"Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên mình Người".
Lời Chúa: Mt 3, 13-17
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ xứ Galilêa mà đến với Gioan ở sông Giođan, để ông làm phép rửa cho. Nhưng Gioan can Người rằng: "Chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao?" Chúa Giêsu liền đáp lại: "Không sao, vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế". Và bấy giờ ông Gioan chiều ý Người.
Chúa Giêsu chịu phép rửa, rồi bước lên khỏi nước. Này đây các tầng trời mở ra, và Người thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống như một bồ câu và đậu trên Người.
Và ngay lúc ấy, có tiếng từ trời phán: "Này là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta".
Xếp hàng chung với những người thu thuế, tội lỗi, Đức Giêsu chờ đến phiên mình được Gioan làm phép rửa. Gioan bối rối, khước từ. Đấng ông không đáng xách dép, Đấng là thẩm phán quyền uy, Đấng sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần, Đấng ấy lại cúi mình xin ông làm phép rửa sám hối. Đức Giêsu mời gọi ông cứ làm, dù ông không hiểu, vì đó là điều hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Câu nói đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Matthêu (3,15) tóm gọn cả cuộc đời tương lai của Ngài. Ngài chỉ muốn giữ trọn, làm trọn điều Thiên Chúa muốn. Đức Giêsu hạ mình trước mặt Gioan, và Ngài còn dìm mình thật sâu trong dòng nước. Ngài chia sẻ cùng một dòng nước với những hối nhân. Ngài liên đới với sự hoán cải của cả dân tộc. Chính lúc Ngài tự hạ vì vâng phục, Thiên Chúa lại muốn long trọng tôn vinh Ngài. "Vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra." Tầng trời mở ra là dấu hiệu Thiên Chúa muốn ngỏ lời. "Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống và ngự trên Người." Đức Giêsu đã được thụ thai nhờ Thánh Thần, nay Ngài lại nhận được Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ. "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." Chúa Cha trìu mến giới thiệu cho ta Con của Ngài. Cha tấn phong Ngài làm Mêsia, nhưng theo kiểu một Tôi Tớ. Đức Giêsu hiểu những gì Cha mới vén mở cho mình. Qua bao năm cầu nguyện, Ngài đã được Cha tỏ lộ về căn tính và sứ mạng thiên sai của Ngài. Nhưng hôm nay, nơi sông Giođan, Cha đã chuẩn nhận một cách long trọng và dứt khoát. Cả con người Ngài bừng lên ánh sáng và sức mạnh. Đức Giêsu biết giai đoạn ẩn dật ở Nadarét đã kết thúc. Đã đến lúc Cha muốn Ngài lên đường. Kinh nghiệm bên sông Giođan, Đức Giêsu chẳng thể quên. Kinh nghiệm ấy được sống và lớn lên trong suốt đời Ngài. Ngài không chỉ đứng chung với tội nhân, Ngài còn gần gũi họ, nâng dậy và gánh tội của họ. Ngài chết với những tội nhân và chết như một tội nhân. Các tầng trời đã mở ra và không bao giờ khép lại. Sự hiện diện, lời nói, hành động của Ngài đã luôn là một vén mở về khuôn mặt của Thiên Chúa. Thần Khí Thiên Chúa đã ngự trên và ngự trong Ngài. Thần Khí là bạn đường, hướng dẫn Ngài vào hoang địa, đưa Ngài đi giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật. Thần Khí làm Ngài hớn hở mừng vui cất lời ca ngợi. Nhờ Thánh Thần, Ngài đã luôn sống như Con của Cha, luôn làm điều đẹp lòng Cha và sống đơn sơ phó thác. Phép rửa ở Giođan chuẩn bị cho phép rửa nơi thập giá. Chúng ta được mời gọi sống phép Rửa mình đã lãnh nhận. Mai táng cái tôi ích kỷ và rạng rỡ trong cái tôi tự do.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là khuôn mặt của một Kitô hữu lý tưởng? Tương quan của người này với Ba Ngôi, với Hội Thánh và với thế giới có những nét đặc biệt nào?
Đối với Đức Giêsu là một chuỗi những tự hạ vì vâng phục Cha và yêu thương con người. Bạn có thể kể một số tự hạ của Ngài không? Bạn nghĩ gì về sự tự hạ của bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
Sông Giođan, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Giođan phát nguồn từ ngọn: TN1-A22
Sông Giođan, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Giođan phát nguồn từ ngọn núi Hermon ở độ cao 520m. Suốt 220km đường dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Halê, chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê nơi Đức Giêsu thường qua lại và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam đổ vào biển Chết. Ở đây là độ sâu 394m dưới mực nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Đức Giêsu bước xuống sông Giođan để chịu phép rửa. Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý, mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Đức Giêsu đã hoà mình vào dòng người tội lỗi cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Đức Giêsu không cho mình cái quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng sinh ta đã được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, làm một người nhỏ bé nghèo hèn, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay bắt đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ với quần chúng. Đức Giêsu đã tới dìm mình trong dòng sông Giođan. Để chuẩn bị ra gặp loài người. Đức Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm. Đức Giêsu chưa cảm thấy mình gần gũi với nhân loại. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người dìm mình xuống dòng sông Giođan, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả mọi dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vất nơi thân xác nhân loại của Người, tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách để Người thực sự là một người anh em của mọi người.
Dòng nước Giođan dù có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhường là một phép rửa, vì khiêm nhường là tự quên mình, là chết đi một chút. Dìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong Nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy Ta phải chịu không? (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói: Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu. Bằng chứng của tình yêu đối với ta đó là: sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt, đó là sự khiêm nhường hòa mình vào đoàn lũ những tội nhân. Đến dìm mình trong dòng sông Giođan, tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xóa đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần phải được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến lên lãnh nhận phép rửa của Đức Giêsu, để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Đức Giêsu, ta vẫn có thể thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm gội trong dòng nước khiêm nhường như lời vua Đavít nói: “Lễ dâng Cha là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát dày vò. Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50).
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về với Cha, sống trọn tâm tình của người con hiếu thảo. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói với ta như nói về Đức Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu. Ta hài lòng về con”.
Lạy Đức Giêsu! xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối.
Tuần trước là lễ Ba vua cũng gọi là lễ Hiển Linh. Một em bé đến với tôi tâm sự và cho biết: gọi là lễ Ba Vua thì em hiểu có ba vua dâng của lễ như Phúc Âm đã tường thuật và như Hang đá thường trình bày, nhưng gọi là Hiển Linh thì em không hiểu. Em xin giải thích cho em hiểu “hiển linh” là gì. Tôi giải thích bằng cách cắt nghĩa chữ đơn giản: hiển là tỏ lộ ra, linh là linh thánh (là Thiên Chúa); hiển linh là Chúa tỏ mình ra. Em “vâng dạ”, nhưng nhìn vào mắt em tôi biết em chưa hiểu.
Trên bàn tôi lúc đó có tấm phim nhựa nhỏ và tấm ảnh màu rửa cỡ lớn. Tôi đưa tấm phim cho em xem và hỏi em có nhìn thấy không. Em xoay ngược xoay xuôi xoay ngang xoay dọc biết rằng có hình người nhưng chịu không nhìn rõ ai cả. Tôi đưa tiếp cho em tấm ảnh mới rửa từ tấm phim ấy và em reo lên mừng rỡ đồng thời kể tên vanh vách những người trong ảnh. Thấy em vui tôi cũng vui lây. Và trong niềm vui ấy tôi tiếp tục giải thích cho em về chữ “hiển linh” một cách cụ thể. Thiên Chúa vẫn có đó như hình vẫn có ở trong phim, nhưng ta chỉ thấy Ngài khi Ngài tự tỏ mình ra như hình được in rõ ra trong tấm ảnh vậy. Tôi thấy mắt em cười và bước ra khỏi phòng tôi trong tư thế nhảy chân sáo như vừa khám phá ra một điếu gì lớn lao lắm. Tôi nhìn theo em và thầm nghĩ: có lẽ Thiên Chúa đang tỏ mình ra cho em.
Thiên Chúa tỏ mình ra là một chủ đề lớn đã trở thành mối bận tâm cho mọi người Kitô hữu trên đường tìm Chúa, mà em bé tôi kể ở trên chỉ là một điển hình; đồng thời đó cũng là chủ đề xuyên suốt cả toàn bộ Kinh Thánh. Trong Cựu Ước, các chiến tích lẫy lừng, và cũng rất thường trong những biến cố kinh thiên động địa như biến cố “Vượt Qua” với vách nước vựng đứng mở lối cho dân Do Thái ra đi trên biển, rồi cột lửa soi sáng ban đêm và áng mây tạo bóng mát ban ngày… Nhưng từ ngày Con Chúa làm người, Thiên Chúa lại chỉ tỏ mình ra qua con đường tự hạ. Bài Phúc Âm hôm nay là khởi đầu cuộc đời công khai, Chúa Giêsu tự hạ chịu phép Rửa và tỏ mình trong vinh quang Ba Ngôi là một ví dụ rõ rệt. Nhưng Chúa Giêsu tự hạ thế nào và tỏ mình ra sao trong suốt cuộc đời của Người? Ngày nay Chúa còn tỏ mình ra cho con người hay không?
Tự hạ.
Ngày Giáng Sinh, Thiên Chúa đã tự bỏ trời cao bước xuống thế trần để nhận lấy kiếp người trong Hình hài một thơ nhi bé bỏng, lại sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo hèn. Ngài là Thiên Chúa vinh quang nhưng đã để vinh quang đó lại trên trời như lời hoan ca của các thiên thần xác định, mà chỉ ôm hai chữ “bình an” xuống thế làm một con người bình thường giữa muôn người bình thường khác.
Thiên Chúa sinh ra mọi loài nay chịu sinh ra bởi một người phụ nữ. Thiên Chúa vô hình nay bước xuống hữu hình, Thiên Chúa vô biên nay đón nhận mình vào những giới hạn. Thiên Chúa giàu sang nay tự hạ làm kẻ nghèo hèn.
Khởi đầu cuộc sống công khai, Thiên Chúa làm người ấy – Chúa Giêsu, lại tự hạ hơn một bước nữa khi rước vào đời mình kiếp sống tội nhân đến song Giođan và xin ông Gioan chịu phép Rửa. Người chấp nhận bầu bạn và đánh chén với những người tội lỗi đã đành như Phúc Âm vẫn kể, Người còn chịu nhận mình là một tội nhân xếp hàng đứng chung với những tội nhân khác để đợi tới phiên mình cuối đầu xin ơn tha thứ. Thiên Chúa đã thánh thiện mà nhận mình là người tội lỗi, Thiên Chúa tuyệt đối không mang tì vết mà lại cầu xin ơn tha thứ làm lại cuộc đời như một người hư hỏng. Sự tự hạ của Chúa thật không hiểu nổi. Chưa hết, kết thúc cuộc đời trần thế, trên đỉnh Núi Sọ cũng gọi là cao điểm tuyệt đối của sự tự hạ, Chúa Giêsu chịu chết nhục hình giữa hai tên trộm cướp. Người bị giết như một kẻ tử tội. Cái chết thê thảm mà ngày nay các tượng thánh giá bằng kim loại quý đeo trên ngực hay được vẽ vời đánh bóng trong các giáo đường không diễn tả được. Phúc Âm kể: Người chết dữ.
Thiên Chúa quyền uy đã để cho người ta trói lại và xét xử. Thiên Chúa hằng sống đã tự hạ để người ta giết chết. Ôi lạ lùng!
Tỏ mình.
Nhưng tự hạ lạ lung đến thế để làm gì? Nếu để phô trương danh thế tiếng tâm thì chỉ là dại dột mà kẻ dại nhất trong loài người cũng không dại dột đến thế. Sự tự hạ của Chúa Giêsu là một phương tiện để Người tỏ mình ra:
Sinh ra như một trẻ nghèo hèn giữa cánh đồng trong Hang đá Bêlem, Người tỏ mình ra là một Thiên Chúa vinh quang, như lời hát đồng thanh của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời…”
Bước xuống đất đen của con người cần được thanh tẩy và xếp hàng đứng chung với các tội nhân chờ được dìm xuống trong nước, Người tỏ mình ra là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối có quyền quyết định trên trời dưới đất, như Phúc Âm mô tả: “các tầng trời mở ra”. Lãnh nhận phép Rửa trong nước, Người tỏ mình ra là Đấng sẽ khai sinh phép Rửa trong Thánh Thần, như hoạt cảnh Tin Mừng trình bày: “Chúa Thánh Thần ngự xuống trên người như chim bồ câu”. Mang vào mình thân phận tội lỗi nhân loại đến tận gốc nguồn là sự phản bội của Adam, Người tỏ mình ra là Con Chí Ái của Chúa Cha từ thuở đời đời, như tiếng từ trời giới thiệu: “Này là con Ta yêu dấu hằng làm đẹp lòng Ta”.
Và chính khi trần trụi bên dòng nước cầu ơn tha thứ, Người xuất hiện là một ngôi vị trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa ngời sáng uy linh. Nếu có bài hát “lung linh lung linh hai tiếng gia đình”, thì ở đây có lẽ phải hình dung là ca khúc “uy linh uy linh gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi”.
Cuối cùng, chết nhục hình như tên tử tội bị kết án, Người tỏ mình ra là Thiên Chúa hằng sống, Đấng ban ơn cứu độ giải xá cho hết mọi người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình.
Thiên Chúa vinh quang tỏ mình ra cho nhân loại bằng con đường tự hạ. Cái sang của đạo dường như ấn giấu trong bức màn tăm tối, đúng như Lão tử nhận xét về một đạo chân chính: “Minh đạo nhược muội”. Nếu lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa tỏ mình ra, thì ngày nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho ta, dĩ nhiên trong Phụng Vụ, Bí Tích và Giáo Hội, nhưng Ngài còn thích hơn khi tỏ mình ra cho ta qua cuộc sống thường nhật, qua những biến cố, những sự kiện, qua những con người ta gặp gỡ và qua những bổn phận âm thầm mỗi ngày. Cánh Ngài tỏ mình ra cũng vẫn là cách tự hạ khiêm nhường nhỏ bé tối tăm và thầm lặng.
Trời chỉ mở ra với vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa khi Chúa Giêsu vì yêu thương đứng chung với hàng ngũ tội nhân và cầu nguyện. Muốn gặp thgấy Thiên Chúa tỏ mình, chúng ta cũng phải liên kết với Ngài bằng sám hối cầu nguyện và bằng tinh thần liên đới yêu thương chia sẻ cuộc sống với những người khác.
Giữa năm 1984, ở Thụy Sĩ người ta đã phát thử thành công tivi màu với hình ảnh nổi, nghĩa là có chiều sâu của khung cảnh và người xem dường như thấy mình đang góp mặt trong khung cảnh ấy. Nhưng muốn thưởng thức, phải mang một gọng kính có hai tròng mắt khác màu nhau, một xanh một đỏ và phải ngồi đúng vị trí đối diện trực tiếp với màn ảnh. Thiên Chúa vẫn tỏ mình nổi bật trên cuộc sống từng người. Muốn gặp Ngài, hãy ngồi vào vị trí đức tin và đeo gọng kính với hai tròng cầu nguyện và yêu thương.
Gần nhà thờ Đức Bà là cả một quần thể panô, người ta dựng lên để quảng cáo cho những phim ảnh đang được trình chiếu tại các rạp trong thành phố. Dù muốn hay không muốn, mỗi lần đi qua, những tựa phim cứ trải ra như tấm thực đơn thơm nức mời mọc, đến nỗi một người bạn thấy thế có lần đã thốt lên câu đùa: “Nếu chịu khó xem hết những panô quảng cáo này, người ta có thể trở thành nhà điểm phim nghiệp dư đấy”. Ừ nhỉ! Không xem phim thì xem tựa phim, biết đâu lại chẳng là một cái thú?
Mấy tuần lễ gần đây, thử để ý, đã thấy xuất hiện một cuốn phim mới tựa đề “Điểm hẹn bất ngờ”. Chẳng biết nội dung thế nào, nhưng tựa phim ấy đã âm thầm đi vào bộ nhớ, để rồi chợt lóe lên khi tiếp cận với trang Tin Mừng hôm nay, đến nỗi cũng muốn gọi lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa như là một điểm hẹn bất ngờ.
1) Điểm hẹn bất ngờ giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu.
Phúc Âm Nhất Lãm đưa ra ba bản văn song song rất giống nhau về việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa, nhưng riêng bản văn của Matthêu mới có mẩu đối thoại ngắn giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu như được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay. Và chính mẩu đối thoại tưởng như trầm chìm ấy lại là một bất ngờ lý thú làm nên điểm hẹn cho phép Rửa nơi sông Giođan.
Khi giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, Gioan Tẩy Giả đã tuyên bố rằng mình chỉ là tiếng kêu bên ngoài, còn Đức Giêsu mới là Lời làm nên ý nghĩa; mình chỉ là cát hoang trải dài sa mạc, còn Đức Giêsu mới là Nẻo Đường thênh thang đi tới; mình dẫu đến trước nhưng lại có sau, còn Đức Giêsu dẫu đến sau nhưng hằng có trước; và mình chỉ rửa trong nước, còn Đức Giêsu mới là Đấng sẽ rửa chính thức trong Thánh Thần. Ông tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng Cứu Thế. Ấy thế mà, bất ngờ thay, chính Đức Giêsu lại đến với Gioan Tẩy Giả nằng nặc đòi ông làm phép Rửa cho mình: chủ sự bước xuống làm thụ nhân, còn thụ nhân lại miễn cưỡng đóng vai chủ sự.
Điều bất ngờ là điều người ta không chờ đợi. Ở đây còn mạnh nghĩa hơn, bởi điều đó Gioan Tẩy Giả không hề nghĩ tới nên dám đâu đợi chờ. Và vì thế, bất ngờ lại càng bất ngờ hơn. Nhưng chính điều bất ngờ ấy đã thành điểm hẹn giao ca thế hệ giữa Cựu Ước mà Gioan Tẩy Giả là đại biểu kết thúc với Tân Ước mà Đức Giêsu là Đấng khởi đầu.
Đồng thời, đó cũng là điểm hẹn gặp gỡ bất ngờ trong việc “chu toàn thánh ý Chúa”. Nơi Đức Giêsu, đó là việc Người sống lấy thái độ công chính của Israel, nhưng lại đưa sự công chính ấy tới đỉnh cao hoàn thiện, cũng như khi chịu phép Rửa bởi nước, Người đã thánh hóa chính nguồn nước tái sinh. Còn nơi Gioan Tẩy Giả, đó là việc ông đổ nước cho Đức Giêsu, một vinh dự đến bất ngờ, nhưng cũng chính vào giờ phút ấy, ông cảm nhận rất rõ rằng sứ vụ của mình tới đây đã mãn: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. Hình như ông đã sẵn sàng để chịu một phép Rửa khác, cũng là điểm hẹn bất ngờ cho ông: đó là kiếp ngục tù.
2) Điểm hẹn bất ngờ giữa người Tôi Tớ đau khổ và Người Con chí ái.
Nếu bên ngoài, việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa đã là một điểm hẹn cho Gioan Tẩy Giả gặp gỡ Đấng Cứu Thế, thì đi sâu vào chính mầu nhiệm, đó còn là điểm hẹn bất ngờ giữa người Tôi Tớ mà Tiên tri Isaia đã ghi lại trong bài ca thứ nhất (bài đọc thứ nhất) và Người Con chí ái của Chúa Cha mà phần sau trích đoạn Tin Mừng đã nêu lên, làm thành một lễ Hiển Linh mới cho tất cả những ai cần được cứu độ.
Khi bước xuống dòng sông phép Rửa, Đức Giêsu tỏ mình ra không chỉ là Đấng đã đến sống giữa con người, mà còn là Đấng sống cho con người bằng cách đón nhận vào mình đời sống thực thụ của họ, để trọn vẹn liên đới với họ mọi mặt, kể cả mặt yếu đuối tăm tối đớn hèn nhất là thân phận tội nhân. Người là tôi tớ của Giavê đã tự nguyện gánh tội trần gian, đã tự hạ chịu hết mọi nỗi đau của toàn thể dân mình, và mặc dầu chẳng vướng tội nhơ, Người đã nhẫn nhục cúi xuống lãnh nhận phép Rửa thống hối chỉ vì muốn liên đới đến cùng với mọi tội nhân.
Nhưng bất ngờ làm sao, chính khi bước lên từ dòng sông phép Rửa ấy, Đức Giêsu lại tỏ mình ra trong một quang cảnh hoàn toàn khác lạ, làm thành đỉnh cao của toàn thể mầu nhiệm Hiển Linh: Người được tiếng từ trời xác nhận là Con chí ái và được Thánh Thần tấn phong làm Đấng quy tụ tất cả nhân loại về một đầu mối cứu độ. Đất bỗng gặp Trời, Người Tôi Tớ đau khổ bỗng hóa nên Người Con chí ái, và Người tự hạ xóa mình ra không lại bất ngờ nên Đấng vừa làm đẹp lòng Cha, vừa làm thỏa lòng mong ước của bao thuở đợi chờ.
Và như thế, dòng sông phép Rửa đã nên điểm hẹn bất ngờ để Chúa Giêsu tỏ mình cho nhân loại: Người vốn là Con chí ái của Chúa Cha, nhưng đã tự hạ làm người Tôi Tớ, và khi đi đến cùng trong đau khổ, Người là Đấng thuộc về Trời cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
3) Điểm hẹn bất ngờ giữa đời làm người và đời làm con Chúa.
Điểm hẹn bất ngờ nơi sông Giođan, đối với Chúa Giêsu, đã như một dự báo về công cuộc Tử Nạn và Phục Sinh, để từ đó mở ra những điểm hẹn mới cho tất cả những ai đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.
Được trở nên chi thể Chúa Kitô, được thông phần sự sống thiên linh và được trở nên con Thiên Chúa: đó là thiên chức của đời tín hữu. Nhưng thiên chức ấy không miễn chuẩn cho họ khỏi phải chu toàn những trách vụ trong đời sống trần thế mà họ là thành phần. Do đó, đời tín hữu chính là một điểm hẹn bất ngờ giữa cuộc sống đời và cuộc sống đạo, giữa phận làm con người và phận làm con Chúa, giữa sự sống nhân linh và sự sống thiên linh. Vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao chu toàn được cả hai mặt sống trong cùng một cuộc đời, làm sao cho mặt ân sủng không bị nhận chìm vì nhu cầu cơm áo, và làm sao cho mặt đời thường được nâng lên ngang tầm với sức mạnh của thánh ân?
Sẽ là một điểm hẹn đáng buồn nếu như hai mặt sống không có sự đồng bộ, sẽ là một điểm hẹn đáng trách nếu đạo đời vẫn tiếp tục ly thân; nhưng sẽ là một điểm hẹn của niềm vui nếu như đời tín hữu là một đời biết chu toàn thánh ý Chúa, cho dẫu nhiều khi vì thánh ý mà phải chấp nhận một số thiệt thòi nào đó trong đời.
Và bởi vì việc Chúa chịu phép Rửa là một bất ngờ về tình liên đới, nên giới luật yêu thương với những hành động cụ thể cũng là một điểm hẹn đem lại những hiệu quả bất ngờ nhất cho những kẻ sống tinh thần của con Chúa trong phận kiếp của con người. Biết liên đới là biết dẹp bỏ mọi hàng rào cản lối yêu thương, và sống liên đới cũng có nghĩa là không mệt mỏi vượt qua những ranh giới vị kỷ của bản thân mình, để không chỉ đón nhận người khác mà còn quan tâm thăng tiến họ nữa.
Hôm nay Phụng Vụ khép lại Mùa Giáng Sinh, đồng thời mở ra Mùa Thường Niên. Không còn nữa những tưng bừng bên ngoài, nhưng vẫn có đó một sâu lắng niềm vui. Bởi cuộc đời Chúa Kitô là điểm hẹn giữa thiên tính và nhân tính để bất ngờ mở ra mùa cứu độ, cuộc đời mỗi Kitô hữu cũng muốn là điểm hẹn giữa ơn thánh Chúa và nỗ lực con người để xin được vươn tới những bất ngờ hạnh phúc.
--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1- Nếu tôi là dân Do thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Đức Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Gióc đan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói: “Hãy dọn đàng cho Đấng Cứu thế đến”. Rửa xong tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xẩy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dậy: “Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con”. Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu thế đang ở với tôi.
2- Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu thế, tôi sẽ tự đắc hô to: đấy tôi nói có sai đâu, Ngài đến đây nè... rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do, giầu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại, ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ”. Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu thế: dù phải chặt đầu ông vẫn luôn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
3- Còn Đức Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: “Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế”. Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế, cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong giòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết kính nhường nhau, đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm Kitô hữu cho Đấng Cứu thế, chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời.
Theo cách trình bày của Thánh Matthêu, việc Chúa Giêsu chịu phép rửa là dịp Thiên Chúa giới thiệu cho người ta biết Ngài chính là Đấng Messia, tuy nhiên không phải là một Đấng Messia như người ta tưởng, mà là Đấng Messia Tôi Tớ:
- Đối với Gioan tẩy giả, ông vẫn tưởng Đấng Messia phải là một quan tòa. Ngài đến để trừng phạt kẻ ác và thưởng kẻ lành (x. đoạn Tin Mừng liền phía trước: Mt 3,12). Vì thế khi Chúa Giêsu khiêm tốn xin ông làm phép rửa cho mình như cho những tội nhân khác thì ban đầu ông từ chối. Sau đó Chúa Giêsu cho ông biết là ông và Ngài cần phải làm theo ý Thiên Chúa (“Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”) thì ông mới làm.
- Đối với dân chúng có mặt hôm ấy, họ đã nghe tiếng Thiên Chúa từ trời giới thiệu Chúa Giêsu bằng những lời mà Cựu Ước đã dùng khi nói về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”
B.... nẩy mầm.
1. Cả Gioan tẩy giả và dân chúng do thái đều không hiểu nổi Đấng Messia lại là một Người Tôi tớ khiêm tốn hiến thân phục vụ nhân loại cho đến chết. Hai ngàn năm đã trôi qua, vậy mà ngày nay chúng ta cũng vẫn thế. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho người ta như một Đấng quyền phép hay một quan tòa xét xử. Chúng ta bỏ sót một phương diện rất quan trọng của Ngài: Ngài trước hết là một Người Tôi Tớ hiến thân phục vụ. Đạo của Chúa Giêsu là một đạo hiến thân phục vụ, người môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải là người hiến thân phục vụ.
2. Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn: Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Chúa Giêsu; Chúa Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người khiêm tốn là người chỉ nghĩ đến việc chu toàn nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
3. Một chiếc xe tải không thể qua cầu được vì nóc xe cao quá nên chạm vào mái che của chiếc cầu. Chẳng ai nghĩ ra được cách nào cả. Khi đó một cậu bé đưa ý kiến: hãy xì bớt hơi các bánh xe của nó. Người ta đã làm theo, và xe đã qua được cầu. (Quote).
4. Truyện thần thoại hy lạp có kể về hai cha con Idam, Ika và những cánh tay của họ. Idam là một kiến trúc sư kiêm điêu khắc. Ông đã xây ( bát quái trận đồ để nhốt con quái vật đầu người mình thú. Về sau, chính vua Minos đã bắt giam hai cha con Idam và Ika vào đó. Nhưng họ đã chế được những chiếc cánh làm bằng lông và sáp giúp họ bay ra khỏi bát quái trận đồ. Thích thú với cuộc du hành vũ trụ bất ngờ, Ika cứ muốn bay mãi lên cao, mặc cho người cha ngăn cản. Ika càng lúc càng bay đến mặt trời cho nến sáp bắt đầu chảy. Cuối cùng, khi sáp không còn nữa, đôi cánh mềm lại, những chiếc lông rời ra, Ika rớt xuống biển sâu và thiệt mạng.
Huyền thoại trên đây thường được xử dụng để nói đến sự kiêu hãnh dẫn đến thảm trạng cho con người (Chờ đợi Chúa).
Các bài đọc Thánh lễ hôm nay cho chúng ta biết: Đức Giêsu Kitô được tiên tri Isaia gọi là Người Tôi Tớ, đã đến chịu phép rửa ở sông Giorđan và được Thiên Chúa tấn phong và nhận làm Con Yêu Dấu của Ngài. Người Tôi Tớ này có sứ mạng đem Tin mừng cho tất cả mọi người, cho mọi dân tộc trên thế giới.
Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế hòan tòan vô tì tích, thế mà lại đến xin Gioan làm phép rửa cho, tự coi mình như một tội nhân. Việc làm của Ngài nhắc nhở cho chúng ta phải ý thức về tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Nước sông Giorđan không thánh hóa được Ngài, nhưng ngược lại, Ngài thánh hóa nuớc sống ấy, và từ đó lập nên bí tích rửa tội để tha tội cho chúng ta và làm cho chúng trở nên con Thiên Chúa.
Sách có chữ rằng: “Thùy năng xuất tất do hộ”: ai ra vào cũng đều phải qua cửa. Giáo hội là một tòa nhà tạm trú để đợi ngày về trời, nghĩa là trước ngày về trời, ai nấy phải qua cửa Giáo hội. Cửa ấy Đức Giêsu đã mở cho chúng ta thấy khi Ngài chịu phép rửa mà Giáo hội kính lễ hôm nay. Chính Đức Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Vì vậy, mọi người phải được rửa tội để được vào Nước Trời. Bí tích rửa tội sẽ xóa bỏ tội tổ tông và tội riêng, ban ơn thánh hóa và làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và được thừa hưởng Nước Trời.
Trong phép rửa của Gioan, Đức Giêsu đã được Chúa Cha tuyên phong và nhận làm Con Yêu Dấu của Ngài. Cũng thế, qua bí tích rửa tội, chúng ta sẽ được nhận làm con Thiên Chúa và là thành viên của Hội thánh. Đây là một vinh dự quá lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người phàm hèn của chúng ta. Để đáp lại lòng thương yêu vô biên của Chúa, chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo đối với Chúa bằng cách tỏ lòng tri ân, yêu mến, làm sáng danh Chúa, sống khiêm tốn và phục vụ để làm vẻ vang cho Cha chúng ta ở trên trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7.
Tiên tri Isaia là một tiên tri vĩ đại trong Cựu ước đã được Thiên Chúa hé mở cho biết về người Tôi Tớ mà ông đã mô tả trong bài thơ. Hôm nay phụng vụ trích đọc một đọan nằm trong bài thơ thứ nhất, có mấy ý như sau:
- Người tôi tớ này được Thiên Chúa tuyển chọn, qúi mến và hài lòng.
- Người tôi tớ này rất hiền từ dịu dàng, âm thầm lặng lẽ nhưng rất mạnh mẽ bảo vệ và làm sáng tỏ chân lý.
- Người tôi tớ này có sứ mạng soi sáng cho muôn nước, làm việc bác ái và giải thóat những người còn ở trong chốn tối tăm.
+ Bài đọc 2: Cv 10,34-38.
Thánh Phêrô cho biết: Thiên Chúa không thiên vị ai, hễ ai kính sợ Chúa và ăn ở ngay lành thì được Thiên Chúa chấp nhận, khắc hẳn với tư tưởng hẹp hòi của người Do thái, họ tưởng rằng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho dân tộc họ.
Thánh Phêrô cho biết thêm: Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa bởi ông Gioan ở sông Giorđan và sau khi đã được xức dầu tấn phong, sẽ đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, thi ân giáng phúc cho họ bởi vì Thiên Chúa vẫn ở với Người.
+ Bài Tin mừng: Mt 3,13-17.
Đức Giêsu mà tiên tri gọi là Tôi Tớ đã đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình ở sông Giorđan. Ông Gioan đã can gián Đức Giêsu vì Ngài không có tội gì, không cần rửa tội, chính mình mới cần chịu phép rửa. Nhưng Đức Giêsu xin Gioan rửa cho mình lấy lý do rằng: phải làm như vậy thì mới phù hợp với thánh ý Chúa. Lúc đó, Gioan mới chịu chiều theo ý Ngài.
Gioan đã dìm Đức Giêsu xuống nước và khi kéo Ngài ra khỏi nước thì trời mở ra và thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”. Hôm nay Thiên Chúa Cha đã tấn phong và công khai công nhận Đức Giêsu là Con của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Này là Con Ta yêu dấu.
I. VIỆC ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA.
1. Nghi thức thanh tẩy nơi nhiều dân tộc.
Sau một thời gian sống chay tịnh khắc khổ trong hoang địa để chuẩn bị cho sứ mạng tiền hô của mình, ông Gioan đã đi rao giảng phép rửa sám hối để dọn lòng chờ đón Đấng Cứu thế. Có nhiều người đến thú tội và chịu phép rửa do tay ông Gioan tại sông Giorđan.
Thực ra, bất cứ một dân tộc nào, tuy không theo tôn giáo nào, cũng có cảm thức sâu xa về thân phận tội lụy của mình và muốn thần linh tha thứ bằng một hình thức nào đó. Ví dụ ở Aán độ, những người theo Aán giáo đến trầm mình trong nước sống Hằng để được thần linh tha thứ. Ở Ai cập, người ta đến tắm gội trong dòng sông Nil để được thần linh thông cảm và tha thứ. Nơi nhiều dân tộc cổ sơ cũng có những kiểu tắm gội dìm mình tương tự hay được rảy nước trên mình. Đối với người Do thái, ngay từ thời Cựu ước, đã có những nghi thức thanh tẩy, nhưng ít chú trọng về phương diện luân lý. Sau này, nhất là gần thời Đức Giêsu, họ cũng tin những nghi thức thanh tẩy đó tượng trưng cho sự trong sạch tâm hồn, mặc dầu nó không phát sinh ra điều đó.
2. Nghi thức thanh tẩy của Gioan.
Gioan Tẩy giảû cũng làm phép rửa cho dân chúng tại sông Giorđan. Ông dìm họ xuống nước rồi kéo họ lên. Hình thức này khác với hình thức của các dân ngọai, họ tự dìm mình xuống nước, còn trong phép rửa của Gioan thì phải có người khác rửa cho. Và còn một điều khác quan trọng hơn, theo Tin mừng cho biết: họ phải có một thái độ nội tâm cũng như bên ngòai, như phải tin vào sứ điệp của Gioan, phải trở lại thực lòng, nghĩa là phải quay về với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, phép rửa của Gioan chỉ có tính cách tượng trưng, tự nó không có sức xóa bỏ được tội lỗi mà chỉ là nghi thức nhắc nhở cho mọi người phải ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Chính thánh Gioan đã khẳng định điều đó: “Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước để anh em được sám hối. Nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, Ngài quyền phép hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và bằng lửa” (Mt 3,11).
3. Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu từ Galilê đến sống Giordan tìm gặp Gioan Tẩy giả để xin ông làm phép rửa cho. Đức Giêsu đã đích thân và tự nguyện xin Gioan làm phép rửa cho, đó là một việc làm và một thái độ khiêm nhường thẳm sâu. Phép rửa của Gioan là phép rửa thống hối mà Đức Giêsu lại chịu phép rửa thống hối. Việc Đức Giêsu chịu phép rửa là một điều khó hiểu. Phép rửa của Gioan là để kêu gọi người ta ăn năn sám hối và mở đường đến sự tha tội. Nhưng nếu Đức Giêsu mà chúng ta tin là Đấng Cứu Thế, thì Ngài không đứng ở cương vị cần phải ăn năn và cũng không cần đến sự tha tội. Phép rửa của Gioan là để tội nhân nhận thức tội lỗi mình phạm, nên không thể áp dụng cho Đức Giêsu được.
Thực ra, đây là cơ hội thuận tiện để Ngài tự đồng hóa mình với những người Ngài đến cứu, đúng lúc họ nhận thức được tội lỗi của mình và tìm kiếm Thiên Chúa. Khi chịu phép rửa của Gioan, Đức Giêsu đã bằng lòng nhận số phận của Ngài liên hiệp với dân Ngài và với nhân lọai, Ngài mang lấy tội lỗi của họ: khi chịu phép rửa Ngài xua đuổi tội lỗi ấy, đồng thời Ngài dâng mình cho Thiên Chúa của Ngài.
Khi Đức Giêsu bước ra khỏi nước thì Thánh Thần hiện xuống trên Ngài với hình con bồ câu và có tiếng phán ra từ trời: “Con là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”. Tiếng nói mà Đức Giêsu nghe sau khi chịu phép rửa vô cùng quan trọng. Câu này bao hàm hai lời trích dẫn:
-”Này là Con Ta yêu dấu” được trích trong Thánh vịnh 2,7. Mọi người đều hiểu thánh vịnh này mô tả Đấng Cứu Thế, Vua quyền năng của Thiên Chúa, Đấng sẽ đến.
-”Con đẹp lòng Ta” trích ra từ Isaia 42,1 mô tả về người Đầy Tớ Đau Khổ mà cao điểm là Isaia 53. Tại đây, đấng tiên tri nói về một đầy tớ lý tưởng của Thiên Chúa, hòan tòan theo ý muốn của Ngài, đang theo con đường vâng lời và phục vụ.
Như vậy, Đức Giêsu được tuyên xưng là Con yêu dấu của Thiên Chúa, là Đấng mà nơi Ngài lời tiên tri này được ứng nghiệm hòan tòan. Và trong phép rửa của Đức Giêsu có hai điều được xác quyết:
- Một là Ngài là Đấng lựa chọn của Thiên Chúa.
- Hai là con đường trước mặt Ngài phải đi là con đường thập tự.
II. HIỆU QUẢ CỦA PHÉP RỬA.
1. Bí tích rửa tội của chúng ta.
Phép rửa của Gioan bằng nước chỉ là nghi thức tượng trưng nhằm thúc đẩy và diễn tả tâm tình thống hối. Còn phép rửa của Đức Giêsu được Gioan mô tả là bằng lửa và trong Thánh Thần, nghĩa là phép rửa của Đức Giêsu là một bí tích tuôn tràn Chúa Thánh Thần, mặc dầu cũng dùng nước, nhưng nước chỉ là điều kiện, là nghi thức bên ngòai, còn thực sự ta được rửa bằng lửa. Lửa ở đây ám chỉ sức mạnh của Chúa Thánh Thần biến đổi con người tội lỗi nên con Thiên Chúa, và đáng được hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Nước Trời. Vì thế, phép rửa tội của chúng ta có mục đích xóa tội tổ tông và các tội riêng, ban ân sủng siêu nhiên, đời sống ơn thánh, làm cho ta trở nên con Thiên Chúa, làm công dân Nước Trời và thành viên của Hội thánh.
Mỗi người chịu phép rửa tội, theo thánh Phaolô, được gọi là Kitô hữu. Kitô hữu là người được xức dầu và được tham dự vào ba chức năng của Chúa Kitô là tư tế, tiên tri và vương giả. Kitô hữu được gọi là người mang danh Chúa Kitô và được thuộc về Ngài. Kitô hữu là một danh hiệu thật cao quí.
2. Mỗi người phải sinh lại.
Ông Nicôđêmô đã được gặp Đức Giêsu vào ban đêm, trong câu chuyện trao đổi, Ngài đã nói với ông: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (Ga 3,3). Ngài còn nói rõ thêm: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3,5).
Thực vậy, bí tích rửa tội mang lại cho chúng ta một hiệu quả vô cùng cao quí, đó là sự tái sinh. Mỗi Kitô hữu là một người đã được tái sinh, nghĩa là chúng ta đã sinh ra lần thứ nhất với sự sống tự nhiên do cha mẹ, lần thứ hai với sự sống siêu nhiên do bí tích rửa tội. Nói rõ hơn, mỗi người chúng ta sinh ra hai lần: lần thứ nhất do cha mẹ, các ngài đã truyền cho chúng ta sự sống tự nhiên. Lần thứ hai do Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội, Ngài ban cho chúng ta sự sống siêu nhiên.
Thánh Phaolô viết cho một nhóm Kitô hữu mới chịu phép rửa tội như sau: “Khi chịu phép rửa, anh chị em đã được mai táng cùng với Đức Giêsu trong phép rửa, và anh chị em cũng sẽ được sống lại cùng với Chúa Kitô… Trước kia anh chị em đã chết về mặt thiêng liêng vì tội lỗi của anh chị em… Nhưng giờ đây, Thiên Chúa đã đưa anh chị em đến nguồn sống cùng với Chúa Kitô” (Cl 2,12-13).
Ngày 01.06.1930 dịp lễ giáp năm ngày chịu phép rửa tội, Đức Giáo hòang Piô XI đã sung sướng nói với 1500 thanh niên ở Rôma: “Ngày Cha chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời Cha, cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời chúng con". Chúng ta hãy nhớ: ngày chúng ta chịu phép rửa tội là ngày chúng ta tái sinh trở nên con Chúa, ngày đáng ghi nhớ của chúng ta.
3. Sinh lại để làm con Chúa.
Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Không phải chỉ là có danh, nhưng thực sự như thế, chúng ta là con Thiên Chúa và Thiên Chúa là Cha chúng ta, một người Cha yêu thương chúng ta vô cùng. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu đã dạy các Tông đồ cầu nguyện và mở đầu bằng câu: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Như thế, Đức Giêsu tiết lộ cho chúng ta biết chúng ta được làm con một Cha trên trời.
Tìm về nguồn gốc, ngày xưa Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người đầu tiên là Adong và Evà. Thiên Chúa đã cho họ gọi Ngài là Cha. Nhưng vì phạm tội ăn trái cấm không vâng phục Ngài nên bị phạt mất quyền làm con, không được gọi Thiên Chúa là Cha nữa, mà phải sống dưới quyền lực của ma qủi và tội lỗi. Nhưng vì thương yêu nhân lọai, Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ, để lấy lại quyền làm con mà nhân lọai đã bị đánh mất. Nhờ bí tích Rửa tội mà Đức Giêsu đã trả lại cho chúng ta quyền được làm con Thiên Chúa để có thể gọi Thiên Chúa là Cha: “Abba, cha ơi”!
Trên đời không ai có thể thiếâu được người cha vì cha là yếu tố cần thiết cho người con để cho người con có chỗ nương tựa vì:
Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta không thể thiếu được Thiên Chúa là Cha. Ngài đã dựng nên chúng ta lại còn nuôi dưỡng bằng ân sủng của Ngài. Chúng ta hãy vui sướng và hãnh diện có Thiên Chúa là Cha, chúng ta sẽ không phải là đứa con mồ côi. Còn gì quí bằng danh hiệu được làm con Thiên Chúa mà đã là con thì được gọi là Cha: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Một khi đã được gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta phải tin cậy phó thác vào Ngài. Ngài phải chiếm chỗ cao nhất trong đời chúng ta và chúng ta phải qui hướng mọi sự vào Ngài, coi Ngài như trung tâm điểm của đời sống. Ngài phải là “Number One”. Ngài là Number one, còn chúng ta là Zéro, là số không. Nếu chúng ta để số 1 đứng trươc số không (0) thì số không ấy có ý nghĩa, càng nhiều số không thì số ấy càng to, ví dụ 1.000.000. Nếu để số 1 đàng sau số không thì con số càng nhỏ, càng nhiều số không thì càng nhỏ, ví dụ: 000.000.1. Cho nên, Thiên Chúa phải chiếm chỗ cao nhất trrong đời ta. Ngài phải là “Number One” trong đời ta.
III. BỔN PHẬN NGƯỜI CHỊU PHÉP RỬA TỘI.
1. Cảm tạ hồng ân Thiên Chúa.
Trong thánh vịnh 50 tác giả đã nói: “Mẹ con đã hòai thai trong tội”, khi sinh ra chúng ta vẫn là tội nhân, làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỉ. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương lòai người, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. Đức Giêsu lại còn cứu chuộc chúng ta một lần nữa qua bí tích rửa tội và làm cho chúng ta trở thành con Thiên Chúa. Đây là một vinh dự vô cùng lớn lao vì “Con vua thì lại làm vua”.
Tước vị làm con Thiên Chúa thật là lớn lao. Tuy tước vị này, nhất là linh hồn chúng ta, bị che phủ bằng một thân xác phàm hèn, không ai xem thấy, không ai biết giá trị của nó, nhưng tự bản chất nó thực là cao quí. Trường hợp này giống như ở Miến điện, có nhiều bức tượng bằng vàng ròng, vì sợ bị ngọai xâm cướp mất, có vị sư đã lấy một lớp đất sét trét lên các bức tượng ấy để giấu đi cái cốt lõi thật của các bức tượng… nhưng dưới cái lớp vỏ đất sét ấy là cả một khối vàng ròng quí giá.
Hồng ân của bí tích rửa tội cũng thật lớn lao và cao quí. Có thể qúi như những viên ngọc trai mà nhiều người chưa biết giá trị của nó. Đúng là “vật khinh nhưng hình trọng”.
Truyện: Hạt ngọc trai.
Ngày 19. 03.1627, Cha Đắc Lộ đến Cửa Bạng Thanh hóa. Lời đầu tiên ngài nói với cha ông chúng ta: “Hiện giờ tầu của chúng tôi có chở một thứ hạt trai tuyệt đẹp và quí giá, ai mua thì cả đời được giầu có hạnh phúc muôn thuở. Không nên sợ giá cao, vì chẳng ai nghèo đến nỗi không đủ tiền mua hạt trai ấy”. Tổ tiên chúng ta khấp khởi vui mừng, xin ngài ít là cho xem đôi ba hạt. Ngài trả lời: “Hạt ấy mắt xác thịt không thể xem thấy được, chỉ có trí khôn hiểu được mà thôi. Hạt trai ấy chính là lề luật Thiên Chúa, một cái gì qúi trọng hơn trân châu và hàng hóa Ấn độ. Chúng tôi sẵn sàng giảng dạy luật đó cho anh chị em, nên không ngần ngại vượt biển băng ngàn đến đây” (Lm Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm A, tr 22-23).
2. Hiếu thảo với Cha trên trời.
Người Á đông đề cao chữ “HIẾU”, nhất là trong luân lý đạo Khổng. Đời sống con người phải lấy chữ hiếu làm đầu mà bất hiếu là một tội nặng nhất trong các tội. Người ta đã nâng chữ hiếu lên thành “ĐẠO’ nên mới có “HIẾU ĐẠO”. Phận làm con cũng được nâng lên thành đạo nên mới có “ĐẠO CON”. Như vậy, muốn trọn đạo làm con thì phải chu tòan “đạo hiếu”. Tư tưởng này được đúc kết thành câu ca dao để nhắc nhở cho mọi người phải thi hành:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là “đạo con”.
Trong phép rửa của Gioan, Đức Giêu được gọi là “Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Vậy thế nào là một người “con yêu dấu”? Thưa đó là:
- biết ý của cha mình: Đức Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
- và luôn theo ý cha mình: Đức Giêsu nói: “Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Cũng thế, nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thì chúng ta hãy bắt chước Đức Giêsu: luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
Ngòai ra, chúng ta đã có Chúa là Cha, chúng ta cũng phải làm tròn “đạo hiếu” đối với Ngài để trọn đạo làm con của chúng ta. Tỏ lòng hiếu đối với Ngài, trước tiên là hãy yêu mến Ngài trên hết và trước hết như Chúa dạy: “Hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hôn hết trí khôn…” (x. Mt 22,37; Mc 12,30; Lc 10,27).
Nhưng yêu mến Ngài thì phải thực hiện bằng những việc cụ thể bên ngòai vì thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nếu không thì người ta sẽ chê cười:
Chúa bảo chúng ta là ánh sáng thế gian. Nếu là ánh sáng mà không chiếu sáng thì không còn là ánh sáng nữa mà là bóng tối. Nhiệm vụ của chúng ta là phải soi sáng cho người khác bằng những việc làm cụ thể như Chúa nói: “Aùnh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Cuộc sống của chúng ta phải làm vinh Cha chúng ta ở trên trời khi chúng ta nguyện: “Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến…”
Cuộc sống của chúng ta phải biểu lộ cho người khác biết chúng ta là con Thiên Chúa. Đã là con thì phải sống thế nào để người ta phải nói: “Cha nào con ấy” (Qualis pater, talis filius). Chúng ta hãy bắt chước Boleslas, vua nước Ba lan, luôn đeo ở ngực mẫu ảnh vua cha, và khi toan làm một việc gì quan trọng, vua nhìn vào mẫu ảnh đó và nói: “Con sẽ chẳng hề làm gì bất xứng người con thảo của cha”.
Hôm nay Đức Giêsu cũng khuyên nhủ chúng ta là những Klitô hữu, những người được mang tên Ngài, những người được thuộc về Ngài, hãy sống xứng đáng với danh hiệu cao qúi ấy giống như hòang tử của vua Ménedem, mỗi khi được bạn bè mời đi chơi, thì đến xin phép vua cha, vua ban phép lành và chỉ dặn có một điều là: “Dầu ở đâu, hãy nhớ mình là con vua”.
3. Biết khiêm tốn và phục vụ.
Đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy cả Gioan tẩy giả và dân chúng Do thái đều không hiểu nổi Đấng Messia lại là một Người Tôi Tớ khiêm tốn hiến thân phục vụ nhân lọai cho đến chết. Hai ngàn năm đã trôi qua, thế mà ngày nay chúng ta cũng vẫn thế. Chúng ta giới thiệu Đức Giêsu cho người ta như một Đấng quyền phép hay một quan tòa xét xử. Chúng ta bỏ sót một phương diện rất quan trọng của Ngài: Ngài trước hết là một Người Tôi Tớ hiến thân phục vụ. Đạo của Đức Giêsu là một đạo hiến thân phục vụ, người môn đệ của Đức Giêsu cũng pải là người hiến thân phục vụ như thế.
Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn: Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Đức Giêsu; còn Đức Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người klhiêm tốn là người chỉ nhĩ đến việc chu tòan nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
Truyện: Hòang đế cầy ruộng.
Tại một thành phố bên Tiệp khắc, giữa những di tích cổ người ta thấy có một chiếc cầy từ thế kỷ 18. Người ta truyền tụng câu truyện như sau: Một hôm, hòang đế Joseph II cùng đòan tùy tùng đến viếng thăm một ngôi làng trong vùng. Đi qua một cánh đồng, Hòang đế thấy một nông dân đang ngồi nghỉ mệt bên một gốc cây. Ông đến trò truyện với người nông dân và xin được cầy thử một luống.
Người nông dân rất đỗi ngạc nhiên vì có một người sang trọng lại xin tra tay vào cầy, và ông ta phá lên cười khi thấy những luống cầy vụng về. Với tất cả thành thực, người nông dân lắc đầu và nói: “Xin lỗi ông, hạng người như ông thì làm sao có thể tra tay vào cầy để kiếm sống được”. Nghe thế, một người trong đòan tùy tùng mới nói nhỏ cho người nông dân biết người đang cầm chiếc cầy của ông chính là Hòang đế. Lập tức, người nông dân như muốn độn thổ, ông không thể tưởng tượng được một vị Hòang đế lại có thể tra tay vào cầy của ông.
Thánh Phaolo dâng lời ca tụng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã tự coi mình như “Con người đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người”. Ngài muốn tham dự vào cuộc sống của con người, muốn nói rằng Con Thiên Chúa đã thực sự đến trần gian và đã hạ mình xuống lãnh nhận phép rửa từ một người. Những thái độ khiêm tốn của vị Hòang đế trần gian và Hòang đế Nước Trời đã làm dân chúng cảm phục và ngưỡng mộ khi họ nhận ra đó là một người có uy quyền trong một nước và một Vua cao trọng hơn hết các vua chúa trần gian này.
Người ta nói: “Thượng hành hạ hiệu”: người trên làm kẻ duới theo. Chúa Giêu đã làm gương trước, một tấm gương sán lạn đáng mọi người chúng ta bắt chước để chúng ta sống xứng đáng với danh hiệu là con cái Cha trên trời.
Qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta chỉ được trả lời một cách lờ mờ qua câu nói của Đức Giê-su với Gio-an: Đó là thánh ý của Thiên Chúa. Nhưng theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh, thì có hai lý do khiến Người chịu phép rửa của Gio-an như sau: Một là vì Đức Giê-su muốn tự liệt mình vào hàng ngũ những tội nhân mà sau này Người sẽ chịu chết đền tội thay cho họ (x. Mt 26,28). Hai là vì Đưc Giê-su muốn đồng hóa mình với những tội nhân có lòng ăn năn hối cải, để qua phép rửa của Gio-an, là hình bóng của phép rửa Tử Nạn và Phục Sinh và cũng là hình bóng bí tích Rửa Tội mà Người sẽ thiết lập, Người sẽ biến đổi các tín hữu chịu phép rửa tội được trở nên con Thiên Chúa.
- C 16-17: + Các tầng trời mở ra: Hiện tượng trời mở ra gợi nhớ câu: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan” (Is 63,19). Đây là lời cầu nguyện của vị Ngôn sứ dâng lên Thiên Chúa xin Người nguôi giận với dân, và tỏ mình ra là người Cha, sau thời gian lâu dài không đoái hoài đến dân. Lời cầu xin ấy hôm nay đã ứng nghiệm nơi Đức Giê-su: đất trời được giao hòa với nhau (x. Cv 7,56), Thiên Chúa sẽ tiếp tục mặc khải cho dân Người (x. Ed 1,1). + Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người: Câu này nhắc lại cuộc tạo dựng nguyên thủy (x. St 1,2). Ở đây báo hiệu một cuộc tạo dựng mới đang được thực hiện. Trong Cựu Ước, chim bồ câu không được coi là hình ảnh của Thần Khí. Thần Khí Chúa đã bay là là trên nước nguyên thủy để ban sự sống cho nước như chim bồ câu mẹ bay chập chờn trên bầy chim con (x. St 1,2). Thần Khí ngự trên Đức Giê-su để xức dầu thiêng liêng (x. Cv 10,38), tấn phong Người làm Đấng Mê-si-a (x. Is 11,2). + “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”: Sau khi Đức Giê-su đã vâng phục Chúa Cha đến chịu phép rửa của ông Gio-an, thì Chúa Cha đã giới thiệu Người là Con yêu dấu trước mặt những người hiện diện. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nhiều lần đã gọi Đấng Thiên Sai và dân Ít-ra-en là Con yêu của Ngài: “Con là Con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con” (Tv 2,7). “Này là Tôi Tớ của Ta mà Ta nâng đỡ, tuyển nhân mà Ta sủng mộ, Ta ban Thần Khí Ta trên Người” (Is 42,1). “Từ Ai-cập, Ta đã gọi Con Ta về” (Hs 11,1). Qua câu này, Tin Mừng Mát-thêu cho thấy Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai và là Con của Thiên Chúa.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:
- Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói:
- Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên:
- Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên:
- Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
2) Xin chịu rửa tội nhờ cảm phục lối sống bác ái của các tín hữu
Tại một xứ cùng quê nước Pháp, có một người đàn ông khoảng 50 tuổi tên là Alix. Ông bị bại liệt. Mỗi buổi sáng bà vợ đặt ông vào một ghế bành ngoài hiên nhà rồi đi làm. Ông bà không con, không cháu.
Ông Alix không phải là người công giáo, nhưng thỉnh thoảng cha sở vẫn tới thăm, cha còn khuyên giáo dân tới giúp đỡ ông. Các em nhỏ tới chơi quanh ông, đem sách cho ông đọc và giúp ông mở sách. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện tới chăm sóc ông.
Giáng sinh năm đó, ông Alix đột ngột thưa cha sở:
- Thưa cha, xin cha cho con rước lễ.
Cha sở ngạc nhiên vì ông chưa là tín hữu. Nhưng ông thưa:
- Trước đây con không tin gì vào Thiên Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo hữu quá tốt với con nên con thấy hạnh phúc như mình được gặp Chúa vậy. Chỉ có Chúa mới làm cho cha, bác sĩ và anh chị em bỏ công sức giúp đỡ một người xa lạ như thế này.
3) Khiêm nhường hóa thân phục vụ người nghèo:
Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây: Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.
Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.
Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:
- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?
Người kia đáp:
- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.
Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo nàn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép rửa cho?
4) Tai hại của thói kiêu ngạo: trèo cao té đau
Trong kho tàng truyện thần thoại của Hy-lạp, có một câu chuyện về hai cha con nhà kia. Người cha tên là I-đam và đứa con là I-ka. I-đam là một kiến trúc sư kiêm nghề điêu khắc. Chính ông đã được nhà vua ra lệnh xây dựng một bát quái đồ để bắt giam vào đó một con quái vật đầu người mình thú rất hung dữ, để tránh cho dân lành khỏi bị nó giết hại. Nhưng về sau, do hiểu lầm là hai cha con I-đam và I-ka âm mưu làm loạn, nên vua Mi-nos đã hạ lệnh tống giam cả hai cha con vào bát quái đồ đó. Nhưng rồi “cái khó ló cái khôn”: Trong lúc bị giam cầm, hai cha con này đã tìm ra con đường trốn thoát khỏi cảnh tù tội bằng cách bay lên trời cao. Họ dùng sáp ong nối nhiều lông chim lại thành hai bộ cánh chim. Nhờ những chiếc cánh chim tự tạo này mà hai cha con đã bay được lên cao và thoát ra khỏi nhà tù qua lổ nhỏ trên mái. Quá phấn khởi trước thành công bất ngờ, anh con trai càng lúc càng bay lên cao và bỏ ngoài tai những lời khuyên khẩn thiết của cha mình. Khi bay cao gần đến mặt trời, thì sáp dính các lông chim trên đôi cánh bay của anh bị nóng chảy ra và anh con trai đã bị rơi từ trên độ cao xuống đất chết tan xác.
Chính thói kiêu hãnh về sự thành công đã làm cho anh con trai không vâng lời cha dạy nữa, nên cuối cùng đã bị rơi xuống đất chết thảm. Ngày nay, sự kiêu ngạo cũng làm cho người ta coi thường và bỏ ngoài tai những lời khuyên can khôn ngoan kinh nghiệm của cha bác, thầy cô và những bậc cao niên. Nếu mỗi người chúng ta chiều theo những đam mê ích kỷ nhất thời của mình, thì chắc chắn chúng ta sẽ chuốc lấy thất bại đau thương.
3. SUY NIỆM:
1) Giữ trọn đức công chính:
Lúc đầu Gio-an ngại không dám làm phép rửa cho Đức Giê-su, Đấng mà ông đã từng loan báo sắp đến mà ông không đáng xách dép cho Người. Người là Vua Thẩm Phán quyền uy, sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Tuy nhiên, Đức Giê-su đã truyền cho Gio-an cứ làm phép rửa cho Người theo thánh ý Thiên Chúa qua câu: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”. Thánh Phao-lô đã nói về sự hạ mình vâng phục của Đức Giê-su theo thánh ý Thiên Chúa như sau: “Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8), được thể hiện khi Đức Giê-su chịu dìm mình trong dòng sông Gio-đan để hòan tòan vâng theo thánh ý Chúa Cha. Nhờ đó, Người đã được Chúa Cha tôn vinh như sau: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi lòai phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,9-11).
2) Đây là Con Yêu Dấu của Ta:
Chính lúc Đức Giê-su tự hạ vâng theo ý Chúa Cha, lại là lúc Người được Chúa Cha tôn vinh: Khi vừa từ dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Bấy giờ Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Nếu Đức Giê-su đã được thụ thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a nhờ quyền năng Thánh Thần, thì nay Người cũng nhận được tác động của Thánh Thần để bắt đầu sứ vụ Thiên Sai. Việc Chúa Cha tôn vinh Chúa Giê-su thể hiện qua sự kiện: Khi Đức Giê-su trồi lên mặt nước thì Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Với cuộc Thần Hiện này, Chúa Cha đã xức dầu thiêng liêng tấn phong Đức Giê-su, người Tôi Trung của Thiên Chúa làm Đấng Thiên Sai.
3) Ta hài lòng về Người:
Đức Giê-su không những đứng xếp hàng chung với các tội nhân có lòng sám hối, mà Người còn gần gũi để an ủi, nâng các tội nhân mau trỗi dậy khỏi nếp sống cũ tội lỗi. Chính Người đã mở ra con đường về trời cho loài người chúng ta. Trong suốt cuộc hành trình truyền giáo kéo dài gần 3 năm, Đức Giê-su luôn tuân theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Nhờ đó, Người đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ và luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, bằng một lối sống hiếu thảo và làm đẹp lòng Cha. Cuối cùng Người đã vâng ý Cha, chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại chúng ta. Phép rửa của Gio-an Tẩy Giả là sự chuẩn bị cho phép rửa là mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh mà Người sẽ phải trải qua và là hình bóng của bí tích Rửa tội do Chúa Giê-su thiết lập trước khi lên trời (x Mt 28,19). Vì thế Người đã được Chúa Cha xác nhận: “Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
- Lạy Chúa Giêsu. Do thiếu khiêm nhường nên chúng con ít khi nhận lỗi và thường hay đổ lỗi cho tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, chúng con thấy Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng, lại không quản ngại khi đứng xếp hàng chung với các tội nhân để được ông Gio-an làm phép rửa cho. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng con bài học khiêm nhường khi cư xử với tha nhân.
- Lạy Chúa. Hôm nay xin Chúa ban cho chúng con luôn biết điều chỉnh cách suy nghĩ nói năng và hành động, cho phù hợp với gương sáng và lời dạy của Chúa. Xin cho chúng con biết khôn ngoan để tránh ảo tưởng về mình, biết thành thật để khỏi tự dối lòng mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn sám hối và hoán cải, sám hối bằng hành động hơn là chỉ dừng lại trên bờ môi. Xin cho chúng con biết chấp nhận được Lời Chúa cắt tỉa sạch những thói hư tật xấu. Xin ban cho chúng con niềm vui của Gia-kêu sau khi gặp Chúa, cho chúng con cũng biết coi thường của cải vật chất và mở lòng chia sẻ cơm áo với những người nghèo đói bất hạnh.
Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ này đã được các Giáo phụ quan tâm đặc biệt ngay từ những thời kỳ đầu, vì tầm quan trọng đặc biệt có tính cổ thời của nó. Đây là lễ được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, và tượng trưng cho toàn bộ những hoạt động có tính cách bí tích của Ðấng Cứu Thế. Để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng vô tội, nhưng Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được Chúa Cha chứng dám: " Này là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta" (Mt 3, 17). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy trường hợp tương tự diễn ra tại biến cố Chúa Biến Hình.
Câu hỏi được đặt ra trước hết là tại sao Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?
Thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en cho biết: "Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người A-đam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Gio-đan; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo". Nên dù Gioan đã can ngăn "Chính tôi phải được Ngài rửa", đó là đèn nói với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể nói với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà nói với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ nói với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai nói với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh -gô-ri-ô, giám mục Na-di-en). Thánh Phê-rô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: "Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Ki-tô; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát".
Người thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống như một bồ câu, và đậu trên Người (Mt 3,17). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: "Giêsu chịu phép rửa, rồi bước lên khỏi nước. Này đây các tầng trời mở ra " (Mt 3,16).
Tại sao các tầng trời lại mở ra sau khi Chúa Giêsu bước lên khỏi nước?
Chúa Giê-su bước lên khỏi nước lúc ấy các tầng trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Ngài. Vì xưa kia, khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, chính A-đam đã đóng cửa trời lại, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ... Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.
Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống?
Lý do là vì chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại hồng thủy, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa... Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn phải chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Lời ngôn sứ nói: "Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét" (Tv 28). Tiếng nào vậy? "Đây là Con yêu dấu của Ta; Con đẹp lòng Ta"(Mt 3, 17). Đây là tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thân xác.
Vậy, phép của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: "Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần." (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Chúng ta hãy thanh tẩy mình cho thanh sạch, hãy tiếp tục thanh tẩy cho thanh sạch hoàn toàn và đem lòng tôn kính mà tưởng niệm ngày Đức Ki-tô chịu phép rửa, và hãy mừng lễ cách xứng đáng. Amen.
Hôm nay với cử hành phụng vụ lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, toàn thể dân Công Giáo khai mạc một: TN1-A30
Hôm nay với cử hành phụng vụ lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, toàn thể dân Công Giáo khai mạc một giai đoạn mới trong Năm Phụng Vụ. Chu Kỳ Phụng Vụ Mùa Thường Niên. Chọn lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa để khai mạc thời gian phụng vụ nầy, Hội Thánh muốn gọi mời tất cả Dân Chúa dấn thân sâu xa hơn vào mầu nhiệm Chúa Kitô, vào sự hiện hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới và cuộc sống, vào Tin Mừng Cứu độ mà Ngài đã loan báo cách đây 2000 năm.
Giờ đây, để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh, chúng ta hãy thành tâm sám hối
Giảng Lời Chúa:
Dẫn nhập:
Anh chị em thân mến, nếu chúng ta đáp chuyến tàu quá khứ, trở về bên dòng sông Gio-đan vào buổi sáng ngày xưa ấy, chắc chúng ta sẽ gặp một quang cảnh lạ lùng, kỳ diệu, nhưng cũng rất thân thương và cảm động: Dưới đất, một đoàn lũ đông đảo có thể nói được là ô hợp. Vì gồm nào lính tráng, dân thu thuế, những kẻ tàn tật đui què mẻ sứt, những gái làng chơi, những tay anh chị và phần đông là dân nghèo khố rách áo ôm đủ mọi ngành nghề…và đặc biệt chen lấn giữa đám dân ô hợp, tội lỗi ấy, có chàng thanh niên Giêsu nguời Nadarét, vừa từ giả quê hương miền bắc xứ Galilê đến đây để ông Gioan làm phép rửa. Trong khi đó trên trời, không trung mở ra, có tiếng Chúa Cha rền vang: “Đây là Con Ta yêu dấu…”, có Chúa Thánh Linh lấy hình Bồ Câu đáp xuống…
Quả thật bên bờ sông Giođan hôm ấy, đã xảy ra một cuộc “hiển linh” đặc biệt của Ba Ngôi Thiên Chúa, như lời thơ trong thánh thi Kinh Sách:
Danh mầu nhiệm vang ngân cứu rỗi Cả bốn phương Giáo Hội của Người Nơi đây hiện diện Ba Ngôi Nhưng là một Chúa cao vời chí tôn.
Chúng ta thử dừng lại suy niệm đôi điều về mầu nhiệm nầy để cùng với toàn Dân Chúa bước trên nẽo đường phụng vụ Mùa Thường Niên với tất cả tình yêu và ý thức.
1. Thiên Chúa giới thiệu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Con Một Thiên Chúa:
Ngay từ thuở hồng hoang nơi vườn địa đàng sau tấn thẩm kịch phản bội ”An Trái Câm”, chúng ta đã nghe vang vọng một lời giao ước, một Tin Mừng cứu độ: “Ta sẽ gây mối thù giữ ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đàu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Nhưng ai sẽ là người đó ? Ai sẽ là Đấng Cứu thế đó ? Một thiên thần thiêng liêng sáng láng chăng ? Hay một Vị Vương Đế quyền uy ? Hay một Tiên tri chuyên làm những chuyện quỷ khóc thần sầu ? Mặc cho dân Ít-ra-en hy vọng và ươm mơ, những thần tượng Cứu Thế cứ trôi vào dĩ vãng: Môse, Samson, Đavít, Êlia, Giuđa Macabêô…tất cả đều mất hút trong đêm dài lịch sử, còn chăng là những chứng từ của sách vở, của những câu chuyện nhắc nhở cho nhau…Còn những lời thơ bóng bẩy và tráng lệ của Sứ Ngôn Isaia trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ thì không biêt khi nào mới trở thành hiện thực ?
Và đã có một thời cả Giêrusalem náo động xôn xao, khi có Ba Nhà Đạo Sĩ Phương Đông tìm đến và kháo láo rằng: Đấng Cưứ Thế đã xuất hiện, Ngôi Sao của Ngài đã hiển hiện bên trời đông. Nhưng sau đó tất cả lại chìm vào quên lãng. Mãi cho đên 30 năm sau, bên bờ sông Giođan rực nắng, Gioan Tẩy Giả lại mạnh mẽ rêu rao: “Ở giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết…Tôi rửa bằng nước, nhưng Ngài sẽ rửa trong Thánh Thần…” Và quả thật hôm nay, lời rêu rao đó lại trở thành hiện thực. Chính Thiên Chúa đã quyêt định “cái Giờ” để giới thiệu, để chính thức “trình làng” Người Con Một, cho dù không bằng một nghi lễ trịnh trọng vương giả, thì cũng có một không hai, như ta đã nghe tường thuật trong bài Tin Mừng. “Trời mở ra…”.
Quả thật, hôm nay đã ứng nghiệm những lời Sấm ngôn loan báo: “Đây lời Đức Chúa phán: Đây là Người Tôi Trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó…” (BĐ 1). Và một chỗ khác: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó…”. Thánh Phêrô đã tóm kết huyền nhiện nầy bằng những lời đơn gọn: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới dâu Người thi ân giáng phúc tới đó…” (BĐ 2).
Quả thật, nếu không có chính Thiên Chúa giới thiệu, mặc khải, ấn chứng, không ai trong chúng ta có thể đến với Chúa Kitô, tin vào Chúa Kitô, đón nhận và yêu mến Chúa Kitô. Chính vì thế, để củng cố niềm tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy cầu nguyện, hãy tiếp cận lời mặc khải, phải đọc và lắng ngfhe Lời Chúa, phải đón nhận chính lời của Đức Kitô. Như hôm nay Chúa Cha đã ra lệnh “Các ngươi hãy nghe lời Người”.
2. Đức Kitô biểu lộ tình thương cứu độ của Thiên Chúa:
Để biểu lộ tình thương cứu độ của Thiên Chúa và cũng là để thực thi vai trò “thiên sai-cứu thế” của mình, Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã sống làm sao, đã thực hiện những gì ?
Một tình yêu vâng phục: Điều chúng ta tìm thấy đầu tiên và cũng là lựa chon căn bản của Đức Kitô để thực hiện con đường cứu nhân độ thế đó chính là “một tình yêu vâng phục dành cho Cha”: “Cha đã làm cho con một thân xác, nầy đây con đến để thực thi thánh ý Cha…” “Của ăn của ta là làm theo ý Đấng đã sai ta”..”Lạy Cha nếu có thể…”
Một tình yêu đồng hành và quảng đại cho đi. Thực thi thánh ý Chúa Cha hoàn toàn không có nghĩa bỏ rơi loài người, xa cách với nhân loại. Không, cũng chính nhờ sự liên kết mật thiết với Cha, vâng phục Cha mà Đức Kitô đã sóng trọn vẹn tình liên đới với nhân loại, với anh chị em, với từng người trong chúng ta. Việc Ngài chen vai sát cánh giữa đám tội nhân đến bên dòng sông Gio-đan để Giaon thanh tẩy phải chăng là một chứng từ rõ nét nói lên tình liên đới mật thiết nầy, nói lên ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm ‘Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Vâng, Đức Kitô của chúng ta, Đấng Cứu thế của chúng ta không phải là một vị thượng tế trên các tầng mây, nhưng là một “mục tử nhân lành” đồng hành với anh chị em, chia sẻ ngọt bùi với thân phận bọt bèo nhân thế. Đọc lại cuộc đời của Chúa Giê-su, từ hang lừa máng cỏ đến đồi Sọ Gôn-gô-ta, chúng ta thấy gần gũi biết bao, thân thương biết mấy với một Đấng Cứu Thế trong em bé Giêsu ở Bê-lemhay chàng thợ mộc Giêsu ở Na-da-rét, trong vị tiên tri Giêsu đi chân đất ở Ga-li-lê, hay tên tử tội Giêsu lê từng bước trên đường phố Giê-ru-sa-lem…Mặc dầu Vị thầy Giêsu đó có thể dùng quyền lực để chế ngự sóng gió bảo bùng, để biến vài tấm bánh và mấy con cá thành cả núi thực phẩm để nuôi dân, có thể một tiếng phán ra thì cả đám quan quân Do Thái ngã lăn ra đất, có thể phục sinh kẻ chết, cho kẻ điếc nghe, kẻ câm nói, kẻ què đi…thì Ngài vẫn không thèm vận dụng những phương thế “dấu lạ đó để chinh phục con người, nhưng lại cứ dùng cái cách kiểu giản đơn khiêm hạ: quì xuống rửa chân để làm người phục vụ, cận kề với người tội lỗi để hoán cải thứ tha, chịu tủi nhục thương đau để cho đi và tận hiến…
Một tình yêu thăng hoa đem lại sự sống. Nhưng khi thực thi sứ mệnh cứu thế theo cách kiểu đó, liệu Đức Kitô có thành công chăng ? Cho dù mãi đến hôm nay, một thế giới vẫn còn đang dang dở với tội lỗi và bất công, với sự ác và và bóng tối…thì ngay từ buổi sáng “Ngày Thứ Nhất trong tuần” cách đây 2000 năm, mọi sự trên thế gian đã bắt đầu thay đổi cùng với con tim và bờ môi ánh mắt của cô Mai-đệ-liên khi đối diện với Đấng Phục sinh từ cõi chết. Vâng, sự hiện diện của Đấng Cứu Thế vừa từ cõi chết sống lại đã mang cả nhân loại tiến vào đường sự sống, vào miền hy vọng, vào vương quốc của vui tươi. Ngài đã làm cho chân lý phúc âm trở thành Tin Mừng, đã làm cho thế giới đâu đâu cũng là “thánh điện để tôn vinh Cha”, và biến mọi anh em tự chân trời góc biển nên huynh đệ một nhà. Vâng, Ngài đã đến “để chiên được sống và được sống dồi dào”, Ngài đến không phải để kết án nhưng là cứu chữa những gì đã hư đi, Ngài đến để gọi về những đứa con hoang bụi đời lầm lỡ mà mặc cho áo mới huy hoàng…Đã 2000 năm qua, đã có không biết bao nhiêu những Gia-kê, những Lê-vi thu thuế,, những cô gái điếm Mai-đệ liên, những Phêrô phản bội, những Tôma cứng lòng, những cô phụ nữ ngoại tình, những tên ăn trộm bị kết án…vui vẻ sắp hàng theo Ngài tiến về phía trước trong hoan vui tạ ơn vì được ân thánh tái tạo..
3.Sống huyền nhiệm Bí tích Rửa tội hôm nay:
Mầu nhiệm phép rửa nơi Đức Kitô hôm qua bên bờ sông Gio-đan có liên quan gì đến chúng ta hôm nay ? Có liên quan nhiều lắm đó !
Trước hết: Hãy để Thánh Thần tác thánh và sai đi: Thật vậy, nếu Đức Kitô đã khởi sự cuộc đời rao giảng Tin mừng từ biến cố đặc biệt nầy thì Ngài cũng đang mời gọi chúng ta hãy tiếp tục “ra đi từ giếng nước rửa tội”. Bí tích rửa tội của mỗi người không chỉ là cuộc xối nước một lần của quá khứ để trở thành kỷ niệm vô hồn, mà cốt yếu đó là một “lựa chọn luôn mới mẻ và sinh động”,một ra đi, một lên đường, một dấn thân như một lời ca mà chúng ta vẫn thường hát:
…Trao cho con Lời Chúa, dù đời con hoen úa, nguyện đời con đem lời chân lý đến cho mọi nơi. Ra đi đầy nguyện ước, và này con gieo bước, nguyện đời con đem nguồn yêu mến đến cho mọi người.
…Chân đi đạp đồi non, biển đời bao sóng gió, Người đỡ nâng con dù nguy biến vẫn ở cùng con. Yêu thương làm hành trang, ngọn đèn tim thắp sáng, một đời vui như đàn chim hót suối reo đầu ngàn.
Chúng ta vừa kết thúc Năm Thánh truyền Giáo, nhưng không có nghĩa là khép lại mọi nỗ lực truyền giáo và thôi không còn thực thi sứ vụ này bằng cuộc sống. Đúng hơn, mọi sự vừa mới bắt đầu.
Và lời loan báo sống động nhất, giống cách kiểu của Đức kitô nhất đó chính là: Hãy trở nên dấu chỉ của tình yêu Đức Kitô, đồng cảm và đồng hành với Đức Kitô trên mọi nẽo đường cuộc sống. Để minh họa điều nầy, và cũng là để kết thúc những chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng đọc lại bài thơ “Lời cầu cần thiết”:
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là tấm bánh Thánh nuôi dưỡng cho con, Nhưng con lại có thể bẻ vụn tấm bánh đời mình cho anh em con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa Ngài mới là chén Máu Thánh bổ sức cho con, Nhưng con lại có thể quảng đại mời anh em con uống lấy trọn đời con.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới trao tặng niềm tin. Nhưng con lại có thể làm nên chứng tá sống động cho Chúa hôm nay.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới gởi đến niềm hy vọng, Nhưng con lại có thể giúp anh em con tìm lại nguồn cậy trông.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới đốt lên được ngọn lửa mến, Nhưng con lại có thể giúp anh em con học biết yêu thương
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới tác tạo hòa bình, Nhưng con lại có thể ra đi gieo cấy tình đoàn kết hiệp nhất anh em.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là Đấng ban sức mạnh Thánh Linh, Nhưng con lại có thể nâng đỡ một tâm hồn anh em đang tuyệt vọng.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Ngài mới là sự sống vĩnh cửu. Nhưng con lại có thể đem đến cho nh em con niềm vui sống.
Lạy Chúa, chỉ mình Chúa, Tự Ngài đã thực sự viên mãn,
Nhưng Ngài đã ưa thích cho con được cọng tác trong công việc của Ngài,
Và Ngài lại ưa thích nương nhờ nơi con để cứu độ mọi người.
Ở đời, khi người ta dựng vợ gã chồng cho con cái thường chọn nơi môn đăng hộ đối; khi chọn bạn mà chơi thì cũng chọn người hiền, bình thường ai cũng chọn cái tốt cái hay, không ai lại chọn cái xấu cái dở bao giờ.Thiên Chúa là Đấng Thánh, nếu Người vào đời mà liên đới với những bậc Thánh Hiền, với những Người Công Chính thì chẳng ai phản đối. Nhưng không, Chúa Giêsu đã gắn bó thân phận mình với loài người tội lỗi.Trước khi bắt đầu công cuộc rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ thật lạ lùng là Người tới bên bờ sông Giođan và xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Dân chúng đến xin Gioan làm phép rửa thì chúng ta hiểu được, vì mọi người đều có tội, nên đã phải thú tội để biểu lộ lòng hoán cải và xin ơn tha thứ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu, Người là Đấng vô tội, là Đấng Thánh, vì thế Gioan đã thốt lên: “Chính tôi cần phải được Ngài thanh tẩy cho, thế mà Ngài lại đến với tôi” (Mt 3,14). Gioan bối rối khước từ, bởi lẽ Đấng mà ông không đáng xách dép, Đấng là thẩm phán quyền uy, Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần, Đấng ấy lại cúi mình xin ông làm phép rửa, thế nhưng Người đã trả lời: “Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3,17).
Gioan đã kêu gọi dân chúng chịu phép rửa “để tỏ lòng sám hối và được ơn tha tội”.Chúa Giêsu là Đấng Thánh, Người không có tội gì để mà sám hối và Người cũng chẳng cần đến ơn tha tội. Vậy nếu Chúa Giêsu chịu phép rửa là chính bởi vì Ngài muốn dấn thân nhập cuộc liên đới với nhân loại, Người muốn đi tới cùng, chấp nhận mang vào thân kiếp người tội lỗi cần được thanh tẩy và đổi mới. Thánh Phêrô đã viết trong thư thứ nhất thật sâu sắc “ tội lỗi của chúng ta, Người đã mang lấy vào thân thể mà đưa lên cây thập giá” (1Pr 2,24). Chúa Giêsu không chỉ tha tội, xoá tội mà còn gánh lấy tội nhân loại, đem nó vào thân thể Người để biến đổi, gạn lọc, đổi mới thành hương thơm sắc đẹp. Người đã biến đổi ngay chính trong bản thân mình tất cả tội lỗi của trần gian, làm cho nó trở nên thánh đức.
Phép rửa mà hôm nay Chúa Giêsu lãnh nhận bởi tay Gioan Tẩy Giả chỉ là một hình ảnh báo trước phép rửa hoàn hảo và tuyệt đối hơn vì nó có khả năng tái sinh đổi mới con người. Khi chịu phép rửa của Gioan, Chúa Giêsu đã công khai liên đới thân phận mình là Thiên Chúa, là Đấng Thánh với thân phận con người tội lỗi. Người không bao giờ phạm tội, Người không vướng một vết nhơ tội lỗi nào, nhưng đã không ngần ngại đến sống giữa nhân loại tội lỗi, đồng hành, đồng bàn ăn uống với những người thu thuế và những người tội lỗi.
Kẻ tội lỗi là kẻ đáng ghét, không ai thương người đáng ghét, nhưng Chúa Giêsu lại thương người tội lỗi, vì đối với Chúa kẻ tội lỗi đáng ghét nên đáng thương, đáng được chữa lành. Chúa Giêsu ghét tội lỗi nhưng lại thương tội nhân, Người đã hoà mình sống giữa họ, chia sẽ thân phận với họ rồi laị chia sẽ cho họ niềm vui được làm con cái Thiên Chúa và sự thánh thiện của Người. Những Giakêu, Lêvi, Mađalêna, người phụ nữ Samaria bên giếng Giacop đã được Người hoán cải đổi đời. Đó là một thái độ, một lập trường đi ngược với quan niệm thông thường của tôn giáo cũng như người đời.
Tôn giáo thì luôn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục. Người ta luôn tôn kính các bậc thánh hiền, ông thánh này bà thánh nọ, ghét bỏ người tội lỗi. Còn Chúa Giêsu thì coi việc đến với người tội lỗi là sứ mạng của Người vì Người quan niệm rằng “người mạnh khoẻ không cần đến thầy thuốc, người ốm đau mới cần”. Bởi đó, Người đã nói: “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”. Nhưng Chúa Giêsu không đứng ngoài hay đứng trên để kêu gọi sám hối mà người muốn cùng họ sám hối như thể thực sự Người cũng là một kẻ tội lỗi cần hoán cải. Do đó, Người đã xin chịu phép rửa của Gioan.
Nói theo Lão Tử, người sống 500 năm trước Chúa Giáng Sinh, thì việc làm của Chúa Giêsu khi chấp nhận dìm mình trong dòng nước sông Giođan chính là thực hiện lý tưởng “đồng kỳ trần” ( toả kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hoà kỳ quang, đồng kỳ trần; nghĩa là làm bớt chỗ bén nhọn, bỏ phân chia, hoà ánh sáng, đồng bụi bặm. {Đạo đức kinh IV,2; LVI,2}. Ý nói: nếu muốn hoà giải, hoà hợp với người khác thì phải bỏ óc kỳ thị phân chia, giảm bớt những gì là sắc bén nơi mình có thể gây nguy hại cho người khác, hoà cái sáng của mình với cái sáng của tha nhân, và cũng chia sẽ thân phận ‘bụi bặm” với người ta. Nói tóm lại là đừng nghĩ mình hơn người mà xa cách kỳ thị, nhưng phải thấy được cái sáng của người, đồng thời cũng thấy được cái bụi bặm nơi mình. (Trích dẫn theo: Trái chín đầu mùa, trang 133. Lm Thiện Cẩm).
Trước sự hạ mình thẳm sâu của Đức Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng việc sai phái Thánh Thần hiện xuống và bằng lời tuyen bố: Đây là con Ta yêu dấu.
Ba dấu hiệu mà Phúc âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách Sáng thế đã nói: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại ( St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Thiên Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” ( Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh kính ngụ ý là con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
Dấu hiệu 2: Thánh thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế có nói:Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu thì ngụ ý: Đức Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tasọ vật mới” (Gal 6,15)
- Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha:” Con là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này chúng ta nhận biết Đức Giêsu là con thật của Thiên Chúa, và sau này Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết: những ai tin vào Ngươì và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tới ân huệ cao trọng mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta nhờ Phép rửa của Người. Phép Rửa tội là cửa đưa chúng ta vào sự sống mới, vào Nước trời. Đó là bí tích đầu tiên của luật mới. Đó cũng là bí tích Chúa đã trao lại cho Giáo hội cùng với Tin mừng khi Người truyền cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” ( Mt 28,19). Vì the, Thánh Tẩy là bí tích của đức tin, làm cho loài người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa và được ơn làm nghĩa tử, khởi đầu cuộc sống mới trong Đức Kiô. Do vậy, trong nghi thức tiếp nhận, Giáo hội luôn hỏi người dự tòng: “Con xin gì cùng Hội Thánh ?”. “Thưa, con xin đức tin”. “Đức tin mang lại điều gì cho con ? ”. “ Thưa, sự sống đời đời”. Và trước khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng xác nhận công khai từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin trước mặt cộng đoàn.
Người Kitô hữu được thánh hiến cho Thiên Chúa, đi vào đời sống hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Ý thức ân huệ cao trọng này để mỗi người chúng ta xây dựng đền thờ tâm hồn mình xứng đáng cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị bằng một đời sống công chính, đạo đức, trong sạch.
Ngày lễ hôm nay vừa khép lại mùa Giáng Sinh, vừa mở ra mùa Thường Niên. Biến cố Chúa Giêsu đến dòng sông Giođan chịu phép rửa của Gioan vừa là sự kiện Con Thiên Chúa hiển linh cho mọi người, vừa là sự kiện khai mở cho cuộc rao giảng công khai của Chúa Giêsu. Qua biến cố nầy, ta học được bài học khiêm hạ và yêu thương mà Chúa Giêsu đã nêu gương cho ta.
Gioan, người dọn đường cho sự xuất hiện của Con Thiên Chúa, kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối. Việc làm để tỏ lòng ăn năn là đến dòng sông Giođan để chịu phép rửa. Người người lũ lượt kéo đến với Gioan... Nhưng hôm nay, sự xuất hiện của một nhân vật đã gây ngỡ ngàng, bối rối cho Gioan. Nhân vật ấy chính là Chúa Giêsu. Đấng không vướng mắc một tội nào lại đến xin ông làm phép rửa! Đấng có quyền tha tội lại đứng vào hàng tội nhân! Gioan quá ngỡ ngàng không biết phải xử sự thế nào. Nhưng Chúa Giêsu đã giúp Gioan giải quyết vấn đề: "Bây giờ cứ làm thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính" (Mt 3,15).
Việc làm của Chúa Giêsu trước tiên đã nêu ra bài học về đức khiêm nhường. Thói thường không ai thích hạ mình xuống cả, chỉ muốn vươn lên hơn người, có khi vươn lên thái quá thành kiêu căng trước mặt người đời. Có một thời người ta dùng cụm từ "câu lạc bộ những người thích nổ" để nói về những người tự tâng bốc mình lên vượt hơn cái mình có được. Chính kiêu căng đã làm cho Ađam - Eva và cả nhân loại phải khổ.
Chúa Giêsu đã sửa lại thái độ kiêu căng nầy, Ngài "vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, mà đã mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,6-7). Ngài hạ mình xuống để nâng loài người sa ngã lên. Chính thái độ khiêm hạ đứng vào hàng tội nhân của Chúa Giêsu là động lực để ta nhìn lại mình, nhận ra mình là người tội lỗi cần đến ơn tha thứ của Chúa. Từ đó, ta mau mắn chạy đến tắm mình trong dòng sông ân sủng là phép giải tội, để luôn được đứng vào hàng con cái Chúa, có Chúa Giêsu dẫn đầu.
Trong đời sống thường ngày, khiêm hạ chính là nhìn nhận giá trị thật của chính mình: có những ưu điểm cần phát huy, nhưng cũng có những khuyết điểm cần sửa chữa. Tiếc rằng ngày nay người ta lại "tốt khoe, xấu che" , luôn tìm cách che đậy những khiếm khuyết và bằng mọi cách làm cho mình nổi trội với những ưu điểm, thậm chí là những ưu điểm giả tạo. Nhận ra giá trị thực của mình mới có thể giúp mình tiến bộ hơn.
Động lực thúc đẩy Chúa Giêsu có thái độ khiêm hạ chính là tình yêu của Ngài đối với nhân loại tội lỗi đang lầm than cơ khổ. Người đời có câu: "Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau trái bồ hòn cũng méo". Khi yêu, mọi khiếm khuyết, lỗi lầm của nhau sẽ được tha thứ, xoá bỏ. Ta hãy tập có cái nhìn yêu thương đối với mọi người mọi vật thì ta sẽ thấy thế giới nầy đáng yêu làm sao! Chiến tranh, chém giết, đau khổ đều xuất phát từ lòng thù hận, ghen ghét. Yêu thương sẽ giúp ta thấy mình không còn tranh đấu, không còn nhu cầu trổi vượt mà là sống khiêm nhu, hoà đồng với người, với vật.
Tham dự thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy chiêm ngắm nhiều về lòng khiêm hạ và yêu thương của Chúa Giêsu. Để khi trở về với đời sống thường nhật, ta sống yêu thương hơn, khiêm hạ hơn. Sống trong nền văn minh sự chết, ta được mời gọi góp phần xây dựng nền văn minh tình thương. Đời thay đổi khi ta thay đổi. Hãy sống sao để khi ra trước toà Chúa, ta nhận được lời nói thân thương của Ngài: "Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con".
Người ta vẫn có cảm tưởng, suốt quãng đời ẩn dật 30 của Chúa Giêsu tại làng Nagiarét có một cái gì đó thật lặng lẽ, thật êm đềm, nếu không nói được là hầu như Người bị lãng quên. Nhân loại, con người và mỗi người vẫn chưa nhận ra được sứ mạng Thiên sai của Chúa Giêsu. Do đó, trong suốt thời gian dài dằng dặc này, Gioan Tẩy Giả vẫn tiếp tục rao giảng và làm phép rửa sám hối cho dân chúng. Rồi,tới ngày Thiên Chúa Cha định, Chúa Giêsu đã xuất hiện công khai bên bờ sông Giorđan, nơi Ông Gioan đang làm phép rửa.
MỘT BIẾN CỐ. MỘT SỨ MẠNG. MỘT CON NGƯỜI:
Có thể nói được, đây là biến cố quan trọng, trước khi khai mạc sứ mạng công khai của Chúa Giêsu bởi vì lúc ấy, Chúa Giêsu vừa tròn 30 tuổi. Chúa Giêsu đến với Gioan và xin Gioan làm phép rửa cho mình. Đây là biến cố. Một biến cố đã được chuẩn bị cả 30 năm trời ở làng Nagiarét, nơi gia đình Thánh Gia. Biến cố này được chuẩn bị kỹ càng bằng cầu nguyện, bằng sự kết hiệp mật thiết của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Gioan đã được Chúa Thánh Thần soi sáng, Ông biết rằng Ông đang đứng trước mặt: “ Con Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên sai, Đấng xóa tội trần gian “. Ông cũng hiểu rằng:” Đấng xin Ông làm phép rửa bằng nước sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần “, nên Ông Gioan đã từ chối: ” Chính tôi mới phải xin Ngài rửa cho, tại sao Ngài lại xin tôi ?”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thuyết phục Gioan Tẩy giả: ” Hãy làm theo ý Cha của Người “. Và rồi, khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Người và có tiếng từ trời phán: ” Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Phép rửa, Chúa Giêsu lãnh nhận bởi tay Gioan trong dòng sông Giorđan, khai mào cho sứ mạng và con đường cứu độ, con đường cứu thế của Chúa Giêsu. Đó là con đường của người tôi tớ đau khổ, con đường khiêm nhu, hiền lành. Con đường yêu thương, hiệp nhất và hòa bình. Chúa Giêsu quả là người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa. Người đã bắt đầu sứ vụ raogiảng bằng việc tự hạ xếp hàng với những tội nhân dù Người hoàn toàn vô tội. Đúng, đây là một biến cố rất ư quan trọng bắt đầu sứ mạng của một con người, một cuộc đời.Cuộc đời của con người có tên Giêsu, Đấng Thiên sai, Đấng Mêsia, Đấng cứu thế.
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA ĐỂ LÀM GƯƠNG CHO CHÚNG TA:
Phép rửa mà Chúa Giêsu thiết lập hoàn toàn khác với phép rửa của Gioan tiền hô: Thánh Gioan chỉ lấy nước mà rửa để giục lòng người ta ăn năn thống hối, còn Chúa Giêsu đã rửa người ta bằng nước và Thánh Thần. Chính thánh Gioan đã tuyên bố: ” Phần ta, ta rửa các ngươi bằng nước để lo hối cải, còn Đấng sẽ đến sau ta và ta không đáng xách dép cho Ngài, Ngài sẽ rửa các ngươi trong Thánh Thần và lửa “. Chúa Giêsu đã lập phép rửa để sinh ta lại làm con cái Chúa và làm con Hội Thánh. Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế để làm đẹp lòng Cha. Người sống hoàn toàn vâng phục và luôn hiếu thảo với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đi xuống dòng sông Giorđan để dìm mình trong dòng sông sám hối. Chúa Giêsu hòa mình với các tội nhân để chết thay cho các tội nhân. Chúa là Con Thiên Chúa mà đã chấp nhận hòa mình với các tội nhân. Do đó, chúng ta là gì mà dám tự cao, tự mãn bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân. Chúa cao sang hoàn toàn thánh thiện mà đã tự hạ dìm mình trong sông Giorđan. Chúng ta là gì mà dám ngẩng cao không dám tự hạ để lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa. Sám hối là bước đầu để đổi mới. Chúng ta hãy thực lòng sám hối, tự hạ để cúi xin Chúa thương ban ơn tha thứ. Chúa đã dìm mình trong dòng sông Giorđan sám hối để làm gương cho nhân loại, cho mọi người, cho mỗi người chúng con.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con không ngừng canh tân đổi mới, để chúng con luôn sẵn sàng khiêm tốn lãnh nhận ơn tha thứ vì chỉ mình Chúa là Đấng thánh, là Đấng giầu lòng tha thứ. Amen.
Biến cố Chúa Giêsu lĩnh phép Rửa tại sông Giodan là một trong 3 sự kiện của việc Hiển Linh và được cả 3 Phúc âm Nhất lãm thuật lại. Sự kiện này mang nhiều ý nghĩa và nhiều bài học sâu sắc.
I. Ý NGHĨA
Chúa chịu phép Rửa tại sông Giodan để công khai chấp nhận và khai mạc sứ vụ Mesia và cũng là bắt đầu cho một phép Rửa trọng đại, mang tính quyết định cho vận mạng của nhân loại, đó chính là cái chết đẫm máu và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài.
Chúa chịu phép Rửa tại sông Giodan mạc khải mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần và công cuộc cứu chuộc là công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi(Mt 3,16-17)
Sứ mạng của Chúa Giêsu là sứ mạng của người Tôi Trung, khiêm nhu, hiền từ mà Isaia đã loan báo(Bài đọc I), một sứ mạng của Trời Cao mang tính thần linh: “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài” (Bài đọc II)
Ngài khiêm tốn, huỷ mình ra như không, xuống tận chỗ thẳm sâu của con người khi đứng chung trong hàng ngũ các tội nhân đến xin Gioan làm phép Rửa (Lc 3, 21).
Ngài là Chiên TC, gánh tội trần gian,( Jn 1,29) dìm nó xuống dòng sông An Sủng để tẩy xóa nó.
Khai mở kỷ nguyên mới cho nhân loại. Từ nay Trời mở ra (x. Mt 3,16). Từ nay, nước không chỉ để uống và tắm rửa nhưng được thánh hóa, sử dụng cho cuộc sống đời đời và nhất là toàn thể vũ trụ được tham gia vào công trình cứu độ. Đó chính là khúc mở đầu cho một cuộc tân tạo dẫn tới những con người mới trong trời mới đất mới.
Xác nhận sứ vụ tiền hô của Gioan và công nhận phép Rửa mà ông cử hành xuất phát từ ý muốn của Trời cao: Dọn tâm hồn đón nhận ơn tha thứ
II. BÀI HỌC THỰC HÀNH
“Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3, 15a).
Biến cố Chúa chịu phép Rửa nhắc nhớ lại ơn huệ làm con Thiên Chúa và sứ vụ Tiên tri, Tư tế và Vương đế mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Thánh Tẩy.
Đức Giêsu đã “trả lại” cho TC quyền của người Cha bằng cách tôn trọng, yêu mến và vâng phục Cha hoàn toàn: “Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người”. Tôi có trả lại cho Thiên Chúa quyền được yêu mên và tôn thờ không? Tôi có luôn nghĩ cách và cố gắng làm cho Chúa vui lòng không? Tôi có ý thức vinh dự được làm con Thiên Chúa không? Tôi có luôn cảm thấy tự hào là người kytô hữu không?
Chúa Giêsu đã trả lại cho Gioan Tẩy Giả quyền được xác nhận và khuyến khích cho công việc chính đáng của mình. Ai và những công iệc nào đang cần tôi ủng hộ, khuyến khích, động viên ?
Những người chung quanh tôi, những người kém may mắn, những tội nhân là những người có quyền được yêu mến, thông cảm, nâng đỡ. Thái độ của tôi với những người này là thế nào? Xa lánh hay gần gũi?
Chúa Giêsu và Gioan đã thực hiện tốt sứ vụ của mình. Đâu là sứ vụ của tôi và tôi đã thực hiện nó cách nào?
Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống xứng đáng là những người con dấu yêu của Chúa Cha, biết công tác với Chúa trong sứ mạng cứu nhân độ thế và làm chúng nhân cho công bình, bác ái, yêu thương và tự do giữa nhân gian. Amen.
Hôm nay, bên dòng sông Giodan nhỏ xíu, đã diễn ra một việc thật trọng đại: người ta kéo đến xin Gioan rửa tội để tỏ lòng sám hối cho xứng đáng đón nhận Đấng Cứu Thế đến. Hết lượt người này, đến lượt người kia. Và trong đám người ấy lại có Đức Giêsu. Sự xuất hiện của Đức Giêsu đến xin nhận phép rửa, làm cho ông Gioan bối rối, đến mức từ chối: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi” (Mt 3,14). Ông Gioan có lý để từ chối, vì Ông đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Có lần ông đã nói: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dây giày cho Người” (Ga 1,26-27). Ông Gioan không hiểu được công việc của Đấng Cứu Thế, nhưng đã thuận tình làm theo ý của Ngài: “Bây giờ, cứ thế đã. Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt. 3,15).
Để giữ trọn đức công chính của một Thiên-Chúa-làm-người thật, là thi hành đúng ý của Thiên Chúa Cha: đã đến trần gian làm người trần gian là phải là chấp nhận đồng thân phận tội lỗi của con người, mặc dầu Ngài vô tội. Đức Giêsu như người Anh cả, vì thương đàn em nhân loại, mà nhận thay tội lỗi của các em trước mặt Cha. Một nghĩa cử khiêm tốn thâm sâu và yêu thương nồng nàn. Đúng như Thánh Phaolô suy tư: "Ðấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã làm cho Ngài thành tội vì chúng ta" (2C 5,21). Như vậy đức công chính mà Đức Giêsu muốn dạy cho chúng ta là muốn cứu vớt tội nhân, phải khiêm tốn hạ mình xuống đến tận cùng để hiểu tội nhân, để đòng cảm với tội nhân, hoặc để cứu vớt người chìm trong dòng sông tội, phải dìm mình xuống nước… Đức công chính của Thiên Chúa chính là Đức khiêm tốn thẳm sâu bắt nguồn từ tình yêu. Nói như thế, đồng nghĩa với khẳng định: bao lâu còn sống trong tình trạng kiêu ngạo và ích kỷ, bấy lâu chưa tìm ra sự công chính của Thiên Chúa, của Đức Kitô mẫu mực cứu thế.
Nhìn nhận sứ vụ của anh em
Hơn nữa, việc bằng lòng để cho Gioan làm phép rửa, chính là việc khiêm tốn nhìn nhận sứ vụ tiền hô của Gioan đã nhận từ ý định Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu cúi đầu, để Gioan chu toàn sứ vụ. Bài học Đức Giêsu chịu phép rửa cho chúng ta: không chỉ xác nhận ơn gọi của mình, sứ vụ của mình, mà còn biết xác nhận ơn gọi và sứ vụ của người khác. Và một cách tích cực hơn, tạo điều kiện để anh em phát huy ơn gọi và chu toàn sứ vụ. Đức Giêsu không giữ thế độc-tôn-cứu-thế, rồi xem thường vai trò của Gioan trong chương trình của Chúa Cha, như chúng ta vẫn thường vấp phải
Tin mừng hôm nay gửi đến các gia đình sứ điệp nhìn nhận và tôn trọng vai trò của từng thành viên trong gia đình, và khiêm tốn hổ trợ nhau chu toàn bổn phận trong yêu thương. Ơn gọi hôn nhân và sứ vụ cứu thế chia đều cho mỗi thành viên, không tập trung nơi Cha, mẹ, vợ, chồng và nhất là cũng không tập trung nơi người làm ra kinh tế. Việc tôn trọng vai trò của nhau và giúp nhau nên thánh đòi hỏi nêu gương khiêm tốn Đức Giêsu bên sông Giodan hôm nay: không xem thường sứ vụ Gioan, ngược lại, để cho Gioan chu toàn sứ vụ làm phép rửa ngay đối với một Con Thiên Chúa Vô Tội. Giúp chồng chu toàn nhiệm vụ làm Cha, giúp vợ chu toàn nhiệm vụ làm Mẹ, giúp con cái nhận ra ơn gọi và chu toàn ơn gọi của mình… tất cả đều phải được thực hiện với lòng khiêm tốn yêu thương như Đức Giêsu, ấy chính là biến sứ điệp tin mừng hôm nay thành hạnh phúc thật trong Đức Công Chính của Thiên Chúa: Ý Chúa thể hiện trong gia đình.
Cũng vậy, trong giáo hội, việc giữ tư thế độc-tôn-cứu-thế, tình trạng xem thường nhau trong việc tông đồ, phủ nhận hoặc hơn thua với nhau những đóng góp cho công cuộc rao giảng tin mừng…vẫn còn nhan nhãn. Vai trò giáo dân với ơn gọi làm tông đồ vẫn chưa được xác nhận đúng mức, có khi còn bị coi nhẹ và phủ nhận nữa là đàng khác. Còn có những linh mục bị các linh mục khác xem thường là những Gioan Vianey thời đại, huống nữa là giáo dân. Không thoát ra được cái lưới trùm của thần dữ kiêu ngạo và ích kỷ trong lòng con người làm-chứng-nhân-Chúa-Kitô, thì không thể nhìn nhận ai khác ngoài mình, và đó là tín hiệu của một cuộc suy thoái trầm trọng cho Tin Mừng Chúa Kitô. Xin ghi chú là khiêm tốn nhìn nhận nhau và tạo điều kiện cho nhau chu toàn ơn gọi, không hẳn phải là tung hô nhau, vì việc tung hô nhau lại là một chiêu bài khác của thần dữ: hãy tập cho chúng tìm vinh quang cho nhau để vinh quang của Thiên Chúa bị lu mờ!
Một Cha xứ vừa nhận xứ trước lễ Giáng Sinh vài tháng, đã tổ chức lễ Giáng Sinh thành công và trong một bản tin giáo phận có câu: “ba mươi năm qua chưa hề có”. Thấy không ổn, bản tin đã sửa lại: “Hai Cha đã thổi bùng lên ngọn lửa mà các vị tiền nhiệm đã nhen nhúm”. Xét về mặt con người, thật tội nghiệp cho các vị tiền nhiệm đã nỗ lực với bao tâm huyết dọn đường cho người đến sau, mà người đời không nhìn thấy, không biết ơn hay ca tụng theo kiểu “có mới nới cũ”; nhưng xét về chương trình của Thiên Chúa thì ấy lại là thân phận của những con người tiền hô đích thực. Tiền hô để Thiên Chúa được tung hô, danh Thiên Chúa cả sáng, để Thiên Chúa được vinh quang.
Tôi nhớ câu chuyện bà già Kiệm trong góc núi đến xin một Cha sở cho gia nhập đạo Công Giáo, Cha bảo: “Học Giáo Lý đã”.
Bà ấy thưa: “ Thưa Cha, con đã học hai năm nay rồi”.
-”Bà đùa với tôi đấy hả? Ai dạy?”
-”Thưa Cha, bà bán cháo lòng dạy. Mỗi sáng, khi đẩy xe đến nhà con là vừa hết cháo. Chị em con chuyện trò với nhau. Chị ấy thực là một người công giáo tốt”.
-”Bán cháo lòng thì biết gì mà dạy? Sáng thứ 6 hằng tuần bà phải lên đây học, tôi dạy”.
Sau mấy tuần học, Cha sở ngộ ra bà nầy không những đã học Giáo lý mà còn có đường hướng sống tinh thần giáo lý đã học. Bà Kiệm được Rửa tội, và các bí tích gia nhập Kitô Giáo, bà bán cháo lòng đỡ đầu. Trong thánh lễ, cha sở vui mừng nói lên tâm tình biết ơn bà bán cháo lòng và mời gọi mọi người sống và phát huy ơn gọi chứng nhân.
Trong thời đại nầy, có những giáo dân đã âm thầm làm sứ vụ của Gioan Tiền Hô trên mọi nẽo đường dương thế, trên mọi lãnh vực cuộc đời. Tôi nghĩ họ sẽ có niềm vui rất lớn khi biết chính Đức Giêsu đang chia sẻ sứ vụ với họ, đang hiện diện để cổ vũ, để hổ trợ cho họ chu toàn ơn gọi chứng nhân Đức Kitô. Những người làm công tác Legio chẳng hạn, họ đã tìm về biết bao con chiên lạc, họ đã giới thiệu Đức Kitô đến với biết bao người…, nhưng trong khiêm tốn, âm thầm lặng lẽ… Giáo hội nhìn nhận vai trò của Giáo dân trong đời sống chứng nhân Tin mừng. Nhưng thiết nghĩ, để những trang tông huấn ấy thành hiện thực, đòi hỏi các thành phần trong giáo hội phải ghi nhận cách sâu sắc bài học Tin mừng hôm nay: Đức Giêsu cúi đầu, để Gioan chu toàn sứ vụ.
Thiên Chúa Cha yêu thương
“Khi Đức Giêsu vừa chịu phép rửa xong, Người lên khỏi nước. Lúc ấy các tầng trời mở ra; Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về người” (Mt 3,16-17; Mc 1,10-11; Lc 3,21-22)
Đức Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn phong là một Đấng Mêsia mới (x.TV 2,7), khi Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống và được Thiên Chúa Cha giới thiệu cho nhân loại với lời giới thiệu đầy tình thương “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người”.
Như thế Đức Giêsu đã mở đầu sứ vụ cứu thế của Ngài bằng sự khiêm tốn tự hạ, nhìn nhận và phát huy sứ vụ Gioan, và nhất là, bằng niềm vui vì được Cha yêu thương, tín nhiệm và ủy thác. Và cả ba yếu tố khởi đầu nầy đã đi suốt hành trình cứu thế của Đức Giêsu: Khiêm tốn tự hạ cho đến bằng lòng chết trên thập giá, đồng bản án tử hình với tội nhân nguy hiểm nhất; chia sẻ sứ vụ cứu thế cho các tông đồ và phát huy sứ vụ của họ bằng những giáo huấn, và cuối cùng, luôn vui sống trong tình Cha yêu thương.
Nếu hành trình đức tin của mỗi tín hữu bắt đầu bằng một cuộc sám hối-thanh tẩy, trải qua giai đoạn được soi sáng để tiến đến chung khúc kết hiệp của tình yêu, thì biến cố trọng đại trên sông Giodan hôm nay đã tiên báo và mạc khải toàn vẹn hành trình cứu thế của Đức Giêsu, mẫu mực cứu thế cho mỗi người chúng ta.
Hành trình ấy, những kỷ niệm trên sông Giodan ấy có thể được nhắc lại cho chúng ta trong mỗi thánh lễ qua các phần sám hối-Nghe lời Chúa-Rước lễ, hoặccó thể thiết lập một ngày sống trong đời bằng việc kinh đầu ngày trong khiêm tốn, ngày sống lời Chúa trong yêu thương - phục vụ - tôn trọng, và đêm bình an trong tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chịu phép rửa vì muốn nhận thay tội lỗi nhân loại, xin cho con biết khiêm tốn nhận ra những tội lỗi thiếu sót của mình.
Chúa đã chấp nhận cúi đầu nhận phép rửa, để thánh Gioan Tiền hô chu toàn sứ vụ, xin cho con biết nhìn nhận và tôn trọng ơn gọi của anh em.
Chúa đã được Chúa Cha yêu thương và giới thiệu với nhân loại, xin cho con sống đẹp lòng Chúa mỗi phút giây trong đời.
Dường như Chúa Giê-su có duyên nợ với người tội lỗi từ đầu đến cuối. Từ ngày khởi đầu cuộc đời công khai cho đến lúc nhắm mắt tắt hơi trên thập giá, lúc nào Chúa Giê-su cũng đồng hành, cùng hoà mình với người tội lỗi. Thế nên chẳng lạ gì người đương thời gọi Ngài là “bạn bè của quân thu thuế và phường tội lỗi” (Matthêu 11, 19)
Sau quãng thời gian ẩn dật lâu dài tại Na-da-rét, Chúa Giê-su lên đường thi hành sứ vụ. Việc đầu tiên Chúa Giê-su thực hiện trong giai đoạn quan trọng nầy là đến bên bờ sông Gio-đan, trà trộn giữa những người thu thuế, những tay cướp của giết người, những người đàng điếm, những tên côn đồ và với bao nhiêu người tội lỗi khác để nối gót dòng người tội lỗi, bước xuống lòng sông Gio-đan, chịu dìm mình trong nước và nhờ Gioan làm phép rửa cho mình như thể Ngài là người lắm tội.
Đến khi tuyển chọn tông đồ, thiếu gì người có quá khứ tốt lành đức hạnh, thế mà Chúa Giê-su lại chọn Lê-vi, một người thu thuế tội lỗi làm môn đệ của mình.
Trong số những phụ nữ tháp tùng Chúa Giê-su và đoàn môn đệ “cùng rảo qua các thành phố, làng mạc để rao giảng Tin Mừng, lại có cả Chị Maria Mađalêna, người đã được Chúa Giê-su cứu chữa cho thoát đến những bảy quỷ (!) và một số phụ nữ khác” (Luca 8, 1-3). Chúa đón nhận những chị em nầy như những người bạn đồng hành trên chặng đường thi hành sứ vụ.
Có lần ngồi dự tiệc trong nhà ông Si-môn biệt phái, Chúa Giê-su để cho một phụ nữ đầy tai tiếng quỳ khóc dưới chân, lấy nước mắt tưới ướt chân Ngài, lại lấy tóc thay khăn lau chân, xức cả dầu thơm sang quý lên đôi bàn chân và thậm chí không ngớt hôn chân Ngài. (Luca 7, 36-50)
Chúa Giê-su còn tỏ ra thân thiện với cả Trưởng Ty thuế vụ thành Giê-ri-cô là Da-kêu và không ngần ngại đến trọ tại nhà con người tội lỗi khét tiếng nầy (Luca 19, 1-10)
Thái độ thân thiện, gần gũi và cởi mở của Chúa Giê-su đối với người tội lỗi khiến “họ năng lui tới với Ngài, nên những người biệt phái và kinh sư xầm xì với nhau: “Ông nầy hay đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Luca 15, 1-3), hoặc người ta còn quy kết nặng nề hơn: “Đây là tay ăn nhậu, bàn bè của quân thu thuế và phường tội lỗi” (Matthêu 11, 19) và thậm chí, người ta còn xem Ngài là kẻ bất lương: “Nếu ông nầy chẳng làm điều ác, thì chúng tôi đã không nộp cho quan”. (Gioan 18,30)
Cuối cùng, trong cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su lại trở thành người bạn đồng hành với hai tên tử tội, cùng vác thập giá với họ trên cùng một chặng đường, cùng chịu đóng đinh với họ chung một giờ trên đồi Can-vê và cùng chia sẻ với hai tội nhân ấy cái chết vô cùng thảm khốc trên thập giá.
Tất cả những sự kiện đó chứng tỏ tình thương bao la và sâu thẳm Chúa Giê-su dành cho hết mọi người, kể cả những người tội lỗi là hạng người bị dân Do-Thái ghét bỏ, lên án và loại trừ.
Phải nói rằng tình thương của Ngài dành cho người tội lỗi trọn vẹn đến nỗi Ngài đã “yêu thương họ cho đến cùng”, chẳng khác gì đã yêu thương các môn đệ thân tín (Gioan 13, 1). Vì thế, trước khi nhắm mắt tắt hơi, Ngài vẫn xót thương họ – kể cả những kẻ lăng nhục, kết án, hành hạ và đóng đinh Ngài - nên đã khẩn thiết nài xin Chúa Cha tha thứ những lỗi lầm của họ. (Luca 23, 34).
Lạy Chúa Giê-su là Đấng cao cả thánh thiện vô cùng,
Chúa đã hoá thân làm người và mang lấy tội lỗi thế gian. Chúa đã đồng hành với người tội lỗi, đã sống chan hoà với họ và dùng tình thương, sự quý trọng để cảm hoá những tâm hồn đáng thương đó.
Xin cho con đừng bao giờ quên rằng mình cũng là một người tội lỗi cần được hoán cải và đón nhận lòng xót thương của Chúa.
Xin cho con đừng đặt mình vào vị thế người công chính, đứng lên nơi cao cách biệt các tội nhân mà lên án anh chị em sa ngã lỗi lầm.
Xin cho con trở thành một bàn tay nối dài của Chúa, biết vươn ra để nắm lấy những bàn tay của những người sa ngã đang cần cứu vớt đỡ nâng.
Tin mừng Chúa Nhật hôm nay nói về sứ mạng của Thánh Gioan Tẩy Giả là giới thiệu và làm chứng cho Đấng Cứu Thế. Qua đó, mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta phải là những Gioan Tẩy Giả của thời đại, đó là luôn biết giới thiệu và làm chứng cho Đức Giêsu ở mọi nơi mọi lúc.
1. Thánh Gioan Tẩy Giả có biết Đức Giêsu không?
Thánh Gioan Tẩy Giả còn được gọi là Thánh Gioan Tiền Hô vì Ngài có sứ mạng đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ngài là con ông Gioakim và Bà Isave, có họ hàng với Đức Giêsu. Vì những liên hệ đó, nên trước khi Đức Giêsu chịu phép rửa, chắc chắn Gioan đã biết về Người nhưng có lẽ Ngài chỉ biết về con người của Đức Giêsu chứ chưa biết về Thần tính của Người, nghĩa là Ngài biết chưa đầy đủ. Vì thế, Ngài không dám nhận bừa là đã biết, cho nên Ngài mới nói rằng “Tôi không biết Người.” (x. Ga 1,31).
Nhưng sau khi Thánh Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu, thì Thánh Nhân đã biết Người một cách đầy đủ, tường tận: “Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.” (x. Ga 1,33). Vì thế, Ngài đã khẳng định rằng: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa.” (x. Ga 1,34).
2. Thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng về Đức Giêsu như thế nào?
Với nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, Thánh Gioan Tẩy Giả đã dùng lời nói và việc làm của mình để làm chứng cho Đức Kitô. Nhưng đáng kể nhất là những lời chứng sau đây:
Lời chứng thứ nhất: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” (x. Ga 1,29).
Theo lẽ thường tình, ai phạm tội, kẻ đó cần phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình, nhưng vì tình thương nên Thiên Chúa đã chấp nhận để cho con chiên đền tội thay cho con người. Vì thế, theo sách Xuất Hành, vào sáng sớm và chiều tối mỗi ngày, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy, tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước mặt Thiên Chúa (x. Xh 29,38-42).
Khi Gioan giới thiệu Đức Giêsu “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian,” thì Ngài muốn nói rằng Đức Giêsu đã trở thành Chiên Hy Sinh để xóa bỏ tội trần gian. Sau này, chính Thánh Phaolô cũng khẳng định điều đó khi nói rằng: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (x. 1Cr 5,7)
Lời chứng thứ hai: “Một người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi.” (x. Ga 1,30).
Uy tín của Gioan Tẩy Giả càng ngày càng nâng cao nhờ vào đời sống và lời giảng dạy của Ngài. Vì vậy, người đương thời tưởng Ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng Ngài phủ nhận điều đó và khiêm nhường nhận mình “chỉ là tiếng kêu trong hoang địa.” Rồi Ngài khẳng định: “Người đến sau tôi, cao trọng hơn tôi, tôi không đáng để cởi quai dép cho Người.” (x. Ga 1, 19-28).
Lời chứng thứ ba: “Tôi làm phép rửa trong nước còn Người đến sau tôi làm phép rửa trong Thánh Thần.” (x. Ga 1, 26.33).
Đây là sự khác nhau giữa Phép Rửa của Thánh Gioan và Phép Rửa của Đức Giêsu. Phép Rửa của Gioan bằng nước, còn Phép Rửa của Đức Giêsu bằng Thánh Thần. Phép Rửa của Thánh Gioan chỉ kêu gọi người ta thống hối ăn năn tội chứ không tha tội, còn Phép Rửa của Đức Giêsu tha thứ tội lỗi: tội Tổ Tông và tội riêng (nếu có). Phép Rửa của Gioan chỉ dừng lại ở lòng thống hối, Phép Rửa của Đức Giêsu là cửa ngõ để dẫn vào các Bí tích khác, nhất là cửa ngõ để dẫn con người vào Nước trời “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần” (x. Ga 3,5).
Lời Chứng thứ tư: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa.” (x. Ga 1,34).
Chúng ta biết được Đức Giêsu là Thiên Chúa nhờ chính mạc khải của Kinh Thánh: Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, chính sứ thần Chúa đã hiện ra báo tin cho các mục đồng biết rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.” (x. Lc 2, 8-14); khi Hài Nhi được tiến dâng cho Thiên Chúa trong Đền Thờ, ông Simêon và bà Anna nhận ra Hài Nhi là Đấng Cứu Thế và cả hai nói tiên tri về Người (x. Lc 2,33-38); chính bà Isave cũng nhận ra Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,43); và hôm nay Thánh Gioan nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhờ có tiếng Chúa Cha phán từ trời và nhờ Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu: "Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.” (Ga 1,33).
3. Để làm chứng cho Đức Giêsu, chúng ta phải làm gì?
Cũng như Gioan, để làm chứng cho Đức Giêsu, chúng ta cũng phải biết về Người.
Trước hết, đó là cái biết vì tri thức. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô.” Vì vậy, để biết Đức Kitô chúng ta cần phải đọc, học hỏi Kinh Thánh, học hỏi giáo lý của Người. Điều này, nhắc nhở sự quan tâm của những người có trách nhiệm trong việc dạy giáo lý: Cha xứ đối với giáo dân; thầy cô giáo lý viên đối với học sinh; cha mẹ đối với con cái; người có đạo đối với những người lương dân, nhất là những người có trách nhiệm dạy đạo cho các dự tòng và tân tòng.
Thứ đến, đó là cái biết về tương quan thần linh với Thiên Chúa. Hay nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2,20) Điều này được thể hiện qua đời sống đạo. Người biết Thiên Chúa về điểm này thường có đời sống đạo tốt, siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Lời nói và đời sống đạo của họ đi đôi với nhau. Nghĩa là họ đã xác tín điều họ nói. Cho nên, lời nói của họ rất có tính thuyết phục. Vì “con người thời đại thích chứng nhân hơn thầy dạy.” (Đức Phaolô VI). Đó là những con người “mang Tin Mừng, mang sức mạnh của Thiên Chúa.”
Cuối cùng, để làm chứng về Đức Giêsu, chúng ta phải “nên thánh”, trở nên Con Chiên của Ngài. Con chiên thì hiền lành. Con chiên thì khiêm nhường. Con chiên thì chấp nhận ghánh tội thay cho người khác. Tin mừng Thánh Mathêu cho chúng ta biết những ai thuộc thành phần Chiên, đó là những người: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” (x. Mt 25,35-36).
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết chăm chỉ học hỏi giáo lý và thực hành những gì giáo lý đòi hỏi để khi chúng con làm chứng cho Chúa thì lời chứng của chúng con có sức thuyết phục đối với mọi người. Amen.
Gioan Tẩy Giả có sứ mạng đi trước dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Vì thế, Ngài còn được gọi là Gioan Tiền Hô.
Chính Ngài tự nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng." (x. Mc 1, 3). Ngài loan báo về Đấng Cứu Thế sắp đến. Ngài làm phép rửa thống hối để chuẩn bị tâm hồn của người dân. Đây là phép rửa chỉ có tính cách tượng trưng, mời gọi mọi người ăn năn sám hối và cải thiện đời sống. Chính Thánh nhân đã khẳng định điều đó khi nói rằng: “Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước để anh em được sám hối. Nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, Ngài quyền phép hơn tôi, chính Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và bằng lửa” (x. Mt 3,11). Và trên dòng sông Giođan, không những có mọi thành phần trong xã hội đến xin lãnh nhận phép rửa thống hối, mà hôm nay Đức Giêsu cũng đến xin Gioan làm phép rửa.
Tại sao Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng vô tội lại đến xin Gioan làm phép rửa? Đây là thái độ khiêm nhường thẳm sâu của Đức Giêsu. Đồng thời, Ngài muốn nhân cơ hội này để tự đồng hóa mình với những người tội lỗi mà Ngài sẽ cứu chuộc. Nghĩa là Ngài muốn mang lấy tội lỗi của nhân loại để xua đuổi chính tội lỗi ấy. Mặt khác, đây là việc làm hết sức quan trọng và đẹp lòng Chúa Cha. Bằng chứng cho thấy rằng, sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa: có Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Đức Giêsu; có tiếng Chúa Cha từ trời phán rằng: “Này là con Ta yêu dấu, con đẹp lòng ta mọi đàng.” (Mt 3,17).
Như vậy, qua phép rửa tại sông Giođan, Đức Giêsu đã được Chúa Cha tôn phong và nhận làm con yêu dấu của Ngài. Từ đó, Đức Giêsu đã bắt đầu cuộc sống công khai để thực thi sứ mạng chính yếu của mình, đúng như đoạn sách Công vụ Tông đồ trong bài II, cho biết: “Thiên Chúa đã sai Lời Người đến cùng con cái Israel, loan tin bình an, nhờ Chúa Giêsu Kitô là Chúa muôn loài. Như anh em biết, điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđa, khởi đầu từ Galilêa, sau khi Gioan đã rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người." (Cv 10,36-38). Trước đó, tiên tri Isaia cũng đã loan báo sứ mệnh của Đức Giêsu mà Tin mừng Thánh Luca nhắc lại: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (x. Lc 4, 18-19).
Đó là sứ mệnh của Đức Giêsu sau khi lãnh nhận phép rửa. Còn đối với mỗi người chúng ta? Bí tích Rửa Tội là điều kiện cần thiết để chúng ta lãnh nhận các Bí tích khác. Vì vậy, người không lãnh nhận Bí tích Rửa Tội thì không có khả năng để lãnh nhận bất cứ Bí tích nào của Giáo hội. Đồng thời, khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được làm Con Thiên Chúa, được trở nên thành phần của Giáo hội, được thừa hưởng hạnh phúc nước trời. Chính Thánh Phaolô đã nói rằng: “Khi chịu phép rửa, anh chị em đã được mai táng cùng với Đức Giêsu trong phép rửa, và anh chị em cũng sẽ được sống lại cùng với Chúa Kitô… Trước kia anh chị em đã chết về mặt thiêng liêng vì tội lỗi của anh chị em… Nhưng giờ đây, Thiên Chúa đã đưa anh chị em đến nguồn sống cùng với Chúa Kitô” (x. Cl 2,12-13). Bí tích rửa tội là cửa ngõ để dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó với Nicôđêmô: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (x. Ga 3,3). Ngài khẳng định thêm: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần” (x. Ga 3,5).
Nhưng quyền lợi luôn đi liền với trách nhiệm. Trách nhiệm phải chu toàn sứ vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế mà Bí tích Rửa tội đòi hỏi. Nghĩa là chúng ta phải sống làm sao để xứng danh là “Con Yêu Dấu của Chúa.” Để xứng danh là con yêu dấu của Chúa cần phải từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những quyến rũ bất chính và từ bỏ ma quỷ là kẻ cầm đầu tội lỗi. Mặt khác, phải luôn tuyên xưng những gì Giáo hội mời gọi tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Đó là tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng đấng tạo thành trời đất; tin kính Đức Giêsu Chúa chúng ta, sinh bởi Ðức Trinh Nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Ðức Chúa Cha; tin kính Ðức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công Giáo, tin các Thánh thông công, tin phép tha tội, tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống vĩnh cửu.
Thánh Phaolô đã nói: "Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn được cứu chuộc"(x. Rm 10,10). Cho nên, việc tuyên xưng trên môi miệng luôn cần thiết cho ơn cứu độ. Thế nhưng, việc thực hành niềm tin đó trong cuộc sống cần thiết hơn, như Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết.” (x. Gc 2,26). Vì vậy, người kitô hữu cần có một đời sống đạo tương ứng với niềm tin của mình. Đồng thời, người kitô có trách nhiệm ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân để mọi người nhờ họ mà được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Cho nên, người kitô hữu luôn nhớ và thực hành lời Đức Giêsu mời gọi: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (x. Mt 28,18-20).
Lạy Chúa Giêsu, mặc dầu vô tội nhưng vì muốn nhận lấy tội lỗi của nhân loại để tha thứ nên Chúa đã khiêm nhường để Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Xin cho mọi người chúng con luôn biết khiêm tốn nhận ra tội lỗi của mình để được Chúa thứ tha. Amen.
Sông Giođan, tiếng Do Thái là "yarad" có nghĩa là đi xuống. Sông Giođan phát nguồn từ ngọn núi Hermon ở độ cao 520m. Suốt 220 km đường dòng sông không ngừng đi xuống. Trước tiên sông chảy vào hồ Halê, chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê nơi Đức Giêsu thường qua lại và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam đổ vào biển Chết. Ở đây là độ sâu 394m dưới mực nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Đức Giêsu bước xuống sông Giođan để chịu phép rửa. Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý, mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để sông để Giođan Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Đức Giêsu đã hoà mình vào dòng người tội lỗi cần sám hối. Tuy đến trần gian để cứu độ người tội lỗi, nhưng Đức Giêsu đã hạ mình xuống ngang hàng với người tội lỗi, liên đới với họ và trở nên người anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Nếu chúng ta đã được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người trong đêm Giáng sinh, làm một em bé nghèo hèn, thì dường như điều này chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.
Bước vào cuộc đời công khai, Đức Giêsu bắt đầu xuất hiện để rao giảng Phúc âm. Trước khi ra gặp gỡ dân chúng. Đức Giêsu đã tới dìm mình trong dòng sông Giođan. Để chuẩn bị ra gặp loài người, Đức Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Đức Giêsu chưa cảm thấy mình gần gũi với nhân loại. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người dìm mình xuống dòng sông Giođan, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi những gì ngăn cách để Người thực sự là một người anh em của mọi người.
Dòng nước Giođan dù có trong xanh đến mấy cũng không đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhường là một phép rửa, vì khiêm nhường là tự quên mình, là chết đi một chút. Dìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi.
Người ta thường nói: "Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu". Bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đó là: "sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt, và đó là sự khiêm nhường hòa mình vào đoàn lũ những tội nhân". Đến dìm mình trong dòng sông Giođan, tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xóa đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi chúng ta. Nếu chúng ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần phải được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến lên lãnh nhận phép rửa của Đức Giêsu, để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Đức Giêsu, ta vẫn có thể thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối.
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về với Cha, sống trọn tâm tình của người con hiếu thảo. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói với ta như nói về Đức Giêsu: "Đây là con Ta yêu dấu. Ta hài lòng về con".
Lạy Đức Giêsu! xin giúp chúng con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.
Câu chuyện sau đây xảy ra vào thời Giáo Hội bị cấm cách tại một địa phương truyền giáo. Hôm ấy trong một nhà nguyện chặt ních người dự lễ, khi thanh lễ vừa mới bắt đầu. thì một người lính trang bị đầy đủ vũ khí xuất hiện ngay trước cửa của nhà nguyện khiến mọi người hết sức lo sợ. Vị linh mục bình tĩnh, ngài quay ra nhìn người lính. Anh ta cảm thấy một sức hút kỳ lạ, anh mỉm cười và làm dấu thánh giá. Hiểu ý, vị linh mục gật đầu mỉm cười và quay vào bàn thờ để tiếp tục thanh lễ. Dấu thánh giá chứng tỏ rằng anh lính đó là người có đạo, là người công giáo.
Nhiều lần chúng ta dùng nước phép để làm dấu thánh giá. Nghi thức này có nhiều ý nghĩa. Trước hết nó nhắc nhở cho chúng ta việc Đức Kitô bước xuống sông Giođan, cũng như bí tích Rửa Tội, nhờ đó chúng ta được gia nhập cộng đoàn dân Chúa, là Giáo Hội. Đồng thời còn nói lên việc thanh tẩy tâm hồn để được xứng đáng tiến đến với Chúa. Ngoài ra nó còn nhắc nhở chúng ta hãy loại bỏ những chia trí, những cám dỗ của thế gian để được thuộc hẳn vào Chúa. Hơn thế nữa nó còn cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá vì tất cả chúng ta, người ngay lành thánh cũng như kẻ tội lỗi.
Mỗi khi làm dấu thánh giá, thì niềm tin của chúng ta được củng cố. Niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Dấu thánh giá còn tỏ ra sự dâng hiến hồn xác con người để phụng sự Chúa. Nó là lời tuyên xưng thật đơn sơ, nhưng lại vô cùng đẹp đẽ. Nó chứng tỏ chúng ta là người công giáo.
Cũng như người lính trong câu chuyện đã làm dấu thánh giá để tỏ ra anh là người công giáo. Đối với anh lính đó, cũng như đối với chúng ta, dấu thánh giá chứng tỏ rằng chúng ta là thành phần của một cộng đoàn, được tụ hợp để thờ phượng Thiên Chúa.
Ngay khi được mai táng với Đức Kitô trong bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng được sống lại với Ngài. Sự chết và phục sinh của Ngài được làm lại mỗi ngày trong thánh lễ. Rồi trước khi ra về, chúng ta cũng làm dấu thánh giá để được thêm sức mạnh, để được khích lệ hầu sống xứng đáng là những chứng nhân Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Chính vì thế, với những ý nghĩa phong phú kể trên, chúng ta hãy làm dấu thánh giá cho trang nghiêm và sốt sắng. Đồng thời chúng ta hãy ý thức rằng thánh giá là dấu chỉ của một tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta, như lời thánh Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Tội lớn nhất và để lại hậu quả ghê gớm nhất là tội kiêu căng.
Vì sao Luxiphe và một số Thiên Thần trở thành Ma Quỉ trong Hoả ngục? Do kiêu căng mà ra. Tại sao loài người phải đau khổ và phải chết? Cũng phần lớn do kiêu căng mà ra! Tại sao có chiến tranh và hận thù? Vì có một số người tự đề cao mình, muốn người khác phục tùng sức mạnh và nguyên tắc của nhóm mình lãnh đạo. Một cách nào đó cũng là muốn tỏ khả năng của mình ra và bắt người khác phải nể phục.
Chính sự kiêu căng dẫn đến đau khổ và chết chóc. Vì vậy, Thiên Chúa đã đến trong thân phận khiêm tốn để giải thoát loài người đang đắm chìm trong ảo vọng. Ngài là Thiên Chúa quyền phép vô cùng mà đến trần gian mang thân phận như một người tôi tớ. Ngài không dùng quyền thống trị mà dùng trái tim nhân từ, thương xót đối với mọi người, kể cả kẻ có tội. Người không bẻ gẫy cây lau bị giập. Cây lau có giá trị gì mà Ngài lại đối xử nhân từ với nó như vậy, nhất là khi nó đã giập rồi. Chúa đối xử với loài người cũng như vậy đó. Loài người đáng là chi mà Chúa để ý chăm nom, nhất là khi loài người nhiều lần chống lại Chúa, đáng bị phạt, đáng tội chết. Vậy mà Chúa lại nương tay và còn đến nâng đỡ dậy nữa. Dân Do Thái bao nhiêu lần lỗi phạm mà Chúa không loại trừ họ. Ngài thật là kiên nhẫn. Thay vì xử phạt loài người, Chúa đến lãnh lấy án phạt đó. Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô tự nguyện đứng vào hàng ngũ tội nhân dù Ngài vô tội. Tội tày đình của con người Chúa lãnh thay. Điều này vượt quá mong đợi của loài người khiến cho thánh Gioan Tẩy Giả không hiểu. Chúa sai Gioan Tẩy Giả đến sông Giođan kêu gọi dân chúng sám hối và làm phép rửa cho kẻ có tội, bây giờ chính Chúa lại nhờ ông làm cử chỉ đó cho Ngài! Làm sao Đấng trong sạch đến rửa tội cho nhân loại lại xin lãnh phép rửa dành cho tội nhân được? Hành động của Thiên Chúa vượt quá suy nghĩ của Gioan Tẩy Giả và của loài người. Việc chịu phép rửa của Chúa Giêsu là việc làm biểu lộ tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chúa lãnh án phạt dành cho loài người. Tội của loài người Chúa đền thay, cái chết do ông bà nguyên tổ gây cho nhân loại Chúa lãnh dùm. Còn gì hạnh phúc hơn cho loài người chúng ta. Chính Chúa đã hạ mình đứng chung với tội nhân và xin nhận phép rửa. Chính lòng khiêm tốn của Chúa có sức đền bù tội kiêu căng của loài người chúng ta.
Loài người cho rằng mình giỏi, chinh phục được thiên nhiên. Tuy chúng ta luôn có những khám mới, đạt được nhiều thành tựu đáng hoan nghênh. Nhưng thử hỏi chúng ta đã chinh phục bao nhiêu rồi. Trong vũ trụ có cả trăm tỉ hệ mặt trời, chúng ta đã vượt ra khỏi Thái Dương Hệ của mình hay chưa để đi chinh phục vô số hệ mặt trời khác.
Chỉ vấn đề động đất và tuyết rơi mà loài người cho rằng mình kiểm soát được, nhưng thực tế cho thấy là nhiều lúc chúng ta chưa ngăn ngừa được hậu quả. Điều này cho thấy sức loài người kém cõi, giới hạn. Dù thời nay mệnh danh là thời đại văn minh của khoa học kỹ thuật, vậy mà những gì chúng ta chinh phục được cũng chưa đáng là gì so với những kỳ bí của vũ trụ. Chúng ta vẫn phải tiếp tục khám phá để biết nương theo qui luật của thiên nhiên mà tồn tại chứ không thể bắt nó theo ý mình được.
Ước chi loài người biết khiêm tốn hơn để hiểu được chính mình, hiểu biết Chúa, hiểu được giới hạn của khoa học và tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Xin mỗi người biết nhìn nhận tội mình, và trông cậy vào tình thương cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Người đã giáng thế để lãnh tội thay cho nhân loại, để những ai tin vào Người thì được Nước Thiên Đàng làm gia nghiệp.
Chúa Giêsu chịu thanh tẩy hẳn không phải là để thú nhận tội lỗi. Tin Mừng cho thấy: Là người Do Thái, Chúa Giêsu đã giữ trọn tất cả những gì lề luật đòi hỏi nơi một người Do Thái. Sinh ra được 8 ngày, Ngài đã chịu phép cắt bì. Rồi khi đã đủ ngày, Ngài được dâng tiến cho Thiên Chúa tại đền thờ. Và năm 12 tuổi, Ngài đã theo cha mẹ đi Giêrusalem vào những dịp lễ lớn. Vì thế, chúng ta cũng không ngạc nhiên khi Chúa Giêsu xuất hiện bên bờ sông Giođan để chịu phép rửa.
Tuy nhiên, đọc lại Tin Mừng chúng ta có thể nhận ra điều này là tuy tham dự tất cả những nghi lễ theo luật dạy, nơi Chúa Giêsu vẫn có một cái gì khác, vượt ra ngoài điều các nghi lễ muốn ám chỉ, khiến cho những nghi lễ ấy có một cái gì mới mẻ hơn, hoàn thiện hơn.
Chẳng hạn khi Ngài chịu cắt bì và được đặt tên. Nhưng tên được đặt cho Ngài lại là tên do thiên thần gọi trước khi Ngài đầu thai trong lòng mẹ. Khi tiến dâng nơi đền thờ, Ngài đã được đón chào như ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Hiện tượng vượt khung này lại càng tỏ rõ hơn qua việc Chúa chịu phép rửa ngày hôm nay. Thực vậy Tin Mừng cho chúng ta thấy có sự tương phản giữa Gioan và Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là người đến sau nhưng lại là người quyền thế hơn, mạnh sức hơn. Còn Gioan người đi trước thì chỉ là kẻ tôi tớ, không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài. Việc thanh tẩy của Gioan chỉ là một thứ thanh tẩy bằng nước, trong khi đó việc thanh tẩy của Chúa Giêsu lại chính là thanh tẩy bằng Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, chóp đỉnh của sự kiện này đó là việc giới thiệu Chúa Giêsu, Đấng vừa chịu phép rửa, là Con Thiên Chúa, Đấng sẽ đến để cứu chuộc nhân loại. Đúng thế, công cuộc cứu chuộc không thể được hiểu như một cái gì có thể đạt được qua công nghiệp, nhưng qua cuộc sống. Chúa Giêsu đã sống ơn cứu chuộc nơi mình Ngài. Bởi đó, Ngài đã xuống sông Giocđan như mọi kẻ tội lỗi khác, nhưng lại với tính cách là Con Thiên Chúa. Cả cuộc hành trình cứu chuộc được thu gọn lại nơi việc Chúa Giêsu chịu thanh tẩy.
Sở dĩ như vậy là vì các chi tiết trong việc thanh tẩy đã gợi lại những gì diễn ra trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu: Ngài xuống dưới nước như xác Ngài bị chôn trong mồ. Trời mở ra như bức màn của đền thờ bị xé. Thánh Thần đáp xuống với tiếng từ trời phán ra gợi lại việc Chúa phục sinh, ngự bên hữu Đức Chúa Cha và sai Chúa Thánh Thần xuống.
Với chúng ta cũng vậy, là người Kitô hữu, chúng ta đã được chịu phép thanh tẩy, không phải bởi tay Gioan, nghĩa là bằng nước, mà từ sự chết và sống lại của Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Phép thanh tẩy này không chỉ là một nghi lễ tẩy sạch tội tổ tông, mà còn là một biến cố mở đầu cho một cuộc hành trình, hay nói đúng hơn, một cuộc đấu tranh và chiến thắng tội lỗi. Như thế, con đường cứu rỗi là một sự lựa chọn dứt khoát: chọn Thiên Chúa thay vì ma quỷ, chọn điều thiện thay vì điều ác. Phép thanh tẩy như thế không phải chỉ là một bí tích được chịu một lần rồi thôi, mà còn là chính cuộc sống người Kitô hữu nữa.
Trong những lần xem Tivi, chắc anh chị em không khỏi khó chịu vì những chương trình quảng cáo. Nó cứ làm cho thời gian phải dài ra, nó cứ làm cho những cuộc vui phải bị gián đoạn. Nhưng vì nhu cầu, nên những người làm chương trình không thể đáp ứng đúng với những gì mà mọi người đòi hỏi được.
Có một lần đang chương trình quảng cáo, bỗng dường như có một lời nhắc nhở, vì hiện nay có những người đi khuyến mãi cho mặt hàng đang quảng cáo, nhưng bổn hiệu không có nhờ đến họ, mà họ tự động đi chào hàng. Họ đi giới thiệu mặt hàng không biết xuất xứ từ đâu, nhưng lại mang nhãn hiệu đã được quảng cáo. Nếu ai thông báo để loại trừ được những hành động như thế sẽ được thưởng.
Tôi chợt giật mình và nhớ lại: có rất nhiều người đi giới thiệu sản phẩm, nhưng không biết họ có được chuẩn nhận hay không, hay họ chỉ làm việc theo ý riêng để tìm lợi lộc cá nhân, bất chấp những thiệt hại cho người khác. Nếu như thế họ không bao giờ làm vui lòng ai được, vì họ không mang lợi ích cho mọi người.
Nầy là Con Yêu Dấu của Ta, Con đẹp Lòng Ta.
Tíếng từ trời phán ra, để chuẩn nhận cho sứ mạng Thần Linh mà Chúa Giêsu đang thực hiện. Ngài đến với Gioan, nhưng ông nầy ngần ngại, vì thấy điều nghịch lý. Chúa Giêsu nhắc nhở: "chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế". Gioan cũng đã chu toàn bổn phận, chu toàn những gì mà ông đã được sai đi để thi hành, chu toàn để giúp đỡ cho người khác và mang ích lợi cho nhiều người. Chính vì chu toàn trong vâng phục mà ông chứng kiến được sự chuẩn nhận từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng chu toàn sứ mạng trong sự vâng phục, mà sự chuẩn nhận cách long trọng đã được thực hiện.
Nầy Là Con Yêu Dấu Của Ta, Con Đẹp Lòng Ta.
Một lời chuẩn nhận long trọng cho người biết thi hành cách chu đáo sứ mạng được trao. Thi hành sứ mạng trong vâng phục hoàn toàn, để mang lợi ích và niềm vui cho mọi người.
Mỗi người trong chúng đã được trao một sứ mạng. Mỗi người cũng đang thực hiện sứ mạng mà mình đã lãnh nhận. Nhưng chúng ta đang thực hiện sứ mạng với sự vâng phục, để chu toàn cách trọn vẹn hầu mang ích lợi và niềm vui cho nhiều người. Hay chúng ta đang thi hành sứ mạng để tìm những gì cho bản thân riêng tư? Mỗi người để một chút suy tư, để một ít phút để nhìn lại những việc làm đã qua, chúng ta sẽ nhìn thấy được mục đích của cuộc sống, qua đó chúng ta nhận thức được chúng ta đang thi hành sứ mạng cho ai, cho chính mình hay cho Thiên Chúa.
Nếu chúng ta nhìn thấy trong cuộc sống mà bao nhiêu người phải run sợ hay e dè khi nhìn thấy mình. Nếu chúng ta chỉ biết tranh đấu để cho mình được lợi, còn người khác thì không cần biết đến. Nếu chúng ta chỉ biết làm cho thỏa mản những gì mình suy tính mà không cần biết lắng nghe để phân biệt phải trái, tốt xấu. Đó là chúng ta đang thi hành sứ mạng cho bản thân mình. Nếu như thế chúng ta cũng đang trong tình trạng bị những lời khuyến cáo để loại trừ ra khỏi cuộc sống. Khi đó chúng đang thi hành sứ mạng nhưng không được trao ban, mà chúng ta chỉ là một tên giả hiệu, chỉ đội lớp bên ngoài và giả danh chứ thật sự thì hoàn toàn khác.
Có những lần, chúng ta nhìn thấy uy tín của mình bị tổn hại vì một lý do nào đó, mà biết chấp nhận không than phiền, hay tìm cách đòi hỏi phải đền bù xứng đáng cho thỏa mãn tính kiêu căng. Nếu có lần chúng ta nhìn thấy quyền lợi của mình bị chạm đến, của cải riêng tư phải bị tốn hao vì người khác, mà chúng ta biết vui lòng cho đi. Có những lần chúng ta bị tủi nhục dường như không chỗi dậy được, hay bị những hiểu lầm đáng tiếc mà không thể biện minh. Nếu chúng ta biết chấp nhận những điều đó vì lợi ích chung, nếu chúng ta biết chấp nhận vì nhìn thấy Thánh Ý Chúa để rồi vâng phục cách trọn vẹn. Lúc đó chúng ta cũng nhận được lời tuyên bố long trọng: "Đây là Con Yêu Dấu của Ta, con đẹp lòng Ta".
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết trung thành trong Ơn Chúa, để biết lắng nghe và thi hành trọn vẹn những điều Chúa truyền dạy.
Qua phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta nhận thấy quy tụ nơi Đức Kitô hai thái cực đối nghịch nhau, đó là thánh thiện và tội lỗi. Thực vậy đã gọi là thánh thiện, thì phải tách biệt khỏi tội lỗi. Đây là một quan niệm bình thường mà những người biệt phái vốn dĩ luôn ý thức và thực hiện. Tự nhận mình là hàng đạo đức, họ luôn tránh xa phường tội lỗi.
Thế nhưng, nơi Chúa Giêsu thì lại khác, chính sự thánh thiện đã đưa Ngài đến gần với tội nhân, thay vì xa tránh và kết án họ. Chúng ta không thể nào dùng lề luật hay luân lý để cắt nghĩa thái độ ấy, chỉ có tình thương mới khả dĩ đem lại cho chúng ta lời giải đáp thoả đáng.
Đúng thế, nơi Chúa Giêsu chúng ta luôn luôn nhận thấy những thái độ dường như trái ngược nhau, đối kháng nhau. Người là nhà làm luật khắt khe nhất, đến nỗi đòi phải huy diệt phần thân thể nào gây nên dịp tội và chỉ cần một ánh mắt không thanh khiết cũng đã đủ làm nên tội lỗi. Đàng khác, xem ra Người lại xuất hiện như một nghệ sĩ phóng khoáng nhất, bất chấp lề luật, đến nỗi được xếp hàng ngang với quân thu thuế và tội lỗi. Chỉ có tình yêu mới lý giải được những mâu thuẫn, vì tình yêu thì bao dung nhân hậu, nhưng đòi hỏi của tình yêu lại là đòi hỏi tuyệt đối.
Nếu Thiên Chúa quyền năng đã chọn con đường yêu thương để đến với con người và giải thoát họ, thì chúng ta cũng phải xác tín rằng tình yêu là sức mạnh duy nhất có thể cứu vớt con người cách toàn diện và sâu xa nhất, cho dẫu tình yêu ấy xuất hiện trong dáng vẻ yếu đuối và thất bại. Người Kitô hữu phải là người làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa, nếu chưa được bằng một cuộc sống thánh thiện, thì ít nữa cũng bằng niềm cậy trông ngay giữa những khốn khổ và yếu đuối của mình.
Tôi là kẻ tội lỗi, chẳng thánh thiện hơn ai, nhưng tôi nhận biết rằng: Thiên Chúa đã yêu thương tôi ngay trong cảnh đời tội lỗi của tôi, và tình thương của Ngài thì lớn hơn mọi tội lỗi tôi có thể vấp phạm. Chỉ cần tôi nắm lấy bàn tay Ngài đang vẫy gọi là tôi sẽ được thứ tha. Bằng một cuộc sống bác ái, chúng ta làm chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa để rồi Ngài cũng sẽ nói với chúng ta: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Mỗi khi có dịp xem lại những bộ phim tường thuật lại cuộc đời sứ vụ của Đấng Cứu Thế, tôi luôn cảm thấy gai người, cảm thấy lạ lùng, cảm thấy hạnh phúc, khi thấy Đấng Cứu Độ thong thả hòa mình cùng đoàn người nhấn mình vào dòng sông Gio-đan để đến cùng vị Tiền Hô, bày tỏ lòng sám hối về những lầm lỗi trong quá khứ của mình. Một hình ảnh cảm thông và đồng hành quá đẹp! Một hình ảnh sẻ chia và nâng đỡ, mà trước đó chưa từng có, và mãi mãi ngàn sao cũng không thể tìm! Một hình ảnh khởi báo cho dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” mà thánh sử Luca sẽ ghi lại sau này (Lc 15,11-32) để tôi hiểu được: Chúa không chỉ diễn tả lòng yêu thương của Đấng Tạo Thành dành cho nhân loại bằng lời, mà Ngài còn thể hiện lòng yêu thương ấy bằng cách đến với, ở với và sống với thụ tạo mà Ngài yêu thương nhất qua hành động cụ thể, rõ ràng và thiết thực nhất. Một bài học sống động hình thành trọn vẹn Giới Luật Yêu Thương.
Không chỉ có thể, đọc lại trình thuật của thánh sử Matthêu ghi lại quang cảnh trên (Mt 3, 13-17), chính thái độ đối đáp giữa đôi anh em bạn dì, nơi mà mỗi vị điều mang một sứ vụ rất đặc biệt trong Chương Trình Cứu Độ mà Thiên Chúa đã trao ban, Hai Đấng đã giúp tôi hiểu ra nhiều điều mà lâu nay tôi vẫn lầm lẫn trong đời Sống Đạo của mình.
I. Giữ luật Giáo Hội là sống đúng theo Thánh ý Chúa:
Đấng Cứu Thế tự nguyện đến gặp vị Tiền Hô để xin ông làm phép rửa cho mình với lời khẳng định: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3,15). Một Đấng toàn thiện toàn hảo! Một Đấng trong trắng vẹn tuyền! Một Đấng không chút ô nhơ! Vậy mà Người chấp nhận phép rửa sám hối của Gioan Tiền Hô để trở nên “người công chính” đúng nghĩa của nhân gian: giữ và sống đúng luật mà Thiên Chúa đã mách bảo, đã hướng dẫn, đã quy định cho các tổ phụ từ ngàn xưa. Vậy mà tôi…
- Khi thấy luật Giáo Hội có lúc không giống như ý mình muốn! Có lúc không hợp với cung cách sống của mình! Có lúc như rào cản làm mình không thể thực hiện sự tự do theo quan niệm cá nhân! Tôi đã vội trách Chúa, lên án Giáo Hội, và lắm khi còn lăm le trở thành đối nghịch nữa!!! Thật đáng thương nhưng cũng đáng sợ cho cách sống đạo của tôi. “Chiến thắng chính mình”! quả không phải lúc nào cũng dễ!
- Nhìn lại quá khứ sống đạo của bản thân, tôi mới thấy thấm thía cho sự bộp chộp, nóng vội của mình vì cạn nghĩ, vì không thấm sâu lời Chúa, vì tầm nhìn chỉ đóng khung trong tính tự ái cao ngạo của mình! Từ đó lắm khi chính tôi đã tự đẩy mình ra khỏi dòng nước tái sinh mà chính Chúa đã làm mẫu mực để tôi biết sống vâng phục hơn, để đời tôi được thanh thản hơn, để dòng nước Gio-đan thánh thiêng giúp tôi gội sạch ý mình đúng như ý Chúa hơn!
II. Giữ luật Giáo Hội là cùng Chúa đến với tha nhân:
Khung cảnh Chúa Giêsu trầm mình dưới làn nước trong xanh của sông Gio-đan qua sự tuân phục của vị Tiền Hô khi cử hành nghi thức sám hối đã đưa tôi đến sự cảm phục cả hai Đấng: tất cả ý riêng đã được gạt hẳn một bên để ý Thiên Chúa Cha được thể hiện trọn vẹn. Dòng nước không chỉ ôm lấy Đấng Cứu Độ, Đấng Tiền Hô, mà còn mở rộng, ôm hết tất cả những ai thành tâm đến với nó. Tình liên đới của Hai Đấng đã giúp tôi hiểu được một điều: Chúa muốn tôi nổ lực thoát vòng kiềm chế của sự ác. Sự nỗ lực ấy luôn được sự cổ vũ, sự đồng hành, sự đỡ nâng của Người trên mọi nẻo đường đời, bởi Chúa vẫn biết: tâm nguyện thì thiện hảo nhưng thân xác lại bất toàn. Chuyện đứng lên lại vấp té dúi dụi trên con đường lữ hành là chuyện thường tình. Điều quan trọng là tôi có dám đứng lên để tiếp tục đi nữa hay không thôi!
Có vấp ngã, có té trợt, có bưu đầu sứt trán, tôi mới dễ cảm thông với sơ suất của người khác. Tôi mới có thể tự nguyện hòa mình vào dòng nước mát để đến với họ hầu giúp nhau gội sạch bụi trần: “Người là Cha giàu lòng lân ái, và Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ, ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm vào cảnh gian nan khốn khó” (2 Cr 1,3-4). Hình ảnh tự nguyện, hình ảnh vâng phục, hình ảnh đồng hành của Đấng Cứu Độ đã soi rọi cho tôi rất là nhiều điều, để: TRÍ của tôi được sáng suốt hơn! TÂM của tôi được mở rộng hơn! Ý của tôi được đúng đắn hơn! Dòng sông nội tâm sẽ giúp tôi hiểu được tình Chúa đang dành cho tôi, và sự mát mẻ thần thiên ấy Chúa muốn tôi cùng Chúa chuyển đến cho bất cứ ai mà tôi có dịp gặp gỡ trên đường đời: một lời chào thân mật! Một nụ cười thân thiết! Một nghĩa cử thân quen! Tình yêu của dòng Gio-đan năm ấy, Chúa muốn tôi chuyển tải trọn đời…
Bây giờ tôi đã hiểu: bao lâu tôi còn đắm mình trong dòng sông hạnh phúc với Chúa, dù nhớp nhơ vẫn chưa tẩy sạch, bởi lâu ngày chày tháng rong rêu phủ đầy, tôi vẫn được bình an và hạnh phúc! Bởi vì chính Chúa, phải chính Người đang đích thân kỳ cọ, tắm rửa cho tôi! Hạnh phúc thật giản đơn! Mãi tới giờ này, vẫn có người sao vẫn chưa tìm thấy? Bởi tại ai?
Hôm nay chúng ta bước sang giai đoạn I của mùa Thường Niên trong năm Phụng vụ 2020. Mùa Thường niên giới thiệu cho chúng ta suy niệm kỹ hơn về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Tình yêu ấy được thực hiện trọn vẹn nơi Chúa Giêsu - Con Một yêu dấu của Chúa Cha. Trước khi công khai ra đi loan báo Tin mừng, Chúa Giêsu đã lãnh nhận phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả. Biến cố này cho thấy Chúa Giêsu bắt đầu thực hiện ý định của Chúa Cha từ ngàn đời. Đó là đem ơn cứu rỗi đến cho loài người.
Tiếng Chúa Cha từ trời phán: "Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người". (Mt 3, 17b) nhằm xác định vị thế thật của Chúa Giêsu. Là Con Một Chúa Cha hằng sống nhưng giờ đây Chúa Giêsu đã tự nguyện sống trong thân phận con người yếu đuối ngoại trừ tội lỗi. Người đã hòa mình với mọi người để đón nhận phép rửa của Gioan. Chính điều đó đã làm vui lòng Chúa Cha.
Không phải chỉ hôm nay mà trọn cả cuộc đời của mình, Chúa Giêsu đã luôn vâng phục trọn vẹn theo thánh ý Chúa Cha. Có lần Người đã nói với các môn đệ: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người" (Ga 4, 34). Ý muốn của Chúa Cha là đem ơn cứu chuộc đến cho con người. Bởi vì Người thấy con người đang phải sống trong cảnh lầm than khốn khổ do tội lỗi mình gây nên.
Trong việc thi hành ý muốn của Chúa Cha nhiều lúc Chúa Giêsu phải chịu bị người ta hiểu lầm. Thấy Chúa Giêsu hòa mình với những người thu thuế và những người tội lỗi thì bị một số người cho Người chính là "tay ăn nhậu" (Mt 11, 19). Người đã thực hiện lời tiên tri Isaia loan báo về người tôi trung của Thiên Chúa: "Cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi" (Is 42, 3).
Không chỉ bị người ta hiểu lầm mà Chúa Giêsu còn phải chịu bao điều thiệt thòi và đau đớn về mình. Trong vườn Cây Dầu đứng trước cái chết sắp đến Người đã thưa cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha." (Mt 26, 39).
Tất cả chỉ vì thương con người nên Chúa Giêsu đón nhận thánh ý Chúa Cha một cách vui vẻ. Đó là của lễ làm đẹp lòng Chúa Cha nhất. Bởi lẽ máu chiên bò và của lễ toàn thiêu Cha không ưng nhận. Cha chỉ nhận những ai biết thi hành thánh ý Cha thôi. (Dt 10, 6 - 9)
Nhờ vâng theo thánh ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta. Trước hết chúng ta hãy cảm tạ Người với lòng cảm mến sâu xa nhất. Tâm tình cảm tạ đẹp nhất là chúng ta noi gương bắt chước Người mà luôn biết thi hành thánh ý Chúa Cha trong đời sống của mình.
Thật, người ta khó tìm trong Tân Ước tâm tình sám hối, ít nhất là cách thể hiện bề ngoài, của những người Pharisêu và các Kinh sư. Có một trường hợp hiếm hoi khi nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xa-đốc, hòa vào dòng người đông đảo từ nhiều nơi, cùng đến xin chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả ở sông Gio-đan, nhưng những người Pharisêu này chẳng những bị ông từ chối làm phép rửa sám hối cho họ, mà còn hơn thế nữa, ông đã lên án nặng nề thái độ của họ, vì cho rằng họ chỉ là những kẻ giả hình.
“Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: ‘nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng tưởng có thể nghĩ bụng rằng: chúng ta đã có tổ phụ Ápraham. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham. Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt.3,7-10).
Thái độ ỷ lại vào Ápraham mà Gioan đề cập, đã có nhiều người suy gẫm đến thái độ của những người đã được Rửa Tội, đã có Đức Tin Công Giáo đạo giòng, hay, đã là Kitô hữu. Hơn thế nữa, là tu sĩ, Giáo sĩ, những nhà Tu Đức thông thái...
Một sự ỷ lại vào “cội nguồn” như vậy, nghe có vẻ chắc chắn, nhưng rõ ràng, rất nguy hiểm, dễ đưa con người đến sự trống rỗng bề trong, “hữu danh vô thực”!
Chuyện Đời cũng thế, biết bao người “con ông cháu cha”, ỷ lại vào bề thế “gia phả”, “lý lịch”, “cái ghế” của cha ông, làm sụp đổ cả đời, có khi làm liên lụy, lung lay cả gốc rễ mình nương tựa!
Ngày xưa còn đi học, nhớ trong lớp có một thằng bạn du côn lắm, nó đánh lộn 6 lần, mà vẫn không bị đuổi học, vì nó là “con” một ông Cha giáo. Nó thông minh và học giỏi, nhưng sự ỷ lại vào bố nuôi của nó đã làm hỏng ước nguyện của nó. Nó không thể sửa đổi tính tình của nó.
Sự ỷ lại vào người khác làm mất sự phát huy tiềm năng của bản thân mình. Đó là loại cây không còn khả năng sinh hoa trái tốt. “Không ai là hoàn thiện”. “Nhân vô thập toàn”. “Bảy mươi chưa gọi mình lành”. “Sai lầm là thường tình của con người”. Sự ỷ lại dễ đưa người ta đến sai lầm và không biết ăn năn sám hối. Người Pharisêu là một thí dụ. Con người không biết sám hối, không thể thăng tiến được. Lòng sám hối đem lại hoa quả xứng đáng cho con người. “Hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối”. Sám hối không phải là nghi lễ bên ngoài, mà là hành động ở bên trong. “hãy xé lòng chứ đừng xé áo”.
Biết hối hận, ăn năn, con người sẽ làm những điều lành để phục thiện, từ đó, cây sẽ lại sinh hoa kết trái. Ngược lại, con người lún sâu trong lầm lỗi, lấy điều dữ làm lẽ sống, như cây không còn có khả năng sanh quả lành trái ngọt. Lúc ấy “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt.3,10).
Khi đó, dù là Abraham có muốn cứu giúp, cũng chẳng thể nào được.
“Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ lên lưỡi con cho mát, vì ở đây, con bị lửa thiêu đốt khổ lắm! Ông Ápraham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc.16,24-26).
Niềm tin vào Giêsu.
Cũng tự xếp vào hàng những người tội lỗi, Chúa Giêsu đến với Gioan để chịu phép rửa sám hối. Gioan cũng từ chối không chịu thực hiện phép rửa cho Chúa Giêsu, nhưng không phải từ chối vì Chúa Giêsu không thật lòng sám hối, như đã từ chối đối với Pharisêu và Xa-đốc, nhưng vì Ngài không có gì để sám hối. Ngài là Đấng Thánh. Gioan còn khẳng định: chính ông mới là người cần được Chúa Giêsu làm phép rửa. “Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" (Mt.3,13-14).
Chúa Giêsu không chịu phép rửa sám hối vì bản thân mình - “Ngài xuống thế mang thân phận hoàn toàn như con người ngoại trừ tội lỗi” – nhưng, vì thân phận tội lỗi của nhân loại mà Ngài tự nguyện gánh lấy. Ngài chịu dìm mình xuống sông Gio-đan thay cho con người để rồi sẽ chết thay cho con người và rửa sạch tội trần gian bằng dòng máu hiến tế của Ngài. Ngài là Đấng Cứu Thế. “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga.1,29).
Tất cả nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và chương trình cứu độ ấy được mạc khải tỏ tường sau khi “Thiên-Chúa-làm-người” chịu trầm mình dưới sông Gio-đan vì nhân loại.
“Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." (Mt.3,16-17).
Sự hài lòng của Thiên Chúa là vì con Thiên Chúa đã vâng phục theo thánh ý Chúa Cha. "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." (Mt.3,17).
Chúng ta hạnh phúc biết bao nếu một ngày nào ta gọi Thiên Chúa là Cha: “Cha ơi!”, và được Ngài đáp lại bằng lời khen ngợi âu yếm ngọt ngào: “Con là con yêu dấu của Ta, ta hài lòng về con”.
Ước mơ ấy đòi hỏi ta đi theo con đường Chúa Giêsu Kitô. “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống”. (Ga.14,6).
Đi trọn con đường đó, ta được Chúa Kitô thánh hiến và trở nên là đứa con đẹp lòng Thiên Chúa. “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga.17,18-19).
Đi trọn con đường đó là con đường khiêm hạ theo Chúa Giêsu từ sự nghèo nàn cùng cực ở Hang Đá Bê-lem đến sự nhục nhã tận cùng trên Thập Giá đồi Can-vê.
Đi trọn con đường đó là con đường yêu thương phục vụ từ cúi xuống rửa chân cho các môn đệ đến hiến mạng sống vì người mình yêu.
Không thể đi con đường đó nếu con người không biết khiêm nhường, hạ mình, theo gương Đấng Cứu Thế.
Nói như cách nói của ĐHY Nguyễn Văn Thuận “Không một thánh nhân nào không có một quá khứ, vì thế, chẳng có một tội nhân nào mà chẳng có một tương lai”.
Quá khứ để biết ăn năn, và tương lai để có niềm hy vọng.
Ăn năn trong niềm tin yêu, chứ không phải ăn năn trong sợ hãi.
“Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt, và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga.4,18).
Hy vọng vào chân lý vững chắc chứ không phải hy vọng mơ hồ.
“Tôi biết tôi đã tin vào ai và xác tín rằng: Đức Kitô là vị thẩm phán chí công có đủ quyền năng bảo toàn Giáo lý đã được giao phó cho tôi. Mãi cho tới ngày Ngài ngự đến” (2Tm 1,12; 4,8).
Tương lai ấy là Thiên Đàng Hạnh Phúc, nếu chúng ta chung thủy đến cùng đối với Tình Thương đến cùng của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
“Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loại thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta. (Rm.8,38-39).
Lạy Chúa Giêsu, Xin nâng đỡ con, để con được luôn gần gũi Chúa, để con được hồn nhiên gọi Chúa là Cha, và được Chúa ôm vào lòng trìu mến: “Con là con yêu dấu của Cha!”. Amen.
Việc Chúa Giêsu xếp hàng chung với những người khác đến xin Gioan làm phép rửa khiến cho Gioan cảm thấy ngỡ ngàng. Theo ông, đó là chuyện ngược đời, nên ông lên tiếng can ngăn Đức Giêsu. Giờ đây, suy gẫm về đoạn Tin mừng này, chúng ta cảm thấy thắc mắc và khó hiểu về quyết định của Chúa Giêsu khi Ngài đến xin Gioan làm phép rửa cho Ngài. Ta đặt câu hỏi: Chúa Giêsu có cần thiết để làm như thế không? Ngài có tội lỗi gì mà cần đến phép rửa cầu xin ơn tha tội? Nhưng việc Đức Giêsu đến với Gioan để xin ông làm phép rửa cho Ngài mang nhiều ý nghĩa thâm sâu. Giờ đây, chúng ta nhắc đến 2 ý nghĩa chính yếu này.
1. Dấu chỉ của sự tự hiến:
Tin mừng thuật lại là Chúa Giêsu rời bỏ xứ Galilê mà đến với Gioan ở sông Giođan để ông làm phép rửa cho Ngài. Đây là quyết định mang tính dứt khoát và tự nguyện của Chúa Giêsu để nói lên rằng, Chúa Giêsu xin chịu phép rửa của Gioan là một sự tự hiến chứ không phải là một sự đòi buộc do tội lỗi, vì Ngài là Đấng vô tội.. Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với tội nhân. Ngài muốn liên đới với tội nhân để cứu vớt chính những tội nhân ấy. Ý nghĩa tự hiến nằm ở nơi đây. Khi Ngài tự ý liên đới mình với tội nhân, Ngài vừa cứu chữa họ, vừa giúp họ nhận ra chân lý quan trọng này là: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, đặc biệt là yêu thương tất cả những ai bị gạt bỏ bên lề cuộc sống, những ai biết hết lòng cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Có chuyện kể rằng: Một gia đình nọ có một đứa con trai duy nhất, nên cha mẹ câu hết lòng yêu thương câu và dành những gì tốt đẹp nhất cho cậu. Dù thế, người cha tỏ ra rất cứng rắn với những sai lỗi của cậu, và người mẹ cũng đồng tình với cách giáo dục đó. Một lần nọ, người con trai của họ vì ham chơi và bị bạn bè quyến rũ, cậu đã trốn học để ra ngoài bãi biển vui đùa và chơi bóng. Người cha biết chuyện không hay đó nên đã kiên quyết xử phạt người con trai rất yêu quí của mình. Ông quyết định để đứa con của mình phải trải qua một đêm trên một căn gác chật chội và nóng nực. Nhưng đêm hôm đó, người cha không tài nào chợp mắt được vì ông quá tội nghiệp người con của mình. Nửa đêm, ông quyết định lấy mền gối lên trên gác để ngủ với con trai của mình. Điều ngạc nhiên là khi ông leo lên tới căn gác thì đã thấy người vợ của ông đã ở đó với người con trai của họ từ hồi nào chẳng biết. Thế là 3 người cùng trải qua một đêm trên căn gác chật chội và nóng nực đó suốt đêm. Chỉ có đứa con phạm lỗi, nhưng 3 người cùng chịu phạt.
Chắc chắn đêm hôm đó là đêm đáng nhớ nhất của người con. Có lẽ, nó sẽ nhận ra tình yêu của cha mẹ nó dành cho nó lớn lao như thế nào. Người cha không bỏ hình phạt mà ông đã ra cho người con; bà mẹ cũng không xin ông tha phạt cho con vì họ muốn người con của họ ý thức hành vi lỗi phạm của mình. Nhưng khi người con bị phạt là cả nhả 3 người cùng chịu phạt. Câu chuyện trên cũng phần nào giúp chúng ta thấy được cách hành động của Thiên Chúa dành cho con người tội lỗi.
Trước lỗi phạm của con người, Thiên Chúa chắc chắn rất xót xa khi Ngài dùng cách thức này hay cách thức khác để sửa dạy họ. Nhưng không khi nào Thiên Chúa dứt tình với con người. Một khi đã làm điều gì rồi, thì Thiên Chúa làm cho tới nơi tới chốn. Một khi đã tạo dựng nên con người là tác phẩm yêu thương của Thiên Chúa, thì Ngài yêu họ đến cùng, dù họ có phản bội hay sai lỗi với Ngài. Thiên Chúa không bỏ rơi con người khi con người sa ngã, mà Ngài tìm cách để gần gũi con người hầu cứu vớt họ và giúp họ nhận ra tình thương của Ngài dành cho họ để họ sống tốt hơn và trung tín hơn trong mọi sự.
2. Nêu gương trong việc chu toàn Bổn phận:
Chu toàn bổn phận có nghĩa là làm cho nó nên trọn nghĩa. Sở dĩ, Đức Giêsu khi chịu phép rửa của Gioan để làm tròn bổn phận đó là vì Ngài vừa khiêm hạ vừa siêu thoát và muốn mặc cho Phép rửa một ý nghĩa tròn đầy. Ý nghĩa này được bày tỏ ra khi Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan: Trời mở ra, Thánh Thần Chúa ngự xuống và có tiếng từ trời phán ra: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta".
Chu toàn việc bổn phận là nên thánh. Không ai trở nên hoàn hảo và thánh thiện nếu không chu toàn việc bổn phận của mình. Van Kaan đã nói: "Việc đạo đức nhất là việc bổn phận. Tránh né việc bổn phận là tránh né Thiên Chúa".Mỗi người chúng ta đều có những cộng việc bổn phận nhất định. Cụ thể là bổn phận của ta đối với Thiên Chúa, đối với chính mình và đối với người khác. Hằng ngày, ta hãy xét mình theo những công việc bổn phận của mình để biết mình sống như thế nào trong ngày hôm đó.
Lúc còn bé, trong tư tưởng tôi không bao giờ chấp nhận hai hình ảnh trong Kinh Thánh mà tôi cho là lạ đời, trái ngược với cuộc sống đời thường. Hình ảnh đầu tiên là Chúa Giêsu mà lại đến xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Hình ảnh thứ hai lại càng làm cho tôi khó chấp nhận hơn. Đó là, Thầy Giêsu lại rửa chân cho các tông đồ học trò của mình. Sau này lớn lên tôi mới ngộ ra được, tình yêu mà Thiên Chúa dành cho con người qua những hành động mà ngày trước tôi cho là kỳ lạ đó, thì nay tôi mới cảm nghiệm được Đức Giêsu là người chấp nhận:
1. Sống với tội nhân.
Đức Giêsu đến trần gian để cứu chuộc nhân loại bằng con đường tự hạ, khiêm tốn. Ngài không hề cách xa trong hành động cũng như cách cư xử. Nhất là với tội nhân, Ngài không xem mình như một vị Thiên Chúa đến để xét xử, trừng phạt, mà Ngài đến cho họ được sống và sống dồi dào. Qua cử chỉ Đức Giêsu xin nhận phép rửa chứng tỏ Ngài không bao giờ muốn xa cách tội nhân, luôn tạo điều kiện cho tội nhân dễ gần bằng cách: "Vốn là Thiên Chúa, nhưng lại không coi mình ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại Người đã trút bỏ mọi vinh quang để mặc lấy thân phận nô lệ và trở nên giống một phàm nhân" (Pl 2,6). Nếu xét theo cái nhìn tâm lý thì Đức Giêsu là một nhà tâm lý đại tài, Ngài không để cho mình và tội nhân có một khoảng cách nào, nhưng Ngài kéo khoảng cách đó gần đến nỗi tội nhân có thể sống như một người bạn thật thân mật và gần gũi. Ngài cũng chấp nhận bị xã hội bỏ rơi, khinh khi nhục mạ như tội nhân. Ngài hoàn toàn giống họ chỉ trừ tội. Đức Giêsu là trung tâm điểm cho đời sống Kitô hữu, Ngài đã làm như thế, đã hạ mình như thế còn chúng ta thì sao? Trong cuộc sống xung quanh ta có nhiều người thánh thiện lắm! Đi lễ đọc kinh lần hạt mỗi ngày, dưới con mắt người đời họ là những người còn trên cả đạo đức. Nhưng đối với tội nhân thì họ lại tránh xa khinh miệt. Chính sự khinh miệt của ta làm cho người tội nhân không có thiện cảm, chính sự xa cách làm cho họ không thể đến gần. Ta và họ cùng sống trong một họ đạo mà như ở hai thế giới khác nhau. vậy, thì chúng ta là những người đã mặc lấy Đức Kitô thì chúng ta hãy nên giống Đức Kitô.
2. Yêu thương tội nhân.
Đức Giêsu đã tự hạ mình như một tội nhân, mặc dầu Người vô tội. Ngài đã chứng thực tình yêu của mình không phải bằng lời nói suông mà bằng chính cả cuộc sống, không hành động hào hoa bên ngoài, mà yêu thương tận đáy lòng. Cho dù chúng ta có thấp hèn yếu kém đến dâu đi nữa thi Thiên Chúa vẫn như người Cha nhân hậu đang chờ đón ta, Ngài biết tất cả rồi, Ngài không bao giờ hối hận về ta, cho dù chúng ta thánh thiện hay tội lỗi, thành công hay thất bại... Do đó ta không nên tự ti mặc cảm là người tội lỗi phải tránh xa, mà hãy biết nhìn nhận mình là người yếu kém để được nâng đỡ. Đặc biệt là biết xin Gioan Baotixita " Chịu phép rửa" tỏ lòng ăn năn thống hối, để cải tà quy chính trở về với tình thương và xin Ngài tha thứ để được ban tặng cuộc sống mới, một cuộc sống đích thực sinh động và biến đổi tâm hồn chúng ta.
3. Đồng hành cùng tội nhân.
Chắc chắn hôm nay có rất nhiều người kéo đến cùng Gioan Tẩy Giả, trong đó có cả Đức Giêsu, Ngài cũng đồng hành với họ, cũng đứng xếp hàng đợi tới phiên mình, chấp nhận phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội. Ngài đã đi trên con đường mà tội nhân đã đi; cũng xếp hàng muốn nhập đoàn vào hàng ngũ để cùng chia sẻ và gánh vác những đời tội lỗi bị người đời xa cách. Ta thấy, Gioan Tẩy Giả là vị ngôn sứ được nhiều người kính nể qua lời nói cũng như hành động. Vậy mà trong tư tưởng của ông cũng không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại đồng hành cùng với tội nhân như thế. Ông muốn kéo Ngài ra "chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao"
Có thể một khía cạnh nào đó tư tưởng của Gioan Tẩy Giả cũng tương tựa tư tưởng của "những Pharisêu thời nay": tự cho mình là thánh thiện, đạo đức không chịu đi chung thuyền với người khác là những nhà giảng thuyết tuyệt vời nhưng hành động lại thiếu thiết thực. Vẫn chưa dám đồng hành. Ngược lại cũng có rất nhiều người đi theo Đức Giêsu từ bỏ giàu sang danh vọng, hạ mình giúp đỡ trẻ em đường phố, giúp đỡ người bệnh tật, phong hủi, dạy lớp tình thương, cùng sống cùng ăn cùng sinh hoạt cùng chia sẻ... và cuối cùng bị mang bệnh của người anh em. Ôi một Đức Kitô tuyệt vời!
Thánh lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay mang một ý nghĩa quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, mở đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu như là Đấng Messia, thời kỳ cuối cùng của chương trình cứu độ.
Có người thắc mắc: Chúa Giêsu có tội tình gì mà phải chịu phép rửa?
Vì Chúa đến gánh tội trần gian,
Vì Chúa lập Bí tích rửa tội thật, phép rửa trong Chúa Thánh Thần, mà phép rửa của Gioan chỉ là phép rửa thống hối chuẩn bị cho phép rửa này mà thôi. Phép rửa này được Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần công nhận: Trời mở ra, Chúa Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha phán: đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người.
Thánh Grêgôriô viết: Chúa Giêsu chịu phép rửa để chôn vùi trọn vẹn con người Adam cũ trong dòng nước.
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, tầng trời liền mở ra. Tội Adam đã đóng cửa trời lại, nay phép rửa của Chúa Giêsu, Adam mới, là chìa khóa lại mở cửa trời ra, mở đầu cho một giai đoạn mới.
Thánh Gioan Tẩy Giả nói với Chúa Giêsu: Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa. Và thánh giáo phụ Grêgôriô viết: đó là đèn nói với mặt trời, tiếng nói với Lời, phụ rể nói với chàng Rể, người cao trọng nhất trong số người do người nữ sinh ra nói với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ nói với Đấng được thờ lạy từ trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai nói với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện.
Chim bồ câu xưa kia đã báo tin cho ông Noê là đại hồng thủy đã bắt đầu bị đẩy lùi, Bồ câu hôm nay từ trời đến cũng để nói lên rằng thời kỳ hồng thủy của tội lỗi đã bắt đầu bị đẩy lùi, đem đến niềm vui cho nhân loại. Thiên Chúa lại đến với xác phàm để con người trong xác phàm trở thành con cái Thiên Chúa. Nhờ Đức Kitô, Đấng đẹp lòng Thiên Chúa mọi đàng mà con người chúng ta có khả năng sống đẹp lòng Thiên Chúa.
Phép rửa của Chúa Giêsu thúc dục mọi người chúng ta tiếp tục thanh tẩy mình sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Việc thanh tẩy này đòi hỏi chúng ta phải hy sinh và từ bỏ rất nhiều, như Đức Kitô phải chịu thanh tẩy trong máu sau nầy.
Cuộc đời Kitô hữu là để hoàn thành những gì mà phép rửa tội đã mở đầu, là tiếp tục thống hối ăn năn để thánh hóa con người chúng ta. Những đau khổ thử thách trong cuộc sống chỉ mang bộ mặt tiêu cực đối với mọi người, nhưng đối với người Kitô hữu lại có giá trị cứu chuộc vì nó đang giúp ta hoàn thành phép rửa của chúng ta. Bởi lẽ khi chịu phép rửa, người Kitô hữu hứa bước theo Đức Kitô, chiến đấu với tội lỗi, chấp nhận mọi đau thương của cuộc đời như Đức Kitô đã chấp nhận những đau khổ của cuộc đời Ngài để thánh hóa chúng ta.
Thánh lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay mời gọi mọi người chúng ta dứt khoát với tội lỗi, lên đường xông vào cuộc chiến với Đức Kitô, tự thánh hóa mình mỗi ngày.
Vui vì được giải phóng.
Trong một trại giam những người nô lệ ở Nam Mỹ, những người da đen ban ngày thì lam lũ làm việc quần quật trên nương mía, dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, ăn không đủ no, bị hành hạ đánh đập như một đàn vật; ban đêm lại bị lùa vào giam trong trại như một đám tù nhân. Bổng một đêm nọ một người trong bọn họ rỉ tai với những người chung quanh rằng một người da đen đang tìm cách để giải thoát họ. Dấu hiệu để nhận ra người đó là một cây Thánh Giá trên trán người ấy. Niềm hy vọng dâng trào trong tâm hồn của tất cả mọi người; mấy đêm liền họ không sao chợp mắt được, sống trong hồi hợp đợi chờ. Rồi giây phút đó đã đến: trong đêm khuya, một người da đen, đã đến, lẻn vào mở cửa và giải thoát họ, dẫn họ chạy, chạy suốt đêm và cuối cùng họ đã đến miền đất tự do. Rồi người da đen đó biến mất. Đêm hôm sau, sau một buổi nhảy múa vì niềm vui được tự do, mọi người an giấc thì bổng một luồng ánh sáng giữa đêm khuya làm sáng rực cả cánh rừng nơi họ đang ngủ. Mọi người choàng tỉnh dậy, thì thấy Chúa Giêsu hiện đến với họ với cây Thánh Giá trên trán. Họ liền nhận ra người đã đến giải thoát cho họ chính là Chúa Giêsu.
Bị giam hãm trong cảnh nô lệ tội lỗi, chúng ta cũng đã được Chúa đến giải thoát, nhưng ta có sẵn sàng chạy theo Chúa Giêsu đến miền đất tự do hay không? Hay ta lại làm như một người Israel đã ra khỏi đất nô lệ Ai cập nhưng lại muốn quay trở lại với những củ hành Ai cập xưa?
Ngày lễ hôm nay vừa khép lại mùa Giáng Sinh, vừa mở ra mùa Thường Niên. Biến cố Chúa Giêsu đến dòng sông Giođan chịu phép rửa của Gioan vừa là sự kiện Con Thiên Chúa hiển linh cho mọi người, vừa là sự kiện khai mở cho cuộc rao giảng công khai của Chúa Giêsu. Qua biến cố nầy, ta học được bài học khiêm hạ và yêu thương mà Chúa Giêsu đã nêu gương cho ta.
Gioan, người dọn đường cho sự xuất hiện của Con Thiên Chúa, kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối. Việc làm để tỏ lòng ăn năn là đến dòng sông Giođan để chịu phép rửa. Người người lũ lượt kéo đến với Gioan... Nhưng hôm nay, sự xuất hiện của một nhân vật đã gây ngỡ ngàng, bối rối cho Gioan. Nhân vật ấy chính là Chúa Giêsu. Đấng không vướng mắc một tội nào lại đến xin ông làm phép rửa! Đấng có quyền tha tội lại đứng vào hàng tội nhân! Gioan quá ngỡ ngàng không biết phải xử sự thế nào. Nhưng Chúa Giêsu đã giúp Gioan giải quyết vấn đề: "Bây giờ cứ làm thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính" (Mt 3,15).
Việc làm của Chúa Giêsu trước tiên đã nêu ra bài học về đức khiêm nhường. Thói thường không ai thích hạ mình xuống cả, chỉ muốn vươn lên hơn người, có khi vươn lên thái quá thành kiêu căng trước mặt người đời. Có một thời người ta dùng cụm từ "câu lạc bộ những người thích nổ" để nói về những người tự tâng bốc mình lên vượt hơn cái mình có được. Chính kiêu căng đã làm cho Ađam - Eva và cả nhân loại phải khổ. Chúa Giêsu đã sửa lại thái độ kiêu căng nầy, Ngài "vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, mà đã mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,6-7). Ngài hạ mình xuống để nâng loài người sa ngã lên. Chính thái độ khiêm hạ đứng vào hàng tội nhân của Chúa Giêsu là động lực để ta nhìn lại mình, nhận ra mình là người tội lỗi cần đến ơn tha thứ của Chúa. Từ đó, ta mau mắn chạy đến tắm mình trong dòng sông ân sủng là phép giải tội, để luôn được đứng vào hàng con cái Chúa, có Chúa Giêsu dẫn đầu.
Trong đời sống thường ngày, khiêm hạ chính là nhìn nhận giá trị thật của chính mình: có những ưu điểm cần phát huy, nhưng cũng có những khuyết điểm cần sửa chữa. Tiếc rằng ngày nay người ta lại "tốt khoe, xấu che" , luôn tìm cách che đậy những khiếm khuyết và bằng mọi cách làm cho mình nổi trội với những ưu điểm, thậm chí là những ưu điểm giả tạo. Nhận ra giá trị thực của mình mới có thể giúp mình tiến bộ hơn.
Động lực thúc đẩy Chúa Giêsu có thái độ khiêm hạ chính là tình yêu của Ngài đối với nhân loại tội lỗi đang lầm than cơ khổ. Người đời có câu: "Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau trái bồ hòn cũng méo". Khi yêu, mọi khiếm khuyết, lỗi lầm của nhau sẽ được tha thứ, xoá bỏ. Ta hãy tập có cái nhìn yêu thương đối với mọi người mọi vật thì ta sẽ thấy thế giới nầy đáng yêu làm sao! Chiến tranh, chém giết, đau khổ đều xuất phát từ lòng thù hận, ghen ghét. Yêu thương sẽ giúp ta thấy mình không còn tranh đấu, không còn nhu cầu trổi vượt mà là sống khiêm nhu, hoà đồng với người, với vật.
Tham dự thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy chiêm ngắm nhiều về lòng khiêm hạ và yêu thương của Chúa Giêsu. Để khi trở về với đời sống thường nhật, ta sống yêu thương hơn, khiêm hạ hơn. Sống trong nền văn minh sự chết, ta được mời gọi góp phần xây dựng nền văn minh tình thương. Đời thay đổi khi ta thay đổi. Hãy sống sao để khi ra trước toà Chúa, ta nhận được lời nói thân thương của Ngài: "Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con".
Để ra mắt dân chúng nhân dịp nào đó, người ta thường phô trương uy tín và quyền lực của họ. Nhưng Đức Giêsu thì ngược lại, Ngài khởi đầu sứ vụ công khai của mình bằng một cử chỉ không mấy oai phong: chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Ngài chấp nhận đứng vào hàng tội nhân để đến xin ông Gioan làm phép rửa. Con Thiên Chúa khai trương công việc của Thiên Chúa bằng một dấu chỉ khiêm tốn nhất mà con người có thể làm được.
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa vô tội, nhưng Ngài hoà mình vào đoàn người sám hối để cùng chia sẻ thân phận tội nhân của anh em đồng loại. Ngài là Đấng Cứu Độ, đến để cứu tội nhân, nhưng Ngài không tỏ ra xa cách họ, ngược lại Ngài đặt mình ngang hàng với họ. Cùng với đoàn người xin chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng đã đứng xếp hàng để chờ đến lượt mình. Gương mặt của một Đấng Cứu Thế dường như bị lẫn trong đám đông. Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò Cứu Thế của Ngài bị hạ giá; ngược lại, chính vì cùng hòa mình với tội nhân nên Ngài có thể cứu được hết mọi người, kể cả những người thấp bé nhất.
Không phải vì vô tình hay theo phong trào mà Đức Giêsu đã xin ông Gioan làm phép rửa cho mình. Chính Ngài ý thức rõ việc Ngài làm: Ngài biết Ngài là ai và phép rửa ông Gioan dành cho ai.
Ông Gioan đã làm phép rửa để tỏ lòng sám hối. Ai đến với ông đều nhận thức rằng mình có tội. Tuy nhiên, lãnh nhận phép rửa của Gioan người ta cũng chưa được tha tội, bởi vì phép rửa của Gioan không phải để tha tội. Phép rửa ấy chỉ để tỏ lòng sám hối về tội lỗi của mình. Muốn được tha tội, người ta phải cần phép rửa của Đấng đến từ Thiên Chúa, vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Vậy mà Đức Giêsu, Đấng đến để tha tội lại xin Gioan làm phép rửa. Đức Giêsu biết về chính mình; và chính Gioan cũng biết Đức Giêsu – người đang xin ông làm phép rửa – là ai, và ông nhận mình mới là người cần được Đức Giêsu làm phép rửa.
Hãy chiêm ngắm sự giằng co giữa hai thế đứng trên dòng sông Gio-đan. Một bên là kẻ dọn đường, bên kia là nhân vật chính. Ai trọng hơn ai? Điều khiến cả người ngoài cuộc lẫn kẻ dọn đường phải ngạc nhiên là: nhân vật chính cúi mình xin kẻ dọn đường làm phép rửa cho mình để tỏ lòng sám hối!
Đức Giêsu đã sám hối thật. Ngài không có thái độ giả tạo khi bước xuống dòng sông Gio-đan. Ngài không có tội, nhưng Ngài sám hối cho và vì tội lỗi của anh em đồng loại. Khi dấn thân cho con người, Đức Giêsu đã để sang một bên địa vị Thiên Chúa của Ngài. Để cứu con người, Ngài phải cùng đi với con người và cùng san sẻ kiếp người với anh em. Thánh Phaolô đọc thấy tấm lòng của Đức Giêsu và Ngài chia sẻ cùng các tín hữu Philipphê rằng: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Từ nay, Ngài thiết lập một nền công chính mới. Nơi đó không còn cảnh kẻ có tội tự khép mình trong tội lỗi, còn kẻ thấy mình trong sạch thì đứng ra tố cáo. Ngược lại, chính Đấng hoàn toàn vô tội đang đứng ra mang lấy gánh nặng tội lỗi thay cho anh em mình. Ngài thiết lập nền công chính mới để ai bước theo Ngài cũng biết dấn thân cho sự công chính ấy. Nơi đó, không còn có nguyên cáo hay bị cáo nữa, nhưng chỉ còn những con người nâng đỡ nhau trong hành trình mà ai cũng có những yếu đuối. Yếu đuối của người này có thể là điểm mạnh của người kia, và ngược lại. Nhờ thế, bước chân khập khiểng của người này sẽ được người kia nâng dậy; lỗ hổng của người kia sẽ được người này bù đắp. Trong sự công chính mới, người ta cần đến nhau để bổ túc cho nhau. Nơi đây, những người bước theo chân Đức Giêsu sẽ học được từ thầy chí thánh của mình mẫu gương san sẻ gánh nặng và đau khổ với anh chị em đồng loại.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta được mời gọi làm mới lại ân sủng của Bí Tích Rửa Tội mà mình đã lãnh nhận. Đức Giêsu đã chịu rửa trong nước để ban cho chúng ta ân huệ được rửa trong Thánh Thần. Ngài đã tỏ lòng sám hối từ phép rửa trong nước, để chúng ta được tha tội nhờ phép rửa trong Thánh Thần; và hơn thế nữa, được trở nên con người mới, được làm con Thiên Chúa với quyền thừa kế nước của Người (x. Rm 8, 16-17). Một khi nhận ra giá trị của Bí Tích Rửa Tội, chúng ta sẽ sống xứng đáng hơn với ơn mà Bí Tích này mang lại, như lời khuyên của Thánh Phao-lô dành cho các tín hữu Roma: chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu... hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu (Rm 6, 3.11).
Biến cố khai mạc công trình cứu độ của Thiên Chúa được xác chuẩn bởi cuộc thần hiện của cả Ba Ngôi. Nơi đó, chính Chúa Cha đã chứng thực cho Đức Giêsu. Vì thế, những ai bước theo con đường của Đức Giêsu, trong phép rửa của Ngài, sẽ không sợ lạc lối.
Thưa qúy OBACE, Báo chí thế giới trong những ngày cuối năm 2012 đã bầu chọn 10 gương mặt quyền lực có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2012, thì người đứng đầu danh sách là Tổng thống Mỹ, kế đến là Thủ tướng Đức, Tổng thống Nga, Bill Gates và kế đến là Đức Giáo Hoàng Benedicto 16. Những con người này được ghi nhận đã có những ảnh hưởng lớn nhất trên toàn thế giới trong năm qua. Riêng đối với Đức giáo Hoàng, Ngài không phải là một nhà lãnh đạo chính trị hay quân sự, cũng không phải là người đứng đầu một quốc gia giàu có to lớn như nước Mỹ, Ngài cũng không phải là nhà điều hành kinh tế như Bill Gates, vậy mà tiếng nói và ảnh hưởng của Ngài vẫn lan rộng trên thế giới và góp phần xây dựng hòa bình cho thế giới và làm thay đổi bộ mặt thế giới. Vậy thì quyền lực và sức mạnh của Đức Giáo Hoàng đến từ đâu? Thưa quyền lực và sức mạnh ấy đến từ chính Đức Giêsu, và sứ mạng của ngài là tiếp nối sứ mạng của chúa Giêsu là đem tình yêu thương cứu độ và bình an đến cho toàn thế giới.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa để khai mở một thời kỳ mới, một sứ mạng mới. Nếu như với màu nhiệm Giáng Sinh, Đức Giêsu đã đến trần gian trong âm thầm đơn sơ dưới hình hài của một em bé, và liền sau đó là những năm sống đời ẩn dật một cách bình thường tại thôn làng Nazareth, thì hôm nay, với biến cố chịu phép rửa tại sông Giodan, Chúa Giêsu đã chính thức, và công khai bắt đầu sứ mạng rao Giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa cho mọi người.
Tin Mừng Luca hôm nay đã phân biệt rõ ràng cho chúng ta về sứ mạng của Gioan và sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như phép rửa của Gioan và của Chúa Giêsu sau này. Sống trong một thời kỳ khao khát Đấng Cứu Thế, thì việc xuất hiện của Gioan, với lời giảng mạnh mẽ và cương quyết, với sự thu hút đám đông và việc làm phép rửa, thì nhiều người đã nghĩ rằng Gioan chính là Đấng Mesia. Gioan đã không ảo tưởng về mình, ông cũng không vượt quá giới hạn của mình, chỉ là người dọn đường, vì thế ông đã không ngại ngần để thanh minh cho mọi người khỏi sự lầm tưởng khi quả quyết với họ rằng: Tôi không phải là Đấng Mesia. Ông đã nói về sự giới hạn của mình để làm nổi bật sứ mạng và sự vô hạn của Đấng đến sau ông: Tôi rửa anh em bằng nước, nhưng có Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi… sẽ rửa anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa. Như thế Gioan đã xác định cho thấy phép rửa của ông không có sức mạnh tha tội, mà chỉ là một dấy hiệu bày tỏ lòng sám hối để đón chớ một phép rửa thực sự bằng thánh Thần và bằng lửa, tức là một phép rửa trong quyền năng và lòng yêu mến.
Giữa đám đông như thế, Chúa Giêsu - Đấng không hề có tội, lại khiêm nhường bước xuống dòng sông, đứng chung hàng với tội nhân và cũng xin được chịu phép rửa từ tay Gioan. Việc làm này không chỉ diễn tả sự hạ mình thẳm sâu của Thiên Chúa, mà còn là đánh dấu một thời đại mới, thời mà Thiên Chúa không còn ở xa, nhưng Ngài đã bước đến để tìm kiếm con người để gánh vác tội lỗi con người. Thánh Luca đã thuật lại: Đang khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu. Tác giả muốn nhấn mạnh rằng chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã khiến cho cửa trời mở ra, hình ảnh này gợi nhớ lại ngày xưa khi Adam Eva cắt đứt mối dây liên hệ với Thiên Chúa, phá hủy các cuộc chuyện trò với Thiên Chúa, đã làm cho cửa trời đóng lại, thì hôm nay Đức Giêsu là Adam mới đã nối lại mối dây thân tình với thiên Chúa, qua những cuộc trò chuyện và cầu nguyện thân mật với Thiên Chúa. Cửa trời được mở ra kể từ đây, qua Chúa Giêsu,Thiên Chúa có thể dễ dàng đến với con người và con người cũng có thể dễ dàng đến với Thiên Chúa.
Kể từ biến cố này sứ mạng loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu đã bắt đầu, và sứ mạng này đã được ghi dấu bởi sức mạnh và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, đó là sứ mạng yêu thương và phục vụ, tha thứ và cứu chữa, tìm kiếm và chăm sóc cho nhân loại chúng ta. Tiếng từ trời phán: Con là con yêu dấu của cha, cha hài lòng về con, vừa là lời Thiên Chúa cha giới thiệu Đức Giêsu của cho toàn thể nhân loại, vừa là lời xác định về sứ mạng mà Thiên Chúa cha đã trao phó cho Ngài mà Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục đón nhận. Chính từ sự hài lòng về sứ mạng của Chúa Giêsu và hiến tế của Ngài mà Thiên Chúa Cha đã ban ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Sứ mạng của Chúa Giêsu đã mở ra một thời kì mới và có ảnh hưởng trên toàn thể thế giới cho đến ngày tận thế, tuy nhiên để có thể tiếp nhận và sống trong thời đại mới, thì cũng cần phải có những con người mới, thích ứng được với những đòi hỏi mới như lời Isai đã kêu gọi: Thời nô dịch thời hủy diệt đã mãn, và hãy mở một con đường thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi, để cho Thiên Chúa ngự đến. Lời kêu gọi này là một đòi hỏi canh tân đổi mới, uốn nắn lại cuộc đời và sống cho ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và mọi người, vì để tiếp nhận được Tin mừng của Đức Kitô, đòi mỗi người phải chấp nhận một cuộc biến đổi, lột xác để trở nên con người mới, con người của Tin mừng, để có thể sống trong tình yêu thương chăm sóc của vị mục tử Giêsu.
Bài đọc hai, Thánh Phaolô đã chỉ rõ cho chúng ta phải sống con người mới của Tin mừng như thế nào. Tất cả chúng ta đã lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa của Đức Kitô, và được tha thứ tội lỗi và được đón nhận vào nhà Thiên Chúa, chính vì thế Thánh Phao lô mời gọi chúng ta phía từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, sống chừng mực công chính và đạo đức ở trần gian này.
Thưa quý OBACE, qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta đã được cứu chuộc, được tái sinh và trở nên con cái Thiên Chúa, đó là một ân phúc Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Tuy nhiên ân phúc này sẽ chỉ sinh hiệu quả và đem lại hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta tích cực cộng tác và làm cho những ơn này trổ sinh trong cuộc đời mỗi người. Trở nên con cái Thiên Chúa đòi chúng ta phỉ sống cho xứng đáng với vinh dự ấy, tức là phải loại trừ những gì là phàm tục tầm thường ra khỏi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta, và phải tích cực làm nhiều việc thiện việc tốt cho mình và cho mọi người; là những người được cứu chuộc, chúng ta không thể để mình bị rơi lại vào sự ràng buộc của tội lỗi dục vọng và tật xấu, vì Thiên Chúa đã ban cho ta sức mạnh Thánh Thần của Ngài giúp ta chiến đấu và chiến thắng trước những ràng buộc lôi kéo đó, hãy dựa vào sức mạnh của Thánh Thần để chống trả lại những tấn công của ma quỷ và cám dỗ.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay nhắc cho mỗi người nhớ đến sứ mạng của mình trong đời sống thường ngày, là những bậc cha mẹ, chúng ta cũng cần tẩy rửa chính bản thân mình khỏi những đam mê như rượu che cờ bạc, cá độ, lô đề… nó đang bôi bẩn hạnh phúc và sự bình an của gia đình, thanh tẩy khỏi gia đình mình khỏi sự gian dối, chửi bới cãi vã, mà thay vào đó là sự quan tâm thông cảm chia sẻ với nhau nhiều hơn, và mỗi người hãy góp phần làm cho gia đình nên ấm cúng thuận hòa, cùng nhau vun đắp cho hạnh phúc gia đình mình bằng những giờ kinh những giờ cầu nguyện sớm tối, sống như thế là chúng ta đang chung tay đổi mới gia đình và con cái nên những con người được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Ngày lễ này cũng nhắc cho các bạn trẻ nhớ rằng mỗi người chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và thuộc về Đức Kitô, vì thế chúng ta không thể để mình thuộc về hay là rơi vào tay của ma quỷ và sự xấu, nhưng đòi mỗi người phải dám sống cho xứng đáng là một người Kitô hữu trong xã hội hôm nay, tự hào vì mang danh là Kitô hữu. Vì đã thuộc về Đức Kitô, nên chúng ta cũng phải thi hành sứ mạng mà Chúa trao phó cho mỗi người, tùy theo hòan cảnh môi trường sống của mình, sứ mạng ấy là tiếp tục đem tình yêu thương đến cho thế giới, cùng nhau xây dựng một môi trường sống tốt đẹp hòa bình, cùng nhau làm cho tinh thần của Tin Mừng lan tỏa trong xã hội hôm nay, nơi nhà trường, nơi xí nghiệp, nơi gia đình của mỗi người.
Khi mỗi người chúng ta cố gắng sống với một quyết tâm đổi mới bản thân, gia đình và xã hội, hoàn thành tốt sứ mạng Chúa đang trao phó, thì Nước Trời cũng sẽ mở ra cho chúng ta và cho mọi người và chính Thiên Chúa cũng sẽ nọi với ta rằng: Con là con yêu dấu của ta, ta hài lòng về con. Amen
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, đánh dấu sự xuất hiện công khai và bắt đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa của Ngài. Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại và là Đấng hoàn toàn vô tội, nghĩa là không vướng một khuyết điểm hay một tội lỗi nào. Ngài bị cám dỗ nhưng không bị sa ngã. Vậy mà trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu lại đến với Gioan để xin lãnh nhận phép rửa. Theo suy luận bình thường, thì Ngài đâu phải lãnh phép rửa của Gioan, vì phép rửa là một dấu hiệu sám hối chỉ dành cho kẻ có tội. Có tội mới cần sám hối, có nhơ bẩn mới cần tẩy rửa, và chính Gioan Tẩy Giả cũng đã thắc mắc điều này. Nhưng ở đây, việc Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan mang một ý nghĩa đặc biệt. Cá nhân Ngài hoàn toàn vô tội nhưng Ngài mang một sứ mạng là gánh tội trần gian và chịu chết để đền tội cho nhân loại. Nếu Ngài chịu chết để đền tội thay cho toàn thể nhân loại chứ không phải cho riêng Ngài thì cũng vậy, Ngài lãnh nhận phép rửa của Gioan là để lòng sám hối cho cả nhân loại chứ không phải cho bản thân Ngài, vì Ngài luôn luôn và mãi mãi là Đấng hoàn toàn vô tội.
Nếu khởi đầu cho mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang một thân xác yếu hèn, thì khởi đầu cho một sứ mạng công khai Ngài chấp nhận cho một thân phận tội lỗi, thân phận của người tôi tớ mà đã được ngôn sứ Isaia diễn tả trong bài đọc I: “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn”. Và đó cũng chính là thân phận của người Con yêu dấu mà Chúa Cha hài lòng về Người. Thánh Giám mục Maximo đã nói: “Nếu Ngài giáng sinh, Ngài sinh ra làm Người từ một trinh nữ thì hôm nay, Ngài sinh ra trong bí tích của mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa”.
Khi tầng trời được mở ra với sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần qua hình ảnh chim bồ câu và tiếng nói của Chúa Cha. Chúa Giêsu đến sông Giođan và Ngài muốn thanh tẩy trong giòng nước không phải để giòng nước thánh hóa Ngài, nhưng để Ngài thánh hóa giòng nước. Và từ đây, giòng nước mang một ý nghĩa thanh tẩy mới trong bí tích rửa tội của Gioan. Khi Ngài bị dìm xuống thì chúng ta được cứu vớt, nhưng khi Ngài bị treo lên chúng ta được giải thoát và khi Ngài chịu chết thì chúng ta được cứu sống.
Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay nhắc chúng ta xác tín hơn vào mầu nhiệm nhập thể làm người của Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô đang ở giữa chúng ta, một Thiên Chúa đã kết thân với con người và gần gũi với nhân loại. Tầng trời bị che lấp bởi tội lỗi nay được mở ra với Đấng Cứu Thế để Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Đấng mà Chúa Cha yêu thương và gọi là “Con Yêu Dấu”. Chính biến cố này còn nhắc nhở chúng ta về ơn phép Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta được tái sinh để trở nên người mới, nghĩa là chúng ta đã thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Chúng ta không còn phải là kẻ xa lạ mà là người nhà của Thiên Chúa. Vì chính qua bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được tháp nhập làm chi thể mà Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta còn được tham dự vào các chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Giêsu. Những gì Chúa Giêsu đã sống như là “Con Yêu Dấu” duy nhất của Chúa Cha thì tất cả loài người chúng ta cũng đang được mời gọi như thế để sống đúng với con cái của Thiên Chúa.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn luôn sống vững mạnh với đức tin để chúng ta mãi mãi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Một biến cố quan trọng, một lời tuyên bố chính thức từ trời cao đóng ấn vào công cuộc cứu thế của Ngôi Lời đã xảy ra trong hoang địa vắng vẻ, qua sự khiêm nhường và hạ mình của hai người trong cuộc là Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu. Đang lúc toàn dân nóng lòng chờ đợi Đấng Mêsia, thì Gioan xuất hiện rao giảng thanh tẩy thống hối để được tha thứ tội lỗi. Nhìn vào đời sống thánh thiện và khổ hạnh của Gioan, dân chúng đã lầm tưởng ông là Đấng Mêsia, nên đã vội tuôn đến với ông. Để tránh sự ngộ nhận đó, ông đã vội vàng cải chính: “Sẽ đến sau tôi, Đấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi giây giầy Ngài”.
Thế nhưng khi Chúa Cứu thế Giáng sinh ở Belem thì chẳng có ai nhận ra Ngài, ngoại trừ các mục đồng và các đạo sĩ.
Các sách Tin Mừng không nói nhiều về thời niên thiếu của Chúa Giêsu tại Nazarét. Điều đó cho thấy quãng thời gian 30 năm ẩn dật của Chúa vẫn là thời gian bị quên lãng. Nhưng rồi một ngày kia, Ngài xuất hiện công khai ở bờ sông Giodan, nơi Gioan đang làm phép rửa, lúc đó Ngài đã 30 tuổi.
Chúa đến với Gioan và xin ông làm phép rửa cho mình. Được ơn soi sáng. Gioan biết mình đang đứng trước mặt Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, nên ông đã từ chối: “Chính tôi cần được Ngài thanh tẩy cho, thế mà Ngài lại đến với tôi”. Nhưng Chúa Giêsu đã thuyết phục Gioan hãy làm theo thánh ý Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa lấy hình bồ câu đậu xuống trên Ngài, và có tiếng tự trời: “Con là Con chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ”.
Phép rửa mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận đã khai mào cho sứ vụ và con đường cứu thế của Ngài: con đường của người tôi tớ đau khổ. Mỗi kitô hữu chúng ta cũng đã lãnh nhận phép rửa trong Chúa Thánh Thần, nhờ đó chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Phép rửa đó đã biến chúng ta thành một tạo vật mới, và chính cuộc sống mới này đòi hỏi chúng ta phải đi vào con đường của Chúa Giêsu: trở thành tôi tớ của Thiên Chúa, đồng thời trở thành tôi tớ mọi người, hiến thân phục vụ vì hạnh phúc của mọi người.
Chúa Giêsu ‘đến xin Gioan làm phép rửa’. Điều này có thể làm ta ngạc nhiên. Gioan Tẩy Giả là người đầu tiên phản đối. Con người đâu có thể thánh hóa Đấng Thánh! Nhưng Chúa Giêsu bảo cứ việc làm như Người xin, vì cần phải hoàn thành sự công chính. Sự công chính nào đây? Là sự công chính của Người Tôi Tớ muốn vâng lời. Đức Kitô đã vâng lời, đã chọn vâng lời. Ý nghĩa của phép rửa bởi Gioan là đưa loài người đến chỗ vâng phục Thiên Chúa. Đức Giêsu đi vào con đường ấy, nhưng khác với ta ở chỗ tư cách của Người là tư cách Người Con có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mình, và làm vui lòng Chúa Cha hoàn toàn. Việc Người xin chịu phép rửa có mục đích dẫn đưa vâng lời đến chỗ hoàn hảo, bằng cách biến nó thành niềm tuân phục của con thảo. Hành vi khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa chứa đựng mầm mống tất cả những lời nói, việc làm sẽ được phát triển về sau, trong mầu nhiệm Đức Kitô. Thử nêu lên hai câu hỏi:
1) Chúng ta có nghĩ tới việc rửa tội của ta như một biến cố sơ khởi cần phải phát triển trong suốt cuộc đời không?
Đa số chúng ta đã được rửa tội lúc mới sinh ra. Sau đó chúng ta hấp thụ một nền giáo dục tôn giáo. Có lẽ ta trung thành giữ đạo vì thói quen hơn là vì chọn lựa ý thức, sáng suốt, tự do –sự chọn lựa mà đức tin đòi hỏi. Câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa phải làm cho ta suy nghĩ về giá trị chân thực của đời sống Kitô hữu của mình. Chẳng hạn, ta có thể dựa vào các bản văn và lời kinh trong nghi thức rửa tội, để tự đặt ra cho mình một số câu hỏi. Có bao giờ, nhân dịp nghi lễ rửa tội một em bé, ta tự nhủ: điều mà chúng ta đang tham dự đó, một ngày xa xưa đã xảy đến với ta và đã hướng ta vào một cuộc sống hiện tại hay không? Một số đề tài trong nghi thức rửa tội có thể làm đầu đề cho ta suy nghĩ như từ bỏ tội lỗi, ma quỷ, sự dữ; kết hợp với Đức Kitô; với Giáo Hội và Thánh Thể của Người; sống như con thảo với Chúa và như anh em với mọi người; thờ phượng Chúa trên hết; tinh thần trách nhiệm thiêng liêng trong Giáo Hội và trong đại gia đình nhân loại v.v…
2) Phép Rửa trong nước và Thánh Thần hướng ta về phép Rửa Tội quyết định nào?
Lâu lắm sau khi chịu phép rửa bởi Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố: “Có một phép rửa ta cần phải nhận, và ta khắc khoải biết bao cho nó thành sự thực” (Lc 12,50). Chúa Giêsu nghĩ tới cái chết trên thập giá như là sự hoàn thành tột bậc đời sống vâng lời mà Người đã chọn lựa. Chúng tôi không nói người Kitô hữu phải hoàn thành ơn Thánh Tẩy của mình trong khắc khoải. Trái lại mới đúng. Nhưng họ phải luôn luôn tự hỏi: Mình có thực hiện thánh ý Chúa Cha, ngày lại ngày, trong suốt cuộc đời không? Ý Chúa Cha đòi buộc họ đi vào trong sự hiệp thông với đức tuân phục của Chúa Giêsu Kitô bằng cách này hay cách khác và do đó buộc họ phải chết để phục sinh. Bí tích Thánh Thể chúng ta đã chịu, hướng ta về phép rửa, quyết định được diễn tả qua tiếng ‘thưa vâng’ đối với Chúa; qua tiếng ‘thưa vâng’ cuối cùng, vào thời giờ một mình Chúa biết, sẽ niêm ấn lời ưng thuận bất di bất dịch của ta trước kế hoạch yêu đương do Chúa đề nghị với ta.
Ngôi thánh đường trong làng được xây cất sắp hoàn thành, chỉ còn việc gắn cây Thánh Giá lên đỉnh tháp chuông. Thế nhưng giàn ráo lại không lên tới nơi. Một thanh niên khỏe mạnh và cao tới 1m8 tình nguyện kiệu người thợ hàn trên đôi vai của mình. Mọi người đứng dưới sân nín thở theo dõi.
Sau cùng, công việc cũng đã kết thúc, cả hai đều leo xuống. Nhưng khi vừa đặt chân tới đất, chàng thanh niên lực lưỡng bị ngất xỉu, bởi vì hai tay và vai anh đều bị phỏng. Tại sao vậy? Bởi vì khi người thợ hàn cây thánh giá, chì sôi từng giọt rớt xuống trên vai anh. Mặc dầu rất đau đớn, nhưng anh không dám cử động, bởi vì bất kỳ một cử động nào trong hoàn cảnh như thế sẽ có nguy cơ làm cho anh thợ hàn rơi xuống. Phải mất mấy tuần lễ những vết phỏng mới chữa lành.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta nhận thấy một người còn nhiệt tình và can đảm hơn thế nữa. Đó là Gioan Tiền Hô.
Ông đã chịu đau khổ: Mặc áo nhặm, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông đã chấp nhận bị chỉ trích và bị bắt bớ, cuối cùng chính ông đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật. Ông là một sứ giả, một tiền hô được sai đi trước để dọn đường cho Đấng Cứu thế. Sứ mạng của ông là là loan báo cho mọi người được biết Đức Kitô chính là Đấng Cứu Thế, được mong đợi từ hàng ngàn năm về trước. Ông đã nâng cao Đức Kitô lên để Ngài có thể cứu chuộc chúng ta bằng cây thập giá. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng được mời gọi để làm một công việc như thế.
Đoạn Tin Mừng còn cho thấy: Đức Kitô đã khởi đầu cuộc sống công khai của mình bằng cách chịu phép rửa của Gioan. Dĩ nhiên phép rửa của Gioan không phải là một bí tích mà chỉ là một nghi thức sám hối, để đánh dấu sự chỗi dậy quay trở về cùng Chúa. Sở dĩ Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan là vì Ngài muốn đồng hóa mình với thân phận tội nhân. Ngoài ra, cũng nhờ đó, Ngài thánh hóa nước để dùng trong bí tich Thánh Tẩy sau này.
Chính vì thế, biến cố ngày hôm nay còn nhắc nhở cho chúng ta về bí tích rửa tội mà chúng ta đã lãnh nhận. Chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Đức Kitô, loan báo cho mọi người nhận biết Ngài chính là Đấng Cứu thế, đồng thời tiếp tay với Ngài trong công cuộc cứu độ trần gian bằng mầu nhiệm thập giá.
Là những người cha và những người mẹ, chúng ta hãy nói cho con cái chúng ta những điều Đức Kitô đã nói va đã làm. Như thế, chúng ta cũng đang loan truyền Đức Kitô cho con cái chúng ta vậy.
Là người giáo dân, chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Phúc âm, và như thế chúng ta cũng đang giúp đỡ Đức Kitô rồi đó.
Ngoài ra chúng ta còn có thể cộng tác và chia sẻ công việc với Ngài bằng cách dạy giáo lý, cầu nguyện và hy sinh cho việc truyền giáo, bố thí và giúp đỡ những kẻ nghèo đói và bất hạnh. Mỗi việc chúng ta làm nhân danh Kitô hữu là chúng ta cộng tác với Ngài để đem sức sống và sức mạnh của Ngài cho nhân loại. Cần phải có những Gioan Tiền hô để dọn đường Chúa đến. Cần phải có những người như anh thanh niên sẵn sàng hy sinh để giúp đỡ, để cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ.
Nói tóm lại, mỗi người chúng ta cần phải biết chu toàn thánh ý Ngài giữa lòng cuộc đời, để rồi trong ngày sau hết, chính Chúa Cha sẽ tuyên phong chúng ta, như ngày xưa Ngài đã tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giocđan: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
“Khi ấy Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai và đến với Gioan để được chịu phép rửa”. Bước đầu này quan trọng hơn phép rửa, Matthêu làm cho chúng ta cảm thấy điều này bằng cách đánh dấu sự dồn dập khác thường trong lối viết của mình: “Ngay khi Chúa Giêsu chịu phép rửa xong, Ngài lên khỏi nước và các tầng trời mở ra”.
Chúng ta đang tham dự vào “thần khải”, tức sự mạc khải các mầu nhiệm của Chúa. Miêu tả những điều tương tự khó đến nỗi thánh sử chỉ có thể sử dụng văn phong “thiên cảm”. Chúng ta nên tiếp nhận, không quá cụ thể nó nhưng cũng không biến nó thành sự tưởng tượng đơn thuần. Ngày ấy trên bờ sông Giócđan đã xảy ra việc lên ngôi của Đấng Cứu Thế và sự mạc khải về nhân tính của Ngài.
Lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thiên Chúa phá vỡ sự im lặng đã có từ lâu, tiếng của Chúa Cha công bố một điều gây kinh ngạc. Nhưng trước đó Thánh Thần phải can thiệp vào những lần sáng tạo và những lần xức dầu, Đấng bay là là trên mặt nước trong Sáng thế ký, Đấng làm cho Ngôi Lời nhập thể trong lòng Mẹ Maria và là Đấng phải tác động mạnh đến Ngài để làm cho Ngài thành Đấng Cứu Thế hằng được đợi trông (Is 11,1-9).
Đây là lúc: “Chúa Giêsu thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài”. Ngài long trọng nhậm chức cứu thế: Ngài là Đấng được xức dầu (Đấng Cứu Thế trong tiếng Do thái và Kitô trong tiếng Hy lạp có nghĩa là được xức dầu). Giêsu Nadaret là Đấng Israel trông mong, toàn bộ Lịch sử thánh từ từ tiến tới lúc Thánh Thần tác động trên Giêsu để rồi giao cho Ngài sứ mạng của Đấng được xức dầu.
Đó là điều đã được chờ đợi. Điều bất ngờ cũng đến từ trời, tức là Thiên Chúa: “Có tiếng từ trời phán bảo: Đây là Con yêu dấu của Ta”.
Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa! Sau biết bao thế kỷ chờ đợi, người Do thái vẫn từ chối mạc khải này. Họ vẫn còn chờ đơi Đấng Cứu Thế, và đây là sự hiểu lầm to lớn nhất trong lịch sử. Giêsu-Đấng Cứu Thế, Giêsu- Kitô đã làm họ lạc hướng do những vẻ bề ngoài thực sự quá đơn sơ: “Đấng Cứu Thế là con của bác thợ mộc!”. Nhưng đồng thời Ngài làm họ ghê tởm do ý định mà họ đoán được: “Một người phàm làm ra vẻ là Con của Thiên Chúa, thật là phạm thượng!”
Chúng ta đừng vội nghĩ rằng giờ đây tất cả đối với chúng ta đều đơn giản. Mỗi tình tiết của Phúc Âm và thậm chí mỗi từ trong đó đều là những giai đoạn của một bước đầu rèn luyện rất khó khăn của chúng ta: hiểu cho được sứ mạng của Chúa Giêsu-Đấng Cứu Thế và bản thể Con Thiên Chúa của Ngài, cho đến khi chính chúng ta sống và làm cho thế giới sống cái sứ mạng đó.
Matthêu, Matcô và Luca đều bắt đầu đời sống công khai của Chúa Giêsu bằng biến cố lớn lao đi vào hoạt động này, trời mở ra, Thánh Thần hiện xuống và lời tuyên bố của Chúa Cha, để chúng ta đọc toàn bộ Phúc Âm dưới hai ánh sáng. Đó là ánh sáng Cứu thế: “Ngài thấy Thánh Thần ngự xuống trên Ngài” và ánh sáng Ba Ngôi: “Đây là Con Ta yêu dấu”.
Tất cả đều được nói lên bằng rất ít lời nhưng sự suy niệm của chúng ta phải tạo cho chúng một ánh sáng mà chúng ta sẽ không bao giờ ngưng thấy nơi Giêsu Đấng Cứu Thế-Con Thiên Chúa.
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu Châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghĩa chối bỏ mọi cam kết khi chịu Phép Rửa Tội.
Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người Tây Phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành Hôn Phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây Phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đám đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Giordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu Thánh Giá trên người, chúng ta làm dấu Thánh Giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo Thánh Giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo Thánh Giá trên người, và ước gì Thánh Giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì Thánh Giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua Thánh Giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin Mừng.
Có một lần dạy giáo lý tôi hỏi các em: Thông thường khi phạm tội điều đầu tiên mình phải làm gì?
Một em trả lời: Thưa cha, bỏ chạy ạ!
Nghe cũng lạ những mà sao cũng đúng thế! Vì phản ứng đầu tiên của người thấy mình sai là bỏ chạy, chạy không được thì đổ tội, đổ tội không được mới nhận tội. Quy luật vẫn là thế.
Có vị linh mục kia thấy một em bé đang kiễng chân lên để nhấn chuông một căn hộ, mà em thì thấp, lên kiễng mãi cũng chẳng với tới. Vị linh mục đó đã đến bế em đó lên để em nhấn chuông. Nhấn xong. Đặt em bé xuống đất, linh mục hỏi: Con còn muốn ta giúp gì nữa không? Nó liền nói: bỏ chạy! Thế là nó ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Hóa ra nó đang nhấn chuông để phá nhà hàng xóm... Hú hồn cho vị linh mục.
Con người thường có khuynh hướng chối tội, hay đổ lỗi cho người khác. Đành rằng ai cũng nói “dám làm dám chịu”, thế nhưng, “đào vi thượng sách” vẫn là kế hay. Và nếu không chạy được thì đổ tội cho người khác, hay hoàn cảnh mà ra.
Từ nguyên thủy Adam- Eva cũng có thái độ ấy. Khi phạm tội họ nghe tiếng chân Chúa nên cũng bỏ chạy. Chạy không được thì Adam đổ tội cho Eva “Tại người đàn bà này mà tôi ăn trái cấm”. Eva đổ tội cho con rắn....
Nhưng có một Đấng đã không hề phạm tội lại nhận hết tội lỗi về mình. Ngài tự nguyện gánh lấy tội trần gian. Ngài là con chiên vẹn tuyền chịu hiến tế để đền tội cho con người. Vâng, Đức Giê-su thành Nagiaret là Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng đã mặc lấy thân xác con người. Ngài đã trở nên giống con người mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Ngài tự nhận mình là tội nhân khi hòa mình vào dòng người tới nhận phép rửa của Gioan. Hành vi này như muốn dạy con người chúng ta hãy biết liên đới trách nhiệm với tha nhân. Liên đới để giúp nhau thăng tiến. Liên đới để sống cảm thông chia sẻ với nhau. Tình liên đới sẽ giúp con người chung sống hòa bình với nhau và cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Người ta thường kể về thị trưởng đầu tiên của thành phố New York với giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: "Gia đình tôi đang chết đói".
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: "Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la". Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho ngwòi đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: "Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão.
Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.
Nếu cuộc đời con người biết sống có tỉnh liên đới thì cuộc đời đẹp biết bao! Người ta sẽ “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”...
Nếu cuộc đời ai cũng có trách nhiệm liên đới với người nghèo, người bệnh tật, người bất hạnh thì cuộc đời hạnh phúc biết bao! Người ta sẽ không có thái độ dửng dưng với nhau nhưng biết chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau, và chắc chắn sẽ không có những phận người cô đơn buồn tủi.
Nếu cuộc đời ai cũng cảm thấy có trách nhiệm với cả những lỗi lầm của người khác thì xã hội sẽ thăng tiến biết bao. Vì ai cũng nỗ lực sống chu toàn bổn phận của mình, sống gương mẫu và chắc chắn sẽ không làm gì để gây gương mù gương xấu cho tha nhân.
Ước gì cuộc đời chúng ta cũng được hiến tế cho anh em. Một cuộc hiến tế không bằng máu mà bằng hy sinh từ bỏ thói hư tật xấu, hy sinh hãm dẹp tính xác thịt, hy sinh đễ sống làm gương sáng cho tha nhân. Ước gì tình liên đới của con người luôn là mối dây hiệp nhất yêu thương để tình người mãi gắn kết và cùng nhau xây dựng một xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Amen.
Có ai đó đã nói rằng: "Thà thắp lên một ánh nến còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối". Lời này thật đúng vào thời Chúa Giêsu tại thế. Lúc đó dân tộc Israel đang sống trong bóng tối lầm than, đoạ đầy. Họ ao ước Đấng cứu tinh sẽ tới để giải thoát họ khỏi kiếp nô lệ cho ngoại bang. Họ chờ mong Đấng cứu tinh sẽ đến để xoay chuyển vận mạng cho dân tộc và cho chính bản thân của từng người khỏi kiếp sống lầm than. Và một tia hy vọng đã bừng sáng lên khi Gioan xuất hiện. Ông xuất hiện như một nguời hùng của dân tộc, như một nhà cách mạng giải cứu cho dân tộc. Ông đưa ra một phương thế có thể thay đổi vận mạng dân tộc: đó là hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa Giavê và hãy trung thành với giao ước của Người. Đó cũng là cách để tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vì: "cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn chặt đi". Vì ngày thanh luyện trần gian đã đến. Thiên Chúa sẽ dùng nia mà sàn lọc, phân loại tốt xấu. Kẻ tốt sẽ được trọng thưởng, kẻ xấu sẽ bị quăng vào lửa trầm luân muôn đời.
Lời rao giảng của Gioan đã thức tỉnh lương tâm hàng vạn, hàng vạn người. Người ta thấy trong số đông lũ lượt kéo xuống dòng sông Gioađan năm ấy để lãnh phép rửa có đủ mọi thành phần. Từ anh chàng cù bất cù bơ không cửa không nhà đến hạng quyền qúy cao sang, nhà cao cửa rộng. Từ những con người có chức có quyền đến hạng dân đen thấp cổ bé miệng đều cảm thấy mình cần phải sám hối hầu tránh khỏi cơn thịnh nộ của trời đất, của Đấng tạo thành.
Dòng sông hôm ấy dường như náo nhiệt hơn mọi ngày, vì dòng người tấp lập, vì những lời bàn tán xôn sao về ngày thanh luyện trần gian đã tới. Nhưng một sự kiện còn làm họ bàng hoàng kinh ngạc hơn nữa, khi bầu trời trong sáng lạ thường hơn, cửa trời như được mở toang. Ánh sáng từ trời đã tập trung vào một con người đang nài xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Gioan đã lưỡng lự, phân vân, vì ông biết đây chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội gian trần. Ông không hiểu nổi tại sao Con Thiên Chúa, Đấng thánh thiện vô cùng lại cần đến phép rửa của ông. Ông tự biết mình đâu xứng đang cởi dây giầy cho Người thì làm sao ông có diễm phúc đổ nước trên đầu một con chiên không tỳ vết, chính là Thiên Chúa của ông. Nhưng rồi, ông đã vâng lời để đổ nước cho Đấng mà bản thân ông phải nhỏ bé đi để Người được lớn lên trong ông. Tức thì ông nghe một tiếng nói từ trời phán ra. Không phải là tiếng xót xa tìm kiếm ngày nào của Giavê khi Adam lẩn trốn vì phạm tội. "Ađam - Ađam ngươi đang ở đâu?". Đó cũng không phải là lời luận tội vì tội Ađam mà luỵ đến con cháu muôn đời. Nhưng đó là lời giao hoà của Thiên Chúa với con người: "Đây là con Ta yêu qúy, hãy nghe lời Người".
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em
Ngày chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, là ngày chúng ta được nhận làm con yêu qúy của Thiên Chúa. Qua cha mẹ và những người đỡ đầu, ánh sáng của đức tin đã được thắp lên trong cuộc đời chúng ta. Nhưng liệu với tuổi đời chồng chất theo thời gian năm tháng. Ta có còn là con yêu qúy của Thiên Chúa và Thiên Chúa có hài lòng về cuộc sống của ta hay không? Hay ta đã bán đi tất cả gia sản của cha mình để buông mình trong những đam mê lầm lạc, trong bóng tối của sa đoạ, tội lỗi, trong những hư danh của trần gian và khước từ ân huệ là con của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay không chỉ mời gọi chúng ta gìn giữ ân huệ cao cả được làm con Thiên Chúa mà còn mời gọi chúng ta hãy trở thành một Gioan cho thời đại hôm nay.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để thức tỉnh nhân loại hãy ăn năn sám hối, hãy trở về với Thiên Chúa hòng tránh cơn thịnh nộ của Đấng tạo hoá chí công.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan dám hy sinh vì chân lý, vì tin mừng cho dù phải trả giá bằng sự nghèo đói, đoạ đầy và cả tính mạng của mình.
Thế giới hôm nay rất cần một con người như Gioan để giới thiệu Chúa cho tha nhân, ngõ hầu muôn dân khắp mặt đất cùng một tâm tình, một ước nguyện, một lời kinh dâng lên Đấng tạo thành trời đất và muôn vật. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết khiêm tốn để Chúa được tỏ hiện trong đời sống của chúng ta. Amen.
Với câu tục ngữ trên, người xưa muốn bảo chúng ta rằng: qua giọng nói của người đối diện, chúng ta có thể đoán biết được phần nào tính tình của họ.
Cho dù nghe giọng noi mà bắt hình dong, nếu không được đúng trăm phần trăm, thì ít nữa cũng biết được rằng: lời nói là một kho tàng cao quí nhất của con người.
Đúng thế, lời nói là một phương tiện Chúa đã trao ban để chúng ta chia sẻ những ý nghĩ, những ước muốn, nhờ đó mà hiểu biết nhau hơn và xích lại gần nhau hơn. Vì thế, người xưa cũng đã khuyên:
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Và chúng ta cũng có thể xác quyết:
- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng nói.
Nhờ lời nói, chúng ta có thể diễn đạt được bản thân chúng ta cho người khác. Nhờ lời nói, chúng ta có thể bày tỏ cho người khác những ước vọng mình đang theo đuổi. Nhờ lời nói chúng ta không phải chỉ đạt tới những điều mình muốn diễn tả, mà hơn thế nữa còn đi vào con đường tương giao mật thiết, tạo được sự cảm thông với những người chung quanh.
Dù khoảng cách giữa người nói và kẻ nghe có là một đại dương bao la chang nữa, thì người nói vẫn cảm thấy mình đang hiện diện một cách mật thiết với kẻ nghe.
Bằng cách thức ấy, Thiên Chúa cũng đã nói với mỗi người và với mọi người chúng ta. Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Khi Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước, thì trời mở ra và từ trời có tiếng phán:
- Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài.
Trong Cựu ước, chúng ta thấy có lần tiên tri Samuel cũng đã khao khát được nghe tiếng Chúa:
- Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe.
Còn chúng ta thì sao? Có lẽ đôi lúc chúng ta cũng đã nhủ thầm:
- Nếu Chúa thực sự hiện diện, thì xin hãy nói với con. Nếu Chúa thực sự yêu thương, thì xin hãy xuống khỏi trời cao để nhìn xem những gì đang xảy ra trong cõi nhân sinh.
Qua biến cố Chúa chịu phép rửa ở sông Giócđan, một nhịp cầu cảm thông nối liền trời với đất được được thiết lập: Trời mở ra và tiếng nói của Thiên Chúa đã vang vọng đến tai con người:
- Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài.
Thánh Phaolô trong bức thư gửi tín hữu Do Thái cũng đã xác quyết:
- Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Con Một Ngài.
Như thế, toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu đã trở thành một lời tâm sự, giãi bày tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người. Chỉ với tiếng nói của Người Con yêu dấu ấy, chúng ta mới thấy được dung mạo đích thực của Thiên Chúa.
Đồng thời, nhờ bí tích Rửa tội, người Kitô hữu cũng đã lãnh nhận một sứ mệnh, đó là trở thành tiếng nói của Thiên Chúa vang lên cho người khác, bởi vì trong cuộc sống của mình, người Kitô hữu có bổn phận phải giới thiệu, phải trình bày khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa.
Nếu trời đã mở ra cho tiếng nói của Thiên Chúa được vang vọng đến con người khi Chúa Giêsu vừa bước lên khỏi nước, thì cũng vậy, qua bí tích Rửa tội, người Kitô hữu có bổn phận tiếp tục làm thế nào cho tiếng nói ấy được mọi người lắng nghe và chấp nhận. Người Kitô hữu có bổn phận làm chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa giữa lòng cuộc đời.
Từ lễ Giáng Sinh đến hôm nay, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái của mình chiêm ngắm và sống sứ điệp mầu nhiệm Giáng Sinh nơi Hài Nhi Giêsu. Các sứ điệp tuy nhiều, nhưng có lẽ điểm nhấn trọng yếu vẫn là sự khiêm nhường và tính liên đới của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay, một lần nữa thánh Mátthêu làm toát lên sự khiêm nhường đó khi trình thuật sự kiện Đức Giêsu xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình.
1. Ý nghĩa của phép rửa nơi Gioan Tẩy Giả
Để chuẩn bị cho dân chúng đón nhận Đức Giêsu, Gioan đã kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, canh tân đời sống để được ơn cứu độ. Đời sống của ông đã đi đôi với hành động của mình khi chọn lối sống đơn sơ, nghèo khó trong hoang địa: ông đã “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3, 4), nhằm sống triệt để tinh thần khiêm nhường và trọn vẹn ý nghĩa của sự chay tịnh để chờ mong Đấng Cứu Thế đến cũng như chu toàn vai trò là người dọn đường cho Vị Thiên Sai. Đỉnh cao của sứ điệp mà Gioan mời gọi đó là đón nhận phép rửa sám hối và canh tân đời sống để được ơn tha thứ.
Khi nói đến phép rửa của Gioan, chúng ta cũng nên nhắc đến các nghi thức phép rửa của người đương thời với ông. Phép rửa thời bấy giờ gồm có phép rửa của những người tòng giáo, nhằm tẩy uế. Phép rửa của những người Étxem là một nghi thức hằng ngày, có tính cách giúp người ta sống trong sạch. Nhưng phép rửa của Gioan thì khác hẳn với các phép rửa trên. Phép rửa mà Gioan cử hành nói lên tinh thần sám hối để chuẩn bị cho phép rửa trong Thánh Thần và Lửa mà Đức Giêsu sẽ cử hành sau này. Tuy nhiên, phép rửa mà Gioan cử hành trên sông Giođan chỉ là một nghi thức tượng trưng. Phép rửa này chưa phải là một Bí tích và thực chất cũng chưa có khả năng tẩy xoá tội lỗi và cứu độ được con người, bởi chưng, chưa có năng lực ban ơn thánh hoá. Vì thế, phép rửa này có tính sám hối. Chính vì thế, thánh nhân mới quả quyết rằng: “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần" (Mt 1,7).
Trong đoàn người lũ lượt đến với Gioan để xin lãnh nhận phép rửa do ông cử hành, Đức Giêsu cũng tháp nhập vào đoàn người đông đảo ấy để xin Gioan làm phép rửa cho mình. Khi thấy Đức Giêsu, ông đã tỏ vẻ ngỡ ngàng vì tại sao lại có thể xảy ra sự ngược đời như thế được? Một vị Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất; Đấng là khởi đầu và kết thúc; Đấng xóa tội trần gian; Đấng trong sạch không tỳ tích; Đấng thánh thiện vẹn toàn; Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và Lửa mà lại đến để xin mình lãnh nhận phép rửa tỏ lòng sám hối từ chính một người cũng cần được cứu độ? Có lẽ đây là một điều khó hiểu đối với Gioan: “Chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao?” (Mt 3, 14) Nhưng khi nghe Đức Giêsu giải thích, ông đã hiểu được ý nghĩa sâu xa sứ mạng của Đấng Cứu Độ.
2. Đức Giêsu cứu độ nhân loại bằng con đường khiêm nhường và tinh thần liên đới.
Thật vậy, Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc con người. Ngài đã trở nên như không cho con người có tất cả. Ngài đã thực hiện thánh ý của Chúa Cha cách tuyệt đối. Tuy bản thân Ngài hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nghĩa là Ngài chất đầy tội lỗi của nhân loại trên bản thân mình. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, Ngài phải tự liệt mình vào hàng tội nhân cần phải sám hối. Và Ngài sám hối thay cho toàn nhân loại, tương tự như Môsê (x. Xh 9,27; 32,31-32; Lv 8,14-15), Nêhêmi (x. Nkm 1,6-7), Ét-ra (x. Er 10,1.6) và Đanien (x. Đn 10,2) đã từng làm. Đức Giêsu đã lãnh nhận phép rửa sám hối và ghi nhận hành vi sám hối này để liên đới với hết mọi người Do thái thời bấy giờ, đồng thời chia sẻ phân phận khổ đau, nghèo đói và bệnh tật của con người. Ngài muốn trở nên người thầy, người anh, người bạn của tất cả chúng nhân, nhất là những người thấp cổ bé họng, những người cô thế, cô thân... Ngài muốn chung phần đau khổ với hết mọi cảnh đời, nhất là những kẻ tội lỗi, yếu đuối để nâng con người lên và giải thoát họ khỏi quyền lực của sự chết. Vì thế, Ngài đã “không lớn tiếng”, “không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”. Ngài chính là “Người Tôi Tớ” mà tiên tri Isaia đã loan báo (x. Is 42, 1-4). Qua hành vi đó, Đức Giêsu muốn diễn tả một vị Thiên Chúa thật gần gũi với loài người, một vị Thiên Chúa nghe được, thấu được và cảm được được nỗi đau khổ, yếu đuối của loài người. Mặt khác, khi lãnh nhận phép rửa sám hối, Đức Giêsu muốn mặc khải và nhấn mạnh đến khía cạnh cứu độ chứ không phải khía cạnh thống trị bằng quyền bính như người Dothái mong chờ. Ngài đến để biến đổi nhân loại từ bên trong, bằng cách chia sẻ thân phận nghèo hèn và khốn khổ của họ, hơn là từ bên ngoài, bằng xét xử phán đoán. Bởi vậy, Ngài hoàn toàn từ chối kiểu thống lãnh bằng vũ lực và quyền bính, nhưng bằng con đường tình yêu và tự hủy (x. Mt 4, 1-11; 11,2-6; 16, 13-23). Chính vì thế, khi Gioan tỏ vẻ từ chối vì thấy mình không xứng: "Chính tôi phải được Ngài rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi sao?", ngay lập tức, Đức Giêsu đã nói với ông: “Không sao, vì chúng ta cần chu toàn bổn phận như thế" (x. Mt 3, 14), cần phải hoàn thành sự công chính là trung thành với Thiên Chúa cách tuyệt đối. Thật thế, Đức Giêsu là Tôi Tớ Giavê, nên Ngài chẳng nề hà khi cùng chịu đau khổ vì tội của dân mình. Khi lãnh nhận phép rửa của Gioan, Ngài vừa trở nên chi thể, vừa trở nên thủ lĩnh của một nhân loại tội lỗi cần được thánh hóa và cứu chuộc. Thành ra, mặc dầu chẳng phạm tội, Chúa Giêsu cũng phải cúi xuống và dìm mình dưới dòng sông Giodan để chịu phép rửa thống hối chỉ vì muốn liên đới, gánh vác tội lỗi của con người và chia sẻ với họ niềm hy vọng (x. 2 Cr 5, 21; Dt 2, 14- 17). Khi khiêm tốn lãnh nhận phép rửa của Gioan, thì cũng là lúc Ngài chính thức khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của ơn cứu độ, đồng thời biểu lộ bản chất Cứu Chúa của mình.
Chính khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Thiên Chúa Cha đã tấn phong Đức Giêsu là Đấng Mêsia, để Đấng Kitô thi hành sứ vụ, và cũng từ đây Ngài đi khắp nơi để ban phát ơn lành (x. Ex 1,1; Kh 19,11; Cv 7,56...)
Thật vậy, Thần khí Đức Giêsu lãnh nhận cũng chính là Thần khí đã ngự xuống trên các ngôn sứ và vua chúa để ban cho họ khả năng thi hành nhiệm vụ; nhưng hơn hẳn các nhân vật quá khứ, Ngài lãnh nhận Thần khí một cách dư đầy (x. Is 11,2).
Cũng chính lúc này, các tầng trời mở ra biểu hiện sự giao hòa. Giao hòa giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và con người.
Đây là một biến cố quan trọng, bởi vì Chúa Cha đóng ấn vào công cuộc cứu chuộc của con người qua sự khiêm hạ của Đức Giêsu.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại ngày ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Khi đó, ta được trở nên con Thiên Chúa, được Chúa hứa ban gia nghiệp vĩnh cửu. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở những đặc ân nội tại của riêng ta, nhưng qua đó, chúng ta cũng còn lãnh nhận một trách nhiệm khác nữa, đó là phải trở nên ngôn sứ của Đức Giêsu. Nói cách khác, chúng ta phải có trách nhiệm loan truyền Đức Giêsu cho người khác.
Nhưng điều đáng nói ở đây là chúng ta loan báo bằng cách nào?
Hình ảnh của Đức Giêsu khiêm nhường để cúi xuống cho Gioan làm phép rửa nhắc cho chúng ta trước, trong và sau khi loan báo hãy lấy thánh ý Thiên Chúa lên trên và phải khiêm nhường. Nếu không có sự khiêm nhường thẳm sâu thì chúng ta sẽ làm đổ vỡ chương trình của Thiên Chúa và thay vào đó là ý định của ta. Thật vậy, không có Chúa, chúng ta chẳng làm được chuyện gì, bởi vì: "Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công" (Tv 126,1). Mỗi lúc như thế, chúng ta cũng nhớ lại sự xác tín của thánh Phaolô: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cor 3:6). Khi xác định như thế, ấy là lúc chúng ta ý thức được vai trò của chúng ta chỉ là đầy tớ cho ông chủ; là thợ trong vườn nho; là dụng cụ trong tay người thợ. Chúa mới là người quyết định thành bại: “Ngoài Ta ra các ngươi không thể làm gì được!” (Ga 15,5c). Thực ra, người ta có gì mà không do lãnh nhận từ Trên ban cho (x Ga 3,27). Chỉ khi nào chúng ta lắng nghe tiếng Chúa để khám phá ra mặt linh hồn của mình quá ô uế, vì Lời Chúa là gương soi mặt linh hồn (x Gc 1,23). Quả thật, “Chỉ ngang qua Lề Luật, ta mới biết mình có tội” (Rm 7,7). Và, khi đã nhận ra con người khốn nạn của mình, vì đã biết ý Chúa mà không làm, thì không còn dám kiêu căng, lên mặt, coi thường Thiên Chúa, khinh dể người anh em, lúc đó, ta làm sao mà dám lên mặt vênh váo với ai? Bởi lẽ: “Không ai công chính, không một ai [… ] hết thảy đều lầm lạc hư đốn cả lũ! [...] và tất cả thế gian phải tự nhận mình mắc án của Thiên Chúa” (x. Rm.3,10-20).
Cũng noi gương Chúa hoàn toàn vâng phục và chết vì yêu. Ngài thiết lập Nước của Ngài không phải súng đạn, binh đao và quyền lực. Nhưng hoàn toàn bằng tinh thần yêu thương, liên đới và tự hủy. Qua hình ảnh và hành động đó của Đức Giêsu, mỗi chúng ta cũng ý thức rằng: mọi sự rồi cũng qua đi, chỉ có Chúa và tình yêu của Ngài mới tồn tại: Vì “Không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Chúa” (1Sm 14,47a).
Trong mỗi một tập thể hay nơi gia đình, nếu mỗi người đều có tinh thần của của thánh Âutinh: "Cứ yêu đi, rồi làm gì thì làm!” ắt mọi chuyện sẽ được êm đẹp. Cứ xét mình trước rồi hãy xét đoán anh chị em thì sẽ thấy đôi khi tội mình nặng hơn họ. Cứ đặt mình vào cương vị bị người khác hạ nhục, hiểu lầm, bị quát nạt và xấc láo thì mới thấy thương và cảm thông với người khác hơn là trách mắng họ, nhất là đặt mình vào cương vị một người trên mà bị bề dưới sỉ vả hay hỗn xược thì mới thấy được cái cay đắng của những lần mình hỗn láo với những người đáng tuổi ông bà, cha mẹ của mình. Họ cũng đau, họ cũng buốt và nhất là họ thất vọng.
Mong sao trong mọi mối tương quan, ta hãy có tình bác ái và thông cảm cho nhau như Đức Giêsu đã vâng lời và khiêm nhường khi cùng đoàn người đến xin Gioan làm phép rửa thống hối cho mình. Qua đó Ngài muốn liên đới, cảm thông và nâng đỡ những ai đang vất vả, lầm lạc và khổ đau. Và cũng hy vọng hình ảnh một Đức Giêsu hiền hậu, khiêm nhường và hay tha thứ không bị lu mờ đi vì tấm gương quá bẩn, quá xấu của chúng ta.
Hy vọng lời ca ngợi của nhiều anh chị em không đồng đạo với chúng ta vẫn thường nói rằng: đạo Công Giáo là đạo tình yêu; đạo tha thứ; đạo khiêm nhường; đạo của “những người yêu nhau” sẽ không bị phản chứng khi ngay trong chính lối sống và cách hành xử nội bộ nơi con cái Chúa trong Giáo Hội.
Lạy Chúa Kitô, xưa Ngài đã làm đẹp lòng Chúa Cha bằng cách sống hòa đồng, chia sẻ phận người với chúng con. Xin Chúa giúp chúng con trong tình tương thân huynh đệ, cùng giúp nhau sống tốt về mọi mặt, để xây dựng một Giáo Hội hiệp nhất, yêu thương. Amen.
Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu, Tin Mừng hôm nay nói đến câu chuyện một dòng sông, dòng sông Jordan, nơi Con Thiên Chúa bước xuống để xin vị tiền hô của mình ban phép rửa.
So với Cửu Long mênh mang thuyền qua lại,
Jordan có thể chỉ là một con kênh.
Sánh với Hồng Hà mênh mông cuồn cuộn nước,
Jordan không hơn không kém một con lạch.
Ví với Dòng Hương dùng dằng những mộng mơ,
Jordan có thể được gọi là một con hói.
Dòng sông ấy có những chỗ thật hẹp; đứng bên bờ nầy, dường như không mấy khó khăn để ném một hòn đá sang bờ bên kia. Ấy thế, khởi đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã chọn cho mình dòng nước ấy; ở đó, Ngài đã bước xuống.
Ngài không vung gậy ra oai xẻ đôi lòng biển như một Môisen phép tắc, cũng không dũng mãnh như một Giosuê trực chiến Giêricô khiến nước Jordan dựng đứng như tường thành. Nhưng như bao người khác, Con Thiên Chúa lặng lẽ sắp hàng đợi đến phiên mình xin được nhận phép Rửa.
Ôi, Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng cho Cửu Long tưới mát để đồng bằng Nam bộ cò bay thẳng cánh; Đấng cho Hồng Hà bốn mùa phù sa sữa mẹ để delta miền Bắc màu mỡ xanh tươi; Đấng cho Hương Giang như không chảy lãng mạn gọi hồn thơ... lại chọn cho mình một con hói nơi một xứ không tên không tuổi trong một châu lục đông người ít của, nghèo thật nghèo... để chịu phép rửa, đánh dấu những chuỗi ngày thi hành sứ vụ Chúa Cha trao.
Các bạn có biết, nguyên cái tên gọi Jordan cũng đã nói lên ý nghĩa của nó. Dòng sông Jordan được gọi là dòng sông Đi Xuống. Jordan, tiếng Do Thái đọc là yar-dane, nghĩa là đi xuống. Từ rặng Hermon cao ngất (2,814m), ở độ cao 520m, Jordan mải đi xuống những 220 cây số, dừng ở biển hồ Huleh rồi Galilee, cuối cùng đổ ra Biển Chết với độ thấp mặt nước là 394m so với mực biển. Đây hẳn là một trong những chỗ thấp nhất của địa cầu. Con Thiên Chúa khập khễnh lần từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất ấy… không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.
Ôi, thẳm sâu thay sự khiêm nhường của Thiên Chúa! Đấng vô tội lại chen vai thích cánh với hạng phàm phu; Đấng ba lần thánh lại lục tục nối đuôi phường tục tử… như để nói với những người đương thời cũng như đang nói với mỗi chúng ta, những con người tội lỗi yếu hèn, “Đừng sợ, tôi đang đứng bên cạnh bạn!”.
Ngài không tách riêng hay đặt mình trên những tội nhân, nhưng liên kết với họ. Một sự liên kết tới mức bị coi như một tội nhân, chịu hành xử như người gây nên tội ác và cuối cùng, lãnh lấy hình án của một tội phạm.
Để từ nay, mỗi người chúng ta dù có bất xứng đến đâu, dù có yếu hèn đến mấy vẫn tin chắc, đã có Ngài bên cạnh, luôn cảm thông, luôn tha thứ và biện hộ thay. Mỗi chúng ta có quyền hy vọng vào lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót của một vị Thiên Chúa quyền năng và đời đời yêu thương.
Rồi cũng từ dòng sông định mệnh ấy, Đức Giêsu Con Thiên Chúa đã bước lên. Trời phải ngẩn ngơ, đất phải bàng hoàng, thần khí Thiên Chúa như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài với sự chứng giám của Chúa Cha cũng là Đấng luôn ở bên cạnh Ngài, “Này là con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta!”.
Cũng từ đó, mỗi người trong nhân loại bất luận ở đấng bậc nào, không thành vấn đề sắc tộc màu da, người Trung hay Nam, hoặc từ miền Bắc xa xôi; cũng không tính đến hiện trạng lành thánh hay tội lỗi đến mức nào... qua phép Rửa, chúng ta nên một trong Đức Giêsu, lãnh nhận cùng một Thánh Thần và đang cùng lắng nghe một tiếng nói, “Này là con yêu dấu của Ta!”.
Trong Đức Giêsu và qua Ngài, chúng ta, những người con được Thiên Chúa yêu thương cũng hãy ước mong cho nhau học biết lắng nghe những cung giọng nhẹ nhàng nhưng thật mạnh mẽ ấy, “Đừng sợ, tôi đang đứng bên cạnh bạn! Bạn là con yêu dấu của Chúa Cha!”. Chớ gì những lời nồng ấm ấy hằng vọng ngân trong mọi ngõ ngách tâm hồn bạn, ngõ ngách tâm hồn tôi. Ước mong trong mọi tình huống cuộc đời, tiếng nói yêu thương ấy vẫn không ngừng tặng trao mỗi người những âm hưởng có sức làm cho sống.
Nhưng thưa các bạn,
Hẳn không dễ gì chúng ta nghe được những lời trìu mến ấy trong một thế giới đầy những tiếng la hét gây thoái chí, “anh thật bình thường, chị không hơn ai”. Những tiếng nói tiêu cực nhưng âm ĩ và dai dẳng ấy cứ vang đi vọng lại đến mức làm cho một ai đó tin chúng một cách dễ dàng. Đó là cái bẫy to lớn, cái bẫy tự hạ giá chính mình, và đó cũng là kẻ thù lớn nhất của một đời sống làm con Chúa, bởi lẽ nó đi ngược với tiếng nói thiêng liêng bên trong đang ngỏ với bạn với tôi mỗi ngày, “Đừng sợ, tôi đang đứng bên cạnh bạn! Bạn là con yêu dấu của Chúa Cha!”.
Vậy chớ gì khi mừng kính Chúa Giêsu chịu phép Rửa, mỗi người chúng ta cảm nhận rằng, Ngài đang ở gần chúng ta hơn chúng ta tưởng. Ngài đang ở gần chúng ta khi chúng ta mạnh mẽ, lúc chúng ta yếu đuối; buổi thành công, cũng như hồi thất bại; phút sa ngã cũng như thời đứng lên; những ngày nắng ấm, những chiều giông bão… đã luôn luôn có Ngài bên cạnh, để rồi mỗi người quyết tâm ra khỏi chính mình, ra khỏi những ích kỷ, dứt bỏ những khuynh hướng xấu, đoạn tuyệt với tội lỗi… hầu cất bước tìm về với Ngài. Ngài sẽ băng bó, Ngài sẽ chữa lành, sẽ vác trên vai, sẽ rửa gội thương tích, băng bó và đem chúng ta về lại trong tình yêu thương của Chúa Cha.
Vậy mà bạn có biết, chính khi chúng ta vừa đặt chân xuống dòng nước để tìm lên ngọn nguồn, thì Đức Giêsu, dòng nước cứu độ ấy đã ôm chầm lấy chân chúng ta. Ôi, kỳ diệu thay, tình yêu thương và lòng thương xót từ ái của Thiên Chúa.
Mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta được diện kiến thánh nhan Ngài, Ngài sẽ đến với chúng ta; với lòng sạch tội, chúng ta đón nhận Ngài, và lòng bên lòng, Ngài lại sẽ thì thầm… thỏ thẻ với linh hồn, “Đừng sợ, tôi đang đứng bên cạnh bạn! Bạn là con yêu dấu của Chúa Cha!”.
Có một người bị rơi xuống hố sâu, tối tăm. Anh cố gắng trèo lên, vượt ra khỏi cái hố, nhưng lại bị tụt xuống. Tình cờ Đức Khổng Tử đi tới. Ngài nhìn xuống hố thấy anh bèn thương hại bảo: “Thật tội nghiệp cho con, nếu con chịu khó nghe lời ta dạy bảo, con đâu bị rơi xuống hố như vậy”. Nói rồi ngài lại tiếp tục bước đi. Sau đó Đức Phật Thích Ca đi đến. Ngài cũng nhìn xuống hố thấy anh và nói: “Thật tội nghiệp cho con, nếu con leo lên được trên này, ta sẽ giúp con”. Nói rồi ngài lại tiếp tục bước đi. Sau cùng Chúa Giêsu xuất hiện. Ngài nhìn xuống hố rồi nói: “Thật tội nghiệp cho con!” Rồi Ngài nhẩy xuống hố, nâng anh lên, và giúp anh trèo ra khỏi cái hố.
Qua phép rửa, Chúa Giêsu bước xuống dòng sông Giođan, biểu tượng cho chiều sâu của tội lỗi và sự chết, để cứu nhân loại.Đức Giêsu không cần phải chịu phép rửa vì Ngài là Thiên Chúa, nên không có tội. Hơn nữa Ngài lại tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần ngay từ lúc đầu thai trong lòng Đức Maria. Tuy nhiên qua phép rửa, bằng sự dìm mình trong dòng nước sông Giođan:
Ngài chấp nhận và bắt đầu sứ mạng người đầy tớ đau khổ của Ngài. Ngài tự xếp mình vào số những tội nhân, và Ngài đã là “Chiên con của Thiên Chúa xóa tội trần gian”. Ngài đã làm trước kỳ hạn cuộc “rửa” bằng cái chết đẫm máu của mình… vì tình yêu, Ngài đã ưng nhận phép rửa của sự chết để tha thứ tội lỗi của chúng ta.
Ngài đã nêu gương sáng về nhân đức khiêm nhường, và đã khởi sự sứ mạng phục vụ đối với những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, và tật nguyền.
Ngài đã bày tỏ “sự hư vô hóa bản thân mình” để trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha trong sứ mạng Thiên Sai. Vì thế, Chúa Cha đã lên tiếng nói rằng Ngài rất thỏa lòng về Con của Ngài. Đây là dấu hiệu bề ngoài chứng thực rằng Chúa Giêsu đã được chỉ định là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Và bây giờ, Ngài sẵn sàng cho sứ mệnh của một Đấng Thiên Sai.
Nhân ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta suy nghĩ về phép rửa tội của chúng ta. Nhà chú giải Thánh Kinh nổi tiếng Raymond E. Brown, đồng thời cũng là thần học gia, đã đưa ra nhận xét: “Ngày một người được nhận bí tích Thanh tẩy thì quan trọng hơn ngày người đó được truyền chức linh mục hay giám mục”.
Theo giảng huấn của Công đồng Vatican II, phép rửa tội đã sát nhập chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, để trở nên giống Ngài, và tham dự vào các chức vụ của Chúa Kitô: tư tế, tiên tri và vương giả.
Sách Giáo lý Công giáo số 1213 cũng nói lên sự quan trọng của phép rửa tội như sau: “Bí tích Rửa tội là nền tảng của tất cả cuộc sống Kitô giáo, là cửa mở vào sự sống trong Chúa Thánh Thần, và là lối dẫn vào các bí tích khác. Nhờ phép rửa tội, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi, được sinh lại làm con của Thiên Chúa, được trở thành các chi thể của Chúa Kitô, được gia nhập vào thân thể Giáo Hội và tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội. Phép rửa tội là bí tích của sự sinh lại bởi nước và trong Lời Chúa”.
Thường thường được lãnh phép rửa tội từ khi mới sinh, chúng ta dễ bị quên đi ý ngĩa sâu xa về tầm mức quan trọng của bí tích này. Đồng thời cũng đã không có cơ hội trải qua những kinh nghiệm nội tâm của ơn gọi được tái sinh, những cảm nghiệm về ơn phúc được mời gọi làm con cái Thiên Chúa, và cái giá phải trả khi quyết định lãnh phép rửa tội.
Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu đã được Thiên Chúa nhận làm con cái của Ngài rồi. Nhưng ước gì trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu chúng ta cũng cảm nghiệm được tiếng Thiên Chúa Cha phán riêng với chúng ta rằng: “Nầy là con yêu dấu của Ta, con đẹp lòng Ta”.
Câu chuyện đã xảy ra cách đây khá lâu. Ngôi thánh đường nhỏ bé trong một thị xã của vùng Trung Tây Hoa Kỳ đã xưa cũ, cần phải được sửa chữa lại, nhất là ngọn tháp. Cây thánh giá trên đỉnh ngọn tháp này phải được hàn lại cho chắc chắn để chịu đựng nổi sức gió thổi và sự xoi mòn của nắng mưa sương tuyết. Nhưng giàn ráo không thể bắc lên cao cho tới cây thánh giá được, chỉ gần tới mà thôi. Có một công nhân lực lưỡng, cao ráo, vai u thịt bắp, sẵn sàng đứng chịu cho người thợ hàn leo lên vai của anh để làm việc. Việc làm này thật nguy hiểm cho tính mạng của cả hai người!
Từ bên dưới, đám đông nhìn lên nín thở. Sau cùng, công việc hàn lại cây thánh giá cũng hoàn tất. Người thợ hàn bò xuống khỏi đôi vai nở rộng và khỏe mạnh của anh công nhân. Rồi anh công nhân cũng chậm rãi leo xuống khỏi giàn ráo. Khi vừa xuống tới đất, anh nằm bật ngửa ra nền nhà. Đôi vai và hai cánh tay vạm vỡ của anh đầy những vết phỏng.
Cái gì đã xảy ra? Trong khi người thợ hàn lại cây thánh giá, những giọt kim loại nóng bỏng đã nhiễu xuống đôi vai và hai cánh tay của anh công nhân đang cố gắng giữ chặt lấy người thợ hàn. Mặc dù đau đớn và xót xa cực độ, nhưng anh đã không dám nhúc nhích. Bất cứ một phản ứng nào cũng có thể làm cho người thợ hàn ngã xuống và chết tại chỗ. Phải mất vài tuần lễ những vết phỏng mới được lành hoàn toàn.
Qua phép rửa tội, chúng ta cũng được gọi để làm chứng minh cho Tin Mừng. Làm chứng nhân cho chân lý đòi hỏi phải hy sinh, và đôi khi phải trả giá bằng chính mạng sống của mình như Gioan tẩy giả đã làm. Làm môn đệ của Đức Kitô phải thường xuyên đấu tranh với những khuynh hướng xấu nơi bản tính của con người, chống lại sự dữ, tội lỗi và ma quỉ. Đó là cuộc tử đạo kéo dài suốt đời người.
Trong cuốn “Tiếng Chim Ca”, cha Anthony De Mello, S.J. đã dùng dụ ngôn “Tiệm Bán Chân Lý” để nói lên cái giá phải trả của những người môn đệ theo Chúa Giêsu:
Tôi hoa mắt lên khi thấy tên cửa tiệm: “Tiệm Bán Chân Lý”. Cô bán hàng rất lễ phép: tôi muốn mua loại chân lý nào đây, toàn diện hay từng phần – phiếm diện? Chân lý toàn diện, dĩ nhiên rồi. Đối với tôi, nhất định không có lừa bịp, không có khống chế, không có giải thích quanh co. Tôi muốn chân lý của tôi phải thuần khiết và minh bạch. Cô bán hàng vẫy tay ra hiệu chỉ cho tôi phía đằng kia tiệm sách.
Cậu bán sách ở đó lấy ngón tay chỉ cái nhãn hiệu có ghi giá cả. Cậu ta nói: “Thưa ông, giá rất đắt”. Tôi hỏi: “Giá bao nhiêu?” Vì tôi cương quyết mua cho bằng được cái chân lý toàn diện, cho dù phải trả bằng bất cứ giá nào. Cậu trả lời: “Thưa ông, giá của sự an toàn của ông đấy “. Tôi ra khỏi tiệm với con tim nặng trĩu. Tôi đang cần sự an toàn cho những niềm xác tín bất khoan nhượng của tôi.
Vì làm chứng nhân cho chân lý nên thánh Gioan Tẩy giả đã bị chém đầu, Chúa Giêsu đã phải chết trên cây thập giá. Phải trả bằng giá của mạng sống, vì thế Chúa Cha đã phán: “Nầy là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”.
Qua Bí tích Rửa tội, mỗi người Kitô hữu đã được Thiên Chúa nhận làm con cái của Ngài rồi. Nhưng ước gì trong đời sống chứng nhân của người Kitô hữu chúng ta cũng cảm nghiệm được tiếng Thiên Chúa Cha phán riêng với chúng ta rằng: “Nầy là con yêu dấu của Ta, con đẹp lòng Ta”.
Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ: - Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.
Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.
Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em:
- Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.
Thực vậy, em nhỏ mặc dù được gọi nhà vua là cha, nhưng trong huyết quản em vẫn không có lấy được một giọt máu của hoàng tộc. Thực tế em vẫn chỉ là con của một kẻ nghèo túng.
Nhưng đối với chúng ta thì khác, nhờ dòng nước rửa tội, chúng ta được tẩy sạch khỏi mọi vết nhơ tội lỗi đã đành, mà hơn thế nữa chúng ta còn được mặc lấy tấm áo ơn sủng. Thiên Chúa thông ban cho chúng ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, thì đó không còn là một danh từ trống rỗng và vô nghĩa, nhưng là một sự thật:
- Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con của Ngài.
Chúng ta hãy vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một địa vị cao cả như thế, và nhất là hãy cố gắng sống cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy.
Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.
Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghĩ:
- Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.
Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói:
- Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.
Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên: - Trời ơi, con ta.
Và cậu bé cũng kêu lên: - Ba ơi.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé. Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.
Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.
Với chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không?
Người nào ý thức về địa vị cao cả ấy sẽ không bảo:
- Tôi đi nhà thờ.
Nhưng nói: - Tôi đi gặp gỡ và tâm sự với Chúa, bởi vì cầu nguyện chính là lúc người con thố lộ tâm tình với cha mình.
Đây là một việc làm kỳ diệu và tuyệt vời,bởi vì một con người tầm thường và xấu xí như chúng ta mà lại được tiếp xúc, trò chuyện với Thiên Chúa.
Một người luôn ý thức về địa vị cao cả ấy, thì dù có làm việc gì cũng không baso giờ quên Thiên Chúa là cha của mình. Người ấy sẽ luôn thầm nhủ:
- Tôi sẽ làm vui lòng Cha tôi ở trên trời.
Khi chiêm ngắm những cảnh sắc hùng vĩ của thiên nhiên, người đó sẽ nghĩ ngay đến Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên tất cả.
Nhờ đời sống ơn sủng được chuyển thông qua bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa. Địa vị cao cả này đòi buộc chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc phải có những lời nói và những việc làm thích hợp.
Bởi đó, phải sống làm sao cho xứng đáng với địa vị cao cả ấy, để rồi trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ nói về chúng ta như ngày xưa Ngài đã nói về Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
Tôi thường nghe nhiều người nói với tôi rằng cuộc đời của họ không giống với những gì họ đã nghĩ tưởng hoặc dự định chút nào hết. Một người bạn giới thiệu với ta một công việc mà mà mình không được chuẩn bị để làm nhưng lại mở ra những viễn ảnh bất ngờ; một biến cố không quan trọng đưa chúng ta đi xa hơn những gì mình nghĩ; cuộc gặp gỡ tình cờ với một người mang lại cho chúng ta một khả năng thăng tiến, mở ra cho ta một cuộc sống có một ý nghĩa mới mẻ. Tất cả những tình huống này có thể giúp chúng ta khám phá ra những chiều kích mình chưa biết đến, những khả năng hầu như không bao giờ ta dám nghĩ tới, và đẩy chúng ta vào một cuộc mạo hiểm hoàn toàn bất ngờ, đầy hứa hẹn và thách đố.
Việc Chúa Giêsu đến với Gioan tẩy giả có giống kinh nghiệm của bản thân chúng ta không? Chúa Giêsu có cần nghe nói Ngài là ai và từ nay Ngài phải làm gì với cuộc sống của Ngài không? Ngài đến gặp vị ngôn sứ đang rao giảng việc hoán cải. Ngài muốn nghe tiếng nói của người hô lên trong sa mạc. Ngài quyết định chịu phép rửa như tất cả các bạn đồng hương. Có lẽ với tư cách là người, Chúa Giêsu đã muốn đến tìm nơi Gioan tẩy giả ánh sáng về sứ vụ tương lai của Ngài.
Vì Chúa Giêsu không biết trọn vẹn ý định của Thiên Chúa về Ngài, như biết một sơ đồ của kiến trúc sư. Ngài không có kế hoạch chi tiết về biến cố Tin mừng. Vậy nên Ngài chuẩn bị đón nhận những dấu chỉ mà Thiên Chúa gởi đến cho Ngài. Ngài chuẩn bị nội tâm thuận lợi để có thể đương đầu với một cuộc thách thức. Chính Ngài cũng muốn gặp gỡ Vương Quốc mà Gioan loan báo. Chính Ngài đang sống một cuộc sống sinh hoa kết quả.
Chúa Giêsu đã muốn trà trộn vào đám dân chúng tội lỗi, đồng hóa với họ, khi mà Ngài bước vào một bước ngoặt quan trọng trong đời Ngài. Đây có lẻ là sự phản kháng đầu tiên chống lại giấc mơ của người Do Thái về một Đấng Mêsia chiến thắng.
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả bắt đầu biểu lộ căn tính của Ngài. Dường như Gioan có ý thắc mắc về Chúa Giêsu, nhưng câu trả lời của Ngài có vẻ không soi sáng ho chúng ta nhiều hơn về căn tính của Ngài:
“Ta phải thực hiện mọi sự công chính”.
Trước hết là Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Ngài như dấu chỉ cho thấy Thánh Thần ở nơi Ngài. Sau là Chúa Cha tuyên bố về tình yêu của Ngài đối với Con Một Ngài.
“Ta hoàn toàn vui thỏa về người Ta đã chọn”.
Chình lời này đã định nghĩa sứ vụ và định mệnh của Chúa Kitô: Sứ vụ làm chứng rằng Ngài được Thiên Chúa yêu thương, sứ vụ làm chứng rằng mọi con người trước và sau Ngài cũng là con cái yêu dấu của Chúa Cha.
Vậy chính từ một kẻ khác, mà Chúa Kitô đã được mặc khải cho chính mình và cho thế giới, và chính điều này đẩy Ngài vào cuộc mạo hiểm lớn lao của việc cứu độ. Cũng chính từ Chúa Kitô mà chúng ta được mặc khải cho chính mình, nhờ phép rửa:
Các con hãy xem chúng ta được thương yêu dường nào, vì chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa, và thực sự là như vậy”
Phép rửa tội của chúng ta ban cho chúng ta một sứ vụ.
Với tư cách là con cái Thiên Chúa chúng ta được mời gọi nhìn nhận thực tại này và họa lại cuộc sống của Chúa Giêsu trong đời của chúng ta. Chúng ta phải tỏ ra sẵn sàng “thực thi mọi sự công chính”. Và dấn thân theo gót Ngài để mặc khải tình yêu của Chúa Cha. Như Chúa Giêsu khi ra khỏi nước được tràn đầy Chúa Thánh Thần và được giao cho sứ vụ, cũng vậy phép rửa dìm chúng ta vào nước, để khi ra khỏi nước chúng ta sống một cuộc sống mới. Cuộc sống mới này thúc đẩy chúng ta biểu lộ tình thương xót của Thiên Chúa đối với anh chị em chúng ta, biểu lộ lòng ưu ái đối với những người nghèo nhất và những người bị xã hội bỏ rơi. Chúng ta có ý thức về trách nhiệm này không? Chúng ta có sẵn sàng làm chứng cho đức tin trước mặt những kẻ mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày không? Chúng ta có sẵn sàng trở thành những chứng nhân của Lời và hành động của Chúa Kitô bằng cách cũng thực hiện những cử chỉ tha thứ, khiêm nhường, bác ái huynh đệ đó không? Chúng ta có ý thức rằng khi chúng ta đón nhận kẻ khác trong những giới hạn, những nỗi yếu hèn của họ, là chúng ta dấn thân theo gót Chúa Kitô không? Qua chúng ta tình yêu của Chúa Cha sẽ được mặc khải cho họ, một cuộc sống mới có thể bắt đầu đến với họ, và cuộc sống này sẽ đưa họ đi xa hơn những gì họ đã dự tính.
Những gì Chúa Cha đã nói về Chúa Kitô, Chúa Kitô cũng nói lại với chúng ta trong phép rửa tội của chúng ta. Chúng ta là những con chí ái của Chúa Cha. Ước gì chúng ta có thể tỏ ra xứng đáng với địa vị làm con Thiên Chúa. Ước gì hồng ân của phép thánh tẩy có thể sinh hoa kết quả để cho Tin Mừng luôn luôn tăng trưởng nơi chúng ta và trong cộng đoàn của chúng ta. Ước gì chúng ta có thể sinh dồi dào hoa trái tình thương, công lý, trung thành và bình an.
Theo quan niệm của các tiên tri thì tầng trời được chia ra làm 3 tầng. Tâng 1 là thiên đàng, nơi Chúa Ba Ngôi, các thánh ngự trị. Tầng thứ hai dành cho loài người. Còn tầng chót gọi là âm phủ dành cho con người sau khi chết.
Từ khi Adam Evà phạm tội, trái đất sinh ra khác “Con người sẽ phải chết, ông bà sẽ phải làm lụng đổ mổ hôi xôi nước mắt mới có của ăn, cây cối sinh ra cằn cội, súc vật có con sẽ không vâng phục loài người nữa. Tất cả sinh ra tồi tệ hơn”. Vì thế các đấng thánh đã cầu xin Chúa “xé bầu trời mà xuống” (Is 64:1). “Hỡi các tầng trời hãy đổ sương mai, hỡi ngàn mây hãy mưa đấng công chính, đất hãy mở ra và trổ sinh Đấng Cứu Chuộc” (Is:45,8). Thánh Vịnh thì cầu: “Lạy Chúa, xin vén màn trời đến với chúng con” (Tv.144:5). “Trời cao hãy mưa đấng công chính”.
Hôm nay nếu chúng ta đọc bài Phúc Âm sẽ thấy: “Bầu trời mở ra và có chim bồ câu bay đến đậu trên đầu Ngài và có tiếng tư trời phán xuống: Này là Con Ta yêu dấu, Con làm đẹp long Ta mọi đàng”.
Nghĩa là Chúa đã chấp nhận lời cầu xin của các thánh nhân, nghĩa là một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người xuất hiện, và thần trí Chúa tỏa lan như hình chim bồ câu bay lượn trên Ngài, nghĩa là ánh sáng Chúa như thần khí bay lượn trên mặt nước, một cuộc tạo dựng mới xuất hiện như lời tiên tri Isaia tiên báo: “Tá sẽ xây dựng một trời mới đất mới tràn đầy hạnh phúc và vui mừng” (Is. 65:17-18). Và tiếng Chúa đã xác nhận Ngài là Adam mới, là trưởng tử mới của mọi tạo vật. Thánh Phao lô viết “Ngài từ trời mà xuống” (1 Cor. 15:47).
Như vậy chúng ta là người của sự chết được tái tạo trong Chúa Adam mới là đức Kitô, là người cảm được sự yếu hèn của vật chất mà cũng là người của sự sống. “Tôi không làm điều mình muốn mà lại làm điều mình chẳng muốn” (Rom. 7:15).
Tóm lại bài Tin Mừng muốn chúng ta hiểu mình là con người được tái tạo trong đức Kitô, được rửa tội trong Ngài, vì Ngài và với Ngài, chúng ta được chia sẻ sự sống với Ngài.
Tâm lý thường tình của con người là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trổi hơn người khác.
Khi nói chuyện với nhau, người ta thường thích nói về mình: Tôi thế này, tôi thế nọ. Khi ở giữa đám đông, người ta thích làm nổi, thích được chú ý, thích được khen ngợi. Ở trong một tập thể, người ta thích giữ những chức vụ lớn, thích điều khiển người khác, thích làm những công việc được nhiều người biết đến. Khi hội họp, người ta muốn ý kiến của mình được tôn trọng và chấp thuận dù nó không hay bằng ý kiến của người khác… Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác. Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để chiến lấy vị trị của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, dèm pha bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác?... Sự kiêu căng không đem lại điều gì tốt đẹp cho người kiêu căng cả. Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên Thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…
Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong máng cỏ hôi tanh, và chiêm ngắm Người trong biến cố Người chịu phép rửa, chúng ta sẽ thấy mình lố bịch biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình.
Thật vậy,
- Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Người đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
- Là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Người đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giầu sang. Trái lại, Người chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
- Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Người lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi.
- Người là Thiên Chúa của muôn loài, nhưng lại hòa mình với đám đông không tên tuổi để trở thành một người vô danh như họ.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm tốn thẳm sâu của con Thiên Chúa làm người? Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửu trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xóa bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cánh Cửa Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.
"Vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý".
Đây là chủ đề thích hợp cho riêng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một lễ mở màn cho Mùa Phụng Vụ Hậu Giáng Sinh. Bởi vì, bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm đều thuật lại sự kiện về "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha" này, tức "về Giêsu Nazarét, Người bắt đầu từ Galilêa chịu phép rửa mà Gioan rao giảng' và về cách thức Thiên Chúa lấy Thánh Linh và quyền năng mà xức dầu cho Người" (bài đọc 2).
Theo Phúc Âm thánh Mathêu, "Chúa Giêsu từ Galilêa đến với Gioan ở sông Dược-Đăng để chịu phép rửa của ông", và "sau khi chịu phép rửa xong" thì Người được "Thiên Chúa lấy Thánh Linh và quyền năng mà xức dầu cho Người" (bài đọc 2). Ở chỗ, "Thần Linh Thiên Chúa như một chim câu đậu xuống trên Người". Thêm vào đó, Thiên Chúa còn chính thức giới thiệu "Người Con duy nhất" của mình này với loài người, mà đại diện bấy giờ là Gioan, con người tiêu biểu nhất của loài người (xem Luca 7:28), bằng "tiếng từ các tầng trời vang lên: 'Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta ái mộ Người'".
Nếu trong Phúc Âm thánh Mathêu, "Người Con duy nhất" này của Thiên Chúa đã được Ngài giới thiệu với loài người, thì trong Phúc Âm của hai thánh Matcô và Luca, "Người Con duy nhất" này lại được chính Thiên Chúa trực tiếp tỏ lòng thương mến đặc biệt, bằng lời thú nhận: "Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng vì Con (hay) Cha sủng ái Con".
Ở đây, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được mạc khải cho loài người biết qua trình thuật của Phúc Âm Nhất Lãm, trong trường hợp Đức Kitô lãnh nhận Phép Rửa ở sông Dược-Đăng. Thiên Chúa Ngôi Cha được biểu hiệu qua "tiếng phán từ các tầng trời" (Phúc Âm cả 3 năm), Thiên Chúa Ngôi Con được sống động nơi hình ảnh của con người Đức Kitô, và Thiên Chúa Ngôi Ba là "Thần Linh" (Phúc Âm năm A và B) hay "Thánh Linh" (Phúc Âm năm C) được biểu hiệu qua "hình chim câu đậu xuống trên Người" (Phúc Âm năm C).
Thật ra, theo thần tính của mình, là "Lời ở nơi Thiên Chúa" (Phúc Âm lễ Ban Ngày Giáng Sinh) đã được Thiên Chúa "phán từ các tầng trời" khi "Ngài nói với (con người) chúng ta qua Con của Ngài" (bài đọc 2 Lễ Ban Ngày Giáng Sinh), thì trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải ở đây, Thiên Chúa Ngôi Con chính là "tiếng phán từ các tầng trời", tức là "tất cả sự thật" (Jn.16:13) nơi Thiên Chúa được tỏ ra cho loài người, nơi con người của Đức Giêsu Kitô. Như thế, được ngôi hiệp với thần tính, nhân tính của Đức Giêsu Kitô chính là "đường lối" (Jn.14:6) mạc khải của Thiên Chúa.
Thế nhưng, Thiên Chúa muốn mạc khải những gì, nếu không phải là tình yêu của Ngài đối với loài người, một thân phận tạo vật được hiện thân nơi con người của Đức Giêsu Kitô, một tình yêu được mạc khải qua nội dung của "tiếng phán từ các tầng trời", đó là "Ta ái mộ Người" (Phúc Âm năm A), hay "Cha sủng ái Con" (Phúc Âm năm B) hoặc "Cha hài lòng vì Con" (Phúc Âm năm C).
Do đó, "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha" đây không là gì khác ngoài tình trạng "đầy ân sủng và chân lý" ở nơi Người. "Ân sủng" ở đây là gì, nếu không phải là việc "Thiên Chúa yêu thương..." (Jn.3:16) hay "Thiên Chúa chứng tỏ/mạc khải tình yêu của Ngài..." (Rm.5:8' 1Jn.4:9). Và "chân lý" ở đây là gì, nếu không phải là "Thiên Chúa là tình yêu" (1Jn.4:8,16).
Chính thứ tự của câu "ân sủng và chân lý", trong đó, "ân sủng" được đặt trước "chân lý", đã nói lên động lực và thực tại nơi mạc khải của Thiên Chúa: vì yêu thương (ân sủng) Thiên Chúa đã mạc khải tình yêu là bản tính của Ngài ra (chân lý).
Vì việc mạc khải của Thiên Chúa là do "ân sủng", tức là phát xuất từ việc Thiên Chúa yêu thương nhân loại, và cũng vì cả mạc khải của Thiên Chúa còn là chính Tình Yêu của Ngài, một thực tại nói lên "tất cả chân lý" của mạc khải, mà "Thánh Linh", "Đấng An Ủi, là Thần Chân Lý" (Jn.15:26), mới nhập cuộc, xuất hiện bằng hình ảnh của "chim câu", biểu hiệu cho tâm tình "hiền lành" (Mt.11:29), liên quan đến "ân sủng", và cũng biểu hiệu cho đức tính "đơn thành" (Mt.10:16), liên quan đến "chân lý". Như thế, nếu nhân tính của Đức Kitô, "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" này, như vừa nhận thức, là "đường lối" mạc khải của Thiên Chúa, thì "Thần Linh (hay) Thánh Linh lấy hình chim câu đậu xuống trên Người" đây chính là nguyên lý, là tác nhân mạc khải của Thiên Chúa.
Do đó, "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" đây còn là "Thánh Linh" mà "Thiên Chúa xức dầu cho Người" (bài đọc 2), đồng thời cũng là "Thần Linh" mà Thiên Chúa "đã đặt trên Người" (bài đọc 1). Bởi đó, dưới tác động hay ảnh hưởng "quyền năng từ trên cao" (Lk.24:49) là "Thần Linh" hay "Thánh Linh" này, mà Đức Kitô, "Giêsu Nazarét... đi khắp nơi thực hiện những việc lành và chữa trị cho tất cả những ai bị ma qủi cầm buộc, và Thiên Chúa ở với Người" (bài đọc 2).
Về việc Chúa Giêsu vô tội mà lại lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô: tại sao Người chịu phép rửa hay Người chịu phép rửa để làm gì?
- … Để có thể trả lời một cách chính xác cho vấn đề tại sao Chúa Kitô vô tội mà còn lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô, trước hết, về nguyên tắc, chúng ta cần phải lưu ý đến yếu tố cốt lõi là Chúa Kitô có hai bản tính, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại. Tuy nhiên, trong hai bản tính được ngôi hiệp nơi Đấng Thiên Sai này, bản tính Thiên Chúa là chính và bản tính nhân loại là phụ, bởi thế mới nói Người là Thiên Chúa Nhập Thể hơn là Con Người Thần Linh. Đó là lý do Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 466 mới xác tín: “Nhân tính của Đức Kitô không có một chủ thể nào khác ngoài ngôi vị thần linh Con Thiên Chúa, Đấng đã mặc lấy nhân tính ấy và biến nhân tính ấy thành nhân tính của mình”, và số 515 còn giải thích rõ hơn nữa như sau: “Nhân tính của Người như là ‘một bí tích’, tức như là một dấu hiệu và là một dụng cụ, của thần tính Người cũng như của ơn cứu độ Người mang đến, ở chỗ, những gì hữu hình nơi đời sống trần gian của Người đều dẫn đến mầu nhiệm vô hình của vai trò thiên tử và sứ vụ cứu chuộc của Người”. Số Giáo Lý 516 tóm lại thế này: “Toàn thể đời sống trần gian của Chúa Kitô – lời Người nói, việc Người làm, Người thinh lặng và Người khổ đau, cung cách Người sống động và nói năng thực sự – là Mạc Khải của Chúa Cha”.
Đó là lý do tại sao khi nói về việc Chúa Giêsu chịu phép rữa của Tiền Hô Gioan, Giáo Lý số 536 đã cảm nhận một cách hết sức sâu xa và xác đáng như sau: “Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, về phần Người, đó là việc Người chấp nhận và mở màn cho sứ vụ của Người như là một Người Tôi Tớ khổ đau của Thiên Chúa. Người tự cho mình thuộc vào số các tội nhân; Người là ‘Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian’ (Jn 1:29; x. Is 53:12). Người hướng vọng tới ‘phép rửa’ là cái chết đẫm máu của Người (x Mk 10:38; Lk 12:50). Người đến để ‘làm trọn tất cả sự chính trực’, tức là, Người bắt mình hoàn toàn thuận phục ý muốn của Chúa Cha, ở chỗ, vì yêu thương Người đồng ý chấp nhận phép rửa tử nạn để xóa bỏ tội lỗi của chúng ta (Mt 3:15, x. 26:39)… Chúa Giêsu sẽ là nguồn mạch Thần Linh đổ xuống cho tất cả nhân loại. Trong lúc Người lãnh nhận phép rửa, ‘các tầng trời mở ra’ (Mt 3:16) – các tầng trời bị tội lỗi Adong đóng lại – và các giòng nước được thánh hóa bởi việc Chúa Giêsu dìm mình xuống cũng như bởi Thần Linh, đó là một dạo khúc mở màn cho cuộc tân tạo”.
Đối với tôi, việc Chúa Kitô lãnh nhận phép rửa không phải là vì nhân tính của Người có tội như bản tính hư hoại của loài người chúng ta, mà là để nhân tính ấy được tràn đầy Thần Linh. Cũng giống như việc Người ăn chay và chịu cám dỗ trong hoang địa 40 đêm ngày không phải là vì nhân tính của Người đầy đam mê nhục dục cần phải khổ chế và đền tội như loài người tội nhân chúng ta, mà là để nhân tính đầy Thần Linh của Người trở thành phương tiện cho Thiên Chúa sử dụng trong việc chế ngự sự dữ và cứu độ thế gian. Thật ra, nhân tính của Người đã được tràn đầy Thần Linh ngay từ giây phút nhập thể trong lòng Trinh Nữ Đầy Ơn Phúc Maria. Thế nhưng, vì Người cần phải thông ban mức độ tràn đầy Thần Linh của mình ra cho chung nhân loại cũng như cho riêng Giáo Hội của Người nữa, điển hình sau khi phục sinh từ trong kẻ chết, tức lúc nhân tính của Người hoàn toàn hiển linh, Người đã hiện ra với các tông đồ và thở hơi trên các vị để các vị “nhận lấy Thánh Linh” (Jn 20:22), mà Người cần phải tỏ mình ra Người thực sự là Đức Kitô, tức là một Đấng được xức dầu, một Đấng đầy Thần Linh, tức là một Đấng Thiên Sai. Và tác động thích hợp nhất và ý nghĩa nhất để tỏ mình đầy Thần Linh cho phần rỗi của loài người chính là việc Người lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền Hô tại sông Dược Đăng khi bắt đầu xuất thân cứu nhân độ thế.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, Cha đã sai "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý", để "Người mang công chính đến cho các dân tộc... làm giao ước của dân, làm ánh sáng cho các dân tộc..." (bài đọc 1) - xin Cha "chúc phúc cho (chúng con) trong cảnh thái bình" (đáp ca), thành phần "người mù... tù nhân... sống trong tăm tối" (bài đọc 1), đã được Người, qua Bí Tích Rửa Tội, "mở mắt (lương tri) cho... giải tỏa tình trạng (ma qủi) cầm buộc cho... và đưa ra khỏi ngục (thế gian)" (bài đọc 1).
Thực hành sống đạo:
Luôn là nơi để Thiên Chúa có thể tỏ mình Ngài ra qua việc chúng ta chu toàn những gì Ngài muốn.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy những điều sau đây. Thứ nhất, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Thần Linh qua hình ảnh chim câu, Ngôi Con qua hình ảnh một con người, và Thiên Chúa qua tiếng nói phát ra từ trời. Thứ hai, Thiên Chúa Ba Ngôi lần đầu tiên tỏ mình ra (được biểu hiệu qua hình ảnh “mở ra” của “các tầng trời”) chỉ sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa (ở chỗ khi “Chúa Giêsu lên khỏi nước”). Thứ ba, con người Giêsu muốn Gioan làm phép rửa cho mình để Người có thể tỏ mình ra Người là Con Thiên Chúa; và Thiên Chúa đã chứng nhận con người Giêsu này thực sự là Con Thiên Chúa qua Thần Linh của Ngài “ngự xuống… đậu trên Người”. Thư bốn, trong số những người Do Thái bấy giờ đến xin Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho có Chúa Giêsu, nhưng mọi người không biết Người cho đến khi Gioan nhận ra Người, nhất là cho đến khi Người được Thiên Chúa chứng nhận. Vậy, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau sinh hoạt Lời Chúa bằng trò chơi “Này là Con Ta yêu dấu”.
Trong ngày kỷ niệm Chúa chịu phép rửa nơi sông Giođan, phụng vụ trình bày cho chúng ta sự kiện chính Thiên Chúa Cha giới thiệu và tuyên bố Chúa Giêsu Kitô, Con của Ngài, là vị cứu tinh cho toàn thể nhân loại.
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần rõ rệt. Phần một diễn tả Gioan làm chứng về Chúa Cứu Thế, Đấng có quyền năng thanh tẩy nhân loại trong Thánh Thần, nghĩa là có sức mạnh chữa lành con người toàn diện, mở ra con đường giải thoát thiêng liêng, và nhóm lên trong lòng con người niềm hy vọng nơi quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Phần hai trình bày sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa và việc Chúa Cha chứng kiến và can thiệp.
Phép rửa mà Gioan thực hiện bằng nước chỉ là hình bóng, là hình thức minh chứng cho người đến chịu phép rửa ý muốn xưng thú tội lỗi, cải hóa nội tâm và trở về đường ngay nẻo chính. Gioan làm phép rửa trong vùng hoang địa dọc bờ sông Giođan. Từ hoang địa nhắc lại giai đoạn lịch sử khi dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ trở về Đất Hứa. Sông Giođan là trở ngại sau cùng mà dân Do Thái phải vượt qua để vào Đất hứa.
Khi xuống dòng sông để cho Gioan thanh tẩy, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ liên đới với nhân loại tội lỗi, một cử chỉ báo trước việc tự hạ đẫm máu của Người trên thập giá, để cho nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa và được cứu thoát. Dòng nước chảy chỉ có năng lực thanh tẩy thực sự trong ngày Chúa Kitô xuống dòng sông để thánh hóa và ban thần lực cho nó.
Điểm chính yếu và mang nặng ý nghĩa trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa chính là lời tuyên bố của Thiên Chúa Cha, một lời tuyên bố vắn tắt, nhưng hàm xúc ý nghĩa sâu xa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. “Là Con yêu dấu” đồng nghĩa với Con duy nhất, nhắc lại sự kiện Abraham đã hiến tế người con duy nhất là Isaac cho Thiên Chúa. “Cha hài lòng về Con” là lời tiên tri của Isaia trong bài ca về người tôi tớ đau khổ, mà Tân ước áp dụng cho Chúa Kitô Cứu thế: “Đây là người Tôi trung Ta nâng đỡ, là người ta tuyển chọn và quí mến hết lòng. Ta cho thần khí Ta ngự trên nó, nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân”. Lời tuyên bố này chứa đựng niềm tin của cộng đoàn dân ngoại đã khai sinh, ám chỉ sự nghiệp của Chúa Kitô, Đấng mà Môsê mớ sẽ đưa dân qua Biển Đỏ, là Giosuê mới sẽ lãnh đạo và đưa dân ra khỏi dòng sông Giođan, nghĩa là ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi mà vào Đất Hứa, để hưởng niểm vui vì được giải hòa với Thiên Chúa và nhận Thiên Chúa là Cha.
Sau khi ra khỏi dòng sông Giođan, Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa bốn mươi ngày để chịu ma quả cám dỗ. Được Chúa Cha ủng hộ, từ nay Chúa Giêsu can trường chấp nhận mọi khó khăn thử thách, có đủ sức để chiến thắng ma quỷ. Người Kitô hữu tin theo Chúa mỗi khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chẳng khác nào như được dìm mình trong dòng sông Giođan, họ sẽ trở nên con cái Thiên Chúa, được lãnh nhận Thánh Thần và được tràn đầy các ân sủng của Thiên Chúa, trung thành với sứ mệnh của mình và bảo toàn nguồn ân sủng thiêng liêng đã lãnh nhận, và họ đã được Thiên Chúa yêu thương sủng mộ.
Xin Chúa cho chúng ta luôn sống kết hiệp với Chúa, để cũng có thể được nghe lời này: “Con là Con của Ta, Ta hài lòng về Con”.
Bốn tin mừng đều ghi lại việc Chúa Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:9-11; Lc 3:21-22; Gio 1:29-34). Lần đầu tiên Chúa Giêsu xuất hiện sau lời tiên báo của Gioan về Đấng cao trọng hơn ông sẽ đến (3:11). Người đến sông Giorđan để chịu phép rửa mà Gioan đang làm cho dân chúng. Gioan phản đối và không chịu làm phép rửa cho Chúa Giêsu, vì ông thấy mình không xứng đáng (3:14). Tuy nhiên Chúa Giêsu tuyên bố là Người phải làm trọn thánh ý Chúa Cha (3:15). Chúa Cha xác nhận Người là người Con yêu dấu của Người (3:17). Sau đó, Chúa Giêsu sẽ vào sa mạc (4:1-11) và bắt đầu sứ vụ rao giảng. Có thể phân chia đoạn nầy như sau: - Bối cảnh của trình thuật: Chúa Giêsu xuất hiện ở sông Giorđan (c. 13); - Đối thoại với Gioan (cc. 14-15); Thánh Thần ngự xuống trên Người và lời xác nhận của Chúa Cha (cc. 16-17).
Chúa Giêsu xuất hiện ở sông Giorđan (3:13)
Câu nhập đề nầy có cấu trúc song song với câu 3:1. Mục đích là cho thấy con người và sứ vụ của Gioan đang chấm dứt và được thay thế bởi Chúa Giêsu và sứ vụ của Chúa Giêsu. Gioan đã nói với dân chúng về việc nầy (3:11). Matthêô ghi nhận ngắn gọn trong câu nầy những dự kiện chính yếu đã trình bày trước đó. “Chúa Giêsu đến”, như 3:1, Matthêô dùng cách nói nầy để giới thiệu Người như là khuôn mặt chính từ đây trong tin mừng nầy. “Từ Galilêa”, trước đây Giuse đem Hài nhi và mẹ Người về cư ngụ tại Nazaréth, thuộc miền Galilêa (2:23). “Sông Giorđan”, Gioan đang làm phép rửa tại đó cho dân chúng (3:5-6). Họ từ Giêrusalem và khắp vùng Giuđêa, trong khi một mình Chúa Giêsu đến từ Galilêa. Họ đến xưng thú tội và chịu phép rửa. Chúa Giêsu cũng đến để lãnh nhận phép rửa dù không làm hành vi xưng thú tội. Người muốn đứng chung với những người tội lỗi.
Đối thoại với Gioan (3:14-15)
Matthêô không có chung đoạn nầy với các tin mừng khác. Matthêô không cho biết làm sao Gioan có thể nhận ra Chúa Giêsu; do đó không muốn làm phép rửa cho Người (3:14). Động từ diakōlyō có nghĩa là “ngăn cản” bằng cách đẩy ra xa. Gioan tìm cách đẩy Người ra xa. Ông không muốn làm vì theo lời ông tuyên bố, Người sẽ làm phép rửa “trong Thánh Thần và lửa” (3:11). Những đại danh từ “Người” “tôi” (3:14) nhằm nhấn mạnh căn tính của mỗi bên: chính ông mới là người cần được Người làm phép rửa, chứ không ngược lại.
Câu trả lời của Chúa Giêsu không đề cập gì cả đến quyền hạn và bản tính của Người, mà đến ý của Thiên Chúa, “hoàn tất mọi điều công chính” (3:15). Chúa Giêsu nói đến mục đích của việc Người chịu phép rửa bởi tay Gioan. Động từ plēroō “hoàn tất” thường liên quan đến kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được tiên báo qua các ngôn sứ. Trong những trường hợp chỉ sự kiện đã xảy ra để “ứng nghiệm” điều đã được nói trước trong Cựu ước, động từ nầy thường ở thể thụ động (1:22; 2:15.17.23…). Và động từ nầy ở thể chủ động khi nói đến những việc Chúa Giêsu làm (3:15; 5:17). Chúa Giêsu đến để hoàn thành mọi ý định cứu độ của Thiên Chúa như đã được nói trong lề luật và các ngôn sứ. Dikaiosynē, “sự công chính” trong Matthêô là một cách diễn tả về sự cứu độ, “Phúc cho ai đói khát sự công chính” (5:6). Sự công chính gắn liền với “Nước Trời” (5:10.20; 6:33), với “Cha trên trời” (6:1). Do đó “hoàn tất điều công chính” đối với Chúa Giêsu là làm theo ý Chúa Cha để cứu độ mọi người. Và Thiên Chúa muốn con người tìm kiếm sự công chính/cứu độ nầy và Nước Trời trước tiên (6:33).
“Mọi sự công chính” mà Chúa Giêsu hoàn tất là gì? - Người đến giữa những người tội lỗi và cứu vớt họ. Chúa Giêsu đứng chung với những người “xưng thú tội” (3:6). Họ là những tội nhân và muốn hoán cải. Ý nghĩa tên của Người là “cứu dân của Người khỏi tội lỗi của họ” (1:21). Đó cũng là sứ mạng của Người sẽ được mặc khải sau nầy: “Tôi không đến để kêu gọi những người công chính mà những người tội lỗi” (9:13). Trong việc làm phép rửa nầy, không chỉ Chúa Giêsu, mà cả Gioan nữa, “chúng ta” (c. 15), cũng phải hoàn tất mọi điều công chính. Gioan không làm phép rửa do sáng kiến riêng của ông, mà do Thiên Chúa muốn (x. 21:25). Do đó, việc ông làm phép rửa cho Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi ông là do ý muốn của Thiên Chúa. Không bên nào làm theo ý của mình.
Thánh Thần ngự xuống trên Người và lời xác nhận của Chúa Cha (3:16-17)
Có thể nhận ra khá dễ dàng ba phân đoạn trong hai câu nầy: - Câu tóm lược việc Chúa Giêsu đã chịu phép rửa xong và lên khỏi nước (3:16a); - Một thị kiến trên trời, dẫn đầu với kai idou (3:16b); - Một lời phán từ trời, dẫn đầu với kai idou (3:17). Thiên Chúa Cha có lời cuối cùng về Con của Người.
“Lên khỏi nước” kết thúc việc Chúa Giêsu chịu phép rửa.
Tên “Giêsu” được nêu lên lần nữa ở đây và đặt trong tương quan với Thánh Thần và Chúa Cha. Trong khi đó, trên kia tên “Giêsu” đặt bên cạnh tên “Gioan”, nguời làm phép rửa cho Người. “Trời mở ra” là cách nói chỉ một thị kiến (Cv 7:56; 10:11; Ezk. 1:1), bao gồm hành động của Thiên Chúa (3:16b) và mạc khải của Người (3:17). Động từ ở thể thụ động được hiểu là do Thiên Chúa hành động. Matthêô trình bày Chúa Giêsu trong tình trạng chủ động, “Người thấy Thánh Thần Thiên Chúa như chim câu ngự xuống trên Người” (3:16b). Việc Thánh Thần ngự xuống trên Người chỉ Chúa Giêsu là người tôi tớ của Thiên Chúa tuyển chọn để thi hành sứ vụ cứu độ của Người (12:18; x. 1 Sam 10:6.10; Is 11:2). Đây cũng là khúc quanh quyết định của lịch sử cứu độ. Chỉ sau khi Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Người, Người mới bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai (x. Lc 4:14; Cv 10:38).
Mạc khải của Thiên Chúa (3:17)
“Tiếng từ trời” (3:17) chỉ tiếng nói của Thiên Chúa (x. 17:5). Có thể Matthêô kết hợp Tv 2:7 và Is 42:1 trong câu “Đây là Con Ta yêu dấu, người Ta sủng mộ”. Tv 2:7 nói đến việc Thiên Chúa tuyển chọn một người và đặt người ấy làm vua vua. Vị vua nầy được gọi là “Con của Ta”. Is 42:1 nói đến sự hài lòng về người tôi tớ, và đặt người tôi tớ nầy “đem sự công chính đến mọi dân tộc”. Áp dụng ở đây: Chúa Giêsu là Con của Thiên Chúa (1:20.23; 4:3.6…;27:4) được đặt lên như một vị vua (2:2; 27:37.42); đồng thời Người cũng là người tôi tớ (12:18) của Thiên Chúa làm theo ý của Thiên Chúa để mang lại ơn cứu độ cho con người. Cụm từ “Con chí ái, người Ta sủng mộ” đi chung với nhau và chỉ được dùng cho Chúa Giêsu (3:17; 12:18; 17:5). Động từ eudokeō “hài lòng” bao hàm ý nghĩa là Chúa Giêsu được Thiên Chúa yêu thương, hài lòng; do đó Người được tuyển chọn ban Thánh Thần và sai đi rao giảng Tin mừng (12:18). Mọi người phải nghe lời Người để được ơn cứu độ (17:5). Vậy, Chúa Giêsu vừa là “vua” vừa là “tôi tớ”. Thiên Chúa sai Người đến để cứu độ con người. Người đi xuống nước và đứng chung với những tội nhân như một “tôi tớ đau khổ” không phân biệt với họ. Như một vị vua, Đấng Kitô, Người cứu vớt họ. Sự công chính mà Người phải hoàn tất chính là “cứu vớt dân Người” (1:21) theo ý muốn của Thiên Chúa.
Một cách giải thích về “Thánh Thần như chim bồ câu” (J - L. Ska, Cose Nuove e Cose Antiche (Mt 13,52). Pagine scelte del Vangelo di Matteo, Bibbia e Spiritualità, EDB, 2004, no. 22, p. 48-49): “Trong thế giới Kinh thánh, bồ câu là loài chim di trú. Mùa thu bay đi và trở lại vào đầu mùa hạ. Thành thử việc bồ câu trở lại trùng với cuối mùa mưa và đầu mùa ấm áp và xinh đẹp (Nhã ca 2:12). Cũng thế, con bồ câu mang về tàu Nôe một nhành lá ôliu sau đại hồng thủy báo hiệu một mùa mới cho vũ trụ, chấm dứt một mùa mưa gió dai dẳng (Kn 8:10-11; Nhã ca 2:11). Có thể nghĩ rằng tin mừng đã nhìn thấy trong việc Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu lời loan báo của một mùa xuân mới, một mùa mới trong lịch sử cứu độ, vì cùng với Chúa Giêsu “Nước Trời đã đến (3:2)”.
Bởi sứ mạng của Chúa Giêsu là “cứu dân của Thiên Chúa khỏi tội”, Người đã khởi đầu sứ mạng nầy bằng việc đến và đứng giữa những tội nhân, và kết thúc bằng việc đổ máu ra để cứu chuộc họ (26:28). Chỉ ai thú nhận mình là tội nhân mới được Người ban ơn cứu độ và đưa về lại trong thông hiệp hoàn hảo với Thiên Chúa.
Hôm nay Giáo hội tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu đến sông Giođan để chịu phép rửa. Qua cử chỉ dìm xuống nước, Chúa Giêsu nuốn mặc lấy thân phận yếu đuối của con người, Ngài là Thiên Chúa gánh tội trần gian. Tưởng niệm biến cố này, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta nhớ lại những cam kết của phép rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Qua phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập, Ngài cho chúng ta được dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Cùng với Ngài, chúng ta chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ để được tham dự vào vinh quang phục sinh của Ngài. Cử hành cái chết và sự phục sinh của Ngài trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu chống lại tội lỗi và sự dữ trong cuộc sống của chúng ta.
Trong các dòng sông nổi tiếng trên khắp thế giới hẳng dòng sông Giođan phải là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu chúng ta. Chính tại đây Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cáh đón nhận phép rửa bởi Gioan tẩy giả cử hành. Chính tại dòng sông này, khi dìm mình xuống nước, Chúa Giêsu đã tỏ bày sứ mệnh của Ngài, đó là “gánh lấy tất cả tội lỗi của nhân loại”
Là Đấng vô tội, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa với người tội lỗi qua cử chỉ dìm mình trong dòng nước, đồng thời Chúa Giêsu loan báo chính cái chết mà Ngài sẽ trải qua. Phép rửa trong sông Giođan là hình bóng của phép rửa đích thực mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện, đó là cái chết của Ngài. Từ cạnh sườn Người khi máu và nước chảy ra, Chúa Giêsu đã khai mở một dòng sông mới để từ đó tất cả những ai đến dìm mình vào đều nhận được sức sống mới.
Tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta nhớ lại phép rửa mà chúng ta được dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu. Dìm mình vào trong chính cái chết của Chúa Giêsu là gì nếu không phải là tiếp tục đi lại con đường tử nạn của Ngài. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận không phải là một nghi thức bùa chú. Người lãnh nhận bí tích rửa tội không đương nhiên trở thành một con người thánh thiện được miễn trừ khỏi những cám dỗ và yếu đuối trong cuộc sống. Có biết bao người lãnh nhận phép rửa để mang danh hiệu là người Kitô hữu, nhưng cuộc sống của họ không bao giờ là một tiếp tục cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: “Người tín hữu Kitô cần phải tiếp tục những gì còn thiếu sót trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu”. Chịu phép rửa là khởi đầu một cái chết, là bước vào một cuộc chiến đấu, chiến đấu chống lại con người cũ của tội lỗi, chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu cơn cám dỗ trong và ngoài con người của chúng ta. Chiến đấu chống lại không biết bao nhiêu sức mạnh của sự chết như ích kỷ, hận thù, chia rẽ, đố kỵ…
Tưởng niệm phép rửa mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận bên bờ sông Giođan, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta về chính những cam kết mà chúng ta đã đoan hứa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, đó là cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Hằng ngày mỗi lần chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá là mỗi lần chúng ta được mời gọi để nhớ lại lời cam kết ấy.
Trên đường tiến về Jêrusalem, khi các môn đệ tranh luận về quyền bính, vương quốc tương lai của Ngài, thì Chúa Giêsu đã hỏi các ông: “Các con có sẵn sàng uống chén đắng mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Ngày nay trong từng giây phút của cuộc sống, Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế: “Các con có sẵn sàng chịu phép rửa mà Ta sắp lãnh nhận không?”. Chúng ta đang trải qua không biết bao nhiêu những khó khăn, thử thách và cạm bẫy trong cuộc sống. Sống một cách thiết thực phép rửa chính là sống từng giây phút trong cuộc sống bằng sự phấn đấu, bằng tinh thần từ bỏ và lòng tín thác của Chúa Giêsu. Và chúng ta tin rằng nhờ nguồn nước từ cạnh sườn mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta, chúng ta cũng được trong bị để chiến đấu và nhờ đó chúng ta được tham dự vào sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
Màn cuối cùng trong phim "Ben Hur" diễn tả cảnh bầu trời bị biến dần sau những đám mây trời tụ hội. Cảnh ba cây thập tự vươn lên ở tận mút cùng của ngọn đồi xa xa được quay thật lâu; và rồi màn ảnh thu dần chú tâm đến Thập Tự chính giữa. Đồng lúc ánh sáng của sấm sét tỏ cho thấy một người đàn ông đang quằn quại thật thống khổ trong im lặng theo nhịp điệu của từng ánh chớp. Mưa bắt đầu rơi và rơi thật dữ dội. Cứ theo mỗi ánh chớp của sấm sét tỏ cho thấy vũng nước mưa dưới chân thập tự dần dần dâng cao và loang rộng ra xung quanh. Bất thình lình một giọt máu rớt xuống và loang rộng ra; thế rồi từng giọt máu đào tiếp tục nhỏ xuống và giờ đây biến cả vũng nước mưa thành vũng máu. Mưa vẫn rơi nặng hạt mang theo giòng máu đỏ tràn ra khắp nơi tới tất cả những vũng đọng khác. Thế rồi máu đào theo giòng nước tạo thành mạch nước nhỏ chảy tới những giòng nước lớn hơn và cứ thế chúng tạo thành một suối nước máu lớn chảy ra sông cả và hoà vào với biển khơi.
Thông điệp đó thật quá rõ ràng, nghĩa là dòng máu ấy sẽ chảy đến tất cả mọi nơi, đến tận những hoang đảo và tận cùng trái đất. Sự vĩ đại của đồi Canvê ấy là đã tỏ lộ cho chúng ta thấy tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa ban cho nhân loại. Tin Mừng cao cả của sự sống và chết này sẽ lan rộng phổ biến tới từng ngóc ngách của trần gian. Thế giới đã bắt đầu cảm nhận Chúa Kitô! Thế giới đã bắt đầu cảm nhận ơn Cứu Chuộc! Và thế giới đã bắt đầu cảm nhận ý nghĩa của lời phán ra từ Trời Cao khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: "Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Người làm đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17).
Đọc sách Tông Đồ Công Vụ chúng ta thấy khi Thánh Philípphê tới thành Samaria thì các sự lạ lùng đặc biệt bắt đầu xảy ra. Quỷ dữ bị trừ khử. Những người tàn tật được lành mạnh. Thánh Luca đã viết: "Cả thành phố đều hân hoan" (Acts 8:8). Có bản dịch rằng, "Sự vui mừng trong thành đó dâng lên như cơn sốt cao độ". Đó là một trong những tính cách cảm nghiệm của Kitô hữu. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được đón nhận vào làm "Con Yêu Dấu của Ta," chúng ta đã sống ơn gọi đó thế nào? Chúng ta đã cảm nghiệm sự hân hoan vui mừng được thông phần với Chúa Kitô chưa?
Một triết gia ngoại giáo vào thế kỷ 19 đã nói: "Tôi sẽ tin vào Ơn Cứu Độ Kitô Giáo nếu như những tín hữu đạo giáo đó tỏ lộ được niềm vui ơn cứu độ của họ". Đây quả là một lời chí lý! Nhưng thế nào là thấy niềm vui ơn cứu độ? Chúng ta có thể thấy sự sống động của ơn cứu độ được tỏ lộ qua nhóm người đang cử hành lễ hội và vui mừng như đến "cực điểm của cơn sốt". Chúng ta cũng có thể thấy ơn cứu độ sống động khi ta nhìn xem một người đứng bên cạnh mộ huyệt của người thân yêu với một vẻ tin tưởng rằng chết không phải là lời nói sau cùng. Chúng ta cũng có thể thấy ơn cứu độ sống động khi mọi Kitô hữu thương yêu nhau như lời Chúa Giêsu: "Nếu các con yêu mến nhau, thiên hạ sẽ nhận ra các con là môn đệ Thầy."
"Đây là con yêu dấu của Ta, Con làm đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17). Sự thỏa lòng của Thiên Chúa cũng ngự trị trên chúng ta. Chúng ta đã được nhận vào cộng đoàn Con Yêu Dấu của Ngài qua bí tích Rửa Tội, được Chúa thỏa lòng với trách nhiệm làm theo thánh ý Ngài trên trái đất đó là: Yêu Thương Mọi Người.
Trách nhiệm chúng ta lãnh nhận là làm sao tỏ lộ phản chiếu như tấm gương hình ảnh tình yêu của Chúa cho mọi người.
Mấy năm trước đây, nhà văn Ann Landers viết một đoạn văn ngắn với nhan đề "Hãy Để George Làm" như sau:
Đây là câu chuyện về bốn người có tên: Mỗi Người, Vài Người, Ai Đó, và Không Ai. Có một công việc quan trọng cần phải hoàn thành và Mỗi Người được giao cho công việc đó. Mỗi Người nghĩ là Vài Người sẽ làm việc đó; Ai Đó có thể làm; và Không Ai hoàn thành rồi. Vài Người bực mình vì đó là việc của Mỗi Người. Không Ai thấy rằng Mỗi Người không thi hành công việc trong khi Mỗi Người nghĩ Ai Đó có thể làm rồi. Sau cùng thì Mỗi Người trách Vài Người mà đúng ra Không Ai phải hỏi Ai Đó. Nhưng đúng hơn hết, vị cao cả Vài Người của tất cả nói là không phải Mỗi Người, nhưng là Anh, rằng có công việc quan trọng cần phải hoàn thành. Hơn nữa, Không Ai nhưng là Anh được gọi làm việc đó. Chúa Giêsu không hỏi ai nhưng là Anh tìm kiếm sự cứu chuộc và hành thi hành công việc cứu độ.
Chúng ta, cộng đoàn Con Yêu Dấu cùng với Chúa Kitô, chúng ta hãy cử hành lễ hội trong sự yêu mến nhau.
Tại một thành phố bên Tiệp Khắc, giữa những di tích cổ người ta thấy có một chiếc cầy từ thế kỷ 18. Người ta truyền tụng câu truyện như sau: Một hôm Hoàng đế Josephh II cùng đoàn tùy tùng đến viếng thăm một ngôi làng trong vùng. Đi qua một cánh đồng, Hoàng đế thấy một nông dân đang ngồi nghỉ mệt bên một chiếc cầy. Ông đến trò chuyện với người nông dân và xin được cầy thử vài luống.
Người nông dân rất đỗi ngạc nhiên vì có một người sang trọng lại xin tra tay vào cầy và ông phá lên cười khi thấy những luống cầy vụng về. Với tất cả thành thực, người nông dân lắc đầu và nói: "Xin lỗi ông, hạng người như ông thì làm sao có thể tra tay vào cày để kiếm sống được". Nghe thế, một người trong đoàn tùy tùng mới nói nhỏ cho người nông dân biết người đang cầm chiếc cầy của ông chính là Hoàng đế. Lập tức, người nông dân như muốn độn thổ, ông không thể tưởng tượng được một vị Hoàng đế lại có thể tra tay vào cầy của ông.
Sự hạ cố của vị Hoàng đế làm cho người nông dân cảm động, thán phục đến nỗi kể từ đó ông không sử dụng đến chiếc cầy ấy nữa; ông lau chùi và đánh bóng nó, rồi cất giữ một cách trân trọng như một báu vật. Về sau chiếc cầy này được mang đến trưng bày tại một cuộc triển lãm ở Vien, Áo quốc.
Sự việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa cũng thật khó hiểu và khó chấp nhận như mầu nhiệm Thập giá. Nên ông Gioan là người đã biết Chúa Giêsu Kitô là ai, ông liền can ngăn Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép Rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi". Ở đây, Chúa Giêsu muốn chịu phép Rửa của Gioan để nhìn nhận công việc này là do Thiên Chúa như là sự chuẩn bị cuối cùng đưa vào thời đại Messia, giai đoạn mà Chúa bước vào cuộc đời công khai ra đi rao giảng ơn cứu độ. Đức Kitô biết rằng có thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha trong việc này, thì Ngài mới lập nên được nền công chính mới, đất trời mới đã giao hòa. Chính Thần khí xức dầu cho Đức Giêsu, tấn phong Người làm Đấng Messia với Lời của Thiên Chúa Cha ban tặng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người".
Chúng ta thấy trong suốt cuộc đời của Người, Ngài đã tự coi mình như "Con Người đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người". Ngài muốn tham dự vào cuộc sống của con người, muốn nói rằng Con Thiên Chúa đã thực sự đến trần gian và đã hạ mình xuống lãnh nhận Phép Rửa từ một người.
Những thái độ khiêm hạ của vị Hoàng đế trần gian và Hoàng đế Nước Trời đã làm cho dân chúng cảm phục và ngưỡng mộ khi họ nhận ra đó là một người có uy quyền trong một nước và một Vua cao trọng hơn hết các vua ở trần gian này. Một cử chỉ cao đẹp của Chúa đã làm cho cửa Trời mở ra, ơn trời tuôn đổ, ơn cứu độ được trao ban và loan truyền.
Lạy Chúa, chúng con là những người đã được lãnh nhận phép Rửa tội và từ ngày đó chúng con được tham dự vào hàng tư tế, bậc vương giả và ơn tiên tri. Xin giúp chúng con biết nhận ra những hồng ân cao cả đó để chúng con luôn vang lời ca cảm tạ, hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ và vui vẻ phục vụ Chúa trong hết mọi người qua các đặc ân trên.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa. Chúng ta biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là Đấng vô tội và luôn trung thành chu toàn thánh ý Chúa Cha trong suốt cuộc đời trần thế. Vậy mà tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép Rửa bởi Gioan ở sông Giođan? Bởi vì Chúa Giêsu không tự cho mình cao trọng vượt trên người khác, Ngài muốn chứng tỏ cho chúng ta biết rằng Ngài luôn luôn liên đới với hết mọi người, bằng cách sống trung thành với lề luật và chia sẻ thân phận làm người trong mọi chiều hướng.
Sau khi Chúa Giêsu chịu phép Rửa, Ngài liền thấy trời mở ra và Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài.
Những hình ảnh "trời mở ra và Thánh Thần như chim bồ câu" có thể làm chúng ta ngạc nhiên, bởi vì thế hệ chúng ta ngày nay thích những gì có tính cách khoa học hơn là những câu văn bóng bảy nên thơ.
Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta đành chối bỏ sự hiện hữu của Thần Linh Thiên Chúa, luôn kết hiệp với Đức Kitô và cũng rất cần thiết cho cuộc đời của chúng ta. Ngay từ thuở khai thiên lập địa, Thần linh Chúa bay là trên mặt nước, giờ đây Người cũng hiện diện lúc Chúa Giêsu chịu phép Rửa.
Đồng thời, hình ảnh "trời mở ra" mang đầy ý nghĩa: các tầng trời bị che lấp bởi tội lỗi của nhân loại, giờ đây được mở ra trước mặt Đấng Cứu Thế để Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Đấng mà Thiên Chúa Cha yêu thương và gọi là "Con yêu dấu". Chúa Giêsu là Đấng đến để làm cho trần gian chúng ta đang bị khép kín vì tội lỗi phải mở toang ra để đón nhận ơn cứu độ.
Từ nay, nhờ phép Rửa của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là xa lạ, mà rất gần gũi nhân loại, đất với trời thông đạt với nhau, thiên đình và hạ giới không còn cách biệt. Những gì Chúa Giêsu đã sống như là Con yêu dấu duy nhất của Chúa Cha, thì loài người chúng ta cũng đang được mời gọi sống đúng như là con cái của Thiên Chúa.
Thông thường, sống trong hoàn cảnh xã hội thiêng liêng về vật chất, chúng ta hay có những cái nhìn thật phàm trần. Thế giới tân tiến ngày nay đe dọa đánh đổ nhân cách con người và nhìn con người trong chiều kích vật chất trần tục: hạnh phúc, tương lai, và sự cứu độ chỉ nằm trong kỹ thuật. Ví dụ: Muốn có người yêu hãy dùng loại nước hoa này, muốn giữ gìn sắc đẹp và trị các vết nhăn hãy thoa loại kem kia, muốn giàu sang hạnh phúc nên dùng phương thức nọ... nên bảo vệ môi sinh thì chúng ta sẽ sống lâu bền... hãy thay đổi quy chế xã hội thì chúng ta sẽ sống ấm no hạnh phúc v..v..
Những điều trên đây không phải là không đúng, nhưng rất hạn hẹp và giảm giá trị con người trong tầm mức vật chất, quên đi đức tính siêu việt.
Chính vì đắm chìm trong thế giới kỹ thuật vật chất trần tục, mà có nhiều người vẫn tiếp tục sống coi như là không có Thiên Chúa, sống mà không biết rằng nhờ Đức Giêsu Kitô, mọi người đều là con Thiên Chúa.
Chúng ta thử nghe câu chuyện nầy:
Dũng, một thanh niên 15 tuổi, đang học đệ tam, hỏi cha mẹ:
- Con đã được Rửa tội chưa?
Cha mẹ trả lời là chưa.
- Vậy thì ba má?
- Có chứ, và còn đi học giáo lý nữa, rồi còn làm đám cưới ở Nhà thờ nữa kia.
- Vậy tại sao ba má không xin Rửa tội cho con?
- Vì muốn con tự do lựa chọn.
- Nhưng mà làm sao biết lựa chọn, khi con không hiểu một tí gì về Thiên Chúa, phải biết mới lựa chọn được chứ!
Qua câu chuyện nầy, chúng ta thấy trong những năm gần đây, có những bậc phụ huynh, theo trào lưu Âu Mỹ hiện đại, viện cớ là vì tôn trọng tự do của đứa bé, để sau này nó tự quyết định, nên không đưa đứa bé đi Nhà thờ Rửa tội.
Ý hưởng tôn trọng tự do này được coi như đúng với điều kiện là khi lớn khôn, đứa bé phải có đủ phương tiện học hỏi, có người hướng dẫn giúp nó hiểu biết và suy nghĩ để định đoạt... bằng không thì thật nguy hại, vì đó là chính sách san bằng đoản hậu.
Làm sao đón nhận Thiên Chúa khi mà chưa được nghe nói đến Ngài? Tại sao một đàng chúng ta lại tự quyết định thay cho đứa bé bằng cách ghi danh cho nó học môn này chương trình nọ (piano, tennis v...v...) và đàng khác ta lại nói là để cho nó tự do lựa chọn. Thật là mâu thuẫn! Chúng ta đừng quên rằng đạo lý và tôn giáo không phải là việc riêng tư, nhưng có cả tầm vóc xã hội, sự chối từ đường hướng đạo đức sẽ là nguồn gốc cho sự bạo động và khước từ người khác. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy thế hệ trẻ ngày nay hoặc thiếu lý lẽ sống hoặc sống trong bạo động...
Chính vì vậy mà mỗi người chúng ta cần phải nói với những người khác rằng "tất cả chúng ta không phải là con cái của tăm tối, mà chúng ta được sinh ra để nhận biết Thiên Chúa và đón nhận hồng ân của Ngài, nhờ đó chúng ta có một cuộc sống hoàn hảo, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa."
Những bài Phúc âm không phải là những chuyện cổ tích thuộc về quá khứ, nhưng luôn mang tính cách hiện tại, chính hôm nay, bởi lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa mà các tầng trời sẽ mở ra cho chúng ta, để Thần Linh Chúa ngự xuống trên từng người một và được nghe tiếng Chúa Cha vang dội: "Này là con yêu dấu của Ta. Ta đặt trọn vẹn yêu thương trên ngươi".
1. Câu nói của Gioan Tẩy giả trong bài Tin Mừng cho thấy ông là người thế nào? Có thể rút ra bài học gì cho những người loan báo hay rao giảng Đức Giêsu? Nếu không sống tinh thần tự hủy, thì việc loan báo hay rao giảng cuối cùng nhằm ích lợi cho ai?
2. Muốn con người thánh ở trong ta lớn lên và làm chủ, thì con người phàm phải làm gì? Hai con người ấy có thể cùng lớn lên không?
Suy tư gợi ý:
1. Tinh thần tự hủy của người rao giảng Đức Giêsu
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có hai nhân vật chính: Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu. Trong hai người, Gioan Tẩy giả là người phàm, đến trước để loan báo; còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, là con người thần linh, đến sau để giải phóng nhân loại. Như thế ta thấy: người phàm đến trước loan báo cho con người thần linh đến sau.
Để chu toàn nhiệm vụ loan báo, Gioan Tẩy giả phải thực hiện tinh thần tự hủy hoàn toàn, nghĩa là hoàn toàn xóa mình đi, coi mình không là gì cả, có như thế vai trò của người mình loan báo mới được nổi bật lên: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”; “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Người loan báo hay rao giảng được kêu gọi và lên tiếng không phải vì mình, nhưng vì Đấng mà mình loan báo hay rao giảng. Vì thế, muốn loan báo hay rao giảng thật sự đúng nghĩa, chúng ta cần phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình khi thực hiện công việc này. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta dễ bị cám dỗ coi việc loan báo hay rao giảng Tin Mừng như một phương tiện để làm cho mình nổi bật lên, được mọi người ca tụng là mình đạo đức, viết hay, giảng hay. Tới một lúc nào đó, chúng ta bắt đầu có khuynh hướng vì mình nhiều hơn vì Chúa. Lúc ấy, một cách nào đó, ta biến Chúa trở thành người loan báo cho ta, làm ta nổi bật lên.
Có thể ban đầu ta hoàn toàn vì Chúa, nhờ đó ta rao giảng về Ngài rất hay, mọi người ca tụng ta là người đạo đức, là “có lửa”. Từ khi có danh thơm tiếng tốt ấy, ta bắt đầu bị cám dỗ bảo vệ danh tiếng ấy, và làm cho danh tiếng ấy ngày càng mạnh lên. Danh tiếng ấy có thể giúp ta dễ “thăng quan tiến chức” trong Giáo Hội hay ngoài xã hội. Ta bắt đầu ngày càng trở nên “vì mình” hơn và bớt “vì Chúa” đi. Dần dần ta trở nên kẻ háo danh lúc nào không hay. Từ háo danh đến ham quyền, từ ham quyền đến cố vị chỉ là những bước rất ngắn. Một khi đã ham quyền cố vị rồi, ta dễ dàng bị cám dỗ làm những điều tán tận lương tâm. Vì quyền bính là một con dao hai lưỡi, tuy cần thiết để phục vụ đại chúng, nhưng lại có khả năng tha hóa rất mạnh. Vì thế, những người loan báo hay rao giảng Tin Mừng – nhất là những người đã thành công trong lãnh vực này và đang nắm những địa vị quan trọng trong Giáo Hội hay xã hội – rất cần tinh thần phản tỉnh để luôn luôn tỉnh táo đối với chính mình: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41; Mc 14,38). Thực tế cho thấy nhiều người khi chưa nắm quyền bính thì tinh thần phục vụ rất cao, nhưng khi đã nắm được quyền bính thì trở nên khác hẳn. Nhiều anh hùng dân tộc, nhiều chức sắc tôn giáo đã bị tha hóa vì quyền lực.
2. Phàm nhân và thánh nhân trong mỗi người
Bài Tin Mừng hôm nay còn có thể hiểu theo một chiều kích khác rất sâu xa: chiều kích tâm linh. Trong đó, Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu tượng trưng cho hai khía cạnh trong cùng một con người: Gioan Tẩy giả tượng trưng cho con người phàm của ta, và Đức Giêsu tượng trưng cho con người thánh, con người thần linh, siêu phàm ở trong ta. Chính con người thần linh này trong mỗi người là yếu tố cốt yếu khiến con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6), “giống như Thiên Chúa” (St 1,26b). Đó là chính bản tính Thiên Chúa của Ngài được thông ban cho chúng ta: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Chính nhờ có bản tính thần linh thánh thiện này trong bản thân mà Đức Giêsu mới có thể mời gọi ta nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Giữa con người với con chó, khoảng cách hữu thể tuy không xa, vì cùng là tạo vật, nhưng con chó không bao giờ có thể trở thành người như con người dù có cố gắng luyện tập đến đâu, vì trong con chó không có bản tính con người. Còn giữa con người với Thiên Chúa tuy là một khoảng cách vô tận, nhưng con người có thể nên hoàn thiện, nên thánh như chính Thiên Chúa, vì trong con người đã có sẵn bản tính Thiên Chúa mà Ngài thông truyền cho. Nếu bản thân con người không có bản tính Thiên Chúa thì lời Đức Giêsu mời gọi con người nên hoàn thiện như Thiên Chúa là tuyệt đối bất khả thi, và câu nói đó trở thành vô nghĩa.
Tuy nhiên, sống hoàn thiện như Thiên Chúa không phải dễ, vì bên cạnh con người thánh ấy luôn luôn có một con người phàm. Một danh nhân nào đó nói: “Trong lòng mỗi người, vừa có một vị thánh vừa có một con thú”. Thật vậy, có những lúc ta suy nghĩ và hành động như một vị thánh, nhưng cũng có rất nhiều lúc ta lại hành động như một con thú. Và dường như vị thánh và con thú trong bản thân ta phải luôn luôn tranh đấu với nhau để dành thắng thế hầu làm chủ bản thân ta. Có người thì vị thánh thường thắng thế và làm chủ, còn lắm người thì bị con thú thường khống chế toàn bộ con người. Thánh Kinh có nói đến tình trạng trái ngược giữa hai con người này: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5,17); “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí” (Rm 8,5). Kết quả của hai cách sống đối nghịch ấy là: “Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13)
a) Con người phàm thì sống theo xác thịt:
Bản chất của con người phàm là chỉ biết sống cho mình, sống ích kỷ, có khuynh hướng “phình to bản ngã”. Vì thế, chỉ quan tâm tới những tham vọng hay lợi lộc ích kỷ của mình, tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, muốn mọi người phải phục vụ mình, luôn luôn coi ý riêng của mình là quan trọng, thích lèo lái mọi người theo ý riêng của mình… Kinh Thánh nói về tính cách của phàm nhân: “Những kẻ sống theo xác phàm thì hay mơ ước những gì xác phàm đòi hỏi” (Rm 8,5); “Họ khoe mình khôn sáng nhưng đã nên điên dại” (Rm 1,22); “Ý tưởng họ hóa ra tối tăm, vì họ lìa xa sự sống Chúa Trời” (Ep 4,18); “Lòng trí họ miên man theo điều phù phiếm, họ ngu muội đắm chìm trong bóng tối tăm” (Rm 1,21).
b) Con người thánh sống theo Thần Khí:
Con người thánh là con người sống vị tha, sống theo Thần Khí, theo sự hướng dẫn của lẽ phải, của chân lý, công lý và tình thương. Hành động không bị chi phối bởi những động lực vị kỷ, dục vọng, ý muốn riêng tư, mà bởi tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Khi không còn sống cho bản thân mình nữa, con người thánh trở nên có nhiều sức mạnh tinh thần, luôn khôn ngoan, sáng suốt, can đảm, tâm hồn luôn bình an hạnh phúc, thứ bình an hạnh phúc nội tâm không ai ban được mà cũng không ai lấy mất được, ngoại cảnh không còn làm họ làm đảo điên, đau khổ nữa.
3. Phàm nhân có nhỏ lại thì thần nhân mới lớn lên được
Nơi mỗi con người, phàm nhân được khám phá và ý thức trước tiên. Dần dần con người khám phá ra một tiếng nói, một khuynh hướng, một lực lượng thầm kín – nhiều khi rất mạnh mẽ – lôi kéo mình lên khỏi những ích kỷ cá nhân của phàm ngã. Đó là thần ngã hay con người thánh. Vấn đề là làm sao để thần ngã này lớn lên? Bài Tin Mừng cho ta một bí quyết: Gioan Tẩy giả – tượng trưng cho phàm ngã – để tự hạ, tự hủy để làm cho Đức Giêsu – tượng trưng cho thần ngã – nổi bật lên. Chỗ khác Gioan nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Phàm nhân lúc nào cũng muốn được nổi bật, được phình to lên, nhưng nếu ta chiều theo phàm ngã, thì phàm ngã sẽ lớn mạnh và lấn át thần ngã, làm thần ngã trở nên yếu ớt. Nhưng nếu ta sống tinh thần tự hủy, làm phàm ngã nhỏ lại, thì tự nhiên thần ngã sẽ lớn và mạnh lên. Hai lực lượng ấy luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau: lực này lớn thì lực kia nhỏ lại, lực này yếu thì lực kia mạnh lên. Vì thế, muốn thần ngã lớn lên, thì phải làm cho phàm ngã nhỏ đi. Không gì làm phàm ngã nhỏ đi bằng sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình: coi mình chẳng là gì cả, như một người nhỏ bé không có gì là quan trọng, không cố ý làm gì để lôi kéo sự chú ý của người khác. Nhất là không bao giờ đòi hỏi ý riêng của mình phải được thực hiện, mà trái lại sẵn sàng thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin hãy biến cải con thành một con người mới, con người sống theo Thần Khí chứ không theo những đòi hỏi của phàm ngã. Nhờ đó bản tính thần linh mà Cha đã gieo mầm vào trong bản thân con nẩy mầm và phát triển. Và hy vọng một ngày kia Cha có thể nói với con như xưa Cha đã nói với Đức Giêsu: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Xin giúp con đạt được điều ấy.
Chúa Giêsu nhận lãnh phép rửa, Ngài được Thiên Chúa Cha công khai nhìn nhận “Đây là Con yêu dấu của Ta!” Dưới sự chứng giám của Chúa Thánh Thần, Ngài nhận lãnh sứ mạng truyền đạo, Ngài được sai đi mang ơn cứu độ cho muôn người.
Giáo Hội được khai sinh trong ngày lễ Ngũ Tuần. Giáo Hội được trao ban sứ mạng truyển giảng Tin Mừng, mang ơn cứu độ cho muôn người bằng cách “đi khắp nơi giảng dạy Tin Mừng cho muôn dân và làm phép rửa cho họ..”
Ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được chính thức nhìn nhận là Con Chúa và được xức dầu thánh hiến để đi loan truyền tin mừng cho muôn dân. Chúng ta được cứu độ, đồng thời chúng ta nhận sứ mạng mang ơn cứu độ đến cho người khác.
II. Vấn nạn Phúc Âm
“Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp Ông Gioan, để xin Ông làm phép rửa cho mình…” Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa, là Đấng Cực Thánh, không thể có tội, tại sao lại xin Ông Gioan làm phép rửa?
Câu trả lời của Chúa Giêsu “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính!” là một giải thích tại sao Chúa xin Ông Gioan làm phép rửa? Không phải vì Chúa có tội, nhưng vì Ngài muốn trở nên một con người như chúng ta mọi đàng. Ngài muốn chu toàn mọi nghi lễ để làm gương sáng cho mọi người. Muốn nên công chính, phải lãnh nhận phép rửa sám hối. Ai cũng có tội. Ai cũng cần lãnh phép rửa sám hối của Gioan để nên công chính.
Chúa Giêsu đến để làm ứng nghiệm tất cả những gì các tiên tri đã loan báo về Đấng Cứu Thế: Ngài đến để cứu dân khỏi tội. Phép rửa Sám Hối bằng nước mà hôm nay Ngài lãnh nhận qua tay của Gioan là hình ảnh tiên báo về một phép rửa bằng Lửa và Thánh Thần mà Ngài sẽ thiết lập, để làm cho mọi người thành con Thiên Chúa và cũng là phương dược để cứu nhân loại khỏi tội.
So sánh giữa phép rửa sám hối của Gioan và bí tích rửa tội của Chúa Giêsu thiết lập?
Hai phép rửa đều giống nhau những điểm sau:
Cả hai đều dùng nước để nói lên ý nghĩa thanh tẩy tội lỗi.
Cả hai đều đòi buộc người lãnh nhận phải thực tâm sám hối tội lỗi và sống công chính.
Hai phép rửa khác nhau:
Phép rửa sám hối của Gioan chỉ là cử chỉ tỏ lòng sám hối, không là bí tích, không tất yếu phát sinh hiệu quả tha tội.
Phép rửa của Chúa Giêsu thiết lập là bí tích: Người lãnh nhận bí tích Rửa tội được tha tội tổ tông và tội mình làm.
Xin đan cử thí dụ để giải thích: Một người con không vâng lời Cha Mẹ, thấy Cha mẹ buồn, thì đã khóc lóc hối hận. Khóc lóc và nước mắt rơi, dù nhiều cách mấy cũng chỉ là cử chỉ tỏ lòng hối hận về những sai trái mình làm. Nó không phát sinh hệ quả tha tội. Trái lại, người con đó nếu muốn được tha lỗi phải đến xin lỗi Cha Mẹ và hứa chừa tội cũng như được Cha Mẹ nói lời tha lỗi.
Có được phép rửa tội cho:
Con cái của những đôi nam nữ sống chung không hôn thú và không phép đạo không? Những đứa con không Cha? Con nuôi của những cặp đồng tính luyến ái không? Tên Cha Mẹ phải ghi vào sổ rửa tội thế nào?
Giáo Luật quí định về việc rửa tội cho trẻ em dưới bảy tuổi như sau:
Ðiều 851: Việc cử hành Bí Tích Rửa Tội phải được chuẩn bị thích đáng. Vì vậy: người lớn muốn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, phải được nhận vào lớp dự tòng và, tùy mức độ có thể, được hướng dẫn khai tâm Bí Tích qua nhiều giai đoạn khác nhau; dựa theo đúng nghi thức khai tâm do Hội Ðồng Giám Mục đã thích nghi cũng như các quy luật riêng do Hội Ðồng Giám Mục ban hành. Cha mẹ của nhi đồng sắp được nhận Bí Tích Rửa Tội, cũng như những người sẽ lãnh trách nhiệm đỡ đầu, phải được giáo huấn đầy đủ về ý nghĩa của Bí Tích này và về những bổn phận gắn liền với Bí Tích. Cha Sở, tự mình hay nhờ người khác, phải chăm lo huấn luyện đầy đủ các phụ huynh bằng những bài huấn dụ mục vụ, và kể cả bằng sự cầu nguyện chung, trong lúc hội họp nhiều gia đình và bằng cách đi thăm viếng họ khi nào có thể.
Ðiều 868: (1) Ðể một nhi đồng được rửa tội cách hợp pháp, cần thiết phải: có sự đồng ý của cha mẹ, ít là của một trong hai, hoặc của người thế quyền cha mẹ theo luật; có hy vọng vững chắc rằng em bé sẽ được giáo dục trong đạo công giáo. Nếu hoàn toàn không có hy vọng, thì phải hoãn việc rửa tội dựa theo các quy định của luật địa phương, sau khi đã cho cha mẹ biết lý do. Trong cơn nguy tử, một nhi đồng con của cha mẹ công giáo, và thậm chí không công giáo, có thể được rửa tội cách hợp pháp, cho dù trái ý cha mẹ.
Ðiều 870: Ðứa trẻ bị bỏ rơi hay vô thừa nhận phải được rửa tội, trừ khi đã điều tra cẩn thận và biết chắc em đã được rửa tội rồi.
Ðiều 871: Bào thai bị sảy, nếu còn sống, thì phải được rửa tội, tùy theo mức độ có thể được.
Qua những khoản Giáo Luật trên, chúng ta thấy rằng: Những áp dụng chung cho toàn thể Giáo Hội về việc rửa tội cho những đứa con ngoại hôn, những đứa con không Cha và những của con nuôi của những người đồng tính xem chừng còn mới mẻ quá.
Tuy nhiên, những vấn nạn trên đã được trả lời trong quyển “Canonical and Pastoral Guide for Parishes” do nhà xuất bản Wilson and Lafleur năm 2006 trang I-16 và trong quyển Canon Law of the Sacraments for Parish Ministry của Cha William H. Woestman, OMI. trang 35. Hội Đồng Giám Mục Canada cho áp dụng những điều sau:
Ðiều 868 §1 qui định: có sự đồng ý của cha mẹ, ít là của một trong hai, hoặc của người thế quyền cha mẹ theo luật.
Giáo Luật chỉ đề cập đến Cha Mẹ, chứ không quan tâm về tình trạng hôn nhân của Cha Mẹ. Nên con cái ngoại hôn vẫn được rửa tội. Hơn nữa, Cha mẹ có bổn phận phải lo cho con mình sớm được rửa tội. Rửa tội là “Bí Tích Rửa Tội là cửa ngõ vào các Bí Tích. Sự lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội cách thực sự hay ít ra bằng nguyện ước là điều cần thiết cho phần rỗi (Ðiều 849). Không ai có quyền từ chối phần rỗi linh hồn của người khác.
Mẫu đơn hay quen gọi là single-mom được trọn quyền quyết định cho con mình được rửa tội. Tuy nhiên trong sổ rửa tội không chấp nhận cho pater ignatus – Father unknown – Không biết Cha em bé là ai! Phải ghi rõ tên Cha đẻ và cả tên Cha nuôi nếu có để tránh những ngăn trở về huyết thống trực hệ hay bàng hệ sau nầy trong hôn nhân của đứa bé.
Con nuôi của những cặp đồng tính:
Ðiều 868 §2 qui định: có hy vọng vững chắc rằng em bé sẽ được giáo dục trong đạo công giáo. Nếu hoàn toàn không có hy vọng, thì phải hoãn việc rửa tội dựa theo các quy định của luật địa phương, sau khi đã cho cha mẹ biết lý do.
Vấn đề không nằm nơi cặp đồng tính luyến ái, nhưng là quyền lợi thiêng liêng của đứa bé. Em bé có quyền được rửa tội, được giáo dục trong đức tin và được ơn cứu độ. Giáo Hội rửa tội cho em bé căn cứ trên đức tin của Giáo Hội và của cộng đoàn dân Chúa địa phương. Nên có ai đó, dù họ hàng, ông bà hay cha mẹ đỡ đầu hứa sẽ lo giáo dục đức tin cho em bé. Em bé đó sẽ được rửa tội. Nếu không, xìn hoãn lại chờ cho đến khi những hy vọng giáo dục đức tin nầy khả thể. Tuy nhiên, nên hỏi ý kiến văn phòng chưởng ấn địa phận để được hướng dần, trước khi áp dụng những trường hợp đặc biệt trên để trách thắc nắc tiêu cực cho người khác.
Sổ rửa tội: Ghi cả tên Cha mẹ đẻ của em bé và tên của cặp đồng tính, coi như Cha Mẹ nuôi.
III. Thực hành Phúc Âm:
Bí tích rửa tội: Nhận ơn cứu độ và được sai đi rao truyền ơn cứu độ.
Để bắt đầu cuộc đời truyền đạo, Chúa Giêsu đến sông Giođan xin Ông Gioan ban phép rửa sám hối. Chúa được Thiên Chúa Cha nhìn nhận công khai là “Con dấu ái của Ta!” Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần dưới hình chim câu đậu bên trên đầu. Sau đó Chúa Giêsu được hướng dẫn vào hoang địa, ăn chay cầu nguyện và rồi sau đó bắt đầu cuộc đời truyền đạo. Chúng ta cũng đã được rửa tội, đã được nhận lãnh ơn cứu độ và được sai đi để mang ơn cứu độ cho người khác.
Có 15 triệu người Canada được rửa tội Công Giáo. Nhưng chỉ có bốn triệu người thực hành đức tin, tức khoảng hơn 20%. Số còn lại lạc đạo hay mất đức tin. Người ta đổ thừa là tại cha mẹ bắt họ rửa tội hồi còn bé, họ đâu có biết gì là đạo để giữ hay đức tin để thi hành. Nên có ý kiến đề nghị: Để cho trẻ em lớn lên đến khi có đủ trí khôn để có thể chọn lựa xem có nên rửa tội hay không? Kết quả: Càng lớn, càng tự do chọn lựa, người ta càng tự do chọn cho mình vô đạo.
Thật là sai lầm và ngược với bí tích rửa tội khi Cha mẹ để con cái tự do chọn lựa là có nên rửa tội hay không? Sai lầm, vì không phải ai cũng biết dùng tự do của mình để mang ích lợi thiêng liêng cho mình. Nếu để các em nhỏ lớn lên cho đủ trí khôn rồi hãy quyết định xem có nên đi học hay không thì e rằng đã quá trễ so với tuổi cần phải đến trường. Nếu đã không quen đi học từ nhỏ thì làm sao biết việc học là cần thiết để quyết định chọn đi nhọc. Chắc chắn sẽ chọn ở nhà và thất học.
Đi ngược với bí tích rửa tội: Bí tích rửa tội ban cho ta ơn cứu độ và sai chúng ta đi rao giảng tin mừng. Cha Mẹ đã được rửa tội, cũng như đã biết được đường đi đến hạnh phúc thiên đàng, biết được lẽ phải điều hay mà lại không chỉ dạy hay truyền giảng đức tin cho con mình thì thật là lỗi bổn phận làm Cha Mẹ và đi ngươọc với bí tích rửa tội: Nhận ơn cứu độ và sai đi rao giảng ơn cứu độ.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.
1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm “tam thập nhi lập”, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để “chu toàn thánh ý Thiên Chúa"(Mt 3,15), Chúa Giêsu tự nguyện chịu phép rửa của thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsu đã đi vào mầu nhiệm “tự hạ” (Pl 2,7). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu là “Con Chí Ái” của Ngài (Mt 3,16-17).
Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như “một Phép Rửa” Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá (Ga 19,34) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những bí tích ban sự sống mới (x.1Ga 5,6-8); từ giây phút ấy, chúng ta có thể “sinh ra nhờ nước và Thánh Thần” để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).
Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên bí tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.
2. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội
Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức “Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.
Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG 1213).
Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG 263).
Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Gl 3,5).
a. Được tha thứ tội lỗi
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha: nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội (x. DS 1316). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.
Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như: đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối... và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là “cái nôi của tội”. “Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5) (x. CĐ Trentô: DS 1515).
b. “Trở nên thụ tạo mới”
Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x.1Cr 6,15; 12,27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8,17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x.1Cr 6,19).
Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa để người đó:
- Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần.
- Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân.
- Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.
Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.
Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, “bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).
Những người đã được rửa tội trở nên “những viên đá sống động... để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ Bí Tích Rửa Tội ,họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền” (2 Pr 2,9).
Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa.Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ “không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (1Cr 6,19). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau (x.Ep 5,21;1Cr 16,15-16) và phục vụ nhau (x.Ga 13,12-15) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh (x.Dt 13,17) với lòng kính trọng và quý mến (x.1Tx 5,12-13). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh:được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. (x.LG 37).
3. Đón nhận một sứ vụ mới
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân - Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.
Thánh Phaolô gọi Bí Tích Rửa Tội là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23).
Thánh Giúttinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “đã được soi sáng” (Dt 10,32), họ trở thành “con cái sự sáng” (1 Tx 5,5) và là “ánh sáng” (Ep 5,8).
“Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa...Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Ghêg-riô Nadien, Bài giảng 40,3-4).
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.
Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.
Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.
Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.
1. Phép rửa của Gioan khác với phép rửa trước đó của Do Thái giáo làm cho dân ngoại ở chỗ nào? Ông làm phép rửa với mục đích gì?
2. Tại sao Đức Giêsu hoàn toàn vô tội lại yêu cầu Gioan làm phép rửa cho mình? Ngài có phi lý khi yêu cầu điều đó không?
3. Tại sao khi Đức Giêsu nói: “Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” thì Gioan mới làm phép rửa cho Ngài? Câu đó có ý nghĩa gì?
Suy tư gợi ý:
1. Phép rửa của Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước xuất hiện khoảng năm 30 sau công nguyên. Trước ông, có khoảng 20 vị ngôn sứ được Thánh Kinh ghi nhận đã xuất hiện rải rác trong khoảng 450 năm, bắt đầu là ngôn sứ Êlia (khoảng năm 900 trước CN), và cuối cùng là ngôn sứ Giona (khoảng năm 350 trước CN). Kể từ ngôn sứ Giona, suốt gần 400 năm, dân Do Thái không có một ngôn sứ nào xuất hiện. Năm 63 trước CN, Do Thái bị đế quốc Rôma thống trị tàn bạo, nên từ đó dân chúng ai nấy đều nóng lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân Ngài. Thế rồi Gioan Tẩy giả xuất hiện như một vị ngôn sứ, ông ăn mặc giống Êlia (2V 1,8; x. Mt 3,4), rao giảng cùng một sứ điệp như Êlia về sự phán xét của Thiên Chúa, đồng thời kêu gọi “hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2) và loan báo sẽ có một “Đấng đến sau ông, quyền thế hơn ông và ông không đáng xách dép cho Người” (Mt 3,11b). Vì thế, dân chúng cảm thấy có một cuộc phục hưng lớn về mặt tôn giáo bắt đầu xảy ra để chuẩn bị Nước Trời sắp đến. Chính Gioan cũng rất ý thức về cuộc phục hưng ấy mà ông là người góp phần vào.
Trước khi Gioan xuất hiện, phép rửa là một nghi thức mà người Do Thái vẫn thường làm cho dân ngoại khi họ trở lại Do Thái giáo. Ai đã theo Do Thái giáo rồi thì không lãnh nhận phép rửa nữa. Còn Gioan thì lại làm phép rửa cho chính người đã theo Do Thái giáo. Phải nói đó là một chuyện lạ đời đối với dân chúng. Phép rửa của ông có ý nghĩa là: Nước Trời đã gần đến, mà người khai mạc là một “Đấng đến sau ông, quyền thế hơn ông và ông không đáng xách dép cho Người” (Mt 3,11b). Để đón Nước Trời cùng với Đấng ấy, con người phải chuẩn bị bằng việc sám hối, dù đã là người Do Thái giáo. Và hình thức biểu lộ cụ thể là lãnh nhận phép rửa. Thánh Phaolô cho biết mục đích phép rửa của Gioan: “Ông Gioan đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu” (Cv 19,4). Tóm lại, phép rửa của Gioan nhằm giúp dân chúng sám hối hầu chuẩn bị một kỷ nguyên mới do Đức Giêsu khai mạc và thực hiện.
Ngoài phép rửa ông đang làm, ông còn giới thiệu cho dân Do Thái một thứ phép rửa khác mà ông không làm được: “Đấng đến sau tôi (…) sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (3,11c). Vì thế, khi Đức Giêsu đến để xin ông làm phép rửa cho Ngài, thì ông thấy yêu cầu ấy quả là nghịch lý. Ông cho rằng “Chính ông mới cần được Ngài làm phép rửa”, thứ phép rửa “trong Thánh Thần và lửa” của Ngài, chứ đâu có chuyện ngược đời là ông lại làm phép rửa cho Ngài. Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”. Lúc ấy Gioan mới chịu làm theo ý Ngài.
2. Tại sao Đức Giêsu lại lãnh nhận phép rửa của Gioan?
Quả thật, việc Đức Giêsu đòi Gioan làm phép rửa cho mình là một chuyện nghịch lý. Nhưng Ngài có lý của Ngài. Chắc chắn Ngài chịu phép rửa của Gioan không phải như những người Do Thái khác là để tỏ lòng sám hối tội lỗi, vì bản thân Ngài hoàn toàn vô tội. Chính phép rửa của Gioan là để chuẩn bị tâm hồn con người đón Ngài đến, thì tại sao Ngài lại chịu phép rửa của Gioan? Ngài chịu phép rửa của Gioan là vì:
– Tuy bản thân Ngài hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nghĩa là Ngài chất đầy tội lỗi của nhân loại trên bản thân mình. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, Ngài phải tự liệt mình vào hàng tội nhân cần phải sám hối. Và Ngài sám hối thay cho toàn nhân loại, tương tự như Môsê (x. Xh 9,27; 32,31-32; Lv 8,14-15), Nêhêmi (x. Nkm 1,6-7), Ét-ra (x. Er 10,1.6) và Đanien (x. Đn 10,2) đã từng làm.
– Với tư cách Đấng Cứu Chuộc nhân loại, Ngài muốn hòa mình với loài người tội lỗi để cùng họ sám hối trước mặt Thiên Chúa. Đây quả là thái độ khiêm nhường và đầy tình yêu, một thái độ cần thiết phải có để được tha tội, và riêng đối với Ngài, để chuộc tội cho nhân loại trước Thiên Chúa. Thái độ này khác hẳn với thái độ của người Pharisêu, thích tự coi mình là những người thánh thiện, muốn được tách biệt hẳn với đa số dân chúng mà họ coi là tội lỗi.
– Ngài muốn đánh dấu việc bắt đầu cuộc đời công khai của mình bằng hành động sám hối thay cho nhân loại, và kết thúc cuộc đời Ngài bằng việc chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại. Cái chết của Ngài chính là “phép rửa bằng lửa” (x. Mt 3,11) cho những ai tin vào Ngài và sống giới răn yêu thương của Ngài. Phép rửa này có khả năng xóa sạch tội lỗi của họ trước mặt Thiên Chúa. Nhờ đó, toàn cuộc đời công khai của Ngài mang ý nghĩa sám hối và đền tội thay cho nhân loại.
– Ngài muốn ủng hộ phép rửa và chủ trương phải sám hối của Gioan. Vì muốn gia nhập Nước Trời, công việc cần thiết đầu tiên là phải sám hối, nhìn nhận tội lỗi mình trước Thiên Chúa, quyết tâm sống đời sống mới, mặc lấy những quan niệm mới và thay đổi cách sống cho phù hợp với quan niệm mới ấy… Sám hối mà Gioan đòi hỏi không chỉ là thứ sám hối xuông theo nghi thức, chỉ tỏ vẻ hối hận nhưng sau đó không có gì thay đổi cả, mà là thứ sám hối đòi buộc phải có “hoa quả chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3,8).
3. “Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”
Khi Đức Giêsu yêu cầu Gioan làm phép rửa cho Ngài, Gioan một mực can ngăn, nhưng Ngài bảo: “Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính”. Đức công chính đòi hỏi phải hành xử phù hợp với thực trạng của mình. Đức Giêsu đại diện cho cả nhân loại tội lỗi, đi sai trệnh đường lối Thiên Chúa, nên Ngài phải đại diện cho toàn nhân loại sám hối trước mặt Thiên Chúa. Người có tội mà nhìn nhận tội lỗi mình đồng thời sám hối và quyết tâm sửa đổi, thì người ấy mới trở nên công chính.
Sám hối không phải là nhìn nhận bản chất mình là tội lỗi, trái lại phải nhận ra bản chất mình là “hình ảnh của Thiên Chúa”, “được tạo dựng giống như Thiên Chúa” (St 1,26-27), là “con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4), nhưng lại sống không đúng với bản chất cao cả ấy của mình. Chính vì thế, chúng ta làm nhục Thiên Chúa. Tương tự như một hoàng tử, là cành vàng lá ngọc, mà lại làm những việc đê tiện, bỉ ổi khiến vua cha phải xấu hổ vì con. Thật vậy, nếu bản chất của ta là tội lỗi thì khi ta sống trong tội lỗi, ta không có gì đáng trách vì ta đã sống đúng với bản chất của mình. Tương tự như một người hạ tiện làm công việc hạ tiện thì không có gì đáng xấu hổ. Nhưng bản chất ta là thánh thiện, nếu ta lại chấp nhận vùi mình trong tội lỗi, thì ta thật đáng trách. Chẳng khác gì một người có tấm thân ngọc ngà mà lại cam lòng vùi mình vào đám phẩn hôi.
Nếu ta chưa sống đúng với bản chất thánh thiện cao cả của mình, thì sự công chính đòi hỏi ta phải sám hối. Sám hối là phải thay đổi quan niệm và trở thành “con người mới” (Ep 4,24; Cl 3,10), đúng với bản chất thánh thiện và cao cả ấy. Vì nhân loại đầy tội lỗi, Đức Giêsu đã phải thực hiện sự sám hối ấy với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, để nhân loại nên công chính trước Thiên Chúa. Phần chúng ta, chúng ta cũng phải “làm như vậy để giữ trọn đức công chính”.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu thánh thiện và hoàn toàn vô tội, thế mà vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Ngài đã gánh lấy tội lỗi nhân loại, và tự liệt mình vào hàng những người tội lỗi cần phải sám hối. Còn con thì lại hành động ngược lại, con tuy tội lỗi nhưng lại thích được người khác tôn vinh và đối xử như một người thánh thiện. Con rất ngại phải nhìn nhận mà chỉ muốn chối phăng những tội lỗi của mình. Ôi, xin cho con biết hành xử như Đức Giêsu khi xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Về phương diện lịch sử, kinh nghiệm Đức Giêsu trải qua như bản văn chúng ta đọc hôm nay mô tả, là điều không thể kiểm chứng được. Lần đầu tiên Người hé cho dân chúng thấy được điều gì đó về thân thế của Người là trong cuộc gặp gỡ với Gioan, vị Tiền Hô; chỉ các Tin Mừng mới ghi lại cuộc gặp gỡ này (Mc 1,9-11; Lc 3,21-22; x. Ga 1,29-34).
Cuộc gặp gỡ Giođan không phải là một cuộc hẹn, cũng chẳng phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ. Đây là tổng hợp những tương quan giữa Đức Giêsu và Gioan. Nếu ta nghĩ rằng đây là cuộc đối thoại đầu tiên hoặc duy nhất, thì ta quên tính cách cách-điệu hoặc hệ-thống-hóa quen thuộc của các Tin Mừng. Hợp lý có lẽ nên giả thiết là đã có những cuộc gặp gỡ trước để trao đổi tầm nhìn, trao đổi các nhận định, và biến cố hôm nay chỉ là kết luận cho các gặp gỡ ấy.
Mẩu đối thoại ở cc. 14-15 chỉ có trong TM Mt, phản ánh một chiều hướng biện giáo. Sự kiện Đức Giêsu được Gioan ban phép rửa đã sớm tạo ra những khó khăn cho các Kitô hữu (so với Lc 3,21t; Ga 1,29-34): (i) Ngược lại với những gì chính Gioan đã loan báo về sự cao cả của Đấng Mêsia, ở đây các vai trò dường như bị đảo lộn; (ii) Phép rửa của Gioan, có kèm theo việc thú tội, được ban cho những người có tội; vậy khi đến nhận phép rửa, dường như Đức Giêsu ý thức mình có tội. Mẩu đối thoại cung cấp câu trả lời cho vấn nạn (i), còn cuộc thần hiển tiếp đó trả lời cho vấn nạn (ii).
Trong bài, có những chi tiết lấy từ các Bài Ca về Người Tôi Trung của Đức Chúa (Mt 3,17: Is 42,1). Đức Giêsu là Người Tôi Trung đã sẵn sàng đến chia sẻ thân phận khốn cùng của kẻ tội lỗi, khi đến xếp hàng chờ được nhận phép rửa, là nhận lấy những yếu đuối của loài người, như Mt nói sau này (Mt 8,17: Is 53,4). Như thế, tác giả đã kín đáo ám chỉ cuộc Thương Khó (x. Mt 27,45-56).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm hai phần:
1) Phép rửa của Đức Giêsu (3,13-15);
2) Cuộc thần hiển (3,16-17).
3.- Vài điểm chú giải
- chúng ta nên làm như vậy (15): Prepon estin (“nên; điều xứng hợp là”) hầu như tương đương với động từ dei (“phải; cần thiết”), diễn tả nhiệm vụ phát xuất từ ý muốn của Thiên Chúa.
- giữ trọn (15): Trong TM Mt, động từ plêroô, “làm cho đầy; làm trọn” không có nghĩa là chu toàn một lệnh truyền, mà là thực hiện một kế hoạch của Thiên Chúa.
- đức công chính (15): Dikaiosynê không phải là một nhân đức luân lý (“công bình”), nhưng là một lối sống, một cách xử sự tương hợp với kế hoạch và ý muốn của Thiên Chúa. Mt dùng từ ngữ này đặc biệt trong Bài Giảng trên núi. Trong bối cảnh chung của tư tưởng tôn giáo Híp-ri, “đức công chính” đây là việc thực hiện các ý muốn của Thiên Chúa, quy phục Luật Giao ước thật kỹ càng. Mt cũng đứng trong truyền thống thần học này: con người nên công chính khi, nhờ có cảm thức sắc bén về tính siêu việt và sự thánh thiện của Thiên Chúa, họ tìm cách sống hoàn toàn phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa đã quy định rằng Đấng Mêsia phải nhận phép rửa của Gioan và xuất hiện ra như một người tội lỗi. Vì sao? Ngữ cảnh không cung cấp một lý do rõ ràng nào giúp giải thích ý muốn này của Thiên Chúa. Nhưng toàn bộ Tân Ước thì cung cấp hai lý do:
(1) Lý do thứ nhất dựa trên Mt 20,28 và 26,28: Đức Giêsu phải tạ tội cho “một số đông” (= muôn người). Cv 8,32-35 (trích Is 53,7-8) cho thấy Đức Giêsu là như Người Tôi Trung của Đức Chúa, chịa đau khổ vì tội lỗi của dân mình, cho dù bản thân Người không có tội. Thánh Phaolô diễn tả rõ ràng: Nhờ việc nhập thể, Đức Giêsu đã “mang thân xác giống như thân xác tội lỗi” (Rm 8,3), Người đã trở nên thành viên và thủ lãnh của một nhân loại tội lỗi. Vậy, mặc dù không có tội, Đức Giêsu đã phải lãnh nhận phép rửa bày tỏ sự thống hối do liên đới với loài người tội lỗi (x. 2 Cr 5,21; Dt 2,14-17).
(2) Lý do thứ hai, tương tự lý do thứ nhất, nhưng nhìn dưới một góc độ khác: không nhìn Đức Giêsu tự đồng hóa với các tội nhân, nhưng tự đồng hóa với những người-tội-lỗi-hoán-cải. Bởi vì khi nhận phép rửa của Gioan, người Do Thái phải đáp ứng một yêu cầu về sự công chính, nghĩa là phải bày tỏ lòng thống hối, ước muốn trở lại với Thiên Chúa và lại sống trung thành với những đòi hỏi của Giao ước. Sự công chính Kitô giáo, theo như Mt hiểu, về cơ bản có một ý nghĩa tương tự sự công chính theo Giao ước cũ (nhưng vượt xa sự công chính này): là trung thành với những đòi hỏi của Giao ước mới, quy phục luật mới do Đức Kitô ban cho (x. ch. 5–7). Như thế, khi Đức Kitô “giữ trọn đức công chính”, Người vừa nhận cho mình thái độ của những người Israel “công chính” trung thành với Giao ước, vừa đưa sự trung thành đó đến mức hoàn hảo cuối cùng. Có lẽ đây đúng là ý nghĩa của phép rửa Đức Giêsu nhận: khi ấy, Người trở nên liên đới với đoàn dân đang quay về để sống trung thành. Khi nhận phép rửa, Đức Kitô lôi kéo theo với Người và trong Người tất cả những người tin, đi vào cuộc quay trở về để sống trung thành, đi vào thái độ vâng phục thảo hiếu đối với Chúa Cha. Và Người sẽ diễn tả thái độ hiếu thảo này ra hết sức rõ ràng trong cuộc Khổ Nạn (x. 26,39), là lúc mà đức công chính được giữ trọn. Lời nói đầu tiên của Đức Giêsu trong TM Mt cũng tóm tắt toàn thể cuộc đời Người.
- các tầng trời mở ra (16): Mt sử dụng cùng một động từ với Is 63,19 LXX, “mở ra” (anoigô), trong khi bản Híp-ri là “xé ra”, qr‘ (“Phải chi Ngài xé trời mà xuống”), nhưng ý nghĩa vẫn là một: niềm hy vọng cánh chung được vị ngôn sứ loan báo, nay đã được thực hiện.
- như chim bồ câu (16): “Như; giống như” (hosei) bổ nghĩa cho động từ “xuống” chứ không phải cho danh từ “Thần Khí”. Trong Do Thái giáo, không bao giờ con chim bồ câu được coi là hình ảnh của Thần Khí cả, nhưng có một vài bản văn so sánh chuyển động của Thần Khí Thiên Chúa với chuyển động của một con chim bồ câu “bay lượn trên đàn con rất gần, mà không chạm vào chúng”. Sách St viết: “Thần khí bay lượn trên nước” (1,2). Hình ảnh này muốn nói: (1) Thần Khí không phải là một sức mạnh phát xuất từ thiên nhiên hay con người, mà là một hữu thể siêu việt; (2) Thần Khí hoạt động vừa dịu dàng vừa gần gũi. Bản văn Mt cũng như Mc không muốn nói đến dáng vẻ bề ngoài (như Lc), mà là cách thức Thần Khí đến và tác động trên Đức Giêsu.
- Đây là Con yêu dấu của Ta (17): Lời Chúa Cha nhắc lại Tv 2,7: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” và Is 42,1: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó”. Có nhiều bản văn Cựu Ước trong đó Thiên Chúa gọi Israel là “con” (x. Xh 4,22; Hs 11,1 …) khiến ta có thể nghĩ rằng ở đây Mt gợi ý Đức Giêsu là “Israel mới”. Câu truyện “Cám dỗ” (4,1-11) sẽ nêu rõ sự song đối này.
Câu nói từ trời được lặp lại y nguyên trong bài tường thuật Hiển Dung (x. 17,5). Hẳn là Mt muốn tạo một tương quan thần học giữa hai biến cố. Cũng như biến cố Hiển Dung báo trước việc Đức Giêsu được tôn vinh khi sống lại (sự tôn vinh này là hoa trái của sự tự hạ trong cuộc Thương Khó), biến cố tiếng nói và Thần Khí xuống cũng loan báo Đức Kitô được tôn vinh; sự tôn vinh không chỉ là hoa trái của Khổ Nạn mà còn của cả cuộc đời tự hạ của Đức Kitô, khởi đầu với sự tự hạ trong phép rửa. Tất cả những điều này xác nhận rằng truyện Phép Rửa đúng là một cuộc thần hiển, như cuộc Hiển Dung, chứ không phải là một thị kiến của riêng Đức Giêsu. Cuộc thần hiển này được ngỏ với các độc giả Tin Mừng, nay đã là môn đệ Đức Giêsu (bởi vì Mt không nhắc tới đám đông dân chúng nào cả), cũng như cuộc Hiển Dung chỉ được ngỏ với ba tông đồ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bước đầu đưa Đức Giêsu đi vào hoạt động công khai xảy ra trong bối cảnh là phép rửa do Gioan cử hành. Đức Giêsu từ Galilê đến sông Giođan và muốn được Gioan làm phép rửa cho. Chính diễn tiến của phép rửa chỉ được nhắc qua (3,16). Nhưng phép rửa này tạo cơ hội cho Gioan, Đức Giêsu và Thiên Chúa lên tiếng và những phương diện cốt yếu của hoạt động của Đức Giêsu được tỏ bày. Gioan phản đối viẹc Đức Giêsu xin được ban phép rửa, vì ông coi là chuyện không hợp (3,14). Những lời đầu tiên Đức Giêsu nói khẳng định rằng Người có nhiệm vụ đưa trọn ý muốn của Chúa Cha đến chỗ hoàn tất (3,15). Rồi Thiên Chúa nhìn nhận Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài (3,17).
* Phép rửa của Đức Giêsu (13-15)
Bản văn này có giọng tường thuật.
Gioan đã dùng ba cách để tuyên bố Đức Giêsu là Đấng có ưu thế hơn (3,11-12): 1) Người là Đấng mạnh hơn, Người vượt xa Gioan bằng sức mạnh thực thụ. 2) Người có phẩm giá cao vời: ngay đến việc xách dép cho Người, Gioan cũng không xứng đáng. 3) Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong nước. Nước có là gì đâu trước Thần Khí Thiên Chúa, trước sự sống chan hòa của chính Thiên Chúa? trước sinh lực dồi dào và niềm hạnh phúc của Thiên Chúa? Ai là Đấng có thể làm phép rửa với Thánh Thần? Thế mà chính Đấng đã được Gioan loan báo như thế lại muốn được ông làm phép rửa cho. Được làm phép rửa bằng nước có ý nghĩa gì đối với Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần? Xếp hàng nối vào những người không có Thánh Thần có ý nghĩa gì đối với Đấng sẽ thông ban Thánh Thần? Gioan có một ý tưởng khác về điều phù hợp với Đức Giêsu, ông không thấy vị trí của Người bên cạnh những người đến xin ông ban phép rửa. Nhưng ông xin Đức Giêsu giáo huấn mình. Suốt hành trình, Đức Giêsu sẽ bị người ta cật vấn về cách xử sự của Người, đặc biệt là cách xử sự của Người đối với những kẻ tội lỗi (x. 9,11). Các đối thủ của Người sẽ có những ý tưởng sai lạc về những gì xứng hợp với Đấng Thiên Chúa sai đến.
Lời đầu tiên Đức Giêsu nói có một đặc tính căn bản: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (3,15). “Đức công chính” có nghĩa là những gì “công chính” trước mặt Thiên Chúa, những gì tương ứng với ý muốn của Ngài. Chuyện Đức Giêsu được Gioan làm phép rửa cho thuộc về ý muốn của Thiên Chúa. Người làm như thế không phải theo một ý riêng, nhưng bởi vì Thiên Chúa muốn thế. Chính trong sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà Đức Giêsu xin Gioan làm phép rửa cho mình và bắt đầu hành trình.
Đức Giêsu nhận biết là ý Thiên Chúa muốn Người hòa mình vào số những người đến xin Gioan làm phép rửa. Họ là những người đã nghe lời kêu gọi hối cải và công khai thú nhận mình là người tội lỗi (3,6). Người không đứng vào hàng ngũ những người chắc chắn về mình, những người nghĩ rằng mình công chính và vô phương trách cứ. Thật ra, Người không phải trách mình về bất cứ tội nào; nhưng quan hệ của Người với Thiên Chúa là thế nào, thì lát nữa chính Thiên Chúa sẽ phải tỏ ra. Đức Giêsu như đang nhắc lại tên của Người: “Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (1,21) và giới thiệu sứ mạng của Người: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (9,13). Người bắt đầu trợ giúp người tội lỗi bằng cách không giữ khoảng cách đối với họ, mà là đến ở giữa họ: như một người trong số họ, Người xin Gioan làm phép rửa cho. Qua hành vi này, Đức Giêsu nhìn nhận giá trị của phép rửa Gioan, nghĩa là Vị Tẩy Giả rao giảng và làm phép rửa không do sáng kiến loài người, nhưng theo nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó (x. 21,25). Đồng thời, Người tỏ thái độ đối với những kẻ mà Người được gửi đến phục vụ: Người ở bên cạnh họ và chăm sóc họ bằng cách sống giữa họ. Toàn thể hoạt động của Người cho đến chết trên thập giá được quy định bởi chiều hướng và sứ mạng này.
Khi tỏ ra liên đới với người tội lỗi, Đức Giêsu phản đối quan niệm của Vị Tẩy Giả về Nước Trời và về Đấng Mêsia: thay vì tự giới thiệu như là Vị Thẩm Phán cánh chung đến quét sạch sân lúa của mình trong Cơn Thịnh Nộ và trong lửa, Đức Giêsu đã trầm mình vào dòng sông Giođan.
* Cuộc thần hiển (16-17)
Bản văn này có giọng điệu khải huyền.
Lời Thiên Chúa phán sau đó cho thấy người hành động như thế là ai và Thiên Chúa ở về phía Người như thế nào: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (3,17). Lời này cũng căn bản và chất chứa cả một chương trình như lời tuyên bố của Đức Giêsu về việc Người vâng theo ý muốn của Chúa Cha (3,15). Đấng vâng phục Thiên Chúa và đứng về phía người tội lỗi chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Tương quan của Người với Thiên Chúa không hề bị tội lỗi làm cho rối loạn. Người đứng bên những kẻ tội lỗi và có thể trợ giúp họ chính là vì Người không phải là một người trong số họ. Thiên Chúa yêu thương Người bằng một tình yêu độc nhất vô nhị, hài lòng về Người, hoàn toàn đồng ý với Người và với cách hành động của Người. Người là Con, được hiệp nhất với Chúa Cha theo cách hoàn toàn đặc biệt; Thần Khí Thiên Chúa ngự trên Người; Người đầy sức sống và sức mạnh Thiên Chúa; đó là sức tạo thành và làm cho sống.
Bản văn cho hiểu là Chúa Cha chấp nhận sự vâng phục của Đức Giêsu, khi mô tả việc Thần Khí ngự xuống và nhắc đến “tiếng nói từ trời”. Như vậy, phép rửa giống như một lễ tấn phong Đức Giêsu làm Đấng Mêsia (x. 11,2; Ge 3,1-2).
+ Kết luận
Bằng cách đó, Đức Giêsu được chuẩn bị cho sứ mạng Người và có thể đưa phép rửa bằng Chúa Thánh Thần như đã được loan báo đến chỗ được thực hiện. Trong phép rửa của Đức Giêsu, có tỏ hiện những đường nét của toàn thể hoạt động của Người. Người đến không phải cho những người công chính, nhưng đến sống giữa những người tội lỗi. Người làm như thế vì vâng theo thánh ý của Thiên Chúa và trong tư cách Con yêu dấu của Ngài, sống hiệp thông hoàn toàn với Chúa Cha. Điều mà người tội lỗi bị thiếu, thì Đức Giêsu được Thiên Chúa ban cho ở mức hoàn hảo. Như thế, Người có thể tha thứ tội lỗi và đưa người ta đến hiệp thông với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, chúng ta được mời gọi nghe tiếng nói từ trời giải thích ý nghĩa những sự việc đang xảy ra tại sông Giođan. Đến lượt Đức Giêsu ra đi dùng cuộc đời, lời nói và các việc làm, mà trở thành tiếng nói của Chúa Cha cho loài người. Rồi Người sẽ gọi một số người, trong đó có chúng ta, nối tiếp Người trong sứ mạng này. Hôm nay, chúng ta có thể tự hỏi: Lâu nay, nghe những lời tôi nói và nhìn cách tôi sống, người khác nhận ra được sứ điệp nào của Chúa Cha?
2. Khi đến xin nhận phép rửa, Đức Giêsu xếp hàng với những người tội lỗi, là những kẻ mà Người đến để tha thứ và cứu độ. Đấy là cách thức làm việc của Người. Người cứu độ bằng cách chia sẻ tình trạng bần khốn, nghèo hèn của nhân loại, để biến đổi nhân loại từ bên trong. Người sẽ đi tới cùng trong lập trường này khi chấp nhận tự hủy trong cái chết trên thập giá. Khi chọn lựa như thế, Đức Giêsu đã phác ra cho các Kitô hữu một phương cách làm việc tông đồ: không phải là đứng từ trên mà phê phán, thống trị, nhưng hòa mình vào để chia sẻ.
3. Khi Đức Giêsu đã phải chọn lựa đứng vào hàng ngũ các tội nhân và trầm mình vào dòng sông Giođan, Người cho hiểu rằng chúng ta đang ở tại đó, tại đáy thẳm cuộc đời, trong tình trạng nghèo hèn, và Người sẵn sàng đến gặp để đưa chúng ta đi lên. Như thế, chẳng ai trong loài người có thể tự hào rằng mình sống xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa, mình được chiếu cố vì đã sống ngay chính.
4. Trong bí tích rửa tội, người Kitô hữu được cùng chết với Đức Kitô và cùng sống lại với Người. Khi đó, người ấy như được nghe Chúa Cha nói về mình như đã nói về Đức Giêsu xưa kia: “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Nhưng khi đó, người tín hữu cũng hiểu rằng mình phải lên đường đi cứu thế như và cùng với Đức Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha. Trách nhiệm của người Kitô hữu cũng như trách nhiệm của Đức Giêsu, là giới thiệu cho thấy Thiên Chúa là Cha và truyền thông tình yêu của Chúa Cha cho anh chị em mình.
1. Matthêu mô tả gì trong phép rửa của Chúa Giêsu: cảm xúc tôn giáo? thị kiến? kinh nghiệm về một trật tự khác? Việc Thần khí xuống "như một chim câu (c.16) và lời nói của "tiếng từ trời có ý nghĩa gì trong hậu cảnh Cựu Ước và đối với hôm nay?
2. Việc Thần khí tấn phong Chúa Giêsu làm Messia và tiếng nói từ trời soi sáng thế nào lời gian Tẩy giả công bố về việc hối cải và Nước Trời gần bên (3,2), lời mà Chúa Giêsu lấy lại sau đó (4,17)? Làm sao cho thiên hạ nghe lời công bố ấy hôm nay? Và từ đoạn văn này, ta rút ra được điều gì giúp hiểu về phép rửa trong Giáo Hội?
3. Chúa Giêsu phủ nhận quan niệm của vị Tẩy Giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia trên điểm nào?
4. Làm sao giải thích thái độ Chúa Giêsu đến xin chịu phép rửa?
*******
1. Việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả dẫn ta đến phép rửa của Chúa Kitô, trung tâm đích thực của các trình thuật chương 3- 4. Về phép rửa này, Tin Mừng Nhất Lãm cống hiến cho ta 3 bản văn song song rất giống nhau. Thế nhưng đoạn văn của Matthêu lại thêm vào trình thuật một mẩu đối thoại ngắn giữa Gioan và Chúa Giêsu, một mẩu đối thoại rất có ý nghĩa xét trong nhãn giới của ông. Rồi đây chúng ta sẽ thấy nó ý nghĩa chỗ nào.
2. Khi chấp nhận liên đới với kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu tỏ ra muốn phản đối quan niệm của vị Tẩy Giả về Nước Trời và về cuộc giáng lâm của Đấng Messia: thay vì xuất hiện như Thẩm phán cánh chung đến quét sạch sân lúa trong cơn Hỏa nộ, Chúa Giêsu lại tự hủy trong dòng nước Giođan. Trình thuật Matthêu như thế kín đáo ám chỉ cuộc Tử nạn, qua việc đồng hóa Chúa Giêsu với người Tôi tớ Giavê (Is 42,1; x. Mt 3,17), Đấng đã gánh lấy mọi yếu hèn của ta (Is 53,4; x. Mt 8,17). Chính trình thuật Tử nạn của Chúa Giêsu (27,45-56) cũng chứa đựng nhiều yếu tố của cảnh này, như chúng ta sẽ thấy về sau khi nghiên cứu cuộc Khổ nạn.
3. Thuộc văn thể nào cái trình thuật về thị kiến khai mạc của chúng ta đây, một trình thuật xem ra không mô tả một quang cảnh thấy được bên ngoài, cũng chẳng tỏ cho biết một kinh nghiệm tâm lý hay một mặc khải bên trong của Chúa Giêsu? Trước hết, trình thuật có chủ ý thần học; nó biểu lộ mối ưu tư của các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên muốn diễn tả niềm tin của họ vào Chúa Giêsu như vào kẻ đến thỏa mãn lòng mong đợi Đấng Thiên Sai, và muốn biện minh cho thái độ khó hiểu của Chúa Giêsu khi đến xin Gioan làm phép rửa. Trình thuật có những nét tương tự với các cuộc "thần hiện " (tỏ mình của Cứu Chúa) hay với những cảnh "kêu gọi ngôn sứ", thường thấy trong Cựu Ước. Nhưng đúng hơn, nó thuộc về một văn thể khác mang tính chất khải huyền, mà ta có thể gọi là văn thể "thị kiến giải thích" (vision interprétative), thường được dùng trong các Targumim. Thật vậy, các Targumim liên hệ đến lịch sử tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, đều soi sáng lạ lùng trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa của chúng ta.
4. Trình thuật này có lẽ có có liên hệ với kinh nghiệm phép rửa Kitô giáo mà Matthêu sẽ đề cập vào cuối Tin Mừng của ông (28,19). Người chịu thanh tẩy "đi lên" khỏi nước sự chết, đón nhận Thần Khí và tỏ mình ra như "Con chí ái" của Chúa Cha, trước khi được dẫn cùng với Chúa Giêsu vào hoang địa thế gian, hầu chịu thử thách cùng chu toàn phận vụ trong đó.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ" (c. 13), một tiếng thường gặp trong Matthêu, ở đây tương đương với một công thức chuyển mạch thuần túy. "Xuất hiện" cũng là động từ Matthêu đã dùng để đưa Gioan Tẩy Giả nhập cuộc (3,1): ông tái nhấn mạnh mối tương quan mật thiết giữa Gioan và Chúa Giêsu vậy. "Bỏ Galilê”: Matthêu không đề cập đến Nadarét mà ông đã nói tới ở 2,23. "Để chịu thanh tẩy": mục đích rõ ràng của Chúa Giêsu. Matthêu minh bạch đặt vấn đề Chúa Giêsu chịu rửa, trước khi trả lời trong các câu kế tiếp.
Cuộc đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu (cc. 14-15), mà chỉ Matthêu có, phản ảnh một khuynh hướng hộ giáo. Việc Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu đã sớm gây nhiều khó khăn cho Kitô hữu (so sánh Lc 3,21tt; Ga 1,29-34; Tin Mừng người Hy bá). Các khó khăn đó như thế này:
(1) Các vai trò xem ra đảo ngược, trái ngược với điều chính Gioan loan báo khi ông tự tuyên bố mình không đáng mở dây giày cho Đấng Messia tương lai;
(2) Phép rửa của Gioan, có việc thú tội kèm theo (3,6) được các tội nhân đón nhận, vậy Chúa Giêsu, khi cúi mình chịu, phải chăng cũng ý thức mình là tội nhân. Cuộc đối thoại giữa Gioan và Chúa Giêsu đem lại câu trả lời cho khó khăn thứ nhất, trong lúc cuộc thần hiện tiếp theo phép rửa làm giảm khó khăn thứ hai.
Gioan (c.14) nhận thấy bổn phận chuẩn bị cho Chúa Kitô đến giờ đây chấm dứt; lúc này tới phiên ông chịu rửa "trong Thánh Thần và lửa" (c. 11) và Chúa Giêsu phải là người ban phép. Nhưng Chúa Giêsu trả lời (c.15) rằng cần phải tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Tiếng prepon (do động từ prepoin "thích hợp", và gán tương đương với dei: phải) diễn tả sự bắt buộc do thánh ý Thiên Chúa. Đoạn văn gần giống bản văn chúng ta là Dt 2, 10 (so sánh với Lc 7,30). ở đây có hai tiếng quan trọng, đặc biệt của thần học Matthêu: plêroun (làm trọn; thực hiện; hoàn thành; kết thúc) và dikaiosunê (sự công chính). Thông thường, plêloun có nghĩa là "làm trọn", theo nghĩa chấp hành tốt lề luật chẳng hạn. Nhưng trong Matthêu, nghĩa của nó phong phú hơn nhiều. Nếu dự đoán được những kết luận của cuộc phân tích Mt 5,17, ta sẽ hiểu rằng việc "làm trọn" ở đây (có hai nghĩa “bảo tồn và kết thúc”, “duy trì và kiện toàn”. Sở dĩ Chúa Kitô, khi chịu phép rửa bởi Gioan, "đã làm trọn" sự công chính, đó là vì Người vừa cúi chịu vừa siêu hóa và bày tỏ ý nghĩa tròn đầy của phép rửa ấy; cử chỉ của Người mặc khải điều đã được chứa đựng cách bất toàn trong việc người Israel cúi mình chịu phép rửa của Gioan vậy.
Tiếng thứ hai, "hệt nghĩa công chính" (Matthêu rất ưa dùng, nhất là trong Diễn từ trên núi). Trong văn mạch chung của tư tưởng tôn giáo và tư tưởng xã hội Hy bá (cả hai chỉ là một), tiếng này chỉ sự hoàn thành thánh ý Thiên Chúa; sự tuân thủ Lề luật Giao Ước dưới mọi đòi hỏi yêu sách. Việc Matthêu dùng ý niệm "công chính" nằm trong truyền thống thần học của Israel: con người trở nên công chính khi, nhờ ý thức sâu sắc về sự siêu việt và thánh thiện của Thiên Chúa, họ cố gắng sống phù hợp với tôn ý Ngài. Nhưng tại sao Thiên Chúa đã quyết định là Đấng Messia của Ngài phải nhận phép rửa của Gioan và tỏ mình như kẻ có tội? Bản văn không đưa ra một lý do sáng sủa nào để giải thích ý định thần linh lạ lùng này, trừ ra lời ám chỉ mập mờ về việc “hoàn thành mọi nghĩa công chính". Nhưng toàn thể Tân Ước có gợi lên hai lý do của đòi hỏi ấy.
Lý do thứ nhất, được nhiều nhà chú giải nhấn mạnh dựa vào Mt 20,28 và 26,28, có thể phát biểu như thế này: Chúa Giêsu phải xóa hết tội lỗi của "nhiều người". Cv 8,32-35, trích Is 53,7-8, cho thấy Chúa Giêsu như là Tôi tớ Giavê chịu đau khổ vì tội dân mình, mặc dầu chính Người không vương mắc tội Phaolô còn minh định giáo thuyết ấy hơn: qua việc nhập thể, Chúa Giêsu đã mang lấy "một xác thịt giống xác thịt tội lỗi (Rm 8,3), Người đã trở nên chi thể và thủ lĩnh của một nhân loại tội lỗi. Thành ra mặc dầu chẳng phạm tội, Chúa Giêsu cũng phải cúi chịu phép rửa thống hối vì đã muốn liên đới với mọi tội nhân (2 Cr 5, 21; Dt 2, 14- 17).
Nhưng ta có thể thấy một lý do thứ hai trong phép rửa của Chúa Giêsu, hay đúng hơn là lý do đầu, song nhìn dưới một hình thức hơi khác. Lý do ấy không nhấn mạnh đến sự đồng hóa Chúa Giêsu với tội nhân cho bằng đến việc Người đồng hóa với các tội-nhân-hối-cải. Thật vậy, đối với người Do Thái, lãnh nhận phép rửa của Gioan là một yêu sách công chính, theo nghĩa là họ phải dùng nghi thức đó mà biểu lộ sự thống hối của mình, biểu lộ lòng ước muốn trở về với Giavê và sống trung thành hơn nữa với những đòi hỏi của Giao Ước. Xét về cơ bản thì sự công chính Kitô giáo, như Matthêu hiểu, đồng nhất ý nghĩa với sự công chính của Giao Ước cũ (nhưng cũng siêu hóa nó): đó là trung thành với các yêu sách của Giao Ước mới, là thần phục Luật mới của Chúa Kitô chương 5-7). Như thế, khi "làm trọn hết nghĩa công chính" là Chúa Kitô lấy thái độ trung thành với Giao Ước của những người Israel "công chính" làm của mình, đồng thời đưa lòng trung thành đó lên tới tuyệt đỉnh hoàn thiện. Đấy chính là ý nghĩa đặc biệt của phép rửa Chúa Kitô, một phép rửa trong đó Người trở nên liên đối với dân Người đang quay đầu trở lại. Qua phép rửa, Chúa Kitô kéo hết thảy những kẻ tin đi với mình và trong mình về tùng phục lại Chúa Cha; lòng tùng phục thảo hiếu này Người sẽ bày tỏ cách đặc biệt sáng ngời trong cuộc Tử nạn. Thành ra phép rửa của Chúa Giêsu đã là dấu chấp nhận trước cuộc Tử nạn (26,39), sự hoàn thành mọi lẽ công chính. Lời đầu tiên của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu tóm tắt cả cuộc đời Người vậy.
Các câu 16-17 trình bày sự kiện một cách gọn gàng, đơn giản. Điểm được chú trọng là biến cố thần hiện, trung tâm của tất cả phần này. Matthêu đã nhấn mạnh rằng việc thụ thai Chúa Giêsu là công trình của Thánh Thần (1,18-20), nay ông lại cho thấy sứ mệnh Người không có nguồn gốc nào khác hơn. Chính lúc Chúa Giêsu tỏ ra vâng lời và tự hạ, thì Người được xác nhận như là ngôn sứ và Messia, nghĩa là như Thẩm phán cánh chung (mặc dầu việc tỏ mình như Thẩm phán được hồi lại vào ngày Quang lâm). Thật thế, chính sự hạ mình như là Con được Cha sai đã làm cho người trở thành Thẩm phán cánh chung, vì chính trong sự xóa mình, sự tự hủy ấy (kénose, theo cách nói của Phaolô) mà trời đến gần đất.
“Trời mở ra": Matthêu dùng cũng một động từ như Isaia đã dùng trong một đoạn thời danh: "Ước gì Ngài xé trời Ngài xuống" (Is 63,19. Bản 70): Niềm hy vọng thiên sai diễn tả qua miệng ngôn sứ bây giờ được thực hiện vậy.
“Người thấy Thần khí Thiên Chúa". Việc Chúa Cha chấp nhận sự tùng phục của Chúa Con được biểu lộ rõ ràng qua việc Thần khí đáp xuống và nhất là qua "tiếng nói từ trời". Như thế phép rửa có vẻ là cuộc tấn phong Chúa Giêsu làm vua và Messia, vì Thần khí Người lãnh nhận là Thần khí đã ngập tràn các ngôn sứ và vua chúa để ban cho họ khả năng thi hành nhiệm vụ; nhưng hơn hẳn các nhân vật quá khứ, Người lãnh nhận Thần khí một cách dư đầy. Chính Isaia đã từng tiên báo như thế về Đấng Messia: "Sẽ đậu trên Người Thần khí Giavê, Thần khí khôn ngoan và trí tuệ, Thần khí mưu lược và anh dũng, Thần khí hiểu biết và kính sợ Giavê"(Is 11,2). Ngôn sứ Gioel cũng đã tiên báo: thời Đấng Messia tới sẽ được đánh dấu bằng việc tuôn tràn Thần khí cho mọi người (3, 1-2), việc tuôn tràn này bắt đầu từ sông Giođan nhưng sẽ đạt đến mức độ viên mãn trong ngày Hiện xuống.
"Người thấy Thần khí Thiên Chúa đáp xuống như chim câu”: Trong Do thái giáo, chim câu không hề được coi là hình ảnh của Thần khí, thế nhưng một vài bản văn các giáo sĩ có so sánh chuyển động của Thần khí Thiên Chúa với cử chỉ của một con bồ câu "bay chập chững trên bầy con mà không đụng tới chúng"; Thần khí cũng "bay là đà" trên nước nguyên thủy như vậy (St 12). Trọng tâm so sánh nằm ở chỗ nhấn mạnh tới thần tính của Thần khí (Thần khí chẳng phải là một mãnh lực mưu xuất từ thiên nhiên hay con người, song là một hữu thể siêu việt), lẫn tính cách dịu dàng, gần gũi của hoạt động Ngài. Bản văn Matthêu, như Maccô, không gợi lên hình dáng (Lc) cho bằng cách thức mà Thần khí đột hiện và tác động trên Chúa Giêsu. Trạng từ ngữ “hơi như (hôsei) chim câu" bổ nghĩa cho động từ "xuống" chứ không cho danh từ "Thần khí".
"Người này là Con Ta": Tiếng phán ra là tiếng Chúa Cha; tiếng ấy lấy lại lời khẳng quyết của Tv 2,7: "Con là con Ta, hôm nay Ta đã sinh con"; nó cũng lấy lại lời Giavê ngỏ cùng người Tôi tớ đau khổ sẽ thể hiện ơn cứu độ cho thân thuộc mình: "Này đây Tôi tớ của Ta mà Ta nâng đỡ Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ. Ta đã ban Thần khí Ta trên Người..." (Is 42, 1). Cũng có thể đối chiếu lời công bố của Thiên Chúa với nhiều bản văn Cựu ước trong đó Giavê gọi Israel là "con" Ngài (Xh 4, 22; Hs 11,1 v.v...) và một lần nữa kết luận rằng Matthêu muốn cho thấy Chúa Giêsu là Israel mới. Trình thuật Cám dỗ (4, 1-11) sẽ củng cố hơn nữa việc song đối này.
Công thức "Người này là Con chí ái Ta, kẻ Ta sủng mộ" được lấy lại từng chữ trong trình thuật Biến hình (17,5). Chắc hẳn Matthêu muốn thiết lập một sự tương đồng có tính cách thần học giữa hai biến cố. Thật vậy, cũng như cuộc biến hình là thể hiện trước việc tôn vinh Chúa Kitô khi Người sống lại tôn vinh là kết quả của tự hạ trong Khổ nạn), thì sự phê chuẩn của Chúa Cha và việc đổ đầy Thần khí cũng loan báo, theo cách thức riêng, việc tôn vinh Chúa Kitô (tôn vinh sẽ là kết quả không những của cuộc Tử nạn mà còn của cả đời sống tự hạ, bắt đầu từ việc hạ mình ngày chịu phép rửa). Hết thảy những điều này xác nhận rằng cảnh phép rửa thật là một cuộc thần hiện, y như cuộc biến hình, hơn là một thị kiến của riêng Chúa Giêsu. Cuộc thần hiện này nhắm tới các độc giả Tin Mừng đã trở thành môn đồ Chúa Giêsu (vì Matthêu không đề cập tới đám đông nào hết), y như cuộc Biến hình chỉ dành riêng cho 3 môn đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thôi vậy.
KẾT LUẬN
Cơ cấu văn chương và thần học của tất cả phần này (ch.3-4) chỉ cho thấy nên tìm giáo huấn chủ yếu của các chương ở ngay trung tâm của chúng là 3,16-17. Thần khí Thiên Chúa xuống trên Chúa Giêsu và thánh hiến Người, không những như Ngôn sứ-tôi tớ, mà còn như kẻ hiện thân cho Nước Trời, vì Người là Đấng Messia thiên hạ đợi trông. Trong Chúa Giêsu, trời xem ra nối liền với đất, vì trong Người "Nước Trời đã gần bên" (3,2). Từ nay mọi cái đều hội tụ về Chúa Giêsu, và mỗi người đều được kêu mời nghe tiếng phán từ trời, tiếng ban ý nghĩa cho những gì xảy ra; từ nay Chúa giàu có bổn phận làm cho cuộc sống, ngôn ngữ, cử chỉ Người trở nên tiếng nói Chúa Cha ngỏ với nhân loại.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phép rửa của Chúa Giêsu cho ta thấy Người muốn sống đời mình theo viễn tượng nào, muốn được sinh động bởi não trạng nào, muốn hành động theo phương cách nào. Người đứng về phía các tội nhân mà Người đến tha thứ và cứu vớt. Người mong biến đổi nhân loại, nhưng là từ bên trong, bằng cách chia sẻ thân phận nghèo hèn và khốn khổ của họ, hơn là từ bên ngoài, bằng xét xử phán đoán. Người từ chối thống trị, chinh phục với vũ lực, bắt buộc người ta phải thừa nhận Người. Từ đầu sứ vụ Người cho thấy chỉ muốn cứu nhân loại bằng cách tự hủy mình cho đến chết trên Thập giá. Kitô hữu nào dự định thực hiện cuộc giải phóng con người cũng phải chấp nhận các phương pháp như trên.
2. Lúc Chúa Giêsu chìm dưới dòng nước sông Giođan, nghĩa là trong vũ trụ của các tội nhân, dưới tận đáy khiêm nhượng, thì Chúa Cha đến gặp Người và đặt Người làm “Kitô và Chúa” (Cv 2, 33): ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
3. Chúa Giêsu muốn liên đới với con người trong nỗi khốn cùng và sự yếu hèn của họ. Người muốn đợi chúng ta chính nơi đó. Vì thế đừng luống công làm ra vẻ quan trọng, tự đắc, cho mình xứng đáng với tình yêu của Người. Chính trong đáy vực sâu tội lỗi mà Người gặp gỡ và phục hồi ta.
4. Ai chịu thanh tẩy là đi vào đời sống nghĩa tử với Chúa Giêsu: người ấy được làm con cái Thiên Chúa theo cách riêng của mình và cũng nhận được Thần khí Chúa Cha và Chúa Con.
Các lễ Giáng Sinh, Thánh Gia, và Hiển Linh vẫn còn thật gần gũi. Dẫu vậy, rất nhanh. Giáo Hội muốn làm cho chúng ta bỏ Tin Mừng tuổi thơ để đề cập cái chính yếu: tác vụ công khai... cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu...
Bấy giờ Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan..
Chúng ta đừng quên những hoàn cảnh lịch sử của “biến cố" mà người ta có thể xác định thời gian vào cuối năm 27.
“Đức Giêsu”... một người vẫn không ai biết.
“Từ miền Galilê đến" tỉnh xa xôi này một nửa ngoại giáo bị khinh để bởi những người dân cư miền Giuđê và Giêrusalem, lãnh địa linh thánh tiêu biểu mà Thiên Chúa cư ngụ. “Bất chợt... xuất hiện". Cái người vô danh này, đến từ một làng cũng tăm tối, bây giờ vào cuộc.
Chúng ta những người đang sống hơn hai nghìn năm sau, chúng ta bây giờ biết Đức Giêsu sắp thay đổi bộ mặt địa cầu. Người khoảng 30 tuổi. Người ta không biết gì về ông ấy. Một cuộc yên lặng 30 năm.
Trên bờ sông Giođan. A! Con sông này, tất cả đã khởi đầu trên bờ của nó! Một con sông độc nhất vô nhị trên thế gian, kể cả nói về mặt địa lý. Tiếng "Giođan”, trong ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là "người đi xuống", từ gốc "yarad" "đi xuống Con sông Giođan, thực tế là con sông độc nhất phải xuống quá thấp! Nó bắt nguồn trên đồi Hécmôn, cao 520 mét, dài 220 cây số, chấm dứt ở Biển Chết, ở sâu 394m dưới mực nước biển. Thật là quá thấp!
Như thế sự xuống thấp này là cái gì vậy, con sông kỳ lạ này biểu trưng cho vực thẳm nào vậy?
Đức Giêsu đến gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình.
Thực sự việc vào cuộc này gây lắm hoang mang.
Phép rửa mà Đức Giêsu đến xin Gioan làm, đó là một phép rữa sám hối, dấu hiệu công khai chỉ là người ta hối tiếc về các lỗi lầm của mình làm, người ta muốn thay đổi cuộc đời... "Tất cả miền Giuđê và tất cả miền Giođan đều xin ông Gioan làm phép rửa đồng thời xưng thú tội lỗi mình phạm".
Tôi dành thời gian nhìn ngắm Đức Giêsu, trong hàng người đánh cá đợi đến lượt mình. Một trực giác sáng ngời và không thể lầm lẫn được, bỗng chốc đem Đức Giêsu đến đỉnh cao của tính nhân bản, nơi đó sự hiện diện của Thánh Linh linh hoạt nhất, nơi đó sự chờ đợi của Thiên Chúa sống động nhất... Đức Giêsu tức khắc đến nhập bọn với những người tội lỗi... tại chỗ mà Thiên Chúa tác động vào lòng họ, tại chỗ mà họ quyết tâm sám hối...
Phép rửa của Đức Giêsu, được cả bốn sách Tin Mừng chứng thực, là một sự kiện lịch sử không thể chối cãi được? không bao giờ những Kitô hữu đầu tiên lại bịa chuyện Đức Giêsu chịu phép rửa sám hối, quá trái ngược với ý nghĩ mà họ đang tạo dựng cho họ một Đấng Mêsia, nếu sự kiện không bắt họ phải nhận, khiến cho người ta phải hoang mang theo các luận giải của con người.
Còn tôi? Có phải tôi phán đoán những người có tội trên đỉnh cao vững vàng về đạo đức của tôi không? Có phải tôi cảm thấy có liên đới về nhân loại tội lỗi không?
Có phải tôi lên án không? Hay là phải chăng thái độ của Đức Giêsu đòi hỏi tôi... nâng đỡ, vâ cứu thoát những người làm điều xấu chung quanh tôi ư?
Gioan môt mực can Người và nói: Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa thế mà Ngài lại đến với tôi!
Đúng thế, Gioan được yêu cầu có sự đổi lại ý thế nào? ông báo tin có một Đấng Mêsia - quan xét, sắp sửa đốn tất cả những cây cối không sinh hoa quả và đem vào lửa đốt tất cả mọi thứ rác rưởi phù phiếm (Mt 3,7-12). Và Đức Giêsu đến Chịu phép rửa sám hối! Đó là thế giới đảo ngược. Chính ý tưởng của Thiên Chúa lật ngược. Trái ngược với mọi chờ đợi của mình, Gioan Tẩy Giả sẽ làm phép rửa cho “người con có quyền lực hơn mình" (Mt 3,11). Gioan phản đối. Đó là một sự khiêu khích! ông muốn ngăn Đức Giêsu nhận cử chỉ này.
Như thế có gì xảy ra trong phép rửa này? Có điều gì quan trong được tiết lộ trong đó? Ta đứng ngưng lại ở cái bề mặt của cử chỉ này. Chắc chắn có một sự mạc khải chờ đợi chúng ta đó.”
Nhưng Đức Giêsu trả lời: Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.
Đó là “lời nói đầu tiên" của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng Matthêu. Nó chứng tỏ môt sự trưởng thành bản vị một cách tuyệt đối đặc biệt. Quân bình biết mấy! ý thức về sứ mệnh của mình biết mấy nơi con người này! Khi Người ta giản lược Đức Giêsu chỉ là một con người mà Giáo hội đã Thiên Chúa hóa... hay là một con người đã nhận thức dần dần mình là Thiên Chúa... thì người ta đi qua một cách hoàn toàn đơn giản cái huyền nhiệm duy nhất về bản tính của người.
Những năm tối tăm ở Nadarét không phải là những năm trống rỗng. Đức Giêsu là một người Do Thái. Như tất cả mọi người Do Thái, người thấm nhiễm bộ Torah, Lời Thiên Chúa. Và này đây, một cách hoàn toàn đơn giản, Người nói lên trong lời nói đầu tiên công khai của người. Hai tiếng xác định bản chất của người; thực thi... công chính. Hai từ Kinh Thánh cực kỳ xúc tích. Hai từ tiêu biểu trong các từ vựng của Matthêu.
“Hoàn tất", "pleroum"... "sự công chính "dikaiosunê"... Thuật ngữ công chính sẽ hay được nói đến (Mt 5,6.10.20 - 6,11.21.32). Sống công chính, tức là đáp lại chính xác ý muốn của Thiên Chúa: một hành động của con người phản ánh cái ý muốn của Chúa. "Hoàn tất" tức là một hành vi hoàn hảo, đầy tràn sự tinh tế ở chỗ là "giữ gìn trong khi biến đổi... hoàn thành trong khi bảo vệ”. Hoàn tất là một hành vi hoàn hảo nhất mà một người có thể làm. Còn chúng ta, chúng ta chiến đấu với nhau giữa những "người luôn tiến tới" và "những người giữ truyền thống", giữa những người cải tiến và những người bảo thủ. Nơi Đức Giêsu, chính người vừa trung thành với truyền thống của mọi thời đại và đồng thời người canh tân, đổi mới, làm cho đến cùng: đó chính là nguyên tắc của cuộc sống, tức là không bao giờ gián đoạn trọn vẹn với quá khứ, mà phóng đến tương lai.
Này nhé, Chúa không bao giờ là một người làm cách mạng, nhưng Người biến đổi tất cả. Người xin Gioan, người cuối cùng trong các ngôn sứ của Cựu ước, đón nhận phép rửa của người, trong chuỗi người tội lỗi, với tất cả mọi người... như tất cả mọi người.
Nhưng chú ý! Sẽ đột ngột bùng ra một cuộc canh tân.
Bấy giờ ông Gioan mới để cho Người làm.
Khiêm tốn biết mấy trong những từ quá nghèo nàn đến thế. Người ta không nói rằng Gioan đã hiểu. Chỉ đơn giản, ông để cho làm. Ông tự xóa bỏ mình đi, ông phải thay đổi cái khái niệm hiếu thắng mà ông có về Đấng Mêsia. Có lẽ ông đoán một con người huyền nhiệm đang đứng trước mặt ông chăng? Cả chúng ta, ta hãy bước vào huyền nhiệm này... bên ngoài tất cả.
Bởi vì, chính ở đó tất cả kết thúc trong câu truyện này. Ta hãy lắng nghe.
Ngay khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong. Người ở dưới nước đi lên.
Phép rửa không được miêu tả. Người ta không mô tả một cảnh tượng. Câu chuyện cực kỳ ít lời, dè dặt hoàn toàn. Matthêu chỉ kể ra sự kiện bằng một phân từ đơn giản: được làm phép Rửa... Đức Giêsu đi từ dưới nước lên. Chúng ta chỉ được nói rằng Đức Giêsu đã hoàn tất hai động tác: "Người xuống nước... Người từ dưới nước lên... động tác đi về phía sông Giođan, chỗ thấp nhất trên hành tinh này, nhưng là động tác của Thiên Chúa đến gặp gỡ loài người tội lỗi, Đức Giêsu... Sinh ra, chịu khổ hình thập giá chết, táng trong mồ xuống nơi luyện hình... một cuộc đi xuống đến chóng mặt!... sống lại, từ trong kẻ chết và lên trời…”
Này đây các tầng trời mở ra...
Tầng trời mở ra. Thiên Chúa Hiển Linh. Cuộc hiển linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra. Hình ảnh hình tượng về tầng trời mở ra thường thấy trong Kinh Thánh để nói rằng một sự giao thông được thiết lập giữa thiên giới và con người được chấp nhận cho sống những bí mật của Thiên Chúa (Ex 1,1; Kh 19,11; Cv 7,56...)
Chúng ta, chính chúng ta cứ luôn luôn nghĩ rằng trời đóng lại, không thể tới được. Dẫu vậy tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, đều nhờ Người mà trời mở ra sẵn trên đầu họ.
Và người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người.
Chúng ta đã chú ý rằng đây không phải là việc mô tả một cảnh tượng: Đó là một huyền nhiệm... Matthêu không nói rằng đã có một con chim bồ câu. Người nói rằng Thần Khí đáp xuống có phần như một con chim bồ câu. Trạng ngữ “có phần như" không bổ nghĩa cho Thần Khí, mà là cho từ "đáp xuống”. Đó là một hình ảnh kỳ diệu mang theo ý nghĩa. Một số văn bản rabbi đã so sánh động tác của Thần Khí Thiên Chúa với động tác chim bồ câu bay lượn trên chuồng của chúng nhưng không chạm xuống, đúng bằng cách như thế Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước thời nguyên thủy (St 1,2). Mũi nhọn của sự so sánh là nhấn mạnh tính cách đồng thời đến: Tính chất khác biệt của Thần Khí, vẫn phân biệt với thế giới thụ tạo, mà Đức Giêsu là một phân tử có tính cách con người, do thân xác của Người.... Sự dịu dàng và sự gần gũi của hành vi Thiên Chúa: phân biệt với Đức Giêsu, Thần Khí vẫn ở đó, rất gần gũi như thể người bay lượn trên chuồng của Người, từ nơi đó vùng lên mầm của sự sống. Thần Khí là Chúa và Người ban cho sự sống.
Và có tiếng từ Trời phán ra: Đây là Con yêu dấu Ta, Ta hài lòng về Người.
Tất cả Phương Đông tin kính Đức Giêsu chịu phép rửa, cũng như Ba Ngôi Thiên Chúa Hiển Linh. Và Thánh Cyrillee thành Giêrusalem chú giải: "muốn có một Đức Kitô (Đấng chịu Xức Dầu), phải có một Đấng nào đó Xức Dầu cho Người, tức Chúa Cha, và một Đấng nào đó là sự Xức Dầu, tức Thánh Linh. Không có Thiên Chúa Ba Ngôi thì từ Đức Kitô đã không có ý nghĩa gì!".
Chính vì thế mà tượng Thiên Chúa hiển linh biểu thị Đức Giêsu đứng dưới sông Giođan... ở trên cao một bàn tay biểu trưng Đấng đến Xức Dầu, Chúa Cha vô hình, mà tiếng của Người làm chứng cho Đức Giêsu. Đức Giêsu là một trong những ngôi vị của Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu rất thánh: Hôm nay là sự mạc khải đầu tiên của huyền nhiệm này.