Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày - Thứ 2 TN –Tuần 27/2025 - TẾT TRUNG THU

Chủ nhật - 05/10/2025 06:13
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày - Thứ 2 TN –Tuần 27/2025 - TẾT TRUNG THU

Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày - Thứ 2 TN –Tuần 27/2025 - TẾT TRUNG THU

Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
Thứ 2 TN –Tuần 27/2025 - TẾT TRUNG THU
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------

Thứ Hai tuần 27 thường niên. – 06/10 – TẾT TRUNG THU.. 1
Lời Chúa: Lc 10, 25-37. 2
Suy niệm 1: Hãy đi và làm như vậy. 2
Suy niệm 2: Ai là người thân cận của tôi?. 5
Suy niệm 3: Người Samaritanô Nhân Hậu. 6
Suy niệm 4: Biến Ðổi Tâm Hồn. 7
Suy niệm 5: Ai là người thân cận của tôi?. 8
Suy niệm 6: Yêu là biết hy sinh cho người mình yêu. 9
Suy niệm 7: Mẫu gương sống luật yêu thương. 10
Suy niệm 8: Hai chiều kích của yêu mến. 11
Suy niệm 9: Ai là người thân cận của tôi 13
Suy niệm 10: Định nghĩa về người thân cận. 15
Suy niệm 11: Người thân cận của tôi 16
Suy niệm 12: Anh em của chúng ta. 19
Suy niệm 13: Ai là anh em của tôi 20
Suy niệm 14: Người thân cận. 22

*** TẾT TRUNG THU. CẦU CHO THIẾU NHI. 24
Lời Chúa: Mc 10, 13-16. 24
Suy Niệm 1. Bài giảng Lễ Trung Thu. 24
Suy Niệm 2. Trung thu dưới ánh sáng lời Chúa. 27
Suy Niệm 3. Xin cho đời các em sáng đẹp tựa trăng rằm.. 30
Suy Niệm 4. Bài học dịp Tết Trung Thu. 31
Suy Niệm 5. Tết Trung Thu. 33
Suy Niệm 6. Lễ Trung Thu. 35
Suy Niệm 7. Vui Tết Trung Thu, đơn sơ như bồ câu. 37
Suy Niệm 8. Vầng trăng thanh. 41
Suy Niệm 9. Bánh Trung Thu dâng Chúa. 44
Suy Niệm 10. Vui Trung Thu với Chúa. 47

---------------------------------

 

Thứ Hai tuần 27 thường niên. – 06/10 – TẾT TRUNG THU

Người Samaritanô nhân hậu.
"Ai là anh em của tôi?"

 

Lời Chúa: Lc 10, 25-37


Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được   sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?"

Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"

Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".

"Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?"

Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy".

Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Hãy đi và làm như vậy


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)
vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận:
"Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.
Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”
Ngài đã trả lời bằng một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi.
Cả hai đều phản ứng như nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi (cc. 31-32).
Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi (21, 1-3) cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.
Một người Samari là nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân.
Hầu chắc nạn nhân này là một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào cho thấy anh ta là dân ngoại cả.
Giữa dân Do Thái và dân Samari vốn có mối hiềm thù từ lâu.
Người Samari này cũng thấy nạn nhân như hai người trước,
nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim mình, vì thế anh chạnh lòng thương (c. 33).
điều mà hai người trước không có.
Chính sự thúc đẩy của trái tim đã khiến anh làm một loạt hành động cụ thể:
lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần (cc. 34-35).
Lòng thương xót thật sự khiến anh chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.
Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù biết đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,
người Samari đã làm một phép lạ lớn.
Đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy, kẻ thù của mình, trở thành người thân cận với mình.
Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi?
Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị này: “Theo ông,
trong ba người, ai đã trở nên người thân cận với kẻ bị nạn?” (c. 36).
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người,
tôi không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó đang cần chúng ta.
Giúp đỡ cụ thể là cách tạo ra người thân cận
Càng giúp nhiều, ta càng có nhiều người bạn thân.
Vị luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu phải làm gì (c. 25).
Kể xong dụ ngôn, Đức Giêsu trả lời: Hãy đi và hãy làm như vậy (c. 37).
Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như chính mình, yêu cả những ai đã làm khổ mình.
Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.

---------------------------------
 
 

Suy niệm 2: Ai là người thân cận của tôi?


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tiên tri Gio-na và người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là hai hình ảnh trái ngược. Gio-na là người Do thái, người có đạo, nhưng tâm địa hẹp hòi không muốn cứu dân thành Ni-ni-ve. Người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là người ngoại đạo, nhưng tấm lòng bác ái bao la, quan tâm chăm sóc cho tha nhân. Gio-na là tiên tri, là người tin có linh hồn nhưng lại chẳng quan tâm cứu linh hồn dân thành Ni-ni-ve. Còn người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu tuy không có đức tin nhưng đã sẵn sàng cứu giúp dù chỉ là thân xác người lâm nạn. Gio-na là tiên tri của Chúa nhưng lại không vâng lệnh Chúa truyền. Người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu không có đạo nhưng lại thực hành Lời Chúa. Và được Chúa đem làm gương mẫu cho những nhà lãnh đạo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Bên trong hai bài Sách Thánh còn những trái ngược lớn lao gây suy nghĩ. Gio-na là tiên tri thì trốn Chúa. Những người đi thuyền ngoại đạo lại muốn tìm thánh ý Chúa, muốn cầu nguyện cùng Chúa. Cũng vậy thầy tư tế và thầy Lê-vi trong đạo tránh qua một bên để khỏi giúp người bị nạn. Trong khi người ngoại đạo xứ Sa-ma-ri lại tỏ lòng nhân hậu cứu giúp nạn nhân (năm lẻ).

Và để trả lời cho câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu đã hỏi ngược lại: “Theo ông, ai là người thân cận của người bị nạn?”. Chúa Giêsu trả lời bằng một mệnh đề kép. Muốn có người thân cận, chính tôi phải thân cận với mọi người. Nói khác đi người thân cận không tự nhiên có nhưng tôi phải tạo ra. Tôi tạo ra người thân cận bằng tấm lòng nhân hậu, bằng thái độ quảng đại, bằng cử chỉ phục vụ. Như thế người thân cận là tất cả những ai cần sự giúp đỡ, cần sự quan tâm, là những ai đang lâm nạn, đang không thể tự lo cho mình, cả phần hồn lẫn phần xác.

Trong thư Ga-lát, thánh Phao-lô chê trách giáo dân Ga-lát đã mau chóng trở mặt lại giáo lý của Chúa. Lời chê trách đó có thể áp dụng cho Gio-na. Dù là tiên tri nhưng lại không tuân lời Chúa dạy. Lời đó cũng nhắm đến thầy tư tế và thầy Lê-vi vì đã không thực hành Lời Chúa. Lời thánh nhân chê trách cũng nói với chúng ta hôm nay, có đạo nhưng lại không tuân giữ Lời Chúa (năm chẵn).

Chúng ta có thể hỏi một câu hỏi khác. Ai là người thân cận của Chúa. Câu trả lời thật hiển nhiên. Nhưng khá cay đắng. Không phải vị tiên tri người đem Lời Chúa cho mọi người. Không phải thày tư tế và thày Lê-vi những người dâng của lễ trên bàn thờ, trước tôn nhan Chúa. Nhưng lại là người Sa-ma-ri-ta-nô, kẻ ngoại đạo. Hôm nay, chúng ta hãy tỉnh ngộ trở nên người thân cận của mọi người. Và người thân cận của Chúa. Như thế tôi mới “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.

---------------------------------

 

Suy niệm 3: Người Samaritanô Nhân Hậu


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người đã đi qua..., cuối cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phỏng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong tìm được sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.

Người Samaritanô nhân hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi. Chúa Giêsu đã vượt qua luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái. Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.

Nguyện xin Chúa kiện cường lòng bác ái của chúng ta, một lòng bác ái biết tìm đến, dừng lại và xoa dịu những nỗi khổ đau của người khác; một lòng bác ái vị tha, không bị lấm bẩn bởi bản tính ích kỷ trục lợi.

---------------------------------

 

Suy niệm 4: Biến Ðổi Tâm Hồn


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Chủ đề chính của đoạn Phúc Âm trên đây là tình yêu thương đối với người lân cận và chủ đề được nhắc đến do bởi hai câu hỏi của luật sĩ: "Tôi phải làm sao để được sống đời đời?" và "Ai là người anh em tôi?"

Chúa Giêsu đã để cho chính luật sĩ phải trả lời cho câu hỏi thứ nhất: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?", và vị luật sĩ đã trả lời đúng trăm phần trăm, dựa trên chính lời Kinh Thánh mà ông đã biết nằm lòng. Và nếu đã biết rõ như vậy rồi thì đâu còn lý do gì để hỏi Chúa Giêsu nữa. Không cần phải luật sĩ mới trả lời cho câu hỏi này, mọi thành phần dân Chúa đều có thể trả lời. Vấn đề là nơi câu hỏi thứ hai: "Ai là người anh em tôi?" Sự hiểu biết thông thái của luật sĩ làm ông ta lúng túng vì hẳn thật vào thời Chúa Giêsu có nhiều trường phái luật sĩ khác nhau đã cố gắng trả lời cho câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào thỏa đáng cả. Có trường phái cho rằng người lân cận mà luật Môisen buộc phải yêu thương là cha mẹ, bạn bè, người đồng hương. Như thế, nhà luật sĩ có lý do để hỏi Chúa Giêsu: "Ai là anh em tôi?", ông muốn biết những giới hạn của tình thương đối với anh chị em để rồi từ đó xác định những bổn phận cần phải tuân giữ. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu để giúp cho luật sĩ biết là không có giới hạn nào cho tình thương đối với anh chị em và bất cứ ai cần trợ giúp thì người đó là anh chị em của mình. Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đặt lại vấn đề như sau: "Ai trong số những kẻ qua đường là người anh em của kẻ bị cướp?", và dĩ nhiên luật sĩ cũng đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ có lòng thương xót người ấy".

Giải quyết vấn đề trên bình diện tri thức hiểu biết xem ra rất dễ, chỉ cần một chút hướng dẫn như Chúa Giêsu đã làm trong dụ ngôn thì ta có thể biết được câu trả lời cho vấn đề, nhưng để vào nước Chúa không phải chỉ có biết mà thôi, cũng không phải chỉ nói Lạy Chúa, Lạy Chúa mà thôi, nhưng còn phải thực hành, phải làm nữa, phải thực hiện lời dạy của Chúa và phải làm ngay không được chần chờ.

"Hãy đi và làm như vậy!" xem ra Chúa Giêsu không muốn vị luật sĩ ở lại để tranh luận lý thuyết với Chúa mãi mãi mà hãy dấn thân hành động, vì thế liền sau câu trả lời thứ hai của vị luật sĩ, Chúa Giêsu khuyến khích ngay: "Hãy đi và làm như vậy!"

Khi phải hành động giúp đỡ anh chị em, chúng ta thường hay có thái độ chần chờ, tìm sự chân thành lý do để tránh né để khỏi phải cho đi, để khỏi phải làm ngay công việc bác ái phải làm. Vì thế, vấn đề là luôn luôn phải sẵn sàng phục vụ, vấn đề bắt đầu từ tâm hồn của chúng ta trước, vì phải có tâm hồn yêu thương, cần canh tân chính mình trước. Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đã đổi lại viễn tượng, đã đổi lại câu hỏi của luật sĩ, câu hỏi không còn là: "Ai là anh em ta?" nhưng là: "Ai là anh em của người bị nạn?"


Khi tâm hồn chúng ta đã được biến đổi rồi, đã có đầy tình yêu Chúa rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn mệnh lệnh yêu thương của Chúa hơn, sẽ yêu thương như Chúa, yêu thương không giới hạn, không tính toán, yêu thương cả đến hy sinh mạng sống mình. Không có tình yêu này to lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương. Vấn đề không phải là biết: "Ai là anh em của tôi?" nhưng vấn đề là biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta trở thành người lân cận, người anh em của tất cả những anh chị em chung quanh chúng ta.

Lạy Chúa, xin giúp con canh tân chính tâm hồn mình trước và giúp con trở thành người lân cận của tất cả mọi người, mọi nơi và mọi lúc.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 5: Ai là người thân cận của tôi?


Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sồng đời đời làm gia nghiệp?”Người đáp: “Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: “ngươi hãy yêu mến Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi, và người thân cận như chính mình.” (Lc.10, 25-27)

Đây là vấn đề chính luôn luôn được đặt ra qua các thời đại: Ai là người thân cận của tôi? Chính ở điều này, Đức Kitô đã hoàn thành một cuộc cách mạng vĩ đại. Người sắp cho ông luật sĩ một bài học sáng giá về bác ái qua một dụ ngôn rất ý nghĩa và rõ nét.

Ông đã hỏi Ngài: “Ai là người thân cận của tôi? ”Đức Kitô đã giải đáp vấn đề cho chúng ta biết cách thực hiện ai là người thân cận của chúng ta. Trong những người chung quanh tôi, những người tôi gặp, ai là anh chị em tôi? Đức Kitô nói: “Một người nào đó đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch và đánh nhừ tử người ấy rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết bên lề đường. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi! cũng thế, một thầy lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, bỏ tránh qua bên kia mà đi! nhưng một người Samari đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương, ông lại gần lấy dầu rượu băng bó vết thương người ấy, đặt lên lừa, đưa về quán trọ mà săn sóc, lấy tiền nhờ chủ quán cứu chữa bệnh nhân!

Một người Samari nào đó chẳng quen biết, thuộc dân tộc ly giáo với Do-thái, họ không thờ Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem nhưng ở núi Garidim! Thế mà ông đã lo chăm sóc cho một người cùng khổ hoạn nạn cướp bóc đánh đập và gánh lấy trách nhiệm cứu chữa. Ông không cần biết đó là ai, dân mình hay dân khác, bạn hay thù! không kể đến tốn phí bao nhiêu! ông chỉ thấy đó là một người cần giúp đỡ. Bác ái không từ bỏ một ai trong bất cứ một hoàn cảnh nào, nơi nào, thuộc hạng nào! bác ái có mặt mọi nơi, nơi nào có khổ sở cần xoa dịu giúp đỡ là có bàn tay êm ái nâng đỡ, có lòng tận lực chi trả, có lời an ủi âm thầm tâm sự, thông cảm mọi cảnh éo le, chia sẻ mọi cuộc sống ngoài lề xã hội, băng bó những xung đột, âu yếm những người bị bỏ rơi, hy vọng làm sáng lên những nơi đen tối, chia vui cho những nơi bị xáo trộn, bất ổn.

Bác ái hiện diện khắp nơi, nơi nào có tiếng nhân loại kêu cùng khổ là có con tim đến tiếp cứu, đến biến đổi nó lên tươi sáng. Bác ái hiện diện trên mọi trận tuyến, bạn cũng như thù, tương trợ lẫn nhau trong khắp thế giới. Lúc đó và chỉ như thế, chúng ta mới là anh chị em thân cận với nhau.

GF

 ---------------------------------

 

Suy niệm 6: Yêu là biết hy sinh cho người mình yêu


Xem lại CN 15 TN C, CN 30 TN A, CN 31 TN B, thứ Ba tuần 1 MV, thứ Sáu tuần 3 MC, thứ Năm tuần 9 TN và thứ Sáu tuần 20 TN

Bài hát: “Qua cầu gió bay” có lẽ nhiều người trong chúng ta đều đã quen thuộc, hoặc đôi khi còn thuộc lòng! Bài hát này diễn tả tình yêu của hai người: khi yêu nhau, họ trao tặng cho nhau tất cả, ngay kể cả cái áo, cái nhẫn và chiếc nón là những thứ gắn liền với bản thân của con người, nhưng một khi đã yêu thì sẵn sàng trao tặng, miễn sao người mình yêu được vui và hạnh phúc...

Bài Tin Mừng hôm nay, qua hình ảnh người Samaritanô nhân hậu, Đức Giêsu cũng dạy cho người thông luật một bài học của tình yêu. Tình yêu đó là một tình yêu biết cho đi, hy sinh và chấp nhận gian khó vì người mình yêu.

Khởi đi từ việc người thông luật đến hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?"; và: “Ai là anh em của tôi?”. Đức Giêsu đã giúp ông xác tín nguyên lý của sự sống đời đời là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận như chính mình.

Tuy nhiên, Đức Giêsu còn muốn ông đi xa hơn nữa trên lộ trình tình yêu đó khi  kể cho ông nghe dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu.

Hình ảnh của người Samaritanô nhân hậu đối đãi với nạn nhân như: dừng lại, băng bó vết thương, xức dầu và rượu, đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ, thuê người chủ quán trọ săn sóc cho nạn nhân... tất cả những nghĩa cử đó cho thấy người Samaritanô đã vì yêu mà chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, cho đi tất cả... ngang qua hành vi của người Samaritanô, Đức Giêsu muốn giới thiệu cho người thông luật biết: những người đau khổ chính là anh em của ông.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu, làm tất cả và cho đi tất cả vì người mình yêu.

Có lẽ chúng ta sẽ thắc mắc là nhiều khi tôi nghèo quá, nên khó có thể có gì để thể hiện tình yêu như người Samaritanô với người thân cận. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không nghèo đến độ không thể không có gì để cho!

Có thể tôi nghèo về vật chất, nhưng tôi giàu về tấm lòng, giàu về tình yêu. Tôi không có hiện vật để trao tặng, nhưng tôi có nụ cười, thời giờ, niềm an ủi, sự cảm thông và tinh thần liên đới... Đây chính là món quà cao quý hơn cả bạc vàng.

Mong sao mỗi chúng ta hiểu rằng: chỉ có tình yêu là không thể chết, và cho đi là còn mãi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Thiên Chúa tha thiết và yêu tha nhân như chính mình. Đồng thời xin cho chúng con biết sống tinh thần liên đới trong một thế giới quá nhiều bất công và vô cảm. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7: Mẫu gương sống luật yêu thương


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Mến Chúa yêu người: đó là con đường đưa loài người đến sự sống đời đời. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu chính là mẫu gương sống luật yêu thương.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trên thế giới hôm nay có rất nhiều người đang đau khổ. Họ là những gia đình li tán, những đứa trẻ bị bỏ rơi, những người đang quằn quại trong cơn đói, những chiến binh gục ngã nơi chiến trường, những kẻ thất nghiệp bơ vơ không nhà cửa, và chung quanh con không thiếu những người đang mỏi mòn chờ đợi con yêu thương giúp đỡ. Thế mà con vẫn tự hỏi: Ai là người anh em mà tôi phải thương mến?

Lạy Chúa, rất nhiều lần con đã có thái độ ích kỷ như thầy tư tế và thầy Lê-vi trong câu chuyện dụ ngôn, con cố tình làm ngơ hoặc dửng dưng trước những nỗi đau của tha nhân. Con sợ người ta quấy rầy cho dù con biết rõ những nhu cầu cần thiết của họ. Con không quan tâm đến những người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người gặp hoạn nạn, vì con sợ mất thời giờ và hao tốn tiền của. Và như thế, lạy Chúa, con đã không sống luật yêu thương của Chúa.

Xin cho con biết bắt chước người Sa-ma-ri nhân hậu biết yêu thương tha nhân bằng tình yêu không tính toán và không biên giới. Xin hãy canh tân tâm hồn con. Xin Chúa mở rộng tầm nhìn và đôi bàn tay của con, để con nhận biết mọi người là anh em để con yêu thương phục vụ họ.

Và xin cho con biết chấp nhận những phiền hà khi giúp đỡ anh em, chấp nhận những mất mát khi cho đi chính con người và tiền bạc của con. Lạy Chúa, xin Chúa giúp sức để con thực hiện trọn vẹn giới luật yêu thương của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ai là anh em của tôi?”

 ---------------------------------

 

Suy niệm 8: Hai chiều kích của yêu mến


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu!

Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại của anh. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.

Suy niệm

Tình yêu mà Chúa Giêsu nói đến có hai chiều kích: Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến anh em. Việc tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa có lẽ chẳng ai thắc mắc. Còn chiều kích yêu mến với anh em thì Chúa Giêsu đã làm một cuộc cách mạng khi mạc khải một tình yêu không biên giới nơi tha nhân bằng dụ ngôn người Samaria nhân hậu (x. Lc 10,30-35).

Do những nguyên nhân về lịch sử và thực hành tôn giáo, người Samaria và người Do Thái không ưa nhau, quan hệ giữa hai miền này rất căng thẳng đến nỗi họ không thể nói chuyện với nhau. Qua thời gian, sự căng thẳng này dẫn đến việc người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria và ngược lại như luật của họ. Cho nên, Tin Mừng Gioan kể lại các môn đệ của Chúa rất ngạc nhiên khi Chúa nói chuyện với người phụ nữ Samaria. Sự ngạc nhiên này cũng thể hiện nơi người phụ nữ Samaria khi Chúa Giêsu xin chị nước uống, chị bối rối và trả lời: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”. Gioan đã khẳng định: “Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria” (x. Ga 4,1-42).

Trong dụ ngôn Chúa Giêsu trình bày, người Samaria đã vượt qua ranh giới chủng tộc mà con người đã tự tạo ra để ngăn cách tình anh em, xé rào những bất đồng để đến cứu nguy người anh em Do Thái bị cướp, đánh đập nguy hiểm đến tính mạng. Chúa Giêsu cũng kêu gọi người anh em Do Thái cũng hãy đáp lễ, xé rào hận thù, xóa bỏ ngăn cách của chủng tộc để đến với tha nhân mà bước đầu tiên là anh em Samaria bên cạnh. Trước đó, Chúa Giêsu đã xé rào bằng tinh thần đối thoại qua việc Chúa đã trao đổi với người phụ nữ Samaria, một hình ảnh tối kị trong quan hệ Do Thái - Samaria.

Yêu thương anh em và anh em chính là tha nhân, bất cứ người nào ngoài ta, “Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,28) như Chúa Giêsu đã truyền. Hãy thi hành một tình yêu không biên giới đối với tất cả mọi người dù là người thân cận hay có thù oán. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương mọi người, kể cả những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5,44).

Tình yêu mới: “Yêu không biên giới”, là cơ bản trước mọi hành động của đời sống người Kitô hữu như thánh Âugustinô nói: “Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Không tình yêu, mọi hành động đều vô nghĩa. Thánh Phaolô nói rất rõ: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Tình yêu không biên giới dành cho tha nhân là dấu chứng cho tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, nếu có biên giới, tình yêu với Thiên Chúa là giả dối, như thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20).

“Tôi phải làm gì để được sống đời đời”, đó cũng là điều luôn thao thức trong tâm hồn tôi tâm hồn bạn. Tiếng vang vọng lại trong cõi lòng: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37): Làm như người Samaria nhân hậu, dám phá tan cái rào cản thù hiềm của ngăn cách chủng tộc, màu da, ngôn ngữ để giúp người anh em trong lúc khốn cùng cần có người giúp đỡ. Làm như người Samaria là thiệt thòi về thời gian, công sức, tiền của để cứu người anh em xa lạ có hiềm khích.

Ý lực sống:

“Tình yêu này là lời ca, lời ca đánh thức tôi. Lời ca dạy tôi những gì tôi đã học, chỉ cho tôi những nẻo đường bí mật và những vì sao nơi chân trời của trái tim tôi” (Tagore, Lời dâng).

---------------------------------

 

Suy niệm 9: Ai là người thân cận của tôi


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Người Do thái vẫn biết giới luật cao trọng hơn hết là “Mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như chính mình”. Mến Chúa thì sẽ hiểu, còn yêu tha nhân thì họ khó hiểu, vì họ có cái nhìn thiển cận và hẹp hòi về những người ngoài dân tộc Do thái. Chính vì vậy, một người thông luật đã đến hỏi thử Chúa Giêsu xem ai là người thân cận của ông và ông xin Chúa cho một câu định nghĩa. Nhưng thay vì lý thuyết suông, Ngài đã đưa ra dụ ngôn người Samaritanô nhân lành để cho ông một bài học.

Đối với luật sĩ và biệt phái thì luật mến Chúa thì quá rõ, ai cũng biết vì nó có ở trong kinh Schema mà người Do thái đọc hằng ngày; nhưng còn luật yêu người thì họ còn mù mờ: “Thế nào là yêu người thân cận như chính minh? Người thân cận là ai?” Chính vì vậy mà một người thông luật đến chất vấn Đức Giêsu xem người thân cận là ai? Đức Giêsu không trả lời bằng lý thuyết suông có thể gây tranh luận, Ngài dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, để nói cho người thông luật biết rằng: người thân cận không phải chỉ là người Do thái, mà là bất cứ ai không phân biệt chủng tộc, giai cấp, màu da hoặc tín ngưỡng đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.

Ngày nay chúng ta hay nói: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể là anh em, nhưng người Do thái không chấp nhận quan niệm này. Luật của người Do thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do thái với những người không phải là Do thái. Theo luật của họ, người thân cận được định nghĩa là “những người con trai của xứ sở bạn”. Do đấy, chỉ có những người Do thái mới là hàng xóm, là thân cận của mình.

Đức Giêsu chủ trương ngược lại: người anh em của tôi, người thân cận của tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người anh em, người thân cận. Như vậy, không biết ai là người anh em của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách để trở nên người anh em, người gần gũi với bất cứ ai đang cần sự giúp đỡ.

Có người nói tình yêu đích thực được thể hiện qua bốn phương diện: (1) sẵn lòng giúp đỡ; (2) biết xót xa trước đau khổ và (3) biết vui mừng trước hạnh phúc của người khác; cuối cùng (4) biết tha thứ. Chúa Giêsu đưa ra nhân vật Samaritanô như một điển hình về tình yêu đích thực đó. “Chạnh lòng thương” trước tình cảnh khốn khổ cấp bách của một người không quen biết, thay vì bỏ đi như thầy tư tế và thầy Lêvi với những bận rộn của mình – mà ai lại không có những việc bận rộn cơ chứ? – ông Samaritanô này sẵn sàng gác lại công việc của mình, và dốc toàn lực cứu chữa người bị nạn cách tận tình. Với nghệ thuật kể chuyện tài tình, Chúa mô tả tỉ mỉ những việc làm bác ái của người Samaritanô. Ngài dạy chúng ta yêu thương đích thực phải thể hiện bằng việc làm cụ thể và Ngài kết luận cũng rất cụ thể: “Hãy đi và làm như vậy” (5 phút Lời Chúa).

Nhà văn Mark Twain nói: “Từ ngữ ‘mưa’ sẽ chẳng nói lên điều gì nếu như bạn chưa một lần đi trong mưa hoặc tiếp xúc với nó? ‘Tình yêu’ cũng chẳng là gì, nếu như bạn chưa bao giờ kinh nghiệm về nó”. Người thông luật biết rất rõ hai giới răn quan trọng là mến Chúa và yêu người. Nhưng theo Đức Giêsu, để được sự sống đời đời, ông phải thực hành điều ông vừa nói. Ông sẽ không biết ‘mến Chúa yêu người’ thực sự, nếu không hiện thực hoá hai điều răn này trong suy nghĩ, lời nói và hành động của ông. Ai cũng cần có tình yêu để được sống hạnh phúc. Thế nhưng, tình yêu không phải là một khái niệm chỉ để nói suông. Tình yêu đòi hỏi chia sẻ, cảm thông, hy sinh và gắn bó với một đối tượng cụ thể. Tình yêu mời gọi mỗi người biết trao tặng một lời nói chân thành, một nụ cười khích lệ, hoặc một việc bác ái (Học viện Đa Minh).

Một cách tổng quát, chúng ta có thể thực hiện lòng yêu Chúa và tha nhân như sau:

Mến yêu Chúa: Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là “Thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa”.

Yêu tha nhân: Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tại hoạ; vậy yêu người cũng phải làm cho người như vậy.

Truyện: Đi tìm chén thánh

Có một câu chuyện huyền thoại về “một người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu! Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.

---------------------------------

 

Suy niệm 10: Định nghĩa về người thân cận


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

1. “Ai là người thân cận của tôi?”. Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng của ông:

- Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Người do thái thời đó hiểu “người thân cận” chỉ là những đồng bào do thái với mình.

- Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.

2. Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng của Chúa Giêsu:

- Định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)

- Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm...). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là do thái một người là Samari.

- Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)

B.... nẩy mầm.

1. “Sống ở đời, ai ai cũng có những lúc tối lửa tắt đèn, có lúc lá rách cần lá lành, có lúc chị ngã em nâng. Sống ở đời, ai ai mà không cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực hiện tình yêu. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp. Cho nên cũng vì vậy mà trần gian mất đi nhiều nguồn vui thật” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”)

2. “Bác ái là thẻ thông hành có giá trị nhất để vào Nước Trời”. “Bác ái đích thực không tra vấn, không đặt câu hỏi” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)

3. Trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang oằn oại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy! Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh.

---------------------------------

 

Suy niệm 11: Người thân cận của tôi


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúng ta vừa nghe lại câu chuyện chúng ta đã thuộc lòng từ rất lâu. Ông luật sĩ hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29)

Với câu hỏi này chúng ta thấy ông luật sĩ muốn hai điều:

- Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Tại sao thế? Thưa, vì người Do Thái thời đó chỉ hiểu “người thân cận” là những đồng bào Do Thái với mình.

- Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.

Còn Chúa Giêsu thì sao? Với dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu muốn mọi người hiểu ba điều:

- Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, quan điểm...). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này: một người là Do Thái, một người là Samaria. Người Samaria thì dụ ngôn nói rõ, còn người bị thương thì dụ ngôn bỏ ngỏ, nhưng có nhiều lý do nói rằng, đó là người Do Thái, vì những người Do Thái thường đi trên con đường này nhiều hơn người Samaria.

- Như vậy, định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (Lc 10,37)

- Cuối cùng, thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (Lc 10,36).

2. Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử của con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Rất nhiều người đã đi qua… Cuối cùng, mới có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại gọi báo cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phóng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế. Đó là điều mà chúng ta ít khi để ý tới.

Sống ở đời, ai mà chẳng cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực thi tình yêu đối với người khác. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp của mình. Chính vì thế mà trần gian mất đi rất nhiều nguồn vui thật”.

Chung quanh chúng ta còn có biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau với đồng loại.

Vậy hãy cố gắng mà đối xử tốt với nhau và hãy cố gắng trở thành người thân cận của mọi người.

Một hôm, Thầy Antôn dẫn Thầy Amôna ra khỏi chòi tu và chỉ vào tảng đá giữa hoang địa mà nói:

- Thầy hãy mắng tảng đá và đập cho nó một cái đi.

Thầy Amôna làm theo. Lúc đó Thầy Antôn hỏi: - Tảng đá có nói gì không?

Thầy Amôna đáp: - Không.

Thầy Antôn nói: - Thầy cũng vậy, thầy sẽ đạt tới mức độ này.

Ý thầy Antôn muốn nói là thầy Amôna phải tập sao cho mình không còn biết đến hai chữ giận dữ, không còn biết đến nóng nảy là gì nữa.

Và quả thực sau này đã xảy ra như thế. Thầy Amôna càng ngày càng tiến bộ, lòng nhân hậu của Thầy càng ngày càng tăng trưởng tới mức thầy không biết tới sự ác độc, dữ dằn là gì nữa. Về sau, khi thầy lên chức Giám Mục, có một lần các tu sĩ trong miền dẫn tới Toà Giám Mục một thiếu nữ mang bầu và xin Ngài ra hình phạt. Ngài đã ứng xử như thế nào? Đức Cha đã đưa tay vẽ hình Thánh Giá lên bụng cô gái, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm drap bằng lanh mịn và nói:

- Sợ rằng, khi cô ta sinh con, cô ta hay đứa con có thể chết, mà không có gì tẩm liệm chăng?

Nhưng những kẻ tố cáo lại nói:

- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.

Ngài ôn tồn bảo:

- Xin anh em coi, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi còn phải làm gì hơn nữa?

Nói thế rồi Ngài cho cô ta về. Từ đấy, không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.

Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy đi mà làm như thế”.(Lc 10,37) Điều đó không chỉ có nghĩa là chúng ta đi mà băng bó săn sóc cho những người bị thương tích, nhưng còn có nghĩa là hãy cố gắng mà trở nên người thân cận với mọi người. Nếu chúng ta làm được như thế thì những việc chúng ta đối xử tốt với nhau sẽ không còn khó khăn gì nữa, mà nó sẽ trở thành những việc tự nhiên trong cuộc đời.

Lạy Chúa,
Giữa một thế giới
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

---------------------------------

 

Suy niệm 12: Anh em của chúng ta


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Tổ tiên, ông bà, cha mẹ Việt Nam chúng ta thường nói: ”Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống như chung một giàn”, nghĩa là tất cả mọi người chúng ta cùng sống trên một đất nước nói riêng và nói chung là trên trên gian này đều là anh chị em với nhau.

Còn trong Nho giáo thì nói: ”Tứ hải giai huynh đệ”, mọi người khắp bốn biển trên thế giới đều cùng là anh chị em.

Trong đạo thánh Chúa, Chúa dạy chúng ta là”Mến Chúa , yêu người”. Đặc biệt, qua Tin Mừng hôm nay, Chúa đã nói một cách rõ ràng cho chúng ta biết”Người”, đó là tất cả anh chị em của chúng ta đang sống trên trần thế đây, trải dài qua muôn thế hệ, mà trần thế này được ví như là một ngôi nhà chung, vì thế chúng ta hãy yêu thương nhau.

 -Trước hết, anh chị em của chúng ta là những người mà chúng ta chưa một lần gặp gỡ họ trong cuộc đời này, hoặc là họ cũng chưa bao giờ gặp chúng ta. Chúng ta và họ hoàn toàn lạ lẫm với nhau ”Tôi với anh như người xa lạ”. Đây là trường hợp của người Samaria và người gặp bị nạn hôm nay, hai người này không hề quen biết nhau, chưa bao giờ gặp nhau, tiếp xúc nhau, dù một lần.

 -Không hề biết nhau, nhưng vẫn giúp đỡ nhau, lúc người anh chị em mình gặp hoạn nạn, rủi ro, cơ hàn, khắc nghiệt….chúng ta thương người khác như thể thương thân, thấy anh chị em chúng ta gặp tai ương, khốn khó là ra tay giúp đỡ, không một điều kiện gì cả. Người Samaria đang trên đường đi, thấy người anh em mình bị nạn thì xuống ngựa, không ngần ngại và giúp đỡ liền

-Đã thương anh chị em củamình thì phải thương cho trót, người Samaria đưa người bị nạn đến quán trọ nhờ săn sóc, chịu tốn phí tất cả, ông lại tiếp tục công việc của mình và hứa hôm sau khi xong việc, ông sẽ quay trở lại thanh toán số còn thiếu.

Cuối bài Tin Mừng Chúa nói với ông luật sỹ đang thưa chuyện với Chúa về vấn đề này là ông hãy đi và làm như vậy (Lc 10, 37). Nghĩa là tình yêu thương tha nhân phải là một tình yêu cụ thể, bằng hành động thiết thực, sống động, chứ không phải chỉ nói yêu trên đầu môi chót lưỡi, trên giấy tờ, văn bản, chữ viết. Nhất là hãy nâng đỡ, cứu giúp những người đang gặp hoạn nạn, khổ đau, bệnh tật, tuyệt vọng trong cuộc sống. Vì anh chị em của chúng ta rất cần sự giúp đỡ của chúng ta trong những lúc như thế này, để anh chị em chúng ta vượt qua gian nan, thử thách, trắc trở mà đứng vũng trong cuộc sống, chứ còn lúc mà anh chị em chúng ta vượt qua rồi thì đâu cần sự giúp đỡ của chúng ta nữa. Về phần chúng ta, chúng ta yêu thương anh chị em chúng ta bằng việc chúng ta phải hy sinh, phải chịu mất mát, thiệt thòi, về tinh thần, sức khỏe, tiền bạc…, chúng ta phải cố gắng nhiều lắm thì mới giữ được chữ yêu một cách vẹn toàn, thiết thực được.

Tất cả những gì chúng ta làm được cho anh chị em của chúng ta cũng điều làm theo mẫu gương của Chúa mà thôi. Chúng ta không thể đi ra ngoài mẫu gương đó, vì việc chúng ta làm được cho người khác quá nhỏ bé so với Chúa những gì Chúa đã làm cho chúng ta. Chúa chịu bị đánh đòn tan xương nát thịt, chịu treo trên thập gía vì yêu chúng ta, cứu chúng ta khỏi chết muôn đời. Do đó, chúng ta hãy sống và làm để mang lại phần hạnh phúc cho người anh chị em của chúng ta là chúng ta yêu họ vì Chúa.

Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con hãy đi và làm như điều Chúa trong tình yêu, nghĩa là chúng con hãy cầu nguyện cho anh chị em của mình, và phải luôn cố gắng làm việc cứu giúp anh chị em chúng con, nhất là những người gặp gian nan, khốn khó, nghèo túng, ốm đau, bệnh tật, tai ương, hoạn nạn trong cuộc sống. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 13: Ai là anh em của tôi


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Anh em của chúng ta là tất cả mọi người, không phân biệt bạn hay thù, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, giai cấp, giàu, nghèo, sang hèn, địa vị xã hội, tôn giáo…

Chúa dạy chúng ta coi nhau là anh chị em vì chúng ta là con một Cha trên trời và phải biết sống yêu thương nhau. Chính ông bà chúng ta cũng nói đến điều này: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn “. Yêu thương không ở trên môi miệng mà là bằng hành động cụ thể như cầu nguyện, làm ơn làm phúc, cho vay mượn khi anh chị em của chúng ta cần.

Cầu nguyện xin Chúa thương xót anh chị em chúng ta, ban muôn ơn cho anh chị em chúng ta, nhất là những anh chị em đang gặp gian nan thử thách, khó khăn, nghèo túng, khổ đau, tuyệt vọng,  thất bại…, xin Chúa ban sức mạnh cùng sự nâng đỡ ủi an người anh chị em chúng ta.

Làm việc lành phúc đức cho anh chị em mình như người Samaria nhân hậu trong bài Tin Mừng hôm nay. Ông không thuộc Kinh Thánh như các thầy tư tế và trợ tế. Ông không biết nghệ thuật yêu để chinh phục, để làm hài lòng người khác. Ông không có đạo. Ông nghĩ sao ông sống vậy. Ông không chút tính toán thiệt hơn. Ông sống rất chân thành. Vì thế, khi trên đường đi, ông thấy một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô bị kẻ cướp đánh nửa sống nửa chết nằm bên vệ đường là ông dừng lại, xuống lừa cứu giúp liền ngay, băng bó vết thương, xức dầu và rượu, đưa về quán trọ săn sóc, trả tiền chi phí. Ông là người giàu tình thương với người bị nạn. Chúa đề cao ông: “Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Ðức Giêsu rằng: Nhưng ai là người thân cận của tôi? Ðức Giêsu đáp: Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samaria kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiều, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? (Lc 10, 29 – 36). Qua đó, Chúa nói với người thông luật: “Ông hãy đi và làm như vậy” (Lc 10, 37).

“Ông hãy đi và làm như vậy” (Lc 10, 37), nghĩa là Chúa bảo chúng ta ngày nay hãy dấn thân cho tình yêu. Đạo Chúa là đạo tình yêu. Yêu không những trong sự hiểu biết của trí não mà còn được thôi thúc hành động bằng trái tim, bằng tấm lòng từ ái: “Và này, có người thông luật kia đứng lên hỏi Chúa Giêsu để thử Chúa rằng: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời nay làm gia nghiệp? Chúa đáp: Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh chị em như chính mình. Chúa bảo ông ta: Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10, 25 - 28).

Yêu Chúa thì phải giữ đạo Chúa, nghe lời Chúa dạy, xa lánh các tội lỗi, luyện tập các nhân đức…. Yêu người thì hãy sống và hành động theo lời kinh chúng ta đọc ngày Chúa nhật “ Thương người có mười bốn mối: thương xác bảy mối, thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ ha cho kẻ khát uống…. Thương linh hồn bảy mối, thứ nhất lấy lời lành mà khuyên người, thứ hai mở dạy kẻ mê muội…” (xMt 25, 31 – 46). Đặc biệt, trong giờ phút này, chúng ta thực hiện việc giúp đỡ anh chị em chúng ta. Những người thiếu ăn, chúng ta giúp gạo, mì tôm, rau, củ, quả…. Những người bị bệnh, chúng ta giúp tiền bạc để họ có điều kiện chữa bệnh. Những người đau khổ, chúng thăm viếng ủi an, nâng đỡ…Đây là cách làm để chúng tỏ chúng ta có yêu Chúa hay không: “Muốn biết một ai có lòng kính mến Chúa bao nhiêu, hãy xem kẻ ấy thương yêu người ta ngần nào” (Thánh Catarina Gênes)

Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con một trái tim giống như Chúa để chúng con yêu Chúa, yêu người, để chúng sống theo lời Chúa dạy, biết cho đi mà không mong báo đền nhằm làm cho cuộc sống bớt khổ đau, bớt thiếu thốn hơn và mọi người sẽ sống hạnh phúc hơn, và rồi chúng con sẽ được Chúa cho sống đời đời với Chúa sau này. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 14: Người thân cận


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 27 Thường Niên, Năm Lẻ này,  các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin Chúa rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng ta, và thương ban những ơn trọng đại lòng chúng ta chẳng dám mơ tưởng bao giờ.

Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, qua Đấng Trung Gian duy nhất, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa. Sống giữa lòng thế giới, Hội Thánh có sứ mạng cầu nguyện không ngừng nhờ Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu Kitô… Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, đó là một con người: Đức Giêsu Kitô. Người đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Bởi thế Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một Vị Thượng Tế nhân từ.

Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, cho toàn thể Hội Thánh, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích khảo luận của thánh Amrôxiô: Phải cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh… Lạy Chúa Trời, xin nghe tiếng kêu van, và lưu ý đến lời con thỉnh nguyện. Từ cùng cõi địa cầu, con kêu lên Chúa. Vâng chính Ngài, lạy Thiên Chúa, đã nghe lời khấn nguyện của con, lại cho con thừa hưởng cơ nghiệp dành cho ai kính sợ danh Ngài.

Chúa tha thứ và ban những ơn trọng đại, qua những người Chúa chọn, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Giôna: Ông Giôna đứng dậy để tránh nhan Đức Chúa. Trong bài Đáp Ca, ngôn sứ Giôna cầu xin: Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống. Từ cảnh ngặt nghèo, tôi kêu lên Đức Chúa, Người đã thương đáp lời. Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu cứu, Ngài đã nghe tiếng con.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Trong bài Tin Mừng, người thông luật hỏi: Ai là người thân cận của tôi? Điều răn mới, mới ở chỗ là: những người “thân cận”, không chỉ là những người gần gũi, mà là, hết tất cả mọi người; mới ở chỗ là: không chỉ dừng lại ở khía cạnh công bình, mà là, đến độ hy sinh tính mạng vì người mình yêu: Giôna bị ném xuống biển, để cứu những người trong tàu, và sau ba ngày trong bụng kình ngư, ông đã cứu được dân thành Ninivê; Đức Giêsu tự nguyện chịu ném xuống biển trần gian, và sau ba ngày trong mộ đá, Người đã cứu toàn thể nhân loại. Để sống được điều răn mới, chúng ta phải cậy nhờ Vị Trung Gian của Giao Ước Mới: Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Người đã trở nên “người thân cận” của chúng ta, đã nên giống chúng ta về mọi phương diện, để trở thành một Vị Thượng Tế nhân từ. Người đã dạy ta về lòng nhân hậu của Chúa Cha, Đấng hằng ban những điều thiện hảo, để ta biết xin Đấng nhân hậu ban cho ta những điều thiện hảo. Người khuyên ta càng xin ơn tha thứ cho mình, thì càng phải biết quảng đại tha thứ cho người khác. Chúng ta được dạy phải cầu nguyện cho toàn thân thể, cho mọi chi thể của Hội Thánh. Nếu ta chỉ xin cho chính mình, thì, ta sẽ chỉ xin cho bản thân thôi; còn nếu ta xin cho mọi người, thì, mọi người sẽ xin cho ta, vì ta ở trong mọi người. Như vậy, các việc lành phúc đức của toàn dân Chúa sẽ tăng thêm hiệu lực, nhờ từng lời cầu nguyện của mỗi người. Cách cầu nguyện đó không những không kiêu căng, mà còn, khiêm nhường, và mang lại hoa trái dồi dào hơn. Tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, ước gì Chúa rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng ta, và thương ban những ơn trọng đại lòng chúng ta chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Ước gì được như thế!

---------------------------------

Đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ.
 

*** TẾT TRUNG THU. CẦU CHO THIẾU NHI.


“Người ôm các trẻ em vào lòng, và đặt tay ban phúc lành cho chúng”

 

Lời Chúa: Mc 10, 13-16


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Máccô.

Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ.

Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thày bảo thật các con: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Bài giảng Lễ Trung Thu


--Lm Joseph Tạ Duy Tuyền

Ngày tết Trung thu, người ta hay nói về Chú Cuội ngồi gốc cây đa và ôm cả một mối lo. Như bài hát đã từng được nhiều người ưa thích: “Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già ôm một mối lo”. Vậy chú Cuội là ai?

Chú Cuội theo chuyện thần thoại của Trung Quốc, tên là Ngô Cương. Xưa kia Ngô Cương đã tu và đắc đạo thành tiên, nhưng sau vì làm nhiều điều xằng bậy trên thiên đình, đã bị Ngọc hoàng nổi giận, bắt đày xuống cung trăng, trao cho việc chặt và bóc vỏ cây quế đỏ. Thế nhưng cây quế đỏ này lại cứng như thép, nên Ngô Cương chặt mãi, bóc hoài cho đến bây giờ cũng chẳng xong. Vì vậy, mỗi đêm, nhìn lên mặt trăng, chúng ta mới thấy bóng Ngô Cương đang lúi húi ở dưới gốc cây quế.

Còn ở Việt chúng ta thì Ngô Cương lại chính là chú Cuội. Và cái bóng mà người Trung quốc gọi là cây quế đỏ, thì lại chính là cây đa thần. Vì thế mới có câu:

- Thằng cuội ngồi gốc cây đa,

Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.

Cha còn cắt cỏ trên trời,

Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.

Chú Cuội, theo truyền thuyết, đó là một kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời, đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì cha mẹ đi vắng, chú phải coi nhà. Buồn tình, chú bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với.”

Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp cứu. Thấy vậy, chú bèn cười ngặt nghẹo đến vãi cả nước mắt. Lần khác, chú ngồi thổi cơm, chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà bốc cháy. Chú cũng kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với.”

Thế nhưng, lần này chẳng một ma dại nào đến tiếp cứu cho chú cả.

Vì thế, dân gian mới bảo:

- Bắc thang lên đến tận mây,

Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.

Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười,

Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.

Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà chú Cuội bỗng trở thành hình ảnh tượng trưng cho những kẻ chuyên môn lừa gạt: nói dối như cuội. Hay nói một đàng làm một nẻo: hứa cuội có nghĩa là hứa lèo, hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được đí gì sốt, đầu voi đuôi chuột, trăm voi không được một bát nước xáo.

Tại sao ngày tết Trung thu mà người ta lại kể chuyện về chú cuội, một đứa trẻ hư đốn trong ngày vui của các em? Có lẽ không phải tình cờ hay ngẫu nhiên, vì kho tàng văn học cổ tích là tiếng nói của khát vọng con người vươn tới sự hoàn thiện. Cha ông kể chuyện về chú cuội để răn đời, để dạy con cháu, đừng sống như chú cuội kẻo phải ôm gốc cây đa cả đời. Vì ngày tết Trung thu được xem là ngày tết của thiếu nhi, của tuổi thần tiên, nên cha ông ta đã dùng rất nhiều những câu chuyện thần tiên để hướng các em tới sự hoàn hảo nhất của con người.

Theo Tin mừng, Chúa Giêsu luôn yêu thích tâm hồn trẻ thơ. Ngài luôn tìm dịp để gần gũi các em. Ngài không chỉ yêu mến, chúc lành và bênh vực, mà hơn thế nữa, còn lấy trẻ nhỏ làm khuôn vàng thước ngọc cho người lớn phải noi theo:

- “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước trời đâu.”

Nhìn vào trẻ nhỏ, chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu nhân đức cao đẹp.

Trước hết, nơi trẻ thơ, không có sự gian dối, chỉ có đơn sơ chân thành. Thực vậy, trẻ thơ cần phải luôn đơn sơ chân thành, không ăn gian nói dối như Cuội. Kinh nghiệm cha ông ta vẫn nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.”

Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật. Điều đó đã làm cho các em đánh mất tuổi thơ của mình. Nếu một em bé đã nhiễm thói ăn gian nói dối, là tự mình đánh mất tuổi thơ, đánh mất vẻ hồn nhiên tươi vui sẽ làm cho con người ra già cỗi, và tự đầy đoạ mình như chú Cuội, suốt đời ôm một mối lo.

Thứ đến, nơi trẻ thơ không có hận thù, bạo lực, mà chỉ có một tình yêu thương dạt dào và không biên giới. Mẩu chuyện mang tựa đề “Đứa bé của hòa bình”, trong mục nghệ thuật sống của báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, đã kể rằng:

“…Hôm ấy, tôi được trao nhiệm vụ đi thám thính cho bộ lạc của mình. Sau ba ngày đêm ròng rã, tôi phát hiện một túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ bằng bàn tay trên vách. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi sưởi bên bếp lửa và một thằng bé chưa đầy hai tuổi đang chơi cạnh đó. Với bước chân đi chập chững, nó đứng dậy cầm chiếc thìa gỗ thọc sâu vào nồi xúp, rồi nó bắt chước người lớn khuấy đi khuấy lại nhiều lần. Bất thần đứa bé quay sang nhìn đúng ngay cái lỗ mà tôi đã khoét để ngó vào trong lều. Tôi hốt hoảng sợ bị phát giác. Nhưng đúng lúc bố mẹ của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại thọc cái thìa gỗ vào nồi, rồi múc lấy một ít xúp và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho tôi ăn liên tiếp nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không hề hay biết. Cuối cùng thì tôi quyết định phải rút lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm được vị trí đóng trại của kẻ thù…Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới khi đuối sức thì dừng lại…Hình ảnh và cử chỉ của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một giây. Nó là ai? Tại sao nó lại can đảm múc xúp cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó? Sức mạnh thiêng liêng nào đã thúc đẩy nó làm như vậy? Cứ thế, tôi suy nghĩ miên man về thằng bé, nó phải được sống trong trận càn quét sắp tới. Tôi chợt nảy ra ý định phải quay trở lại tức khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc nó đem về nuôi dạy theo phong tục của bộ lạc mình. Thế nhưng thú thật là tôi không thể làm như vậy vì thằng bé còn quá nhỏ, nó cần được chính bố mẹ nó nuôi nấng. Nghĩ như vậy, tôi quay trở lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng, nhưng tôi ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý gì đe dọa, họ đã vui vẻ mời tôi vào, ngồi bên bếp lửa. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người vợ bưng xúp để mời khách, còn thằng bé thì mừng rỡ như nhận ra khuôn mặt quen thuộc của tôi. Và thế là nó lại lấy chiếc thìa gỗ xúc một ít xúp, phùng má thổi phù phù cho bớt nóng, rồi mới đưa vào tận miệng tôi. Tôi chậm rãi tiết lộ tông tích của mình và bảo họ: trước tiên vì sự hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó vì lòng hiếu khách của anh chị, tôi sẽ không làm gì hại đến gia đình bé nhỏ này. Anh chị hãy mau mau lánh nạn đi ở chỗ khác. Không sớm thì muộn, bộ lạc chúng tôi cũng sẽ phát hiện nơi này, họ sẽ đến và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra. Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ mãi, chính là hình ảnh thằng bé được mẹ địu trên lưng, tay vẫn múa may chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi. Mùi tử khí trong tôi đã được thay thế bằng mùi xúp thơm phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi. Tôi đã từ bỏ thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù dai dẳng trong tôi cũng đã tắt ngấm. Càng có tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có một “đứa bé của hòa bình” như thế, mãi mãi ở giữa chúng ta”.

Vâng, hôm nay trẻ thơ đang bị đánh cắp tuổi thơ. Bạo lực xảy ra khắp nơi. Ngay ở gia đình là nôi hạnh phúc, cũng trở thành bãi chiến trường của cha, của mẹ. Trẻ thơ đã sớm thấy cảnh thượng cẳng chân, hạ cẳng tay của những người thân trong gia đình và nhất là trên truyền hình, thì lại càng đầy dẫy những cảnh bạo động với máu đổ lênh láng trên đường. Một thế giới đổ nát như thế làm sao dạy cho các em sống yêu thương và khao khát hoà bình? Đó chính là trách nhiệm của những người làm cha làm me, và các nhà giáo dục phải trả lời trước lương tâm của mình.

Hôm nay, ngày tết của tuổi thơ, chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho các em thiếu nhi trong giáo xứ biết gìn giữ nét đẹp tuổi thơ của mình bằng việc luôn sống đơn sơ ngoan hiền, luôn vâng lời cha mẹ và sống chân thật để được Chúa luôn yêu thương, và chúc lành.

Chúng ta cũng cầu xin cho mọi người trên thế giới biết sống hoà thuận với nhau, để cùng nhau kiến tạo nền hoà bình trên địa cầu này, nhất là các bậc cha mẹ luôn biết sống yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho nhau để tuổi thơ được an vui sống trong vòng tay yêu thương của cha, của mẹ. Amen

---------------------------------

 

Suy Niệm 2. Trung thu dưới ánh sáng lời Chúa


(Hc 42,15-26 ; Rm 8,14-17; Mc 10,13-16)

Hôm nay, Tết Trung thu. Trong Thánh lễ Trung thu Giáo hội cho chúng ta nghe 3 Bài đọc.

- Bài đọc 1 trích sách Huấn ca, nhắc đến các công trình đầy vinh quang của Thiên Chúa.

- Bài đọc 2 trích thư thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma. Trong đó, Thánh Phaolô cho chúng ta biết: Chúng ta được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta là con cái Ngài.

- Bài Tin mừng theo Thánh Marcô mô tả thái độ yêu mến của Chúa Giêsu đối với trẻ thơ. Chúa còn lấy trẻ thơ như mô hình cho người lớn bắt chước về tính đơn sơ, phó thác, khiêm nhương và trong trắng.

Thật vậy, không phải vô tình trong ngày Tết Trung thu Giáo hội cho chúng ta nghe bài trích sách Huấn ca. Trong đó, tác giả đã ca tụng những kỳ công đầy vinh quang của Thiên Chúa. Một trong những kỳ công đầy vinh quang của Thiên Chúa là vẻ đẹp, thơ mộng của đêm trăng Trung thu. Ðêm trăng Trung thu có ánh trăng vàng, dịu dàng. Trăng sáng, vằng vặc trong trời đêm. Dưới ánh trăng thu các em nhi đồng tha hồ vui đùa, rước đèn Trung thu, tung tăng đó đây với niềm vui hồn nhiên của tuổi thơ.

Nhưng theo Giáo lý Thánh kinh thì tất cả các công trình Thiên Chúa tạo dựng là để phục vụ cho con người. Con người được Thiên Chúa trao cho quyền cai quản vũ trụ này. Ðó là một vinh dự. Nhưng vinh dự này có là gì so với diễm phúc con người được Thiên Chúa nhận làm con cái và Ngài cho phép chúng ta gọi Ngài là Cha “Abba” như Thánh Phaolô đã nói trong bài thư hôm nay. Ðược vinh dự làm con cái Thiên Chúa thì phải sống tâm tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha. Nhưng do sự yếu hèn vì hậu quả của tội Tổ tông nên con người dễ bị lôi cuốn vào các tính xấu như kiêu ngạo, tự mãn, gian dối và lăng lòan… Vì thế, khi nhìn thấy lũ trẻ thơ hồn nhiên, đơn sơ phó thác, khiêm nhường và trong trắng thì Chúa Giêsu đem lòng yêu mến, trong khi các Tông đồ muốn xua đuổi chúng đi vì sợ Chúa bị quấy rầy. Chúa đã trách nhẹ các ngài và cho các trẻ thơ đến với Chúa. Hơn nữa, Chúa còn coi các đức tính nơi trẻ thơ như một mô hình cho người lớn noi theo như tính đơn sơ, phó thác, khiêm nhường và trong trắng. Ðây là những đức tinh cao qúy và cần thiết để được vào Nước Trời.

Thật vậy, trẻ thơ sống đơn sơ, phó thác vì nó cảm thấy mình nhỏ bé, hèn yếu và người lớn thì to cao và mạnh mẽ nên nó tin tưởng hòan tòan vào sự chở che của người lớn mặc dầu đôi khi người lớn đành chịu thua như đối đầu với một con hổ dữ, người lớn tay không, không thể bảo vệ mình và đứa trẻ.

Vậy sống tâm tình trẻ thơ đơn sơ, phó thác là chúng ta ý thức mình là một thụ tạo hèn yếu và mong manh trước những quyến dũ mạnh mẽ của thế gian, trước những cám dỗ hung hãn của ma quỷ, trước những nghiêng chiều vì yếu đưối của xác thịt để chúng ta hết lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa tòan năng.

Trẻ thơ sống khiêm nhừơng, không cậy sức mình. Khi gặp vật cản đường, không thể xô đẩy hay nhấc ra chỗ khác, nó luồn cúi hay lách mình qua vì nó biết sức mình hèn yếu.

Sống tâm tình trẻ thơ khiêm nhường là chúng ta không cậy sức mình, kiêu căng, tự mãn, cậy quyền, cậy tiền, bất cần ai nhưng ý thức mình chẳng là gì trước mặt Thiên Chúa, hòan tòan lệ thuộc vào Chúa, ý thức mình khả năng có giới hạn nên cần liên đới với mọi người và đón nhận sự trợ giúp đa dạng của mọi người. Và nếu có gì tốt nơi chúng ta cũng nhờ bởi Chúa ban.

- Trẻ thơ trong trắng. Nó không biết phạm tội. Ðôi mắt ngây thơ vô tội phản ánh vẻ trong trắng tâm hồn nó.

- Sống tâm hồn trong sạch như tâm hồn trẻ thơ là chúng ta cố gắng tránh xa các dịp tội và dứt khóat thưa không với tội lỗi.

Thưa Quý ông bà anh chị em,  Các em nhi đồng yêu quý !

Trăng thu đẹp và thơ mộng như tâm hồn trẻ thơ. Vậy để bảo vệ nét đẹp đáng yêu nơi tâm hồn trẻ thơ thì người lớn chúng ta có trách nhiệm lo cho trẻ thơ được sống tuổi thơ hạnh phúc, có trách nhiệm làm gương sáng, gương tốt cho trẻ thơ. Nếu không, chúng ta sẽ bị Chúa khiển trách nặng nề : “ Những ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà cột cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn” (Mt 18, 6-7).

Hơn nữa, Tết Trung thu đánh dấu mốc thời gian nửa năm mới. Các em nhi đồng sẽ được thêm nửa tuổi. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các em càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa để các em giữ mãi vẻ đẹp tâm hồn tuổi thơ và nếu được như thế, các em nên như triều thiên cho chúng ta vậy.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3. Xin cho đời các em sáng đẹp tựa trăng rằm


 --Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Các em thiếu nhi thân mến, lời đầu tiên cha cùng với các cụ chánh trương, trùm quản, các thấy cô giáo lý viên, các bậc phụ huynh, các anh các chị chúc mừng TẾT TRUNG THU của các em.

- Ngày xưa có đoàn em bé đùa vui bên Chúa Giêsu, các em có biết ai đã dẫn các em đó đến với Đức Giêsu không, và đến với Chúa để làm gì?

Đáp: Bố mẹ các em đã dẫn các em đến với Chúa Giêsu để xin Chúa đặt tay chúc lành cho các em ạ.

– Thế còn tối nay cũng có đàn em bé đến đây với Chúa Giêsu. Vậy, có ai dẫn các em đến đây không và đến để làm gì?

Đáp: Con có mẹ dẫn đi, và đến đây để dự lễ Tết Trung Thu ạ.

– À, ngoài cái gọi là Tết Trung Thu đó, chắc chắn bố mẹ, ông bà, thầy cô giáo lý viên, ban hành giáo còn muốn cho các em một điều quan trọng hơn cả, đó là gì, em nào biết?

Đáp: Xin phúc lành của Chúa Giêsu ạ.

– Chính xác, nhưng cha hỏi tiếp, tại sao mọi người lại quan tâm đến các em đến thế?

Đáp: Vì chúng con là trẻ con ạ.

– Trẻ con, nhưng các em trong tương lai sẽ là ai?

Đáp: là người lớn ạ.

– Đúng rồi, tương lai các em sẽ là những ông bố bà mẹ, những người lãnh đạo trong giáo xứ, mở rộng ra là đất nước và Giáo hội này đấy.

Như các em biết đấy, trẻ em hay bắng nhắng, quấy rầy, làm mất thời giờ của người lớn, nên hay bị coi nhẹ, lúc trước lễ, các ông, các anh các chị đã xua đuổi các em, mà ngay trong Tin Mừng hôm nay, chính các môn đệ  đã xua đuổi chúng đi. Thấy vậy, Chúa Giêsu có bằng lòng không?

Không ạ. Ngài không hài lòng, Ngài bảo các ông đừng ngăn cản chúng. Ngài nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14). Cái hình Chúa ôm các em vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng thật là đẹp.

Các em có hiểu tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Vì Nước Trời là của những người giống như trẻ nhỏ” không?

Thưa, bởi vì trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ. Trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ, không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế, trẻ nhỏ không so đo tính toán lời lỗ, hơn thiệt… Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là nhất, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay, nên các em an tâm lắm.

Ngoài ra, trẻ nhỏ còn đơn sơ thật thà, có sao nói vậy, không thêm bớt, không hằn thù, không mưu mô, không làm hại ai. Các em đã thực hiện lời Chúa nói: “đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16). Vì thế, người ta thường nói về sự đơn sơ thật thà của trẻ em qua kinh nghiệm hằng ngày: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” (Tục ngữ).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4. Bài học dịp Tết Trung Thu


--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, nhìn lên bầu trời, chúng ta trông thấy trăng thanh gió mát. Trăng tròn và sáng nữa. Nên Giáo hội cầu nguyện “cho đời các em sáng đẹp tựa trăng rằm đấy, và không ngừng phản ánh Chúa Kitô là Mặt Trời công chính” (Lời nguyện hiệp lễ).

Trăng Tết Trung Thu sáng và tròn, nhưng vẫn có vầng xám, vẩn đục mà chúng ta quen gọi là cây đa với thằng Cuội.

Với bài hát: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già, ôm một mối lo. Cuội ơi, ta nói Cuội nghe: Ở cung trăng mãi làm gì Cuội ơi”!

Tại sao các em lại nhìn lên ông trăng mà gọi thằng Cuội? Thằng Cuội là ai? Tại sao Cuội phải ngồi ôm gốc cây? Ở mãi cung trăng để làm gì?

Trong kho tàng ca dao tục ngữ, cha thấy có một câu thơ lục bát:

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên đồi
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Dân gian vẫn thường hát:
Bắc thang lên đến tận mây
Hỏi sao Cuội phải ôm cây cả ngày?
Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười:
Bởi hay nói dối nên ngồi ôm cây.

Hóa ra thằng Cuội trả lời là vì hay nói dối. Thảo nào, thiên hạ mới có câu tục ngữ rất quen: “Nói dối như Cuội”.

Nhân ngày Tết Trung thu, bài học là hãy sống đơn sơ thật thà như Chúa Giêsu đã dạy: “Hễ có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37; Gc 5, 12). Đừng có bao giờ nói dối.

*****************

Các bậc phụ huynh thân mến,

Hôm nay, ngày Tết Trung Thu của các em, ai trong chúng ta cũng không muốn trời mưa hay bầu trời nhiều mây vẩn đục che mất ánh trăng, làm cho Tết Trung Thu bớt vui. Trái lại, muốn cho trời tạnh ráo, trời trong thanh để con em chúng ta có thể ngắm trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, ngắm thằng Cuội, lễ và rước đèn xong vừa ngắm trăng vừa nhâm nhi vài miếng bánh ngọt, xen lẫn tiếng cười vui là điều ai cũng mong muốn.

Nhưng tôi nghĩ rằng, bầu trời trong thanh không một gợn mây, là dấu chỉ không những các em mà cả chúng ta nữa phải có một tâm hồn trong sạch, đơn sơ, thật thà, dễ thương. Vì thế mà ý nguyện nhập lễ hôm này không chỉ xin cho các em, mà còn cho cả chúng ta nữa: “xin cho các em biết luôn giữ tâm hồn đơn sơ trong trắng và xin cho chúng con (tức là chúng ta những bậc làm cha mẹ và người lớn) được nên giống các em để mai sau được cùng về quê trời chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa” (Lời nguyện nhập lễ).

Thật vậy, trẻ thơ luôn đơn sơ, thật thà, không ăn gian nói dối như thằng Cuội… Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã bị những vẩn đục là người lớn như cây đa thằng Cuội che sáng vầng trăng, gây gương mù cho, làm cho các em trở nên ganh tị, ích kỷ, kéo quân, không biết nhín nhường anh chị em và các bạn… bị nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật. Điều này Chúa Giêsu lên án rất gắt gao:

Ai nêu gương hại trẻ con
Đáng đeo cối đá thả lòng biển khơi.

Nếu chúng ta làm gương mù gương xấu cho con em, là chúng ta cướp đi tuổi thơ của các em. Chúa Giêsu dạy chúng ta:

Này Ta bảo thật các ngươi
Nếu không trở lại giống người tiểu nhi
Nước Trời đừng nói làm chi
Các người không thể có hy vọng vào.

Tết Trung Thu, cùng với Ban hành giáo, giáo lý viên, hết mọi người cầu chúc tất cả các em mạnh khỏe khôn ngoan, bước vào năm học mới với nhiều niềm vui và ơn thánh Chúa, để các em trở nên những trò giỏi con ngoan, thiếu nhi ngoan hiền của Chúa Giêsu, càng thêm thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn nghĩa Chúa, cũng như sự mến chuộng của mọi người.

Chúc các bậc phụ huynh ấm êm hạnh phúc, trở nên cha mẹ mẫu mực cho đàn con. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5. Tết Trung Thu


--Lm Nguyễn Trung Thành

(Hc 42,15-16; 43,1-2.6-10; Mc 10,13-16)

Hôm nay chúng ta dâng thánh lễ mừng Tết Trung Thu. Trung nghĩa là giữa, thu là mùa thu. Trung Thu là Tết giữa mùa thu. Mùa thu khí hậu mát mẻ hơn các mùa khác. Đa phần đất nước VN thuộc khí hậu miền nhiệt đới, chỉ có hai mùa : mùa nóng và mùa mưa, nên chúng ta khó thưởng thức được khí mát của mùa thu.

Thay vào đó chúng ta được ngắm trăng. Không có đêm nào trăng tròn bằng đêm trung thu, cũng như không có buổi trưa nào mặt trời đứng bóng bằng trưa tết Đoan Ngọ. Tết Trung Thu là tết ngắm trăng.

Ngày xưa ở bên Tầu, vua Đường Minh Hoàng ngồi ngắm trăng vào đêm Trung Thu. Trăng qúa đẹp. Vua đang say ngắm thì một ông tiên đầu râu tóc bạc đến hỏi : “Bệ hạ có muốn lên thăm cung trăng không ?” Vua sung sướng trả lời : “Dạ, có.” Thế là vị tiên ông đưa vua lên thăm cung trăng. Trên cung trăng, vua được ngắm từng đoàn tiên nữ múa với những điệu múa vô cùng đẹp. Sau khi thưởng thức, vua được đưa trở lại trần gian.

Trăng theo truyền thuyết chính là con thỏ. Vào một năm mất mùa. Ai cũng đói. Các loài vật đi tìm thức ăn. Nhiều khi tranh giành giết lẫn nhau. Chú thỏ bản tính sợ sệt, không dám ra ngoài kiếm ăn, suốt ngày ở trong lỗ. Có lần khí trời qúa rét, thấy đống lửa, thỏ ra ngoài, lại gần sưởi ấm. Các con vật khác cũng có mặt, nhưng con nào con nấy ốm o bụng đói. Có con ủ rũ như sắp chết. Thỏ động lòng thương. Thỏ nghĩ thà mình chết, còn hơn để người khác chết. Thế là thỏ nhảy vào đống lửa để tự thiêu, làm thức ăn cho các con vật khác. Ngọc Hoàng  nghe biết lòng qủang đại hy sinh của thỏ, Ngài cầm mấy khúc xuơng thỏ còn lại biến thành mặt trăng, để người người ngắm noi gương thỏ.

Trên cung trăng có cuội và cây đa. Chúng ta thường hát :

                Thằng cuội ngồi gốc cây đa
                Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời
                Cha còn cắt cỏ trên trời
                Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên.

Cuội là người hay nói dối, đánh lừa người khác. Cuội nghe có một ông lão có cây đa thần. Lá cây đa chữa đủ thứ bệnh. Cuội đánh lừa ông lão để lấy cây đa đó. Ông  lão dặn cuội : “Nếu trồng phía đông thì tưới phia tây. Nếu trồng phía tây thì tưới phía đông.”  Vợ cuội đã được cuội dặn, nhưng quên. Cây trồng phía đông, vợ cuội đã tưới phía đông. Cây đa từ từ bật gốc bay lên trời. Trong nhà, trông thấy, cuội vội chạy ra, ôm gốc cây đa kéo xuống, nhưng cây đa đã kéo cuội lên theo. Từ đó mặt trăng có chú cuội và cây đa.

Tết Trung Thu người ta múa lân, rước đèn. Sự tích như sau :

Có một bà lão đi chợ sắm hoa trái để mừng Tết Trung Thu. Chợ xa, khi trời xẩm tối bà lão mới về. Bà phải đi qua một  khu rừng có con sư tử chuyên ăn thịt người. Trên đường về, bà bị sư tử bắt. Bà xin sư tử cho bà được thưởng thức đêm Trung Thu, sau đó bà sẽ tới nộp mình. Sư tử đồng ý. Thưởng thức đêm Trung Thu xong, nhớ đến giây phút phải nộp mình, bà lão khóc nức nở. Tiếng khóc của bà thấu tới trời. Ngọc hoàng nghe xót thương, sai một con rết xuống trần bảo vệ bà mà bà không biết. Bà đến nộp mình cho sư tử. Con rết âm thầm theo sau. Khi sư tử đến gần vồ bà thì con rết cũng xông tới cắn sư tử chết. Dân làng biết bà thoát nạn, đã chặt đầu sư tử và rước con rết đi vòng quanh khắp làng.

Qua các tích truyện vừa kể, Tết Trung Thu là tết ngắm trăng và gẫm suy sự đời. Sự đời có gian dối như chú cuội, dữ dằn như sư tử; song cũng có thương yêu, thật thà như con thỏ, bà già, các thần tiên…

Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay cũng nói lên điều đó.

Trước hết bài đọc 1 đọc trong sách Huấn Ca. Sách Huấn Ca ca ngợi Thiên Chúa sáng tạo bầu trời. Sách viết về mặt trăng như sau :

                     Cả vầng trăng cũng luôn đúng hẹn
                     Làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian
                     Trăng đánh dấu các thời kỳ đại lễ
                     Có khi khuyết, có lúc lại tròn.

Tác giả sách Huấn Ca đã nhìn trăng mà nhận ra Thiên Chúa sáng tạo.

Rồi bài Tin Mừng, thánh Mác-cô đã kể Chúa Giêsu yêu thương các thiếu nhi.

Người đời chưa biết Chúa, nên đã có những câu chuyện tưởng tượng để thỏa mãn lòng yêu mến thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa. Còn chúng ta đã biết Chúa. Chúa dựng nên trăng sao tinh tú. Chúa yêu thương mọi người, đặc biệt là các thiếu nhi.

Ước chi thánh lễ Trung Thu hôm nay, mỗi thiếu nhi sống thật thà yêu thương, để được Thiên Chúa chúc phúc như xưa Chúa đã chúc phúc cho các thiếu nhi Do Thái.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6. Lễ Trung Thu


--Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh

(Hc 42,15-16;43,1-2.6-10; Mc 10,13-16)

Hằng năm cứ vào ngày rằm tháng 8 Âm lịch, thiếu nhi lại có một ngày thật vui vẻ. Đó là ngày Tết Trung Thu. Nếu thời tiết đẹp và trời không mưa thì bầu trời đầy sao, trăng tròn vành vạnh, ánh sáng long lanh đổ đầy xuống mặt đất. Đến các điểm vui chơi trung thu, con sẽ thấy những chiếc đèn lồng, đèn ông sao, bóng bay đủ màu, và múa lân. Trong gia đình các con cũng thế: có bánh trung thu, có đèn lồng, đèn ông sao, các con có quần áo mới... Nhà thờ giáo xứ chúng ta hôm nay cũng được trang hoàng rất đặc biệt với bóng bay, đèn ngôi sao, đèn lồng…

Những gì các con thấy đặc biệt hôm nay cho thấy tình thương, sự quan tâm của người lớn dành cho các con. Từ ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình các con đến các cha, các sơ, các thầy, các anh chị giáo lý viên và huynh trưởng ở nhà thờ đều yêu thương các con, muốn cho các con có được một ngày tết thật vui vẻ. Các con này: trước khi ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình và các cha, các thầy, các sơ, anh chị giáo lý viên và huynh trưởng yêu thương các con, Thiên Chúa và Chúa Giêsu đã yêu các con rất nhiều rồi.

Các con à! Thật là như thế. Bài đọc một trích sách Huấn ca kể rằng Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài. Ngài cho mặt trời tỏa sáng nhìn xuống muôn vật, cho bầu trời trong vắt cao xanh, cho hừng đông ló rạng, cho vầng trăng khi tỏ khi mờ, lúc trong lúc khuyết và luôn đúng hẹn làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian. Chúa còn dùng ánh trăng làm dấu các ngày lễ như hôm nay chẳng hạn: Tết Trung Thu, tết của thiếu nhi. Theo chu kỳ, Chúa cho trăng cứ tròn thêm mãi để đến rằm thánh 8 thì ánh trăng tròn vô cùng và có muôn vàn vì sao lấp lánh cùng với trăng tỏa sáng. Đấy Chúa yêu chúng ta là thế. Nếu không có bầu trời, không có ánh trăng và các ngôi sao thì liệu có Tết Trung Thu không các con nhỉ? Cha nghĩ chẳng có và dịp vui của các con hôm nay chẳng bao giờ có.

Bài Tin Mừng cũng nói cho chúng ta về tình thương tuyệt vời Chúa Giêsu dành cho thiếu nhi. Tin Mừng kể rằng khi Chúa đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi, có lúc trẻ nhỏ đến chơi với Chúa, quấy rầy làm phiền Chúa giống như thỉnh thoảng các con đi lễ ghé vào nhà xứ chơi vậy. Các môn đệ thấy thế thì khó chịu la rầy chúng. Thấy thái độ của các ông như thế không được, Chúa Giêsu đã bực mình và bảo rằng: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng.” Chúa Giêsu còn nói thêm: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Thiên Chúa.” Sau khi nói những lời đó xong, Chúa Giêsu ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho các em.

Thiên Chúa là Cha đã yêu thương các con vô ngần và Chúa Giêsu cũng vậy. Ngài ôm trẻ vào lòng và đặt tay chúc lành cho các em. Nếu Chúa đã yêu các con như vậy thì các con cũng phải làm gì đó để bày tỏ tình yêu với Chúa. Các con thử nghĩ coi, mình sẽ làm gì nào? Vui vẻ, đơn sơ, chăm ngoan ở trường, ở nhà và ở nhà thờ. Thế nào là đơn sơ? Thật thà có sao nói vậy, sống ngay thẳng với bạn bè, cha mẹ, thầy cô, không nói xấu bạn, không ganh tị, không đánh bạn…. Chăm ngoan là làm sao nào? Ở nhà biết vâng lời giúp đỡ cha mẹ, anh chị, các em. Ở trường vâng lời thầy cô học hành cho giỏi và sẵn sàng giúp đỡ bạn bè.

Các con thử hỏi lòng mình, mình có sống như thế bao giờ chưa? Cầu xin Chúa chúc lành cho các con hôm nay và mọi ngày sống của các con. Xin Chúa ban cho các con nhiều hồng ân để các con sống xứng đáng với tình yêu thương của Chúa, của cha mẹ, người thân và những người có trách nhiệm dạy dỗ các con. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 7. Vui Tết Trung Thu, đơn sơ như bồ câu


--Lm Giuse Đinh lập Liễm

I. BÀI TIN MỪNG HÔM NAY

Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng.

Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”.

Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng (Mc 13-16).

Các con thân yêu,

Các con biết không, ngày xưa, người Do thái có thói quen dẫn trẻ em đến với những người có uy tín để được chúc lành. Chúa Giêsu là người đã nổi tiếng, lại dễ mến, dễ thương, dễ đến gần, nên người ta đem trẻ em đến cho Chúa chúc lành.

Nhưng, như chúng con biết, trẻ em hay bắng nhắng, quấy rầy, làm mất thời giờ của người lớn, nên các môn đệ xua đuổi chúng đi. Thấy vậy, Chúa Giêsu tỏ ý không bằng lòng và khuyên các ông đừng ngăn cản chúng. Ngài nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14). Rồi Ngài ôm lấy các em vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng.

Các con có hiểu tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Vì Nước Trời là của những người giống như trẻ nhỏ” không? Thưa, bởi vì trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ.

Trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ, không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế,

trẻ nhỏ không so đo tính toán lời lỗ, hơn thiệt…

Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là thần tượng, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay…

Ngoài ra, trẻ nhỏ thì đơn sơ thật thà, có sao nói vậy, không thêm bớt, không hằn thù, không mưu mô, không làm hại ai. Các em đã thực hiện lời Chúa nói: “Hãy khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16).

Vì thế, người ta thường nói về sự đơn sơ thật thà của trẻ em qua kinh nghiệm hằng ngày: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” (Tục ngữ)

Có một em nhỏ nói với Chúa Giêsu một cách đơn sơ tự nhiên không đắn đo, nghĩ sao nói vậy. Em đã nói với Chúa: “Chúa ơi, chúng con đọc trong sách rằng ông Thomas Edison đã thắp sáng. Nhưng trong lớp giáo lý, chúng con học rằng Chúa đã dựng nên ánh sáng. Vì vậy, con nghĩ rằng ông ấy đã ăn cắp sáng kiến của Chúa”!

Nhưng chắc Chúa Giêsu sẽ trả lời cho em: “Ông ta không ăn cắp sáng kiến của Ta đâu. Ta đã vui lòng tặng cho ông ấy cái sáng kiến đó, và ông ấy đã chế ra bóng đèn để giúp ích cho nhân loại. Có nhiều điều Ta cũng ban cho con… mà càng lớn lên con càng thấy rõ. Hãy phát huy chúng vì ích lợi của mọi người. Con nhé”.

II. BÀI HỌC TRONG NGÀY TẾT TRUNG THU.

Hôm nay, nhìn lên bầu trời, các con thấy trời đẹp với trăng thanh gió mát. Các con đi múa lân trong khắp giáo xứ, tay cầm đèn ông sao, con cá con tôm, chân nhảy múa tưng bừng, miệng ca vang bài: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già, ôm một mối lo. Cuội ơi, ta nói Cuội nghe: Ở cung trăng mãi làm chi”!

Tại sao các con lại nhìn lên ông trăng mà gọi thằng Cuội? Thằng Cuội là ai? Tại sao Cuội phải ngồi ôm gốc cây? Ở mãi cung trăng để làm gì? Hôm nay, cha sẽ kể cho các con nghe sự tích thằng Cuội ngồi ôm gốc cây đa nhé!

Trong kho tàng ca dao tục ngữ, cha thấy có một câu thơ lục bát:

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,    Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.

Cha còn cắt cỏ trên đồi            Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.

Thằng Cuội, theo truyền thuyết, đó là một kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời, đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì cha mẹ đi vắng, nó phải coi nhà. Buồn tình, nó bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với”. Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp cứu. Thấy vậy, nó bèn cười ngặt nghẽo đến vãi cả nước mắt ra.

Lần khác, nó ngồi thổi cơm, chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà bốc cháy. Nó cũng kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với”. Thế nhưng, lần này chẳng ma nào đến tiếp cứu. Vì thế, dân gian mới bảo:

Bắc thang lên đến tận mây, Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả ngày?

Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười: Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.

Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà thằng Cuội trở thành hình ảnh tượng trưng cho những kẻ chuyên môn lừa gạt, nói dối. Do đó, thiên hạ mới có câu tục ngữ rất quen: “Nói dối như Cuội”.

Hay nói một đàng mà làm một nẻo thì người ta gọi là “Hứa Cuội”, có nghĩa là hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được gì cả. Do đó, đưa đến một câu tục ngữ khác: “Mười voi không được một bát nước xáo”, có nghĩa là nói bậy bạ khuếch khoác, lời nói ấy cũng giống như làm thịt ba con voi mà chẳng được bát nước xáo. Lời nói vô bổ, không thể tin được.

Nhân ngày Tết Trung thu, cha muốn nói với các con về sự tích thằng Cuội và có lẽ các con sẽ thắc mắc rằng chúng con học được cái gì ở nơi thằng Cuội? Cha muốn nói với các con rằng trong kho tàng truyện cổ tích, truyện thần thoại hay ngụ ngôn, tác giả luôn nhằm mục đích giáo dục, muốn con người hướng thiện, muốn vươn lên theo khía cạnh tích cực hay tiêu cực, nghĩa là có những việc cần phải bắt chước, cũng có việc nên tránh. Trong trường hợp này là đừng nên giống thằng Cuội.

Như vậy, bài học mà các con có thể rút ra từ câu truyện thằng Cuội hôm nay đó là đừng bao giờ nói dối. Hay nói một cách tích cực là hãy sống đơn sơ thật thà, đơn sơ chất phác, đừng thêm thắt gì, có sao nói vậy, như Chúa Giêsu đã dạy: “Hễ có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,37; Gc 5,12).

III. LỜI CẦU XIN HÔM NAY

Chắc các con không muốn hôm nay trời mưa hay bầu trời nhiều mây vẩn đục, như thế làm cho buổi múa lân hôm nay mất vui. Trái lại, các con muốn cho trời tạnh ráo, trời trong thanh để các con có thể ngắm trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, ngắm thằng Cuội, vừa ngắm trăng vừa nhâm nhi vài miếng bánh ngọt, xen lẫn tiếng cười dòn vang như pháo nổ. Như thế thì tuyệt cú mèo rồi!!!

Các con muốn cho trăng rằm tháng 8 năm nay phải rực rỡ trên bầu trời, phải có trăng thanh gió mát để các con được hưởng trọn vẹn một Tết Trung thu dành cho các con. Đó là điều ai cũng mong muốn. Nhưng cha nghĩ rằng, bầu trời trong thanh không một gợn mây, đó là dấu chỉ các con phải có một tâm hồn trong sạch, đơn sơ, thật thà, dễ thương.

Thật vậy, trẻ thơ cần phải luôn đơn sơ, thật thà, không ăn gian nói dối như thằng Cuội…

Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật.

Điều đó đã làm cho các em đánh mất tuổi thơ của mình. Nếu một em bé đã nhiễm thói ăn gian nói dối, là tự mình đánh mất tuổi thơ, đánh mất vẻ hồn nhiên tươi vui sẽ làm cho con người ra già cỗi, và tự đầy đọa mình như thằng Cuội, suốt đời ôm một mối lo!

Truyện : Xin được trở lại chuồng ngựa

Ngày xưa bên Trung hoa có một ông vua văn chương rất dở mà lại thích làm thơ. Thỉnh thoảng vua hội các quan lại, rồi trao cho các ông đọc những bài thơ bát cú, tứ tuyệt, song thất lục bát mình đã sáng tác và hỏi ý kiến: ông mong được các quan ca tụng hơn là phê bình. Dĩ nhiên, quan nào cũng khen hay, tuyệt bút, hấp dẫn…

Một hôm, có một ông quan ở tỉnh xa về kinh có việc, được vua mời đến dự. Hôm đó, vua làm một bài thơ tả cảnh ngày xuân trong nước. Cũng như mọi lần, các quan triều tấm tắc khen ngợi, còn ông quan khách ngồi mà chẳng nói gì. Vua quay nhìn và hỏi ý kiến. Vị quan khách nhìn vua vừa đưa mắt trông các quan rồi mạnh bạo tâu rằng: “Theo thiển ý riêng của mình, thì bài thơ đó không có gì đáng kể”. Nghe câu nói táo bạo đó, các quan đều khiếp sợ và vua cũng xấu hổ và bực tức, liền dạy trói lại và đem để dưới chuồng ngựa.

Cách mấy hôm vua rán làm bài thơ khác khéo léo hơn, rồi trước mặt đông đủ các quan, ngài ngâm nga các bài thơ đặc sắc mới làm và tin chắc rằng bài thơ có một cái gì phi thường. Bài thơ được hết các quan vỗ tay khen ngợi.

Tưởng rằng lần này vị khách kia không thể không khen, và mình sẽ nhờ dịp đó trả lại tự do cho ông. Vua cho vời quan đó đến và trao cho xem bài thơ mới này. Cầm lấy đọc đi đọc lại mấy lần, quan đó đưa lên trả lại cho vua, và xin cho mình ngồi ở chuồng ngựa như trước.

Hiểu rằng ông quan này chê bài thơ của mình, song cũng nhận thấy ông là người chân thật, can đảm, mạnh bạo; không phỉnh phờ tơ tóc lấy lòng, mà cũng không sợ tù tội hay bị cất chức, một mến yêu sự thật, nói sự thật và bênh sự thật, cho nên thay vì bảo ông trở lại chuồng ngựa, vua kính phục khen ngợi, và phong ông lên làm cố vấn tối cao trong đền. Còn các quan kia vua tỏ ra khinh dể, không tin cẩn, và lần lượt đầy họ ra bên rìa.

Hôm nay, Tết Trung thu, ngày Tết của tuổi thơ, chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã ban cho các em có dịp thuận tiện để vui cái Tết của mình. Chúng ta cũng hãy sốt sắng hiệp dâng Thánh lễ để xin Chúa ban cho các em thiếu nhi trong giáo xứ chúng ta biết giữ gìn nét đẹp tuổi thơ của mình bằng cách luôn sống đơn sơ ngoan hiền, luôn vâng lời cha mẹ và sống chân thật để được Chúa luôn yêu thương và chúc lành.

Một lần nữa, cha mong các con thực hiện lời Chúa đã dạy ở trên và thực hiện lời thánh Giacôbê dạy: “Đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì khác mà thề. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”, như thế, anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5,12).

-------------------------------

 

Suy Niệm 8. Vầng trăng thanh


--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Các con nóng lòng chờ đợi Tết Trung thu cả tháng nay rồi và hôm nay Tết Trung thu đã đến. Cha thấy các con rất vui, nét mặt tươi như hoa nở, nụ cười hớn hở, từ em bé một tuổi đang có mặt ở đây, các con đang chờ đợi đi múa lân và nhận quà trung thu.

Nhưng trước tiên, các con hãy dành cho Chúa ít phút, các con hãy dâng lên Chúa niềm vui ấy trong Thánh lễ này. Xin Chúa chúc lành và tăng thêm niềm vui cho các con và Chúa sẽ ban cho các con món quà quí giá là một tâm hồn đơn sơ trong sạch tỏa lan ra niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh được thêm dịu mát như ánh trăm rằm hôm nay.

I. LỊCH SỬ TẾT TRUNG THU.

Theo sử sách, Tết Trung thu đã có trước đây ít nhất 2000 năm. Từ thời cổ xưa, các vị vua chúa có tục lệ tế mặt trời vào mùa xuân và tế mặt trăng vào mùa thu.

Theo Âm lịch, ngày 15 tháng 8 là chính giữa mùa thu được coi là ngày “lành” để làm lễ tế thần mặt trăng. Và trong đêm 15 tháng 8 hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu.

Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng, còn gọi là bánh “đoàn viên”, bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu khí trong lành của đêm rằm đến với mọi nhà.

Trong dịp này, người lớn ăn bánh uống trà thưởng thức ánh trăng thu vằng vặc treo trên bầu trời xanh trong. Các em thiếu nhi thì rước đèn trung thu, múa lân cùng với  đèn trung thu, xen lẫn tiếng trống nhịp nhàng. Tất cả đều tạo nên một bầu khí vui tươi phấn khởi.

Thời tiết trong Nam này khác với ngoài Bắc. Chúng ta mừng Trung thu bao nhiêu lần rồi mà lần nào cũng bị mưa, không nhiều thì ít, bầu trời hay bị u ám, có khi chả thấy trăng thu đâu cả. Ngược lại, ở ngoài Bắc, rằm tháng 8 là thời kỳ thời tiết đẹp nhất, trời trong xanh, gió hiu hiu thổi, không khí mát mẻ, mặt trăng tròn đầy sáng vằng vặc, có thể đọc sách được.

Như vậy,  trăng thu có vẻ đẹp thật huyền diệu, là nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ dệt thành những bài ca, là nguồn thơ bất tận cho thi sĩ, là đề tài không vơi cạn cho các văn nhân, là nét đẹp thu hút bao tâm hồn..

Đêm nay các con vui hát, múa nhảy, nô đùa dưới trăng, thưởng thức những tấm bánh trung thu vừa ngọt vừa bùi thì thật là tuyệt vời. Ánh trăng thu năm nay chắc chắn phải trong sáng và có một sức hấp dẫn lạ lùng. Bởi thế, người ta chọn ngày đẹp nhất trong năm là ngày Tết của thiếu nhi, nhưng đồng thời cũng là ngày vui của người lớn, trong đó có cha mẹ các con và có cả cha nữa.

II. ĐỨC MARIA, VẦNG TRĂNG THANH.

Nói đến vầng trăng thanh, cha nghĩ ngay đến Mẹ Maria. Sách Khải huyền đã ca tụng Ngài : Mẹ được coi như vầng trăng sáng trong đêm tối, tỏa ánh sáng dịu êm làm tươi mát cho tâm hồn :

Kìa Bà nào đang tiến lên như rạng đông,

Đẹp như Mặt trăng, rực rỡ như mặt trời.

Chúng ta là con cái Mẹ Maria, chúng ta phải cố gắng sống như Ngài để trở thành một vầng trăng  tròn trong đêm tối, một vầng trăng chiếu sáng cho những người còn sống trong bóng đêm tội lỗi như chúng ta vẫn ca tụng Ngài :

Mẹ là suối mát trinh nguyên giữa sa mạc hoang,

Mẹ là trăng thanh đêm về chiếu sáng mênh mang…

III. CÁC CON LÀ VẦNG TRĂNG THANH.

Người dân quê Việt nam có rất nhiều câu đố, trong một rừng câu đố đó, các em thiếu nhi thường dùng mà đố nhau trong dịp Trung thu này xem nó là cái gì và hôm nay cha cũng muốn đố các con và đồng thời cha cũng muốn các con được trở nên cái đó :                          

Bằng cái vung
Vùng xuống ao,
Đào không thấy,
Lấy không được.

Các con có biết nó là cái gì không ? Thưa, đó là ông trăng.

Mừng Trung thu năm nay, các con phải cố gắng trở nên một vầng trăng Trung thu mới . Các con phải trở thành trăng tròn giữa nền trời đêm, như thế mới thật hấp dẫn.

Muốn trở thành một vầng trăng đẹp giữa cuộc đời, các con phải cố gắng sống một đời trong sạch, lánh xa các dịp tội, lánh xa những gì có thể làm cho linh hồn các con ra ô uế, không xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự.  Các con có thể bắt chước con chồn bạch để giữ gìn đức trong sạch, thà chết chẳng thà phạm tội.

Truyện : Con chồn bạch

Một ngày kia, trong khi đi săn, một người săn trông thấy chú chồn bạch, lông nó trắng phau phau. Bộ lông chồn bạch bán rất đắt tiền, vì người ta dùng làm áo choàng rất đẹp.  Người săn này đuổi con chồn miết, dồn cho nó vào tới chỗ con chồn phải chạy qua một đồng lầy.  Ông ta vốn biết : con chồn bạch sẽ không bao giờ đành băng xuống đầm lầy để trốn thoát, chỉ vì nó thà chết chứ không đành để cho bộ lông trắng đẹp của nó bị bùn đất bám vào.

Khi các con lo bảo toàn lòng trong trắng của các con khỏi vết nhơ tội lỗi, lúc ấy các con đã thực sự trở thành một vầng trăng thanh làm đẹp lòng Chúa, làm đẹp lòng Đức Mẹ và làm đẹp lòng mọi người.

Nhưng nếu các con không cố gắng  mà lại để cho tâm hồn nhơ bẩn thì các con chỉ là vầng trăng khuyết, những vầng trăng đen, làm ô nhiễm môi trường, làm buồn rầu cho Chúa và cho mọi người.

Ngày xưa Chúa Giêsu cũng như các con. Cậu bé Giêsu luôn tỏ ra là một vầng trăng rằm sáng đẹp trong gia đình Nazareth. Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và mọi người, được mọi người quí mến. Ngài là TRĂNG TRUNG THU chính hiệu. Các con hãy học với Chúa Giêsu để trở nên vầng trăng tròn và sáng đẹp như Chúa Giêsu.

Trăng đêm nay trăng tròn, tròn ghê Chúa ơi,
Trăng đêm nay trăng tròn, tròn treo là treo giữa trời.
Nhưng đêm nay không tròn bằng tình Thiên Chúa yêu con
Nhưng đêm nay không tròn bằng tình con yêu kính Ngài.

-------------------------------

 

Suy Niệm 9. Bánh Trung Thu dâng Chúa


--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

I. NGÀY TẾT CỦA THIẾU NHI

Hôm nay, ngày rằm tháng tám, ngày Tết trung, ngày Tết của thiếu nhi chúng con. Các em thiếu nhi trong cả nưuớc đang nô nức đón chờ ngày Tết này. Ngày Tết dành riêng cho thiếu nhi với những sinh hoạt rất vui nhộn, với những chương trình đặc sắc dành riêng cho tuổi thơ.

Đây là lễ hội đã có từ lâu để các trẻ nhỏ sum họp vui đùa bên nhau, với những chiếc lồng đèn xinh xắn, sáng rực dưới ánh trăng của ngày rằm.  Các em quên hết mọi ưu phiền, các em tha hồ múa hát vui chơi thoải mái.

Người ta yêu thích vầng trăng tròn, vầng trăng thu. Người ta thích đi dạo dưới  trăng, ngâm thơ dưới trăng, đàn hát dưới trăng. Cả trẻ con cũng thích nô đàu dưới ánh trăng. Ánh trăng có một sức hấp dẫn rất tuyệt vời. Bởi thế, người ta chọn ngày trăng đẹp nhất trong năm làm ngày Tết của thiếu nhi, nhưng đồng thời cũng là ngày vui của người lớn.

Trong tinh thần vui tươi phấn khởi ấy, giáo xứ chúng ta – do các giáo lý viên và huynh trưởng -  tổ chức cho chúng con  đêm Trung thu này để các con đi múa lân, rước đèn trung thu, nhảy múa, ca hát và nhâm nhi miếng bánh trung thu.  Thật là tuyệt vời, phải không các con ?  Các con hãy quên đi tất cả phiền sầu, lo lắng. Các con hãy hòa nhập vào mọi sinh hoạt vui chơi dành cho các con trong buổi tối nay.

II. DÂNG CHÚA BÁNH TRUNG THU

Trước khi khai mạc chương trình vui chơi đêm nay, các con hãy cùng hiệp dâng Thánh lễ để tạ ơn Chúa đã ban cho các con có hoàn cảnh thuận lợi để tổ chức đêm vui chơi này và xin Chúa ban thêm niềm vui để chúng con hăng hái luyện tập để trở thành những người con yêu của Chúa và trở thành những người hữu ích cho Giáo hội và xã hội.

Đã là Tết Trung thu thì không thể thiếu bánh Trung thu, một loại bánh đặc trưng của mùa trăm rằm, một thứ bánh mà các con mong đợi từ mấy tháng nay. Với tấm bánh này các con có thể thưởng thức dưới ánh trăng rằm, nó cần thiết cho trẻ con cũng như người lớn.

Trong Thánh lễ chiều nay, chúng con, các thiếu nhi trong giáo xứ, chúng con sẽ dâng lên Chúa Giêsu một tấm bánh đặc biệt để  nói lên lòng yêu mến chân thành và biết ơn của chúng con. Xin Chúa thương nhận lấy và chúc là cho chúng con.  Đồng thời, xin Chúa Giêsu Hài Đồng hãy cùng chúng con ăn bánh Trung thu, thưởng thức bánh Trung thu dưới ánh trăng rằm với chúng con.

Các con biết không ? Chiếc bánh Trung thu này  được làm rất công phu, qua nhiều công đoạn phức tạp để trở thành tấm bánh vừa đẹp vừa ngon, vừa đầy hương vị.  Cha sẽ tả cho chúng con các công đoạn công phu của chiếc bánh này theo kinh nghiệm của các người làm bánh.

Chắc mấy ai hiểu rõ “cội nguồn” về qui trình chế biến, sự lựa chọn nguyên liệu để làm ra sản phẩm đặc biệt này. Thật sự muốn tạo nên một tấm bánh ngon, có chất lượng hoàn hảo, người ta phải trải qua những kỳ công tỷ mỉ và dầy dạn kinh nghiệm, với những công đoạn chính yếu như sau, đó là : bột, đường, trứng, hạt mè (vừng), hạt điều, hạt dưa, thịt nguội, lạp xưởng, gà quay, xá xíu, thịt xông khói và các loại hải sản…

Tiêu chuẩn đầu tiên là chọn quả trứng ngon và nó phải được muối đủ ngày và có mầu trắng đục hơi sáng. Nấm đông cô phải khô, có mầu xám đen và mùi thơm đặc biệt. Hải sâm có mầu xám trắng và phần thịt hơi trong.  Thịt nạc xông khói có mầu đỏ hồng tự nhiên, không lẫn mỡ, với mùi vị mặn đặc trưng. Thịt xá xíu phải  là loại nạc không mỡ và gân, nhưng đặc biệt có mầu trắng của thịt chín  và mùi vị mặn ngọt đều hòa… không xử dụng bột mầu thực phẩm và các loại hóa chất bảo quản chống mốc  trộn lẫn trong gia vvị…

Sau đó, tất cả nguyên vật liệu sẽ được sơ chế  rồi bỏ vào máy ly tâm, để xay trộn cho nhân bánh được dẻo.  Chiếc bánh thơm ngon là kết quả của một quá trình nghiên cứu công phu  : tỷ lệ bột, đường, trứng và các loại hạt, mứt, thịt, hải sản, xá xíu, lạp xưởng, bao nhiêu là vừa đủ… để bánh đạt độ mềm dẻo, độ dính, độ chắc.  Tỷ lệ “mặn” và “ngọt” ra sao để tạo nên hương vị tinh tế hài hòa.  Khi đã hoàn tất phần nhân, bánh sẽ được định hình trong một lò nướng có nhiệt độ từ 200 đến 220 độ C, sau đó kết quả sẽ đem lại cho ta một chiếc bánh thật hoàn hảo với hoa văn tinh tế và mầu vàng nâu óng ả.  Đây cũng là biểu tượng của “mặt trăng” tròn đầy.

Bánh Trung thu ngon thật, nhưng bánh sẽ càng ngon hơn khi thưởng thức đúng điệu với nước trà truyền thống. Hương thơm thoang thoảng của tách trà sen, trà lài, trà Thái nguyên “móc câu”… khiến không khí gia đình sum họp đêm Trung thu thêm ấm cúng.  Ăn miếng bánh, nhấp ngụm trà nóng, nghe hương trà như tan ra  hòa quyện cùng vị bùi của thịt, vị ngọt của hải sản, vị dẻo thơm tinh tế… chúng ta như cảm nhân được tất cả hương vị thanh tao của đất trời trong tiết Trung thu.

III. DÂNG CHÚA HAI THỨ BÁNH

Nếu các con có diễm phúc được ngồi trong gia đình cùng với ba má, với anh chị em thưởng thức bánh Trung thu,  các con hãy mời Chúa Giêsu  vào thưởng thức với gia đình các con, vì có lẽ, ngày xưa Giêsu Hài Đồng bé nhỏ ở Nazareth chả có bánh Trung thu ngon lành như thế để thưởng thức đâu!  Nếu có Chúa ở trong gia đình cùng thưởng thức bánh Trung thu của các con, chắc chắn bầu khí yêu thương ấm áp trong gia đình các con sẽ được tăng lên gấp bội.

Hôm nay các con dâng bánh Trung thu cho Chúa và mời Chúa vào thưởng thức trong gia đình, chắc Chúa hài lòng lắm đấy.

Nhưng, như cha nghĩ, Chúa còn muốn chúng con  dâng cho Ngài một thứ bánh Trung thu khác, một thứ bánh quí hơn mà ít người có để dâng cho Chúa.  Chúng con có biết thứ bánh nào không ? Đó là “Bánh Trăng Tròn Thiêng liêng”. Thứ bánh này chính các con phải làm ra với những chất liệu hảo hạng, mà chúng con tìm được, với những qui trình công phủ tỉ mỉ, với mầu sắc và hương vị tuyệt vời.

Các con sẽ dâng cho Chúa thứ bánh đó nếu các con biết yêu mến Chúa, làm trọn nhiệm vụ của các con với bao hy sinh thảo lảo để các con có thể trở nên ánh  sáng thế gian và muối đất. Các con sẽ dâng cho Chúa thứ bánh đó nếu các con biết cố gắng làm những việc này :

-  Các con trở nên một người con thảo trong gia đình : yêu mến, vâng lời, biết ơn cha mẹ;  yêu thương anh chị em,  giúp đỡ cha mẹ trong những việc có thể.

- Các con trở nên một học trò ngoan nơi học đường : chăm chỉ học hành, vâng lời thầy cô, yêu thương và hòa hợp với chúng bạn.  Cố gắng nếu gương sáng cho các bạn đồng môn.

-  Các con trở nên một thiếu nhi gương mẫu trong giáo xứ : siêng năng tham dự Thánh lễ, rước lễ, chăm chú nghe Lời Chúa và tích cực tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ.

Hôm nay, ngày Tết Trung thu, và trong Thánh lễ này các con hãy dâng cho Chúa  hai thứ bánh ấy với tất cả tấm lòng thành. Xin Chúa thương chấp nhận, chúc lành và ban muôn vàn ơn phúc cho các con.

Sau cùng, cha chúc các con trở thành vầng trăng rằm của mùa thu để các con đem niềm vui đến cho mọi người.

Các con hãy đưa mắt nhìn về Nazareth và hãy tưởng tượng : cậu bé Giêsu hôm xưa luôn tỏ ra là vầng trăng rằm sáng đẹp trong gia đình Nazareth. Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và loài người, được mọi người quí mên. Ngài là TRĂNG TRUNG THU chính hiệu. Các con hãy học với Chúa Giêsu để trở nên vầng trăng đẹp như Chúa Giêsu vậy.

-------------------------------

 

Suy Niệm 10. Vui Trung Thu với Chúa


--Lm. Giuse Đỗ Đức Hạnh

Hôm nay chúng ta cử hành thánh lễ nhân dịp vui Trung Thu để cảm tạ Chúa vì những công trình Chúa đã tạo dựng nên để cho chúng ta có đươc những ngày vui này và chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện lên Chúa cho các em thiếu nhi trong giáo xứ và cho các em thiếu nhi trên toàn thế giới.

Bài sách Huấn Ca hôm nay nói cho chúng ta biết về công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Mặt trời, mặt trăng, trái đất, muôn mặt tinh tú là do Thiên Chúa tạo thành và an bài theo chu kỳ thời gian Chúa đã định liệu để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa và phục vụ loài người. Mỗi người chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, sông núi và cho có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông thật hùng vĩ và đầy thi vị cho chúng ta.

Và qua bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã yêu thương trẻ nhỏ qua việc đặt tay chúc lành cho các trẻ và nói: ” Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng…” .

Vâng, trẻ nhỏ trong sạch, đơn sơ, thật thà, tin tưởng phó thác, và trẻ nhỏ như mẫu gương chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Chị đã sống con đường thơ ấu một cách tuyệt vời, khiêm tốn hiền lành, phó thác mọi sự cho Chúa.

Vào hôm nay, ngày tết trung thu của trẻ em, đặc biệt là các con thiếu nhi giáo xứ chúng ta. Ước gì chúng con có một chút cố gắng hy sinh đối với những người làm ơn cho mình. Nhất là tình yêu thương của ông bà, cha mẹ dành cho thiếu nhi mới là món quà quý giá nhất mà chúng ta nhận được từ khi mới chào đời.

Xin Chúa giúp cho mỗi thiếu nhi biết ngoan ngoãn vâng lời, thực hành lời Chúa, siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên cần học hỏi giáo lý và  yêu mến Thánh Thể … Xin cho thiếu nhi biết vâng lời ông bà, cha mẹ và sống hòa thuận với anh chị em, với hết cả mọi người.

-------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn


 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

 

Những tin cũ hơn

Công ty chủ quản
Chuyển giao diện: Tự động Máy Tính