Người cao trọng nhất. 30/09 – Thứ Hai tuần 26 thường niên. – Thánh Giêrônimô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. “Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.
* Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơtriđôn, Đanmaxia. Người đến Rôma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông phương và làm linh mục. Trở lại Rôma, người làm thư ký cho Đức Giáo Hoàng Đamaxô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống 35 năm cuối đời ở Bêlem, gần cái hang nơi Đức Giêsu ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Người qua đời ở Bêlem năm 420.
Khi ấy, các mộn đệ nghĩ ngợi trong lòng rằng ai trong các ông sẽ là người cao trọng nhất. Chúa Giêsu thấu biết tư tưởng trong lòng các ông, Người liền dẫn một trẻ nhỏ tới, để đứng bên cạnh Người, và bảo các ông rằng: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.
Gioan lên tiếng thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy một người kia lấy danh Thầy mà trừ quỷ, và chúng con đã ngăn cản nó, vì nó không theo Thầy cùng với chúng con”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Các con chớ ngăn cản, vì ai không chống nghịch các con, tức là thuận với các con”.
Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên. Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới? Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó. Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây, nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét, cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ. Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục. Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó. Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu. Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ. Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt. Các môn đệ vẫn loay hoay với một câu hỏi trong đầu: “Trong các ông, ai là người lớn nhất?”(c. 46). Thầy Giêsu muốn dạy cho họ một bài học rất gợi hình, nên đem một em nhỏ đến và trân trọng đặt em đứng bên cạnh (c. 47) Thầy đồng hóa mình với em nhỏ yếu đuối và không có địa vị ấy: ai tiếp đón em này là tiếp đón chính Thầy. Thầy cũng cho biết, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Thiên Chúa (c. 48). Như thế một em nhỏ bình thường là con đường dẫn ta gặp gỡ Đức Giêsu, và gặp gỡ chính Thiên Chúa siêu việt. Để tiếp đón Thiên Chúa và Đức Kitô trong đời, ta phải sẵn sàng tiếp đón những người yếu kém và nhỏ bé nhất trong xã hội. Khi các môn đệ bị ám ảnh bởi chuyện làm lớn thì Thầy Giêsu đem lại cho họ một em nhỏ, và cho thấy sự cao trọng lớn lao của em trong cái nhìn của Thiên Chúa. Câu trả lời của Thầy đã rõ: kẻ nhỏ nhất chính là người lớn nhất trong anh em. Vượt ra khỏi sự tranh chấp trong nhóm, bây giờ các môn đệ lại phải đối diện với một người trừ quỷ ở ngoài nhóm. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng chúng con đi theo Thầy.” Tại sao một người ở ngoài nhóm lại dám lấy danh Thầy mà trừ quỷ? Lẽ ra việc dùng danh Thầy phải là độc quyền của chúng con. Người ấy không được chiếm lấy sự thành công và tăm tiếng mà chỉ những ai theo Thầy như chúng con mới được hưởng. Các môn đệ đã có thái độ cục bộ và bè phái. Họ cần cởi mở và khoan dung hơn với những người ngoài. Danh Thầy Giêsu là quà tặng cho cả thế giới, chứ không cho riêng môn đệ. Ai cũng có thể đến múc lấy sức mạnh từ Danh ấy và sẻ chia. Thầy Giêsu mời các môn đệ bước ra khỏi sự hẹp hòi khép kín, để vui vẻ kính trọng một người tuy không thuộc nhóm mình, nhưng làm được những việc mà có khi mình không làm nổi (Lc 9, 40). Danh Giêsu được tôn vinh: đó là điều chúng ta nhắm tới. Chúng ta chỉ mong sức mạnh của Danh này làm thế giới được trừ quỷ. Chỉ mong ai đó đang ở ngoài nhóm và đang trừ quỷ nhờ Danh Giêsu, sẽ có ngày trở thành người môn đệ trong nhóm. Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng vào thiện chí của nhau. Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi. Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt. Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen. ---------------------------------
Thế giới đảo điên vì tranh chấp hơn thua. Con người khổ đau vì cái được cái mất. Vì thế châm ngôn Pháp nói: sống là đấu tranh. Đấu tranh để có địa vị hơn, giầu có hơn người. Não trạng thế tục len lỏi vào cả các môn đệ của Chúa. Nên các ông tranh giành địa vị cao thấp.
Chúa nhân cơ hội dạy dỗ các ông. Tinh thần trong Nước Chúa phải ngược với tinh thần thế tục. Ai muốn làm lớn phải trở nên bé nhỏ. Ai muốn chỉ huy phải phục vụ. Chúa chẳng nói suông. Chính Chúa đã làm trước. Chính Chúa rất giầu sang đã trở nên khó nghèo. Rất cao sang đã trở nên thấp hèn. Chúa là Thầy là Chúa nhưng đã quì xuống rửa chân cho các tông đồ. Ai trở nên bé nhỏ là trở nên chính Chúa. Chúa đi ngược với trần gian. Ai theo đuổi trần gian sẽ mất Chúa. Ai từ bỏ trần gian sẽ được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ail à người nhỏ nhất trong tất cả an hem, thì kẻ ấy là người lớn nhất”.
Đó là điều thánh Gióp đã cảm nghiệm. Ma quỉ theo thói thế gian tưởng của cải, danh vọng, chức quyền là tất cả. Nên chiếm hết của thánh Gióp để lung lạc ông. Để ông bỏ Chúa mà đi theo ma quỉ. Không ngờ thánh Gióp có đức tin kiên vững. Là tôi tớ trung tín của Chúa. Càng đau khổ càng gắn bó với Chúa. Ông tuyên xưng đức tin: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa”. Ma quỉ chịu thua. Chúa trả lại cho ông tất cả. Con cái. Của cải. Danh vọng. Hạnh phúc. Còn hơn gấp bội những gì ngài có trước kia. Ngài càng xác tín: Chúa là tất cả. Có Chúa là có tất cả (năm chẵn).
Đó cũng chính là điều Da-ca-ri-a thay mặt Chúa khẳng định. Khi dân phản bội Chúa thì họ mất tất cả. Nhà tan cửa nát. Thân phận lưu đày nô lệ. Họ mơ một cuộc sống an bình nơi quê nhà. Họ mơ chiều chiều được ngồi trong quảng trường đền thánh. Ông già bà cả được thảnh thơi nghỉ ngơi. Lên đền thờ cầu nguyện. Sống lâu trăm tuổi. Đó là điều không thể được với tình hình lực lượng thua kém của họ. Nhưng Chúa quả quyết đó là điều có thể được đối với quyền năng của Chúa. Vì Chúa là tất cả. “Ta sẽ dẫn chúng về…Chúng sẽ là dân của Ta; Ta sẽ là Chúa của chúng” (năm lẻ).
Xin cho con biết từ bỏ thế gian. Chỉ chọn một mình Chúa thôi.
Một hôm, họa sĩ Picasso đến một xưởng mộc làm một cái tủ. Ông lấy bút phác họa hình thù và kích thước cái tủ rồi trao cho người thợ mộc và hỏi giá cả. Người thợ mộc cầm lấy tờ giấy một cách trân trọng và trả lời: "Ngài không phải trả gì cả, chúng tôi chỉ xin Ngài ký tên vào giấy này là đủ rồi".
Tên tuổi gắn liền với sự nghiệp của con người. Người ta nhắc nhớ và đề cao tên tuổi của những bậc anh hùng, những người tài ba, những ân nhân của dân tộc hay nhân loại. Nhưng người ta phỉ nhổ và nguyền rủa tên tuổi của những con người chỉ biết gây đau thương tang tóc cho đồng loại. Khi một người nào đó đã được nổi tiếng, thì tên tuổi người đó tạo được một sức mạnh lạ thường. Chúng ta thích xin chữ ký của những người nổi tiếng, chúng ta thích ăn mặc và sử dụng những sản phẩm có chữ ký hoặc tước hiệu của những người nổi tiếng. Một cách nào đó, chúng ta tôn thờ tên tuổi của những người nổi tiếng, chúng ta tự đặt mình dưới quyền lực của những người nổi tiếng.
Ðối với người Kitô hữu, như thánh Phêrô đã nói trước Công nghị Do thái: "Dưới bầu trời này không một danh hiệu nào đã được ban cho con người, để được cứu rỗi, ngoài danh Chúa Giêsu Kitô".
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cũng ghi lại sức mạnh của Danh Giêsu. Chính nhân danh Ngài mà một số người có thể xua trừ ma quỉ và chữa bệnh. Nhân Danh Chúa là một quyền hạn đã được trao ban cho các môn đệ Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể trừ quỉ và như vậy tiếp tục hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu nhờ quyền năng Ngài và lòng tin vào Ngài mà thôi. Ðó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã không lo ngại với những kẻ lén lút nhân danh Ngài để trừ quỉ, bởi vì khi hành động như thế, họ chỉ hành động với lòng tin vào quyền năng Ngài mà thôi.
Danh Chúa Giêsu không những có sức mạnh chữa lành bệnh và xua trừ ma quỉ, mà còn tạo được mối tương quan giữa con người. Chính nhân danh Ngài mà con người mới có thể tập họp để cầu nguyện; chính nhân danh Ngài mà con người phải tiếp rước những kẻ Ngài sai đi; chính nhân danh Ngài mà con người phải đón rước tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, hèn kém như các trẻ em. Chúa Giêsu nói: "Ai nhân danh Thầy mà đón tiếp trẻ nhỏ này là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy". Câu nói của Chúa Giêsu cho thấy được bản chất của Giáo Hội: Chúa Giêsu tiếp tục sống trong Giáo Hội Ngài, không như một vĩ nhân sống trong sự nghiệp mình và trong ký ức của dân tộc; Giáo Hội chính là một nối dài của Chúa Giêsu, Giáo Hội sống bằng sức sống của Chúa Giêsu.
Người Kitô hữu không chỉ mang danh hiệu Chúa Giêsu, họ còn sống bằng chính sức sống của Ngài. Ngài tự đồng hóa mình với mỗi tín hữu. Người Kitô hữu nhân danh Ngài để hành động, đến độ họ có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Chúng ta thường nói đến tội kêu tên Chúa vô cớ, chúng ta nói đến tội xúc phạm Danh Chúa. Thực ra, khi cuộc sống chúng ta chưa là thể hiện của sức sống Chúa Kitô trong chúng ta; khi nhìn vào chúng ta, người ta chưa nhận ra Chúa Kitô đang sống trong chúng ta, phải chăng đó không là một kiểu chúng ta kêu tên Chúa một cách vô cớ và làm ô Danh Ngài?
Tên tuổi có một ý nghĩa và sức mạnh đặc biệt trong cuộc sống con người. Người ta thường kể về tên tuổi Alexandre Ðại Ðế của Hy Lạp giai thoại như sau:
Trong quân đội của ông có một binh sĩ rất nhát đảm, cứ mỗi lần nguy ngập anh đều tìm cách thoái lui. Alexandre cảm thấy bị xúc phạm về hành vi của người binh sĩ này vì anh ta cũng mang tên Alexandre như ông. Một hôm, ông gọi anh ta lại và bảo: "Ta cho nhà ngươi một chọn lựa: hoặc là chấm dứt thái độ nhát đảm hoặc là đổi tên đi".
Tên tuổi là một sức mạnh. Ðược nổi danh vốn là một trong những khát khao tự nhiên của con người. Trong Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta Suy niệm về ý nghĩa, sức mạnh và quyền năng của Danh Chúa trong cuộc sống người Kitô hữu chúng ta.
Tin Mừng được ghi lại những sự kiện được liên kết với nhau bằng Danh Chúa. Chỉ nhân danh Chúa mà đón tiếp những người bé nhỏ nhất, cụ thể là các em nhỏ và cũng chỉ nhân Danh Chúa, con người mới có thể khu trừ ma quỉ, chữa lành bệnh tật và làm phép lạ.
Ngày nay, Giáo Hội cũng nhân Danh Chúa để tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Ngài. Giáo Hội nhân Danh Chúa để cử hành các bí tích, để thực thi công tác bác ái, tranh đấu cho công lý. Nhưng phải chăng Danh Chúa Giêsu là một thứ bùa chú, một công thức ma thuật?
Chúng ta biết rằng nội dung niềm tin Kitô chính là tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Giêsu từ cõi chết, tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và kêu cầu Danh Ngài. Cả ba kiểu nói này đều tương tự như nhau. Các Kitô hữu tiên khởi thường tự gọi mình là những kẻ kêu cầu Danh Chúa. Ðiều này được thể hiện một cách rõ rệt trong nghi thức rửa tội. Kêu cầu Danh Chúa có nghĩa là tin nhận rằng Ngài là Chúa và đặt mình dưới sự thống trị của Ngài. Duy chỉ mình Ngài mới có thể đem lại ơn cứu rỗi và sự sống, duy chỉ có mình Ngài mới có thể là lý tưởng của đời sống Kitô hữu.
Xét cho cùng, niềm tin của chúng ta không phải là một giáo điều để tuyên xưng, một số kinh kệ phải đọc làu làu, một số biểu dương tôn giáo cần bày tỏ ra bên ngoài. Niềm tin thiết yếu của chúng ta là Chúa Giêsu, Ðấng đang hiện diện cách sống động trong mỗi người chúng ta. Sống niềm tin ấy chính là luôn ý thức về sự hiện diện ấy của Ngài và không ngừng đi vào tương quan mật thiết với Ngài. Sống niềm tin ấy chính là để Ngài thấm nhập vào từng suy nghĩ, tâm tư và hành động đến độ có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.” (Lc. 9, 47b-48)
Các môn đệ đã không hiểu ý nghĩa quan trọng về sự đau khổ mà Đức Giêsu sắp phải chịu. Người vừa loan báo về cái chết của Người là đỉnh cao của sứ vụ giữa loài người. Chính ra các ông phải xúc động và đổi đời, phải lo Suy niệm những lời giảng bi thảm của Thầy, để rút ra những điều bổ ích và chuẩn bị những hậu quả của những ngày đau khổ sắp tới.
Trái lại, các ông cứ tiếp tục nuôi dưỡng những ảo vọng danh lợi mong Đức Kitô sắp tới giờ vinh quang phục hưng vương quốc thế gian. Các ông hằng mơ thấy như thế. Đức Kitô đã không thành công trong khi thuyết phục các ông, Người không đến để làm như thế. Vì thế các ông đang nghĩ xem ai là người lớn nhất trong các ông, ai có chức vị cao nhất trong Nước Đức Kitô. Thánh Marcô cho thấy tính cách thô lỗ, thô bạo khi ông kể lại cuộc tranh giành giữa các tông đồ để biết ai được địa vị cao nhất. Đức Giêsu sắp hoàn toàn lật đổ quan niệm của các ông về giá trị mới trong nước trời. Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình mà nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy, và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Đó là địa vị danh dự bên Đức Giêsu. Địa vị này không dành cho kẻ sáng giá nhất, thông minh nhất, tài năng nhất, có huy chương nhiều nhất! Nó chỉ dành cho ai đặt mình phục vụ những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất, bị kinh bỉ nhất. Vì ai là người nhỏ nhất trong mọi người, chính là người lớn nhất.
Còn lời nào ngược đời đối với kẻ luôn luôn đòi cai trị người khác, nghịch lý đối với hạng chủ trương dùng quyền lực thống trị người khác. Đức Kitô quả quyết, cai trị là làm tôi tớ như chính Người đã làm gương, cai trị là hy sinh hủy mình đi vì người khác, chứ không phải là bắt họ làm nô lệ mình. Hủy mình đi vì thực thi bác ái của Đức Kitô để yêu người đến độ có thể hiến mạng sống mình vì họ.
Nhỏ bé là như thế, mới đạt tới sự cao cả duy nhất, như Đức Kitô kêu gọi chúng ta.
Xem lại CN 25 TN B, thứ Ba tuần 7 TN và tuần 19 TN, lễ Thánh Têrêxa và lễ Các Thiên Thần Bản Mệnh
Khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn đầu tiên, các môn đệ can ngăn. Lần thứ hai thì không ai dám nói gì. Tuy nhiên, vì biết Thầy sắp ra đi, vị trí lãnh đạo sẽ khuyết, nên các ông bắt đầu nẩy sinh chuyện tranh dành xem ai là người lớn nhất trong anh em. Biết được tâm tưởng của các môn đệ, nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã ban nhiều huấn dụ cho các ông để các ông hiểu và đi theo đúng con đường mà Ngài mong muốn nơi môn sinh của mình.
Huấn giáo của Đức Giêsu đã gây nên một ấn tượng mạnh nơi các môn đệ khi Ngài dẫn một em nhỏ đến bên cạnh và nói: "Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất". Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ phải từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trước. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.
Ngày nay, hình ảnh và lối suy nghĩ của các môn đệ khi xưa vẫn thường diễn ra trong cuộc sống của chúng ta!
Thật vậy, vẫn còn đó những người Kitô hữu có suy nghĩ và hành xử bè phái, cục bộ, không phục vụ vì Chúa và các linh hồn, nhưng là vì mình. Không quy về Đức Giêsu mà lôi kéo để mình có ảnh hưởng. Tính háo danh và ham địa vị, cũng như tính hay ghen tỵ cũng diễn ra thường xuyên.
Tất cả những thứ đó làm nguy hại đến tinh thần hiệp nhất và sứ mạng loan báo Tin Mừng rất lớn.
Vì thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Ngài dạy dỗ, bảo ban. Cần trở nên như trẻ nhỏ trong thái độ đơn sơ, chân thành và phục vụ cách vô vị lợi. Khiêm tốn và từ bỏ ham quyền, cố vị. Sẵn sàng cộng tác với hết mọi người để ra đi loan báo Tin Mừng cách trung thành.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống tinh thần của Chúa là trở nên như hạt lúa, chấp nhận chôn vùi đi để sinh nhiều bông hạt khác. Xin cho chúng con có được tinh thần của trẻ thơ, để không màng chi đến danh vọng, nhưng chỉ một lòng yêu mến Chúa và yêu người tha thiết. Amen.
Sứ điệp: Các môn đệ tự hỏi xem ai là người lớn nhất, và Chúa Giêsu đã trả lời: kẻ nhỏ nhất lại là kẻ lớn nhất. Chúa muốn dạy ta rằng: người khiêm nhường phục vụ như Chúa là người lớn nhất trong Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, như các môn đệ ngày xưa, con cũng thích địa vị và đi tìm chỗ nhất cho mình. Con muốn hơn người khác và trở nên cao trọng bằng cách tự tôn mình lên hơn là sống theo đường lối của Chúa. Sở dĩ con không áp dụng phương thế của Chúa là vì con chưa hiểu được hình ảnh trẻ thơ bé nhỏ đối với Chúa lại cao đẹp và vĩ đại biết bao. Chính thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu, hơn ai hết, đã chọn cho mình con đường thơ ấu thiêng liêng, một con đường ngắn nhất để nên trọn lành.
Lạy Chúa, suốt cả cuộc đời, Chúa đã phục vụ con người như một tôi tớ. Cuộc đời Chúa cho con hiểu rằng để trở nên cao trọng, con phải sống khiêm nhường phục vụ như Chúa. Xin cho con luôn trở nên nhỏ bé trước tình yêu Chúa, để con luôn đơn sơ phó thác vào Chúa.
Xin cho con biết noi gương Chúa, như khi Chúa hạ mình cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, để con cũng biết yêu thương phục vụ anh em, nhất là những anh em hèn mọn, nhỏ bé. Xin cho con xác tín rằng: khi con ích kỷ yêu chính mạng sống mình, con sẽ mất nó, nhưng khi con quên đi bản thân mình trong cuộc đời phục vụ tha nhân, con lại gặp chính mình.
Và lạy Chúa, xin cho con được lớn nên trong Chúa Thánh Thần, để trở nên cao trọng trong cung lòng Thiên Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.
Nhà kỹ nghệ công giáo danh tiếng, Léon Harmel, thuật lại câu chuyện sau:
Một bà mẹ đánh thức con dậy. Bà thấy dưới gối con có một cục gỗ.
- Con làm gì thế?
- Thưa mẹ, khi đi học giáo lý, con nghe dạy rằng mình phải hãm mình để cho kẻ có tội được trở lại. Con chọn cách hãm mình này. Con trông cậy Chúa nhận lời con.
Đó là gương một em bé trong sạch, biết đền tội thay cho những kẻ có tội mà không chịu đền tội.
Suy niệm
Các môn đệ đang suy nghĩ là ai sẽ là người lớn nhất. Chúa Giêsu đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ và nói: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy, mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy”. Cử chỉ này đi ngược lại phong tục Do Thái thời đó vì xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Hơn nữa, chúng không hiểu biết Lề Luật nên người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo.
Đứa trẻ còn tiêu biểu cho những người đau khổ, cô thế cô thân, gặp thiếu thốn, có nhu cầu ủi an nơi chúng ta nhưng lại bị chính cộng đồng đã loại trừ. Qua việc đón tiếp các trẻ em, Đức Giêsu đề cao sự khiêm nhường phục vụ những người nghèo, có giá trị thiêng liêng cao quý như hành động phục vụ của Người và phục vụ chính Chúa Cha Đấng đã sai Người (x. Mt 10,40). Trong nước của Thiên Chúa, người lớn thì phải phục vụ, còn người bé nhỏ thì được đón tiếp nhân danh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu còn nhấn mạnh: “Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”. Người bé mọn, cô thế cô thân được sống bên Chúa:
“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).
Chúa làm cho thân phận bé mọn được tràn đầy ân sủng như chính Ngài dùng lời Kinh Thánh khẳng định: “Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21,16; Tv 8,2). Tông đồ Phaolô nhìn nhận các đặc ân, các ơn huệ nhưng không Chúa đã trao ban cho những con trẻ: “Những gì yếu đuối trong thế gian thì Thiên Chúa đã chọn lựa” (1Cr 1,27).
Giáo hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống. Trẻ thơ tuy đơn sơ mà cao vời vợi, vì các em luôn bước trên đời không chỉ bằng đôi chân của mình, nhưng biết buông mình trong tay Cha từ ái.
Ý lực sống:
“Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng vì nước Trời thuộc về chúng” (Mt 19,14).
1. Sau khi nghe Đức Giêsu loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó, tử nạn và phục sinh của Người, trong tâm tưởng của các Tông đồ đã nảy ra một ý tưởng rất tự nhiên: Thầy chết rồi, ai sẽ đứng đầu các anh em? Ý tưởng đó làm các ông thắc mắc và đem ra bàn cãi lúc đi đường. Thừa dịp này, Đức Giêsu đã ban nhiều lời huấn dụ các ông. Trước những suy nghĩ của các ông, Đức Giêsu nhẹ nhàng dạy các ông chân lý của Người: “Muốn làm lớn, hãy trở nên bé nhỏ”. Người làm lớn trong Nước Trời phải là người biết phục vụ anh chị em mình.
2. Sống với Đức Giêsu gần ba năm, các ông đã nghe lời Ngài giảng, đã chứng kiến việc Ngài làm, nhất là gương khiêm hạ, phục vụ của Ngài, thế mà các ông tranh luận nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Thấy vậy, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” Để minh họa cho lời nói ấy, Đức Giêsu đưa một em nhỏ ra cho họ thấy gương mẫu điển hình và Ngài nói: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này, tức là đón nhận Thầy, mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong các con, đó là người cao trọng nhất”.
Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trốc. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.
3. Chúng ta thấy cái nghịch lý của Nước Trời là “càng bé thì càng lớn, càng cao thì càng sâu”. Bởi vì:
Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ, Ai muốn làm lãnh tụ thì phải phục vụ tha nhân.
Cám dỗ lớn nhất của con người, đó là đam mê quyền lực, ai cũng mong muốn được ăn trên ngồi trốc, được mọi người tung hô kính trọng... để rồi từ đó làm mọi cách (cho dù là đê tiện thấp hèn) để đạt được mục đích chức quyền... Trong khi giữ chức quyền là để phục vụ chứ không phải để cai trị, Làm to ai cũng muốn, nhưng lại ngại phải hy sinh. Vì thế, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp là ai to ai nhỏ trong Nước Trời, mà chỉ đưa ra một “mẫu người” sẽ trở thành lớn nhất trong Nước Trời đó là nên như trẻ nhỏ, và Ngài nhấn mạnh rằng: “Ai muốn làm lớn thì phải cố tự hạ nên như trẻ nhỏ”.
4. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta phải trở nên giống trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời, vì trẻ nhỏ có những đức tính sau đây:
Hình ảnh nên như trẻ nhỏ, nghĩa là biết sống tự hạ, khiêm tốn, vì ai biết hạ mình xuống sẽ được tôn lên, còn ai kiêu ngạo thì tự đánh mất chính mình trong mắt mọi người.
Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên tính đơn sơ chân thực, trẻ nhỏ không tính toán so đo hay những tính toán nham hiểm. Chúa cũng muốn mọi người chúng ta sống chân thành và ngay thẳng, không toan tính mưu lợi thấp hèn.
Hình ảnh trẻ nhỏ còn nói lên tinh thần sống phó thác và tin tưởng nơi cha mẹ. Chúa mời gọi chúng ta biết sống đơn sơ phó thác nơi tay Chúa quan phòng.
Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên sự trong sạch. Trẻ nhỏ như tờ giấy trắng, không có những đam mê xấu. Chúa cũng muốn chúng ta sống trong sạch trước mặt Người.
Khi nói kẻ lớn nhất trong Nước Trời phải trở nên như trẻ nhỏ nơi nước trần thế, không có nghĩa là bây giờ làm Giáo hoàng rồi sau này trở nên kể rốt hết, nhưng Chúa nhắm đến tinh thần khiêm tốn và phục vụ, sự phục vụ đó tùy theo bậc sống của chúng ta nơi thế gian này.
5. Đức Giêsu đã nêu gương khiêm nhường cho chúng ta qua hành vi rửa chân cho các môn đệ. Vì thế, người môn đệ Chúa cũng được mời gọi trở nên những người phục vụ, và khiêm nhường. Thế nhưng, trong cuộc sống, có mấy ai nghĩ tới điều đó, ai cũng nghĩ người khác phải phục vụ mình, tranh giành quyền lợi, địa vị, loại trừ người khác... Đối với Đức Giêsu thì khác, những người làm lớn phải là người phục vụ kẻ khác. Muốn được như thế, mọi người phải có lòng yêu thương nhau, vì có tình yêu thì những cạnh tranh không còn nữa. Là người lãnh đạo, Đức Giêsu đã sẵn sàng hiến mạng sống mình cho nhân loại. Là Thầy, Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ.
6. Truyện: Phục vụ trong khiêm tốn.
Sau đệ nhị thế chiến, những người dân ly tán khắp nơi còn sống sót đều trở về làng quê cũ, họ gạt nước mắt và sẵn sàng đổ mồ hôi để nỗ lực hàn gắn lại những vết thương chiến tranh và xây dựng lại cuộc sống trong hòa bình.
Tại một thị trấn nọ, tất cả nhà cửa, phố xá, ruộng vườn đều đã tan hoang đổ nát. Một nhóm bạn trẻ bước vào ngôi nhà thờ thân yêu ngày xưa, nay chỉ còn lại bốn vách tường và mái ngói tương đối là đứng vững, còn bên trong là những gạch vữa, gỗ đá vỡ vụn. Họ tìm thấy pho tượng Chúa Giêsu nằm sõng suợt dưới đất, chỉ còn có thân mình là nguyên vẹn.
Tuy thế, họ vẫn dọn dẹp sạch sẽ gian cung thánh, rồi họ đặt bức tượng trên một chiếc bàn con, ở ngay trung tâm của những buổi cử hành phụng vụ và cầu nguyện của giáo xứ. Và người ta đã ghi lại được một lời cầu nguyện bộc phát rất cảm động của một chị thiếu nữ như sau:
“Lạy Chúa, xin cho chúng con trở thành đôi mắt của Chúa, để chúng con diễn tả được tình yêu thương của Chúa. Xin biến chúng con trở thành đôi tay của Chúa, để chúng con nâng đỡ phục vụ anh chị em. Xin cho chúng con trở thành đôi chân của Chúa, để chúng con sẵn sàng đến với tha nhân. Xin biến chúng con trở thành con tim của Chúa, để chúng con biết thực sự yêu thương hết thảy mọi người”.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ ba điều ngược hẳn suy nghĩ của các ông:
1. Lớn và nhỏ: mọi người, trong đó có các môn đệ và có cả chúng ta nữa, đều muốn làm người cao trọng nhất, nghĩa là có địa vị, có quyền hành, có quyền lợi. Nhưng khi các môn đệ đang suy nghĩ trong lòng về ước mong đó thì Chúa Giêsu biết ý nghĩ của các ông, Ngài bảo các ông đừng nghĩ tới vấn đề đó nữa, mà hãy nghĩ ngược lại: hãy trở thành kẻ bé nhỏ nhất, nghĩa là đùng nhắm địa vị và quyền hành, quyền lợi mà hãy sống khiêm tốn như trẻ nhỏ
2. Đón tiếp ai: Thói thường, người ta niềm nở với những ai có lợi cho mình, chẳng hạn người có địa vị, có quyền hành, có của cải. Chúa Giêsu thì dạy: hãy có thái độ rộng mở đón tiếp mọi người, dù đó là một đứa trẻ chẳng có địa vị quyền hành gì cả.
3. Thuận và nghịch: người ta thường dùng cái khung phe nhóm để định hướng thái độ của mình. Ai thuộc phe nhóm mình thì là bạn mình và mình hợp tác; ngược lại ai không thuộc phe nhóm mình thì là kẻ thù của mình và mình chống lại. Chúa Giêsu dạy ngược lại: “Ai không chống lại các con tức là thuộc với các con”, và “Chớ ngăn cản họ”.
B.... nẩy mầm.
1. Cái ý muốn “làm lớn” đã là nguồn gốc sinh ra biết bao đố kỵ, tranh dành và gây ra biết bao xào xáo khổ sở trong cuộc sống chung. Bởi thế Chúa dạy ta đừng ham làm lớn nhưng hãy ham làm nhỏ. Kiêu căng là đầu của 7 mối tội đầu, khiêm tốn là đứng số một trong 7 nhân đức hàng đầu.
Nếu con đang “làm nhỏ”, xin cho con biết cám ơn Chúa vì con được giống như những đứa bé trong gia đình. Nếu nhiệm vụ đang đặt con làm lớn, xin cho con biết “làm lớn” một cách khiêm tốn, làm lớn để phục vụ chứ không phải để bắt người ta phục vụ.
2. Vấn đề quan trọng không phải là tôi được địa vị cao hay thấp mà là tôi được đặt vào đúng chỗ hợp với khả năng của mình. Kẻ ít khả năng mà ở địa vị cao thì không chu toàn được những nhiệm vụ được giao, và như thế càng cho người khác thấy rõ những yếu kém của mình.
3. “Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Chưa có địa vị thì ham có, đang có rồi thì cảm thấy nặng nề và mong được trút bỏ. Điều này càng đúng trong Giáo Hội.
4. Về thái độ đón tiếp: lẽ ra là môn đệ của Chúa, tôi phải đón tiếp mọi người, đặc biệt ưu tiên đón tiếp những kẻ bé mọn. Thế nhưng khuynh hướng tự nhiên vẫn còn sống mạnh trong tôi, nên đôi khi tôi vẫn thờ ơ, thậm chí xua đuổi những kẻ bé mọn ấy, và niềm nở vồn vả với những người có lợi cho tôi.
5. Thuận và nghịch: nhân danh Chúa Giêsu để trừ quỷ, đó là một việc làm tốt. Nhưng vì Gioan đã đánh giá việc làm đó theo một tiêu chuẩn sai (người đó không thuộc phe nhóm của mình), nên dẫn tới một thái độ sai là chống đối và ngăn cản. Để “chữa trị” Gioan, Chúa Giêsu bảo ông hãy suy nghĩ theo một tiêu chuẩn mới “Ai không nghịch với các con tức là thuận với các con”. Nghĩa là hãy suy nghĩ theo chiều “thuận”: hãy coi mọi người đều là “thuận” với mình, chỉ trừ khi rõ ràng người ta chống mình.
6. “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Lc 9,48)
Tôi đang loay hoay tìm kiếm mấy con ốc bị thất lạc khi sửa cái máy cassette thì thằng cháu mon men lại gần:
- Cậu ơi, cậu làm gì thế? Cho cháu làm với.
- Con nít chỉ biết nghịch phá chứ biết làm cái gì. Đi chỗ khác chơi! Tôi quát lớn.
- Nhưng cháu muốn ở lại nói chuyện với cậu, cho cậu đỡ buồn.
Câu nói ngây thơ của đứa trẻ lên bốn chứa đựng cả một tấm lòng nhân hậu làm tôi phải xét lại thái độ của mình. Những người lớn hay coi thường trẻ thơ bởi chúng là những trẻ nhỏ chưa có địa vị hay chỗ đứng trong xã hội. Thế nhưng những suy nghĩ tưởng chừng là bé nhỏ của chúng lại chất chứa cả một tâm hồn vĩ đại.
Lạy Chúa, xin cho những người lớn chúng con biết khiêm tốn lắng nghe và khám phá ra thế giới trẻ thơ; để qua trẻ thơ, mỗi người chúng con sẽ hoàn thiện chính mình (Hosanna).
Chúa Giêsu dạy các môn đệ ba điều. Ba điều này ngược hẳn suy nghĩ của các ông:
1. Lớn và nhỏ: mọi người, trong đó có các môn đệ và có cả chúng ta nữa, đều muốn làm người lớn, người cao trọng nhất, nghĩa là có địa vị, có uy thế, có quyền lợi. Các môn đệ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng như thế. Chúa Giêsu biết ý nghĩ của các ông, nên Ngài bảo các ông đừng nghĩ tới vấn đề đó nữa, mà hãy nghĩ ngược lại: hãy trở thành kẻ bé nhỏ nhất, nghĩa là đừng nhắm địa vị, uy thế và quyền lợi mà hãy sống khiêm tốn phục vụ mọi người.
Năm thành viên của một gia đình nọ đang nghỉ ngơi và vui đùa ở một bãi biển. Các đứa bé tắm và nghịch ngợm xây những lâu đài bằng cát, khi cách đó không xa, xuất hiện một bà già gầy còm, đầu tóc rối bung trong gió và áo quần thì rách rưới, bẩn thỉu. Bà vừa đi vừa lảm nhảm điều gì đó trong miệng và cúi xuống nhặt các vật trên bãi cát, bỏ vào một cái bị.
Bố mẹ vội kêu các con lại bên họ và bảo chúng đứng tránh xa bà già kia ra. Khi đi ngang qua họ, bà cúi xuống nhặt bên trái, bên phải các vật trên cát, rồi bà nhìn và cùng mỉm cười với cả gia đình họ. Song thái độ thân thiện của bà ta không được đáp trả.
Nhiều tuần sau, họ biết được rằng, người đàn bà già yếu rách rưới đó đã bỏ những tháng ngày ròng rã để nhặt những mảnh vụn chai, sắt, thiếc trên bãi biển hầu các em nhỏ có thể nô đùa mà không bị thương tổn.
2. Vấn đề đón nhận người khác: Thường thì chúng ta thấy người ta dễ dàng niềm nở với những ai có lợi cho mình, chẳng hạn người có thế giá, có địa vị, có quyền hành, có của cải v.v….
Chúa Giêsu lại dạy khác: hãy có thái độ rộng mở đón tiếp mọi người, dù đó là một đứa trẻ chẳng có địa vị quyền hành gì cả.
Nhạc sĩ Howard Kelly cũng là nhà vật lí, bác sĩ, sinh vật học nổi tiếng và cũng là một Kitô- hữu. Lần kia, sau một cuộc nghiên cứu, ông dừng lại nhà một nông dân xin nước uống. Một cô bé xuất hiện và khi biết ông muốn xin bát nước, em chạy vào nhà rồi đưa ra cho ông một ly sữa tươi mát. Ông ân cần cám ơn và nói, nếu người nhà có ai bị đau cứ việc đến bệnh viện của bác sĩ Kelly. Cô bé cũng cảm kích trước lòng tốt của ông. Ít lâu sau, mẹ cô đau và cô đưa đi bệnh viện của bác sĩ Kelly. Một sự đón tiếp đặc biệt dành cho hai mẹ con. Và khi mẹ cô khỏi bệnh ra về, bác sĩ còn gửi cho cô một số tiền lớn để bồi dưỡng cho mẹ cùng với lời ghi chú: “Để trả ơn một ly sữa.”
Giá mỗi người chúng ta biết đối xử với nhau như thế thì cuộc đời sẽ đẹp hơn biết bao.
3. Vấn đề thuận và nghịch: Trong cuộc sống, người ta thường dùng cái khung phe nhóm để định hướng thái độ của mình. Ai thuộc phe nhóm mình thì là bạn mình và mình hợp tác. Ngược lại, ai không thuộc phe nhóm mình thì là kẻ thù của mình và mình phải chống lại. Chúa Giêsu lại dạy ngược lại: “Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!” (Lc 9,50)
Tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thói quen áp dụng một phương pháp bất thường để kết bạn. Một lần kia, ông đã dùng những lời hay ý đẹp để nói về những chính trị gia đối lập với mình. Nghe thế một phụ nữ thắc mắc:
- Tại sao ông lại ca ngợi những địch thủ của mình mà không phê bình, chỉ trích và tiêu diệt họ?
Tổng thống Abraham Lincoln đã trả lời bằng một câu hỏi:
- Biến kẻ thù thành bạn hữu, không phải là tôi đã tiêu diệt kẻ thù hay sao?
Một hoàng đế Trung Hoa nói:
- Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta!
Ông đã chinh phục các nước ấy và cả đình thần của ông đều chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong những địch thù đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Nhưng họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả bọn địch thù cùng ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa. Họ tâu vua:
- Muôn tâu Hoàng Thượng, ngài đã nói sau khi thắng trận sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà!
Hoàng đế trả lời:
- Ta đã tiêu diệt tất cả bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta!
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không gọi chúng con là tôi tớ, Chúa cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Chúa còn coi chúng con như bạn hữu của Chúa,
Hơn nữa, sau Phục Sinh,
Chúa đã gọi các môn đệ là anh em.
Mặc nhiên, Chúa đã tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc.
Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Chúa. Amen.
Theo quan niệm của người trần gian, người cao cả, lớn nhất trong cuộc sống là người ăn trên ngồi trước, người quyền cao chức trọng, người có địa vị xã hội…Các tông đồ ngày xưa khi theo Chúa cũng có suy nghĩ như thế: “Khi ấy, các môn đệ nghĩ ngợi trong lòng rằng: Ai trong các ông sẽ là người cao trọng nhất?” (Lc 9, 46). Nhưng Chúa thì khác với chúng ta, vì: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của các ngươi không phải đường lối của Ta” (Is 55, 8). Như vậy, cái nhìn của Chúa về con người và cuộc sống đời này khác với cái nhìn của chúng ta.
Do đó, để trả lời cho các tông đồ về vấn đề này, Chúa không trả lời trực tiếp bằng lời nói mà Chúa trả lời bằng thực tiễn cuộc sống. Bài học thực tế cuộc sống mới là phong phú, sinh động, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ làm theo. Vì thế, Chúa đưa một trẻ nhỏ đến: “Chúa thấu biết tư tưởng trong lòng các ngài, chúa dẫn một trẻ nhỏ tới, để đứng bên cạnh Chúa, và bảo các ông rằng: Hễ ai đón tiếp trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy; mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trong nhất” (Lc 9, 47 – 48). Tại sao Chúa lại đưa trẻ nhỏ đến và nói là ai tiếp đón trẻ nhỏ này là tiếp đón Chúa….trước, và rồi sau đó Chúa mới nói ai bé nhỏ nhất trong các con là người cao trọng nhất?
Vì trẻ em trong xã hội lúc bây giờ không được coi trọng, không có địa vị, không có ảnh hưởng, cho nên cần phải đón tiếp các em, cũng như là cần phải đón tiếp mọi người bị xã hội khước từ, bỏ rơi, gạt ra bên lề cuộc sống, để rồi tiếp đó, Chúa mới dạy các tông đồ cũng như chúng ta bài học của sự bé nhỏ, nghĩa là bài học hạ mình, chấp nhận lui lại phía đàng sau để cho người khác tiến lên phía trước, sống khiêm nhường, không hơn thua với anh chị em của chúng ta, khi đó Chúa mới thương và đón nhận chúng ta vào nước Chúa sau này.
Đó là bài học thứ nhất, bài học sự khiêm nhường, còn bài học thứ hai là bài học thấy anh em mình làm điều tốt thì nên khuyến khích, nhân rộng, giúp đỡ họ.
Thánh Gioan thấy những người nhân danh Chúa mà trừ quỷ, họ không thuộc nhóm của các ngài, và thánh Gioan đã ngăn cản họ. Chúng ta không biết họ có trừ quỷ được hay không? Vì Tin Mừng không nói đến. Có lẽ khi theo Chúa, nghe Chúa rao giảng Tin Mừng, thấy Chúa trừ quỷ cho dân chúng, nghĩa là Chúa làm điều quá lành thánh, tốt đẹp để cứu người, cho nên họ bắt chước Chúa để làm cho anh chị em của mình. Sự việc này cũng giống như có bạn bé thơ, khi đi tham dự thánh lễ, thấy các linh mục cử hành thánh lễ phụng thờ Chúa linh thiêng huyền nhiệm cho nên em bị cuốn hút , và rồi em trở về nhà bắt chước làm y chang như vậy. Đây là chuyện của trẻ thơ thôi, nhưng rồi sau đó có những bạn lớn lên đi tu, được làm linh mục của Chúa. Bởi vậy, Chúa nói đừng ngăn cản người ta là như vậy: “Chúa trả lời: Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta !” (Lc 9, 50). Vì thế, khi thấy anh chị em chúng ta làm các điều lành, điều thiện, điều tốt có ích cho nhau, thì chúng ta hãy khuyền khích nhau thực hiện để cho cuộc sống đời này tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa thương nhìn đến các điều tốt đẹp chúng con làm, và xin Chúa đón nhận cùng chúc lành để những điều tốt đẹp hợp với ý Chúa đây được nhân rộng và lan tỏa khắp mọi nơi nhằm làm sáng danh Chúa trong môi trường chúng con sống. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Giêrônimô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban cho thánh linh mục Giêrônimô trí thông hiểu và lòng mến yêu Thánh Kinh, xin Chúa cho chúng ta hằng thiết tha tìm đến Lời Chúa là nguồn mạch ban sức sống dồi dào. Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơtriđôn, Đanmaxia. Người đến Rôma học văn chương và đã lãnh Bí Tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông Phương và làm linh mục. Trở lại Rôma, người làm thư ký cho Đức Giáo Hoàng Đamaxô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng Latinh và cổ võ nếp sống đan tu, nhưng, nhất là người đã sống ba mươi lăm năm cuối đời ở Bêlem, gần cái hang nơi Đức Giêsu ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Thánh Kinh. Người qua đời ở Bêlem năm 420.
Thiết tha tìm đến Lời Chúa, và khát khao làm cho mọi người nhận biết Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô đã cho thấy: Vì Đức Kitô, thánh nhân bị cầm tù, nhưng, người vẫn tự do và vui vẻ, vì như lời người nói: Dù thế nào đi nữa, Tin Mừng được rao giảng là tôi mừng rồi. Tôi biết điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết. Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi.
Thiết tha tìm đến Lời Chúa, để kín múc khôn ngoan từ nguồn mạch sự sống, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Giêrônimô nói: Ai không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô… Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành. Ai tuân giữ lề luật ấy là đứa con khôn.
Thiết tha tìm đến Lời Chúa, để có thể giữ vững niềm trông cậy vào Chúa và vững vàng trước những nghịch cảnh đau thương, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ông Gióp nói: Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 16, vịnh gia đã kêu xin: Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu. Xin biểu lộ tình thương diệu kỳ của Chúa, Ngài cứu ai trú ẩn dưới cánh tay Ngài, khỏi quân thù xông đánh.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Con Người đến để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất. Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là, để trở thành người đầy tớ hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Địa vị của Con Người là thân phận đầy tớ; vị trí của Con Người là hạng rốt hết; danh dự của Con Người là vinh dự được hầu hạ, được phục vụ người khác. Đây chính là kiểu mẫu mà Đức Giêsu đã từng nói: kẻ nhỏ nhất Nước Trời còn cao trọng hơn đại ngôn sứ Gioan, là người cao trọng hơn tất cả những ai lọt lòng mẹ. Người nhỏ nhất lại trở thành kẻ lớn nhất. Thật ra, trong Nước Trời, không có công dân hạng hai, tất cả đều là số một trong mắt Chúa, đều có sứ mạng: phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Tinh thần và thái độ của người phục vụ được lấy mẫu từ chính Đức Giêsu: Người đã tự hạ mình, cúi xuống, đổ nước vào chậu, rửa chân cho các môn đệ như một người đầy tớ, và nhất là, đổ máu mình ra để tẩy rửa hết mọi tội lỗi nhân gian. Chúa đã ban cho thánh Giêrônimô trí thông hiểu và lòng mến yêu Thánh Kinh, ước gì chúng ta hằng thiết tha tìm đến Lời Chúa để kín múc sự khôn ngoan và học cho bằng được mẫu gương phục vụ của Chúa. Ước gì được như thế!
Con đường thơ ấu thiêng liêng. 01/10 – Thứ Ba tuần 26 thường niên. – Thánh TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ kính. Bổn mạng các xứ truyền giáo.
"Nếu không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời".
* Thánh nữ sinh năm 1873 tại A-lăng-xông, nước Pháp. Người nhập đan viện Cát Minh ở Li-di-ơ, lúc tuổi còn rất trẻ, và nhận tên là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chị đã sống đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa theo “con đường thơ ấu”.
Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để hướng dẫn các tập sinh trong Dòng. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển.
Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy".
“Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại và trở nên như trẻ thơ, anh em sẽ chẳng bao giờ được vào Nước Trời” (c. 3). Đây là một câu nói long trọng của Đức Giêsu. Như thế điều kiện để được vào Nước Trời là phải quay trở lại, và trở nên như trẻ thơ, sống theo tinh thần của trẻ thơ. Trở nên như trẻ thơ không phải là trở nên ấu trĩ, ngây ngô, khờ khạo, nhưng là khiêm hạ, tin cậy, phó thác cho Thiên Chúa. Vì thế thiên đàng có chỗ cho người lớn, người trưởng thành, những người đã sống tinh thần của trẻ thơ. Để trở lại và trở thành như trẻ thơ, cần nhiều hy sinh từ bỏ. Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi của các môn đệ: “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” (c. 1). Người lớn nhất chính là người đã hạ mình xuống như em nhỏ đang đứng ở giữa các ông (c. 2). Đoạn Tin Mừng này đã gợi cho Chị Têrêsa bí quyết nên thánh, mà Chị gọi là con đường thơ ấu thiêng liêng. Chỉ cần sống như trẻ thơ là có hy vọng được nhận vào Nước Trời. Têrêsa đã kiên trì đi con đường này suốt cuộc đời ngắn ngủi của Chị. Và Chị đã nên thánh, đã thu hút bao người đi con đường này. Con đường này thật ra cũng chẳng phải là đường của Chị cho bằng là con đường của bài Tin Mừng hôm nay. Chị Têrêsa đã muốn sống cái đơn sơ, nhỏ bé của trẻ thơ. “Tôi muốn tìm thấy một cái thang để lên tới Đức Giêsu, Vì tôi quá nhỏ bé không lên nổi các bậc trọn lành. Lạy Chúa Giêsu, thang chính là cánh tay Ngài. Con không cần phải lớn lên, ngược lại con phải nhỏ mãi.” Têrêsa không nên thánh bằng những việc hãm mình kinh khủng, nhưng bằng những hy sinh nho nhỏ, những từ bỏ ý riêng. “Ai không có gan đóng đanh mình bằng những chiếc đanh lớn… thì phải chịu tử đạo bằng những chiếc ghim nhỏ.” Chị tin vào sức mạnh của những việc nhỏ bé được làm vì yêu. “Nhặt một cái kim ở dưới đất vì yêu mến, cũng có thể cải hóa một linh hồn.” Mối quan tâm duy nhất của Chị là làm vui lòng Chúa trong mọi sự. “Tôi vui sướng chịu đựng gian khổ, ngay cả chỉ để làm Chúa mỉm cười lấy một lần.” Têrêsa phó thác cho Chúa trong giây phút hiện tại. “Nghĩ tới dĩ vãng và bận tâm về tương lai dễ làm nản chí và thất vọng. Tôi chịu đựng từng giây phút một. Chúa trao cho tôi từng lúc điều tôi có thể chịu đựng, và chỉ thế thôi.” Têrêsa nói với chúng ta về cách cầu nguyện của Chị. “Tôi làm như mấy đứa bé chưa biết đọc. Tôi nói với Chúa cách đơn sơ điều tôi muốn nói với Người, và Người luôn nghe tôi.” Tuy sống tinh thần trẻ thơ, nhưng Têrêsa lại mang nhiều ước mơ lớn. Chị mong được đi truyền giáo khắp nơi, được vào Dòng Kín ở Hà Nội. “Nếu tôi là linh mục, tôi sẽ học cho giỏi tiếng Híp-ri và tiếng Hy-lạp, để hiểu tư tưởng của Thiên Chúa, được diễn tả bằng ngôn ngữ loài người.” Chắc chắn Têrêsa chẳng bao giờ là linh mục, và cũng chẳng đi Hà Nội. Nhưng lòng ao ước khiến Chị đã thực hiện những điều lớn lao. Đức Gioan Phaolô đệ nhị đã tôn Chị làm Tiến Sĩ Giáo Hội, dù Chị chưa học xong trung học, và qua đời khi mới hai mươi bốn tuổi. Têrêsa Hài Đồng Giêsu là một vị thánh được yêu thích, đơn giản chỉ vì Chị đã trở lại và trở thành như trẻ thơ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị Tử Đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
--dongcatminh.org Bạn đã bao giờ nghe về Thánh Thérèse hay Thánh Têrêsa Hài Đồng và những bí mật về thánh nữ? Bạn có biết tại sao có rất nhiều người chọn ngài làm thánh quan thầy, và là người bạn gần gũi nhất của mình không?
Câu chuyện của Thérèse Martin
Thérèse Martin sinh ra trong một thị trấn thuộc Alencon, Pháp vào ngày mùng 2 tháng 1 năm 1873. Chị là con gái út trong gia đình gồm 5 chị em gái. Khi chị còn rất nhỏ, mẹ của chị mắc căn bệnh ung thư. Vào thời đó, họ không có thuốc và sự điều trị tốt như ngày nay. Các bác sĩ đã cố gắng hết sức nhưng căn bệnh của bà Martin vẫn ngày càng nặng thêm. Bà đã mất khi Thérèse mới chỉ 4 tuổi.
Đó là khi bố của Thérèse quyết định tốt hơn nên chuyển nhà đến Lisieux, một thị trấn khác, nơi có nhiều người thân sinh sống. Ở đó có tu viện Carmelite, một tu hội dòng kín, nơi các thiếu nữ làm một công viêc đặc biệt đó là cầu nguyện cho toàn thế giới. Khi Thérèse được 10 tuổi, một chị gái của chị là Pauline đã xin nhập dòng Carmelite ở Lisieux. Điều đó thật khó khăn cho Thérèse vì chị Pauline giống như người mẹ thứ hai của Thérèse, chăm sóc và dạy dỗ chị ân cần như mẹ đã từng làm. Thérèse nhớ chị Pauline đến phát ốm. Suốt cả tuần sau đó chị vẫn chưa khỏi, các bác sĩ không biết chị đã gặp vấn đề gì. Bố và 4 chị gái của Thérèse đã cầu xin Thiên Chúa giúp. Một ngày sau, tượng Đức Mẹ trong phòng ngủ của Thérèse bỗng dưng mỉm cười với Thérèse và chị hoàn toàn bình phục!
Một lần khác, Thérèse nghe tin về một người đàn ông đã gây ra ba vụ giết người và thậm chí còn không biêt hối lỗi. Chị quyết định cầu nguyện và làm một việc hy sinh để cầu nguyện cho ông ấy (như từ bỏ một cái gì đó mình thích, hay làm một việc nào đó mà mình không thích). Chị cầu xin Chúa thay đổi tâm hồn người đàn ông ấy. Trước khi người đàn ông đó chết, ông ta hỏi về cây thánh giá và hôn lên hình Chúa Giêsu. Thérèse cảm thấy rất hạnh phúc, chị biết rằng ông ta đã tin vào Chúa và đón nhận ơn sám hối.
Thérèse rất yêu mến Chúa Giêsu. Chị muốn dâng hết cả con người mình cho Chúa. Chị muốn gia nhập dòng Camelô để có thể dâng hiến đời mình để làm việc và cầu nguyện cho mọi người, nhất là cho những người còn chưa biết đến lòng thương xót Chúa. Nhưng Thérèse gặp một trắc trở: chị còn quá trẻ, cần phải cầu nguyện và chờ đợi thêm. Cuối cùng thì chị cũng được 15 tuổi, được phép gia nhập vào tu viện.
Chị Thérèse đã làm gì trong thời gian ở tu viện? Không gì đặc biệt cả. Bí mật của chị ấy là: YÊU MẾN. Có một lần Thérèse nói rằng: “Thiên Chúa không muốn chúng ta phải làm điều này điều kia cho Ngài, mà Ngài muốn chúng ta yêu Ngài là đủ”. Vì thế, Thérèse đã ước muốn và thực hành đời sống yêu mến Chúa. Chị tập kiên nhẫn và ân cần với mọi người, điều đó thật không dễ chút nào. Trong thời ấy, lúc các chị đang giặt quần áo bằng tay (lúc đó máy giặt chưa được phát minh), có một chị luôn làm bắn tóe nước bẩn vào mặt Thérèse. Nhưng Thérèse chẳng bao giờ tỏ ra bực bội. Thérèse thường hay giúp đỡ một chị lớn tuổi có tính cáu gắt và luôn phàn nàn về mọi thứ, bởi vì Thérèse không cảm thấy thích việc đó. Thérèse muốn đối xử với chị ấy như với chính Chúa Giêsu. Chị biết rằng khi mình yêu những người khác tức là mình đang yêu chính Chúa Giêsu. Tình yêu khiến Thérèse trở nên hạnh phúc.
Thérèse chỉ sống đời tu 9 năm. Căn bệnh lao đã xảy đến với chị, nó khiến chị phải chịu rất nhiều đau đớn. Không có sự điều trị đối với căn bệnh ấy, các bác sĩ cũng không thể giúp được nhiều cho chị. Thérèse qua đời khi mới chỉ 24 tuổi. Nhưng trước khi chết, chị đã hứa sẽ không từ bỏ điều bí mật của mình. Chị hứa sẽ luôn yêu thương và giúp đỡ mọi người khi về quê trời. Trước khi mất, Thérèse đã nói: “Tôi sẽ gửi mưa ơn lành từ trời xuống mặt đất”. Và chị ấy đã làm được điều đó! Tất cả mọi người trên thế giới, những người đã nhờ thánh Thérèse Lisieux cầu xin đến Thiên Chúa đều nhận được sự đáp trả qua lời cầu nguyện của họ.
Bí mật của Thánh Têrêsa Hài Đồng
Thérèse đã khám phá ra “con đường nhỏ” để đến với Thiên Chúa: Thérèse muốn nên Thánh. Ngài biết Thiên Chúa rất muốn giúp đỡ mình và đặt hết mọi tin tưởng nơi Thiên Chúa và yêu Chúa hết cả tấm lòng, sau đó ngài quan tâm, đối xử tốt với mọi người xung quanh, từ những việc đơn giản nhất. “Con đường nhỏ” của Thérèse là làm mọi việc bạn có thể làm cho người khác vì yêu mến Chúa. Đó chắc chắn là cách để bạn có thể nên thánh.
Sứ điệp: Để trở thành người lớn nhất trong Nước Trời, ta phải tự hạ và phó thác trọn vẹn xác hồn cho Chúa như trẻ thơ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay con nhìn lên khuôn mặt Chúa đầy bao dung, hiền hậu, chan chứa yêu thương khi Chúa để các em bé vây quanh. Đó cũng là khoảnh khắc Chúa ghé nhìn và lưu ý đến con để xác định con phải sống như thế nào để trở thành người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa dạy con tự hạ và phó thác như trẻ thơ. Quả thực, Lời Chúa làm con băn khoăn và sững sờ như các môn đệ xưa.
Lạy Chúa, giá trị của xã hội trần gian và của Nước Trời có một khoảng cách khác biệt quá lớn mà hôm nay con mới nhận ra. Nhìn lên Chúa, con cảm thấy an tâm phấn khởi vì điều kiện Chúa đặt ra cho kẻ lớn nhất trong Nước Trời thật đơn giản, là tự hạ và hoàn toàn phó thác tin tưởng vào Chúa như tâm hồn các em bé. Nhưng khi nhìn lại, con thấy mình chưa thực hiện đòi hỏi ấy trong cuộc sống đầy cạm bẫy, bon chen, lo lắng hôm nay. Cuộc đời luôn thay đổi như một quy luật tất nhiên mà con không thể đứng ngoài. Vâng, xã hội loài người vẫn là mạnh được yếu thua, mạnh vì gạo bạo vì tiền. Cuộc đời là phải đấu tranh có địa vị, danh lợi, chức quyền và cả lạc thú nữa. Con đang trong vòng xoay đó và con thường bị nó cuốn hút vào. Chính cuộc sống đó dần dần làm tâm hồn con mất đi lòng tín thác đơn sơ tự hạ như các trẻ thơ. Xin ánh mắt Chúa nhìn xuống và gia ân để con tỉnh thức trong cuộc đời này.
Cậy nhờ lời cầu bầu của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, xin Chúa giúp con biết phó thác trọn vẹn cuộc sống cho lòng yêu thương quan phòng của Chúa. Xin Chúa hướng dẫn điều khiển cuộc sống hôm nay và mai sau vì con muốn đặt trọn niềm tin yêu nơi Chúa. Xin thương giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.
Một cậu bé gõ cửa nhà một bà già và hỏi xem bà có mua những trái trứng cá chín mọng cậu vừa hái được hay không. Bà trả lời: “Có, bà sẽ xách xô của cháu vào bếp và đong 2 lít”.
Cậu bé đứng ngoài đùa với con chó. Bà nói: “Sao cháu không vào xem bà đong có đúng không? Nhỡ bà lường gạt cháu thì sao?”.
- Cháu không sợ, vì làm thế bà sẽ nhận được điều xấu nhất. - Cháu muốn nói gì? - Vì cháu chỉ mất vài trái nhỏ, nhưng bà tự biến mình thành kẻ trộm.
Suy niệm
Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, nước Trời chỉ dành cho những ai có tâm hồn trẻ thơ vì các em có các đức tính:
Khiêm nhường: Trẻ em thì yếu đuối, vô năng lực, chúng không thể làm gì dựa trên sức lực riêng, và luôn tùy thuộc vào cha mẹ trong mọi sự. Người có tâm hồn trẻ thơ biết ra điều đó và chấp nhận.
Nghèo khó: Trẻ em không có riêng gì là của mình, chỉ được người khác ban cho mà thôi.
Trông cậy: Trẻ em chỉ biết có cha mẹ của mình. Trẻ em trông chờ cha mẹ nuôi dưỡng cung cấp cho mình những điều cần thiết vì vậy không cần lo lắng gì.
Tình thương yêu: Trẻ em có tình thương yêu, yêu cha mẹ và phó thác mình vào cha mẹ.
Đơn sơ: Mọi sự trong trẻ em thì đơn sơ, từng ý nghĩ và lời nói cả việc làm nữa. Trẻ em chỉ có khả năng làm những việc nhỏ.
Ðức Giêsu đưa trẻ em ra làm lý tưởng sống; “Con đường thơ ấu thiêng liêng”, mà sau này thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu tái khám phá biểu lộ tinh thần đơn sơ của con đường nhỏ, để trở nên thánh thiện, bằng việc yêu mến và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Thật thế, chúng ta cũng cần sống gắn bó vào Ðức Giêsu như trẻ thơ.
Ý lực sống
“Ai không đón nhận nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18,15-17).
Hôm nay toàn thể Giáo hội hân hoan mừng Lễ Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, vị Thánh của Tình yêu và lòng phó thác. Người ta thường tóm gọn 24 năm cuộc đời Thánh nữ, đặc biệt là 9 năm sống đời đời dâng hiến là chuỗi ngày dài của ước mơ và tình yêu. Chính ước mơ làm cho cuộc đời của chị thành kì diệu và chính tình yêu mãnh liệt, tràn trề biến chị thành nữ thánh được mọi người yêu quí và ngưỡng mộ.
Sinh ra trong một gia đình khá giả ở Pháp, là cô gái út trong gia đình ngũ long công chúa, Têrêsa cũng theo gót 4 chị của mình vào Tu viện. Bước vào dòng kín, chôn mình trong bốn bức tường với một đời sống nhiệm nhặt, nhưng chị đã biến nó thành một nếp sống nhẹ nhàng hạnh phúc. Chính trong viện tu viện Carmêlô này, Chị đã đề xướng một hành trình nên thánh bằng con đường thơ ấu thiêng liêng, sống bằng tình yêu, phó thác, đơn sơ nhỏ bé; như một bé thơ tin tưởng trọn vẹn trong vòng tay mẹ cha. Chị viết trong Một Tâm Hồn: "Các vị đại thánh làm việc để vinh danh Thiên Chúa, còn con, con chỉ là một tâm hồn nhỏ bé nhất, chỉ làm việc để làm vui lòng Người. Con muốn ở trong tay Chúa nhân lành, như một đóa hoa nhỏ, một cánh hồng đơn sơ, nhưng màu sắc và hương thơm làm cho Người thêm vui".
Dẫu là một nữ tu dòng kín, chị đã khát khao trở thành một vị truyền giáo đi tới hang cùng ngõ hẻm của trái đất bao la này! Nguyện ước này đã được bề trên chấp thuận với chương trình gửi chị qua dòng kín Sàigòn, Việt Nam; nhưng ý Chúa nhiệm mầu! Chị đã ngã bệnh lao phổi trầm trọng... và giã từ cuộc sống này lúc vừa tròn 24 xuân xanh.
Trước giờ chết, chị đã nói như tạm biệt cộng đoàn: "Tôi không chết, tôi bước vào cõi sống”. Và như một vị tiên tri, chị nói với mẹ Bề Trên: “A! Con biết lắm, rồi cả thế giới sẽ yêu thương con”. Liền sau cuộc mai táng tại nghĩa trang của thị trấn, có một trận mưa hoa hồng ngay trên mộ của nữ tu trẻ tuổi này, vì chị đã hứa: "Tôi về trời, là để làm điều tốt cho thế gian”.
Và như thế dù đã bước vào cõi vĩnh hằng, chị đã về với Đấng yêu thương, nhưng chị vẫn gắn bó với trần thế bằng ước mơ mưa hoa hồng hồng ân từ trời xuống cho Giáo Hội và xã hội.
Ngày 29/4/1923 Đức Piô XI đã phong á thánh cho Têrêsa và hai năm sau ngày 17/5/1925 chính vị giáo hoàng này đã tôn dương chị lên bậc hiển thánh và hai năm sau nữa vào ngày 14/12/1927 cũng chính Đức Piô XI đã đặt chị làm quan thầy của các xứ truyền giáo.
Tại Paris nhân ngày Đại hội giới trẻ thế giới lần thứ 12 (21-24.8) năm 1997, ngày bế mạc Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã loan báo: Giáo Hội sẽ tôn phong thánh Têrêsa Tiến sĩ Hội Thánh và ngày Chúa nhật Truyền giáo 19.10.1997 Đức Gioan Phaolô đệ nhị đã tuyên phong Têrêsa là Tiến sĩ của Hội thánh.
Chúng ta đang sống trong một thời đại văn minh kĩ thuật, con người ngày nay vật chất không thiế, nhưng thiếu tình yêu. Chúng ta hãy theo gương Thánh nữ Têrêsa, làm sao cho những công việc thường ngày được thắm đượm tình yêu; đồng thời cũng theo bước Chị trên con đường thơ ấu thiêng liêng, sống phó thác trọn vẹn cho Tình thương Chúa, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan.
Xin được kết thúc bằng một bài thơ
Ngày chị chào đời Ở trên trời Những ngôi sao nhỏ kết thành chữ “T” tỏa sáng Giữa vườn hoa thế nhân Nở một bông hồng đỏ thắm Hoa hồng Têrêsa. Thì thầm câu kinh Mân Côi. Ôi cánh hoa hồng đẹp tươi Tỏa hương thơm giữa cuộc đời gai nhọn Con đường nhỏ chị đi là CON ĐƯỜNG BÉ MỌN Đến với Đấng Từ Nhân. Đối với Cha nhân từ lòng chị chẳng bận tâm Chị chẳng có gì ngoài đôi bàn tay bé nhỏ Tình yêu chị nhận nơi Người là tất cả Tất cả của CON NGƯỜI dành cho chị đấy thôi. Cơn ho rũ người giữa tuổi đôi mươi Chị vẫn thầm thì tiếng yêu thương giữa dòng nước mắt “Chết vì yêu không phải chết trong ngây ngất...” Chị muốn được như NGƯ ỜI chết vì yêu. Một thế kỷ qua rồi mà hoa hồng vẫn tươi Ôi cánh hồng Têrêsa bé nhỏ Trên cuộc hành trình về nơi đất hứa Xin dẫn em vào con đường THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG. -------------------------------
Thánh Têrêxa sinh tại Alençon ngày 2.1.1873, qua đời tại Lisieux ngày 30.9.1897
Thánh Tê-rê-xa chào đời ngày 2.1.1873 tại Alençon nước Pháp. Song thân là cụ Louis Martin (+ 1894) và bà Maria Guérin (+ 1877) có tất cả 9 người con, nhưng chỉ sống có 5; cả 5 cô con gái đều bước vào tu viện. Khi Tê-rê-xa chưa tròn 4 tuôi, bà mẹ Guérin qua đời để lại một tang buồn cho gia đình, nhất là Tê-rê-xa. Bà phải chịu ung thư suốt 12 năm đến lúc kiệt sức phải qua đời. Từ Ngôn sứ ày đó ông Louis bỏ Alençon lui về Lisieux với cả gia đình.
Vào tháng 4.1888 Têrêxa vào đan viện Cát Minh ở Lisieux lúc được 15 tuổi. Lúc ấy chị có cản nghiện phong phú về đời sống đạo đức. Chính chị xem đêm Giáng Sinh 1886 như là một sự kiện quyết định trong đời sống của chị. Chị cảm nhận hồng ân của một cuộc chuyển đổi hoàn toàn; từ đấy, chị hiểu ơn gọi của cuộc đời mình là yêu Chúa Kitô và yêu con người.
Cuộc đời trong dòng Cát Minh của chị, mặt ngoài rất đơn sơ, nhưng con đường nội tâm càng ngày càng lên cao. Chị hiểu rõ tình yêu của chị đối với Chúa Kitô phải được thực hiện trong việc theo Chúa trên con đường khổ nạn. Thánh Kinh đối với chị ngày càng nên sách đọc duy nhất, nhưng kèm theo đó là thử thách nội tâm và đau khổ phần xác lại diễn ra hằng ngày.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa!”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêxa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức Thánh Cha Piô XI nâng Têrêxa lên hàng hiển thánh và đặt làm thánh quan Thầy cho các xứ truyền giáo. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Các môn đệ đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Trong nếp sống cộng đoàn, vấn đề làm lớn làm nhỏ cũng thường gây va chạm. Chúa Giêsu dạy phải trở nên trẻ nhỏ: trở nên trẻ nhỏ là khiêm tốn chấp nhận thân phận của mình trong gia đình, và sẵn sàng vâng lời người lớn…
Trong những lời dạy các môn đệ hãy trở lại nên như trẻ nhỏ, Chúa Giêsu khẳng định hai điều:
- Đó là điều kiện để được vào Nước Trời
- Kẻ tự hạ như trẻ nhỏ sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời.
B.... nẩy mầm.
1. Trong cộng đoàn, sự ganh ghét nhau về địa vị, danh dự đã làm cho biết bao người khổ sở. Kẻ bị ganh ghét khổ, mà chính người ganh ghét cũng khổ. Sao chúng ta không sống đơn sơ như những đứa trẻ trong gia đình: cha mẹ đặt đâu là chúng ở đó, cha mẹ bảo gì là chúng làm nấy, không hề nghĩ ngợi so đo, chỉ nhắm đến điều duy nhất là làm cho cha mẹ hài lòng.
2. Theo khuynh hướng tự nhiên, tôi thường khinh dễ những người kém hơn tôi (mà Chúa Giêsu gọi là “những kẻ bé mọn”). Nay tôi đã nghe Chúa Giêsu bảo rằng khinh họ là khinh Chúa, đón tiếp họ là đón tiếp Chúa. Tôi nghĩ sao?
3. Hãy nghĩ đến một đứa trẻ. Nó có nhiều đức tính rất đáng phục, như: lúc nào cũng hồn nhiên không lo lắng, vì nó tin rằng cha mẹ đã lo mọi sự cho nó; rất ngưỡng mộ cha mẹ, coi cha mẹ như thần tượng; luôn vui vẻ sống giây phút hiện tại; nó cũng thường xích mích với những trẻ khác nhưng rất mau quên; có những lúc nó giận cha mẹ, nhưng cha mẹ dỗ ngọt vài lời là nó bỏ qua ngay v.v.
Bởi thế, Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã chọn nên thánh bằng con đường trẻ thơ.
4. “Chúa Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: Thầy bảo thật anh em nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,2-3)
Nếu trẻ thơ chẳng biết giận lâu, thì với con; sống để dạ, chết mang theo. Trẻ thơ không màng giành chức tước; riêng con nghiêng mình trước công danh. Trẻ thơ luôn biết mình yếu đuối; còn con khẳng định mình trên hết. Trẻ thơ yêu với cả tâm hồn; còn con theo bề ngoài đánh giá. Trẻ thơ sống những gì mình có; con thường nặn mình rất công phu.
Lạy Cha, có những bài học của trẻ thơ tuy đơn sơ mà cao vời vợi, để người lớn học cả đời chưa tròn nghĩa một câu. Xin dạy con nên như trẻ nhỏ, để con bước trên đời không chỉ bằng đôi chân của con, nhưng biết buông mình trong tay Cha từ ái. (Hosanna)
5. “Ai tự hạ, coi mình như anh em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” (Mt 18,4)
Một lần nọ, tôi đọc được lời nguyện này của một người bạn: Lạy Chúa, xin cho con lòng khiêm nhường để biết nhìn ra mọi sự là hồng ân. Xin cho con lòng khiêm nhường để dám đối diện với sự thật. Xin cho con lòng khiêm nhường để can đảm vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Xin cho con lòng khiêm nhường để không mệt mỏi vươn lên. Xin cho con lòng khiêm nhường để không đòi cho được phải hơn kẻ khác, nhưng luôn biết chấp nhận sự trổi vượt nơi mỗi con người, và xin cho con lòng khiêm nhường để bớt đi mọi lời khoe mẽ, nhưng thay bằng những lời tạ ơn.
Và Lạy Chúa, lời nguyện của con hôm nay: xin cho con luôn sống khiêm nhường để xây dựng Thiên Đàng quanh con. (Hosanna)
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng các xứ Truyền giáo.
Với thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chúng ta có rất nhiều đề tài để suy niệm. Tuy nhiên với thời lượng có giới hạn hôm nay, chúng ta chỉ dừng lại ở con đường nên thánh của ngài.
Thông thường khi nói đến sự thánh thiện, chúng ta hay nghĩ đến những hành động phi thường, một cái chết can trường, một cuộc sống dấn thân hy sinh, một cuộc từ bỏ ngoại hạng. Nói chung, sự thánh thiện gợi lên cho chúng ta một cuộc sống vượt qua những khả năng tự nhiên của con người. Có lẽ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm một cuộc cách mạng trong cách nhìn và sống sự thánh thiện.
Trong quyển tự thuật có tựa đề “Một Tâm Hồn”, thánh nữ đã ghi lại như sau: Tôi hằng khao khát được nên thánh, nhưng mỗi lần so sánh mình với các thánh, tôi thường nhận ra sự khác biệt trời biển này. Đó là các ngài giống như những ngọn núi thái sơn, dấu đầu trong những đám mây, còn tôi, tôi chỉ là những hạt nhỏ li ti bị kẻ đi qua, người đi lại dẫm lên. Tuy nhiên, điều đó không làm cho tôi thất vọng. Tôi tự nhủ: Lẽ nào Chúa gợi nên những ước muốn mà lại không cho ước muốn ấy được thực hiện. Rõ ràng là tôi không thể làm được điều gì vĩ đại. Do đó, tôi phải thánh hoá bằng chính sự thấp hèn của tôi mà thôi. Tôi phải chấp nhận chính mình với tất cả con người của tôi, vì tất cả những bất toàn của tôi. Nhưng bằng mọi giá, tôi phải tìm ra một con đường nhỏ, một con đường của riêng tôi, một con đường ngắn và trực tiếp lên Thiên Đàng.
Ngày nay, người ta nhất là những người giầu có không phải nhọc công để leo lên từng bậc thang nữa, vì họ đã có những thang máy tiện nghi hơn. Phải chăng tôi không thể tìm cho mình một thang máy đưa tôi lên thẳng với Chúa Giêsu. Bởi vì, tôi quá bé nhỏ để có thể lên tới bậc thánh thiện. Nghĩ như thế nên tôi cố gắng tìm trong Kinh Thánh một chỉ dẫn của cách sống mà tôi muốn, và tôi đã tìm đuợc đoạn mà trong đó Đấng Khôn Ngoan vĩnh cửu nói như sau: “Có ai đơn sơ như trẻ nhỏ không? Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta”(Mt 19,14). Thiên Chúa toàn năng đã làm những điều trọng đại và cao cả nhất trong tôi. Đó là Ngài đã làm cho tôi ý thức được sự nhỏ bé, bất lực của tôi.
Anh chị em thân mến?
Qua những dòng trên đây, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta về con đường nên thánh thường được mệnh danh là “Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng” của Ngài. Con đường nên thánh mà thánh nữ đã quả quyết là “Sự nên thánh được múc từ Chúa Giêsu” mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thực thế, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”(Mt 18,3). Hoá nên như trẻ nhỏ có nghĩa là mặc lấy tâm tình đơn sơ, phó thác tuyệt đối vào quyền năng yêu thương của Thiên Chúa. Thánh thiện thiết yếu không có nghĩa là cố gắng làm những điều phi thường hoặc đeo đuổi một cách sống vượt quá những giới hạn bình thường của con nguời. Thánh thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã vạch ra chính là biết chấp nhận chính mình, biết đón nhận từng phút giây trong cuộc sống với tất cả yêu thương và phó thác. Biết sống giây phút hiện tại một cách sung mãn, biết nhận ra giá trị cao cả trong những công việc tầm thường nhỏ bé nhất, biết nhìn vào ngay cả những thất bại khổ đau trong cuộc sống như một ân ban của Chúa.
Mùa hè 1987 khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến thăm tiểu bang California Hoa Kỳ. Trong buổi gặp gỡ với dân chúng đón tiếp Ngài người ta đã được chứng kiến một sự kiện vô cùng đẹp đó là khi từ trên lễ đài nhìn xuống, Ngài thấy một người thanh niên tàn tật đang ôm một cây đàn và hát. Hôm ấy nhiều người đã được chứng kiến và thật không bao giờ có thể quên được khi Đức Giáo Hoàng từ trên cao Đức Giáo Hoàng bước xuống để ôm và hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàng ghi ta đó. Điều gì đã làm cho cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy trở nên luyến nhớ cho nhiều người? Thưa rằng bởi vì người thanh niên ấy đã chơi đàn ghi ta bằng những ngón chân của mình!
Tony Belade là hiện thân của niềm hy vọng. Anh đã chào đời không có hai cánh tay, nhưng anh đã biết tận dụng các ngón chân của mình để học đàn ghi ta. Không những thế, anh còn dùng chân trong nhiều công việc khác nữa như: gấp quần áo, vắt một ly nước chanh... Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh:
- Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận mình để sống bình thường, mà còn sử dụng ghi ta một cách tuyệt diệu như thế?
Người thanh niên tàn tật trả lời:
- Tôi đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo Thánh ý Chúa”. Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhận lời tôi.
Không ai trong chúng ta được chọn lựa sinh ra hoặc không sinh ra. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm đàn ông hay đàn bà. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm người xinh đẹp hay xấu xí, thông mình hay ngu đần, giàu sang hay nghèo hèn... Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với tất cả một định mệnh. Người ta thường hay nói: Có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người may mắn, có người kém may mắn. Thế nhưng, trong ánh mắt tình yêu của Thiên Chúa thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả. Thiên Chúa luôn có một chương trình cho mỗi một con người.
Nói tóm lại, thánh thiện đích thực là trong tất cả mọi sự có thể thốt lên như thánh nữ: “Tất cả đều là ân sủng”.
Cùng với vị thánh đã được Giáo Hội chọn làm quan thầy các xứ truyền giáo, mặc dù chưa một lần ra khỏi bức tường của Dòng Kín, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả cuộc sống với không biết bao nhiêu thử thách khổ đau từng ngày. Nguyện cho niềm tin tưởng phó thác của các tín hữu Chúa được trở nên dấu chứng tình yêu của Ngài đối với mọi người.
Lạy Chúa, dù thế giới này có thừa mứa của cải vật chất và tiện nghi đến đâu, con người thời đại cũng sẽ mãi mãi bất hạnh, nếu họ chưa sống theo tinh thần con đường nhỏ mà thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu vạch ra. Nguyện xin thánh nữ cầu thay nguyện giúp để chúng ta được đi vào con đường nhỏ bé ấy. Amen.
Trong các đặc tính của con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chúng ta thấy có mấy điểm trổi vượt, đó là trở nên bé nhỏ, biết từ bỏ mình và chấp nhận trong vui tươi.
Trở nên bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường
Thánh nữ luôn lời Chúa với câu: “Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Với một trực giác kỳ lạ về địa vị thiết yếu của đức khiêm nhường trong đời sống thiêng liêng, thánh nữ đã nhấn mạnh về sự thực hành nhân đức này: “Hãy luôn sống như trẻ thơ” theo ý muốn của Chúa Giêsu trong Phúc âm, Ngài chẳng muốn nói với chúng ta rằng: “Nước trời thuộc về những người giống như trẻ thơ” sao?
Chiếm hữu được chân lý nền tảng này, thánh nữ đã lấy “TRẺ THƠ” làm mẫu mực cho cuộc đời.
Từ bỏ bản thân mình
lời Chúa: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”, thánh nữ đã quên mình đi, coi mình là hèn mọn hư vô và đặt tất cả tin tưởng của mình vào tình thương vô biên của Chúa. Chị muốn sống đẹp lòng Chúa và làm cho người ta yêu mến Chúa. Chị muốn làm hài lòng Chúa hơn làm hài lòng mình. Nhưng muốn được thế, chỉ đã sống hết sức quảng đại đối với Chúa, đã từ bỏ mình đi để sống với Chúa và sống với chị em. Chị ví mình như bông hoa hồng được dâng tiến Chúa, và theo chị, hoa hồng nào cũng có gai. Chị viết:
Chúa ơi, này đóa hoa hồng Trên bàn thờ Chúa hương nồng sắc tươi.
Con đây mơ ước này thôi:
Tách từng cánh một, Chúa trời, hiến dâng. Chấp nhận trong vui tươi
Đường lối nên thánh của thánh nữ gạt bỏ tất cả những việc hãm mình lớn lao mà mình tự tạo ra, trái lại, chị chỉ cố gắng chấp nhận tất cả mọi sự việc trong hiện tại, dù muốn hay không. Thái độ đó là thái độ “CHẤP NHẬN”. Nhưng chấp nhận có thể là thái độ chấp nhận miễn cưỡng hay tự ý, vui tươi hay rầu rĩ! Đối với chị, việc gì xảy đến cũng là do thánh ý Chúa, cho nên chị đã nhận lấy một cách thực tình và vui tươi. Tinh thần vui tươi trước những hy sinh còn được ghi lại trong mấy vần thơ:
Nếu Chúa chẳng đoái hoài ve vuốt Con vẫn tươi cười trước khổ đau.
Hoặc:
Mỉm cười với Chúa tôi thờ Đó là thiên quốc thỏa mơ ước rồi.
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng chỉ là một chị nữ tu dòng Kín, âm thầm giam mình trong bốn bức tường của nhà dòng, một chị nữ tu nhỏ bé không ai biết tới, không làm được một việc gì hiển hách, mà ngày nay đã trở nên vị thánh vĩ đại: Bổn mạng các xứ truyền giáo và Tiến sĩ Hội thánh! Bí quyết độc đáo của thánh nữ là “Trở nên vĩ đại từ những cái nhỏ bé”. Con đường thơ ấu thiêng liêng đã giúp thánh nữ trở thành một vị thánh vĩ đại.
Hôm nay mừng lễ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Giáo hội cũng muốn giới thiệu cho chúng ta con đường thơ ấu thiêng liêng ấy, vì nó phù hợp với hết mọi người, nó giúp mọi người nên thánh một cách dễ dàng. Đi vào con đường đó là có một chỗ đứng ở giữa trái tim của Giáo hội, để muốn làm mọi sự ở trong Giáo hội của Chúa.
Và cho được như vậy, hãy dâng mình cho Chúa, hãy chấp nhận đau khổ hy sinh vì yêu Chúa, hãy chia sẻ tâm tình với Chúa Cứu Thế đang đau đớn trong các chi thể của Giáo hội, để cứu độ trần gian với Chúa Kitô.
Trên đường đi theo Đức Giê-su, đến một lúc nào đó, các môn đệ tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều thuật lại cuộc tranh luận và đặt ngay sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Thương Khó mà Ngài sẽ trải qua. Thánh Luca nói rằng đây là vấn đề các môn đệ « trăn trở ở trong lòng », và vì thế, ngay sau Bữa Tiệc Ly, họ lại tiếp tục tranh luận vấn đề ai là người lớn nhất trong nhóm (Lc 22, 24). Thánh Mát-thêu, đẩy vấn đề đi xa hơn: họ đến hỏi trực tiếp Đức Giê-su để biết ai là người lớn nhất trong Nước Trời!
Lược qua một chút bối cảnh và cách ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật, như thế là quá đủ để chúng ta nhận ra rằng đây là một « căn bệnh » nghiêm trọng của các môn đệ thời Đức Giê-su. Bệnh nghiêm trọng, vì đó là một thứ bệnh ung thư gây mất hiệp nhất, vì sẽ phải tranh cãi với nhau, ganh tị nhau, loại trừ nhau (x. Mt 20, 17-28); ngoài ra, đó là một căn bệnh nghiêm trọng, còn là vì bệnh này là bệnh “mãn tính” và lây lan, có mặt ở mọi nơi và mọi thời.
Thật vậy, con người luôn muốn hơn và muốn đứng đầu trong mọi lãnh vực, thậm chí trong các nhân đức, trong đó có nhân đức khiêm nhường, vì người ta cũng phân chia nhân đức khiêm nhường ra thành bậc! Con người khổ sở vì sự thua thiệt trong thân phận và trong ganh đua; tự xếp loại mình và xếp loại nhau; từ đó không chấp mình không chấp nhận nhau trong trong thâm tâm. Rộng hơn nữa, đó còn là cách sống, cách làm việc và cách tổ chức của con người ngoài đời cũng như trong đạo: thi đua, thi tuyển, phân cấp, xếp bậc, xếp loại…. Kết quả là “những người bé nhỏ” theo nghĩa rộng và ở nhiều bình diện khác nhau, vốn chiếm đa số, bị khinh chê, thậm chí bị loại trừ, hay ít nhất tạo ra nơi họ mặc cảm thua kém rất tai hại và chết chóc.
2. Nên như trẻ nhỏ
Cách Đức Giê-su chữa căn bệnh này, và cách các Tin Mừng kể lại càng làm cho chúng ta nhận ra rằng đây là một thứ bệnh khó chữa. Ba Tin Mừng Nhất Lãm không hoàn toàn đồng nhất với nhau khi kể lại cách Đức Giê-su giải quyết; nhưng cả ba đều có ít nhất ba điểm chung:
Đảo lộn hoàn toàn quan niệm lớn-bé của các môn đệ và của loài người chúng ta: muốn làm lớn phải không? Ai là người nhỏ nhất trong nhóm, thì là người lớn nhất (theo Tin Mừng Luca); hãy thay đổi và trở nên như trẻ nhỏ (theo Tin Mừng Mát-thêu); hãy trở nên người rốt hết và trở nên người phục vụ mọi người.
Để các môn đệ đừng hiểu lung tung những khái niệm ‘‘nhỏ nhất’’, ‘‘trẻ nhỏ’’, ‘‘người rốt hết và người phục vụ’’, Đức Giê-su đem một em bé tới đặt giữa họ.
Cuối cùng, giảng giải bằng lời và bằng minh họa vẫn chưa đủ, Đức Giê-su đi đến cùng bằng cách đồng hóa mình với em nhỏ: ‘‘Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy ».
Loài người ham muốn vị trí “lớn nhất”, Đức Giê-su lại đẩy về một cực khác, là “nhỏ nhất”: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Nhưng phải làm thế nào để trở nên như « trẻ nhỏ »? Chúng ta không thể lùi thời gian lại được; vì thế, ai muốn quay trở lại với thời ấu nhi để có được sự ngây thơ trong trắng, thì đó là ‘‘ngây thơ cụ’’. Trở nên như “trẻ nhỏ” là một ơn gọi, luôn ở phía trước.
Trở nên như trẻ nhỏ là luôn sống trong tương quan và sống bằng tương quan, vì trẻ nhỏ không thể sống một mình.
Trở nên ‘‘trẻ nhỏ’’ là ơn gọi trở nên con của Thiên Chúa Cha, là luôn sống như con của Thiên Chúa Cha, giống như Đức Giê-su, dù chúng ta là ai, ở độ tuổi nào và có chức vụ gì. Vì khi gặp một trẻ nhỏ, chúng ta luôn hỏi: “con ai vậy?”
Trở nên như trẻ nhỏ, còn là sống bản chất hiền lành vốn có trong cõi lòng chúng ta; bởi vì chúng ta là con của Thiên Chúa Cha, và được mời gọi trở nên giống Cha, vốn là tình yêu, là hiền lành. Chính sự hiền lành sẽ chiến thắng được thù địch, vốn là hình ảnh cụ thể của thú tính, sự dữ, lòng ham muốn, bạo lực. Như Đức Giê-su công bố trong Bài Giảng Trên Núi:
Phúc thay những người hiền lành, Vì họ sẽ có được Đất Hứa làm gia nghiệp. (Mt 5, 4)
3. Thánh Nữ Tê-rê-xa và “con đường thơ ấu thiêng liêng”
Ngang qua việc chuyên cần đọc và cầu nguyện với các Tin Mừng, Thánh Tê-rê-xa đã khám phá con đường “con đường thơ ấu thiêng liêng” của Đức Giê-su và đã sống đến cùng theo cách của mình, theo ơn gọi của mình và theo những ơn huệ cùng với thử thách của mình. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hình ảnh tuyệt đẹp này: Đức Giê-su ôm em bé; và Ngài sẽ thực sự trở nên em bé đối với Cha và loài người trên Thập Giá. Thánh nữ Tê-rê-xa cũng đã sống như thế đó, trong tình yêu con thảo với Cha, trên Thập Giá bệnh tật của đời mình.
Như thế, Đức Giê-su chữa lành chúng ta không chỉ bằng lời, nhưng còn bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Thật vậy, nơi Thập Giá, Ngài sống như một em bé: yếu đuối, bất lực và tự đặt mình vào vị trí tận cùng của bậc thang xã hội: tử tội và chết treo trên Thập Giá! Bởi vì, trẻ em và những người bé nhỏ, giới hạn yếu đuối là “nơi” bày tỏ tốt nhất sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa (x. Tv 8). Và Giáo Hội đã nhận ra “sức mạnh và sự khôn ngoan” của Thiên Chúa nơi “con đường thơ ấu thiêng liêng”, khi tôn phong thánh nữ Tê-rê-xa là Thầy Dạy của Giáo Hội, nghĩa là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Dưới đây là những câu nói nổi bật của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu
- Đức Tin của chúng ta thật hiển hách! Thay vì giới hạn các con tim, như thế gian mong muốn, Đức Tin lại nâng các con tim lên và gia tăng khả năng yêu thương của chúng.
- Xin nhớ rằng không có điều gì là nhỏ bé dưới mắt Thiên Chúa. Hãy làm mọi việc với tình yêu.
- Vẻ rực rỡ của bông hồng và màu trắng của bông huệ không tước mất hương thơm của bông hoa tím hay lấy đi vẻ hấp dẫn mộc mạc của bông cúc dại. Nếu mỗi bông hoa nhỏ cứ muốn làm một bông hồng, mùa xuân hẳn sẽ mất vẻ yêu kiều.
- Hẳn là bạn cũng biết rằng Chúa chúng ta không quan tâm nhiều đến vẻ lớn lao hay sự khó khăn của các hành vi chúng ta làm, nhưng là tình yêu chúng ta có khi làm.
- Không có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì.
- Tin tưởng và chỉ tin tưởng mới dẫn chúng ta đến tình yêu.
- Không nên bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào mà không làm một hy sinh nhỏ, ở đây bằng gương mặt tươi cười, ở kia bằng một lời khả ái, luôn luôn làm việc đúng đắn dù nhỏ bé nhất và làm vì tình yêu.
- Đối với em, cầu nguyện là một sự trào dâng của con tim; cầu nguyện đơn giản là một cái nhìn hướng về trời, là một tiếng kêu nhận biết và yêu thương, ôm lấy cả thử thách lẫn niềm vui.
- Một lời nói hay một nụ cười thường cũng đủ để đưa sự sống tươi mát vào trong một tâm hồn thất vọng.
- Bây giờ em biết rằng bác ái chân thật hệ tại gánh lấy tất cả những khuyết điểm của người thân cận – không ngạc nhiên trước sự yếu đuối của họ, nhưng vui sướng về những nhân đức nhỏ nhất của họ.
- Niềm vui ấy ta không tìm được nơi các sự vật bao quanh ta, nhưng chỉ ở trong tâm hồn; và ta có thể sở hữu nó dễ dàng khi ở trong một nhà tù tăm tối cũng như khi ở trong dinh thự của một vị Vua.
- Con cầm lấy quyển Kinh Thánh. Thế là mọi sự dường như sáng ra với con; chỉ một chữ thôi cũng mở ra cho con những chân trời vô biên, sự hoàn thiện tỏ ra đơn giản với con.
- Nếu em không chỉ sống từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, hẳn là em đã không thể kiên nhẫn; nhưng em chỉ nhìn đến hiện tại, em quên đi quá khứ, và em quan tâm không chặn trước tương lai.
- Đừng sợ nói với Đức Giêsu rằng bạn yêu thương Người; cho dù không cảm thấy gì, đó là cách để buộc Người giúp đỡ bạn, và bồng lấy bạn như một em nhỏ quá yếu không thể bước đi.
- Sứ mạng của con – làm cho Thiên Chúa được yêu mến – sẽ bắt đầu sau khi con chết. Con sẽ sống trên trời mà làm điều thiện dưới đất. Con sẽ gửi đến một trận mưa hoa hồng.
- Đức Giêsu không cần sách vở hoặc các Tiến sĩ thần học để dạy dỗ các tâm hồn; là Tiến sĩ của các tiến sĩ, Người dạy dỗ không cần nói năng ồn ào.
- Điều duy nhất con thực sự ước muốn… là yêu cho đến chết vì yêu.
Chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu qua đời tại tu viện Carmel ở Lisieux, ngày 30 tháng 9 năm 1897, được phong thánh năm 1925; từ đó lễ kính thánh nữ được mừng vào ngày 1 tháng 10. Thánh nữ được chọn làm bổn mạng thứ hai của nước Pháp, cùng với thánh Jeanne d’Arc, và bổn mạng các xứ truyền giáo, cùng với thánh Phanxicô Xavie.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu tên thật là Marie Françoise Thérèse Martin, sinh tại Alençon (Normandie, Pháp) ngày 02 tháng 01 năm 1873, con gái út của một gia đình đã có bốn cô con gái. Ông Louis Martin, cha cô, là một thợ sửa đồng hồ đã nghỉ việc; bà Zélie Guérin, mẹ cô, gánh vác gia đình bằng việc trông coi một cửa hiệu đăng-ten. Bà qua đời khi Têrêxa chưa đầy năm tuổi. Ông Martin cùng năm cô con gái dời đến ở Lisieux; Têrêxa trở nên cô bé tính khí thất thường, bối rối và hay dằn vặt, lại được cha và các chị nuông chiều. Giáng sinh năm 1886, một cuộc “hoán cải” diễn ra nơi cô: những thái độ trẻ con và bối rối nơi cô biến mất; cô đạt được sự trưởng thành lúc mới 14 tuổi. Cô xin vào sống trong tu viện Carmel ở Lisieux, tại đây đã có hai chị gái của mình đã là nữ tu. Cô được nhận vào dòng năm 15 tuổi với tên gọi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh-Nhan (Thérèse de l’Enfant-Jésus et de la Sainte-Face). Têrêxa sống trong tu viện Carmel ở Lisieux được 9 năm, cho tới khi qua đời; tu viện này có 25 nữ tu, tất cả đều già hơn chị rất nhiều, trừ hai người. Kinh Thánh – đặc biệt sách Diễm Ca và các sách Tin Mừng – và các thi ca thần bí của thánh Gioan Thánh Giá nuôi dưỡng linh đạo của chị nữ tu trẻ bây giờ đã sớm đạt tới một mức thánh thiện rất cao. Năm 1893, chị Têrêxa được cử trông coi việc đào luyện các tập sinh, và năm 1894, mẹ Agnès yêu cầu chị viết hồi ký tuổi thơ của chị; một năm sau, tập hồi ký này được xuất bản cùng với các bài viết khác của chị trong cuốn Tiểu Sử Một Tâm Hồn. Tác phẩm này về sau được in ra hàng triệu bản, vạch cho toàn thế giới một phương pháp nên thánh đơn sơ nhưng anh hùng, “con đường nhỏ”, và góp phần biến Lisieux thành một nơi hành hương được cả thế giới công giáo biết đến.
II. Thông điệp và tính thời sự
Các bản văn phụng vụ diễn tả khoa linh đạo siêu vời của thánh nữ Têrêxa, bắt đầu bằng Ca Nhập lễ, lấy ý tưởng trong Đệ Nhị Luật (32, 10-12)... “Tựa chim bằng giương cánh đỡ con và cõng trên mình, duy một mình Thiên Chúa dẫn dắt dân.”
Lời nguyện trong ngày lấy ý tưởng trong Mt 11, 25, cầu xin Thiên Chúa – Đấng mở cửa Nước Trời “cho những người bé mọn”– cho chúng ta “biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, bước đi trên con đường phó thác”. Ngay từ 3 tuổi, Têrêxa đã hứa không bao giờ từ chối Chúa Giêsu điều gì; giờ đây con đường chị đi đã dẫn chị tới chỗ dâng hiến đời sống làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa tình thương, qua sự bỏ mình và phó thác hoàn toàn. Đó là “con đường nhỏ” mà thánh nữ nói đến trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn: “Con là tạo vật hèn mọn nhất, con biết sự khốn nạn và yếu hèn của con, nhưng con cũng biết các tâm hồn cao quí và quảng đại yêu thích làm điều thiện biết bao. Vì vậy con nài xin Chúa, Đấng toàn phúc ở trên trời, xin nhận con làm con Chúa... Ôi Người Yêu của con, con nài xin Ngài ghé mắt đoái nhìn vô số những tâm hồn bé mọn; con nài xin Ngài thương chọn trong thế giới này một đạo binh những nạn nhân bé mọn đáng dược Ngài yêu thương.”
Điệp ca của bài Benedictus: “... hãy trở nên giống trẻ thơ” làm vang lên Tin Mừng của thánh lễ (Mt 18, 1-4): Thật, tôi bảo thật anh em: Nếu anh em không hoán cải và trở nên giống trẻ thơ... “Trẻ thơ” đối với thánh Têrêxa Lisieux là người “chấp nhận tất cả”, với thái độ vâng phục và phó thác của Người Đầy Tớ đau khổ (xem sách Isaia) không ngừng thưa lên: Này con đây! Chương trình sống này đã có khi Têrêxa chọn tên mình lúc vào dòng Carmel: Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan. Đủ loại thử thách không ngừng giúp thanh luyện chị và dẫn chị tới mức độ thánh thiện ngày càng cao hơn. Đời sống hằng ngày trong tu viện, “cái lạnh chết người”, tình trạng khô khan thiêng liêng, những cám dỗ về đức tin, những cơn đau do xuất huyết phổi... “Hồi ấy con không hề nghĩ phải chịu đau khổ rất nhiều để đạt sự thánh thiện …”, chị viết trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn (Thủ bản A). Tất cả điều này làm chứng một tâm hồn thanh tịnh và mạnh mẽ phi thường, hoàn toàn phó thác cho tác động của Thánh Thần và hoàn toàn dâng hiến cho Tình Yêu nhân từ của Chúa. “Ôi, con yêu Chúa …. lạy Chúa.. con yêu Chúa!” là những lời cuối cùng của chị.
Lời nguyện trên lễ vật gợi lên một khíab cạnh khác của hy tế thầm lặng trong “đời sống đơn sơ và can đảm” của thánh Têrêxa Lisieux. Chính vào lễ Chúa Ba Ngôi ngày 9 tháng 6 năm 1895, thánh nữ được Chúa soi sáng để hiến mình cho Tình Yêu nhân từ. Không lâu sau khi thực hiện cuộc dâng hiến này, khi bắt đầu con đường thánh giá, chị cảm thấy như có một “thương tích tình yêu” giống như hiện tượng in dấu thánh thần bí của thánh nữ Têrêxa Avila.
Têrêxa Lisieux ước muốn đón nhận và đáp lại tất cả các ơn gọi: “Con cảm thấy ơn gọi làm chiến binh, linh mục, tông đồ, bác sĩ, tử đạo”, với “ước muốn thực hiện mọi hành vi anh hùng nhất...” Thế rồi một ngày kia, khi đọc Thư 1 Côrintô, chị hiểu rằng “mọi ân điển hoàn hảo nhất cũng chẳng là gì nếu không có đức ái... Đức ái là con đường tuyệt hảo chắc chắn dẫn đến Thiên Chúa.” Sau cùng, đây là câu trả lời và là “sự yên nghỉ” đối với thánh Têrêxa: “Con hiểu rằng đức ái bao gồm mọi ơn gọi, đức ái là tất cả... Lúc đó, lòng tràn ngập niềm vui ngây ngất, con la lên: Ôi Giêsu, tình yêu của con... ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm ra, ơn gọi của con là tình yêu! Vâng, con đã tìm ra vị trí con trong Hội Thánh. Ôi lạy Chúa, chính Chúa ban ơn gọi này cho con... trong lòng Hội Thánh, Mẹ của con, con sẽ là tình yêu... như thế con sẽ là tất cả...” (Thư thánh Têrêxa viết cho chị Maria Thánh Tâm, trong Bài đọc Giờ Kinh Sách).
Lời nguyện hiệp lễ nhấn mạnh một tính cách đặc trưng khác của thánh Têrêxa, đó là niềm say mê “vì phần rỗi mọi người”. Sau khi qua cuộc kiểm tra theo giáo luật để tuyên khấn trong dòng (8 tháng 9 năm 1890), chị đã tuyên bố chị vào dòng Carmel để “cứu rỗi các linh hồn và nhất là để cầu nguyện cho các linh mục”. Năm 1895, chị được cử làm “chị linh hướng” cho một chủng sinh có ý hướng đi truyền giáo, thầy Bellière, và năm sau, thầy này có thêm một “anh linh hướng”, cha P. Roulland, thuộc Hội Truyền Giáo. Tháng 11 năm 1896, chị làm tuần chín ngày kính thánh tử đạo Théophane Vénard († 1861) để xin ơn được đi truyền giáo ở Đông Dương, nhưng không lâu sau chứng xuất huyết phổi của chị tái phát. Chị trút hơi thở cuối cùng ngày thứ năm 30 tháng 9, 1897, lúc 7 giờ 20 tối, sau một cơn hấp hối kéo dài hai ngày.
Đức giáo hoàng Piô XI phong thánh cho chị này 17 tháng 5 năm 1925 tại Đại Thánh Đường Phêrô ở Rôma, và ngày 14 tháng 12 năm 1927, ngài công bố thánh nữ Têrêxa là bổn mạng tất cả các nhà truyền giáo, nam cũng như nữ, và của tất cả các xứ truyền giáo trên toàn thế giới. Ngày 3 tháng 5 năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố thánh Têrêxa là bổn mạng phụ của nước Pháp, ngang hàng với thánh nữ Jeanne d’Arc.
Ðây quả thật là một sự trùng hợp hay ho vì chúng ta được dịp suy nghĩ hai lần theo hai biểu tượng khác nhau về thái độ sống như trẻ nhỏ để vào Nước Trời. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca nhắc đến chi tiết này: các môn đệ còn suy nghĩ trong lòng xem ai là kẻ lớn nhất và Chúa Giêsu đã hiểu thấu tâm tư của các ông nên Chúa gọi một trẻ nhỏ đến và dạy các ông bài học nên giống như trẻ nhỏ. Hôm nay, mùng 1/10, đúng ngày lễ kính thánh Têrêsa Hài Ðộng Giêsu, Giáo Hội chọn đọc Phúc Âm theo thánh Mátthêu nói về cùng một vấn đề nhưng trong viễn tượng khác. Theo tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu thì các môn đệ không còn suy nghĩ trong lòng nữa nhưng đã tranh luận với nhau mà không tìm được câu trả lời nên mới đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?” Hai viễn tượng này không đối nghịch nhau nhưng bổ túc cho nhau và mô tả cho chúng ta tâm thức quá ư phàm trần của các môn đệ lúc đó, khi các ngài chưa được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Không những các môn đệ đã suy nghĩ trong lòng mà còn đem ra thành đề tài tranh luận nữa. Hành động này diễn tả thái độ nội tâm, lòng đã nghĩ xấu rồi, đã có sự ganh tị rồi nên mới đưa đến sự ganh tị với nhau. Các môn đệ chưa nhận được Chúa Thánh Thần, chưa được thanh luyện để trở nên con người mới, trở nên như trẻ nhỏ, có tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, trong sạch để làm việc cho Chúa.
Ðọc đoạn Phúc Âm này, chúng ta lưu ý thêm chi tiết này nữa, đó là Chúa Giêsu không trả lời liền câu hỏi mà các môn đệ đặt ra: “Ai là kẻ lớn nhất?”, nhưng Chúa nói tới việc phải sống như trẻ nhỏ trước rồi sau đó mới trả lời: “Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này thì người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”. Chúa Giêsu không nói đến địa vị lớn nhỏ nhưng nói về giá trị tinh thần của con người sống như trẻ nhỏ, dễ dàng gần gũi thân tình với Chúa trước. Chính tình thương và ân sủng của Chúa mới làm cho con người được cao trọng chứ không phải những công việc do sức riêng của con người tạo nên.
Thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu mà chúng ta mừng lễ hôm nay đã nêu gương cho chúng ta về điểm này khi thánh nữ đề ra con đường nhỏ để sống thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Cùng với thánh nữ chúng ta hãy cầu nguyện như sau:
Lạy Chúa của con,
Con muốn biết điều mà Chúa thực hiện cho kẻ bé nhỏ nhất đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chiếc thang máy để đưa con lên đến trời cao là chính đôi tay Chúa, vì thế con không cần lớn lên mà hiện tại con cần phải ở lại trong tâm tình bé nhỏ, cần phải càng ngày càng trở nên bé nhỏ hơn nữa.
Lạy Chúa của con, Chúa đã cho con nhiều hơn điều con hy vọng là con muốn hát lên chúc tụng tình thương nhân từ của Chúa. Xin Chúa thương ban cho con một tâm hồn đơn sơ tươi trẻ, luôn tin tưởng phó thác vào Chúa như trẻ nhỏ phó thác vào cha mẹ và lúc nào cũng sống an vui, chân thành yêu Chúa và anh chị em.
Trong xấp hình chụp ở Lisieux hè năm 1997, tôi thích nhất tấm hình chụp tại góc vườn nhà thánh nữ Têrêsa, hiện nay là nhà trưng bày những kỷ vật thời thơ ấu của ngài.
Thích tấm hình ấy không phải vì khung cảnh rộng lớn, vì chỉ là một vuông cỏ chừng một trăm mét vuông; không phải vì góc máy đẹp hay kỹ thuật chụp hình độc đáo; mà thực ra chỉ vì tấm ảnh chụp cảnh sống động bên tượng Têrêsa đứng bên cạnh cha, tay chỉ lên trời. Người ta bảo chỗ đặt tượng hiện nay là chỗ năm xưa cha con Têrêsa đã ngồi trò chuyện buổi tối. Tấm ảnh xem ra có “tiếng nói”. Câu nói hôm ấy chính là lời Têrêsa nói với cha mình khi chỉ tay lên chòm sao hình chữ T: “Cha ơi, tên con trên trời”.
Xin dựa trên câu nói đượm chất mộc mạc đơn sơ của trẻ thơ nhiều ước mơ ấy để chia sẻ về con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa.
1. “Cha ơi!” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng khởi đi từ một hiện thực.
Têrêsa là con út trong một gia đình toàn là nữ. Ngài mất mẹ lúc lên bốn tuổi. Tuổi còn quá nhỏ để có thể ghi nhận nỗi đau, nhưng cũng đủ để ghi nhớ sự mất mát không gì bù lấp được. Từ đó thánh nữ dồn hết tình cảm cho người cha yêu quý. Và cũng từ đó, người cha phải kiêm luôn vai trò và trách vụ của người mẹ gia đình. Nếu “gà trống nuôi con” trong tiếng Việt Nam nói lên nỗi đau lận đận của người đàn ông lẻ bóng bên cạnh đàn con, thì nơi nhà Buissonnets nó đã trở thành một tình yêu khả thi khả kính và khả ái. Chính cô út mít ướt Têrêsa đã cảm nghiệm điều này hơn bất cứ thành viên nào khác của gia đình. Khúc hát tâm tình nhất của Têrêsa lúc ấy chính là hát về người cha, giống như những bài hát Việt Nam gần đây như “Bố là tất cả” hoặc “Ba sẽ là cánh chim đưa con đi thật xa…”. Đó là một hiện thực.
Từ hiện thực tưởng như mất mát, thiếu hụt bi quan ấy, Têrêsa rất tự nhiên sống lấy và đảm lĩnh trọn vẹn để sau này chuyển hóa và diễn tả về tình yêu Thiên Chúa, Đấng là CHA muôn đời. Nếu còn cha còn mẹ đầy đủ trong một gia đình hạnh phúc đủ đầy mọi sự, khi xưng Chúa là Cha, có lẽ ta chỉ có tâm tình một nửa, còn với Têrêsa thì khác, xưng Chúa là CHA với cả tâm tình dành cho người bố. Bố là tất cả, Chúa là tất cả.
Chính khởi đi từ hiện thực ấy, Têrêsa đã từng ngày đi sâu và đi xa trên con đường phó thác: phó thác mọi chuyện đời lớn nhỏ trong tay cha mình và phó thác chuyện một đời trong tay Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, quảng đại yêu thương. Nếu lúc nhỏ Têrêsa ngồi bệt ở cầu thang khiến cha mình phải cúi xuống bồng lên, thì khi lớn Têrêsa nghiệm ra: người con nào càng nhỏ bé yếu đuối khiêm nhường phó thác, càng được Cha trên trời yêu mến bế bồng nâng đỡ dìu đưa.
2. “Tên con” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng dệt bằng những bước đơn sơ mang đậm cá tính.
Đường thơ ấu thiêng liêng của Têrêsa khởi đầu là thế, với những tiếng “Bố ơi” dệt nên ngày sống và những tiếng “Cha ơi” làm nên cuộc đời. Đó là những bước chân bé nhỏ trên hành trình dài. Và thánh nữ đã thực hiện tuần tự không bằng “đôi hia bảy dặm” của phép màu dễ dãi, cũng chẳng bằng “tấm thảm biết bay” thênh thang rộng rãi hoặc bằng “đũa thần” nhẹ nhàng vung vít, nhưng bằng tấm lòng đơn sơ nhỏ bé.
Ngày nay Têrêsa được nâng lên bậc Tiến Sĩ Hội Thánh, người ta tưởng đời ngài làm bằng những việc vĩ đại. Không, rất bình thường. Trong chín năm Dòng Kín Lisieux lặng lẽ, ngài chỉ làm những việc vô cùng bình thường như những người khác, nhưng cách thế ngài làm quả là khác thường đến độ phi thường. Cách ngài làm là cách của tình yêu lớn. Việc lớn mà tình yêu nhỏ là việc thắt lại, việc nhỏ mà tình yêu lớn là việc triển nở sinh sôi. Têrêsa là Têrêsa nhỏ vì đời nhỏ việc nhỏ, nhưng Têrêsa vĩ đại vì tình yêu ngài sống khó ai có thể vượt qua.
Nhiều lúc xem ra ngài còn muốn “đánh lừa” cả Chúa nữa, như khi gặp chuyện trái ý hoặc tâm sự buồn, ngài vẫn cố gắng giữ bộ mặt tươi cười như không có chuyện gì xảy ra, không phải để các chị em trong cộng đoàn khỏi để ý hoặc bề trên hỏi han lôi thôi mất công giải thích phiền phức, mà để Chúa “khỏi biết” kẻo Chúa đau buồn. Chúa đã chịu đau khổ nhiều vì chuyện lớn lao cứu độ nhân loại rồi, dám đâu phận cỏ rơm lại làm phiền lòng Chúa vì những chuyện nhỏ. Xem ra cách chọn lựa đơn sơ và cũng trẻ thơ quá phải không?
Khi bị bề trên quở vô lý, Têrêsa rất vui vì có dịp hy sinh. Khi lượm được cọng rác lạc lõng nơi hành lang, Têrêsa rất thích vì có dịp cầu nguyện vòi vĩnh Chúa giải thoát cho một linh hồn. Khi nhìn bông hoa được ngắt chưng trên bàn thờ, Têrêsa nghĩ về niềm dâng hiến. Tất cả là bình thường tự nhiên, nhưng đã trở thành cơ hội để thánh nữ được thánh hóa trong tình yêu. Đặt “tình yêu” nhỏ của mình trong “TÌNH YÊU” vĩ đại của Chúa, sẽ hóa nên tình yêu lạ thường có sức làm cho những điều bình thường đem lại những hiệu quả phi thường.
3. “Trên trời” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng vươn mở tới những ước mơ lành thánh.
Têrêsa lìa trần lúc mới hai mươi bốn tuổi. Quá trẻ cho một đời người để trở thành một vị thánh trẻ cho toàn thế giới. Nhưng nét xuân trẻ nơi Têrêsa đâu căn cứ vào tuổi tác, mà đúng ra là dựa trên tâm hồn. Trẻ vì dung dị gần gũi và cũng trẻ vì những ước mơ bay bổng. Tết Trung Thu, thiếu nhi mơ lên cung trăng gặp chị Hằng, thăm thằng Cuội, nhìn Thỏ ngọc, ngồi gốc đa nghe sáo thổi vi vu điệu nhạc nên thơ … Đó là ước mơ đơn sơ tuổi thơ ngây dại đi liền với những hình ảnh mang màu văn hóa, nhưng ước mơ của Têrêsa dẫu đơn sơ mà cao vượt, dù nên thơ mà vẫn không xa rời thực tế.
Khi Têrêsa ước mơ sẽ là tình yêu trong Giáo Hội, thì cùng lúc ngài cũng đón nhận vào mình những hy sinh của sự chia lìa đối với người thân và những biểu lộ của cơn bệnh ngặt nghèo. Khi Têrêsa ước mơ thao thức trở thành vị truyền giáo đặt chân đến những nơi thật xa thật lạ mà đem về cho Chúa thật nhiều linh hồn, lại là lúc ngài phải liệt giường liệt chiếu để mãi được gọi mời thể hiện ước mơ truyền giáo bằng việc cầu nguyện và hy sinh. Khi Têrêsa ước mơ sẽ rải mưa hoa hồng làm đẹp cuộc sống nhân thế chính là lúc ngài đang lặng lẽ nghĩ về những cánh hoa hồng được trải lên đường kiệu Mình Thánh Chúa.
Cuộc đời rộng mà không ước mơ, cuộc đời ấy sẽ bị thắt buộc trở nên hẹp hòi. Cuộc đời hẹp mà biết ước mơ, nhất là với những ước mơ lành thánh, cuộc đời ấy sẽ mở ra thênh thang cho Giáo Hội được nhờ và cũng cho Nước Trời được hiện tỏ. Nếu ước mơ là dấu hiệu của sự trẻ trung thì rõ ràng Têrêsa với những ước mơ không vơi cạn đã là một vị thánh trẻ hôm qua và sẽ còn là mùa xuân trẻ trong lòng mộ mến của Giáo Hội hôm nay.
Tóm lại, “Cha ơi, tên con trên trời” chỉ là một câu nói trẻ thơ đơn sơ đột xuất, nhưng đã toát lược những bước hành trình dệt nên con đường thơ ấu thiêng liêng của Têrêsa. Tất nhiên, con đường ấy đã được Chúa Giêsu khai sinh khi tuyên bố “Ai không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”, nhưng thực hiện con đường ấy như thế nào lại là một dấu ấn ký tên Têrêsa. Con đường ấy phổ quát mở ra cho mọi người mọi thời, con đường ấy vừa tầm với mọi bậc sống
Cầu chúc mọi người hôm nay thanh thản bước đi trên đường thơ ấu thiêng liêng và cũng nhận được những “hoa hồng” trìu mến của thánh nữ Têrêsa từ con đường ấy.
Têrêsa Hài Đồng Giêsu sinh năm 1873, qua đời năm 1897, quả là một vị thánh rất trẻ, chỉ sống được 24 tuổi đời. Một vị thánh rất hợp thời. Một vị thánh rất gần với chúng ta. Cũng là một trong những khuôn mặt lớn của Giáo Hội công giáo, đã được Đức Piô XI tôn phong làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê của mấy thế kỷ trước. Thánh nữ được phong tiến sĩ Hội Thánh 1997.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa!”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêsa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kiêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức ái đã cho Têrêsa chìa khóa, để tìm ra ơn gọi và chỗ đứng của chị trong Hội thánh.
Nên thánh bằng đường thơ ấu thiêng liêng
Từ trước tới nay, chúng ta cho việc nên thánh là khó và chỉ có những linh hồn đặc biệt mới nên thánh được, vì các thánh đã nên thánh bằng những cách thức khác nhau, nhưng cách nào cũng khó khăn, vượt trên khả năng của chúng ta. Nhưng nay thánh nữ đã vạch cho chúng ta con đường mới để nên thánh, đó là “đường thơ ấu thiêng liêng”.
a) Con đường mới
Chúng ta gọi là con đường mới vì con đường nên thánh này khác hẳn với lối nên thánh cổ truyền mà chúng ta đã biết. Con đường này có những đặc tính tiêu cực và tích cực như ta sẽ thấy dưới đây. Dù tích cực hay tiêu cực, nó cũng khác với đường lối xưa và thích hợp cho hết mọi người để nên thánh. Chúng ta có thể nói được rằng đây là con đường nên thánh của thời đại mới, của thế kỷ 20.
Về phương diện tiêu cực, ta thấy Đường thơ ấu thiêng liêng này có những đặc điểm sau đây:
+ Không có những việc hãm mình kỳ lạ
Ngày xưa, các thánh được kể lại bằng những câu chuyện về việc hy sinh hãm mình của các ngài. Và ngày nay trong giới giáo hữu thơ ngây, đôi khi người ta còn thích đồng hóa sự thánh thiện anh hùng với những việc khổ hạnh đẫm máu. Đối với họ, một vị thánh tức là một người không ăn, không uống, không ngủ, kiệt sức vì thức khuya, vì đánh tội đủ mọi cách và hủy diệt hay hành hạ thân xác trong những công việc nặng nhọc để chỉ lo nghĩ đến việc rỗi linh hồn. Không còn sự sai lầm nào tác hại hơn! Một số đông tín hữu nghĩ mình không thể nên trọn lành được vì không thể ăn chay, không thể thức khuya và không thể mặc áo nhặm.
Riêng vị đại thánh thành Lisieux, chị đã nhất định gạt bỏ những điều mà thánh nữ quen gọi là “những khổ hạnh của các thánh nhân”. Hơn thế, chị còn tỏ thái độ đối lập rõ rệt, ngoại trừ vài rường hợp đặc biệt. Thoạt đầu Têrêsa đã tưởng là phải dấn thân vào con đường khổ hạnh vượt sức mình ấy... Không cần bàn cãi, nhiều bản văn đã chứng tỏ thánh nữ đã loại ra khỏi đường thơ ấu thiêng liêng của Ngài những hãm mình phạt xác kỳ lạ và những lối quá khổ hạnh của các thánh. (Philipon. Op, Sứ điệp của thánh Têrêsa thành Lisieux)
+ Không có những đặc ân thần bí
Nơi Têrêsa Hài đồng hoàn toàn không có xuất thần, dấu thánh, thị kiến, trừ qủi hay phép lạ. Con người cần phải trở nên nhà pháp thuật kỳ tài nhất của “thế hệ tận hiến” lại không thực thi một dấu lạ nào trong đời sống. Điều này là điều trái ngược với đa số tiểu sử các thánh, chỉ dựa trên những ân thần bí thuộc đủ mọi loại: xuất thần, thị kiến, m ạc khải, in dấu thánh, thần thuật trừ qủi, có thiên thần hiện ra, hiểu biết mọi tâm hồn. Ơn nói tiên tri và làm phép lạ...
Thật ra chúng ta cũng tìm ra những dấu vết, những hiện tượng lạ thường, ít ra là năm sáu hiện tượng nếu để ý quan sát đời sống thánh nữ. Nhưng nhiều nếp sống tầm thường cũng có thể có bằng ấy hiện tượng lạ! Những bằng chứng nêu lên trong tòa án phong thánh đủ để các khía cạnh tiêu cực này, khía cạnh rất đặc sắc về sự thánh thiện của Têrêsa Hài đồng.
+ Không có phương pháp cầu nguyện
Đời sống cầu nguyện là linh hồn của việc tu đức cho nên vấn đề chúng ta đề cập ở đây thật quan trọng. Nó mạc khải cho chúng ta cái bí thuật kết hợp với Thiên Chúa của các thánh hơn tất cả yếu tố khác.
Chị Têrêsa Hài đồng đã đọc đi đọc lại trong các tác phẩm của Mẹ thánh những đoạn viết rất hay về các điểm: cầu nguyện bằng lời, cầu nguyện bằng trí, cầu nguyện tâm niệm, cầu nguyện tĩnh niệm, cầu nguyện kết hợp. Theo thánh Têrêsa Avila, người cải tổ có công nhất của dòng Kín,” cầu nguyện là tất cả”. Theo Mẹ thánh, bảy nơi ở các linh hồn cũng là bảy bậc thang chính của đời sống cầu nguyện và kết hợp, kể từ những hình thức sơ luợc của sự cầu nguyện hoạt động, đến những phân tích tỉ mỉ về những bậc sống cao siêu trong hôn ước thiêng liêng. Nơi Têrêsa Hài đồng không có một dấu vết của một cấp bậc, một tầng lớp, một thứ hạng nào nhất định! Truyện Một tâm hồn không giống cuốn Lâu đài linh hồn, vì tuy hai thánh nữ cùng thuộc về một dòng nhưng năng khiếu thiên phú rất khác nhau.
Về điểm căn bản của đời sống cầu nguyện này, cũng như của đời hy sinh khổ hạnh và những đặc ân thần bí, Têrêsa phải là khuôn mẫu thích hợp với “mọi linh hồn thơ ấu”. Phúc âm là linh hồn đời sống cầu nguyện của chị. Đối với chị và số đông linh hồn Kitô hữu, tìm về với Chúa bằng con đường thông thường, thì cầu nguyện phải là “một đà tiến của trái tim”, một cái nhìn ngây thơ hướng về trời, một tiếng gọi tri ân và yêu mến, thốt ra trong cơn thử thách cũng như giữa lúc an vui; nghĩa là một sự gì cao thượng siêu nhiên, có sức phấn khởi linh hồn và nối kết linh hồn vơi Thiên Chúa.
+ Không có những hoạt động hiển hách
Giữa lớp người có “thế lực hoạt động và ăn nói” có nhiều vị hiển thánh đã sống theo hình ảnh của Thầy chí thánh. Chính các ngài có công rất nhiều trong việc thực hiện những tổ chức cơ sở bác ái, đã có ảnh hưởng sâu xa trong việc hướng dẫn vận mạng quốc gia và xã hội. Chúng ta phải ngỡ ngàng trước thánh Albertô cả, trước sự thông thái phi thường của thánh Augustinô, và thánh Tôma Aquinô... trước chiến công lẫm liệt của thánh nữ Jeanne d’Arc, trước sức mạnh của lời rao giảng và những phép lạ huy hoàng của thánh Vinh sơn Phêriê, trước lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh Phanxicô Xaviê, và sau cùng hoạt động cảm hóa dân chúng bằng gương sáng của cha sở họ Ars... Chúng ta còn có thể kể những bằng chứng rõ ràng của các nhà truyền giáo và các thánh tử đạo, của một số lớn các vị lập Dòng. Đời sống thánh thiện của các ngài vẫn còn sáng chói như một thành quả vô song của nhân loại.
Trái lại, trong cuộc sống âm thầm của chị dòng Kín thành Lisieux không có lấy một hoạt động hiển hách hay một công trình bên ngoài nào. Ngay ở toà án phong thánh, chỉ vỏn vẹn một trang kể lại những việc làm nhỏ mọn của chị trong suốt đời dòng kín: lần lượt chị đảm nhận chu đáo những việc nhà giặt, phòng ăn, phòng khách và giữ cửa. Nhiệm vụ đáng chú ý nhất của chị là – chức vụ không được chỉ định rõ – làm phụ tá coi sóc ba hoặc bốn chị đệ tử và tập sinh khó tính. Sống với các chị này, Têrêsa phải luôn luôn cố gắng tận tụy và giữ thái độ cởi mở vui tươi.
Người ta đã lầm trước sự tương phản giữa vẻ tầm thường của những việc Têrêsa làm hằng ngày với sự trọn hảo thần linh thánh nữ dùng để kiện toàn công việc thường nhật ấy. Rồi người ta có thể tự hỏi xem ngoài tấm gương trinh nữ Nazareth, còn có mẫu đời nào cũng siêu vời thánh thiện như những công việc bên ngoài rất tầm thường như thế không?
b) Đặc tính của con đường mới
Trong các đặc tính của con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ, ta thấy có mấy đặc tính nổi vượt, đó là: bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường và vui vẻ chấp nhận mọi hy sinh gian khổ.
+ Bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường
Thánh nữ luôn lời Chúa với câu: “Hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Với một trực giác kỳ lạ về địa vị thiết yếu của đức khiêm nhường trong đời sống thiêng liêng, thánh Terêsa đã nhấn mạnh về sự thực hành nhân đức này. “Hãy luôn sống như trẻ thơ” theo ý muốn của Chúa Giêsu trong Phúc âm, Ngài chẳng muốn nói với ta rằng: “Nước Trời thuộc về người giống như trẻ nhỏ” sao? Người có đặc ân của Chúa Giêsu là kẻ bé thơ.
Tự đáy lòng, Têrêsa cảm thấy rằng chướng ngại đầu tiên và lớn nhất của sự thánh thiện là tính kiêu ngạo. Kẻ thù mạnh nhất của chúng ta là bản ngã riêng của ta. Để đưa ta đến sự trọn lành, ta quá tin tưởng vào sức riêng và tưởng phải làm những việc kỳ lạ, cho đến khi sa ngã, ta mới có kinh nghiệm là mình bất lực và hư vô. Chỉ lúc đó ta mới hiểu lời Thầy Chí thánh “Không có Thầy các con không thể làm gì được”. Trẻ nhỏ đã ý thức được sự yếu hèn của mình, nó cảm thấy mình nghèo khó, thiếu thốn mọi sự và hoàn toàn lệ thuộc.
Chiếm hữu được chân lý nền tảng này, thánh nữ đã lấy TRẺ THƠ làm mẫu mực cho đến cuối đời.
Chị hướng dẫn các linh hồn đến sự thánh thiện là bằng đức tính khiêm nhường như Chúa đã chẳng nói: “Kẻ giống trẻ nhỏ sẽ lớn nhất trong nước trời” sao? Và khi người ta bảo rằng điều đó không hợp với mọi người, Têrêsa trả lời: “Nếu tôi chết lúc, tám, mười tuổi, nếu tôi ở trong nhiều tu viện, lãnh nhiều trách nhiệm, tôi cũng cảm thấy rõ ràng tôi vẫn nhỏ bé như ngày nay”. Người ta có thể được cất lên địa vị rất cao mà vẫn nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa.
+ Từ bỏ mình
Thánh nữ quên mình đi, coi mình là hèn mọn hư vô và đặt tất cả sự tin tưởng của mình vào tình thương vô biên của Chúa. Người muốn sống để làm đẹp lòng Chúa, yêu mến và làm cho người ta yêu mến Chúa. Nhưng muốn được thế, thánh nữ đã sống hết sức quảng đại đối với Chúa, đã từ bỏ mình đi để sống cho Chúa và với chị em. Thánh nữ luôn ví mình như bông hoa hồng được dâng tiến Chúa:
Chúa ơi, này đóa hoa hồng, Trên bàn thờ Chúa hương nồng sắc tươi, Con đây mơ ước này thôi: Tách từng cánh một, Chúa Trời, hiến dâng.
Thánh nữ đã cảm nghiệm thấy lời Chúa “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta” là cần thiết, nên việc cắt tỉa ý riêng mình là cần thiết để cho phù hợp với ý Chúa. Người làm vườn mà vì thương hại cây hồng không muốn bạo tay cắt những cành sâu đi, thì không phải là một người làm vườn khéo: cây hồng được “nuông chiều” như thế cũng không thể nở hoa được... Người không muốn quên mình cũng không bao giờ có ý chí vững chắc.
Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con sô 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm sao thành 7 được, mà vẫn là 3, 4. Thánh Têrêsa đã biết quên mình đi, hòa tan ý riêng của mình vào thánh ý Chúa để hoàn toàn sống cho Chúa và chỉ làm những điều gì Chúa muốn.
Sự từ bỏ mình đã thúc đẩy Têrêsa yêu mến thánh giá như ngài đã viết trong Một tâm hồn: “Khi ai muốn đạt tới đích kỳ vọng, dĩ nhiên người ấy phải dùng phương thế, Đức Giêsu đã cho con biết phương thế cứu rỗi các linh hồn là THÁNH GIÁ, cho nên càng gặp nhiều thánh giá, lòng ái mộ, chịu đau khổ của con càng thêm nồng nàn hăng hái. Trong 5 năm qua, con đã bước đi con đường ấy, con đi thì con biết, chớ chẳng ai biết con đi. Ấy chính là một hoa mọn mọc nơi xó xỉnh chẳng ai thèm biết tới mà con muốn dâng tiến Chúa đấy. Hoa mọn này còn chút hương thơm nào, chỉ bốc theo đường thẳng lên trời thôi”. (Một tâm hồn, tr 132)
+ Chấp nhận trong vui tươi
Đường lối nên thánh của thánh nữ gạt bỏ tất cả những việc hãm mình lớn lao mà mình tự tạo ra, trái lại, Têrêsa chỉ cố gắng chấp nhận tất cả mọi sự việc trong hiện tại, dù muốn hay không. Thái độ đó là thái độ CHẤP NHẬN. Nhưng chấp nhận có thể là thái độ chấp nhận miễn cưỡng hay tự ý, vui tươi hay rầu rĩ! Đối với thánh nữ, việc gì xẩy đến cũng là do thánh ý Chúa, cho nên Ngài nhận lấy cách thực tình và vui tươi. Tinh thần vui tươi phấn khởi trước những hy sinh còn được thánh nữ ghi lại trong nhiều vần thơ:
Nếu Chúa chẳng đoái hoài ve vuốt, Con vẫn tươi cười trước khổ đau. Mỉm cười với Chúa tôi thờ, Đó là thiên quốc thỏa mơ ước rồi.
Thiết tưởng không cần làm gì thêm để hãm mình, để nên thánh, cứ vui lòng chấp nhận cảnh sống hiện tại với muôn vàn việc xẩy đến vui cũng như buồn, vừa ý cũng như trái ý. Nên thánh ở chỗ chấp nhận mọi hy sinh đau khổ mà nét mặt vẫn vui tươi, không cho ai biết mình đang phải đau khổ. Chính Terêsa ở vào trong hoàn cảnh đó: ai cũng cho là Têrêsa sung sướng vì có chị làm Mẹ Bề trên chắc chắn được nuông chiều, hơn nữ nét mặt của Têrêsa lúc nào cũng tỏ ra vui tươi hớn hở; nhưng Têrêsa cho biết: chính cái đó cũng làm cho mình đau khổ thêm mà không ai biết.
Thiên Chúa đã chọn những gì bé nhỏ, yếu hèn. Nhìn sâu vào mầu nhiệm nhập thể, mầu nhiệm thánh giá, mầu nhiệm Thanh Thể, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn những con đường rất khiêm hạ. Thiên Chúa mặc khải chính mình trong những hình thức không chút gì là quyền lực. Chúa mặc khải tình yêu của Ngài. Tình yêu là một sức mạnh mà không một phạm trù nào về quyền lực có thể diễn tả được, nhưng lại rất hùng hồn khi tự hạ hy sinh.
Chúa chọn những sứ giả tình yêu để họ cộng tác vào việc xây dựng Nước Tình Yêu của Ngài. Đây cung là những chọn lựa do lòng thương xót của Ngài, chứ không do công phúc và áp lực của bất cứ ai. Ngài có thể chọn những con người bé mọn yếu hèn. Trong cuốn Tự Thuật, Têrêsa kể lại: Một hôm, trong phòng, Têrêsa tình cờ mở Phúc Âm và gặp ngay đoạn viết: "Chúa Giêsu lên núi, Ngài kêu gọi những kẻ Ngài muốn; và họ đã đến với Ngài" (Mc 3, 13). Đó là mầu nhiệm ơn gọi của tôi… Chúa đã không gọi những người xứng đáng, nhưng kêu gọi những người Chúa muốn, như thánh Phaolô đã viết: "Chúa thương xót những người Chúa ưa thích và Chúa xót thương kẻ Chúa muốn xót thương. Như thế sự được ơn không phải là công trình của kẻ muốn hoặc kẻ chạy chọt, nhưng là của Chúa thương xót mà thôi" (Rm 9, 15-16).
Têrêsa rất ý thức chân lý đó, Ngài còn đi xa hơn, khi khẳng định rằng: Chúa thương Ngài không phải vì Ngài có công phúc gì, mà chính sự yếu đuối bé nhỏ của Ngài. Hơn nữa Têrêsa còn quả quyết: "Cuối đời, con sẽ tay không ra trước mặt Chúa. Bởi vì lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Con biết tất cả các việc công chính của chúng con đều mang vết nhơ trước mặt Chúa." Têrêsa nhận biết sự khó nghèo thiêng liêng và bé nhỏ của mình, ngài chỉ trông cậy vào ơn thương xót Chúa mà thôi.
Qua thánh nữ Têrêsa, Chúa đang kêu gọi mọi người, nhất là những người tự mãn cho mình là đạo đức, hãy trở về tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và bé mọn. "Ai hạ mình xuớng như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong nước Thiên Chúa" (Mt18, 4). Lời Chúa trên đây ghi lớn trên trần nhà nguyện Dòng kín Carmel là một bài thần học rất quan trọng cho Hội Thánh tương lai.
Kết luận
Têrêsa đã vui lòng chịu đau khổ trong tăm tối bởi vì Ngài đã nhận ra rằng trong nhiều cách Ngài rơi vào cảnh tăm tối mà trong đó có nhiều thử thách vây kín. Ngài nhận ra với những người không tin, những người mà Ngài gọi là “anh chị em” của Ngài, gần gũi họ hơn nữa. Ngài đã làm cho nhận thức của Ngài đối về họ cách rõ ràng hơn trong câu chuyện về một vương quốc tăm tối, đã không nhận ra Vua của Ánh Sáng đã đến ở giữa họ trong 33 năm:
Lạy Chúa, con cái Chúa đã hiểu về ánh sáng thánh thiêng của Ngài và xin Ngài tha thứ cho những anh chị em đó. Thiên Chúa đã trao cho Thánh nữ chén đắng; Ngài đã không ước mong được thoát khỏi những đắng cay mà Thiên Chúa dành cho những tội nhân đáng thương phải chịu. Ngài không thể nói là nhân danh cá nhân Ngài mà là nhân danh những anh chị em của Ngài, “Xin thương xót con cùng, lạy Chúa, vì chúng con là những tội nhân đáng thương”. Ôi! Lạy Chúa đừng xét xử chúng con. Có thể tất cả những ai mà không được ngọn lửa đức tin soi sáng thì một ngày nào đó sẽ được ánh sáng chiếu soi. Ôi lạy Chúa Giêsu! Nếu cần thiết thì xin Ngài hãy thanh tẩy những kẻ gây ra tội lỗi vì một linh hồn yêu mến Ngài, kế đến con ước ao được đón nhận thử thách vì những lỗi lầm đó đến khi mà Chúa sẵn sàng mang con đi vào trong vương quốc Ánh sáng của Ngài. Ân sủng duy nhất con van xin Ngài đó là đừng để con bao giờ xúc phạm đến Ngài.
Têrêsa thật sự là một vị thánh thời đại, là một mẫu gương của thời đại – bởi vì Ngài đã chết trong sự tăm tối của ngờ vực mà nhiều người đương thời của Thánh nữ đã lạc lối. Thánh nữ sẵn sàng vào cõi âm ti nếu Thiên Chúa được tán dương ở đó. Những lời cầu nguyện của Thánh nữ đã được đáp trả. Nhưng địa ngục mà Thiên Chúa đã cho Thánh nữ chính là cơ hội để công bố lòng tin và tình yêu của Thánh nữ là khía cạnh tăm tối trong thời đại của Ngài.
Một hôm nhà đạo sĩ Beroca cùng với người môn đệ là Elia bước ra khỏi trại, nhà đạo sĩ đưa mắt nhìn ra đám đông người, giữa khu phố ồn ào náo nhiệt, rồi lên tiếng hỏi môn đệ: Con nghĩ sao giữa những người bon chen nơi phố chợ này? Sẽ có ai được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng không?
Thoạt đầu Elia lắc đầu bi quan trả lời là: không có ai cả. Một lúc sau người môn đệ đưa tay chỉ về phía hai người đang đứng đó và nói: thưa thầy, con nghĩ rằng hai người này thế nào cũng sẽ được chia sẻ phần hạnh phúc đời đời.
Nhà đạo sĩ cho gọi hai người ấy đến và hỏi xem họ làm nghề gì?
Họ thưa: thưa thầy, chúng con chỉ biết làm nghề mua vui cho người ta thôi. Khi thấy ai buồn sầu, chúng con tới làm cho họ vui lên. Khi họ gây lộn cãi vã nhau, chúng con tìm mọi cách giúp họ làm hòa và sống an bình với nhau hơn. Chúng con không biết làm gì hơn ngoài những việc nhỏ mọn như thế thôi.
Nhà đạo sĩ trả lời: các anh nói rất đúng, vì những việc các anh làm tuy bé nhỏ nhưng thực sự lại rất lớn lao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai không trở nên đơn sơ bé nhỏ sẽ không được vào Nước Trời".
Thiên Chúa là Cha nhân từ giàu lòng xót thương, không những với các tội nhân mà thôi, Ngài còn đặc biệt để mắt nhân từ đến với những tâm hồn đơn sơ, những người hèn hạ hoặc bị khinh dể ít được ai biết tới, nhất là các trẻ nhỏ. Ngài là Cha nhân từ không muốn cho một ai trong những kẻ bé nhỏ phải hư mất. Chính Chúa Giêsu lại còn đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ thấp hèn và còn quả quyết rằng: "Mỗi lần các con làm một việc tốt lành cho những người bé nhỏ nhất, tức là làm cho chính Chúa vậy. Trái lại, khi ta từ chối không làm một điều tốt lành cho người bé nhỏ nào thì cũng không làm cho Chúa vậy". Vì thế Chúa Giêsu cảnh cáo và nhắc nhở ta đừng bao giờ khinh dể những người bé mọn, cũng chớ làm gương xấu cho trẻ nhỏ. Bởi vì họ là những người gần gũi Thiên Chúa và được Ngài yêu thương cách đặc biệt.
Trong xã hội hưởng thụ, những người bị khinh thường coi rẻ hơn cả là những người thấp kém về tuổi tác, văn hóa, khả năng, tiền bạc, bằng cấp... Nhưng đối với Chúa Giêsu thì hoàn toàn trái ngược, tiêu chuẩn và cái nhìn của Chúa không phải là tiêu chuẩn và cái nhìn thiển cận của loài người. Những người bé mọn lại là những người được Thiên Chúa Cha yêu thương và mạc khải cho những sự khôn ngoan, cho họ hiểu biết những điều bí nhiệm mà sự khôn ngoan thế gian không thể nào hiểu biết được.
Chúa Giêsu tự coi mình là người bé mọn và tự đồng hóa mình với họ, nên Ngài đã sung sướng thốt lên rằng: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha vì đã giấu không cho những kẻ thông thái mà lại cho những kẻ bé mọn hiểu được những điều bí nhiệm về Nước Trời. Vâng lạy Cha, vì đó là Thánh Ý Cha..." (Mt 11,25-26; Lc 10,21-22).
Những người bé mọn Chúa Giêsu muốn nói tới đây là ai? Phải hiểu sự bé mọn ấy như thế nào? Bé mọn về thể xác hay về sự hiểu biết hoặc về tinh thần? Sự bé mọn về thiêng liêng có ý nghĩa gì?
Những Kẻ Bé Mọn Là Ai?
Có thể nói được rằng sự bé mọn mà Chúa Giêsu nói tới trong Phúc Âm, thực thi tới mức hoànhảo trong đời sống. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được Giáo Hội chính thức nhìn nhận và nhiều người trong chúng ta đã được nghe biết tới. Hơn nữa nhân ngày truyền giáo thế giới 19/10/1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu lên bậc Tiến Sĩ Giáo Hội, như thánh nữ Catharine Sienna và thánh nữ Têrêsa Avila.
Với tước hiệu này, Giáo hội chính thức nhìn nhận thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thuộc vào những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ, nhưng được Thiên Chúa kén chọn và tỏ lộ cho những điều vượt xa tầm hiểu biết trí khôn loài người, như lời thánh Tông Đồ Phaolô quả quyết rằng: "Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần khí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ khôn ngoan đã học được nơi trí khôn loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí. Chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí để diễn tả những thực tại thuộc Thần Khí".
Thật vậy, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã có một tâm hồn đơn sơ hồn nhiên, đã có thể nói lên rằng: "Trong Phúc Âm, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã tìm thấy mọi chân lý và sự thật". Cũng nhờ Phúc Âm mà người đã khám phá ra những khámphá mới ẩn giấu trong Phúc Âm.
Thánh nữ viết: "Theo thiển nghĩ của tôi thì tất cả mọi người cảm nhận được những gì ThiênChúa đã ban tặng cho tôi, thì quả thật Thiên Chúa không còn phải là ông vua đáng phải khiếp sợ nữa, nhưng trái lại là người Cha đáng mến vô cùng và sẽ không còn dám làm điều gì xúc phạm đến Người nữa. Tuy nhiên tôi vẫn biết rằng không phải mọi người đều giống hệt nhau cả, mỗi người đều có một đặc điểm cá biệt để nói lên sự hoàn hảo muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa, và đồng thời cũng là dịp tốt để mỗi người một cách và tất cả mọi người cùng hiệp lời ca ngợi sự thánh thiện khôn ngoan của Thiên Chúa cách phong phú dồi dào hơn. Riêng đối với tôi, Ngài đoái thương cho tôi cảm nghiệm được lòng nhân từ yêu thương vô biên của Ngài, và cũng nhờ đó tôi được dịp chiêm ngắm và tôn thờ những sự hoàn hảo thánh thiện khác của Ngài nữa. Đối với tôi tất cả đều tỏa sáng sự khôn ngoan, tình thương vô biên của Chúa, ngay đến sự công minh chính trực của Chúa cũng chỉ là sự công chính của tình yêu mà thôi".
Hiểu Sự Bé Mọn Ấy Như Thế Nào?
Sự hiểu biết về lòng nhân từ xót thương của Chúa không phải chỉ là sự hiểu biết của trí khôn trên bình diện hiểu biết mà thôi, nhưng thực sự là kinh nghiệm sống trong cuộc sống cá nhân của Người. Đặc biệt hơn cả là sức mạnh của ơn thánh đã được cảm nghiệm năm Têrêsa lên mười bốn tuổi.
Khi còn nhỏ Têrêsa vốn là cô bé được nuông chiều, nên thường nương theo bản tính ích kỷ dễ hờn giận. Lớn lên Têrêsa dần dần được thay đổi và trưởng thành hơn về mặt tình cảm.
Một biến cố đã thay đổi hẳn cả hướng đi cuộc đời của Têrêsa. Hôm đó là ngày lễ sinh nhật (năm 1886), Têrêsa được ơn Chúa thúc đẩy và soi sáng cho thấu hiểu cách sâu xa hơn về mầu nhiệm Giáng Sinh, Con Một Chúa quyền phép vô cùng, nhưng chỉ vì tình yêu nhân loại đã muốn mặc lấy thân phận con người thấp hèn như tất cả mọi người, ngoại trừ tội lỗi.
Tất cả mầu nhiệm như một luồng ánh sáng soi chiếu cả cuộc sống Têrêsa, chính trong sự yếu ớt của đứa bé thơ sinh nằm trong máng cỏ hèn hạ của loài súc vật, Têrêsa cảm thấy được mặc cho một sức mạnh phi thường. Từ ngày đó, Têrêsa bắt đầu đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác trong việc khắc phục những tính hư nết xấu của mình. Têrêsa cũng ý thức được sự cao cả của ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho người một cách nhưng không. Têrêsa hoàn toàn không có công trạng gì ngoài công nghiệp duy nhất là sự yếu hèn, nhưng đầy lòng tin tưởng phó thác của người. Vì thế Têrêsa có lý khi viết:
"Chính vì tôi bé mọn mà Cha là Thiên Chúa nhân từ đã cúi xuống trên tôi và chỉ bảo tôi những điều cao cả mầu nhiệm về tình thương Thiên Chúa. Nếu như các nhà thông thái thế gian trông thấy tôi, họ sẽ ngạc nhiên về những gì Thiên Chúa đã muốn tỏ lộcho một cô bé mười bốn tuổi như tôi về tình thương của Ngài. Đó là tất cả những điều bí ẩn mà sự khôn ngoan thông thái của họ cũng không thể nào hiểu được.Bởi vì để được hiểu biết những điều cao cả đó, trước hết họ cần phải có lòng đơn sơ và tinh thần khó nghèo bên trong".
Bé Mọn Về Thể Xác hay Về Sự Hiểu Biết Hoặc Về Tinh Thần?
Con đường nên thánh và đúc kết sự khôn ngoan của Têrêsa được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng. Đây không phải là sự thơ ấu khờ dại của đứa trẻ, cũng không phải là việc tầm thường hóa những giá trị Phúc Âm, trái lại Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, trước hết dựa trên thái độ khiêm tốn nội tâm, biết tự hạ chấp nhận thân phận thấp hèn trước mặt Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành, đồng thời cũng là Cha nhân từ đầy lòng xót thương.
Đặc điểm trước tiên của con đường nên thánh của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là lòng tin tưởng phó thác. Đó là hoa trái của lòng trông cậy, như người con thơ chỉ biết đặt lòng tin cậy phó thác vào bàn tay chăm sóc của người Cha đầy tình yêu thương.
Từ sự tin tưởng vào tình thương cha mẹ và anh chị em trần gian nơi gia đình, Têrêsa tiến tới trong sự tin tưởng vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Lòng tin tưởng đưa Têrêsa đến sự phó thác hoàn toàn trong tay Chúa về tất cả cuộc sống của người, không phải là thứ phó thác thụ động lười biếng một cách suy luận sai lầm của con người, nhưng là sự phó thác linh động, sẵn sàng thi hành tất cả những gì tình yêuChúa đòi hỏi, cả khi phải hy sinh với giá cao và chấp nhận từ bỏ những gì mình ưa thích nhất, nhưng có thể là sự nguy hiểm trong bước đường tiến tới sự kết hiệp thân mậtvới Chúa. Vì thế, tin tưởng phó thác là hoạt động của tình yêu, là cao điểm của lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự, đồng thời cũng rất gần gũi với tha nhân để chia sẻ tình yêu Chúa đổ tràn trong tâm hồn mọi người, để lôi kéo người khác đến gần tình yêu Chúa hơn.
Ý Nghĩa Thiêng Liêng Về Sự Bé Mọn
Đây là bí quyết sức mạnh và hiệu lực Tông Đồ của thánh nữ, người được đặt làm quan thầy các vị thừa sai truyền giáo khắp nơi trên thế giới, mặc dù thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu không bao giờ bước chân ra khỏi bốn bức tường của Tu Viện và cũng không hề lên tiếng giảng dạy cho ai. Nhưng thánh nữ đã khôn khéo khám phá ra chỗ đứng của mình trong lòng Giáo Hội, chỗ đứng đó là tình yêu, là biết yêu thương, là hoàn toàn phó thác tin tưởng cho tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng xót thương.
Sống ở trần gian chỉ có 24 tuổi đời, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã để lại cho trần gian một con đường nên thánh xem ra đơn sơ, giản dị, nhưng cũng là một linh đạo tuyệt vời: “con đường thơ ấu thiêng liêng”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu là ai?
Con đường thơ ấu thiêng liêng nói gì cho ta?
MỘT CON NGƯỜI. MỘT CUỘC ĐỜI: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, con ông Louis Martin và bà Maria Guérin. Người sinh ngày 2 tháng 1 năm 1873 tại Alencon nước Pháp. Gia đình Ông bà Louis Martin sinh được 9 người con. Tuy nhiên 4 người con đã qua đời, chỉ còn lại 5 chị em gái. Tất cả 5 chị em gái sau này đều bước vào đời tận hiến trong các Dòng tu. Têrêsa mồ côi mẹ từ lúc chưa tròn 4 tuổi. Nỗi buồn mất mẹ cứ hằn sâu trong cuộc đời của Têrêsa. Ông Louis Martin bỏ Alencon lui về Lisieux với cả gia đình. Với truyền thống của một gia đình đạo đức và với tấm lòng đơn sơ, yêu mến Chúa, Têrêsa đã nhất quyết chọn cho mình một con đường. Do đó, thánh nhân đã xin vào tu viện nhà kín Cát Minh tại Lisieux vào tháng 4 năm 1888 lúc Người mới chưa tròn 15 tuổi. Thánh Têrêsa luôn cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Thiên Chúa và Người đã sống cái diệu cảm của một con người đầy ắp Chúa. Tâm hồn của Người thật đạo đức, thánh thiện. Người cảm thấy ơn gọi của Người thật kỳ diệu vì chính vào đêm giáng sinh năm 1886, một biến cố làm cho Người quay trở về với Chúa và Người nhận thấy con người của mình được biến đổi hoàn toàn. Từ đây, ơn gọi yêu mến Chúa và yêu tha nhân thôi thúc Têrêsa. Người đã có thể nói như thánh Phaolô tông đồ: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi’’. Đời sống trong tu viện Cát Minh càng lúc càng nung đốt tâm hồn của thánh nhân. Đời sống nội tâm của Têrêsa càng ngày càng lên cao. Người đã có mối liên hệ mật thiết với Chúa ở một tầm cao mới, chiều sâu mới, quan hệ tình yêu. Thánh nhân cảm thấy càng ngày càng phải kết hợp với Chúa trong cuộc thống khổ của Ngài. Thánh nhân coi thánh kinh là sách gối đầu và là sách duy nhất giúp Người nên thánh và gần gũi Chúa. Tuy nhiên sự thử thách nội tâm và sự đau khổ thể xác diễn ra hằng ngày trong đời sống của thánh nhân đã làm cho thánh nhân càng ngày càng cảm nghiệm sâu xa mầu nhiệm tình yêu cao vời của Chúa.
Năm 1896 trong đêm thứ sáu tuần thánh, Têrêsa bị ho ra máu lần đầu tiên. Thánh nhân đã sống những tháng ngày trong sự đau khổ triền miên của bệnh tật. Có thể nói, mười tám tháng cuối cùng của cuộc đời Người là một cuộc tử đạo không ngừng. Thân xác bị đau đớn, nội tâm bị thử thách. Nhưng, thánh nhân đã sống hết mình vì tình yêu. Người lìa trần vào ngày 30 tháng 9 năm 1897, hưởng thọ 24 tuổi. Cái tuổi còn đầy sinh lực và nhựa sống. Người ra đi trong tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa”. Đức Giáo Hoàng Piô XI nâng Người lên bậc hiển thánh và đặt Người làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU: Thánh Têrêsa đã bỏ cõi đời để đi vào cõi sống vĩnh hằng, Người đi vào cái trọn vẹn, cái lớn lao: yêu Chúa hơn bất cứ người nào trên dương thế này; Têrêsa muốn dâng mình cho tình yêu vô vị lợi, tình yêu nhân từ vô biên của Chúa như của lễ dâng hiến toàn thiêu; Têrêsa muốn yêu mọi người như Chúa Giêsu đã yêu nhân loại.
Người đã sống trọn vẹn con đường tình yêu của Chúa. Người đã chọn một linh đạo cho cuộc đời mình, linh đạo tình yêu nhỏ bé. Con đường của Người là con đường thơ ấu thiêng liêng. Têrêsa tựï ví mình như trẻ nhỏ, mà nhỏ nghĩa là yếu đuối, hèn mọn, không thể tự sức mình làm được gì; nên phải yêu mến thật nhiều, yêu mến không giới hạn để đạt được điều mình ao ước, mong chờ. Quan niệm của Têrêsa giống như những người nghèo của Thiên Chúa mà đặc biệt là thái độ của Mẹ Maria trong kinh Magnificat. Têrêsa đã cảm nghiệm được con đường nên thánh qua thái độ, cử chỉ của Đức Mẹ. Têrêsa đã hiểu được bí quyết nên thánh theo thánh kinh: “trở nên người lớn nhất phải trở nên bé nhỏ nhất”. Đây là kinh nghiệm sống của Têrêsa trong cuộc sống hằng ngày. Con đường nên thánh của Người là con đường thơ ấu thiêng liêng. Muốn đi con đường ấy, bí quyết thật giản dị: “Hãy dâng mình yêu Chúa, hãy chấp nhận đau khổ hy sinh vì Chúa, hãy chia sẻ tâm tình của Chúa cứu độ đang đau khổ trong các chi thể của Hội Thánh để cứu rỗi thế gian”.
Hãy yêu Chúa và yêu tha nhân thật nhiều. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đang mời gọi mọi người nên thánh bằng con đường tình yêu, con đường thơ ấu thiêng liêng…Nên thánh không phải là làm những việc vĩ đại, nhưng con người trở nên thánh bằng con đường nhỏ bé thiêng liêng. Têrêsa đã ví chiếc thang máy bác lên Trời là tình yêu. Con người chỉ có thể đạt được Nước Trời khi họ sống bé nhỏ và yêu thương.
Lạy thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, với tư tưởng phong phú, đầy thánh thiện và đạo đức của Người, xin cho chúng con hiểu được con đường nhỏ bé đầy tình yêu của Người. Xin Người làm rơi hoa hồng là những ân huệ từ Trời xuống thật nhiều cho chúng con. Amen.
Chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu qua đời tại tu viện Carmel ở Lisieux, ngày 30 tháng 9 năm 1897, được phong thánh năm 1925; từ đó lễ kính thánh nữ được mừng vào ngày 1 tháng 10. Thánh nữ được chọn làm bổn mạng thứ hai của nước Pháp, cùng với thánh Jeanne d'Arc, và bổn mạng các xứ truyền giáo, cùng với thánh Phanxicô Xavie.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu tên thật là Marie Françoise Thérèse Martin, sinh tại Alençon (Normandie, Pháp) ngày 02 tháng 01 năm 1873, con gái út của một gia đình đã có bốn cô con gái. Ông Louis Martin, cha cô, là một thợ sửa đồng hồ đã nghỉ việc; bà Zélie Guérin, mẹ cô, gánh vác gia đình bằng việc trông coi một cửa hiệu đăng-ten. Bà qua đời khi Têrêxa chưa đầy năm tuổi. Ông Martin cùng năm cô con gái dời đến ở Lisieux; Têrêxa trở nên cô bé tính khí thất thường, bối rối và hay dằn vặt, lại được cha và các chị nuông chiều. Giáng sinh năm 1886, một cuộc "hoán cải" diễn ra nơi cô: những thái độ trẻ con và bối rối nơi cô biến mất; cô đạt được sự trưởng thành lúc mới 14 tuổi. Cô xin vào sống trong tu viện Carmel ở Lisieux, tại đây đã có hai chị gái của mình đã là nữ tu. Cô được nhận vào dòng năm 15 tuổi với tên gọi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh-Nhan (Thérèse de l'Enfant-Jésus et de la Sainte-Face). Têrêxa sống trong tu viện Carmel ở Lisieux được 9 năm, cho tới khi qua đời; tu viện này có 25 nữ tu, tất cả đều già hơn chị rất nhiều, trừ hai người. Kinh Thánh – đặc biệt sách Diễm Ca và các sách Tin Mừng – và các thi ca thần bí của thánh Gioan Thánh Giá nuôi dưỡng linh đạo của chị nữ tu trẻ bây giờ đã sớm đạt tới một mức thánh thiện rất cao. Năm 1893, chị Têrêxa được cử trông coi việc đào luyện các tập sinh, và năm 1894, mẹ Agnès yêu cầu chị viết hồi ký tuổi thơ của chị; một năm sau, tập hồi ký này được xuất bản cùng với các bài viết khác của chị trong cuốn Tiểu Sử Một Tâm Hồn. Tác phẩm này về sau được in ra hàng triệu bản, vạch cho toàn thế giới một phương pháp nên thánh đơn sơ nhưng anh hùng, "con đường nhỏ", và góp phần biến Lisieux thành một nơi hành hương được cả thế giới công giáo biết đến.
II. Thông điệp và tính thời sự
Các bản văn phụng vụ diễn tả khoa linh đạo siêu vời của thánh nữ Têrêxa, bắt đầu bằng Ca Nhập lễ, lấy ý tưởng trong Đệ Nhị Luật (32, 10-12) … "Tựa chim bằng giương cánh đỡ con và cõng trên mình, duy một mình Thiên Chúa dẫn dắt dân."
a. Lời Nguyện của ngày lấy ý tưởng trong Mt 11, 25, cầu xin Thiên Chúa – Đấng mở cửa Nước Trời "cho những người bé mọn"– cho chúng ta "biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, bước đi trên con đường phó thác". Ngay từ 3 tuổi, Têrêxa đã hứa không bao giờ từ chối Chúa Giêsu điều gì; giờ đây con đường chị đi đã dẫn chị tới chỗ dâng hiến đời sống làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa tình thương, qua sự bỏ mình và phó thác hoàn toàn. Đó là "con đường nhỏ" mà thánh nữ nói đến trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn: "Con là tạo vật hèn mọn nhất, con biết sự khốn nạn và yếu hèn của con, nhưng con cũng biết các tâm hồn cao quí và quảng đại yêu thích làm điều thiện biết bao. Vì vậy con nài xin Chúa, Đấng toàn phúc ở trên trời, xin nhận con làm con Chúa … Ôi Người Yêu của con, con nài xin Ngài ghé mắt đoái nhìn vô số những tâm hồn bé mọn; con nài xin Ngài thương chọn trong thế giới này một đạo binh những nạn nhân bé mọn đáng dược Ngài yêu thương."
Điệp ca của bài Benedictus: " … hãy trở nên giống trẻ thơ" làm vang lên Tin Mừng của thánh lễ (Mt 18, 1-4): Thật, tôi bảo thật anh em: Nếu anh em không hoán cải và trở nên giống trẻ thơ … "Trẻ thơ" đối với thánh Têrêxa Lisieux là người "chấp nhận tất cả", với thái độ vâng phục và phó thác của Người Đầy Tớ đau khổ (xem sách Isaia) không ngừng thưa lên: Này con đây! Chương trình sống này đã có khi Têrêxa chọn tên mình lúc vào dòng Carmel: Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh-Nhan. Đủ loại thử thách không ngừng giúp thanh luyện chị và dẫn chị tới mức độ thánh thiện ngày càng cao hơn. Đời sống hằng ngày trong tu viện, "cái lạnh chết người", tình trạng khô khan thiêng liêng, những cám dỗ về đức tin, những cơn đau do xuất huyết phổi … "Hồi ấy con không hề nghĩ phải chịu đau khổ rất nhiều để đạt sự thánh thiện...", chị viết trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn (Thủ bản A). Tất cả điều này làm chứng một tâm hồn thanh tịnh và mạnh mẽ phi thường, hoàn toàn phó thác cho tác động của Thánh Thần và hoàn toàn dâng hiến cho Tình Yêu nhân từ của Chúa. "Ôi, con yêu Chúa … lạy Chúa … con yêu Chúa!" là những lời cuối cùng của chị.
b. Lời Nguyện trên lễ vật gợi lên một khía cạnh khác của hy tế thầm lặng trong "đời sống đơn sơ và can đảm" của thánh Têrêxa Lisieux. Chính vào lễ Chúa Ba Ngôi ngày 9 tháng 6 năm 1895, thánh nữ được Chúa soi sáng để hiến mình cho Tình Yêu nhân từ. Không lâu sau khi thực hiện cuộc dâng hiến này, khi bắt đầu con đường thánh giá, chị cảm thấy như có một "thương tích tình yêu" giống như hiện tượng in dấu thánh thần bí của thánh nữ Têrêxa Avila.
Têrêxa Lisieux ước muốn đón nhận và đáp lại tất cả các ơn gọi: "Con cảm thấy ơn gọi làm chiến binh, linh mục, tông đồ, bác sĩ, tử đạo", với "ước muốn thực hiện mọi hành vi anh hùng nhất …" Thế rồi một ngày kia, khi đọc Thư 1 Côrintô, chị hiểu rằng "mọi ân điển hoàn hảo nhất cũng chẳng là gì nếu không có đức ái … Đức ái là con đường tuyệt hảo chắc chắn dẫn đến Thiên Chúa." Sau cùng, đây là câu trả lời và là "sự yên nghỉ" đối với thánh Têrêxa: "Con hiểu rằng đức ái bao gồm mọi ơn gọi, đức ái là tất cả … Lúc đó, lòng tràn ngập niềm vui ngây ngất, con la lên: Ôi Giêsu, tình yêu của con … ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm ra, ơn gọi của con là tình yêu! Vâng, con đã tìm ra vị trí con trong Hội Thánh. Ôi lạy Chúa, chính Chúa ban ơn gọi này cho con … trong lòng Hội Thánh, Mẹ của con, con sẽ là tình yêu … như thế con sẽ là tất cả …" (Thư thánh Têrêxa viết cho chị Maria Thánh Tâm, trong Bài đọc Giờ Kinh Sách).
c. Lời Nguyện sau hiệp lễ nhấn mạnh một tính cách đặc trưng khác của thánh Têrêxa, đó là niềm say mê "vì phần rỗi mọi người". Sau khi qua cuộc kiểm tra theo giáo luật để tuyên khấn trong dòng (8 tháng 9 năm 1890), chị đã tuyên bố chị vào dòng Carmel để "cứu rỗi các linh hồn và nhất là để cầu nguyện cho các linh mục". Năm 1895, chị được cử làm "chị linh hướng" cho một chủng sinh có ý hướng đi truyền giáo, thầy Bellière, và năm sau, thầy này có thêm một "anh linh hướng", cha P. Roulland, thuộc Hội Truyền Giáo. Tháng 11 năm 1896, chị làm tuần chín ngày kính thánh tử đạo Théophane Vénard († 1861) để xin ơn được đi truyền giáo ở Đông Dương, nhưng không lâu sau chứng xuất huyết phổi của chị tái phát. Chị trút hơi thở cuối cùng ngày thứ năm 30 tháng 9, 1897, lúc 7 giờ 20 tối, sau một cơn hấp hối kéo dài hai ngày.
Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh cho chị ngày 17 tháng 5 năm 1925 tại Đại Thánh Đường Phêrô ở Rôma, và ngày 14 tháng 12 năm 1927, ngài công bố thánh nữ Têrêxa là bổn mạng tất cả các nhà truyền giáo, nam cũng như nữ, và của tất cả các xứ truyền giáo trên toàn thế giới. Ngày 3 tháng 5 năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố thánh Têrêxa là bổn mạng phụ của nước Pháp, ngang hàng với thánh nữ Jeanne d'Arc.
Nhân dịp Ngày quốc tế giới trẻ lần thứ 12 diễn ra tại Paris, Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II đã tôn phong Thánh nhân lên bậc Tiến Sỹ Hội Thánh vào ngày 19 tháng 10 năm 1987.
Ngày 19 tháng 10 năm 1997, thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu được ĐGH Gioan Phalô II trao tặng danh hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Ngài là người trẻ nhất (24 tuổi) trong 3 vị nữ thánh được trao tặng danh hiệu này.[1]
Nhìn vào cuộc đời của chị Têrêsa chúng ta chắc không khỏi ngạc nhiên thắc mắc: “Đâu là điều khiến chị có được danh hiệu ấy?”; bởi cuộc đời chị quá đơn giản và bình thường, chẳng có chi là nổi trội. Thậm chí có người còn nhận xét: “Có lẽ với cuộc đời ấy chị đã chìm vào quên lãng, nếu không để lại cuốn tự thuật ‘Truyện một tâm hồn’ mà chị viết vì vâng phục.”[2]
Thật vậy, Têrêsa được sinh ra (1873) và được nuôi dưỡng trong một bầu khí đầy mộ đạo của một gia đình truyền thống nước Pháp. Nét mộ đạo truyền thống ấy được biểu hiện qua việc cả 5 chị em gái trong gia đình đều là nữ tu cả. Được hít thở trong bầu khí đạo đức kia, năm 15 tuổi (1888), Têrêsa gia nhập Dòng kín Carmel ở Lisieux. Ở đây, với bầu khí êm ả, lành thánh của tu viện kín, chị sống tiếp 9 năm còn lại của cuộc đời vắn vỏi. Có lẽ biến cố đáng kể nhất trong 24 năm sống mà chúng ta nhìn thấy được nơi chị là 18 tháng cuối đời chị phải chiến đấu với bệnh lao phổi nặng.[3]
Thế nhưng, sự vĩ đại của một vị thánh đâu hệ ở những biến cố hay những công trạng vang dội, song cốt ở việc họ thuộc về Chúa[4] đến mức nào mà thôi. Chị Têrêsa Nhỏ đã minh chứng cho chân lý ấy cách mạnh mẽ và đầy hồn nhiên bằng những dòng nhật ký của mình.
Chị viết xuống ước mơ của chị:
“Phần con, con vẫn một lòng quả cảm muốn làm đại thánh. Con không cậy công con, có đâu mà cậy; con hoàn toàn cậy trông ở Chúa là sức mạnh, là chính sự thánh thiện. Những cố gắng nhỏ nhặt của con cũng làm Chúa vui lòng. Người sẽ nâng đỡ con lên tới Người, Người sẽ lấy công nghiệp cực trọng Người mà bù đắp cho con. Người sẽ làm con nên thánh.”[5]
Không chỉ mơ mộng suông, Têrêsa còn sống lý tưởng kia trong đời thực bằng những hy sinh, tập rèn nhân đức. Có bận, khi đang giặt đồ, một Soeur cứ làm bắn nước bẩn vào mặt Têrêsa. Têrêsa vô cùng khó chịu. Chị muốn lùi ngay ra, lau mặt như để “giằng mặt” Soeur ấy. Nhưng rồi chị cố nén mình, không tỏ vẻ khó chịu gì hết, và cứ để nước bẩn ấy bắn lên mặt. Chị giải thích nguyên do như sau: “Con là một linh hồn rất nhỏ mọn, chỉ biết dâng lên Chúa những việc rất nhỏ mọn thế thôi. Thật là việc hèn mọn chẳng đáng gì, song đã mang lại cho con được bình an vui vẻ trong lòng.”[6] Một lần khác, khi đang là phụ tá giáo tập, Têrêsa đã “được” các chị em nhà Tập “góp ý” cách thẳng thắn về những khuyết điểm cũng như những điều các chị em ấy không ưa không thích nơi Têrêsa. Têrêsa đã đau khổ gọi nó là “một đĩa rau trộn, trộn rất nhiều giấm và thêm thắt nhiều vị đắng chát… đĩa rau trộn chẳng thiếu gì, chỉ thiếu chất dầu, một chất không có không thành rau trộn, chỉ thành một món chưa có tên gọi.”[7] Đối mặt với “đĩa rau trộn” này, chị Têrêsa lại coi đó như là “cách thức Chúa chăm sóc gìn giữ chị. Chúa chỉ muốn chị phải nén lòng bên trong, phải khiêm nhượng thật trong linh hồn.”
Với những tập rèn nho nhỏ ấy suốt 8 năm ròng trong tu viện, Têrêsa đã có thói quen “mỉm cười trước và trong đau khổ”. Thế nên, trong những ngày tháng cuối đời trên giường bệnh, dù liên tục ho ra máu, dù đau đầu như thể không làm chủ được mình, chị thánh vẫn hằng giữ được nụ cười trên môi. Bởi tận sâu trong thâm tâm mình, chị xác tín một điều rằng: “Một trinh nữ muốn hy sinh cho Tình Ái mà còn ghê sợ chút quà Bạn Thánh gởi cho sao? Lúc nào chịu nổi ngần nào, Bạn Thánh gởi cho ngần ấy, không bao giờ phải lo quá, giả như chốc nữa Người gởi thêm đau đớn, Người cũng sẽ gởi thêm sức chịu đựng. Tuy nhiên, chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi cho đau khổ cả thể, vì sức con hèn yếu lắm. Con mà xin như thế, những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh lấy; nhưng sức riêng con có làm nên trò trống gì bao giờ?”[8]
Như thế đấy, nếu ví cuộc đời chị thánh với một bản nhạc, thì chắc bản nhạc ấy đều đều, buồn buồn, trầm trầm. Song, dường như trong từng nốt nhạc lại chuyên chở rất nhiều tâm ý của người nữ nhạc sĩ Têrêsa. Hay nói khác đi, chị đã thổi được hồn vào trong những chuỗi âm thanh đơn điệu kia. Cái hồn ấy là ao ước nên thánh, là mối tình của chị với Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất.
Cuộc sống là thế, luôn cần những tâm hồn, luôn cần những tấm lòng. Và sự rung động của tâm hồn này sẽ gợi hứng và làm cho những tấm lòng khác cũng vỗ nhịp theo. Có phải vì thế mà Trịnh Công Sơn đã hát lên đầy xúc cảm rằng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng… Hãy nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình, chỉ lặng nhìn không nói năng.”[9]?
-----------------------
[1] Hai vị khác là: thánh Têrêsa thành Avila (1515-82), và thánh Catarina thành Siêna (1347-80).
[2] David Hugh Farmer, The Oxford Dictionary of Saints, 2nd edition, (Oxford: Oxford University Express, 1987), p. 405.
[3] http://en.wikipedia.org/wiki/Thérèse_of_Lisieux (19 September 2013, 21h30). [4] “Thánh” có nghĩa là: thuộc về Chúa, dành riêng cho Chúa. [5] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 1, chương 4. [6] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 2, chương 10. [7] Như trên. [8] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 2, chương 12. [9] Lời ca khúc “Để Gió Cuốn Đi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
"Tôi thích chấp nhận sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là trải qua những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn." Ðó là những lời của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu dòng Camêlô thường được gọi là "Bông hoa nhỏ," người đã sống một đời âm thầm trong tu viện ở Lisieux, nước Pháp. Và quả thật, những hy sinh âm thầm của ngài đã hoán cải các linh hồn. Không mấy vị thánh của Thiên Chúa nổi tiếng như vị thánh trẻ trung này. Cuốn tự truyện của ngài, Chuyện Một Linh hồn, được cả thế giới đọc và yêu chuộng. Tên thật của ngài là Thérèse Martin, gia nhập tu viện năm 15 tuổi và từ trần năm 1897 lúc 24 tuổi.
Ðời sống tu viện dòng kín Camelô không có sức cuốn hút bởi các biến cố lớn, mà phần lớn chỉ gồm sự cầu nguyện và làm các công việc trong nhà. Nhưng thánh Têrêsa có được trực giác sâu sắc về sự thánh thiện của những bông hoa tình yêu nhỏ bé để cứu chuộc quãng thời gian thường ngày ấy, bất kể có nhàm chán đến đâu. Ngài nhìn thấy sự đau khổ có khả năng cứu chuộc trong chính sự đau khổ âm thầm, sự đau khổ chính là sứ mạng tông đồ của ngài. Thánh nữ nói ngài gia nhập tu viện Camêlô là "để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục." Và không lâu trước khi chết, ngài viết: "Tôi muốn dùng thời gian ở thiên đàng để làm những điều tốt lành cho trần gian."
Vào ngày 19-10-1997, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố ngài là Tiến sĩ Hội Thánh, là người phụ nữ thứ ba trong Giáo hội được nhìn nhận là tiến sĩ dựa vào ánh sáng của sự thánh thiện và tầm ảnh hưởng của lời ngài dạy về đời sống thiêng liêng trong lòng Hội Thánh.
Lời bàn
Thánh Têrêsa có nhiều điều để dạy thời đại chúng ta, thời đại của sự hào nhoáng bề ngoài và của “sự thất vọng”. Chúng ta đã trở thành những con người sống một thứ ý thức về bản thân mình theo một hướng rất nguy hiểm: Một đàng ta biết cái nhu cầu là mình phải được hoàn thành trọn vẹn, nhưng đàng khác ta biết mình chẳng phải là thế, thế rồi ta đâm trở nên thất vọng. Thánh Têrêsa, cũng như bao vị thánh khác, đã tìm cách phục vụ người khác, thực hiện những gì ở ngoài bản thân mình, quên mình đi trong những hành động thầm lặng của tình yêu. Ngài là một trong những tấm gương vĩ đại của những con người đã biết ôm ấp lấy cái nghịch lý của Tin Mừng là chiếm lại cuộc sống của mình khi mình chấp nhận mất nó đi, là nên như hạt giống ném vào lòng đất để chịu chết thối đi hầu nảy mầm sự sống mới (Xem Ga 12).
Sự lo lắng đối với bản thân đã tách biệt con người nam nữ thời nay với Thiên Chúa, với đồng loại và thực sự xa rời với chính mình. Chúng ta phải học cách quên mình, để về một Thiên Chúa là Ðấng mời gọi chúng ta thoát ra khỏi sự ích kỷ để phục vụ người khác. Ðây là cái trực giác sáng suốt của thánh Têrêsa Lisieux, và ngày nay trực giác này có giá trị hơn bao giờ hết.
Lời trích
Thánh Têrêsa phải chịu đau khổ vì bệnh hoạn trong suốt cả cuộc đời. Khi còn là một thiếu nữ trẻ, ngài phải trải qua ba tháng đau từng cơn, mê sảng và ngất xỉu. Sau đó, dù yếu ớt nhưng ngài làm việc vất vả trong phòng giặt quần áo và phòng ăn của tu viện. Về phương diện tâm linh, ngài phải trải qua một thời kỳ tăm tối khi ánh sáng đức tin dường như tắt ngúm. Năm cuối cùng của cuộc đời, ngài chết dần vì ho lao. Tuy nhiên, không lâu trước khi chết vào ngày 30-9, ngài thì thào "Tôi không muốn bớt đau khổ."
Thực sự ngài là một phụ nữ dũng cảm, không rên rỉ vì bệnh tật và lo âu. Ðây là một người nhìn thấy sức mạnh của tình yêu, mà sự biến đổi của Thiên Chúa có thể thay đổi mọi sự kể cả sự yếu đuối và bệnh tật thành sức mạnh phục vụ và Cứu chuộc cho người khác. Không lạ gì ngài là quan thầy của công cuộc truyền giáo. Còn ai có thể thay đổi thế giới ngoài những người ôm ấp sự đau khổ của mình với tình yêu?
Gần đến lễ mừng kính thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, xin mời mọi người chúng ta cùng lược đọc chút ít tâm sự và chọn lựa từ “ái nữ của Hội Thánh”. Đây thực sự là những tâm sự hết sức khôn ngoan từ chị thánh.
Têrêsa vào đan viện Cát Minh lúc tuổi đời chỉ mới mười lăm, và đã qua đời chín năm sau đó vào ngày 30 tháng 9 năm 1897. Chị hoàn toàn không được thế giới biết đến bên ngoài vòng tròn những người thân trong gia đình và các nữ tu trong đan viện. Tuy thế, cuộc đời của chị đã được biết đến qua tác phẩm Truyện Một Tâm Hồn.
Dưới đây xin được trích đoạn về cách thức vị thánh vĩ đại này đã chọn sống ơn gọi mình ra sao:
“Em đã mở các thư của Thánh Phaolô ra để tìm phương giải cứu. Các chương 12 và 13 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô đập ngay vào mắt em. Em đọc thấy rằng không phải mọi người đều là tông đồ, ngôn sứ và tiến sĩ, v.v… rằng Hội Thánh là một thân thể gồm nhiều bộ phận khác nhau và mắt không thể đồng thời là tay. Câu trả lời đã rõ nhưng không làm thỏa mãn các ước vọng của em, nó không mang lại cho em bình an…. Nhưng như thánh Gioan Thánh Giá đã nói, “nhờ cúi xuống tận đáy thẳm hư vô của mình, em vươn lên cao mãi cho tới khi em đạt tới mục đích của mình.” Em tiếp tục đọc và gặp được câu này: “Hãy tha thiết tìm kiếm những ơn cao trọng. Và đâytôi xin chỉ cho anh em đường trổi vượt hơn cả.” (1 Cr 12:31). Và thánh Tông Đồ cắt nghĩa tại sao mọi ơn cao trọng nhất đều chẳng là gì cả nếu không có Tình Yêu và Đức Ái là con đường trổi vượt dẫn tới Thiên Chúa một cách chắc chắn. Cuối cùng em đã tìm thấy được sự nghỉ yên.
Khi suy nghĩ về Thân Miình Mầu Nhiệm của Hội Thánh, em không nhận ra mình trong bất cứ bộ phận nào mà thánh Phaolô miêu tả, hay đúng hơn em muốn nhận ra mình trong tất cả các bộ phận… Đức Ái cho em chìa khóa của ơn gọi em. Em hiểu rằng nếu Hội Thánh có một thân thể, gồm các bộ phận khác nhau, không thể thiếu bộ phận cần thiết nhất, cao trong nhất, thì em cũng hiểu rằng Hội Thánh có một Trái Tim, và Trái Tim này chính là Tình Yêu bốc lửa. Em hiểu rằng chỉ có Tình Yêu làm cho các bộ phận của Hội Thánh hoạt động, rằng nếu Tình Yêu ấy tắt đi, thì các Tông Đồ sẽ chẳng còn rao giảng Tin Mừng nữa, các vị Tử Đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra… Em hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi Ơn Gọi, rằng Tình Yêu là tất cả, nó bao trùm mọi thời gian và mọi không gian… tóm lại, Tình Yêu là Vĩnh Cửu!
Thế là trong vui sướng mê mẩn tột độ, em đã la lên: Ôi Giêsu Tình Yêu của em… cuối cùng em đã tìm thấy ơn gọi của em, ơn gọi của em chính là tình yêu!… Trong Trái Tim của Hội Thánh là Mẹ con, con sẽ là Tình Yêu…vì thế con sẽ là tất cả… vì thế giấc mở của con sẽ trở thành hiện thực!… Tại sao em lại nói đến một niềm vui sướng mê mẩn, không, nói thế này không đúng, đúng hơn là sự bình an thanh thản và thư thái của người đi biển khi nhìn thấy ngọn hải đăng sẽ dẫn họ đến bến…. Ôi ngọn Hải Đăng sáng rực của Tình Yêu! Em đã biết làm thế nào để đến được với Người rồi, em đã tìm ra được bí quyết để chiếm đoạt ngọn lửa của Người rồi.
Những hành động vĩ đại không thích hợp với em. Em không thể giảng về Tin Mừng cũng chẳng thể đổ máu mình ra,- nhưng điều có hệ gì? Vì những người anh em của em đã lao nhọc thay em rồi. Phần em, một đứa trẻ, em chỉ ở gần ngai tòa của Thiên Chúa và em yêu mến thay cho những ai đang chiến đấu.
Không có điều chi làm em sợ hãi nữa…. Nếu những áng mây dày đặc che khuất Mặt Trời, và dường như không có gì tồn tại bên ngoài bóng đêm của cuộc đời này, thì thật ra đó phải là khoảnh khắc của niềm vui tuyệt hảo, khoảnh khắc để cảm nhận niềm tin tưởng trọn vẹn và để ở thật yên lặng, an toàn trong sự nhận biết rằng Mặt Trời đáng tôn thờ của em vẫn chiếu sáng phía bên kia đám mây.”
Qua phần tìm hiểu sáng hôm nay, tôi muốn nhìn thánh nữ Têrêsa như là một mẫu gương sống Lời Chúa.
Thực vậy, trước hết thánh nữ Têrêsa rất yêu mến Kinh Thánh, ngài thường mang Phúc Âm đêm ngày trên ngực và năng đọc Phúc Âm đến nỗi gần như đã thuộc lòng. Mẹ Agnes de Jésus kể lại rằng: Ngày 12.9.1897, tức là 18 ngày trước khi qua đời, thánh nữ xin mẹ đọc cho nghe bài Phúc Âm Chúa nhật. Vì không có sách lễ nên Mẹ bề trên nói với Têrêsa: Đó là đoạn Phúc Âm Chúa dạy chúng ta không được làm tôi hai chủ. Bấy giờ thánh nữ bèn bắt chước giọng một em bé bị khảo bài, đã đọc từ đầu đến cuối đoạn Phúc Âm đó.
Không những siêng năng đọc Kinh Thánh mà ngài còn cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và nhất là dùng Kinh Thánh làm đề tài để suy niệm. Một hôm chị Genevière vào phòng thánh nữ Têrêsa và ngỡ ngàng trước thái độ chăm chú hồi tâm của ngài. Chị thấy Têrêsa đang may vá nhanh nhẹn mà vẫn như đắm chìm trong một cuộc chiêm niện sâu xa, nên đã hỏi xem Têrêsa đang suy nghĩ những gì, thì Têrêsa trả lời: Em kinh Lạy Cha. Thật êm ái biết bao khi được gọi Thiên Chúa là cha của mình. Vì năng suy gẫm Kinh Thánh như vậy, nên ngài đã khám phá ra những ý nghĩa tiềm ẩn trong Kinh Thánh và biết ứng dụng một cách thật lạ lùng vào đời sống. Trong một bức thư, thánh nữ đã viết: Chỉ một lời Kinh Thánh mà thôi cũng đã mở ra cho con những chân trời vô biên.
Đọc Kinh Thánh, tìm hiểu Kinh Thánh, Kinh Thánh mà thôi vẫn chưa đủ, điều quan trọng là Têrêsa đã sống Lời Chúa. Chính ngài đã cho chúng ta biết ngài đã tìm ra con đường thơ ấu thiêng liêng như thế nào. Ngài luôn nghĩ rằng chỉ trong Kinh Thánh ngài mới có thể tìm ra điều giúp đỡ ngài thẳng tiến trên con đường thánh thiện. Ngài mở Kinh Thánh và đọc thấy lời này trong sách Châm Ngôn: Ai thật bé nhỏ thì hãy đến với Ta. Một trực giác siêu nhiên cho Têrêsa biết là đã tìm thấy điều mong ước. Một người khác, không phải Têrêsa, có lẽ đã ngừng lại đó, nhưng Têrêsa chưa lấy làm đủ, ngài muốn biết điều Chúa sẽ làm cho kẻ thật bé nhỏ, đã đáp lại tiếng Chúa. Têrêsa tiếp tục tìm kiếm và đã gặp trong sách Isaia lời sau đây: Như một người mẹ nâng niu con mình thế nào, Ta cũng sẽ an ủi con như thế. Ta sẽ ôm con vào lòng và ru con trên đầu gối. Têrêsa đã thấy được điều muốn tìm. Nếu dừng lại ở đây, chỉ coi những lời vừa đọc như là những tư tưởng cao đẹp, thì có lẽ Têrêsa đã không nên thánh. Nhưng Têrêsa quyết tâm sống Lời Chúa, đem Lời Chúa mới được khám phá thể hiện trong cuộc sống hằng ngày.
Với ơn Chúa soi sáng, với những suy tư và với chính cuộc đời của mình, Têrêsa đã tìm ra cách sống của những tâm hồn bé nhỏ. Ngài viết: “Ở bé nhỏ là không coi những nhân đức mình luyện tập được như là của mình. Không nghĩ tự mình có thể làm được việc gì, nhưng nhận biết rằng Chúa đã đặt kho tàng đó trong bàn tay người con nhỏ để sử dụng khi cần. Sự thánh thiện không hệ tại làm việc đạo đức nay hay việc đạo đức kia, nhưng hệ tại ở tâm tình bên trong làm ta trở nên khiêm nhường và bé nhỏ”. Trong Phúc Âm chính Chúa đã nói: Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ không được vào Nước Trời. Và: Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ người ấy sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Nói đến trẻ nhỏ là chúng ta nghĩ ngay tới một cái gì đơn sơ và trong trắng, tin yêu và phó thác. Chính vì thế, noi gương thánh nư, chúng ta hãy siêng năng đọc Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, suy gẫm và thực thi những điều Chúa truyền dạy, nhất là sống tinh thần ấu thơ trong tin yêu và phó thác, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Nhìn vào cuộc đời của thánh nữ Têrêsa, chúng ta không thấy được những hành động to tát hay những mẫu gương sáng chói. Con đường thánh nữ đã đi là con đường ấy thơ, ngập tràn những bông hoa của tin yêu và phó thác. Thánh nữ luôn sống dưới cái nhìn trìu mến của Thiên Chúa và cố gắng chu toàn những bổn phận tầm thường, những công việc không tên của một nữ tu dòng kín.
Vậy tại sao Giáo hội lại tôn kính thánh nữ như một bậc đại thánh và đặt thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo?
Thực vậy, với hai mươi bốn tuổi đời, không bước chân ra khỏi những bức tường của tu viện, không bôn ba nơi những vùng đát xa lạ để rao giảng Tin mừng cho dân ngoại, như thánh Phanxicô Xaviê, người đã hiến trọn cuộc đời cho những hành trình truyền giáo, từ Nhật Bản cho tới Ấn Độ, thế nhưng Têrêsa đã được đạt ngang hàng với Phanxicô. Sở dĩ như vậy là vì Giáo hội đã thực sự nhìn thấy giá trị tuyệt vời của con đường thánh nữ đã đi, của phương thế thánh nữ đã dùng để dẫn đưa các linh hồn trở về cùng Thiên Chúa.
Vậy con đường ấy, phương thế ấy là gì?
Trước khi đề cập tới con đường và phương thế truyền giáo của thánh nữ, chúng ta cùng nhau tìm hiểu sơ qua về bổn phận tông đồ của mỗi người chúng ta.
Phúc Âm kể lại: ngày kia, khi đi ngang qua một cánh đồng, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn những bông lúa vàng và nói với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ sai thợ đi gặt lúa về.
Rồi trước khi về trời, Ngài đã chính thức trao cho các ông sứ mệnh lên đường truyền giáo:
- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mơ ước của Ngài là mơ ước của một ngọn lửa. Thực vậy. Ngọn lửa thì nhỏ bé, nhưng mơ ước của nó thật lớn lao vì nó muốn thiêu đốt tất cả. Chúa Giêsu cũng muốn mọi người nhận biết Ngài để rồi qui tụ về với Ngài, hầu chỉ còn một đàn chiên và một chủ chiên.
Vì thế, bổn phận truyền giáo không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng còn phải là một bổn phận chung của hết mọi người tín hữu chúng ta. Bởi vì một khi đã sống trong lòng Giáo hội, chúng ta có trách nhiệm phải làm cho Giáo hội được lớn mạnh, được phát triển không ngừng. Một khi đã là con cái Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải làm cho mọi người nhận biết Ngài.
Để chu toàn bổn phận và trách nhiệm này, chúng ta có thể dùng lời nói để rao giảng Tin mừng như các thánh tông đồ và như các vị thừa sai. Tuy nhiên, đây không phải là phương thế của thánh nữ Têrêsa, bởi vì thánh nữ luôn sống trong khuôn viên nhà dòng.
Chúng ta có thể dùng việc làm, dùng đời sống gương mẫu để làm chứng cho Chúa. Và đây phải là phương pháp của mổi người chúng ta, bởi vì sống giữa lòng cuộc đời, chúng ta phải trở nên như ánh sáng trong đêm tối, như men trong bột và như muối trong thức ăn. Tuy nhiên, đây cũng không phải là phương thế của thánh nữ Têrêsa.
Phương thế chính yếu thánh nữ đã sử dụng đó là cầu nguyện và hy sinh.
Thực vậy, ngay từ hồi còn tấm bé, thánh nữ đã muốn vào dòng kín để chịu đau khổ và cầu nguyện cho Giáo hội, cho các linh mục, cho các thừa vị sai và cho các linh hồn.
Trong cuốn tự thuật mang tựa đề “Chuyện một tâm hồn”, thánh nữ đã ghi lại ước vọng sâu xa muốn được sang sống tại nhà kín Hà Nội, một xứ truyền giáo đầy triển vọng. Có lẽ vì thế mà chúng ta, những tín hữu Việt Nam, đã dành cho thánh nữ những tình cảm đặc biệt?
Lời cầu nguyện và những hy sinh của thánh nhân là như một sự yểm trợ rất cần thiết cho những hoạt động tông đồ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Mừng kính thánh nữ Têrêsa, chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để cứu vớt các linh hồn, cũng như để góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội?
Thánh Nữ Têrêxa sinh tại Alencon bên Pháp năm 1873. Cha Mẹ ngài là ông bà Louis Martin và Zélie Guérin rất đạo đức, đã được Bộ Phong Thánh nhìn nhận các nhân đức anh hùng, và Bộ cứu xét phép lạ để hoàn tất tiến trình điều tra phong chân phước. Ông bà có 9 người con nhưng 4 người chết sớm. Trong 5 người con gái còn lại, Têrêxa là con út: 4 người vào dòng kín Camêlô và Léonine đi tu dòng Thăm Viếng.
Têrêxa mồ côi mẹ năm lên 4 tuổi, và gia đình dọn về thành Lisieux. Têrêxa có ý định đi vào dòng kín tại đây mặc dù tuổi còn nhỏ. Nhưng gia đình cũng như Đức cha Hugonin đều chống lại dự án này nên Têrêxa quyết định xin phép thẳng với ĐGH. Năm 1887, cùng với cha và chị Céline, Têrêxa đi hành hương Roma và trong buổi tiếp kiến ngày 20 tháng 11 năm 1887, Têrêxa xin ĐGH Leo XIII cho phép vào dòng kín mặc dù lúc đó mới được 14 tuổi. Nhưng cô chỉ nhận được một câu trở lời mơ hồ và được dẫn ra ngoài, nước mắt dàn dụa.
Trở về Lisieux, Têrêxa được phép ĐGM cho vào dòng kín vào ngày 9-4-1888, lúc đó chị mới được 15 tuổi và 3 tháng. 24 nữ tu tiếp đón Têrêxa. Cuộc sống trong đan viện có nhiều cam go về mặt vật chất cũng như về kỷ luật. Chị Têrêxa ngày càng tiến triển trên con đường yêu mến Chúa. Ước muốn cứu rỗi các linh hồn thúc đẩy Têrêxa định xin tới dòng kín Camêlô ở Sàigon, nhưng vì bệnh lao phổi, nên chị Têrêxa phải bỏ ý định này và từ tháng 4 năm 1897, Têrêxa không thể tham dự đời sống cộng đoàn nữa. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 lúc mới được 24 tuổi đời. Chỉ 27 năm sau đó, Đức Pio XI đã tôn phong Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên bậc hiển thánh và 2 năm sau ngài tôn thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo, giống như thánh Phanxicô Xavie, Tông đồ miền Viễn Đông.
Các tác phẩm của Thánh Têrêsa
Ngày 30 tháng 9 năm 1898, tức là đúng một năm sau khi Chị Têrêxa qua đời, Mẹ Agnès Chúa Giêsu và Mẹ Marie Gonzague đã cho ấn hành theo thông lệ một thư luân lưu về nữ tu quá cố và gửi tới tất cả các đan viện kín Camêlô. Chỉ khác một điều là bức thư này dày tới 476 trang. Tác phẩm đó mang tựa đề “Truyện một tâm hồn” và trở thành cuốn sách bán chạy nhất. Cuốn sách này được Mẹ Agnès soạn lại dựa trên 3 thủ bản A, B, C. Mãi tới năm 1956, cha Francois de Sante Marie mới trình bày bản phê bình, gồm các nguyên bản với phần dẫn nhập và chú thích.
+ Thủ bản A là tác phẩm được Têrêxa viết ra theo lời yêu cầu của Mẹ Agnès để kể lại những năm đầu tiên trong cuộc đời thánh nữ. “Truyện mùa xuân của một bông hoa trắng nhỏ”, do Têrêxa dùng những giờ phút rảnh rỗi giữa công việc và kinh nguyện để viết lại.
+ Thủ bản B được Thánh Nữ Têrêxa kết thúc vào trung tuần tháng 9 năm 1896: Trong một cuộc tĩnh tâm trong cô tịch, Têrêxa nhận được lá thư của chị Marie Thánh Tâm xin Têrêxa chia sẻ những ánh sáng thiêng liêng đã nhận được trong cuộc tĩnh tâm ấy. Ngay ngày hôm ấy, 13-9-1896, Têrêxa trả lời cho chị Marie, thông báo cho chị kinh nguyện dài mà Têrêxa đã viết ngày 8-9-1896 trước đó để kỷ niệm ngày khấn dòng, đồng thời kèm theo một thư dài. Thư này cùng với kinh nguyện vừa nói họp thành điều mà người ta gọi là “Thủ Bản B”. Trong thủ bản này Têrêxa cũng kể lại một giấc mơ và mô tả các mong ước, các ơn gọi mà Têrêxa ước mong được sống.
+ Thủ bản C do Têrêxa viết ra trong những tháng trước khi qua đời và lần này chị cũng viết vì đức vâng lời. Sứ mạng huynh đệ mà Têrêxa mô tả chính là một chứng tá sâu xa về đặc sủng Camêlô do Thánh Nữ Têrêxa Avila đã đề xướng khi cải tổ dòng Camêlo.
Ngoài ra, còn có các Thư của Têrêxa được công bố toàn bộ vào năm 1948, gồm 266 thư và miếng giấy nhỏ để ghi.
Các thư này được gửi cho những người thân yêu trong gia đình, 7 giáo sĩ, 3 tu huynh và hai bạn gái. Còn thiếu khoảng 60 thư Thánh Nữ Têrêxa viết cho cha giải tội và một số thư viết cho các “người anh thừa sai”. Tất cả các thư cho thấy, mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng Têrêxa đã thi hành nhiệm vụ hướng dẫn các linh hồn qua các thư từ đó.
Tập vở vàng gọi là Những Lời Sau Cùng, là tập hợp các lời cuối cùng của Têrêxa ghi lại trên cuốn vở của Mẹ Agnès. Tập này được chính Mẹ Agnès soạn lại, qua đó người ta thấy được chân dung của Thánh Nữ Têrêxa như một phụ nữ bị đóng đinh và chịu đau khổ khôn lường.
Năm 1952, cuốn Huấn dụ và Ghi niệm được công bố, rút từ những tuyên bố mà các nữ tập sinh dòng kín Camêlô ở Lisieux đã cung khai trong cuộc điều tra phong chân phước cho Têrêxa.
Thánh nữ Têrêxa cũng viết 54 bài thơ, được thu thập lại và trình bày trong ấn bản phê bình vào năm 1979. Ngày nay, sau 20 năm trời nghiên cứu, toàn bộ các tác phẩm của Thánh nữ Têrêxa đã được xuất bản theo nguyên tắc phê bình khoa học và được dịch ra các thứ tiếng.
Sứ Điệp Của Thánh Têrêsa Cho Thời Nay
Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng đã khám phá và sống trọn con đường tình yêu, con đường thơ ấu trong Phúc Âm. Chính con đường đó đã dẫn đưa Têrêxa tới đỉnh cao thánh thiện và trở thành “Tiến Sĩ Hội Thánh”, tức là bậc thầy về đàng thiêng liêng. Têrêxa đã ý thức về sự bất toàn và nhỏ bé của mình, nên biết rằng mình không thể nên hoàn thiện với sức riêng. Têrêxa đã tìm thấy trong Phúc Âm chân lý về sự “nhỏ bé”, hoàn toàn tín thác nơi tình yêu Chúa, không cần phải trở nên “cao trọng”, nhưng trở nên bé nhỏ trong vòng tay của Chúa.
Trong bài thuyết trình tại Lisieux hồi cuối tháng 9-1996, ĐHY Paul Poupard, người Pháp, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn hóa, đã nêu những nét nổi bật trong sứ điệp của Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng cho nhân loại ngày nay như sau:
“Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy” (1 Jn 4,16). Têrêxa không ngừng suy niệm về những lời trên đây của thánh Gioan và của Tin Mừng, để từ tâm hồn thánh nữ nảy sinh những trang nồng cháy tình yêu đối với Chúa Giêsu, những trang sách này như một tiếng vọng Con Tim của Chúa: ‘Tôi hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi ơn gọi. Tình Yêu là tất cả; Tình Yêu tóm gọn mọi thời gian và không gian. Trong con tim của Giáo Hội là Mẹ Tôi, tôi sẽ là tình yêu’ (…).
“Vậy ai trở nên bé nhỏ như trẻ em ấy, sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời (…). Tại sao trở nên bé nhỏ? Thưa để chọn con đường thơ ấu được thánh nữ Têrêxa tái khám phá, và thánh nữ đã vẽ lại khi khám phá tình yêu của Thiên Chúa. Quan niệm của thánh nữ về Giáo Hội thật là độc đáo và táo bạo: trong con tim của Giáo Hội là Mẹ tôi, tôi sẽ là Tình Yêu. Khi Têrêxa mô tả viễn tượng lớn lao trên đây cho chị ruột là Maria Thánh Tâm ngày 8 tháng 9 năm 1896, thánh nữ đã 23 tuổi và chỉ còn sống được một năm nữa. Chắc hẳn thánh nữ phải có một nhận thức sâu xa về Thiên Chúa cũng như về Giáo Hội nên mới có thể quả quyết rằng Giáo Hội có một con tim, và trái tim ấy nồng nhiệt tình yêu. Chúng ta hãy đọc lại những lời tuyệt diệu đó, vừa đơn sơ và sâu xa, được sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo (n. 826) lấy lại:
“Tôi hiểu rằng nếu Giáo Hội có một thân mình, gồm những chi thể khác nhau, thì chi thể cần thiết nhất, cao thượng nhất trong tất cả các chi thể mà Giáo Hội không thể thiếu được, tôi hiểu rằng Giáo Hội có một Trái Tim, và Trái Tim ấy nồng cháy Tình Yêu. Tôi hiểu rằng Chỉ có Tình Yêu mới làm cho các chi thể của Giáo Hội hành động, và nếu Tình Yêu ấy tắt lịm đi, thì các Tông Đồ sẽ không còn rao giảng Phúc Âm nữa, các vị Tử Đạo sẽ từ chối không đổ máu đào… Tôi hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi ơn gọi. Tình Yêu là tất cả; Tình Yêu tóm gọn mọi thời gian và không gian… Nói tắt một lời, Tình Yêu là vĩnh cửu! Lúc ấy tôi kêu lên: Lạy Chúa Giêsu, tình yêu của con, ơn gọi của con, nay con đã tìm được rồi, ơn gọi của con chính là Tình Yêu. Thực vậy, con đã tìm được chỗ của con trong Giáo Hội, và chỗ đó, lạy Chúa, chính Chúa đã cho con. Trong con tim của Giáo Hội là Mẹ con, con sẽ là tình yêu’ (…).
“Là Tiến sĩ Tình Yêu, thánh nữ Têrêxa từng biết rõ thử thách của đức tin trong một thế giới bị nghi ngờ và vô tín ngưỡng vây bủa. Về phương diện đó, thánh nữ Têrêxa có tính chất hết sức thời sự, trong một nền văn hóa quá chú trọng đến các phương tiện nhưng ít quan tâm tới mục đích, tạo nên sự bất mãn sâu xa, gây nên sự trống rỗng sâu rộng, gợi lên tiếng kêu lo âu. Nhiều người ngày nay cảm thấy mang máng tiếng gọi của Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ một mình Chúa mới có thể đáp ứng thực sự những mong đợi của con tim và trí tuệ loài người, trong cuộc tìm kiếm tình thương và chân lý, ánh sáng và sự tươi đẹp. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói ở Lisieux: ‘Chúng ta cảm tạ Chúa vì thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Cảm tạ vì vẻ đẹp sâu xa, đơn sơ và trong trắng, được biểu lộ nơi thánh nữ cho Giáo Hội và thế giới. Vẻ đẹp này có sức quyến rũ. Và Thánh nữ Têrêxa thành Lisieux có một ơn đặc biệt thu hút bằng vẻ đẹp của tâm hồn ngài’ (Lisieux 2-6-1980, trong cuốn Jean-Paul II, que fais-tu de ton baptême?, Le Centurion, Paris, 1980, p. 234).
“Thánh Nữ Têrêxa yêu mến Thiên Chúa với cùng tình yêu mà Chúa Cha yêu mến Chúa Con trong Chúa Thánh Linh. Thánh nữ nhìn tha nhân với cùng cái nhìn như thế, cái nhìn được tình yêu biến đổi hoàn toàn, nhưng nhiều khi bị những tâm hồn nô lệ tội lỗi coi rẻ: ‘Tôi cảm thấy ước muốn nồng nhiệt hoạt động cho sự hoán cải người tội lỗi’. (…)
“Tình yêu Chúa lớn lên nơi thánh nữ Têrêxa, được nuôi dưỡng bằng cái nhìn hướng về Chúa Giêsu: khi còn nhỏ dù khi đi câu với cha, dù khi ngồi trên lòng đầu gối của mẹ đỡ đầu, hoặc ẩn núp sau chiếc màn che giường, Têrêxa đều nghĩ tới Chúa Giêsu, tới trời cao… Về sau, Têrêxa hiểu rằng mình đã suy gẫm. Thánh nữ nói: ‘Chúa Nhân Lành đã bí mật dạy tôi’. Têrêxa sống và lớn lên trước nhan Chúa. Ngày thánh nữ rước lễ lần đầu, biết Đấng mà mình tiếp rước: Từ lâu Chúa Giêsu và cô bé Têrêxa hèn mọn này đã nhìn nhau và hiểu nhau… Hôm đó, không còn là cái nhìn bên ngoài nữa, nhưng là một sự kết hiệp thực sự, một sự chìm đắm sâu xa, như giọt nước bé nhỏ giữa lòng đại dương. Được Tình yêu Chúa chiếm hữu, Têrêxa được Tình Yêu Chúa luôn dẫn đưa theo chiều hướng Bonum diffusivum sui (Điều tốt lành tự lan tỏa), như người xưa vẫn nói. Tình yêu chỉ mong ước được trao hiến: Tôi cảm thấy tình bác ái đi vào trong tâm hồn tôi, nhu cầu phải quên mình để làm đẹp lòng, và từ đó tôi cảm thấy hạnh phúc. Đó không phải chỉ là hạnh phúc mà thôi, nhưng còn là niềm vui mừng sâu xa nữa. Têrêxa yêu Chúa bằng chính Tình yêu của Chúa. Nơi Ngài, thánh nữ khám phá cái nhìn của Thiên Chúa về người khác, cái nhìn của Đấng Tạo Hóa say mê tạo vật của mình. Têrêxa sống sâu xa mầu nhiệm Giáo Hội, mầu nhiệm các thánh thông công, trong đó tình yêu còn lớn lao hơn tình yêu gia đình, dù là gia đình lý tưởng nhất trên mặt đất này, như gia đình được triển nở ở Buissonnets.
“Một Chúa nhật kia, khi nhìn ảnh tượng Chúa Giêsu trên Thánh Giá, Têrêxa xúc động như thể máu đang chảy từ vết thương của mình. Têrêxa cảm thấy vang dội trong con tim tiếng kêu của chính Chúa Giêsu trên Thánh Giá: ‘Ta khát’. Têrêxa kể lại: ‘Những lời ấy khơi lên trong con một sự nồng nhiệt mãnh liệt chưa từng thấy… Con muốn cho Đấng con yêu mến được giải khát và con cảm thấy chính mình đang bị dằn vặt vì niềm khao khát các linh hồn. Bấy giờ con chưa bị thu hút vì linh hồn của các linh mục, nhưng là linh hồn của những người đại tội lỗi.’ Và Têrêxa quyết định vào dòng kín Camêlô, nơi Chúa Giêsu lôi kéo chị. Chính trong nhà dòng kín đó mà chiều kích tông đồ của chị được phát triển đặc biệt. Chị giúp việc đào tạo các tập sinh trong nhà dòng và đồng thời đảm trách việc hỗ trợ tinh thần cho hai thừa sai. Sự cởi mở đó thật phù hợp với sự quan phòng của Chúa: đó là dịp để Têrêxa khám phá và biểu lộ sứ mạng tông đồ của chị trong Giáo Hội. Ngày 18 tháng 8 năm 1890, chị Pauline của Têrêxa hỏi: ‘Vậy em có muốn lập công không?’. Têrêxa mau lẹ đáp: ‘Có chứ, nhưng không phải cho em, mà là cho những người tội lỗi đáng thương, cho các nhu cầu của Giáo Hội’. Thái độ dâng hiến cho Tình Yêu Từ Bi thật là rõ ràng: ‘Con không muốn tích trữ công đức cho mình để được lên trời, con muốn làm việc cho Chúa là Tình Yêu duy nhất… Con muốn nhận được từ Tình Yêu Chúa phần thưởng đời đời là chính Chúa’ (Sách Giáo Lý Công Giáo, n. 2011).”
Cũng vì đạo lý của Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng rất hợp thời với con người ngày nay như thế, nên 50 HĐGM trên thế giới, trong đó có cả HĐGM Hoa Kỳ, đã ủng hộ đơn xin ĐTC tôn phong thánh nữ Têrêxa Hài Đồng làm Tiến Sĩ Hội Thánh, như chính ĐTC Gioan Phaolô II đã nhắc đến trong công thức phong Tiến Sĩ:
“Đáp ứng mong ước của đông đảo anh em trong hàng Giám Mục và rất nhiều tín hữu trên thế giới, sau khi nghe ý kiến của Bộ Phong Thánh và được ý kiến của Bộ Giáo Lý Đức Tin liên quan tới đạo lý nổi bật, sau khi đã suy nghĩ chín chắn và xác tín đầy đủ và chắc chắn, với trọn quyền Tông Đồ, Tôi tuyên bố thánh nữ đồng trinh Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan là Tiến Sĩ của Giáo Hội hoàn vũ. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”
Trong bài giảng ngày lễ phong Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng làm Tiến Sĩ Hội Thánh, ĐTC ghi nhận rằng vị tân Tiến Sĩ là một phụ nữ, một nữ tu chiêm niệm, một người trẻ tuổi, nhưng đã trưởng thành trên con đường thiêng liêng, đáng được liệt kê vào số các bậc thầy tu đức. Trong số những điểm nổi bật trong các tác phẩm của thánh nữ Têrêxa, chúng ta phải nói tới khoa học tình yêu. Thánh nữ đã viết: “Đức ái đã mang lại cho con chìa khóa ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu Giáo Hội là một thân thể, gồm nhiều chi thể, thì không thể nào thiếu được cơ phận quan trọng nhất. Giáo Hội có một trái tim và trái tim ấy được nồng cháy Tình Yêu. Chỉ có Tình yêu mới có thể huy động các chi thể của Hội Thánh. Nếu Tình yêu tắt lịm thì các tông đồ không còn rao giảng Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ không còn dám đổ máu đào nữa… Con hiểu rằng Tình Yêu bao gồm tất cả mọi ơn gọi… Lúc đó, trong niềm vui tột đỉnh con thốt lên: Lạy Chúa Giêsu Tình Yêu của con… con đã tìm được ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là Tình Yêu!” (Thủ bản B, 3v).
Đề cập đến ý nghĩa việc tôn phong Tiến Sĩ Hội Thánh cho thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đối với con người thời nay, ĐTC nói rằng: “Đứng trước sự trống rỗng của bao nhiêu lời nói, Thánh nữ Têrêxa trình bày một giải pháp khác, Lời duy nhất cứu độ, khi được hiểu và sống trong thinh lặng, sẽ trở thành một nguồn mạch cuộc sống được đổi mới. Đứng trước một thứ văn hóa duy lý và quá nhiều khi bị chủ thuyết duy vật thực hành tràn ngập, thánh nữ đơn sơ trình bày ‘con đường nhỏ’, nói lên cốt yếu của cuộc sống, dẫn tới bí quyết của cuộc đời: Tình yêu Chúa bao trùm và thấm nhập toàn thể cuộc phiêu lưu của con người. Trong thời đại như thời chúng ta, thường bị ảnh hưởng một thứ văn hóa phù du và duy khoái lạc, vị Tiến Sĩ mới tỏ ra đặc biệt hữu hiệu trong việc soi sáng tâm trí những người khao khát sự thật và tình thương”.
Sau cùng, ĐTC khẳng định rằng “Thánh nữ Têrêxa đã đề ra một con đường nên thánh dành cho tất cả mọi người. Đường nên thánh không phải hệ tại thi hành những công trình vĩ đại, nhưng là con đường tín thác và hoàn toàn phó thác cho ơn thánh Chúa. Con đường đơn sơ đó không thiếu những đòi hỏi, vì Phúc âm đề ra nhiều yêu sách; nhưng lòng tin tưởng phó thác nơi lòng từ bi của Chúa khiến cho những cam go trở thành êm ái dịu dàng.”
Quả thực, trong một thế giới bị trào lưu vô thần, lý thuyết và thực hành, tấn công, các tác phẩm của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng là một thành trì bảo vệ vững chắc, vì chứng tỏ một niềm tin được sống một cách chân thành, trẻ trung và nồng nhiệt. Cũng thì thế, thánh Têrêxa Hài Đồng là bậc thầy tu đức được noi gương nhiều nhất, không những trong các chủng viện và dòng tu, nhưng cả trong các nhóm, phong trào và hội đoàn giáo dân, cũng như trong các gia đình. Tác phẩm của thánh nữ thuộc vào loại được đọc nhiều nhất thời nay, và trở thành một vị hướng đạo cho hàng triệu người. Ấn bản đầu tiên của cuốn Truyện một tâm hồn, xuất bản năm 1898 đã được dịch ra, ấn hành và tái bản trong hơn 50 ngôn ngữ với hàng triệu bản.
ĐHY Dionigi Tettamanzi, TGM giáo phận Milano, đã từng nói với các nữ đan sĩ dòng kín Cát Minh ở Genova: “Nơi thánh nữ Têrêxa tôi thấy được sự dịu hiền từ ái vô biên của Thiên Chúa. Lời Chúa phán qua Sứ ngôn Isaia đã trở thành kinh nghiệm hằng ngày của Thánh Nữ: “… Những người con nhỏ của Chúa sẽ được bồng ẵm trên tay, chúng được vuốt ve trên đầu gối của Người. Như một người mẹ an ủi con mình, Ta cũng sẽ an ủi các con như vậy” (Is 66,12-13). Sứ điệp này quả thực có tính chất thời sự dường nào! Con người ngày nay đang cần tình thương, cần được quan tâm, cần có những quan hệ tình người đầy ý nghĩa, cần phải làm sao để họ gặp được những chứng nhân đích thực về sự dịu hiền từ ái của Chúa. Có lẽ cũng vì thế, con đường của thánh Têrêxa cũng là con đường trở về được chuẩn bị cho những người đã rời xa Thiên Chúa.” (Báo Avvenire, 14-10-1997).
Hôm nay, ngày đại lễ kính nhớ thánh nữ Tê-rê-sa Giê-su Hài Đồng, tôi xin chia sẻ với anh chị em một vấn đề. Vấn đề này chắc là không hấp dẫn nhưng lại là chính yếu trong đời sống của chị thánh Tê-rê-sa và rất cần thiết cho cuộc sống chúng ta, người Ki-tô hữu. Đó là: Thái độ trước cuộc đời gian khổ.
Tôi muốn nói ba điều: thứ nhất cuộc sống thánh nữ Tê-rê-sa là một đời gian khổ; thứ hai thái độ của chị đối với gian khổ rất anh hùng và thứ ba một đời sống như vậy là một bài chúng ta phải học, bao giờ còn sống trên mặt đất.
Một cuộc đời gian khổ
Đừng thấy hình thánh nữ Tê-rê-sa trẻ, đẹp, ôm hoa hồng mà lầm tưởng như tôi rằng đời của chị lúc nào cũng khoái lạc, nhàn nhã (ĐĐV/PVTĐ, Rose).
Lúc tôi lên sáu, ba má gởi tôi đi học trường các nữ tu. Các nữ tu này xưng mình là “Mến Thánh Giá”. Các bà có “Mến Thánh Giá” không, tôi không biết nhưng rõ ràng là các bà “mến Thánh Tê-rê-sa”. Sau bất cứ câu kinh nào, các bà cũng bắt chúng tôi thêm: “Chị thánh Tê-rê-sa Giê su Hài Đồng, cầu cho chúng em”. Hơn nữa, để chúng tôi nhớ, các bà đặt tượng: tượng ở ngoài cổng, tượng ở trong lớp và còn tượng ở giữa sân chơi nữa. Tượng chị thánh Tê-rê-sa trẻ, đẹp, ôm hoa hồng, làm chúng tôi cứ tưởng là chị đứng coi tụi em chơi, rồi thưởng hoa hồng cho những đứa nào chơi mà không ăn gian, không gây lộn.
Thế rồi, một hôm, không biết tại sao, cha sở không cho con trai học chung với con gái, nên tôi phải qua trường nam học. Từ đó, tôi không được nghe nói về Thánh nữ nữa. Cũng từ đó, khi nghe nói đến thánh nữ Tê-rê-sa là tôi hình dung một nữ tu trẻ, đẹp, ôm hoa hồng.
Lần đầu tiên, cách đây chín, mười năm, khi được Mẹ Bề trên Đan viện Cát minh này nhờ nói về thánh nữ Tê-rê-sa, tôi đã lật sách nghiên cứu về hoa hồng để nói. Nhưng trời đất! Tôi không thấy hoa, mà chỉ thấy gai. May mà một nhà thần học chuyên môn về đời sống và tư tưởng của chị thánh Tê-rê-sa có nói: “về đời sống thánh nữ Tê-rê-sa thì hoa hồng là mặt ngoài mà gai nhọn là mặt trong: chính đau khổ đã biết biến thành nhân đức mới trổ ra hoa hồng”.
À! thì ra hoa hồng là thế. Mà lầm tưởng như vậy là tại tôi, vì trên tay chị thánh Tê-rê-sa tôi chỉ nhìn hoa hồng mà không nhìn thấy sau hoa hồng là cây Thập giá. Mỗi lần mừng đại lễ thánh nữ Tê-rê-sa, đan viện này đã phát ra hàng vạn hoa hồng chắc là để nhắc chúng ta hãy biến đau khổ thành nhân đức, thứ hoa hồng thiêng liêng quý giá hơn thứ hoa hồng thiên nhiên nhiều
Cuộc sống trước ngày đi tu
Nhưng hỏi: chị Tê-rê-sa đã gặp những gì trong cuộc đời mà gọi là đau với khổ? Thưa có, và có quá nhiều nữa. Ở đây, tôi xin đan cử một vài sự việc, chỉ một vài thôi:
Chị Tê-rê-sa ra đời năm 1873. Mới lên 4 tuổi chị đã mất mẹ. Thế là chị mồ côi mẹ và bắt đầu cuộc đời đau khổ. Sau này chị nói: “Đứng trước quan tài, hồi đó, tôi tưởng chiếc hoa nhỏ bé này đã bị hái đi lúc chớm nở”. Để vá víu, chị xin Pauline là chị mình làm mẹ nuôi (1877). Nhưng chưa được mấy năm, mẹ nuôi cũng bỏ con nuôi mà đi tu mất (1882). Nghĩ lại những ngày chị Pauline bỏ chị đi tu, chị nói: “Trong chốc lát, đời sống xuất hiện trần trụi trước mắt tôi: đời chỉ là đau khổ, chỉ là một cuộc phân ly nối dài”. Cảnh cô đơn làm chị ngã bệnh, một thứ bệnh thần kinh phức tạp. Và cũng năm ấy, lúc mới lên 9 tuổi, chị bị mắc bệnh đau đầu. Rồi, năm 1885, chị còn thêm chứng bệnh “bối rối”. Trong trạng huống đó, lẽ ra chị phải được gia đình âu yếm. Đằng này, chị em từ từ bỏ chị đi tu hết: đã chị Pauline rồi chị Léonie và bây giờ chị Marie nữa. Thánh nữ Tê-rê-sa là một cô gái nhạy cảm, lại còn bé mà phải bị thử thách liên hồi. Chị khóc. Chị xin Chúa. Chúa chưa cho. Chị lại khóc. Cứ như vậy, mãi từ lúc 4 tuổi đến lúc 14,15 tuổi, nghĩa là đến ngày chị đi tu.
Ngay cả chuyện đi tu, đâu phải dễ gì? Lúc được 2 tuổi, chị cảm thấy mình phải đi tu. Lúc lên 9 tuổi, lên 13 tuổi, tiếng Chúa gọi ngày càng thúc bách. Nhưng đâu phải hễ muốn đi tu là được? Ông cậu của chị phản đối. Cha Bề trên Đan Viện Cát Minh phản đối. Nhưng người ta xin đi tu chứ có xin đi… tù đâu mà phản đối? Nghĩ thế, chị buồn, chị khóc. Dầu vậy, không ngã lòng, chị chạy đến Đức Giáo Hoàng, xin cho kỳ được mới thôi. Và rốt cuộc, ngày 9 tháng 4 năm 1888, chị vào dòng Cát Minh trước tuổi luật pháp quy định.
Cuộc đời tu sĩ
Nhưng ai bảo đi tu là sướng? Trong hồi ký, chị thánh Tê-rê-sa nói rằng: “Đời đau khổ của tôi thực sự bắt đầu từ khi bước chân vào nhà tu”. Ở đây, đời tu của chị thật gian khổ, đau đớn trên thân xác, đau khổ trong tâm hồn.
Đau đớn trên thân xác
Tháng 6 năm 1894, chị bắt đầu bệnh đau cổ họng kinh niên. Tháng 7 cũng năm ấy, ông Martin, thân sinh của chị qua đời. Năm 1896, cơn bệnh sống chết của chị bắt đầu xuất hiện. Thứ Năm tuần Thánh, chị chầu Mình Chúa đến nửa đêm. Về đến phòng, vừa đặt lưng xuống chiếc nệm rơm là máu trào lên miệng. Suốt ngày thứ Sáu Tuần Thánh, chị ăn chay, kiêng thịt, lau nhà như chị em những tưởng rằng chẳng có gì đáng lo. Ngờ đâu, tối hôm ấy, cũng vào lúc sắp lên giường, chị bị ói máu lần nữa. Từ nay, chị bị cơn bệnh bám sát. Chị đuối sức. Nhiều tối, sau kinh khuya, chị phải mất cả nửa giờ mới bò hết cầu thang để về phòng, chịu lạnh cả đêm, không sao ngủ được. Trong một đêm nọ, chị nữ tu, y tá Đan viện vào thăm, thấy chị Tê-rê-sa chắp tay, ngước mắt lên trời. Chị y tá hỏi: “Làm gì vậy? Sao không ngủ?”. Chị Tê-rê-sa trả lời: “Ngủ không được. Đau quá nên em cầu nguyện”.
Ngày 30 tháng 9 năm 1897, lúc 5 giờ chiều, cơn hấp hối sau hết bắt đầu. Chị thở dốc, mặt ứ máu, tay tím lại, mình mẩy run lên, mồ hôi toát ra, thấm cả chăn, cả nệm. Đúng 7g30, chị mở mắt, âu yếm nhìn lên thập giá và nói: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, con yêu mến Chúa”. Vừa nói xong, chị ngả đầu về phía sau và trút hơi thở cuối cùng trong kinh nguyện.
Đó là đau đớn trên thân xác, còn những nỗi khổ đau trong tâm hồn.
Đau khổ trong tâm hồn
Có kẻ bảo rằng chị thánh Tê-rê-sa chịu đau đớn trên thân xác nhưng những đau khổ trong tâm hồn mới gọi là đau khổ.
Phải. Anh chàng đau răng nói nhức răng mới gọi là đau. Cô dâu nói chỉ có bị mẹ chồng hành mới gọi là khổ.Nhưng đau đớn trên thân xác hay đau khổ trong tâm hồn chị thánh Tê-rê-sa đều có cả.
Trong Đan viện, chị phải đau khổ vì Mẹ Bề trên, một bà khó tánh. Mỗi lần gặp bà là mỗi lần chị phải hôn đất, chị nói thế. Còn Mẹ Giáo tập thì tốt nhưng lại phải cái tánh “nói trước quên sau”, nên nhiều lần chị vâng lời rồi lại bị khiển trách. Rồi cộng đoàn chị em nữa, nhiều khi cũng nói ra, nói vào. Chỉ vì trong cộng đoàn 18 người mà dòng họ Martin đóng góp đến 5. Bà Bề trên, chẳng hạn, có lần đã nói: “Cái chị Tê-rê-sa được hết mọi chuyện, chỉ trừ một chuyện là có đến 4 chị em trong nhà này”. Trời ơi! Người ta rủ nhau đi tu mà cũng nói! Có lần nghĩ đến chuyện ấy, chị Tê-rê-sa nói: “Những bước đầu tiên của tôi vào đan viện đã đạp phải gai, gai hoa hồng”.
Thưa anh chị em! Anh chị em có cần tôi kể thêm nữa thôi? Nhưng thiết tưởng bấy nhiêu cũng đã quá nhiều đối với một cô gái lứa tuổi 24,25. Vả lại điều quan trọng không phải là tìm hiểu chị thánh Tê-rê-sa đau khổ nhiều hay ít mà là tìm hiểu xem do đâu chị ham mê và chấp nhận đau khổ?
Thái độ của chị thánh Tê-rê-sa trước sự đau khổ.
Chị thánh Tê-rê-sa nói: “Đau khổ là điều tôi thích ưa trên đời”. Tại sao thế? Có phải chị mang chứng bệnh mà y khoa gọi là “tính dục biến thái”? Không! Hoặc phải chăng vì chị muốn làm một nữ triết gia Socates, miệng vừa uống thuốc độc vừa thao thao dạy đời? Cũng không!
Chị đón nhận đau khổ một cách can đảm là vì Đức Giêsu. Chị nói: “Là vị hôn thê của Đức Giê-su, tôi cần phải chịu đau khổ. Tôi cảm thấy trong lòng tôi sự ước muốn đau khổ và sự xác tín rằng Đức Giê-su còn dành cho tôi nhiều thập giá”. Thì ra chị là nữ tu Mến Thánh Giá, tuy không danh hiệu, áo, lúp.
Dĩ nhiên, là con người, thánh nữ Tê-rê-sa cũng muốn sướng như ai và cũng như ai, chị không thích khổ đau, chết chóc. Và trong nguyên thủy, Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Vì thế mà Đức Giê-su sợ khổ đau, chết chóc. Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Người đã sợ chết, sợ đến toát mồ hôi máu, sợ nên mới xin khỏi chết, xin đến ba lần. Thế là, đã chấp nhận làm người thì dầu là Ngôi Hai Thiên Chúa, cũng sợ chết. Chị thánh Tê-rê-sa cũng không thoát khỏi định luật tự nhiên ấy. Chị nói muốn đau khổ nhưng không phải hễ muốn đau khổ thì khi đau khổ đến không còn đau khổ nữa. Khi đau khổ đến, chị cũng thấy rùng mình và kêu cứu. Chị nói: “Giê-su, người bạn hiền của tôi, đi đâu mất. Người không thấy chúng ta đau đớn quá sao? Sao không đến an ủi?”.
Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Nhưng bởi con người đã bất chấp qui luật mà đau khổ và chết chóc xuất hiện và thống trị con người. May phúc là với kế hoạch diệu kỳ, Thiên Chúa đã biến đau khổ, chết chóc thành con đường cứu độ, thành lời chứng tình thương. Vì tổ tiên đã yêu mình hơn yêu Thiên Chúa mà loài người mất thế quân bình, mất tình nghĩa với Thiên Chúa, mất sự sống siêu việt Ngài định ban. Thì nay, Ngôi Hai làm người đã yêu Thiên Chúa hơn yêu mình, yêu đến nỗi một lòng trung thành, vâng phục Thiên Chúa, dầu phải khổ đau, chết chóc và chết trên thập giá. Trên thập giá, Đức Giê-su có một thái độ siêu phàm. Nhà triết học Xê-nê-ca kể lại rằng: trên thập giá, kẻ bị treo thường nguyền rủa ngày sinh, tháng đẻ của mình, nguyền rủa cha mẹ đẻ mình làm chi… nhưng Đức Giê-su đã có một thái độ ngược hẳn: Bảy câu tuyệt mệnh của Ngài trên thập giá là những lời quí hơn vàng hơn ngọc, đầy can đảm, yêu thương và tha thứ. Chính cử chỉ yêu thương và vâng phục Thiên Chúa ấy mới xóa bỏ tội ích kỷ và bất tuân của tổ tiên, mới nói lên, nói lại tình yêu của loài người đối với Thiên Chúa và nhờ đó, Thiên Chúa mới trả lại cho con người tình nghĩa nguyên thủy và sự sống đời đời. Nói gọn lại, chính vì yêu thương và vâng phục mà thập giá mới đem lại vinh quang, mới mang lại ơn cứu độ cho loài người. Theo gương ấy,chị thánh Tê-rê-sa đón nhận đau khổ như đường cứu độ. Chị nói: “Tôi đi tu là để cùng Đức Giê-su cứu độ thế gian, cứu độ các linh hồn. Nhưng Nguưười chỉ ban cho tôi các linh hồn qua cây thập giá. Nên tôi đón nhận đau khổ như Người đã đón nhận thập giá”.
Chị đón nhận một cách tích cực. Khi biết Thánh Ý Chúa Cha là Người phải:hiến dâng mạng sống là giá chuộc muôn người” (Mc 10,45), Đức Giê-su đã can đảm tiến ra đón nhận thập giá. Người nói: “Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới” (Mt 26,46). Loài người có chấp nhận con đường cứu độ ấy không? Sách “Theo gương Chúa Giê-su” nói: “Ai cũng muốn vui hưởng với Đức Giê-su nhưng không ai muốn chia sẻ đau khổ với Người. Họ theo Người đến hết phần bẻ bánh, nhưng khi bắt đầu chén đắng, họ liền bỏ Người mà đi”. Nếu sách này đúng thì chị thánh Tê-rê-sa là một luật trừ. Ngày ngày, chị đón nhận những nghịch cảnh có thể xảy ra, đến nỗi chị dám nói: “Một ngày không đau khổ là một ngày vô ích, một ngày hỏng việc”. Nói cách khác, bằng ngôn ngữ của thánh Phao-lô, một ngày đau khổ là một ngày chia cay, sẻ đắng với Đức Giê-su, và những gian khổ Đức Giê-su còn phải chịu, chị xin mang vào thân cho đủ mức (Cl 1,24).
Chị thánh Tê-rê-sa đã cùng chịu đau khổ với Đức Giê-su cho đến hơi thở cuối cùng và cho đến cử chỉ cuối cùng. Chúng ta hãy đọc kỹ thánh Gioan một chút. Sau khi chu toàn công trình cứu độ, tác giả nói Đức Giê-su “nghiêng đầu” trao hơi thở (Ga 19,30). “Đầu nghiêng” không phải vì không còn tự chủ và vì bị sức hút của trái đất. Không, Người nghiêng đầu, tự ý nghiêng đầu (động từ klino ở dạng chủ động). Khi thực thi chương trình cứu độ, Đức Giê-su luôn luôn ở thế chủ động. Và trong chương trình này, nghiêng đầu là một hành vi phải làm trước khi trao hơi thở thì Người cũng tự chủ, tự làm, tự nghiêng. Đọc chuyện thánh Tê-rê-sa, chúng ta cũng thấy có một hành vi tương tự. Sau khi thở dốc và trước khi thở hơi cuối cùng, sách nói, chị mở mắt nhìn lên thập giá, khẳng định tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, rồi chị nghiêng đầu ra đi. Đối với chị, Đức Giê-su là gương mẫu khi sống cũng như khi chết. Gương tốt này, chúng ta nên bắt chước.
Thái độ của chúng ta trước cuộc đời.
Cuộc đời của thánh nữ Tê-rê-sa tuy vắn vỏi nhưng đã để lại tấm gương sáng cho già trẻ soi chung.
Trên đời, có ai mà không đau khổ? Có là thánh cũng khổ, hay nói đúng hơn càng thánh càng khổ. Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta thấy gì? Những bệnh viện ung thư thiếu giường, thiếu thuốc. Những người phong cùi lê lết từ Bến Sắn đến Sài Gòn, từ các sân nhà thờ đến các tiệm cơm thật là tội nghiệp. Bên cạnh những bệnh nan y thì ho hen, đói rách. Đó là chưa kể những đau khổ tâm hồn: Con bỏ nhà đi hoang, chồng phản bội, vợ ngồi sòng bạc quên chồng, quên con ở nhà … xin anh chị em kể tiếp …! và nói chung ai cũng chào đời bằng tiếng khóc. Về điểm này anh chị em phải đồng ý với tôi. Vậy thì vấn đề còn lại và cần thiết là chúng ta phải phản ứng thế nào cho xứng hợp với phẩm giá con người, cho hợp với Thánh Ý Thiên Chúa.
Thánh Ý Thiên Chúa chắc chắn là chúng ta không được phép ngồi lỳ mà than trời, trách đất nhưng phải ra tay phấn đấu với mọi khó khăn. Thật vậy, Thiên Chúa dựng nên trời đất, sáng tạo loài người, cho loài người quyền thống trị và quản lý trời đất. Để loài người thống trị, Thiên Chúa ban cho loài người tay chân và trí óc. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ làm ra con người theo hình ảnh Ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú và mọi vật bò ngang dọc trên mặt đất” (St 1,26). Điều này Thiên Chúa đã phán từ rất lâu và đã được ghi vào ngay trang đầu bộ Kinh Thánh trên hai mươi sáu thế kỷ rồi. Chỉ có điều là chúng ta không chịu học hoặc vừa học vừa quên. Nên khi nghe thiên hạ nói, chúng ta ngẩn người, cho là hay ho, mới mẻ. Thể theo Thánh Ý vừa nói trên, Đức Giê-su đã có lần lánh mặt kẻ thù, vì “tránh voi chẳng xấu mặt nào” và nhất là vì Giờ Người chưa tới. Cũng vì lẽ ấy, chị thánh Tê-rê-sa đã nghe lời bác sĩ và chấp nhận sự chăm sóc của chị em, thì khi đứng trước khổ đau, chúng ta cũng phải dùng đến sức lực, trí óc Chúa ban mà thống trị và quản lý trái đất này, chứ không tiêu cực than thân, trách phận, kêu trời, trách đất …
Nói như thế không có nghĩa là từ nay, con người sẽ không còn ốm đau, sẽ sống đời trên mặt đất. Không, trái đất này đã già rồi và sẽ biến thái. vật chất làm sao mà bất diệt được? Dù ông Mơ-thu-se-lác có thọ đến 969 tuổi đi nữa thì rốt cuộc cũng phải chết. Đã là con người có xác, nhất là một thân xác bị nhiễm trùng tổ tông thì làm sao sống đời đời như Thiên Chúa? Nên Thánh Ý Thiên Chúa là trong tấn kịch thế giới này, chúng ta đóng vai “vương giả” nhưng rồi cũng phải biết xuống khỏi sân khấu khi buổi kịch hạ màn. Tôi muốn nói rằng khi con người đã đem tất cả sức lực và tài năng ra để bảo vệ và thăng tiến con người mà không thể lướt thắng được nữa thì con người cũng phải can đảm ra đi, không luyến tiếc, không than trách: “giá mà… giá mà …”. Giá mà Mẹ Bề trên chăm sóc chị hơn, giá mà bác sĩ chích cho chị vài ống thuốc,… Tôi xin nhắc: Strepto và Rimattan nữa chỉ có 50 đồng một viên thôi. Bộ óc con người chúng ta đã phát minh những thuốc “tiên” này, nhưng hỏi năm nào? Vả lại chị thánh Tê-rê-sa không thuộc hạng người mỗi chút, mỗi rên nên khó mà biết rõ bệnh tình của chị. Hơn nữa, nữ tu Cát minh mà được Mẹ Bề trên bắt phải ăn thịt, uống rượu nho thì còn bảo lo sao nữa?
Phải nói rằng trong vở kịch thế giới bao la, Thiên Chúa muốn chị thánh Tê-rê-sa đóng vai một cô bé, lên sân khấu, nói vài câu, làm vài bộ điệu rồi xuống: một vai tuồng rất nhỏ, rất ngắn, nhưng chị đã đóng rất hay, đóng một cách tuyệt vời. Thì chúng ta cũng hãy đóng vai của mình, không cần lớn, không cần lâu, miễn sao cho khéo, rồi ra đi. Khi thấy Chúa Cha không thay đổi chương trình cứu độ, Đức Giê-su đã can đảm đứng dậy ra đón những kẻ đến bắt mình và chịu chết lúc mới 37,38 tuổi. Cũng vậy, khi thấy Thiên Chúa muốn mình chết trẻ, chị thánh Tê-rê-sa can đảm đón nhận cái chết và chết sau một cuộc đời mới được 24 năm 9 tháng. Giá trị như một nhà đại thi hào kia đã nói, giá trị không đợi phải tuổi già. Theo những tấm gương ấy, chúng ta cũng hãy can đảm chấp nhận mọi cảnh thăng trầm của cuộc đời dương thế và luôn luôn biến đau thương thành sức mạnh, thành nguồn ơn cứu độ. Cứ như vậy cho đến chết.
Đi xa hơn nữa, cái đau khổ của người Ki-tô hữu không phải chỉ là cuộc chiến một mất một còn với tai họa của thiên nhiên và tai ương của xã hội. trên bình diện thiêng liêng, nó còn là một phần của cây thập giá Đức Giê-su để dành cho họ. Người chiến đấu, chúng ta chiến đấu bên cạnh Người. Mà theo chương trình cứu độ, Người chiến đấu bằng thập giá thì chúng ta cũng phải chiến đấu bằng thập giá nghĩa là bằng khổ đau. Và người đã được hưởng vinh quang sau khi chiến thắng; cũng vậy như thánh Phao-lô nói một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người (Rm 8,17). Và như thế, chết không phải là hết mà là sống một cuộc sống đời đời, lại còn mới mẻ và viên mãn.
Có lẽ lúc bé thơ, nhiều người thương chị vì thấy trong hình chị trẻ, dẹp, ôm hoa hồng. Nhưng khi lớn rồi, chúng tôi biết chị không có hoa hồng, lại còn mang bệnh ho lao. Tuy nhiên chúng tôi càng mến chị vì chị còn trẻ mà có rất nhiều đức tính chẳng hạn can đảm vác thập giá cuộc đời với Đức Giê-su.
Hôm nay ngày đại lễ kính nhớ chị, chúng tôi chỉ xin chị một điều là cùng chúng tôi khẩn cầu Thiên Chúa cho chúng tôi được một lòng vững tin khi gặp nghịch cảnh và tích cực biến mọi gian khổ thành sức mạnh, thành ân sủng, hầu đem lại cho ai nấy hạnh phúc siêu việt ở đời sau và ngay ở đời này nữa. A-men.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa mở cửa Nước Trời cho những người bé mọn, xin Chúa cho chúng ta hằng ngày biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu mà bước đi trên con đường phó thác, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Thánh nữ sinh năm 1873, tại Alăngxông, nước Pháp. Người nhập đan viện Cátminh ở Lidiơ, lúc tuổi còn rất trẻ, và nhận tên là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chị đã sống đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa theo “con đường thơ ấu”. Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để hướng dẫn các tập sinh trong Dòng. Chị qua đời ngày 30 tháng 09 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển. Ngày 19 tháng 10 năm 1997, Đức Gioan Phaolô II ghi tên chị vào số các tiến sĩ Hội Thánh.
Nước Trời dành cho người bé mọn, bởi vì, những người bé mọn hằng khao khát kiếm tìm thánh ý Chúa để thực thi, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Huấn Ca cho thấy: Người khôn ngoan chăm chú nghe Lời Chúa: Người ấy còn tìm hiểu ý nghĩa tiềm tàng của châm ngôn và miệt mài với những dụ ngôn bí ẩn… Chúa đã cho người lên tiếng giữa cộng đoàn, và ban cho người đầy tinh thần khôn ngoan minh mẫn. Chúa đã mặc cho người áo vinh quang.
Nước Trời dành cho người bé mọn, bởi vì, những người bé mọn hằng khao khát yêu mến để trở nên giống Đấng là Tình Yêu, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nói: Vâng, con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh, và chỗ đứng này, ôi Thiên Chúa của con, chính Chúa đã ban cho con. Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của con, con sẽ là tình yêu… Lạy Thiên Chúa, Chúa đã đón nhận con trong tình yêu của Chúa, từ khi con còn bé, tình yêu ấy đã tăng trưởng với con. Con không tài nào thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu của tình thương Chúa. Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài.
Nước Trời dành cho người bé mọn, bởi vì, những người bé mọn hằng tin tưởng phó thác vào Chúa, như con thơ trong lòng mẹ hiền, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia: Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 130, vịnh gia đã kêu xin: Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi. Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Nước Trời phải qua cửa hẹp mà vào, chỉ những người bé mọn, không bị vướng víu bởi cái tôi cồng kềnh với những ý riêng, với thói tự cao tự đại, mới vào được mà thôi. Bao lâu ta tự nhận thấy rằng: mình không thể cứu được chính mình, chỉ có một mình Chúa mới cứu được ta, thì bấy giờ, ta sẽ được Chúa cứu. Mưa có lớn cỡ nào cũng không thể tưới được cho cây không có rễ, cửa Nước Trời có mở rộng đến đâu, thì cũng chỉ đón nhận được những ai muốn bước vào. Chúa mở cửa Nước Trời cho những người bé mọn, ước gì chúng ta hằng ngày biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu mà bước đi trên con đường phó thác, để muôn đời được chiêm ngưỡng Thánh Nhan. Ước gì được như thế!
Trong cuộc sống con người chúng ta lúc bấy giờ, trẻ nhỏ không có địa vị trong xã hội, trẻ nhỏ không có khả năng tự lo cho chính mình được, mà phải phụ thuộc, phải cậy nhờ vào cha mẹ, vào người lớn. Vì sống lệ thuộc vào những người lớn, dựa vào người lớn, cho nên các em hoàn toàn tin tưởng vào người lớn, trông cậy vào người lớn. Người lớn bảo các em làm sao thì các em sẽ làm như vậy, không một chút nghĩ suy, do dự, chần chừ.
Chúa muốn chúng ta cũng giống như các em nhỏ về những điều này trong đời sống đức tin: “Thật, Thầy bảo thật các con: Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời…” (Mt 18, 3). Trở nên như trẻ nhỏ, nghĩa là chúng ta lúc nào cũng cậy trông, tin tưởng vào Chúa, làm theo Lời Chúa để Chúa thương xót và cho chúng ta được vào Nước Chúa sau này.
Để làm theo điều Chúa dạy, chúng ta cần phải hạ mình xuống một cách thẩm sâu, để Chúa điều khiển cuộc đời chúng ta theo như ý Chúa muốn, giống như người lớn điều khiển các em nhỏ, các em răm rắp nghe theo thì chúng ta cũng như vậy: “Vậy ai hạ mình xuống như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời” (Mt 18, 4).
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là mẫu gương cho chúng ta noi theo trong việc hạ mình xuống giống như trẻ thơ. Ngài sống khiêm nhường, yêu thương, nhường nhịn với các chị em trong dòng. Ngài hoàn toàn vâng lời mẹ bề trên nhà dòng. Ngài phó thác bệnh tật đau đớn của ngài trong bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa một cách vui vẻ, không một chút phàn nàn trách móc Chúa. Ngài khao khát sống hiến lễ thập giá xưa của Chúa trên đồi Calvê. Ngài ao ước hiến lễ này lan rộng đến mọi người khắp nơi trên thế giới. Ngài cầu nguyện và dâng các hy sinh cho Chúa như dâng bệnh tật, dâng công việc phục vụ nhà dòng (quét nhà, rửa chén bát, lượm một cộng rác…) để cầu nguyện cho các nhà truyền giáo và công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội, cho nên ngài được Giáo Hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo mặc dù suốt đời ngài chỉ sống trong dòng kín mà thôi.
Mặt khác, khi Chúa gọi một em bé lại bên Chúa để Chúa nói về sự hạ mình, khiêm nhường, thì Chúa cũng muốn nói với chúng ta là những người lớn về thể lý, biết sống làm gương sáng cho các trẻ nhỏ noi theo. Vì tâm hồn các trẻ thơ được ví như những trang giấy trắng học trò, người viết đầu tiên trên trang giấy ấy, đó là cha mẹ, thầy cô, những người lớn, do dó, chúng ta đừng bao giờ gây gương mù, gương xấu cho các em: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc khối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9, 42).
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con có thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu làm mẫu gương trong việc hạ mình xuống, sống đơn sơ, bé nhỏ, hèn mọn, trong trắng như trẻ thơ. Xin thánh nữ cầu thay nguyện giúp chúng con có một tình yêu Chúa nồng nàn như thánh nữ để chúng con phó thác cuộc sống chúng con cho Chúa và chỉ làm theo ý Chúa trong đời sống đức tin của chúng con. Xin thánh nữ giúp chúng con luôn ý thức ơn gọi làm người và làm con Chúa của chúng con là do tình yêu của Chúa để chúng con sống như thánh nữ đã sống là luôn vâng lời Chúa trong mọi sự. Amen.
Thiên thần bảo trợ. 02/10 – Thứ Tư tuần 26 thường niên. – Các thiên thần hộ thủ. Lễ nhớ. "Các thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời".
* Các thiên thần được ơn gọi trước hết là để chiêm ngưỡng ánh huy hoàng của thánh nhan Thiên Chúa và không ngừng ca hát ngợi khen Người. Nhưng theo Kinh Thánh, Chúa cũng trao cho các thiên thần sứ mạng hiện diện bên cạnh con người để giúp đỡ con người. Ngày lễ kính các thiên thần bản mệnh nhắc cho ta nhớ lại điều đó.
Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời".
Bài Tin Mừng hôm nay vừa nói đến trẻ nhỏ, vừa nói đến những kẻ bé mọn trong cộng đoàn. Ai là những kẻ bé mọn trong cộng đoàn? Đó là những người tin vào Đức Giêsu (Mt 18, 6), nhưng đức tin của họ còn non yếu, mong manh. Đức Giêsu đã nặng lời với ai làm cho một kẻ bé mọn sa ngã. “Thà cột cối đá lớn vào cổ và ném nó dưới biển còn hơn.” Rõ ràng Đức Giêsu quý những kẻ bé mọn trong cộng đoàn. Ngài không muốn họ bị tổn thương vì gương mù gương xấu. Câu cuối của bài Tin Mừng là một lời nhắc nhở nữa. “Anh em chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này” (c. 10). Lý do Đức Giêsu đưa ra khá đặc biệt: “Vì các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng thấy khuôn mặt của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” Như thế ngay cả những người bé mọn cũng có thiên thần riêng. Người bé mọn có thể lầm lạc, sa ngã, nhưng không vì thế mà họ bị coi thường hay khinh miệt. Thiên thần của họ vẫn ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho họ. Thật thú vị khi người Kitô hữu tin mình có một thiên thần hộ thủ. Thánh Basiliô viết: “Mỗi tín hữu đều có một thiên thần hộ thủ, để bảo trợ và hướng dẫn đến sự sống đời đời.” Vị thiên thần này vừa được phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa, vừa đồng hành suốt đời với từng người cho đến nơi quê thật. Thiên thần hộ thủ là một quà tặng của lòng nhân hậu Chúa. Là sứ giả được Chúa sai, thiên thần là sự hiện diện của Chúa với từng người chúng ta. Thiên thần đã bảo vệ ông Lót (St 19), đã cứu Agar và con của bà (St 21, 17), đã giữ tay Abraham không cho cụ giết con (St 22, 11). Một vị thiên thần ban đêm đã cứu Phêrô khỏi tù ngục (Cv 12, 15). Như thế thiên thần là bạn đường bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ. Khi sống trong một bầu khí vắng bóng Thiên Chúa, con người khó tin vào những thực tại vô hình. Các thiên thần có khi chỉ là những hình trang trí nơi hang đá, hay những bức tượng thạch cao đặt hai bên bàn thờ. Chúng ta khó tin mình được trợ giúp bởi một thiên thần có thật, và không dám tin mình đáng quý đến thế, để Chúa ban cho mình một người hướng đạo và đỡ nâng. Làm sao để chúng ta ra khỏi sự cô quạnh của chính mình, khi chấp nhận niềm tin vào thiên thần hộ thủ? Làm sao để ta cảm được hoạt động kín đáo của người trong đời ta?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề; có những lúc con muốn buông trôi, để mặc cho dòng đời đưa đẩy; có những khoảng thời gian dài, con như mảnh đất khô khan cằn cỗi. Xin cho con ánh sáng của Chúa để con biết lối mà đi. Xin cho con tấm bánh của Chúa để con có sức mà dấn bước. Xin cho con Lời của Chúa để con vững một niềm tin. Xin cho con sự sống của Chúa để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn, niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu, con thấy mình cần Chúa trong mỗi giây phút của cuộc đời. Ước gì ai gặp con cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.
Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên. Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới? Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó. Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây, nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét, cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ. Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục. Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó. Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu. Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ. Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt. Các môn đệ vẫn loay hoay với một câu hỏi trong đầu: “Trong các ông, ai là người lớn nhất?” (c. 46). Thầy Giêsu muốn dạy cho họ một bài học rất gợi hình, nên đem một em nhỏ đến và trân trọng đặt em đứng bên cạnh (c. 47) Thầy đồng hóa mình với em nhỏ yếu đuối và không có địa vị ấy: ai tiếp đón em này là tiếp đón chính Thầy. Thầy cũng cho biết, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Thiên Chúa (c. 48). Như thế một em nhỏ bình thường là con đường dẫn ta gặp gỡ Đức Giêsu, và gặp gỡ chính Thiên Chúa siêu việt. Để tiếp đón Thiên Chúa và Đức Kitô trong đời, ta phải sẵn sàng tiếp đón những người yếu kém và nhỏ bé nhất trong xã hội. Khi các môn đệ bị ám ảnh bởi chuyện làm lớn thì Thầy Giêsu đem lại cho họ một em nhỏ, và cho thấy sự cao trọng lớn lao của em trong cái nhìn của Thiên Chúa. Câu trả lời của Thầy đã rõ: kẻ nhỏ nhất chính là người lớn nhất trong anh em. Vượt ra khỏi sự tranh chấp trong nhóm, bây giờ các môn đệ lại phải đối diện với một người trừ quỷ ở ngoài nhóm. “Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng chúng con đi theo Thầy.” Tại sao một người ở ngoài nhóm lại dám lấy danh Thầy mà trừ quỷ? Lẽ ra việc dùng danh Thầy phải là độc quyền của chúng con. Người ấy không được chiếm lấy sự thành công và tăm tiếng mà chỉ những ai theo Thầy như chúng con mới được hưởng. Các môn đệ đã có thái độ cục bộ và bè phái. Họ cần cởi mở và khoan dung hơn với những người ngoài. Danh Thầy Giêsu là quà tặng cho cả thế giới, chứ không cho riêng môn đệ. Ai cũng có thể đến múc lấy sức mạnh từ Danh ấy và sẻ chia. Thầy Giêsu mời các môn đệ bước ra khỏi sự hẹp hòi khép kín, để vui vẻ kính trọng một người tuy không thuộc nhóm mình, nhưng làm được những việc mà có khi mình không làm nổi (Lc 9, 40). Danh Giêsu được tôn vinh: đó là điều chúng ta nhắm tới. Chúng ta chỉ mong sức mạnh của Danh này làm thế giới được trừ quỷ. Chỉ mong ai đó đang ở ngoài nhóm và đang trừ quỷ nhờ Danh Giêsu, sẽ có ngày trở thành người môn đệ trong nhóm.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng vào thiện chí của nhau. Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi. Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt. Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen. ---------------------------------
Sứ điệp: Chúa tình thương đã an bài cho mỗi người có một bạn thiêng liêng là Thiên Thần Bản Mệnh. Hãy tạ ơn Chúa bằng cách lắng nghe và gắn bó với bạn tốt đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong cuộc sống, con đã cảm nghiệm được những tình bạn cao quý: đó là những người chân thành, tốt bụng, trung thành. Khi con buồn vui, họ chia vui sẻ buồn với con. Đặc biệt những lúc con nản chí, họ là người động viên an ủi; những lúc con sai lỗi, họ là người thẳng thắn nhắc nhở sửa sai cho con. Tuy thế, vì là con người, những người bạn đó vẫn có lúc bó tay chẳng giúp được gì cho con.
Chúa đã thương ban cho mỗi người chúng con có một bạn thiêng liêng là Thiên Thần Bản Mệnh. Lòng các Ngài luôn tôn thờ Chúa nên luôn tốt với con người. Các ngài không bị thời gian không gian chi phối, nên các ngài luôn sáng suốt hướng dẫn đúng đắn cho con người. Các Ngài thay mặt Chúa mà an ủi khi con gặp thất bại. Các Ngài cộng tác với Chúa Thánh Thần mà soi sáng gợi ý cho con tìm ra Thánh Ý Chúa trong mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời con. Các Ngài dạy con biết sống theo đường ngay lẽ thật. Xin cho con biết vâng nghe sự hướng dẫn của Thiên Thần Bản Mệnh, bạn tốt thiêng liêng Chúa ban cho đời con.
Lạy Chúa, trên đời này chọn được người bạn tốt đã khó; chọn được người bạn tốt khôn ngoan sáng suốt còn khó hơn. Xin cho con biết trọng tình bạn thiêng liêng rất trung thành và khôn ngoan của Thiên Thần Bản Mệnh dành cho con.
Xin cho con khôn ngoan xa tránh những bạn bè xấu trên đời và biết gắn bó hơn với Thiên Thần Bản Mệnh của con. Amen.
Ghi nhớ: “Các thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời”.
Một vị linh mục kể lại một chứng từ: “Khi đó ngài làm cha sở ở một xứ đạo hẻo lánh miền quê bên Pháp, vào một đêm được tin một người đau nặng đang hấp hối, muốn xin ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với mình. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối...
Mười năm sau, ngài được người ta báo: Có người tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai khuyên bảo. Nghe tin, ngài đã tới thăm vì lòng nhân từ mục tử. Vừa thấy ngài, người tử tù đã muốn phản ứng xua đuổi, không muốn gặp, nhưng khi nhìn trực diện ngài, bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: “Có phải cha là cha sở họ X không?”. Ngài ngạc nhiên trả lời: “Trước đây 10 năm tôi làm cha sở ở đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác...
Thì ra cách đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: “Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự”.
Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên Thần Bản Mệnh giúp đỡ. Như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi”.
Suy niệm
Ngay trong Cựu ước, Thiên Chúa loan báo một gửi xuống đạo binh thiên sứ để giữ gìn loài người: “Này Ta sẽ sai Thiên thần Ta đi trước mặt ngươi và gìn giữ ngươi khi đi đàng, dẫn đưa ngươi đến nơi Ta dọn sẵn cho ngươi” (Xh 23,20).
Trong hang sâu tù ngục, trước hàm của sư tử, Đanien được các Thiên thần bảo vệ... Vì không thờ thần dân ngoại, ba cậu bé Khanania, Adaria và Misaen bị bỏ vào trong lò lửa, nhưng các em được các Thiên thần Chúa bảo vệ khi lửa đang cháy mà không bị gì, các thiếu niên này còn vang lời ca tụng Đức Chúa (Đn 3).
Chúa Giêsu sau khi Chúa chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, cũng đã được các thiên thần phục vụ khi, Kinh Thánh ghi lại: “Các thiên thần đến để hầu hạ Người” (Mt 4,11).
Giữa con người và các Thiên thần có mối dây liên lạc mật thiết. Các ngài là thụ tạo cộng tác viên với Thiên Chúa nhằm trợ giúp mỗi chúng ta trên con đường lữ hành ở trần thế, sứ mạng của các ngài thực hiện trong âm thầm, lặng lẽ. Mỗi người có một Thiên thần đồng hành che chở bảo vệ và Thiên thần đó hằng nhìn thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu diễn tả các Thiên thần với đời sống các trẻ em như sau: “Anh em chớ khinh khi một ai trong những kẻ bé nhỏ này; Thầy nói cho anh em hay: Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
Thánh Gioan trong sách Khải huyền còn nói đến mỗi dân tộc cũng có một Thiên thần bản mệnh riêng (x. Kh 2 - 3). Các thánh Giáo phụ tin là mỗi người từ lúc được tạo dựng trong bào thai đã có một Thiên thần bản mệnh riêng.
Chúng ta đã nhận biết bao ân phúc của các Thiên thần, chúng ta phải tỏ lòng cung kính vâng phục các ngài. Niềm tin vào Thiên thần bản mệnh giúp ta lấy lại bình an trong tâm hồn vì luôn có Đấng bảo vệ. Chúng ta mang niềm vui, nhất là tâm tình phó thác cậy trông vào Thiên Chúa vì như Chúa Giêsu khẳng định: “Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
Ý lực sống
“Chúng ta hãy đặc biệt cầu xin các Thiên Thần, nhất là hôm nay để các đấng canh giữ tôi và các cộng sự viên của tôi” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Một vị linh mục kể lại một chứng từ: “Khi đó ngài làm cha sở ở một xứ đạo hẻo lánh miền quê bên Pháp, vào một đêm được tin một người đau nặng đang hấp hối, muốn xin ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với mình. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối...
Mười năm sau, ngài được người ta báo: Có người tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai khuyên bảo. Nghe tin, ngài đã tới thăm vì lòng nhân từ mục tử. Vừa thấy ngài, người tử tù đã muốn phản ứng xua đuổi, không muốn gặp, nhưng khi nhìn trực diện ngài, bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: “Có phải cha là cha sở họ X không?” Ngài ngạc nhiên trả lời: “Trước đây mười năm tôi làm cha sở ở đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác...
Thì ra cách đây mười năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: “Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự.”
Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên Thần Bản Mệnh giúp đỡ. Như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi.”
------------------------------
Ngay trong Cựu ước, Thiên Chúa loan báo gửi xuống một đạo binh thiên sứ để giữ gìn loài người: “Này Ta sẽ sai Thiên thần Ta đi trước mặt ngươi và gìn giữ ngươi khi đi đàng, dẫn đưa ngươi đến nơi Ta dọn sẵn cho ngươi” (Xh 23, 20).
Trong hang sâu tù ngục, trước hàm của sư tử, Đanien được các Thiên thần bảo vệ... Vì không thờ thần dân ngoại, ba cậu bé Khanania, Adaria và Misaen bị bỏ vào trong lò lửa, nhưng các em được các Thiên thần Chúa bảo vệ khi lửa đang cháy mà không bị gì, các thiếu niên này còn vang lời ca tụng Đức Chúa (Đn 3).
Chúa Giêsu sau khi Chúa chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, cũng đã được các thiên thần phục vụ khi, Kinh Thánh ghi lại: “Các thiên thần đến để hầu hạ Người” (Mt 4, 11).
Giữa con người và các Thiên thần có mối dây liên lạc mật thiết. Các ngài là thụ tạo cộng tác viên với Thiên Chúa nhằm trợ giúp mỗi chúng ta trên con đường lữ hành ở trần thế, sứ mạng của các ngài thực hiện trong âm thầm, lặng lẽ. Mỗi người có một Thiên thần đồng hành che chở bảo vệ và Thiên thần đó hằng nhìn thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu diễn tả các Thiên thần với đời sống các trẻ em như sau: “Anh em chớ khinh khi một ai trong những kẻ bé nhỏ này; Thầy nói cho anh em hay: Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
Thánh Gioan trong sách Khải huyền còn nói đến mỗi dân tộc cũng có một Thiên thần bản mệnh riêng (x. Kh 2 - 3). Các thánh Giáo phụ tin là mỗi người từ lúc được tạo dựng trong bào thai đã có một Thiên thần bản mệnh riêng.
Chúng ta đã nhận biết bao ân phúc của các Thiên thần, chúng ta phải tỏ lòng cung kính vâng phục các Ngài. Niềm tin vào Thiên thần bản mệnh giúp ta lấy lại bình an trong tâm hồn vì luôn có Đấng bảo vệ. Chúng ta mang niềm vui, nhất là tâm tình phó thác cậy trông vào Thiên Chúa vì như Chúa Giêsu khẳng định: “Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
“Chúng ta hãy đặc biệt cầu xin các Thiên Thần, nhất là hôm nay để các đấng canh giữ tôi và các cộng sự viên của tôi” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Các môn đệ xúm lại hỏi Chúa: ai là người lớn nhất trong Nước trời? Chúa không trả lời ngay. Người gọi một trẻ nhỏ vào đứng trước mặt các ông rồi nói: Ai không trở nên như trẻ nhỏ, không sống đơn sơ, thật thà, khiêm tốn như trẻ nhỏ thì không được vào Nước trời. Và ai trở nên giống trẻ nhỏ: đơn sơ, hoàn toàn lệ thuộc phó thác, thì sẽ làm lớn hơn hết trong Nước trời... vì các em giống như các thiên thần và các thiên thần bản mệnh của các em “ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, Đấng ngự trên trời” (Mt 18,10b) và các ngài lên lên xuống để bảo vệ chúng ta (x. Ga 1,51).
Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta sự hiện hữu và hoạt động của các thiên thần, hẳn Ngài cũng muốn cho chúng ta cảm nghiệm hơn về mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Dù chúng ta có thấy các thiên thần hay không, dù các ngài có đến với chúng ta như thần linh hay dưới hình bóng người phàm, thì lời cầu xin của chúng ta luôn được đáp trả. Thiên Chúa hằng can thiệp vào cuộc sống của chúng ta cách diệu kỳ, niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của các thiên thần luôn nhắc nhở chúng ta điều đó. Quả thật, cuộc sống của chúng ta được dệt bằng phép lạ từ giây phút đầu tiên được tạo thành trong lòng mẹ cho đến lúc chào đời rồi lớn lên, mỗi một nhịp đập của trái tim, mỗi một hơi thở của chúng ta không là phép lạ sao?
Nguyện xin các thiên thần nhất là thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa là tình yêu.
Hôm nay Giáo hội nhắc nhớ chúng ta về người bạn thân thiết của mỗi người, đó là vị Thiên thần bản mệnh của chúng ta. Mỗi người từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ đều được Thiên Chúa cắt cử một vị Thiên thần để che chở hộ phù bằng một cách thế chúng ta không chờ đợi và cũng chẳng tưởng tượng được. Đây là chân lý Giáo Hội muốn nhắc nhở và mời gọi chúng ta đào sâu hôm nay. Mỗi người đều có một vị Thiên thần luôn sát cánh nhắc nhở chỉ bảo, hướng dẫn và gìn giữ trong từng đường đi nước bước của chúng ta. Dạy điều đó, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta đi vào tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu vượt lên trên mọi dự đoán, tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Các Thiên thần không chỉ là những vị có cánh đến từ trời cao, các ngài đang ở bên cạnh chúng ta trong mỗi phút giây của cuộc sống chúng ta, các ngài không ngừng nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên cho chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quí cũng như xua đuổi khỏi những tư tưởng mê muội và bất chính. Nếu biết lắng nghe tiếng nói của các ngài, chúng ta sẽ tiến bước trên đường ngay nẻo chính và sẽ gặp được hạnh phúc đích thực. Với đoạn Tin mừng chúng ta suy niệm trong ngày kính nhớ các Thiên thần bản mệnh hôm nay, một lần nữa Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống, trẻ thơ chỉ nghĩ đến chuyện thần tiên. Thế giới của người lớn cũng còn là thế giới thần tiên, bởi vì mỗi người đều có một thiên thần bản mệnh gìn giữ bao bọc và hướng dẫn.
Thế giới ấy sẽ thực sự thần tiên khi con người biết lắng nghe sự hướng dẫn của vị Thiên thần Hộ mệnh và cảm nghiệm được tình yêu bao bọc chở che của Thiên Chúa. Hãy để cho Thiên Chúa yêu thương, còn gì đơn sơ cho bằng những giây phút ấy.
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính các thiên thần bản mệnh của mỗi người chúng ta.
Sự hiện diện của các ngài trong Kinh Thánh là điều đã thật rõ ràng không có thể chối cãi. Ngay từ trang đầu của sách Sáng Thế Ký chúng ta đã thấy các ngài xuất hiện như là những vị thừa hành mệnh lệnh của Thiên Chúa,
Trong suốt thời Cựu Ước sự hiện diện của các ngài cũng không thiếu. Bài sách thánh thứ I chúng ta vừa nghe là một trong những đoạn văn rõ rệt nhất nói về những điều đó. Thiên Chúa đặc biệt loan báo con người sự có mặt của một đạo binh mà Người gửi xuống để giữ gìn loài người chúng ta. “Này Ta sẽ sai thiên thần Ta đi trước mặt ngươi và gìn giữ ngươi khi đi đàng, dẫn đưa ngươi đến nơi Ta dọn sẵn cho ngươi” (Xh 23,20).
Sự bảo vệ mà con người nhận được từ các Thiên thần thật đặc biệt. Hồi ấy Đaniel là mới chỉ là một cậu bé, nhưng là một cậu bé hết lòng kính sợ Thiên Chúa. Đaniel được Vua Đarius vua xứ Ba tư rất thương yêu. Đaniel là một người Do thái mà lại được nhà Vua Ba Tư thương yêu như thế thì quả thực việc đó chẳng có lợi gì. Các quan cận thần trong triều đình nhà vua tìm đủ mọi cách để hại Đaniel. Một hôm họ lập mưu để cho nhà vua phải mắc mưu họ.
- Hoàng đế Đarius vạn tuế! Chúng tôi tất cả các thừa tướng trong nước, các viên đổng lý, bảo quốc, tư vấn và tổng trấn đã cùng nhau bàn là phải ra một ngự sắc và ban hành lệnh cấm là trong vòng 30 ngày, hễ ai khấn nguyện cầu kinh với bất cứ thần hay người nào trừ phi là ngài thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử. Vậy nay tâu hoàng thượng, xin Ngài ban lệnh cấm và châu phê văn kiện để được bất di bất dịch chiếu theo luất của dân Mê-di và Ba-Tư, một luật vô phương bãi bỏ”(Dn 6,7-9)
Vua ký ngự sắc và ngự sắc đó thành luật.
Thế nhưng Đaniel mỗi ngày vẫn 3 lần quì cầu nguyện và ngợi khen Thiên Chúa,
Đaniel đã phạm luật. Đaniel bị bắt.
- Tâu hoàng thượng, Đaniel đã chẳng đếm xỉa gì tới Ngài và lệnh cấm Ngài đã châu phê. Cứ mỗi ngày ba lần, y đã khẩn nguyện và cầu kinh với Thần của y.(Dn 6,14)
Vua muốn cứu nhưng họ đáp lại:
- Tâu hoàng thượng, Ngài biết là luật của dân Mê-đi và Ba-Tư là mọi lệnh cấm và sắc chỉ nhà vua đã ban hành đều bất di bất dịch (Dn 6,16).
Đaniel bị ném vào hầm sư tử. Cửa hang được đóng ấn và niêm phong cẩn thận.
Suốt cả một đêm nhà vua không thể nào nhắm mắt.
Sáng sớm hôm sau nhà vua ra trước của hang và lên tiếng gọi:
- Đaniel tôi tớ của Thần linh hằng sống. Thần người bền đỗ phụng thờ có cứu ngươi khỏi lanh vuốt sư tử không? (Dn 6,21)
Từ trong hầm tối Đaniel nói vọng ra:
- Hoàng đế vạn vạn tuế. Thiên Chúa của thần đã sai thiên thần xuống khóa miệng sư tử khiến chúng chẳng làm hại được thần. Bởi chưng trước mặt Người tôi được nhìn nhận là vô tội - Và cả trước mặt ngài tâu đức Vua, tôi cũng chẳng phạm một lỗi gì (Dn 6,22).
Đaniel được tha, Những người tố cáo Đaniel bị ném và trong hầm sư tử. Và chúng ta biết sự việc sau đó như thế nào.
Trong Tân Ước chính Chúa Giêsu cũng đã được các thiên thần phục vụ.
+ Sau khi Chúa chịu ma quỉ cám dỗ trong hoang địa, khi Chúa đã hoàn toàn chiến thắng, Kinh Thánh ghi lại: “Các thiên thần đến để hầu hạ Người”(Mt 4,11)
+ Công Vụ Tông Đồ 5,17 thuật lại câu truyện Phêrô được cứu thật hết sức lạ lùng: Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông tức là phái Xađốc ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng. Nhưng ban đêm thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói: “Các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống.”(Cv 5,20), Nghe thế, các ông vào Đền Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng dạy.
Khi thuộc hạ đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo rằng: “Chúng tôi thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở cửa ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong”(Cv 5,23). Nghe những lời ấy, viên lãnh binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện gì xảy ra. Bấy giờ có một người đến báo cáo cho họ: “Những người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho dân!” (Cv 5,25)
Viên lãnh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.
Xin được kết bằng một bài thơ rất dễ thương dành cho các thiên thần.
Thiên thần bé nhỏ của tôi ơi Hãõy ở bên tôi suốt cuộc đời Soi bước chân tôi trong chân lý Chỉ biết đi tìm Chúa mà thôi. Thiên thần bản mệnh của tôi ơi Đam mê hoan lạc trong cuộc đời Phù vân, bóng câu qua cửa sổ Ngoảnh nhìn thử hỏi được mấy mươi. Thiên thần chí ái của tôi ơi. Giúp tôi đứng vững giữa vòm trời Nhủ lòng thà chết không phản bội Hiến chương Galilê xa xôi. Thiên thần sáng láng của tôi ơi Lộng giả thành chân biết bao người! Cho tôi nhận rõ chân với giả Hầu cảnh giác chị em tôi. Thiên thần dũng mãnh của tôi ơi, Bao lúc cô đơn muốn rã rời…. Hãy giúp cho tôi đừng vấp ngã. Đến khi tới được nhà Cha tôi. (Bài thơ của Lê xuân Mai)
Hôm nay Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về người bạn thân thiết của mỗi người, đó là vị Thiên thần Hộ Thủ của chúng ta. Mỗi người từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ đều được Thiên Chúa cắt cử một vị Thiên thần để che chở hộ phù bằng một cách thế chúng ta không chờ đợi và cũng chẳng tưởng tượng được. Đây là chân lý Giáo Hội muốn nhắc nhở và mời gọi chúng ta đào sâu hôm nay.
Mỗi người đều có một vị Thiên thần luôn sát cánh nhắc nhở chỉ bảo, hướng dẫn và gìn giữ trong từng đường đi nước bước của chúng ta. Dạy điều đó, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đi vào tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu vượt lên trên mọi dự đoán, tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu mà chúng ta vừa mừng kính hôm qua đã tìm ra được bí quyết hạnh phúc và đã mở ra một con đường nên thánh đơn sơ nhất đó là "hãy chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương". Thảm kịch bi thảm nhất của con người đó là không cảm nhận hay không đón nhận tình yêu của Thiên Chúa; trái lại, ai đón nhận tình yêu của Thiên Chúa họ sẽ thấy rằng cuộc sống của họ là một chuỗi những phép lạ.
Theo định nghĩa thông thường phép lạ là một biến cố hay một hiệu quả xem ra nghịch với định luật khoa học, do đó được gán cho các nguyên nhân siêu nhiên. Giáo Hội chỉ nhận là phép lạ khi một biến cố này khoa học không thể lý giải được mà thôi. Đây là tiêu chuẩn được áp dụng một cách rất khắt khe tại trung tâm Thánh Mẫu Lộ Đức. Từ hơn 100 năm qua, mặc dù không biết bao nhiêu người đã tuyên bố cảm năm được sự can thiệp của Chúa, Giáo Hội chỉ nhận được có 65 trường hợp được xem là phép lạ thực sự sau khi ủy ban y tế tuyên bố không thể giải thích sự lành bệnh theo phương diện y khoa.
Tuy nhiên, nếu hiểu phép lạ theo một ý nghĩa rộng rãi hơn như là một sự can thiệp quan phòng trường kỳ của Chúa vào cuộc sống mỗi ngày của từng người chúng ta, con mắt Đức tin sẽ cho chúng ta thấy được vô số phép lạ Chúa đang thực hiện trong mỗi biến cố của cuộc sống. Phép lạ không chỉ là sự kiện lạ lùng ở bên kia, ngoài các định luật khoa học, phép lạ không chỉ diễn ra tại những trung tâm Thánh Mẫu nổi tiếng trên thế giới. Phép lạ là từng hơi thở và nhịp đập của trái tim, phép lạ là từng tia sáng mặt trời hay từng cơn gió mưa mỗi ngày, phép lạ là một cuộc gặp gỡ đang có mỗi ngày, phép lạ ở mọi nơi và mọi lúc, bởi vì Thiên Chúa luôn hiện diện với chúng ta từng giây phút trong cuộc sống.
Các Thiên thần không chỉ là những vị có cánh đến từ trời cao, các Ngài đang ở bên cạnh chúng ta trong giây phút này đây, các Ngài không ngừng nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên cho chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quí cũng như xua đuổi khỏi những tư tưởng mê muội và bắt chính. Nếu biết lắng nghe tiếng nói của các Ngài, chúng ta sẽ tiến bước trên đường ngay nẻo chính và sẽ gặp được hạnh phúc đích thực.
Với đoạn Tin Mừng chúng ta trong ngày kính nhớ các Thiên thần Hộ Thủ hôm nay, một lần nữa Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống, trẻ thơ chỉ nghĩ đến chuyện thần tiên. Thế giới của người lớn cũng còn là thế giới thần tiên, bởi vì mỗi người đều có một Thiên thần hộ thủ gìn giữ bao bọc và hướng dẫn. Thế giới ấy sẽ thực sự thần tiên khi con người biết lắng nghe sự hướng dẫn của vị Thiên thần Hộ Thủ và cảm nghiệm được tình yêu bao bọc chở che của Thiên Chúa. Hãy để cho Thiên Chúa yêu thương, còn gì đơn sơ cho bằng những giây phút ấy.
Câu chuyện minh chứng bàn tay Thiên thần Hộ Thủ hộ phù, chở che
Một Cha sở miền quê bên Pháp thuật lại công chuyện này:
Khi đó ngài đang ở một xứ đạo hẻo lánh. Một đêm kia được tin một người đau nặng, đang hấp hối, muốn xin Ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử Ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, Ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, Ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên thần Hộ Thủ, Ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với Ngài. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối.
Câu chuyện đã qua 10 năm rồi, nếu không có biến cố mới này thì nó đã rơi vào quên lãng:
Một tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cử một ai. Người ta báo tin cho ngài: có người tử tù sắp bị hành quyết. Vì là Cha sở địa phương, ngài đến nhà tù thăm viếng. Nhưng vừa thấy bóng linh mục, người tử tù phản ứng và từ chối không muốn gặp ngài, nhưng bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: " Có phải cha là cha sở họ X không?". Vị linh mục ngạc nhiên trả lời: "Trước đây 10 năm tôi làm Cha sở ở họ đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác".
Thì ra cách đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người bị tầm nã, đang lẩn trốn ở khu rừng mà ngài đi qua. Hắn dự định sẽ giết chết bất cứ khách bộ hành nào băng qua đoạn đường đó, để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, và đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: "Lúc đó y muốn giết vị linh mục, nhưng bên cạnh ngài có một thanh niên lực lưỡng. Thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho ngài và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự".
Vị linh mục kết luận: "Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên hết sức. Nhưng tôi chợt nhớ ra rằng, lúc đó, tôi có dừng lại một lúc để cầu nguyện xin Thiên thần Hộ Thủ giúp đỡ. Và như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên thần Hộ Thủ của tôi, đã giữ gìn, bảo vệ tôi qua cơn nguy hiểm”
Câu chuyện trên minh chứng Thiên thần Hộ Thủ luôn có mặt khi con người kêu cầu, xin ngài giúp đỡ, can thiệp. (trích nguoitinhuu.com)
Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí để chúng con biết nhìn ra sự hướng dẫn của vị Thiên thần hộ thủ hầu cảm nếm được tình yêu của Ngài. Amen.
“Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 18,10)
Suy niệm: Những người bé mọn không có nhiều khả năng, kể cả khả năng tự vệ nên thường bị khinh dể và bị đối xử bất công. Thái độ đó là một sai lầm mà ít ai nhận ra. Mỗi người, dù là bé mọn, đều phải được kính trọng vì được Thiên Chúa phú ban một Thiên thần, gọi là Thiên thần Hộ thủ; vị này bảo vệ và chuyển cầu cho họ trước nhan Thiên Chúa. Như các chiến binh, Thiên thần Hộ thủ bảo vệ và hướng dẫn con người đến sự sống; như những luật sư, Thiên thần Hộ thủ bào chữa và chuyển cầu cho mỗi người trước nhan Thiên Chúa. Như thế, con người không chỉ cao trọng về phẩm giá, mà còn được bảo vệ bởi một thế lực siêu nhiên – bởi không ai thắng được Thiên thần.
Mời Bạn: Các Thiên thần Hộ thủ được phú ban là để bảo vệ hầu giúp ta đương đầu với kẻ thù. Kẻ thù nói ở đây là ma quỉ và những kẻ đi theo chúng. Vai trò của Thiên thần Hộ thủ có thể ví được như luật sư, là bảo vệ chứ không thể làm thay đổi hành vi mà khổ chủ gây ra. Vì thế, đừng làm khó các Thiên thần bằng việc bắt cá hai tay: vừa kêu cầu sự trợ giúp, lại vừa thông đồng với kẻ thù để thực hiện những hành vi đen tối.
Sống Lời Chúa: Đừng để Thiên thần Hộ thủ lầm lũi bên ta, hãy tâm sự và cầu nguyện với ngài, vì ngoài Thiên Chúa, không ai gần gũi ta hơn ngài.
Lễ nhớ các Thiên Thần Hộ Thủ bắt nguồn từ năm 1411: một lễ được lập vào ngày này ở Valencia (Tây Ban Nha) để tôn kính vị thiên thần bảo vệ của thành phố. Năm 1590, Đức Giáo Hoàng Sixte V phê chuẩn cho Bồ Đào Nha một bản kinh phụng vụ riêng để kính các thiên thần hộ thủ, và năm 1608, Đức Giáo Hoàng Phaolô V qui định lễ này trong lịch Rôma phổ quát, mừng vào ngày đầu tiên không có lễ nào sau lễ thánh Micae. Vì thế lễ nhớ các thiên thần hộ thủ ngày nay mang ý nghĩa mở rộng lễ kính Tổng lãnh thiên thần Micae.
II. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện trong ngày, chúng ta cầu xin Chúa – Đấng sai “các thiên thần gìn giữ chúng ta” – xin Người ban cho chúng ta “được ơn che chở của các ngài và niềm vui được sống với các ngài luôn mãi”.
Hai Bài đọc của thánh lễ (Xh 23, 20-23 và Mt 18, 1 . . . 10) làm nổi bật sứ mạng quan phòng của các thiên thần: Ta sai thiên thần Ta đi trước mặt ngươi, để gìn giữ ngươi trên đường . . . (Xh 23, 20); . . . Các thiên thần của họ ở trên trời hằng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy (Mt 18, 10). Đây là hai sứ mạng luôn đi đôi với nhau của các thiên thần: không ngừng chiêm ngưỡng nhan Chúa Cha và bảo vệ loài người trên mọi nẻo đường của họ.
Bài giảng của thánh Bênađô trong Bài đọc Giờ Kinh Sách mời gọi chúng ta có lòng thảo kính đối với các ngài: “Thế nên các ngài ở bên cạnh bạn, không chỉ ở với bạn mà còn vì bạn; các ngài hiện diện để che chở bạn, cứu giúp bạn; và tuy rằng các ngài làm việc này vì Thiên Chúa ra lệnh cho các ngài, nhưng chúng ta không được thiếu sót trong việc thảo kính đối với các ngài.” (Bài giảng về Tv 90).
Lời nguyện hiệp lễ mời gọi chúng ta nhớ đến “con đường cứu độ và bình an” mà các thiên thần dẫn bước chúng ta đi. Sứ mạng này cũng được gợi lên trong Điệp ca 1 của giờ Kinh Sáng: “Chúa sẽ sai thiên thần của Người đến, để gìn giữ ngươi trên đường.” Câu xướng đáp của bài đọc giáo phụ lặp lại câu trích thánh vịnh 90: “Người ra lệnh cho các thiên thần của Người gìn giữ bạn trên mọi nẻo đường của bạn.” Điệp ca của thánh thi Benedictus: “Chúa truyền cho các thiên thần của Người che chở những kẻ thừa hưởng Nước Trời” lấy cảm hứng từ Dt 1, 14: “Nào tất cả các vị đó (thiên thần) không phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?”
Các bài đọc vắn cống hiến chúng ta nhiều ví dụ về sứ vụ của các thiên thần: một thiên thần được Thiên Chúa ban cho Ítraen (Xh 23, 20-21); các tông đồ được giải thoát khỏi nhà tù ở Giêrusalem (Cv 5, 17-20); thánh Phêrô được giải cứu khỏi nhà tù (Cv 12, 7); một thiên thần được sai đến với ông Cornêliô (Cv 10, 3-5); một thiên thần dâng lên Chúa các lời cầu nguyện của tất cả các thánh (Kh 8, 3-4).
Trong thánh thi Kinh Chiều, chúng ta ước nguyện được một thiên thần đang chiêm ngưỡng nhan Cha, “ghé xuống thăm / cầm than hồng chạm đến chúng ta; / để môi miệng chúng ta dâng lời cảm tạ, / và được thanh tẩy bằng ơn tha thứ.” Nếu các thiên thần trên trời lên xuống trên Con Người (Ga 1, 51), thì chúng ta, “những kẻ thừa hưởng Nước Trời”, nhờ đời sống phụng vụ ở dưới đất này, chúng ta có thể hợp tiếng với các thiên thần để thờ lạy Thiên Chúa bằng một bài ca ngợi khen duy nhất.
”Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 18,10)
Suy niệm: “Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta, mạng lưới này tuy vô hình, nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho ta yêu chuộng giây phút chóng qua hơn sự sống vĩnh cửa, khuyến dụ ta chạy theo sự vô định hơn chân lý, nó bảo ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi" (Triết gia Raissa Maritain). Khắc tinh của ma quỷ là các hiệp sĩ thiên thần hộ thủ, những người bạn thân vô hình được Thiên Chúa sai đến ở bên cạnh, hộ giúp ta đêm ngày. Vai trò của các ngài là giúp ta phá đi mạng lưới ảo tưởng, đưa ta đến môi trường của sự thật giải thoát của Tin Mừng Nước Trời. Các ngài nhắc nhở ta cài “phần mềm” sự sống vĩnh cửu trong mọi việc ta làm, phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân trong mọi dự tính đời ta.
Mời Bạn: Các hiệp sĩ vô hình ấy chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó hay không tùy thuộc nơi thái độ của bạn. Nếu bạn ngoan ngoãn vâng theo sự soi sáng hướng dẫn của các ngài, dù phải trầy da tróc vẩy, bạn sẽ thoát vòng vây của quỷ ma và đạt đến cùng đích đời mình là hạnh phúc muôn đời bên Chúa.
Sống Lời Chúa: Tập lắng nghe tiếng nhắc nhở của thiên thần hộ thủ, và ngoan ngoãn làm theo, dù phải hy sinh ý riêng, sở thích riêng của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã sai các thiên thần hộ thủ nâng đỡ chúng con trên hành trình đi về quê trời. Xin cho chúng con biết vâng theo sự hướng dẫn của các ngài, và cảnh tỉnh trước những hiểm họa do ma quỷ, xác thịt và thế gian đang cản trở bước đường của chúng con. Amen.
Đọc lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy có rất nhiều đoạn đề cập tới các thiên thần. Sống giữa một thế giới luôn có ánh sáng và bóng tối, các thiên thần được Chúa giao nhiệm vụ ở cạnh loài người, ở cạnh con người. Chúa Giêsu và Hội Thánh đã dậy con người điều đó.
Giáo lý công giáo cũng viết: “ Thiên thần và con người là những thụ tạo thông minh và tự do, nên phải tiến về cùng đích bằng một sự lựa chọn tự do và yêu chọn cái tốt hơn”. (SGLCG số 311) hoặc số 328 sách giáo lý công giáo nói: ”Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng, không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý đức tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế. Nếu ma quỷ, satan, và sự dữ đang vây lượn chung quanh con người, xung quanh thế giới để quấy nhiễu, ám hại con người như sư tử hung ác tìm mồi cắn xé, an ủi thay chính Thiên Chúa lại gửi đến cho nhân loại, cho con người những sự trợ giúp rất hữu hiệu của các thiên thần. Chúng ta thường quen gọi các thiền thần này là các thiên thần hộ thủ hay thiên thần bản mệnh. Các thiên thần hộ thủ nâng đỡ con người, gìn giữ con người khỏi những hiểm nguy, khỏi sự dữ, giúp con người xa lánh mọi dịp tội, gợi lên trong tâm trí con người những ý tưởng lành thánh và dẫn con người đi vào con đường thánh thiện, đạo đức. Các thiên thần hộ thủ thêm sức mạnh cho con người trong những cơn cám dỗ, trong những lúc gặp những sự thử thách hiểm nghèo, nâng đỡ và khuyến khích con người trong lúc thất vọng và an ủi con người trong những cơn u sầu, đen tối. Mỗi khi con người sa ngã vì yếu đuối, sai lầm, thiên thần hộ thủ giúp con người tỉnh thức hồi tâm, sửa đổi, quay về đường chính nẻo ngay, và bầu cử cho con người trước ngai toà Thiên Chúa. Các thiên thần bản mệnh cũng soi sáng, thêm sức cho con người trong giờ hấp hối.
Chính Chúa Giêsu cũng từng nhắc nhủ nhân loại: ”Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18, 10). Do đó, các vị là “những người đi thực hiện Lời Chúa, sẵn sàng phụng lệnh Người” (Tv 103, 20).
Mừng lễ các thiên thần hộ thủ, chúng ta hãy ghi nhớ lời Thiên Chúa nói: ”Mọi thiên thần của Thiên Chúa, hết thảy phải tôn thờ Người” (Dt 1, 6). Lời ca tụng của các thiên thần khi Chúa Kitô giáng sinh không ngừng vang lên trong lời ca tụng của Hội Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa…” (Lc 2, 14). Thiên Thần hộ thủ là Đấng ở bên cạnh chúng ta để che chở và giúp đỡ chúng ta. Do đó, chúng ta phải biết ơn bằng cách chu toàn bổn phận đối với các thiên thần bản mệnh. Bổn phận của chúng ta là tỏ lòng kính trọng các Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, yêu mến và tin tưởng cậy trông vào sự che chở, phù trì của các Ngài. Đồng thời, chúng ta sẵn sàng nghe theo lời chỉ dậy, hướng dẫn của các Ngài theo tiếng của lương tâm chúng ta. Mỗi người Chúa đều ban cho một thiên thần bản mệnh để Ngài nâng đỡ, an ủi, hướng dẫn, giữ gìn.
Lạy các thiên thần hộ thủ, xin bênh vực chở che chúng con trong mọi trạng huống của cuộc đời chúng con đang phải đương đầu và chiến đấu. Amen.
Nếu sức mạnh của sự dữ và ma quỉ đông hàng hà sa số, đang ngày đêm bay lượn quanh nhân loại, xung quanh chúng ta để tìm cơ hội làm hại con người thì sung sướng và hạnh phúc, vững dạ thay khi Chúa gửi đến cho loài người một sức mạnh vô cùng hữu hiệu là các Thiên Thần. Sự trợ giúp này, Chúa và Giáo Hội gọi là các Thiên Thần Hộ Thủ hay Bản Mệnh. Các Thiên Thần Bản Mệnh gìn giữ con người khỏi hiểm nguy, khỏi mọi sự dữ quấy phá, đưa con người tránh xa dịp tội để con người kết hợp và tiến bước tới Chúa.
THIÊN THẦN BẢN MỆNH LÀ AI?
Thiên Chúa thiết lập vũ trụ, tạo dựng con người. Sách khải nguyên ngay từ những trang đầu đã thuật lại việc Thiên chúa tạo dựng Trời Ðất, tạo nên Con người. Trong vũ trụ hỗn mang đan xen bóng tối và sự sáng. Lực của bóng tối, của ma quỉ mạnh mẽ vô cùng. Ma quỉ có số đông vô số kể lúc nào cũng lượn quanh con người, rình mò cắn xé. Ngay trang đầu khởi nguyên, Kinh Thánh đã viết: "thần khí Chúa bay lượn là là trên mặt nước" và trong Tân Ước, trong đêm Giáng Sinh, Thiên Thần của Chúa với muôn cơ binh đàn ca, vinh tụng xướng hát, tôn vinh con Thiên Chúa là Ðức Giêsu xuống thế làm người. Ðây là các Thiên thần luôn túc trực để thờ phượng Chúa và nâng đỡ con người. Trong số này, có muôn vàn Thiên Thần Bản Mệnh, Chúa sai tới để nâng đỡ, gìn giữ từng người. Các ngài giúp con người tránh xa các dịp tội, thêm sức mạnh cho con người để con người thoát những cơn cám dỗ nguy hiểm, nâng đỡ và khuyến khích con người khi con người gặp những sự thất vọng ở trần gian, an ủi con người trong những cơn sầu muộn. Các Thiên Thần Bản Mệnh cũng giúp con người hồi tâm thống hối khi con người yếu đuối, sa ngã, cầu bầu cùng Chúa cho con người. Các Thiên thần Bản Mệnh cũng soi sáng, thêm sức mạnh cho con người khi con người đang hấp hối, nguy tử vv.
Các Thiên thần Bản Mệnh có sứ mạng lớn lao là luôn hiện diện bên cạnh con người để giữ gìn, an ủi và che chở con người.
Nên, Thánh vịnh 137,1 đã viết: " Lạy Chúa, giữa chư vị Thiên Thần, con đàn ca kính Chúa" hoặc trong lời nguyện nhập lễ ngày 2/10, Giáo Hội đã cất tiếng nguyện xin: "Chúa sai các Thiên Thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này được các Ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các Ngài hưởng phúc vinh quang".
CÂU CHUYỆN MINH CHỨNG BÀN TAY THIÊN THẦN BẢN MỆNH HỘ PHÙ, CHỞ CHE
Số là có một cha sở miền quê bên Pháp lúc đó đang ở một xứ đạo hẻo lánh, một đêm kia được tin một người đau nặng, đang hấp hối, muốn xin Ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử Ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, Ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, Ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, Ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với Ngài. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối. Câu chuyện đã qua 10 năm rồi, nếu không có biến cố mới này thì nó đã rơi vào quên lãng: Một tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai. Người ta báo cho vị linh mục năm xưa đã băng qua khu rừng để đi xức dầu cho người đang hấp hối. Linh mục được báo tin có người tử tù muốn gặp, đã tới vì lòng nhân từ. Vừa thấy linh mục, người tử tù đã muốn phản ứng, xua đuổi, không muốn gặp vị linh mục, nhưng bỗng anh ta ngừng lại và nói với vị linh mục: "có phải cha là cha sở họ X không?". Vị linh mục ngạc nhiên trả lời trước đây 10 năm tôi làm cha sở ở họ đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác. Thì ra các đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: "Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự". Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên thần Bản Mệnh giúp đỡ. Và như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi.
Câu chuyện trên minh chứng Thiên Thần Hộ Thủ luôn có mặt khi con người kêu cầu, xin ngài giúp đỡ,can thiệp.
"Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính các Thiên Thần Hộ Thủ, xin cho các Ngài luôn ở gần chúng con để trông nom gìn giữ, nhờ đó, chúng con sẽ thoát khỏi mọi nguy hiểm dưới thế và mai sau được hưởng hạnh phúc trên trời" (Lời nguyện tiến lễ ngày 2/10, lễ các Thiên Thần Hộ Thủ).
Xin cho mọi người chúng con luôn biết kính trọng, yêu mến và cậy trông vào sự che chở của các Thiên Thần Hộ Thủ, và luôn sẵn sàng tuân theo lời chỉ dậy của các Thiên Thần Bản Mệnh qua tiếng nói lương tâm.
Giáo Lý Công Giáo dạy: “Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý Đức Tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế” (số 328).
“Chân lý Đức Tin” thì vượt lý trí con người, ta chỉ có thể đón nhận được chân lý này với lòng khiêm tốn và tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa toàn năng, toàn tri, toàn thiện, luôn mạc khải cho ta những điều hữu ích.
Mạc khải không nói rõ Chúa dựng nên thiên thần vào lúc nào. Mạc khải cho ta biết “mục đích Chúa dựng nên thiên thần để sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu độ” (Dt 1,14).
Cụ thể như thiên thần Gabriel mang sứ điệp Truyền Tin (x Lc 1,19.26); một đạo binh các thiên thần trên Thiên Quốc hát mừng trong đêm Giáng Sinh (x Lc 2,9-14); các thiên thần còn báo tin Chúa Giê-su Phục Sinh (x Mt 28,5t) và thông báo cho các môn đệ Đức Giê-su hiểu biết ý nghĩa việc Chúa Giê-su Thăng Thiên (x Cv 1,10t). Thiên thần còn có sứ mệnh phụ tá Đức Ki-tô Giê-su trong việc cứu độ nhân loại, các thiên thần chăm sóc, gìn giữ loài người (x Cv 12,15) và mỗi người Công Giáo (những kẻ bé mọn) được các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa Cha (x Mt 18,10: Tin Mừng), để dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các thánh (x Kh 5,8; 8,3), cùng dẫn đưa linh hồn người công chính vào Thiên Đàng (x Lc 16,22).
Có một mối dây liên lạc mật thiết nối kết Phụng Vụ trần thế với Phụng Vụ Thiên Quốc: trên trời các thiên thần cử hành Phụng Vụ vĩnh cửu (x Kh 4,8-11), mà Phụng Vụ Giáo Hội ở trên dương thế cũng cùng hiệp thông, như trong kinh Vinh Danh và trong kinh Tiền Tụng.
Tuy vậy, các thiên thần không được phúc ngắm nhìn Lời Thiên Chúa (x 1Pr 1,12). Cụ thể ngôn sứ Isaia vào Đền Thờ thấy thiên thần Sêraphim chầu hầu bên Hòm Bia Thiên Chúa, phải lấy hai cánh che mặt (x Is 6,2); và Chúa cũng không bao bọc một thiên thần nào, Ngài chỉ bao bọc dòng giống Abraham: những người tin tưởng tuyệt đối vào Lời Thiên Chúa để hành động (x Dt 2,16).
Có loại thiên thần ánh sáng (Lucipher) đã kiêu ngạo tức khắc bị lãnh án phạt: “Hỡi tinh tú rạng ngời, con của bình minh,chẳng lẽ ngươi đã từ trời sa xuống rồi sao? Này, kẻ chế ngự các dân tộc, ngươi đã bị hạ xuống đất rồi ư? Chính ngươi đã tự nhủ: "Ta sẽ lên trời: ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao của Thiên Chúa; ta sẽ ngự trên núi Hội Ngộ, chốn bồng lai cực bắc.Ta sẽ vượt ngàn mây thẳm, sẽ nên như Đấng Tối Cao." Nhưng ngươi lại phải nhào xuống âm phủ, xuống tận đáy vực sâu” (Is 14,12-15). Chính Chúa Giê-su cũng đã xác định như vậy: “Ta đã thấy satan như chớp nhoáng tự trời sa xuống” (Lc 10,18).
Satan có nghĩa là địch thủ; hoặc quỷ có nghĩa là kẻ vu khống, nó hiện diện như cùng với các thiên thần tốt lành tại triều đình Thiên Chúa, chu toàn nơi tòa án Thiên Quốc một nhiệm vụ giống như một biện lý công cộng, có bổn phận bắt người trần thế phải tôn trọng công lý và quyền lợi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dưới chiêu bài phục vụ Thiên Chúa, chúng ta nhận ra nó là kẻ lừa gạt muốn lôi kéo người ta không còn tin vào Thiên Chúa nữa (x Giop 1-3). Nó đội lốt hình con rắn ghen với hạnh phúc của loài người (x St 2,24), vì nó rất thông minh và khôn khéo, dụ dỗ được nguyên tổ loài người làm theo ý nó thì tốt hơn là làm theo ý Chúa (x St 3). Như thế vài trò cốt yếu của nó là cám dỗ, cố gắng xúi giục người ta phạm tội (x 1Tx 3,5; 1Cr 7,5), và như thế đặt loài người chống lại Thiên Chúa (x Cv 5,3), nhưng nó thường xuất hiện dưới dạng phản Ki-tô (x 2 Tx 2,7t). Quỷ khủng khiếp vì mưu mô, cạm bẫy, lừa dối và thủ đoạn (x 2Cr 2,11; Ep 6,11; 1Tm 3,7).Satan ngụy trang thành thiên thần ánh sáng (x 2Cr 11,14). Nhưng nó bị đánh bại bởi cây Thập Giá của Chúa Ki-tô (x Ep 6,10) và kinh nguyện của loài người (x Mt 6,13). Chỉ kẻ nào thuận theo satan mới bị chiến bại (x Gc 4,7; Ep 4,27). Satan sẽ bị ném vào biển diêm sinh bốc lửa, nó sẽ chết lần thứ hai (x Kh 20,10.14t).
Vậy ta không được tin vào thuyết nhị nguyên là trong thế giới này có thần lành và thần dữ luôn đấu đá với nhau, khi nào thần lành thắng thì ta hạnh phúc; khi nào thần dữ thắng thì ta khổ! Mà phải tin rằng mọi kẻ thù đều làm bệ kê chân Đức Ki-tô, đến nỗi “trước danh hiệu của Đức Ki-tô, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy, chốn hoằng thiên, trên địa cầu, dưới gầm đất, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: Giê-su Ki-tô là Chúa mà làm vinh hiển cho Thiên Chúa Cha” (Pl 2,9-11).
Mỗi người Công Giáo được Chúa sai thiên thần đến chăm sóc, như Ngài nói: “Này Ta sai thiên sứ đi trước mặt ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. Trước mặt người hãy ý tứ nghe Lời người. Đừng làm cho người phải chịu cay đắng; người sẽ không tha lỗi lầm cho các ngươi, vì danh Ta ngự trong người” (Xh 23, 20-21: Bài đọc).
Chúa đã dặn mỗi người chúng ta phải ý tứ nghe Lời thiên thần, nghĩa là phải thực hành Lời Chúa Giê-su dạy: “Muốn làm lớn phải hoán cải nên như trẻ nhỏ và hạ mình như trẻ nhỏ (x Mt 18,1-4: Tin Mừng).
I. Phải hoán cải trở nên trẻ nhỏ: Có nghĩa là phải được tái sinh trong Chúa Giê-su
Thực vậy, ai không được sinh lại bởi Chúa Giê-su, dù người ấy có địa cao, thì trước mặt Chúa họ cũng chỉ là một sinh vật (x 1Cr 15,45), chẳng khác loài thú đều phải chết (x Gv 3,18-19). Mà ý định ngàn đời của Thiên Chúa là “con người phải nên giống hình ảnh Thiên Chúa” (x St 1,26). Không phải giống Thiên Chúa vô hình mà là giống Con Thiên Chúa làm người: Đức Giê-su Ki-tô. Do đó ta phải được tái sinh qua Bí tích để được đồng hóa với Đức Giê-su (Gl 2,20).
Đó là lý do Đức Giê-su nói về ơn tái sinh với ông Ni-cô-đê-mô: “Quả thật, quả thật, tôi bảo ông: ai không bởi Trên sinh ra, thì không thể thấy được Nước Thiên Chúa”, làm ông thắc mắc: không lẽ người đã già lại có thể chui vào lòng mẹ lại sinh ra làm con nít? Thì Đức Giê-su lại nhấn mạnh: “Ai không sinh bởi nước và Thần Khí, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3, 3-5).
Một khi ta đã được tái sinh làm con Thiên Chúa, ta được đồng hóa với Chúa Giê-su (x Gl 2,20), cùng một xương thịt với Ngài (x Dt 2,11), cùng một sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6,57), và cùng quyền năng như Thiên Chúa (x Ga 14,12). Người như thế chắc chắn được Chúa Giê-su khen: “Họ là kẻ nhỏ trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông Gioan Bt, mặc dù ông Gioan là người cao cả nhất trong những người do người nữ sinh ra” (x Mt 11,11).
Xét về mặt tình cảm trong gia đình, ai nhỏ nhất, người ấy làm vua. Bởi lẽ cả gia đình phải quan tâm chăm sóc, trìu mến đứa con sơ sinh. Cũng chính vì vậy mà trong ngày Đức Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, báo hiệu ý muốn của Thiên Chúa là loài người phải được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Ngày ấy, tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Tiếng ấy, Chúa Cha muốn nói về những người được tái sinh trong Con yêu dấu của Ngài.
Vậy ai được tái sinh làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha thì cũng được Hội Thánh là Mẹ ôm vào lòng: “Được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ; được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối, khiến thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh” (Is 66, 10-14c).
II. Sống tinh thần trẻ thơ. Cụ thể phải là:
- Vâng phục cha mẹ.
- Sống không có ác tâm.
- Không đòi ai quan tâm tôn mình lên.
- Luôn sống vươn tới sự trưởng thành.
- Sống lệ thuộc vào đấng sinh thành.
- Sống bằng tình yêu.
1/ Vâng phục cha mẹ. Trẻ nào không vâng phục cha mẹ, không thể thành công làm lớn trong xã hội được. Đức Giê-su muốn kẻ đã thuộc về Ngài phải đi con đường khiêm nhu, hạ mình phục vụ theo ý Cha trên trời dù phải chết nhục nhã đau khổ, như thế để học biết thế nào là Con vâng phục Cha, nhưng cuối cùng được Chúa Cha tôn vinh Con, đến nỗi trên trời dưới đất ai nghe danh Con, mọi đầu gối phải sụp lạy bái quỳ (x Pl 2,6-11).
2/ Không có ác tâm: Thánh Phao-lô nói: “Có ác thì như con nít thôi” (1Cr 14,20). Thực vậy, trẻ con chơi với nhau thế nào cũng có lúc bất hòa, chúng mếu máo khóc lóc chạy đi mách ông bà cha mẹ, nhưng lát sau chúng lại vui đùa với nhau bình thường, đó là “cái ác” của trẻ thơ; khác hẳn người trưởng thành, bề ngoài xem ra thân thương, hòa thuận, nhưng trong lòng tìm mưu kế hại nhau.
3/ Không đòi ai quan tâm tôn mình lên. Cụ thể: trong bữa tiệc, những người có chức vị thì được tôn trọng mời lên chỗ danh dự, còn đàn bà con nít thì không đáng kể (x Mt 14,21). Vậy ta phải sống khiêm tốn hạ mình sát đất thì không còn khoảng cách nào để phải sợ té!
4/ Luôn sống vươn tới sự trưởng thành. Thánh Phao-lô nói: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1Cr 13,11). Bởi vì ai cũng biết con nít nói trước hiểu sau, còn người trưởng thành thì phải nghĩ trước, hiểu rồi mới nói. Vậy ta phải chăm học hỏi giáo lý, Kinh Thánh, vì “khởi điểm đạt tới Đức Khôn Ngoan là thật lòng ham muốn học hỏi” (Kn 6,17).
5/ Sống lệ thuộc vào đấng sinh thành. Thánh Phao-lô muốn các Ki-tô hữu phải sống lệ thuộc vào Thiên Chúa, như trẻ thơ trong gia đình phải lệ thuộc vào cha mẹ: chúng muốn gì phải được phép của cha mẹ, mặc dù mọi vật trong gia đình cha mẹ mua sắm là dành cho con cái (x Gl 4,1-3). Vậy bất cứ làm việc gì, ta phải cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn.
6/ Sống bằng tình yêu. Trẻ thơ không bao giờ bận tâm lo ăn gì, uống gì, mặc gì? Cũng chẳng sợ kẻ thù nào, nếu nó được nép mình trong tay cha mẹ. Thiên Chúa muốn con cái Ngài sống tinh thần đó, như Lời Kinh Thánh nói: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 131/130,1-3).
Ai sống Lời Chúa Giê-su dạy trên đây, thì được Ngài xác nhận: Người ấy đã đón tiếp chính Ngài (x Mt 18,5). Và như thế mới được “Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường” (Tv 91/90,11).
THUỘC LÒNG
Thiên thần là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ (Dt 1,14).
Trong bài huấn từ vào sáng ngày 02/10/2015 tại nhà nguyện Thánh Mácta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Thiên Chúa ban cho mỗi người một “vị đồng hành”, một Thiên Thần Bản Mệnh để khuyên nhủ, bảo vệ và nâng đỡ”.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người là những thụ tạo yếu đuối hay sa ngã. Vì thế, Người đã gửi đến cho mỗi người một vị thiên thần, gọi là Thiên Thần Bản Mệnh, để che chở và giữ gìn con người khỏi tay ma quỷ, từ lúc mới sinh cho đến khi qua đời. Thiên Thần Bản Mệnh còn là thầy dậy, mở lòng con người để họ biết được đạo thánh Chúa, giúp họ tuân giữ luật Hội Thánh dạy, cũng như tránh xa những điều tội lỗi. Thiên Thần Bản Mệnh còn là Đấng bầu cử, luôn cầu nguyện cùng Chúa cho con người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết vâng nghe lời hướng dẫn của các Thiên Thần Bản Mệnh. Amen.
"Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này: vì Thầy bảo cho anh em biết, thiên thần của họ ở trên trời hằng chiêm ngắm thánh nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 18,10).
Giáo Hội Công Giáo dành ngày 02/10 hằng năm để mừng kính các Thiên thần Bản mệnh. Vào năm 1670, Đức Giáo Hoàng Clêmentê X đã thiết lập lễ này cho toàn thể Giáo Hội để tôn kính các đấng vô hình luôn ngày ngày bảo vệ chúng ta.
------------------------------
Trong khi đa số chúng ta chỉ chú ý đến các Thiên thần Bản mệnh cá nhân, truyền thống Giáo Hội (được các nhà thần học như Thánh Tôma Aquinô giảng dạy) cho biết rằng các quốc gia, các thành phố, các giáo phận, các giáo xứ đều có Thiên thần Bản mệnh riêng, có những người, những nơi còn có nhiều vị Bản mệnh.
Các ngài là những thụ tạo đẹp đẽ của Thiên Chúa, được ẩn giấu trong một mầu nhiệm kỳ vĩ. Báo chí nhiều khi tường thuật chuyện có một người huyền bí xuất hiện để giúp đỡ trong các vụ tai nạn rồi sau đó không bao giờ xuất hiện lại nữa. Chúng ta mắc nợ Thiên thần Bản mệnh của chúng ta rất nhiều, người hằng bảo vệ, chỉ dẫn chúng ta mà chúng ta không biết. Các ngài can thiệp vào đời sống chúng ta cách âm thầm, hoàn thành tác vụ của mình cách khiêm tốn nhất có thể.
Để chúng ta hiểu sâu sắc về các "người hỗ trợ từ trời" của chúng ta, hãy tìm hiểu 5 sự thật này về Thiên thần Bản mệnh.
1. Mỗi một người trên thế giới đều có một Thiên thần Bản mệnh (dù là Kitô hữu hay không)
Giáo lý, như được trình bày trong YOUCAT, dạy rằng "Mỗi một cá nhân đều nhận một Thiên thần Bản mệnh từ Thiên Chúa" (s. 55). Điều này phù hợp với lời dạy của Kinh Thánh, của các Thánh như Tôma Aquinô, Basiliô và Giêrônimô, thậm chí phù hợp cả với kinh nghiệm của những người ngoài Kitô giáo có cảm nhận về một sự giúp đỡ vô hình từ một vị thiên thần (người Việt Nam ta hay nói trẻ em có một bà mụ nâng đỡ).
Mike Aquilina, một nhà giáo sử nổi tiếng, viết về những kinh nghiệm của bạn ông liên quan đến thiên thần giúp đỡ như sau:
"Một người bạn của tôi, một nhà triết học nổi tiếng từng học ở Harvard, là người vô thần từ trẻ. Một hôm, khi anh ta đang bơi ngoài biển thì bị sóng cuốn ra khơi. Anh ta biết mình đang chìm xuống, không hy vọng được ai cứu nữa. Đột nhiên, một cánh tay mạnh mẽ nắm lấy anh và kéo vào bờ. Người nắm lấy anh là một chàng trai vạm vỡ. Anh bạn vừa chết hụt định cám ơn người thanh niên kia thì anh thanh niên cười và biến mất. Từ lúc đó, anh bạn của tôi bắt đầu con đường quay trở về đức tin."
2. Thiên thần Bản mệnh được ban ngay từ đầu đời
Giáo lý dạy rằng: "Từ khởi đầu đến kết thúc, cuộc đời con người được vị chuyển cầu và săn sóc cẩn thận bao bọc" (số 336). Thánh Anselmô tin rằng các thiên thần được gửi đến ngay từ giây phút đầu tiên khi linh hồn hiệp vào thân xác con người trong dạ mẹ. Tuy nhiên điều này chưa được tuyên tín và vẫn còn có nhiều tranh luận. Nếu đúng vậy, người phụ nữ mang thai có hai Thiên thần Bản mệnh, cho mình và cho thai nhi của mình.
3. Thiên thần Bản mệnh có tên, và chỉ mình Thiên Chúa biết tên của các vị
Giáo Hội hướng dẫn chúng ta rằng: "Thói quen đặt tên cho các Thiên thần nên bị loại bỏ, trừ những vị được đề cập rõ ràng trong Kinh Thánh như Gaprien, Raphaen và Micaen" (Thánh bộ Phụng tự, Huấn thị về Lòng đạo đức Bình dân, số 217, năm 2001).
Lý do cho điều này đó là tên họ chứa ẩn một quyền lực nào đó trên một người. Ví dụ, nếu tôi biết tên bạn và gọi tên bạn khi tôi muốn, bạn bị bó buộc nghe tôi, và tôi có một chút quyền lực trên bạn (khi thư yếm người khác, phù thuỷ cũng phải gọi tên người bị thư yếm). Ngược lại, chúng ta không có quyền gì trên các Thiên thần. Các ngài chỉ phải thưa chuyện với duy nhất Vị Chỉ Huy của mình: Thiên Chúa. Chúng ta có thể nhờ các vị giúp đỡ, nhưng đừng nghĩ các ngài đứng đó khi ta vẫy tay và gọi.
Giáo Hội bác bỏ thói quen gọi tên các Thiên thần Hộ thủ vì có nhiều người có thói quen đặt tên cho các vị và kêu cầu, nhưng đó không phải là điều được linh hứng. Nó thậm chí có thể là do tác động của ma quỷ. Chỉ những danh hiệu được mặc khải rõ trong Kinh Thánh mới đáng tin tưởng, và những cái tên khác thì không thể biết chắc có đến từ Thiên Chúa hay không.
4. Chúng ta sẽ không trở thành Thiên thần sau khi chết
Nhiều người tin rằng chúng ta sẽ biến thành các Thiên thần sau khi chết, nhưng sự thật ngược lại, đó là chuyện không thể. Sau khi chết, con người rời khỏi thân xác mình một thời gian, và sẽ hiệp nhất lại vào thời tận cùng. Chúng ta sẽ không trở thành các Thiên thần vô hình. Tất cả các Thiên thần Bản mệnh đã được sáng tạo ngay từ khởi thuỷ công trình tạo dựng.
Hãy nhớ lời Chúa phán cùng tiên tri Giêrêmia: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong dạ mẹ ngươi, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi sinh ra, Ta đã thánh hiến ngươi." (Gr 1,5) Thiên Chúa đã biết bạn và đã chỉ định một vị Thiên thần Bản mệnh cho bạn trước khi Người tạo dựng vũ trụ này.
5. Thiên thần Bản mệnh luôn ở đây để giúp đỡ chúng ta
Giáo lý gọi các Thiên thần Hộ thủ là các mục tử luôn muốn bảo vệ và dẫn dắt con người vào sự sống đời đời. Công tác duy nhất của các vị là giúp chúng ta vào Thiên đàng, nên chúng ta hãy cầu nguyện cùng các vị mỗi ngày, xin các vị giúp đỡ chúng ta trong mọi vấn đề của cuộc sống.
Giáo Hội cung cấp cho tất cả chúng ta một bản kinh tuyệt vời để cầu xin cùng Thiên thần Bản mệnh của mình:
Lạy Thiên thần Chúa là Thiên thần Bản mệnh yêu dấu của con. Nơi ngài Chúa ban tình yêu của Người cho con. Mỗi ngày, xin ngài hãy ở cạnh bên con để soi sáng và canh giữ, để điều khiển và hướng dẫn con. Amen.
Mỗi người Chúa dựng nên đều có một thiên thần giữ mình, điều đó Chúa Giê-su đã khẳng định: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn nầy; quả thật, Thầy nói cho anh em biết; các thiên thần của họ không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt. 18, 10).
Và thánh Bê-na-đô minh chứng: “Chúa đã sai các thiên thần đến phục vụ các con, cắt đặt các ngài gìn giữ các con, và cho các ngài làm quản giáo cho các con”. Thánh Giê-gô-ri-ô nói: “Phẩm giá các linh hồn cao quý biết bao, vì mỗi linh hồn đều được Thiên Chúa ban cho một thiên thần chăm sóc”. Và thánh Ghê-rô-ni-mô viết: “Chúa biết ác tâm của ma quỷ, chúng luôn tìm cách ngăn cản không cho ai vào chỗ chúng đã mất trên thiên đàng, nên ban cho mỗi người một thiên thần hộ thủ, để chống trả kẻ thù của phần rỗi chúng ta”.
“Ma quỷ đông đúc và độc dữ như sư tử, ngày đêm rình chực hãm hại con người, thì Chúa cũng ban cho họ vô số thiên thần quyền phép hơn gìn giữ bảo hộ. Ngay lúc mới sinh ra, mỗi người đều có một thiên thần giữ mình. Dù lương hay giáo, dù lành hay dữ, ai ai cũng được Chúa thương cho thiên thần che chở. Chẳng những Chúa cho thiên thần bảo vệ từng người, mà còn cho các ngài gìn giữ các xã hội, các cộng đoàn, các gia đình, mọi nước, mọi thành, mọi nơi chốn có con người trú ngụ. Như lời thánh Tô-ma tiến sĩ nói: “Có thiên thần bảo hộ các quốc gia, dân tộc, thành thị, cộng đoàn cũng như mỗi người”.
“Thiên thần hộ thủ có trách nhiệm che chở chúng ta khỏi mọi sự dữ và gian nan khốn khó, cứu giúp chúng ta khỏi sa ngã phạm tội, giúp chúng ta làm lành lánh dữ, nâng đỡ chúng ta trong lúc yếu đuối, tăng thêm lòng can đảm mạnh mẽ, an ủi chúng ta trong những lúc sầu buồn đau khổ”.
“Các ngài còn giúp sức chúng ta lướt thắng các chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt thế gian. Và nếu chúng ta có lỡ lầm sa ngã, các ngài nâng đỡ chúng ta ăn năn hối cải”.
“Ngoài ra, các thiên thần hộ thủ dâng lên trước tòa Chúa các việc lành phúc đức và lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta được ơn lành của Chúa. Các ngài an ủi soi sáng chúng ta trong cơn bệnh hoạn chết chóc, và bênh đỡ chúng ta trong ngày phán xét”.
“Tắt một lời, Chúa cho thiên thần hộ thủ gìn giữ che chở chúng ta trên khắp nẻo đường và suốt đời, như thánh Bê-na-đô nói, và bảo chúng ta hãy cám ơn Chúa, vì Người đã thương chúng ta, đồng thời phải kính sợ, thương mến, tin tưởng thiên thần giữ mình: “Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Họ hãy cảm tạ Chúa vì tình thương Người, vì những kỳ công Người đã làm cho con cái loài người…”
“Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Lời nầy phải mang lại cho bạn bao niềm kính sợ, tôn kính và tin tưởng: Kính sợ trước sự hiện diện, tôn kính trước lòng nhân hậu, tin tưởng trước sự phù trợ của các ngài”.
Ngoài ra, ba bổn phận kính sợ, tôn kính, tin tưởng như thánh Bê-na-đô vừa kể, mỗi người còn cần phải sẵn sàng tuân theo sự hướng dẫn dìu dắt của thiên thần hộ thủ, để được sống đẹp lòng Chúa và đáng thưởng phước đời đời.
Quyết tâm: Hằng ngày tôi luôn kính sợ, tôn kính, tin tưởng và làm theo thiên thần hộ thủ dạy bảo chỉ dẫn, để ngày sau được Chúa thưởng.
Lời nguyện: Lạy Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời nầy được các ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang.
Ngày xưa người ta tin rằng thiên thần là những thần linh giữ vai trò quan trọng trong việc liên lạc giữa thế giới Thiên Chúa và con người; niềm tin này đã được thấy nói trong Cựu Ước, cho dù không được giải thích rõ ràng.
Trong Cựu Ước, thiên thần là sứ giả trợ lực của Thiên Chúa (St 16,7; 21,17; Xh 14,19; 2 V 19,35). Trong những tác phẩm cuối (tỉ như sách Đanien) có kể tên các vị thiên thẩn; qua tên đó chúng ta thây được công tác của họ.
Trong Tân Ước, các thiên thần cũng giữ mội vai trò trong đời sống Đức Giêsu và Hội Thánh tiên khởi. Nếu có những sức lực của satan, của ma quỷ, thì cũng có những thiên thần lành, trợ lực, hướng dẫn và bảo vệ con người. Niềm tin vào thiên thần bản mệnh hay hộ thủ dựa vào đoạn Phúc Âm Mt 18,10.
Thánh Lễ thiên thần hộ thủ rất phổ biến ỏ thế kỷ XV và XVI, thường được liên kết với lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae (29.9). Năm 1670 Đức Giáo Hoàng Clémentô X đã cho phép mừng lễ thiên thần hộ thủ trong cả Hội Thánh và xác định lễ này vào ngày 2.10 hằng năm.
a) Bài đọc 1: Xh 23,20-23a
Thuật ngữ Hiprí, mà chúng ta thường dịch ra là “Thiên Thần”, thực sự có nghĩa đơn sơ là “Sứ giả”, người nhận lệnh của chủ để nói hay làm một cái gì. Trong Cựu Ước thì “Thiên Thần của Chúa” (Thiên thần của Giavê) không phân biệt gì với chính Giavê: Thiên Thần chính là Thiên Chúa xuất hiện ở ưần gian để nói và hành động.
Mãi trong những văn bản mới, nhất là sau thời lưu đày ở Babylon, chúng ta mới gặp những lời rõ ràng, không những phân biệt giữa Thiên Chúa và thiên thần, nhưng còn kê khai cả tên và phận vụ của từng thiên thần.
Theo cái nhìn này, thì đoạn Xuất Hành 23 thuộc về loại cổ. Thiên Chúa đã hứa với dân ưong sa mạc, sẽ sai một thiên thần đến để dẫn lộ và bảo vệ dân. Danh Thiên Chứa tỏ hiện trong vị Sứ Giả này (23,21). Danh tức là người. Danh nơi sứ giả chính là Thiên Chúa, Người tự tỏ lộ để con người nhìn ra Người, cho phép họ kêu cầu Danh Người hay là cho họ cảm nhận được sự sợ sệt trước sự hiện diện của Người.
Vì Thiên Chúa hiện diện ngay trong các thiên thần, nên con người phải kính trọng và tin tưởng các Đấng.
b) Phúc Âm: Mt 18,1-5.10
Đoạn Mt 18,10 nói về “kẻ nhỏ”; như thế, ở đây không những nói về trẻ nhỏ, nhưng còn nói về những người yếu đuối, những người thấp bé về mặt kính tế và xã hội, những người đơn sơ. Luôn luôn chúng ta thấy những người này thường bị khinh khi và bị xử tệ.
Để tránh những thái độ như thế, Đức Giêsu nhắc đến giá trị của chính những con người đó. Chính Thiên Chúa biết và tôn trọng từng người này. Họ là con Thiên Chúa và hơn nữa, Thánh Kinh gọi họ là “con người của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu lại đồng hóa mình với họ: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, những gì các người đã không làm cho một người nào trong các kẻ hèn mọn nhất này, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta” (Mt 25,45).
Tất cả ngày tháng và hành động của “những kẻ bé mọn” này đều được tường trình trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa đã gởi những trung gian và sứ giả từ trời xuống để chăm sóc cho họ. Đó là những thiên thần phục vụ Thiên Chúa và con người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Cha sai các thiên thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này được các ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quanh. Chúng con cầu xin…
Thiên Chúa ban cho tất cả mỗi người chúng ta một Thiên Thần Hộ Thủ để đồng hành cùng chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế để khuyên nhủ và bảo vệ chúng ta. Chúng ta nên lắng nghe với sự nhu mì và kính trọng. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 02 tháng Mười, lễ Thiên Thần Hộ Thủ, tại nhà nguyện Santa Marta.
Bài giảng của Đức Thánh Cha trình bày những về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, và mô tả các thiên thần là đại sứ của Thiên Chúa, là Đấng đồng hành với mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha đã chứng minh điều này khi nhắc lại những gì xảy ra khi Chúa đuổi ông A dong ra khỏi vườn địa đàng: Ngài không để ông A dong bơ vơ một mình cũng chẳng nói với ông: “Hãy tự lo cho bản thân ngươi đi”, nhưng Chúa ban cho tất cả mọi người một Thiên Thần Hộ Thủ của Thiên Chúa, là Đấng đang ở bên cạnh chúng ta.
Đại sứ của Thiên Chúa bên cạnh chúng ta
“Vị ấy luôn ở với chúng ta! Và đây là một thực tế. Giống như có đại sứ của Thiên Chúa ở với chúng ta. Và Chúa khuyên chúng ta: ‘Hãy tôn trọng sự hiện diện của ngài!’ Chẳng hạn, khi chúng ta phạm một tội lỗi, chúng ta tin rằng chúng ta chỉ có một mình, không ai biết, chẳng ai hay. Không, ngài đang ở đó. Hãy tôn trọng sự hiện diện của ngài. Hãy lắng nghe tiếng nói của ngài vì ngài cho chúng ta lời khuyên. Khi chúng ta nghe những lời dụ dỗ: ‘Nhưng hãy cứ làm điều này đi… điều này là tốt hơn. ..’ chúng ta đừng làm điều đó nhưng hãy lắng nghe tiếng nói của Thiên Thần Hộ Thủ! Đừng chống lại ngài.”
Đức Thánh Cha Phanxicô nói các Thiên Thần Hộ Thủ luôn luôn bảo vệ chúng ta, đặc biệt khỏi các tội lỗi. Ngài lưu ý rằng “Đôi khi, chúng ta tin rằng chúng ta có thể che dấu rất nhiều điều xấu xa nhưng cuối cùng những điều như thế vẫn bị đưa ra trước ánh sáng. Thiên Thần hiện diện mọi nơi để nhủ bảo chúng ta và che chở cho chúng ta như một người bạn thân thiết. Một người bạn chúng ta không nhìn thấy nhưng chúng ta có thể nghe được tiếng nói của ngài vang lên trong thẳm sâu tâm hồn chúng ta, một người bạn một ngày kia sẽ ở cùng chúng ta trong niềm vui vĩnh cửu của Thiên Đàng.”
Tôn trọng và lắng nghe ngài
“Tất cả điều ngài đòi hỏi nơi chúng ta là lắng nghe và tôn trọng ngài. Tất cả chỉ tóm gọn trong sự tôn trọng và lắng nghe ngài. Sự tôn trọng và lắng nghe người bạn đồng hành này trong cuộc hành trình của chúng ta được gọi là sự nhu mì. Các Kitô hữu phải nhu mì trước Chúa Thánh Thần. Nhu mì hướng về Chúa Thánh Thần bắt đầu với sự tuân phục những lời khuyên của ngài trong cuộc hành trình của chúng ta”
Đức Thánh Cha giải thích thêm rằng để nhu mì, chúng ta cần phải trở nên như trẻ thơ và Thiên Thần Hộ Thủ của chúng ta là một người bạn đồng hành dạy ta sự khiêm nhường này và cũng giống như các trẻ thơ chúng ta vâng nghe lời ngài.
“Xin cho chúng ta biết cầu xin cùng Chúa cho ân sủng của sự nhu mì này, để lắng nghe tiếng nói của người bạn đồng hành này, tiếng nói của vị đại sứ của Thiên Chúa, là Đấng đồng hành với chúng ta nhân danh Ngài và xin cho chúng ta có thể được nâng đỡ bởi sự trợ giúp của Thiên Thần Hộ Thủ. Chúng ta phải tiến tới trong cuộc hành trình. Và trong Thánh Lễ này, nơi chúng ta ca ngợi Chúa, chúng ta hãy nhớ Thiên Chúa tốt lành dường bao, ngay sau khi chúng ta đánh mất tình bạn với Ngài, Thiên Chúa không để chúng ta bơ vơ lạc lõng. Ngài không bỏ rơi chúng ta.”
-- Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB Qua Lời Tổng Nguyện của lễ các Thiên Thần Hộ Thủ hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng ta, xin Chúa ban cho chúng ta đời này được các ngài luôn chở che bênh vực, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang. Các thiên thần được ơn gọi trước hết là để chiêm ngưỡng ánh huy hoàng của thánh nhan Thiên Chúa và không ngừng ca hát ngợi khen Người. Theo Kinh Thánh, Chúa cũng trao cho các thiên thần sứ mạng hiện diện bên cạnh con người để giúp đỡ con người. Ngày Lễ kính các Thiên Thần Hộ Thủ nhắc cho ta nhớ lại điều đó.
Để được gìn giữ và được hưởng phúc vinh quang với các thiên thần, chúng ta phải gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô cho thấy: Nhờ có Thiên Chúa không ngừng hoạt động, cuộc đời người Kitô hữu sẽ toả sáng. Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ… Anh em đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, thì hãy cố gắng hết mình, để làm cho ơn đó nên vững mạnh. Nhờ đó, con đường sẽ rộng mở, để đón nhận anh em vào Nước vĩnh cửu của Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta. Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối.
Để được gìn giữ và được hưởng phúc vinh quang với các thiên thần, chúng ta phải cung kính và sùng mộ các ngài, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Bênađô nói: Chúng ta hãy tỏ lòng sùng mộ và biết ơn đối với những vị đã bảo vệ chúng ta như thế; chúng ta hãy yêu mến các ngài để đền đáp, hãy tôn kính các ngài hết sức cho phải đạo… Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường; và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà.
Để được gìn giữ và được hưởng phúc vinh quang với các thiên thần, chúng ta phải biết ơn và nương tựa vào Đấng đã sai ngài che chở chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Xuất Hành cho thấy: Đức Chúa phán như sau: Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 90, vịnh gia đã cho thấy: Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường. Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn, là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúc tụng Chúa đi, toàn thể thiên binh hằng hầu cận và tuân hành thánh ý. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Chúa là Đấng đáng được chúc tụng và ngợi khen. Chúng ta phải dành cho Thiên Chúa trọn niềm yêu mến và tôn thờ, bởi vì, Người là Cha, là Chúa của chúng ta. Nhờ Người, mà các thiên thần lẫn chúng ta mới có khả năng tôn thờ và yêu mến Người, và chúng ta cũng được Người yêu thương chăm sóc. Chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng như thế nào, thì sau này chúng ta mới biết, hiện tại, chúng ta là những trẻ nhỏ, dưới quyền các vị hướng đạo và giám hộ, mà Chúa đã sắp đặt để gìn giữ chở che chúng ta. Dù chúng ta là trẻ nhỏ, mà đường còn dài và nguy hiểm nữa, nhưng, chúng ta sợ gì khi được các thiên thần giữ gìn trên khắp nẻo đường đời, chúng ta chỉ cần theo các ngài, gắn bó với các ngài, ắt sẽ được sống dưới sự chở che của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng ta, ước gì đời này, chúng ta được các ngài luôn chở che bênh vực, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang. Ước gì được như thế!
Hôm nay, Giáo Hội dâng lễ mừng các thánh Thiên Thần bản mệnh, còn gọi là các thánh thiên thần hộ thủ. Đây là dịp thật quan trọng để chúng ta tạ ơn Chúa tình yêu, cũng như cám ơn các ngài.
Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa tình yêu, vì trước hết, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Thiên Chúa yêu chúng ta vô cùng, yêu không bờ bến. Do đó, Thiên Chúa không muốn chúng ta bị trầm luân, bị hư mất đời đời, cho nên Thiên Chúa đã ban Con Một của Chúa, đó là chính Chúa cho chúng ta. Tiếp đó, Thiên Chúa lại ban cho chúng ta mỗi người có một thiên thần giữ mình như lời Chúa nói: “Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ hèn mọn này, vì Thầy bảo các con, Thiên Thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 18, 10). Và để chúng ta hợp tác hoàn toàn với các thiên thần bản mệnh mà Chúa gởi đến, Chúa đã dạy chúng ta hãy tôn trọng các ngài, nghe theo lời hướng dẫn của các ngài, để chúng ta làm lành lánh dữ và để các ngài dẫn chúng ta đến với Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ rất vui khi chúng ta làm đúng theo thánh ý Chúa trong trường hợp này.
Chúng ta cám ơn các thiên thần, vì các ngài đã vâng lời Chúa đến ở với chúng ta, gìn giữ, chở che, bảo vệ, đỡ nâng chúng ta: “Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Người truyền cho thiên sứ, giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường. Và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá. Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long” (Tv 90, 10 – 13). Có lẽ, các thiên thần rất buồn khi chúng ta ngỗ nghịch, phản kháng, cưỡng lại ơn soi sáng, không nghe lời hướng dẫn của các ngài, không hợp tác với các ngài, làm các ngài nản lòng, mệt mỏi, mà cứ đi theo ý riêng của mình để rồi phạm tội, làm mất lòng Chúa, chống lại Chúa, gây ra biết bao nhiêu hậu quả nghiêm trọng trong cuộc sống đời này, như làm mất trật tự trong các mối quan hệ xã hội, để rồi con người chúng ta giận ghét nhau, hận thù nhau, chém giết nhau…, khiến các ngài phải vất vả vãn hồi, khôi phục lại cho Chúa. Vì thế, chúng ta cần phải ngày đêm xin lỗi các ngài, cố gắng nghe lời các ngài mà sửa đổi cuộc đời của chúng ta cho tốt hơn.
Lạy Chúa, để các Thiên Thần bản mệnh giúp đỡ chúng con, xin Chúa ban ơn giúp chúng con biết trở nên như trẻ nhỏ, hạ mình xuống, sống đơn sơ, trong trắng, khiêm nhường, dễ dạy bảo, tin tưởng và theo lời chỉ bảo của các ngài, hầu mỗi ngày chúng con sống đẹp lòng Chúa và làm vui vẻ các ngài hơn: “Khi ấy, các môn đệ lại gần bên Chúa và hỏi Chúa rằng: Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời? Chúa gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và nói: Thầy bảo thật các con, nếu các con không trở lại mà nên như trẻ nhỏ này, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này, vì danh Thầy là tiếp đón Thầy. Các con hãy coi chùng, , chớ khinh thường một ai trong những kẻ bé mọn này. Quả thật, Thầy nói cho các con biết, các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18, 1 – 5. 10). Amen.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.
Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. "Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi". Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần". Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
Đức Giêsu sai các môn đệ của mình đi trước, từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến. Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào. Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ. “Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3). Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ, yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn. Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi. Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7). Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh, trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ. Nhưng người môn đệ lại không được trang bị nhiều: không túi tiền, không bao bị, không giầy dép, dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình. Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác. Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận. Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh, liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhà của các tín hữu là nơi hoạt động của người môn đệ. Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn. Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc. Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8), cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7). Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12). Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8), thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện. Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần. Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối, khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe. Những lời dặn dò của Đức Giêsu ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị. Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay. Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần, với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh. Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng. Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố. Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín, và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc? Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình? Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống, như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung, và làm việc như một người thợ để phục vụ. Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta). ---------------------------------
Triều đại Thiên Chúa. Đó là điều muôn đời ngàn dân trông đợi. Vì đời sống trần gian khổ cực đau thương. Chưa hề có triều đại nào đem lại hạnh phúc cho người dân. Chưa có chế độ nào hoàn toàn được tín nhiệm. Chưa có hệ thống ý thức hệ nào thực sự tạo nên thiên đường.
Dân Ít-ra-en cảm nhận được tất cả những nỗi khổ đau, nhục nhã khi bị lưu đầy. Nên khi được trở về. Được thờ phượng Chúa. Được nghe Lời Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm vui. “Ông Ét-ra mở sách... Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa….Các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: “Anh em đừng khóc nữa, vì hôm nay là ngày thánh!...” Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và liên hoan tưng bừng”. Họ sống một cuộc sống hạnh phúc vì tuân theo Lề Luật. Vì Thiên Chúa hướng dẫn họ.
Chúa Giê-su là Đấng phải đến. Quả thực Triều đại Thiên Chúa đã đến. Đó là tin vui lớn lao. Cần loan báo cho cả địa cầu. Vì thế Chúa không chỉ sai 12 tông đồ. Mà còn sai 72 môn đệ đi loan báo. Triều đại được chứng nghiệm bằng việc xua trừ ma quỉ. Chữa lành bệnh tật. Giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ ràng buộc của ma quỉ và sự dữ. Và đem bình an cho mọi người. Tuy nhiên chính người loan báo phải chứng tỏ Triều đại Thiên Chúa bằng một thái độ siêu thoát: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Sứ điệp quan trọng. Thời giờ cấp bách. Nên “đừng chào hỏi ai dọc đường”. Tập trung vào sứ mạng. Không chú ý đến những gì phụ thuộc ở đời này như ăn uống, ngủ nghỉ: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Khi người môn đệ siêu thoát, nghèo khó, chính Thiên Chúa ngự trong họ sẽ làm việc. Họ sẽ có sức mạnh của Thiên Chúa.
Chính vì hi vọng Triều Đại Thiên Chúa đến mà thánh Gióp, trong cơn đau khổ cùng cực, vẫn hi vọng tin tưởng đợi chờ. Luôn gắn bó với Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa… Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (năm chẵn).
Phần chúng ta hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến ngay trong bản thân mình. Bằng đời sống siêu thoát. Bằng tin tưởng vượt qua mọi gian khổ như thánh Gióp. Và bằng lời loan báo tin vui cho mọi người.
Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:
Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta? Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp: Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?
Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:
Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của những con người được tái sinh.
Trong thực tế, người Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó, Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.
Thế nhưng, làm thế nào để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.
Hơn bao giờ hết, người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó. Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá cao độ cho Nước Trời.
Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm mười hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố phục sinh để thực tập, để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau phục sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18-20).
Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu. Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa, cho rằng Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu. Vượt qua giới hạn của thời gian, Chúa đã kêu gọi, huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian nhờ những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.
Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa là công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh. Nhà thờ để thờ Thiên Chúa, nhà thương chăm sóc bệnh nhân, nhà săn sóc người cao niên, nhà học tập cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa.
Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sai sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho chúng con quyền năng của Chúa để chúng con được canh tân và dấn thân nhiều hơn nữa, để chu toàn tốt hơn sứ mệnh Chúa đã trao phó cho trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa hãy thương hiện diện với chúng con và cùng hoạt động với chúng con luôn mãi.
Sau đó Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Lc. 10, 1-2)
Đừng ảo tưởng! truyền giáo, theo Đức Kitô, chính là không ngừng nghỉ. Ngay từ đầu các môn đệ đã được chỉ định rõ rệt. Thầy đã nói từng chi tiết những gì các ông trông đợi trước khi sai các ông đi. Đi từng hai đến các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Trước hết, các môn đệ cần phải xác tín rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Muốn có số thợ gặt sẵn sàng và có hiệu quả, phải cầu nguyện tận lực xin tuyển mộ được những thợ gặt chân chính và chắc chắn để đi loan truyền sứ điệp của Đức Kitô.
Số thợ tuyển mộ thì ít, họ như chiên ở giữa sói rừng! họ không được phép giơ tay năm ngón chỉ trỏ kiêu hãnh để áp đặt sứ điệp bằng bạo lực hay bất cứ thứ gì như thế. Nhưng chỉ đề nghị, rất trong sáng, an bình và tự do, không một chút bó buộc nào cả.
Những người truyền giáo nghèo khó, trơ trụi không trang bị những phương tiện gì to lớn của loài người, như tiền của tài năng, trù ếm, ảo thuật, không được dính bén những gía trị quan trọng quyền thế của trần tục, của bảo hiểm dưới đất, của an toàn vật chất, tuy không khinh bỉ chúng, nhưng không để chúng lôi kéo mình vịn lý do cần thiết.
Đối với Đức Kitô, những lời chào hỏi dọc đường là không cần thiết. Hãy trực tiếp đến nơi để rao giảng thì tốt hơn. “Đừng chào ai dọc đường” cũng có nghĩa là “hãy đi thẳng đến mục đích”. “Trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”, đó là đem niềm vui đến cho họ, rồi đừng để mất giờ, hãy chữa bệnh tật cho họ và nói cho họ biết: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”.
Đó là những chỉ dẫn thật chính xác, rất ngắn gọn và cô đọng, đáng cảm phục biết bao một tinh thần trung thực vĩ đại! Người ta chấp nhận hay từ chối sứ điệp không phải dài dòng lý sự bắt người ta phải kính trọng. Người còn nói: “Nếu người ta không tiếp đón, hãy đi nơi khác”.
Người truyền giáo cần hành động chứ không van xin than thở.
Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của hết mọi người chứ không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ. Hình ảnh 72 môn đệ được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng cho thấy tính phổ quát của sứ vụ này.
Khi được sai đi loan báo Tin Mừng, người thừa sai cần hiểu rõ một nguyên tắc căn bản về sứ vụ tông đồ là: việc Tông đồ là của Chúa. Người tông đồ là người được sai đi để thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích là làm sao cho muôn người được ơn cứu độ.
Tuy nhiên, không phải ai được sai đi cũng đều thành công trong sứ mạng, bởi lẽ người tông đồ sẽ bị những thử thách, khó khăn do ngoại cảnh gây nên, và đôi khi do chính sự yếu đuối của bản thân, nên dẫn đến tình trạng buồn chán, thất vọng và buông xuôi...
Vì vậy, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ về tư cách, phương pháp và tinh thần của người thừa sai, để các ông ra đi và hy vọng mang lại nhiều hoa trái.
Trước tiên: người môn đệ phải noi gương Thầy của mình, đến để cứu độ bằng con đường thập giá. Vì thế, can đảm đón nhận những khó khăn, trở ngại do hiểu lầm, kỳ thị, ghen tức và hóa giải nó trong yêu thương là tinh thần của người môn đệ. Khó khăn này được ví như: "Chiên giữa bầy sói".
Thứ đến: người môn đệ phải sống cuộc sống thanh thoát, nhẹ nhàng trong sự thiếu thốn. Không quá lo lắng về cơm áo gạo tiền cách thái quá. Không bị của cải, sự sung sướng và an thân níu kéo bước chân người thừa sai. Bởi vì của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong tương quan với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Cần cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình qua sự chăm sóc của Ngài, vì thợ thì đáng được thưởng công. Vì thế: không bị, không tiền, không mang hai áo... là tinh thần của người thừa sai.
Tiếp theo: hãy noi gương Đức Giêsu, Đấng đến để cho chiên được sống và sống dồi dào, còn bản thân Ngài thì lại hóa mình ra không đến nỗi trở nên của ăn cho người khác. Vì thế, người môn đệ cần nhạy bén để khước từ cám dỗ là tìm mọi cách để thay đổi điều kiện sống cho mình, nhằm an thân và sung túc, trong khi đó sứ vụ thì bỏ bê. Như thế, không cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng: "Đi hết nhà này đến nhà kia" mà sứ vụ thì không sinh hoa trái.
Mặt khác: hội nhập văn hóa là điều cần thiết để Lời Chúa thấm nhập vào truyền thống, văn hóa, được chuyển tải bằng những thứ ngôn ngữ của chính người bản địa. Những sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, nghỉ ngơi cũng cần thích nghi. Được như thế, người thừa sai sẽ không bị cuốn theo bản năng để chỉ lo cho bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu "hạ đẳng" của chính mình. Vì vậy: "Vào bất cứ thành nào mà người ta tiếp đón thì cứ ăn những gì mà người ta dọn cho anh em".
Hơn nữa: truyền giáo phải đi đôi với bác ái. Nếu lời giảng dạy là để giới thiệu Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, đứng về phía người nghèo, áp bức, bất công để giải thoát con người cách toàn diện, thì việc bác ái chính là một chứng minh cụ thể về tình thương, sự liên đới do lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Vì thế, người môn đệ cần: an ủi kẻ âu lo, nâng đỡ kẻ yếu đuối... để làm chứng cho: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần".
Cuối cùng: nhà truyền giáo phải là người thấm thía sự bình an của Chúa. Nếu không có bình an thì không thể trao ban cho người khác bình an được. Cuộc đời sứ vụ của người thừa sai mà thiếu đi yếu tố này, thì hẳn chính bản thân cũng bất hạnh, và như thế, chỉ còn gieo rắc sự thất vọng mà thôi. Tuy nhiên, bình an là một ơn ban của Thiên Chúa, kèm theo sự cộng tác của con người. Vì vậy: "Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con".
Lạy Chúa Giêsu, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Xin Chúa sai những người thợ lành nghề để ra đi thu lúa về cho Chúa. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con, là những người cũng được mời gọi tham gia vào sứ mạng truyền giáo ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, luôn biết làm gương sáng, chu toàn bổn phận và trung thành với đời sống bác ái yêu thương. Amen.
Sứ điệp: Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng không chỉ dành riêng cho mười hai tông đồ, nhưng là sứ mạng của tất cả mọi người. Là người Kitô hữu, ta được Chúa sai đi nối tiếp công việc truyền giáo của các tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi sai các môn đệ ra đi, Chúa đã căn dặn các ông cầu xin Chúa Cha ban nhiều thợ gặt. Chúa muốn các ông ý thức vai trò của các ông là hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, vì Chúa Cha là chủ ruộng. Hôm nay, Chúa cũng mời con lên đường truyền giáo, nhưng công việc truyền giáo cần phải bắt đầu bằng những giờ cầu nguyện. Vâng Chúa ơi, công việc của Chúa trao phó luôn luôn bắt đầu từ tấm lòng đáp trả lại lời mời gọi, và được cụ thể hoá bằng giờ phút riêng tư giữa con với Chúa. Vì lạy Chúa, những giờ phút cầu nguyện sẽ đem lại cho con một nghị lực mới, một ánh sáng chan hòa, tạo được một sức sống trào dâng. Xin Chúa dạy con biết cầu nguyện.
Lạy Chúa, cầu nguyện là điều cần thiết, nhưng Chúa không miễn chuẩn cho con phải làm việc: “Anh em hãy ra đi”. Lệnh truyền của Chúa thật dứt khoát. Xin Chúa giúp con ra đi với một tấm lòng rộng mở. Con tin việc làm của con sẽ có một năng lực phi thường vì có Chúa trợ giúp. Xin giúp con biết làm việc tông đồ trong khi kết hiệp với Chúa.
Xin Chúa cho con biết ra đi khỏi chính mình để luôn bận tâm làm việc cho Chúa mà thôi. Xin cho con ra đi khỏi những ràng buộc của thế gian, để có thể phục vụ một người Chủ duy nhất là chính Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy”.
Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
“Các bạn hãy can đảm lên!. Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu”.
Suy niệm
Tyrô và Siđôn, những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4,4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Riêng Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng vật chất hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang tại các thành phố này.
Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thành phố nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các nơi này. Cuộc sống vật chất sung túc, làm cho con người không chỉ sa đọa, mà còn chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không theo Chúa. Hình phạt cho các thị trấn sẽ nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.
Khi loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đời người sẽ trở nên trống rỗng vắng bóng Ngài, dễ dàng rơi vào sa đọa... Chỉ tin vào Thiên Chúa, khi đó con người mới biết đặt Ngài vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.
Ý lực sống
“Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở Lời Chúa” (Tv 130,5).
1. Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Và mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về”(Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước Trời.
2. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không. Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các Hội đường hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin Mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin Mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).
3. Bảy mươi hai môn đệ là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ làm nảy sinh những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).
4. Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyên và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).
5. Trong tinh thần ấy, thánh Phanxicô Xaviê hồi còn là sinh viên ở trường đại học Paris, đã nghe được lời mời gọi trở thành linh mục và sau đó ngài là một nhà truyền giáo ở Ấn độ. Một trong những lá thư của ngài từ Ấn độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Đây là một phần của lá thư:
“Nơi đây, nhiều người không trở nên Kitô hữu được, chỉ vì lý do là không có ai sẵn sàng đảm nhận việc dạy dỗ cho họ về Chúa. Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường đại học ở châu Âu và kêu gọi những người thợ đến thu hoạch mùa ở Ấn độ”.
6. Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này. Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin Mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.
Nói một cách cụ thể, chúng ta có thể tham gia vào việc truyền giáo bằng cầu nguyện, xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo. Đây là một việc mọi người có thể làm bất cứ lúc nào. Cầu nguyện còn chứng tỏ lòng tin tưởng cậy trông của chúng ta, vì từ việc sai thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo, cho đến việc cứu độ thực sự là làm cho người ta chấp nhận Tin Mừng, trở về với Chúa để được hưởng ơn cứu độ.
7. Truyện: Đôi tay của Chúa.
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng mình cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành như bụi.
Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn những người dân trong làng, mà còn thu hút được nhiều khách du lịch đến vùng này để được tận mắt xem hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có thể đoán được hàng chữ này không? Đó là “CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”.
- Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.
- “Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
- “Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
- “Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
- “Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
- “Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
- “Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.
- “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).
- “Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).
- “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27).
- “Hãy chữa lành các bệnh nhân”: đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.
- “Phủi bụi chân”: người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.
- Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.
B.... nẩy mầm.
1. Truyền giáo là bổn phận của tất cả mọi tín hữu không trừ ai. Thực ra, người tín hữu VN chỉ mới lo giữ đạo chứ chưa ý thức truyền đạo.
2. Việc đầu tiên người truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Đây là điều mà chúng ta hay quên.
3. Điều thứ hai người truyền giáo phải lưu ý là: cái họ cần có hơn là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)
4. Việc làm chính của người truyền giáo là “chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất của người ta.
5. “Anh em hãy ra đi. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép.(Lc 10,4)
Nếu phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì? Chắc chắn là những gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lênh truyền của Chúa Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn đệ không giày dép, bao bị, tiền nong...
Và phải chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi “ra một cuộc lữ hành”? Nhưng lạy Chúa, khó quá, vì nơi con: Đã quen rồi bóng râm của tiện nghi, an toàn. Đã quen rồi đôi giày của danh vọng. Đã quen rồi chiếc đồng hồ kế hoạch. Đã quen rồi bao bị của bằng cấp, bạc tiền.
Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính con (Hosanna).
1. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ có nhóm tông đồ mà còn có cả nhóm môn đệ nữa. Chủ ý của Luca trong bài tường thuật này là muốn cho mọi người hiểu rằng, không riêng gì các tông đồ, mà là tất cả mọi người. Tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng của Chúa. Ở đây, chúng ta thấy Luca đã hữu ý nhấn mạnh đến con số 72 để làm rõ hơn ý tưởng trên. Con số 72 là số dân của loài người mà Sáng Thế đoạn 10 đã liệt kê.
Như vậy, truyền giáo phải là bổn phận của tất cả mọi tín hữu không trừ ai.
Sách Giáo Lý Công giáo nhấn mạnh: "Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh" (LG 10), bằng việc tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (LG 17; AG 7,23).
Xin được kể ra đây một câu chuyện xảy ra tại Đài Bắc: "Một ngày kia, tôi đón tăc-xi ở thành phố Đài Bắc, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy bên trong cửa băng ghế sau của xe có một dòng chữ "Bạn có thể tìm thấy một vài quyển sách nói về tôn giáo phía sau ghế bạn ngồi, trong lúc xe chạy xin mời bạn đọc chúng. Nếu bạn thích, khi rời xe, bạn có thể mang theo".
Tôi thấy ở phía trước bác tài cũng đặt một tượng Thánh Giá nhỏ. Tôi hỏi bác:
- Bác tài ơi, xin vui lòng nói cho tôi biết, các hành khách có thật sự quan tâm đến những cuốn sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ. Có người đọc, có người lấy đi luôn nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác cảm thấy thế nào?
- Thật sung sướng anh à. Anh biết không, tôi không có nhiều giờ để đi nhà thờ, tôi luôn chạy trên đường phố. Đây là cách làm việc tông đồ của tôi. Tôi rất sung sướng được làm hai việc một lúc: tài xế, và loan báo Tin Mừng, không cần phải làm thêm giờ. Đây là một nghề tuyệt vời.
Một vài người Công giáo đã phân phát cho các tài xế tăc-xi ở Đài Bắc những băng dán ở cửa xe có in hình Thánh Giá và những lời sau đây: "Chúa cùng lái xe với chúng ta", mặt sau là lời cầu nguyện của những bác tài xế: "Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con biết yêu thương tha nhân như chính mình, để con không làm gì xúc phạm hoặc gây thiệt hại cho con cái Chúa. Xin giữ mắt con được sáng suốt, tay chân được khéo léo. Xin giúp tâm trí con được an bình và thân xác được thư thái. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh và mọi bực bội về việc làm của những người khác, xin giúp con được thượng lộ bình an".
2. Việc tham dự như thế sẽ nói lên tấm lòng của họ với lệnh truyền của Chúa Giêsu "Vậy anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy." (Mt 28,l9-20). Nhưng thử hỏi khi chúng ta phụng sự Chúa thì Chúa có lo lắng cho chúng ta không?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nói thật rõ: "Làm thợ thì đáng được trả công" (Lc 10,7). Đây không phải là một lời hứa hão. Chỉ có những ai dám sống theo Lời Chúa mới có thể cảm nghiệm được ý Chúa muốn nói: "Anh em hãy ra đi. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép (Lc 10,4). Sách Đường Hy Vọng số 219: Trước trở ngại, con hãy đứng vững như một tên khổng lồ. Ơn Chúa không thiếu. Nếu con phải hạn chế hoạt động một thời gian, có cần gì đâu! Việc con làm là việc của Chúa, hơn là việc của con.
Mẹ Têrêsa đã kể lại một sự việc xảy ra trong cuộc đời của mẹ: "Khi chúng tôi mở trụ sở đầu tiên ở New York, Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Terence Cooke rất lo lắng về những chi phí sinh hoạt của chúng tôi. Ngài đã quyết định tặng chúng tôi một số tiền hàng tháng để giúp trang trải chi tiêu trong đời sống." (Mẹ chú thích thêm: Đức Hồng Y Cooke rất quý mến chúng tôi).
Dù không muốn làm ngài phật ý, nhưng lúc đó tôi cũng buộc phải giải thích cho ngài: "Chúng con luôn trông cậy vào Chúa quan phòng, Chúa chưa bao giờ làm chúng con thất vọng."
Và ở cuối câu chuyện, tôi chợt nghĩ ra cách, gần như đùa vui, nhưng để làm sáng tỏ vấn đề: "Thưa Đức Hồng Y, bộ ngài nghĩ rằng, ở đất New York này, Thiên Chúa phải tuyên bố Chúa phá sản sao?"
Thiên Chúa không đòi tôi thành công. Nhưng Ngài đòi tôi trung tín.
Xin nhắc lại lời của mẹ Têrêsa: "Chúng con luôn trông cậy vào Chúa quan phòng, Chúa chưa bao giờ làm chúng con thất vọng."
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa. Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Chúng ta chú ý đến câu nói của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay là vì thợ thì đáng được nuôi ăn (Mt 10, 10), đáng được trả công (Lc 10, 7).
Thật sự, Chúa sai các tông đồ, rồi đến bảy mươi hai môn đệ, và tất cả mỗi người chúng ta đi vào thế giới này để thực hiện sứ mạng rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa. Thế giới này là đồng lúa, là vườn nho của Chúa, do vậy mà chúng ta là những người thợ được Chúa nhờ vào làm vườn nho, đồng lúa cho Chúa. Chúa sẽ trả công thợ và nuôi ăn chúng ta. Một cách cụ thể, chúng ta thấy các linh mục, các nhà truyền giáo chuyên biệt của Chúa khi làm việc mục vụ thì chính Chúa nuôi ăn các ngài qua giáo dân, các ngài không có tài sản như những người dân của Chúa. Các ngài chỉ sống nhờ Chúa. Vì thế, Chúa nói chúng ta đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Những thứ này tuy cần nhưng nó dễ làm cản trở đến sứ mạng rao giảng lời Chúa trao phó chúng ta.
Chúng ta rao giảng lời Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta, bằng chính con người của chúng ta. Chúng ta là một quyển sách Tin Mừng sống động của Chúa qua đời sống yêu thương phục vụ mọi người của chúng ta. Khi thực hiện sứ mạng rao giảng lời Chúa, chúng ta chẳng có của cải, tiền bạc để giúp đỡ anh chị em của chúng ta đâu. Nếu chúng ta được người khác giúp cho chúng ta thì chúng ta mới có cái đem ra giúp những anh chị em nghèo khổ, cơ cực là một điều rất tốt, rất ích lợi cho việc rao giảng lời Chúa. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta mang đến bình an cho anh chị em chúng ta. Chúng ta có đi đâu, sống ở nào, chúng ta là niềm vui, là bình an cho mọi người, chứ không là nỗi lo sợ, mất bình an cho họ.
Bình an mà chúng ta đem đến cho anh chị em của chúng ta là khi chúng ta thực hiện lời Chúa dạy. Lúc chúng ta thực hiện lời Chúa dạy, Chúa ban bình an cho chúng ta và rồi khi chúng ta đến với anh chị em của chúng ta, chúng ta giúp cho anh chị em chúng ta thực hiện lời Chúa, để thay đổi cuộc sống mà sống tốt hơn, thì anh chị em chúng ta được bình an trong đời này “Bình an là khi chúng ta thực hiện lời Chúa” (Thánh Magarita). Đàng khác, những mối quan hệ trong cuộc sống của chúng ta với những anh chị em khác khi chúng ta rao giảng Tin Mừng, có lúc thật là tốt đẹp, nhưng có lúc cũng trục trặc, trở ngại, khó sử với chúng ta, Chúa dạy chúng ta đừng vì lý do này, tình cảm này mà mất thời gian đối với việc rao giảng Tin Mừng của Chúa: “Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức ăn người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi. Khi vào thành nào mà người ta không tiếp các con thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần. Thầy bảo thật các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được sử khoan dung hơn thành này” (Lc 10, 8 – 12).
Lạy Chúa, chúng con thực hiện lời Chúa dạy là rao giảng Tin Mừng cho anh chị em của chúng con, xin Chúa thương xót cho chúng con và anh chị em chúng con qua Tin Mừng chúng con rao giảng, để rồi chúng con cùng nhau gặp được Chúa, xin Chúa đón nhận chúng con, đừng bỏ rơi chúng con, hất hủi chúng con, xin Chúa giúp con sống phấn khởi, can trường khi chúng con làm theo ý Chúa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 26 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, xin Chúa không ngừng ban ơn giúp chúng ta đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban, và chúng ta đang hết lòng theo đuổi.
Nước Trời là hạnh phúc Chúa hứa, và là niềm hy vọng của ta, chúng ta hãy theo gương thánh Phaolô, như người đã theo gương Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô cho thấy: Theo gương Chúa Kitô, thánh Phaolô đã tiến bước, và làm chứng cho chúng ta. Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người… Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta.
Nước Trời là hạnh phúc Chúa hứa, và là niềm hy vọng của ta, chúng ta hãy mau mắn thi hành thánh ý Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Pôlicáp nói: Đức Kitô xây dựng anh em trong đức tin và chân lý, trong nhẫn nại, kiên trì, khoan dung và trong sạch. Xin Người cho anh em được hưởng gia nghiệp là thông phần với các thánh của Người… Xin Thiên Chúa là nguồn mạch bình an ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Xin Người cho tất cả anh em hết lòng thờ phượng Người và làm theo ý Người.
Nước Trời là hạnh phúc Chúa hứa, và là niềm hy vọng của ta, chúng ta hãy đặt hết niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ông Gióp nói: Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 26, vịnh gia đã cho thấy: Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với các môn đệ: Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này! Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy. Nước Thiên Chúa đã đến gần, trời sắp đổ mưa, nếu chúng ta chuẩn dụng cụ để hứng nước mưa, chúng ta sẽ có nước, dụng cụ để đón nhận ơn cứu độ của Chúa là lòng sám hối và tin vào Đức Kitô. Các môn đệ được Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng, Tin Mừng bình an sẽ ở lại với những ai biết mở lòng ra để đón nhận. Những ai tin vào Đức Kitô, Chúa chúng ta, và tin vào Cha của Người, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, thì sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Hoa trái đức tin của chúng ta sẽ trở nên hoàn thiện trong Chúa, khi ánh sáng của chúng ta được chiếu giãi cho mọi người nhìn thấy, nhất là, cho những người bách hại, ngược đãi, ghét bỏ chúng ta, và thù địch với thập giá của Đức Kitô. Đức Kitô đã xây dựng chúng ta trong đức tin và chân lý, trong sự hiền lành và nhẫn nại, để chúng ta không ngừng lớn lên trong Chúa, cho dẫu, đôi khi, chúng ta không vâng theo sự hướng dẫn của Người, những lúc như thế, chúng ta hãy mau mắn quay trở về, bởi vì, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, ước gì chúng ta đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban, và chúng ta đang hết lòng theo đuổi. Ước gì được như thế!
Lắng nghe và sám hối. 04/10 – Thứ Sáu đầu tháng, tuần 26 thường niên. – Thánh Phanxicô Assisi. Lễ nhớ.
"Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy".
* Thánh nhân sinh năm 1182 tại Assisi. Từ ngày trở lại, gặp Chúa Kitô ở nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô cho tới ngày từ trần ở Poóc-ti-un-cu-la (1226), thánh nhân -con người được mệnh danh là Người Nghèo thành Assisi- cùng với các anh em tu sĩ của mình sống nghèo khó, rảo khắp nơi loan báo tình yêu của Thiên Chúa. Người cũng đặt nền tảng cho ngành nữ đan sĩ của Dòng và huynh đoàn giáo dân hãm mình. Người còn tha thiết với việc giảng thuyết cho những người chưa tin. Suốt đời, thánh nhân không có bận tâm nào khác ngoài mối bận tâm theo Đức Giêsu trong tinh thần vui tươi, đơn sơ, tha thiết phục vụ Hội Thánh và dịu dàng yêu thương mọi người.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi. " Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục. "Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".
Tin Mừng hôm nay kể lại một kinh nghiệm không vui của Đức Giêsu, Kinh nghiệm của một người tận tụy với công việc tông đồ nhưng sau thời gian dài chờ đợi, kết quả lại không như ý. Đức Giêsu là người vùng Galilê, hẳn Ngài yêu vùng đất này. Ngài thường lui tới những thành phố quanh Hồ Galilê. Khoradin, Bếtsaiđa, Caphácnaum nằm trong số đó. Ngài đã rao giảng nhiều về sám hối (7, 36-50; 13, 1-5; 19, 1-10), và Ngài cũng làm bao phép lạ kèm theo để gọi mời hoán cải. Có thể nhiều người bị đánh động khi nghe lời Ngài giảng và bị thu hút bởi các phép lạ Ngài làm. Nhưng đối với Đức Giêsu, như thế vẫn chưa đủ. Tất cả vẫn chỉ là hời hợt của cảm xúc bên ngoài. Điều Ngài đòi hỏi là biến đổi tận căn bên trong cuộc sống. “Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa! Đức Giêsu đau đớn thốt lên như thế khi phải so sánh hai thành phố trên với hai thành phố dân ngoại tội lỗi là Tia và Xiđôn (Is 23; Ed 26-28). Hai thành phố ở Galilê chẳng đổi gì mấy dù đã biết Ngài từ lâu. Dân ở đây sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn trong cuộc phán xét. Thành phố Caphácnaum cũng chẳng khá hơn, dù đây là nơi Đức Giêsu hay lui tới để phục vụ (Lc 4, 23. 31-37; 7,10). Ngài đặt thẳng câu hỏi với thành phố này về tương lai của nó (c. 15). Đừng mong được nâng đến tận trời, nhưng sẽ bị xuống tận âm phủ! Đức Giêsu có kinh nghiệm về thất bại trong việc tông đồ. Ngài cũng nhắc các môn đệ về chuyện đó (Lc 10, 10-12). Không được tiếp đón, bị từ khước, không được người ta nghe (c.16), thậm chí có khi bị bách hại, bị vu khống, bị giết chết. Đó là những điều người môn đệ tín trung vẫn thường gặp, vì Thầy của họ đã trải qua và vượt qua. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói chuyện với các thành phố, những nơi thân quen, đã mang dấu chân Ngài. Ngài lấy làm tiếc vì những gì Ngài làm chưa thấm vào bề sâu, chưa tạo ra được những thay đổi nơi lòng thành phố. Một sám hối thật sự không phải chỉ là một sám hối cá nhân, nhưng là sám hối nơi sinh hoạt của cả một thành phố. Nếu hôm nay Ngài đến với thành phố của chúng ta Ngài sẽ nói gì? Ngài có chỗ không ở mọi nơi người Kitô hữu đang sống, đang làm việc, đang học hành, đang vui chơi, đang cầu nguyện? Sám hối là trả lại chỗ cho Ngài trong mỗi góc phố vắng, là giữ cho thành phố xanh-sạch-đẹp theo nghĩa thiêng liêng nhất. Ước gì chúng ta biết xây dựng quanh ta những khoảng không gian tràn ngập sự hiện diện của Giêsu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt. để khi thấy con, người ta phải nói: “vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.” Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế, con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một đấng tốt hơn con nhiều. “Mong sao bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!” Con muốn sống thật tốt, để người ta có thể nói: “nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến ngần nào?” (Chân phước Charles Foucauld).
Chúa Giê-su buồn phiền. Vì chính những nơi được nghe rao giảng Tin mừng, được chứng kiến nhiều phép lạ, lại không ăn năn sám hối. Chúa đặt Ca-phác-na-um làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa thường xuyên đi lại Kho-ra-din và Bết-xai-đa. Tại Bết-xai-đa có vài môn đệ theo Chúa. Nhưng đa số dân chúng cứng lòng không tin. Trong khi đó tại vùng dân ngoại Tia và Xi-đôn có người phụ nữ, dù bị Chúa xua đuổi, vẫn kiên trì tin tưởng. Chúa buồn không phải vì người ta chối từ Chúa. Nhưng vì người ta chối từ Chúa Cha. Chối từ tình yêu thương vô cùng sâu thẳm và bao la của Chúa Cha. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Còn tình yêu nào lớn lao hơn thế. Còn tấm lòng nào quan tâm hơn thế. Nhưng buồn là buồn cho chính họ. Chúa Cha là nguồn mạch sự sống. Khi chối từ nguồn mạch sự sống, họ đánh mất sự sống. Họ đi vào chỗ chết.
Đó chính là điều tiên tri Ba-rúc thú nhận. Trong thời kỳ lưu đầy, Ít-ra-en nhà tan cửa nát. Phải lưu đầy biệt xứ. Phải làm nô lệ. Vừa khổ cực vừa nhục nhã. Nhưng vị tiên tri phải thú nhận dân Ít-ra-en bị như thế là xứng đáng. Vì họ đã chối từ Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa sức mạnh. Thiên Chúa ban sự sống. “Chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi” (năm lẻ).
Chúa là nguồn mạch sự sống của toàn thể vũ trụ cũng như con người. Chúa đã chất vấn thánh Gióp. Và thánh Gióp không thể trả lời: “Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và lang thang ở đáy vực sâu? Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ và ngươi thấy được cửa dấn tới âm ty? Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào? Nếu ngươi biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi”. Và thánh Gióp chỉ biết thưa lại: “Vâng, con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài?” Thánh Gióp chỉ biết vâng theo ý Chúa. Chính vì thế ngài được Chúa yêu thương ban muôn hồng phúc (năm chẵn).
Chúng ta hãy noi gương thánh Gióp nhận biết Thiên Chúa là sự sống và là tất cả của chúng ta. Để luôn biết đón nhận Người. Đón nhận mệnh lệnh Người. Để chúng ta được sống.
Có một hiện tượng chung tại các nước đang phát triển, đó là người dân nghèo từ thôn quê đổ xô ra thành thị. Tại đô thị dễ tìm được công ăn việc làm, đời sống nhiều tiện nghi, thú tiêu khiển cũng nhiều hơn. Nhưng hiện tượng đô thị hóa nào cũng có mặt trái của nó: người dân đưa nếp sống thôn dã lên thành thị, giao thông tắc nghẽn, việc buôn bán lấn chiếm vỉa hè, trật tự công cộng không được tôn trọng, và trầm trọng hơn vẫn là đời sống luân lý đạo đức xuống cấp, nạn phạm pháp gia tăng.
Thời Cựu Ước, các Tiên tri đã không ngừng lên tiếng cảnh cáo dân chúng về cuộc sống đồi bại tại các đô thị. Chúc dữ các đô thị vốn là một đề tài quen thuộc trong lời rao giảng của các Tiên tri. Dường như có hai lý do khiến các Tiên tri lên án các đô thị: Một đàng các Tiên tri muốn nhắc nhở dân chúng về cuộc sống du mục trong sa mạc, tại đó họ đã nghe được tiếng Chúa và đã kết ước với Ngài, cuộc sống càng đơn giản, con người càng dễ kết thân với Chúa; nhưng đàng khác, nhận thấy cuộc sống đồi bại của các thành phố ngoại giáo trong vùng, các tiên tri muốn cảnh cáo dân chúng về mối nguy cơ có thể chạy theo một cuộc sống như thế. Sự đồi bại nguy hiểm nhất mà các Tiên tri không ngừng lên án một cách gắt gao, đó là việc tôn thờ ngẫu tượng và nếp sống vô luân của thị dân, điển hình nhất là của các đô thị sa đọa là Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn.
Trong Tin Mừng hôm nay, theo truyền thống các tiên tri Cựu Ước, Chúa Giêsu cũng nêu đích danh ba thành phố có nếp sống sa đọa nằm dọc theo bờ hồ, đó là Cozazin, Betsaiđa và Capharnaum. Những tiện nghi vật chất khiến con người dễ trở thành câm điếc trước Lời Chúa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình, do đó, cô đơn vốn là điều con người sợ nhất, thành ra đi vào quan hệ với người khác là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cuộc sống đô thị với nếp sống ồn ào náo nhiệt của nó dễ tạo cho con người cái cảm tưởng rằng ở đó họ dễ đi vào quan hệ với người đồng loại.
Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, cuộc sống càng xô bồ, con người càng dễ rơi vào cô đơn. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể mang lại bí quyết cho sự thông hiệp đích thực của con người, nghĩa là giúp cho con người ra khỏi nỗi cô đơn của mình; bí quyết đó chính là Lời của Ngài. Thật thế, khi con người sống kết hiệp với Chúa, thì dù có sống một mình, nó cũng sẽ không cảm thấy cô đơn; lại nữa, khi sống kết hiệp với Chúa, con người sẽ cảm thấy được thúc đẩy để đến với anh em của mình. Con người không thể kết hiệp với Chúa mà có thể khước từ người anh em của mình, và ngược lại, bất cứ một quan hệ chân thành nào với người anh em, cũng luôn gia tăng sự kết hiệp con người với Thiên Chúa.
Dù muốn hay không, những thay đổi trong cuộc sống do kinh tế thị trường mang lại không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Thật ra, cuộc sống đức tin không phải là một sinh hoạt phụ trong cuộc sống chúng ta; đức tin phải là chiều kích bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta: chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống. Niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là Thánh Lễ Chúa Nhật, một vài sinh hoạt trong khuôn viên giáo đường, một số kinh kệ trong gia đình, chứ không ăn nhập gì đến cuộc sống mỗi ngày; niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là một món đồ trang điểm cho cuộc sống và cần thiết cho một số dịp nào đó trong năm, chứ không liên hệ gì đến đòi hỏi công bằng bác ái, liên đới mà chúng ta phải thực thi hằng ngày.
Nguyện cho Lời Chúa luôn là động lực thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta trong mọi sinh hoạt và quan hệ hằng ngày của chúng ta, để trong khi mưu cầu cho cuộc sống, chúng ta luôn tìm gặp Chúa trong tha nhân và trong mọi biến cố.
“Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy, mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” (Lc. 10, 16)
Hôm qua Đức Giêsu đã ban một số huấn lệnh cho các môn đệ đi truyền giáo. Trường hợp gặp thất bại, hãy đến nơi khác. Đức tin không cưỡng bức ai. Đàng khác, dù muốn hay không, nước Thiên Chúa vẫn đến! Người ta có thể khước từ nhưng sẽ có ngày họ sẽ gia nhập, vì đó là thành ý Thiên Chúa. Chính Ngài định đoạt ngày giờ, chứ không phải người ta. Ước mong họ sẽ tin cậy vào Ngài. Họ nghe lời Chúa không tùy thuộc vào tài khéo léo thuyết phục của loài người.
Chính Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, cũng không thành công khi thuyết phục mọi người tin vào sứ điệp chân chính và cần thiết của Người. Bản tính nhân loại của Người như đã che lấp mọi may mắn làm cho người ta tin Người. Ba thành Kho-ra-zim, Bét-sai-đa và Ca-pha-na-um Người kể tên ra đây, là những vùng hoạt động của Người, được đặc biệt hưởng những ân huệ lời Người và tận tình cứu giúp của Người. Họ sẽ giầu có, phong phú biết bao về tinh thần, nếu họ lắng nghe và sống theo lời Người. Nhưng khốn thay! Họ đã cùng túng và thảm bại vì đã từ chối lời Người kêu gọi. Nếu các thành dân ngoại khác như Sô-đô-ma, Ti-a và Si-đôn đã được may mắn gặp gỡ Đức Kitô thì họ đã mặc áo nhặm ngồi trên tro tàn tỏ lòng ăn năn sám hối lâu rồi.
Chúa không chúc dữ đâu! Người chỉ than phiền về sự đui mù và vô ơn của mọi người, như Người khóc thương thành Giê-ru-sa-lem đã ruồng bỏ Người. Khi nghe những lời đau khổ của Đức Giêsu như thế, người ta không khỏi nghĩ đến những nước, những tỉnh thành, làng xã trong quá khứ đã nhận được dồi dào ơn lành và ánh sáng của Đức Kitô, nay họ đã ruồng bỏ Người, trong ngày phán xét, chúng ta sống hối hận chừng nào!
Hôm nay nghe các ngôn sứ của Đức Kitô, chính là nghe chính Đức Kitô. Nếu khước từ các Ngài là khước từ chính Người. Để lời khiển trách của Đức Giêsu xưa đem lại phúc lợi cho chúng ta, mỗi người và tất cả chúng ta hãy vui vẻ đón nhận lời Người để nghiêm chỉnh, thẳng thắn hồi tâm trở về với Đức Kitô. Đừng để lời cảnh giác của Người như tiếng vang ngoài tai rồi biến tan theo mây khói, thật khốn cho chúng ta!
Càng văn minh, tiến bộ, thì càng làm cho người ta được sung túc. Chuyện này là lẽ thường tình, và sống trong một xã hội thì sự phát triển của nó là điều mà ai cũng mong muốn! Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là ở chỗ: nó dễ làm cho tâm thức của con người rơi vào tình trạng bình thường hóa, tương đối hóa mọi chuyện, nhất là vấn đề giảm thiêng trong đời sống đạo đức. Vì thế, con người dễ bị sa vào những vòng vây của tội lỗi và tệ nạn... khiến nền tảng luân lý bị đe dọa và cuộc sống trác táng là điều dễ dàng xảy đến!
Hình ảnh sa đọa này thật rõ nét nơi các thành như: Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Sidon... Sang đến thời Đức Giêsu, diễn biến này cũng không thiếu, cụ thể là các thành: Bethsaida, Corozain, Caphanaum... Họ đã chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chối bỏ những chứng từ đức tin và tôn thờ ngẫu tượng. Trai lỳ trong tội và đi tìm sự thỏa mãn xác thịt để bù lấp khoảng trống trong tâm hồn.
Nhưng tiếc thay, họ càng đi tìm thì lại càng mất. Bởi vì họ đã không gặp được Thiên Chúa ở trong chốn ăn chơi, xa đọa, mà chỉ gặp toàn những đối tượng, phương tiện làm cho mình xa Chúa và băng hoại đời sống đạo đức mà thôi.
Sự lãnh đạm, chai lỳ của dân các thành Bethsaida, Corozain, Caphanaum, cũng chính là sự chai lỳ và lãnh đạm của dân Chúa ngày nay là chúng ta! Hẳn mỗi người chúng ta đều thấy tình thương của Thiên Chúa trong thế giới và nơi cuộc sống, thế mà chúng ta đã không trở về với phẩm giá đích thực của mình là con cái Chúa, con cái Sự Sáng, nhưng vẫn sống thờ ơ, lãnh đạm và vui hưởng những thú vui tội lỗi...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy bám vào Thiên Chúa như là cứu cánh của mình. Chỉ có Thiên Chúa và trong Ngài, chúng ta mới tìm được niềm vui và hạnh phúc đích thực. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không chỉ rơi vào sa đoạ mà còn cắt đứt mối tương quan với tha nhân.
Thật vậy, chỉ có lắng nghe Lời Chúa và thực hành, thì chúng ta mới trở nên người hoàn thiện, và xã hội, gia đình mới trở nên tốt mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa và hân hoan thi hành, để Lời Chúa hướng dẫn chúng con biết làm điều thiện, tránh điều dữ. Có thế, Giáo Hội, xã hội và gia đình mới trở nên lành mạnh và chúng con mới có hy vọng được cứu độ. Amen.
Sứ điệp: Ai đón nhận Tin Mừng là đón nhận chính Thiên Chúa. Ai không tin, không đón nhận sẽ bị kết án và mất phần thưởng đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bài Tin Mừng hôm nay làm con phải sững sờ. Các thành phố Kho-ra-dim, Bet-sai-đa, Ca-phac-na-um đã được nghe Chúa giảng dạy và thấy các việc Chúa làm. Nhưng họ đã không nhận ra và thực thi điều Chúa truyền dạy. Họ không hối cải, và đã làm ngơ trước các đòi hỏi của Tin Mừng. Lòng họ đã nên chai cứng. Họ đánh mất ân huệ lớn lao mà bao nhiêu thế hệ trông chờ. Cuối cùng, thay vì ân phúc và trọng thưởng, họ đã bị kết án nặng nề và bị loại trừ khỏi hạnh phúc trường sinh.
Hình ảnh các thành phố ngoại giáo Ty-rô và Sy-đon sẽ được đối xử khoan dung hơn trong ngày phán xét làm con xác tín: Ai không tin, không đón nhận Tin Mừng là chối bỏ Chúa, và hơn thế nữa là chối bỏ chính Cha trên trời. Lạy Chúa, xin giúp con luôn nhận ra điều Chúa truyền dạy và quyết tâm thi hành. Việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa là lối mở dẫn đưa con về nhà Cha trên trời, là bảo đảm cuộc sống thật hạnh phúc đời sau.
Lạy Chúa, Giáo Hội đại diện Chúa tiếp tục loan báo Tin Mừng cứu độ. Ai tin, ai gắn bó, ai đón nhận giáo huấn của Giáo Hội là đi vào con đường cứu rỗi. Xin giúp con cởi mở nội tâm để sống tâm tình hiếu thảo trong lòng Giáo Hội. Xin thêm lòng yêu mến cho con, để Lời Chúa truyền và các điều Giáo Hội dạy, con thực hiện thật tốt đẹp. Xin đừng bao giờ để lòng con nên chai cứng trước những lời mời gọi sống cho Chúa, sống yêu thương phục vụ anh em hằng ngày. Amen.
Ghi nhớ: “Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy”.
Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
“Các bạn hãy can đảm lên! Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu”.
Suy niệm
Tyrô và Siđôn, những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4,4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Riêng Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng vật chất hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang tại các thành phố này.
Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thành phố nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các nơi này. Cuộc sống vật chất sung túc, làm cho con người không chỉ sa đọa, mà còn chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không theo Chúa. Hình phạt cho các thị trấn sẽ nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.
Khi loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đời người sẽ trở nên trống rỗng vắng bóng Ngài, dễ dàng rơi vào sa đọa... Chỉ tin vào Thiên Chúa, khi đó con người mới biết đặt Ngài vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.
1. Sau khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu liên tưởng đến các thành phố Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum nằm ở bờ Ghênêdaret. Là những thành phố tương đối giầu có và trình độ văn hóa cao hơn những thành khác. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng cũng như làm phép lạ ở các thị trấn này, nhưng sự giầu có và kiến thức của họ đã khiến họ kiêu căng tự mãn nên không đón nhận Tin Mừng, không chịu hối cải, nên hình phạt cho họ sẽ nặng hơn hơn các thành phố khác.
2. Hôm nay Chúa Giêsu khiển trách các thành dọc bờ hồ Galilê là Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum. Vì sao vậy? Vì các thành này đã chứng kiến “phần lớn các phép lạ và các lời giảng dạy” của Chúa; thế nhưng họ không đón nhận Tin Mừng, không chịu hối cải, họ đã đóng kín lòng mình, họ không để cho ơn Chúa được thể hiện trong cuộc đời. Họ đã không tận hưởng cái đặc ân, cái cơ hội mà thành Tia, Sôđôma và Gômôra không hề được. Và chính vì không đón nhận Chúa, nên họ cũng không thể thấy các phép lạ xẩy ra tiếp tục trong chính hành vi tiếp nhận của họ.
3. Cũng trong Tin Mừng hôm nay, sau khi chúc dữ các thành phố sa đọa, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng chỉ nhờ lắng nghe Lời Ngài, con người mới có thể thông hiệp và hiệp nhất với nhau. Niềm tin là men nối kết con người với nhau, niềm tin là sức bật đưa con người ra khỏi chính mình để đến với người khác, niềm tin là thuốc chữa trị con người khỏi vong thân. Phát triển kinh tế là một yếu tố cần thiết cho cuộc sống; thế nhưng con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Ăn no, hưởng thụ, mà tinh thần trống rỗng thì cũng chỉ là mẫu người què quặt kém phát triển mà thôi. Một cuộc sống sung mãn đích thực phải là cuộc sống trong đó giá trị tinh thần và luân lý được đặt vào hàng trọng yếu (Mỗi ngày một tin vui).
4. Chúa Giêsu đến trần gian để cứu độ mọi người. Trước sự cứng lòng tin của một số dân thành đã từng chứng kiến phép lạ Chúa làm mà không tin, Chúa Giêsu dùng những lời lẽ than trách, khuyến cáo họ. Dầu vậy, Chúa không trừng phạt những kẻ lãnh đạm, cố chấp không đón nhận Tin Mừng, nhưng mời gọi, khuyến cáo họ nghe Lời Chúa mà ăn năn trở lại. Chúng ta cần khoan dung với kẻ ác, nhẫn nại với người cứng lòng, để tình yêu của Chúa được biểu lộ qua chúng ta, có sức lôi cuốn tội nhân hoán cải (5 phút Lời Chúa).
5. Chúng ta thấy tội lỗi là đáng sợ, mà đã có tội lại còn cố chấp thì càng đáng sợ hơn. Tục ngữ Ả Rập nói rằng: tội có năm ngón tay, nó dùng hai ngón bịt mắt chúng ta, để chúng ta không thấy được tội lỗi xấu xa chừng nào. Nó sợ nếu chúng ta biết tội lỗi xúc phạm đến Chúa nặng nề thế nào, thì chúng ta không dám phạm.
Nó dùng hai ngón khác bịt tai chúng ta, để chúng ta không còn nghe thấy tiếng Chúa mà ăn năn sám hối. Nó làm như vậy để giữ chúng ta ở trong tình trạng tội lỗi lâu ngày, lòng chúng ta trở nên chai đá, và chúng ta không muốn thống hối nữa.
Nó dùng ngón cuối cùng bịt miệng chúng ta, để chúng ta không đọc lời thống hối, không phàn nàn hối hận vì tội lỗi đã phạm (Phạm Văn Phượng).
6. Người xưa dạy: “Kẻ tự cho mình là tài giỏi thì tai không còn được nghe lời hay lẽ phải nữa”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo về số phận của những kẻ tự mãn. Họ giống như dân các thành Khoradin, Betsaiđa và Capharnaum sống trong sự sung túc về vật chất, trí thức và lấy làm thỏa mãn với sự thông minh trần thế của mình, để rồi họ khép kín lòng mình, và từ chối lời khôn ngoan của Chúa Giêsu. Bởi vậy, số phận dành cho những người đó là hố sâu của sự chết muôn đời.
Trong cuộc sống, chúng ta lắm khi cũng mắc phải những cám dỗ như thế. Ta thường tự cao tự đại về lượng tri thức đồ sộ đã thụ đắc và cảm thấy thỏa mãn với chúng, để rồi khép kín tâm hồn và xem thường lời chỉ dạy, khuyên nhủ của người khác. Ta đâu biết đó chính là những thông điệp mà Thiên Chúa đang muốn gửi đến cho ta (Học viện Đa Minh).
7. Truyện: Hai triết gia Jacques Maritain và Raissa.
Jacques Maritain và Raissa là hai triết gia của nước Pháp vào đầu thế kỷ này. Hồi còn trẻ, hai người đã hết lòng yêu thương nhau. Nhưng rồi sự vô tín ngưỡng đã đưa họ đến vực thẳm của thất vọng. Cuộc sống càng ngày càng trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa. Rồi một hôm kia, hai người dắt nhau đến một công viên ở Paris và thề thốt với nhau rằng, nếu trong vòng 12 tháng mà không tìm ra được một ý nghĩa nào cho cuộc sống thì cả hai sẽ cùng tự vẫn.
Rất may là sau 12 tháng họ đã tìm ra cho cuộc sống một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy là tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.
Sau đó cho đến cuối đời, họ đã giành tất cả cuộc sống của họ để làm chứng cho tình yêu và ân sủng họ đã nhận được.
Trong tác phẩm có tựa đề “Thủ lãnh của thế gian”, bà Raissa đã viết như sau: “Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Mạng lưới này tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích giây phút chóng qua hơn cuộc sống vĩnh cửu. Nó khuyến dụ chúng ta chạy theo sự vô định hơn chân lý. Nó bảo ta rằng, ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi”.
Sau khi sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu liên tưởng đến những thành phố đã không đón nhận Tin Mừng. Đó là Khôradin, Bétsaiđa và Caphácnaum. Những thành này đều ở ven biển hồ Galilê, đều tương đối giàu có và trình độ văn hóa cao hơn những thành khác.
Nhưng sự giàu có và kiến thức của họ đã khiến họ kiêu căng tự mãn nên họ không thèm đón nhận Tin Mừng. Bao nhiều lời rao giảng và phép lạ Chúa Giêsu đã làm ở những nơi đó đều hầu như hoàn toàn vô ích.
Bởi thế, lẽ ra họ được hạnh phúc, nhưng Chúa Giêsu bảo “Khốn cho họ”.
B.... nẩy mầm.
1. Trong những buổi chia sẻ Lời Chúa, nếu tôi nghĩ rằng mình đã biết nhiều hay mình đã đạo đức rồi, thì lời của những anh chị em khác chia sẻ sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho tôi. Bởi trí tôi quá đầy, lòng tôi quá đủ cho nên không gì có thể vào thêm được nữa.
2. Những kẻ bị chúc dữ trong đoạn Tin Mừng này là những người sống ở các thành phố. Nếp sống văn minh thành phố dễ đẩy người ta xa Chúa: do cám dỗ của vật chất, do tâm hồn quá ồn ào, do ý nghĩ mình thông giỏi…
Dù muốn dù không càng ngày chúng ta càng dấn sâu vào văn minh thành phố. Xin Chúa giúp chúng ta làm thế nào để vẫn giữ được tâm hồn sa mạc: hướng về siêu nhiên hơn tự nhiên, hướng nội hơn hướng ngoại, trọng tình yêu hơn hưởng thụ, xử dụng tiện nghi vật chất trong tình thần làm chủ hơn là tinh thần nô lệ…
3. “Ai nghe các con là nghe Thầy, và ai khinh dễ các con là khinh dễ Thầy. Mà ai khinh dễ Thầy là khinh dễ Đấng đã sai Thầy”: Chúa Giêsu đang nói về những sứ giả của Ngài, đem lời Ngài đi rao giảng. Nghe họ tức là nghe Chúa, từ chối họ tức là từ chối Chúa.
Dù tôi là kitô hữu, là tu sĩ, Linh mục, Chúa vẫn còn gởi các sứ giả của Ngài đến với tôi, để khuyên bảo, nhắc nhở tôi. Những người đó có thể là một người bạn của tôi, cấp trên của tôi hoặc cấp dưới của tôi nữa. Nghe họ là nghe Chúa, không nghe họ là không nghe Chúa!
4. Một nhà hiền triết đã nói với một ông vua rất giàu có như sau: Không ai có thể được xem là hạnh phúc thật khi trái tim người đó còn bị trói buộc với của cải vật chất. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy (Lc 10,16).
Lời Chúa hôm nay chỉ cho tôi một thái độ sống, đó là sống cho Đức Kitô, sống vì Đức Kitô. Tôi phải sống như thể tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Chúa Giêsu sống trong tôi, để bất cứ ai nghe tôi là nghe Chúa, và ai khước từ tôi là khước từ Ngài.
Thật là một vinh dự đáng tự hào, một trách nhiệm lớn lao. nhiều lúc tôi tự hỏi trong thực tế mình đã nghe Lời Chúa để có thể nói lời Ngài chưa? Tôi dám chịu khước từ vì Ngài không?
Lạy Chúa, xin cho biết lắng nghe Lời Ngài trong thế giới hôm nay để con nhận ra và sống Lời Ngài trong những giây phút hiện tại. (Hosanna).
Tội lỗi của thành Corazin, Bethsaida, Capharnaum là gì mà Chúa bảo là xấu xa hơn tội của thành Tyrô và Siđôn, của Sôđôma và Gômôra? Đó chắc phải là tội rất trọng. Nhưng đó là tội gì?
1. Đó là tội của những người quên trách nhiệm về đặc ân mà mình được hưởng. Những thành phố ở Galilê đã hưởng một đặc ân, một cơ hội mà thành Tyrô, Siđôn, Sôđôma và Gômôra không hề được. Họ được tận mắt chứng kiến những công việc Chúa làm và nghe những Lời Chúa dạy nhưng họ chẳng đáp lại gì.
Chiều ngày 6-5-1989, có 12 bạn sinh viên Đại Học Bách Khoa và Đại Học Y Dược Sài gòn được nhận 12 xuất học bổng toàn năm, mỗi tháng là 30.000 đồng. Hầu hết các bạn đều thuộc những gia đình khó khăn, nhưng các bạn ấy đã nỗ lực học hành thật xuất sắc những năm gần đây.
Hai vị ân nhân của họ chính là kỹ sư Dương Quang Thiện và vợ là bà Agnès Hofstetter. Năm nay bà Agnès vừa đúng tuổi được nhận lương hưu trí của chính phủ Thụy Sĩ trước khi theo chồng về Việt Nam. Hai ông bà đã quyết định chia sẻ trọn số lương hưu này cho các bạn trẻ Việt Nam hiếu học, nhưng gặp phải hoàn cảnh khó khăn như chính ông bà xưa kia.
Ông bà nhắc lại quá khứ vất vả cực nhọc kiếm sống, gia đình của bà có đến 6 anh chị em nheo nhóc. Còn ông bà thân sinh ra ông thì phải đi chích dạo mỗi ngày từ 5 giờ sáng để nuôi 8 anh em ông ăn học nên người. Ông Dương Quang Thiện còn nhớ, lúc 24 tuổi ông nhận được học bổng đi du học của một tổ chức tư nhân ở Thụy Sĩ, những người trao học bổng đã dặn dò nhắn nhủ ông:
- Hôm nay, anh nhận học bổng này của chúng tôi và anh không nợ gì chúng tôi cả. Thế nhưng, anh lại mắc nợ những người đi sau anh, những thế hệ đàn em và con cháu của anh. Sau này thành tài, làm ăn khá giả, anh đừng bao giờ quên những người đi sau cũng đang cần một sự giúp đỡ khích lệ của anh.
2. Đó là tội thờ ơ. Những thành phố này đã không công kích Chúa Giêsu, đã không đuổi Ngài ra khỏi cửa nhà họ, họ cũng không tìm cách đóng đinh Ngài. Họ chỉ không quan tâm đến Ngài.
Không quan tâm cũng là một tội. Ngày nay việc quan tâm đến những nhu cầu chính đáng của loài người đã được nhiều tổ chức trên thế giới lưu ý. Xin đan cử một thí dụ: Để đánh dấu ngày Liên Hiệp Quốc tròn 50 tuổi, tổ chức này đã ban hành một nghị quyết: cấm hút thuốc trong các văn phòng của Liên Hiệp Quốc.
Trụ sở Liên Hiệp Quốc nằm giữa thành phố New York và lâu nay không phải tuân hành luật cấm hút thuốc của thành phố. Từ nằm 1985 đã có luật cấm hút thuốc trong các phòng họp. Các nhà ngoại giao và ký giả chỉ được phép hút trong văn phòng và hành lang mà thôi. Nay theo luật mới toàn bộ trụ sở Liên Hiệp Quốc được xem là khu cấm hút thuốc.
3. Xưa là như thế, còn hôm nay thì sao? Dù muốn hay không, cuộc sống do kinh tế thị trường chi phối, không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống.
Jacques Maritain và Raissa là hai triết gia trẻ của nước Pháp vào đầu thế kỷ này. Hồi còn trẻ, hai người đã hết lòng yêu thương nhau. Nhưng rồi sự vô tín ngưỡng đã đưa họ đến vực thẳm của thất vọng. Cuộc sống càng ngày càng trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa. Rồi một hôm kia, hai người dắt nhau đến một công viên ở Paris và thề thốt với nhau rằng, nếu trong vòng 12 tháng mà không tìm ra được một ý nghĩa nào cho cuộc sống thì cả hai sẽ cùng tự vẫn.
Rất may là sau 12 tháng họ đã tìm ra cho cuộc sống một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy là tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa.
Sau đó cho đến cuối đời, họ đã giành tất cả cuộc sống của họ để làm chứng cho tình yêu và ơn sủng họ đã nhận được.
Trong tác phẩm có tựa đề "Thủ lãnh của thế gian", bà Raissa đã viết như sau: "Ma quỷ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Mạng lưới này tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích giây phút chóng qua hơn cuộc sống vĩnh cửu. Nó khuyến dụ chúng ta chạy theo sự vô định hơn chân lý. Nó bảo ta rằng, ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi."
Chúng ta xin Chúa cho chúng ta luôn biết gắn bó với Chúa, vì chỉ có Chúa mới có thể làm thoả mãn được khát vọng thầm kín nhất của cuộc đời chúng ta và đem lại cho chúng ta một ý nghĩa đích thực về cuộc sống.
Trong các sách Tin Mừng, khi Chúa khiển trách một cá nhân nào, một tập thể nào, một làng xã nào, một thành phố nào, Chúa thường lấy những gì đã xảy ra trong lịch sử để Chúa nói với họ, nhằm giúp họ sống tốt hơn.
Sở dĩ Chúa dựa vào lịch sử là vì Chúa muốn cho họ nhìn lại quá khứ như là một tấm gương soi rọi vào cuộc đời của họ, để họ nhận ra sai trái của họ mà rút kinh nghiệm, đừng để cho bánh xe lịch sử lập lại, hãy tránh đi, hãy làm theo lời Chúa dạy thì họ sẽ không bị như vậy.
Khi nhìn lại lịch sử và đối chiếu những gì đang xảy ra trong hiện tại để cho dân chúng thấy rằng, dù sao đi chăng nữa, hiện tại vẫn tốt hơn quá khứ. Do đó, Chúa nói với các dân thành Corozain, Bethsaiđa, Caphanaum rằng Chúa đang ở đây với họ, đang giảng dạy họ, đang giúp họ thực hiện lời Chúa nhưng họ lại không chịu nghe, không chịu làm theo. Vì thế, Chúa tiết cho họ, Chúa uổng cho họ bởi họ đã chiều theo những tính hư tật xấu, đam mê xác thịt mà khước từ Chúa, bỏ qua cơ hội quý trọng vô giá này. Nếu những điều đang xảy ra nơi họ mà lại xảy ra thời xưa ở Tyrô và Siđon thì dân ở các thành này đã mặc áo nhậm, rắc tro trên đầu, ăn chay cầu nguyện và Chúa sẽ tha thứ và cho họ tồn tại đến ngày hôm nay rồi. Chính vì thế, họ rất nặng tội là như vậy.
Thật sự khi Chúa quở trách về lối sống sa đọa của dân trong các thành phố này, Chúa rất xót xa và đau lòng, vì Chúa thương họ, Chúa muốn cứu họ, Chúa muốn họ ăn năn trở về với Chúa, cực chẳng đã Chúa mới nói có vẻ nặng lời như thế, nhưng lòng họ không lay chuyển. Chúng ta tin rằng, không vì lý do này mà Chúa bỏ rơi họ, Chúa sẽ cầu nguyện cho họ, Chúa hy vọng họ sẽ suy nghĩ lại về lòng chai dạ đá của họ mà bỏ đi lối sống nuông chiều xác thịt quá đáng này mà ăn năn trở về với Chúa.
Từ việc Chúa bị người ta khước từ, bị khinh rẻ, bị chê bai, bị bỏ ngoài tai những điều Chúa dạy bảo, Chúa lại hướng đến các tông đồ, đến mỗi người chúng ta, và dạy các ngài cũng như chúng ta hãy xem đó như là một bài học trong việc thực hiện sứ mạng tông đồ là khi chúng ta nói lời Chúa cho anh chị em chúng ta, chúng ta cũng đừng buồn, đừng nản lòng, vì sẽ có những anh chị em chối bỏ chúng ta, từ khước chúng ta, không đón nhận và chịu nghe chúng ta để mà thực hiện lời Chúa dạy, thay đổi lối sống theo thánh ý Chúa. Còn những anh chị em nghe chúng ta nói lời Chúa, đón nhận lời Chúa, thực hiện lời Chúa thì đó là sự vui mừng của chúng ta. Có lẽ hai điều này luôn xảy ra trong đời sống chứng nhân của chúng ta. Nhưng có một điều quan trọng vô cùng là chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho anh chị em chúng ta, nhất là cho những anh chị em cứng lòng, chai lỳ: “Ai nghe các con là nghe Thầy, và ai khinh dễ các con là khinh Thầy. Mà ai khinh dễ Thầy là khinh dễ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10, 16).
Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con, Chúa biết cuộc sống của chúng con, chúng con không thể nào qua mặt Chúa được, có trốn ở đâu trong cuộc đời này, chúng con cũng không thể thoát được cái nhìn của Chúa. Vì thế, xin Chúa thương ban ơn cho chúng con để chúng con chỉ biết nương tựa vào Chúa, nghe lời Chúa dạy bảo mà mỗi ngày chúng con bỏ ý riêng, không chiều theo bản năng xác thịt nặng nề mà sống đẹp lòng Chúa hơn. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Phanxicô Átxidi hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã soi sáng cho thánh Phanxicô chọn cuộc đời hèn mọn khó nghèo để trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Xin Chúa cho chúng ta hằng noi gương thánh nhân để lại mà thiết tha gắn bó cùng Chúa, và hăm hở bước theo Đức Kitô, với lòng chan chứa an vui và đầy tràn yêu mến. Thánh nhân sinh năm 1182, tại Átxidi. Từ ngày trở lại, gặp Chúa Kitô ở nhà thờ thánh Đamianô cho tới ngày từ trần ở Poóctiuncula (năm 1226), thánh nhân, được mệnh danh là Người Nghèo thành Átxidi, cùng với các anh em tu sĩ của mình sống nghèo khó, rảo khắp nơi loan báo tình yêu của Thiên Chúa. Người cũng đã đặt nền tảng cho ngành nữ đan sĩ của Dòng và huynh đoàn giáo dân hãm mình. Người còn tha thiết với việc giảng thuyết cho những người chưa tin. Suốt đời, thánh nhân không có bận tâm nào khác ngoài mối bận tâm theo Đức Giêsu trong tinh thần vui tươi, đơn sơ, tha thiết phục vụ Hội Thánh và dịu dàng yêu thương mọi người.
Hèn mọn khó nghèo, để nên giống Đức Kitô khó nghèo, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô kêu gọi: Hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng. Với những người mới trở thành Kitô hữu, thánh Phaolô chỉ cho họ thấy phải sống ra sao mới thật sự là công dân Nước Trời. Có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong… Có Chúa chứng giám, đây là điều tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Hãy luôn luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau cũng như cho mọi người. Anh em hãy làm như vậy: đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. Anh em hãy vui mừng luôn mãi, và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.
Hèn mọn khó nghèo, để được Nước Trời làm gia nghiệp, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Phanxicô Átxidi nói: Chúng ta phải đơn sơ, khiêm tốn và trong sạch… Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Hèn mọn khó nghèo, để hoàn toàn tin tưởng phó thác trong bàn tay quan phòng của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, Đức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau: Trong cả đời ngươi, đã có lần nào, ngươi từng ra lệnh cho buổi sáng, chỉ định vị trí cho hừng đông; Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và lang thang ở đáy vực sâu? Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 138, vịnh gia đã bày tỏ: Lạy Chúa, xin dẫn con theo chính lộ ngàn đời. Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Ngày hôm nay, anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với các môn đệ: Ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy. Chúa Cha muốn tất cả chúng ta được cứu độ nhờ Chúa Con, và đón nhận Con của Người với tâm hồn hèn mọn khó nghèo. Chúng ta không nên khôn ngoan và khéo léo theo kiểu thế gian, nhưng đúng hơn phải đơn sơ bé mọn. Ai kiên vững đến cùng, thì Thần Khí Chúa sẽ ngự trên người đó, và họ sẽ là con cái Cha trên trời, vì thi hành thánh ý của Người. Chúa Cha đã soi sáng cho thánh Phanxicô chọn cuộc đời hèn mọn khó nghèo, ước gì chúng ta hằng noi gương thánh nhân để lại, mà thiết tha gắn bó cùng Chúa Cha, và hăm hở bước theo Đức Kitô, với lòng chan chứa an vui và đầy tràn yêu mến. Ước gì được như thế!
Khi ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời".
Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết". Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng được nghe".
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã sai nhóm Mười Hai đi rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh tật (ch. 9). Họ là những tông đồ thân tín, sống gần gũi bên Thầy Giêsu. Nhưng vì thấy lúa chín đầy đồng, và thợ gặt thì ít, Đức Giêsu lại sai thêm bảy mươi hai môn đệ lên đường. Đây là một số người khá đông mà Đức Giêsu quy tụ được. Chắc họ không luôn luôn ở với Ngài và gần gũi như nhóm Mười Hai, vì họ còn phải vất vả lo chuyện gia đình, làm ăn, nhưng họ vẫn được Ngài chỉ định và trao phó nhiệm vụ đi tiền trạm. Ngày trở về của nhóm Bảy Mươi Hai là một ngày rất vui. Họ thi nhau khoe với Thầy về chuyện họ trừ được quỷ dữ, Họ đã có kinh nghiệm về Tên của Thầy mình. “Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải lụy phục chúng con” (c. 17). Những môn đệ bình thường bắt đầu vui sướng nhận thấy họ có thể dũng cảm đối đầu với những mãnh lực đáng sợ chỉ nhờ đặt nơi Thầy một lòng tin phó thác đơn sơ. Đúng là Xatan đã đến ngày tàn khi Đức Giêsu xuất hiện (c. 18). Nó bị sa xuống từ trời, và nước của nó bị đổ nhào bởi Nước Thiên Chúa. Trước niềm vui chiến thắng của nhóm Bảy Mươi Hai, Thầy Giêsu muốn nhắc họ về một niềm vui khác, lớn hơn nhiều. Đó là vui vì tên họ đã được ghi trên trời (c. 20). Khi Xatan bị tống khỏi trời, thì các môn đệ có chỗ vững vàng ở đó. Phúc cho họ vì được ơn có tên trong sách sự sống (Pl 4,3). Đây mới là hạnh phúc và niềm vui đích thật. Bài Tin Mừng hôm nay đầy ắp niềm vui. Niềm vui từ số đông môn đệ tỏa lan sang Thầy Giêsu. Vào ngay giờ ấy, Thầy cũng bất ngờ cảm nếm niềm vui do Thánh Thần, và môi Thầy bật lên lời cầu nguyện tự phát. Vừa thân thiết, vừa cung kính, Thầy dâng Cha lời tạ ơn: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha.” Thầy Giêsu ngây ngất trước những việc Cha làm cho các môn đệ. Tuy chỉ là những kẻ bé mọn, bình dân, chẳng phải là những nhà khôn ngoan thông thái, nhưng họ lại được Cha mặc khải những điều mầu nhiệm. Cha đã vén mở cho họ tin vàoThầy Giêsu là Con của Cha. Họ có niềm tin mà những người kiêu căng tự mãn không có được. Thầy Giêsu khâm phục sự sắp đặt kỳ diệu của Cha: “Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (c. 21). Chúng ta có quyền tin rằng, vào giây phút cầu nguyện linh thiêng này, không phải chỉ các môn đệ và Thầy Giêsu mới đầy ắp niềm vui. Cả Chúa Cha trên trời cũng vui, cùng với Chúa Thánh Thần. Qua lời cầu nguyện, Thầy Giêsu cho thấy Cha đang mặc khải cho môn đệ. Và chính Thầy cũng đang mặc khải về Cha cho họ. Đây là giây phút Cha-Con mặc khải về nhau. Giáo Hội hôm nay cần Mười Hai tông đồ, Nhưng cũng rất cần Bảy Mươi Hai môn đệ đi tiền trạm cho Chúa Giêsu. Giáo Hội cần những giáo dân được sai đi để xây dựng Nước Thiên Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai ngàn năm nay đã trở thành cây cao cho chim trời rủ nhau trú ngụ. Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột, đã làm bột dậy lên, để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới. Sau hai mươi thế kỷ, các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai bé nhỏ. Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba, người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới. Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa trên trần gian, cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và tin yêu Chúa. Xin cho chúng con đừng mặc cảm vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê hương Việt Nam, nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng cho Chúa trong việc xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ. Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như Chúa, gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng, trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường mình sống. Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ thành công vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng con. Amen. ---------------------------------
Niềm vui chỉ có trong Chúa. Đó là sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Ba-rúc tràn đầy nỗi buồn. Vì con cái Ít-ra-en thờ lạy ma quỉ. Ma quỉ thiêu đốt dục vọng. Khiến người ta mê mải đuổi bắt hạnh phúc. Càng đuổi càng xa. Càng chiếm đoạt càng buồn bã. Buồn cho bản thân. Buồn cho những người thân. Buồn cho cả Thiên Chúa. Buồn cho cả thiên đàng. “Xưa tôi vui mừng nuôi dưỡng chúng, nay đành phải buồn sầu ứa lệ để cho chúng ra đi. Chớ ai vui mừng vì thấy tôi goá bụa, bị mọi người bỏ rơi; tôi phải sốn đơn đôc như thế này chỉ vì con cái tôi phạm tội, lìa bỏ Lề Luật của Thiên Chúa”. Vì thế tiên tri không ngừng kêu gọi con cái trở về để được Chúa xót thương. Để được hưởng niềm vui. Niềm vui vĩnh cửu (năm lẻ).
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Các môn đệ hớn hở sau một đợt sứ vụ. Về tường trình với Chúa những chiến thắng lẫy lừng. Ma quỉ phải chịu khuất phục vì các ngài kêu Danh Cực Thánh Giê-su. Chúa Giê-su tràn đầy niềm vui. Vì Chúa Cha đã ban cho các môn đệ được biết mầu nhiệm Nước Trời. Các ngài vốn là những người bé nhỏ nghèo hèn. Thất học. Chính vì không có gì. Không ham hố gì. Không hi vọng gì nơi trần gian. Tâm hồn các ngài hoàn toàn trong trắng. Thuộc trọn về Chúa. Nên Chúa ngự trong các ngài. Có Chúa các ngài khuất phục được ma quỉ. Có Chúa các ngài có tất cả. Đó là thiên đàng. Là thuộc trọn về Chúa. Chúa là niềm vui. Nên khi không có gì. Chỉ có Chúa. Các ngài tràn đầy niềm vui. Các ngài đã tới cõi phúc. Được gặp chính Chúa. Đó là điều mọi người mơ ước mà không được. Đó chính là niềm vui đích thực, Chúa Giê-su mặc khải cho các ngài: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Thánh Gióp nêu gương cho ta. Dù trong thịnh vượng. Dù trong thử thách. Lúc nào cũng gắn bó với Chúa. Rồi Chúa lại ban thưởng niềm vui. Niềm vui trong đời sống sung túc. Niềm vui trong con cái đông đúc. Niềm vui được sống tới tuổi thọ hiếm có. Tất cả những niềm vui đó chỉ là hình ảnh diễn tả niềm vui có Chúa. Có Chúa là có tất cả. Khi thánh Gióp hoàn toàn từ bỏ mình. Trở nên người nghèo khổ nhất. Không có gì. Kể cả danh dự. Kể cả niềm an ủi. Nhưng ngài có Chúa. Nên ngài có tất cả. Ngài có niềm vui. Làm cho những người chung quanh được vui. Và nhất là Thiên Chúa vui tươi. Thiên đàng cũng mừng vui (năm chẵn).
Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng sau một thời gian ra đi rao giảng, các ông hớn hở trở về nói lên niềm vui của mình, vì đã nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỉ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực.
Giải phóng con người khỏi ách nô lệ và đưa con người vào tự do đích thực, đó là sứ mệnh mà Giáo Hội tiếp tục thực thi trong thế giới này. Chúng ta có thể nhận ra sứ mệnh ấy qua diễn văn Ðức Gioan Phaolô II đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày 5/10/1995. Ðức Thánh Cha ghi nhận rằng con người càng ngày càng tìm kiếm tự do và đây chính là điểm nổi bật của thời đại chúng ta. Sự tìm kiếm tự do ấy đặt nền tảng trên các quyền phổ quát của con người. Chính vì phản ứng lại những hành vi man rợ đối với phẩm giá con người, mà chỉ ba năm sau khi thành lập, Liên Hiệp Quốc đã công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ðây là một gia sản chung của nhân loại, nó bắt nguồn từ chính bản tính của con người, trong đó có phản ánh những đòi hỏi khách quan và không thể hủy bỏ được của một luật luân lý phổ quát.
Sống theo những khát vọng cao thượng nhất của mình, con người có thể làm được những điều xem ra vượt quá khả năng của nó. Ðó là sứ điệp chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay: các môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng, họ không có một khí giới nào khác ngoài sự siêu thoát và niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Vậy mà khi nói về những thành quả của họ, chính Chúa Giêsu đã thốt lên: "Ta đã thấy Satan như tia chớp từ trời rơi xuống". Ðó chính là sức mạnh của những người mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng có thể thực hiện được những điều cả thể ấy nếu họ cũng biết trang bị cho mình một niềm tin vào quyền năng của Chúa, nhất là nếu họ biết sống theo những khát vọng cao thượng nhất của con người. Những khát vọng đó là gì, nếu không phải là tự do, công bằng, bác ái, liên đới. Nếu họ thực sự sống theo những khát vọng thâm sâu ấy và sống tín thác nơi Thiên Chúa ngay cả khi gặp thất bại khổ đau, lúc đó họ mới có thể hưởng được niềm vui đích thực mà các môn đệ Chúa Giêsu đã bày tỏ khi gặp lại Ngài.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn nếm được niềm vui đích thực ấy trong cuộc sống hằng ngày.
Ngay giờ ấy được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết ngững điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, đó là điều đẹp ý Cha.” (Lc. 10, 21)
Mặc dầu gặp những thất bại trên đường truyền giáo, các ông được Đức Kitô sai đi, đã trở về vui mừng vì tổng kết những kết quả không thể bỏ qua. Như những cậu bé sung sướng, các ông kể lại với Thầy: “Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”. Điều đó làm các ông xúc động mạnh. Đức Giêsu đã cho các ông hiểu chính Người đã hành động trong lúc các ông truyền giáo. Trong cầu nguyện Người đã thấy Sa-tan, kẻ thù, đã từ trời rơi xuống như chớp. “Đây Thầy đã ban cho anh em quyền năng giày đạp rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng Thầy vui mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Như vậy, Đức Giêsu đã làm lắng dịu niềm vui của các môn đệ đi một chút. Điều quan trọng không phải khuất phục được quỷ thần và những thành công khác, nhưng chính là nhiều người đã đón nhận lời Chúa và được ơn cứu độ nhờ các ông, đây mới là điều đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã được đẹp lòng Chúa Cha, Đấng ngự trên trời cao.
Trước công việc tốt lành các bạn hữu đã làm, Đức Kitô không thể ngăn cản được niềm hoan lạc trong Thánh Thần. Và Người đã cảm tạ Chúa Cha đã tỏ những mầu nhiệm cho những kẻ bé mọn mà không tỏ cho những người khôn ngoan thông thái.
Những nhà truyền giáo của Người là những kẻ nghèo khó và khiêm tốn hèn mọn. Người đã chọn các ông từ một giai cấp tầm thường họ không có bằng cấp gì, không phải hạng trí thức, không phải hạng danh tiếng, phần lớn là những người ngư dân chất phát. Vậy không phải kiến thức của họ có thể làm choáng mắt thính giả, nhưng chính đức tin sống động của họ và chân lý của sứ điệp Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao phó cho họ.
Giáo Hội sơ khai được đặc ân thay Chúa, như là những dụng cụ truyền giáo, nhưng tất cả những thứ đó đều không thích hợp, không tương xứng với lý trí loài người. Những tiêu chuẩn đánh giá trị của Thiên Chúa không như chúng ta tưởng. Để nhận biết Chúa Cha cũng như nhận biết Chúa Con, những bằng cấp tiến sĩ không cần thiết, dù đôi khi có giúp ích. Chiều dài lịch sư Giáo Hội đã chứng tỏ điều đó. Những cái đầu nhồi nhét đầy, nhưng quá chắc không nhất thiết đạt tới ánh sáng Thiên Chúa. Chúng không có một ki-lô nào đối với những đầu óc bé nhỏ.
Xem lại CN 14 TN C, thứ Ba tuần 1 MV, thứ Tư và thứ Năm tuần 15 TN và lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su năm A
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc các môn đệ tập kết quanh Đức Giêsu để báo cáo thành tích mà các ông đã đạt được trong lần đi truyền giáo vừa qua. Các ông khoe với Chúa: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con". Tuy nhiên, Đức Giêsu thay vì khen ngợi các ông, Ngài lại tạ ơn Thiên Chúa vì đã làm những điều kỳ diệu nơi các ông, mặc dù bản thân và khả năng các ông không xứng đáng. Nhân đây, Đức Giêsu cũng mặc khải và hướng các ông về niềm vui siêu nhiên. Vì thế, sự chiến thắng không nằm ở chỗ khuất phục được thiên nhiên, bệnh tật, ma quỷ, mà là tên các ông đã được nghi dấu trên trời.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta, cần phải ý thức rằng: sứ mạng truyền giáo không chỉ dành riêng cho ai, mà cho hết mọi người. Qua Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, sứ mạng đó thuộc về chúng ta, và chúng ta phải có bổn phận thi hành.
Khi thành công đến, chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui siêu nhiên hơn là tự nhiên. Được cứu độ hơn là chiến thắng bề ngoài, vì giá trị tinh thần thì cao trọng và có sức biến đổi chứ không phải hình thức hay số lượng bên ngoài. Để đạt được điều đó, chúng ta luôn sống trong tâm tình đơn sơ, khiêm nhường, tín thác của kẻ bé mọn.
Lạy Chúa Giêsu, trong hành trình loan báo Tin Mừng, xin Chúa cho chúng con biết khiêm tốn, nghèo khó và tín thác nơi Chúa trọn vẹn. Amen.
Sứ điệp: Người môn đệ Đức Kitô được mạc khải mầu nhiệm Nước Trời, và đã được ghi tên trong sổ hằng sống, vì thế phải biết cùng với Đức Kitô cảm tạ ngợi khen Chúa Cha.
Cầu nguyện: Lạy Cha, khi nhìn lên trời đất bao la, con thấy mình chỉ như hạt cát giữa sa mạc. Và khi so sánh với những người thông thái khôn ngoan, con thấy mình chỉ là kẻ hèn kém bất tài. Thế mà, lạy Cha, qua Chúa Giêsu Con Một Cha, Cha đã mạc khải Nước Trời cho con. Cha cũng đã trao ban cho con muôn vàn hồng ân hồn xác, để con được sống và sống dồi dào. Hơn nữa, Cha còn dọn sẵn cho con một nơi ở bên Cha trong cõi hạnh phúc vô biên. Trước tình thương và muôn ân phúc cao vời ấy, con không biết làm gì hơn là xin được hợp với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Cha, để mãi mãi dâng lời cảm tạ tri ân Cha.
Lạy Cha, khi còn sống nơi dương thế, Con Một Cha đã không ngừng rao truyền Danh Cha cho mọi người. Vậy mà ngày nay, còn có rất nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đang bị bơ vơ và chao đảo, khi họ đi tìm cho mình một lẽ sống. Xin Cha thương mạc khải Nước Trời cho họ.
Xin Cha cũng giúp con biết nỗ lực tiếp nối công việc mà Con Một Cha đã khởi sự, đó là loan báo Danh Cha cho mọi người, để mọi nơi trên địa cầu, Danh Cha được ca ngợi tôn vinh, và mai sau trên cõi trời vinh phúc, mọi người không ngớt cảm tạ tri ân Cha, vì Cha là Đấng toàn năng, quảng đại và giàu tình yêu thương. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời”.
Bác sĩ Cronin kể câu chuyện của mình trở lại với Chúa như sau:
Khi làm việc trong một bệnh viện, ông thấy một cô y tá rất tận tâm, rất yêu người bệnh, hầu như đêm nào cô cũng thức thật khuya để lo cho bệnh nhân. Dù vậy, ông biết rằng tiền lương của cô rất ít, chỉ vừa đủ để sống thôi.
Ngày kia, gặp cô y tá này, ông đề nghị:
- Cô có công nghiệp lắm! Rất đáng được tăng lương.
- Tiền lương của tôi như vậy cũng đủ rồi, cô y tá nói.
- Nhưng cô đáng được nhiều hơn nữa. Chúa biết cô có nhiều công nghiệp, vị bác sĩ khẳng định.
- Nếu Chúa biết… thì tôi còn muốn gì hơn nữa, cô nói thêm: Tôi chỉ làm vì Chúa!.
Và bác sĩ Cronin thú nhận: “Nghe cô nói như vậy, tôi rất cảm phục. Tôi thấy tâm hồn tôi bừng sáng lên. Tôi thấy cô y tá này có một tâm hồn quá cao trọng, còn tôi thì quá nghèo nàn. Và nhờ thế, tôi đã trở lại với Chúa”.
Suy niệm
Chúa Giêsu chọn và sai bảy mươi hai môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ phải đối mặt với bao nguy khó, gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công. Các môn đệ đã trở về trong niềm vui mừng, Tin Mừng hôm nay thuật lại sự trở về trong hớn hở nói lên niềm vui của người môn đệ dấn thân:
“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126,5-6).
Trong sứ mạng ra đi, các môn đệ nhờ quyền năng của Chúa mà xua trừ được ma quỷ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy rằng Ngài đến là để giải phóng con người khỏi nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực. Chúa nói: Đừng tự mãn vì được thành công. Nhưng hãy vui mừng vì tên các ông đã được ghi vào sổ hằng sống (x. Lc 10,20).
Trước những hoa trái của các môn đệ, Chúa Giêsu đã cảm tạ Thiên Chúa Cha là nguồn mọi ơn lành, đã mạc khải cho những người bé mọn, môn đệ là những con người tầm thường nhưng hăng say theo Thầy đi rao giảng Tin Mừng.
Xin cho chúng ta luôn lắng nghe tiếng Chúa kêu mời trong cánh đồng truyền giáo và nhiệt thành trong công việc tông đồ, vì danh Chúa và phát triển nước Trời tại trần gian.
Ý lực sống
“Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!”
Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 125,2b-3).
1. Sau thời gian thực tập, 72 môn đệ trở về trong hân hoan, kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Qua những thành công này, Chúa muốn nói với các ông: đừng tự mãn vì được thành công, nhưng hãy vui mừng vì tên các ông đã được ghi trên Trời. Cũng trong Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã cảm tạ Thiên Chúa là nguồn mọi ơn lành, đã mạc khải cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn biết đón nhận Tin Mừng do các môn đệ rao giảng.
2. Tin Mừng hôm nay nói đến sự thành công của 72 môn đệ. Thật thế, công việc truyền giáo của các ông đạt được nhiều thành quả: chẳng những lời rao giảng của các ông được đón nhận mà các ông còn thắng được cả quyền lực Satan. Bởi thế, chẳng lạ gì khi các ông trở về với tâm trạng vui mừng và hãnh diện. Sự thành công đó khích lệ các ông vững bước theo Chúa hơn, nhưng cũng có thể đưa các ông đến chỗ tự mãn mà quên rằng tất cả đều có bàn tay Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ: “Các con chớ vui mừng vì ma quỉ phải khuất phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi ở trên trời”. Tên đã được ghi ở trên trời cũng có nghĩa là đã thuộc vào hàng ngũ Thiên Chúa, nhờ đó được nghe những điều các Tiên tri và vua chúa hằng ao ước được nghe mà không được.
3. Sau khi nghe các môn đệ trình thuật với Chúa những thành công của họ, Chúa Giêsu đã thưa với Cha Ngài: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho các bậc khôn ngoan, thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người hèn mọn”. Lời này còn được Chúa trình bầy dưới một hình thức khác: “Nếu anh em không đón nhận Nước Thiên Chúa như những trẻ nhỏ thì anh em sẽ không được vào”.
Như vậy người hèn mọn hay bé nhỏ là những người có tinh thần thiện chí, tâm hồn phục thiện, có lý trí không tự kiêu, và có lòng mến đầy khiêm nhường. Một người như thế là một người hạnh phúc, vì xem thấy những điều các tông đồ được xem và nghe biết những điều các tông đồ được nghe. Tức là xem thấy Chúa Giêsu và nghe biết những lời Ngài giảng dạy.
4. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở nên nhỏ lại trong tính xấu, để những tính tốt nơi chúng ta được lớn lên nhất là để Chúa Giêsu Thánh Thể được lớn lên mỗi ngày trong chúng ta. Như chúng ta đã biết: “Châm ngôn sống của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là tình yêu, yêu Chúa yêu người, với tất cả tấm lòng khiêm cung nhỏ bé như trẻ thơ tin yêu phó tác vào cha mẹ” (x.LMTV, Gương các thánh, tập 2, tr 228). Thật thế, có tâm hồn như trẻ thơ là điều kiện để vào Nức Trời, như lời Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”(Mt 18,3).
Bởi vì, trẻ thơ có các đặc tính: khiêm nhường, nghèo khó, trông cậy, đơn sơ... nhờ những đức tính đáng quý này mà Chúa Giêsu đã đưa trẻ em làm lý tưởng sống cho những ai muốn vào Nước Trời. Và thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã sống với tâm hồn trẻ thơ để trở nên thánh thiện, bằng việc yêu mến và phó thác hoàn toàn cho Chúa (Phút lắng đọng).
5. “Các con hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, thường chúng ta rất vui vì được người ta khen ngợi – vui vì đã phục vụ: điều đó là tâm lý thông thường của con người chúng ta, không có gì đáng trách. Nhưng Chúa Giêsu nhắc chúng ta về một niềm vui lớn lao hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau. Đây mới là niềm vui thánh thiện, niềm vui của những con người đã vươn lên tới đỉnh trọn lành.
Vâng, tất cả những niềm vui trần thế đều rất mau qua. Tiền bạc rồi cũng qua, địa vị, chức quyền danh vọng... rồi cũng qua.
6. Truyện: Cùng đích của con người.
Ngày xưa, triết gia Diogenes là một người sống rất thanh bạch, cái nhà của ông ở chỉ là một cái thùng rỗng. Ông có kiểu nói làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.
Một hôm, ông đến giữa chợ thành Athènes dựng một căn lều. Trước cửa lều, ông đặt một tấm bảng trên đó có ghi đậm hàng chữ như sau:
- Tại đây có bán sự khôn ngoan.
Một bậc khoa cử tình cờ đi ngang qua căn lều đọc được lời rao bán, mới cười thầm trong bụng. Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì. Ông mới sai người đầy tớ cầm tiền đến dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ, anh đưa cho Diogenes 3 hào và nói rằng, chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, triết gia Diogenes nói với người đấy tớ một cách trang trọng như sau:
- Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự hãy nghĩ đến cùng đích của mình”.
Vị khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và tất cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.
1. Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Đức Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ: Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)
2. Chúa Giêsu lại liên tưởng đến những kẻ không đón nhận Tin Mừng vì lòng trí họ kiêu căng tự mãn. Những người này khác hẳn với những tâm hồn đơn sơ bé mọn đã đón nhận Tin Mừng do các môn đệ rao giảng. Và Ngài cảm tạ Chúa Cha về việc đó.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con chớ vui mừng vì các tà thần phải vâng phục các con, nhưng hãy vui mừng vì tên các con được ghi trên trời”: sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, tôi cũng rất vui. Tôi vui vì những thành công đó, tôi vui vì được người ta khen ngợi, tôi vui vì đã phục vụ… Chúa Giêsu nhắc tôi một niềm vui lớn hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau.
2. “Con xưng tụng Cha vì đã dấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy…”: Tôi cũng xưng tụng cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho tôi được đức tin, được biết Chúa. Nhiều người thông thái khôn ngoan hơn tôi đã không được những ơn này. Đức tin là một ơn ban chứ không phải là thành quả của công lao con người.
3. “… nhưng đã tỏ ra cho những kẻ đơn sơ”: xin cho con càng ngày càng đơn sơ hơn nữa: đơn sơ với Chúa, đơn sơ với lương tâm con và đơn sơ với mọi người, vì đơn sơ là điều kiện thuận lợi con được Chúa dạy bảo và ban ơn.
4. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua Chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc 10,24)
Môsê, Đavít, Êlia tất cả đều sống trong sự chờ đợi. Chờ đợi lời Thiên Chúa hứa ban Con của Ngài đến được thực hiện. Họ mong được nhìn thấy Con Thiên Chúa, mong được nghe Ngài giảng dạy về Nước Trời.
Các tông đồ đã sống, đã đồng hành với Ngài trên mọi nẻo đường. được Ngài dạy dỗ, được sai đi rao giảng Nước Trời. Các ông đã được thấy phép lạ Người làm. Được nghe Ngài nói về Chúa Cha và Nước Trời, nhưng các ông vẫn sống trong hoài nghi cho đến khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết.
Ngày nay, Ngài cũng nói với tôi mỗi ngày qua Tin Mừng, qua anh em tôi. Tôi vẫn thấy Ngài bị treo thánh giá, nơi những người cùng khổ, những người bị áp bức bất công, nơi những tâm hồn thống hối trở về. Tôi đã thấy Ngài sống lại vinh quang và những phép lạ Ngài làm trong cuộc sống quanh tôi. Tôi có thấy mình hạnh phúc hơn các ngôn sứ, các vua Chúa, các tông đồ không? Hay tôi cũng là môn đệ của chủ nghĩa hoài nghi?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vui mừng và tin vào những gì Ngài đã làm cho con cũng như nói với con hằng ngày. (Hosanna).
1. Lại một lần nữa Chúa nói với chúng ta về tâm hồn đơn sơ và Chúa coi sự đơn sơ như là điều kiện thuận lợi để được Chúa dạy bảo và ban ơn. “Con xưng tụng Cha vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều ấy, nhưng đã tỏ ra cho những kẻ đơn sơ” (Lc 10,21).
Đây là câu chuyện đã xảy ra ở Lộ Đức.
Một quả phụ đem đứa con trai duy nhất của bà lên 10 tuổi đến hang đá Lộ Ðức. Cậu bé bị bất toại từ lúc vừa mới biết đi vì một tai nạn xe hơi. Dọc đường, bà mẹ không ngừng lập đi lập lại với con là bất cứ điều gì con cầu xin cùng Chúa Giêsu, nhờ lời bầu cử của Ðức Mẹ sẽ không bị từ chối.
Tới hang Lộ Ðức, bà mẹ đẩy con ngồi trên xe lăn nhập hàng rước kiệu cùng với các bệnh nhân khác, và kiên nhẫn chờ đợi Mình Thánh Chúa đi ngang qua đó, để lãnh nhận phép lành. Vị linh mục cầm Mình Thánh Chúa trên tay và dừng lại ban phép lành trước mỗi bệnh nhân. Khi ngài đến trước mặt cậu bé bất toại, cậu bé lớn tiếng cầu nguyện với tất cả lòng tin tưởng.
- Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa không chữa con lành bệnh con sẽ thưa lại với Mẹ Chúa cho xem.
Nghe vậy, vị linh mục xúc động mạnh, liền quay trở lại ban phép lành cho cậu một lần nữa. Cậu bé vừa chăm chú nhìn Mình Thánh Chúa, vừa lớn tiếng thân thưa:
- Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa không chữa lành bệnh cho con, con nhất định sẽ thưa lại với Mẹ Chúa cho xem.
Mình Thánh Chúa vừa được vẽ xong hình Thánh Giá trên người em thì như có một sức mạnh nào đó thúc đẩy, cậu bé đứng thẳng dậy bước khỏi xe lăn, quì gối thờ lạy tạ ơn Chúa trước sự ngạc nhiên của mọi người, nhất là trước sự xúc động của mẹ em.
2. “Các con chớ vui mừng vì tên các con được ghi trên trời” (Lc 10,20).
Sau những thành công trong công tác mục vụ hoặc truyền giáo, thường chúng ta rất vui. Chúng ta vui vì được người ta khen ngợi - vui vì đã phục vụ. Chúa Giêsu nhắc chúng ta về một niềm vui lớn hơn gấp bội: vui vì được kể là công dân Nước Chúa, vui vì được làm cộng sự viên của Chúa, vui vì hạnh phúc vĩnh viễn mai sau. Đây mới là niềm vui thánh thiện, niềm vui của những con người đã vươn lên tới đỉnh trọn lành.
Vâng, tất cả những niềm vui của trần thế đều rất mau qua. Tiền bạc rồi cũng qua. Địa vị cao trọng rồi cũng qua….
Sử gia Plutarque có kể lại câu chuyện sau đây:
Một ngày nọ, hoàng đế Alexandre thấy triết gia Diogenes ngồi quan sát rất chăm chú bộ xương người nên hỏi:
- Khanh làm gì mà quan sát bộ xương đó kỹ càng như vậy ?
Diogenes trả lời:
- Muôn tâu bệ hạ, hạ thần nghiên cứu rất kỹ mà vẫn không thấy bộ xương của phụ vương bệ hạ khác với bộ xương của người nô lệ tí nào cả.
Rồi cũng triết gia Diogenes. Một hôm đến giữa chợ Athène dựng lên một căn lều. Trước cửa lều ông đặt một tấm bảng trên đó có ghi đậm hàng chữ như sau:
- Tại đây có bán sự khôn ngoan.
Một bậc khoa cử tình cờ đi ngang qua căn lều đọc được lời rao bán, mới cười thầm trong bụng. Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ, anh đưa cho Diogenes 3 hào và nói rằng, chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba hào bỏ vào túi, triết gia Diogenes nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau:
- Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự hãy nghĩ đến cùng đích của mình”.
Vị khoa cử thành Athène vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.
Charlie bị cáo buộc là đã giết một viên chức hành chánh tại Đại Học Harverford ở Pennsylvania và phải nhận án tử hình trên ghế điện. Lúc anh ở tù, một đoàn truyền bá Tin Mừng thuộc Hội Thánh Tin Lành Alden Union đã đưa anh ta đến với Chúa. Charlie học Kinh Thánh và rất thích thánh ca. Charlie hay hát bài: “Không ai săn sóc tôi bằng Chúa Giêsu “.
Trước khi bị lên ghế điện, Charlie xin được nói chuyện với các bạn tù. Nhận được phép, Charlie nói về niềm vui của anh trong Chúa: Anh bảo rằng, không còn sợ bị hành quyết. Anh rất hối hận về tội của mình, nhưng đã được Chúa tha thứ và biết rằng, chẳng bao lâu nữa sẽ được gặp Chúa trực tiếp.
Cuối giờ nói chuyện, Charlie hát bài mình thích nhất rồi bước xuống. Một tờ báo tại Philadelphia thuật rằng, khi đi vào ghế điện, anh hát một lần nữa. Khi người ta trùm đầu Charlie, câu nói cuối cùng của anh cũng là lời hát: “Một ngày kia tôi sẽ gặp mặt Chúa trong hạnh phúc”.
Các môn đệ sau những ngày đi thực tập rao giảng Tin Mừng theo lệnh truyền của Chúa, hôm nay, các ngài trở về quay quần bên Chúa, kể lại cho Chúa nghe những thành quả tốt đẹp đạt được thì Chúa rất vui mừng và Chúa sẽ ban phần thưởng cho các ngài, phần thưởng đó là mơ ước của tất cả mọi người chúng. Khi Chúa nói: “Khi ấy, bảy mươi hai môn đệ trở về vui mừng và nói rằng: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì ma quỷ cũng vâng phục chúng con. Chúa bảo: Thầy đã thấy Satan từ trời sa xuống như luồng chớp. Này Thầy đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại các con. Dù vậy, các con chớ vui mừng, vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời” (Lc 10, 17 – 20).
Phần thưởng mà Chúa ban cho các ngài là nước thiên đàng, theo chúng ta nghĩ thì quả thật xứng đáng với sự hy sinh và dấn thân của các ngài. Đây cũng là bài học cho chúng ta noi theo. Một khi chúng ta làm theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nhất là khi chúng ta cộng tác với Chúa trong công cuộc rao giảng lời Chúa cho anh chị em của chúng ta để họ nhận biết Chúa, theo Chúa và sống tốt thì Chúa cũng ban nước thiên đàng cho chúng ta.
Mặt khác, đối với Chúa, Chúa rất vui, rất hài lòng khi chúng con làm theo lời Chúa dạy. Chúa vui để rồi Chúa dâng lời cảm tạ Chúa Cha, vì Chúa Cha đã ban điều này cho Chúa. Chúa trân trọng, Chúa gìn giữ, Chúa bảo vệ, Chúa yêu quý chúng ta. Chúng ta không phải lo lắng gì trong cuộc đời này, vì chúng ta đã có Chúa ở với chúng ta, nâng đỡ chúng ta: “Lúc đó, Chúa đầy hoan lạc trong Chúa thánh Thần, Chúa nói: Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông thái, khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết” (Lc 10, 21 – 22). Nhất nữa, Chúa còn cho chúng ta biết về Chúa để sống với Chúa cho phải đạo làm con, được đạt tới hạnh phúc viên mãn sau này: “Hữu tri, đắc đạo”
Khi Chúa dạy bảo chúng ta và chúng ta làm theo thánh ý của Chúa, đó là niềm hạnh phúc vô cùng của chúng ta. Ngày xưa, các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta có mơ ước cũng không được. Còn chúng ta ngày hôm nay, chúng ta được sống trong thời đại ân sủng của Chúa. Chúng ta được đón nhận biết bao ơn lành Chúa ban cho chúng ta qua cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Chúng ta cảm ơn Chúa đời đời cũng chưa cho cân xứng được: ‘Rồi Chúa quay lại phía các môn đệ và phán: “Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con thấy, vì chứng Thầy bảo các con; nhiều tiên tri và vua Chúa đã muốn xem điếu các con thấy mà chẳng xem được, muốn nghe những điều các con nghe, mà chẳng được nghe” (Lc 10, 23 – 24). Do đó, chúng ta phải sống theo những gì Chúa dạy là cách thức chúng ta tạ ơn Chúa một cách phải đạo nhất.
Lạy Chúa, chúng con thường xuyên vấp ngã trên con đường theo Chúa, cho nên chúng con bị khổ cực là đúng lý rồi, nhưng chúng con xin Chúa mở lượng từ bi hãi hà xót thương tiếp tục dạy dỗ chúng con, soi lòng mở trí để chúng con hiểu biết về Chúa, sống gắn bó, cậy trông, tin tưởng ở Chúa, nhờ đó chúng con được Chúa cứu vớt chúng con sau này. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Bảy Tuần 26 Thường Niên, năm Chẵn này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, xin Chúa không ngừng ban ơn giúp chúng ta đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban, và chúng ta đang hết lòng theo đuổi.
Nước Trời là hạnh phúc Chúa hứa, và là niềm hy vọng của ta, còn ở đời này, sao cũng được, đón nhận tất cả những gì Chúa gửi đến, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô cho thấy: Phải trả giá khi muốn giúp đỡ nhau. Trong hoàn cảnh túng thiếu, thánh Phaolô đã tìm được những người anh em. Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được: no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết… Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi phải ngặt nghèo vì Đức Kitô.
Nước Trời là hạnh phúc Chúa hứa, và là niềm hy vọng của ta, chúng ta hãy giúp nhau đạt được cứu cánh của mình, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Nítxê nói: Người dưới cũng như kẻ trên: người dưới vui vẻ chấp hành lệnh truyền, người trên sung sướng thúc đẩy anh em tới bậc hoàn thiện; nếu đôi bên trọng kính nhau, thì ngay trên mặt đất này, anh em đã sống đời sống của các thiên thần rồi vậy… Anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.
Nước Trời là hạnh phúc Chúa hứa, và là niềm hy vọng của ta, còn đau khổ Chúa cho phép xảy đến cũng chỉ vì lợi ích của chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ông Gióp nói: Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 118, vịnh gia đã bày tỏ: Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Chúa. Xin dạy con hiểu cho tường, xét cho đúng, vì con vẫn tin vào mệnh lệnh Ngài. Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với các môn đệ: Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời. Nước Trời được mặc khải cho những người bé mọn, những người bé mọn là những người không lấy làm tự mãn với những gì mình đạt được, nhưng, vui mừng vì tên mình được ghi trên trời, bởi lẽ, được lời lãi cả thế gian, mà thiệt mất linh hồn thì được ích gì. Người bé mọn luôn đón nhận mọi sự Chúa gửi đến với lòng biết ơn, hoàn cảnh thế nào họ vẫn bằng lòng với thực tại, vì thâm tín rằng: Chúa mới biết điều gì tốt nhất cho mình. Người bé mọn như chiếc lá khô tung bay theo làn gió Thánh Thần: lên cao cũng được, ở dưới thấp cũng không sao, bay lượn hay chỉ nằm yên một chỗ cũng không hề hấn gì. Người bé mọn không bám víu vào những gì mình có, cũng không tự mãn với những gì tốt đẹp nơi mình, bởi vì, gia nghiệp của họ là chính Đấng Tốt Lành, là chốn họ nương náu, ẩn thân. Người bé mọn, khi vấp ngã cũng không tự ti mặc cảm, vì ý thức được thân phận yếu đuối của mình, cho nên, họ tha thiết nài xin ơn tha thứ và sự trợ lực để tiếp tục chiến đấu trên đường hoàn thiện. Khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, ước gì chúng ta biết trở nên bé mọn, tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa gửi đến, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban, và chúng ta đang hết lòng theo đuổi.