Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".
Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu".
Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
Trong bốn sách Tin Mừng, các phụ nữ luôn được kể là người ra viếng mộ trước tiên. Suy Niệm 1
Trong Tin Mừng Mátthêu, đó là hai bà có cùng tên Maria. Sau khi được thiên thần giao nhiệm vụ loan báo gấp cho các môn đệ về sự phục sinh và cuộc hẹn gặp của Thầy ở Galilê (28, 7), các bà đã mau mắn lên đường, vội vã rời bỏ ngôi mộ trống. Ngôi mộ này là nơi các bà đặt tình cảm thân thương, vì đây là nơi đặt xác của người Thầy yêu dấu Bây giờ ngôi mộ không còn xác Thầy nữa, Thầy đã được trỗi dậy rồi, nên ngôi mộ chẳng phải là nơi các bà dừng lại mà khóc lóc than van. Nó trở nên một bằng chứng về sự sống lại của Thầỵ Ngôi mộ trống thực sự đã đem lại một niềm vui vô bờ bến. Chính những mất mát lại là dấu hiệu cho một sự hiện diện viên mãn hơn. Vì thế vừa sợ hãi lại vừa hết sức vui mừng, các bà chạy đi loan báo cho các môn đệ điều mình vừa nghe nói. Trên con đường hối hả đi gặp các môn đệ, các bà không ngờ mình lại là người đầu tiên được gặp Chúa phục sinh. Điều mới nghe thiên thần nói, bây giờ được thấy tận mắt. Thánh Mátthêu chỉ nói một cách đơn sơ: “Đức Giêsu gặp các bà” (c. 9). Không thấy mô tả Đức Giêsu oai phong rực rỡ như thế nào. Có vẻ Ngài gặp các bà lần này như Ngài đã từng gặp bao lần trong quá khứ. Các bà nhận ra ngay vị Thầy được sống lại cũng là vị Thầy chịu đóng đinh mà mình đã đi theo từ Galilê. Chính Đức Giêsu ngỏ lời chào trước: “Chị em hãy vui lên.” Lời chào này cũng là lời chào bình thường hằng ngày vào thời đó. Vì thế các bà đã bạo dạn tiến lại gần, ôm chân và bái lạy Thầỵ Như vậy các bà có thể thấy được và đụng chạm được Đấng phục sinh. Các bà còn có thể nghe được lời dặn dò của Ngài. Lời này giống lời thiên thần, chỉ có điều Ngài gọi các môn đệ là anh em: “Hãy đi và báo cho anh em của Thầy...” (c. 10). Các môn đệ vẫn được gọi là anh em ngay cả khi họ đã bỏ rơi Ngài. Khi gọi họ là anh em, Đức Giêsu đã muốn tha thứ mọi vấp ngã của họ. Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên. Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng phục sinh. Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời. Không chỉ là ngôi mộ trống với lời chứng của thiên thần, mà còn là lời chứng của chính họ, của người đã chứng kiến tận mắt và đụng chạm. Đức Giêsu phục sinh dám nhờ các phụ nữ làm chứng, dám nhờ các phụ nữ đi loan Tin Mừng cho các môn đệ của mình, dù thời của Ngài người ta không tin lời chứng của phụ nữ. Chúng ta không quên những đóng góp của các phụ nữ cho Giáo Hội từ thời đầu. Mong vai trò ấy vẫn được đề cao và tôn trọng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Chúa phục sinh. Điều kỳ diệu chưa từng có. Chưa trí khôn nào nghĩ tới Suy Niệm 2
. Như một mặt trời mọc lên chiếu soi khắp cùng thế giới. Làm bừng lên chân lý trong tâm hồn các môn đệ. Một niềm vui vô bờ bến. Vì Chúa đã chiến thắng. Con người được cứu chuộc. Lịch sử sang một trang mới hào hùng. Trí khôn mở ra. Các môn đệ chợt hiểu thấu tất cả.
Thì ra đó là kế hoạch của Thiên Chúa. Đã được báo trước từ ngàn đời. Thiên Chúa đã hứa cho một người thuộc dòng dõi Đa-vít sẽ lên kế vị. Và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận. Còn hơn thế nữa Đấng ấy sẽ từ cõi chết sống lại. Thánh Phê-rô, trong niềm xác tín mãnh liệt, đã nhắc lại cho dân Do thái: “Thưa anh em, …Thiên Chúa đã thề với người (vua Đa-vít) là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cói âm ty và thân xác Người không phải hư nát”. Quả thật, “theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết”.
Kế hoạch cho thấy quyền năng của Thiên Chúa vô cùng cao siêu. Không trí khôn nào hiểu thấu. Không sức mạnh nào ngăn cản được. Kế hoạch cũng cho thấy tình yêu thương của Thiên Chúa là vô bờ bến. Vượt qua mọi yếu đuối tội lỗi. Vượt qua cả cái chết. Để đưa con người đến sự sống. Mà Chúa Ki-tô, Con yêu dấu của Người là Trưởng Tử đi đầu. Cho chúng ta được đi theo: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan”.
Một cuộc đời mới khởi đầu. Không còn sợ hãi nữa. Nhưng bắt đầu lại từ đầu. Để làm chứng cho Chúa: “Chị em đừng sợ! Hãy về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê, Họ sẽ được thấy thầy ở đó”. Ga-li-lê là khởi đầu. Ga-li-lê sẽ bắt đầu lại. Tươi mới. Phấn khởi. Tràn đầy niềm vui và hi vọng.
Nhưng thế lực sự chết vẫn còn cố gắng chống lại Chúa. Vẫn còn mưu toan lừa dối: “Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác”. Thánh Âu-tinh đã vạch rõ thủ đoạn gian dối: Các anh là lính canh. Tại sao ngủ. Nếu ngủ làm sao biết là họ đến lấy xác. Nếu thức làm sao để họ lấy. Đúng là vải thưa không che được mắt thánh. Bàn tay không che nổi ánh mặt trời. Chỉ tối mắt mình. Mặt trời vẫn chiếu soi rạng rỡ.
Truyện các thánh ẩn tu trong sa mạc thời Giáo Hội tiên khởi có kể lại Suy Niệm 3
Truyện các thánh ẩn tu trong sa mạc thời Giáo Hội tiên khởi có kể lại câu chuyện như sau:
Một người đàn ông nọ nghe đồn về rất nhiều phép lạ do các bậc chân tu thánh thiện thực hiện, nhưng ông không chấp nhận một lời đồn đại nào, ông chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe. Thế là ông lên đường để diện kiến cho bằng được vị chân tu, ông gọi một đệ tử lại và hỏi:
- Thầy của anh đã làm được bao nhiêu phép lạ rồi?
Người đệ tử trả lời:
- Không thể đếm xuể được. Trong xứ của ông, người ta xem như là phép lạ mỗi khi Thiên Chúa làm theo ý muốn của con người. Còn ở đây thì trái lại, chúng tôi coi là phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa.
Phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa. Ðó có thể là ý tưởng được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa phục sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt. Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật. Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.
Hai ngàn năm qua và mãi mãi về sau, sứ điệp Phục Sinh vẫn tiếp tục được loan báo. Phép lạ Phục Sinh vẫn mãi mãi tiếp diễn. Các Tông Ðồ và những phụ nữ được Chúa hiện ra có lẽ diễm phúc hơn chúng ta. Thế nhưng, các ngài cũng không được trang bị hơn chúng ta khi đứng trước việc Chúa sống lại và hiện ra. Những lính canh mồ cũng chứng kiến các điều lạ lùng, nhưng với họ, những điều đó chưa phải là phép lạ.
Phép lạ thiết yếu không phải là một việc phi thường, nhưng trước tiên là một gặp gỡ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tin nhận phép lạ. Có phép lạ khi con người thực thi thánh ý Chúa. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của Ngài. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ khi nào con người tin nhận và sống theo thánh ý Thiên Chúa, con người mới nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa". Có tâm hồn trong sạch chính là để cho Chúa ngự, chính là chiều theo tư tưởng và ý muốn của Ngài.
Nguyện xin ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng và hướng dẫn tâm tư hành động của chúng ta, để trong mọi sự, chúng ta sống theo thánh ý Ngài, và như vậy, cảm nhận được phép lạ của tình yêu Ngài trong từng phút giây của cuộc sống.
Và Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!” các bà tiến lại gần Người, ôm Suy Niệm 4
Và Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!” các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”
Các bà đang đi, thì kìa mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. (Mt. 28, 9-11)
Ngày nay, những phương tiện thông tin đầy quyền lực và phong phú đa dạng làm cho chúng ta không bao giờ biết được chính xác những sự kiện, những biến cố: báo chí tố cáo nhau giữa phe đảng đã kiểm duyệt tin tức để có lợi cho phe nhóm mình. Những tố cáo và cải chính xen lẫn nhau trên mặt báo hàng ngày. Không ai có thể thấy đâu là sự thật.
Bản văn Tin mừng hôm nay đem ra ánh sáng cho thấy khó có một thông tin khách quan. Xét về sự kiện phục sinh thì có nhiều lối cắt nghĩa bất đồng ý kiến nhau. Có hai lý do đáng chúng ta lưu ý về những khó khăn này:
Trước hết, phía những chứng nhân, những người tiếp nhận tin tức, Đức Giêsu đã sống lại vì Người đã hiện ra với tôi. Thánh sử Tin mừng rất cẩn thận ghi lại nhiều chi tiết tỏ cho thấy sự hiện diện của một thân xác, không phải bóng ma: Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đã ôm chân Người, chỗ khác cho thấy, Người sống lại ăn uống, đốt lửa nướng cá, cho sờ mó vào chân tay Người. Nhưng những chứng nhân này lại sợ hãi. Lúc ban đầu họ sợ hãi bị chế nhạo làm cho họ im lặng trước sự phục sinh của Đức Kitô. Vì thế sứ điệp giải phóng và phục sinh của Đức Kitô cũng đã bị bóp nghẹt trong chính con người chúng ta.
Những kẻ chứng kiến khác thì lại nói quanh co tự bảo vệ mình, bảo vệ quyền lợi mình, công việc mình hay bảo vệ cái tin bịa đặt của mình như các thượng tế và kỳ lão đút tiền cho lính canh mồ để họ loan tin các môn đệ ăn trộm xác Người. Thế lực chính trị thuê mướn thế lực tư pháp, quan tòa, luật sư để bảo vệ đảng của mình. Người ta âm mưu dựng nên những bằng chứng ma, hay mua chuộc những nhân chứng giữ im lặng.
Nhiều lần, chúng ta cũng vì sợ bị chế nhạo mà làm chứng quanh co hay để kẻ khác mua chuộc sự im lặng và lợi dụng đầu cơ những bằng chứng. Chúng ta phải giật mình hổ thẹn rằng Đức Giêsu đã bị tố cáo khiếm diện, Người bị loại trừ, bị tuyên bố là chết rồi.
Những nhân chứng mới của phục sinh không thoát khỏi sự an toàn giả tạo, nếu không quan tâm đặc biệt đến Tin mừng phục sinh, nếu không tuyên bố công khai những điều đã hiểu biết về đêm vượt qua.
Cách đây hai thế kỷ, giả sử như có một lon bia hay có một lon thực phẩm tươi Suy Niệm 5
Cách đây hai thế kỷ, giả sử như có một lon bia hay có một lon thực phẩm tươi, chắc chắn người ta vẫn không dám yên tâm thưởng thức những món ăn uống tiện dụng này. Ngày nay, chúng ta yên tâm thưởng thức là nhờ công trình nghiên cứu của ông Louis Paster, nhà ký sinh trùng học người Pháp sống vào thế kỷ XIX. Ông đã nghiên cứu các vi sinh để rồi dùng chúng hoặc tiêu diệt chúng. Dùng vi sinh trong việc tiêm các thuốc chủng ngừa, chữa bệnh chó dại, hoặc tiêu diệt chúng trong các quá trình lên men trong đồ ăn, thức uống. Ðây là những đóng góp lớn lao cho toàn thể gia đình nhân loại.
Tuy nhiên, ông còn có các đóng góp khác ít được ai nhắc đến, đó là những đóng góp cho niềm tin. Trong lúc các bạn đồng nghiệp nhìn vào kính hiển vi chỉ thấy có một số tế bào liên kết với nhau, chẳng có gì hơn nữa, thì trái lại, khi nhìn vào chiếc kính hiển vi, Louis Paster lại reo lên: "Thật kỳ diệu! Còn một điều gì ẩn nấp ở đàng sau nữa: đó là Thượng Ðế".
Anh chị em thân mến!
Qua những khám phá nhà bác học thời danh Louis Paster đóng góp cho nhân loại, chúng ta có thể rút ra được nhiều điều, đặc biệt là cách nhìn các diễn biến và thái độ phải có trước các diễn biến ấy. Cùng một sự kiện, nhưng mỗi nhà bác học lại có một cái nhìn khác nhau. Cùng một tìm tòi khám phá, những mỗi người lại đạt được kết quả riêng biệt.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến hai thái độ khác nhau trước biến cố Chúa Kitô Phục Sinh. Một bên là các phụ nữ và một bên là nhóm lính canh. Ðối diện với họ đều là ngôi một trống. Với nhóm phụ nữ, ngôi một trống là dấu chỉ Tin Mừng Phục Sinh và là khởi điểm cho niềm hy vọng. Tuy lo âu, nhưng họ vội vã đi báo tin vui cho các môn đệ. Nhóm lính canh, họ cũng được nhìn thấy ngôi mộ trống và điều đó không lạ gì đối với họ. Vì thế, ngôi mộ trống không là khởi điểm và tin tưởng của niềm tin, mà còn khiến cho họ càng rời xa niềm tin, càng muốn khỏa lấp niềm tin. Lời đồn đãi ấy vẫn còn vang dội đối với người Do Thái cho đến ngày nay.
Với sự kiện Chúa sống lại, lời nói của nhóm lính canh là những chứng từ có thể đáng tin cậy, vì họ là những người canh giữ mồ đêm hôm ấy. Nếu không vì sợ hãi quyền lực của hội đường Do Thái hoặc không vì chút lợi lộc, tiền của thì chắc chắn họ sẽ là sứ giả loan Tin Mừng Phục Sinh.
Trước Tin Mừng Phục Sinh ai cũng vội vã: các bà thì loan tin cho các môn đệ, còn nhóm lính canh thì vội vã báo tin cho hội đường Do Thái. Ai cũng vội vã, nhưng tùy thái độ mỗi bên mà Tin Mừng Phục Sinh được công bố hay bị dập tắt. Người Kitô hữu cũng là những người được đối diện với Tin Mừng Phục Sinh. Họ được trao cho nhiệm vụ loan báo lại cho người khác biết tin vui này. Chắc chắn lời nói của họ là những chứng từ giá trị, vì họ đã được đón nhận sức sống Phục Sinh của Ðức Kitô.
Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước những áp lực trần thế, hoặc vì sức quyến rũ của chức tước, lợi lộc... họ đành tâm phản bội Tin Mừng. Vì thế cho đến hôm nay, họ còn hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô, về Giáo Hội.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh, Ðấng đã chiến thắng quyền lực của tội lỗi, ban cho mỗi người chúng ta lòng tin yêu và can đảm. Tin yêu để chúng ta nhận biết được sự hiện diện của Ngài qua các biến cố cuộc sống, dù cho có vẻ trống vắng, u buồn như ngôi mồ trống của Ðức Kitô. Và khi nhận ra được Ngài, chúng ta sẽ can đảm loan truyền Ðức Kitô cho tất cả mọi người, bất chấp mọi gian lao thử thách.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được bắt chước các tông đồ cũng như các phụ nữ nhiệt thành tìm kiếm Chúa trong yêu mến và hăm hở ra đi rao truyền tin vui Phục Sinh của Chúa Kitô. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Để diễn tả niềm tiếc thương với người mới chết, nhất là người quá cố ấy là cha, mẹ Suy Niệm 6
Để diễn tả niềm tiếc thương với người mới chết, nhất là người quá cố ấy là cha, mẹ, anh chị em hay con cháu của chúng ta, thường chúng ta hay ra mộ để cắm nhang, đốt nến... rồi khóc lóc thảm thiết... Hành vi này là lẽ thường tình và nó cũng rất nhân văn! Qua nghĩa cử này, người ta vừa biểu lộ niềm tiếc thương, vừa diễn tả tâm tình biết ơn với người đã khuất.
Cũng trong tâm trạng ấy, nên hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc các phụ nữ đi ra mộ để khóc thương và xức thêm dầu thơm vào xác Chúa. Họ là những người đã từng lặn lội theo Đức Giêsu trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, vì thế, tình cảm Thầy và trò thật thắm thiết, keo sơn, nên chuyện đi ra mộ để làm những việc trên là chuyện đương nhiên nơi một người có lòng mến...
Tuy nhiên, những gì diễn ra trước mắt các bà khi các bà đi ra mộ và chứng kiến đã là điều bất thường và không khỏi ngỡ ngàng! Ngôi mộ thì trống; xác thì mất; lại xuất hiện các thiên thần kèm theo lời loan báo giật gân: Chúa đã sống lại! Sự hốt hoảng, hoang mang chen lẫn vui mừng đang mãnh liệt xâm chiếm tâm hồn các bà.
Khi các bà còn đang quá bối rối, thì Đức Giêsu đã hiện ra với các bà và cất lên tiếng nói thân thương hồi nào: "Chào chị em!". Khi nhận ra Chúa, các bà hết đỗi vui mừng và sụp lạy Ngài. Hành vi này cho thấy thái độ trân trọng, yêu mến và tôn thờ mà các bà dành cho Đức Giêsu. Thái độ này đi ngược hẳn với những động thái của nhóm Thượng tế và Kỳ mục! Họ là những người vốn đã có kế hoạch xóa sổ con người Giêsu cũng như những ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng và trong xã hội. Vì thế, họ lại tiếp tục đưa ra những kế sách mới, vu khống cho các môn đệ là đang đêm đến lấy xác Đức Giêsu và loan tin đồn là Ngài đã sống lại!
Nhưng sự thật vẫn là sự thật, vì thế, Đức Giêsu đã hiện ra trực tiếp với các phụ nữ và trấn an các bà. Đồng thời ngay lập tức, Ngài muốn cho các bà vượt qua tâm lý, tình cảm tự nhiên, để đi đến một tình cảm trưởng thành và một tình yêu sứ vụ. Vì thế, Ngài nói: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó".
Sứ điệp của Đức Giêsu trao ban cho các phụ nữ cũng chính là sứ điệp cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là: sống và loan truyền Chúa chịu chết, tuyên xưng Chúa sống lại cho mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết như mẫu gương của các phụ nữ hôm nay. Xin Chúa giúp cho chúng con khi đã yêu mến và tin tưởng vào Chúa, thì cũng can đảm ra đi chia sẻ niềm tin ấy cho người khác, để họ cũng gặp được niềm vui cứu độ như chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại, Ngài mời gọi mọi người cùng cảm Suy Niệm 7
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại, Ngài mời gọi mọi người cùng cảm nghiệm sự sống lại đó, trong cuộc sống của mỗi người hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, sự sống lại của Chúa đã làm thay đổi tầm nhìn và suy nghĩ của mọi người. Những kẻ đã lên án chống đối Chúa tưởng mình đang vinh quang chiến thắng, bỗng sững sờ thất bại trước sự việc không thể lường trước. Còn những ai theo Chúa, đang thất vọng chán nản thì hân hoan phấn khởi. Trong số đó, con thấy có một số phụ nữ theo Chúa đến cùng, ngay cả trong những giờ phút đen tối nhất, giờ đây họ được diễm phúc cảm nghiệm sự sống lại của Chúa, được làm sứ giả đem Tin Mừng Phục Sinh đến cho các tông đồ.
Lạy Chúa, cuộc sống trần gian của con không thể kéo dài mãi, sức khỏe đã yếu đi, tinh thần và sự hăng say làm việc giảm sút. Cuộc đời này qua đi thật mau. Dù con vẫn biết cuộc sống đời này như một chiếc cầu nối liền vào cuộc sống vĩnh cửu, nhưng con vẫn bi quan lo sợ mỗi lần con nghĩ tới sự chết.
Lạy Chúa, các phụ nữ ra thăm mồ đã vui mừng. Chúa bảo họ đừng sợ. Phần con, con cảm thấy niềm tin nơi con quá yếu kém, chưa cảm nhận được sự phục sinh của Chúa. Xin Chúa củng cố và tăng thêm đức tin nơi con, để con ý thức những gì trong cuộc sống hiện tại là những viên gạch xây dựng cho căn nhà Nước Trời. Mỗi sáng thức dậy con đang bước vào một ngày mới với đầy lòng tín thác vào ân sủng của Chúa. Xin Chúa ban cho con niềm vui Phục Sinh để từng ngày sống của con trở nên một sứ điệp mang lại niềm vui và lòng tin cho mọi người, nhờ đó chúng con cùng nhau hy vọng sẽ sống lại trong ánh sáng phục sinh vinh quang của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó”.
Một câu chuyện dụ ngôn cổ kể lại rằng: Có bốn người đàn ông cùng đi xuyên qua Suy Niệm 8
Một câu chuyện dụ ngôn cổ kể lại rằng: Có bốn người đàn ông cùng đi xuyên qua một khu rừng. Bất thình lình có một bức tường cao cản bước đường của họ. Tò mò, họ làm một cái thang để nhìn xem cái gì ở sau bức tường đó. Người thứ nhất trèo lên tới đỉnh thang nhìn qua, bỗng anh la lên thích thú… Cũng giống như vậy với phản ứng của người thứ hai và ba… Còn người thứ tư khi lên đến đỉnh thang, anh mỉm cười vì nhìn thấy những khung cảnh thật tuyệt vời: một khu vườn xanh tươi phì nhiêu, với những cây trĩu quả đủ các loại, dòng suối trong mát đầy cá bơi lội, và những thú hoang dã cùng những súc vật nuôi dạo chung quanh suối và khu vườn xanh tươi. Đứng trước cảnh xuân xanh tuyệt vời đó, anh bị cám dỗ không nói ra với ai, chỉ muốn hưởng thụ một mình như ba người bạn trước. Nhưng anh nghĩ đến gia đình, bạn bè, hàng xóm và quay trở về để chia sẻ với họ niềm vui mà anh đã khám phá…
Suy niệm
Đức Kitô Phục sinh Halléluia… Cả bốn Tin Mừng và sách Công vụ tông đồ đều trình bày biến cố Đức Giêsu Phục sinh hiện ra (Mt 28,9-20; Mc 16,1-19; Lc 24,13-53; Ga 20,11-23; Cv 1,6-11).
Sự kiện Phục sinh được sáng tỏ qua các chứng từ: Tảng đá được lăn ra, ngôi mộ trống, thiên thần loan báo... Một biến cố đưa đến hai thái độ, hai hậu quả đối nghịch:
Các phụ nữ sau khi thăm mồ Chúa vui mừng hân hoan ra đi loan Tin Mừng Phục sinh biểu lộ tâm tình của Maria trong Ca tiếp niên Phục sinh reo vui:
…Tôi đã thấy mồ Đức Kitô đang sống
và vinh quang của Đấng Phục sinh,
thấy các thiên thần làm chứng,
thấy khăn liệm và y phục.
Đức Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh…
Thật thế, các môn đệ và những người theo Ngài, đang ủ rũ héo tàn vì Thầy mình vừa qua đời tang thương như một tử tội, cái chết của Ngài tựa như mùa đông băng tuyết giết chết niềm tin. Chúa Giêsu sống lại như mùa xuân về nơi tâm hồn các ngài...
Trong lúc đó Tin Mừng Phục sinh làm các tư tế, hàng niên trưởng và quân lính lo sợ trốn chạy lui vào chỗ kín để bàn bạc chống lại tin vui Phục sinh trong sự cố chấp...
Sự Phục sinh đem niềm vui cho những người tin. Với kẻ không tin, biến cố phục sinh càng làm cho họ thất vọng ê chề như người bị bệnh mắt không thể tiếp nhận được ánh sáng huy hoàng rực rỡ của ban mai.
Thật thế, nếu chúng ta tin và gắn chặt với Ðức Giêsu Phục sinh, thật hạnh phúc tuyệt vời cho chúng ta. Nhưng khi chúng ta từ chối Tin Mừng Ðức Giêsu, chúng ta sống trong sự bất hạnh của sự cố chấp trong thất vọng.
Ý lực sống: “Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng” (1Cr 15,54).
Các bài Tin mừng trong tuần bát nhật mừng Đức Giêsu Phục sinh đều ghi lại các Suy Niệm 9
1. Các bài Tin mừng trong tuần bát nhật mừng Đức Giêsu Phục sinh đều ghi lại các cuộc hiện ra của Đức Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại việc Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, cách riêng với bà Maria Mađalena, để củng cố niềm tin và sai các bà đi báo tin cho các Tông đồ. Ngoài ra, Tin Mừng còn nói đến việc các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái mua chuộc các lính canh mồ để phản bác việc Đức Kitô sống lại.
2. Thánh Matthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa Phục Sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Đức Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt.
Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các Tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật.
Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.
3. Đức Giêsu đã Phục sinh với các chứng từ rõ ràng không thể chối cãi được. Đối với Đức Giêsu, phục sinh là chiến thắng hoàn toàn sự chết, thế gian và xác thịt, nghĩa là thân xác phục sinh không thể chết được nữa, thân xác phục sinh không thể bị giới hạn trong không gian hoặc thời gian. Chẳng hạn Đức Giêsu khi phục sinh vẫn đi vào nhà các môn đệ khi cửa đóng kín, vẫn có thể hiện diện nhiều nơi như vừa đồng hành với môn đệ trên đường Emmau nhưng khi các môn đệ đó quay lại thì lại được các môn đệ ở nhà kể lại vừa gặp Chúa.
Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Phục Sinh và được trao nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này... Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội Tin Mừng, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Đức Kitô và về Giáo hội.
4. Trở lại sự kiện giả dối của giới cầm quyền Do thái giáo mà bài Tin Mừng kể ra, chúng ta thấy sự kiện này cũng phản ánh một thực tế bất công và dối trá nơi cuộc sống này đã có từ ngàn xưa. Thậm chí ngày nay còn đáng sợ hơn.
Chân lý loài người luôn thuộc về kẻ mạnh, người ta dùng tiền để mua chuộc và đổi trắng thay đen, biến công thành tội, sự thật bị xuyên tạc bóp méo. Đặc biệt những Kitô hữu và những người dám sống thật luôn bị thua thiệt và bị vu oan giáng họa kết tội cách bất công. Người ta dùng tiền và quyền để bịt miệng và để kết án.
Thế nhưng, chính sự thật thì người ta sẽ không mãi mãi trù dập nó được, sự kiện Phục sinh vẫn được hàng tỷ người trên thế giới tuyên xưng và phát triển đã hơn 2000 năm lịch sử... Các môn đệ của Chúa lúc bị xuyên tạc, các ngài không cần kêu oan mà cứ mạnh dạn tuyên xưng những gì mình thấy và sống mầu nhiệm Phục Sinh cách hoàn hảo.
5. “Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy...”.
Nhà cầm quyền Do thái giáo đã mua chuộc lính canh mồ, khiến họ chối bỏ sự kiện Chúa đã sống lại mà chính họ đã chứng kiến. Dĩ nhiên – trong hôm nay – tin đồn lệch lạc này vẫn được loan truyền khắp thế giới con người... Sự kiện đưa chúng ta đến hai vấn đề: đó là Hối lộ là chuyện muôn thuở và Tham nhũng luôn nhằm bóp méo sự thật,
Kho tàng truyện cổ dân gian có câu chuyện của hai nhân vật Cải và Ngò...
Hai người nông dân cục mịch có chuyện với nhau nên... ục nhau...
Cả hai đem chuyện kiện nơi ông Lý. Cải sợ kém thế nên lót tay ông Lý 5 đồng... Ngò thì lót 10 đồng... Xử kiện, ông Lý vẫn phạt Cải một chục roi... Cải giơ 5 ngón tay... ý nhắc là Cải đã đưa trước 5 đồng. Thầy Lý lấy năm ngón bàn tay trái úp lên năm ngón bàn tay phải và phán:Tao biết mày “phải”, nhưng nó “phải” bằng hai mày...
6. Truyện: Niềm vui Phục Sinh.
Vậy là đã qua ngày sinh nhật vui vẻ với nhiều lời chúc, hoa và quả. Tôi trở về với cuộc sống thường nhật. Hụt hẫng! Cố níu kéo cảm giác hạnh phúc hôm qua. Nhưng đành bất lực.
... Có một niềm vui bên cạnh tôi chẳng bao giờ tan biến nhưng tôi nào hay biết: Chúa của tôi phục sinh. Một niềm vui trọng đại, một ân điển lớn lao, cho bạn và cho tôi.
Bởi lẽ:
Tình yêu đã chiến thắng.
Sự thật đã lên ngôi.
Bạn và tôi hãy xóa bỏ hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được phục sinh nơi Ngài.
Ước gì niềm vui của Đấng Phục Sinh tràn ngập hồn con, để con đem sinh khí cho người tuyệt vọng; đem nụ cười cho kẻ khóc than; làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa; dọi ánh sáng vào nơi tối tăm; đem niềm vui và hạnh phúc đến mọi người; xây Thiên đàng ngay trần thế hôm nay (Epphata, ban mục vụ giới trẻ TP/HCM).
Thánh Mát-thêu thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh. 1. (Các phụ nữ Suy Niệm 10
Thánh Mát-thêu thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh:
1. (Các phụ nữ đến mồ, thấy mồ trống, gặp thiên thần. Thiên thần cho hay Chúa Giêsu đã sống lại và bảo các bà đi báo tin cho các môn đệ và bảo họ Chúa Giêsu chờ họ tại Galilê). Trong tâm trạng vừa sợ vừa vui mừng, các bà chạy đi báo tin cho các môn đệ.
Tâm trạng sợ hãi: không phải là sợ hãi, mà là nỗi sợ tôn giáo, tâm trạng của người ý thức Thiên Chúa đang có mặt hoạt động. Vậy các bà “sợ” nghĩa là các bà ý thức Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu sống lại.
Vui mừng: vì Thầy mình đã sống lại.
2. Đang khi các bà chạy đi báo tin thì Chúa Giêsu hiện ra. Câu đầu tiên của Ngài là “đừng sợ”. Rồi Ngài lặp lại lời thiên thần: Hãy đi báo tin cho các môn đệ, bảo họ rằng Ngài chờ họ ở Galilê.
“Đừng sợ”: Trong Thánh kinh, từ Cựu ước tới Tân ước, khi hiện ra với loài người, Thiên Chúa (hay thiên thần) đều nói “đừng sợ” (x. St 15,1 26,24 46,3 Tl6,23 Lc1,12.30 2,10 Mt14,27…).
Nếu như “sợ” là tâm trạng của con người khi biết mình đang ở trước mặt Thiên Chúa vì thấy mình bất xứng, thì lời nói “đừng sợ” có nghĩa là Thiên Chúa tự xóa khoảng cách giữa Ngài với loài người; hơn nữa, Thiên Chúa đem lại cho loài người sự bình an và vui mừng.
Khi nói về các môn đệ, Chúa Giêsu gọi họ là “anh em”: sự Phục sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Ngài với các môn đệ lên một bậc: họ trở thành anh em của Ngài.
3. Phản ứng của giới thượng tế và kì lão: đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc họ xuyên tạc sự thật về Chúa Giêsu sống lại.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1a. “Đừng sợ”: từ nỗi “sợ hãi” trong lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết, các bà đã chuyển sang “kính sợ” khi nhận thấy quyền năng Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” đi kèm với nỗi “vui mừng hớn hở”. Khi ta thực sự tin vào quyền năng Chúa, ta sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí còn có thể “vui mừng hớn hở” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.
1b. Một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom củi trong rừng. Ong nghĩ về phận mình và cảm thấy chán trường. Ông ném bó củi xuống và than vãn: “cuộc sống cơ cực quá, không thể chịu nổi nữa! Ươc gì thần chết rước tôi đi!”.
Vừa nói xong thần chết xuất hiện với bộ xương trong chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: “Ta nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều gì ?”. Ông già kinh sợ nói: “Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai không ?” (Góp nhặt).
2a. Chúa Giêsu Phục sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài: sự Phục sinh của Chúa đã cứu chuộc tội lỗi của loài người, ban lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu.
2b. Một giáo viên cấp II đang vào sổ hai cậu học sinh mới chuyển trường. Cô thấy tên họ của chúng giống nhau, dáng người và quần áo như nhau nên hỏi:
- Hai anh em sinh đôi phải không ?
- Không.
Rồi cô đọc thấy ngày tháng năm sinh của chúng chỉ cách nhau sáu tháng. Cô lại hỏi:
- Hai anh em họ phải không ?
- Không, chúng em là anh em ruột.
- Ồ, cô nghĩ có sự nhầm lẫn trong việc ghi ngày sinh của các em. Hai anh em về nói mẹ ghi lại ngày sinh của mình rồi đưa lại cho cô vào sáng mai nhé ?
- Tại sao vậy ?
- Bởi vì nếu hai anh em không sinh đôi mà lại là anh em ruột, thì Nam không thể lớn hơn Tâm có sáu tháng.
Hai cậu nhìn nhau. Rồi Nam quay lại, mỉm cười nói với cô giáo: “Nhưng em không phải là người lớn hơn; vì cô biết đó, một trong hai chúng em là con nuôi. Nhưng chúng em không biết ai là con nuôi.” (Góp nhặt).
3. “Tin Mừng hôm nay đề cập tới hai thái độ khác nhau trước biến cố Phục sinh: Một của các phụ nữ, một của nhóm lính canh. Đối diện với ngôi mộ trống, các phụ nữ nhận ra dấu chỉ của Tin Mừng Phục sinh và khởi điểm cho niềm hy vọng, tuy lo âu, nhưng họ cũng vui mừng vội vã đi báo tin cho các môn đệ. Còn đối với nhóm lính canh, ngôi mộ trống đã không là khởi điểm của sự tìm kiếm và tin tưởng, mà còn khiến họ xa rời niềm tin, chỉ vì sợ hãi và vì chút lợi lộc…
Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Phục sinh và được trao cho nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này…Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội Tin Mừng, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô và về Giáo hội” (Mỗi ngày một tin vui”).
4. Vậy là đã qua này sinh nhật vui với nhiều lời chúc, hoa và quà. Tôi lại trở về với cuộc sống thường nhật. Hụt hẫng! Cố níu kéo cảm giác hạnh phúc hôm qua. Nhưng đành bất lực!
…Có một niềm vui bên cạnh tôi chẳng bao giờ tan biến nhưng tôi nào hay biết: Chúa của tôi Phục sinh. Một niềm vui trọng đại, một ân điển lớn lao, cho bạn và cho tôi.
Bởi lẽ:
Tình yêu đã chiến thắng;
Sự thật đã lên ngôi.
Bạn và tôi hãy xóa đi hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được Phục sinh nơi Ngài.
Các bài Tin Mừng trong tuần bát nhật Phục sinh đều tường thuật về những cuộc Suy Niệm 11
Các bài Tin Mừng trong tuần bát nhật Phục sinh đều tường thuật về những cuộc hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Chúa sống lại. Phụng vụ đã chọn những bản văn có trong 4 quyển Tin Mừng để trình bày cho chúng ta thấy bốn cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau, về sự kiện Chúa Giêsu chịu chết và sống lại.
1. Hôm nay thánh Mátthêô thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục sinh:
Các phụ nữ đến mồ, thấy mồ trống. Họ gặp thiên thần. Thiên thần cho họ hay Chúa Giêsu đã sống lại và bảo họ đi báo tin cho các môn đệ, bảo cho các môn đệ biết là Chúa chờ họ tại Galilê.
Sự Phục sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Chúa với các môn đệ lên một bậc: họ trở thành anh em của Ngài. Chúa đã gọi môn đệ là “anh em”
Và cuối cùng chúng ta thấy tiền bạc lại được sử dụng vào những mục đích xấu: Người ta đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc chúng. Tiền bạc lại một lần nữa làm xuyên tạc sự thật.
2. Vâng, việc Chúa sống lại rõ ràng đã đem lại nhiều thay đổi thật lạ lùng:
+ Những người có liên hệ với Chúa sẽ không còn sợ hãi nữa. Với việc Chúa Phục Sinh những người phụ nữ đã biến nỗi “sợ hãi” khi chứng kiến việc Chúa chịu nạn chịu chết, sang lòng “kính sợ” trước quyền năng của Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” này đi kèm với niềm “vui mừng hớn hở”. Vâng, đó là một kết quả hết sức bất ngờ đối với các bà đạo đức. Khi con người thực sự tin vào quyền năng Chúa, thì họ sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí họ còn có thể “vui mừng hớn hở” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.
Một tu sĩ dòng tên thuật lại câu trả lời đầy xúc động sau đây của một thủy thủ sắp chết. Anh luôn sống đạo đức. Đây là điều hiếm ở nơi các thủy thủ, và trong buổi sáng hôm đó, anh nhận của ăn đàng. Buổi chiều, khi linh mục đến để gặp lại anh và thấy anh rất yếu, bèn hỏi:
- Con đã sẵn sàng cho chuyến đi lớn lao chưa ?
- Thưa Cha, hoàn toàn sẵn sàng.
- Con không sợ ư ?
- Sợ ? Con sợ ư ? Nhưng tại sao lại sợ ?
Và đặt tay lên ngực, nơi Chúa ngự đến buổi sáng, anh nói thêm:
- Hoa tiêu đã xuống thuyền, vậy con còn sợ gì nữa chứ ?
+ Chúa Giêsu Phục sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài. Sự Phục sinh của Chúa không những đã cứu chuộc loài người, trả lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa, lại còn biến con người trở “anh em” với Chúa Giêsu! Đây là một hồng ân thật cao cả lớn lao hơn tất cả những hồng ân khác.
Một người hát thánh ca rất nổi tiếng của Mỹ được mời lên một con tàu chở khách, để hát cho những hành khách trên tàu nghe.
Đêm đó, tất cả những hành khách tập hợp trên boong tàu để thưởng thức tiếng hát rất hay của anh.
Tiếng hát của anh ta làm tất cả khán giả rung động tâm hồn. Khi anh ta vừa hát xong, thì một ông khách cao to, da đen bước đến bên cạnh anh hỏi:
- Xin hỏi, trước đây anh đã từng đầu quân ở Bắc Mỹ phải không ? Anh có còn nhớ vào một đêm trăng sáng năm 1862, anh đứng gác trên một vọng gác không ?
- Tôi nhớ. Anh ta đáp. Nhưng trong lòng hơi lo lắng vì không hiểu ý của ông ta muốn gì.
- Phần tôi, tôi còn nhớ rất rõ. Người đó nói. Lúc đó tôi đang ở bên đối địch với anh. Tôi nhìn thấy anh đứng trên vọng gác. Anh ở chỗ sáng. Tôi ở trong tối, nhất cử nhất động của anh tôi đều thấy rõ. Khi tôi định lên đạn, thì nhìn thấy anh đang chuẩn bị cất tiếng hát. Thật lòng tôi muốn bắn anh ngay nhưng tự nhiên có cái gì đó cản lại, chờ cho đến khi anh hát xong thì tôi sẽ bắn. Bài hát hôm đó cũng chính là bài hát anh vừa mới hát. Những lời trong bài hát ấy đã khiến tôi rất xúc động. Thế là tôi không còn can đảm để có thể bắn anh nữa”.
Nghe tới đây, người hát thánh ca không cầm được nước mắt. Anh giang rộng hai cánh tay ôm chầm lấy ông khách.
Một bài hát đã đánh đổi được một mạng người, làm cho kẻ thù trở thành bạn bè. Việc đó quả là một điều kì diệu.
Trên chiến trường trước kia, họ là kẻ thù của nhau, nhưng bây giờ họ đã trở thành bạn bè.
Việc Chúa Phục sinh đã làm cho các môn đệ và cả chúng ta trở thành anh em của Ngài. Đây là một hồng ân. Hãy tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu muôn đời.
Lạy Chúa, xin làm cho tâm hồn chúng con tràn ngập niềm vui của những người được Chúa cứu chuộc, để chúng con biết đem sinh khí đến cho những người đang tuyệt vọng, đem nụ cười đến cho kẻ đang khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, xây dựng một thiên đàng của Chúa trên trần thế hôm nay. Amen.