên tai những người đồng thời chúng ta. Nhưng cũng hơn bao giờ hết vẫn có sự hiểu lầm, chiến tranh và chia rẽ.

Có lẽ thời đại của chúng ta rất lo lắng thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng niềm hy vọng thực hiện tình huynh đệ cũng khó khăn và xa lạ hơn mọi thời khác. Chúng ta mong hòa bình mà chỉ thấy tái võ trang, mong hợp nhất mà chỉ thấy chia rẽ trước mắt chúng ta. “Ai gieo giống nào thì gặt giống ấy” (Gal. 6, 7).

J.M

------------------------------

 

Suy Niệm 6: Một người chết, toàn dân được nhờ


Câu chuyện Đức Giêsu đến Bêtania và làm phép lạ cho Ladarô sống lại đã làm rúng động trong dân chúng và nhiều người đã tin vào Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài.

Chính vì điều này mà cuộc thương khó của Đức Giêsu ngày càng gần kề. Sự kiện này được đánh dấu bằng việc những nhà cầm quyền và các Thượng Tế quyết định họp Hội Đồng và ra lệnh bắt, giết Đức Giêsu. Họ đã ra lệnh truy nã đối với Ngài: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.

Lý do họ bắt và quyết định giết Đức Giêsu là vì họ đã ghép cho Ngài cái tội chính trị. Họ nói: “Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta". Rồi một câu nói đầy uy lực của nhóm Thượng Tế mà Caipha là đại diện đã đem đến quyết định loại trừ Đức Giêsu: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt".

Tuy nhiên, thực tế thì lý do chính yếu khiến họ giết Đức Giêsu đó là sự ghen tỵ và sợ bại lộ lối sống hình thức và mất uy tín trong dân, đồng thời sợ bị mất lợi lộc mà các Thượng Tế đang được hưởng.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người hãy ý thức lại việc sống đạo bấy lâu nay: có bao giờ chúng ta theo Chúa chỉ vì muốn được hưởng lợi lộc trần gian? Nếu vì giá trị Tin Mừng đòi ta phải từ bỏ lối sống và hành vi không phù hợp, liệu chúng ta có sẵn sàng không? Hay có khi nào chúng ta cũng vì ghen tức mà loại bỏ anh chị em mình như những Pharisêu và Kinh Sư hôm nay đối với Đức Giêsu?

Lạy Chúa Giêsu, sự thật mà Chúa muốn chúng con sống, đòi hỏi chúng con phải có quyết tâm cao thượng mới có thể đi vào đường lối đó được. Vì thế, xin Chúa ban cho chúng con can đảm sống giá trị Tin Mừng dù có phải thiệt thòi. Amen.

Ngọc Biển SSP

------------------------------

 

Suy Niệm 7: Quy tụ mọi người thành cộng đoàn con cái Thiên Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)      

Sứ điệp: Người Do thái quyết định giết Chúa Giêsu để toàn dân khỏi chịu hiểm họa. Nhưng thực ra Chúa chịu chết để ta được sống và để quy tụ mọi người thành cộng đoàn con cái Thiên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong những ngày cuối cùng của mùa chay, con đang được sống lại những ngày cuối cùng của Chúa trên trần gian. Một bầu khí ảm đạm u buồn bao quanh cuộc đời Chúa và bao trùm Hội Thánh trong những giờ phút linh thiêng này. Cuộc đời Chúa là cuộc đời phục vụ trong yêu thương nhằm giải phóng con người khỏi những ách nô lệ ngàn đời đang đè bẹp con người trong đau khổ. Nhưng những kẻ giả hình có chức, có quyền, cả đạo lẫn đời thời đó không chấp nhận được Tin Mừng yêu thương của Chúa. Và người ta đã không tiếp nhận Ánh Sáng và muốn tiêu diệt Ánh Sáng.

Nhưng lạy Chúa, ánh sáng Chúa đã chiến thắng và buộc con đặt lại vấn đề về cuộc sống con. Con tự hỏi phải sống thế nào để cái chết của Chúa không luống công vô ích. Người Do thái tưởng rằng sẽ đè bẹp được chân lý cứu độ bằng cái chết ô nhục, nhưng sự sống mới của Thánh Linh và ân sủng cứu độ đã chiến thắng.

Chúa đã chết cho con được sống và sống dồi dào, nhưng truớc hết xin Chúa cho con hòa nhập vào cái chết của Chúa. Xin cho con chết đi với những ham muốn tội lỗi, xa tránh con đường dục vọng thênh thang của tiền tài, danh vọng và ích kỷ. Xin Chúa cho con biết xé lòng ra mà sám hối, mở sáng con mắt đức tin để kính thờ Chúa, mở rộng cõi lòng để nhận nguồn sống của tình yêu. Con xin tự thánh hiến mình trong mầu nhiệm Tử nạn của Chúa, để nhờ đó làm cho tình yêu và hồng ân cứu độ của Chúa thấm nhuần cuộc đời của con và của anh chị em con. Có như thế, cái chết của Chúa mới thực sự cứu rỗi con, và con được thực sự buớc vào vinh quang phục sinh cùng Chúa muôn đời. Amen.

Ghi nhớ: “Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối”.

------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chết thay cho dân


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trong thời thế chiến II, quân đội phát xít Ðức đã chiếm đóng Ba Lan, thấy cha Maximilianô Kolbe có ảnh hưởng mạnh trên quần chúng, nên đã bắt giam cha vào ngục.

Một ngày nọ, trại giam của cha có một tù nhân vượt ngục. Sáng hôm sau, lúc điểm danh viên sĩ quan cai tù phát giác ra thiếu mất một người, viên sĩ quan liền áp dụng ngay luật lệ của phát xít Ðức: “Hễ một tù nhân trốn thoát thì mười tù nhân khác phải đền mạng”. Viên sĩ quan cai tù đang rảo bước gọi tên chọn mười tù nhân sẽ phải chết, chợt có tiếng kêu thất thanh: “Khốn cho tôi, tôi còn vợ và một đàn con nhỏ”.

Giữa bầu khí thinh lặng và rùng rợn ấy, một tù nhân đứng ra khỏi hàng, đứng im một cách nghiêm chỉnh. Viên sĩ quan Ðức quát lớn và hỏi: “Mi là ai?”. Người đứng ra khỏi hàng ấy trả lời: “Tôi là Maximilianô Kolbe, linh mục Công giáo”.

“Mi muốn gì?”. Cha Maximilianô Kolbe trả lời: “Tôi xin tự nguyện chết thay cho anh bạn tù này”. Viên sĩ quan nói tiếp: “Vào xếp hàng thế chỗ đi”.

Mọi tù nhân có mặt trên sân đều ngơ ngác ngạc nhiên và thán phục. Cha Maximilianô Kolbe đã chấp nhận chết thay cho người bạn tù…

Suy Niệm

Một số người Do Thái thấy phép lạ Đức Giêsu làm cho Ladarô chết chôn trong mồ được bốn ngày, được sống lại, nên tin vào Ngài. Nhưng nhóm chống đối lại càng thêm tức tối, vì lòng cố chấp, cùng với Thượng hội đồng kết án tử cho Đức Giêsu: “Từ ngày đó họ quyết định giết Chúa Giêsu”.

Ý kiến của thượng tế Caipha: “Thà một người chết thay còn hơn cả toàn dân bị tiêu diệt” là lời tiên tri về cái chết của Ðức Giêsu đem lại ơn cứu độ cho nhân loại như vị Tiền hô Gioan giới thiệu về Đức Giêsu: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Chính Chúa Giêsu chết thay cho cả dân tộc và hơn thế nữa, cho toàn nhân loại được giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi và trở về với Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Mình cho thế gian, để ai tin vào Người Con đó thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Ðức Giêsu chết thay cho mọi người. Vì thế, cái chết của Ngài mới có ý nghĩa. Và khi sống lại Ngài cũng làm cho sự sống của mọi người trọn vẹn.

“Chết thay”, dưới con mắt người trần thế là hành động do hận thù, bất công, nhưng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa đây là tình yêu dâng hiến: Đức Kitô chết để mọi người được sống…

Trong lúc có những người Do Thái không tin vào Chúa Giêsu, người Kitô hữu theo gương Chúa Kitô hiến mạng sống mình vì hạnh phúc cho anh chị em. Ðó là một hành động của tình thương và nó sẽ khơi dậy những chuỗi tình thương tiếp nối theo gương Chúa Giêsu Kitô.

Vâng, lạy Chúa, nhìn lên Thập Giá Chúa, Ðấng đã chịu chết thay cho chúng con, vì thế con cũng được mời gọi sống như Chúa cho anh em.

Ý lực sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Đức Giêsu chết thay cho dân


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Phép lạ Đức Giêsu làm cho Lazarô phục sinh làm cho nhiều người Do thái tin Ngài, nhưng cũng không ít người còn nghi ngờ. Có người đi kể lại với các thượng tế và nhóm biệt phái về những việc Ngài đã làm. Nhóm biệt phái và thượng tế quyết định lập một Thượng hội đồng để kết án tử Đức Giêsu. Ông Cai-pha đã nói: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” ... “...Với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói triên tri rằng Đức Giêsu phải chết thay cho dân. Và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối.

2. Đức Giêsu là người công chính đã bị các kẻ gian ác hùa nhau mưu hại. Tâm trạng này phù hợp với Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng của Ngài ở trần gian. Sau ba năm vất vả để rao giảng Tin Mừng Cứu độ và thi ân giáng phúc, Đức Giêsu phải đối diện  với một thực trạng đáng buồn. Những cố gắng của Ngài chỉ được những kẻ thành tâm thiện chí đón nhận, mà đa số thuộc thành phần nghèo khổ, bất hạnh. Còn những kẻ có vai vế, những kẻ tự xưng là đạo đức, là có học vấn thì lại chống đối Ngài. Nếu chỉ xét về bên ngoài thì công lao của Chúa ví như muối bỏ biển. Nhìn từ góc độ con người thì góc độ cứu độ của Chúa Cha dường như chẳng mang lại kết quả bao nhiêu.

3. Trong bất cứ xã hội nào, ngày xưa cũng như ngày nay, độc lập, tự do, quyền lợi của quốc gia dân tộc, thường được người ta nại đến để biện minh cho chiến tranh và việc giết hại người vô tội, chẳng hạn hy sinh một mạng người có là gì, miễn là có lợi cho quốc gia và dân tộc.

Bài Tin mừng hôm nay cho thấy lý do tại sao người Do thái không tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa. Họ không tin nhận vì họ đứng ở vị thế chính trị: Họ mong đợi một Đấng Cứu Thế giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại bang, trong khi đó, Đức Giêsu lại đứng ở vị thế hoàn toàn tôn giáo. Ngài đến để giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi.

Chứng kiến việc Đức Giêsu cho Lazarô đã chết bốn ngày được sống lại, có nhiều người Do thái tin vào Ngài. Nhưng các thượng tế và biệt phái lại sợ rằng Ngài càng làm nhiều phép lạ, dân chúng càng tin theo Ngài, thì chính quyền Rôma  sẽ đến tiêu diệt dân tộc, nên họ bàn luận và quyết định: “Thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. Người đó không ai khác hơn là Đức Giêsu, một mình Ngài hy sinh chịu chết để đem lại sự sống cho muôn người.

4. “Thà một người chết thay cho dân...”

Đức Giêsu đã hy sinh chịu chết để cứu độ toàn thể nhân loại và qui tụ muôn dân thành một dân mới của Thiên Chúa là Giáo hội. Thật là một thay thế lạ lùng: chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể thay thế cho mọi người, và vô tình sự tính toán vụ lợi của con người đã giúp Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài.

Cái chết của Đức Giêsu qui tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi về một mối.

Trong bài giảng về “mục tử nhân lành”, Đức Giêsu từng nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Như vậy, sau cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, một dân mới của Thiên Chúa được khai mở, không còn bị giới hạn trong dân tộc Israel nữa; con cháu của tổ phụ Abraham không chỉ thuộc huyết thống nữa mà là những ai tin vào Con Thiên Chúa; một cuộc tân sáng tạo bắt đầu, mọi Kitô hữu khắp nơi trên thế giới được sinh ra dưới chân thập giá và xuất phát từ cạnh sườn Đức Giêsu. Sự sáng tạo ban đầu đã nhiệm lạ, thì ơn cứu độ còn lạ lùng biết bao (Mỗi ngày một tin vui).

5. Một nông dân đi xe ngựa ra phố. Đến một cửa tiệm, ông dừng xe vào mua đồ. Ông vừa tới cửa thì con ngựa hí lên và bỏ chạy. Ông vội vàng chạy ra xiết chặt dây cương.

Con ngựa càng hoảng sợ hơn và chạy tứ tung trên đường, kéo theo người nông dân tội nghiệp. Dân chúng đổ xô ra, đến khi ghìm được ngựa thì người nông dân bê bết máu và thoi thóp thở. Một người hỏi: “Sao mà ông dại dột hy sinh đời mình vì con ngựa và chiếc xe như thế”?

Ông thều thào: “Cứ nhìn vào trong xe thì biết”!

Họ nhìn vào và thấy đứa con nhỏ của ông còn đang ngủ (Góp nhặt).

6. Truyện: Cha Maximilien Kolbe chết thay người tù.

Trong thế chiến thứ hai, ngày nọ trại giam có một tù nhân vượt ngục. Sáng hôm sau, lúc điểm danh thấy thiếu mất một người, viên sĩ quan áp dụng ngay luật lệ của phát xít Đức: Một tù nhân trốn thoát, mười tù nhân khác phải đền mạng.

Trên sân nhà tù, ai nấy đều thinh lặng, ai nấy đều lặng thinh và khiếp đảm. Viên sĩ quan coi tù vừa giận dữ rảo bước vừa giơ tay chỉ định: Tên này... tên này...tên này... Ai lâm vào sổ đoạn trường thì phải sang sắp hàng một bên. Chợt có tiếng kêu thất thanh: “Khốn cho tôi, tôi còn vợ và một đàn con nhỏ”.

Giữa bầu khí thinh lặng rùng rợn ấy, một tù nhân bước ra khỏi hàng, đứng nghiêm nghị. Viên sĩ quan Đức quát hỏi:  “Mi là ai”?

Maximilien Kolbe trả lời: “Linh mục Công giáo”.

“Mi muốn gì”?

“Tôi xin tình nguyện chết thay cho anh bạn tù này,  vì anh ta còn đàn con nhỏ và vợ dại”.

Mọi tù nhân có mặt trên sân đều ngơ ngẩn, ngạc nhiên, thán phục... Cha đã chết thay để trở nên chứng tích của tình yêu.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Một người chết thay cho dân


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

1. Bài Tin Mừng: Các thượng tế và biệt phái hạ quyết tâm giết Chúa Giêsu. Thượng tế Caipha nói “Thà một người chết thay cho dân...”. Thánh Gioan hiểu lời này, tuy Caipha nói ra một cách vô ý thức, nhưng thực sự diễn tả rất đúng ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu: “Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân. Và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối”.

2. Lời tiên tri trên chính là lời của Giêrêmia, được thuật lại trong bài đọc 1: Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương”. Giêrêmia chỉ mới hiểu những kẻ mà Thiên Chúa quy tự là dân Israel mà thôi. Thực sự dân mới của Thiên Chúa mà Đức Giêsu dùng cái chết để quy tụ không chỉ là những người Israel, mà còn là tất cả những ai tin vào Ngài.

B.... nẩy mầm.

1. “... Với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân. Và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối”. Trong số những người được Chúa chết thay, có tôi nữa.

2. Chúa Giêsu đã chịu chết thay cho người khác. Ngài nêu lên cho chúng ta một lý tưởng rất đẹp mà sự khôn ngoan của thế gian không bao giờ nghĩ tới được. Nếu hôm nay tôi chưa chết thay cho người khác được, thì ít ra hãy tập những hành vi nho nhỏ chịu cực chịu khổ vì người khác, cho người khác và thay người khác.

3. Một nông dân đi xe ngựa ra phố. Đến một cửa tiệm, ông dừng xe vào mua đồ. Ông vừa tới cửa thì con ngựa hí lên và bỏ chạy. Ông vội vàng chạy ra xiết chặt dây cương.

Con ngựa càng hoảng sợ hơn và chạy tứ tung trên đường, kéo theo người nông dân tội nghiệp. Dân chúng đổ xô ra, đến khi ghìm được ngựa thì người nông dân bê bết máu và thoi thóp thở. Một người hỏi: “Sao mà ông dại dột hi sinh đời mình vì con ngựa và chiếc xe như thế?"

Ông thều thào : “Cứ nhìn vào trong xe thì biết!"

Họ nhìn vào và thấy đứa con nhỏ của ông còn đang ngủ. (Góp nhặt)

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa Giêsu đã chịu chết thay


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Bài Tin Mừng: các thượng tế và Pharisêu hạ quyết tâm giết Chúa. Thượng tế Caipha nói: “Thà một người chết thay cho dân” (Ga 11,50).

Vâng! Chúa Giêsu đã chịu chết thay cho người khác qua đó rõ ràng là Chúa muốn cho chúng ta thấy một hành động lý tưởng mà sự khôn ngoan của chúng ta không nghĩ tới được.

Ngày kia giáo trưởng Alihamet dõng dạc tuyên bố với các đệ tử của ông:

- Ta thấy đã đến lúc chúng ta lại phải lên đường. Ta không biết những gì sẽ xảy ra. Các ngươi hãy tuân giữ những điều ta đã truyền dạy. Và các ngươi hãy nhớ kỹ điều này: Trong bất cứ cảnh huống nào, hễ ta giơ tay lên trời thì các ngươi hãy hô lớn: “Tôi chết thay cho thầy tôi!”.

Đám môn sinh nhận thấy không thể chấp nhận được một lệnh truyền điên rồ như thế. Tất cả đều rút lui. Chỉ có một người dám chấp nhận và quyết tâm đi theo thầy.

Hai thầy trò lên đường và không biết sẽ đi về đâu. Họ đi mãi cho đến lúc tới một thành phố do một bạo chúa cai trị. Bạo chúa này đã ra lệnh cho binh lính: “Các ngươi phải bắt tên du thủ du thực đầu tiên nào mà các ngươi gặp và điệu tới cho ta. Ta muốn treo cổ hắn để làm một bài học cho bọn vô lại trong thành phố này”.

Thế là, khi vừa đặt chân tới cổng thành, người đệ tử của vị giáo trưởng liền bị lính bắt và điệu tới trước mặt bạo chúa.

Lúc cuộc hành quyết sắp bắt đầu thì vị giáo trưởng mới xuất hiện giữa đám đông và hô lớn:

-Thưa ngài, xin hãy giết tôi. Vì chính tôi đã dụ dỗ người thanh niên này bỏ nhà ra đi để sống cuộc đời lang thang như tôi.

Nói xong, ông giơ tay lên trời.

Vừa thấy cử chỉ ấy của thầy mình, người đệ tử liền hô lên:

- Thưa quan lớn, tôi muốn chết thay cho thầy tôi.

Nghe thế, bạo chúa lấy làm lạ, ông mới hỏi các viên cố vấn:

- Chúng là ai mà lại sẵn sàng chết thay cho nhau như thế ?

Các cận vệ đều ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ bạo chúa đòi điệu giáo trưởng đến và yêu cầu giải thích lý do.

Vị giáo trưởng bình thản trả lời:

- Thưa quan lớn, chúng tôi có nghe nói rằng, bất cứ ai bị giết trong thành phố này đều được phúc trường sinh bất tử. Vì thế mà thầy trò chúng tôi đã hăm hở tới đây để được chết.

Nghe thế, bạo chúa mỉm cười và ra lệnh thả tự do cho hai người. Cũng lúc ấy, người đệ tử chợt hiểu rằng, ai dám hy sinh mạng sống vì người khác thì sẽ tìm lại được.

2. Và câu chuyện có thật sau đây còn kỳ diệu hơn.

Bác sĩ Duan Cortez viết một bức thư cho tờ báo y học Medimundo ở Nam Mỹ.

- Tôi không thể giải thích được hiện tượng này, tôi đã khám nghiệm và tuyên bố đứa bé đã chết, nhưng vài giờ sau em bé này đã sống lại và mẹ em đã chết, cứ như là bà ta đã hút căn bệnh ung thư ra khỏi xác chết của con gái qua cơ thể bà.

Bé Argelina sống ở thành phố Darila, Argelina, đã can đảm chấp nhận chịu đựng chứng bệnh ung thư bao tử hơn hai năm nay (trường hợp ung thư rất hiếm xảy ra cho người dưới 30 tuổi). Sau nhiều cuộc giải phẫu và nhiều cách điều trị với tất cả mọi cố gắng, Bác sĩ Cortez đã phải báo tin buồn cho bà Maria rằng: ông ta đã bó tay và bé Argelina đã chết!

Theo lời Bác sĩ Cortez, bà Maria đã hóa điên cuồng khi nghe tin. Bức thư viết tiếp:

“Bà không cho bất cứ ai đụng đến thi thể con gái, bà chỉ quỳ bên giường đứa bé đã chết và cầu nguyện. Chúng tôi nghe bà cầu nguyện xin Thượng Đế để cho bà chết thay cho con. Tôi nghĩ nên tránh đi một lát để mặc bà một mình với đứa bé đáng thương đó. Tôi bảo các y tá cùng ra khỏi căn phòng với tôi, khi trở lại tôi không tin vào mắt mình nữa: Argelina đang đứng cạnh giường, trông rất rực rỡ và khỏe mạnh. Bà mẹ đang gục đầu trên giường, hầu như không thể cử động! Bà thều thào nói với tôi:

- Thưa Bác sĩ, Thượng Đế đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi.

Bác sĩ Cortez nửa kinh ngạc, nửa hoài nghi. Ông cho khám nghiệm bé Argelina và thấy rằng, cô bé hoàn toàn khỏe mạnh, không dấu vết nào của bệnh ung thư còn sót lại trong cơ thể. Một loạt những xét nghiệm tiếp theo, ông thấy bà Maria sắp chết vì chứng bệnh ung thư bao tử mà nó đã giết chết con gái bà. Các thân nhân của bà Maria cũng kinh hoảng, họ đến bên giường để trấn an bà, hứa sẽ nuôi nấng dạy dỗ bé gái nên người. Bà Maria chết sau đó vài giờ.

Bác sĩ Cortez nói:

- Tôi không thể giải thích hiện tượng này trên phương diện y học. Thực sự đây là một phép mầu, vì rõ ràng là bé Argelina đã chết. Có lẽ, tôi chưa hiểu hết sức mạnh của tình mẫu tử hoặc một thế lực siêu-tự-nhiên nào đó!

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu lời thánh Phanxicô: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa qui tụ mọi người lại bên Chúa


(Lm Micae Thành Nhân)

Chúng ta biết ngày Chúa chịu chết để cứu chuộc con người chúng ta đã gần đến rồi. Chúng ta hãy cố gắng tận dụng những ngày này để chay tịnh, cầu nguyện và làm nhiều việc từ thiện bác ái hơn nữa, góp một phần nhỏ nhoi những hy sinh của chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa, an ủi Chúa và xin ơn phần rỗi cho chúng ta và cho mọi người đang sống trên trần gian này đây.

Chúng ta biết được như vậy là nhờ trong bài Tin Mừng hôm nay, ở ngoài xã hội lúc này, ảnh hưởng của Chúa thật quá lớn trong lòng dân chúng: “Khi ấy, trong những người đến thăm Maria, có nhiều người tin vào Chúa Giêsu” (Ga 11, 45), hoặc nữa là : “Khi đó đã gần lễ Vượt Qua của người Do Thái, có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không” (Ga 11, 55 – 56). Do đó, nếu cứ để Chúa được tự do đi đó đây rao giảng Tin Mừng thì sẽ không được rồi, vì dân chúng sẽ theo Chúa càng nhiều hơn nữa. Lúc trước có năm ba người họp nhau để mà cấu kết chống phá Chúa, nhưng bây giờ vì họ nghĩ phải loại trừ Chúa càng sớm càng tốt cho nên họ đã họp công nghị và đồng lòng nói: “Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này lảm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo, và quân Rôma sẽ kéo đến phá hủy nơi nầy và dân tộc ta” (Ga 11, 47 – 48). Như vậy, chắc chắn là họ sẽ giết Chúa rồi. Nhưng để tránh việc giết Chúa mang vấn đề tôn giáo, họ đẩy sang việc giết Chúa mang màu sắc chính trị là do sợ quân Rôma nhân chuyện này sẽ kéo qua phá hủy thành quách của họ. Họ đã mưu mô lái dư luận sang một hướng khác theo ý đồ của họ, để rồi họ mạnh dạn ra lệnh truy nã Chúa: “Các thượng tề và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu thì phải tố cáo để họ bắt Người” (Ga 11, 56).

Như vậy, Chúa sẽ chịu chết để cứu chúng ta, nhưng còn một điều quan trọng nữa là qua cái chết của Chúa, Chúa sẽ qui tụ tất cả con người chúng ta đang tản mác khắp nơi trên thế giới do tội lỗi gây ra về bên Chúa, cho dù những người biệt phái, luật sỹ hay một thế lực nào đi nữa cũng sẽ không phá nát được: “Quý vị không hiểu gì cả ! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị diệt. Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối” (Ga 11, 49 – 52).

Lạy Chúa, nhờ Chúa chịu chết mà chúng con được sống, được Chúa qui tụ về bên Chúa, xin Chúa thương an ủi đỡ nâng chúng con, đổi những đau thương, vấp ngã của cuộc đời chúng con thành những niềm vui, hy vọng, hân hoan và giúp chúng con vượt qua hết những bất trắc đó mà sống tin yêu, phó thác, thủy chung với Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Quy tụ về một mối


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Bảy Tuần 5 Mùa Chay này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa không ngừng hoạt động để cứu độ trần gian, nhưng trong những ngày này, Chúa còn ban tặng cho chúng ta những ân sủng dồi dào gấp bội. Xin Chúa đoái nhìn và chở che toàn thể con cái Chúa, đặc biệt là những anh chị em sắp được tái sinh trong Bí Tích Thánh Tẩy.

Xin Chúa đoái nhìn và chở che, để ta được hưởng những lời hứa tốt đẹp của Giao Ước Mới, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư Hípri cho thấy: Đức Kitô là trung gian của Giao Ước Mới. Giao Ước Mới được ghi khắc trong lòng Người. Chúng ta có một Vị Thượng Tế lo việc tế tự trong cung thánh, trong lều trại thật. Người ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta. Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật, nhưng Người đã vào chính cõi trời.

Xin Chúa đoái nhìn và chở che, để ta tham dự trọn vẹn vào Hy Lễ Vượt Qua, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Nadien nói: Chúng ta hãy tham dự lễ Vượt Qua… Đức Giêsu đã chịu khổ hình ngoài cửa thành, lấy máu mình mà thánh hóa toàn dân. Vậy ta hãy ra khỏi trại mà đến với Người, cam lòng gánh vác nỗi khổ nhục Người đã chịu. Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu.

Xin Chúa đoái nhìn và chở che, để ta được nên một trong đoàn chiên của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Ta sẽ làm cho chúng thành một dân tộc duy nhất. Trong bài Đáp Ca, ngôn sứ Giêrêmia cho thấy: Chúa canh giữ chúng ta, như mục tử canh giữ đàn chiên. Vì Chúa đã cứu chuộc nhà Giacóp, giải thoát họ khỏi tay kẻ mạnh hơn nhiều. Họ sẽ reo mừng đi tới đỉnh Xion, lũ lượt kéo nhau về hưởng ân lộc Chúa.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đức Chúa phán: Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan nói: Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. Chúa chính là mục tử chăn dắt chúng ta, Chúa sẽ quy tụ tất cả mọi dân nước về một mối, về một đoàn chiên duy nhất. Điều kiện để gia nhập vào đoàn chiên Chúa là: hãy quẳng mọi tội phản nghịch ra khỏi con người mình, hãy tạo cho mình một trái tim mới, một thần khí mới. Điều này luôn vượt quá sức chúng ta, cho nên, Chúa luôn tặng ban ân sủng và luôn đoái nhìn che chở chúng ta. Chúng ta hãy tham dự vào Hy Tế Vượt Qua cách trọn vẹn, chứ không, nửa vời; hướng về vĩnh cửu, chứ đừng, nhắm vào những mục tiêu nhất thời; thiết lập thành đô Giêrusalem trên trời, chứ không phải, ở dưới đất. Mỗi ngày, ta hãy tế lễ chính mình, cùng với tất cả mọi hoạt động của ta. Hãy vì Chúa, mà đón nhận tất cả: Gặp đau khổ, ta hãy noi gương Người, khi Người chịu thương khó; bị vác thập giá, ta hãy vác cùng Người; bị đóng đinh, ta hãy mau lẹ bước lên thập giá với Người. Hãy tin nhận Người là Thiên Chúa, như tên trộm lành; hãy xin thi hài Người về, như ông Giuse Arimathê; hãy xức thuốc thơm và táng xác Người, như ông Nicôđêmô; và hãy khóc thương Người, như các người phụ nữ. Chúa không ngừng hoạt động để cứu độ trần gian, nhưng trong những ngày này, Chúa còn ban tặng cho chúng ta những ân sủng dồi dào gấp bội. Ước gì Chúa đoái nhìn và chở che toàn thể con cái Chúa, đặc biệt là những anh chị em sắp được tái sinh trong Bí Tích Thánh Tẩy. Ước gì được như thế!

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây