Khi ấy, Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần." Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nadarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan. Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
Có ai ngờ được trong số những người xếp hàng chờ đến phiên mình được chịu phép rửa của Gioan lại có Đức Giêsu, Đấng thánh thiện và cao cả, Đấng mà Gioan tự nhận không đáng cởi giày cho Ngài? Tại sao Đức Giêsu lại chịu phép rửa của Gioan? Ngài có phạm tội và cần xưng thú không? (Mc 1, 5) Ngài có cần sám hối để được ơn tha thứ không? Chúng ta tin Đức Giêsu là Đấng hoàn toàn vô tội, nên việc Ngài chịu phép rửa hẳn phải có một ý nghĩa. Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với người khác. Đức Giêsu đứng chìm trong đám đông. Con Thiên Chúa làm người đã không ngại che khuất sự cao sang thánh thiện của bản thân để dìm mình xuống cùng một dòng nước với họ. Đấng Cứu Độ lại sống như người cần được cứu độ. Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm của chúng ta để nâng chúng ta lên với Ngài. Chỉ tình yêu mới giúp ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan hôm ấy. Ngôi Lời làm người chính là để liên đới với loài người. Ngài đã liên đới với người nghèo ở Bêlem, với những người lao động ở Nagiarét. Liên đới khi chịu phép rửa chỉ là khúc dạo đầu cho sứ vụ tông đồ sau này. Ngài đã bị mang tiếng là tay ăn nhậu, bồ bịch với quân thu thuế và tội lỗi (Lc 7,34). Cuối cùng Ngài đã chết như một tử tội giữa hai tên trộm cướp. Thánh Phaolô đã viết một câu thật kinh khủng: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta." Liên đới với những người sống ngoài lề xã hội và tôn giáo chính là để đưa họ vào thế giới nồng nàn tình yêu, thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. Trong môi trường chúng ta đang sống, chỗ nào cũng có những người bị bỏ rơi vì thiếu may mắn, vì bị chà đạp hay bị ngã sa. Liên đới là đứng chung với họ, chia sẻ một số phận. Liên đới cũng là nói thay cho người khác tiếng nói của lẽ phải, sự thật và công bình. Cần nhiều khiêm tốn và can đảm để dám sống và chết vì liên đới như Đức Giêsu. Sau phép rửa, Đức Giêsu được Thánh Thần ngự xuống. Ngài biết đã đến lúc mình được Cha sai đi vào đời, kết thúc hơn ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét. Nhờ phép rửa trong Ba Ngôi, chúng ta đã trở nên con cái dấu yêu của Thiên Chúa, nhưng chúng ta có ý thức về ơn gọi lên đường không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Để sống liên đới với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị kỳ thị, theo ý bạn, điều đó có khó không? Bạn có kinh nghiệm nào trong việc bênh vực một người cô thế?
Đức Giêsu đã khiêm tốn dìm mình trong sông Giođan trước khi đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có cần dìm mình trong dòng truyền thống dân tộc trước khi đi truyền giáo không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. ---------------------------------
Người Do-thái rất nhạy cảm về sự ô uế nơi thân xác. Theo sách Lêvi, thân xác con người có thể bị ô uế bởi nhiều lý do. Chạm vào xác chết hay vào người phong làm ta ra ô uế. Người phụ nữ sinh con hay có phản ứng sinh lý bình thường cũng trở thành ô uế và cần được thanh tẩy. Lẽ ra người phụ nữ bị băng huyết không được chạm vào Đức Giêsu. Đây không phải là sự ô uế do phạm tội về mặt đạo đức, mà chỉ là sự ô uế khiến người ta không được phép dự các lễ nghi. Để sạch trở lại, cần được thanh tẩy. Nước là cách thanh tẩy dễ dàng nhất. Sách Lêvi hay dùng câu: “lấy nước mà tắm rửa” (chương 14-17). Nước dùng để thanh tẩy thường là nước nguồn, nước mưa. Cho đến nay trong nhánh Do-thái giáo Chính Thống hay Bảo Thủ, nơi thanh tẩy (mikvah) vẫn chiếm vị trí trung tâm của nhà cộng đoàn. Chúng ta không lấy làm lạ khi Gioan Tẩy giả mời gọi dân chúng đến với ông để chuẩn bị cho Đấng Mêsia đang gần tới. Ông kêu gọi người ta hối cải, xưng thú tội lỗi mình, rồi chịu phép rửa của ông ở dòng nước sông Giođan. Đức Giêsu đã nghe tiếng kêu của Gioan và đã đến, đã đứng chung với các tội nhân, chờ đến phiên mình, đã dìm toàn thân mình dưới nước, và được Gioan ban phép rửa. Lúc ấy Ngài đã trên ba mươi tuổi, làm thợ nhiều năm ở Nadarét, đã lặng lẽ và bình an chờ đợi ngày Cha sai mình. Nhận phép rửa của Gioan là làm một cử chỉ khiêm hạ. Đức Giêsu không ngờ chính giây phút dìm mình ở con sông này lại là giây phút Thiên Chúa ngỏ lời với Ngài, vén mở cho Ngài biết Ngài là ai trong mắt của Thiên Chúa, và kín đáo mời gọi Ngài rời Nadarét để lên đường. “Con là Con yêu dấu của Cha !” đó là lời Thiên Chúa từ trời phán. Như Isaac là con yêu dấu của Abraham (St 22,2), Đức Giêsu là Con yêu dấu của Cha. Ngài là Con như vị vua mới đăng quang thuộc dòng Đavít, được Thiên Chúa tuyển chọn và bảo: “Con là con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2,7). Như Người Tôi trung được đầy Thánh Thần để làm sứ mạng, Ngài được Thiên Chúa tuyên bố: “Cha hài lòng về Con” (Is 42,1). Thiên Chúa Cha hài lòng về Đức Giêsu là người Con yêu dấu, người đã vâng ý cha suốt bao năm ở Nadarét, và sẽ còn vâng ý Cha cho đến nỗi hy sinh chính mạng sống mình. Những gì xảy ra trên sông Giođan hôm nay sẽ tiếp diễn mãi trong suốt đời của Đức Giêsu. Ngài không chỉ xếp hàng với những người tội lỗi, mà hơn nữa, “Đấng không hề biết đến tội, thì vì chúng ta, Thiên Chúa đã làm Ngài thành thân tội” (2 Cr 5,21). Thánh Thần đã xuống trên Ngài ở Giođan, sau đó sẽ đưa Ngài vào hoang địa để chịu thử thách (Mc 1,12). Đức Giêsu đã khiêm tốn chịu phép rửa bởi Gioan, và Ngài sẽ còn đau đáu chờ một phép rửa khác nữa (Lc 12,50). Ngài đã hỏi hai môn đệ xem họ có dám chịu phép rửa mà Ngài sắp chịu không (Mc 10,38-39). Phép rửa ấy không gì khác hơn là cái chết để phục vụ, và hiến mạng làm giá chuộc cho muôn người (Mc 10,45). Chúng ta đã được chịu Phép Rửa trong Thánh Thần, nhân danh Chúa Giêsu, để được ơn tha tội (Cv 2,38). Ước gì Chúa Cha cũng nói với từng người chúng ta: “Con là con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về con.”
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Gia kêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. -------------------------------
Cả ba bài đọc hôm nay đều qui chiếu về Đức Giêsu. Tất cả ba bài đều trình bày cho ta những hình ảnh đẹp về cuộc đời và sứ mạng của Người.
1. Hình ảnh về một Đấng Cứu Thế khiêm nhường tự hạ.
Trong khi dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt, thì Đức Giêsu xuất hiện công khai lần đầu tiên trong sự khiêm nhường thống hối. Lúc ấy, Gioan rao giảng sự ăn năn sám hối. Đoàn lũ dân chúng đông đảo kéo đến với ông để xin chịu phép rửa thống hối. Hòa mình vào đoàn lũ những con người tự nhận mình tội lỗi ấy, Đức Giêsu âm thầm khiêm tốn xếp hàng chờ được rửa tội. Thật là lạ lùng. Chính Đấng đã thánh hóa Gioan khi ông còn trong bụng mẹ giờ đây lại đến xin ông làm phép rửa cho. Chính Đấng đến để chuộc tội loài người giờ đây lại xin người khác rửa tội cho mình. Thật là khiêm nhường thẳm sâu. Trong khi loài người tội lỗi luôn kiêu ngạo tìm nâng mình lên thì Thiên Chúa thánh thiện lại tìm hạ mình xuống. Trong khi loài người tội lỗi luôn che dấu, chối không nhận tội thì Thiên Chúa vô tội lại công khai nhận mình tội lỗi. Trong khi loài người tội lỗi tìm tránh hình phạt do tội lỗi họ gây nên thì Thiên Chúa lại ghé vai gánh lấy hết tội lỗi và mọi hình phạt mà loài người đáng phải chịu. Sự khiêm nhường ấy phát xuất từ lòng Thiên Chúa yêu thương con người, muốn chia sẻ kiếp người, muốn cứu chuộc tội đời, muốn thăng tiến nhân loại.
2. Hình ảnh về cuộc giao hòa đất trời.
Chính lúc Đức Giêsu tự nguyện gánh lấy tội lỗi nhân loại, tầng trời bị xé ra. Khi loài người phạm tội, cửa trời đóng lại, đất trời phân ly, ân phúc thôi tuôn đổ. Khi phạm tội, loài người tự giam mình trong bóng tối. Bóng tối tội lỗi giam kín con người trong thân phận bụi đất, không còn hy vọng vươn lên. Hôm nay, tầng trời xé ra có nghĩa là từ nay con người đã có lối thoát. Thân phận con người thay đổi, địa vị con người được nâng lên, vì có ơn Thiên Chúa đổ xuống, có Thiên Chúa đến gieo mầm trường sinh vào kiếp người phàm hèn. Trời đất giao hòa. Thiên giới cúi xuống hạ giới. Thiên Chúa đến ở với con người. Ân phúc tuôn đổ xuống cõi đời nhơ uế.
3. Hình ảnh về sự kết hiệp mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong giây phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Đức Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái ấy với Đức Giêsu khi lên tiếng: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đây không phải là một danh xưng, một tước vị, nhưng là một liên hệ sâu xa mật thiết: Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Đức Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Đức Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu chuộc con người.
4. Hình ảnh về sứ mệnh người được sai đi.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu nhân độ thế. Là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”. Người không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gẫy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa của Đức Giêsu mời gọi ta nhớ lại ơn phép rửa tội của mình. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, màn đêm tội lỗi vây phủ ta bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đã đến với ta, ban cho ta cuộc sống thần linh, cho ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, cho ta được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Chúa, là tiếp tục công việc của Đức Giêsu trong công cuộc cứu nhân độ thế. Đức Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo, vì Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, và nhất là Người luôn tìm thi hành thánh ý Chúa Cha, Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá. Ta hãy noi gương Đức Giêsu, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho những anh em sống chung quanh ta.
Lạy Đức Giêsu Kitô, xin dạy con biết sống ơn Bí tích Rửa tội như Chúa, để con xứng đáng được làm con yêu dấu của Đức Chúa Cha.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Bạn có dễ nhận lỗi không ? 2- Bạn đã thực sự sống như một người con hiếu thảo đối với Chúa chưa ? 3- Ơn phép Rửa tội là gì ? Bạn đã sống ơn Phép Rửa tội chưa ? 4- Bạn đã thực sự là Tin Mừng cho những người chung quanh chưa ? 5- Chúa Giê su chịu phép rửa trình bày cho ta những hình ảnh nào về Chúa.
Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cử hành lễ Hiển Linh, Chúa Giêsu được giới thiệu cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông. Hôm nay, Phụng vụ giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” khác qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Sự kiện này được trình bày như một nghi thức phong vương long trọng. Qua nghi thức này, chính Chúa Cha giới thiệu với nhân loại về Chúa Con và sứ mạng của Người. Chúa Thánh Thần cũng xuất hiện dưới hình chim bồ câu và đậu trên Chúa Giêsu.
Dưới ngòi bút của thánh sử Maccô, Chúa Giêsu được diễn tả như một Môisen mới. Nếu ông Môisen trong Cựu Ước đã dẫn Dân Thánh đi qua biển đỏ, thì nay, Chúa Giêsu cũng dẫn nhân loại vượt qua tội lỗi đến đạt tới sự thánh thiện. Cách nói “vừa lên khỏi nước” gắn liền với nghi thức thanh tẩy Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ tay ông Gioan Tẩy giả, phần nào muốn nhắc tới cuộc vượt qua biển đỏ của dân Do Thái trong lịch sử.
Chi tiết kể lại việc “Chúa Giêsu thấy tầng trời mở ra” có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc: theo truyền thống Do Thái, cửa trời đã đóng lại sau những vị ngôn sứ cuối cùng (Agê, Giacaria, Malakia) ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người cũng vì thế mà gián đoạn. Trước khi Chúa Giêsu đến trần gian, dường như hoạt động của Thần Khí đã bị ngưng lại. Với Chúa Giêsu, mọi sự đã thay đổi. Kỷ nguyên mới đã khai mào. Việc các tầng trời mở ra (nguyên văn tiếng Hy lạp: trời xé toạc ra) chứng minh cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người không còn ngăn cách nữa, mà được nối lại. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu như dấu hiệu của thời cứu rỗi và của cuộc sáng tạo mới. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Giêsu dường như phác họa lại thời hoang sơ, trước khi Thiên Chúa thực hiện công trình sáng tạo của Người: “Thần Khí Chúa bay là là trên vực thẳm hỗn mang” (St 1,2). Việc Chúa Thánh Thần dưới hình dạng chim bồ câu giúp chúng ta liên tưởng đến con chim ngậm cành ôliu sau trận Đại hồng thủy trong Cựu Ước. Thần Khí Chúa đến để loan báo cho nhân loại biết thời gian trừng phạt của Chúa đã mãn (x. St 8,8-11). Cũng giống như nước hồng thủy đã rút và một nhân loại mới tinh tuyền thánh thiện đã khởi đầu, thời kỳ cứu độ trong ân sủng đã khai mào trong Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu. Vì vậy, từ thời các Giáo phụ, trận lụt Đại hồng thủy, cũnng như cuộc vượt qua Biển Đỏ, đã được chú giải như hình bóng của Bí tích Thanh tẩy của các Kitô hữu.
Một chi tiết nữa rất quan trọng trong trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa trong Tin Mừng Thánh Máccô, đó là tiếng nói từ trời. “Tiếng nói từ trời” là cách diễn tả Thiên Chúa của người Do Thái, như kiểu người Việt chúng ta kiêng tránh phạm húy. Tiếng nói ấy đã khẳng định: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây cũng là một lời giới thiệu Đấng Mêsia cho nhân loại. Những người hiện diện hôm đó ở bờ sông Giođan, khi nghe câu tuyên bố của Chúa Cha, chắc chắn liên tưởng đến những lời của Cựu Ước: “Con là con Ta, hôm nay Ta đã hạ sinh ra con” (Tv 2,7); hoặc: “Đây là tôi tớ mà Ta tuyển chọn. Ta hài lòng về Người” (Is 42,1-2).
Vì những chú giải ở trên, sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa được hiểu như một cuộc “thần hiện”, qua đó, sứ mạng của Chúa Giêsu được giới thiệu công khai cho dân chúng. Người là Đấng Cứu độ trần gian. Người đã khởi đầu sứ mạng một cách rất khiêm tốn, hòa vào dòng người đang nhận mình là tội nhân và sám hối bằng cách dìm mình xuống dòng sông để được ông Gioan thanh tẩy.
Theo giáo huấn của Giáo Hội Công giáo, khi chấp nhận dìm mình xuống dòng sông Giordan và lãnh phép rửa bởi tay ông Gioan, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Tẩy, để rồi từ nay, những ai được dòng nước thiêng ấy tẩy rửa, họ sẽ được tha tội Tổ tông và các tội khác đã phạm, trở nên một tạo vật mới tinh tuyền thánh thiện. Thánh sử Maccô đã nhìn thấy bản chất siêu nhiên của bí tích Thanh Tẩy Kitô giáo, khi ghi lại lời của Gioan Tẩy giả: “Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”. Như vậy, trong nghi thức Thanh tẩy, linh mục chủ sự chỉ đóng vai trò như ông Gioan Tẩy giả, còn chính Chúa Giêsu thanh tẩy chúng ta và ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần. Nhờ việc ban Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên những người con cái của Thiên Chúa, là người đồng thừa tự với Chúa Giêsu, tức là cùng với Người hưởng gia nghiệp vĩnh cửu mà Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, chúng ta cũng trở nên những người con yêu dấu của Chúa Cha. Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta chấm dứt cuộc sống cũ và bước sang thời đại mới, thời đại của ơn cứu rỗi. Huyền nhiệm vinh dự của phép Thanh tẩy chỉ có thể cảm nhận bằng Đức Tin, vì “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I).
Nếu Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu, thì vào ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần như vậy. Chính Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta Đức tin và soi sáng giúp chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu độ nhân loại. Có Đức tin là một ơn Chúa ban. Chúng ta ngỡ ngàng trước mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, giống như chúng ta và đã chết trên cây thập giá, đã sống lại vào ngày thứ ba. Đương nhiên chúng ta chưa thể hiểu hết những mầu nhiệm này. Tuy vậy, khi thinh lặng quỳ gối cầu nguyện, chúng ta nhận ra những màu nhiệm ấy là có thật. Khi chiêm ngắm cầu nguyện trước Thánh Thể, là một mầu nhiệm con người không thể hiểu thấu, chúng ta ra về với tâm hồn thanh thản và được tăng thêm sức mạnh.
“Đây là con Ta yêu dấu!”. Chúa Cha đã nói những lời ấy về Chúa Giêsu. Khi được thanh tẩy, Chúa Cha cũng nói về chúng ta như thế. Xin cho chúng ta trở nên hiện thân của Người giữa trần gian, để đem niềm vui và hy vọng đến cho cuộc đời.
Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng sinh và dẫn chúng ta vào ngưỡng cửa đời sống công khai của Ngài. Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Messia – Đấng cứu thế – nhưng muốn liên đới với loài người tội lỗi. Đây cũng là tấm gương cho chúng ta: chúng ta cũng đã chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần, vậy chúng ta hãy cố gắng sống như những đứa con hiếu thảo của Thiên Chúa và tham gia vào sứ mạng loan Tin Mừng của Đức Giêsu.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đã lãnh nhận phép rửa. Nhưng chúng ta có sống như những người con hiếu thảo của Thiên Chúa không?
Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta có quan tâm đến sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh em chúng ta không?
Chúng ta có luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Đệ nhị Isaia.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là một vị vua hòa bình có sứ mạng "lập giao ước" giữa Thiên Chúa với dân Ngài.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là "ánh sáng của chư dân", làm cho muôn dân biết rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất, đấng sáng tạo vũ trụ và sẵn sàng cứu độ mọi người chứ không riêng gì người do thái.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa "sẽ xét xử chư dân", nghĩa là Ngài sẽ chấm dứt sự đối đầu từ trước tới nay giữa Thiên Chúa của Israel với các thần của các dân ngoại. Từ nay mọi người sẽ biết rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, còn các thần của các dân ngoại chỉ là đồ hư vô.
Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét".
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 28
Tv này ca tụng Thiên Chúa là chủ tế các quyền lực thiên nhiên như sóng nước, thuỷ triều, sấm sét v.v. Hôm nay, tiếng của vị chủ tể thiên nhiên ấy công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
3. Tin Mừng: Lc 3,15-16.21-22
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần:
Phần đầu (cc 15-16): dân chúng tưởng Gioan tẩy giả là Đấng Messia. Nhưng Gioan xác định ngay ông không phải. Mặc dù ông làm phép rửa nhưng chỉ bằng nước; Đấng Messia thật sẽ đến sau ông nhưng cao trọng hơn ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Phần sau (cc 21-22): Đức Giêsu đến lãnh nhận phép rửa của Gioan. Đang khi đó thì trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán xuống "Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra con".
4. Bài đọc 2: Cv 10,34-38
Bối cảnh: Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Thánh Phêrô đã rửa tội cho ông Cornêliô, một người rôma. Đây là một hành động có tính cách mạng vì từ trước tới nay các tông đồ chưa từng nghĩ đến việc cho người không Do Thái gia nhập Giáo Hội.
Trong bài nói chuyện trước những người Do thái, Thánh Phêrô đã giải thích cho họ biết tại sao ông làm vậy: "Thiên Chúa không thiên tư tây vị… ai kính sợ Ngài và thực thi công chính đều được Ngài đón nhận". Phêrô còn chứng minh rằng chính Đức Giêsu đã theo đường lối ấy kể từ lúc Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Lễ tấn phong
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày việc Đức Giêsu chịu phép rửa như một nghi lễ tấn phong: đang khi Thánh Gioan tẩy giả dìm Đức Giêsu trong dòng nước sông Giođan thì ở phía trên trời mở ra, có Chúa Thánh Thần lấy hình chim câu đáp xuống, và có tiếng Chúa Cha từ trời long trọng công bố "Con là con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha". Theo tin tưởng của người do thái, ngày một ông vua được tấn phong cũng là ngày ông được làm Con của Thiên Chúa (thiên tử). Hôm nay Thiên Chúa công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, tức là Thiên Chúa tấn phong Ngài làm Messia, Đấng cứu thế.
Tuy nhiên nếu ta đọc kỹ bản văn Tin Mừng thì sẽ thấy Đấng cứu thế này có vài nét đặc biệt không như người ta vẫn tưởng:
Thứ nhất: Ngài đang ở chung với những kẻ tội lỗi xếp hàng chờ được Gioan Tẩy giả làm phép rửa. Như thế Đức Giêsu tuy là một Đấng cứu thế nhưng không tách biệt với những kẻ phàm tục tội lỗi, mà lại hòa mình với họ.
Thứ hai: tiếng Chúa Cha từ trời gọi Ngài là "Con yêu dấu". Đây là lặp lại câu của Abraham ngày xưa nói với Isaac con yêu dấu của ông. Khi đó Abraham đã già nhưng chỉ có mỗi một đứa con. Để thử lòng ông, Thiên Chúa bảo ông phải đem Isaac đi giết để tế lễ cho Ngài. Abraham thương con lắm nhưng phải vâng lời Thiên Chúa. Ông bảo Isaac vác một bó củi, phần ông thì dấu một con dao trong áo. Hai cha con lên núi chọn chỗ tốt để tế lễ. Isaac ngây thơ hỏi "Củi thì đã có sẵn nhưng lễ vật thì ở đâu?" Câu hỏi ngây thơ của đứa con làm cho lòng Abraham đau như cắt. Nhưng ông đáp "Con yêu dấu ơi. Chúa sẽ lo liệu". Trong chuyện xưa, "con yêu dấu" là cậu bé Isaac sắp bị giết chết làm lễ tế cho Thiên Chúa. Trong đoạn Tin Mừng này, "Con yêu dấu" là chính Đức Giêsu. Ngài cũng sẽ giống như Isaac xưa, sẽ bị giết chết để làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa chuộc tội cho loài người.
Như thế ngày Đức Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tấn phong làm Đấng cứu thế dùng chính cái chết của mình để cứu chuộc loài người tội lỗi.
* 2. "Cha hài lòng về con"
Đức Giêsu làm gì mà khiến Chúa Cha hài lòng? Lúc đó Đức Giêsu đang chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy giả trong dòng sông Giođan. Mà phép rửa của Gioan là một nghi thức dành cho người tội lỗi để bày tỏ lòng sám hối. Đức Giêsu không cần phải bày tỏ lòng sám hối bởi vì Ngài không có tội. Vậy mà Ngài chịu phép rửa như một tội nhân. Ngài làm như thế là theo ý muốn của Chúa Cha. Một người con không thể làm gì cho cha mình hài lòng bằng làm theo ý Cha và đúng y như ý Cha muốn. Tóm lại Chúa Cha hài lòng vì thấy Đức Giêsu làm theo ý mình, mặc dù làm như thế thì Đức Giêsu phải hạ mình.
Nhờ thông phần với Đức Giêsu, tôi cũng được nhận làm "con" của Chúa Cha. Nếu tôi muốn cho Cha hài lòng, tôi cũng phải luôn làm theo ý Cha, và tôi phải hạ mình sống khiêm tốn.
3. Tác động của Chúa Thánh Thần
Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giêsu đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên mình, và được tấn phong làm Đấng Messia.
Trong chuyện hồng thuỷ ngày xưa, chim bồ câu là hình ảnh tiên báo cảnh thái bình. Hôm nay Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giêsu cũng cho biết Ngài là Đấng cứu thế mang lại thái bình cho loài người.
Thật vậy, như bài đọc I mô tả, Đức Giêsu là một Người Tôi tớ hiền dịu "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét". Phần thánh Phêrô thì khẳng định trong bài đọc II: "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám".
Tác động của Chúa Thánh Thần ngày nay cũng thế: bình an, dịu dàng, chữa lành, ban sự sống mới…
4. Thời điểm quyết định trong đời
Nhiều người đã thay đổi hẳn cuộc đời vì một thời điểm quyết định. Thời điểm đó giống như lúc ta đi đến một ngã tư và phải chọn một trong 4 hướng để tiến tới.
Đó là thời điểm mà tâm trí ta được soi sáng đặc biệt. Nếu ta đáp lại thì đời ta sẽ vươn lên, đồng thời kéo theo nhiều người khác cũng vươn lên. Nhưng nếu ta bỏ qua thì cơ may có thể không bao giờ trở lại.
Thời điểm ấy có thể đến một cách đột ngột. Như trường hợp của Matt Talbot, một người nghiện rượu, ngày nào cũng say bí tỉ. Một hôm anh đứng trước quán rượu chìa tay xin tiền những người qua lại mà anh nghĩ là bạn bè thân thuộc. Nhưng mọi người đều đi qua, chẳng ai cho anh một xu. Trong giây phút ấy, giống như những vảy cá trong mắt anh bỗng rơi xuống, anh chợt nhận thức rằng mình đang phá hỏng đời mình. Thế là anh quyết định bỏ rượu và cố gắng nhờ ơn Chúa để trở thành một vị thánh.
Thời điểm ấy cũng có thể đến từ từ. Như trường hợp của Mẹ Têrêxa. Mẹ đang làm việc trong một trường nội trú của những nữ sinh con nhà khá giả ở Calcutta. Nhưng lòng mẹ luôn ray rứt vì thường nhìn thấy những người nghèo nắm vất vưỡng trên những hè phố. Thế là một hôm, Mẹ quyết định đi phục vụ những người nghèo ấy. Từ đó trở đi, tên "Mẹ Têrêxa Calcutta" trở thành điển hình cho việc hiến thân phục vụ những kẻ bị bỏ rơi.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại thời điểm quyết định của cuộc đời Đức Giêsu, đó là khi Ngài lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trước đó Ngài sống một cuộc sống tương đối bình lặng của một người thợ mộc làng Nadarét. Nhưng khi nhận phép rửa, Ngài đã nghe một tiếng nói từ trời cao, gọi Ngài làm một việc khác quan trọng hơn. Từ đó trở đi Ngài giã từ nếp sống cũ, bắt đầu cuộc sống mới chuyên lo rao giảng Tin Mừng và cứu chữa mọi người.
Tất cả chúng ta cũng đều lãnh nhận Phép Rửa. Đó phải là thời điểm quyết định của cuộc đời chúng ta, bởi vì khi lãnh nhận phép rửa là chúng ta lãnh nhận một cuộc sống mới (Bài đọc I), trong Phép Rửa chúng ta trở thành môn đệ Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi chiến đấu chống lại sự dữ và yêu thương anh em mình (Bài đọc II). Tuy nhiên vì khi đó chúng ta chưa ý thức đủ nên cuộc đời chúng ta không đổi thay được gì mấy.
Hôm nay chúng ta hãy ý thức lại thời điểm quan trọng ấy để thay đổi cuộc đời, sống đúng theo ơn gọi của người Kitô hữu (Viết theo Flor McCarthy)
5. Khúc dạo đầu tình yêu
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
****
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép Rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sáng thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa "thống hối".
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Đấng Cứu độ sống như người cần được Cứu độ.
Phép Rửa hôm nay chỉ là khúc đạo đầu của bản trường ca Tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế và phường tội lỗi" (Lc.7,34). Bị người nhà coi là "kẻ mất trí". Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa". Người trầm mình trong đau khổ để mang lại Ơn Cứu Độ cho mọi người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc.12,50).
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, "Con cái yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo Tin Vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang Tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: "Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ". Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẻ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta".
****
Lạy Chúa, Chúa đã nên bạn đồng hành với thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con, xin cho chúng con cũng biết đem Tình yêu cao cả nồng ấm của Chúa đến cho anh chị em chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Hòa đồng với những người tội lỗi
Mahatma Gandhi không phải là một kitô hữu, nhưng ngài là một trong những người đã sống giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ của ngài.
Gandhi kiên quyết chống lại hệ thống phân biệt giai cấp ở Ấn độ. Ngài gọi đó là "một vết nhơ trong linh hồn nước Ấn độ". Ngài đặc biệt ghê tởm cách người ta đối xử với những người "không nên đụng tới", tức là những người không được xếp vào giai cấp nào cả trong xã hội: họ không được vào các đền thờ; nếu sống ở thành thị, họ bị buộc phải ở trong những khu ổ chuột; nếu sống ở thôn quê, họ bị cấm không cho sử dụng những giếng nước công cộng; về việc làm, họ chỉ được làm những việc thấp hèn với đồng lương rất thấp.
Vì là một nhân vật nổi tiếng khắp Ấn độ nên Gandhi đi đến đâu cũng được mọi người tiếp rước nồng hậu. Khi ngài vào một làng nào thì ông trưởng làng mời ngài đến trọ tại nhà ông ta với đầy đủ thức ăn thức uống và mọi tiện nghi dễ chịu. Nhưng Gandhi luôn từ chối một cách lịch sự. Ngài hỏi: "Những người 'không nên đụng tới' ở đâu vậy? Tôi muốn trọ tại nhà họ". Và quả thực ngài đã đến với những người ấy, ở với họ, ăn uống với họ, chơi đùa với con cái họ. Có lần ngài còn nói: "Tôi không thể được sinh ra lần nữa. Nhưng nếu có thể thì tôi muốn sinh ra giữa những người 'không được đụng tới', vì nhớ đó tôi mới có thể giải phóng họ và chính bản thân tôi khỏi cuộc sống khốn khổ". Tóm lại Gandhi đã quên thân phận mình để hòa đồng với những người khốn khổ hầu có thể giải phóng họ.
Hôm nay Đức Giêsu xếp hàng chung với những kẻ khốn khổ để chờ được Gioan làm phép thanh tẩy. Ngài đã quên thân phận mình để hòa mình với những kẻ khốn khổ. Những kẻ khốn khổ ấy là những người tội lỗi, những người nghèo, những người bệnh tật, những kẻ bị xã hội coi khinh. Họ là thành phần đa số trong xã hội Palestina thời đó. Đức Giêsu không tách riêng ra, Ngài không đứng bên lề, không chờ họ đến với Ngài, mà đích thân tìm đến với họ và ở giữa họ.
Chính Chúa Cha từ trời đã vừa ý với sự chọn lựa ấy, nên đã phán: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con" (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của thánh Gioan Tiền Hô, rồi được Chúa Cha tỏ lòng sủng ái, và được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu độ muôn dân. Chúng ta hết lòng cảm tạ và dâng lời cầu xin:
1. Xin cho mọi người đã được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong làm Kitô hữu/ luôn sẵn sàng cộng tác với Hội thánh để đem ơn cứu độ đến cho thế giới.
2. Xin cho mọi người lương thiện đang kiếm tim hạnh phúc thật/ được gặp thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu độ/ và là Đường dẫn tới hạnh phúc thật.
3. Xin cho mọi người đang băn khoăn đau khổ trước cuộc sống đầy bất công và bất hạnh/ biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn ban của Chúa Thế giới.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đã lãnh nhận bí tích Thêm sức/ luôn nhớ thi hành sứ vụ truyền giáo cho những người chung quanh mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đã được Rửa tội và được Thêm sức trong Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần của Người để được làm con cái Chúa, xin cho chúng con luôn sống xứng đáng người con yêu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta cũng được thanh tẩy trong cùng một Thánh Thần như Đức Giêsu và cũng được làm Con yêu dấu của Chúa Cha. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Đức Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
Trước lúc rước lễ: Thánh lễ là một bàn tiệc, con cái và cha mẹ quây quần bên nhau trong cùng một bàn ăn. Chúng ta được chia xẻ thân phận làm con của Đức Giêsu nên cũng được mời dự bữa tiệc thánh này. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa"
VII. Giải tán
Chúng ta đã được thanh tẩy trong Đức Giêsu và được tuyển chọn bởi Chúa Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho mọi người. Chúng ta hãy ra đi thi hành sứ mạng cao cả ấy. Chúc anh chị em bình an.
--ViKiN i--‘Xây Nhà Trên Đá’ --Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” – Mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Đây là câu tâm niệm của vua Thành Thang khắc trên bồn tắm. Vua cho rằng: Người ta phải gội rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hàng ngày (Sách Đại Học, I, 1).
Bất cứ ai lương thiện đều cần thiết phải gột rửa tâm hồn hàng ngày. Chẳng ngày nào mà không có lỗi.
Gioan Tẩy giả dù sống trong rừng vắng cũng thấy rõ đời sống con người chồng chất tội nhơ. Sao con người dám đón mừng Đấng Cứu Thế đến! Ông đã quyết tâm từ giã hoang địa, đi rảo khắp miền sông Hòa Giang, hô hào dân chúng sám hối, xuống sông thanh tẩy mình dưới giòng nước trong lành. Từ tẩy sạch thân xác cho mát mẻ, họ sẽ thấm sâu ý nghĩa thanh tẩy tâm hồn để được ơn lành mạnh, thánh thiện của Đấng Cứu Thế đến ban cho họ. Gioan đang làm phép rửa và hô hào như thế, không ngờ, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế đã khiêm tốn ẩn mình trong đám đông dân chúng đến dìm mình dưới sông cho ông thanh tẩy. “Khi Người vừa lên khỏi nước, các tầng trời mở tung ra, Thánh Thần tựa như chim câu ngự xuống trên Người và từ trời có tiếng phán rằng: “Con là Con chí ái của Cha, Cha rất hài lòng về Con”.
Thật kinh ngạc, hôm nay Người đến thánh hóa giòng nước nhờ thân xác chí thánh của Người và nhờ Thánh Thần từ trời xuống trên Người. Chính nước thánh Người ban mới có sức thiêng liêng thanh tẩy tâm hồn vô hình được hoàn toàn trở nên trong sạch, tẩy trừ mọi vết nhơ tội lỗi, cho ta xứng đáng trở nên con yêu dấu của Chúa Cha.
Thế nhưng, người nông nổi bảo: Nước nào cũng thế thôi. Đại tướng Naaman cũng nghĩ thế khi tiên tri Êlisê bảo ông đến tắm nước sông Hòa Giang bảy lần thì khỏi bệnh phong cùi. Ông đã tức giận nói: Nước sông ở nước ta không sạch hơn nước sông ở Israel sao? Ông giận dữ đã bỏ về. Thuộc hạ đã can ông rằng: “Nếu tiên tri bảo đại tướng làm những kỳ công để khỏi bệnh, đại tướng còn làm. Huống chi một việc dễ như vậy, sao đại tướng không làm?”. Naaman đã nghe và xuống sông tắm, da ông được sạch và đẹp đẽ như da trẻ thơ. (2V. 5).
Nước suối Lộ Đức đã làm cho hàng ngàn bác sĩ phải kinh ngạc. Nước đó cũng giống như bao nhiêu nước suối khác. Nhưng với lòng tin, ơn Chúa đã ban cho bao nhiêu bệnh nhân được khỏi bệnh thân xác và tâm hồn một cách lạ lùng, như trường hợp cơn bệnh của nhà bác học nổi tiếng: Bác sĩ Alexis Carrel. Năm 1947, cô Marie Ferrand bị bệnh lao ruột, cả Hội đồng bác sĩ ở Paris khám bệnh đều chắc chắn cô sắp chết. Nhưng cô đã xin được đến tắm suối Lộ Đức. Bác sĩ Carrel đã đi theo để xem xét cô cẩn thận và khuyên không nên cho cô tắm suối vì sẽ chết khi chưa xuống tới suối. Tuy nhiên, để làm vui lòng bệnh nhân, người ta đưa cô xuống tắm nước suối. Thật lạ lùng, cô Marie đã khỏi. Bác sĩ Carrel lấy bút ghi ngay vào tay áo: “2g40 thật bất ngờ, một phép lạ mới xảy ra”. Nước suối với lòng tin mạnh mẽ của cô, cô được khỏi bệnh đã làm cho nhà khoa học vô thần Carrel trở lại, chịu phép Rửa tội Công giáo. Còn bao nhiêu nhà vô thần vị vọng khác đã được khỏi chết đời đời, nhờ một thứ nước thiêng, lạ lùng hơn nước suối Lộ Đức là nước thánh Rửa tội, nước bởi nguồn yêu thương của Thánh Thần chảy ra từ cạnh sườn và trái tim Đức Giêsu Kitô. “Ai không sinh bởi nước và Thánh Thần thì chẳng được vào nước Trời” (Ga. 3, 5).
Mỗi người chúng ta đều được nước thánh ấy đổ trên đầu nhân danh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Đấy là một công trình tạo dựng mới, một cuộc phục sinh trong Chúa Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại để sống trong sự sống của Chúa Ba Ngôi. Sự sống ấy đầy tràn sức mạnh của Chúa Thánh Thần qua việc xức dầu thánh. Sự sống ấy được bao phủ bằng tấm áo trắng thánh thiện tinh tuyền của Đức Kitô. Sự sống ấy còn được ánh sáng nến phục sinh đốt sáng lên, cho ta xứng đáng là con cái của ánh sáng muôn đời chiếu tỏa trên những kẻ còn ngồi trong tối tăm sự chết.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến thánh hóa giòng nước trần gian, cho thế nhân nguồn nước trường sinh. Nguồn nước thanh tẩy tội lỗi, nguồn nước tạo dựng con người mới biến đổi con người tội lỗi trở nên con chí ái của Thiên Chúa, trong thân thể phục sinh sáng láng của Đức Kitô, trong nguồn sống vinh quang muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin cho chúng con biết trung thành sống trong nguồn nước Thần Linh chí thánh ấy, cho thân xác chúng con được mạnh khỏe, cho tâm hồn chúng con được tươi mát, cho đời sống chúng con thành ánh sáng thế gian. Amen.
1- Nếu tôi là dân Do thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Gióc đan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói: “Hãy dọn đàng cho Đấng Cứu thế đến”. Rửa xong tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xẩy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dậy: “Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con”. Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu thế đang ở với tôi.
2- Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu thế, tôi sẽ tự đắc hô to: đấy tôi nói có sai đâu, Ngài đến đây nè... rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do, giầu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại, ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ”. Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu thế: dù phải chặt đầu ông vẫn luôn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
3- Còn Đức Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: “Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế”. Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế, cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong giòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết kính nhường nhau, đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm Kitô hữu cho Đấng Cứu thế, chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời.
Lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng sinh và dẫn chúng ta vào ngưỡng cửa đời sống công khai của Ngài. Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Messia – Đấng cứu thế – nhưng muốn liên đới với loài người tội lỗi. Đây cũng là tấm gương cho chúng ta: chúng ta cũng đã chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần, vậy chúng ta hãy cố gắng sống như những đứa con hiếu thảo của Thiên Chúa và tham gia vào sứ mạng loan Tin Mừng của Đức Giêsu.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đã lãnh nhận phép rửa. Nhưng chúng ta có sống như những người con hiếu thảo của Thiên Chúa không?
Chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta có quan tâm đến sứ mạng loan báo Tin Mừng cho anh em chúng ta không?
Chúng ta có luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách Đệ nhị Isaia.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là một vị vua hòa bình có sứ mạng "lập giao ước" giữa Thiên Chúa với dân Ngài.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là "ánh sáng của chư dân", làm cho muôn dân biết rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất, đấng sáng tạo vũ trụ và sẵn sàng cứu độ mọi người chứ không riêng gì người do thái.
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa "sẽ xét xử chư dân", nghĩa là Ngài sẽ chấm dứt sự đối đầu từ trước tới nay giữa Thiên Chúa của Israel với các thần của các dân ngoại. Từ nay mọi người sẽ biết rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, còn các thần của các dân ngoại chỉ là đồ hư vô.
Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét".
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 28
Tv này ca tụng Thiên Chúa là chủ tế các quyền lực thiên nhiên như sóng nước, thuỷ triều, sấm sét v.v. Hôm nay, tiếng của vị chủ tể thiên nhiên ấy công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.
3. Tin Mừng: Lc 3,15-16.21-22
Đoạn Tin Mừng này gồm hai phần:
Phần đầu (cc 15-16): dân chúng tưởng Gioan tẩy giả là Đấng Messia. Nhưng Gioan xác định ngay ông không phải. Mặc dù ông làm phép rửa nhưng chỉ bằng nước; Đấng Messia thật sẽ đến sau ông nhưng cao trọng hơn ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Phần sau (cc 21-22): Đức Giêsu đến lãnh nhận phép rửa của Gioan. Đang khi đó thì trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán xuống "Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra con".
4. Bài đọc 2: Cv 10,34-38
Bối cảnh: Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Thánh Phêrô đã rửa tội cho ông Cornêliô, một người rôma. Đây là một hành động có tính cách mạng vì từ trước tới nay các tông đồ chưa từng nghĩ đến việc cho người không Do Thái gia nhập Giáo Hội.
Trong bài nói chuyện trước những người Do thái, Thánh Phêrô đã giải thích cho họ biết tại sao ông làm vậy: "Thiên Chúa không thiên tư tây vị… ai kính sợ Ngài và thực thi công chính đều được Ngài đón nhận". Phêrô còn chứng minh rằng chính Đức Giêsu đã theo đường lối ấy kể từ lúc Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Lễ tấn phong
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày việc Đức Giêsu chịu phép rửa như một nghi lễ tấn phong: đang khi Thánh Gioan tẩy giả dìm Đức Giêsu trong dòng nước sông Giođan thì ở phía trên trời mở ra, có Chúa Thánh Thần lấy hình chim câu đáp xuống, và có tiếng Chúa Cha từ trời long trọng công bố "Con là con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha". Theo tin tưởng của người do thái, ngày một ông vua được tấn phong cũng là ngày ông được làm Con của Thiên Chúa (thiên tử). Hôm nay Thiên Chúa công nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, tức là Thiên Chúa tấn phong Ngài làm Messia, Đấng cứu thế.
Tuy nhiên nếu ta đọc kỹ bản văn Tin Mừng thì sẽ thấy Đấng cứu thế này có vài nét đặc biệt không như người ta vẫn tưởng:
Thứ nhất: Ngài đang ở chung với những kẻ tội lỗi xếp hàng chờ được Gioan Tẩy giả làm phép rửa. Như thế Đức Giêsu tuy là một Đấng cứu thế nhưng không tách biệt với những kẻ phàm tục tội lỗi, mà lại hòa mình với họ.
Thứ hai: tiếng Chúa Cha từ trời gọi Ngài là "Con yêu dấu". Đây là lặp lại câu của Abraham ngày xưa nói với Isaac con yêu dấu của ông. Khi đó Abraham đã già nhưng chỉ có mỗi một đứa con. Để thử lòng ông, Thiên Chúa bảo ông phải đem Isaac đi giết để tế lễ cho Ngài. Abraham thương con lắm nhưng phải vâng lời Thiên Chúa. Ông bảo Isaac vác một bó củi, phần ông thì dấu một con dao trong áo. Hai cha con lên núi chọn chỗ tốt để tế lễ. Isaac ngây thơ hỏi "Củi thì đã có sẵn nhưng lễ vật thì ở đâu?" Câu hỏi ngây thơ của đứa con làm cho lòng Abraham đau như cắt. Nhưng ông đáp "Con yêu dấu ơi. Chúa sẽ lo liệu". Trong chuyện xưa, "con yêu dấu" là cậu bé Isaac sắp bị giết chết làm lễ tế cho Thiên Chúa. Trong đoạn Tin Mừng này, "Con yêu dấu" là chính Đức Giêsu. Ngài cũng sẽ giống như Isaac xưa, sẽ bị giết chết để làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa chuộc tội cho loài người.
Như thế ngày Đức Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tấn phong làm Đấng cứu thế dùng chính cái chết của mình để cứu chuộc loài người tội lỗi.
* 2. "Cha hài lòng về con"
Đức Giêsu làm gì mà khiến Chúa Cha hài lòng? Lúc đó Đức Giêsu đang chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy giả trong dòng sông Giođan. Mà phép rửa của Gioan là một nghi thức dành cho người tội lỗi để bày tỏ lòng sám hối. Đức Giêsu không cần phải bày tỏ lòng sám hối bởi vì Ngài không có tội. Vậy mà Ngài chịu phép rửa như một tội nhân. Ngài làm như thế là theo ý muốn của Chúa Cha. Một người con không thể làm gì cho cha mình hài lòng bằng làm theo ý Cha và đúng y như ý Cha muốn. Tóm lại Chúa Cha hài lòng vì thấy Đức Giêsu làm theo ý mình, mặc dù làm như thế thì Đức Giêsu phải hạ mình.
Nhờ thông phần với Đức Giêsu, tôi cũng được nhận làm "con" của Chúa Cha. Nếu tôi muốn cho Cha hài lòng, tôi cũng phải luôn làm theo ý Cha, và tôi phải hạ mình sống khiêm tốn.
3. Tác động của Chúa Thánh Thần
Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giêsu đã được Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên mình, và được tấn phong làm Đấng Messia.
Trong chuyện hồng thuỷ ngày xưa, chim bồ câu là hình ảnh tiên báo cảnh thái bình. Hôm nay Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giêsu cũng cho biết Ngài là Đấng cứu thế mang lại thái bình cho loài người.
Thật vậy, như bài đọc I mô tả, Đức Giêsu là một Người Tôi tớ hiền dịu "không lớn tiếng", "không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét". Phần thánh Phêrô thì khẳng định trong bài đọc II: "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám".
Tác động của Chúa Thánh Thần ngày nay cũng thế: bình an, dịu dàng, chữa lành, ban sự sống mới…
4. Thời điểm quyết định trong đời
Nhiều người đã thay đổi hẳn cuộc đời vì một thời điểm quyết định. Thời điểm đó giống như lúc ta đi đến một ngã tư và phải chọn một trong 4 hướng để tiến tới.
Đó là thời điểm mà tâm trí ta được soi sáng đặc biệt. Nếu ta đáp lại thì đời ta sẽ vươn lên, đồng thời kéo theo nhiều người khác cũng vươn lên. Nhưng nếu ta bỏ qua thì cơ may có thể không bao giờ trở lại.
Thời điểm ấy có thể đến một cách đột ngột. Như trường hợp của Matt Talbot, một người nghiện rượu, ngày nào cũng say bí tỉ. Một hôm anh đứng trước quán rượu chìa tay xin tiền những người qua lại mà anh nghĩ là bạn bè thân thuộc. Nhưng mọi người đều đi qua, chẳng ai cho anh một xu. Trong giây phút ấy, giống như những vảy cá trong mắt anh bỗng rơi xuống, anh chợt nhận thức rằng mình đang phá hỏng đời mình. Thế là anh quyết định bỏ rượu và cố gắng nhờ ơn Chúa để trở thành một vị thánh.
Thời điểm ấy cũng có thể đến từ từ. Như trường hợp của Mẹ Têrêxa. Mẹ đang làm việc trong một trường nội trú của những nữ sinh con nhà khá giả ở Calcutta. Nhưng lòng mẹ luôn ray rứt vì thường nhìn thấy những người nghèo nắm vất vưỡng trên những hè phố. Thế là một hôm, Mẹ quyết định đi phục vụ những người nghèo ấy. Từ đó trở đi, tên "Mẹ Têrêxa Calcutta" trở thành điển hình cho việc hiến thân phục vụ những kẻ bị bỏ rơi.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại thời điểm quyết định của cuộc đời Đức Giêsu, đó là khi Ngài lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trước đó Ngài sống một cuộc sống tương đối bình lặng của một người thợ mộc làng Nadarét. Nhưng khi nhận phép rửa, Ngài đã nghe một tiếng nói từ trời cao, gọi Ngài làm một việc khác quan trọng hơn. Từ đó trở đi Ngài giã từ nếp sống cũ, bắt đầu cuộc sống mới chuyên lo rao giảng Tin Mừng và cứu chữa mọi người.
Tất cả chúng ta cũng đều lãnh nhận Phép Rửa. Đó phải là thời điểm quyết định của cuộc đời chúng ta, bởi vì khi lãnh nhận phép rửa là chúng ta lãnh nhận một cuộc sống mới (Bài đọc I), trong Phép Rửa chúng ta trở thành môn đệ Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi chiến đấu chống lại sự dữ và yêu thương anh em mình (Bài đọc II). Tuy nhiên vì khi đó chúng ta chưa ý thức đủ nên cuộc đời chúng ta không đổi thay được gì mấy.
Hôm nay chúng ta hãy ý thức lại thời điểm quan trọng ấy để thay đổi cuộc đời, sống đúng theo ơn gọi của người Kitô hữu (Viết theo Flor McCarthy)
5. Khúc dạo đầu tình yêu
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
****
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép Rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sáng thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa "thống hối".
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Đấng Cứu độ sống như người cần được Cứu độ.
Phép Rửa hôm nay chỉ là khúc đạo đầu của bản trường ca Tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thế và phường tội lỗi" (Lc.7,34). Bị người nhà coi là "kẻ mất trí". Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: "Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa". Người trầm mình trong đau khổ để mang lại Ơn Cứu Độ cho mọi người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc.12,50).
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, "Con cái yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo Tin Vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang Tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: "Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ". Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẻ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta".
****
Lạy Chúa, Chúa đã nên bạn đồng hành với thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con, xin cho chúng con cũng biết đem Tình yêu cao cả nồng ấm của Chúa đến cho anh chị em chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Hòa đồng với những người tội lỗi
Mahatma Gandhi không phải là một kitô hữu, nhưng ngài là một trong những người đã sống giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ của ngài.
Gandhi kiên quyết chống lại hệ thống phân biệt giai cấp ở Ấn độ. Ngài gọi đó là "một vết nhơ trong linh hồn nước Ấn độ". Ngài đặc biệt ghê tởm cách người ta đối xử với những người "không nên đụng tới", tức là những người không được xếp vào giai cấp nào cả trong xã hội: họ không được vào các đền thờ; nếu sống ở thành thị, họ bị buộc phải ở trong những khu ổ chuột; nếu sống ở thôn quê, họ bị cấm không cho sử dụng những giếng nước công cộng; về việc làm, họ chỉ được làm những việc thấp hèn với đồng lương rất thấp.
Vì là một nhân vật nổi tiếng khắp Ấn độ nên Gandhi đi đến đâu cũng được mọi người tiếp rước nồng hậu. Khi ngài vào một làng nào thì ông trưởng làng mời ngài đến trọ tại nhà ông ta với đầy đủ thức ăn thức uống và mọi tiện nghi dễ chịu. Nhưng Gandhi luôn từ chối một cách lịch sự. Ngài hỏi: "Những người 'không nên đụng tới' ở đâu vậy? Tôi muốn trọ tại nhà họ". Và quả thực ngài đã đến với những người ấy, ở với họ, ăn uống với họ, chơi đùa với con cái họ. Có lần ngài còn nói: "Tôi không thể được sinh ra lần nữa. Nhưng nếu có thể thì tôi muốn sinh ra giữa những người 'không được đụng tới', vì nhớ đó tôi mới có thể giải phóng họ và chính bản thân tôi khỏi cuộc sống khốn khổ". Tóm lại Gandhi đã quên thân phận mình để hòa đồng với những người khốn khổ hầu có thể giải phóng họ.
Hôm nay Đức Giêsu xếp hàng chung với những kẻ khốn khổ để chờ được Gioan làm phép thanh tẩy. Ngài đã quên thân phận mình để hòa mình với những kẻ khốn khổ. Những kẻ khốn khổ ấy là những người tội lỗi, những người nghèo, những người bệnh tật, những kẻ bị xã hội coi khinh. Họ là thành phần đa số trong xã hội Palestina thời đó. Đức Giêsu không tách riêng ra, Ngài không đứng bên lề, không chờ họ đến với Ngài, mà đích thân tìm đến với họ và ở giữa họ.
Chính Chúa Cha từ trời đã vừa ý với sự chọn lựa ấy, nên đã phán: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con" (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của thánh Gioan Tiền Hô, rồi được Chúa Cha tỏ lòng sủng ái, và được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu độ muôn dân. Chúng ta hết lòng cảm tạ và dâng lời cầu xin:
1. Xin cho mọi người đã được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong làm Kitô hữu/ luôn sẵn sàng cộng tác với Hội thánh để đem ơn cứu độ đến cho thế giới.
2. Xin cho mọi người lương thiện đang kiếm tim hạnh phúc thật/ được gặp thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu độ/ và là Đường dẫn tới hạnh phúc thật.
3. Xin cho mọi người đang băn khoăn đau khổ trước cuộc sống đầy bất công và bất hạnh/ biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn ban của Chúa Thế giới.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đã lãnh nhận bí tích Thêm sức/ luôn nhớ thi hành sứ vụ truyền giáo cho những người chung quanh mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đã được Rửa tội và được Thêm sức trong Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần của Người để được làm con cái Chúa, xin cho chúng con luôn sống xứng đáng người con yêu của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta cũng được thanh tẩy trong cùng một Thánh Thần như Đức Giêsu và cũng được làm Con yêu dấu của Chúa Cha. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Đức Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
Trước lúc rước lễ: Thánh lễ là một bàn tiệc, con cái và cha mẹ quây quần bên nhau trong cùng một bàn ăn. Chúng ta được chia xẻ thân phận làm con của Đức Giêsu nên cũng được mời dự bữa tiệc thánh này. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa"
VII. Giải tán
Chúng ta đã được thanh tẩy trong Đức Giêsu và được tuyển chọn bởi Chúa Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho mọi người. Chúng ta hãy ra đi thi hành sứ mạng cao cả ấy. Chúc anh chị em bình an.
Hôm nay Phụng vụ kết thúc mùa Giáng sinh và bắt đầu mùa thường niên. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa khởi đầu cho mùa thường niên này.
Việc Chúa Giêsu nài ép Gioan làm phép rửa cho mình khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Ngài là Đấng “vô tội” tại sao lại xin chịu phép rửa sám hối như một tội nhân? Ngài làm như vậy là vì ngay từ đầu đời sống công khai, Ngài đã thực hiện trọn vẹn ý Cha, như người “Tôi Tớ vâng phục” mà các tiên tri đã loan báo. Ngài sẵn sàng vâng phục chấp nhận cái chết trên thập giá. Phép Rửa bằng máu này dẫn tới và thánh hiến phép rửa bằng nước.
Việc làm của Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa Phép Rửa Tội của chúng ta. Nhờ phép rửa tội, chúng ta được nhận lại làm con Chúa, được thừa hưởng Nước Trời. Do đó, chúng ta phải dấn thân trọn vẹn để sống với Chúa trong tình hiệp nhất yêu thương, sống trọn vẹn tình con đối với Cha, sống sao cho xứng danh Kitô hữu để làm vinh danh Cha trên trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7.
Khi ấy dân Do thái bị thử thách nặng nề, phải đi đầy ở Babylon. Để khích lệ họ, tiên tri Isaia loan báo: họ vinh dự được Thiên Chúa chọn làm đầy tớ lý tưởng của Ngài, có trách nhiệm giới thiệu Thiên Chúa cho dân ngoại.
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách đệ nhị Isaia. Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại, Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, “không lớn tiếng, không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”.
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ. Vai trò này, Ngài sẽ hoàn thành khi biến tôn giáo của đức tin thành một sự ưng thuận thắm tình con thảo mà mọi người đều có thể nói lên, dù người ấy thuộc bất cứ nền văn hoá hay quốc gia nào. Theo gương Đức Kitô, các Kitô hữu cũng phải thực hiện nhiệm vụ trên.
+ Bài đọc 2: Cv 10,34-38.
Đây là phần đầu bài giảng của thánh Phêrô ở Cêsarêa cho ông Corneliô, viên sĩ quan Rôma và gia đình của ông để giúp họ hoán cải và chịu phép rửa. Đây là một việc làm có tính cách cách mạng vì từ trước đến nay các tông đồ chưa nghĩ đến việc cho người ngoại gia nhập Giáo hội.
Trong bài nói chuyện với người Do thái, Phêrô cho biết sở dĩ Ngài dám làm như vậy vì “Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai, hễ ai thực hành sự công chính, đều được Ngài đón nhận”. Chính Đức Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài và Ngài đã đi khắp nơi để ban phát ơn lành.
+ Bài Tin mừng: Lc 3,15-16.21-22.
Cả 3 bài Tin mừng của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa có rất nhiều điểm giống nhau. Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành 2 phần:
* Phần một: Ông Gioan thanh minh là mình không phải là Đấng Kitô như người ta tưởng. Có Đấng sẽ đến sau ông và cao trọng hơn ông. Hiện nay ông chỉ rửa họ bằng nước, còn Đấng đến sau sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
* Phần hai: Đức Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan và trong nghi lễ này Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu thế. Đó chính là ý nghĩa việc Thánh Thần hiện xuống,”các tầng trời mở ra”, cách diễn tả lấy lại của Isaia 63,11-14.19 khi công bố tấn phong một vị giải phóng mới. Có tiếng nói từ trời vang trên Đức Giêsu, tiếng nói ấy cũng thuộc về nghi thức phong vương một vị vua mới:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Một cuộc đổi mới.
I. NGÀY LỄ PHONG VƯƠNG.
Phụng vụ hôm nay, nhất là bài Tin mừng, gợi lên cho chúng ta ý tưởng về ngày lễ phong vương. Thánh Marcô cho chúng ta biết Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan ở sông Giorđan. Chính khi Đức Giêsu được dìm trong nước và được kéo lên thì trời mở ra và có Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim bồ câu và tiếng nói từ trời vang xuống:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây là tiếng của Thiên Chúa Cha nói với Đức Giêsu để nhận Ngài làm Con. Lời nói ấy khiến chúng ta nghĩ đến một nghi lễ phong vương.
Ngày xưa, khi một người được phong lên làm vua thì phải trải qua một cuộc lễ phong vương với nghi thức gồm 3 phần, và hôm nay Đức Giêsu cũng đã thực hiện 3 phần ấy:
- Phải tắm rửa sạch sẽ. - Phải được xức dầu. - Và được tôn xưng làm vua.
1. Phải tắm rửa sạch sẽ.
Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan bởi tay ông Gioan Tẩy giả. Chỉ ai không trong sạch mới cần tắm rửa. Vậy, Đức Giêsu là chiên của Thiên Chúa, một con chiên trong sạch vô tì tích, tại sao lại phải tẩy rửa tội lỗi? Thưa, Ngài làm như vậy là để hòa đồng với con người khiêm nhường để từ đó dạy ta rằng muốn vào Nước Trời, phải ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và phải tắm gội tâm hồn cho trong sạch:”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được xem thấy Chúa”.
2. Phải được xức dầu.
Đức Giêsu được Thánh Thần xức dầu tấn phong. Trong bài đọc 2, thánh Phêrô nói:”Đức Giêsu thành Nazareth được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng và xức dầu tấn phong cho Ngài”.
Tiên tri Isaia đã nói trước và chính Đức Giêsu đọc đoạn sách của Isaia ở hội đường Do thái:”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: Vì Chúa đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đầy, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa...”(Is 61,1-3). Và Đức Giêsu đã kết luận: hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về Ngài.
3. Ngài được phong vương.
Đức Giêsu được tôn phong làm vua, là Đấng Messia, là Chúa Cứu thế.
Trong Tin mừng, Thánh Marcô nói:”Khi Ngài vừa ở dưới nước lên thì Trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đây là lời tuyên phong long trọng Đức Giêsu là Vua, là Con Thiên Chúa.
II. Ý NGHĨA VIỆC CHỊU PHÉP RỬA.
1. Phép rửa của Gioan và của Đức Giêsu.
Chúng ta thấy có sự khác nhau giữa phép rửa của Gioan và của Chúa Giêsu. Phép rửa của Gioan chỉ là dấu hiệu của sự ăn năn sám hối. Người Do thái đến cho Gioan làm phép rửa là để được ăn năn các tội mình để được ơn tha thứ. Còn Chúa Giêsu Kitô, con người vô tội, không thể lãnh nhận Phép rửa với hướng đó. Vậy Ngài đến xin rửa không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Ngài chịu phép rửa là nói lên, từ nay, Ngài chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Ngài và cuộc đời này chỉ hoàn tất với phép rửa cuối cùng, của sự chết (Mc 10,38 ; Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã, và là số phận bi đát nhất.
Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa “tái sinh”. Nó ban cho mọi người một đời sống toàn vẹn. Giải thích về đời sống mới này, thánh Phaolô đã viết cho các Kitô hữu vừa mới được rửa tội như sau:”Khi được rửa tội là anh em được mai táng với Đức Kitô, và trong phép rửa tội, anh em cũng được sống lại với Đức Kitô. Anh em đã bị chết về mặt tâm linh nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang anh em đến nguồn sống cùng với Đức Kitô”(Cl 2,12-13).
2. Lý do Đức Giêsu chịu phép rửa.
Việc Đức Giêsu tự nguyện đến xin chịu phép rửa của Gioan không nhằm ăn năn sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Ngài là Đấng vô tội (Dt 5,15b ; 7,26). Nhưng qua hành động này, Ngài muốn chia sẻ thân phận yếu hèn và cảm thông với các tội nhân để sau này sẽ chịu chết đền tội thay cho họ. Đàng khác, việc toàn thân Chúa Giêsu được Gioan dìm xuống nước sông Giorđan, chính là hình bóng của phép rửa mà Ngài sẽ phải chịu trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh sau này (x.Rm 6,3-4). Và từ mầu nhiệm phục sinh, Chúa Giêsu thiết lập bí tích rửa tội để nhờ đó tái sinh các tín hữu và đổi mới họ nhờ nước và Thánh Thần. Đây cũng là điều kiện để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x.Ga 3-6 ; Tt 3,5).
Ngoài ra, việc Đức Giêsu đến xin chịu phép rửa của Gioan còn là cơ hội để ông thi hành sứ mệnh tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng cho Ngài. Ngài chịu phép rửa của Gioan để sẽ làm cho phép rửa bằng nước trở thành bí tích rửa tội trong Chúa Thánh Thần (x.Mc 1,8) và lửa (x.Lc 3,16; Cv 2,3-4).
3. Ý nghĩa Bí tích rửa tội.
Trước khi về trời, Đức Giêsu lập bí tích rửa tội khi Ngài nói với các môn đệ:”Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Mt 26,20).
Chúng ta xem lại phép rửa của Gioan Tiền hô: phép rửa của Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa này không có khả năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh. Bởi vì phép rửa này không phải là một bí tích, đúng như Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lỗi nên con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời.
Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh ra và vào đạo của Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được tái sinh làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo hội. Vì thế, Giáo hội coi bí tích rửa tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Truyện: Tôi mới có 2 tuổi.
Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu. Hai năm sau, cụ hấp hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc trả lời:”Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết. Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội”. Thật là chí lý (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật, B, tr 38).
III. BÍ TÍCH RỬA TỘI VÀ CHÚNG TA.
Ngày nay, mỗi người chúng ta đã được chịu phép rửa tội để trở thành Kitô hữu, con Thiên Chúa, con của Giáo hội. Bí tích rửa tội là cửa ngõ đưa ta vào trong Giáo hội và Nước Trời. Vậy bí tích rửa tội có tương quan gì với chúng ta không, và chúng ta phải sống thế nào cho xứng với hồng ân ấy?
1. Một cuộc đổi mới.
Chúng ta là những con người tội lỗi, nhờ phép rửa tội chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi để trở nên con người mới trong trắng, xứng đáng làm con của Đấng đã phán:”Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh”. Tuy thế, sống giữa trần gian đầy cám dỗ, nhiều khi tấm áo tắng trong ngày chịu phép rửa tội đã bị hoen ố vì những hành vi xấu xa của ta, nên phải cố gắng đổi mới cuộc sống của ta theo câu tâm niệm vua Thành Thang đã viết vào trong bồn tắm:”Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”: mỗi ngày nên mới, ngày ngày nên mới, ngày tới phải nên mới. Vua cho rằng: người ta phải gột rửa con tim cho sạch tội nhơ như thân xác phải tắm rửa hằng ngày (X. Đại học I,1).
Chúng ta phải làm một cuộc cách mạng bản thân nghĩa là phải lột bỏ con người cũ tội lỗi mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện như thánh Phaolô đã dạy. Phương pháp giáo dục của người xưa vẫn còn tính cách thời sự nơi chúng ta: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết.
Truyện: Thay đổi chính mình.
Linh mục Anthony de Mello kể lại tâm sự của một nhà hiền triết như sau:
Nhìn lại cuộc sống đã qua, nhà hiền triết thú nhận: Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi trái đất này trở nên tốt hơn.
Khi được nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào. Tôi lại đổi lời cầu nguyện cho thiết thực hơn:”Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi”.
Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau:”Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con”.
Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế, thì có lẽ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một đời sống vô ích.
2. Tập sống khiêm nhường.
Việc Đức Giêsu đến xin ông Gioan làm phép rửa làm cho chúng ta phải suy nghĩ: Đức Giêsu được Gioan giới thiệu là “Con chiên Thiên Chúa”, một con chiên vô tì tích tại sao lại đến chịu phép rửa để xin được ơn tha tội như mọi người tội lỗi đến xin? Thánh Matthêu coi cử chỉ đó như là thực hiện “chương trình khiêm hạ và phục vụ” mà các tiên tri đã báo trước (Mt 3,14-15). Đức Giêsu chịu phép rửa để nêu gương cho ta về sự khiêm nhường, Ngài nhận mình là người có tội như mọi người để hòa đồng với mọi người, để giúp cho con người luôn có tinh thần sám hối, tự hạ trước mặt Chúa:”Trong các con ai làm lớn nhất phải xử như kẻ nhỏ nhất. Ai làm đầu kẻ khác phải coi mình như tôi tớ”(Lc 22,26).
Theo nhà Phật, con người có ba chứng nguy hiểm nhất: tham, sân, si.
- Tham là vì ích kỷ.
- Sân là vì tự ái.
- Si là vì ngu muội.
Trong ba chứng bệnh nói đây thì “Sân” là khó diệt hơn cả. Bởi vì lòng tự ái (kiêu ngạo) là một thói xấu sống dẻo dai bậc nhất, đến nỗi thánh Phanxicô Salêsiô phải nói:”Nó chỉ ngưng hoạt động 15 phút sau khi tôi chết”.
Các bậc hiền nhân quân tử đều coi đức “khiêm tốn” là căn bản trong công việc cải tạo con người. Tính tự ái (kiêu ngạo) buộc con người vào dục vọng, làm cho họ phải đảo điên, thì lòng khiêm tốn sẽ là phương tiện giải thoát, đem lại thế quân bình, tức là sự bằng yên cho tâm hồn.
Truyện: Vừa thì đứng
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết:
- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua hằng để bên ngai vàng hầu làm gương.
Ngài nói:
- Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ đầy thì lại ngã. Có lẽ là vật này chăng?
Rồi ngài bảo học trò múc nước thí nghiệm thì quả nhiên đúng như thế.
Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng giải:
- Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu muội. Có công to trong thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khỏe hơn người nên giữ bằng cách nhút nhát. Giầu có bốn biển nên giữ bằng cách bố thí và thái độ nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy”.
3. Sống xứng danh Kitô hữu.
Khi được chịu phép rửa tội, chúng ta được gọi là Kitô hữu. Danh xưng Kitô hữu là chỉ một người thuộc về Chúa Kitô, là người được mang danh Chúa Kitô, là Kitô khác, là Chúa Kitô nối dài. Để sống xứng đáng với danh hiệu đó, chúng ta phải có nhiều nỗ lực, nhiều khi phải đau khổ, hy sinh, nhục nhã, chịu nhiều phiền toái, thua thiệt...nhưng đó là giá phải trả để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Truyện: Tên con là Phliliphê.
Một hôm, người ta đem đến trình vua Philiphê một thanh niên bị bắt quả tang ăn trộm. Vua nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi:
- Tên mày là gì?
Anh ta rụt rè thưa:
- Thưa tên con là Philiphê ạ.
Vua trợn mắt nói tiếp:
- Mày là Philiphê trùng với tên tao mà mày lại đi ăn trộm à? Mày làm ô danh tao. Vậy mày phải làm một trong hai việc: một là phải đổi tên đi, hai là phải thay đổi cách sống...
Chúng ta đã lãnh nhận bí tích rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Được làm con Thiên Chúa là một tước hiệu vô cùng cao quí, một hồng ân lớn lao Chúa ban cho con người. Nhưng chúng ta đã sống thế nào với hồng ân cao qúi ấy? Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không?
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán:”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Vậy Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không? Chúng ta đã trở thành con Chúa và được mang danh hiệu là Kitô hữu, vì vậy, nỗ lực của cúng ta là phải luôn cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu ấy để được Chúa hài lòng với chúng ta.
Tin mừng Mác-cô trình bày việc Đức Giêsu được tấn phong làm Vua Mê-si-a tương tự như một lễ phong vương gồm 3 nghi thức như sau:
- Một là thanh tẩy: Đức Giêsu được Gio-an Tẩy Giả dìm trong nước sông Gio-đan.
- Hai là xức dầu: Đức Giêsu được Thần Khí, qua hình ảnh chim câu, từ trời đáp xuống trên mình để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Vua Mê-si-a.
- Ba là tung hô: Đức Giêsu cũng được Chúa Cha công khai thừa nhận là “Con rất yêu dấu” luôn làm mọi việc theo thánh ý Cha.
CHÚ THÍCH:
- C 7-8: +Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi: Gio-an là “Sứ giả của Giao Ước”, có nhiệm vụ như Ê-li-a ngày xưa: đến trước để chấn hưng mọi sự, hầu dọn đường cho Đức Chúa ngự đến (x. Ml 3,1-3.23-24). Mọi lời Gio-an rao giảng đều liên quan tới Đấng Thiên Sai. Tuy Đấng Thiên Sai đến sau Gio-an nhưng Người lại có đầy sức mạnh và Thần Khí của Đức Chúa để chiến thắng kẻ thù (x. Is 11,2), cụ thể là chiến thắng Xa-tan cám dỗ (x. Mc 1,12-13). +Tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người: Cởi quai dép là việc làm của người nô lệ. Gio-an khiêm tốn nhận mình không đáng làm nô lệ cho Đấng Thiên Sai sắp đến. +Phép rửa nhờ nước: Khi chịu phép rửa này, người chịu phép được Gio-an dìm xuống sông Gio-đan như dấu hiệu“tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4). Từ đây họ được gia nhập vào nhóm những người chuẩn bị đón Đấng Mê-si-a. +“Phép rửa trong Thánh Thần”: Phép Rửa này ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ của Đức Giêsu. Những kẻ chịu phép rửa do Đức Giêsu thực hiện sẽ nhận được Thần Khí tuôn đổ vào lòng. Nhờ đó họ được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Họ sẽ được tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).
- C 9-10: +Đức Giêsu từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan: Đúng như lời Gio-an loan báo, Đức Giêsu đã xuất hiện và trước hết Người đến với ông Gio-an. Gio-an đã thi hành sứ mạng tiền hô khi làm phép rửa cho Người trong nước sông Gio-đan .+Người liền thấy: Mác-cô tường thuật cuộc Thần Hiện của Đức Giêsu lúc chịu phép rửa như một thị kiến mà chỉ riêng mình Người trông thấy, đang khi các Tin Mừng còn lại như Mát-thêu, Lu-ca và Gio-an lại tường thuật đúng như đã xảy ra (x. Mt 3,13-17; Lc 3,21-22; Ga 1,32-34). +Các tầng trời xé ra: Đây là sự đáp ứng của Thiên Chúa cho lòng khát vọng của dân Ít-ra-en và của nhân loại. Người ta chờ mong “trời mở ra và Thiên Chúa sẽ xuống cứu độ dân Người”. Hôm nay qua hiện tượng các tầng trời xé ra, Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những lời Ngài đã hứa qua các ngôn sứ (x. Is 63,19b). Ngài sai Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu, giống như Đức Chúa trong cuộc Xuất hành đã ngự xuống trên con dân Ít-ra-en (x. Xh 19,11.18). Với việc trời xé ra, Đức Giêsu bắt đầu ra khỏi Na-da-rét để công khai thi hành sứ mạng cứu độ loài người, đối lập với A-đam ngày xưa (x. Rm 5,12-19). +Người liền thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình: Câu này nhắc tới sự kiện Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước khi Chúa sáng tạo nên trời đất muôn vật (x. St 1,2), nhằm diễn tả một một cuộc sáng tạo mới được thực hiện nơi Đức Giêsu sau khi chịu phép Rửa. Thánh Thần xức dầu thiêng liêng tấn phong và giới thiệu Người là Đấng Thiên Sai, qua hình ảnh một con chim câu đậu xuống trên mình Người (x. Is 11,2 ; 42,1).
- C 11: +“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”: Qua câu này, Mác-cô muốn làm nổi bật dung mạo của Đức Giêsu: Người chính là Vua Thiên Sai, được xức dầu tấn phong để cai trị muôn dân (x. Tv 2,7) ; Người là Con Một yêu dấu của Chúa Cha, trở thành của lễ hiến tế trên bàn thờ thập giá (x. St 22,2); Người là Tôi Trung của Thiên Chúa, được sai đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chịu chết để đền tội thay cho loài người và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho loài người (x. Is 42,1).
CÂU HỎI: Tại sao Đức Giêsu là “Đấng quyền thế hơn” mà lại xuất hiện như một tội nhân đứng xếp hàng để được Gio-an làm phép rửa tại sông Gio-đan?
ĐÁP: Việc Đức Giêsu tự nguyện đến xin chịu phép Rửa của Gio-an không phải để sám hối tội lỗi như bao người khác, vì Người vô tội (x. Dt 5,15b; 7,26). Nhưng qua hành động này, Người muốn chia sẻ thân phận yếu hèn với các tội nhân và cảm thông với họ (x. Pl 2,6) và sau này Người sẽ còn chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho họ.
Đàng khác, việc toàn thân Đức Giêsu được Gio-an dìm xuống nước sông Gio-đan, chính là hình ảnh của phép rửa sẽ phải trải qua trong cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sau này (x. Rm 6,3-4). Từ mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu sẽ thiết lập bí tích Rửa Tội, để tái sinh các tín hữu trở nên con Thiên Chúa và canh tân họ nhờ nước và Thần Khí. Đây là điều kiện cần có để được gia nhập vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-6). Ngoài ra, đây còn là cơ hội để Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ mạng tiền hô đi trước dọn đường và làm chứng Người thực là Đấng Thiên Sai với dân Do thái. Cuối cùng, Đức Giêsu chịu phép rửa của Gio-an để biến đổi phép rửa bằng nước trở thành bí tích Rửa Tội trong Thánh Thần (x Mc 1,8) và lửa (x Lc 3,16;Cv 2,3-4), để ban ơn cứu độ cho các tín hữu.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Khi ấy, Gio-an rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quay dép cho Người” (Mc 1,7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Giá trị của sự khiêm hạ giữa đời thường:
Một tài xế xe tải kia không dám cho xe tải chạy qua cầu, vì theo anh nghĩ chiếc xe tải có mui xe cao hơn thành cầu tới 10 phân. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, không biết nên giải quyết thế nào, thì có người đề nghị: Hãy xì bớt hơi cho các bánh xe xẹp xuống. Anh tài xế liền làm theo lời khuyên này và cuối cùng chiếc xe của anh đã có thể an toàn đi qua cầu.
Xì hơi cho bánh xe xẹp bớt cũng giống như thái độ khiêm nhường. Trong giao tiếp với tha nhân, nếu “biết mình biết người, thì trăm trận trăm thắng!”. Cũng nhờ biết ứng xử khiêm tốn nhún nhường với tha nhân mà chúng ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.
2) Khiêm tốn là luôn trong tư thế quân bình:
Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng thì hỏi thăm và được người giữ miếu cho biết:
- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua luôn để gần ngai vàng để nhắc nhở mình.
Khổng Tử nói:
- Ta nghe đồn nhà vua có một bảo vật: không cho nước vào thì lọ sẽ đứng nghiêng ; Đổ nước vào vừa phải thì lọ sẽ đứng thẳng. Còn nếu đổ nước đầy tới miệng thì lọ lại sẽ bị đổ ngã. Có lẽ đó là chiếc lọ này chăng?
Rồi ngài bảo học trò múc nước để kiểm tra thì kết quả đúng như thế.
Bấy giờ Khổng Tử mới dạy bài học về sự trung dung như sau:
- Người thông minh thánh trí thì hãy giữ quân bình bằng cách làm việc như một người tầm thường chứ không muốn được nổi bật hơn người khác. Kẻ lập được công to thì hãy giữ quân bình bằng thái độ và lời nói khiêm hạ chứ không khoe mình. Kẻ có sức khỏe vô địch thì nên giữ quân bình bằng thái độ ứng xử nhún nhường chịu đựng tha nhân. Nếu đang là một người giầu có thì hãy giữ quân bình bằng sự quảng đại chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ. Cái lọ của vua Hoàn Công chính là bài học giúp thực hành lối sống quân bình để khỏi bị sụp đổ vậy”.
3) Tôi mới được 2 tuổi:
Một ông cụ mãi đến năm 80 tuổi mới có điều kiện tin theo Chúa và được lãnh bí tích rửa tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa. Từ ngày theo đạo, ông cụ đã thay đổi hẳn trở thành một người mới, ông đã bỏ được sở thích uống rượu say xỉn và không còn chơi bài bạc. Ông đi dự lễ nhà thờ hằng ngày và có lối ứng xử khiêm tốn và bác ái với mọi người chung quanh. Hai năm sau cụ lâm trọng bệnh và bị thày thuốc khám bệnh cho biết cụ sắp chết. Nhiều bạn bè đến thăm và có người thắc mắc hỏi cụ được bao nhiêu tuổi. Ông cụ trả lời:”Tôi mới được hai tuổi. Tám mươi năm trước tôi có sống cũng như chết. Chỉ từ ngày theo đạo tôi mới trở nên một người mới và đến nay mới được hai tuổi”.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa hôm nay dạy chúng ta bài học về mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu. Người chính là Con Thiên Chúa đã đến lập cư giữa loài người và trở thành người phàm giống như chúng ta mọi đàng ngoại trừ không có tội. Khi đứng xếp hàng để được Gio-an dìm xuống dòng sông để chịu thanh tẩy bằng nước, Đức Giêsu đã thiết lập bí tích rửa tội để thanh tẩy các tín hữu chúng ta bằng Nước và Thánh Thần hầu ban ơn thánh biến hóa chúng ta trở nên con Thiên Chúa giống như Người. Từ nay chúng ta không còn phải là kẻ xa lạ, nhưng là người nhà của Thiên Chúa. Qua bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được tháp nhập làm chi thể của đầu nhiệm thể là Đức Giêsu. Hơn nữa, chúng ta còn được tham phần vào ba chức vụ của Người là ngôn sứ, tư tế và vương đế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất chúng ta cần học tập noi gương Chúa hôm nay là ăn ở khiêm hạ trong lời nói và việc làm như sau:
1) Sống khiêm hạ noi gương Đức Giêsu và Ông Gioan Tẩy Giả:
- Đức Giêsu đã dạy các môn đệ học tập noi gương khiêm nhường của Người như sau: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Người đã nêu gương khiêm nhường khi rửa chân hầu hạ các môn đệ và dạy bài học khiêm nhường: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là “Thầy” là “Chúa”. Vậy nếu Thầy là “Chúa” là “Thầy”, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (x. Ga 13,13-15). Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã thể hiện sự khiêm nhường qua việc đến xếp hàng xin ông Gio-an làm phép rửa, mặc dù Người hoàn toàn vô tội (x. Mc 1,9).
- Còn Gio-an Tẩy Giả cũng thể hiện sự khiêm nhường khi nói mình không đáng làm đầy tớ cho Đấng Thiên Sai như sau: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người” (Mc 1,7). Ông cũng khẳng định mình không phải là Đấng Ki-tô Thiên Sai mà chỉ là tiếng người nói trong hoang địa mời người ta chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Ki-tô sắp đến (x. Ga 1,20.23). Gio-an còn chứng tỏ có đức khiêm nhường qua việc đề cao Đức Giêsu trước mặt các môn đồ: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (x.Ga 3,30).
2) Chúng ta cần làm gì để thực hành nhân đức khiêm nhường?:
- Khiêm nhường trong lời nói: Hãy nói ít nghe nhiều; Không khoe khoang thành tích của mình; Không phê bình nói xấu người vắng mặt; Sẵn sàng xin lỗi khi mắc phải sai sót khiến tha nhân buồn lòng; Kịp thời khen thưởng người cộng tác để động viên những cố gắng của họ; Can đảm bênh vực những người yếu đuối thân cô thế cô bị kẻ khác đàn áp bóc lột.
- Khiêm nhường trong thái độ: Năng dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và cám ơn những ai làm ơn cho mình; Luôn có thái độ hiền hòa và nhẫn nhịn tha nhân; Biết làm chủ tính nóng giận và không to tiếng la mắng người dưới; Luôn sống “dĩ hoà vi quí”, không “Bé xé ra to”, hoặc “chuyện không đáng gì mà làm cho ầm ĩ”; Sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân; Biết bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa muốn thể hiện qua ý bề trên hay ý chung của tập thể.
- Khiêm nhường trong cách ứng xử: Không đổ lỗi cho người khác, nhưng “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; Kiên nhẫn lắng nghe lời phê bình góp ý của người khác; Tận tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi kèm theo sự khôn ngoan để tránh bị lợi dụng; Tránh thái độ “Thượng tôn hạ đạp”; Can đảm đứng ra bênh vực những người “thân cô thế cô”; Khi công việc bị thất bại sẽ không đổ lỗi cho người khác, mà nhận phần trách nhiệm của mình; Khi thành công thì nhận là do ơn Chúa ban và là công của tập thể. Khi làm được điều gì tốt thì hãy khiêm tốn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
4. THẢO LUẬN: Tuần này bạn sẽ làm gì để tập sống đức khiêm nhường noi gương Chúa Giêsu và ông Gio-an Tẩy Giả?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Qua việc tình nguyện xếp hàng xin Gio-an làm phép rửa, Chúa muốn dạy chúng con thực thi đức khiêm nhường, là nền tảng của sự thánh thiện. Về phần con, con mang đầy những tội lỗi khuyết điểm, thế mà con lại thường ngại ngùng khi phải thú tội trong tòa giải tội. Con chỉ là một kẻ bất tài vô đức, thế mà con lại thích được nổi tiếng, được người đời khen ngợi về tài năng và lòng đạo đức của mình. Con thiếu khả năng lãnh đạo, thế mà con lại muốn nắm giữ những chức vụ quan trọng trong tập thể...
- Lạy Chúa Giêsu, “Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, xin thanh tẩy con sạch mọi thói hư tật xấu, nhất là thói tự ái cao và tự mãn. Xin giúp con thành tâm hoán cải để luôn ứng xử hiền lành và khiêm tốn hơn, để con đáng được Chúa thứ tha tội lỗi và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Là những người cha-mẹ trong gia đình, khi sinh con, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, chắc hẳn ai cũng đều có những hoài bão, ước nguyện-khẩn cầu, mong sao con mình mau lớn, khỏe mạnh, sớm trưởng thành, để có thể trở nên những người tốt lành-thánh đức, thành đạt trong cuộc sống. Thật vậy, “con ngoan chính là niềm vui và triều thiên của cha mẹ”. Thế nhưng, liệu sự thành đạt của những người con trong xã hội ngày hôm nay, có thực sự làm cho các bậc cha mẹ được an tâm, vui lòng, hạnh phúc? Đối diện với những thực trạng trong các gia đình ngày nay, chúng ta nên làm gì?
Hôm nay trong Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, chính Chúa Cha đã mạc khải và tuyên bố cho chúng ta biết, Chúa Giêsu chính là Người Con Yêu Dấu của Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Chúa Giêsu qua chính cuộc đời và sứ vụ, Ngài đã khẳng định: Ngài chính là Người Con được Chúa Cha sai đến để minh chứng cho chúng ta biết về Thiên Chúa là Người Cha luôn yêu thương chúng ta và luôn mong muốn chúng ta được hạnh phúc. Không những thế, Chúa Giêsu còn trở nên “gương mẫu Người Con tuyệt vời” để cho chúng ta, những ai muốn trở nên những người con được Chúa yêu thương, chúc phúc, đẹp lòng Thiên Chúa.
Câu hỏi được đặt ra: tại sao Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, là Đấng Thánh, không có bất kỳ yếu đuối, tội lỗi nào, thế mà Ngài lại chấp nhận để đi vào hàng ngũ của những người đến để xin Gioan làm phép rửa cho mình? Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa rất quan trọng trong giai đoạn khởi đầu đời sống và sứ vụ công khai của Ngài. Do đó, sự kiện này đều được cả bốn tác giả sách Tin mừng tường thuật lại để cho chúng ta thấy tầm quan trọng việc Chúa bước vào hàng ngũ của tội nhân, như là chứng tá, mẫu gương cho chúng ta để trở nên những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu khiêm tốn, tự đồng hóa mình chấp nhận trong hàng ngũ với các tội nhân, để khi bị dìm xuống trong dòng nước, Ngài đã cúi xuống để cứu vớt chúng ta, nâng chúng ta lên từ vị trí của những con người yếu đuối tội lỗi, bất xứng, được lãnh nhận ơn tha thứ, thánh hóa, được mặc lấy phẩm giá của con cái Thiên Chúa, được sống trong ân sủng. Đồng thời, qua việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần của Thiên Chúa ngự xuống trên Ngài và cũng chính nguồn ơn Thánh Thần này, Ngài sẽ mở ra, trao ban cho mỗi người chúng ta; Vậy nên, khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy, chúng ta cũng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, với danh xưng là Kitô hữu, là con cái của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, Thiên Chúa đã không còn đứng bên ngoài, hay từ trên cao để nhìn xuống chúng ta, Ngài đã cùng đồng hành, để chia sẻ, an ủi, nâng đỡ dân Ngài cách cụ thể hơn. Và từ đây, Thiên Chúa sẽ ban ơn tái sinh đổi mới cho những ai biết mở lòng, dám chấp nhận cùng bước vào hàng ngũ với Chúa Giêsu, để cho Thánh Thần của Thiên Chúa tác động và cho thánh ý Chúa được thực hiện. Đây cũng chính là điều mà trong bài đọc một mà Tiên tri Isaia nói về “Người Tôi Trung của Thiên Chúa”, người được Chúa yêu thương, hài lòng và ban thần khí cho. Với ơn Chúa, Người Tôi Trung không bao giờ nghĩ đến cho lợi ích cho bản thân, nhưng làm mọi sự vì phần rỗi của tha nhân và làm theo thánh ý của Thiên Chúa.
ACE thân mến, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều muốn trở nên những người tốt lành, được hạnh phúc, bình an và cao quý hơn là trở nên người con sống đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Phêrô trong bài đọc hai đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm để sống trọn vẹn ơn thánh này. Chúng ta không thể nào sống khác hơn nếu không rập theo mẫu gương của Chúa Giêsu, hay nói khác hơn nếu chúng ta không biết cậy dựa, bám víu vào nguồn ân sủng đã được ban cho chúng ta qua Đức Kitô, Người Con Yêu Dấu, Người được Thánh Thần xức dầu tấn phong và sai đi ban ơn cứu độ thì chúng ta không thể nào trở nên người sống đẹp lòng Chúa.
Thật vậy, Lời Chúa hôm nay đã cho chúng ta một khuôn mẫu tuyệt hảo là chính Đức Giêsu Kitô; hãy học theo và sống như Ngài, hãy luôn khiêm tốn và làm mọi việc theo thánh ý Chúa, để làm vinh danh Thiên Chúa và đem ơn ích cho tha nhân. Lạy Chúa, được trở nên người được Chúa hài lòng-thương yêu chính là thánh ý Chúa cho chúng con và cũng là lý tưởng-lẽ sống của mỗi người chúng con. Xin cho chúng con, hôm nay bắt đầu một chu kỳ mới của năm phụng vụ thường niên, luôn biết khiêm tốn, mở lòng và quyết tâm đến với Chúa mỗi ngày, để với ơn thánh Chúa nâng đỡ, chúng con sẽ quyết tâm sống đẹp lòng Chúa và sống tình tương thân tương ái với anh chị em mình. Amen.
Hôm nay, Hội Thánh hân hoan bước vào Mùa Thường Niên, khởi đầu với lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa. Thoạt tiên, khi nghe đến thánh lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, có lẽ chúng ta không khỏi thắc mắc: Phép Rửa Chúa Giê-su chịu có khác gì so với bí tích Rửa tội mà chúng ta được lãnh nhận hay không? Phép Rửa Chúa Giê-su chịu có gì liên quan đến bí tích Rửa tội hay chăng? v.v…
Một điều rõ ràng, hiển nhiên mà chúng ta có thể phân biệt được là Chúa Giê-su chịu phép Rửa, còn chúng ta thì chịu phép Rửa tội hoặc Thanh tẩy, vì mặc dù Người hoàn toàn giống với con người yếu đuối, mỏng dòn, nhưng khác với chúng ta là: Người không mang tội, Người không mắc tội. Tuy vậy, Người vẫn tự nguyện mặc lấy thân phận tội lỗi con người hầu gánh tội, cứu độ nhân loại.
Khi cử hành thánh lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, chúng ta hồi tưởng thời khắc ân sủng, thời điểm chúng ta được thanh tẩy tội Tổ Tông, được thánh hoá trở nên con của Thiên Chúa, con của Đấng Thánh, và được chung phần vào Mẹ Giáo Hôi – Nhiệm thể của Chúa Ki-tô, mà trong đó, chúng ta là chi thể của Thân thể mầu nhiệm ấy. Có lẽ, nhiều người trong chúng ta không còn nhớ ngày mình được nhận lãnh bí tích cao cả này?!!! Ngày chúng ta được giải thoát gông xiềng tội Tổ Tông, tội lỗi, hầu trở nên con người mới, con của Ánh sáng, con của Thiên Chúa nhân từ; ngày chúng ta được biến đổi từ chốn bùn nhơ, tối tăm bước vào đời sống mới, đời sống chân chính. Ngày chúng ta được cứu độ khỏi cảnh ‘không chốn nựa tương’, ‘không lối thoát thân’ vì bị tội lỗi gông cùm, và được mang vào ‘cung lòng ấm áp, sâu thẳm của Thiên Chúa’ qua lòng của Giáo Hội. Ôi, thời khắc hồng ân! Mầu nhiệm cao vời vượt quá lòng mong mỏi của con người, cao siêu, thẳm sâu hơn tâm hồn con người chúng ta! Chúng ta cùng dâng lời ngợi ca, tán tụng không ngơi lên Thiên Chúa vì ân sủng cao cả này; Người chẳng bỏ mặc con người tội lỗi nhưng đã mời gọi, thánh hoá và trao cho sứ mạng thiêng liêng như lời tiên tri I-sa-ia đã tuyên sấm “Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói,…, Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân...” (Is 42, 3. 6).
Ở điểm này, chúng ta được tháp nhập và liên kết chặt chẽ với sứ vụ của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, đó là: trở nên tiên tri (người rao truyền Tin mừng), tư tế (thánh hoá, dạy dỗ, khuyến dụ) và vương đế (cộng tác điều hành cộng đoàn). Nói tóm lại, chúng ta được trao sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa, làm chứng cho Đấng đã rộng ban, thương yêu trao tặng cho chúng ta mọi thứ một cách nhưng không, kể cả chính mình Người qua Con Một yêu dấu. Hơn nữa, qua lời xác thật, công bố đầy yêu thương của Chúa Cha đối với Đức Ki-tô “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11), chúng ta cũng được hiệp thông với Chúa Giê-su trong sứ mạng làm con cái Cha trên trời, Người Cha hằng dủ lòng thương xót đến tất cả mọi người, chứ chẳng thiên vị một ai như lời thánh Phê-rô chứng thực, giảng dạy tại nhà ông Cor-nê-li-ô được thuật lại một cách sống động trong thư Công Vụ Tông Đồ: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận” (Cv 10, 34-35). Vì thế, ơn gọi, bậc sống tuy khác nhau, nhưng đều có một sứ mạng; trách nhiệm tuy khác nhau, nhưng cùng chung một sứ vụ; công việc, tính cách khác xa nhau, nhưng cùng chung một mục đích, đó là: đời sống làm chứng cho Tin Mừng, chia san những gì chúng ta được lãnh nhận một cách vô điều kiện từ Thiên Chúa, và nhất là sống làm gương sáng qua lời ăn, tiếng nói, hành vi của người mang danh Thánh Ki-tô (Ki-tô hữu – người thuộc về Chúa Ki-tô).
Để kết thúc bài chia sẻ này, xin quý cộng đoàn cùng tôi lắng đọng, trở về với lòng mình và trong giây phút thinh lặng sâu lắng của tâm hồn, lắng nghe tiếng Chúa thầm thỉ với mình qua câu chuyện làm chứng tá trong thời đại ngày nay như sau: Tờ báo Hoàn Cầu Đêm Khuya xuất bản tại Hoa Kỳ thuật lại gương sống chứng tá Tin Mừng của ông Jewel Pierce tại Tiểu bang Alabama. Trừ ngày Chúa Nhật, mỗi ngày đều đặn một lần, ông đều thả 2 chai không xuống dòng sông Cô-sa; trong 2 chai đó, ông để lại một câu Kinh Thánh nói về tình thương hoặc sứ điệp tương tự, kèm theo lời đề nghị giúp đỡ hết tất cả những ai cần đến ông cả về vật chất cũng như tinh thần. Trong 40 năm ròng rã, ông đã gửi trên 27 ngàn sứ điệp Tin mừng, và hơn 2 ngàn người thuộc 30 quốc gia đã đọc, và liên lạc với ông. Có lẽ chúng ta không có đủ điều kiện, nhuệ khí như ông Jewel Pierce, nhưng thiết nghĩ, mỗi người chúng ta luôn có Chúa ở cùng, đồng hành, nâng đỡ, và cùng ta ra đi chia san những gì chúng ta đã, đang và sẽ được lãnh nhận. Chỉ cần qua cử chỉ thân thiện, yêu thương, lời nói chân thành, góp ý, xây dựng hay một hành động bình thường, nho nhỏ nhưng mang lại niềm khích lệ, động viên anh chị em ta…thì lúc ấy, chúng ta đang sống chứng tá cho Tình yêu rồi.
Xin Chúa đừng để những truân chuyên nơi cuộc sống này làm chúng con nhục chí, thu mình lại mà chẳng dám chia san. Xin đừng để những quyến rũ của trần gian cản lối chúng con dấn thân, làm chứng cho Chúa. Ước gì qua cuộc sống chúng con, mọi người sẽ nhận ra Chúa là nguồn Tình yêu. Amen.
Hằng năm, vào Chúa Nhật I Thường Niên, chúng ta tưởng niệm biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Phép rửa nầy được liên kết với cuộc tấn phong diễn ra trong một cuộc Thần Hiển. Đó là lý do tại sao các Giáo Hội Đông Phương cử hành việc Chúa Giêsu chịu phép rửa như một trong ba cuộc Thần Hiển: lễ Hiển Linh, lễ Đức Giêsu chịu phép rửa và lễ Chúa Giêsu Biến Hình.
Is 42: 1-4, 6-7
Bản văn I-sai-a tường thuật cuộc tấn phong của “người Chúa tuyển chọn” mà “Ngài hết lòng quí mến” và cho Thần Khí của Ngài ngự trên người ấy. Đây là một nhân vật bí ẩn mà vị ngôn sứ gọi là “Người Tôi Trung của Đức Chúa”.
Cv 10: 34-38
Bài Đọc II, được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ, thuật lại bài giảng thuyết của thánh Phêrô ngỏ lời với ông Conêliô, viên quan bách quản Rôma, và toàn thể gia quyến của ông. Họ là những lương dân đầu tiên được đón nhận vào cộng đoàn Kitô hữu qua Phép Thánh Tẩy. Nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, mọi người, bất kỳ ai, thuộc dân tộc nào, đều được mời gọi gia nhập vào dân Thiên Chúa.
Mc 1: 7-11
Thánh Mác-cô tường thuật biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, để giới thiệu Ngài là “Người Tôi Trung” mà sấm ngôn I-sai-a đã loan báo.
BÀI ĐỌC I (Is 42: 1-4, 6-7)
Bản văn này gợi lên một nhân vật mà Thiên Chúa gọi là “Người Tôi Trung của Ngài”, Ngài hết lòng quí mến và đổ tràn đầy Thần Trí của Ngài trên người ấy. Nơi nhân vật này, Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng là thực thi công lý, bày tỏ tấm lòng nhân ái và đức khiêm nhu, để là ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Đây là bài thơ đầu tiên trong bốn bài thơ về “Người Tôi Trung của Đức Chúa” trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a thời lưu đày (550-540 tCn), được gọi I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Bài thơ nầy được trích từ hai phân đoạn: trong phân đoạn thứ nhất (42: 1-4), Thiên Chúa giới thiệu Người Tôi Trung của Ngài; trong phân đoạn thứ hai (42: 6-7), Thiên Chúa ngỏ lời trực tiếp với nhân vật này.
Nhân vật này là ai? Thật ra, nhân vật bí ẩn nầy trong suốt nhiều thời đại đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau: một nhân vật lịch sử là Ky-rô, vua Ba tư; hoặc Ít-ra-en, dân Chúa chọn; hay Đấng Mê-si-a. Đây là nét đặc trưng của các sấm ngôn vừa phát xuất từ những hoàn cảnh lịch sử chính xác vừa vượt qua những viễn cảnh đương thời.
1.Vua Ba Tư là Ky-rô
“Người Tôi Trung” này được Thiên Chúa ban nhiều đặc ân, nhờ đó ông có thể phân xử muôn dân, sửa sai những lỗi lầm, vực dậy những kẻ bị áp bức, phóng thích những tù nhân, phục hưng Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và làm sáng tỏ công lý trước mặt muôn dân.
Hoàn cảnh lịch sử chính xác là cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ ngỏ lời với những người lưu đày này, họ phải chịu một cuộc thử thách dài lâu và mòn mỏi đợi chờ cuộc giải phóng. Ông hứa với họ một nhà giải phóng. Toàn bộ văn mạch hướng về vị vua Ba tư là Kyrô, mà quyền lực của ông mỗi ngày mỗi lớn mạnh trên thế cuộc vùng Trung Đông.
Chương 41 trước đó ám chỉ rõ nét những chiến công lẫy lừng của vua Kyrô:
“Từ Phương Đông, ai đã cho xuất hiện người hùng đi mở đường cho nền công chính?
….
Đao kiếm của ông làm chúng hóa ra như tro bụi, cung nỏ của ông khiến chúng tán loạn tựa cọng rơm. Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến bước an toàn
…
Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?
….
Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là khởi nguyên, và giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta” (Is 41: 2-4).
Chương 45 còn rõ ràng hơn:
“Đức Chúa nói với kẻ Người xức dầu, với vua Ky-rô -Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa.
….
Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Gia-cóp, và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en,
….
Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45: 1-6).
Các biến cố sắp đến sẽ khẳng định dự đoán thời cuộc của vị ngôn sứ. Không bao lâu sau, vua Ba tư chiếm kinh thành Ba-by-lon mà không phải gặp bất cứ một kháng cự nào, và cũng không gây bất kỳ thiệt hại nào cho kinh thành. Ông thi hành chính sách “thu phục nhân tâm”. Vua Ky-rô không bao giờ sử dụng bạo lực. Xót thương đối với những người Ít-ra-en bị lưu đày như “cây sậy bị dập nát” và “tim đèn còn leo lét”, vua Ba tư tạo điều kiện thuận tiện cho họ trở về cố hương là Giê-ru-sa-lem.
2. Dân Chúa chọn
Sau này, khi quá khứ mờ nhạt trong tâm trí, bản văn được đọc lại theo cách khác. Vị ngôn sứ chủ ý tặng ban danh hiệu “Người Tôi Trung” cho toàn thể dân Ít-ra-en với tư cách là dân Chúa chọn để là chứng nhân của Ngài cho muôn dân nước. Dung mạo Người Tôi Trung được xem như cá nhân hóa dân Chúa chọn mà Ngài nâng đỡ, sủng ái và ban Thần Trí của Ngài. Ngài đã “nắm tay” dân nhỏ bé này. Ở giữa các dân tộc, họ phải chu toàn sứ mạng của mình là trở nên ánh sáng muôn dân qua việc sống trọn niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
3. Đấng Mêsia
Việc “Người Tôi Trung” này được nhận dạng ở nơi vua Ky-rô không tát cạn sự phong phú của bản văn, hay được cá nhân hóa ở nơi dân Chúa chọn cũng không hoàn toàn làm thỏa mãn. Quan trọng là đặt sứ điệp này được công bố vào trong những giờ phút nghiêm trọng.
Vào giữa thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm và trở thành hoang phế; Đền Thờ bị thiêu hủy; một phần lớn dân cư bị lưu đày; vương quyền của nhà Đa-vít đã bị vùi dập trong phong ba bảo táp; niềm hy vọng vào Đấng Mê-si-a (Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong) được đặt vào vương quyền nhà Đa-vít đã bị sụp đổ.
Đây là thời điểm thuận tiện để nâng mặc khải lên đến một giai đoạn mới. Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách bất ngờ: Ngài sẽ sai phái “Người Tôi Trung” đầy tràn Thần Khí của Ngài. Nhân vật nầy sẽ thực hiện sứ mạng thực thi công lý với tấm lòng khiêm nhu nhân hậu, dù bên ngoài có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ (bài thơ thứ tư về Người Tôi Trung). Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước tiến nhảy vọt. Những sấm ngôn xưa liên quan đến một hậu duệ của nhà Đa-vít không hoàn toàn bị bãi bỏ, nhưng những viễn cảnh mới mà sấm ngôn nầy hé mở, không dính dáng gì đến một quyền lực trần thế nhưng một vương quốc tinh thần.
Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu trích dẫn sấm ngôn I-sai-a này (x. Mt 12: 18-21) để chứng minh rằng lời sấm được ứng nghiệm ở nơi con người của Đức Giê-su, sứ mạng của Ngài tuy được thực hiện một cách kín đáo nhưng “sẽ đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Ngài”.
Khi chịu phép rửa bởi ông Gioan, Đức Giêsu thấy các tầng trời mở ra, Thần Khí ngự xuống trên mình và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Bức tranh này mặc nhiên quy chiếu đến bản văn của I-sai-a. Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng của “Người Tôi Trung”. Ngài sẽ chu toàn sứ mạng nầy khi thể hiện dung mạo “Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong cuộc Khổ Nạn của mình.
BÀI ĐỌC II (Cv 10: 34-38)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy tường thuật một biến cố đánh dấu một khúc quanh quyết định trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi: đây là lần đầu tiên, một lương dân và toàn thể gia quyến của ông được chấp nhận gia nhập trực tiếp vào cộng đoàn Ki-tô hữu nhờ phép Thánh Tẩy mà không phải ngang qua phép cắt bì của Do thái giáo.
1. Hoàn cảnh Giáo Hội vào lúc đó
Cho đến lúc đó, các Tông Đồ ngỏ lời với dân Do thái nhằm chứng minh cho họ biết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, ở nơi Ngài mọi lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Ki-tô giáo tiên khởi được định vị ở nơi sự nối dài của Do thái giáo. Chiều kích phổ quát đã được các thị kiến ngôn sứ mặc khải: rồi sẽ đến một ngày, muôn dân sẽ lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mừng kính Đức Chúa đích thật. Vì thế, các Tông Đồ đã không hề nghĩ đến một tiến trình đảo ngược: chính họ phải đi đến với muôn dân loan báo Tin Mừng cho họ.
Ấy vậy, vị lãnh tụ Giáo Hội, thánh Phê-rô, phải nói là bị Chúa Thánh Thần thúc ép đến nhà một người ngoại giáo. Một viên quan Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê, sai người đến mời thánh nhân đến nhà mình. Lúc đó, thánh Phê-rô đang ở Gia-phô, cách thành Xê-da-rê khoảng năm mươi cây số. Trong thời gian này, thánh nhân đang thực hiện cuộc kinh lý. Sau cuộc bách hại dữ dội đã giáng xuống cộng đoàn Giê-ru-sa-lem non trẻ vào mùa hè năm 36 hay mùa xuân năm 37 (thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên vào thời gian nầy), một thời gian yên bình xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ yên bình nầy để thăm viếng các cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ này.
2. Một khúc quanh mang tính quyết định của Giáo Hội
Thánh Phê-rô đến nhà viên quan Rô-ma. Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước qua ngưỡng của của một người chưa cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm không được tiếp xúc với những người chưa cắt bì không được ghi trong Lề Luật, nhưng từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư, nhằm tránh tất cả mọi hình thức lây nhiễm ngoại giáo.
Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến một người ngoại giáo và toàn thể gia quyến của ông. Đối với thánh nhân, đây thật sự là một kinh nghiệm cảm động và đáng nhớ. Thánh nhân đã hiểu được ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người. Ngay tức khắc, thánh nhân mặc lấy cho hành động của mình một ý nghĩa thần học. Đây là phần mở đầu bài thuyết giáo của thánh nhân mà Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta suy niệm vào ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay.
3. Chiều kích phổ quát của ơn cứu độ
“Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hể ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Chúa tiếp nhận”. Lời khẳng định về sự bình đẳng giữa dân ngoại và dân Do thái này hình thành nên một thay đổi lớn lao. Quả thật, trước đây, thánh Phêrô, vốn là một người Do thái, chỉ nghĩ đến những đặc quyền đặc lợi dành riêng cho dân Chúa chọn; nay, vị lãnh tụ của Giáo Hội, được Thánh Thần thúc đẩy, chấp nhận và công bố sự thay đổi khôn sánh này.
Ông Co-nê-li-ô là một “cảm tình viên” của Do thái giáo, cũng được gọi “người kính sợ Chúa”. Đây là một người “ăn ngay ở lành” như bản văn xác nhận. Chắc chắn Thiên Chúa đã gửi “lời loan báo Tin Mừng trước tiên cho dân Ít-ra-en”. Thánh nhân muốn giải thích cho gia chủ và đồng thời muốn thanh minh quyền ưu tiên này: dân Ít-ra-en đã lãnh nhận một sứ mạng là chuẩn bị bình an giữa dân Do thái và muôn dân. Bình an nầy được hiện thực nhờ trung gian của Đức Giê-su Ki-tô, “Ngài là Chúa Tể muôn dân”.
4. Quyền năng của Phép Rửa Kitô giáo
Tiếp đó, thánh Phê-rô tóm tắt các giai đoạn cuộc đời của Chúa Giêsu, bắt đầu từ việc Ngài được Thánh Thần xức dầu tấn phong khi lãnh nhận phép rửa trên dòng sông Giođan. Thánh Tông Đồ mở ra một viễn cảnh, đó sẽ mãi mãi là viễn cảnh của Giáo Hội: ân ban Thánh Thần không đơn giản là một sự thủ đắc, nhưng thật sự là một sức mạnh bùng nổ, một năng lực giúp hoàn thành sứ mạng: “làm chứng”, “thi ân giáng phúc” và “chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”.
TIN MỪNG (Mc 1: 7-11)
Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai hoạt cảnh được đan quyện vào nhau: phép rửa trong nước ở nơi dòng sông Gio-đan (1: 7-8) và phép rửa trong Thánh Thần ở nơi cuộc Thần Hiển (1: 9-11). Hai hoạt cảnh nầy tương phản với nhau. Hoạt cảnh thứ nhất là một cảnh tượng về sự khiêm hạ đến tột cùng: Đức Giê-su tự hạ mình xuống đến mức ngang hàng với tội nhân. Hoạt cảnh thứ hai là một cảnh tượng hùng vĩ của cuộc tấn phong.
1. Phép rửa trong nước
Đức Giê-su đến từ làng Na-da-rét miền Ga-li-lê để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Như vậy, khi muốn lãnh nhận phép rửa sám hối của ông Gioan, Đức Giê-su đã tự đặt mình vào hàng các tội nhân. Cách hành xử này là yếu tố khởi đầu sứ mạng Cứu Độ. Kể từ lúc đó, Đức Giê-su muốn đón nhận ở nơi bản thân mình mọi tội lỗi của con người. Đây là bước đầu tiên sẽ dẫn Ngài đến núi Sọ để chịu một phép rửa khác: phép rửa bằng máu.
Chính Đức Giêsu đã sánh ví cuộc Tử Nạn của Ngài với một phép rửa: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất” (Lc 12: 50). Đức Giê-su công bố với ông Gia-cô-bê và ông Gioan: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10: 38). Động từ “rửa” theo nguyên ngữ là “ngụp lặn”, “nhận chìm”. Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài sẽ nhận chìm mình vào trong vực thẳm đau khổ.
Từ phép rửa trong nước đến phép rửa bằng máu, đó là tiến trình cuộc đời của Đức Giê-su Ki-tô. Ở nơi hoạt cảnh phép rửa trong dòng sông Gio-đan ẩn chứa một hậu cảnh bi thảm của thập giá.
2. Phép rửa trong Thánh Thần
Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh này, điều đó nói lên tầm quan trọng mà các ngài đã dành cho giờ phút quyết định nầy về ơn gọi của Đức Giê-su. Cảnh tượng được mô tả thật hùng vĩ: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở tung ra và thấy Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Theo truyền thống Do thái, các tầng trời đóng lại với vị ngôn sứ cuối cùng là Ma-la-khi, nghĩa là chấm dứt mọi giao tiếp giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Trong thời gian này, dân Do thái cất lên lời khẩn nguyện thiết tha: “Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà đến”. Như vậy, biến cố “Đức Giê-su chịu phép rửa” đánh dấu một khúc quanh mới: “các tầng trời mở tung ra”, nghĩa là mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người được nối lại.
Quả thật, Đức Giê-su được thụ thai và sinh hạ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng trong cuộc sống ẩn dật, Chúa Thánh Thần đã không công khai tỏ mình ra. Vào ngày Ngài chịu phép rửa của ông Gioan, đánh dấu khởi điểm sứ mạng mình, Đức Giê-su cần sức mạnh của Chúa Thánh Thần: “Thần Khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài”.
Một số người thấy ở nơi hình ảnh “chim bồ câu” là con chim hòa bình mà ông Nô-ê thả trên nước lũ của trận Đại Hồng Thủy (St 8: 8-11). Những người khác nghĩ rằng hình ảnh nầy nhắc nhớ “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” trong công trình sáng tạo (St 1: 2). Dù hình ảnh nào thì việc Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu khai mào một kỷ nguyên mới của Ơn Cứu Độ.
Quả thật, trong Cựu Ước, chúng ta gặp thấy nhiều hình ảnh tiên trưng của phép Thánh Tẩy: từ nước của trận Đại Hồng Thủy, xuất hiện một nhân loại mới khởi đi từ ông Nô-ê; từ nước của Biển Đỏ, một nhân loại mới được khai sinh. Cũng vậy, vừa ra khỏi dòng nước sông Gio-đan, Đức Giê-su khai mạc một nhân loại mà Ngài sẽ tái sinh.
3. Ba cuộc tấn phong đồng lúc
Như vậy, trong biến cố nầy, Đức Giêsu lãnh nhận ba cuộc tấn phong đồng một lúc:
– “Cuộc tấn phong với tư cách Con Thiên Chúa”: Tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha”. Trước hết, “tiếng từ trời” có nghĩa chính Thiên Chúa, đây là cách thức người Do thái bày tỏ niềm tôn kính đối với Thiên Chúa mà họ không dám nêu tên Ngài. Tiếp đó, “Con yêu dấu” gợi lại I-sa-ác, đứa con duy nhất, đứa con yêu quý của ông Áp-ra-ham mà Thiên Chúa truyền lệnh cho ông ra đi hiến tế trên núi mà Ngài sẽ chỉ cho (St 22: 2).
Chúng ta cũng vậy, vào lúc chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta cũng được Chúa Cha gọi “Con yêu quý” ở nơi người Con Một, Con yêu quý của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô.
– “Cuộc tấn phong với tư cách Vua-Mê-si-a”: Chẳng ngẫu nhiên một chút nào khi tiếng phán từ trời cất lên bằng những từ ngữ mà xưa kia một vị vua được phong vương:
“Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa,
Người phán với tôi rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2: 7).
Vị Vua-Mê-si-a mà các ngôn sứ loan báo, hậu duệ của nhà Đa-vít nầy, chính là Đức Giê-su. Nhưng Ngài sẽ công bố mình là vua chỉ khi bị xiềng xích và bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng Do thái (Mc 14: 61-62) và trước tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15: 2).
– “Cuộc tấn phong với tư cách người tôi trung”: Những lời “Cha hài lòng về Con” nhắc nhớ sự tuyển chọn của Người Tôi Trung trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I).
4. Phép rửa trong cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa:
Phụng Vụ Đông Phương cử hành lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa như ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thật, đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh, Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện trong biến cố nầy. Việc Đức Giê-su chịu phép rửa trong dòng sông Gio-đan được đánh dấu bởi cuộc Thần Hiển của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cuộc Thần Hiển này loan báo phép Rửa Ki-tô giáo phù hợp với lời dạy của Đức Giê-su Phục Sinh cho các môn đệ Ngài vào lúc Ngài từ giả các ông mà lên trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 18-20).
Việc nhận chìm vào trong nước và bước ra khỏi nước là biểu tượng của sự chết và sự tái sinh. Hy tế của Đức Giê-su đã đem lại cho biểu tượng nầy tất cả mọi giá trị của nó. Thánh Phao-lô giải thích rõ ràng điều này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 4). Thật ý nghĩa biết bao khi nghi thức Thánh Tẩy được cử hành vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh.
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Thánh Maccô miêu tả biến cố này với một vài chi tiết chính như Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi ông Gioan tại sông Giođan; các tầng trời mở ra; Thánh Thần ngự xuống tựa chim bồ câu và có tiếng từ trời khẳng định Chúa Giêsu là Con yêu dấu. Trình thuật mặc khải cách mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi với Cha, Con và Thánh Thần được trình bày cách rõ ràng và riêng biệt trong biến cố này. Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa là dịp thuận tiện để suy gẫm về những đòi buộc đi kèm khi lãnh nhận phép rửa.
Bài đọc 1 và 2 đều có hai chọn lựa. Bài đọc 1 trích từ Is 55 phù hợp cho ngày lễ hôm nay “Đến cả đi nước đã sẵn đây” khi tiên tri Isaia trình bày việc Thiên Chúa tuân giữ lời kêu gọi con người. Để bổ túc cho bài đọc này thì nên chọn bài đọc 2 trích từ sách Công vụ Tông Đồ, trình bày việc thánh Phêrô nhấn mạnh đến lòng rộng lượng của Thiên Chúa đối với con người “thuộc mọi dân tộc”, trao ban cho họ Thánh Thần qua phép Rửa.
Bài đọc 1 trích từ Is 42 loan báo ý nghĩa việc Thần Khí ngự xuống. Tiên tri Isaia mô tả một nhân vật chịu đau khổ và phục vụ như ánh sáng chiếu soi muôn dân. Tân ước ám chỉ, trích lại những tiên báo về Người tôi trung đau khổ của Isaia và hiểu một cách mới mẻ dưới ánh sáng cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong Isaia, khi Thần Khí ngự trên người tôi trung, đó chính là dấu chỉ ông “sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Khi nhận lãnh Thần Khí, có một lời kêu mời rõ ràng để hành động cho “chiến thắng của công lý”. Bài đọc 2 trích thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, trình bày các mối tương quan trong Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy sự thật trên thế giới.
Bài đọc cũng nhấn mạnh chiến thắng nhờ lòng tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Bài Tin mừng hướng chúng ta chú ý đến việc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Tin mừng theo thánh Maccô bắt đầu với sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả, và với hành động công khai đầu tiên của Chúa là chịu phép rửa trước Người khi bắt đầu sứ vụ. Chúa Giêsu nêu gương cho này cho những ai theo Người và Người được xưng tụng là Con yêu dấu, được Thánh Thần trao quyền năng để thi hành sứ vụ.
Hôm nay chúng ta cần nhìn lại những tác động của bí tích rửa tội và lòng tin vào Chúa Kitô. Các bài đọc và sứ điệp bao quát hơn của bài Tin mừng khẳng định việc lãnh nhận Thánh Thần khi chịu phép rửa chỉ là sự khởi đầu và có sứ vụ quan trọng đi kèm theo sau. Mọi người đều được đón nhận và mời gọi để lãnh nhận bí tích rửa tội, và phép rửa đòi buộc các tín hữu phải thúc đẩy công lý và sự thật. Thần Khí được kết nối trực tiếp với cả hai lý tưởng đó, và việc lãnh nhận Thần Khí là lời mời gọi để hành động. Trong ngày lễ Chúa Kitô chịu phép rửa, chúng ta hãy để mình được truyền cảm hứng tích cực tham gia vào công cuộc tìm kiếm công lý và sự thật.
Người ta vẫn thường nói hay đúng hơn là người ta vẫn thường thích cái gì là mới, còn những gì là cũ người ta lại ít trân trọng. Thử hỏi trong nhân gian được mấy người chơi đồ cổ. Chưa chắc chơi đồ cổ vì đã thích đồ cổ vì có thể thích được nổi tiếng hay nắm giữ trong tay tài sản quý chứ thật sự để mà quý mến, để mà trân trọng chắc được mấy người? Người ta vẫn thường ví cho những cái mới được trân trọng bằng câu nói: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy!”. Vậy thì sau “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” con người sẽ ra sao? Thường thì phai dần và nhạt dần theo năm tháng nếu như ta không dừng lại để nhìn, để xem lại vấn đề để mà trân trọng, để mà quý mến.
Một người tu sĩ, ngày khấn dòng với biết bao nhiệt huyết, biết bao nhiêu ơn Thánh, đặc biệt là Thần Khí Chúa sẽ rất quyết tâm, rất cương quyết với lời tuyên khấn của mình. Đơn giản nhất một lời khấn mà người tu thường khấn đó là sự khó nghèo. Sau ngày khấn là những ngày hội nhập với cộng đoàn, cộng đồng vì mãn thời gian Tập Viện. Những ngày ấy riêng về khoản khó nghèo thôi, thử hỏi được mấy người sống được cái thuở ban đầu đơn sơ của đời tu hay là cứ vun vén về cho mình đầy phòng. Nếu thi thoảng không đặt mình xem lại mình về những lời mà mình tuyên khấn thì cũng sẽ quên và lại vun vén, vơ vét cho mình đầy vật chất.
Một linh mục, trong cái ngày được đặt tay để nhận ơn Thánh trong sứ vụ của mình sao mà hay quá! “Con có hứa vâng phục Giám mục và bề trên hợp pháp của con không?” khi nghe Giám mục chủ sự Thánh lễ truyền chức hỏi thì tất cả các ứng sinh nhanh nhảu đáp “Thưa con hứa!”. Và nữa, “con hãy nhận lấy lễ vật này mà dâng lên Thiên Chúa, con hãy rập đời sống con theo Mầu Nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa”. Khi ấy, lòng trào dâng ơn Thánh và niềm vui, ứng sinh phấn khởi thưa vâng để lãnh nhận sứ vụ linh mục cao cả mà Thiên Chúa thương ban. Thế nhưng, cuộc đời vị linh mục đâu đơn giản như mọi người nghĩ, đâu thanh thản như mọi người thấy. Những lúc bình lặng của cuộc đời thì không sao nhưng thử hỏi những lúc gặp gian nan thử thách thì cái thuở ban đầu, cái mối tình giữa vị Thiên Chúa mà bao lâu nay vị linh mục theo đuổi còn được bao nhiêu?
Hai vợ chồng trẻ cũng thế! Những ngày đầu đến với nhau, cưới nhau sao mà vui quá, sao mà hạnh phúc quá, sao mà quấn quýt bên nhau thế nhưng rồi những ngày sau đó ra sao? Những ngày chồng ốm, vợ bệnh, con đau còn có còn chăng cái thuở ban đầu, cái vẻ đẹp của ngày mới cưới, cái hồn thiêng của lời thề hứa khi cử hành bí tích Hôn phối chăng? Những ngày mới quen nhau, những ngày mới yêu nhau, những ngày mới cưới sao mà nó hay quá nhưng khi cưới rồi nó như thế nào?
Và rồi, trước khi tuyên lời khấn dòng, hứa sống sứ vụ linh mục hay thề hứa sống đến ngày “răng long đầu bạc” tuỳ theo ơn gọi của mình mỗi kitô hữu phải sống cái Bí Tích Thanh Tẩy hay còn gọi là Phép Rửa mà mỗi người lãnh nhận. Phép Rửa mà chúng ta khi lãnh nhận, căn cốt nhất của Phép Rửa ai ai cũng biết đó là lòng tin, tin nhận vào Đức Giêsu Kitô là Chúa. Như Thánh Gioan trong thư của Ngài vừa nhắc nhở chúng ta:
“Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta”. (1 Ga 5, 1-4)
Thánh Gioan nói rất rõ ràng chứ không mập mờ, không hai ý. Ngài nói rõ ràng: Tin là yêu mến! Đơn giản có thế thôi!
Thật ra mà nói, không đơn giản và không dễ chút nào cả.
Như người tu sĩ, linh mục cũng thế, thuở ban đầu quá tin nên quá yêu mến! Đơn giản quá sức nhưng dần dà, thời gian trôi theo năm tháng có còn tin, có còn yêu mến như ngày đầu như đã nói không mới là chuyện quan trọng.
Như hai vợ chồng, ban đầu cũng tin, cũng yêu mến nhưng thời gian dần trôi có còn tin, có còn yêu mến hay không mới là chuyện cần bàn.
Hôm nay, nhân cái ngày mà Chúa Giêsu ra sông Giođan để cho ông Gioan để lãnh nhận Phép Rửa cũng là dịp, là duyên để mỗi người chúng ta nhìn lại Phép Rửa mà chúng ta tin nhận. Cái thuở ban đầu, cái mối tình đẹp giữa ta và anh Hai Giêsu mà ta tin theo còn được bao nhiêu hay là nó cũng nhạt dần, nó cũng phai dần.
Ngày hôm nay, không chỉ ở thành thị, đời sống tôn giáo, lòng tin - cậy - mến vào Thiên Chúa bị giảm sút mà cả ở thôn quê. Điều này gợi lên cho ta nhiều suy nghĩ. Một thực trạng hết sức đau lòng đó là ở những vùng quê nghèo, ban đầu họ theo Chúa, họ tin Chúa rất dễ thương. Sau bao năm tháng, vị linh mục đặc trách cùng với giáo dân miệt mài xây cho cộng đoàn giáo xứ ngôi Thánh Đường thật to, thật lộng lẫy, thật khang trang nhưng lượng giáo dân đến tham dự Thánh Lễ, cử hành các Bí Tích nó cứ giảm dần theo năm tháng. Được biết một ngôi nhà thờ thật là to, tốn không biết bao nhiêu công sức mới tạo dựng. Tưởng chừng ngôi nhà thờ ấy sẽ đáp ứng, sẽ thoả mãn nhu cầu Phụng Vụ nhưng nào ngờ, ngày thường chỉ có loe ngoe vài mạng nên phải dùng tầng hầm của ngôi Thánh Đường đó để dâng lễ! Không chỉ một mà cũng có nhiều Thánh Đường bây giờ rơi vào tình trạng đáng buồn này.
Nguyên nhân của tình trạng này có lẽ là mỗi người chúng ta đã không còn đi đúng đường lối mà Thiên Chúa chỉ dạy, lòng tin mà lòng mến mà Thánh Gioan đã nói. Ngôn sứ Isaia đã nói với chúng ta qua bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. (Is 55, 8-11)
Chúng ta, thường rơi vào căn bệnh của chúng ta, rơi vào cái lý luận cùn của chúng ta chứ chúng ta không đi theo đường lối của Thiên Chúa. Tư tưởng của ta lúc nào cũng khác xa tư tưởng của Thiên Chúa vậy mà chúng ta cứ tưởng chúng ta hơn Chúa mới là lạ!
Isia đã không nhắc nhớ chúng ta sao? Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít. (Is 5, 2-3)
Chúng ta vẫn cứ mãi cắm cúi đi tìm những cái gì mà không làm cho chúng ta được sống như Chúa nói. Chúng ta vẫn đi tìm cho chúng ta những thứ gì mà sẽ mất ngày mai.
Nhà thơ Tuý Linh đã để lại cho chúng ta câu thơ rất hay:
“Sống trong cuộc đời này không phải để giành giật Những gì mà ta sẽ mất ngày mai”.
Vâng! Chúng ta nhận Phép Rửa nhiều năm nhưng chúng ta vì lý do này lý do khác đã nhạt nhẽo với tình yêu thuở ban đầu của Thiên Chúa. “Cái thuở ban đầu lưu luyến” giữa ta và Chúa còn đơn sơ, còn mộc mạc, còn dễ thương, còn chân thành như cái ngày mới nhận Phép Rửa hay không? Điều này chỉ có ta và Chúa biết mà thôi.
Hôm nay, xin Chúa nhắc nhớ chúng ta về Phép Rửa mà ta đã tin nhận. Nhận Phép Rửa là Tin, Tin ấy lại biểu lộ ở Tình Yêu. Xin Chúa là Vua Tình Yêu đến và ở lại với mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta yêu Chúa và yêu anh chị em đồng loại hơn.
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, Ngài còn lên cao hơn cả Trời nữa.
+ + +
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là Tình yêu.
Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sang thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa "thống hối".
Chỉ có Tình yêu mới làm cho Đấng Cứu Độ sống như người cần được Cứu Độ.
Phép rửa hôm nay chỉ là khúc dạo đầu của bản trường ca Tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: "Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Bị người nhà coi là "kẻ mất trí". Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phao lô đã phải thốt lên: "Đấng chửng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta".
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một "phép rửa". Người trầm mình trong đau khổ để mang lại Ơn Cứu Độ cho mọi người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc 12,50).
Qua bí tích rửa Tội, chúng ta đã trở nên các kitô hữu, "con cái yêu dấu" của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo Tin vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang Tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: "Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ". Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẽ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: "Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chửng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta".
+ + +
Lạy Chúa, Chúa đã nên bạn đồng hành với thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con, xin cho chúng con cũng biết đem Tình yêu cao cả nồng ấm của Chúa đến cho anh chị em chúng con. Amen.
Chủ đề: Người đời thường chạy tội, đổ lỗi cho người khác, còn Chúa Giêsu lại sẵn sàng gánh tội cho hết mọi người.
Một trong những thói xấu nghiêm trọng gây thiệt hại không nhỏ cho xã hội là thói đổ lỗi cho người khác, không chịu nhận trách nhiệm về mình.
Căn bệnh nầy đã xuất hiện ngay từ khởi thuỷ loài người.
Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm bất tuân lệnh Chúa (St 3, 1-18), Thiên Chúa đến hạch tội A-đam: "Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?"
A-đam bèn đổ lỗi cho cả Thiên Chúa lẫn E-và: Tại vì "người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con mới ăn." Nói như thế, A-đam cho rằng cả Chúa cũng có trách nhiệm trong vụ việc nầy, tại vì Chúa đã trao người đàn bà nhẹ dạ nầy cho ông; giá như Chúa không dựng nên E-và và trao nàng cho Ađam thì đâu đến nỗi nầy).
Bấy giờ Chúa quay ra hỏi tội E-và: "Ngươi đã làm gì?" Người đàn bà liền trút tội cho con rắn: Tại vì "con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn". (St 3, 9-13)
Có vô số dê tế thần để người ta trút hết tội lỗi lên đầu chúng: tại ông, tại bà, tại trời, tại đất, tại gió, tại mưa... Bao nhiêu hậu quả và trách nhiệm đáng phải chịu vì lầm lỗi của mình, người ta đùn đẩy qua cho người khác. Tìm đâu ra con người dũng cảm dám đứng ra nhận lấy phần lỗi của mình và gánh lấy hậu quả do mình gây ra?
Trong khi đó, mặc dầu Chúa Giêsu được Gioan giới thiệu là Đấng quyền thế lớn lao, thậm chí Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người; là Đấng sẽ cử hành một phép rửa ngàn lần cao trọng hơn phép rửa của Gioan - "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước; còn Người, Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần" - vậy mà Chúa Giêsu lại đến với Gioan như một người tội lỗi, chăm chú nghe Gioan rao giảng, hoà mình với những người thu thuế, những tên cướp của giết người, những hạng người đàng điếm, côn đồ và với bao nhiêu người tội lỗi khác để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ Gioan làm phép rửa cho.
Nhưng, Chúa Giêsu là Đấng không hề vướng tội, thì sao lại phải chịu phép rửa bởi Gioan?
Chúa Giêsu chịu phép rửa không phải vì tội lỗi của Người nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Người là "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta" (2Cr 5, 21). Người đến làm con "Chiên của Thiên Chúa" gánh lấy tội lỗi thế gian (Ga 1,29) thay cho các con chiên đền tội thời Cựu Ước.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Chúa Giêsu trở thành tội nhân, nên Người phải hoà mình với những tội nhân khác để cho ngôn sứ Gioan làm phép rửa cho Người.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, Người đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để đền thay tội lỗi muôn người. "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá. Để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành". (1 Pr 2, 24).
Cao đẹp thay, quảng đại thay hành vi hạ mình gánh lấy tội lỗi nhân loại của Chúa Giêsu. Người mãi mãi là gương mẫu của chúng ta và đáng cho chúng ta khâm phục tôn thờ.
Lạy Chúa Giêsu,
Biết đến bao giờ con mới chừa bỏ được thói trút tội lên đầu người khác và chối bỏ trách nhiệm của mình?
Biết bao giờ con mới có đủ bản lãnh và can trường để đứng ra chịu trách nhiệm về những thiệt hại mình đã gây ra?
Ước gì tấm gương khiêm nhường của Chúa hạ mình xuống nhận phép rửa dưới dòng sông Gio-đan vì tội lỗi nhân loại sẽ luôn là động cơ giúp con sửa chữa thói chạy tội vô trách nhiệm của mình.
Có ai đó đã nói rằng: “Thà thắp lên một ánh nến còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”. Lời này thật đúng vào thời Chúa Giêsu tại thế. Lúc đó dân tộc Israel đang sống trong bóng tối lầm than, đoạ đầy. Họ ao ước Đấng cứu tinh sẽ tới để giải thoát họ khỏi kiếp nôlệ cho ngoại bang. Họ chờ mong Đấng cứu tinh sẽ đến để xoay chuyển vận mạng cho dân tộc và cho chính ban thân của từng người khỏi kiếp sống lầm than. Và một tia hy vọng đã bừng sáng lên khi Gioan xuất hiện. Ông xuất hiện như một nguời hùng của dân tộc, như một nhà cách mạng giải cứu cho dân tộc. Ông đưa ra một phương thế có thể thay đổi vận mạng dân tộc: đó là hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa Giavê và hãy trung thành với giao ước của Người. Đó cũng là cách để tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vì: “cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn chặt đi”. Vì ngày thanh luyện trần gian đã đến. Thiên Chúa sẽ dùng nia mà sàn lọc, phân loại tốt xấu. Kẻ tốt sẽ được trọng thưởng, kẻ xấu sẽ bị quăng vào lửa trầm luân muôn đời.
Lời rao giảng của Gioan đã thức tỉnh lương tâm hàng vạn, hàng vạn người. Người ta thấy trong số đông lũ lượt kéo xuống dòng sông Gioađan năm ấy để lãnh phép rửa có đủ mọi thành phần. Từ anh chàng cù bất cù bơ không cửa không nhà đến hạng quyền qúy cao sang, nhà cao cửa rộng. Từ những con người có chức có quyền đến hạng dân đen thấp cổ bé miệng đều cảm thấy mình cần phải sám hối hầu tránh khỏi cơn thịnh nộ của trời đất, của Đấng tạo thành.
Dòng sông hôm ấy dường như náo nhiệt hơn mọi ngày, vì dòng người tấp lập, vì những lời bàn tán xôn sao về ngày thanh luyện trần gian đã tới. Nhưng một sự kiện còn làm họ bàng hoàng kinh ngạc hơn nữa, khi bầu trời trong sáng lạ thường hơn, cửa trời như được mở toang. Ánh sáng từ trời đã tập trung vào một con người đang nài xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Gioan đã lưỡng lự, phân vân, vì ông biết đây chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội gian trần. Ông không hiểu nổi tại sao Con Thiên Chúa, Đấng thánh thiện vô cùng lại cần đến phép rửa của ông. Ông tự biết mình đâu xứng đang cởi dây dầy cho người thì làm sao ông có diễm phúc đổ nước trên đầu một con chiên không tỳ vết, chính là Thiên Chúa của ông. Nhưng rồi, ông đã vâng lời để đổ nước cho Đấng mà bản thân ông không đáng cởi dây dầy cho người. Tức thì ông nghe một tiếng nói từ trời phán ra. Không phải là tiếng xót xa tìm kiếm ngày nào của Giavê khi Adam lẩn trốn vì phạm tội. “Ađam – Ađam ngươi đang ở đâu?”. Đó cũng không phải là lời luận tội vì tội Ađam mà luỵ đến con cháu muôn đời. Nhưng đó là lời giao hoà của Thiên Chúa với con người: “Đây là con Ta yêu qúy, hãy nghe lời Người”.
Kính thưa,
Ngày chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, là ngày chúng ta được nhận làm con yêu qúy của Thiên Chúa. Qua cha mẹ và những người đỡ đầu, ánh sáng của đức tin đã được thắp lên trong cuộc đời chúng ta. Nhưng liệu với tuổi đời chồng chất theo thời gian năm tháng. Ta có còn là con yêu qúy của Thiên Chúa và Thiên Chúa có hài lòng về cuộc sống của ta hay không? Hay ta đã bán đi tất cả gia sản của cha mình để buông mình trong những đam mê lầm lạc, trong bóng tối của sa đoạ, tội lỗi, trong những hư danh của trần gian và khước từ ân huệ là con của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta gìn giữ ân huệ cao cả được làm con Thiên Chúa mà còn mời gọi chúng ta hãy trở thành một Gioan cho thời đại hôm nay.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để thức tỉnh nhân loại hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa hòng tránh cơn thịnh nộ của Đấng tạo hoá chí công.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan dám hy sinh vì chân lý, vì tin mừng cho dù phải trả giá bằng sự nghèo đói, đoạ đầy và cả tính mạng của mình.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để giới thiệu Chúa cho tha nhân, ngõ hầu muôn dân khắp mặt đất cùng một tâm tình, một ước nguyện, một lời kinh dâng lên Đấng tạo thành trời đất và muôn vật. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm tốn để Chúa được tỏ hiện trong đời sống của chúng ta. Amen.
Có một lần dạy giáo lý tôi hỏi các em: Thông thường khi phạm tội điều đầu tiên mình phải làm gì?
Một em trả lời: thưa cha bỏ chạy ạ!
Nghe qua tưởng là chuyện đùa nhưng điều đó mới là lẽ thường tình. Ai phạm tội mà không bỏ chạy? Ai có tội mà không che dấu tội? Con người trước khi phạm tội thì rất hung hăng nhưng sau khi phạm tội thì lại hoảng loạn sợ hãi như cha ông ta bảo rằng: “Chưa đánh được người, mặt xanh mày tía. Đánh được người rồi hồn vía lên mây”.
Có một đứa bé đang kiễng chân lên trước cổng của một ngôi nhà to lớn để nhấn chuông, nhưng mãi không nhấn được. Cha sở đi ngang qua thấy vậy liền nói: Để cha giúp con. Thế là cha sở bế thằng bé lên cho nó nhấn chuông. Nhấn chuông xong thả nó xuống đất, cha sở mới hỏi: Con còn cần ta giúp gì nữa không? Thằng bé liền nói: Bỏ chạy ạh! Thế là nó ba chân bốn cẳng bỏ chạy, cha sở ngớ người ra chẳng biết nói gì! Hóa ra thằng nhỏ đến nghịch chuông nhà người ta mà cha sở lại tưởng nó có việc nên nhấn chuông!
Ở đời người ta thường chạy tội, đổ tội cho người khác để giảm khinh cho lỗi của mình. Khi phạm tội ông bà nguyên tổ đã chạy trốn trong bụi cây. Trốn không được nên Adam đã đổ tội cho Eva. Eva đổ tội cho con rắn. Cain thì chối tội. Cuộc đời quanh ta cũng có biết bao người sợ tội, sợ liên lụy nên không dám nhận lỗi lầm về mình, càng không dám để lộ tội lỗi của mình cho người khác biết.
Ở Việt Nam có biết bao con đường chưa xong đã hư, và cũng có biết bao cây cầu chưa khánh thành đã đổ xập. Thế nhưng, điều đáng tiếc là chúng ta cũng chỉ nghe họ đổ tội cho nhau dù đã gây nên biết bao thiệt hại cho xã hội về vật chất, về tiền, có khi cả về mạng sống con người.
Ở gia đình cũng có biết bao cha mẹ thiếu trách nhiệm giáo dục con cái, thiếu cả gương sáng nên con cái hư hỏng, nhưng điều đáng tiếc là họ chỉ đổ tội cho nhau và không bao giờ sám hối về tội của mình.
Có biết bao thanh thiếu niên phạm pháp và xì ke ma túy khi bị bắt họ cũng không nhận lỗi lầm của mình mà còn đổ tội cho cha mẹ vì quá nuông chiều.
Có biết bao mối tình bất chính đã gây nên hậu quả là những cái thai ngoài ý muốn. Điều đáng tiếc là họ cố tình che dấu tội của mình bằng việc tàn sát các thai nhi vô tội.
Chúa Giê-su là Đấng hoàn toàn vô tội. Ngài là Đấng cao cả đến nỗi Gioan bảo không đáng cúi xuống cởi quai dép cho người. Thế mà Ngài lại đến với Gioan như một tội nhân. Ngài hòa mình giữa bao tội nhân để nhận lãnh phép rửa sám hối của Gioan.
Biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa của Gioan là một khởi đầu cho một chuỗi những liên đới với tội nhân. Ngài đã chấp nhận đứng chung với tội nhân để gánh lấy hậu quả của tội lỗi nhân gian. Hậu quả của tội lỗi là đau khổ, là sự chết. Chúa Giê-su đã gánh lấy tội nhân loại khi phải sống kiếp người đầy thăng trầm và khổ đau. Ngài gánh lấy tội nhân loại khi bị kết án, tẩy chay loại trừ. Ngài còn gánh lấy tội nhân gian khi bị chết treo trên thập giá để đền thay tội lỗi nhân gian. Ngài hiến dâng mạng sống mình thành của lễ giao hòa với Thiên Chúa Cha. Qua cuộc Tử Nạn và phục sinh của Ngài mà nhân loại chúng ta được giao hòa với Chúa Cha, được gọi Thiên Chúa là Cha, và được thừa tự phần phúc thiên đàng do công phúc của Chúa Giê-su.
Cuộc đời sẽ hạnh phúc biết bao khi con người biết nhận trách nhiệm về mình, không đổ lỗi, không chạy tội nhưng luôn khiêm tốn nhìn nhận cái sai để sửa, để rút kinh nghiệm, để canh tân. Cuộc đời sẽ không còn nước mắt của sự bỏ rơi, thất vọng khi ai cũng can đảm liên đới với mảnh đời bất hạnh để cảm thông, để an ủi và giúp họ vượt qua những khổ đau. Cuộc đời sẽ công bằng hơn khi ai cũng dám làm dám chịu mà không chạy tội hay đổi tội cho người khác.
Ước gì chúng ta đừng bao giờ chối tội, chạy tội mà luôn biết nhìn nhận những khuyết điểm, những sai lỗi của mình để ăn năn sám hối và canh tân đời sống. Ước gì chúng ta cũng biết liên đới với tội nhân như Chúa Giê-su để dâng những việc lành phúc đức, những lời kinh nguyện, những hy sinh lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi nhân gian. Amen.
Theo sách Xuất Hành, Mosê là con trai của Amram, thuộc chi phái Levite, mẹ là Jochebed. Mosê có một chị gái lớn hơn 7 tuổi tên Miriam, và một anh trai lớn hơn 3 tuổi tên Aaron. Theo Sáng Thế Ký (46: 11) Thân phụ của Amram, Kê-hát, ở trong số 70 người thuộc gia đình Jacob vào ngụ cư ở Ai Cập. Như thế, Moses là thế hệ thứ hai sinh trưởng tại Ai Cập.
Mosê chào đời khi Pharaon (Vua Ai Cập) ra lệnh sát hại tất cả bé trai Do Thái bằng cách trấn nước chúng tại sông Nile. Cả kinh Torah và sử gia Flavius Josephus đều không nói gì đến tên tuổi và thân thế của Pharaon này. Người ta không rõ đây là vị Pharaon nào trong lịch sử Ai Cập cổ đại, và có những quan điểm cho rằng đây là vua Seti I hoặc là vua Ramesses II của Vương triều thứ 19.
Jochebed, sau khi sinh hạ một con trai, đã tìm cách giấu đứa bé trong ba tháng. Khi biết không thể bảo vệ đứa bé lâu hơn nữa, Jochebed đặt đứa bé vào một cái nôi và thả trôi theo dòng sông Nile. Miriam, chị của cậu bé, dõi theo canh chừng chiếc thuyền con bé tí này cho đến khi nó trôi giạt vào nơi công chúa Thermuthis (Bithiah) đang tắm cùng các nữ tì. Công chúa thấy đứa bé nằm trong nôi bèn ra lệnh vớt lên. Miriam tìm đến và xin công chúa nhận cô làm vú nuôi chăm sóc đứa bé. Về sau, Jochebed thay thế con gái trở thành vú nuôi của đứa bé. Khi lớn lên, Mosê được đem vào cung và được công chúa nhận làm con nuôi. Công chúa đặt tên đứa bé là Mosê, tiếng Do Thái là mashah nghĩa là được "cứu khỏi nước."
Ông Môsê, ngôn sứ lãnh đạo dân Do Thái thoát khỏi kiếp nô lệ Ai Cập, lưu lạc suốt 40 năm trong sa mạc, đến miền Đất Hứa. Hình ảnh được cứu khỏi nước, ông Môsê thoát chết, khiến tín hữu Kitô liên tưởng đến phép thanh tẩy của Đức Giêsu giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Giáo Hội mửng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa bời ngôn sứ Gioan Tiền Hô. Có thể nhiều người cũng giống thái độ của Gioan, kinh ngạc thấy Đức Giêsu nằng nặc đòi ông Gioan làm phép rửa cho Người, vốn tinh tuyền, trong sạch, hoàn toàn vô tội.
Làm người
Làm sao thấu hiểu được mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta, nếu không xác tín vào Kinh Thánh, Lời Chúa? Thánh Phaolô đã tóm lược công trình cứu độ con người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng phục cho đến chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-7).
Đức Giêsu sẵn sàng rời bỏ địa vị cao quý tột cùng, mặc lấy xác phàm, để cùng sống thân phận yếu đuối, mỏng dòn như nhân loại. Chẳng bao giờ có thần thánh nào khác dám tự hạ làm tiện dân bần cùng đến vậy. Chỉ vì tình yêu nhân loại, mà Người bất chấp gian lao, nguy khó, đe dọa và tước đi cả chính sinh mệnh.
Nghèo khó
Đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác với đường lối con người, vốn ưa chuộng những điều phù phiếm hư ảo. Đức Giêsu không sinh trong gia đình giàu sang, phú quý, danh giá, nhưng trong cảnh nghèo khó mà công chính, đạo đức, thánh thiện. Máng cỏ Bêlem thô kệch, ngứa ngáy thay cho cái nôi ấm áp, êm ái. Thiếu thốn, bần cùng thay cho dư giả, sung túc tiện nghi. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5, 3) Trong Bát Phúc, thì tinh thần nghèo khó được Đức Giêsu đặt lên hàng đầu.
“Xin Chúa cho con được khó nghèo như Chúa.” Thường con hay cầu nguyện ngược lại. (Đường Hy Vọng, số 419)
Gian truân
Nhờ hơi ấm bò lừa, Hài Nhi bớt run rẩy trong tiết Đông giá lạnh. Hơn nữa, Hài Nhi hiền hòa còn chịu cảnh bôn ba, vất vả vượt biên Ai Cập, trong khi Mẹ Người và Cha nuôi âu sầu, lo lắng đem Người chạy trốn bạo quyền Hêrôđê lăm le sát hại. “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. (Mt 5, 4 - 5) Người đã nêu gương đích thật về Bát Phúc, tỏa sáng chan hòa cho những ai muốn bước theo Người.
Trong gian khổ có ba điều con nên tránh:
- Đừng điều tra ‘Tại ai?” Hãy cám ơn dụng cụ nào đó, Chúa dung thánh hóa con.
- Đừng than thờ với bất cứ ai. Chúa Thánh Thế, Đức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết.
- Khi đã qua, đừng nhắc lại trách móc, hận thù. Hãy quên đi, đừng nhắc lại bao giờ và nói: “Alleluia!” (Đường Hy Vọng, số 700)
Khiêm hạ
Thánh Gioan kinh ngạc thấy Đức Giêsu xếp hàng cùng với tội nhân khắp nơi tuôn đến, xin ngài ban phép rửa. Ai cũng đều không khỏi ngạc nhiên thấy vậy. Đấng Cứu Thế chí tôn, chí nhân, chí thánh lại tự hạ cùng cực, khi hòa mình vào đám đông tội lỗi. Bởi vì Người yêu thương con người, gánh trên mình tất cả tội lỗi gian trần, chịu phép rửa, đồng thời tiên báo cuộc tử nạn và phục sinh hầu cứu độ loài người.
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1, 52) Đức Mẹ Maria đã cảm nghiệm sâu sắc đức khiêm nhường, mà Chúa hằng yêu chuộng.
“Trong cuộc đời Chúa Giêsu, Người yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhường, và quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại:
Phêrô
Mađalêna
Giakêu…
Chúa thân hành đến nhà họ, và đành chịu mang tiếng: “Bạn với quân thu thuế và tội lỗi.” (Đường Hy Vọng, số 521)
Vâng phục
“Người đi cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài.”(Lc 2, 51) Ba mươi năm sau, Đức Giêsu vẫn tiếp tục vâng theo Thánh Ý Cha, khiêm nhường cúi đầu chịu phép rửa của ông Gioan, toàn tâm, toàn ý trung thành với sứ vụ cứu độ loài người. Người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha: “Con là Con yếu dấu của Cha, Cha hài lòng về con.” (Mc 1, 11)
“Vâng phục trong thinh lặng, sự thật sẽ giải thoát con. Thinh lặng trong năm năm, mười năm, cả đời con. Thinh lặng trong sự chết… Chúa biết con đủ rồi, và ngày tận thế nhân loại cũng sẽ biết. (Đường Hy Vọng, số 405)
Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh chúng con trở về với Chúa, chừa thói kiêu căng, tự cao tự đắc, tự mãn, mà biết cúi mình, đấm ngực, ăn năn, sám hối, ý thức thân phận tội lỗi, mà canh tân đổi mới cuộc đời, hầu được Chúa giải thoát cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con sống tự hạ, khiêm tốn, khó nghèo và vâng phục theo Mẹ, để được Chúa thương dẫn về sự sống. Amen.
Nếu phép rửa của ông Gioan tẩy giả không có công hiệu tha tội thì tại sao Ðức Giêsu là Ðấng vô tội lại đến xin chịu phép rửa ở sông Gio-đan? Ðây chính ông Gioan đã trả lời cho câu hỏi này:
Tôi chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần (Mc 1:8). Như vậy phép rửa của Gioan chỉ là nghi thức, một tác động sám hối để sửa soạn cho người ta đón nhận Ðấng Cứu thế. Bằng việc chịu phép rửa, Ðức Giêsu muốn xác nhận sứ mệnh và phê chuẩn việc làm của ông Gioan. Chúa còn tỏ cho nhân loại thấy tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội mà Người sẽ thiết lập sau này.
Mặc dù không phải là bí tích rửa tội, phép rửa mà Ðức Giêsu lãnh nhận bởi ông Gioan cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Khi Chúa chịu phép rửa, có tiếng phê chuẩn từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con (Mc 1:11). Với tiếng phán từ trời, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha công nhận là người đến để cứu chuộc nhân loại. Tiếng từ trời phán có liên hệ rất gần gũi với lời ngôn sứ Isaia về người đầy tớ đau khổ: Ðây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến (Is 42:1). Từ ngữ Con trong Phúc âm thánh Mác-cô được thay thế vào từ ngữ tôi trung trong sách ngôn sứ Isaia ám chỉ Chúa Giêsu là tôi tớ đau khổ của Ðức Giavê. Và đó là điều mà Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Ðức Kitô: Ðây chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian (Ga 1:29).
Phép rửa mà Đức Giêsu lãnh nhận nhắc nhở cho ta về phép Rửa tội của mỗi người, đánh dấu việc khởi đầu của đời sống đức tin. Ðời sống đức tin của người tín hữu bắt đầu khi ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Trong nước rửa tội, ta trở nên người mới với đời sống mới. Bí tích Rửa tội vừa là việc kết thúc vừa là việc khởi đầu. Bí tích Rửa tội kết thúc đời sống trong bóng tối tội lỗi và bắt đầu đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Bí tích Rửa tội là việc tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, nghĩa là người chịu phép Rửa tội phải chết đi cho tội lỗi, để được sống lại với Chúa trong ơn thánh. Ðó là ý nghĩa của lời Chúa nói với ông Nicôđêmô: Không ai có thể thấy nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thánh thần (Ga 3:5). Và rồi Chúa thiết lập Bí tích Rửa tội: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:19).
Bí tích Rửa tội không phải là giấy thông hành để được vào nước Trời. Người ta có thể chứng minh có tất cả các giấy chứng chỉ về đạo giáo như: chứng chỉ rửa tội, rước lễ lần đầu, thêm sức, cưới hỏi.. Tuy nhiên chưa chắc người ta đã sống đức tin và trưởng thành trong đức tin. Người ta có thể chịu Phép rửa tội lâu năm, nhưng đời sống vẫn không có gì thay đổi, vẫn khô khan, nguội lạnh và làm biếng việc lành. Tại sao lại như vậy? Có lẽ tại vì người ta làm việc đạo một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ, hay mặc cả với Chúa để được hưởng giá rẻ trong việc giữ đạo.
Khi chịu Phép Rửa tội, người tín hữu phải tỏ ra tâm tình sám hối đi kèm. Tuy nhiên làm sao trẻ thơ có thể giục lòng sám hối? Ở đây, cha mẹ và người đỡ đầu và toàn thể dân Chúa thay thế cho con trẻ khi chịu phép rửa tội để giục lòng sám hối mà nhận lãnh đức tin. Để nhắc nhở cho người tín hữu về những ơn ích của Bí tích Rửa tội, hằng năm vào lễ Phục sinh, Giáo hội cho ôn lại lời hứa khi chịu Phép Rủa tội là: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ Xatan và những quyến rũ gian tà. Giáo hội còn nhắc nhở cho người tín hữu tin vào Thiên Chúa là Cha, tin Chúa Giêsu Kitô và tin Chúa Thánh thần. Ngươòi tín hữu còn được nhắc nhở để đặt niềm tin vào Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống vĩnh cửu nữa.
Bí tích Rửa tội là một biến cố lớn trong đời sống người tín hữu. Hoặc được rửa tội khi còn tuổi măng sữa, hay khi đã lớn khôn, người ta cần đem ý nghĩa vào việc rửa tội. Nếu được rửa tội khi đã khôn lớn, người ta phải xác tín về đức tin và về đạo. Nếu được rửa tội lúc còn nhỏ dại, khi lớn lên, người ta phải tự phê chuẩn đức tin mà ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Ta không thể cậy dựa và tuỳ thuộc vào đức tin của cha mẹ và người đỡ đầu mãi mãi. Ta phải tập đi tập đứng trong đức tin. Khi mà hạt giống đức tin được vun trồng trong đời sống, ta phải nuôi dưỡng, chăm sóc, nếu muốn cho đức tin được tăng trưởng và sinh hoa kết quả thiêng liêng.
Lời nguyện xin cho được ơn nhận ra tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội.
Lạy Chúa Giêsu! Đấng thiết lập Bí tích Rửa tội. Bằng việc chịu phép rửa sám hối, Chúa đã muốn phê chuận sứ mệnh của thánh Gioan. Chúng con cầu nguyện cho những người tin Chúa mà không nhận phép rửa tội. Xin cho họ nhận thức được tầm quan trọng của Bí tích Rửa tội. Còn những người đã được sinh lại trong nước và Thánh thần, xin cho họ được tiếp tục đi tìm kiếm nước Chúa. Amen.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa Nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.
1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm “tam thập nhi lập”, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để “chu toàn thánh ý Thiên Chúa"(Mt 3,15), Chúa Giêsu tự nguyện chịu phép rửa của thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsu đã đi vào mầu nhiệm “tự hạ” (Pl 2,7). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu là “Con Chí Ái” của Ngài (Mt 3,16-17).
Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như “một Phép Rửa” Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá (Ga 19,34) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những bí tích ban sự sống mới (x.1Ga 5,6-8); từ giây phút ấy, chúng ta có thể “sinh ra nhờ nước và Thánh Thần” để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).
Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên bí tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.
2. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội
Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức “Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.
Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG 1213).
Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG 263).
Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Gl 3,5).
a. Được tha thứ tội lỗi
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha: nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội (x. DS 1316). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.
Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như: đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối... và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là “cái nôi của tội”. “Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5) (x. CĐ Trentô: DS 1515).
b. “Trở nên thụ tạo mới”
Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x.1Cr 6,15; 12,27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8,17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x.1Cr 6,19).
Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa để người đó:
- Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần. - Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân. - Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.
Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.
Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, “bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).
Những người đã được rửa tội trở nên “những viên đá sống động... để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ Bí Tích Rửa Tội ,họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền” (2 Pr 2,9).
Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa.Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ “không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (1Cr 6,19). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau (x.Ep 5,21;1Cr 16,15-16) và phục vụ nhau (x.Ga 13,12-15) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh (x.Dt 13,17) với lòng kính trọng và quý mến (x.1Tx 5,12-13). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh:được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. (x.LG 37).
3. Bí Tích Rửa Tội, hồng ân cao đẹp và kỳ diệu
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân - Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.
Thánh Phaolô gọi Bí Tích Rửa Tội là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23).
Thánh Giúttinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “đã được soi sáng” (Dt 10,32), họ trở thành “con cái sự sáng” (1 Tx 5,5) và là “ánh sáng” (Ep 5,8).
“Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa...Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Grêriô Nadien, Bài giảng 40,3-4).
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.
Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.
Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.
Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
Chúa chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một thời đại ân sủng cho nhân loại.
1. Sông Giođan
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Thiên Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái là “hayyarden” có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc; chảy vào biển hồ Galilê, ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển; rồi tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết, ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển, có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét so với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestine, nhưng Giođan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông.
Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này. Khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan. Các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Giođan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Giođan...” (Gr 12,5; 49,19; 50,44). Tướng quân Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êlisa xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó (Ed 47).
2. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Ngôi Lời Thiên Chúa từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn người chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạn gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy?
Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của Ngôi Hai làm người!
3. Thời đại ân sủng
Trước sự hạ mình thẳm sâu của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng lời tuyên bố: “Đây là con Ta yêu dấu” và sai phái Thánh Thần hiện xuống dười hình chim bồ câu.
Ba dấu hiệu mà Phúc Âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
a. Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách Sáng Thế viết: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại (St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” (Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là, con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
b. Dấu hiệu 2: Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế viết:Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu với ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15).
c. Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha: “ Con là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong lời giảng dạy, Chúa Giêsu cho biết: những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong giờ phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Phép rửa của Chúa Giêsu là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Chúa Giêsu như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Kitô giáo được ban“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái với Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu độ con người.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu độ nhân loại, là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”.
Chúa Giêsu không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gãy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Kitô giáo.
Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đến với mỗi người, ban cho chúng ta cuộc sống thần linh, cho chúng ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Thiên Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công trình cứu độ.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí tích Rửa Tội để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
Cả ba Tin Mừng Nhất lãm đều kết thúc thuật trình Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan bằng lời tuyên phán của Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Con” hoặc “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” ( x.Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 3,22 ). Chúa Cha hài lòng với Chúa Chúa Giêsu về chuyện gì đây ? Dĩ nhiên là về chuyện Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng đoàn người tội lỗi đang đến để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa bày tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa dù đã mặc lấy xác phàm nhân loại như chúng ta mọi đàng nhưng chẳng hề vương bẩn tội nhơ ( x.Dt 4,15 ). Là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người hoàn toàn thanh sạch thế mà Người xếp hàng giữa đám người tội lỗi để làm gì ? Chắc chắn không phải là để nhờ Gioan làm phép thanh tẩy hầu được nên thanh sạch. Cũng chắc chắn rằng không phải Người cố tình làm gương cho chúng ta về việc hoán cải ăn năn như đã từng có nhiều nhà tu đức từng suy diễn. Không ai có thể làm gương một việc mà chính mình không thực làm. Như thế chìa khoá vấn đề phải nằm ở chỗ khác.
Mang lấy xác phàm, trở nên giống loài người ta mọi đàng, thì Chúa Giêsu vẫn phải cần có thời gian để hiểu biết ý Chúa Cha cũng như tự nhận thức về căn tính của mình. Các nhà Kitô học đồng thuận với nhau rằng khi còn nằm trong nôi, còn ôm lấy bầu sữa mẹ, thì trẻ Giêsu chưa thể nhận thức được căn tính Thiên Chúa của mình. Và một điều ít ai chối cải đó là năm lên mười hai tuổi, khi lưu lại Đền thờ Giêrusalem ba ngày nhân chuyến cùng cha mẹ hành hương, thì thiếu niên Giêsu đã ý thức về căn tính Thên Chúa của mình. Biết mình là Thiên Chúa, thế nhưng để biết sứ vụ của mình là cứu độ nhân loại và cứu độ nhân loại như thế nào thì Chúa Giêsu cũng cần phải có thời gian cần thiết để tìm hiểu thánh ý Chúa Cha.
Nhiều nhà Kitô học nhìn nhận rằng khi Chúa Giêsu đến chịu phép rửa tại bờ sông Giođan chính là lúc Người tìm ra con đường cứu độ. Nói đến sự ơn cứu độ, các nhà thần học lẫn tu đức thường dùng hình ảnh cứu vớt người đang chìm dưới sông nước. Không biết bơi mà rơi xuống hố nước sâu thì sự sống như không còn thuộc vào chính bản thân mình. Cần phải có một ai đó độ trì, cứu vớt, may ra mới được sống.
Để cứu độ nhân loại khỏi vùng lầy tội lỗi, Chúa Kitô không đứng bên trên mà kéo. Người đã tự nguyện đi xuống tận đáy sâu kiếp người khi vào trần gian. Đồng thân với con người trong kiếp phàm hèn chưa đủ, Chúa Kitô còn muốn đồng phận với loài người trong kiếp tội nhân, dù Người hoàn toàn vô tội. Tình yêu lên đến đỉnh cao khi người ta tự nguyện đồng thân, đồng phận với nhau. Đồng thân đồng phận với nhau là một trong những hình thức liên đới đến cùng. Là con chiên tinh tuyền, là người tôi tớ trung thành và nhân hậu, Chúa Kitô đã nhận lấy mọi hậu quả tội lỗi của loài người vào chính bản thân Người. Điều đã được Ngôn sứ Isaia loan báo xưa về “Người Tôi Trung” nay ứng nghiệm nơi chính Chúa Kitô ( x. Is 42,1-9; 49,1-7; 50,4-11 ).
Chọn con đường đi xuống để nâng loài người sa ngã lên, sự chọn lựa của Chúa Giêsu đã làm hài lòng Chúa Cha. Đây là một sự chọn lựa phát xuất bởi tình yêu sung mãn. Chúa Thánh Thần với hình chim bồ câu ngự xuống trên Người là một dấu chỉ. Và các tầng trời mở ra, nghĩa là con đường cứu độ nay đã khai mở cho con người. Việc Chúa Giêsu chọn con đường đi xuống giúp chúng ta xác tín những chân lý sau:
1. Không một ai là không có thể được cứu rỗi: Các cứu hộ viên đứng trên bờ sông mà đưa tay ra thì những người ở xa bờ hay đang chìm dưới nước quả là khó có cơ may được cứu. Trái lại khi các cứu hộ viên đã lặn sâu xuống đáy sông thì mọi người đều có thể được cứu sống. Chúa Giêsu đã cúi xuống dưới chân các tông đồ, Người đã cúi xuống dưới chân Giuđa, kẻ đã rắp tâm phản bội Người và Người sẵn sàng cúi xuống dưới chân hết mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chỉ cần chúng ta đồng thuận thì Người sẽ nâng chúng ta lên cùng Chúa Cha.
Mọi người đều có thể được cứu rỗi. Một chân lý của niềm tin và của niềm hy vọng. Bất cứ ai, dù trong hoàn cảnh tồi tệ nào đi nữa, thì vẫn luôn có Giêsu Kitô đứng dưới chân để sẵn sàng nâng lên. Chính vì thế mà thất vọng về chính mình là một sự tồi tệ thật đáng trách không kém gì khi ta thất vọng về tha nhân.
2.Trước tiên hãy trách mình, đừng trách tha nhân hay phàn nàn Chúa, nếu giả như chúng ta vẫn mãi mê trong tội. Một trong những thói xấu của người đắm chìm trong tội đó là tìm đủ lý do để bào chữa. Để làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình, khi phạm tội, chúng ta thường hay đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho tha nhân, cho ma quỷ và có khi cho cả Thiên Chúa. Phải tiên thiên loại trừ việc gán cho Thiên Chúa là tác nhân gây sự xấu vì Thiên Chúa không hề, đúng hơn là không thể cám dỗ một ai. Chúng ta cũng cần chân nhận rằng thần dữ, người xấu hay ngoại cảnh cũng có góp phần nào đó trong tội của chúng ta. Tuy nhiên, các tác nhân ấy chỉ có thể làm tăng giảm mức độ trách nhiệm của chúng ta trên tội của mình. Nhưng không ai khác, chính chúng ta phải là người trực tiếp chịu trách nhiệm mọi hành vi tội lỗi của mình.
Mừng mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, hãy cùng cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa vì đã yêu thương loài người đến cùng. Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện đồng hàng với chúng ta trong kiếp tội nhân. Cúi mình để cho Gioan làm phép rửa là điểm khởi đầu và điểm kết thúc là thân phận một tội nhân trên thập giá.
Với biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Gio-đan, mời bạn cùng tôi dừng bước để “chiêm niệm” lại chính phép rửa của mình và đời sống của người con cái Thiên Chúa.
“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1,11). Lời từ trời cao vang dội xuống trần gian. Lời từ Cha Từ Ái gởi đến Người Con Duy Nhất đã vâng phục trong khiêm tốn, để thi hành thánh ý Cha ban. Thánh ý của tình yêu từ trời cao mang ơn cứu độ đến cho muôn người, trong đó có bạn và tôi nữa.
Với Chúa Giê-su và trong ân sủng của Thần Khí, một hồng ân cao quý được ban xuống cho chúng ta. Đó là mỗi người chúng ta, từ khi được Chúa nắn thành hình và làm nên, được Chúa trao ban hơi thở và đưa vào cuộc đời, được trở nên nghĩa tử, trở nên con cái của Cha trên trời. Hồng ân cao quý này luôn mang dấu ấn của tình yêu cao quý, và hồng ân này được hiển lộ rõ rệt hơn nữa qua chính bí tích Thánh Tẩy.
Dù bạn và tôi được đón nhận bí tích Thánh Tẩy khi còn là em bé khóc o oe chẳng biết gì, hay là một người trưởng thành đầy ý thức và tự do nói lời “xin vâng” với Thiên Chúa qua bí tích Thánh Tẩy, thì chúng ta đều được ghi một dấu ấn thật đẹp. Dấu ấn đó là:
“Mỗi người chúng ta đều là người con yêu dấu của Cha trên trời”.
“Là con yêu dấu của Cha”, nên trong đôi mắt Cha mỗi người chúng ta là viên ngọc thật quý giá, thật quan trọng đối với Cha, vì thế Cha luôn trân trọng và mến thương. Dù cuộc đời có đưa ra biết bao chuẩn mực thước đo, để đánh giá và thẩm định một con người, thì với Cha trên trời bạn và tôi luôn quý giá. Cái quý giá của tình yêu từ trời cao ban tặng vượt trên mọi khuôn mẫu của cuộc đời này. Bạn giàu và tôi nghèo, Cha đều yêu thương. Bạn giỏi giang và tôi đơn hèn, Cha đều trân quý. Bạn hạnh phúc đầy đủ và tôi vất vả lầm than, Cha đều ở bên để chia sẻ, để đỡ nâng và để bảo ban dạy dỗ.
Thật vậy, từ ngày được sinh vào đời, từ ngày được trở nên con cái của Cha, được mang căn tính là một Ki-tô hữu, nghĩa là người có Chúa Ki-tô, người thuộc về Chúa Ki-tô, chúng ta trở thành người được Cha yêu thương, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu không dựa trên bất cứ chuẩn mực nào mà cuộc đời tự cho mình là thông minh và tự cho mình có quyền đưa ra.
“Là con yêu dấu của Cha” cũng là “em của Chúa Giê-su” nữa. Như vậy, “Anh Giê-su” đã sống thế nào để làm hài lòng Cha, thì chúng ta cũng bước đi trên nẻo đường đó.
Điều đầu tiên mà Anh Giê-su làm Cha hài lòng là gì vậy? Đó là vâng phục thánh ý tốt lành của Cha, là sẵn sàng đón nhận sứ mạng quan trọng. Sứ mạng làm cho người Con Yêu Dấu của Cha trở nên xác phàm, sống trong căn lều ngay giữa góc phố của nhân trần, và chia sẻ mọi điều vất vả lầm than, rồi còn gánh vác tất cả mọi khổ đau kể cả tội lội của nhân trần trên đôi vai của Ngài.
Vâng phục thánh ý, vâng phục Cha trên trời, vâng phục vì yêu thương, vâng phục để sống sứ mạng cứu rỗi những phận người đang sống trong tội lỗi, đang lần bước trong bóng đêm.
Ôi, vâng phục của tình yêu. Một sự vâng phục quá tuyệt vời! Sự vâng phục làm nên ý nghĩa của cuộc sống, sự vâng phục tạo nên giá trị của cuộc đời.
Nhìn Anh Giê-su với tinh thần vâng phục cao quý này, bạn và tôi đã “viết chữ vâng phục” trong đời mình như thế nào? Vẫn biết rằng ai cũng muốn khẳng định bản thân, vẫn biết rằng ai cũng có ý riêng, nhưng nếu cả đời chỉ ôm ấp “cái tôi” của mình, và mỗi hơi thở chỉ hướng về chính mình mà thôi, thì cuộc sống đó sẽ “chật chội” biết bao nhiêu.
Có khi nào chúng ta đã nắn nót viết chữ “vâng phục” thật đẹp trên một góc đường nào đó, chúng ta cảm thấy đời có đáng sống không? Tâm hồn có cảm nhận một niềm vui sâu lắng của người con đơn hèn vâng phục Cha và làm hài lòng Cha không?
Nhưng cũng có nhiều lúc, thật vậy không chỉ một lúc và nhiều lúc lắm, chúng ta đã “lắc đầu” với Cha, đã chẳng màng đến ý Cha và cũng chẳng thèm để ý đến Cha, và rồi hiên ngang kiêu hãnh tiến bước trên đường đời với tâm trạng “thật sảng khoái”, vì tự cho mình là trên hết, ý mình là tuyệt nhất, không có mình chẳng ai có thể làm gì được. Vì thế, không phải là ý Cha được thể hiện, mà là ý tôi cần được mọi người đón nhận và thực thi.
Ôi, cái đầu hiên ngang kiêu hãnh và cứng ngắc của một phận người thấp bé hèn kém có thể gục xuống bất cứ lúc nào!
Như hoa đồng cỏ nội, sáng nở chiều tàn, đời người có thể hôm nay khoẻ mạnh và lành lạnh, mai “được chú virus” nhỏ bé Covid viếng thăm, thì tự động đời phải khép lại, tự mà cách ly, tự mà sống quanh quẩn trong bốn bức tường, chưa kể đến những nỗi đau trên thân xác mà Covid gây ra, và rồi phận người kiêu hãnh đó có dám tự bảo đảm là mình chắc chắn vượt qua được thử thách thật khiếp đảm mà Covid đưa tới?
Sáng mai còn mở mắt là còn biết mình đang sống, là nhận ra sự sống mình là quà tặng. Kiêu hãnh làm gì, khi “tôi có gì mà không phải do Chúa ban”.
Vì thế, vâng phục thật là điều làm làm chúng ta “trở nên” con yêu dấu của Cha và làm hài lòng Cha. Đi với vâng phục chính là khiêm nhường. Anh Giê-su mặc trong mình bản chất khiêm nhường là nền tảng cho sứ mạng cứu rỗi.
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Lời mời gọi thật quen thuộc của Anh Giê-su luôn vang lên và tiếp tục vang lên để nhắc nhớ chúng ta.
Chính Cha là khiêm nhường, chính Anh Giê-su là khiêm nhường. Vì thương yêu, Cha đã trao ban Người Con Duy Nhất, vì thương yêu Anh Giê-su, phận là Thiên Chúa, đã hạ mình khiêm nhường. Khiêm nhường được mặc vào toàn bộ cuộc sống của Anh Giê-su, Chúa của khiêm nhường.
Nói một cách rõ hơn, khiêm nhường là ngôn ngữ của Cha trên trời, của Thánh Thần Chúa và của Ngôi Hai là chính Anh Giê-su.
Trong khi người dưới thế kiêu ngạo gào lên: “Tôi, tôi, tôi!”;
thì Thiên Chúa Ba Ngôi nhỏ nhẹ nói: “Con, con, con!”
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Lời mời gọi thật quen thuộc của Anh Giê-su luôn vang lên và tiếp tục vang lên để nhắc nhớ chúng ta: Đừng cứ cố gào lên “tôi, tôi và tôi, rồi lại tôi”, mà cùng trở về lại với phận người rất thật của mình là bụi tro, là bùn đất trước mặt Thiên Chúa.
“Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên” (Gc 4,10). Tập cúi mình cuống, tập hạ mình xuống là bài học thật cấp thiết biết bao cho những phận người “bùn đất và tro bụi”. Đừng bao giờ tự cho mình lớn hơn Cha, cao hơn anh Giê-su, ngược lại cả đời chỉ mong chẳng còn gì để mà tự mãn, để mà tự cao tự đại, để nhờ đó “Chúa luôn lớn lên và tôi luôn nhỏ lại”.
“Lạy Chúa, xin dạy cho con biết: đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm được mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế” (Tv 38, 5). Đời là kiếp phù du nghĩa là đời là một hành trình sẽ qua đi theo định luật sinh lão bệnh tử. Đôi khi tử còn đến nhanh hơn mình tưởng. Không ít lần, trước khi lão đến tử đã đến rồi. Ôi! “xin cho con đừng xao lãng và kiêu hãnh, ngược lại luôn khôn ngoan và thận trọng và chuẩn bị sẵn sàng, khi Chúa như kẻ trộm đến với nhà con”.
Vì thế, ai dám cao ngạo “xác định” mình sẽ sống đến trăm tuổi, mình sẽ khoẻ mãi và không có nếp nhăn, mình sẽ “make up” mỗi ngày để vẻ đẹp luôn nở tươi, thì người đó đang sống trong thế giới “ảo” của riêng mình. Đó là ảo tưởng của những “bùn đất” thích cao ngạo với “các chữ tôi” không bao giờ kết!
Tập đếm tháng ngày mình sống là biết sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời mình, để mà ý thức về phận hèn, để mà biết luôn hướng lòng về với Đấng sinh ra mình, Đấng cầm quyền sinh tử của mình.
Tập đếm tháng ngày mình sống, là biết “gạn đục khơi trong”, là dẹp đi mọi thứ “dư thừa” mà mình đã và đang gom góp, những thứ đối với mình là quan trọng lắm, nhưng những thứ đó lại không làm cho Cha trên trời hài lòng gì cả.
Kiếp người của tôi và của bạn đều phù du cả, không ai có thể quả quyết độ ngắn độ dài của đời mình đâu. Thật vậy, “đời người như thể phù du, sớm còn tối mất, công phu lỡ làng”, vì thế chúng ta cùng cố gắng mỗi ngày sống trong vâng phục, trong khiêm nhường như anh Giê-su để làm hài lòng Cha nhé.
Cuối cùng, với bí tích Thánh Tẩy và trong hồng ân là con cái Cha trên trời, cũng như mang căn tính Ki-tô hữu, Bạn và tôi cùng lên đường trong mỗi ngày sống với sứ mạng thật đẹp. Đó là yêu thương, là gieo và rải hạt giống Tin Mừng của Chúa trên mọi nẻo đường mình qua, là đến với từng Anh Chị Em và nói với họ rằng:
“Anh, Chị, Em và Bạn chính là người con yêu dấu của Cha trên trời. Nào chúng ta cùng nắm tay song bước trên đường, cùng chung sống để làm hài lòng Cha, Đấng là Nguồn và là Đích, Đấng cầm quyền sinh tử của mỗi chúng ta”.
“Đức Giê-su… được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan”
1. “Đức Giê-su từ Na-da-rét đến miền Ga-li-lê”
Đức Giê-su kết thúc thời gian ba mươi năm dài sống bình thường như mọi người chúng ta, thời gian mà chúng ta gọi là đời sống ẩn dật của Đức Giê-su, để bắt đầu giai đoạn mới, giai đoạn hoạt động công khai. Chúng ta hãy nhìn ngắm Đức Giêsu rời bỏ làng quê, gia đình, những người thân yêu để lên đường đến sông Gio-đan. Từ một nơi êm ấm, Ngài đến một dòng sông. Dòng sông gợi lên trong chúng ta điều gì? Không an toàn, bỏ ngỏ, nhiều người xa lạ, không ổn định… Đó là một cuộc ra đi sau ba mươi năm sống ẩn dật. Chúng hãy cảm nhận hết sức nặng của ba mươi năm dài này: nặng tình nặng nghĩa, nặng kỉ niệm, nặng kinh nghiệm sống, nặng dấu ấn của các lứa tuổi, tuổi thơ, tuổi thiếu niên…
Đây là một khởi đầu: không chỉ cho một giai đoạn mới trong cuộc đời của Ngài, nhưng còn là một khởi đầu mới trong hành trình Nhập Thể, trong tiến trình Thiên Chúa mặc khải chính mình cho con người nơi Đức Giêsu, trong sứ vụ loan báo Nước Trời và ơn cứu độ của Thiên Chúa, và qua sứ vụ này, Đức Giê-su mặc khải căn tính thần linh của Ngài, là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa. Vì thế, khởi đầu này đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su rồi, giống như mầu nhiệm Giáng Sinh. Vì thế, đây là một khúc quanh trong cuộc đời của Đức Giê-su, một khúc quanh có tính quyết định. Chúng ta hãy dừng lại để khám phá ra tất cả ý nghĩa của tính quyết định liên quan đến biến cố này của cuộc đời Đức Giê-su.
Trong cuộc đời của chúng ta cũng có nhiều khúc quanh; chúng ta có thể nhớ lại. Trong những khúc quanh đó, đã có khúc quanh nào mang tính quyết định chưa? Nếu chưa, bây giờ là lúc, Chúa mời gọi chúng ta, cùng với Chúa, tạo ra một khúc quanh quyết định, nhất là qua kinh nghiệm thiêng liêng “lựa chọn” ơn gọi, hay làm mới lại cho suốt đời.
2. “Và được ông Gioan làm phép rửa”
Chúng ta hãy hình dung khung cảnh Đức Giê-su hòa nhập vào với dòng người nhận mình là tội nhân, đến với Gioan để xin chịu phép rửa (đọc Pl 2, 5-11). Đây là một khởi đầu mới của mầu nhiệm Nhập Thể lớn lao, nhưng Người lại thực hiện ngang qua lựa chọn rất nhỏ bé và khiêm tốn, đó là đến với ông Gioan để được chịu phép rửa. Tương tự như khi đến với loài người chúng ta trong mầu nhiệm Giáng Sinh, Chúa đã sinh ra như một em bé, và hơn nữa, trong một hoàn cảnh thật đơn sơ và khó nghèo. Trong khi đó, Người chính là Đấng mà ông Gioan được mời gọi tôn vinh: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 29-30; là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm qua). Theo lời kể của Thánh Mát-thêu (x. Mt 3, 13-17), ông Gioan một mực can ngăn và nói rằng, chính loài người tội lỗi chúng ta mới cần được Ngài làm phép rửa.
Như thế, Đức Giê-su muốn đồng hóa mình với các tội nhân là chính chúng ta, như Ngài sẽ làm trong giai đoạn rao giảng Tin Mừng và một cách tận căn trên Thập Giá. Bởi lẽ, Đức Giê-su muốn sống và bày tỏ cho chúng ta một đức công chính khác với sự công chính theo luật mà loài người thường hiểu và sống; đó là đức công chính của chính Thiên Chúa, như ngôn sứ Isaia loan báo:
Người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Người sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. (Is 42, 1-3)
3. “Ba Ngôi mới”
Chúng ta được mời gọi nhìn ngắm Ba Ngôi để nhận ra đó là “Ba Ngôi Mới”: Chính khi Ngài hạ mình, trong mầu nhiệm phép rửa, và sau này trong mầu nhiệm Thập Giá, lại là lúc Ngài được tôn vinh. Thậy vậy, chính khi Ngài hòa nhập với các tội nhân, để xin chịu phép rửa, như sau này, Ngài sẽ bị bắt, bị lên án và bị đóng đinh như là tội nhân và ở giữa các tội nhân, và chính khi Ngài để mình bị dìm mình xuống dòng nước, như sau này, Ngài không xuống khỏi Thập Giá, nhưng để cho Tội của loài người chúng ta “dìm” đến cùng, vùi dập đến cùng, là giết chết Ngài trên Thập Giá, thì chính lúc đó, khi Ngài lên khỏi nước, và cũng như sau nay, khi Ngài bước ra khỏi cõi chết, Ngài được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nhìn nhận, tôn vinh và mặc khải căn tính đích thật của Ngài:
Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con. (c. 11)
Chúng ta hãy nhìn ngắm một lần nữa quang cảnh thật lớn lao, loan báo mầu nhiệm Vượt Qua, nghĩa là sự chết và phục sinh của Đức Ki-tô. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô và cũng là hành trình của từng người chúng ta:
* Đức Giê-su ở dưới nước lên.
* Các tầng trời mở ra.
* Thần Khí Thiên Chúa như chim bồ câu ngự xuống trên Người; và có tiếng từ trời cao: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Hình ảnh “từ dưới nước lên” diễn tả Đức Ki-tô bước ra khỏi sự chết; các tầng trời mở ra diễn tả sáng tạo mới; và trong sáng tạo mới có sự hiệp thông trọn vẹn của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng là một “Ba Ngôi Thiên Chúa mới”, bởi vì Ngôi Lời Nhập Thể mang trong mình và mang theo mình một “đàn em đông đúc”, là loài người và từng người chúng ta.
Lời của Chúa Cha: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, là lời nhìn nhận và tuyển chọn của Trời Cao đối với Đức Giê-su. Truyền thống của Giáo Hội hiểu lời này của Chúa Cha về Đức Giê-su như là một “biến cố sinh ra”. Và điều này rất phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Vì khi bố mẹ sinh ra thân thể chúng ta thì vẫn chưa đủ để chúng ta là con của bố mẹ, sau này chúng ta còn cần được bố mẹ nói với chúng ta trước mặt mọi người là: “Đây là con của chúng tôi” và còn phải làm giấy chứng nhận nữa, đó là “giấy khai sinh”. Không có giấy khai sinh, trước mặt mọi người và trên bình diện xã hội, chúng ta không là con của ai hết! Giấy khai sinh, chính là Lời nhìn nhận và tuyển chọn vượt lên trên tương quan máu mủ. Để sống có ý nghĩa ở trên đời, ai trong chúng ta cũng cần được nghe đi nghe lại một lời như thế cách minh nhiên hoặc mặc nhiên từ bố mẹ hay những người thân yêu của chúng ta.
Thánh Giu-se không sinh ra Đức Giê-su, nhưng Ngài dâng hiến cả cuộc đời để “làm giấy khai sinh” cho Đức Giê-su, nhìn nhận Ngài là con của mình; và trong hành trình nhập thể, Đức Giê-su cần một lời “xin vâng” như thế.
* * *
Như Đức Giê-su, chúng ta cũng cần được Chúa Cha “sinh ra” như thế, nghĩa là cần được Chúa Cha công bố: “Trong Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Duy Nhất của Cha, con, con là con của Cha, Cha hài lòng về con”. Vì đó là lời tái sinh chúng ta, lời làm chúng ta lớn lên, lời làm nên căn tính Kitô hữu và ơn gọi riêng của chúng ta.
Nhưng chúng ta, cho dù bất xứng, đã nghe được một Lời như vậy từ Thiên Chúa Cha chưa? Bởi lẽ, Đức Giê-su làm tất cả những điều đó, là để diễn tả tình yêu đến cùng, để phục hồi và chia sẻ phẩm giá làm con Thiên Chúa của Ngài cho chúng ta. Và chính khi chúng ta đích thân nghe được lời này của Chúa Cha, chúng ta mới có thể, trong Chúa, nói với nhau: “Em là em yêu dấu của chị (anh), chị (anh) hài lòng về em.”
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan mà Giáo hội mừng kính hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và hướng chúng ta về đời sống công khai của Chúa Giêsu. Phụng vụ Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, Ngài muốn chia sẻ thân phận con người và muốn liên đới với loài người tội lỗi, mặc dù Ngài là Con Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha”.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa đã được Tin mừng Nhất lãm Mát thêu, Mác cô, Luca thuật lại. Điều này nói lên sự quan trọng của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả.
Đây là một cuộc thần hiện mạc khải rõ nét nhất về Mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu chịu phép rửa xong, thì trời mở ra. Trời mở ra nói lên sự hiện diện uy nghi của Thiên Chúa. Từ trời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng vì Con”, và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên vai Đức Giêsu.
Cuộc thần hiện này cũng xác nhận thiên tính của Đức Giêsu và mạc khải Ngài là Đấng Cứu Độ muôn dân: “Này là Con ta yêu dấu”.
Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là Mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công giáo và là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Mầu nhiệm này biểu lộ tình thương của Thiên Chúa: Chúa Cha tạo dựng nên vạn vật vũ trụ. Chúa Con giáng trần cứu độ nhân loại “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài”. Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa và ban sức mạnh cho chúng ta.
Qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo hội hướng người Kitô hữu về hồng ân làm con Chúa qua bí tích Rửa tội và kêu gọi con cái mình sống ơn làm con Chúa với tâm tình hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Cha như người con đối với ông bà cha mẹ:
- Luôn theo Thánh ý Thiên Chúa Cha, tuân giữ các điều răn của Chúa: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy”.
- Luôn nói có với Thiên Chúa và nói không với ma quỷ, tội lỗi, điều xấu…
- Tương quan tốt với Chúa và với mọi người để chúng ta trở nên những người con hiếu thảo, những người con yêu dấu của Thiên Chúa như Đức Giêsu: “Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng”.
- Tham gia sứ mạng loan báo Tin mừng của Chúa giêsu và chu toàn bổn phận Chúa giao phó: Người Kitô hữu phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận của một người công dân đối với xã hội trần thế “Người Kitô hữu tốt phải là người công dân tốt” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Trong cuốn “Người Lữ Hành” có một câu chuyện rất hay. Chuyện kể về một gia đình sống ở Luân Đôn thủ đô nước Anh. Một gia đình công nhân vừa nghèo lại vừa đông con với mười ba người con. Bố của chúng phải đi làm suốt ngày tại xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và là nội trợ. Dù bận bịu đầu tắt mặt tối suốt ngày đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay chồng dạy dỗ con cái và nhất là trưa nào bà cũng thay cho cả gia đình đến với Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Láng giềng bà quen biết hỏi bà: “Một bầy con mười ba đứa, bận rộn từ sáng đến tối vậy mà làm sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể như thế”. Bà tươi cười trả lời: “Thấy một bầy con lúc nhúc trưa ăn bữa mai đã phải nghĩ đến việc chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng nó còn phải đi học. Ở trường thiếu gì những bạn bè xấu rủ rê chúng đi chơi hoặc giữa đường giữa chợ thiếu gì cảnh nguy hiểm, tôi lại càng thao thức hơn. Chính vì thế mà mỗi ngày dù bận bịu đến đâu tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa, sốt sáng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hàng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Kết quả thật tốt đẹp. Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan. Trong mười ba người con, một người sau này làm Hồng Y tổng giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn năm người nữa ở thế gian lập gia đình, nhưng tất cả đều sống một đời sống rất tốt lành, thánh thiện.
Người Kitô hữu được hai hồng ân vĩ đại là được ơn sự sống, được sinh ra và hiện hữu trên đời này qua trung gian cha mẹ. Được làm người là ân ban vĩ đại của Thiên Chúa. Hồng ân quan trọng và vĩ đại hơn là được làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội, được sống sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sống thần linh. Người Kitô hữu thường quên và lãnh đạm trước ân ban cao quý này. Nên họ không sống đạo tốt, không sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, nghĩa là chưa sống ơn làm con Chúa qua bí tích Rửa Tội.
Chúng ta cầu nguyện với Chúa:
“Xin cho con biết luôn tín thác vào Chúa, Luôn tìm và thi hành ý Chúa là điểm tứ của đời con. Xin giúp con sống trọn tình con thảo với Chúa là Cha, Sống vẹn nghĩa huynh đệ với nhau là anh em một nhà, Mở rộng lòng bao dung đồng cảm với mọi người. Chia sẻ mọi nỗi vui buồn, lo âu và hy vọng”. (Kinh Năm Đức Tin)
Đấng Cứu thế sinh xuống trần gian tạo nên mối liên kết đất trời. Bắt đầu bằng việc truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria và hai tiếng xin vâng. Mẹ là người đầu tiên đón nhận Đấng Cứu Thế sinh xuống làm người ở giữa chúng ta. Tiếp theo đó là Thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ. Thánh cả đón nhận hướng dẫn của thần linh qua các giấc chiêm bao, bảo vệ gia đình Thánh Gia qua các ngày đen tối của dã tâm con người tìm giết con trẻ. Kế đến là việc truyền tin cho các mục đồng chăn chiên và ánh sáng từ trời cao soi đường, dẫn lối cho ba vua từ Phương Đông đến đón chào, dâng tiến lễ vật. Sứ thần Thiên Chúa lại truyền tin cho cụ già Simêon và tiên tri Anna đến đón chào tại đền thờ và ngay sau khi Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Jordan. Ngài bước lên khỏi bờ bầu trời mở ra có tiếng từ trời cao vang vọng:
“Đây là Con Ta yêu mến, hàng làm đẹp lòng Ta” (Mc 1,11)
Kèm theo tiếng nói còn có thêm Thánh Thần qua hình chim bồ câu đậu xuống trên Đức Kitô. Ngày lễ Đức Kitô chịu phép rửa chính thức chấm dứt mùa Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế và nhường bước cho chương trình kế tiếp của Ngài. Chương trình đó chính là chương trình cứu độ nhân loại, giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi với những mặc khải kế tiếp.
Những mặc khải từ trời cao về Đấng Cứu Thế đến đây tạm chấm dứt nhường bước cho những mặc khải khác đến từ Đức Kitô. Trước đây sứ thần Thiên Chúa và Chúa Cha nói về Đức Kitô; giờ đây đổi lại Đức Kitô nói về Thiên Chúa Cha. Đức Kitô mặc khải Chúa Cha và chương trình cứu độ nhân loại. Chương trình cứu độ Đức Kitô thực hiện do Chúa Cha hoạch định và Đức Kitô thừa hành, hoàn tất tốt đẹp chương trình đó.
Để mặc khải cho nhân loại về Chúa Cha và chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đức Kitô xuống thế làm người, sinh bởi Đức Trinh Nữ, mặc dù vô tội Đức Kitô xá tội trần gian bằng cách thay họ chịu khổ hình, bắt đầu bằng việc lãnh nhận phép Thanh Tẩy của Gioan. Nhờ việc Thánh Thần Chúa ngự xuống biến phép rửa chúng ta lãnh nhận trở thành phép rửa do Thánh Thần thánh hoá. Những ai nhận bí tích thanh tẩy và bước theo đường lối Chúa cũng được hưởng tiếng từ trời cao phán: Đây là con Ta yêu mến, hằng làm đẹp lòng ta. Qua bí tích thánh tẩy chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và chia sẻ ba sứ vụ của Đức Kitô.
Sứ vụ thứ nhất, Đức Kitô là linh mục Tối Cao và chúng ta chia sẻ chức linh mục đó qua việc chuyên cần cầu nguyện. Điều đó sinh ích cho đời sống tâm linh ta. Là linh mục Tối Cao Kitô tự hiến thân mình làm lễ tế chuộc tội thiên hạ. Chúng ta không có khả năng làm điều đó và cũng không cần bởi một mình Đức Kitô hy sinh đủ cứu nhân loại, chúng ta chia sẻ chức linh mục qua việc chia sẻ tài năng và thời gian cũng như tài vật cho những anh em nghèo đói.
Sứ vụ thứ hai, Đức Kitô vua vũ trụ cho phép chúng ta chia sẻ chức vụ lãnh đạo của Ngài. Chúng ta chia sẻ bằng cách sống và cổ võ sống công bằng, thực thi bác ái, yêu thương và tha thứ. Sống như thế là cho thế giới biết Lời Chúa có sức mạnh, có sức thánh hoá và ban sự sống cho thân xác và tâm linh con người.
Sứ vụ thứ ba là chức vụ tiên tri. Đức Kitô dậy chúng ta biết về Thiên Chúa, tình thương Chúa và sự thật về Thiên Chúa. Chia sẻ đời sống tiên tri chúng ta nói cho tha nhân về ức Kitô, rao giảng điều Ngài rao giảng và làm chứng về Đức Kitô.
Thực hành ba chức vụ: Tư tế, tiên tri và vương đế là làm sống điều hứa khi lãnh nhận phép bí tích thanh tẩy. Khi đó linh mục xức dầu và tuyên bố ba sứ vụ cao cả trên.
Tước vị “con” được nhìn nhận hoặc do việc sinh thành (cha mẹ sinh con), hoặc do luật định (con theo luật, con nuôi...).
Ý niệm cha/con nói lên mối tương quan rất mật thiết giữa hai con người, đến nỗi niềm vui, hạnh phúc, nỗi buồn, của người này thì cũng là của người kia, và nếu cần phải hy sinh đến chết cho nhau, họ cũng sẵn sàng đón nhận, không hề so đo, tính toán. Đúng là:
“Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ,
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”.
Bên cạnh mối tương quan cha/con dựa trên những yếu tố tự nhiên, phụng vụ hôm nay còn chỉ cho chúng ta mối tương quan cha/con giữa Thiên Chúa và con người, có được nhờ sự chết và phục sinh của Chúa Giê-su. Mối tương quan này không đặt nền tảng trên những tiêu chí nhân sinh, nhưng trên bình diện ân sủng, được ban tặng do tình yêu và lòng thương xót của Cha trên trời.
Phụng vụ lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa cử hành hôm nay, diễn tả chiều kích ân sủng được ban tặng cho nhân loại cách vô ngần, vô lượng, cốt để nâng con người tới tận trời cao trong phẩm vị được làm con Thiên Chúa.
Bài đọc I, trích từ sách ngôn sứ Isaia, loan báo chân dung người “tôi trung” của Chúa, được ban tặng muôn vàn ân huệ, xứng với phẩm giá “Con Thiên Chúa”. Hồng ân Thánh Thần nâng người tôi trung lên hàng con cái, đồng thời trao ban sứ vụ để người con đó trở thành thừa sai lòng thương xót Chúa Cha: Ta đổ thần khí Ta trên nó, đã gọi tên, đã cầm tay dẫn nó theo đường lối của Ta (cf. Is 42, 1-7).
Thành ngữ: “đổ thần khí Ta trên người” diễn tả hai chiều kích của hoạt động thần linh:
1. Mối tương quan nội tại ba ngôi: nhờ Thánh Thần, Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con đồng bản tính với mình, biểu đạt trong Cha tình phụ tử và tỏ hiện nơi Con tình con thảo. Thánh Thần làm cho chúng ta nghe được tiếng êm ái ngọt ngào đến ngất ngây, kỳ diệu của Chúa Cha nói với Chúa Con: “Con là con của Cha, hôm nay, Cha đã sinh ra con” (Lc 3, 22).
2. Mối tương quan đối với nhân loại: Nhờ Thánh Thần, người tôi trung của Chúa trở nên ngoan hiền, khiêm tốn, dễ dậy, vâng phục trong mọi hoàn cảnh, nhất là kiên tâm, can đảm, làm chứng cho mọi người lòng thương xót Chúa Cha. Isaia viết về người: “cây lau bị giập, không nỡ bẻ, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Is 42, 3), trót cả cuộc đời chỉ lo sao chu toàn ý Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho mọi sinh linh.
Người tôi trung ấy là Giê-su, hôm nay bước xuống dòng chảy Jordan để làm một cử chỉ có tính biểu tượng, quen gọi “Chúa Giê-su chịu phép rửa”. Đâu là ý nghĩa đích thực của biến có này ? Giê-su chịu phép rửa không phải vì ngài là tội nhân, nhưng vì liên đới với con người tội lỗi. Người gánh lấy tội lỗi thế gian để đốt cháy nó trên bàn thờ thập giá.
Phép rửa của Chúa Giê-su tiên báo việc tự hiến, tự hủy đến cùng kiệt vì sự sống trần gian. Chịu phép rửa là để cam kết sống vâng phục thánh ý Cha trong mọi sự: của ăn của Ngài là làm theo ý Cha.
Giê-su hòa vào dòng người xuống sông Gio-đan để xin Gio-an làm phép rửa cốt để thần tính Người thánh hóa dòng nước, mà nước là nguồn sự sống, thánh hóa nước là thánh hóa sự sống trần gian. Nước của dòng sông Gio-đan sẽ chảy vào biển cả để tất cả đều được thánh hóa và đổi mới.
Bài Phúc Âm ghi nhận, khi Chúa Giê-su bước ra khỏi dòng nước thì “Trời” bỗng nhiên mở ra và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta mọi đàng, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mc 1, 11).
Trời mở ra diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa mà xưa kia vì cớ Adam cửa ấy đã bị đóng lại.
Đức cố giáo hoàng J-P. II giải thích mầu nhiệm hiệp thông được thực hiện trong Chúa Giê-su: Ngôi Lời một khi đã làm người, thì đời đời làm người, ngay cả khi ngự bên hữu Chúa Cha, Ngài cũng là một con người, nên hy vọng có chỗ cho chúng ta trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như vậy, trong tư cách là Ngôi Lời nhập thể, Giê-su trở nên khuôn mẫu cho nhân loại trong việc chuyên chăm lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Trở nên giống Giê-su trong mọi sự, người môn đệ cũng trở con yêu của Cha trên trời, vì trong Giê-su, chúng ta thực sự là con Thiên Chúa, xứng đáng thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Mừng lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa hôm nay, chúng ta được mời gọi, sống hiệp thông với Chúa.
Dấu chỉ đảm bảo hiệp thông là nghe và tuân giữ giáo huấn của Giê-su: “Ai giữ lời Chúa Giê-su thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (Jn 14, 15).
Trong bài đọc II, thánh Gio-an coi tình yêu là yếu tố nền tảng của tình hiệp thông bền vững và phong nhiêu giữa Thiên Chúa và người môn đệ. Ai yêu mến thì sinh ra bởi Thiên Chúa và có thể sống trọn vẹn giới răn của Người.
Thánh Augustinô cũng đồng suy nghĩ như Gio-an khi căn dặn giáo đoàn: hãy có tình yêu, bạn muốn làm gì cũng được.
Tình yêu luôn được cụ thể trong bổn phận hàng ngày. Vậy, hãy chu toàn bổn phận trong vui tươi, hạnh phúc, chúng ta sẽ ở lại trong tình yêu của Chúa.
Đó cũng là cách nên thánh phù hợp thánh ý Chúa nhất.
Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày mừng lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay. Amen.
Gioan Tẩy Giả xuất hiện và giới thiệu: “Có Đấng quyền năng hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài”. Và Đấng ấy đã đến với Gioan ở sông Giođan. Sao lại là sông Giođan? Vì nơi đó Gioan đang giảng và kêu gọi dân ăn năn thống hối và chịu phép rửa. Phép rửa chứ không là phép rửa tội, đừng nhầm. Gioan cũng nói rõ : “Tôi thì đã làm phép rửa cho anh em bằng nước”. Phép rửa của người Do thái là một dấu hiệu chứng tỏ họ thuộc về con cháu Abraham. Những người ngoại theo đạo Do Thái phải được thanh tẩy để thuộc về dân thánh của Thiên Chúa. Muốn chịu phép rửa, phải xưng thú tội lỗi và quyết tâm sống theo Luật Chúa.
Chúa Giêsu đến sông Giođan mang một ý nghĩa quan trọng đối với người Do thái, là con sông lịch sử.
Sau một cuộc du hành dài bốn mươi năm, dưới sự lãnh đạo của ông Môsê và sau cùng dưới sự lãnh đạo của ông Giosuê, dân Do Thái băng qua sông Giođan để chiếm lại Đất Hứa. Đó là một biến cố vĩ đại. Biến cố đó đã ghi vào lịch sử của dân Do thái một kỷ niệm không phai. Vượt qua sông Giođan để vào Đất Hứa nhắc cho họ nhớ cuộc vượt qua Biển Đỏ năm xưa. Vượt qua Biển Đỏ là thoát ách nô lệ Ai Cập, vượt qua sông Giođan là chiếm được phần gia nghiệp, là bước vào lãnh vực của Thiên Chúa.
Gioan Tẩy giả xuất hiện bên bờ con sông lịch sử đó, kêu gọi mọi người chuẩn bị một cuộc vượt qua mới, trở về Đất Hứa mới. Chúa Giêsu cũng xuất hiện bên bờ con sông lịch sử đó, và chính Ngài lại chịu phép rửa của Gioan ở nơi đó. Làm như con sông Giođan là khởi điểm cho một cuộc sống mới. Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai của Ngài bằng việc chịu phép rửa của Gioan. Ngài muốn chứng tỏ rằng Nước Trời phải đi qua ngưỡng cửa của sám hối: “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần kề”.
Gioan công nhận ông chỉ rửa trong nước, nhưng khi Chúa Giêsu xuống dòng sông chịu phép rửa trong nước đó, thì Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ngài bước xuống dòng sông không phải để được thanh tẩy mà để mời gọi mọi người bước xuống dòng sông và được thanh tẩy, để vượt qua sự chết mà vào cõi sống. Gioan giới thiệu Ngài như một Đấng quyền năng, cao cả đến nỗi ông không đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài”. Nhưng lạ thay, Ngài lại đến với Gioan và chịu phép rửa.
Ngài chịu phép rửa trong nước, nhưng Ngài sẽ rửa chúng ta trong Thánh Thần. Ngài vừa lên khỏi nước thì trời xé ra và Thánh thần như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Lại có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu chứng thực rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Thánh Thần đến để tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng cứu độ được sai đến để cứu vớt nhân loại đang nằm trong bóng tối sự chết. Từ khi Ađam phạm tội, mối liên hệ yêu thương giữa Thiên Chúa và nhân loại đã bị cắt đứt. Hôm nay được nối kết lại, trời xé ra và Thiên Chúa đối thoại với con người qua Người Con yêu dấu.
Có tiếng Chúa Cha từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện nơi dòng sông thanh tẩy và Chúa Cha xác nhận Con Một mà Người ban cho trần gian, Chúa Thánh Thần tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng cứu độ. Từ nay mọi quyền hành trên trời dưới đất đều được ban cho Ngài.Ngàiđầy ân sủng và sự thật. Nơi Ngài, chúng ta nhận được ơn nầy đến ơn khác từ sự sung mãn của Ngài. Nơi Ngài chúng ta sẽ được rửa trong Thánh Thần, được nhìn nhận: “Nầy là con Ta yêu dấu” và Thánh Thần sẽ giúp chúng ta gọi tiếng Abba, lạy Cha trong ân tình.
Người Con Một là nguồn mọi ơn lành. Trong Ngài chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, được trở nên con yêu dấu của Chúa Cha. Nhưng muốn được như thế phải đi qua ngưỡng cửa của phép rửa trong Thánh Thần, phải làm như tiên tri Isaia đã nói: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp… Kẻ gian ác là chúng ta, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa… vì Người sẽ rộng lòng thứ tha”.
Người Con Một được ban cho chúng ta, là hồng ân không bao giờ vơi cạn. Chúng ta thuộc về Ngài, là “đoàn chiên Chúa chăn nuôi”. Chiên thì nghe tiếng của chủ chăn. Chúng ta có nghe không ? Nghe nhưng không làm. Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa, sống theo gương mẫu của Ngài thì nhiều người đã biết Chúa, Giáo Hội đã được phong phú hơn rồi. Nếu chúng ta thực sự yêu mến Chúa thì chúng ta đã chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã nói.
Hãy nhìn vào tâm hồn mình để thấy rõ hơn, chúng ta có sống cho Chúa thật không? Nhiều người chỉ giữ đạo ngoài da, nghĩa là giữ những nghi thức mà không có tâm hồn. Pharisêu là như thế đó. Chúng ta được rửa trong Thánh thần chứ không rửa trong nước. Thánh Thần là Tình Yêu. Ngài nhóm lên ngọn lửa tình yêu và giúp chúng ta sống trong tình yêu, sống làm một với Chúa Giêsu như Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta chịu phép rửa tội là đã được sáp nhập vào Chúa Kitô, làm một với Ngài, chết với Ngài và sống lại với Ngài. Đó không phải chỉ là một cách nói, mà phải được thực hiện trong cuộc sống hôm nay của mỗi Kitô hữu. Nếu chúng ta chưa đạt đến mức độ đó, chúng ta cần cố gắng hằng ngày để thực hiện.
Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được làm con của Chúa Cha, nhưng chúng ta có thực sự là con của Chúa không? Chúa Cha có thể nhìn chúng ta và nói: “Đây là con Ta yêu dấu Ta hài lòng về con không?”
Chúng ta có biết hạnh phúc được làm con Chúa không? Chúng ta đều biết nhưng sống làm con Chúa giữa trần gian nầy là một điều không mấy người đã sống. Những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta đều vô ích sao? Chúng ta được yêu thương quá nhiều nhưng chúng ta đã bỏ quên hay không chú ý. Chúa không đòi hỏi chúng ta làm gì cho Chúa, Chúa chỉ muốn chúng ta hạnh phúc. Và hạnh phúc của chúng ta không chỉ là có được nhiều tiền của, nhiều danh vọng mà là sống trong tình thương của Ngài. Ngài đã làm tất cả, chúng ta chỉ cần một chút cố gắng. Chúng ta đã làm gì để đáp lại tình thương trời biển của Ngài?
Ngài luôn đến với chúng ta, luôn gần gũi thân cận, thân cận đến nỗi làm một với chúng ta nhờ một tấm bánh. Ngài chứng tỏ tình yêu của Ngài bằng một dấu hiệu hữu hình, một dấu hiệu đáng yêu. Ngài vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta ăn lấy Ngài để thực hiện điều mà thánh Phaolô đã kinh nghiệm là tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Giêsu sống trong tôi. Có tình yêu nào trọn vẹn như thế không? Tại sao chúng ta không hạnh phúc, không nhảy mừng? Chỉ vì chúng ta kém tin. Xin cho niềm tin chúng ta đủ mạnh để nếm hưởng tình yêu của Ngài trọn vẹn hơn.
Vào các ngày Chúa nhật, chúng ta vẫn có thói quen rảy nước thánh trong phần thống hối đầu lễ. Việc rảy nước thánh này nhắc nhở mỗi người bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận, lời cam kết của chúng ta muốn thuộc về Chúa, và việc chúng ta được trở nên con Thiên Chúa nhờ người Con một duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Hơn nữa, ở các nhà thờ người ta vẫn để ở nơi cửa nước thánh để mỗi khi ra vào, chúng ta đặt ngón tay vào đó và làm dấu thánh giá tuyên xưng mầu nhiệm Ba ngôi, để nhắc nhở chúng ta bí tích rửa tội mà chúng ta đã được dìm mình vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ngay cả mỗi khi chúng ta tuyên xưng kinh tin kính trong thành lễ, đó cũng là lúc chúng ta tuyên xưng lại lời tuyên xưng trong bí tích rửa tội.
Phép rửa là một Bí tích khai tâm, bí tích này dẫn người tín hữu vào tương quan sự sống với Thiên Chúa và với Giáo hội. Phép rửa vừa là một cử hành tuyên xưng và cam kết long trọng, được cử hành với sự chứng kiến của những người thân yêu. Trong cử hành này, chúng ta tuyên xưng lời tuyên xưng nguyên thủy: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng nguyên thủy này càng lúc càng được khai triển thành lời tuyên xưng Ba ngôi, bởi vì Đức Giêsu Kitô là người Con một của Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến cùng với sức mạnh Thánh Thần luôn hoạt động nơi Đức Giêsu Kitô. Đồng thời phép rửa luôn được cử hành cùng với nước. Nước là một yếu tố trong thiên nhiên vũ trụ, nước có dồi dào trên địa cầu,và chúng ta dùng nước cho đời sống hằng ngày, để tắm rửa cho cơ thể sạch sẽ lành mạnh, để uống bồi dưỡng cơ thể chúng ta. Và nước cần thiết cho mọi sinh vật chung quanh chúng ta, nước để tưới cho đồng ruộng và cây cối, trong nước có biết bao nhiêu loài cá sinh sống là nguồn lương thực dồi dào cho con người. Nước cần thiết cho tàu thuyền đi lại, nối liền các bờ đại dương, cho con người có thể buôn bán và đi lại từ những lục địa xa xôi.
Vào thời Chúa Giêsu, nước đã được dùng trong những nghi thức của các tôn giáo, bởi vì nước được dùng làm nghi lễ thanh tẩy. Người ta tin rằng khi làm những nghi thức thanh tẩy bằng nước, người ta được sạch những ô uế mà họ có thể bị lây nhiễm do bởi những tiếp xúc hằng ngày với những người khác. Thánh Gioan đã rao giảng mời gọi mọi người thống hối vì Đấng cứu độ gần đến và ông làm phép rửa thống hối bằng nước để mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Đấng cứu độ. Chúa Giêsu cũng gia nhập vào dòng người để đến lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Khi cử hành phép rửa, Gioan cũng giải thích cho mọi người ý nghĩa và tầm vóc của phép rửa của mình và hướng mọi người đến Đấng quyền năng sẽ đến sau ông và sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần. Như thế, khi cử hành phép rửa trong nước, Gioan đã ý thức phép rửa ông cử hành chỉ là hình bóng tạm để báo trước một thực tại toàn vẹn hơn là phép rửa trong Thánh Thần của Đức Giêsu mà mọi người cần phải hướng về để đón nhận.
Quả đúng như Gioan tẩy giả dự đoán, Đức Giêsu đã hòa vào dòng người đến xin lãnh phép rửa của Gioan.Tin mừng theo Mác-cô tường thuật rất vắn tắt việc Đức Giêsu lãnh phép rửa. Mác-cô không ghi lời đối thoại nào giữa Đức Giêsu và Gioan, chỉ vắn tắt nói rằng Đức Giêsu đã từ Nazarét xứ Galilê giữa nhiều người và đến xin lãnh phép rửa của Gioan ở sông Giorđan. Đức Giêsu muốn đón nhận những gì mà Gioan làm, như thế cũng là đón nhận truyền thống và nhịp sống của do thái giáo, bởi vì Gioan là hình ảnh của tiên tri Êlia của do thái giáo, những con người hoạt động mạnh mẽ bởi tác động của Thánh Thần. Và sự kiện trọng đại đã diễn ra, khi Đức Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên người, và có tiếng từ trời tuyên phán Con là Con Cha yêu dấu, con đẹp lòng Cha. Các Tin mừng rất nhấn mạnh đến phép rửa của Chúa Giêsu như là khởi đầu cho cuộc đời truyền giảng công khai của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha xác nhận và giới thiệu cho mọi người cũng như người Con rất yêu dấu, đầy tràn Thánh Thần, người là Đấng Kitô, được xức dầu để thực hiện công trình cứu thế cho nhân loại. Sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan mạc khải căn tính thần linh của Đức Giêsu. Người là Con một yêu dấu của Chúa Cha mà Chúa Cha rất hài lòng. Việc người lãnh nhận phép rửa không hề thay đổi căn tính thần linh của người mà còn mạc khải rõ cho mọi người căn tính thần linh này mà Gioan tẩy giả đã báo trước là người sẽ làm một phép rửa hoàn toàn khác, chính là phép rửa trong Thánh Thần.
Truyền thống các tiên tri, đặc biệt tiên tri Isaia (chương 42) đã báo trước về một người tôi tớ đặc biệt của Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho nhân loại, ngay cả nói rõ người tôi tớ này là người con của Thiên Chúa, được đầy tràn Thánh Thần và làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự, Người sẽ thi hành việc xét xử muôn dân và thực thi công trình cứu độ. Mặt khác, người con này rất “hiền lành và khiêm tốn, không bẻ gãy cây lau đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói” nhưng mang lại “ơn cứu độ và giải thoát cho những người bị giam cầm vì bệnh tật và tù tội, đem lại công lý trên địa cầu”. Giờ đây, những hình ảnh đã báo trước trở nên hiện thực một cách rõ rệt nơi Đức Giêsu, người sẽ thực hiện giao ước cứu độ bằng chính cái chết của người trên thập giá.
Sau khi Chúa Giêsu Phục sinh, Thánh Phêrô, với những chứng từ trung thực và quan trong mà ông lãnh nhận, đã bắt đầu rao giảng cho những người do thái và cho mọi người những biến cố cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu. Đây là những cảm nghiệm chân thực và sống động muốn được chia sẻ và rao giảng cho hết mọi người thành tâm thiện chí để họ tin và đón nhận Đức Giêsu, người con một Thiên Chúa ban tặng. Thiên Chúa đã thực hiện ơn cứu độ, không chỉ dành riêng cho người do thái, không thiên tư tây vị cho riêng ai, nhưng là một tình yêu dành cho hết mọi người không phân biệt màu da chủng tộc. Hết mọi người sống đời ngay thẳng, thực hành sự công chính đều được Thiên Chúa đón nhận khi sai người Con một Thiên Chúa đến sống và rao giảng giữa mọi người. Đây cũng là điều mới mẽ mà thánh Phêrô cũng chia sẽ giống với thánh Phaolô qua cách nói của Phaolô, là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, và giờ đây được mạc khải cho mọi người, tức là các dân ngoại được trở nên đồng thừa tự, được cùng chung phần vào một lời hứa. Phần thánh Phêrô, người làm chứng rằng Đức Giêsu, Đấng đã được xức dầu Thánh Thần tấn phong, đã đi qua mọi nơi mà làm những phép lạ ban bố mọi ơn lành cho mọi người.
Phép rửa là khởi đầu, khai mào đời sống nghĩa tử của người tín hữu chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Phép rửa dẫn chúng ta vào tương quan nghĩa tử với Thiên Chúa làm cho cuộc đời chúng ta được tràn ngập những quà tặng của Thánh Thần nâng đỡ cuộc đời trần thế của mình. Cuộc đời của người tín hữu là một hành trình thực hiện ơn gọi cao cả này, đó là được kết hợp với Đức Giêsu để sống ngay từ bây giờ tương quan con thảo của Thiên Chúa. Đây là hành trình cao cả và cũng rất đòi hỏi bởi vì chúng ta được mời gọi kết hợp với mầu nhiệm thập giá để được cùng chết và cùng phục sinh với Chúa Giêsu. Chúng ta thường nghĩ rằng phép rửa chỉ là một nghi thức đã qua, một nghi thức thực hiện xong rồi không cần phải nhớ lại những cam kết này làm gì nữa. Thực ra, phép rửa xác định căn tính của người kitô hữu, và họ phải cố gắng thực hiện hằng ngày căn tính này. Phép rửa là một sự dìm mình liên tục và sự đổi mới liên tục để càng lúc chúng ta càng được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Có thể nói rằng chúng ta dùng cả cuộc đời của mình để thực hành sống mầu nhiệm này cũng là căn tính của cuộc đời kitô hữu của chúng ta. Cả cuộc đời, chúng ta không ngừng được mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa bằng việc không ngừng kết hợp với Chúa Giêsu nhờ sự thúc đẩy của Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa. Phẩm giá của mỗi người thực là cao cả và chúng ta được mời gọi khám phá và sống căn tính này của mình theo bước chân của Chúa Giêsu.
Tin mừng Mc 1: 7-11 Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngày mà chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta phải cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận.
Khi bước xuống để Gioan làm phép rửa, Chúa Giêsu đã hòa mình vào dòng người tội lỗi, để cứu những người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình có quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên người anh em với họ. Rồi cũng từ nước đi lên, Người đã rửa chúng ta trong Thánh Thần, để chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa qua bí tích Rửa Tội.
Giờ đây chúng ta có dịp nhìn lại bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi nhìn vào thế giới Tây Phương vốn được mệnh danh là Kitô Giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô Giáo, Phép Rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém.
Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người Tây Phương chỉ đến nhà thờ có ba lần,
- Lần đầu khi chịu Phép Rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô Giáo.
- Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng.
- Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.[1]
Đức Hồng Y Suenens, trong cuốn sách “Thánh Thần, hơi thở sống động của Giáo Hội” cho biết: Một cuộc thăm dò những người công giáo Pháp cho thấy một sự kiện báo động:
- 95% muốn có nhà thờ, nhưng phần lớn lại chẳng hề bước chân tới.
- 88% đòi cho con họ chịu phép rửa,nhưng hơn một nửa không biết Đức Giêsu.
- 2/3 không tin Đức Giêsu đã phục sinh.
Những sự kiện này cho thấy cách sống sượng một tình trạng có thật. Vị Giám Mục Pháp cho ngài biết những dữ kiện trên, đã tiếp tục phân tích: “một ngày nào đó chúng ta sẽ quyết định rút ra những hệ quả hợp lý từ những nghiên cứu này; nếu không thì chúng ta sẽ lại tiếp tục ban bí tích cho những kẻ không có đức tin, và tiếp tục cử hành thánh lễ hôn phối hay an táng cho những người đến tham dự mà trong lòng bực bội hay chế diễu
“Sancta Sanctis” (điều thánh thiện phải dành cho những người thánh). Các sự việc của Thiên Chúa phải dành cho những ai có đức tin. Bí tích phải dành cho kẻ nào tin và thực sự lên đường.
Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép Rửa Tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây Phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ và các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người.
- Tuy nhiên, biết đâu những đêm chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.
- Biết đâu đám đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, cảm thông và tha thứ.
Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người Kitô hữu thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Nơi nhiều người, đức tin đã bị sói mòn tận căn. Họ cần phải tái khám phá lại ngay nơi trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo. Chúng ta đã quá chú trọng việc “cử hành bí tích”, mà không chú trọng đủ vấn đề “sống và loan truyền Tin Mừng”. Sự thiếu sót này bùng nổ ở tầm mức lục địa, khắp nơi ai cũng thấy người Kitô hữu không sống phù hợp với đức tin của họ.
Trước tình trạng khẩn cấp này, những tranh cãi nội bộ của chúng ta, dù thiên hữu hay thiên tả, không mang lại một cái gì sáng sủa hơn. Chúng ta cần phải tìm lại những đặc tính của người Kitô hữu. Sứ mạng của chúng ta không phải là phê phán cá nhân ai, mà là can trường bảo toàn lý tưởng Kitô giáo.
Chúng ta phải trình bày Tin Mừng đúng với bản chất của Tin Mừng, là cho thế gian biết Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, cùng những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi những kẻ tự nhận mang danh Ngài trước mặt thiên hạ.
Chúng ta phải mời gọi các Kitô hữu ngày nay càng ý thức sống động hơn về đức tin của họ, gắn bó với Thiên Chúa ngày càng khắn khít hơn. Phải giúp một số Kitô hữu chuyển từ thứ Kitô giáo ít nhiều mang tính xã hội sang thứ Kitô giáo trọn nghĩa. Thứ Kitô giáo được cha mẹ truyền lại chủ yếu do sinh sản và giáo dục cũng phải trở thành thứ Kitô giáo chính mình lựa chọn, dựa trên quyết định của bản thân và việc nhận thức rõ ràng lý do chọn lựa như thế. Tertulianô đã nói lên điều ấy: “Fiunt, non nascuntur christiani”, nghĩa là không phải mình sinh ra là Kitô hữu, mà mình trở thành Kitô hữu.[2]
Sau khi lãnh bí tích Rửa Tội, chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa. Ơn gọi là người Kitô hữu tạo ra viễn tượng về một cuộc sống cao cả hơn và trong sạch hơn trước mặt chúng ta. Đồng thời, ơn gọi này còn thông truyền cho chúng ta sự hy sinh và phục vụ người khác. Ơn gọi này mở rộng những khả năng yêu thương và can đảm của con người.
Đó không phải là công việc chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu nữa.
Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, chúng ta được đón nhận vào một cộng đoàn những kẻ tin.
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngày mà chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa. Chúng ta phải cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận. Amen.
Từ khi xuất hiện trong hoang địa, Thánh Gioan Tẩy Giả đã gây được một phong trào sám hối trong xứ Do thái. Đời sống và lời giảng của ông có sức lôi cuốn người ta đến với sông Giođan để được ông làm phép rửa. Phép rửa của Gioan nhằm giúp con người bày tỏ lòng hoán cải, để chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến (x. Mt 3, 7-12).
Vấn đề là ở chỗ, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” (Mc 1,5) và chịu “phép rửa sám hối để được ơn tha tội” (Mc 1,4), lại có Đức Giêsu. Làm sao Đấng thánh thiện, Đấng quyền thế mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người, lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi, chờ đến phiên mình được chịu thanh tẩy? Đó là một câu hỏi mà Gioan khó trả lời.
Khi suy niệm về mầu nhiệm Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, các giáo phụ đã đưa ra một số lý do để soi sáng. Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa trong nước vì:
- Người muốn kêu gọi những người khác noi theo gương Người mà đến chịu phép rửa do Người thiết lập sau này.
- Người muốn làm một hành vi khiêm tốn cho ta noi theo.
- Người muốn công nhận giá trị phép rửa của Gioan.
- Người muốn lần đầu tiên ra mắt trước công chúng, để chuẩn bị cho họ nghe Người và theo Người.
- Người muốn thánh hóa dòng nước sông Giođan và mọi dòng nước khác, để nhờ sự hiện diện và tác động của Người mà mọi dòng nước có thể trở nên nguồn cứu độ.
Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối cho thấy Người liên đới với tội nhân, với dân tộc mình, với cả nhân loại đang cần ơn cứu độ. Con Thiên Chúa không ngại che khuất cái cao sang, siêu việt và cả sự thánh thiện ngàn trùng của mình để nhờ thái độ tự hạ, tự hủy này mà Đấng Thánh của Thiên Chúa có thể đứng chung với người tội lỗi, dìm mình xuống cùng một dòng nước như họ. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa khiêm hạ, vì Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm nơi chúng ta đang sống, để nâng chúng ta lên. Chỉ tình yêu mới làm chúng ta hiểu được hành động của Ngài. Thiên Chúa Nhập thể chính là để liên đới với từng người chúng ta trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Hành động của Chúa Giêsu hôm nay cho thấy hướng đi cả một cuộc đời của Đức Giêsu. Người bị mang tiếng là “tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7, 34). Người đến với những người sống bên lề xã hội và tôn giáo để đưa họ trở về với thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. “Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13).
Thánh Phaolô đã viết một câu cho thấy Đức Giêsu đã thực sự đồng hóa với thân phận tội nhân đến mức nào: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta” (2C 5, 21). Đức Giêsu đã chết như một người phạm trọng tội, bị đóng đinh giữa hai tử tội. Người đã đem đến niềm hy vọng cho người trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43). Khi gắn bó với những người không còn được yêu mến và kính trọng, Đức Giêsu đã đem đến cho họ một thế giới nồng nàn tình yêu. Trong thế giới này không còn có hàng rào ngăn cách nhưng chỉ có những tội nhân được Thiên Chúa yêu thương cứu độ bởi vì Chúa Giêsu là Đấng thánh, Chúa Giêsu không đội trời chung với tội lỗi, nhưng ngài lại cúi xuống trên tội nhân, và biến đổi họ.
Hành động của Chúa Giêsu cho thấy rằng nếu chúng ta sợ mình vấy bẩn vì tiếp xúc với người tội lỗi đó là bởi vì chúng ta chưa thánh thiện thực sự. Ánh sáng không sợ bóng tối làm mình ra u tối. Ngược lại ánh sáng len lỏi vào mọi ngõ tối của cuộc đời, để làm cho bóng tối được sáng ngời lên.
Một chi tiết nữa của bài Phúc âm cũng gợi cho chúng ta sự chú ý là sau khi Đức Giêsu dìm mình trong dòng nước, thì Người nhận được một thị kiến: các tầng trời xé ra, Thánh thần ngự xuống, và tiếng phán từ trời. Các tầng trời xé ra là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn tiếp xúc với con người và thông truyền cho con người một mạc khải. Đức Giêsu cũng thấy trời mở ra và qua đó thần khí ngự xuống trên mình như chim bồ câu.
Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Thánh Thần chính là sự hiện diện của Thiên Chúa xâm nhập vào người được tuyển chọn, ban cho người ấy dồi dào mọi ơn cần thiết để có thể làm tròn sứ mạng quan trọng đặc biệt. Được ban Thánh Thần nghĩa là được sai đi. Khi Đức Giêsu cảm nghiệm được Thánh Thần nơi mình, thì cũng là lúc Người được sai đi để loan báo Tin Mừng và làm những dấu chỉ cứu độ. Tiếng nói từ trời phản ánh niềm tin của Hội Thánh nơi của Đức Giêsu. “Con là Con yêu dấu của Cha”. Với câu đó, Thiên Chúa Cha giới thiệu công khai Chúa Giêsu cho nhân loại và kết thúc luôn ba mươi năm âm thầm ở Nadarét.
Đức Giêsu chịu phép Rửa nhưng Người vẫn hướng đến một phép Rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải chịu: “Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12, 50). Như thế mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ đến mầu nhiệm chết và phục sinh. Chúa Giêsu làm công việc nầy để tỏ lộ công việc cứu thế của Người, tỏ lộ cho nhân loại thấy bản chất cao cả của Người là con rất yêu dấu của Thiên Chúa, là Người con luôn sẳn sàng vâng lời thánh ý Thiên Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Phép Rửa trên thập giá là nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Nhờ phép Rửa đó, chúng ta được trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Chúng ta nhớ rằng mình là người đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng, được dìm mình trong nước để rồi được sai ra đi làm chứng cho mọi người nghĩa sống thực sự như người con được Thiên Chúa yêu mến.
Với lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, chúng ta chấm dứt Mùa Giáng Sinh và bắt đầu Mùa Thường Niên I, chu kỳ năm B, kéo dài đến Chúa Nhật VII, rồi bước vào Mùa Chay Thánh với Thứ Tư Lễ Tro.
Bài Đọc I trích trong Isaia (42, 1-4, 6-7; có thể chọn đoạn 55, 1-11), nói đến ‘Người được Thiên Chúa tuyển chọn và làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự’. Bài Đọc II trích trong Sách Công Vụ Tông Đồ (10, 34-38; cũng có thể chọn 1Gioan 5, 1-9) nói đến việc Chúa Giêsu được Thiên Chúa xức Dầu Thánh, được đầy Chúa Thánh Thần và ra đi rao giảng. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 7-11) ghi lại việc Chúa Giêsu đến để chịu Phép Rửa của Thánh Gioan, và khi Ngài chịu xong, Chúa Thánh Thần tràn ngập trên Ngài, có tiếng từ Trời cao nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
Lúc đó là vào khoảng năm 30 (Lc 3, 23), Thánh Gioan Tẩy Giả đang ban Phép Rửa thống hối tại sông Giodan (Gioan 1,28) (chỗ gọi là Bêtania phía đông sông Giodan; nơi này khác với làng Bêtania là quê hương của ba chị em Matta, Maria va Ladarô). Thánh Gioan kêu gọi mọi người đến chịu Phép Rửa để tỏ dấu ăn năn tội lỗi và sửa lại cuộc sống, đón chờ Chúa Cứu Thế đến. Chúa Giêsu cũng đến nhận Phép Rửa của Thánh Gioan. Dịp này, Ngài được Đức Chúa Cha chính thức giới thiệu Ngài là Đấng ‘Thiên Sai’ và Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập trên Ngài. Từ nay Chúa Giêsu từ bỏ cuộc sống 30 năm ẩn dật ở Nagiaret để bắt đầu cuộc sống công khai ra đi rao giảng.
Phép Rửa Thánh Gioan ban chỉ là một ‘phép rửa bằng nước’ để tỏ lòng sám hối tội lỗi. Còn Bí Tích Rửa tội là một trong bảy phép Bí Tích, là ‘phép Rửa Tội trong Chúa Thánh Thần và lửa!’ (Matthêu 3, 11). Khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội là chúng ta được tha tội nguyên tổ (tội tổ tông truyền) và các tội riêng chúng ta đã phạm (khi chúng ta chịu vào tuổi đã khôn lớn). Lúc đó chúng ta được ‘chết đi với Chúa Kitô, từ bỏ đời sống tội lỗi và sống lại thật với Chúa Kitô, trở nên trong sạch xứng đáng là con Chúa, và chính thức gia nhập gia đình Giáo Hội Chúa, bắt đầu một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần, trở nên một chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô và cùng góp phần vào việc làm tăng trưởng gia đình Giáo Hội qua cuộc sống làm chứng cho Chúa” (Theo Sách Giáo Lý). Vì thế, Bí Tích Rửa Tội khởi đầu cuộc sống Kitô hữu (Bí Tích khai tâm), chỉ sau khi chịu phép Rửa Tội, chúng ta mới được chịu các phép Bí Tích khác. Bí Tích Rửa Tội ghi dấu thiêng liêng vào linh hồn chúng ta, không bao giờ mất, nên chỉ được chịu một lần (cũng như Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích Truyền Chức Thánh).
Mừng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa là dịp để mọi người chúng ta nhớ lại phép Rửa tội chúng ta đã được lãnh nhận, để tạ ơn Chúa và cầu xin cho mọi người chúng ta luôn cố gắng sống xứng đáng con cái Chúa trong gia đình Giáo Hội và luôn sống làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống hàng ngày.
Chúng ta nên nhớ: vào cuối nghi thức Rửa Tội, vị chủ sự trao cho người vừa được rửa tội Tấm Áo Trắng (tượng trưng tâm hồn trong sạch qua Bí Tích Rửa Tội) và Cây Nến cháy sáng đốt từ ngọn lửa của Cây Nến Phục Sinh (tượng trưng Ánh Sáng Chúa Kitô). Khi trao Tấm Áo Trắng, vị chủ sự nói: “Con đã trở nên một tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy lãnh nhận áo trắng này, con hãy mang lấy và gìn giữ nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống muôn đời.” Khi trao Cây Nến Sáng, vị chủ sự nói với chúng ta: “Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô, con hãy luôn luôn sống như con cái Sự Sáng, để được bền vững trong Đức Tin. Khi Chúa Kitô ngự đến, con sẽ xứng đáng ra nghênh đón Người cùng với toàn thể các Thánh trên trời.”
Trong nghi thức rửa tội trẻ em, vị chủ sự trao áo trắng và nói: “Con đã trở nên một tạo vật mới, và đã mặc lấy Chúa Kitô, chiếc áo này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.” Và khi trao Nến Sáng (qua cha mẹ đỡ đầu), vị chủ sự nói: Anh chị em thân mến, là những bậc làm cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm sóc, tức là lo lắng cho những em được Chúa Ktô soi sáng, luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong Đức Tin. Nhờ đó, khi Chúa đến, các em sẽ được ra nghênh đón Người với toàn thể các Thánh trên trời.” Điều này nhắc nhở trọng trách của các bậc cha mẹ trong việc giáo dục đức tin cho con cái khi các em lớn lên; đồng thời cũng nhắc nhở trách nhiệm của các cha mẹ đỡ đầu. Thật là một vinh dự khi được mời làm cha mẹ đỡ đầu, nhưng đó cũng là một trọng trách mà cha mẹ đỡ đầu phải lo chu toàn trước mặt Chúa. Chúng ta phải ý thức bổn phận này khi chúng ta được mời để đỡ đầu cho các tân tòng hay các em nhỏ khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Kết thúc Bí Tích rửa Tội, trước khi lãnh nhận phép lành, chúng ta cùng nhau đọc Kinh Lạy Cha, để nhắc nhở chúng ta, qua Bí Tích rửa Tội, chúng ta được vinh dự có Chúa là Cha, và chúng ta đều là anh em với nhau trong gia đình Giáo Hội. Xin cho chúng ta luôn hết lòng phụng sự Chúa và yêu thương lẫn nhau để cùng nhau loan truyền cho mọi người nhận biết Chúa là Cha, và chung tay xây dựng tình yêu thương trong gia đình nhân loại.
Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ này đã được các Giáo phụ quan tâm đặc biệt ngay từ những thời kỳ đầu, vì tầm quan trọng đặc biệt có tính cổ thời của nó. Đây là lễ được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, và tượng trưng cho toàn bộ những hoạt động có tính cách bí tích của Đấng Cứu Thế. Để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng vô tội, nhưng Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được Chúa Cha chứng dám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy diễn ra tương tự nơi biến cố Chúa Biến Hình.
Câu hỏi được đặt ra trước hết là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?
Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết: “Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người A-đam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Gio-đan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo”. Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh Grêgôriô, giám mục Na-di-en). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: “Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Kitô; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát“. Nên Gioan giảng: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần“ (Mc 1, 8). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình” (Mc 1,10).
Tại sao khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, trời lại mở ra?
Chúa Giêsu vừa bước lên khỏi nước lúc ấy trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Ngài. Vì xưa kia, khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, chính A-đam đã đóng cửa trời lại, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ… Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.
Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống?
Lý do là vì chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại hồng thủy, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa… Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn phải chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Lời ngôn sứ nói: “Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét“ (Tv 28). Tiếng nào vậy? “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người” (Is 42, 1). Đây là tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thân xác: “Con là Con yêu dấu của Cha; Con đẹp lòng Cha” (Mc 1, 11).
Vậy, phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: “Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần” (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Chúng ta hãy thanh tẩy mình cho thanh sạch, hãy tiếp tục thanh tẩy cho thanh sạch hoàn toàn và đem lòng tôn kính mà tưởng niệm ngày Đức Kitô chịu phép rửa, và hãy mừng lễ cách xứng đáng. Amen.
Lãnh nhận Phép Rửa là “dấu chỉ bề ngoài” chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, một hồng ân quá lớn!
Phép Rửa của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh Gioan nhân biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông ngại mà nói với Chúa Giêsu: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14). Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15). Nghe nói vậy ông Gioan mới chiều theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh Gioan Tẩy Giả cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.
Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:17; x. Mc 1:11).
Thật kỳ diệu, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối, nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho chúng ta, còn chúng ta thực sự cần Phép Rửa và cần sám hối, vì chúng ta là các tội nhân. Hãy mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!
Phép Rửa là “cửa ngõ” để chúng ta bước vào miền cứu độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái, Chúa Giêsu nói với ông: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên; không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:3 và 5). Và Thánh Phaolô xác định: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).
Từ ngàn xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không muốn người khác chịu đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn.
Thiên Chúa xác nhận rạch ròi: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài, nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ bản của con người,...
Tất cả mọi sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv 29:1-2). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật là kỳ diệu quá!
Ngài là Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4). Thiên Chúa toàn năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3; Đnl 5:7).
Thiên Chúa xuất hiện trong mọi vật và mọi sự. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên nhiên thì chính là Thiên Chúa: “Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ, cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).
Tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Đức Giêsu nhập thể và nhập thế để “cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải thích rạch ròi: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:36-38).
Trước khi Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, ông Gioan đã được sai đến trước để dọn đường. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả ba lần ông đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “số không” thật lớn mà lại mạo nhận mình là “cái rốn của vũ trụ”. Lạy Chúa tôi!
Ông rao giảng về Đức Kitô: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1:7-8). Ông Gioan cho biết rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1:32-34). Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1:11).
Di tích sông Gio-đan, nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17; Lc 3:21-22), cách trung tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía Nam trên sông Jordan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm. Theo khoa khảo cổ và kinh thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa” (Ga 1:28).
Dòng sông Gio-đan bình thường, nhưng bỗng trở nên vô thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để ông Gioan làm Phép Rửa. Nước thật kỳ diệu. Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống!
Nước biểu hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông” (Tv 29:3). Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana (Ga 2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” khi Ngài rửa chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5).
Chúa Giêsu được dìm mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình – Thánh Phanxicô Assisi).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhậ Đức Kitô là Đấng cứu độ và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Có những dòng sông đã quyết định vận mạng cả dân tộc như Chương Dương, Bạch Đằng. Những dòng sông đã đưa cả vận nước tiến lên nhờ những phù sa màu mỡ chuyển mạch sống đến cho toàn dân như Hồng Hà, Cửu Long. Dòng sông đã nổi trôi theo vận nước như Bến hải, sông Gianh.
Nhưng một dòng sông chuyển đổi định mệnh cả nhân loại vì đã được diễm phúc ghi dấu hình ảnh Con Chúa và đón nhận những bước chân rộn rã của đoàn người hành hương tìm về nguồn ơn cứu độ. Dòng sông trở thành căn cứ xuất phát bước chân Đấng Cứu thế, khi thấy cảnh trời mở ra vang vọng tiếng Chúa Cha rung chuyển cả đất trời, át hẳn tiếng người đang thống hối ăn năn. Đó là dòng sông Giođan.
ĐIỂM HỘI TỤ
Ngày ấy mọi người tuốn đến lãnh nhận phép rửa, đã khuấy đục cả một khúc sông. Thấy từng đoàn dân chúng tuốn đến, chắc chắn Gioan Tẩy giả nức lòng phấn khởi. Còn gì vui hơn cho một nhà giảng thuyết! Tất cả đều sám hối, nhưng không hề buồn bã. Sám hối để đón chờ Đấng Messia thời cánh chung. Họ sống trong niềm hi vọng một cuộc giải thoát cho toàn dân.
“Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan.” (Mc 1:9) Đức Giêsu đã nhập cuộc với đoàn lũ dân chúng. Người cũng xuống nước xin Gioan làm phép rửa, không phải để tỏ lòng sám hối, cũng không phải để sống niềm hi vọng Thiên sai. Vì chính Người là Vị Thiên sai vô tội đến hoàn thành lời hứa. Người nhập đoàn để đồng hóa với nhân loại tội lỗi. “Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta.” (2 Cr 5,21) Như vậy Người đã hoàn toàn sát nhập vào gia đình nhân loại.
Từ gia đình thiên giới, nơi Người sống mật thiết với Chúa Cha và Thánh Linh, Người đã giáng trần để thực hiện lời hứa xa xưa. Hôm nay xuống sông Giođan chịu phép rửa, Đức Giêsu đã cho thấy Người thuộc về hai gia đình. Cả hai đã hiệp nhất trong tình yêu, tình yêu Thiên Chúa nhập thể. Đó là sứ mệnh lớn lao của Người. Người là Chàng rể đến giới thiệu nàng dâu nhân loại cho Thiên Chúa. Khi lặn ngụp xuống giòng nước Giođan, Người đem trọn tình yêu của Ba ngôi dìm xuống dòng sông định mệnh của nhân loại. Nhưng “vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1:11) Chúa Cha đã xác nhận bản chất Đức Giêsu như “tình yêu Thiên Chúa đến với trần gian.” (KTTƯ 1995:183) Lời xác nhận đó vang lên như thuở mới tạo dựng đất trời, có chim bồ câu chứng kiến, một biểu tượng thật dễ thương, nhắc đến một cuộc tạo thành mới bắt đầu với Đức Giêsu (x.KTTƯ 1995:183).
Từ nay tương quan đất trời hoàn toàn thay đổi nhờ quyền lực Thánh Linh (x.Tt 3,5). Chính nhờ Thánh Linh, Đức Giêsu đã được xức dầu tấn phong làm Quân Vương cai trị muôn dân, (x. KTTƯ 1995:183) như Chúa đã hứa: “Ta cho thần khí Ta ngự trên Người.” (Is 42:1) Nhờ Thần khí, Người trở thành “Tôi Trung của Thiên Chúa có nhiệm vụ rao giảng, thực hiện công cuộc giải thoát và cứu độ”(KTTƯ 1995:183) cho muôn dân ngang qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Bởi đấy khi bị dìm xuống nước, Người như đi vào cõi chết. Khi “vừa lên khỏi nước”, Người như đi vào cõi vĩnh hằng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng Người không đi vào một mình. Nhờ Thánh Linh, ngang qua phép rửa là cái chết của Người, cả nhân loại sẽ cùng thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời với Chúa. Như vậy, “tất cả lời hứa cứu độ trở thành hiện thực trong phép rửa” (Faley 1994:90).
Chính vì thế, “phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần chỉ toàn thể công trình cứu độ do Đức Giêsu khai mạc.” (KTTƯ 1995:182) Không có sức mạnh Thánh Linh, nhân loại cũng không thể gia nhập gia đình Thiên Chúa. Nhờ đó họ trở thành anh em với nhau. Đó là ơn gọi nguyên thủy của nhân loại.
ƠN GỌI NGUYÊN THỦY
Thế giới hôm nay thu nhỏ như một ngôi làng. Con người gần gũi nhau hơn bao giờ. Nhưng liệu những phương tiện truyền thông có đủ năng lực bảo đảm hòa bình cho nhân loại hay không? Thực ra, thế giới còn nhỏ hơn một ngôi làng. Tất cả nhân loại làm thành một gia đình, trong đó mọi người đều liên đới với nhau. Nền hòa bình thế giới sẽ tùy thuộc vào ý thức này. Thật vậy, “thế giới sẽ có hòa bình hay không tùy theo toàn thể nhân loại có biết tái khám phá ơn gọi nguyên thủy của mình là trở thành một gia đình duy nhất hay không, một gia đình trong đó phẩm giá và các quyền con người – bất luận là người thuộc giai tầng, chủng tộc hoặc tôn giáo nào – được xác quyết là những điều ưu tiên và trổi vượt hơn tất cả những khác biệt và những đặc tính khác của con người” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:3).
Nếu thế, chiến tranh phát sinh từ lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ của con người muốn tách mình ra khỏi gia đình duy nhất đó. Một khi chỉ biết tới quyền lợi riêng tư, người ta có thể chà đạp nhân phẩm kẻ khác. Thực tế, “những bất công, chênh lệch thái quá trong lãnh vực kinh tế hoặc xã hội, sự ghen tương, nghi kỵ và kiêu ngạo tác hại giữa con người và các quốc gia, không ngừng đe dọa hòa bình và gây ra chiến tranh.” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:6) Đó là một thế giới không ai biết đến ai. Hòa bình chính là kết quả của tinh thần liên đới trách nhiệm và chia sẻ quyền lợi cho nhau. Ngày nay nhờ “tiến trình hoàn vũ hóa, người ta có được những cơ hội đặc biệt và đầy triển vọng để biến nhân loại thành một gia đình duy nhất thực sự, dựa trên những giá trị công bằng, ngay chính và liên đới” (“Sứ Điệp Hòa Bình”; VietCatholic 1999:3).
Nếu được xây dựng và mô phỏng trên tương quan giữa Ba Ngôi, tình liên đới đó chắc chắn sẽ tìm được sức sống mới. Vì nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, tình yêu vô cùng phong phú và mãnh liệt. Người muốn chia sẻ đến tận cùng tình yêu đó cho nhân loại. Thật vậy, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,” (Ga 3:16) để con người có thể sống ơn gọi nguyên thủy bắt nguồn từ chính tình yêu Thiên Chúa. Nếu không sống tương quan với người khác như một gia đình, con người sẽ đánh mất vẻ tươi đẹp nhất, vì “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa.” (Stk 1,27) Không phải chỉ giống Thiên Chúa trong bản chất, nhưng cả trong tương quan nữa. Đó chính là nền tảng ơn gọi nguyên thủy của con người. Từ đó sứ mệnh con người được hoàn thành trong nỗ lực liên đới với anh em. Liên đới với anh em chính là đi vào tương quan với Thiên Chúa.
Tương quan thật sâu xa đó đã được thiết lập khi Đức Giêsu dìm mình trong dòng sông Giođan. Dòng sông định mệnh đó đã nối kết gia đình nhân loại với gia đình Thiên Chúa nhờ thần lực của Con Thiên Chúa làm người. Dòng nước thanh tẩy cũng đã trả lại cho chúng ta mối tương quan thâm sâu và vô cùng ý nghĩa đó. Nếu thực sự đang sống trong tương quan với anh em, chúng ta có sẵn sàng cộng tác với người khác để xây dựng cộng đoàn không? Chúng ta có tôn trọng nhân phẩm và tạo điều kiện cho người khác phát triển không? Thời cánh chung đã điểm khi Đức Giêsu xuất hiện trong dòng sông định mệnh Giođan. Bạn còn đợi tới bao giờ mới thiết lập tương quan với Thiên Chúa và anh em trong tiến trình đi lên hôm nay?
CON NGƯỜI ĐƯỢC NÂNG LÊN TRONG CHÍNH THÂN PHẬN CỦA MÌNH
Cái ước mơ được “đổi đời” trong chốc lát luôn thường trực trong thân phận con người từ khởi thủy đến nay. Càng khốn cùng, cái ước mơ ấy càng mãnh liệt hơn. Người ta mong ước được giải phóng khỏi mọi kìm kẹp, khỏi mọi ràng buộc để được bung mình trong tự do.
Chúa Cả trời đất đã tạo dựng con người và cho nó có tự do. Nhưng con người đã sống tự do cách vô độ để rồi chính mình lại rơi vào sự kìm kẹp của băng hoại, của tội lỗi. Đấng Tạo Hóa đã không vì thế mà hủy bỏ con người để tạo dựng lại một con người mới. Nhưng Ngài đã nâng con người dậy, tái tạo nó và làm cho nó nên xinh đẹp từ chính thân phận dòn mỏng đã đổ vỡ của con người.
Tiên báo về ngày con người được giải phóng
Tiên tri Isaia đệ nhị sống vào thời dân Israel đang bị lưu đày tại Babylon vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Ngài đã tiên báo về ngày mà toàn dân được giải phóng bởi một “tôi tớ” của Thiên Chúa. Dù người ta chưa biết Đấng ấy là ai nhưng một điều chắc chắn là “Người không bẻ gẫy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói” (Is 42,3).
Thiên Chúa không xóa bỏ tất cả để tạo dựng lại từ đầu. Ngài sẽ vực họ dậy dù họ chỉ còn như là “cây lau bị giập” hay như “tim đèn chỉ còn khói”. Ngài sẽ “mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” (Is 42,7).
Cái khát vọng thoát khỏi ách lưu đày tại Babylon của dân Do Thái xưa sẽ được thỏa mãn bởi Hoàng đế Kyro của Ba Tư. Nhưng cái khát vọng sâu xa của con người mong được giải phóng khỏi cảnh lưu đày trong tội lỗi chỉ có thể được thỏa mãn bởi Đấng Mê-si-a.
Thiên Chúa xuống làm người để nâng con người lên
Những gì mà Thánh Mac-cô mô tả tại dòng sông Gio-đan cho ta thấy những lời tiên báo của Isaia trước đó không phải là là một lời hứa suông. Quả thực Thiên Chúa đã không ruồng bỏ con người, nhưng Ngài đã đi xuống đến tận cùng thân phận tội lỗi của con người để nâng con người lên, giải phóng con người và đưa nó vào quỹ đạo của Tình Yêu Trời Đất.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đã đi vào giữa dòng người tội lỗi đang ngụp lặn tìm kiếm sự giải thoát. Ngài đã ngụp lặn xuống với họ, cùng họ bước vào sự tăm tối tột cùng của cảnh nô lệ tội lỗi. Ngài không bị nô lệ bởi tội lỗi, nhưng ngài đi vào trong sự tăm tối tột cùng của cảnh nô lệ tội lỗi mà con người đang chịu đựng.
Một cách hình ảnh, nơi mà Chúa Giêsu bước xuống với đoàn dân để lãnh nhận phép rửa của ông Gioan là nơi chẳng còn cách Biển Chết bao xa. Dòng sông Gio-đan chảy từ hồ Galile tới Biển Chết. Biển Chết là một hồ nước mặn sâu nhất thế giới. Nó được gọi là Biển Chết bởi chẳng có sinh vật nào sống được trong độ mặn chát của hồ nước. Hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến sự tận cùng của con người. Họ tuốn đến và bước xuống dòng sông Giođan, và chẳng còn bao xa nữa họ sẽ đi đến Biển Chết. Thiên Chúa đã hiện diện tại khúc đường cùng ấy của con người. Chính vào thời điểm cận kề với điểm chết, vào lúc con người đi đến cuối con đường cụt thì Thiên Chúa đã can thiệp và kéo con người lên.
Quả thực, Thiên Chúa đã đến với con người trong chính thân phận của con người để nâng con người dậy. Ngài đi vào cuộc sống của từng người, vào trong chính tâm tư tình cảm và hoàn cảnh sống của mỗi người để nâng ta lên.
Con người được nâng lên trong chính thân phận của mình
Suốt hàng ngàn năm, dân Do Thái suy ngẫm về Ơn Cứu Độ. Đi từ chỗ hiểu rằng Ơn Cứu Độ chỉ dành cho Dân Riêng của Thiên Chúa là dân Do Thái, họ đã dần nhận thấy Ơn Cứu Độ còn dành cho mọi dân tộc. Nhưng dẫu sao thì họ vẫn coi Giê-ru-sa-lem là tâm điểm mà mọi dân tộc phải rời bỏ quê hương của mình để tiến về Giê-ru-sa-lem. Não trạng ấy vẫn ăn sâu trong tiềm thức của dân.
Trong sách Công vụ Tông đồ được trích trong bài đọc thứ hai của ngày lễ này viết lại lời khẳng định của Thánh Phê-rô Tông đồ: “Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận” (Cv 10,34).
Lời khẳng định của Thánh Phêrô diễn ra trong bối cảnh ngài đến làm Phép Rửa cho gia đình một người dân ngoại tên là Cornelio (Cv 10,1-48). Thần Khí Chúa đã dẫn lối cho Phêrô đến gia đình này. Thánh Phêrô đã bỏ qua những tục lệ bắt buộc của người Do Thái để làm Phép Rửa cho gia đình ông Cornelio. Trước đó, chính Thánh Phêrô cũng đã không thể chấp nhận việc đem Ơn Cứu Độ ra ngoài Do Thái giáo. Nhưng với sự can thiệp của Thần Khí qua thị kiến thanh sạch hay nhơ bẩn mà Thánh Phêrô đã thay đổi lập trường (Cv 10,9-16).
Quả thực, không phải mọi dân phải rời bỏ quê hương của mình để đến với Giê-ru-sa-lem mà hưởng Ơn Cứu Độ. Nhưng là Ơn Cứu Độ đến với mọi dân ở trong chính quê hương của họ, trong chính hoàn cảnh sống của họ, trong chính thân phận thực tại của mỗi người, trong lịch sử cuộc đời của bạn, cuộc đời của tôi.
Thiên Chúa đã làm tất cả vì con người. Đấng Tạo Hóa đã muốn ở trong mỗi chúng ta để tái tạo mỗi chúng ta nên một con người xinh đẹp mỹ miều. Ngài muốn mỗi người là một công trình riêng biệt, mỗi người mang một vẻ đẹp rất riêng và mỗi người cũng có mối tình rất riêng tư với Ngài.
Tôi và bạn, mỗi người một vẻ, mỗi người một lịch sử, mỗi người một hoàn cảnh sống đã qua và đang sống. Tôi, một người Việt Nam, không thể vất bỏ lại sau lưng tất cả những gì tôi đã sống, bởi làm thế tôi không còn là tôi, và thực tế tôi cũng chẳng thể làm được. Thiên Chúa cũng không bắt tôi phải làm thế. Nhưng Ngài đến với tôi trong chính những khiếm khuyết và nhơ uế của tôi. Từ chính trong tôi, Ngài tái tạo và nâng tôi lên, cho tôi tiến bước trên con đường thong dong trong Ơn Nghĩa Chúa.
Lạy Chúa, con tin thật Chúa yêu con nhiều. Xin Chúa ở lại trong con dù đôi khi con lãng quên Ngài. Xin Chúa tái tạo con để con được trở nên tạo vật mĩ miều trong Vũ trụ xinh tươi.
Chúng ta không còn ở trong những trang Tin Mừng nói được là “thơ mộng” của thời thơ ấu Chúa Giêsu, vì có những vì sao và tiếng hát các thiên thần. Chúa Giêsu đã chấm dứt 30 năm cuộc sống ẩn dật của Ngài tại Nagiarét. Hôm nay, chúng ta được thấy Ngài xuất hiện trước công chúng trong tư thế sẵn sàng khởi đầu sứ vụ Chúa Cha đã trao cho Ngài.
Cả ba bài đọc của Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa hôm nay đều nhằm giới thiệu với cộng đoàn: Chúa Giêsu chính là Người Con được Chúa Cha quý mến. Bài đọc 1 trình bày Chúa Giêsu là người được Thiên Chúa nâng đỡ, tuyển chọn và quý mến. Trong bài đọc 2, Thánh Phêrô làm chứng Thiên Chúa luôn ở với Ngài và trong bài Tin Mừng, chúng ta được nghe tiếng từ trời phán về Ngài: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Những khẳng định trên đây về Chúa Giêsu lại càng làm cho chúng ta ngỡ ngàng trước việc Ngài để cho ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài tại sông Giođan. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa như một người tội lỗi, trong khi Ngài là Người Con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng có lần tuyên bố: “Ai trong các ông bắt tội lỗi tôi được về tội gì?”… Nhưng Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ. Gioan Tẩy Giả cũng có lần giới thiệu Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Ngài xóa tội trần gian bằng cách gánh lấy tội trần gian, một cử chỉ mở đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, đồng thời cũng là dấu báo hiệu những gì sẽ xảy ra. Có một lần, các con ông Giêbêđê bày tỏ ước vọng với Chúa Giêsu là một người ngồi bên tả, một người ngồi bên hữu của Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: “Các ông không ý thức được điều các ông xin. Các ông có thể uống được chén tôi phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy tôi phải chịu không?”. Như vậy là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy không chỉ còn là bằng nước của sông Giođan và từ tay ông Gioan Tẩy Giả mà là bằng Máu của chính Ngài, được sống lại trong Phục Sinh của Ngài và trở thành người con của Thiên Chúa.
Nếu Đức Kitô đến để thanh tẩy loài người bằng Thánh Thần, thì điều đó đã được thực hiện cho người Kitô hữu trong bí tích Thanh Tẩy. Khi được Rửa Tội, chúng ta cũng được Chúa Cha tấn phong và giới thiệu với thế gian rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu”. Ơn gọi làm con Thiên Chúa không những không phủ nhận hay loại trừ ơn gọi làm người, nhưng còn giúp chúng ta đảm nhận ơn gọi ấy nữa. Được phúc làm con Thiên Chúa, chúng ta không được đưa ra khỏi thế gian hay được miễn khỏi mọi bổn phận trần thế. Ngược lại, chính trong thế giới và nhân loại này mà chúng ta phải thể hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, chính thế giới và nhân loại này mà chúng ta được tuyển chọn làm con Thiên Chúa.
Nhờ Thánh Thần được ban trong bí tích Thanh Tẩy, mỗi người chúng ta trở nên giống Chúa Kitô, nên một với Ngài và cùng mang trách nhiệm của Ngài. Sứ mạng của Ngài trở thành của chúng ta và công việc của Ngài phải là công việc của mọi Kitô hữu. Nếu Chúa Giêsu đã liên kết với con người tội lỗi, để giải thoát con người khỏi tội lỗi, thì chính người được Rửa Tội vẫn phải tiếp tục sống giữa anh em mình, và không được quên trách nhiệm đấu tranh chống lại tội lỗi và chiến thắng sự dữ. Bí tích Thanh Tẩy không thể chỉ là một nghi lễ lãnh một lần rồi thôi mà phải là chính cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Bản thân người Kitô hữu phải chiến thắng tội lỗi để thực sự là một trong “những kẻ được sáng”, hầu có thể trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Qua Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đã là Kitô hữu và là con Thiên Chúa. Thế nhưng chúng ta còn phải trở thành Kitô hữu, nghĩa là mỗi ngày trong cuộc đời còn phải nên giống Chúa Kitô hơn cho tới khi được đồng hình đồng dạng với Ngài.
Muốn trở thành Kitô hữu như thế, phải tin tưởng và gắn bó với Đức Kitô, luôn sống thân tình với Ngài, lắng nghe và tuân giữ lời Ngài như Chúa Cha đã long trọng và ân cần nhắn nhủ.
Thánh Thần, Đấng đã hiện diện nơi con người Đức Giêsu để biến Đức Giêsu thành Con Chí Ái của Chúa Cha, sẽ hoạt động nơi tâm hồn mỗi người để làm cho mỗi người nên giống Đức Kitô, dạy chúng ta biết thế nào để trở nên Con Thiên Chúa trong Đức Kitô. Nhờ Thánh Thần, lời cầu nguyện của người Kitô hữu trở thành lời kêu lên của người con đối với Cha mình và kết hợp sâu xa với lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người tín hữu can đảm để tha thứ cho kẻ thù, thích thú khi sống đời yêu thương và phục vụ như Đức Giêsu đã sống.
Thánh Thần được ban cho chúng ta trong Bí tích Thánh Tẩy còn giúp chúng ta trung thành với Đức Kitô, nhất là trong trách nhiệm thiết lập công lý khắp nơi và trở thành ánh sáng muôn dân.
Chúng ta là con Thiên Chúa và muốn luôn làm con Thiên Chúa bằng việc chiến thắng tội lỗi và làm sáng tỏ công lý. Nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt về vật chất cũng như tinh thần, có thể sẽ đè bẹp chúng ta, lôi cuốn chúng ta đồng lõa với sự bất công, hoặc có thể làm cho chúng ta nhụt chí, buông xuôi, đầu hàng sự ác.
Lúc đó, chúng ta hãy nhớ rằng, ngay giữa cuộc đời, Đức Giêsu vẫn hiện diện ở đó giống như xưa Ngài đã từng hòa lẫn với giòng người tội lỗi ở bờ sông Giođan. Đức Giêsu hiện diện ở đó để giữa tăm tối của cuộc sống, trời vẫn xé ra, hồng ân Thánh Thần vẫn đổ xuống, và Chúa Cha vẫn vui mừng nói với từng người trong chúng ta như đã nói với Chúa Giêsu rằng:
“Đây là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Những lời chú giải thông thái về đoạn Phúc âm này ám chỉ những giai đoạn trong Cựu Ước nói đến nước và Thần trí. Một trong những lời chú giải nhấn mạnh rằng nước biểu tượng cho khả năng tiếp thu của loài người đối với tác động của thần trí. Phép rửa bằng nước do Gioan Tẩy Giả tượng trưng cố gắng của con người tiến đến Thiên Chúa, nhưng cố gắng ấy không thể tự nó tới được đích Con người chỉ gặp được Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa đến với con người. Đấy là ý nghĩa phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thực hiện trong nhân vị mình sự chuyển động con người đến với Thiên Chúa (Phép rửa do Gioan Tẩy Giả) và sự chuyển động Thiên Chúa đến với con người (Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu) phép rửa bằng nước biểu tượng cho cố gắng con người dọn mình chịu phép Rửa trong Thần Trí, mà Thần Trí là sự Chúa đến. Thiên Chúa là nguồn gốc cảm hứng và sức hậu thuẫn cho sự trở lại của con người, và bởi ơn Chúa Thánh Thần linh ứng chỉ đạt tới đích nếu Thiên Chúa đến với con người và dẫn dắt con người từ bình diện nhân tính tiến lên bình diện thần tính. Ta có thể nói rằng trong nhân vị Đức Giêsu, con người hướng đến Thiên Chúa, và Thiên Chúa đến gặp con người. Đức Giêsu thực hiện điều ấy với một sức sống và một sự viên mãn vượt khỏi trí tưởng tượng của chúng ta. Tuy nhiên chúng ta có thể kết luận: Do sự tham gia sống động của ta vào mầu nhiệm Đức Giêsu mà ta hướng về Thiên Chúa và Thiên Chúa đến với ta. Đoạn Phúc âm hôm nay có thể gợi ý vài suy niệm về giá trị cố gắng trở lại và ý nghĩa hoạt động tông đồ của chúng ta.
1) Giá trị cuộc đời Kitô hữu là ở sự gặp gỡ của chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Một sự trở lại mang tính chất Kitô giáo mà tự hạn chế trong những việc lành phúc đức dù cao cả tới đâu cũng không đủ giúp người ta đạt tới phẩm giá làm con Thiên Chúa. Thế mà tất cả ý nghĩa sứ điệp Phúc âm là ở chỗ loan báo cho con người thiên chức làm con Thiên Chúa. Người Kitô hữu đích thật là người tìm kiếm sự gặp gỡ sống động với Đức Kitô, mà người Kitô hữu đến lượt mình trở nên con Thiên Chúa và gặp Thiên Chúa như thể gặp người cha vậy. Thực tế, biết tìm Đức Kitô ở đâu? Gặp Người nhiều nhất là trong Phúc âm, trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong niềm thương yêu anh em. Đời sống luân lý mà vắng thiếu sự đi tìm tâm điểm để gặp Đức Kitô, thì không phát huy hết giá trị, lại có thể xuống giá nữa. Trong cố gắng tham dự đời sống Đức Giêsu, người Kitô hữu tìm được cho đời mình ý nghĩa và giá trị thật sự.
2) Hoạt động tông đồ có tham vọng giúp người ta chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Bất cứ người làm việc tông đồ nào cũng giống Gioan Tẩy Giả, đều đóng vai tiền hô. Nhiệm vụ người ấy là dọn dẹp, khai quang, soi sáng, hướng dẫn. Niềm xác tin cơ bản của người tông đồ phải là làm thế nào để kết quả chung cục rời khỏi tay mình, vì lẽ kết quả sau hết đó là sự Thiên Chúa ngự đến trong một con người. Điều đó tuỳ thuộc Thiên Chúa. Để biểu lộ thái độ khiêm nhường, bằng một sự nhận thức về thực tại, người tông đồ hoạt động, hy sinh, cầu nguyện, hiến dâng tất cả sức lực, tất cả thân mình cho một công việc của Thiên Chúa. Do đó người ta hiểu rằng chiến sĩ Kitô hữu không hoạt động cho Đấng thần hoá những gì thuộc về nhân thế. Điều này đem đến cho cố gắng tất cả ý nghĩa và đặt cố gắng lên trên cái điều xét bề ngoài có thể coi là thất bại hoặc thành công. Một điều chắc là việc tông đồ mà linh hồn và tâm điểm là Đức Giêsu Kitô – luôn luôn đem về cho người hoạt động tông đồ một thành công hiển nhiên hoặc giấu kín.
Có một người cho tôi mượn quyển truyện cười. Tôi đọc một câu chuyện như sau: một người mở tiệm bán cá. Anh ta căng bảng hiệu "Ở đây bán cá tươi". Một người hàng xóm phê bình: "Anh bán cá tươi chứ có bán cá khô đâu. Cần gì phải để chữ "tươi" trên bảng hiệu". Nghe có lý, anh chủ tiệm xóa chữ "tươi". Bảng hiệu chỉ còn "Ở đây bán cá". Một người khác lại chê: "Tiệm của ông bán cá, ai cũng biết, cần gì phải ghi hai chữ "ở đây". Anh chủ tiệm lại nghe có lý. Vậy là bảng hiệu chỉ còn hai chữ "Bán cá". Một người khác lại không đồng ý, nên đề nghị: "Tiệm của ông bán cá chứ có bán rau trái gì đâu mà phải tốn cả cái bảng hiệu". Vậy là ngay hôm đó, anh chủ tiệm tháo luôn tấm bảng hiệu của tiệm mình.
Bạn thử nghĩ xem, câu chuyện kể trên muốn nói điều gì? Nó phê phán những người có tính ba phải, bắt chước một cách rập khuôn theo người khác, mà không biết giữ lập trường của mình.
Tôi không có ý so sánh câu chuyện kể trên với bài Tin Mừng ngày lễ Chúa chịu phép rửa, chuyện vui đó không đáng so sánh với Thánh Kinh. Dù sao tôi cũng thắc mắc, bởi thái độ của Chúa Giêsu hết sức lạ lùng. Chúa được Gioan ca tụng một cách khác thường, trên mức bình thường, nào là "Có Đấng đến sau tôi, quyền lực hơn tôi", nào là "Tôi không đáng cởi dây giày cho Người", hay "Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Người rửa anh em trong Thánh Thần", thì chính Người, nhân vật quan trọng đó, lại đến xin Gioan làm phép rửa cho mình, và đã cúi mình để Gioan rửa thật sự. Chúa Giêsu làm điều đó có ý gì? Hình như Người cũng chỉ là một kẻ ba phải, thấy người khác đến xin Gioan làm phép rửa thì cũng đến như mọi người?
Không đúng! Chúa Kitô không ba phải! Ở cuối bài Tin Mừng, thánh Marcô cung cấp cho ta một chân lý đức tin hết sức quan trọng: Chúa Giêsu đã làm điều mà Người cần phải làm: Qua phép rửa của Gioan, Thiên Chúa tỏ mình cho trần gian. Nếu lần tỏ mình trước trong lễ Hiển Linh cho biết Chúa Giêsu đã nhập thể trong trần gian, thì lần này đánh dấu một bước ngoặc mới, đó là Chúa chuẩn bị loan báo Tin Mừng và báo trước đời sống công khai của Chúa. Lần tỏ mình này diễn ra trong bầu khí uy nghi: Ba Ngôi cùng hiện diện: Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi Chúa Con như hình chim bồ câu. Chúa Cha tuyên bố Chúa Con là con yêu dấu của Người, luôn làm đẹp lòng Người. Tất cả những điều đó nhằm minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người sắp thực hiện sứ mạng cứu độ trần gian.
Ngày xưa phép rửa của Gioan chỉ là phép rửa kêu gọi thống hối mà Thiên Chúa lại tỏ mình uy nghi, thì ngày nay trong phép rửa tội, là phép rửa tha tội thật sự, do Chúa Giêsu thiết lập, chắc chắn Thiên Chúa vẫn đang tỏ mình cho loài người. Bởi đó, khi linh mục hoặc bất cứ người nào trong trường hợp thiếu linh mục, rửa tội cho ai đó theo ý hướng của Giáo Hội, và đọc công thức: "Tôi rửa tội cho anh (chị, em...), nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần", kèm theo việc đổ nước trên đầu, thì lập tức bí tích rửa tội thành sự.
Bạn thân mến, trong nghi thức bí tích rửa tội cho trẻ em, trước khi tuyên xưng đức tin, Giáo Hội mời gọi mọi người hiện diện hãy tích cực tham dự và nghi thức bí tích này bằng lời kêu mời: "...Anh chị em HÃY NHỚ LẠI phép rửa tội của mình mà từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin...". Vậy mừng lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, bạn và tôi cũng hãy nhớ lại phép rửa tội của mình mà tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng đã yêu thương tỏ mình trong cuộc đời của từng người, kể từ giây phút ta bắt đầu gia nhập cộng đoàn Giáo Hội.
Bí tích rửa tội là bí tích đầu tiên cho ta được quyền gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Kitô là người Anh Cả của mình, Chúa Thánh Thần được ban để ta sống đời sống một người con Chúa. Nếu trong nghi thức bí tích, Giáo Hội mời ta nhớ lại bí tích rửa tội để từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin, thì hôm nay, trong lễ này, bạn và tôi cũng hãy thực thi lời mời gọi ấy bằng sự thành tâm trở về với Chúa, giữ cho lòng mình trong sạch và siêng năng rước lễ, cầu nguyện, lãnh bí tích giải tội, biết thực thi lòng bác ái bằng việc giúp đỡ anh chị em thiếu thốn xung quanh mình. Dù tỏ mình trong bí tích rửa tội, nhưng Danh Chúa thực cả sáng nhờ đời sống thánh thiện của bạn và tôi.
"Những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa".
Chúng ta đã nghe thấy trong Bài Đọc Thứ Nhất là Chúa chăm sóc cho con cái của Ngài như cha mẹ: Ngài chăm chút cung cấp cho con cái của mình lương thực chân chính. Qua vị tiên tri Thiên Chúa đã nói rằng: "Tại sao các ngươi lại chi tiền của mình cho những gì không phải là bánh ăn, tiêu xài lương bổng của các ngươi cho những gì không làm thỏa mãn chứ?" (Isaia 55:2). Thiên Chúa, như một người cha thiện hảo và như một người mẹ tốt lành, muốn cống hiến cho con cái của mình những điều tốt lành thiện hảo. Thứ lương thực chân chính Thiên Chúa ban cho chúng ta đây là gì? Đó là chính Lời của Ngài: Lời của Ngài làm cho chúng ta lớn lên, làm cho chúng ta sinh hoa kết trái tốt đẹp trong đời sống, như mưa và tuyết làm cho đất trở nên phì nhiêu cùng sinh hoa trái vậy (xem Isaia 55:10-11).
Cũng thế, anh chị em là cha mẹ, và là cha mẹ đỡ đầu, là ông bà, là cô dì chú bác, cũng giúp cho những con trẻ này lớn lên một cách tốt đẹp nếu anh chị em cống hiến cho chúng Lời Chúa, cống hiến cho chúng Phúc Âm của Chúa Giêsu. Kèm theo Lời Chúa anh chị em đồng thời cũng cống hiến cả gương sống của anh chị em nữa! Hằng ngày anh chị em hãy có thói quen đọc một đoạn Phúc Âm, một đoạn ngắn thôi, và luôn mang theo một cuốn Phúc Âm nhỏ trong túi, trong xách tay của anh chị em để đọc. Đó sẽ là một tấm gương cho những con trẻ đây, khi chúng thấy người cha, người mẹ, bố mẹ đỡ đầu, ông bà, cô dì chú bác, đọc Lời Chúa.
Hỡi các người mẹ, hãy cho con của mình bú sữa - ngay cả lúc này đây, nếu chúng khóc vì đói, hãy cho chúng bú sữa, đừng lo. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về tặng ân sữa này, và chúng ta cầu cho những người mẹ ấy - tiếc thay lại có rất nhiều - lại không thể cho con cái của mình của ăn. Chúng ta hãy cầu nguyện và cố gắng giúp cho những người mẹ này. Vậy những gì sữa làm cho thân xác thế nào thì Lời Chúa làm cho tinh thần như vậy, ở chỗ, Lời Chúa làm cho chúng ta lớn lên trong đức tin. Và nhờ đức tin chúng ta được tái sinh bởi Chúa. Và đó là những gì xẩy ra nơi Phép Rửa. Chúng ta đã nghe tông đồ Gioan viết: "Ai tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô thì đều được Thiên Chúa hạ sinh" (1Gioan 5:1).
Bằng đức tin ấy, con cái của anh chị em đến để lãnh nhận phép rửa. Anh chị em phụ huynh, anh chị em đỡ đầu thân mến, đó là đức tin của anh chị em hôm nay đây. Đó là đức tin của Giáo Hội, nhờ đó mà những em bé này sẽ được lãnh nhận Phép Rửa. Thế nhưng ngày mai, nhờ ơn Chúa, đức tin này sẽ trở thành đức tin của chúng, trở thành tiếng "xin vâng" của bản thân chúng với Chúa Giêsu Kitô, Đấng cống hiến cho chúng ta tình yêu của Cha.
Tôi đang nói rằng chính đức tin của Giáo Hội. Điều này rất quan trọng. Phép Rửa tháp nhập chúng ta vào thân mình của Giáo Hội, vào dân thánh của Thiên Chúa. Và trong thân mình này, trong thành phần dân đang tiến bước này, đức tin được truyền đạt từ đời nọ đến đời kia: đó là đức tin của Giáo Hội. Và đức tin của Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, đức tin của Thánh Giuse, của Thánh Phêrô, của Thánh Anrê, của Thánh Gioan, đức tin của các vị Tông Đồ và các vị Tử Đạo, đã được truyền đạt cho chúng ta qua Phép Rửa: một chuỗi giây truyền đạt đức tin. Điều này thật là đẹp! Nó là một việc truyền đạt từ bàn tay này sang bàn tay kia cây nến sáng đức tin: chúng ta sẽ bày tỏ điều này trong ít phút nữa bằng cử chỉ thắp sáng cây nến phục sinh trọng đại. Cây nến phục sinh trọng đại này tiêu biểu cho Chúa Kitô Phục Sinh đang sống giữa chúng ta. Các gia đình lấy ánh sáng đức tin từ Người để truyền đạt cho con cái của mình. Anh chị em có thể lấy ánh sáng này trong Giáo Hội, trong thân mình của Chúa Kitô, trong dân Chúa là thành phần đang bước đi ở mọi thời đại và ở hết mọi nơi. Hãy dạy cho con cái của anh chị em rằng không có Kitô giáo ngoài Giáo Hội, anh chị em không thể nào theo Chúa Giêsu Kitô mà không có Giáo Hội, vì Giáo Hội là một người mẹ làm cho chúng ta lớn lên trong lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô.
Các Bài Đọc hôm nay còn mạnh mẽ cống hiến một khía cạnh cuối cùng nữa, đó là, nơi Phép Rửa chúng ta được Thánh Linh thánh hiến. Chữ "Kitô hữu" mang ý nghĩa ấy, có nghĩa là được thánh hiến như Chúa Giêsu, trong cùng một Thần Linh là Đấng Chúa Giêsu đã trầm ngập cả đời sống trần gian của Người trong Ngài. Người là "Đức Kitô", Đấng Được Xức dầu, Đấng Được Thánh Hiến, chúng ta lãnh nhận phép rửa là "Kitô Hữu", nên đã được thánh hiến, đã được xức dầu. Vậy giờ đây, anh chị em phụ huynh thân mến, anh chị em đỡ đầu thân mến, nếu anh chị em muốn cho con cái của anh chị em trở thành những Kitô hữu đích thực, thì hãy giúp cho chúng càng "được chìm ngập" trong Thánh Linh, tức là trong tình yêu nồng ấm của Thiên Chúa, trong ánh sáng của Lời Ngài. Vì thế, đừng quên thường xuyên cầu khẩn Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. "Này cô, cô có cầu nguyện không?" - "Có" - "Tôi cầu nguyện với Thiên Chúa" - Thế nhưng nơi cách thức ấy "Thiên Chúa" lại không hiện hữu: "Thiên Chúa là một ngôi vị và Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh hiện hữu như là một ngôi vị". Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu. Khi chúng ta cầu "Kinh Lạy Cha" là chúng ta cầu cùng Chúa Cha. Thế nhưng chúng ta rất thường không cầu cùng Thánh Linh. Việc cầu nguyện cùng Thánh Linh rất quan trọng, để Ngài dạy chúng ta làm cho gia đình tiến triển, dạy cho những đức con đây, nhờ đó những con trẻ này có thể lớn lên trong bầu khí Ba Ngôi. Chính Thần Linh sẽ dẫn chúng tiến bước. Do đó đừng quên cầu khẩn cùng Thánh Linh, cầu nguyện hằng ngày. Chẳng hạn anh chị em có thể làm điều này bằng lời nguyện đơn sơ như sau: "Xin Thánh Linh hãy đến tràn đầy lòng tín hữu Chúa và hãy thắp lên ngọn lửa tình yêu của Chúa trong lòng họ". Anh chị em có thể đọc kinh nguyện này với con cái của anh chị em, và dĩ nhiên cho chính bản thân của anh chị em!
Khi đọc kinh nguyện này, anh chị em cảm thấy sự hiện diện từ mẫu của Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thánh Linh, và sống theo Thần Linh như Chúa Giêsu. Lạy Đức Mẹ là Mẹ của chúng con, xin luôn đồng hành với con cái của Mẹ và các gia đình của Mẹ.
"Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian 'các tầng trời khép kín' đã qua"
Anh chị em thân mến, Chào anh chị em buổi sáng!
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Chịu Phép Rửa, một lễ kết thúc mùa Giáng Sinh. Phúc Âm đã diễn tả những gì xẩy ra ở bờ sông Dược Đăng (Jordan). Trong giây phút Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì các tầng trời đã được mở toang ra. Thánh Marcô viết: "Khi lên khỏi nước, Người đã thấy các tầng trời mở ra" (1:10). Sự kiện này gợi nhớ đến lời cầu khẩn thảm thiết của tiên tri Isaia: "Ôi xin Ngài hãy xé các tầng trời ra mà xuống!" (63:19). Tiếng kêu này đã được đáp ứng nơi biến cố Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa. Như thế là thời gian "các tầng trời khép kín" đã qua, thời gian tách biệt Thiên Chúa với loài người do hậu quả của tội lỗi. Tội lỗi là những gì tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và làm gián đoạn mối liên hệ giữa đất và trời, khiến chúng ta bị khốn khổ và bại hoại trong đời sống. Các tầng trời đã mở ra cho thấy rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ân sủng của Ngài để trái đất được sinh hoa kết trái (xem Sal 85,13). Vậy trái đất đã trở nên nơi cư ngụ của Thiên Chúa giữa loài người, và mỗi người chúng ta có cơ hội gặp gỡ Con Thiên Chúa, cảm nghiệm được tất cả tình yêu và tình thương vô cùng. Chúng ta có thể tìm thấy điều này thực sự hiện diện ở nơi các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta có thể nhận thấy điều ấy nơi dung nhan của anh chị em chúng ta, nhất là nơi người nghèo, nơi bệnh nhân, nơi người bị tù ngục, nơi các người tị nạn: họ là xác thịt sống động của Chúa Kitô khổ nạn và là ảnh tượng hữu hình của vị Thiên Chúa vô hình.
Nhờ Chúa Giêsu lãnh nhận Phép Rửa mà chẳng những các tầng trời được mở toang ra Thiên Chúa còn làm cho tiếng của Ngài được vang vọng một lần nữa: "Con là Con yêu dấu của Cha: Cha hài lòng về Con" (Marcô 1:11). Tiếng nói này của Chúa Cha công bố mầu nhiệm được kín ẩn nơi Con Người lãnh nhận Phép Rửa bởi vị Tiền Hô.
Bấy giờ, Thánh Linh, qua hình thể một con chim bồ câu đã giúp cho Đức Kitô, Đấng Được Xức Dầu của Chúa, bắt đầu sứ vụ của Người đó là việc cứu độ chúng ta. Vị Thánh Linh này: Đấng Trọng Đại này đã bị chúng ta lãng quên nguyện cầu. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Chúa Giêsu; chúng ta cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là bằng "Kinh Lạy Cha"; thế nhưng không thường cầu nguyện cùng Thánh Linh, đúng không? Ngài là Đấng bị lãng quên. Và chúng ta cần xin ơn trợ giúp của Ngài, sức mạnh của Ngài, thần hứng của Ngài. Thánh Linh là Đấng hoàn toàn làm sinh động cuộc đời và thừa tác vụ của Chúa Giêsu, thì cũng Vị Thần Linh này ngày nay đang dẫn dắt đời sống của Kitô hữu, đời sống của con người nam nữ ngỏ ý muốn trở thành Kitô hữu. Việc đặt đời sống Kitô hữu của chúng ta và sứ vụ của chúng ta dưới tác động của Thánh Linh, Đấng tất cả chúng ta đã lãnh nhận nhờ Phép Rửa của chúng ta, là việc nhắm đến chỗ có được lòng can đảm tông đồ để thắng vượt những gì là dễ dãi thoải mái trần tục. Trái lại, người Kitô hữu nào hay cộng đồng nào "bị điếc" trước tiếng của Thánh Linh, Đấng thôi thúc chúng ta mang Phúc Âm đến tận cùng trái đất và xã hội, sẽ trở thành một Kitô hữu hay một cộng đồng "bị câm" không nói năng hay truyền bá phúc âm hóa. Thế nhưng xin hãy nhớ điều này, đó là hãy thường xuyên cầu nguyện cùng Thánh Linh để Ngài có thể trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh, ban cho chúng ta hứng khởi và dẫn chúng ta tiến bước.
Xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, đồng hành với chúng ta là những người đã lãnh nhận phép rửa. Xin Mẹ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và trong niềm vui phục vụ Phúc Âm, cống hiến cho chúng ta một đời sống trọn vẹn ý nghĩa.
Công Chúa Louise con vua Louis thứ 14, nước Pháp đã lơ là với cuộc sống đạo và tôn kính Chúa, khi bị các nữ tỳ phục vụ trách móc, không cầm được sự kiên nhẫn, đã trả lời:
- Các người không biết rằng tôi là con gái của Đức Vua, vua của các người sao?
Đám nữ tỳ đáp lại:
- Nhưng chúng tôi không phải là con cái của Thiên Chúa, của Đức Vua và của Công Chúa sao?
Công Chúa hiểu ngay là mình đã không tôn kính Thiên Chúa cho xứng đáng và sau này Công Chúa đã thành một nữ tu Dòng Kín. Công Chúa hay nghĩ tới câu trả lời đanh thép đó.
Trong một bữa tiệc thịnh soạn của Hoàng Hậu Elizabeth nước Pháp với đầy đủ bộ mặt quan quyền văn võ, mọi người nâng ly rượu lên uống rất vui vẻ. Bỗng có tiếng gõ vào bàn làm mọi người im lặng. Tiếng Hoàng Tử vọng lên:
- Các người quên Chúa rồi sao, chẳng có ai làm dấu để tuyên tôn Danh Chúa cả?
Hôm nay, nhân đọc bài Tin Mừng theo thánh Mátcô, chúng ta cũng gặp một người can đảm và hy sinh cuộc đời cho lý tưởng tôn vinh Thiên Chúa giữa muôn người, đó là Gioan Tiền Hô. Ngài vì Chúa Cứu Thế mà thực hiện cuộc sống ăn chay, cầu nguyện, la lớn tiếng để báo tin Đấng Cứu Thế đến. Ngài chịu xỉ nhục, chỉ trích trước mặt các Thầy Thông Giáo. Chịu tù đầy vì dám tố cáo vua lấy chị dâu của mình. Dám chịu chém đầu đặt trên đĩa đưa cho nàng Hêrôđia. Tiếng loan báo của Gioan làm mọi người tỉnh thức, nhận biết Chúa Giêsu và bước theo Người.
Chúng ta cũng được mời gọi như thế bằng việc làm: Thực tâm sống đạo, bằng lời nói: Tông vinh danh Chúa, loan tin cho người khác. Bằng hành động: Cung kính tôn vinh Thánh Thể, sốt sắng tham dự Thánh Lễ, các giờ Phụng Vụ, và thi hành các điều Chúa truyền dạy.
Tại Việt Nam, cuộc sống đau khổ đã đưa họ đến cuộc sống đức tin, sống đạo và tuân hành các giới luật cách nghiêm chỉnh, để Chúa được tôn vinh. Tại Hoa Kỳ, chúng ta có làm tôn vinh Chúa không? Có giúp Chúa đi vào trong các tâm hồn không? Có giúp Chúa đến với gia đình bạn không?
Ông chủ giầu có kia, có được một người con trai ruột thịt. Cậu đi du học ở nơi xa với chúng bạn. Ông chủ thương cả bọn, nên tháng tháng ông cung cấp cho họ mọi sự khiến các người đều tôn nhận ông là cha. Không may gặp cơn bạo bệnh, ông chết tốt, người con trai cùng các bạn hữu đều trở về đưa xác ông và thương khóc ông như thương khóc cha ruột vậy. Mấy người bạn muốn cướp gia tài của ông nên cứ nhận mình là con ruột. Quan Tòa cũng không biết biết xử cách nào và ai là con thừa kế. Họ quyết định một phen thử sức, nếu ai cầm súng bắn đúng tim cha mình thì đó là con thừa kế. Các con hăng hái chấp thuận. Lần lượt các con thi nhau bắn vào tim cha. Đến người cuối cùng cầm súng nhắm vào tim cha rồi anh buông súng xuống. Ba bốn lần nhằm bắn để đoạt gia tài nhưng cuối cùng chàng khóc, ném súng đi và tuyên bố:Thà rằng tôi không được gia tài còn hơn tôi ác tâm bắn cha mình. Quan tòa thẳng thắn công bố:Phiên tòa chấm dứt tại đây, vì đã tìm ra người thừa kế gia tài. Đó là chính người không chịu giết cha.
Nếu là người con đích thực của Chúa, chúng ta có bắn Chúa không? Nhưng nhiều khi muốn đoạt gia tài trần gian, chúng ta lại bắn Chúa. Nếu nói rõ ra thì chúng ta không bắn, nhưng trong u tối chúng ta lại sẵn sàng bắn.
Việc người Tin Lành cắm bảng quảng cáo I love Jesus ta cho là một việc quảng cáo kỳ cục, nhưng là một việc đáng suy nghĩ.
Việc người choai choai viết vào áo, gắn trên mũ, khắc xâm vào người ri rêu rao Hãy dành cho Chúa Giêsu một chỗ trong lòng bạn. Có đáng là điều cho ta suy nghĩ không?
Cuộc sống của ta là người Công Giáo không làm ra bề ngoài ấy, nhưng ta làm trong lòng, trong gia đình, trong xóm đạo. Hãy giúp Chúa Giêsu đến với chính mình, sống trong mình. Hãy giúp Chúa Giêsu được tôn vinh nơi gia đình, nơi xóm đạo mình. Hãy chứng tỏ mình là chứng nhân của Chúa bằng việc làm, bằng việc sống đạo. Chúa phải được nâng lên còn tôi phải hy sinh cho Người.
Xin Chúa soi sáng để chúng ta không theo ý riêng mình, không theo thú tính xác thịt. Hãy bắt chước Chúa Giêsu: Được dẫn vào rừng vắng để ăn chay cầu nguyện.
Bờ sông Jordan hôm đó nhộn nhịp khác thường, người ta lũ lượt từ các thành thị làng mạc tuốn đến; trong số đó, có cả các luật sĩ, các văn nhân, các thầy thông giáo, các quân nhân và đủ mọi thành phần trong xã hội. Họ đến đây để làm gì? Họ đến để nghe Gioan, vị Tiền Hô Chúa Cứu Thế rao giảng Phép Rửa Sám Hối, với những lời quả quyết vững mạnh và uy quyền: "Hãy sám hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến!" (Mt 3:2) Mọi người đều tỏ lòng tin tưởng, ngưỡng mộ và khâm phục, sẵn sàng nghe theo lời giáo huấn của ngài và thật lòng sám hối cải thiện đời sống, bằng cách lãnh nhận Phép Rửa ngài ban tại sông Jorđan.
I. GIOAN VÀ PHÉP RỬA SÁM HỐI TỘI LỖI
Chúa Kitô cũng hòa mình trong đám quần chúng đến nghe Gioan rao giảng và cũng xin ông làm Phép Rửa cho Người. Gioan đã nhận ra Người và bỡ ngỡ kêu lên: "Chính tôi xin Thầy làm Phép Rửa cho tôi mới phải, sao Thầy lại đến xin tôi?" (Mt 3:14). Gioan phải sửng sốt, hổ thẹn vì ông đã nhận ra Người là Đấng Thiên Sai nhân loại đợi trông, Đấng là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, hóa thân làm người, mặc lốt phàm nhân tội lỗi, Đấng Tự Hữu, quyền năng và cao cả vô cùng, đã khiêm tốn tự hạ như một tội nhân đến xin ông làm Phép Rửa! Còn ông, mặc dầu được người ta tin tưởng và khâm phục coi ông như một vị tiên tri, hơn nữa, nhiều người còn tưởng ông là chính Đức Kitô, nhưng ông đã thẳng thắn tuyên bố trước mọi người: "Tôi không phải Elia, cũng chẳng phải là Đức Kitô!" Ngài xác quyết khi tự hạ: "Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, như Isaia đã tiên báo: Hãy dọn đường cho Chúa, san phẳng các nẻo Ngài" (Mt 3:3). Ngài còn minh xác thêm với mọi người: "Phần tôi, tôi rửa cho anh chị em bằng nước, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người. Đó mới là Đấng sẽ rửa cho anh chị em trong Thánh Thần và bằng lửa" (Mt 3:11).
II. NGHI LỄ PHONG VƯƠNG VUA KITÔ
Để khởi đầu Sứ Mạng Cứu Thế, truyền bá Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Kitô đã khiêm tốn đến lãnh Phép Rửa Sám Hối bởi Gioan là vị tôi tớ và tiền hô của Người. Sau khi chịu Gioan làm Phép Rửa và bước lên khỏi nước, các tầng trời liền mở ra và có tiếng Chúa Cha tuyên dương Con Một Người: "Đây là Con Chí Ái của Cha! Con làm vui thỏa lòng Cha!" (Mt 3:17) Ngài còn phái Thánh Linh, dưới hình Chim Bồ Câu ngự xuống đậu trên Người, để xức dầu phong vương cho Người, như lời Thánh Phêrô Tông Đồ đã rao giảng: "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa những kẻ bị quỉ ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người!" (Act 10:38)
Ngay từ xa xưa, qua tiên tri Isaia, Chúa đã phán về Con của Ngài: "Tôi Tớ mà Ta nâng đỡ, là Người Ta tuyển chọn, Ta hài lòng về Người. Ta ban thần trí Ta trên Người... Để Người nên Ánh Sáng của chư dân, mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong bóng tối!" (xem Is 42:1-4,6-7) Lời đó hôm nay đã hoàn toàn được ứng nghiệm.
III. NGHĨA VỤ CỦA CON CÁI THIÊN CHÚA
Theo giáo lý của Giáo Hội, Chúa dùng Phép Rửa Sám Hối Người đã lãnh nhận nơi sông Jordan, như hình bóng Nhiệm Tích Thánh Tẩy Chúa sẽ thiết lập, để tẩy rửa và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, phục hồi cho chúng ta quyền làm con cái Thiên Chúa.
Qua Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được diễm phúc trở nên con cái Chúa, được thừa hưởng gia nghiệp Hạnh Phúc Vĩnh Cửu Nước Trời. Chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần xức dầu, cho tham dự quyền Vương Đế của Chúa Kitô, gia nhập Hàng Tư Tế và Dân Thánh của Chúa. Đồng thời, cũng được Chúa ủy thác nghĩa vụ mở rộng Vương Quốc của Chúa, tiếp tục Sứ Mạng Cứu Thế của Chúa Kitô: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm Phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt 28:19).
Chúa Kitô đã chịu Phép Rửa và được Chúa Cha sai đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Nhờ Phép Rửa đã lãnh nhận, Chúa cũng sai chúng ta ra đi, để chinh phục cho Chúa các linh hồn, phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại.
Cha Petro Arrupê, là một nhân vật quan trọng thuộc Dòng Tên, ảnh hưởng lớn lao của ngài khắp nơi đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên thán phục. Từ thời niên thiếu, giấc mơ của ngài là sẽ trở thành một bác sĩ, nhưng những năm theo học tại đại học, ngài đã có cơ hội được tiếp xúc với giới nghèo nàn cùng khổ, ngài động lòng thương họ và từ đó ngài đã chuyển hướng cuộc đời như ngài viết: "Cảnh khốn cùng đã vén tấm màn ngu dốt nơi mắt tôi. Từ đó, tôi xác tín rằng: Ngoài tôi ra, trong thế giới còn biết bao công việc phải làm". Thế là, năm 20 tuổi ngài xin vào tập viện Dòng Tên (1927). Sau 18 năm, ngài làm Giám Đốc tập viện tại một tỉnh nhỏ gần thành phố Hirosina Nhật Bản. Quả bom nguyên tử ném xuống, ngài đã đưa tất cả mọi người bị nạn về tập viện, tập viện của ngài lúc đó đã trở thành một bệnh viện cấp cứu cho dân chúng. Cũng như Cha Petro Arrupê, các Thánh và những linh hồn thành tâm theo sát gương Chúa Kitô, các ngài đã ý thức sứ mạng cộng tác với Chúa trong Sứ Mạng Cứu Thế, nên các ngài quảng đại xả thân phục vụ các linh hồn, sẵn sàng liều cả mạng sống vì phần rỗi các linh hồn, xứng đáng với ơn Nhiệm Tích Thánh Tẩy các ngài đã lãnh nhận.
Ngày lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy phải là ngày trọng đại nhất trong cuộc đời. Ngày Chúa trào đổ muôn hồng ân xuống trong tâm hồn, ban sức mạnh thiêng liêng cho chúng ta để rao giảng Mầu Nhiệm Nước Trời, mang Ơn Cứu Độ đến cho các linh hồn. Ngày đó phải được mừng long trọng như một kỷ niệm đáng ghi nhớ muôn đời.
Đức Thánh Cha Piô XI đã nếm hưởng những giây phút hạnh phúc của ngày thụ phong Linh Mục, ngài cũng đã trải qua những giờ phút rực rỡ của ngày tấn phong Giám Mục, đã hưởng cảnh uy nghi của ngày đăng quang Giáo Hoàng; nhưng ngài vẫn quí trọng và mừng kỷ niệm ngày ngài lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy hơn hết. Ngày mồng 1.6.1930, dịp lễ giáp năm lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, ngài sung sướng nói với giới trẻ tại Rôma: "Ngày lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy là ngày cao quí nhất đời Cha; cũng thế, ngày chúng con lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy cũng phải là ngày cao quí nhất đời chúng con".
KẾT LUẬN
Hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta và cho mọi người được hiểu biết giá trị đích thực và cao quí của đặc ân Nhiệm Tích Thánh Tẩy chúng ta đã lãnh nhận; đồng thời, chúng ta cũng cầu xin cho chúng ta được ơn can đảm và quảng đại chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác, làm tông đồ rao giảng Chúa cho mọi người, chinh phục họ về cho Chúa bằng chính cuộc sống chứng nhân thánh thiện của chúng ta.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta sống ơn gọi làm con cái Chúa, để Chúa cũng được sung sướng phán với chúng ta: "Đây là các con Cha yêu dấu, các con hằng làm vui lòng Cha!".
Nhận biết mình là người can đảm dễ thương đối với Thiên Chúa. Nhờ nhận biết mình chúng ta mới biết sự cao trọng của Đấng tạo dựng nên ta, đồng thời chúng ta sẽ vun trồng cho thân phận yếu hèn của mình.
Quả thực sự hiện hữu của ta thật nhỏ bé. Trước khi chào đời, chẳng ai bận tâm tới tôi. Sau khi tôi trở về bụi đất, thế giới vẫn nguyên hình tốt đẹp. Các nhà khoa học phân tích thân thể con người trong phòng thí nghiệm đã cho kết quả rằng thân xác ta chỉ là một số hợp chất hữu cơ và vô cơ. Chất sắt trong tôi chỉ làm được ba chiếc đinh năm phân. Chất vôi đủ để quét một bức tường của căn phòng nhỏ. Chất Potasse làm được một cục xà bông. Chất lưu huỳnh làm được một hộp quẹt.
Còn linh hồn tôi khi mới được dựng nên đã phải chịu án phạt bởi tội nguyên tổ cùng chịu gánh nặng đam mê đầy phức tạp. Dù tôi có cố gắng tránh né nhiều cạm bẫy của sa tan nhưng tôi vẫn luôn vương vấn tội lỗi.
Câu chuyện về người nước Áo có một truyền thống lạ lùng khi an táng các vị Hoàng Đế và Hoàng Hậu thuộc hoàng tộc Anturs. Các vị Vua Chúa của hoàng tộc này được an táng trong nhà thờ hầm do các cha dòng Capucine coi sóc, tại thủ đô Vienne.
Năm 1916 khi Hoàng Đế Francois Joseph của nước Áo qua đời, sau lễ cầu hồn tại nhà thờ chánh tòa Thánh Stêphanô ở Vienne, linh cửu của ông được chở đến hầm mộ nhà thờ trên một chiếc xe tang do tám con ngựa đen tuyền kéo. Đến nơi cửa hầm mộ vẫn còn đóng kín. Người đánh xe ngựa bước xuống và gõ cửa. Từ bên trong có tiếng của một cha dòng hỏi vọng ra: "Ai đó?". Người đánh xe ngựa trả lời:
- Đại Hoàng Đế Francois Joseph đang chờ ở ngoài đây, xin mở cửa mau!
- Tôi không biết người đó là ai. Tiếng nói bên trong đáp lại.
Một lát, người đánh xe lại gõ cửa và tiếng nói quen thuộc ở bên trong lại vọng ra hỏi: "Ai đó?". Người đánh xe trả lời:
- Đại Hoàng Đế nước Áo, Quốc Vương tông truyền của nước Hungari đang chờ ở ngoài. Xin mở cửa mau!
- Tôi không biết ông ta là ai.
Lần thứ III cũng màn gõ cửa và cũng câu hỏi đấy: "Ai đó?". Nhưng lần này người đánh xe dịu giọng lại, đáp:
- Đó là một người tội lỗi, một người anh em chúng ta là Francois Joseph.
Bấy giờ cửa hầm mộ mới được mở ra và linh cửu của Hoàng Đế nước Áo mới được đưa vào bên trong để an nghỉ bên cạnh các tiên vương.
Nhờ nhận biết mình mà cửa hầm mộ được mở ra, đó là vế thứ hai của câu chuyện. Còn trong lịch sử loài người, nguyên tổ dường như đi vào vế thứ nhất của sự việc: Do lòng ham muốn trái lẽ ước ao trở thành thần thánh nên nghe theo ma quỉ để rồi khởi sự dẫn loài người xuống dốc, mất ơn nghĩa Chúa và kèm theo hình phạt.
Nhưng hôm nay sự đối lập thánh thiện của Chúa Giêsu với công việc yếu đuối của nguyên tổ là: Chúa Giêsu tuy dù cao trọng vô cùng nhưng đã trở nên thân phận loài người, đến xin Thánh Gioan làm phép rửa. Sự khiêm nhượng thẳm sâu đã làm cho Đức Chúa Cha vui sướng. Lúc Người vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời mở ra và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán:"Con là Con yêu dấu của Cha, ngày hôm nay Cha sinh thành ra Con".
Chúa Giêsu bắt đầu cuộc khởi nguyên mới, cao quí gấp bội so với cuộc khởi nguyên đầu tiên khi Thiên Chúa dựng lên trời đất muôn vật và loài người. Chúa tiếp tục sinh ra con người trong ơn nghĩa Chúa. Người tín hữu cũng được Chúa Thánh Thần xức dầu và biểu dương qua bí tích rửa tội và thêm sức để như Người chúng ta được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa.
Cũng với sự nhận biết mình chúng ta luôn được tái sinh cách đẹp đẽ trong bí tích hòa giải. Nhờ công nghiệp Chúa Kitô tử giá, Ngài sẽ xóa sạch mọi tội lỗi và nâng đỡ những ai biết thống hối ăn năn cậy trông vào lòng thương xót của Người.
Ước gì trong cả cuộc đời và đặc biệt trong mùa Giáng Sinh này, chúng ta luôn nhận biết mình và tẩy rửa linh hồn trong Đức Kitô để xứng đáng trở nên con cái đích thực của Mẹ Maria ở đời này cũng như đời sau.
Gioan Tẩy Giả đã gây được một phong trào sám hối trong xứ Pa-lét-tin. Đời sống nhiệm nhặt và lời giảng quyết liệt của ông có sức lôi cuốn người ta đến với sông Giođan để được ông làm phép rửa. Phép rửa của Gioan nhằm giúp con người bày tỏ lòng hoán cải, để chuẩn bị đón Đấng Mêsia sắp đến trong cơn thịnh nộ kinh khủng (x. Mt3,7-12).
Lạ thay trong số những người đến "xưng thú tội lỗi" (Mc 1,5) và chịu "phép rửa sám hối để được ơn tha tội" (Mc 1,4), lại có Đức Giêsu. Bấy giờ Ngài hơn ba mươi tuổi, vẫn sinh sống tại Nagiarét. Làm sao Đấng thánh thiện, Đấng quyền thế mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài, lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi, chờ đến phiên mình được chịu thanh tẩy? Đây là một câu hỏi không dễ trả lời, và làm cho nhiều người phải lúng túng. Chỉ có hai sách Tin Mừng kể lại việc Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu (Mc 1,9-11; Mt 3,13-17). Còn Tin Mừng Luca và Gioan thì tránh không nói đến. Làm sao Đấng vô tội lại trở thành môn đệ của Gioan Tẩy Giả để được ơn… tha thứ? Chính Tin Mừng Matthêu cũng cố gắng trả lời câu hỏi này: "Bây giờ cứ thế đã. Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính" (Mt 3,15), nghĩa là để làm trọn ý Thiên Chúa.
Như thế việc Đức Giêsu được Gioan ban phép rửa thật là một xì-căng-đan ngay trong Hội Thánh sơ khai. Đức Giêsu có tội không mà cần chịu phép rửa sám hối? Các môn đệ của Gioan về sau cũng dựa vào sự kiện này để khăng khăng cho rằng Thầy mình hơn hẳn Đức Giêsu.
Khi suy niệm về mầu nhiệm Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, các Giáo Phụ đã đưa ra một số lý do để soi sáng. Dù vô tội và cao trọng hơn Gioan, nhưng Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa trong nước vì:
- Ngài muốn kêu gọi những kẻ khác noi theo gương Ngài mà đến chịu phép rửa do Ngài thiết lập sau này.
- Ngài muốn làm một hành vi khiêm tốn cho ta noi theo.
- Ngài muốn công nhận giá trị phép rửa của Gioan.
- Ngài muốn lần đầu tiên ra mắt trước công chúng, để chuẩn bị cho họ nghe Ngài và theo Ngài.
- Ngài muốn thánh hoá dòng nước sông Giođan và mọi dòng nước khác, để nhờ sự hiện diện và tác động của Ngài mà mọi dòng nước có thể trở nên nguồn cứu độ.
Liên đới với tội nhân
Tin Mừng Mc 1,9-11 không chú trọng việc Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan, cũng không giải thích tại sao Ngài làm như vậy. Đức Giêsu đã bắt đầu cuộc đời công khai của mình một cách khiêm hạ lạ lùng. Ngài đã bỏ Nagiarét để đến Bêtania, bên kia sông Giođan, chỗ gần Biển Chết. Đấng mà Gioan nghĩ là một vị thẩm phán nghiêm khắc, Đấng ấy lại xếp hàng chung với những tội nhân chờ chịu thanh tẩy. Ai có thể nhận ra Ngài, vì Ngài quá đỗi bình thường? Đấng Cứu Độ lại cư xử như người đang cần được cứu độ.
Nhìn Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đứng với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là liên đới với người khác. Để liên đới với tội nhân, với dân tộc mình, với cả nhân loại đang cần ơn cứu độ, Con Thiên Chúa không ngại che khuất cái cao sang, siêu việt và cả sự thánh thiện ngàn trùng của mình nữa. Nhờ mang thái độ tự hạ, tự huỷ này, mà Đấng Thánh của Thiên Chúa có thể đứng chung với người tội lỗi, dìm mình xuống cùng một dòng nước như họ. Thiên Chúa chúng ta là một Thiên Chúa khiêm hạ, vì Ngài muốn đi xuống tận đáy vực thẳm nơi chúng ta đang sống, để nâng chúng ta lên. Chỉ tình yêu mới làm chúng ta hiểu được hành động của Ngài. Nhập thể chính là để liên đới với từng người chúng ta trong mọi cảnh ngộ của cuộc sống.
Liên đới bên dòng sông Giođan chỉ là khúc dạo đầu cho cả một cuộc đời liên đới của Đức Giêsu. Ngài bị mang tiếng là "tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Liên đới với những người sống ngoài lề xã hội và tôn giáo chính là để đưa họ trở về với thế giới của con người và thế giới của Thiên Chúa. "Tôi đến để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,13): Đó là hướng đi của đời Đức Giêsu. Tuy vô tội, nhưng vì mang tinh thần liên đới, Đức Giêsu cũng có thể cảm được thế nào là tâm tình ray rứt hay hối hận của một kẻ phạm tội. Thánh Phaolô đã viết một câu kinh khủng cho thấy Đức Giêsu đã thực sự đồng hoá với thân phận tội nhân đến mức nào: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta" (2C 5,21). Đức Giêsu đã chết như một người phạm trọng tội, bị đóng đinh giữa hai tử tội. Ngài đã đem đến niềm hy vọng cho người trộm lành: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Khi gắn bó với những người không còn được yêu mến và kính trọng, Đức Giêsu đã đem đến cho họ một thế giới nồng nàn tình yêu; trong thế giới này không có hàng rào ngăn cách người tội lỗi với người đạo đức, mà chỉ có những người tội lỗi được Thiên Chúa yêu thương và cứu độ.
Sự thánh thiện không đội trời chung với tội lỗi, nhưng sự thánh thiện đích thực lại cúi xuống trên tội nhân, và biến đổi họ. Chúng ta thường sợ mình bị vấy bẩn vì tiếp xúc với người tội lỗi. Thật ra chúng ta chỉ nên sợ là mình chưa thánh thiện thực sự. Ánh sáng chẳng sợ bóng tối làm mình tối. Nó len lách vào mọi ngõ tối của cuộc đời, và chính lúc người ta tưởng chiếc áo của nó bị vấy bẩn, thì nó lại xuất hiện với tất cả vẻ rực rỡ hơn xưa.
Trong gia đình, trường học, xí nghiệp, giáo xứ… chỗ nào cũng có những người bị xa lánh vì đã từng vấp váp trong đời. Tôi có dám đi chung với họ không, dù có tiếng xì xào của dư luận? Tôi có dám bênh vực một người cô thế không, dù rằng tôi có thể mất đi sự ủng hộ của nhiều người khác?
Đầy Thần Khí để được sai đi
Sau lúc Đức Giêsu tự hạ, dìm mình trong dòng nước, thì Ngài nhận được một thị kiến hết sức quan trọng. Thị kiến này được mô tả bằng lối nói của văn chương Khải huyền. Có ba yếu tố cần lưu ý: các tầng trời xé ra, Thần khí ngự xuống, và tiếng phán từ trời. Các tầng trời xé ra là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn tiếp xúc với con người và thông truyền cho con người một mạc khải. Như Edêkien khoảng 6 thế kỷ trước đây (Ed 1,1); Đức Giêsu cũng thấy trời mở ra và qua đó Thần Khí ngự xuống trên mình như chim bồ câu.
Đức Giêsu được đầy Thần Khí, đó là một cảm nghiệm khôn tả của Ngài. Thần Khí chính là sự hiện diện của Thiên Chúa xâm nhập vào người được tuyển chọn, ban cho người ấy dồi dào mọi ơn cần thiết để có thể vuông tròn một sứ mạng quan trọng đặc biệt. Vị ngôn sứ được nhắc đến trong I-sai-a (61,1-3) là người có Thần Khí của Đức Chúa. Chính Đức Giêsu đã áp dụng đoạn sách này cho mình trong khi giảng ở hội đường Nagiarét (Lc 4,18-19). Được ban Thần Khí nghĩa là được sai đi. Khi Đức Giêsu cảm nghiệm được Thần Khí nơi mình, thì Ngài biết đã đến lúc Ngài được sai đi để loan báo Tin Mừng và làm những dấu chỉ cứu độ.
Tiếng nói từ trời không phải là những lời nguyên văn của Thiên Chúa được ghi lại, nhưng nó phản ảnh niềm tin của Hội Thánh vào căn tính của Đức Giêsu. "Con là con yêu dấu của Cha." Trong thánh vịnh 2,7, vị vua Mêsia cũng được Đức Chúa gọi là con vào đúng ngày phong vương: "Con là con của Ta, hôm nay Ta đã sinh ra con." Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng được Cha long trọng tấn phong làm Mêsia, Đấng mà Cha yêu quý và tuyển chọn.
Khi đọc những yếu tố mô tả có tính khải huyền trên đây, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen như thể là bầu trời mở ra thật, hay Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống. Điều quan trọng là những ý nghĩa của mô tả đó. Sau khi chịu phép rửa bởi Gioan, Đức Giêsu xác tín đã đến lúc mình lên đường thi hành sứ vụ. Ngài đã nhận được sức mạnh từ Cha và được sai đi vào thế giới, kết thúc hơn ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét. Cả đời Đức Giêsu sau này vẫn hướng về một phép rửa khác, đó là cuộc khổ nạn Ngài phải chịu ở Giêrusalem: "Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất" (Lc 12,50). Từ phép rửa đến thập giá phát sinh ra nguồn sống cho mọi phép rửa của các Kitô hữu. Phép rửa nào cũng đòi dìm mình xuống, chết cho mình qua phục vụ.
Nhờ phép rửa, tôi được trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa và được tràn đầy Thánh Thần. Nhưng thực sự, việc dìm mình trong Ba Ngôi đã biến đổi tôi như thế nào? Đời sống của tôi có phải là một cuộc lên lại từ sông Giođan không? Ước gì tôi nhớ mãi mình đã được xức dầu, được mang nến sáng, được mặc áo trắng, được dìm mình trong nước để rồi được sai đi làm chứng cho mọi người.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Để sống liên đới với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị kỳ thị, theo ý bạn, có phải trả giá không? Có khi nào bạn sống liên đới với một người bạn đang cô đơn tron cảnh khó khăn không?
2. Vì được rửa tội từ nhỏ, nên chúng ta ít thấy sự biến đổi lớn lao do bí tích này mang lại. Bạn có quen ai thực sự đổi đời sau khi được rửa tội không?
Theo cách trình bày của Thánh Matthêu, việc Chúa Giêsu chịu phép rửa là dịp Thiên Chúa giới thiệu cho người ta biết Ngài chính là Đấng Messia, tuy nhiên không phải là một Đấng Messia như người ta tưởng, mà là Đấng Messia Tôi Tớ:
- Đối với Gioan tẩy giả, ông vẫn tưởng Đấng Messia phải là một quan tòa. Ngài đến để trừng phạt kẻ ác và thưởng kẻ lành (x. đoạn Tin Mừng liền phía trước: Mt 3,12). Vì thế khi Chúa Giêsu khiêm tốn xin ông làm phép rửa cho mình như cho những tội nhân khác thì ban đầu ông từ chối. Sau đó Chúa Giêsu cho ông biết là ông và Ngài cần phải làm theo ý Thiên Chúa (“Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”) thì ông mới làm.
- Đối với dân chúng có mặt hôm ấy, họ đã nghe tiếng Thiên Chúa từ trời giới thiệu Chúa Giêsu bằng những lời mà Cựu Ước đã dùng khi nói về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”
B.... nẩy mầm.
1. Cả Gioan tẩy giả và dân chúng do thái đều không hiểu nổi Đấng Messia lại là một Người Tôi tớ khiêm tốn hiến thân phục vụ nhân loại cho đến chết. Hai ngàn năm đã trôi qua, vậy mà ngày nay chúng ta cũng vẫn thế. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho người ta như một Đấng quyền phép hay một quan tòa xét xử. Chúng ta bỏ sót một phương diện rất quan trọng của Ngài: Ngài trước hết là một Người Tôi Tớ hiến thân phục vụ. Đạo của Chúa Giêsu là một đạo hiến thân phục vụ, người môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải là người hiến thân phục vụ.
2. Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn: Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Chúa Giêsu; Chúa Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người khiêm tốn là người chỉ nghĩ đến việc chu toàn nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
3. Một chiếc xe tải không thể qua cầu được vì nóc xe cao quá nên chạm vào mái che của chiếc cầu. Chẳng ai nghĩ ra được cách nào cả. Khi đó một cậu bé đưa ý kiến: hãy xì bớt hơi các bánh xe của nó. Người ta đã làm theo, và xe đã qua được cầu. (Quote).
4. Truyện thần thoại hy lạp có kể về hai cha con Idam, Ika và những cánh tay của họ. Idam là một kiến trúc sư kiêm điêu khắc. Ông đã xây (bát quái trận đồ để nhốt con quái vật đầu người mình thú. Về sau, chính vua Minos đã bắt giam hai cha con Idam và Ika vào đó. Nhưng họ đã chế được những chiếc cánh làm bằng lông và sáp giúp họ bay ra khỏi bát quái trận đồ. Thích thú với cuộc du hành vũ trụ bất ngờ, Ika cứ muốn bay mãi lên cao, mặc cho người cha ngăn cản. Ika càng lúc càng bay đến mặt trời cho nến sáp bắt đầu chảy. Cuối cùng, khi sáp không còn nữa, đôi cánh mềm lại, những chiếc lông rời ra, Ika rớt xuống biển sâu và thiệt mạng.
Huyền thoại trên đây thường được xử dụng để nói đến sự kiêu hãnh dẫn đến thảm trạng cho con người (Chờ đợi Chúa).
Cách đây đã khá lâu, xuất hiện ở Pháp một cuốn sách: «Các thánh đi xuống hỏa ngục». Cuốn sách diễn tả các hoạt động của những Linh Mục thợ thuyền đã rời bỏ Giáo Hội để sống liên đới hoàn toàn với giới thợ thuyền, nghĩa là họ đã đi con đường mà Giáo Hội công khai phê bình và phủ nhận.
Con đường của những vị Linh Mục thợ thuyền này đi sâu vào tất cả các lãnh vực của cuộc sống con người, những kẻ được ghi dấu bởi sự đói nghèo, bởi sự khốn cùng và cả những đen tối khác.
Kinh nghiệm sống của những Linh Mục thợ thuyền cuối cùng đã bị Giáo quyền Pháp phủ nhận. Chắc chắn là đã có nhiều vị trong số các Linh Mục thợ thuyền đó đã lệch lạc trên con đường đi tới với người nghèo, nhưng đàng khác, người ta cũng phải công nhận là cộng đồng thợ thuyền người Pháp luôn biết ơn ghi nhớ con đường dẫn vào «hỏa ngục» của đời họ mà các Linh Mục thợ thuyền đã đi. Chính tôi đã hơn một lần nghe người ta phàn nàn: «Trước kia Giáo Hội đã đến với chúng tôi. Ngày nay chúng tôi đã bị xa tránh!»
Và trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta đã nghe Ðức Giêsu đã đi trên con đường nào! Người đã không hề xa tránh những người nghèo khổ và những người tội lỗi.
Phép Rửa của Ðức Giêsu ở sông Gio-đan đã cho chúng ta thấy rằng Con Thiên Chúa cao cả đã hoàn toàn dấn thân sống hòa mình và chìm đắm mình vào kiếp sống gian khổ hèn yếu của phàm nhân. Vâng, qua cuộc sống cụ thể của Người với từng lớp người thấp kém và hèn hạ nhất trong xã hội, Ðức Giêsu đã hiện thực đúng nghĩa của chữ «chìm đắm.» Nhưng khi chúng ta nghe nói đến chữ «chìm đắm», tự nhiên chúng ta sẽ có ngay một cảm giác tiêu cực nào đó. Vì ai để mình «chìm đắm», thì phải hiểu là người đó đã nhập bọn với những người chẳng những là thiếu đứng đắn, mà nhiều khi còn là những kẻ tội phạm, những kẻ tội lỗi và rồi cùng họ làm những điều phạm pháp.
Phúc Âm đã tường thuật là Ðức Giêsu đã vào nhà của những kẻ tội lỗi và cùng đồng bàn với họ (x. Lc 19,7). Thực vậy, Ðức Giêsu đã không ngại ngùng đi vào tận đáy tất cả những chiều sâu của cuộc sống con người. Người đã đi xa đến nỗi Người đã không còn phân biệt mình với những kẻ tội lỗi nữa. Quả thực Ðức Giêsu đã nhập bọn với những kẻ tội lỗi, với những tội phạm và với những kẻ bị khinh bỉ, nhưng không phải để cùng họ làm điều xằng bậy phạm pháp, nhưng để yêu thương, che chở và cứu vớt họ Và cái chết của Người trên thập giá như một tên tội phạm là điểm chấm tận của con đường Người đã đi đó!
Tuy nhiên, trên con đường của Người trong một thế giới vô đạo và bất luân, Ðức Giêsu đã không hề lẻ loi một mình. Từ khởi đầu, Ðức Chúa Cha luôn ở bên Người và đã cho Người hay là Người đang bước đi trên chính lộ, trên con đường tương ứng với thánh ý Thiên Chúa, mặc dù nhiều người khác lại phê bình, chỉ trích và kết án. «Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con». Nói cách khác: Cha rất hài lòng, là Con đã chọn đi con đường hoàn toàn liên đới với những kẻ đã hư mất, với những người đau khổ và bị coi khinh. Con hãy cứ tiếp tục bước đi trên con đường đó, cả khi nó sẽ bị chấm tận trong một thảm họa chóng qua. Con đừng sợ: Cha luôn ở bên Con với tất cả tình yêu thương của Cha!
Cả những lời Ðức Giêsu thốt lên trong khi hấp hối trên thánh giá: «Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?», cũng không thể làm cho chúng ta hiểu sai về Cha trên Trời. Những lời đó là câu mở đầu của Thánh Vịnh Ai Ca (Tv 22), mà một trong những câu cuối Thánh Vịnh đã ca ngợi lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với những người công chính biết kính sợ Người: «Bởi vì Thiên Chúa chẳng coi thường, chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ, cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng đã thương nghe lời cầu cứu» (Tv 22,25). Người ta có thể quả quyết được rằng Ðức Giêsu cũng đã nói lên cho mình những lời đó khi người còn thoi thóp trên Thánh giá.
Hình ảnh con chim câu đậu xuống trên Người sau khi chịu phép rửa cũng đã chứng minh rằng con đường Ðức Giêsu chọn đi về phía những người tội lỗi đã không hề bị Thần Khí bỏ rơi. Trái lại, Chúa Thánh Thần đã cho Người sức mạnh để có thể chữa lành tất cả những kẻ đang «bị giam cầm trong quyền lực của ma quỉ» (Cv 10,38).
Nếu Phép Rửa của Chúa là tượng trưng cho sự dấn thân của Người vào cuộc sống nhân loại chúng ta và ám chỉ đến cái chết và sự sống lại của Người, thì chúng ta cần phải xét lại con đường sống của chúng ta: Chúng ta đang đi trên con đường nào? Chúng ta có can đảm đi tới những người sống ngoài lề xã hội? Chúng ta cư xử thế nào với những người đã không thành công trong cuộc sống, với những kẻ phạm pháp tù đày, với những người nghiện ngập tứ độ tường, với những người lang thang đầu đường xó chợ? Chúng ta đối xử thế nào với những người ngã sa và sống trong vòng tội lỗi?
Vâng, chúng ta là những người đã được rửa tội nhân danh Thiên Chúa. Liệu chúng ta có thể sống hòa mình, sống chìm đắm theo kiểu cách của Ðức Giêsu không? Liệu chúng ta có can đảm tiếp cận với xã hội xấu để có thể mang lại cho nó một bộ mặt mới mẻ không? «Các thánh đi xuống hỏa ngục» muốn ám chỉ các Linh Mục thợ thuyền ở Pháp, những người muốn bắt chước Ðức Giêsu dấn thân sống cho những kẻ bị thua thiệt mất mát trong cuộc sống. Có phải chúng ta muốn có được Thiên đàng trên trái đất, còn thế gian chúng ta lại giao mặc cho ma quỉ?
Ước gì Thánh Lễ hôm nay có thể dẫn đưa chúng ta vào con đường của Ðức Giêsu, tức con đường dẫn tới mọi anh em đồng loại của chúng ta, cách riêng những người nghèo đói, những người đau khổ và những người bị khinh khi miệt thị.
Ðức Giêsu, Người Anh Cả của chúng ta, đã dấn thân trọn vẹn cho loài người tội lỗi đến nỗi phải hy sinh mạng sống mình. Tình yêu của Người thật quá bao la! Nhưng Người đã phục sinh để sống trong một cuộc sống đầy sung mãn.
Con đường Ðức Giêsu đi thật khó khăn, nhưng cuối đường là sự sống thật, là hạnh phúc viên mãn! Chúng ta cũng sẽ đi theo con đường đó?
1. Câu nói của Gio-an Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút ra bài học gì cho những người loan báo hay rao giảng Đức Giêsu? Nếu không sống tinh thần tự hủy, thì việc loan báo hay rao giảng cuối cùng nhằm ích lợi cho ai?
2. Muốn con người thánh ở trong ta lớn lên và làm chủ, thì con người phàm phải làm gì? Hai con người ấy có thể cùng lớn lên không?
Suy tư gợi ý:
1. Tinh thần tự hủy của người rao giảng Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có hai nhân vật chính: Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu. Trong hai người, Gio-an Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta thấy: người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để chu toàn nhiệm vụ loan báo, Gio-an Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn toàn, nghĩa là hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai trò của người mình loan báo mới được nổi bật lên: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”; “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Người loan báo hay rao giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì Đấng mà mình loan báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật sự đúng nghĩa, chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực hiện công việc này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc loan báo hay rao giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật lên, được mọi người ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào đó, chúng ta bắt đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một cách nào đó, ta biến Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có thể ban đầu ta hoàn toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi người ca tụng ta là người đạo đức, là “có lửa”. Từ khi có danh thơm tiếng tốt ấy, ta bắt đầu bị cám dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày càng mạnh lên. Danh tiếng ấy có thể giúp ta dễ “thăng quan tiến chức” trong Giáo Hội hay ngoài xã hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên “vì mình” hơn và bớt “vì Chúa” đi. Dần dần ta trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến ham quyền, từ ham quyền đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham quyền cố vị rồi, ta dễ dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì quyền bính là một con dao hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng lại có khả năng tha hóa rất mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng Tin Mừng - nhất là những người đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm những địa vị quan trọng trong Giáo Hội hay xã hội - rất cần tinh thần phản tỉnh để luôn luôn tỉnh táo đối với chính mình: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41; Mc 14,38). Thực tế cho thấy nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần phục vụ rất cao, nhưng khi đã nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều anh hùng dân tộc, nhiều chức sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2. Phàm nhân và thánh nhân trong mỗi người
Bài Tin Mừng hôm nay còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều kích tâm linh. Trong đó, Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu tượng trưng cho hai khía cạnh trong cùng một con người: Gio-an Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của ta, và Đức Giêsu tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu phàm ở trong ta. Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt yếu khiến con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6), “giống như Thiên Chúa” (St 1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban cho chúng ta: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Chính nhờ có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức Giêsu mới có thể mời gọi ta nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Giữa con người với con chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật, nhưng con chó không bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng luyện tập đến đâu, vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con người với Thiên Chúa tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên hoàn thiện, nên thánh như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính Thiên Chúa mà Ngài thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính Thiên Chúa thì lời Đức Giêsu mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là tuyệt đối bất khả thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, sống hoàn thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người thánh ấy luôn luôn có một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: “Trong lòng mỗi người, vừa có một vị thánh vừa có một con thú”. Thật vậy, có những lúc ta suy nghĩ và hành động như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành động như một con thú. Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải luôn luôn tranh đấu với nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có người thì vị thánh thường thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường khống chế toàn bộ con người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa hai con người này: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5,17); “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí” (Rm 8,5). Kết quả của hai cách sống đối nghịch ấy là: “Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì sống theo xác thịt:
Bản chất của con người phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng “phình to bản ngã”. Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ của mình, tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình, luôn luôn coi ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý riêng của mình… Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: “Những kẻ sống theo xác phàm thì hay mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi” (Rm 8,5); “Họ khoe mình khôn sáng nhưng đã nên điên dại” (Rm 1,22); “Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa sự sống Chúa Trời” (Ep 4,18); “Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu muội đắm chìm trong bóng tối tăm” (Rm 1,21).
b) Con người thánh sống theo Thần Khí:
Con người thánh là con người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của lẽ phải, của chân lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi những động lực vị kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở nên có nhiều sức mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn luôn bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng không ai lấy mất được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3. Phàm nhân có nhỏ lại thì thần nhân mới lớn lên được
Nơi mỗi con người, phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người khám phá ra một tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín - nhiều khi rất mạnh mẽ - lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là thần ngã hay con người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài Tin Mừng cho ta một bí quyết: Gio-an Tẩy giả - tượng trưng cho phàm ngã - để tự hạ, tự hủy để làm cho Đức Giêsu - tượng trưng cho thần ngã - nổi bật lên. Chỗ khác Gio-an nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Phàm nhân lúc nào cũng muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo phàm ngã, thì phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu ớt. Nhưng nếu ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần ngã sẽ lớn và mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực này lớn thì lực kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn thần ngã lớn lên, thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ đi bằng sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một người nhỏ bé không có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý của người khác. Nhất là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực hiện, mà trái lại sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến cải con thành một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo những đòi hỏi của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào trong bản thân con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể nói với con như xưa Cha đã nói với Đức Giêsu: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Xin giúp con đạt được điều ấy.
Có thể theo giáo sư G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng khung với từ “Tin Mừng “ ở đầu và cuối đoạn). Bản văn 1,7-11 chúng ta đọc hôm nay liên kết lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa với việc Đức Giêsu chịu phép rửa, khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thật ra hai phần này biệt lập với nhau; chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan. Tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời loan báo của Gioan (1,7-8); 2) Phép rửa của Đức Giêsu (1,9-11):
a) Biến cố lịch sử: Đức Giêsu chịu phép rửa (9-10), b) Thị kiến khải huyền: Cuộc thần hiển (10-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy-lạp kêryssein, “công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn (imperfect), để diễn tả đây là một hoạt động thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi (7): Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10 (“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do-thái cũng không buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16; Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- phép rửa (8): Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm: không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11; Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc tái sinh bên trong.
- Hồi ấy (9): dịch sát là “trong những ngày ấy”.
- tựa chim bồ câu (10): Cả ba TMNL đều nói đến điểm này, với hôs (“giống như”) để so sánh (riêng Mt dùng hôsei để nhấn mạnh). Lc còn xác định rằng Thần Khí đã ngự xuống “dưới một hình dáng” (sômatikê eidei, “in bodily form”; x. Lc 3,22).
Tại sao con bồ câu lại trở thành biểu tượng của Thần Khí? Chúng ta không có câu trả lời rõ ràng. Rất có thể hành động bay lượn của Thần Khí trên mặt nước nguyên thủy trong St 1,2 đã gợi ra hình ảnh một cánh chim bay lượn (tương tự trong Đnl 32,11), nhưng bản văn ấy không nói là một con bồ câu (trừ một bản văn thuộc truyền thống kinh sư). St 8,8 thì nói rằng Nôê đã thả một con bồ câu, nhưng lại không hề khẳng định rằng con bồ câu này là hình ảnh của Thần Khí. Cha X. Léon-Dufour cho rằng con bồ câu có thể gợi ra tình yêu của Thiên Chúa (x. Dc 2,14; 5,2) hoặc cuộc tạo dựng mnới (x. St 1,2).
Trong truyền thống Do-thái, con bồ câu có một ý nghĩa biểu tượng, liên hệ đến Israel, đặc biệt với Israel đang lưu đày (Hs 7,11; 11,11; Is 60,8; Tv 55,7-8; 68,13; 74,19; Dc 1,15; 2,14; 5,2; 6,8) và cũng được nền văn chương Ngụy thư hoặc kinh sư sử dụng. Từ đó cha A. Feuillet cho rằng con bồ câu đi xuống và ngự trên Đức Giêsu tượng trưng và tiên báo điều sẽ là hoa trái chính yếu của cuộc đổ tràn Thần Khí: đó là việc thành lập Israel mới, cộng đoàn hoàn hảo của thời đại ân phúc. Vậy, điều được diễn tả không phảu trự tiếp là Thần Khí, mà là hậu quả đối với Dân Thiên Chúa, khi Thần Khí hiện diện nơi Đức Giêsu. Cũng như vào ngày lễ Ngũ Tuần, các lưỡi lửa không trực tiếp tượng trưng Thần Khí, mà là các ngôn ngữ mà các tông đồ dưới ơn Thần Khí soi sáng, sẽ nói ra, và sâu xa hơn, tượng trưng công việc phúc âm hóa thế giới, thì cũng vậy, con bồ câu trong Phép Rửa diễn tả ý tưởng này là Dân thiên sai phải chọn điểm khởi hành nơi bản thần Đức Giêsu-Mêsia, là Vua và Tôi tớ của YHWH.
Giả thuyết này cũng hấp dẫn, nhưng thật khó áp dụng vào bản văn Mc. Hẳn là bản văn St 8,8 vẫn có thể giúp ích: con bồ câu được thả ra mà không có chỗ đậu, phải trở lại tàu Nôê, phải chăng muốn nói rằng trong một thời gian dài, Thần Khí không có chỗ đậu là một người nào, cho đến khi Đức Giêsu xuất hiện? Dù sao, ít ra chúng ta có thể nói rằng Thần Khí rất gần gũi với Đức Giêsu, trong tư cách là Đấng Mêsia đi rao giảng Nước Thiên Chúa, và điều này lại khiến chúng ta nhớ tới Is 42,1.
- ngự xuống trên Người (10): Mt, Lc va Ga đều nói rằng Thần Khí ngự xuống “trên” (epi; Mc: eis) Đức Giêsu. Các nhà chú giải thường nghĩ đến Is 11,1-2a: “Từ gốc tổ Giesê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ biến” (kêryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20; 7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia, ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến. Phép rửa của ông không phải là một nghi thức có sức tha tội (Bí tích Rửa tội), nhưng là phương thế giúp người ta bày tỏ lòng thống hối và quyết tâm thay đổi đời sống.
* Phép rửa của Đức Giêsu (9-11)
Phần này với phần trên biệt lập với nhau. Chúng ta thấy được điều này qua chi tiết dẫn nhập “hồi ấy” và qua sự kiện tác giả mô tả thêm một lần nữa việc Gioan làm phép rửa trong sông Giođan: tuy kể lại phép rửa Gioan, bản văn lại không tương ứng hoàn toàn với các từ ngữ và cách kết cấu của c. 5. Dường như tác giả Mc quan tâm đặc biệt đến miền Galilê; do đó, ngài đã nêu bật rằng Đức Giêsu đến từ một miền khác với miền xuất phát của các đám đông đến với vị Tẩy Giả.
Bản văn này liên kết một biến cố lịch sử với một thị kiến khải huyền. Biến cố lịch sử là phép rửa Đức Giêsu nhận bởi tay Gioan. Thị kiến khải huyền cho biết Đức Giêsu là ai. Người đến từ làng Nadarét. Đối với Mc, điều quan trọng là làng ấy thuộc về miền Galilê. Nhưng Nadarét lại được coi như địa điểm từ đó Đức Giêsu đến “trong những ngày ấy” (= “hồi ấy”, PVCGK). Chi tiết mông lung về thời gian này, tuy quy về quá khứ, lại đưa lại cho việc Đức Giêsu xuất hiện một đặc tính long trọng.
Tại sao Đức Giêsu lại đến chịu phép rửa bởi tay Gioan, khi mà Người không có tội lỗi gì? Chính sứ mạng của Người đưa Người đến chỗ sẵn sàng liên đới với các tội nhân, tự đồng hóa với họ. Tác giả Mc, cũng như hai tác giả Lc và Mt, không muốn tường thuật cho chúng ta chuỗi các biến cố đã xảy ra hôm ấy. Tác giả chỉ muốn dạy chúng ta biết Đức Giêsu là ai bằng cách vận dụng ba hình ảnh mà các độc giả thời ngài hiểu rất rõ:
1) Hình ảnh “trời xé ra”. Hình ảnh này nhắc đến Is 63,15-19: trong đoạn văn này, vị ngôn sứ xin Thiên Chúa “xé trời mà ngự xuống”, nghĩa là chấm dứt tình trạng thinh lặng của Ngài và đừng ở xa cách Dân Ngài nữa. Ông xin Thiên Chúa lại mở lòng ra và lại tỏ ra là bạn hữu của nhân loại. Khi dùng hình ảnh này, Mc muốn nói với chúng ta rằng cuộc sống công khai của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc hòa giải giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và chúng ta.
2) Hình ảnh “con bồ câu” đưa chúng ta trở lại với những gì đã xảy ra vào thời gian Lụt hồng thủy (St 8). Vào lúc đó, trời bị đóng lại và có sự thù nghịch giữa Thiên Chúa và loài người. Con bồ câu với cành ô-liu cho biết là sự sống đã tái sinh trên mặt đất, nghĩa là Thiên Chúa đang thôi giận loài người, hòa bình đã được phục hồi.
3) Tại sao Thần Khí lại được so sánh với một con bồ câu? Trong thời Cựu Ước, YHWH ban quyền lực của Ngài cho các ngôn sứ, làm cho các ngài nên can đảm và có khả năng hoàn tất các nhiệm vụ Ngài ký thác (x. Is ch. 6; Gr 1,6-10). Vào ngày nhận phép rửa, Đức Giêsu cũng đã được tấn phong và nhận quyền lực đó để chu toàn sứ mạng. Tại Israel, từ lâu rồi, đã vắng bóng những con người của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng đã qua đời cách đây 300 năm. Trời đã đóng lại, y như thể Thiên Chúa không còn muốn nói với Dân Ngài nữa. Thần Khí Đức Chúa giống như một con bồ câu bay cùng khắp mà không tìm ra được một ai để có thể đậu lên. Khi cho Thần Khí của Ngài xuống trên Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy rằng Ngài đã tìm ra con người theo ý Ngài, và nay một lần nữa, Ngài lại ngỏ lời với một con người.
Ngoài ra, có hai chi tiết cần để ý vì có ý nghĩa thần học sâu sắc:
- Nơi Đức Giêsu chịu phép rửa là bờ sông Giođan. Chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước rằng Dân Israel được Giôsuê hướng dẫn, đã đi qua sông Giođan trước khi bước vào Đất Hứa. Ở đây Mc giới thiệu Đức Giêsu như Giôsuê mới dẫn dắt Dân mới của Thiên Chúa (trong tiếng Híp-ri, tên “Giêsu” cũng là tên “Giôsuê”).
- Thời điểm Đức Giêsu nhận Thần Khí (“khi Người vừa ra khỏi nước”, chứ không phải lúc Người còn đứng trong dòng sông, như nhiều bức họa diễn tả). Sau khi qua sông Giođan, Giôsuê được đầy thần khí của Thiên Chúa để ông có thể dẫn đưa Dân vào Đất Hứa. Với Đức Giêsu cũng thế: khi vừa ra khỏi nước, Người nhận Thần Khí cùng với quyền lực của Thiên Chúa để có thể hướng dẫn dân Thiên Chúa đi đến tự do. Con đường đó thế nào, tác giả Mc sẽ dần dần viết ra.
+ Kết luận
Rất có thể giai thoại này là một kỷ niệm về tình trạng căng thẳng giữa các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và môn đệ của Đức Giêsu: họ tranh cãi để xem vị Thầy nào cao trọng hơn. Các môn đệ Gioan cho rằng vị Tẩy Giả cao trọng hơn vì đã ban phép rửa cho Đức Giêsu; còn các môn đệ của Đức Giêsu thì khẳng định rằng chính Đức Giêsu mới là Con Thiên Chúa và có Thần Khí chan hòa. Dù sao, ở đây còn có một bài học khác nữa. Các Kitô hữu tiên khởi khó mà chấp nhận được rằng Đức Giêsu lại chịu phép rửa. Phép rửa của Gioan là đễ diễn tả quyết tâm thống hối, và do đó người Pharisêu, vì nghĩ rằng họ công chính, chẳng bao giờ nghĩ rằng họ cần phải nhận phép rửa. Thế mà Đức Giêsu lại nhận phép rửa, khi mà Người là Con Thiên Chúa, Người hoàn toàn trong sạch! Đức Giêsu đã chịu phép rửa ngay lúc bắt đầu cuộc sống công khai, thật ra là để đứng vào hàng ngũ những kẻ tội lỗi, đồng hóa với họ. Đấy là một chọn lựa của Người, của chính Thiên Chúa.
Sau lễ Giáng Sinh, phụng vụ nói đến khởi đầu cuộc sống công khai của Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là Người Tôi Trung cùa Chúa Cha; Người sẽ đưa lại một quan hệ được đổi mới giữa chúng ta với Thiên Chúa
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
2. Đức Giêsu đã sẵn sàng đứng vào hàng các tội nhân, tự đồng hóa với họ, trở nên một người như họ, trong khi Người hoàn toàn trong sạch. Chúng ta, là những người có tội, phải chăng chúng ta lại xa cách anh em y như thể sợ rằng không ai biết cho sự lành thánh của chúng ta! Chúng ta có biết đồng cảm với những người có cuộc sống không thành công chăng? Một Kitô hữu có được phép lên án người khác chăng? Thầy chí thánh chúng ta đi theo không bao giờ trách mắng những kẻ tội lỗi, Người đồng cảm với họ, Người bảo vệ họ và ngay từ đầu, Người đứng vào hàng ngũ của họ. Đấy là những điểm khiến các môn đệ Đức Giêsu phải suy nghĩ.
3. Chúng ta thuộc về đoàn dân mới của Thiên Chúa, đoàn dân đang tiến bước, có Đức Giêsu là Vị thủ lãnh đầy Thần Khí. Thầy chí thánh đang dẫn chúng ta đi về đâu? Chúng ta phải bước theo Người với cung cách nào? Tác giả Mc sẽ trả lời các câu hỏi này cho chúng ta dọc theo năm phụng vụ với Tin Mừng của ngài, và mời gọi chúng ta can đảm bước theo Đức Giêsu, là “con đường” đưa chúng ta về với Thiên Chúa.
4. Chúng ta cũng đã nhận phép rửa tội, chúng ta cũng có Thánh Thần, chúng ta cũng có chức năng vương đế. Chính vì thế, chúng ta phải biết cộng tác với Đức Giêsu, Đấng hướng dẫn chúng ta, bằng cách chế ngự tính mê tật xấu của riêng mình, đồng thời giúp anh chị em chúng ta thắng vượt các trở ngại khiến họ không thong dong bước theo Đức Giêsu được.
5. Thánh giám mục Maximô thành Turinô (?-khoảng 420) đã giảng trong Lễ Hiển Linh như sau: “Hôm nay, Chúa Giêsu đã đến nhận phép rửa. Người đã muốn rửa mình trong dòng nước Giođan. Có lẽ có người sẽ nói: ‘Người là Đấng Thánh, tại sao Người lại muốn được ban phép rửa?’ Vậy xin nghe đây. Đức Kitô được ban phép rửa không phải để được nước thánh hóa, nhưng để chính Người thánh hóa nước và thanh tẩy bằng hành động cá nhân các dòng nứơc Người chạm tới. Vậy ở đây là việc thánh hiến nước hơn là thánh hiến Đức Kitô. Bởi vì, kể từ khi Đấng Cứu Thế được rửa, tất cả các dòng nước trở thành trong sạch nhằm phép rửa của chúng ta; nguồn được thanh tẩy là để cho ân sủng được ban cho các dân tộc sẽ đến sau đó. Vậy Đức Kitô là người đầu tiên bước đến phép rửa để cho các dân Kitô hữu không ngần ngại bước đi theo Người.
Và ở đây tôi hé thấy một mầu nhiệm. Cột lửa lại đã không đi trước qua Biển Đỏ để khuyến khích con cái Israel bước theo sau đó sao? Cột lửa ấy đã đi qua nước trước tiên để vạch ra con đường cho những người theo sau. Theo chứng từ của thánh tông đồ Phaolô, biến cố này đã là một biểu tượng của phép rửa tội (1 Cr 10,1t). Hầu chắc đây là một thứ phép rửa trong đó người ta được bao phủ bởi các đám mây và được nâng đỡ bởi các làn nước. Và tất cả những điều đó đã được hoàn tất bởi cũng một Đức Kitô, Chúa chúng ta, Đấng bây giờ đi trước các dân tộc Kitô hữu trong cái cột là thân thể Người, như Người đã đi trước con cái Isreal qua biển trong cột lửa. Cũng cái cột ấy, xưa kia đã ban ánh áng cho mắt những người bước đi, nay ban ánh sáng cho con tim các tín hữu. Khi xưa, cột ấy đã vạch ra trong các sóng nước một con đường vững chắc, bây giờ cột ấy đang củng cố các bước chân đức tin trong cuộc thanh tẩy này”.
Maccô đã nói tới Chúa Giêsu. Nhưng ở đây ông cho Ngài nhập cuộc: “Cũng trong ngày ấy, Chúa Giêsu từ thành Nadaret miến Galilê đến” (c.9). Maccô không hề nói gì thêm nữa về nơi chốn Chúa Giêsu đã sinh trưởng (Lc 4,16). Nhưng như thế là để nói ngay tới một biến cố lớn (c. 9b). Maccô không nêu rõ lý do khiến Chúa Giêsu nhận phép rửa của Gioan. Điều đó giả thiết rằng, ít ra trong một thời gian, Chúa Giêsu đã là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Ga 3,26). Các Kitô hữu ban đầu biết rất rõ về phép rửa của Gioan. Họ tự hỏi: Phép rửa mà Chúa Giêsu nhận có gì đặc biệt?
Maccô trở lại rất chính xác vấn nạn này. Ông không nói tới việc Chúa Giêsu được dìm xuống nước sông Giođan. Nhưng lưu ý độc giả về điều đã xảy ra ngay sau đó (c.10). Dầu cho có vẻ như thế nhưng cảnh tượng này không phải là một thiên phóng sự giàu hình ảnh. Đây là một cảnh mang màu sắc trí thức, với những hình ảnh Thánh Kinh để minh họa điều mà các tín hữu tiên khởi đã khám phá ra được là độc đáo trong phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận.
Trong sách Isaia ta thấy có lời khẩn khoản nài xin Thiên Chúa lại đến giải thoát dân Ngài như được kể trong sách Xuất hành. Maccô đã cảm hứng theo đoạn văn sau đây: “Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) làm cho mục tử (=Môsê) của đoàn chiên Ngài lên từ biển cả? Đâu rồi Đấng đặt nơi người mục tử ấy Thần Khí của Ngài?” (Is 63,11). Như vậy không phải vô tình mà Maccô nói khi từ nước đi lên Chúa Giêsu đã lãnh nhận Thánh Thần. Đối với Maccô, Chúa Giêsu là Môsê mới. Phép rửa Ngài chịu, một lần nữa là cuộc giải thoát khỏi Hồng Hải. Vị Mục Tử của một dân mới của Thiên Chúa giờ đây được Chúa trao đổ Thánh Thần cho, Đấng sẽ khiến Ngài dẫn đưa đoàn chiên của mình vào Đất Hứa. Trong mạch văn này, câu “Chúa Giêsu thấy các tầng trời mở tung ra” đặc biệt có ý nghĩa. Theo truyền thống Do Thái, các tầng trời đã đóng lại khi các ngôn sứ sau cùng (Agai, Dacaria, Malaki: thế kỷ VI và V trước Chúa Kitô) không còn nữa. Sự giao tiếp giữa Thiên Chúa và con người bị coi như chấm dứt. Trước khi Chúa Giêsu đến thì “Thần Khí đã tắt rồi”, Ngài không xuống để linh hứng những lời tiên tri mới nữa. Trong bầu khí “thiếu vắng” này, một lời cầu xin tha thiết được dâng lên Thiên Chúa: “A! Xin Ngài mở toang các tầng trời mà ngự xuống…” (Is 63,19b). Như vậy là với Chúa Giêsu mọi sự đều thay đổi. Mở toang các tầng trời có nghĩa là mở lại cuộc tương giao giữa Thiên Chúa và con người, chính Đấng Mêsia là người đón nhận biến cố này. Khi ấy Maccô có thể diễn tả “Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như một chim bồ câu”. Việc Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu khai mào kỷ nguyên mới của ơn Cứu độ. Với việc ban Thánh Thần, đấng “Mêsia” mang đến cho con người ơn tha thứ tội lỗi (Cv 2,37-38). Người ta đã từng hiểu ý nghĩa của hình ảnh chim bồ câu. Một số người thấy ở đó ám chỉ trực tiếp về con chim hòa bình mà Noê thả ra trên nước đại hồng thủy (St 8,8-11). Có những người khác nghĩ rằng điều đó nhắc nhớ đến cuộc Sáng tạo khi Thần Khí Thiên Chúa bay là trên vực thẳm (St 1,2). Trong thế giới Do Thái thời Chúa Giêsu người ta so sánh các ngôn sứ với những con chim gáy. Như vậy là ở đây, Chúa Giêsu được giới thiệu như “vị ngôn sứ” của thời đại mới.
Phần kết của đoạn văn là một sứ điệp thần linh phải được diễn giải thật đúng (c. 11). Trời đó là Thiên Chúa người mà Do Thái tránh nêu danh. Thiên Chúa lên tiếng. Lời tuyên bố của Ngài thật quan trọng. Lời sấm của Thiên Chúa gồm hai đoạn văn giàu ý nghĩa trong Cựu Ước. Một đàng, “Con là Con Cha” gợi lại Thánh vịnh mô tả ngày nhà vua đăng quang, theo nghĩa “Mêsia”: “Người phán bảo tôi: Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2,7). Rõ ràng Chúa Giêsu được chỉ định như Đấng Mêsia thuộc dòng David. Phẩm tính “yêu dấu” gán cho Chúa Giêsu, nhắc lại điều Thiên Chúa đòi hỏi Abraham liên quan tới Isaac: “Hãy đưa con của ngươi, đứa con duy nhất mà ngươi yêu dấu…” (St 22,2).
Đàng khác, những lời nói với Chúa Giêsu, “Cha hài lòng về Con”, quy chiếu về một bài thơ nổi tiếng của người Tôi tớ Thiên Chúa trong ngôn sứ Isaia: “Này đây tôi tớ của Ta (Thiên Chúa nói) người Ta yêu quý. Ta đặt Thần Khí của Ta nơi Người. Người sẽ đem Lề Luật đến cho các dân” (Is 42,1-2). Ta thấy đây là một nghi thức tấn phong ngôn sứ. Cũng giống như người tôi tớ trên đây, Chúa Giêsu được sai đi thi hành sứ vụ Ngài. Phần tiếp theo của bài thơ thật là ý nghĩa: “Ta (Chúa nói tiếp), Ta gọi con trong công chính. Ta đã làm cho con nên Giao Ước của dân, nên ánh sáng cho mọi sắc tộc để con mở mắt người mù, giải thoát tù nhân, và đưa người trong tối tăm ra khỏi ngục thất” (Is 42,6-4).
Như vậy, chắc chắn đối với Maccô phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận không phải để tha tội, vì Chúa Giêsu không hề phạm tội. Đó là hiệu khởi hành, là lệnh sai đi thi hành sứ vụ mà Thiên Chúa ra cho đấng “Mêsia”, là “Con Thiên Chúa” (theo nghĩa tròn đầy sẽ được khám phá sau này trong niềm tin vào Chúa Phục Sinh).
Chúa Giêsu là Đặc Sứ của Thiên Chúa để thiết lập Vương Quốc Ngài. Bây giờ Ngài có thể lên đường thi hành sứ vụ đó.
Máccô đã tóm lược rất nhiều các chi tiết liên quan đến vị Tiền hô mà truyền thống đã mang lại; đặc biệt ông đã bỏ hẳn lời Gioan Tẩy giả loan báo về Cuộc phán xét cánh chung sắp đến. Cảnh quan trọng đầu tiên của Tin Mừng của ông là cảnh Chúa Giêsu chịu rửa. Những gì ông giữ lại có liên quan đến vị Tẩy giả đặc biệt chỉ muốn "chuẩn bị" (c.3) cho quang cảnh mặc khải này Nơi Máccô, tất cả lời rao giảng của Gioan giản lược thành hai câu chúng ta đang khảo cứu: loan báo Đấng-đang-đến đầy quyền năng và cao cả hơn vị Tẩy giả; loan báo chính phép rửa của Người, phép lửa đối nghịch với phép rửa của vị Tiền hô.
"Gioan rao giảng rằng: Sẽ đến sau tôi Đấng quyền thế hơn tôi; tôi không đáng cúi xuống mà cởi quai dép Người. Phần tôi, tôi đã thanh tẩy anh em bằng nước; còn Người, Người sẽ thanh tẩy anh em bằng Thánh Thần" (cc.6b-8).
Câu đầu cho ta cảm thấy Đấng Messia đã đến gần thật: "Người đến (sát) sau tôi", Người đi tiếp tôi liền. Hình ảnh tên nô lệ dưới chân chủ được tô điểm ở đây bằng một nét đặc biệt thuộc lối văn miêu tả của Máccô ("cúi xuống"), một nét tuy nhiên không thay đổi gì ý nghĩa.
Ngược lại, mệnh đề thứ hai, mệnh đề đưa ra lại (như người bằng cách rút vắn) sự tương phản cổ truyền giữa phép rửa bằng nước và phép rửa bằng Thần khí, thì rõ ràng thay đổi ý nghĩa bản văn. Nó loại bỏ chi tiết "lửa", y như văn mạch loại bỏ mọi ám chỉ về cuộc Phán xét cánh chung. Một việc loại bỏ triệt để như thế bắt buộc ta bây giờ phải hiểu sự tương phản giữa hai phép rửa chỉ trên cơ sở những gì mà thính giả của Gioan Tẩy Giả đã có thể hiểu trước, chứ không theo văn mạch nguyên khởi.
Thế mà những người này hẳn đã biết các sấm ngôn nói về Đấng Messi a mang Thần khí (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) cũng như những sấm ngôn hứa đổ tràn lan Thần khí như một sức mạnh từ trên xuống vào thời thiên sai để canh tân tôn giáo và luân lý của Dân Chúa (Is 32, l5t; 44,3t; 59.21; Ed 11,19; 31.25-29; 37; 39,29; Ge 3, 1tt v.v...). Tuy nhiên cho đến đây. Chưa có gì nói rằng việc tuôn tràn này sẽ là một ân huệ của chính Đấng Messia cả. Lời tuyên bố của vị liền hô thiết lập mối liên hệ này (mối liên hệ mà Tin Mừng thứ tư sẽ khai triển): chính Đấng Messia sắp đến sẽ đổ Thánh Thần tràn ngập.
Ngoài ra, trong các lời của vị Tẩy giả được tách ra khỏi văn mạch đầu tiên của chúng, hạn từ "rửa'' tự nhiên được hiểu theo cùng một nghĩa trong hai vế của lối đối ngẫu. Người ta đối chọi nghi thức với nghi thức: nghi thức xưa có tính cách chuẩn bị và mục đích thanh tẩy với nghi thức mới có tính cách chung quyết và mục đích thánh hóa. Thật ra, khi nói ở đây về phép rửa trong thần khí mà không xác định gì thêm, thánh sử nghĩ tới phép rửa Kitô giáo, nghi thức bí tích quen thuộc với độc giả mình. Thành ra cái ông cho vị Tiền hô hứa, chính là một hoạt động của Đấng Messia, hoạt động tuôn tràn Thần khí (trong phép rửa Kitô giáo), để thực hiện một cách rất cụ thể các lời tiên tt'i xưa về việc đổ Thần khí thánh thiện vào thời cánh chung.
Tóm lại, lời trao giảng của Gioan Tẩy giả, theo như Máccô trình bày, loan báo hai việc: *1) (như trong truyền thống chung): việc giá lâm gần kề của Đấng Messia, Đấng được mặc quyền năng Thiên Chúa và xứng đáng hơn Gioan Tẩy giả bội phần; *2) Việc tuôn đổ Thánh Thần vào thời cánh chung do Chúa Kitô (trong phép rửa Kitô giáo) (riêng của Máccô).
B. Phép rửa cho Chúa Giêsu.
Như chúng ta đã nói, trong trình thuật phép rửa, Máccô đi gần với truyền thống sơ khai nhất, về phương diện bản văn cũng như thần học.
"Và xảy ra là trong những ngày ấy, Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô. Vừa lên khỏi nước, Người thấy trời xé ra và Thần khí, như chim bồ câu, đáp xuống trên Người. Và một tiếng phán ra từ trời: "Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ" (cc 9-11).
1. Hành vi tự ý của Chúa Giêsu.
"Và xảy ra trong những ngày ấy": Đây là một ngữ điệu khác thường trong Mc. Kiểu nhập đề như đúc sẵn này, mà thánh sử đã chẳng sửa lại, cho thấy đây là khởi đầu của một đơn vị văn chương" mới có tính cách độc lập ngay từ sơ khai, cho thấy trình thuật này có một nguồn gốc khác với trình thuật trước là trình thuật minh nhiên đặc trưng nghi thức Gioan như một "phép rửa thống hối để được tha tội". Công thức ấy là công thức Cựu ước vẫn dùng để giới thiệu các biến cố xảy ra, theo các sấm ngôn tiên tri, do bởi thánh ý Thiên Chúa. "Chúa Giêsu bỏ Nagiarét xứ Galilê": Máccô cố ý xác định như vậy vì đây là lần đầu tiêu ông nói về Chúa Giêsu; chúng ta đang còn ở ngay đầu Tin mừng.
"Và đã được Gioan thanh tẩy cho trong sông Giođanô": Sự kiện được ghi chú một cách chính xác, nhưng với sự vắn gọn vô cùng; vì sẽ không có lơi chú giải nào khác về phép rửa của Chúa Giêsu ngoài trình thuật thần hiện. Câu văn có vẻ cố ý lấy lại các hạn từ của c.5 vai trò thanh tẩy của Gioan đạt đến đích điểm đích thực khi ông làm phép rửa cho Chúa Giêsu.
2. Thần hiện.
"Và vừa (lên khỏi nước)": Mặc dầu năng gặp nơi Máccô chữ ráp nối này ở đây hẳn đã có từ trước (nó cũng có nơi Matthêu, dầu có hơi vụng về: “và này"). Người ta hiển nhiên muốn nối kết lập tức việc Chúa Giêsu nhận phép rửa với cuộc thần hiện vốn mang lại ý nghĩa cho việc này.
"Và Người thấy": Đây là một chi tiết có từ nguyên khởi. Chính Chúa Giêsu là chứng nhân mục kích việc thần khí đến, cũng như chính Người sẽ được tiếng nói Chúa Cha ngỏ cho. Cuộc thần hiện xảy ra cho Người vậy.
Chúa Giêsu thấy trời "xé ra", "xẻ ra" (Matthêu và Luca nói đơn sơ: “mở ra"). Sở dĩ Máccô chọn tiếng này có lẽ là vì ưa lối văn gợi hình, đầy màu sắc. Dầu sao có thể hạn từ muốn ám chỉ Is 63,19 (bản Hy bá) là bản văn ghi lại một lời cầu nguyện tha thiết người ta dâng lên Thiên Chúa, Cha Israel (nhân danh tình phụ tử của Ngài) để xin Ngài phá tan một sự im lặng quá lâu và từ trời xuống với dân Ngài để cứu họ. Trong phép rửa của Chúa Giêsu là khởi nguyên Tin Mừng cũng vậy, Thiên Chúa chấm dứt một sự im lặng dài lâu, xé thủng màn trời, khai mở thời đại ân sủng chung quyết bằng việc sai Thần khí Ngài đến và bằng cách biểu lộ sự hài lòng của Ngài đối với Con chí ái đang hiện diện giũa dân Ngài.
“Và một tiếng phát ra": Trình thuật mang một giọng điệu thuật sự: các câu vắn gọn nhanh nhẹn nối tiếp nhau, nằm kề nhau cách đơn giản, không văn chương cầu kỳ. Thành thử càng gây được cảm kích.
"Con là Con Ta...": Câu nói được viết lại dưới hình thức có lẽ là sơ khai nhất của nó, như ta đã phân tích trên đây. Sự thâm tình của mối tử hệ thần linh này, thánh sử Máccô sẽ hé mở cho ta thấy qua cung giọng của lời cầu nguyện Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa: "Abba, Cha ơi" (14,36), một công thức đầy tình hiếu thảo và có vẻ như lời âu yếm của trẻ thơ.
Quang cảnh này là quang cảnh đầu tiên của đời Chúa Giêsu theo Mc. Một cảnh mặc khải. Một cảnh tấn phong làm Thiên sai (như chúng ta vừa mới chứng minh trên kìa: thánh hiến và sai đi thực-hiện công trình cứu rỗi bằng quyền lực của Thánh Thần và trong mối thâm tình phụ tử đặc biệt với Thiên Chúa). Đồng thời đây cũng là sự hé mở đầu tiên về mầu nhiệm con người Chúa Giêsu. Tóm lại, đây là sự minh giải đầu tiên và long trọng cái tiêu đề của Tin mừng Máccô: “Khởi nguyên của Tin Mừng Chúa Giêsu, Messia, Con Thiên Chúa" (1,1)
KẾT LUẬN
Ý nghĩa phép rửa Chúa Giêsu chịu được biểu lộ trong cuộc thần hiện tiếp theo sau. Đó chính là cái đã thu hút tất cả sự lưu tâm của truyền thống Tin Mừng và của các soạn giả linh ứng; đó cũng là điều chúng ta phải suy niệm trước tiên.
Hành động công khai đầu tiên của Chúa Giêsu, hành động nối kết Người với vị ngôn sứ cuối cùng và vĩ đại nhất, đã trở thành lễ tấn phong Người làm thiên sai một cách long trọng: Được mặc lấy quyền lực Thánh Thần, được vững chắc trong niềm ý thức đầy dủ về mối thâm tình, đặc biệt là về sự thông hiệp độc nhất giữa Người với Thiên Chúa Cha Người. Chúa Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ mạng thi hành ngay bây giờ công cuộc cứu rỗi, theo đường lối thiên ý đã được vạch ra trong Thánh Kinh. Nhưng bên kia công cuộc thiên sai, quang cảnh dẫn vào mầu nhiệm sâu xa hơn nữa, mầu nhiệm con người của Chúa Giêsu Mêssia - Con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa nền tảng mà ngay từ đầu người ta mặc cho biến cố, ý nghĩa đã được lồng vào trong một màng lưới đầy những hoài niệm Thánh Kinh, trong một khung cảnh có tính cách khải huyền (trời mở ra, Thần Khí đến cách hữu hình, tiếng nói từ trên cao: toàn là những yếu tố thích hợp nhất để cho ta biết điều mà ta chỉ có một mặc khải từ trên mới tỏ lộ: sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu, cái sứ mạng rốt cục đặt cơ sở trên tư cách Con Thiên Chúa của Người).
Được các thánh sử tường thuật lại ngay ở ngưỡng cửa sứ vụ Cứu Chúa, trình thuật cho thấy từ đây phải hiểu tất cả cuộc đời công khai của Chúa Kitô dưới ánh sáng vừa nói mà ánh sáng đi trước ánh sáng phục sinh. Và ngay trong lần tuôn đổ Thánh Thần đầu tiên này, ngay trong chính việc Con Thiên Chúa xuất hiện giữa nhân loại này, ta thấy thời đại cánh chung đã bắt dầu, nước Thiên Chúa đã khai mạc.
Sau cùng, nhiều chỗ nhuận sắc sửa chữa nhắc ta nhớ mối dây liên kết phép rửa Kitô giáo với phép rửa Chúa chịu. Thật vậy, chính do tương quan nội tại với phép rửa Chúa Giêsu chịu mà bí tích Kitô giáo làm ta thành con cái Thiên Chúa là được mang Thần khí Ngài.
(Bản Pháp ngữ của Edmond Jacquemin Assemhlées du Seigneur số 12.)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu là ai? Người từ đâu đến? Đó là những câu hỏi lớn lao? Ai sẽ trả lời? Ai sẽ mặc khải lai lịch của Người ra? Ai, nếu không phải làThiên Chúa. Đấng đã sinh thành và sai Người đến? phép rửa của Chúa Giêsu chính là nói Thiên Chúa mặc khải cho ta lai lịch Người. Ngài cho ta biết Chúa Giêsu là người tôi tớ Giavê (bài đọc I), là Đấng cứu rổi mọi người (bài đọc 2), là Con Thiên Chúa (bài Tin Mừng). Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là để chuẩn bị lòng người đón nhận mặc khải hôm nay. Đối với các Kitô hữu, ngoài Chúa Giêsu Kitô ra, không còn có ơn cứu rỗi nào khác, cuộc giải phóng đích thực nào khác.
2) Hôm nay, Chúa Giêsu được tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Người ra đi mang sứ mạng cứu rỗi với uy lực của Thánh Thần và với danh nghĩa Con Thiên Chúa. Nhưng người cứu rỗi nhân loại theo cách người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo ngày xưa. Đường lối cứu rỗi của Người là truyền rao chân lý. Tôn trọng tự do, giáo dục lương tâm, kêu gọi cõi lòng. Phương thế của Người là nêu gương và dạy nhân loại hãy từ bỏ chính mình để sống cho Thiên Chúa, là ban ân để mỗi cá nhân tự giải phóng mình khỏi sự vong thân kinh khủng của tội lỗi. Tinh thần của Người là tinh thần Bát Phúc. Kitô hữu chân chính muốn giải phóng thế giới và con người không thể đi con đường nào khác hơn.
3) Sau khi chịu rửa và được công khai tấn phong làm thiên sai. Chúa Giêsu đã được đưa vào hoang địa, chịu đủ cơn cám dỗ để chứng tỏ mình xứng đáng với lòng tin tưởng, mến yêu của Thiên Chúa, đủ vâng phục để theo thánh ý và đường lối Ngài, đủ sức mạnh để thi hành sứ vụ đặc biệt. Và thực sự Người đã chiến thắng sa tan, chiến thắng chính mình. Chúng ta cũng vậy. Sau khi chịu rửa tội và được tấn phong làm con Thiên Chúa, chúng ta đã được đưa vào lòng đời đầy bao thử thách. Hãy cố gắng chứng tỏ mình là Kitô hữu chính danh, đích thực, luôn sống và hành động theo đường lối của Chúa Kitô, của Thiên Chúa, luôn sống xứng đáng với tước hiệu "con chí ái" của Ngài.
4) Phép rửa trong nước và Thánh Thần hướng ta về phép rửa quyết định nào? Lâu lắm sau khi chịu phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố: "Có một phép rửa Ta cần phải nhận, và Ta khắc khoải chờ mong cho nó hoàn tất" (Lc 12,50). Người nói tới cái chết trên thập giá như là sự hoàn thành tột bậc đời sống vâng lòi mà Người đã chọn lựa. Chúng ta cũng vậy.Bí tích thanh tẩy chúng ta đã chịu hướng ta về phép rửa quyết định được thể hiện qua tiếng "xin vâng" đối với Chúa mỗi ngày, là qua tiếng "xin vâng" cuối cùng mà, vào thời giờ một mình (Chúa biết, sẽ niêm ấn lời ưng thuận bất di bất dịch của ta trước kế hoạch yêu thương do Chúa đề nghị với ta.
“Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con”.
Tại một xứ cùng quê nước Pháp, có một người đàn ông khoảng 50 tuổi tên là Alix. Ông bị bại liệt. Mỗi buổi sáng bà vợ đặt ông vào một ghế bành ngoài hiên nhà rồi đi làm. Ông bà không con, không cháu.
Ông Alix không phải là người công giáo, nhưng thỉnh thoảng cha sở vẫn tới thăm, cha còn khuyên giáo dân tới giúp đỡ ông. Các em nhỏ tới chơi quanh ông, đem sách cho ông đọc và giúp ông mở sách. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện tới chăm sóc ông.
Giáng sinh năm đó, ông Alix đột ngột thưa cha sở:
- Thưa cha, xin cha cho con rước lễ.
Cha sở ngạc nhiên vì ông chưa là tín hữu. Nhưng ông thưa:
- Trước đây con không tin gì vào Thiên Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo hữu quá tốt với con nên con thấy hạnh phúc như mình được gặp Chúa vậy. Chỉ có Chúa mới làm cho cha, bác sĩ và anh chị em bỏ công sức giúp đỡ một người xa lạ như thế này.
Có lẽ chúng ta cũng nhận ra cha sở và các anh chị em giáo hữu Pháp đó, không phải đã làm một việc truyền giáo vĩ đại, nhưng họ chỉ thi hành những bổn phận mà Chúa đòi buộc mọi môn đệ Chúa, khi đã tự nguyện sống theo giáo lý của Ngài. Ngược lại nếu không thi hành những nghĩa vụ nhỏ bé đó thì họ không thể là môn đệ Chúa được.
Tin Mừng hôm nay kể chuyện Chúa chịu phép rửa. Dĩ nhiên Chúa không cần chịu phép rửa vì Ngài hoàn toàn trong sạch. Nhưng Chúa chịu phép rửa để làm gương cho chúng ta. Để chúng ta thấy một khi chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn và lãnh nhận bí tích Rửa Tội, bí tích Thêm Sức, thì các bí tích đó sẽ cho ta ân sủng đặc biệt, đặt ta vào địa vị môn đệ Chúa với những nghĩa vụ nặng nề.
Khi Chúa chịu phép rửa, bầu trời đã mở ra. Thánh Thần hiện xuống dưới hình chim câu, có tiếng từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Cha đặt cả tình yêu nơi Con. Từ giờ phút đó Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai. Chúa xuôi ngược khắp nơi trên toàn cõi Israel, rao giảng Tin Mừng cứu độ, chữa lành bệnh nhân, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ, đặt nền tảng cho Giáo Hội tiếp nối sứ mệnh Chúa nơi trần gian, để bảo toàn và làm triển nở hạt giống Tin Mừng. Cuối cùng Chúa tạo dựng kho tàng Ơn Cứu Độ bằng cái chết vô cùng đau khổ như một bằng chứng tình yêu cao cả và nồng thắm của Thiên Chúa đối với người thế qua mọi thời đại.
Những hiện tượng lạ xảy ra khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan, chúng ta không thấy nữa khi một tân tòng lãnh nhận phép rửa hay một Kitô hữu lãnh bí tích Thêm Sức, nhưng phép Rửa Tội và bí tích Thêm Sức chúng ta cử hành ngày nay là những bí tích đã được Đức Kitô thiết lập và củng cố, những bí tích đó phát sinh cùng một công hiệu như xưa, và cũng trao cho chúng ta sứ mệnh như xưa. Đó là Ơn Thánh Thần và sứ mệnh truyền giáo.
Văn sĩ Anrê Manrô (André Malraux) viết: “Thế kỷ 21 là thế kỷ Kitô giáo hoặc sẽ bị tiêu vong”. Sứ mệnh đó trao phó cho chúng ta, cho mỗi Kitô hữu. Chỉ khi nào chu toàn sứ mệnh đó chúng ta mới xứng đáng là môn đệ Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin tràn đổ Thánh Thần trên chúng con, đổi mới chúng con, nhờ Ngài chúng con trở nên chứng nhân của Chúa.
Sau một cuộc đột nhập vào Tin Mừng của Luca và Matthêu, để khám phá những mầu nhiệm về Giáng sinh và Hiển Linh, vì chỉ có hai Tin Mừng đó mới nói cho chúng ta về thời thơ ấu của Đức Giêsu... giờ đây ta gặp lại Tin Mừng Máccô. Chính Máccô bắt đầu trình thuật của mình lúc khởi sự đời sống công khai của Đức Giêsu. Và như thế chúng ta được dẫn ngay vào giai đoạn trưởng thành của Đức Giêsu. Lúc đó Ngài khoảng ba mươi tuổi.
Gioan Tẩy Giả loan báo trong hoang địa rằng: “Có một Đấng quyền thế hơn tôi, đến sau tôi"
Trong các Tin Mừng của Matthêu và Luca, lời loan truyền của Gioan Tẩy Giả mang một nội dung mãnh liệt, nhằm báo động ngày chung thẩm sắp tới gần: "Loài người rắn độc kia... Hãy tỏ lòng ăn năn sám hối... cái rìu đã đặt sát gốc cây" (Mt 3,7-10; Lc 3,7-9) Máccô hoàn toàn bỏ qua kiểu giảng truyền trên, để chỉ ghi lại lời loan báo Phép rửa của Người... Gioan Tẩy Giả chỉ nhằm giới thiệu Đức Giêsu "Đây là Đấng đến sau tôi mà các ông đang ngóng đợi" Người đã đến nơi rồi. Các ông hãy sẵn sàng!
Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Người.
Như thế, ngay từ đầu trình thuật, Máccô đã lưu ý ta: Đức Giêsu mà ông sắp nói đến mang một mầu nhiệm. Đấng chưa biết rõ này, trước khi công khai xuất hiện, đã được người ta mong chờ. Điều đó muốn làm nổi bất nhân cách phi thường của Người: Vậy ông ta là ai? Gioan Tẩy Giả còn không dám "cúi xuống trước Người"!
Tôi, thì tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần".
Trong chương đầu tiên này. Máccô đã đề cập đến Thánh Thần tới ba lần. (Mc 1,8.10.12). Sự nhấn mạnh của ông hẳn là không để ta cứ vô tâm được. Chính các thính giả của Gioan Tẩy Giả cũng không thể nhầm lẫn. Như chúng ta họ phải biết lời tiên báo liên hệ đến Đấng Mêsia vị mang Thần Khí. (Is 11, 1-3; 42,1; 61,1) và truyền thống dồi dào Thần Khí trên nhân loại vào thời cứu độ (Is 32,15; 44,3; 59,21; Dt 11,19; 36,25; 2.9,37; 39,29 Ge 3,l...) Do đó, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả chính là nhằm loan báo Đấng Mêsia đã đến gần kề, Người sắp đổ tràn Thần khí, để làm phát sinh một nhân loại mới.
“Người làm phép rửa, nhận dìm anh em trong Thần khí” Chúng ta có ý thức rằng, phép rửa Kitô giáo của chúng ta: cũng như thế không? Nói chung, chúng ta còn chưa sống thực sự ý nghĩa thâm sâu của phép rửa mình lãnh nhận. Vì bị nhận chìm trong môi trường vô thần hiện nay, tất cả chúng ta thường dễ cho rằng, việc "cứu độ" nhân loại là do hậu quả những nỗ lực, những thái độ nhân bản đầy giá trị của ta. Quan điểm về khoa học kỹ thuật cũng tạo cho ta quen nghĩ rằng, việc cứu độ con người nằm ngay trong con người: chúng ta phải trở nên liên đới hơn, hãy làm chủ thiên nhiên hơn, hãy sống chia sẻ nhiều hơn. Điều đó không sai. Nhưng tất cả "Mạc khải Kinh Thánh" (và kinh nghiệm chính thức nhất của con người) cũng nói cho ta hay, ý nghĩa sự sống của con người không nằm trong con người: vũ trụ dù lớn lao cách mấy, cũng không tự mình có "cứu cánh” được con người chỉ có thể hoàn tất trọn vẹn, khi mơ tới một thực tại siêu việt: Đó là Thần khí của Thiên Chúa! Như thế, câu trả lời cuối cùng cho tất cả các vấn nạn lớn, không nằm trong con người. Có ích lợi gì khi lên vũ trụ và lên tới mặt trăng, mà vì thế mà lại tự sát? Chiều kích "siêu việt" càng ngày càng khẩn thiết. André Malraux viết: "Thế kỷ XXI sẽ là kỷ nguyên Kitô giáo, hay nó không là gì cả!"
Cũng trong những ngày ấy, Đức Giêsu từ thành Nagiarét miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa cho tại sông Giođan.
Đây là lần xuất hiện đầu tiên của Đức Giêsu trong trình thuật Máccô.
Đấng "chưa được nhận biết" này đã âm thầm sống ba mươi năm trong bóng tối của một càng quê nhỏ bé, mà cả Kinh Thánh, các sách Talmud, lịch sử hay địa lý cũng chưa khi nào nhắc đến... trước khi con người Giêsu chưa làm cho nó nổi danh trên thế giới, Vào thời đó, theo những khai quật khảo cổ Nagiarét chỉ gồm 20 nóc gia, và như thế khoảng độ một trăm dân cư. Chính từ vẻ tối tăm lạ thường đó, lại phát sinh một trong những biến động lịch sử lớn lao nhất, làm thay đổi bộ mặt địa cầu. Vậy con người Giêsu đó là ai? Lúc này đây, Người vẫn giữ vẻ bề ngoài như một người bình thường: Người cũng đến nhận phép rửa sám hối.
Vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở ra.
Mô tả cảnh này, Luca và Matthêu dùng một từ êm dịu hơn: "Trời mở ra". Còn Máccô viết: Tầng trời "mở tung ra".
Vừa rồi, khi bàn đến Phép rửa, ta đã gợi lên một thế giới mà trong đó con người có khuynh hướng tự đóng khung mình vào. Giờ đây Đức Giêsu chọc thủng một lỗ hổng trong vũ trụ đã đóng kín đó. Kể từ giờ trở đi trong con người của Đức Giêsu, nhân loại sẽ có một "kẽ hở" để thông hiệp với thế giới Thần linh.
Qua cách dùng từ gợi hình trên, ta có thể nhận ra lối viết thực tế của Máccô. Nhưng ta cũng có thể coi đây là một ám chỉ tới Isaia; vào thời lưu đày đau khổ, trong khi mệt mỏi và âu lo vì Thiên Chúa vân lặng thinh, một vị ngôn sứ đã khẩn cầu Thiên Chúa hãy phá tan sự thinh lặng như thời kỳ giải phóng khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và lời cầu nguyện của ông đã trở thành tiếng kêu van: "A! ước gì Người xé trời mà xuống..." (Is 63,19).
Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình.
Cảnh này là cảnh đầu tiên trong cuộc đời của Đức Giêsu, theo Máccô. Theo vị thánh sử này, thì tác động đầu tiên của Đức Giêsu là "một cái nhìn", chỉ mình Đức Giêsu đã chứng kiến trời "xẻ mở" như trên, nhờ đó, Thần khí mới đáp xuống. Như vậy, chúng ta đang đứng trước một biến cố siêu nhiên, mà những người mục kích khác không nhận ra. Đó là cái nhìn nội tâm, chắc chắn diễn tả cách đào sâu lương tâm mà Đức Giêsu có được là do tư thế làm con Thiên Chúa và do sứ vụ của Người. Chúng ta cũng cần nỗ lực để hình dung ra sinh hoạt tâm lý của Đức Giêsu: Người đã không "trở nên" con Thiên Chúa nhờ tiến hóa bởi vì Người luôn luôn là con... Nhưng, xét là một người đích thực, cần phải có một tình trạng tiến triển nào đó trong lương tâm Người, phù hợp theo độ tuổi và theo những kinh nghiệm của Người: Ngày nay, ta có thể nói đó là một thứ "trực giác" hơn là một cái nhìn. Nhưng ngôn từ cửa chúng ta còn quá yếu kém để diễn tả những thực tại của Thiên Chúa.
Cựu Ước thường minh chứng cho ta, cách Thần khí xâm chiếm một người để trao cho một sứ vụ rõ ràng (Is 11,2; Tt 6,34; 14,19; 15,14). Và thực sự ta có thể hình dung ra được, Đức Giêsu bị xâm chiếm bất ngờ trong toàn thân Người, để xác tín về "vai trò" phi thường Người sẽ đảm nhận.
Thần khí đã tự "tỏ hiện" dưới dáng vẻ nào? Ta thấy bản văn dùng từ “như”- “như một chim bồ câu”. Trong ngôn ngữ Khải huyền, hình ảnh đặc thù này được sử dụng có ý gợi lên điều gì không thấy được: “Ao người trắng như tuyết, tóc đầu người như len trắng" (Đnl 7,9).
Nếu ta được dịp hiện diện trong một cuộc "thần hiện", nghĩa là một cuộc "tỏ hiện của Thiên Chúa", ta sẽ thấy không thể dùng lý trí để đi sâu vào mầu nhiệm được: Thiên Chúa không bao giờ xuất hiện như một thứ "thách đố” đối với con người... từ mọi phía Người vượt qua mọi khả năng cảm nhận và tưởng tượng của ta. Cần phải chấp nhận sự "xé mở", và để mình chìm trong lỗ hở đó như rơi vào trong một vức thẳm.
Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con".
Đây là kinh nghiệm độc nhất về tình âu yếm. Đức Giêsu biết mình được yêu. Hiển nhiên một ít người đã có dịp gần Đức Giêsu, khám phá ra nơi Người một kiểu tương quan hết sức đặc biệt với Thiên Chúa. Trong lúc cầu nguyện Người nói với Đấng vô hình trong một mối thâm tình mà trước Người không ai dám sống như vậy. Người thưa lên: “Abba!" có nghĩa như "Ba ơi!" (Mc 14,36).
Từ nhiều năm, trong thôn làng Nagiarét nhỏ bé và tăm tối của mình, Người vẫn âm thầm sống cách diệu kỳ mối tình con thảo đó. Và giờ đây mới có dịp vang lên như tiếng chuông ngân vui trong trái tim Người: "Con là tình yêu của Cha. Con là con độc nhất của Cha. Cha hài lòng về con". Chắc chắn, những lời đó đã được rút ra từ Kinh Thánh. Tốt hơn ta nên đọc lại những câu trên mà Đức Giêsu hẳn đã suy niệm, thưởng nếm nhiều năm trong khi cầu nguyện tại Hội đường, hay trong nếp sống hàng ngày tại căn nhà bé nhỏ, với Đức Maria, trong khi làm việc. Có lúc nào bạn cảm nghiệm như thế không? Bạn có cảm thấy mình được yêu chưa? Có đáp trả tình yêu đó? Tình yêu như một cái vừa mạnh mẽ, vừa dịu êm, đem lại cho mọi giây phút đời bạn tràn ngập bình an và hạnh phúc.
Ta sẽ là Cha nó, và nó sẽ là con Ta (2 Sm 7,14).
Đức Giêsu đã phán với tôi rằng: "Người là con Ta, chính hôm nay, Ta đã sinh ra người". (Tv 2,7)
"Này đây tôi tớ của Ta, kẻ Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ" (Is 42,1).
"Hỡi Giêrusalem, người ta sẽ gọi ngươi tên mới: Ngươi sẽ không còn bị người ta nói: "Đồ bỏ!”, thiên hạ sẽ gọi ngươi "Sủng ái của Ta" (Is 62,4)
Dưới ánh sáng Phục sinh, tác giả Tin Mừng ngược dòng thời gian trở về tới biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Cùng với sứ vụ của Vị Tiền Hô, biến cố này làm thành phần "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (1,1).
Ở đây, tác giả cho chúng ta khám phá trong một lúc sự hoàn tất những lời đã hứa cho Israel, cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Đức Kitô, khởi đầu và lời loan báo về sứ vụ của Người.
D. Jacquemin viết: "Được các thánh sử Tin Mừng kể lại ngay trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ, bài tường thuật cho thấy từ nay phải hiểu toàn bộ cuộc đời công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng đó (nó chiếu rọi trước hào quang của Phục sinh). Và rồi, trong lần hiển hiện đầu tiên của Thánh Thần này, trong cuộc xuất đầu lộ diện của Con Thiên Chúa đến hiện diện giữa loài người này, người ta được chứng kiến thời buổi cánh chung đă khởi đầu, “triều đại Nước Trời đã khai mở" (Assemblées du Seigneur, số 12, trang 66).
2. Một biến cố hoàn tất những lời hứa xưa
Bài đọc Tin Mừng của ngày lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, được bắt đầu bằng một màn "ra mắt" nhân vật Giêsu:
+ Hoạt động của Người được thuật lại bằng một công thức xem ra xa lạ nơi Máccô, được vay mượn từ Cựu Ước. Nó có thể lấy từ đoạn ra mắt của Môsê, ở đầu sách Xuất Hành: xảy ra là vào những ngày ấy, Môsê lớn rồi, thì..." (Xh 2, 11). Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã được giới thiệu như là Môsê mới. Điều trớ trêu, Đức Giêsu đã không đến từ miền Giuđêa hay từ thành thánh Giêrusalem, nhưng lại từ Nagiaret, miền Galilê, một làng quê hẻo lánh thuộc một vùng vốn bị thiên hạ coi rẻ. Bởi đó mới có câu: “Từ Nagiaret, làm sao có cái gì hay được" (x. Ga 1,46). Và Người đến như bao kẻ khác, để chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan.
Máccô bỏ qua không nói đến cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả, cũng như chi tiết việc Chúa dìm mình xuống sông Giođan. Bù lại, nhờ khả năng vận dụng khéo léo và làm khơi lên phong phú những hình ảnh Kinh Thánh, ông đã minh hoạ được điều mà cộng đoàn Kitô hữu sau này, dưới ánh sáng Phục sinh, xem là đặc thù nơi biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa.
+ Cuộc tỏ hiện của Thiên Chúa xảy ra, tác giả Tin Mừng xác định rõ, "khi Đức Giêsu vừa lên khỏi nước”. Nhận xét này, một lần nữa, có ý trình bày Đức Giêsu như là Môsê mới.
Quả thực, theo J.Hervieux giải thích: người ta tìm thấy nơi sách ngôn sứ Isaia một lời cầu tha thiết xin Thiên Chúa tái diễn lại những hành động cứu thoát như thời Xuất Hành. Máccô được gợi hứng từ một đoạn trong sách đó có câu: "Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) đã từng làm cho bước lên khỏi nước biển vị mục tử (= Môsê) chăn dắt đàn chiên của Người?". Bởi đó chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả Tin Mừng nói rằng chính lúc ‘vừa lên khỏi nước, Đức Giêsu đã được nhận lấy Thánh Thần’. Đối với Máccô, Đức Giêsu chính là Môsê mới. Phép rửa Người chịu là một cuộc vượt qua mới khỏi Biển Đỏ" (L'evangiìe de Marc, Centurion, 1991, trang 20).
+ Khác với Tin Mừng Matthêu, cuộc tỏ hiện ở đây xảy ra nhằm chính Đức Giêsu. Nó gồm hiện tượng: các tầng trời xé ra, Thần Khí ngự xuống, và tiếng từ trời phán.
a) "Đức Giêsu liền thấy các tầng trời xé ra”. Theo truyền thống Do Thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời, nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại rồi. Ngôn sứ không còn nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng đã bị cắt đứt. Bởi thế đến hôm nay, khi Người đáp lại tiếng van nài của vị Ngôn sứ trong cảnh lưu đày khốn khổ: "Ước gì Ngài xé trời và ngự xuống”, thì đúng là một thời mới đã mở màn, mối liên lạc đã được tái lập giữa Thiên Chúa và loài người. Kiểu nói "xé ra" sau này chỉ trở lại dưới ngòi bút của Máccô vào giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá: "Bức màn trương trong đền thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới (15,38). Điều đã được khai mở hôm nay trên dòng sông Giođan rồi đây sẽ được hoàn tất mỹ mãn trên đồi Canvê: Đức Giêsu đã mở ra một lối đi cho hết mọi người được tự do đến với Thiên Chúa.
b) "Và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình”.
Trước khi Đức Giêsu đến, Thần Khí đã như bị dập tắt: Người không còn ngự xuống để tác động thêm những ngôn sứ mới. Ở đây, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước sông Giođan liền thấy Thần Khí ngự xuống trên mình, chỉ định Người làm vị Ngôn sứ của thời đại mới.
c) “Lại có tiếng từ Trời phán rằng: Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.
Thiên Chúa (trong thế giới Do Thái, Trời là một cách để gọi Thiên Chúa mà tránh đụng đến Người) chứng thực cho sứ mạng của Đức Giêsu: Người không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác, bởi ở đây Thiên Chúa đã nói với Người những lời mà ngoài Người ra chưa từng nói với ai. Những lời này có tầm mức vô cùng quan trọng, chúng hoạ lại và đồng thời làm sáng tỏ ý nghĩa hoàn tất của một số câu nói trong Cựu Ước:
- Họa lại một câu trong Thánh vịnh 2: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (c.7), mà truyền thống Do Thái vừa đọc lên như lời sấm về Đấng Mêsia. Ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, Đức Giêsu đã được tuyên phong là Vua Cứu Thế thuộc dòng tộc Đavid, là Đấng Kitô của Thiên Chúa: Hoạ lại câu nói được nhắc đi nhắc lại đến 3 lần trong Sách Sáng Thế 22, lúc Abraham vì vâng lệnh truyền của Thiên Chúa, toan hạ tày sát tế Isaac, đứa con của lời hứa, "đứa con yêu dấu" của ông. Đức Giêsu được xem như một Isaac mới, khác chăng là Người đã không thoát khỏi cái chết. Sau cùng, hoạ lại nhiều từ trong Isaia 42,1; Đức Chúa phán bảo cùng Người Tôi Tớ: "Này đây Tôi Tớ của Ta, kẻ Ta nâng đỡ, Người Ta đã chọn và hồn Ta sùng mộ”. Giống như Người Tôi Tớ đó, Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa hằng một niềm dấu ái và Thần Khí ngự xuống dư đầy, nay được sai đi thi hành sứ mạng là trở nên ánh sáng các nước, "mở những mắt mù loà”, "đưa tù nhân ra khỏi nhà lao, khỏi ngục thất dân cư bóng tối" (Is 42,6-7). Và cũng cùng một thân phận với Người Tôi Tớ được vị ngôn sứ loan báo trên, Chúa sẽ phải thực hiện sứ mạng ấy qua con đường tự hạ, và khổ đau.
3. Và mở ra sứ mạng sẽ tới
Như vậy, ngay từ trang đầu tiên của Tin Mừng Máccô, tất cả đã cho thấy một tấn kịch đang được mở màn. Tuy nhiên, mọi sự chỉ mới ở mức độ nói xa nói gần, nói dè dặt, gần như còn cần phải giữ kín đáo để vạch ra một cái hướng cho những gì cần phải được khám phá trong suốt bản văn.
Jacques Hervieux kết luận: "điều hiển nhiên là, đối với Máccô, phép rửa Đức Giêsu chịu không phải nhằm tẩy sạch những tội lỗi mà Người chẳng hề phạm. Đó chính là tín hiệu khởi hành, là trái giao banh cho sứ mạng mà Thiên Chúa ký thác cho Đấng được gọi là "Mêsia”, và là "Con Thiên Chúa" (theo nghĩa mạnh của niềm tin Phục sinh).
Đức Giêsu quả là Sứ Giả đặc biệt của Thiên Chúa để thiết lập vương quốc của Người. Từ giây phút này, người đã có thể vào cuộc để thực hiện sứ mạng ấy.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức Giêsu, người Con Chí Ái của Chúa Cha.
(Mgr. Daloz, trong "Qui don est-il?", Desclée de Brouwer, tr.11).
"Đức Giêsu, kẻ xuất thân từ làng Nagiarét ấy, là Con Thiên Chúa, đó không chỉ là một định nghĩa hay một danh xưng mà thôi đâu. Đó là một liên hệ tình yêu, một mối dây "gia đình”. Tiếng Chúa Cha đã vang lên trìu mến: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con. Đúng là một khẳng định của tình yêu Đức Giêsu vừa là con người xuất thân từ Nagiarét, vừa đồng thời là Đấng sống mật thiết với Chúa Cha trên trời: Các tầng trời xé ra, và Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người. Đây mới thực là "mầu nhiệm của Đức Giêsu, mà người ta chẳng bao giờ khám phá cho cạn, suy cho thấu. Mầu nhiệm của một đời người hoàn toàn cho tình yêu, tràn đầy Thần Khí. Cuộc đời của Đức Giêsu ngay từ ban đầu đã được xác định qua tương quan với Chúa Cha và với Thần Khí. Đó chính là mấu chốt thâm sâu nhất của bản thân Người. Đức Giêsu được giới thiệu cho chúng ta qua lời xác nhận yêu thương của Chúa Cha. Đây là danh thiếp của Người: "Con Chí ái của Cha”.
2. “Hội Thánh và những anh chị em tân tòng hôm nay"
(Guy Cordonnier, trong "Pastorale sacramentelle. Points de repères", Cerf, trang 138-139).
"Kitô giáo, xét như là một hiện tượng xã hội học, ngày nay đang trên đường bị xoá sổ. Trào lưu ngoại giáo cổ lại như đang tìm cách trở lại với khoa chiêm tinh, các giáo phái, ma thuật, bói toán, các thầy gu-ru vv... không còn những khuôn mẫu, mọi cơ chế bị đặt lại vấn đề, nỗi thèm khát để có nhiều, biết nhiều, xu hướng ngày càng nghiêng về những cảm nghiệm tức thời và hời hợt... đó là những dấu đậm nét trên thời đại của chúng ta hôm nay, và người Kitô hữu đôi khi không biết làm sao để tìm thấy lại được chân tính của mình trước nền văn minh hiện đại. Giữa lòng một xã hội như thế, những tín hữu Kitô chúng ta có bổn phận phải làm chứng về các giá trị Tin Mừng. Họ được mời gọi đừng co cụm lại trong thế giới của mình, nhưng hãy tham gia vào số phận chung của nhân loại và khám phá những dấu chỉ của Nước Trời khắp nơi. Những dấu chỉ đó vượt xa biên giới hữu hình của Hội Thánh: Nước Thiên Chúa phải chăng hôm nay đang hiện diện ở bất cứ nơi nào có tình yêu bày tỏ, có công lý ngự trị, có sự quan tâm thương mến những người nghèo?
Thời buổi hiện đại hôm nay là một thời cơ tốt cho Hội Thánh, đang chịu thách đố để trả lời cho những vấn nạn và khát vọng mới. Những người trưởng thành mới chịu phép Rửa Tội, trong lúc gắn bó với môi trường sinh sống của mình, trở nên một thứ nhịp cầu nối liền môi trường ấy với Hội Thánh. Họ đã am hiểu những gì ở trong thế giới chưa-có-đức-tin, nên họ nói với chúng ta: "Xin quí vị đừng bỏ qua những người chưa được rửa tội, những người đã bỏ đạo, những người ở vị trí vòng ngoài của Hội Thánh. Làm sao để loan báo Tin Mừng cho họ bây giờ?”.
Những câu hỏi như thế phải giúp chúng ta trở về với điều được xem là hiển nhiên nơi các hiểu biết và thực hành của chúng ta trong Hội Thánh. Chúng hoà hợp những điều đó nơi các anh chị em mới trở lại, tức là những người quay về lại với Hội Thánh sau một thời gian đoạn tuyệt ít nhiều lâu dài, với nơi một số đông các Kitô hữu nhạy bén với thế giới hôm nay: làm sao để hội nhập đầy đủ vào trong Hội Thánh như hiện nay? Làm sao chất vấn, thậm chí thúc đẩy Hội Thánh đáp ứng được nhiều hơn sứ mạng của mình?
Những anh chị em tân tòng chỉ là số nhỏ, nhưng sự hiện diện của họ mang nặng ý nghĩa. Việc tiếp nhận họ có liên can đến mức độ phong phú thiêng liêng của Hội Thánh. Các giáo đoàn của chúng ta có ý thức đầy đủ điều đó? Sự kiện những người đã lớn ngoài Kitô giáo tìm đến với Đức Tin còn là một hiện tượng quá mới mẻ để chúng ta có được một mục vụ đặc biệt cho. Đây đó đã có vài sáng kiến trong một số giáo phận, nhưng người ta vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm".
1) Thông điệp của ông sở dĩ hiệu nghiệm vì ông hoàn toàn khiêm hạ. Chính ông tự đánh giá là không xứng đáng với nhiệm vụ làm đầy tớ. Dép (bản Việt văn dịch là ‘giày’) chỉ là một miếng da có xoi lỗ, buộc vào bàn chân bằng mấy sợi dây. Đường đi rất gồ ghề, vào mùa khô, bụi tích tụ thành từng đống, mùa mưa thì đó là những con sông ngập bùn. Cởi dép là bổn phận và việc làm của kẻ tôi tớ. Gioan chẳng mong ước gì hơn là được làm bất cứ việc gì cho Chúa Cứu Thế mà ông đang loan báo. Ông quên mình, sẵn sàng phục tùng, sẵn sàng chịu lu mờ, hoàn toàn xóa bỏ mình trong thông điệp của ông đã thúc đẩy dân chúng nghe ông.
2) Thông điệp của Gioan có hiệu quả vì ông đã hướng dân chúng chú ý đến một điều, một nhân vật cao cả vượt trội. Ông bảo dân chúng rằng qua phép rửa, ông dìm họ xuống nước, nhưng Đấng đến sau ông sẽ dìm họ trong Thánh Thần. Trong khi nước tẩy sạch thân thể thì Thánh Thần thanh lọc cả đời sống, bản ngã và tấm lòng con người. Tiến sĩ G.J Jeffrey có dùng một ví dụ mà ông rất tâm đắc. Khi ông gọi điện thoại qua nhân viên tổng đài mà nếu có sự chậm trễ thì nhân viên tổng đài thường nói: “Tôi sẽ cố gắng bắt liên lạc cho ông”. Khi đã bắt được liên lạc, thì nhân viên tổng đài tự rút lui để đôi bên tiếp xúc với nhau. Mục đích duy nhất của Gioan là không chiếm lấy trung tâm liên lạc điện thoại mà cố gắng giúp người ta bắt liên lạc với Đấng trọng đại và quyền phép hơn ông, và người ta nghe ông vì ông không chỉ vào chính mình nhưng chỉ vào Đấng mà mọi người cần đến.
Mc 1, 9-11
NGÀY QUYẾT ĐỊNH
Với bất cứ ai biết suy nghĩ, thì phép rửa của Chúa Giêsu hẳn phải nêu lên một vấn đề. Phép rửa của Gioan là phép rửa kêu gọi hoán cải, dành cho những người hối tiếc về tội lỗi của mình và muốn bày tỏ quyết định từ bỏ chúng, dứt khoát với chúng. Nhưng một phép rửa như thế thì liên hệ gì đến Chúa Giêsu? Ngài lại không phải là Đấng vô tội, và một phép rửa như thế lại không phải là hoàn toàn không cần thiết, không thích hợp với Ngài hay sao? Với Chúa Giêsu thì phép rửa có bốn ý nghĩa sau đây.
1) Với Ngài đó là khoảnh khắc quyết định. Ba mươi năm qua Ngài ở tại Nagiarét, Ngài trung tín làm bổn phận hàng ngày trong nhà. Từ lâu Ngài đã ý thức rằng sẽ có lúc Ngài phải rời gia đình, chắc Ngài đang chờ một dấu hiệu. Với Ngài, sự xuất hiện của Gioan chính là dấu hiệu đó. Ngài thấy đó chính là khoảnh khắc Ngài phải dấn thân vào sứ vụ. Trong mỗi đời sống đều có những khoảnh khắc quyết định mà người ta có thể chấp nhận hay chối từ. Chấp nhận chúng là thành công, chối bỏ chúng là hụt mất, thất bại. Mỗi người đều có một khoảnh khắc để quyết định mà không bao giờ còn gặp lại. Một đời sống phí hoài, thất vọng, bất đắc chí và thường thường một đời sống đầy thảm kịch là một đời sống không biết quyết định. Một đời sống bỏ mặc, đánh liều nhắm mắt đưa chân chẳng bao giờ là một đời sống có hạnh phúc. Khi Chúa Giêsu biết Gioan xuất hiện là lúc Ngài phải quyết định. Làng Nagiarét vốn bình lặng, gia đình Ngài vốn yên lành, êm đềm, nhưng Ngài phải đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa.
2) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để tự hòa mình với mọi người. Chúa Giêsu không cần phải hoán cải, nhưng đây là lúc mà dân chúng cần quay về với Thiên Chúa và với phong trào trở về đó, Ngài quyết định tự hòa mình vào. Có thể có người đang sống thoải mái dư giả, sung túc, nhưng nếu người ấy thấy dấy lên một phong trào có thể đem đến nhiều điều tốt đẹp hơn cho những người nghèo khổ bị chà đạp, phải cư trú trong những ngôi nhà lụp xụp tồi tàn, phải lao động quá sức nhưng lại nhận những đồng lương quá ít ỏi, không có lý do gì để người ấy không chịu đến để hòa mình vào đó. Sự hòa mình thật sự có ý nghĩa khi một người tự hòa mình vào một phong trào không phải vì chính mình nhưng vì kẻ khác. Trong giấc mơ của John Bunyan, Kitô hữu và nhà truyền giáo đến một cung điện được canh giữ cẩn mật, đòi hỏi phải có một chiến trận để tìm đường vào. Tại trước cửa có một người ngồi, tay cầm bút để ghi tên những người dám tấn công. Trong lúc mọi người đang chùn lại thì Kitô hữu thấy một người dung mạo cường tráng, tiến đến bên cạnh người đang cầm bút và nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi”. Khi thấy việc trọng đại trước mắt, Kitô hữu bị buộc phải nói “thưa ông xin hãy ghi tên tôi” vì đó chính là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài đến xin chịu phép rửa.
3) Với Ngài đó là khoảnh khắc để được chấp thuận. Chẳng có ai lại nhẹ dạ bỏ nhà ra đi mà không biết mình đi đâu. Người ấy phải biết chắc chắn mình đã hành động đúng. Chúa Giêsu đã quyết định bắt đầu hành động và giờ đây, Ngài đang chờ đợi dấu ấn đồng ý tán thành từ Chúa Cha. Vào thời của Chúa Giêsu, dân Do Thái nói về điều họ gọi là Bath Qol có nghĩa là con gái của tiếng gọi. Bấy giờ, họ tin là có nhiều tầng trời, trên tầng cao nhất có Thiên Chúa ngự trong một vùng ánh sáng không một ai đến gần được. Thật là hiếm có những cơ hội mà các tầng trời mở ra và Chúa truyền phán. Theo họ Chúa ở xa đến nỗi người ta chỉ nghe được tiếng phán của Ngài vọng lại từ nơi thật xa mà thôi. Với Chúa Giêsu, tiếng phán của Chúa Cha hoàn toàn trực tiếp. Theo Maccô kể, đây là một kinh nghiệm riêng của Chúa Giêsu chớ không có ý bày tỏ cho quần chúng. Tiếng từ trời không nói “Này là Con yêu dấu của Ta” như Matthêu ghi lại, nhưng phán thẳng với chính Ngài rằng “Con là Con yêu dấu của Cha”. Lúc chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã quyết định phục tùng Chúa Cha và rõ ràng quyết định ấy đã được chấp thuận, không có gì phải nghi ngờ cả.
4) Với Ngài, đó là khoảnh khắc để trang bị. Bấy giờ Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ở đây có ý nghĩa biểu tượng, Thánh Thần đã ngự xuống như chim bồ câu. Hình ảnh dùng so sánh không phải là ngẫu nhiên. Chim bồ câu tượng trưng cho sự nhu mì. Cả Matthêu lẫn Luca đều kể lại cho chúng ta cách rao giảng của Gioan (Mt 3,12; Lc 3,7-13). Thông điệp của Gioan là thông điệp chiếc búa đang đặt gần gốc cây, về việc luyện lọc khủng khiếp, về ngọn lửa thiêu rụi. Đó là một thông điệp cấp báo sự tàn hại, hủy diệt, chứ không phải một thông điệp của những tin tốt lành. Nhưng ngay từ đầu, bức tranh về Thánh Thần được ví sánh với chim bồ câu là một bức tranh nhu mì, hiền dịu. Ngài sẽ chiến thắng nhưng chiến thắng ấy sẽ là chiến thắng của tình yêu.
Nhân dịp một số biến cố, chúng ta đã khám phá được tình yêu Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu chúng ta nhắc lại những biến cố này và tạ ơn Chúa.
Lịch sử cuộc đời chúng ta.
Khi người ta yêu cầu ai đó kể lịch sử đời họ trong một cuộc phỏng vấn hoặc để viết một tiểu sử, người ấy sẽ kể những giai đoạn nổi bật và nối kết những bước ngoặt quyết định với một số biến cố, một số gặp gỡ, một số nơi chốn.
Đôi khi chỉ cần một điệu nhạc ngắn đã đủ khơi dậy một niềm say mê đối với Beethoven hoặc Pink Floyd. Một quyển sách có thể làm cho ta ham thích địa lý hoặc lịch sử. Một cuộc gặp gỡ, một bài diễn thuyết có thể là khởi điểm của một sự nghiệp nghệ sĩ hoặc khoa học. Những biến cố này chúng ta có thể gọi là “biến cố cơ bản”.
Trong một cuộc đời, những biến cố như thế không nhiều lắm và trong số những biến cố ấy, một số sẽ tác động nhiều hơn, nhất là những biến cố đã quyết định những mối liên hệ của chúng ta: bước đầu của một tình bạn, việc lựa chọn người phối ngẫu. Những nơi chốn hoặc giờ giấc đã xảy ra những cuộc gặp gỡ đó ghi dấu sâu đậm nơi ký ức đến nỗi chúng trở thành những biểu tượng thiêng liêng của người yêu hoặc của tình yêu.
Tin Mừng mô tả một biến cố cơ bản như thế đối với Chúa Giêsu: việc Chúa chịu phép rửa trên bờ sông Giođan từ tay Gioan.
“Con là Con Ta yêu dấu”
Không gì có vẻ báo trước sẽ xảy ra một điều đặc biệt khi Chúa tiến đến để hoàn thành nghi lễ thanh tẩy. Bản văn Tin Mừng chỉ kể lại rằng “Vào thời ấy, Chúa Giêsu chịu phép rửa trong sông Giođan”. Không có dàn cảnh, người ta không trải thảm để Chúa Giêsu đi xuống nước. Gioan Tẩy Giả không có vẻ nhận ra Chúa ngay tức khắc. Mọi sự xảy ra nơi Chúa Giêsu là người muốn sống chân thành một kinh nghiệm tôn giáo, muốn thể hiện việc hoán cải theo lời mời gọi của Gioan. Chỉ lúc ra khỏi nước Chúa Giêsu mới ý thức về tầm quan trọng của cử chỉ này. Những gì Ngài vừa mới sống sẽ có một ảnh hưởng rất lớn trên cuộc đời của Ngài. Ngài khám phá rằng Ngài được Thiên Chúa yêu như một người con một, một người con ưu ái: “Cha đã đặt nơi con tất cả tình yêu của Cha”.
Để hiểu rõ hơn kinh nghiệm mà Chúa Giêsu đang sống đây, ta nên nghĩ đến một tiếng sét ái tình. Chính trong bối cảnh này mà ta có thể tưởng tượng Chúa Giêsu ra khỏi nước, trầm lặng, lòng sốt mến, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy một chim bồ câu đang bay. Lúc đó chim bồ câu trở thành biểu tượng thiêng liêng của kinh nghiệm nội tâm của Ngài, của điều Ngài vừa khám phá. Sứ vụ và sự dấn thân của Chúa Giêsu sẽ phát xuất từ khám phá này, từ tiếng sét này. Chim bồ câu sẽ là biểu tượng nhắc nhở Ngài về sứ vụ ấy.
Sống lại phép rửa của chúng ta.
Đi từ phép rửa của Chúa Giêsu, việc Bí tích thánh tẩy được coi như biến cố cơ bản của đời sống Kitô, nghĩa là của sự dấn thân của chúng ta đối với Thiên Chúa và sự cam kết của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đó là khởi điểm cuộc mạo hiểm làm con cái Chúa của chúng ta. Nếu ý thức điều này cha mẹ chúng ta sẽ yêu thương chúng ta bằng một tình yêu hoàn hảo nhất khi giới thiệu với chúng ta một người “Cha” khác, một người Cha lớn hơn các ngài. Rủi thay chúng ta đã không biết gì về biến cố thánh tẩy của mình.
Chỉ dần dần, nhờ những biến cố khác, những sự việc ngẫu nhiên khác chúng ta mới có thể khám phá tình yêu của Thiên Chúa.
Hôm nay Tin Mừng cho chúng ta dịp ôn lại lịch sử tôn giáo của chúng ta và nhắc lại với chúng ta những xúc động mạnh, những lễ hội, những tang chế là những dịp đã mặc khải cho chúng ta tình yêu Chúa. Tôi chắc chắn rằng nhiều người trong anh chị em đang có trong ký ức của mình kỷ niệm về một dịp nào đó đã giúp mình “gặp gỡ” Thiên Chúa.
Kinh nguyện Thánh Thể trong đó lịch sử cứu độ thế giới được tóm tắt lại sẽ giúp chúng ta nhớ lại những biến cố cơ bản của cuộc đời chúng ta trong niềm tri ân.
Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Trong truyện cổ dân gian cũng như trong những bộ tiểu thuyết, có biết bao nhiêu câu chuyện tình thật cảm động, khi hai người đến với nhau mà người bạn đời lại không “môn đăng hộ đối”. Thế nhưng, vì tình yêu, họ đã dám chấp nhận tận cả để có được nhau trong đời, như câu chuyện hoàng tử đi cưới một cô bé lọ lem chẳng hạn. Để ca tụng mối tình vượt không gian và thời gian đó, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Yêu nhau mấy núi cũng leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Yêu nhau chẳng ngại đường xa. Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều”.
Thế nhưng màu nhiệm Con Thiên Chúa làm người là một câu chuyện tình đẹp hơn thế bội phần. Bởi vì vị hôn phu ở đây không phải là một người phàm, nhưng là một vị Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ ngai vàng ở trên trời cao để đến với nhân loại. Như lời bài thánh ca Philipphê: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Hôm nay, Tin Mừng Luca thuật lại việc Đức Giêsu cùng bước xuống dòng nước Giođan để chịu phép rửa bởi tay ông Gioan đã nói lên sự tự hủy đó. Có lẽ đây là biến cố chúng ta đã kỷ niệm nhiều lần, nên thành ra có cảm giác “quen quá hóa nhàm”, mà không thấy được sự cao vời của màu nhiệm tự hủy của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Quả vậy, làm sao chúng ta có thể hiểu được việc Đức Giêsu - Con Thiên Chúa - Đấng hoàn toàn vô tội, lại có thể đứng chung với đoàn người tội lỗi, để rồi cùng bước xuống dòng sông như một tội nhân? Làm sao có thể hiểu được khi mà Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Chính vì thế mà Tin Mừng Matthêu thuật lại rằng: khi thấy Đức Giêsu đến gần mình, thì Gioan tỏ ra bối rối. Ông đã một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giêsu trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." (Mt 3,14-15)
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Một tình yêu đến quên bản thân mình, để cùng sống chết với người mình yêu. Một tình yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để nâng người mình yêu trỗi dậy.
Thánh Macximô Giám mục Tôrinô đã không ngần ngại gọi ngày hôm nay là một “lễ Giáng Sinh nữa”. Thánh nhân lập luận rằng: lễ Giáng Sinh trước, Đức Giêsu được sinh ra trong thân phận con người bởi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Còn hôm nay, Người được sinh ra theo mầu nhiệm. Chúa Cha đã âu yếm nói với Người: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Xưa kia, Đức Mẹ nâng niu âu yếm trong lòng khi con sinh ra, còn hôm nay, Chúa Cha dùng lời chứng thân thương mà nâng đỡ; xưa kia, Đức Mẹ đưa Chúa Con cho các hiền sĩ bái thờ, còn hôm nay, Chúa Cha mạc khải Chúa Con cho muôn dân thờ kính. Xưa kia, Người được sinh ra để thánh hóa nhân loại, còn hôm nay, Người khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc chịu phép rửa, không phải để được nước thánh hóa, nhưng là để chính Người thánh hóa nước, để từ nay ơn thanh tẩy được phân phát cho hậu thế.
Với sự kiện Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Người đã khai mạc một giai đoạn mới trong cuộc đời cứu thế của Người. Người kết thúc cuộc sống ẩn dật và bước vào cuộc đời công khai loan báo Tin Mừng. Đồng thời Người mở ra một kỷ nguyên mới, “kỷ nguyên tân tạo” những gì Adong cũ đã làm hư hoại như lời thánh Phaolô xác quyết: “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thế nào, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống như vậy” (1Cr 15,22).
***
Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, dạy cho chúng ta bài học về sự đồng hành và liên đới.
Muốn đồng hành với người khác đòi chúng ta phải đi chậm lại, đòi chúng ta phải có chung một tâm tình, một lối suy nghĩ giống người khác. Sở dĩ ngày hôm nay, nhiều cặp vợ chồng chưa hiểu được nhau, chưa thể tìm được một tiếng nói chung trong gia đình, là vì họ chưa cùng một lối suy nghĩ. Nếu ai cũng khăng khăng bảo vệ lập trường của mình, thì làm sao mong tìm được một sự đồng thuận! Việc gia đình mà cứ “ông nói gà, bà nói vịt” thì làm sao có thể giải quyết được. Người xưa vẫn nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” là vậy.
Trong việc dạy dỗ con cái, nhiều bậc phụ huynh thường giáo dục theo kiểu áp đặt. Theo các chuyên gia tâm lý, muốn giáo dục con cái, cha mẹ trước tiên phải vừa là người thầy để hướng dẫn, nhưng lại vừa là người bạn để có thể lắng nghe và thông cảm.
Để liên đới với người khác, đòi hỏi chúng ta phải nhỏ bé đi, phải khiêm hạ trong lối sống và cung cách cư xử. Hôm nay Đức Giêsu đánh dấu cuộc đời công khai của Ngài bằng một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút... Bên bờ sông Giođan, Ngài trở nên một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan lúc bấy giờ tiếng tăm đã lẫy lừng. Ngài đã cúi xuống, dìm mình trong dòng sông, để nâng con người lên. Như lời một vị thánh giáo phụ đã từng nói: “Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa”.
Bằng hành động bước xuống dòng nước, Đức Giêsu thực sự muốn đồng cảm với con người, để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người, để cảm nếm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân, để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Học nơi Đức Kitô, chúng ta hãy sống một đời sống khiêm hạ. Hãy để cho Chúa lớn lên trong cuộc đời chúng ta, để Ngài dìu dắt và hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Đức Giêsu đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình bằng việc dìm mình trong dòng nước. Qua phép rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần, chúng ta cũng được mời gọi lên đường để phục vụ anh chị em quanh ta, nhất là những anh chị em đang cần một tình yêu chia sẻ, nâng đỡ và trao ban trọn vẹn. Amen.
Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay khép lại mùa Giáng sinh và cũng là một “sự hiển linh khác” của Đức Chúa. Hôm nay không phải cảnh lặng lẽ trong hang lừa với vài chàng mục đồng chứng kiến. Nhưng, Phép rửa được cử hành như một nghi lễ công cộng với nhiều người xung quanh. Những người này ý thức rằng cuộc đời họ tội lỗi hôm nay đến đón nhận phép rửa của ông Gio-an trong dòng sông Giođan để tỏ lòng sám hối.
Đức Giêsu hôm nay đến cũng bước vào dòng nước ấy, và nhận phép rửa bởi ông Gioan nhưng không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Vì chưng Chúa Giêsu đâu có tội làm chịu phép rửa của ông Gioan để tỏ lòng sám hối. Chúa Giêsu chịu phép rửa là có ý nói lên: từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi. Ngài dìm xuống để vớt mọi người lên và đó là tất cả ý nghĩa đời Người. Cuộc đời của Chúa Giêsu hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi. Cho nên hôm nay Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình có ý loan báo cái chết và sự phục sinh của Người: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại. Cho nên, bài đọc 2, Thánh Gioan đã khẳng định rằng: “Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật”. Vì vậy, Giáo lý Hội Thánh dạy: “Trong cuộc Vượt Qua của mình, Ðức Ki-tô đã khai mở nguồn mạch của bí tích Rửa Tội cho tât cả mọi người. Qủa thật, Người đã nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem như "một Phép Rửa" mà Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị bị đâm thâu của Chúa Giêsu chịu đóng đinh (Ga 19,34) là những điển hình của bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, là những bí tích của đời sống mới (x.1Ga 5,6-8): từ lúc đó, người ta có thể được "sinh ra bởi nước vàThần khí " để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5)” (số 1225).
Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào sự chết và sống lại của Người. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng. Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15). Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266).
Như vậy, khi được Rửa Tội, chúng ta dĩ nhiên cũng được mời gọi tiếp nối sứ mạng liên đới của Chúa Giê-su trong hoàn cảnh của bạn nơi giáo xứ, gia đình, xóm phố, nơi học hành, nơi làm việc... Sứ mạng này không phải là việc tuỳ ý để mình thích làm hoặc không, mà là một bổn phận được lãnh nhận từ Thiên Chúa. Thiên Chúa chờ đợi bạn thi hành bổn phận này là làm cho Nước Chúa trị đến ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Đó là:
Trước hết, chúng ta hãy siêng năng tham gia tích cực các hoạt động trong việc phục vụ Giáo xứ của mình dù có cực nhọc hay khó khăn vì chính những dòng nước khó khăn và cực nhọc ấy sẽ thanh luyện chúng ta khỏi những gì biến nhác và vô dụng trong việc mở mang Nước Đức Chúa Trời. Thứ hai khiêm tốn, cảm thông và tha thứ là những dòng nước của Chúa Giêsu giúp thanh luyện đời sống gia đình mình vượt khổ trong hạnh phúc và bình an đồng thời xây dựng mọi thành viên trong gia đình lớn lên trong ân nghĩa với Chúa và đầy nhân đức trước mặt mọi người. Cho nên, trong bài giảng thuyết về Bí Tích Rửa Tội, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng: “Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta có khả năng tha thứ và yêu thương ngay cả những người xúc phạm đến mình và làm tổn thương mình, chúng ta có thể nhận ra trong những người rốt hết và những người nghèo khổ nhất khuôn mặt của Chúa là Đấng đến thăm và gần gũi chúng ta.” Thứ ba, thật thà, lương thiện và công bằng là những dòng nước rửa và thanh luyện ta đồng thời làm cho ta sống với anh chị em trong khu phố, trường học hay nơi làm việc như thế người ta mới nhận ra Nước Chúa đang hiện diện ở giữa họ. Cuối cùng, tình yêu và bình an là những dòng nước của Chúa Giêsu tới gội đời ta khiến ta cảm nghiệm được sự ấm áp và tươi sáng của cuộc đời dù cuộc đời ta có gian nan khốn khó.
Ước gì, Lời Chúa trong Bài đọc 1 sẽ là điều Chúa muốn chúng ta thực hiện hôm nay rằng: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”. Allêluia.
Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này. Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về. Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao? Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Việc Đức Kitô chịu phép Rửa bởi Gioan đánh dấu bước khởi đầu công cuộc cứu độ của Ngài. Công cuộc trọng đại này là hành động của cả Ba Ngôi, vì chúng ta thấy Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống, đồng thời Chúa Cha phán bảo. Biến cố này rất quan trọng, nên Giáo Hội muốn chúng ta mừng kính riêng trong Chúa nhật hôm nay, tựa như ngày đăng quang của Đức Giáo Hoàng hay ngày nhận chức của một tổng thống.
Đặc điểm chúng ta cần nhấn mạnh đó là Chúa Cha trên trời hài lòng về Người Con yêu quý của Ngài, là Đức Kitô. Có người cha nào lại không vui mừng khi người con của mình khởi sự một chức vụ quan trọng: người cha của một bác sĩ, người cha của một tân linh mục, người cha của chú rể trong ngày cưới. Niềm vui ấy càng lớn lao hơn khi người con ấy vâng phục và tôn kính cha mình.
Đức Kitô là một người con yêu mến và vâng phục Chúa Cha. Đồng thời Ngài luôn khoan dung và khiêm tốn như một kẻ tôi tớ, vì thế, Chúa Cha luôn hài lòng về Ngài. Còn chúng ta thì sao?
Với bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận, chúng ta được mời gọi để nhận biết, yêu mến và phụng sự Cha trên trời, khi chúng ta cố gắng chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, khi chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm của bí tích Rửa Tội, khi chúng ta cố gắng noi theo Người Con Chí Thánh trong sự khiêm tốn và vâng phục, thì chúng ta cũng làm hài lòng Cha trên trời, để rồi trong ngày cuối cùng, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giođan: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.
Ngày xưa người ta có một quan niệm rất ngộ nghĩnh về vũ trụ. Họ chia vũ trụ thành ba tầng chồng lên nhau. Tầng trên cùng là trời hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa cư ngụ. Tầng giữa là đất, nơi loài người và muôn vật sinh sống. Tầng chót là âm phủ, nơi con người sẽ đến sau khi chết.
Từ khi Adong Eva phạm tội, thì tầng giữa, tức thế giới sinh vật ngày càng trở nên tồi tệ. Vì thế, các thánh luôn cầu xin Chúa từ trời ngự xuống để cứu giúp nhân trần. Chẳng hạn tiên tri Isaia đã nài van: Sao Ngài không xé bầu trời mà ngự xuống với chúng con.
Từ quan niệm trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng sáng hôm nay, chúng ta sẽ dừng lại ở ba sự kiện:
Sự kiện thứ nhất, đó là bầu trời mở ra. Và như thế lời cầu xin của các vị thánh ngày xưa đã được chấp nhận. Thiên Chúa đã đến với nhân loại, khởi đầu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử.
Sự kiện thứ hai, đó là Thần khí Chúa dưới hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Sự kiện này nhắc cho chúng ta nhớ lại lúc bắt đầu công cuộc tạo dựng. Thần khí Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Và như thế, cùng với Đức Kitô, Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo, việc canh tân thế giới hay nói cách khác, Ngài thực hiện một công cuộc tạo dựng mới.
Và sau cùng, sự kiện thứ ba, đó là tiếng nói từ trời: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Sự kiện này muốn xác quyết rằng: Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới, là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới này, như lời thánh Phaolô đã viết: Người thứ nhất là Adong từ đất mà ra nên thuộc về đất. Còn người thứ hai là Đức Kitô từ trời mà đến. Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất, tức Adong cũ thế nào, thì chúng ta cũng phải mang lấy hình ảnh con người bởi trời, tức Adong mới như vậy.
Từ đó chúng ta đi tới kết luận: Chúng ta là công dân của hai thế giới, bởi vì chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adong thứ nhất cũng như của Adong thứ hai. Chúng ta chia sẻ sự sống với cả hai vị này. Kinh nghiệm cho thấy: Chúng ta đã từng bị lôi cuốn về mặt xác thịt của Adong thứ nhất, nhưng đồng thời cũng được sự thôi thúc về tinh thần của Adong thứ hai. Chúng ta thường bị xâu xé giữa sự thiện và sự ác, để rồi sự thiện chúng ta muốn thì chúng ta lại không làm, còn điều ác chúng ta ghét thì chúng ta lại làm.
Ý thức được như vậy, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta luôn bước đi trên đường nẻo của Ngài, thực thi những điều Ngài truyền dạy, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được Ngài tuyên phong vào ngày sau hết: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Biến cố ngày hôm nay quả thực đã làm cho chúng ta ngỡ ngàng không ít. Thực vậy, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa nơi một kẻ tội lỗi, trong khi Ngài là người con yêu dấu của Chúa Cha và chính Ngài cũng đã có lần tuyên bố: Ai trong các ngươi bắt lỗi Ta được về sự gì? Thế nhưng, Chúa Giêsu lại là Đấng chuộc tội thiên hạ như có lần Gioan đã giới thiệu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Ngài xoá tội trần gian bằng cách gánh lấy tội ấy.
Hành động chịu phép rửa phải chăng là một sự mở đầu cho sứ vụ của Ngài, đồng thời cũng là một dấu chỉ báo hiệu những gì sẽ xảy đến.
Có một lần, các con của Giêbêđê, bày tỏ ước vọng với Ngài là muốn được ngồi bên tả bên hữu Ngài. Và Chúa Giêsu đã trả lời các ông: Các con không ý thức được điều các con xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy mà Ta phải chịu hay không?
Như thế là còn một cuộc thanh tẩy khác nữa đang chờ đợi Chúa Giêsu. Cuộc thanh tẩy ấy chính là cuộc thống khổ, kết thúc bằng cái chết trên thập giá. Cuộc thanh tẩy ấy được thực hiện không phải chỉ bằng nước sông Giođan và từ tay của Gioan, mà là bằng máu của chính Ngài. Chúa Giêsu chịu thanh tẩy tại sông Giođan là hình ảnh của nhân loại được thanh tẩy trong cái chết của Ngài, được sống lại trong sự phục sinh của Ngài và trở thành những người con của Thiên Chua.
Nơi Đức Kitô, phép rửa hay phép thanh tẩy đã không còn là một nghi lễ, mà đã trở thành một cuộc sống. Tội lỗi đã bị đánh bại không phải bằng nước của phép rửa mà là bằng máu của sự sống. Bí tích thanh tẩy làm cho Kitô hữu trở thành con Thiên Chúa cũng không thể chỉ là một nghi lễ được lãnh một lần rồi thôi, mà phải là chính cuộc sống làm con Thiên Chúa, cuộc sống từ bỏ và đẩy lui mọi tội lỗi. Không phải chỉ là đẩy lui tội lỗi ra khỏi cuộc sống của cá nhân mình, mà còn là ra khỏi nhân loại.
Vì thế, thờ ơ trước những tội ác diễn ra chung quanh, trước những bất công xã hội, trước những vi phạm quyền con người, trước những gian dối và thù hận, người Kitô hữu không còn là người Kitô hữu đích thật nữa vì đã không chu toàn lời cam kết khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Chính qua cuộc sống dứt khoát với tội lỗi mà người Kitô hữu bày tỏ được ý thức của mình về địa vị cao cả mà bí tích Rửa tội đã đem lại, đồng thời làm chứng về tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người Kitô hữu có trách nhiệm phải làm sao để tiếng từ trời cũng được lặp lại với từng người trong nhân loại: Này là con Ta yêu dấu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa. Thêm một lần nữa Kitô-hữu nhận ra Đức Giêsu sống trọn thân phận con người, khi Ngài nhận mình đồng hàng với con người cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Mặt khác, chính khi Ngài yêu thương và đồng hóa mình với anh em, thì Thiên Chúa xác chuẩn Ngài là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ chân tướng của Ngài qua hành vi và cung cách cư xử của Ngài.
1) Đức Giêsu chịu phép rửa
Đức Giêsu được sinh ra trong chuồng chiên cừu, lớn lên và làm việc tại Nazaret. Ngài ăn cùng thức ăn như họ, cùng hưởng bầu không khí như họ, hưởng một nền giáo dục như bao trẻ em làng Nazaret thời đó, đặc biệt nền giáo dục về tôn giáo. Đức Giêsu đã trưởng thành từ làng quê Nazaret, và là người Do Thái hoàn toàn. Khi nghe tin Gioan xuất hiện như một tiên tri, rao giảng mời gọi toàn dân nhận lãnh phép rửa diễn tả lòng sám hối để đón chờ Thiên Chúa can thiệp cứu dân Người, có lẽ Đức Giêsu đã xin phép mẹ Người, tới với Gioan xin ông thanh tẩy cho.
Đức Giêsu đã cùng với bao người Do Thái khác, lắng nghe Gioan giảng dạy, và lần lượt tới để được thanh tẩy trong dòng sông Giordan. Đức Giêsu đã sống như bao người trẻ khác ở Nazarét, và giây phút ở sông Giordan này, Đức Giêsu cho thấy Ngài chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, Ngài là người giữa bao người, Ngài hành xử như tất cả mọi người.
Con người, với thể xác và linh hồn, là thực tại vô cùng cao quý. Con người được mời gọi vươn lên thành con người trọn vẹn, thành thánh, chia sẻ sự sống và hạnh phúc với Thiên Chúa. Con người hình thành chính mình qua cung cách cư xử và chọn lựa của mình. Qua hành vi “xin vâng,” Đức Maria trở nên con người tuyệt vời; qua cách hành xử “của ăn của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta,” Đức Giêsu cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa trong tất cả.
2) Ngài vượt trên tôi, sao Ngài lại đến với tôi?
Theo đức tin của Kitô-hữu, Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng vô tội, vậy tại sao Ngài lại chịu phép rửa? Nếu bảo rằng Ngài chịu phép rửa để làm gương cho con người khi Ngài không cần phải chịu phép rửa, phải chăng hàm chứa nói Ngài “giả hình”, “làm bộ.” Khiêm nhường là sự thật, giả hình hay làm bộ, chẳng làm gương sáng cho ai, mà chỉ là gương xấu.
Đức Giêsu chịu phép rửa thống hối, vì Ngài cần phải chịu phép rửa. Đức Giêsu không làm bộ hay giả hình. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài đại diện con người, Ngài mang nơi mình tội của tất cả con người, nên Ngài thống hối nhân danh tất cả con người: “đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Ngài chịu phép rửa thống hối không phải vì Ngài, nhưng vì Ngài “gánh tội trần gian,” Ngài đại diện con người xin Thiên Chúa tha thứ lỗi lầm của tất cả con người.
Gioan đã nói: “Sao Ngài lại đến với tôi? Tôi mới là người phải đến với Ngài chứ.” Gioan tiền hô đã nhận ra Đức Giêsu là con người đặc biệt, trổi vượt trên mình. Ngày nay, người ta nhận biết chân tính của Đức Giêsu nhờ ánh sáng biến cố phục sinh, nhưng ở thời điểm của Gioan tiền hô, người ta chưa biết điều này. Khi Gioan nhận ra mình “không đáng cởi dây giầy” cho Ngài, Gioan đang làm chứng cho thấy phần nào chân tướng của Đức Giêsu. Đức Giêsu là con người rất đặc biệt.
3) Này là Con Ta rất yêu dấu
Đa số người ta hiểu rằng, Đức Giêsu biết mình là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, nên Ngài biết hết mọi sự. Tuy nhiên có một số nhà thần học, và ngay cả một số tác giả tin mừng cho thấy Đức Giêsu chia sẻ trọn vẹn thân phận con người, nghĩa là, Ngài không biết trước mọi chuyện, có nhiều điều Ngài không biết. Những người này chủ trương, là người thì không ai biết tất cả tương lai mình, nếu Đức Giêsu biết trước hết mọi chuyện thì Đức Giêsu không chia sẻ trọn thân phận con người. Mà theo đức tin Kitô, Đức Giêsu là người trọn vẹn, nên có nhiều điều Đức Giêsu không biết khi Ngài đang sống tại trần gian.
Là người, là chấp nhận đi trong đêm tối của đức tin. Như Abraham ra đi trong niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, cho dù không biết tương lai mình như thế nào, chỉ tin vào Thiên Chúa và lời hứa của Ngài mà cất bước ra đi. Đức Maria thưa tiếng “xin vâng,” cũng không biết rõ tương lai đời mình, chỉ tin tưởng rằng những gì Thiên Chúa phán với mình sẽ được thành sự. Đức Giêsu cũng không biết rõ tương lai đời mình, nên cũng phải sống trong niềm tin tưởng phó thác như bất cứ con người nào khác. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, là Ngài hành xử theo tiếng gọi của tình yêu, Ngài yêu thương con người đến độ muốn mang vác tất cả tội lỗi cho con người. Đây là một hành vi yêu thương và đẹp tuyệt vời, yêu thương con người ngay khi người tội lỗi: bất toàn và gian ác.
Thiên Chúa đã chuẩn nhận hành vi của Đức Giêsu: “Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta hài lòng vì Con.” Theo tin mừng Mác-cô, tiếng này nói cho chính Đức Giêsu. Là người, Đức Giêsu cũng cần một lời chuẩn nhận của Thiên Chúa như bao người khác cần Thiên Chúa chuẩn nhận khi họ được sai gởi thi hành ý định của Thiên Chúa. Hành vi của con người diễn tả chân tướng của họ. Qua hành vi “chịu phép rửa” này, Đức Giêsu biểu lộ chân tính của Ngài: Con Yêu Quý của Thiên Chúa. Đức Giêsu tiếp tục sống, và qua chính cung cách hành xử “yêu thương đến hiến dâng chính mạng sống mình,” Đức Giêsu cho thấy tình yêu của Ngài đối với con người, và cũng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn nghĩ sao về quan điểm: con người hình thành chính mình qua cung cách hành xử và chọn lựa của mình? 2. Bạn có thể trở thành người tuyệt vời không? Bằng cách nào?
Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói:
- Toàn là đồ “năm vố” không à.
Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói:
- Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.
Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi:
- Tại sao con khóc.
Nó trả lời:
- Con không thể cầm lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.
Tất cả chúng ta đều nghe cùng một đoạn Phúc âm, thế nhưng mỗi người lại hiểu và phản ứng một cách khác nhau. Có thể chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện bình thường, chẳng có chi đặc sắc. Có thể chúng ta đã lắng nghe và tiến thêm một bước nữa, đó là tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Có thể ngoài việc học hỏi ý nghĩa, chúng ta còn cố gắng áp dụng vào cuộc sống. Đó là ba bước tiếp nhận Phúc âm: lắng nghe, học hỏi và áp dụng.
Đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay về sự việc Chúa Giêsu chịu phép rửa:
Bước thứ nhất, chúng ta lắng nghe câu chuyện và biết rằng: sau khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì tầng trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra. Và cũng chỉ có vậy mà thôi.
Bước thứ hai, chúng ta đi xa hơn một chút, bằng cách cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện trên. Chẳng hạn hình ảnh trời mở ra cho ta thấy Thiên Chúa đã nghe lời cầu nguyện của dân Ngài và Ngài đang đến để cứu vớt họ. Hình ảnh Chúa Thánh Thần ngự xuống gợi lên cho chúng ta về một kỷ nguyên mới, vũ trụ này được tái tạo để trở nên tốt đẹp hơn, như ngày xưa, khi tạo dựng trời đất, Thánh Thần Chúa cũng đã bay lượn trên nước. Còn hình ảnh thứ ba, có tiếng nói từ trời phán ra:
- Đây là con Ta rất yêu dấu.
Những lời này cho thấy Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Adong mới của cuộc tạo dựng mới, như lời thánh Phaolô:
- Người thứ nhất tức Adong được tạo dựng là con người sống. Nhưng Adong cuối cùng là Đức Kitô, lại là thần khí ban sự sống. Adong thứ nhất bởi đất mà ra. Còn Adong thứ hai thì từ trời mà đến. Như chúng ta đã mang ảnh hưởng của con người bởi đất, tức Adong thứ nhất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mang hình tượng con người bởi trời, tức Adong thứ hai là Đức Kitô như vậy.
Ngoài việc lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa, chúng ta còn phải áp dụng ý nghĩa câu chuyện ấy vào cuộc sống chúng ta.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nhớ lại rằng: Cuộc sáng tạo mới bắt đầu với phép rửa của Chúa Giêsu và đã trở thành một thực tại gắn bó với mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì một cách nào đó, bầu trời cũng mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa.
Và như thế chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với tước vị cao cả ấy. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khuyên chúng ta:
- Anh em đã sống lại cùng Đức Kitô, vậy anh em hãy hướng tâm hồn vào những sự trên trời chứ đừng vào những sự vật của trần thế này.
Trong cuốn sách “Aqua Church”, Leonard Sweet đã đưa ra một thống kê như sau: “Không có nước thì bạn sẽ chết về cả thể lý lẫn tinh thần. Nếu bạn thiếu 1% số lượng nước trong cơ thể sẽ làm bạn khát nước. Nếu thiếu 5% sẽ gây nên sốt nhẹ. Nếu thiếu 8% sẽ làm cho các tuyến hạch ngưng sản xuất nước miếng và da trên cơ thể sẽ tái ngắt. Một người sẽ không thể bước đi nổi nếu thiếu 10% số lượng nước trong cơ thể, và nếu thiếu tới 12% sẽ chết. Mỗi ngày có khoảng 9500 trẻ em chết vì thiếu nước uống hay chết vì những bệnh gây ra do nước bị ô nhiễm”.
Nước mang lại sự sống đời này. Chúa Giêsu cũng dùng nước làm biểu tượng mang lại ơn “tái sinh và được đổi mới trong Chúa Thánh Thần”. Theo linh mục Eugene Laverdiere, trong Phúc âm của Luca và Matthêu, căn tính của Chúa Giêsu được mạc khải qua các biến cố Truyền Tin, Giáng Sinh và các nhà đạo sĩ đến thờ lạy. Thánh Gioan trình bày là Lời Hằng Sống mặc lấy xác thịt để mạc khải về Thiên Chúa Cha. Còn thánh Máccô đã dùng phép rửa của Gioan để nhận Chúa Giêsu là ai: “Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Theo cha Laverdiere, Chúa Giêsu không phải là người tội lỗi, Ngài không cần phải chịu phép rửa của Gioan. Nhưng vì Ngài muốn kết hợp chính bản thân của mình với nhân loại tội lỗi để cứu rỗi họ. Phép rửa của Chúa Giêsu đã công bố Ngài, một con người trong sự liên kết với toàn thể loài người, và điều này đã chứng tỏ ý muốn của Ngài mang lấy gánh nặng của tội lỗi chúng ta trên đôi vai vô tội của Ngài. Trong ý nghĩa này, xin dùng hai hình ảnh cụ thể để minh hoạ cho phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa tội của chúng ta: cuộc chạy đua marathon và cây nến sáng.
1. Cuộc chạy đua Marathon:
Tháng 7 năm 1996, những cuộc tranh tài thể thao Olympic được tổ chức tại Atlanta, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Khi nghe tiếng súng khởi sự, 25 vận động viên chạy đua marathon bắt đầu khởi động cho cuộc chạy thi 10 ngàn mét. Mười ngàn mét là 10 cây số, tức 6 dặm. Trước khi nói về vận động viên Stefano Baldini, tôi xin nói về một chi tiết đáng lưu ý của cuộc thi này như sau. Trong số 25 vận động viên chạy thi lần này, có 7 người chưa bao giờ hoàn tất được cuộc thi, nghĩa là chưa bao giờ chạy về đến đích cho dù mất bao nhiêu thời gian. Họ bỏ cuộc vì chuột rút bắp vế, vì đau chân, kiệt sức… nên họ có tên là DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Stefano Baldini trong cuộc thi này đã cố chạy về tới đích điểm, cho dù hết người này tới người khác vượt qua mặt anh. Họ vượt qua mặt anh không những một vòng chạy mà tới những hai vòng chạy! Một người Ethiopy đã về tới đích trước, đoạt hạng nhất. Rồi người khác về nhì, người về ba. Dần dần tất cả thứ hạng nhất nhì ba đã được công bố, họ đang nghỉ mệt, chúc mừng và sẵn sàng leo lên bệ đài lãnh huy chương. Nhưng anh Stefano Baldini vẫn còn đang chạy. Anh không bỏ cuộc, cứ tiếp tục chạy.
Khi anh về đến đích, xướng ngôn viên của ban tổ chức loan báo cho tất cả hội trường biết rằng anh chỉ về sau người hạng nhất có 2 phút, và tốc độ chạy ở dặm cuối cùng nhanh hơn thời gian anh chạy ở dặm thứ nhất. Khi anh về tới đích thì toàn thể hội trường đều đứng lên vỗ tay chúc mừng và hoan hô anh. Anh đã không chỉ hoàn tất cuộc chạy đua cách can trường mà còn kết thúc nó một cách xứng đáng.
Qua phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu bắt đầu ba năm mục vụ để rao giảng tình yêu và ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Ngài bắt đầu cuộc chạy đua marathon. Theo thánh Máccô, ngay sau phép rửa, Chúa Giêsu vào sa mạc ăn chay, cầu nguyện và bị ma quỷ cám dỗ. Cuộc hành trình của Ngài là cuộc hành trình gian khổ giống như mọi người. Ngài giảng dạy, chữa lành, kể dụ ngôn, ngay cả khi nhiều người không chịu nghe! Ngài không bao giờ bỏ cuộc. Đang khi chết trên thập giá, Ngài giống như là kẻ thua cuộc nhất trên thế gian này. Nhưng lại là lúc Ngài chiến thắng. Đó là phần tốt nhất của Ngài trong cuộc đua. Vì sự vinh quang của thập giá mà bây giờ các Kitô hữu đang vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, chúc mừng Ngài là Đấng Cứu Độ Trần Gian.
Đời sống Kitô hữu cũng giống như một cuộc chạy đua marathon. Nó vừa dài, vừa khó khăn, lại vừa đòi hỏi. Phép rửa tội đưa chúng ta vào khởi động. Đang khi chạy, chúng ta dễ bị nản chí, bỏ cuộc, bởi yếu đuối, cám dỗ… mà quên rằng đích điểm của cuộc chạy đua là sự sống đời đời và sự liên hệ với Chúa Giêsu Kitô. Nhiều khi đích điểm đó đã trở nên mờ nhạt! Chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Mẹ Têrêsa Calcutta, người đã ăn bánh mì chấm với nước lã, chưa bao giờ cân nặng hơn 100 pounds. Tuy nhiên, hãy nhìn vào cuộc chạy đua marathon Kitô hữu của Mẹ! Vào ngày Mẹ chết, mùng 5 tháng 9, 1997, toàn thể thế giới vỗ tay reo mừng. Xưa kia, một phóng viên đã hỏi Mẹ, “Thưa Mẹ, làm thế nào Mẹ có thể làm được như vậy? Làm thế nào Mẹ có sức mạnh để tiếp tục sống như vậy?” Mẹ đã trả lời: “Tôi nhìn vào khuôn mặt của người nghèo mà thấy mặt Chúa Giêsu”.
Trong Chúa Giêsu, Mẹ Têrêsa đã tìm thấy sức mạnh để tiếp tục cuộc chạy đua đường trường marathon. Tình yêu mến Chúa Giêsu là động lực để phục vụ tha nhân và sống bác ái.
2. Cây nến sáng.
Một hình ảnh khác cũng mang ý nghĩa sâu xa của đời sống Kitô hữu, đó là cây nến sáng. Ngày chúng ta chịu phép rửa tội, người đỡ đầu đã đại diện chúng ta đón nhận lấy ánh sáng của Chúa Kitô từ cây nến Phục Sinh. Cây nến Phục Sinh là biểu tượng của Chúa Kitô: “Ta là ánh sáng thế gian”. Chúng ta chấp nhận bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô và làm chứng nhân cho Ngài nên được gọi là người Kitô hữu. Cây nến sáng là hình ảnh cuộc đời của người Kitô hữu.
Cây nến được làm nên bởi sáp ong. Sáp ong là kết quả công trình làm việc rất kiên nhẫn của những con ong thợ. Chúng bay từ bông hoa này sang bông hoa khác để hút lấy phần tinh túy của nhụy hoa, rồi tiết thành sáp ong. Sáp ong giúp cho ngọn lửa cháy sáng. Sáp ong cũng là hình ảnh của thân xác con người. Con người là tinh hoa của công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một tạo vật hoàn hảo và đẹp đẽ nhất trong vũ trụ. Không có thân xác, con người không thể hiện hữu trên trần gian được.
Cây nến cháy sáng lên với ngọn lửa. Ngọn lửa tạo ra ánh sáng và hơi ấm. Anh sáng và hơi ấm làm cho phần sáp ong của cây nến có ý nghĩa và mục đích. Ngọn lửa là hình ảnh của đời sống tinh thần nơi thân xác, là đức tin của người Kitô hữu, là mục đích và ý nghĩa của cuộc đời. Chính đức tin vào Chúa Giêsu Kitô tạo nên ánh sáng hy vọng và hơi ấm tình người trong cuộc đời của người Kitô hữu.
Ngọn lửa luôn cháy thẳng đứng, bất kể cây nến sáp ong ở vào vị trí nào. Dù nghiêng sang bên trái, bên phải, hay ngã đổ xuống, ngọn lửa vẫn luôn cháy thẳng lên. Đức tin Kitô giáo luôn mang tính cách hướng thượng. Nó phản ảnh lòng khát khao sự sống vĩnh cửu, tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa Toàn Năng. Dù cuộc đời người Kitô hữu có nghiêng ngả, chao đảo, đôi khi đổ ngã, nhưng đức tin và đời sống ân sủng của Chúa Giêsu Kitô vẫn luôn hiện diện.
Ngọn lửa càng cháy sáng và hơi nóng càng ấm áp thì cây nến sáp ong càng bị mất mát, ngắn dần và bị tiêu thụ đi bấy nhiêu. Đời sống đức tin của người Kitô hữu đòi hỏi sự hy sinh, quên mình để làm chứng cho Đức Kitô.
John Ruskin, một văn sĩ người Anh sống vào thế kỷ thứ 18, đã kể lại câu chuyện sau đây. Khi về già, ông thường đến thăm nhà của một người bạn rất thân, và đứng ở cửa sổ phía trước nhà nhìn xuống mặt đường. Vào mỗi buổi chiều tối, người thắp đèn đường phải đi đốt đèn dọc theo hai bên đường. Từ cửa sổ của một ngôi nhà, một người chỉ có thể nhìn thấy những ánh đèn đã được đốt lên rồi, và ngọn lửa mà người thắp đèn đang mang đi đốt từ cột đèn này tới cột đèn khác. Chính người thắp đèn cũng không thể được ai nhìn thấy.
Nhà văn Ruskin đã lưu ý rằng người thắp đèn là một hình ảnh rất đúng của người Kitô hữu chân chính. Con đường của người Kitô hữu bước đi rực sáng ánh đèn mà chính người đó đã thắp lên với ngọn lửa đang cháy sáng trong tay để đốt lên các ngọn đèn khác, mặc dù chính người đó có thể không được ai biết đến hay được ai trông thấy.
Trong cuốn “Như Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello, SJ., kể câu chuyện “Thiền Sư Và Kitô Hữu” cũng nói lên lý tưởng của người Kitô hữu như sau:
Một Kitô hữu đến thăm một vị thiền sư và nói: “Xin thầy cho phép tôi đọc thầy nghe Bài Giảng Trên Núi”. Thiền sư đáp: “Tôi rất thích nghe”. Người Kitô hữu đọc một câu rồi ngước mắt lên nhìn. Thiền sư mỉm cười nói: “Đấng đã phán những lời đó chắc chắn phải là một vị Giác Ngộ”. Kitô hữu cảm thấy khoái trá. Ông tiếp tục đọc. Thiền sư ngưng lại rồi nói: “Những lời đó phải phát xuất từ Đấng Cứu Thế của nhân loại”. Người Kitô hữu cảm thấy thích thú. Ông tiếp tục đọc cho đến hết. Lúc bấy giờ thiền sư tuyên bố: “Người đã rao giảng như thế phải là Thiên Chúa”. Nỗi vui mừng của người Kitô hữu thật vô bờ bến. Ông ra về, cương quyết sẽ trở lại một ngày khác để thuyết phục thiền sư trở thành Kitô hữu.
Trên đường về nhà, ông gặp Chúa Giêsu đứng bên vệ đường. Ông đã thưa với Chúa một cách khoái trá: “Lạy Chúa, con đã làm cho người đó xưng ra Chúa là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu mỉm cười và nói: “Con đã làm gì hay đâu, ngoại trừ việc con thổi phồng cái tôi Kitô hữu của con mà thôi?”
Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một “chứng nhân không nhân chứng” cho Chúa Kitô, vì họ không phải là Chúa Kitô, nên cũng dễ bị phản chứng. Đời sống đức tin của người Kitô hữu là một cuộc chạy đua marathon, vì là cuộc chạy đua chưa về tới đích điểm, nên cũng dễ bị mang tên DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, noi gương Mẹ Têrêsa, nếu chúng ta luôn giữ vững niềm tin nơi Chúa Giêsu, chúng ta sẽ hoàn tất cuộc đua. Chúng ta có thể sẽ bị người khác vượt qua. Có thể bị đau chân, chạy cà nhắc vài dặm. Nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ hoàn tất và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”. Và các thiên thần cùng các thánh sẽ vỗ tay hoan hô ngày chúng ta hoàn tất cuộc đua marathon Kitô hữu về tới đích điểm là Nước Thiên đàng.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa chấm dứt mùa Giáng Sinh, bước vào Mùa Thường Niên phần I. Mùa Thường Niên là thời kỳ kính mầu nhiệm Chúa Giêsu ở trần gian. Mùa Thường Niên gồm có 34 Chúa nhật, chia làm hai phần, phần I trước Mùa Chay và phần II sau Mùa Phục Sinh. Sau chu kỳ lễ Giáng Sinh, Chúa Giêsu công khai đi vào đời sống họat động rao giảng tin mừng. Để lời Người rao giảng được thiên hạ chấp nhận, Đức Giêsu được Chúa Cha giới thiệu về thân thế và sự nghiệp. Lời giới thiệu này đánh dấu khởi đầu Nước Trời đã khai mở. Khung cảnh ra mắt Đức Giêsu là sông Giođan. Chúng ta tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của Người.
Khung cảnh được chọn để giới thiệu Con Thiên Chúa là thiên nhiên hùng vỹ có núi đồi bao la có con sông duy nhất chảy từ Bắc xuống Nam. Hiện tượng xảy ra vắn gọn, sau cuộc trao đổi ngắn giữa Vị tiền hô và Đức Giêsu, Gioan Tẩy Giả thi hành sứ mệnh làm phép rửa cho Đức Giêsu nơi sông Giođan, và nầy điều kỳ diệu xảy ra: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’” (x. Bài Tin Mừng. Mc 1, 7-11). Những lời nói nầy rất cô đọng, súc tích, đượm suy tư thần học Cựu Ước. Các nhân vật chính trong buổi lễ ra mắt đó: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần, trước sự chứng kiến của đông đảo nhân chứng và Vị tiền hô, nơi thiên nhiên hoang vắng trời cao, sông dài, núi đồi hùng vỹ, tất cả cho thấy sự hoà điệu giữa thiên, địa, nhân hòa hợp. Chúng ta ta lưu ý đến cụm từ:
“Trời xé ra”, theo người Do thái thì trời là nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại vì tiên tri không còn nữa, không còn sự liên hệ giữa trời và đất nữa, nhịp cầu đã gãy giữa Thiên Chúa và lòai người. Nay thì trời mở ra, sự liên lạc giữa Thiên Chúa và con người được nối lại nơi bản thân của Đức Giêsu, việc này đáp lại lời cầu xin của Isaia trong thời lưu đày, ông cảm thấy Đức Chúa xa cách con người, nên ông lên tiếng nói: “Ước gì Đức Chúa xé trời và ngự xuống”. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Chúa chết: “Màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (Mc 15, 38). Một sự khai mở thông lưu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Con Thiên Chúa đến với trần gian và chính Ngài mở một lối đi cho hết mọi người thành tâm đến với Thiên Chúa. Sự kiện này được tiên báo nơi sông Giođan: “Trời xé ra”, Thiên Chúa ngự xuống với con người. Nhịp cầu gãy vì tội nguyên tổ được nối lại. Đức Giêsu là trung gian duy nhất mang ý nghĩa tròn đầy.
“Thần khí như chim bồ câu ngự xuống trên người ”. Thần Khí ngự xuống trên ai thì người đó được chọn làm người của Thiên Chúa. Ngôn sứ sống dưới tác động của Thần Khí. Ở đây Đức Giêsu được chỉ định làm Ngôn Sứ cho thời đại mới mà truyền thống Do thái hằng mong đợi.
“Lại có tiếng từ trời phán: ‘Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con’”. Tiếng từ trời là tiếng của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa chứng thực sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu. Một câu nói tương tự trong Thánh vịnh 2, 7: “Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”, câu này được được hiểu về Đấng Mêsia, tức là Đấng Cứu tinh. “Con yêu dấu” là cách gọi của ông Ápraham đối với con mình là Ixaác, khi ông định sát tế con để hiến dâng cho Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tha mạng cho Ixaác. Danh xưng này được dùng cho Đức Giêsu, như là Ixaác Mới sẽ bị sát tế sau này trên thập giá.
Thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu được ám tàng nói đến trong lời giới thiệu ngày Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, một tấn kịch đang được khai mở và dần dần sẽ được thực hiện trong năm phụng vụ. Về thân thế, Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa, được Cha tuyển chọn dưới tác động của Thần Khí để trở thành Ixaác-Mới; và sự nghiệp của Người là cứu độ trần gian bằng chịu sát tế trên thập giá, làm lễ vật hy sinh dâng cho Thiên Chúa, nối lại nhịp cầu gãy đổ do tội lỗi của nhân lọai gây ra. Lời giới thiệu trân trọng này của Chúa Cha dưới sự chứng giám của Thánh Thần giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ những lời Chúa nói và những việc Chúa làm, được Giáo Hội tuyên dương trong suốt Mùa Thường Niên.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mặc lấy thân phận tội lỗi của nhân loại để cứu độ nhân lọai, chúng con tri ân cảm tạ Chúa. Xin cho con biết giới thiệu Chúa cho tha nhân qua cuộc sống của chúng con. Amen.
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay kết thúc mùa Giáng Sinh và dẫn chúng ta bước vào ngưỡng cửa của đời sống công khai của Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1 , 6b - 11) trình bày Đức Giêsu là con yêu dấu của Chúa Cha, được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, với sứ mạng cứu độ loài người. Đây là dịp để chúng ta cùng chiêm ngắm về Đấng Thiên Sai và qua đó chúng ta noi gương bắt chước Người.
1. “Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu”. Thiên Chúa đã yêu thương loài người, Ngài đã ban người con yêu quí nhất của Ngài cho loài người. Người Con yêu quí đó đã đến trần gian sống chung với loài người, chịu những cực nhọc đau khổ với loài người. Còn gì nữa? Cuối cùng đã hy sinh mạng sống vì loài người. Còn tình yêu nào cao quí hơn? Đến đỗi Thiên Chúa Cha không thể lặng thinh được nên Ngài phải tuyên bố công khai cho mọi người biết: “Con là Con Yêu Dấu Của Cha, Cha Hài Lòng Về Con”. Tình yêu thương vĩ đại đó đã cải hóa không biết bao nhiêu người. Hơn 2000 năm đã qua ,Tình yêu đó mỗi ngày một lớn mạnh hơn, cũng mở mắt được nhiều người hơn, làm cho nhiều người nhận thấy được Tình Yêu bao la tuyệt vời để quay trở về với Tình Yêu. Mỗi người trong chúng ta đều được hưởng trọn vẹn tình yêu đó. Thiên Chúa mời gọi, giúp đở, dẫn dắt và khuyên nhủ chúng ta trở về với Tình Yêu, và Ngài cũng đã dùng tất cả mọi phương cách có thể được, kể cả khổ nhục kế để mời gọi chúng ta thức tỉnh. Đó là qua những thành công và thất bại của cuộc sống, những lần chúng ta cầu xin mà không được như ý. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa. Nhưng nếu chúng ta chịu mở mắt ra nhìn thì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều tốt đẹp hơn cái mà chúng ta cầu xin. Bao nhiêu lần gặp thất bại, chúng ta có rút ra bài học gì không? Những lần chúng ta được thành công, được may mắn: chúng ta có biết tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn thấy tình yêu thương bao la của Ngài trong những sự tốt đẹp đó. Nếu nhìn thấy được tình yêu, mỗi người nhìn lại xem đời sống của mình đã biến đổi như thế nào?
2. Chúa Giêsu từ Nagiareth đến và xin chịu phép rửa bởi ông Gioan tại sông Giorđan (Mc 1, 8). Qua Tin Mừng Marco, chúng ta nhận ra Đấng mà Gioan loan báo là kẻ có quyền hơn Ngài, và chính Gioan đã xác nhận: “Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền thế hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người” (Mc 1,7). Cử chỉ Chúa Giêsu cúi xuống để cho Gioan làm phép rửa, không chỉ cho thấy hình ảnh của một vị tôi tớ khiêm nhường nhưng còn muốn cho thấy rằng: Ngài tự hạ, Ngài dìm mọi tội lỗi mà chúng ta bị mang lấy trong Ađam cũ. Và cũng từ đó, trong sứ mạng của Đấng Thiên Sai, Ngài đưa lên khỏi nước một dân tộc mới, dân tộc hiến thánh cho Thiên Chúa. Đây là một cuộc tạo dựng mới thay thế cho cuộc tạo dựng cũ đã bị đánh mất nơi Ađam. Để trở thành Chiên Thiên Chúa, và nên Đấng gánh tội trần gian, Người đã chấp nhận để Gioan làm phép rửa cho mình, loan báo một phép rửa mà chính Người sẽ thực hiện trên Thập giá. Tất cả những gì Người làm đều xuất phát do tình yêu thương con người, sằn sàng vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, nhằm mang lại Tình Yêu, Ân Phúc cho con người. Chúng ta thấy những cử chỉ đầy yêu thương của Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta có muốn được Chúa biến đổi nên tốt hơn không?
Trời đã mở ra để ta có thể nhìn ngắm Thiên Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có thể thấy Thiên Chúa nếu tâm hồn chúng ta còn vướng mắc nhiều tội lỗi. Cho nên, chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, những mưu toan bất chính để ta có thể sáng sáng suốt nhận ra ý Chúa muốn và đồng thời mau mắn thực hiện Thánh ý Ngài.
Khi chịu Phép rửa tội, chúng ta thuộc về Đức Kitô, nên chúng ta hãy bắt chước Đức Kitô, chúng ta thấy được sứ mạng cao cả của Người Kitô hữu là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, trở nên tạo vật mới trong Đức Giêsu, mặc lấy tâm tình nhân hậu , sứ mạng yêu thương muốn lôi kéo nhiều người trở về nhận ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa, sống đời khiêm tốn, phục vụ và làm theo thánh ý Chúa, làm cho người khác nhận biết và trở nên môn đệ của Đức Kitô, dù phải chấp nhận hy sinh và từ bỏ mình.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức đến phép rửa mà mình đã lãnh nhận để mỗi ngày trong cuộc sống, ta biết lắng nghe Tiếng Chúa, và biết đáp lại Tình Yêu Chúa cho xứng đáng bằng cách sống tốt đẹp hơn là biết xa lánh, loại trừ tội lỗi, và can đảm bước theo Đưc Kitô, sống trong sạch, thánh thiện để xứng đáng vai trò là con thảo hiếu của Cha trên trời.
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ:
- Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em:
- Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự thật:
- Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như thế, và nhất là hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:
- Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói:
- Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên:
- Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên:
- Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không?
Người nào ý thức về địa vị cao cả ấy sẽ không bảo:
- Tôi đi nhà thờ.
Nhưng nói:
- Tôi đi gặp gỡ và tâm sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người con thố lộ tâm tình với cha mình.
Đây là một việc làm kỳ diệu và tuyệt vời,bởi vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại được tiếp xúc, trò chuyện với Thiên Chúa.
Một người luôn ý thức về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso giờ quên Thiên Chúa là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ:
- Tôi sẽ làm vui lòng Cha tôi ở trên trời.
Khi chiêm ngắm những cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả.
Nhờ đời sống ơn sủng được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Địa vị cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải có những lời nói và những việc làm thích hợp.
Bởi đó, phải sống làm sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghỉa chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.
Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế,trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng sống cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Jordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu thánh giá trên người, chúng ta làm dấu thánh giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo thánh giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo thánh giá trên người, và ước gì thánh giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì thánh giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua thánh giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin mừng.
Tôi thường nghe nhiều người nói với tôi rằng cuộc đời của họ không giống với những gì họ đã nghĩ tưởng hoặc dự định chút nào hết. Một người bạn giới thiệu với ta một công việc mà mà mình không được chuẩn bị để làm nhưng lại mở ra những viễn ảnh bất ngờ; một biến cố không quan trọng đưa chúng ta đi xa hơn những gì mình nghĩ; cuộc gặp gỡ tình cờ với một người mang lại cho chúng ta một khả năng thăng tiến, mở ra cho ta một cuộc sống có một ý nghĩa mới mẻ. Tất cả những tình huống này có thể giúp chúng ta khám phá ra những chiều kích mình chưa biết đến, những khả năng hầu như không bao giờ ta dám nghĩ tới, và đẩy chúng ta vào một cuộc mạo hiểm hoàn toàn bất ngờ, đầy hứa hẹn và thách đố.
Việc Chúa Giêsu đến với Gioan tẩy giả có giống kinh nghiệm của bản thân chúng ta không? Chúa Giêsu có cần nghe nói Ngài là ai và từ nay Ngài phải làm gì với cuộc sống của Ngài không? Ngài đến gặp vị ngôn sứ đang rao giảng việc hoán cải. Ngài muốn nghe tiếng nói của người hô lên trong sa mạc. Ngài quyết định chịu phép rửa như tất cả các bạn đồng hương. Có lẽ với tư cách là người, Chúa Giêsu đã muốn đến tìm nơi Gioan tẩy giả ánh sáng về sứ vụ tương lai của Ngài.
Vì Chúa Giêsu không biết trọn vẹn ý định của Thiên Chúa về Ngài, như biết một sơ đồ của kiến trúc sư. Ngài không có kế hoạch chi tiết về biến cố Tin mừng. Vậy nên Ngài chuẩn bị đón nhận những dấu chỉ mà Thiên Chúa gởi đến cho Ngài. Ngài chuẩn bị nội tâm thuận lợi để có thể đương đầu với một cuộc thách thức. Chính Ngài cũng muốn gặp gỡ Vương Quốc mà Gioan loan báo. Chính Ngài đang sống một cuộc sống sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu đã muốn trà trộn vào đám dân chúng tội lỗi, đồng hóa với họ, khi mà Ngài bước vào một bước ngoặt quan trọng trong đời Ngài. Đây có lẻ là sự phản kháng đầu tiên chống lại giấc mơ của người Do Thái về một Đấng Mêsia chiến thắng.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả bắt đầu biểu lộ căn tính của Ngài. Dường như Gioan có ý thắc mắc về Chúa Giêsu, nhưng câu trả lời của Ngài có vẻ không soi sáng ho chúng ta nhiều hơn về căn tính của Ngài:
“Ta phải thực hiện mọi sự công chính”.
Trước hết là Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Ngài như dấu chỉ cho thấy Thánh Thần ở nơi Ngài. Sau là Chúa Cha tuyên bố về tình yêu của Ngài đối với Con Một Ngài.
“Ta hoàn toàn vui thỏa về người Ta đã chọn”.
Chình lời này đã định nghĩa sứ vụ và định mệnh của Chúa Kitô: Sứ vụ làm chứng rằng Ngài được Thiên Chúa yêu thương, sứ vụ làm chứng rằng mọi con người trước và sau Ngài cũng là con cái yêu dấu của Chúa Cha.
Vậy chính từ một kẻ khác, mà Chúa Kitô đã được mặc khải cho chính mình và cho thế giới, và chính điều này đẩy Ngài vào cuộc mạo hiểm lớn lao của việc cứu độ. Cũng chính từ Chúa Kitô mà chúng ta được mặc khải cho chính mình, nhờ phép rửa:
Các con hãy xem chúng ta được thương yêu dường nào, vì chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và thực sự là như vậy”
Phép rửa tội của chúng ta ban cho chúng ta một sứ vụ.
Với tư cách là con cái Thiên Chúa chúng ta được mời gọi nhìn nhận thực tại này và họa lại cuộc sống của Chúa Giêsu trong đời của chúng ta. Chúng ta phải tỏ ra sẵn sàng “thực thi mọi sự công chính”. Và dấn thân theo gót Ngài để mặc khải tình yêu của Chúa Cha. Như Chúa Giêsu khi ra khỏi nước được tràn đầy Chúa Thánh Thần và được giao cho sứ vụ, cũng vậy phép rửa dìm chúng ta vào nước, để khi ra khỏi nước chúng ta sống một cuộc sống mới. Cuộc sống mới này thúc đẩy chúng ta biểu lộ tình thương xót của Thiên Chúa đối với anh chị em chúng ta, biểu lộ lòng ưu ái đối với những người nghèo nhất và những người bị xã hội bỏ rơi. Chúng ta có ý thức về trách nhiệm này không? Chúng ta có sẵn sàng làm chứng cho đức tin trước mặt những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày không? Chúng ta có sẵn sàng trở thành những chứng nhân của Lời và hành động của Chúa Kitô bằng cách cũng thực hiện những cử chỉ tha thứ, khiêm nhường, bác ái huynh đệ đó không? Chúng ta có ý thức rằng khi chúng ta đón nhận kẻ khác trong những giới hạn, những nỗi yếu hèn của họ, là chúng ta dấn thân theo gót Chúa Kitô không? Qua chúng ta tình yêu của Chúa Cha sẽ được mặc khải cho họ, một cuộc sống mới có thể bắt đầu đến với họ, và cuộc sống này sẽ đưa họ đi xa hơn những gì họ đã dự tính.
Những gì Chúa Cha đã nói về Chúa Kitô, Chúa Kitô cũng nói lại với chúng ta trong phép rửa tội của chúng ta. Chúng ta là những con chí ái của Chúa Cha. Ước gì chúng ta có thể tỏ ra xứng đáng với địa vị làm con Thiên Chúa. Ước gì hồng ân của phép thánh tẩy có thể sinh hoa kết quả để cho Tin Mừng luôn luôn tăng trưởng nơi chúng ta và trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì chúng ta có thể sinh dồi dào hoa trái tình thương, công lý, trung thành và bình an.
Một trong những điều khó hiểu và gây ngạc nhiên không những cho thánh Gioan Tẩy giả khi xưa mà còn cho rất nhiều người qua mọi thời đại là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội lại xếp hàng chung với đám tội nhân và tìm đến với Gioan tẩy giả để lãnh nhận phép rửa xin ơn tha thứ? Thắc mắc ấy chỉ có thể trả lời ấy được theo logic của con tim mà thôi. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã tự nguyện gia nhập vào hàng ngũ những tội nhân vì Ngài muốn liên đới với hết mọi người tội lỗi để giải cứu họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi và ban tặng cho họ nguồn sống đích thực và vĩnh cửu.
Chuyện kể rằng: Ngày kia, một vị quan lớn mở tiệc và mời nhiều người đến dự tiệc. Tất cả những người được mời đến dự tiệc điều ăn mặc sang trọng và dùng những phương tiện tốt nhất để đi đến buổi tiệc hôm ấy. Trong số những khách mời hôm ấy, có một người cụ già. Rủi thay, vì già yếu nên cụ này khi xuống xe đã trượt chân té xuống bùn gần đó. Khách đến dự tiệc được một phen cười no bụng. Cụ già cảm thấy xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng vào phòng tiệc, nên ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi ấy, vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi đến chỗ vũng bùn đó, rồi cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông cũng dơ như cụ già kia. Thấy sự việc như vậy, mọi người chung quanh không dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc và ông cụ không còn lý do nào để chối từ.
Hành vi cố tình té vào vũng bùn của ông quan chủ tiệc xem ra rất khó hiểu. Nhưng nhờ hành động cố tình té ngã đó, ông quan mới có thể đưa ông cụ già vào phòng tiệc. Phải chăng đó cũng là cách ứng xử mà Chúa Giêsu đã từng thực hiện đối với mỗi người chúng ta. Khi sinh xuống làm người, Đức Giêsu đã xin ra trong cảnh cùng cực nhất của kiếp người để Ngài có thể chạm đến được với hết mọi người. Những ai từng bị bỏ rơi, bị khinh khi, bị xa lánh . . . thì nay họ lại được Con Thiên Chúa làm bạn hữu thân thiện nhất của mình. Thử hỏi còn gì danh dự hơn, còn gì an ủi hơn cho chúng ta chăng? Tất cả những gì Chúa Giêsu làm cho con người minh chứng cho chúng ta thấy chúng ta là người được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tự nguyện trở nên một con người bình thường, mờ nhạt giữa những con người danh tiếng để chia sẻ kiếp người với chúng ta, để nâng loài người chúng ta lên. Ngài mặc lấy xác phàm để chia sẻ thân phận đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn của con người. Ngài hoá kiếp phàm nhân để nếm trải nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân. Ngài đang cùng nhịp đập con tim với mọi người để cảm thông và yêu thương tất cả, một sự liên đới của tình yêu.
Đức Giêsu khởi đầu sứ mạng rao giảng của mình bằng việc tìm đến với Gioan Tẩy giả để lãnh nhận Phép rửa của Gioan cho thấy Đức Giêsu là một Đấng Khiêm nhường, một Thiên Chúa khiêm nhườngï vô cùng. Ngài tự nguyện cúi mình sâu xuống tận bùn đen để nâng lên những con người đang chìm sâu trong bùn đen dơ nhớp ấy. Ngài khiêm hạ đến độ làm cho mình trở thành một kẻ vô danh bên cạnh một ông Gioan Tẩy giả đang được mọi người ngưỡng mộ và kính phục. Sự khiêm hạ của Đức Giêsu cho chúng ta thấy một tình yêu sâu đậm mà Thiên Chúa dành cho con người. Quả thật như lời của một thiền sư đã nói: “Thiên Chúa làm người để cho con người lên làm chúa”. Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường. Ta hãnh diện và tin tưởng để nói lên điều đó. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ như thế, Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha xác nhận “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Tôi thích ngắm nhìn cảnh một người cha cúi mình xuống để nâng đứa con nhỏ của mình lên vai của ông và tung tăng vui đùa cùng đứa bé. Đứa bé khi đó tự hào và thích thú vô cùng vì thấy mình được cao hơn cha. Người cha đang xoá mình đi trước đứa con yêu. Ông chỉ muốn tìm đủ mọi cách để cho đứa con của mình được vui cười và thoả thích trong hạnh phúc đơn sơ ấy. Đó cũng là cách thức mà Thiên Chúa luôn hành động trong cuộc đời của con người chúng ta.
Thiên Chúa là Đấng cao sang, vô tội đã tự nguyện liên đới mình với mọi người để yêu thương và nâng đỡ mọi người. Chúng ta hạnh phúc chiêm ngắm tình yêu ấy để an vui mà tiến bước trong tình yêu. Nhưng khi cảm nghiệm hạnh phúc êm đềm ấy, chúng ta cũng phải có sứ mạng tiếp nối và làm cho tình yêu ấy được lớn lên trong cuộc đời này. Chúng ta cũng phải liên đới mình với anh em đang sống chung quanh mình. Cuộc sống bon chen ngày hôm nay rất dễ làm cho chúng ta có thái độ cạnh tranh nhau, chà đạp nhau để vươn lên. Chúng ta bị cám dỗ sống chủ nghĩa “Mackeno” nghĩa là “mặc kệ nó”. Chúng ta đừng nghĩ rằng ai sống chết ra sao mặc kệ họ, miễn sao gia đình tôi, bản thân êm ấm và no đủ là được rồi. Chúng ta nên sống tình lối xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn” có nhau. Chúng ta cũng phải biết cảm thông và nâng đỡ những người nguội lạnh, thăm viếng, an ủi những gia đình đang gặp hoạn nạn, khổ đau. Cầu nguyện cho nhau vẫn là phương thế thực hiện tình liên đới cách hữu hiệu nhất. Đừng bao giờ bỏ qua những gì chúng ta có thể làm được cho người anh em của mình khi họ thật sự cần đến chúng ta. Chia sẻ thật tình với nhau trong những khi cần thiết là chúng ta đang thực hiện sự nối dài của Chúa Giêsu trong sứ mạng của Ngài, sứ mạng liên đới và cứu độ mọi người. Amen.
Tin Mừng hôm nay tả lại một khung cảnh thật tuyệt vời khi Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giodan để cho ông Gioan làm phép rửa. Đây là cảnh của trời đất giao hoà, cảnh đất trời giao duyên, và đây cũng là cảnh trời đất được nối liền trong con người của Đức Giêsu Kitô, có sự xác nhận của Chúa Cha, và có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Cũng là cách nhắc nhở chúng ta đặc biệt hơn sống đúng bổn phận của một người con Chúa, theo gương Đức Giêsu Kitô. Vậy, sống đúng bổn phận làm con Chúa là sống như thế nào?
Chuyện kể rằng: Tôi có quen với một gia đình kia làm nghề mua bán những vật liệu phế thải, (người bình dân gọi họ là những người mua bán ve chai lông vịt). Hằng ngày, vợ chồng họ phải gánh hai cái cần xé đi vào tận các làng quê xa xôi để tìm mua những vật liệu phế thải, rồi chiều gánh về đại lý để cân lại lấy tiền lời sinh sống qua ngày. Chiều hôm đó, cũng như mọi buổi chiều khác, vợ chồng họ gặp nhau ở đại lý, và người vợ cũng hỏi chồng một câu quen thuộc: Hôm nay khá không anh? Anh chồng vừa lắc đầu vừa nói: Cũng như mọi ngày, chả có cái gì quí. Thế rồi chị vợ đến đổ gánh đồ phế thải ra để lựa đồ chờ chủ đến cân, thì chị ta nhìn thấy có một cây thánh giá nhỏ thật xấu xí, đen thui nằm xen trong những mãnh sắt vụn, chị cầm lên và chị nghĩ trong lòng rằng: Đây là vật thiêng của Trời cho, để đem về làm kỷ niệm, vậy là chị bỏ cây thánh giá vào trong túi đem về nhà. Về đến nhà, chị đem cây thánh giá ra chùi rửa, thì thấy nó sáng lên một chút, rồi chị đi tìm đồ để đánh bóng cây thánh giá lên, thì chị thấy đây là một cây thánh giá bằng bạc, trông rất đẹp. Còn đứa con của chị, vừa đi học về, trông thấy cây thánh giá thì thích quá, nó xin mẹ nó cho nó cây thánh giá đó để nó đeo ở cổ của nó, để Chúa phù hộ cho nó.
Qua câu chuyện trên đây, chúng ta thấy có ba con người, và ba con người đó cùng nhìn về một cây thánh giá với ba cách nhìn khác nhau, người chồng nhìn thấy cây thánh giá đó như là một vật phế thải, chẳng có giá trị gì. Người vợ nhìn cây thánh giá đó như là một vật thiêng của trời ban cho. Còn đứa con thì nhìn cây thánh giá đó, nó thấy có Chúa hiện diện, để Chúa phù hộ cho nó. Như vậy, cách nhìn về cây thánh giá của gia đình trên đây cũng có phần tương tự như cách nhìn về Chúa Giêsu trong các bài Phúc âm, mà chúng ta đã được nghe đọc từ hôm lễ Chúa Giêsu giáng sinh cho đến nay. Những người Do thái nhìn vào Chúa Giêsu và họ không thể nào tin được Chúa Giêsu là Đấng cứu thế. Còn ông Gioan Tiền hô, như chúng ta đã thấy trong bài Phúc âm hôm nay, ông nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng cứu thế, là Đấng cao trọng, là Đấng sẽ cứu muôn dân. Và cuối cùng là cách nhìn của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã xác nhận về Chúa Giêsu rằng: Đây là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta. Từ ba cách nhìn trên đây, chúng ta thấy Đức Giêsu vừa là Đấng Cứu thế, vừa là Đấng cao trọng, và vừa là người Con tuyệt vời của Thiên Chúa nữa.
Riêng đối với chúng ta, nếu chúng ta áp dụng ba cách nhìn này vào cuộc sống của con người, thì chúng ta cũng thấy rằng: nếu chúng ta mang cách nhìn thứ nhất, thì chúng ta cũng chỉ thấy mình là một con người bình thường, bé nhỏ, yếu đuối, một con người giống như những người khác vậy thôi. Còn nếu chúng ta có được cách nhìn thứ hai, thì chúng ta sẽ thấy mình là một Kitô hữu, là một giáo dân thuộc giáo xứ… này. Còn nếu chúng ta có được cách nhìn thứ ba, chúng ta sẽ thấy chúng ta là một người con của Chúa, một người được dựng nên giống hình ảnh Chúa.
Nhìn lại bài Phúc âm hôm nay, nếu chúng ta thấy Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu quí của Ngài, thì chúng ta hôm nay là những người con của Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải sống theo gương của Chúa Giêsu, để một ngày nào đó, Chúa Cha cũng xác nhận chúng ta là những đứa con yêu quí giống như Chúa Giêsu vậy, nếu tới lúc đó Chúa Cha nói: Con mất lòng Ta quá, Ta không biết đến con nữa đâu, thì lúc đó ta có hối hận cũng không còn kịp nữa.
Trong mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm con, rồi mới làm cha làm mẹ. Vậy thì như con cái phải làm vui lòng cha mẹ thế nào, thì chúng ta cũng phải làm vui lòng Chúa như vậy. Rồi các bậc cha mẹ ai cũng ước mong cho con cái mình sống tốt thế nào, thì chính cha mẹ cũng phải sống tốt như vậy. Nghĩa là phải sống đạo thật tốt, trung thành với các bổn phận đạo đức, trung thành với bổn phận làm người, sống yêu thương, giúp đỡ, làm tốt các việc thiện, việc lành. Và như thế, là chúng ta được sống trong tình Cha con với Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ nhận chúng ta là những đứa con yêu quí của Ngài.
Xin Thiên Chúa giúp tất cả chúng ta, để chúng ta trở nên những đứa con ngoan của Chúa. Amen.
Tâm lý thường tình của con người là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trổi hơn người khác.
Khi nói chuyện với nhau, người ta thường thích nói về mình: Tôi thế này, tôi thế nọ. Khi ở giữa đám đông, người ta thích làm nổi, thích được chú ý, thích được khen ngợi. Ở trong một tập thể, người ta thích giữ những chức vụ lớn, thích điều khiển người khác, thích làm những công việc được nhiều người biết đến. Khi hội họp, người ta muốn ý kiến của mình được tôn trọng và chấp thuận dù nó không hay bằng ý kiến của người khác… Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác. Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để chiến lấy vị trị của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, dèm pha bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác?... Sự kiêu căng không đem lại điều gì tốt đẹp cho người kiêu căng cả. Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên Thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…
Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong máng cỏ hôi tanh, và chiêm ngắm Người trong biến cố Người chịu phép rửa, chúng ta sẽ thấy mình lố bịch biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình.
Thật vậy,
- Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Người đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giầu sang. Trái lại, Người chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
- Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Người lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi.
- Người là Thiên Chúa của muôn loài, nhưng lại hòa mình với đám đông không tên tuổi để trở thành một người vô danh như họ.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm tốn thẳm sâu của con Thiên Chúa làm người? Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửu trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xóa bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cách Cửu Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.
Thông thường người ta bênh vực cho người công chính, không ai lại bênh vực cho những kẻ quấy. Ông bà nguyên tổ của chúng ta đã đánh mất ơn nghĩa Chúa khi chống lại Ngài và con cháu phải mang hậu quả, hay chống cưỡng ý Chúa và làm theo ý riêng của mình. Thiên Chúa quãng đại đã không chấp nhứt, không phạt đời đời nhưng mở ra một lối đi tìm về chân lý. Chúa hứa ban nhiều ân sủng, giúp con người sống cuộc đời làm con Chúa.
Trong bài đọc I, bài trích sách tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa với tuyển dân: sẽ cho xuất hiện một Đấng cứu tinh. Ngài là một người rất đẹp lòng Chúa. Chúa sẽ nâng đỡ và ban Thần Khí trên Người. Người sẽ xét xử chư dân, sẽ không thiên vị nhưng rất nhân từ. Người không bẻ gẫy cây lao bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói. Người trung thành đem lại lẽ công bình, lo đặt công lý trên địa cầu, mọi nước mong đợi lề luật Người. Người lập giao ước mới và nên ánh sáng của muôn dân, người mở mắt cho người mù, đưa khỏi tù những người bị xiềng xích… Dân Israel mong đợi lời hứa đó, nhưng họ lại không đón tiếp vị Vua thuộc nhóm dân nghèo!
Lời sấm đã được thực hiện trong thời Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Bài Tin Mừng cho chúng ta biết: Đấng thiên Chúa hứa ban để giải thoát dân Israel đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa của mọi dân tộc. Ngài đã bỏ trời xuống thế gian để gánh lấy những đau khổ và phần phạt loài người đáng ra phải chịu vì tội lỗi mình. Ngài đã rửa loài người trong Chúa Thánh Thần. Nhưng trước hết, chính Ngài đã hạ mình mang lấy tội lỗi nhân gian, nhận lấy phép rửa sám hối bởi tay người phàm vì Ngài là Chiên Con Gánh Tội trần gian. Hành động đó rất đẹp lòng Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã làm chứng về Ngài trước mặt Gioan Tẩy Giả và đoàn người đến sám hối: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.
Chúa Giêsu chịu phép rửa dù Ngài vô tội. Vì chúng ta, Ngài mang lấy thân phận tôi đòi. Bao nhiêu tội lỗi nhân gian từ tạo thiên lập địa đến tận thế Ngài gánh lấy. Vì vậy, trong vườn dầu, Ngài đã phải đổ mồ hôi máu, và trong giờ sát tế chiên vượt qua, Ngài phải oằn mình đau đớn trên cây khổ giá dành cho tội nhân. Chỉ những ai hiểu được nỗi khổ đau và sự hy sinh của Chúa Giêsu mới thấy được lòng khoan dung của Chúa đối với tội lỗi nhân loại và nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Chỉ những ai yêu mến Chúa mới thấy tội lỗi mình nặng nề , gớm ghiếc vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa vô biên. Điều nghịch lý là chúng ta, những kẻ tội lỗi lại không dám tỏ lòng sám hối công khai, còn Chúa Giêsu vô tội lại phải xếp hàng trong đám tội nhân để nhận phép rửa sám hối thế cho nhân loại nơi Gioan Tẩy Giả.
Chúa thật nhân từ và đáng mến biết bao vậy mà nhiều khi chúng ta chỉ lo lắng những chuyện trần thế, bỏ quên thiên Chúa, không dành thời giờ cầu nguyện với Chúa, để cảm nhận được tình thương và sự ưu ái của Thiên Chúa đối với chúng ta. Chúng ta hãy xin lỗi Chúa và thành tâm đáp trả lại tình yêu ấy bằng sự hoán cải tận căn, năng lãnh nhận Bí tích Giải tội để Chúa Giêsu ban ơn cho chúng ta sống Tám Mối Phúc Thật, giữ đúng tinh thần Chúa dạy trong Tin Mừng.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng ta hãy chuẩn bị lòng mình thật kỹ, lắng nghe lời Chúa và rước Chúa cho thật sốt sắng để chúng ta cũng được Chúa gọi chúng ta bằng câu nói: đây là những người con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha trong Chúa Ngôi Hai, Con Ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lãnh lấy phần phạt mà loài người đáng phải chịu vì tội lỗi mình. Chúa còn tiếp tục khoan dung nhân thứ cho chúng con những lúc cố tình lỗi phạm hoặc thờ ơ, thụ động trong việc giữ đạo. Xin Chúa ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con biết tin thờ Chúa cho phải đạo hầu ngày sau được về cùng Chúa trên Thiên Đàng.
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay Giáo hội nhắc nhở chúng ta ơn phép rửa mà mỗi người lãnh nhận là một hồng ân cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một cách nhưng không, nó thật cao quý vô cùng không gì có thể sánh được. Chính nhờ phép rửa mà chúng ta được sinh trở lại làm con Chúa. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải như phép rửa của Gioan, chỉ là phép rửa sám hối, nhưng phép rửa mà chúng ta được lãnh nhận “trong Thánh Thần”. Chính điều đó đã được Gioan xác nhận, và thứ hai nữa là một tinh thần tự hạ từ Con Thiên Chúa không chút vết nhơ tì ố lại cúi mình nhận phép rửa từ tay Gioan như một người tội lỗi .
1. Hồng ân nhưng không
Từ ban đầu Thiên Chúa đã dưng nên con người rất tinh tuyền với “sự công chính nguyên thuỷ” nhưng chúng ta đã tự mình đánh mất đặc ân cao cả đó, đang lúc ta là tội nhân, là những con người đáng chết, đáng bị huỷ diệt đời đời, Thiên Chúa không ghét bỏ mà người đã thương nâng chúng ta lên làm con yêu quý của Ngài. Cũng chính nhờ tình thương mà chúng ta được nhận hết ơn ban này đến ơn ban khác. Thiên Chúa ban cho ta rất nhiều hồng ân, nhưng có lãnh nhận hay không là tuỳ ở mỗi người. Trước tiên qua các tiên kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, và đặc biệt là Gioan, người đã đi trước để dọn đường cho Chúa và cuối cùng Thiên Chúa đã ban chính con của người cho nhân loại chính nhờ con của người mà cả thế gian được cứu rỗi. Tuy thế, muốn lãnh nhận được những ơn Chúa ban đòi hỏi mỗi người phải có đức tin. Vì ơn Phép rửa trước hết là ơn đức tin. Nhờ đức tin mà chúng ta biết được Thiên Chúa là ai và mình là ai. Chúng ta biết được mình từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Chúng ta biết được đời sống của chúng ta có ý nghĩa như thế nào. Đó là một hồng ân cao trọng và quý báu mà không phải ai cũng có được điều đó. Vì như thánh Augustinô đã khẳng định “Thiên Chúa dựng nên ta Ngài không hỏi ta, nhưng để cứu chuộc ta Ngài phải cần sự đồng ý của ta”. Chính vì cứng đầu mà nhiều người phải quờ quạng, dò dẫm… không biết đường biết hướng mà đi. Không tìm được lối thoát cho cuộc đời mình. Để rồi thất vọng, chán chường hoặc tìm bù đắp ở những nơi khác như tiền bạc, của cải, danh vọng, thú vui … rồi cuối cùng lại đi vào bóng đêm vĩnh viễn chỉ vì không chịu đón nhận hồng ân của Ánh Sáng.
2. Tinh thần tự hạ, khiêm nhường
Khi đó Gioan đã là một người rất nổi tiếng và có uy tín, đến nỗi có nhiều người còn tưởng ông là Êlia hay một tiên tri nào đó đã sống lại. Hơn nữa, còn có nhiều người lầm tưởng ông là đấng Messia. Vậy mà mà khi so sánh với Đấng mà chính tay ông làm phép rửa hôm nay “Ông không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Có thể dân chúng thời Cựu Ước không thể hiểu được lời Gioan nói đó, và nhất là không thể nào hiểu được ý nghĩa xâu xa như chúng ta hiểu ngày nay. Vì Con Thiên Chúa lại hạ mình xuống như tội nhân thật là một mầu nhiệm vượt quá sức tưởng tượng của con người. Không ai có thể chấp nhận được Con Thiên Chúa là Đấng chí thánh, là Đấng vô tội lại bước vào hàng ngũ của những tội nhân để xin một người phàm làm phép rửa và Thiên Chúa đã xức dầu thánh hiến Ngài để Ngài trở thành ánh sáng chiếu soi muôn nước, để đi tới đâu Ngài thi ân giáng phúc tới đó.Cùng một phép rửa đó để rồi trên thập giá Ngài trở thành tên tử tội, nhưng Ngài vô tội, Ngài đã gánh lấy tội trần gian và cái chết đau đớn nhục nhã của Ngài là giá trị cứu chuộc chúng ta.
Lạy Chúa, chính nhờ Bí tích Rửa Tội mà chúng con được trở nên con cái Chúa. Xin cho chúng con biết nhận ra hồng ân cao quý đó mà luôn sống tốt làm người con Chúa cũng như làm tròn bổn phận mà Thiên Chúa trao phó. Amen.
Trong ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, phụng vụ trình bày cho chúng ta sự kiện chính Thiên Chúa Cha giới thiệu và tuyên bố Chúa Giêsu Kitô, Con của Ngài, là vị cứu tinh cho toàn thể nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ rệt. Phần một diễn tả Gioan làm chứng về Chúa Cứu Thế, Đấng có quyền năng thanh tẩy nhân loại trong Thánh Thần, nghĩa là có sức mạnh chữa lành con người toàn diện, mở ra con đường giải thoát thiêng liêng, và nhóm lên trong lòng con người niềm hy vọng nơi quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Phần hai trình bày sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa và việc Chúa Cha chứng kiến và can thiệp.
Phép rửa mà Gioan thực hiện bằng nước chỉ là hình bóng, là hình thức minh chứng cho người đến chịu phép rửa ý muốn xưng thú tội lỗi, cải hóa nội tâm và trở về đường ngay nẻo chính. Gioan làm phép rửa trong vùng hoang địa dọc bờ sông Giođan. Từ hoang địa nhắc lại giai đoạn lịch sử khi dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ trở về Đất Hứa. Sông Giođan là trở ngại sau cùng mà dân Do Thái phải vượt qua để vào Đất hứa.
Khi xuống dòng sông để cho Gioan thanh tẩy, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ liên đới với nhân loại tội lỗi, một cử chỉ báo trước việc tự hạ đẫm máu của Người trên thập giá, để cho nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa và được cứu thoát. Dòng nước chảy chỉ có năng lực thanh tẩy thực sự trong ngày Chúa Kitô xuống dòng sông để thánh hóa và ban thần lực cho nó.
Điểm chính yếu và mang nặng ý nghĩa trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa chính là lời tuyên bố của Thiên Chúa Cha, một lời tuyên bố vắn tắt, nhưng hàm xúc ý nghĩa sâu xa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. “Là Con yêu dấu” đồng nghĩa với Con duy nhất, nhắc lại sự kiện Abraham đã hiến tế người con duy nhất là Isaac cho Thiên Chúa. “Cha hài lòng về Con” là lời tiên tri của Isaia trong bài ca về người tôi tớ đau khổ, mà Tân ước áp dụng cho Chúa Kitô Cứu thế: “Đây là người Tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến hết lòng. Ta cho thần khí Ta ngự trên nó, nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Lời tuyên bố này chứa đựng niềm tin của cộng đoàn dân ngoại đã khai sinh, ám chỉ sự nghiệp của Chúa Kitô, Đấng mà Môsê mớ sẽ đưa dân qua Biển Đỏ, là Giosuê mới sẽ lãnh đạo và đưa dân ra khỏi dòng sông Giođan, nghĩa là ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi mà vào Đất Hứa, để hưởng niểm vui vì được giải hòa với Thiên Chúa và nhận Thiên Chúa là Cha.
Sau khi ra khỏi dòng sông Giođan, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày để chịu ma quả cám dỗ. Được Chúa Cha ủng hộ, từ nay Chúa Giêsu can trường chấp nhận mọi khó khăn thử thách, có đủ sức để chiến thắng ma quỷ. Người Kitô hữu tin theo Chúa mỗi khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chẳng khác nào như được dìm mình trong dòng sông Giođan, họ sẽ trở nên con cái Thiên Chúa, được lãnh nhận Thánh Thần và được tràn đầy các ân sủng của Thiên Chúa, trung thành với sứ mệnh của mình và bảo toàn nguồn ân sủng thiêng liêng đã lãnh nhận, và họ đã được Thiên Chúa yêu thương sủng mộ.
Xin Chúa cho chúng ta luôn sống kết hiệp với Chúa, để cũng có thể được nghe lời này: “Con là Con của Ta, Ta hài lòng về Con”.
Chúa Giêsu sau khi chay tịnh trong sa mạc trở về, đã đến bờ sông Giodan để xin thánh Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình. Bài Tin Mừng hôm nay chính là kể lại câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan. Thánh Gioan chính là vị đại ngôn sứ được Thiên Chúa sai đi trước dọn đuờng cho Đấng Cứu Thế. Ông đã sẳn sàng lãnh nhận sứ mạng Tiền hô (đi trước để báo – để dọn đường), nên ông làm phép rửa kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối. Phép rửa của Gioan không có giá trị thanh tẩy, nghĩa là không xóa được tội lỗi; nó chỉ nói lên tâm tình của người lãnh nhận, lòng chân thành hoán cải, muốn dứt bỏ tội lỗi. Chính vì lẽ đó, khi Gioan thấy Chúa đến xin chịu phép rửa, ông muốn từ chối: “chính tôi là người cần được Ngài rửa cho” (Mt 3, 14). Nhưng Chúa bảo Gioan cứ làm như thế để trọn lẽ công chính. Lúc đó Gioan mới vâng lời. Đang khi Chúa chịu phép rửa, tầng trời mở ra; Chúa Thánh Thần ngự xuống và cả tiếng Chúa Cha phán trong đám mây, như ta vừa nghe. Đây chính là đề tài mà ta cùng suy niệm trong chúa nhật hôm nay…
a/. Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay có hai điều làm ta phải suy nghĩ:
* Chúa Giêsu vô tội, tại sao phải chịu phép rửa? Giáo lýcông giáo dạy: Chúa Giêsu có hai bản tính: vừa là TC vừa là con người nữa. Chúa sanh ra làm người y như ta, dù vô tội, Chúa vẫn muốn chịu phép rửa của Gioan để tự đồng hóa, để nên ngang hàng như tội nhân, vừa nêu gương khiêm nhường, vừa nhắc nhở ta khiêm tốn ăn năn vì tội lỗi của chính mình. Đây chính là một tấm gương cao cả, vì con người chúng ta tội lỗi ngập tràn, nhưng thường chúng ta lại không khiêm tốn ăn năn, trong khi Chúa Giêsu là Đấng vô tội lại hạ mình ngang hàng với tội nhân. Thánh Phaolô nói: “Chúa Giêsu dù là TC,..đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang TC, mà mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống hệt một người phàm.”(Phil 2, 7). Về điểm này, thực ra, chúng ta không làm sao hiểu nổi tình yêu của TC dành cho con người chúng ta.
* Đang khi Chúa chịu phép rửa, có Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống và có cả tiếng Chúa Cha phán từ trong áng mây:
Chúng ta nên nhớ, đây là lúc khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng của Chúa; chính vì thế khi Người chịu phép rửa, Phúc âm ghi lại: có Chúa Cha chứng giám: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, có cả Chúa Thánh Thần hiện diện nữa. Đây chính là lúc quan trọng. Chúng ta biết Chúa Giêsu không làm bất cứ điều gì mà không theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Người cũng không làm bất cứ điều gì, mà không theo ý Chúa Cha; nghĩa là Chúa luôn vâng phục Chúa Cha, trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần. Việc Chúa khởi đầu ra đi rao giảng, vẫn luôn có Ba Ngôi hiện diện và chứng giám. Chính Chúa Cha chúc lành, và Chúa Thánh Thần ban sức sống. Đó chính là mầu nhiệm Ba Ngôi hiệp nhất. Thánh Phaolô đã nói: “Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.” (Phil 2, 8). Ta thấy trong đời Người, chỉ có một lần Chúa Giêsu nan nỉ Chúa Cha, đó là trong vườn Giếtsêmani: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin Cha cho Con khỏi uống chén này.” Nhưng rồi sau đó Chúa lại nói: “nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi.” (Mc 14, 36).
b/. Câu chuyện: Thánh Giêrađô, là người Ý, tu sĩ của Dòng Chúa Cứu thế (1726-1755). Thánh nhân được coi là một tấm gương thánh thiện, vâng lời tuyệt hảo. Một hôm cha bề trên có việc sai thầy Giêrađô sang thành lân cận. Vì đường xa, nên cha bề trên bảo thầy: “nhớ dắt lừa theo mà đi”, có ý cho thầy đở mệt nhọc, lại vừa đi mau về mau nữa. Thầy đã ra đi, nhưng mấy hôm sau mới về tới nhà. Cha bề trên liền hỏi: “Bộ thầy không đi bằng lừa sao?” Giêrađô trả lời: “Dạ có.” “Thế sao thầy về trể vậy?” “Dạ vì cha bề trên bảo con dắt lừa theo, nên con dắt mà không có cỡi, nên đi hơi lâu.” Cha bề trên cười xòa, nhưng cũng hiểu ra thầy muốn làm một việc hãm mình, để dâng cho Chúa. (Lm Hồng Phúc, dcct)
Ngày nay, nếu có một tu sĩ nào mà cư xử như thế, ta sẽ cho là điên, là “mát”, có khi còn đuổi không cho ở trong nhà tu nữa; nhưng ta thử nhìn lại: coi chừng Chúa Giêsu có khi còn bị coi là khờ, là “mát” hơn cả thánh Giêrađô nữa. Ở đây, người ta vẫn thắc mắc: Chúa Giêsu đã vô tội, vậy mà “mắc mới” gì phải xin thánh Gioan rửa cho mình? Dưới cái nhìn kiêu căng, không khiêm tốn tự bản chất, người ta khó mà hiểu được việc làm của Chúa Giêsu.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu, dù vô tội vẫn đến xin thánh Gioan làm phép rửa cho mình, đây là một mẫu gương khiêm nhường cao cả. Phần chúng ta là con người, với muôn tội lỗi ngập tràn, thực ra ta có đủ khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, nhất là ta có đủ khiêm tốn đến tòa cáo giảng khi mình có tội không?
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu đến sông Giođan để chịu phép rửa. Qua cử chỉ dìm xuống nước, Chúa Giêsu nuốn mặc lấy thân phận yếu đuối của con người, Ngài là Thiên Chúa gánh tội trần gian. Tưởng niệm biến cố này, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta nhớ lại những cam kết của phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Qua phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập, Ngài cho chúng ta được dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Cùng với Ngài, chúng ta chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ để được tham dự vào vinh quang phục sinh của Ngài. Cử hành cái chết và sự phục sinh của Ngài trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ trong cuộc sống của chúng ta.
Trong các dòng sông nổi tiếng trên khắp thế giới hẳng dòng sông Giođan phải là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cáh đón nhận phép rửa bởi Gioan tẩy giả cử hành. Chính tại dòng sông này, khi dìm mình xuống nước, Chúa Giêsu đã tỏ bày sứ mệnh của Ngài, đó là “gánh lấy tất cả tội lỗi của nhân loại”
Là Đấng vô tội, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với người tội lỗi qua cử chỉ dìm mình trong dòng nước, đồng thời Chúa Giêsu loan báo chính cái chết mà Ngài sẽ trải qua. Phép rửa trong sông Giođan là hình bóng của phép rửa đích thực mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện, đó là cái chết của Ngài. Từ cạnh sườn Người khi máu và nước chảy ra, Chúa Giêsu đã khai mở một dòng sông mới để từ đó tất cả những ai đến dìm mình vào đều nhận được sức sống mới.
Tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta nhớ lại phép rửa mà chúng ta được dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu. Dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu là gì nếu không phải là tiếp tục đi lại con đường tử nạn của Ngài. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải là một nghi thức bùa chú. Người lãnh nhận bí tích rửa tội không đương nhiên trở thành một con người thánh thiện được miễn trừ khỏi những cám dỗ và yếu đuối trong cuộc sống. Có biết bao người lãnh nhận phép rửa để mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng cuộc sống của họ không bao giờ là một tiếp tục cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: “Người tín hữu Kitô cần phải tiếp tục những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu”. Chịu phép rửa là khởi đầu một cái chết, là bước vào một cuộc chiến đấu, chiến đấu chống lại con người cũ của tội lỗi, chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu cơn cám dỗ trong và ngoài con người của chúng ta. Chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu sức mạnh của sự chết như ích kỷ, hận thù, chia rẽ, đố kỵ…
Tưởng niệm phép rửa mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta về chính những cam kết mà chúng ta đã đoan hứa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, đó là cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Hằng ngày mỗi lần chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá là mỗi lần chúng ta được mời gọi để nhớ lại lời cam kết ấy.
Trên đường tiến về Jêrusalem, khi các môn đệ tranh luận về quyền bính, vương quốc tương lai của Ngài, thì Chúa Giêsu đã hỏi các ông: “Các con có sẵn sàng uống chén đắng mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Ngày nay trong từng giâh phút của cuộc sống, Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế: “Các con có sẵn sàng chịu phép rửa mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Chúng ta đang trải qua không biết bao nhiêu những khó khăn, thử thách và cạm bẫy trong cuộc sống. Sống một cách thiết thực phép rửa chính là sống từng giây phút trong cuộc sống bằng sự phấn đấu, bằng tinh thần từ bỏ và lòng tín thác của Chúa Giêsu. Và chúng ta tin rằng nhờ nguồn nước từ cạnh sườn mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, chúng ta cũng được trong bị để chiến đấu và nhờ đ1o chúng ta được tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
Nói đến tình bạn tri kỷ thắm thiết, người Việt Nam chúng ta không bao giờ quên được đôi bạn tri kỷ Lưu Bình, Dương Lễ. Họ đã yêu thương nhau thật sự, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những việc làm trong suốt cả cuộc đời.
Trong những ngày đầu mới gặp nhau; Lưu Bình là một công tử nhà giàu, phong lưu, tốt bụng. Nhưng vì của cải, tài sản quá nhiều, anh ta chỉ biết lo hưởng thụ mà không nghĩ đến tương lai. Còn Dương Lễ là một sĩ tử nghèo lại hiếu học. Đôi bạn tri kỷ gặp nhau, mặc dù tài sản bên ngoài chênh lệch, nhưng họ có được điểm chung đó là lòng nhân. Lưu Bình lo cho Dương Lễ thành tài, còn chính mình thì không biết lo cho bản thân. Dương Lễ rất đau xót nhưng đành chịu.
Thời cơ đã đến. Lưu Bình sa cơ thất thế, tài sản khánh kiệt, chạy tìm đến người bạn nghèo năm xưa mà mình đã giúp đỡ. Nhưng anh ta đã thất vọng và bị đuổi ra khỏi nhà. Cô đơn, chán nãn vì thế thái nhân tình. Anh gặp được một người con gái xa lạ giúp đỡ. Anh quyết lập nên công danh để trả thù người bạn bạt ơn đã đuổi anh ra khỏi nhà.
Có chí thì nên. Lưu Bình đã công thành danh toại. Anh trở về tạ ơn người đã giúp đỡ mình, nhưng tìm hoài chẳng thấy. Anh đến nhà người bạn để đòi lại sự công bằng. Nhưng anh không thể nào đòi được, vì anh nhận thấy tình thương quá lớn lao, so với khổ nhục kế mà người bạn đã xử dụng để biểu lộ tình thương đối với anh. Vì yêu thương mà người bạn đã hy sinh người vợ yêu quí của mình, cho đến để giúp đở, cứu vớt, bằng cách: cùng chịu gian khổ, chia sẻ những vất vả, và đem anh về con đường ngay chính. Tình yêu đã làm cho người bạn sáng mắt, và tình yêu đã làm cho tình yêu của họ càng thêm vững bền.
“Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu”.
Thiên Chúa đã yêu thương loài người, Ngài đã ban người con yêu quí nhất của Ngài cho loài người. Người Con yêu quí đó đã đến trần gian sống chung với loài người, chịu những cực nhọc đau khổ với loài người. Còn gì nữa? Cuối cùng đã hy sinh mạng sống vì loài người. Còn tình yêu nào cao quí hơn, và có mối tình tri kỷ nào vượt xa hơn được? Đến đỗi Thiên Chúa Cha không thể lặng thinh được nên Ngài phải tuyên bố công khai cho mọi người biết: “Con là Con Yêu Dấu Của Cha, Cha Hài Lòng Về Con” .
Tình yêu thương vĩ đại đó đã cải hóa không biết bao nhiêu người. Trải qua 2000 năm lịch sử, Tình yêu đó mỗi ngày một lớn mạnh hơn, cũng mở mắt được nhiều người hơn, làm cho nhiều người nhận thấy được Tình Yêu bao la tuyệt vời để quay trở về với Tình Yêu.
Mỗi người trong chúng ta đều được hưởng trọn vẹn tình yêu đó. Thiên Chúa mời gọi, giúp đở, dẫn dắt và khuyên nhủ chúng ta trở về với Tình Yêu, và Ngài cũng đã dùng tất cả mọi phương cách có thể được, kể cả khổ nhục kế để mời gọi chúng ta thức tỉnh. Đó là qua những thành công và thất bại của cuộc sống, những lần chúng ta cầu xin mà không được như ý. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa. Nhưng nếu chúng ta chịu mở mắt ra nhìn thì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều tốt đẹp hơn cái mà chúng ta cầu xin. Bao nhiêu lần gặp thất bại, chúng ta có rút ra bài học gì không? Những lần chúng ta được thành công, được may mắn: chúng ta có biết tạ ơn Thiên Chúa, để nhìn thấy tình yêu thương bao la của Ngài trong những sự tốt đẹp đó. Nếu nhìn thấy được tình yêu, mỗi người nhìn lại xem đời sống của mình đã biến đỗi như thế nào? Tình yêu của Dương Lễ thể hiện qua người vợ yêu quí đã cảm hóa được chàng lãng tử Lưu Bình. Còn Tình Yêu bao la tuyệt vời của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, không ảnh hưởng gì đến chúng ta sao? Con Thiên Chúa đã sống kề cận với chúng ta, Ngài dùng tất cả mọi phương tiện đã ban cho, để mời gọi chúng ta quây trở về với con đường ngay chính. Chẵng lẽ trải qua bao nhiêu năm của cuộc đời, qua bao nhiêu năm mang danh nghĩa là người công giáo, chúng ta không thể động lòng trước tình yêu bao la tuyệt vời của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta nhìn lại xem: đời sống hiện tại như thế nào? Có tốt hơn trước hay tệ hơn? Chúng ta có tìm cách thay đỗi cuộc sống cho xứng đáng với tình yêu của Người Bạn Tri Kỷ đã hy sinh vì chúng ta chưa?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Tiếng Chúa, và biết đáp lại Tình Yêu Chúa cho xứng đáng bằng đời sống tốt đẹp hơn.
Bảy trăm năm về trước, tiên tri Isaia đã mô tả về đấng cứu thế, không phải với những đường nét của một vị đế vương hùng mạnh, nhưng với đường nét của một người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê.
Và ngày hôm nay, những đường nét ấy bắt đầu được thực hiện nơi Đức Kitô. Ngài là một bậc thầy dịu hiền, kiên nhẫn và khoan dung, cố gắng làm cho muôn dân nước nhận biết khuôn mặt và giới luật của Thiên Chúa. Nhìn vào cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ nhận thấy đúng như tiên tri Isaia đã loan báo:
- Này là tôi tớ mà Ta đã lựa chọn. Ngài sẽ không bẻ gãy cây sậy đã bị dập nát, không thổi tắt tim đèn còn leo loét…
Ngài không đến để đè bẹp muôn dân, nhưng đến để thiết lập công bình và rao giảng chân lý. Ngài sẽ mở mắt cho người mù, dẫn khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa khỏi ngục những người còn ngồi trong tăm tối.
Đúng thế, nhân loại như một kẻ bị đui mù bởi những đam mê dục vọng bất chính, thì ngày hôm nay Ngài đến để đem lại ánh sáng. Ngài không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác, mà còn thực sự giải phóng tâm hồn chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi bằng tình thương và ơn tha thứ.
Và cũng ngày hôm nay, nơi dòng nước sông Giocđan, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Từ lời xác quyết của trời cao, chúng ta nhận biết Đức Kitô chính là người đầy tớ, người con yêu dấu của Thiên Chúa, đem lại cho tất cả chúng ta lời giao ước và ánh sáng, chân lý và tự do. Hay nói một cách khác, Ngài đến để cứu chuộc chúng ta. Tuy nhiên, Ngài muốn chúng ta, những người Kitô hữu trên khắp cùng bờ cõi trái đất, cộng tác với Ngài để cùng làm việc cho nước Ngài được trị đến.
Jacques Loew, trước kia là một người vô thần, sau đó đã quay về với Chúa và trở nên một linh mục thuộc dòng Đa minh. Ngài có một đam mê về Đức Kitô, ngài sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để đem Tin Mừng đến cho những anh em nghèo túng và bất hạnh. Ngày kia, ngài đi dạo tại thành phố Marseille, vừa đi vừa suy nghĩ, phải làm thế nào để thực hiện cái ước vọng tông đồ của mình?
Như được Chúa soi sáng và kêu mời, ngài bỗng dưng đi tới quyết định: Để chống lại sự đau khổ và nghèo túng, thì chỉ có một phương thế, đó là hãy sống đau khổ và nghèo túng.
Đây không còn là những giây phút để ngồi nghiên cứu sách vở, thế là đi xuống chợ ngài mua một cái mũ và một bộ quần áo lao động như mọi người, rồi sau đó đi làm việc cực nhọc và sống với những người nghèo túng.
Và cứ thế tiếp diễn hơn 20 năm cuộc đời của ngài, để rồi cuối cùng ngài đã tìm thấy ngôn ngữ và phương cách truyền bá Tin Mừng cho người nghèo, để họ cũng nhận ra rằng: Nước Thiên Chúa đã trị đến.
Nỗi đam mê của các vị tông đồ nhiệt thành là như thế. Còn chúng ta thì thế nào? Chẳng lẽ chúng ta đành bó tay hay sao?
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây: Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo nàn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép rửa cho?
Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.
Chỉ có tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giorđan.
Chỉ có tình yêu mới làm cho Con Thiên Chúa tự che khuất sự cao sang thánh thiện, để dìm mình trong phép rửa “thống hối”.
Chỉ có tình yêu mới làm cho Đấng Cứu Độ sống như người cần được cứu độ.
Phép rửa hôm nay chỉ là khúc dạo đầu của bản trường ca tình yêu. Để rồi vì yêu thương, từ đây Con Thiên Chúa sẽ bị người đời liệt vào: “Tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Bị người nhà coi là “kẻ mất trí”. Bị xua đuổi ra khỏi thành. Bị lên án như một tội nhân. Và bị chết treo giữa những tên trộm cướp. Đến nỗi thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Đấng chẳng hề biết tội là gì thì Thiên Chúa đã làm cho Người thành tội vì chúng ta”.
Đức Giêsu gọi cuộc thương khó của Người là một “phép rửa”. Người trầm mình trong đau khổ để mang lại ơn cứu độ cho mọi người: “Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên các Kitô hữu, “con cái yêu dấu” của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi đi loan báo tin vui cứu độ, rằng Thiên Chúa yêu thương con người. Chúng ta được mời gọi đặc biệt để mang tình yêu Chúa đến cho những người cùng khổ, những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị sa ngã trong tội. Martin Luther King có nói: “Hãy yêu thương mọi người đừng vì thiện cảm; cũng không vì cách sống của họ dễ mến, dễ thương. Nhưng vì chính Thiên Chúa ở trong họ”. Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu.
Trong biển đời mênh mông này, mỗi người đều không ngừng thay đổi cả hướng tốt lẫn hướng xấu, chúng ta chớ cho rằng mình đã hiểu tới chân tơ kẽ tóc một ai đó. Cứ nghe theo trái tim mách bảo mà quảng đại trao ban.
Zundel viết: “Đừng để ai trong những người anh em của chúng ta có thể phàn nàn, rằng họ chẳng gặp được lòng nhân hậu của Thiên Chúa nơi chúng ta”.
Có vị sư nọ gặp ở giữa đường một viên ngọc quí. Vì nghĩ rằng mình là người tu hành không cần chi thứ đó, nên ông đem giấu viên ngọc này ở một gốc cây.
Ngày nọ có người hành khất đến ăn xin. Ông không có gì cho anh. Bỗng nhớ lại viên ngọc, nhà sư chỉ cho anh chỗ giấu. Người ăn xin đến gốc cây và tìm thấy viên ngọc. Cầm ngọc quí trong tay, người ăn xin rất đỗi vui mừng, nhưng anh ta suy nghĩ: Tại sao vị sư lại chấp nhận sống nghèo khó trong khi có một viên ngọc quí giá thế này? Sau một thời gian suy nghĩ, anh cầm ngọc quí trả lại cho nhà sư và nói:
“Bạch thày, con thấy trong lòng thày có một sự giàu có to lớn, đến nỗi thày không thiết đến viên ngọc này. Vậy con chỉ xin thày cho con sự giàu có trong lòng thày mà thôi”.
Câu chuyện tới đây là kết thúc, nên chúng ta không biết nhà sư có chỉ cho người ăn xin “sự giàu có bên trong” của ông không, nhưng Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Giữa dòng người chen lấn nhau xuống sông Giorđan để xin Gioan làm phép rửa cho, tại sao chẳng một ai nhận ra Đức Giêsu, duy chỉ mình Gioan nói: “Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!”. Phải chăng Gioan đã nhận ra “sự giàu có bên trong” của một con người rất đỗi bình thường ấy? Và chúng ta đã không phải đợi chờ lâu. Khi Gioan từ chối làm phép rửa cho Đức Giêsu, thì Người đã trả lời: “Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”. Giữ trọn đức công chính cũng có nghĩa là chu toàn thánh ý Chúa. Chính vì thế, khi Đức Giêsu vừa chịu phép rửa, Chúa Cha đã tuyên phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Như vậy, sự giàu có đích thực không phải là thu tích cho nhiều của cải châu báu, mà là luôn giữ trọn đức công chính, là tuân hành thánh ý Chúa, là trở nên con yêu dấu của Cha.
Chính để sống đẹp lòng cha, mà người Con đã từ trời xuống thế, mặc kiếp phàm nhân để cứu độ muôn người. Hôm nay, Người kết thúc giai đoạn ẩn dật ở Nagiarét, để khởi đầu sứ vụ công khai rao giảng. Người đi xuống Giorđan, để dìm mình trong dòng sông sám hối. Tiếng Giorđan trong ngôn ngữ Do thái có nghĩa là “người đi xuống”. Vì sông Giorđan quá thấp, thấp hơn mặt biển gần 400 mét. “người đi xuống” ấy không phải ai khác, chính là Con Chúa, Đức Giêsu Kitô. Người không chỉ xếp hàng chung với tội nhân, mà còn đồng hóa mình với tội nhân, để chết thay cho tội nhân. Chính nơi bờ sông, người ta mới có được sự yên tĩnh nghỉ ngơi, xa phố thị ồn ào. Nhìn dòng sông lững lờ trôi, lắng nghe dòng sông nhiều điều mách bảo.
Nếu Con Thiên Chúa đã chấp nhận hòa mình trong dòng người tội lỗi, có lẽ nào chúng ta lại dám nghĩ mình nhân đức thánh thiện hơn anh em.
Nếu Đấng Thánh vô cùng đã tự nguyện dìm mình xuống dòng sông sám hối, có lẽ nào chúng ta lại ngần ngại cúi mình lãnh nhận ơn tha thứ.
Lớp da cũ sau một lần tắm gội đã biến thành bùn đất. Con người cũ sau một lần đổi mới đã trở nên con người mới. Hãy ngẩng cao đầu đi giữa nhân sinh.
Chúa nhật cuối cùng của Mùa Giáng sinh thường được dành để kỷ niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của thánh Gioan Tiền hô tại sông Giorđan. Đây cũng là một cuộc hiển linh của Thiên Chúa nói chung và của Chúa Giêsu nói riêng, vì trong biến cố này Thiên Chúa muốn loan báo và mạc khải cho mọi người biết về Thiên Chúa và một số chân lý khác.
Trước hết, mạc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là một lần mạc khải công khai có cả Ba Ngôi cùng hiện diện: Ngôi Cha chỉ xuất hiện qua tiếng nói: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Ngôi Con là Chúa Giêsu, Đấng nhận phép rửa, đang hiện diện cụ thể ở sông Giorđan. Ngôi Ba Thánh Thần, xuất hiện qua hình ảnh chim bồ câu.
Thứ hai, mạc khải Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa Cha đã xác nhận và giới thiệu điều này và kêu gọi mọi người hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu, hãy đến với Ngài để đón nhận nguồn hồng phúc vô biên của Thiên Chúa.
Thứ ba, mạc khải ý nghĩa và giá trị phép rửa của Chúa Giêsu. Chính thánh Gioan đã khẳng định điều này: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần”.
Xin chia sẻ một điều về ý nghĩa và giá trị cao quí của Bí tích Rửa tội. Chúng ta biết phép rửa của Gioan Tiền hô chỉ là một nghi thức tượng trưng, có mục đích nhắc nhở và thúc giục người ta ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Phép rửa này không có khả năng tẩy xóa tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh. Bởi vì phép rửa này không phải là một bí tích, đúng như thánh Gioan đã quả quyết, đồng thời Ngài cũng giới thiệu một phép rửa khác, phép rửa của Chúa Giêsu, là phép rửa bằng Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng tới nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngoài, còn thực sự là được rửa bằng Thánh Thần, biến đổi con người tội lụy nên con Thiên Chúa, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nước trời.
Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh và vào đạo của Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được sinh lại làm con cái của Chúa và gia nhập vào Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội coi bí tích tửa tội như một cuộc tái sinh, người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Có một cụ già, mãi tới khi 80 tuổi mới lãnh nhận phép rửa tội. Bắt đầu từ đó cụ sống một đời rất gương mẫu. Hai năm sau, cụ hấp hối. Có người muốn biết cụ bao nhiêu tuổi. Cụ dõng dạc trả lời: “Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước khi rửa tội là những năm chết. Tôi mới bắt đầu sống thật khi tôi chịu phép rửa tội”. Thật là chí lý.
Bí tích Rửa tội quí trọng vô cùng, là cửa đưa chúng ta vào đoàn chiên của Chúa là Giáo Hội, vào hàng ngũ con cái Chúa, đồng thời từ đây chúng ta được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Chúa Kitô. Mỗi Kitô hữu là một Đức Kitô thứ hai. Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao quí của chúng ta. Tước hiệu ấy không mua bằng tiền bạc. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ lạc, hội hè, mà phải luôn chiếu tỏa trong từng giây phút của cuộc sống.
Nhưng phải chăng nhiều người trong chúng ta đã là Kitô hữu một cách miễn cưỡng? Đức tin chưa phải là niềm vui sống mà chỉ là một mớ những ràng buộc khiến chúng ta cảm thấy nặng nề, khó khăn? Ngoài những ràng buộc của luân lý Kitô giáo và gánh nặng của những sinh hoạt đạo giáo, biết đâu nhãn hiệu Kitô hữu lại không là đầu mối của biết bao kỳ thị, thiệt thòi trong cuộc sống của chúng ta? Chúa Kitô đã mang lại cho chúng ta cuộc sống mới của những người con Thiên Chúa, cho dầu cuộc sống ấy có thể tạo ra nhiều ràng buộc, có thể đòi hỏi nhiều hy sinh và chiến đấu, có thể gây nên những phiền toái, thua thiệt… nhưng đó là giá để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Đàng khác, chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta đã sống ơn cao quí này như thế nào? Cha trên trời có hài lòng về chúng ta không? Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán: “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con”. Còn chúng ta thì sao? Nếu như bây giờ, nhận định về chúng ta, Chúa Cha sẽ nói thế nào? Chúa hài lòng hay Chúa phải buồn rầu, đau lòng và than phiền?
Chúng ta hãy nhớ: ơn cao trọng và cao quí nhất khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội là ơn được làm con Chúa. Vậy chúng ta phải luôn cố gắng sống xứng đáng là những người con mà Chúa hài lòng về chúng ta.
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hằng năm đánh dấu một giai đoạn mới của năm Phụng vụ. Giai đoạn 1 của mùa Thường niên được bắt đầu với lễ này. Quan trọng hơn là với lễ này chúng ta được nhắc nhớ lại biến cố có một không hai trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để cùng chịu phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả như bao nhiêu người khác. Biến cố này đánh dấu một bước ngoặc mới trong cuộc đời của Người.
Sau ba mươi năm sống ẩn dật, hôm nay Chúa Giêsu chính thức công khai thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha là Người đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại. Vì vâng nghe theo thánh ý đó nên Chúa Giêsu đã được Chúa Cha long trọng tuyên bố: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con" (Mc 1, 11)
Trọn cả cuộc đời của Chúa Giêsu, Người luôn xem thánh ý Chúa Cha là ưu tiên một. Cho nên, Người luôn vâng theo tất cả những gì Chúa Cha muốn. Thực sự thánh ý Chúa Cha chỉ vì yêu thương con người đang sống trong lầm than khốn khổ vì tội lỗi và sự chết.
Có thể chúng ta sẽ cho rằng Chúa Cha sao độc ác với Chúa Cha Con Một của mình quá. Trong bài đọc 1 chúng ta sẽ thấy Chúa Cha qua tiên tri Isaia cho biết: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9). Do đó, theo cách hiểu của hạn hẹp của con người, chúng ta chỉ hiểu được tất cả chỉ vì yêu thương con người nên Chúa Cha mới đành lòng như thế.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philipphê đã ca tụng Chúa Giêsu: “Ðức Giê-su Ki -tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự ”( Pl 2, 6 - 8)
Một trong những ơn của Bí tích Rửa tội là chúng ta được làm con Chúa Cha. Như thế, chúng ta cũng sẽ được Chúa Cha nói con là con yêu dấu của Cha nếu chúng ta biết sống như Chúa Giêsu đã sống. Thánh ý Chúa Cha năm nay đang được thể hiện qua thư mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục. Ðó là những những bậc làm cha mẹ hãy cố gắng củng cố gia đình của mình bằng đời sống đức tin gương mẫu.
Nhiều người trải qua những giây phút mang tính cách quyết định trong cuộc đời. Họ tiến gần đến những ngã tư đường, mà tại đó, họ đối diện với những chọn lựa khác nhau về cơ bản, mà sau đó, cuộc đời họ sẽ không bao giờ trở lại giống như trước nữa.
Có thể có lúc tâm trí con người được soi sáng. Nếu con người biết đáp ứng lại ân sủng đó, thì họ được cất nhắc lên khỏi chính mình, và bắt đầu đi trên một con đường mới. Nếu không biết đáp ứng lại ân sủng đó, thì cơ hội đó có thể mất đi mãi mãi. Shakespeare nói một câu tương tự như sau:
“Trong những vấn đề của con người, có một ngọn sóng xuất phát từ triều cường, đưa đến vận may; do bị bỏ qua, nên tất cả hành trình của cuộc đời họ đều bị ràng buộc vào những chỗ nông cạn và đau khổ”.
Giây phút quyết định này có thể xô đẩy trên con người, tựa như một tiếng sét bất ngờ. Điều này xảy đến cho một người dân ở Dublin, tên là Matt Talbot. Anh rất đam mê uống rượu. Ngày kia, anh đang đứng bên ngoài quán rượu, van xin những người mà anh cho là bạn bè của anh, để được uống rượu. Nhưng họ bỏ đi. Đột nhiên, anh sáng mắt ra. Anh nhận thấy rằng anh đã tự hủy hoại cuộc đời mình, và anh quyết định bỏ uống rượu, và nhờ ơn Chúa giúp, anh còn nỗ lực nên thánh nữa.
Hoặc giây phút quyết định này có thể đến với con người một cách từ từ, như đã xẩy ra với mẹ Têrêsa. Mẹ đã từng làm việc từ thiện trong một trường dòng ở Calcutta. Nhưng trong thời gian đó, càng ngày mẹ càng cảm thấy áy náy trước sự kiện những người nghèo khổ không được ai quan tâm chăm sóc, nằm lăn lóc trên vệ đường ngay bên ngoài bức tường nhà dòng. Một ngày kia, mẹ rời khỏi nhà dòng, và đến làm việc giữa những người nghèo khổ. Tên của mẹ đã trở thành một tấm gương điển hình về lòng tận tụy đối với những người bị bỏ rơi.
Đức Giêsu cũng biết đến những giây phút đó trong cuộc đời của Người. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ ra cho chúng ta một trong những giây phút quyết định đó – sự kiện Người được thánh Gioan tẩy giả làm phép rửa trên sông Giorđan. Đây là một điểm xoay chuyển trong cuộc đời của Người.
Trước khi diễn ra sự kiện này, Người đã sống một cuộc sống rất âm thầm và an toàn trong một ngôi làng thợ mộc ở Nagiarét. Nhưng trong suốt thời gian đó, Người đã được nghe thấy một tiếng gọi đến với một công việc nào đó quan trọng hơn. Thế rồi một người anh em họ của Đức Giêsu là Gioan bắt đầu công cuộc rao giảng và làm phép rửa cho mọi người. Đột nhiên, Đức Giêsu từ bỏ lối sống cũ của Người, và chọn lựa một lối sống mới – lối sống của một thày giảng dạy về mặt thiêng liêng, và chữa lành bệnh cho các anh chị em của Người.
Kể từ giây phút đó, cuộc đời của Người sẽ không bao giờ như trước nữa. Người đã tự phát hiện ra chính bản thân và ơn gọi thực sự của Người. Tất cả những phẩm chất còn ẩn giấu của Người về sự quan tâm chăm sóc và đầy yêu thương, được phát triển âm thầm tựa như hạt lúa mì trong một cánh đồng, thì nay đã tự tỏ hiện ra, và diễn tả đầy đủ.
Hầu hết chúng ta đều đã từng biết đến những giây phút chứng thực cho những thời điểm mang tính cách quyết định trong cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, có thể chiều hướng của cuộc đời chúng ta không phải là kết quả của một số quyết định, nhưng là của hàng loạt những quyết định nhỏ bé. Thỉnh thoảng, chúng ta cần phải nhìn vào chiều hướng cuộc sống của mình. Nếu không hài lòng với các sự việc đang diễn tiến, thì chúng ta nên thử thay đổi. Có lẽ chúng ta đang đi vào lối sống xáo mòn. Trong trường hợp đó, chúng ta nên cố gắng thoát ra khỏi lối sống đó.
Trong lúc lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta chỉ ra một hướng sống đặc biệt. Thiên Chúa muốn chúng ta được sống, và sống dồi dào (Bài đọc 1). Nơi phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, chúng ta trở thành những môn đệ của Đức Giêsu. Chúng ta được kêu gọi chiến đấu chống lại sự dữ, và sống yêu thương nhau (Bài đọc 2).
Vấn đề cuối cùng đối với người Kitô hữu là: Liệu tôi có thực sự sống theo phương hướng mà tôi đã được chỉ cho thấy, trong ngày lãnh nhận phép rửa tội không?
Hầu như những bông hoa ở dãy núi Alpes luôn bừng nở ngay khi đụng chạm vào tia nắng mùa xuân. Chúng có khả năng đáp ứng rất nhanh chóng, bởi vì chúng vẫn đang âm thầm phát triển dưới lớp vỏ đầy tuyết của trái đất, và đang chờ đợi được mở cánh cửa để bung ra. Chúng chín mùi đối với tiếng gọi của mùa xuân, chín mùi để phát triển và bừng nở.
Đức Giêsu đã sống 30 năm tại Nagiarét. Tại sao Người chờ đợi quá lâu như vậy? Phải chăng Người chỉ lãng phí cuộc đời của mình một cách vô ích? Không gì có thể vượt qua sự thật được. Ơn gọi đòi hỏi một thời kỳ huấn luyện và đào tạo. Những sự việc sâu xa đã trải qua hình thành nên nhân cách của một người, đó là những sự kiện tạo nên tính cách của người đó. Con người phải sẵn sàng trải qua một thời gian học hỏi.
Trước hết, Đức Giêsu đã sống một cuộc sống thật sự và đích thực. Người bắt đầu bằng cách làm, trước khi Người khởi sự đi rao giảng cho người khác. Người phải đảm bảo sao cho khu vườn của riêng mình bừng nở, trước khi chỉ cho người khác cách thức chăm sóc khu vườn của họ.
Trong suốt 30 năm sống tại Nagiarét, Đức Giêsu đã âm thầm phát triển trong sự khôn ngoan và ân sủng. Người ta đã hình dung về Đức Giêsu như một người con trai tử tế, mang một nét gì đó khác biệt, và ngoài ra nơi Người, có một vẻ thường xuyên chăm chú. 30 năm là một thời gian dài. Tuy nhiên, nên có một thời gian chuẩn bị tương đối dài, thì tốt hơn là bắt đầu trước khi sẵn sàng. Trong suốt những năm tháng âm thầm đó, Đức Giêsu đã phát triển đến mức độ chín mùi.
Khi cuối cùng tiếng gọi đến, không có gì xa lạ đối với Người nữa. Tiếng gọi này luôn luôn ở trong Người, nhưng Người không thể vội vàng được. Người không thể thực hiện theo tiếng gọi đó sớm hơn. Tương lai phải đi vào trong con người chúng ta, trước khi điều đó xảy ra. “Khi vận mệnh đến với một người từ bên trong, từ nơi sâu thẳm nhất trong nội tâm người đó, thì vận mệnh này làm cho họ trở nên mạnh mẻ, biến họ thành thượng đế” (Hermann Hesse).
Đó là tiếng gọi phục vụ những anh chị em của Người. Đức Giêsu đã chín mùi đối với tiếng gọi này. Và thời điểm cũng chín mùi. Khi thánh Gioan bắt đầu một phong trào hoán cải, trở về với Thiên Chúa, thì một ngọn sóng đang tuôn trào.
Chúng ta cũng cần được làm cho chín mùi. Khi không chín mùi, thì người ta không có khả năng đáp ứng một cách đúng đắn được. Khi đưa đến cho ai điều gì, trước khi người đó được chuẩn bị để đón nhận điều này, thì chỉ là sự lãng phí. Chúng ta phải chờ đợi yếu tố tự nhiên.
Chúng ta học hỏi được sự kiên nhẫn từ nơi thiên nhiên. Thiên nhiên có thời điểm của nó. Chúng ta nhận thấy sự đâm chồi ở các loại củ diễn ra từ từ. Quả nào thiếu mất một giai đoạn trong quá trình phát triển của nó, thì không bao giờ đạt được sự phát triển.
Chúng ta cũng được mời gọi phát triển trong sự khôn ngoan và ân sủng. Đức Giêsu phải mất 30 năm mới tiến đến sự trưởng thành và đạt được sự khôn ngoan. Chúng ta sẽ mất suốt cả cuộc đời để phát triển, trưởng thành, và chín mùi trong tư cách là những con cái của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự kiên nhẫn và sức mạnh, để nuôi dưỡng những hạt mầm mà Người đã gieo nơi chúng ta trong ngày sinh nhật thiêng liêng của chúng ta – ngày lãnh nhận phép rửa tội – cho đến khi chín mùi.
Mahatma Gandhi không phải là một Kitô hữu, tuy nhiên, ông vẫn là một trong những người giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ này. Albert Einstein đã nói về ông “Các thế hệ sắp tới sẽ nhận thấy thật khó tin rằng một con người giống như ông, mà lại đã từng sống trên trái đất này”.
Gandhi là một người đối lập đáng tin cậy của chế độ đẳng cấp trái với đạo lý ở An độ. Ông ám chỉ điều đó như là “một vết nhơ trong linh hồn của An độ”. Ông đặc biệt ghê tởm cách đối xử ban phát đối với những kẻ tiện dân – những người không thuộc về đẳng cấp nào cả. Họ bị ngăn cản không được vào các đền thờ. Trong các thành phố và tỉnh lỵ, họ bị giam hãm trong những khu nhà lụp sụp, và chỉ được phép làm những công việc lao động hèn mọn nhất. Họ bị cấm sử dụng những nguồn suối trên toàn đất nước.
Trong cuộc hành trình đi khắp đó đây, Gandhi được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt. Khi ông đi vào một ngôi làng, vị tộc trưởng của ngôi làng đó sẽ mời ông ở lại đêm tại nhà ông ta, tại đó, chắc chắn ông được mời tắm rửa, ăn uống và có chỗ ngủ đêm tươm tất. Nhưng Gandhi lịch sự từ chối những thứ người ta dành riêng cho mình. Ông hỏi “Những kẻ tiện dân của các bạn đâu? Tôi sẽ ở lại với họ”. Và ông đã làm như vậy, mặc dù hành động của ông gây sốc cho những vị tộc trưởng của ngôi làng.
Gandhi ở giữa những kẻ tiện dân, trong các túp lều ở khu vực ngoại ô của ngôi làng. Và họ đã mở rộng vòng tay đón tiếp ông. Ông tiếp xúc với họ, ăn uống với họ, và chơi đùa với con cái của họ. Một lần kia, ông nói “Tôi không có ước mong được sinh lại lần nữa. Nhưng nếu điều đó xảy ra, thì tôi mong muốn lại được sinh ra giữa những kẻ tiện dân, để tôi có thể thành công trong việc giải thoát họ và bản thân tôi, khỏi tình trạng khốn khổ”.
Gandhi đã ra khỏi lối sống của mình, để hòa đồng với những kẻ tiện dân. Khi Đức Giêsu xếp hàng sau những người tội lỗi, trong khi chờ đợi được chịu phép rửa của thánh Gioan, đó là một hành động hòa đồng phi thường. Người đã hòa đồng với loại người mà Người đến để giải thoát, nghĩa là những kẻ tội lỗi. Không chỉ những kẻ tội lỗi, mà còn những người nghèo khổ, bị áp bức, mà vào thời đó, tạo thành đa số dân cư đang sống đầy rẫy ở Palestine. Thật vậy, Người nói với họ “Ta đứng về phía anh chị em”.
Điều mà Đức Giêsu làm trong ngày đó đã được coi như một mẫu thức cho sứ vụ công khai của Người. Người không tự giữ mình tách lìa khỏi những kẻ tội lỗi. Người không chờ đợi họ đến với mình. Người tìm kiếm họ, và trở nên bạn bè đối với họ.
Đức Giêsu không đứng sang một bên, hoặc tự đặt mình ở trên những kẻ tội lỗi mà Người đến để giải thoát. Người đã tự đứng giữa họ. Người đi cùng với họ đến nơi nào họ sống. Thậm chí Người còn bị tố cáo là một kẻ tội lỗi, và đã bị đối xử như một kẻ tội lỗi.
Động cơ thúc đẩy Người hành động chính là lòng thương xót. Người là một tôi tớ mà Thiên Chúa gửi đến để đem Tin Mừng cho kẻ nghèo khổ. Và Thiên Chúa rất hài lòng về Người, và về sứ vụ mà Người đang bận rộn tiến hành. Bằng cách thế của Người, Đức Giêsu chỉ ra cho chúng ta tình yêu của người đối với chúng ta.
Mặc dù hoàn toàn không phạm tội, nhưng Đức Giêsu đã mang trên thân mình Người tình trạng tội lỗi của chúng ta. Người không đứng cách biệt khỏi chúng ta, nhưng tự đặt mình bên cạnh chúng ta, với tư cách là một người anh cả. Người muốn dẫn đưa chúng ta ra khỏi tình trạng khốn khổ của tội lỗi và sự chết nơi chúng ta. Người mong muốn chúng ta có được sự sống ở đời này và đời sau.
Hôm nay, mở trang Tin Mừng ra ta không chỉ thấy hình ảnh "lạ" mà còn "độc" theo ngôn ngữ của các bạn trẻ ngày nay.
Đúng vậy! Không chỉ "lạ" mà còn "độc" bởi lẽ nhân vật chính trong trang Tin mừng hôm nay không ai khác ngoài cái nhân vật "lạ" mang tên Giêsu xuất hiện. Trước đó, mọi người đều thấy Gioan xuất hiện và Gioan "to còi".
Ngày hôm ấy, tại cái bờ sông Giođan, có thêm "người ấy" xuất hiện nữa. Và, như thường ngày, người ta vẫn chú tâm đến Gioan bởi lẽ đã quá quen với hình ảnh Gioan và nghe tiếng của Gioan rồi. Nhưng, ngạc nhiên rằng hôm ấy Gioan lại cất tiếng nói: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”
Hóa ra người quan trọng mà mọi người lầm tưởng không phải là Gioan mà là "người ấy", cái "người" mà xếp hàng đi theo đám người hôm nay nhận phép dìm của Gioan nơi dòng sông Giođan. Không còn gì để giấu diếm, Gioan đã nói rằng: "Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.” Vấn đề là chỗ đó bởi lẽ Gioan chỉ làm phép rửa bằng nước thôi.
Người "lạ" mà "độc" hôm nay chính là người mà Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa, từ ngày mà Ađam đã phản nghịch cùng Thiên Chúa.
Nhớ lại, ở vườn địa đàng, ngày hôm ấy Ađam cũ đã bước vào cuộc đời này và đã bước quá "mạnh" để rồi phạm tội. Tội của Ađam cũ là bất tuân thì Ađam mới đến để sửa lại cái cũ, sửa lại tội nguyên tô cho con người như sách Isaia nói:
Đức Chúa phán:
“Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và hết lòng quý mến, Ta cho thần khí Ta ngự trên người ; người sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Người sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Người sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Người không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được người chỉ bảo. a là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.”
Ađam mới là như thế! Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ trần gian là như thế! Ngài đã đến trong thế gian này trong thân phận làm người như mọi người chỉ trừ tội lỗi. Chúa Giêsu đã bước một bước rất đẹp vào cõi đời này nhưng không như Ađam là bước vào để dính vào tội lỗi nhưng bước vào và bước thêm bước nữa xuống dòng sông Giođan để cùng lãnh nhận phép rửa như con người để đồng hóa với con người trong thân phận con người để cứu con người.
Rất quen thuộc hình ảnh trong đời thường của chúng ta. Những ai vì lý do nào đó mà rơi xuống nước thì buộc lòng người khác muốn cứu phải nhảy xuống dòng nước để đưa con người kém may mắn đó lên.
Chúa Giêsu cũng đã "nhảy" xuống trần gian để cứu con người như vậy.
Ta thấy ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không như chúng ta nghĩa. Là con người tội lỗi nhưng rồi Chúa đã đưa con người tội lỗi lên được làm con Thiên Chúa và không những thế những ai lãnh phép rửa thì được tham dự vào chức vụ tư tế - vương đế - ngôn sứ của Thiên Chúa nữa.
Ân huệ, hồng ân của bí tích Thánh Tẩy là một hồng ân tuyệt vời và hồng ân cao cả nhất của đời chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Anh em không biết rằng tất cả chúng ta là những người đã được lãnh nhận phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô hay sao? Thế nên, chúng ta đã được chôn táng với Người trong sự chết bởi bí tích rửa tội, để như Chúa Kitô nhờ vinh quang của Chúa Cha mà sống lại từ trong kẻ chết thế nào, chúng ta cũng bước đi trong cuộc sống mới như vậy" (Rm 6, 3-4).
Vì phép rửa là một việc trầm mình vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô mà phép rửa Kitô giáo đã có một giá trị cao cả hơn rất nhiều những lễ nghi làm phép rửa của Do Thái và của dân ngoại, những lễ nghi gột rửa tượng trưng cho việc thanh tẩy song không có khả năng xóa bỏ tội lỗi. Trong khi đó phép rửa Kitô giáo là một dấu hiệu thực sự thanh tẩy lương tâm và thứ tha tội lỗi. Phép rửa Kitô giáo còn phát sinh một tặng ân cao cả hơn nữa, đó là một sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh, là tặng ân biến đổi tội nhân đến tận gốc rễ.
Thánh Maccô thì đã ghi lại lời sau hết Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ của Người cho thấy cả đức tin lẫn bí tích rửa tội là đường lối duy nhất dẫn đến ơn cứu độ: "Ai tin và lãnh nhận phép rửa sẽ được cứu độ; còn kẻ không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16, 16). Và để ghi lại lệnh truyền giáo Chúa Giêsu đã bảo các Tông Ðồ, thánh Mathêu nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa phép rửa và việc rao giảng Phúc Âm: "Các con hãy đi tuyển mộ môn đồ khắp mọi dân nước, rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19).
Thánh Phaolô đã cho thấy hiệu qủa chính yếu của bí tích rửa tội khi thánh nhân viết cho Kitô hữu giáo đoàn Galata: "Tất cả anh em đã lãnh nhận phép rửa trong Ðức Kitô thì anh em đã mặc lấy Người" (Gl 3, 27). Kitô hữu mang sâu xa nơi mình hình ảnh Chúa Kitô, ở tại tặng ân họ được trở thành những đứa con thừa nhận thần linh. Chính là vì đã "rửa trong Chúa Kitô" mà Kitô hữu là "những người con cái của Thiên Chúa" một cách đặc biệt. Bí tích rửa tội làm nên một cuộc "tái sinh" thực sự.
Chúa Giêsu đã gánh tội trần gian trên cuộc đời của mình như Chiên Thiên Chúa như Thánh Gioan đã nói. Ngài đã đi vào đời để nhận lãnh tất cả tội lỗi cho con người được cứu. Tình yêu của Chúa Giêsu là một tình yêu bao la, tình yêu vô bờ bến đề rồi Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người… Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5, 14tt).
Thật sự không phải dễ sống như lời Thánh Phaolô mời gọi. Nếu sống được như thế quả là điều tuyệt vời. Thế nhưng, con người của chúng ta vẫn mang trong mình vết tích của Ađam cũ là dễ quay lưng lại với Thiên Chúa và khước từ Thiên Chúa dẫu rằng chúng ta đã nhận phép rửa có khi là vài chục năm rồi.
Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhớ chúng ta bí tích Thanh Tẩy mà chúng ta nhận bao nhiêu năm qua và chúng ta sống bí tích Thanh Tẩy như thế nào trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta có can đảm dìm mình như Chúa Giêsu đã dìm mình trong Thánh Thần để chúng ta được tinh tuyền hay không?
Chúa Giêsu đã đến trong thế gian này và đã sống trọn cuộc đời vâng phục. Kim chỉ nam của đời sống là lời vâng phục. Chỉ có lời vâng phục mới làm cho ta sống tròn vẹn phép rửa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn luôn biết sống vâng phục để ta được Thiên Chúa nói với chúng ta như nói với Chúa Giêsu xưa bên bờ sông Giođan: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”