Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 351-400 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa
----------------------------------- Phúc Âm: Ga 20, 19-31: "Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Thánh Tô-ma cứng lòng tin, nhưng không chỉ thánh nhân, mà tất cả các tông đồ khác nữa. Thật PS 2-ABC351
Thánh Tô-ma cứng lòng tin, nhưng không chỉ thánh nhân, mà tất cả các tông đồ khác nữa. Thật vậy, Đức Ki-tô phục sinh khiển trách thánh Tô-ma, như đã khiển trách các tông đồ, vì đã không tin khi nghe lời chứng của các chứng nhân (x. Mc 16, 9-15; bài Tin Mừng của thứ bảy, tuần Bát Nhật Phục Sinh). Nhưng tại sao thánh nhân lại muốn thấy và không chỉ muốn thấy, mà còn muốn đụng? Và rồi khi Chúa tỏ mình ra, Người mời gọi đụng vào Chúa, nhưng thánh nhân không dám đụng? Đó là vì Người vừa là Đức Giê-su trước cuộc Thương Khó và vừa là Đức Chúa, là Thiên Chúa chiến thắng sự dữ và sự chết, vừa là Đấng Khác Hẳn, vượt không gian và thời gian. Vì thế, người ta không thể tự mình nhận ra ngay, mỗi khi Người tỏ mình ra.
Xin cho chúng ta có lòng ước ao mạnh mẽ “thấy” Chúa để đi theo Người một cách cụ thể; và xin cho chúng ta vượt qua bình diện thấy thể lí, để có thể nhận ra Đức Giê-su Ki-tô, là Đức Chúa Phục Sinh, ngang qua các dấu chỉ sáng tạo, sự sống, cuộc đời, ơn gọi, Lời Chúa, Thánh Thể dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua trong cuộc đời của chúng ta. Và như thế, chúng ta có thể nhận ra sự hiện hiện của Chúa ngay trong lòng chúng ta, vì Người đã từng nói: “Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em.”
1. Sợ hãi và vui mừng (c. 19-20)
Trong ngày đầu tiên của mầu nhiệm Phục Sinh, những người đã từng đi theo Đức Ki-tô đang ở trong những hoàn cảnh rất khác nhau:
- Ngày thứ nhất trong tuần, sáng sớm, bà Maria Mác-đa-la ra khỏi nhà, đi đến mộ trong buồn đau, chạy về, chạy ra trong lo âu, rồi lại chạy về trong niềm vui khôn tả.
– Bà nói với các Tông Đồ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà. - Ngày thứ nhất trong tuần, buổi chiều, các môn đệ ở trong nhà, các cửa đều đóng kín, tâm trạng sợ hãi.
– Và đặc biệt với tông đồ Tô-ma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… tôi chẳng có tin.
Các môn đệ đang ở trong tâm trạng sợ hãi, vì thế, ơn điều tiên mà Đức Ki-tô phục sinh muốn thông truyền cho các môn đệ là ơn bình an: “Bình an cho anh em!” Bình an của sự sống mới, nhưng Chúa lại muốn thông truyền cho các môn đệ và cho chúng ta ngay trong sự sống đầy thách đố này; bởi lẽ chính Ngài đã sống ơn bình an này ngay trong cuộc Thương Khó đầy nhọc nhằn và đau đớn. Đức Ki-tô phục sinh sẽ “viếng thăm”, “đi ngang qua” những tình huống khác nhau của những người thuộc về Ngài, của từng người chúng ta, của cả nhân loại để khơi dậy lòng tin nơi Ngài, Đấng chiến thắng Sự Dữ và sự chết; một lòng tin có sức mạnh “tái sinh” chúng ta cho niềm vui của sự sống mai sau, ngay hôm nay giữa những thử thách của thân phận và số phận con người.
Chắc chắn chúng ta cũng đã trải qua những hoàn cảnh như thế, và có kinh nghiệm về sự viếng thăm của Đức Ki-tô phục sinh, ngang qua Lời của Ngài. Chúng ta có thể nhớ lại những kinh nghiệm này. Xin cho chúng ta cũng nhận ra sự hiện diện sống động của Chúa trong cầu nguyện và trong ngày sống của chúng ta, và nhất là trong những thử thách làm chúng ta sợ hãi và đóng kín.
Như tất cả các lần hiện ra khác, Chúa luôn luôn cho thấy mình chính là Người đã bị đóng đinh: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Điều này cho thấy:
* Sự sống mới phát xuất từ con đường Thập Giá. Như thế, tất cả, dù là thử thách, đau khổ, tội lỗi, bệnh tật và sự chết, đều trở thành đường đi dẫn đến niềm vui Phục Sinh.
* Đức Ki-tô chịu đóng đinh và Đức Ki-tô phục sinh vừa rất khác, khiến cho những người đã từng sống với ngài không nhận ra, nhưng vửa vẫn là một.
* Tuy Ngài đã đi vào sự sống mới, nhưng tất cả những gì đến từ cuộc Thương Khó, mãi mãi gắn bó với ngôi vị của Ngài. Đó chính là để chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ tình yêu và lòng thương xót vô hạn của Chúa.
Hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn bình an và niềm vui, không chỉ vì Đức Ki-tô đi vào sự sống mới, nhưng còn là vì, mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa có liên quan sâu xa đến cuộc đời và hành trình ơn gọi của chúng ta: tất cả, dù là thử thách, đau khổ, tội lỗi, bệnh tật và sự chết, đều trở thành đường đi dẫn đến niềm vui Phục Sinh, và sự sống Phục Sinh đã được gieo và sinh hoa kết quả ngay hôm nay.
2. Ơn huệ Thánh Thần (c. 21-23)
Đức Ki-tô phục sinh, thay vì trở lại nắm quyền, Ngài tin tưởng trao lại hết cho các môn đệ: Đức Ki-tô phục sinh lại ban ơn bình an một lần nữa cho các môn đệ, vì trong tương lai đầy thách đố của ơn gọi và của sứ vụ, các môn đệ và chúng ta cũng vậy, cần ơn bình an của Đức Ki-tô phục sinh biết bao. Xin cho chúng ta được bình an, vì “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 136), tình thương mà Chúa Cha dành cho chúng ta nơi Đức Ki-tô, như thánh Phaolo diễn tả:
Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
(Rm 8, 38-39)
“Như Chúa Cha đã sai thầy, thì thầy cũng sai anh em”. Tương lai không còn thuộc về chúng ta nữa, nhưng thuộc về Chúa: sống là sống cho Chúa; và chết cũng chết cho Chúa. Cuộc đời của chúng ta giờ đây trở thành sứ mạng, được Chúa sai đi để sống từng ngày như là những chứng nhân. Và Chúng ta cần hiểu lời trao ban sứ mạng này xuất phát từ sự thông truyền sự sống và tình yêu và được thúc đẩy một cách tự nhiên bởi ơn huệ sự sống và tình yêu.
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chúa đã được đầy Thánh Thần thế nào, Ngài cũng muốn chúng ta được đầy Thánh Thần như thế, đế có thể sống sứ mạng đến cùng. Thánh Thần sẽ thêm sức, làm cho can đảm không sợ hãi, chữa lành và nhất là dẫn chúng ta vào Chân Lý của Đức Ki-tô, để làm cho chúng ta hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô mỗi ngày mỗi hơn.
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Đức Ki-tô phục sinh tin tưởng trao ban cho các môn đệ một quyền, thuộc về Thiên Chúa, đó là quyền tha tội, bởi vì con người không thể sống, mà không cần được tái sinh bởi ơn tha thứ. Chúng ta không có chức thánh, nhưng vẫn có thể làm chứng về lòng thương xót của Chúa, bằng con tim bao dung và tha thứ. Và Ngài trao cả quyền cầm giữ nữa, không phải để giết chết, nhưng là để phục vụ cho sự sống. Đã có lúc Giáo Hội dường như đã mê quyền cầm giữ hơn quyền tha tội. Không gắn bó với Đức Ki-tô, không hiểu Ngài cách sâu xa, nhất là mầu nhiệm Thập Giá, không nhớ lại kinh nghiệm được thương xót, không để cho Thánh Thần dẫn dắt,chúng ta rất dễ sử dụng quyền bính Chúa ban để giết chết thay vì để cứu sống. Giáo Hội được đặt xây dựng trên đá tảng Phê-rô, nhưng đá tảng Phê-rô lại được nâng đỡ bởi lòng thương xót. Hãy cảm nếm lòng tin của Đức Ki-tô phục sinh dành cho các môn đệ và cho chúng ta hôm nay.
3. Tông Đồ Tô-ma (c. 24-31)
Trong phần còn lại của bài Tin Mừng, thánh sử Gioan kể cho chúng ta nghe về hành trình đức tin của thánh Tô-ma và mời gọi chúng ta nhận ra mình nơi hành trình này. Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta ít nhất nghe thánh Tô-ma lên tiếng bốn lần:
“Chúng ta cũng vậy, chúng ta hãy đi để cùng chết với Ngài” (Ga 11, 16).
“Thưa Thầy, chúng con không biết được Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết được đường đi” (14, 5).
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (20, 25). Khởi đi từ hai lời nói trước của thánh Tô-ma, chúng ta có thể nhận ra tâm tình thật sự ẩn đàng sau lời nói, vẫn bị coi là cứng lòng tin, đó là “tôi khao khát Thầy vẫn còn hiện hữu trên cõi đời này, hiện hữu bằng xương bằng thịt, để tôi tiếp tục đi theo Thầy”.
Cuối cùng là lời tuyên xưng đức tin vượt qua vô hạn điều ông Tô-ma nhìn thấy: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Qua những lời này, chúng ta có thể nhận ra nơi thánh Tô-ma một sự quyết tâm rất lớn muốn đi theo Đức Giêsu, không phải trong tư tưởng, nhưng bằng “chính đôi chân của mình”. Đây đã một lời gọi đầy ý nghĩa đối với mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, cứ mỗi lần ông Tô-ma lên tiếng, Đức Giêsu đều mời gọi ông đi từ bình diện hữu hình sang bình diện vô hình, từ bề ngoài sang bề trong, từ bề mặt sang bề sâu: cuộc Thương Khó và nhất cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá không đơn giản như ông Tô-ma nghĩ, nghĩa là “thôi thì đi chết với Thầy cho rồi đời” (x. Tv 139: “ước gì bóng tối bao phủ tôi”); đường đi không phải là đường “Đồng Khởi”, nhưng là chính ngôi vị của Đức Giêsu, bởi vì chính Đức Ki-tô là Đường, chứ không phải là bất cứ điều gì khác.
Đáng lẽ ra, với lời chứng của các tông đồ khác, ông Tô-ma đã phải tin rồi. Vì khi gặp ông Tô-ma, Đức Giêsu Ki-tô phục sinh sẽ trách ông: “Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin”. Ông Tô-ma vẫn muốn có được Đức Giêsu như xưa kia, trong khi Ngài đã đi vào trong sự sống mới. Vì thế, tương quan với Thầy, việc đi theo Thầy cũng sẽ mới. Đức Ki-tô không còn hiện diện với các môn đệ, và với chúng ta hôm nay một cách thể lý nữa, nhưng qua Thần Khí của Ngài, qua Lời của Ngài, qua các bí tích, qua những ơn huệ, qua những con người mà chúng ta được sai đến để phục vụ, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bị thua thiệt, qua tương quan hiệp nhất, qua hành vi “bẻ bánh” của chúng ta, nghĩa là chia sẻ sự sống.
Tám ngày sau; có nghĩa là đúng một tuần. Đó là đêm tối của đức tin, nhưng cũng là thời gian cần thiết để đi tới đức tin đích thật. Thực vậy, ông Tô-ma đã trở thành con người khác, sau thời gian một tuần: ông đã không làm điều ông tuyên bố, mặc dù chính Đức Giêsu mời ông thực hiện. Đức Ki-tô “chiều” ông Tô-ma biết bao, nhưng là để mời gọi ông đi xa hơn và sâu hơn trong cách thức tin, hiểu, yêu và đi theo Đức Ki-tô Phục Sinh. Ông tuyên xưng:
Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.
Bởi lẽ, Đức Giêsu phục sinh mà ông “nhìn thấy” trước mặt ông là một “Đấng Khác”, không như ông đã nghĩ. Đó là sự hiện diện thần linh, sự hiện diện của Đấng vô hình. Biến cố hiện ra này, cũng như tất cả các biến cố khác (chẳng hạn trong trình thuật về cuộc gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh của bà Maria Mác-đa-la, của hai môn đệ trên đường Emmau) làm cho chúng ta hiểu ra rằng, người ta không tự mình nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, nhưng chính Ngài đến và cho nhận ra thì người ta mới nhận ra, bởi vì Đức Ki-tô sau cái chết đã đi vào sự sống mới.
Tương quan giữa chúng ta cũng cần vượt qua sự hiện diện hữu hình: tuy không thấy nhau, chúng ta vẫn được mời gọi sống sự hiện của nhau, ngang qua quà tặng, ngang ơn huệ. Điều này đặc biệt quan trọng trong huấn luyện: giữ tương quan ngay trong sự vắng mặt. Xin cho mỗi chúng ta hưởng được mối phúc mà Đức Ki-tô công bố:
Phúc thay những người không thấy mà tin.
Nghĩa là nhận ra, ở lại, đi theo và trở nên một với Đấng Phục Sinh ngang qua kinh nghiệm lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện và nhận ra Ngài hiện diện nơi các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh thể, và cả trong đời thường nữa với những hoàn cảnh và biến cố xẩy ra trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta; như thánh Gioan kết luận sách Tinn Mừng của Ngài: “Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.”
Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vị vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét PS 2-ABC352
Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vị vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.
Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: Đây đâu phải là một cảnh bình an. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức họa này.
Bình an không giống như yên ổn. Yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36). Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm. “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Chúa Giêsu ban tặng”.
1. “Bình an cho các con”
Tôi có một anh bạn thân, anh ta là dự tòng và rất có thiện cảm với đạo Công Giáo của chúng ta. Mới có ý định theo đạo mà anh ta đã siêng năng đi lễ rồi. Trong cuộc trò chuyện với anh tại sân nhà thờ nọ, tôi chủ động bắt chuyện với anh, tôi hỏi anh: "anh đi lễ như vậy thì anh cảm thấy ấn tượng nhất là phần nào trong Thánh lễ?" Anh bạn trả lời: "mình ấn tượng nhất chính là các lần chào chúc bình an của linh mục với giáo dân và ngược lại". Câu đó là: "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em", sau đó cộng đoàn đáp: "và ở cùng cha". Anh bạn nói tiếp: "mình rất thích và cảm động vì lời chào chúc đó có một ý nghĩa sâu xa là cầu xin Thiên Chúa ban bình an của Người xuống trên ta"; "Sau lễ, mình ra về và hạnh phúc vì đã đón nhận được sự bình an của chính Thiên Chúa". Thật vậy, người được Chúa ban bình an của chính Chúa thì khác xa với sự bình an giới hạn theo lối hiểu của con người. (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong đêm Giáng sinh, các thiên thần hát mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người được Thiên Chúa yêu thương”. Ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Phục Sinh hiện đến và trao ban bình an, đó là quà tặng tuyệt vời cho các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức.
Khi Thầy đã chết và an táng trong mồ, các Tông Đồ hoang mang sợ hãi, giờ đây họ lại càng bồn chồn lo lắng khi nghe tin Thầy đã sống lại. Chúa Phục Sinh đến với lời chúc lành đã củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn các môn đệ.
Bình an của Chúa Phục Sinh đã thổi sức sống mới giúp các môn đệ trở thành con người mới. Thánh Phaolô đã xác tín Thiên Chúa là nguồn mạch bình an:“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24). Như thế, bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ. Bình an là kết quả của lòng trông cậy và sống đẹp lòng Chúa.
2. Hoa quả của Bình An.
Hoa quả của bình an là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục...
Tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh; chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình; dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến; sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình...
Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Hoa quả bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hòa thư thái trong tâm hồn.
Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.
Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần. Tâm hồn tràn ngập bình an là tâm hồn đạo đức. Đó là người hạnh phúc. Tâm hồn bình an khi hòa giải với Chúa, tin yêu Chúa. Tâm hồn bình an khi hòa giải với chình mình. Tâm hồn bình an khi hòa giải với mọi người sống chung quanh. Tâm hồn bình an khi không chất chưa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét bất hòa. Tâm hồn bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Tâm hồn bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô để lại cho chúng ta.
Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc xao xuyến, âu lo, sợ hãi, thử thách, luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.
"Ngày Chúa Nhật được Thánh Gioan Phaolô II muốn dâng kính Lòng Thương Xót Chúa này, qua bài Phúc Âm, Chúa muốn tỏ cho chúng ta thấy các thương tích của Người. Chúng là các thương tích của tình thương".
Thánh Gioan, vị đã ở trên Căn Thượng Lầu với các môn đệ khác vào tối ngày thứ nhất sau Ngày PS 2-ABC353
Thánh Gioan, vị đã ở trên Căn Thượng Lầu với các môn đệ khác vào tối ngày thứ nhất sau Ngày Hưu Lễ, nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đã đến và đứng giữa các vị mà nói: "Bình an ở cùng các con", và Người tỏ cho các vị thấy đôi tay cùng cạnh sườn của Người (Gioan 20:19-20); Người đã tỏ cho các vị thấy các vết thương của Người. Nhờ đó các vị đã nhận ra rằng đó không phải là một thứ hiện ra mà thực sự là chính Người, là Chúa và các vị cảm thấy tràn đầy niềm vui.
Vào ngày thứ tám, Chúa Giêsu lại đến Căn Thượng Lầu và tỏ các vết thương của Người cho Tông Đồ Tôma, để vị tông đồ này có thể chạm vào các vết thương đó như vị tông đồ này mong muốn, nhờ đó có thể tin tưởng và trở thành chứng nhân cho sự Phục Sinh.
Cả với chúng ta nữa, vào ngày Chúa Nhật được Thánh Gioan Phaolô II muốn dâng kính Lòng Thương Xót Chúa này, qua bài Phúc Âm, Chúa muốn tỏ cho chúng ta thấy các thương tích của Người. Chúng là các thương tích của tình thương. That thế, các thương tích của Chúa Giêsu là các thương tích của tình thương: "Chúng ta được chữa lành nhờ các lằn vết của Người" (Isaia 53:5).
Chúng Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn xem các thương tích ấy, hãy chạm đến những thương tích này như Tông Đồ Tôma đã làm, để chữa lành sự thiếu lòng tin tưởng của chúng ta. Trước hết Người kêu mời chúng ta hãy tiến vào mầu nhiệm của các thương tích ấy, tức là mầu nhiệm về tình yêu thương nhân hậu của Người.
Qua các thương tích này, như nơi một nơi mở ra đầy ánh sáng, chúng ta có thể thấy toàn thể mầu nhiệm của Chúa Kitô và của Thiên Chúa: Cuộc Khổ Nạn của Người, đời sống trần gian của Người - đầy những cảm thương đối với thành phần yếu đuối và bệnh hoạn - việc nhập thể của Người nơi cung dạ của Đức Maria. Và chúng ta có thể lần về với toàn thể lịch sử cứu độ: các lời tiên tri - đặc biệt về Người Tôi Tớ Chúa, các Thánh Vịnh, Le Luật và Giao Ước; cho đến cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, đến cuộc Vượt Qua đầu tiên cũng như đến máu của các con chiên bị sát tế; và từ các vị Tổ Phụ đến Abraham, và rồi đến mãi Abel với máu kêu lên từ trái đất. Tất cả những điều ấy chúng ta đều có thể thấy nơi các thương tích của Chúa Giêsu tử giá và phục sinh; với Mẹ Maria, nơi ca vịnh Ngợi Khen của Mẹ, chúng ta có thể thấy rằng "tình thương của Người trải qua từ đời nọ đến đời kia" (Luca 1:50).
Trước các biến cố thảm thương của lịch sử nhân loại có những lúc chúng ta có thể cảm thấy tan nát tự hỏi "Tại sao?" Sự dữ của nhân loại có thể xuất hiện trên thế giới như là một vực thẳm (an abyss), một đại khuyết (a great void), nghĩa là trống rỗng yêu thương (empty of love), trống không thiện hảo (empty of goodness), trống trơn sự sống (empty of life). Thế nên chúng ta đặt vấn đề: chúng ta làm thế nào để lấp đầy cái vực thẳm này? Đối với chúng ta là những gì bất khả; chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấp đầy cái trống không do sự dữ mang đến cho tâm can của chúng ta và cho lịch sử của nhân loại mà thôi. Chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết trên Thánh Giá và là Đấng lấp đầy vực thẳm tội lỗi bằng thẳm sâu của tình thương Người.
Thánh Bênađô, ở một trong những dẫn giải của ngài về Sách Diệu Ca (Sermon 61, 3-5: Opera Omnia, 2, 150-151), đã chia sẻ chính yếu về mầu nhiệm về các thương tích của Chúa, bằng cách sử dụng những lời diễn tả mãnh liệt đến bạo dạn mà chúng ta muốn lập lại hôm nay đây. Ngài nói rằng: "nhờ những thánh tích này chúng ta có thể thấy được cái bí mật của tâm can Chúa Kitô, thấy được một mầu nhiệm yêu thương cao cả, thấy được lòng thành của tình thương khiến Người từ trên cao đã đến viếng thăm chúng ta".
Thưa anh chị em, hãy nhìn xem đường lối Thiên Chúa đã mở ra cho chúng ta để cuối cùng chúng ta ra khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi và sự chết của chúng ta, nhờ đó tiến vào mảnh đất của sự sống và bình an. Chúa Giêsu, tử giá và phục sinh, là đường lối ấy và các thương tích của Người đặc biệt đầy tình thương.
Các thánh nhân dạy cho chúng ta rằng thế giới được đổi thay bắt đầu từ việc hoán cải tâm can con người, và điều này xẩy ra nhờ tình thương của Thiên Chúa. Thế nên, cho dù có phải đối diện với tội lỗi riêng của tôi hay các thảm họa lớn lao trên thế giới, "lương tâm của tôi có bị sầu thảm nhưng không bị rối loạn, vì tôi nhớ lại các thương tích của Chúa: 'Người đã bị đả thương vì lỗi lầm của chung ta' (Isaia 53:5). Tội lỗi nào đáng chết đến độ cái chết của Chúa Kitô không thể thứ tha chứ?" (cùng nguồn vừa dẫn).
Gắn ánh mắt vào các thương tích của Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cùng với Giáo Hội ca lên rằng: "Tình yêu của Người bền vững muôn đời" (Thánh Vịnh 117:2); tình yêu của Người vĩnh hằng. Và với những lời này ăm ắp trong lòng của mình, chúng ta hãy tiến lên trên các con đường lịch sử, theo sự dẫn dắt của Chúa chúng ta và là Đấng Cứu Độ chúng ta, là sự sống của chúng ta và là niềm hy vọng của chúng ta.
Đức tin và cám dỗ" là câu chuyện kể về gia đình của một người mẹ. Chị tâm sự rằng: chị có PS 2-ABC354
"Đức tin và cám dỗ" là câu chuyện kể về gia đình của một người mẹ. Chị tâm sự rằng: chị có hai cháu gái sinh ra và lớn lên trong môi trường đạo đức và được giáo dục niềm tin Kitô giáo. Các cháu từ nhỏ là: Thiếu nhi Thánh thể, lễ sinh giúp lễ, ca viên ca đoàn và sinh viên Công giáo..., chúng chưa bao giờ bỏ lễ chủ nhật và chưa bao giờ có nghi ngờ về tín xác thực của đạo Kitô giáo. Nhưng, đến khi hai cháu vào những năm đại học, thì các cháu bắt đầu bỏ lễ chủ nhật và hay tranh luận lại với mẹ về các đề tài như: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, luật Hội thánh, khoa học, đạo giáo v.v. Chị luôn là người thua cuộc vì các cháu học nhiều hơn chị, tiếng Anh giỏi hơn chị, và dĩ nhiên các cháu lý luận cũng hay hơn chị. Đôi lúc, mẹ con chị có những cuộc tranh cãi dẫn đến sự rạn nứt và đỗ vỡ. Các cháu trở nên bướng bỉn và không vâng lời mẹ về các việc đạo đức và thiêng liêng. Điều mong ước của chị là các con có niềm tin vào Thiên Chúa, đừng vì nghe những lời quyến rũ của thế gian, mà tôn thờ ma quỷ.
Cuối cùng, chị nhắn nhủ các con rằng: "Con người luôn yếu đuối, mỏng dòn và dễ sa ngã, các con đừng tưởng mình hơn cả tổ phụ Adam và Eva mà tránh được con rắn xưa kia cám dỗ để khỏi ăn trái cấm. Các con có thể hơn được tổ phụ Abraham khi thử thách niềm tin phải tế lễ con mình, hay các con tưởng mình hơn cả thánh Phêrô không chối Chúa lần nào sao? Các con hãy cầu nguyện để khỏi phải xa chước cám dỗ, hãy cầu nguyện với Đấng các con đặt niềm tin, các con luôn có lòng vững bền, đừng làm tôi hai chủ, vì các con không thể tôn thờ Thiên Chúa mà lại còn tôn thờ ma quỷ và của cải thế gian, hãy sống vui với niềm tin và tình yêu đích thật, đó chính là điều hạnh phúc biết bao."
Thật vậy, ngày nay vấn đề đức tin trong đời sống gia đình giữa cha mẹ và con đang gặp nhiều khó khăn và thử thách. Khi các bạn trẻ có nhiều điều kiện thuận lợi để hưởng thụ, thì đời sống đức tin lại bị đánh mất bởi lý luận thực nghiệm. Có nghĩa là người ta phải sờ thấy, lý luận, phân tích, chứng minh được bằng con mắt xác thịt, thì họ mới tin. Thánh Tôma bị mang tiếng là người kém lòng tin, nhưng chắc gì chúng ta lại có lòng tin mạnh mẽ như ngài?. Khi chúng ta gặp đau khổ, thử thách và gian nan, thì chúng ta than van, kêu trách Chúa. Trái lại, khi chúng ta trở nên giàu có đầy đủ mọi thứ, thì chúng ta lại vong ân. Có khi chúng ta lại nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới này và ngay cả trong đời sống hàng ngày của chúng ta, thì hôm nay thánh Tôma là người kiểm chứng về đức tin cho chúng ta.
Khi Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trong lúc Tôma vắng mặt, nên ngài nói: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Chúa Giêsu nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"
Phải chăng nhờ sự cứng lòng tin của Tôma, chúng ta có được một niềm tin kiên vững, vì ngài đã kiểm chứng được dấu đinh nơi Chúa Giê-su Phục sinh?. Thế nhưng, đâu phải ai cũng có lòng tin như Tôma?. Như nhà triết gia Nitzches tuyên bố rằng: " Thiên Chúa đã chết rồi". Theo lý luận của ông ta, trước đây Thiên Chúa đã sống, nhưng bây giờ Thiên Chúa đã chết. Tư tưởng của ông ta cho thấy rằng, Thiên Chúa không hiện diện trong cuộc sống của người vô thần, và cũng từ câu nói của ông ta đã phản tính hiện thực trong bối cảnh sống của xã hội hôm nay. Có khi chúng ta là người Kitô, nhưng chúng ta chưa phải là người sống đức tin. Và có khi chúng ta cũng đang bị thử thách về đức tin vì vòng xoáy của cuộc sống xã hội đang lôi kéo chúng ta. Vì vậy, chúng ta cũng cần nhìn lại chính mình. Một cách nào đó, chính đời sống của chúng ta lại là phản chứng qua lối sống thực dụng và tính toán của chúng ta.
Khi suy nghĩ như thế, tôi thiết nghĩ rằng, chúng ta cần có con mắt đức tin để nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta, nhận ra Đức Giê-su là Đấng cứu độ, nhận ra mình có linh hồn thiêng liêng, và biết mình còn có cuộc sống mai sau. Từ nhận thức đó, chúng ta thấy cuộc sống là hồng ân và quà tặng của Thiên Chúa. Chính vì vậy, chúng ta sống sao có ý nghĩa hơn. Dù có đau thương, thua thiệt và mất mát, nhưng với con mắt đức tin thì biến cố đó trở thành kinh nghiệm sống đức tin dồi dào và phong phú. Có biến cố, có đau khổ thì chúng ta mới nhận rõ con người thật của mình, chúng ta không còn tự kiêu, tự mãn, không đặt mình là cái rốn của vũ trụ, mà là con người mang nhiều yếu đuối và tội lỗi.
Chúng ta hãy cảm ơn thánh Tôma vì ngài đã làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Từ kinh nghiệm gặp gỡ và được chạm vào dấu đinh của Chúa Giêsu, thánh Tôma đã đi rao giảng, làm chứng và theo Chúa đến cùng. Như ngài thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!".
Đức Ki-tô, Ngài đã chết và sống lại để chứng minh tình yêu của Thiên Chúa cho con người, thì giờ đây Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy thực hiện đời sống đức tin của chúng ta bằng đời sống đức ái, phục vụ và yêu thương tha nhân.
Lạy Chúa, xin cho chúng con có con mắt đức tin để biết nhận ra Thiên Chúa là nguồn sự sống đời đời. Amen.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT (Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Năm 1931, Chúa Giêsu đã mạc khải cho nữ Thánh Faustina Kowalska sứ điệp về lòng tôn sùng PS 2-ABC355
Năm 1931, Chúa Giêsu đã mạc khải cho nữ Thánh Faustina Kowalska sứ điệp về lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa đối với thế giới, và Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị đã là người phổ biến Thông điệp đó trên toàn cầu. Ngài chính là vị Giáo Hoàng đã quyết định thành lập lễ Lòng Thương Xót Chúa vào Chủ Nhật thứ II sau Phục Sinh kể từ ngày 22 tháng Tư năm 2001. Ngài có ý làm nổi bật mối liên hệt chặt chẽ giữa các mầu nhiệm Phục Sinh và Lễ Lòng Thương Xót Chúa, thánh Faustina nói: "Công trình cứu chuộc có liên quan đến công việc của Lòng Thương Xót".
1) Từ cạnh sườn bị đâm thủng: nguồn ánh sáng và lòng thương xót.
Phép Rửa tội đích thực là lòng thương xót của Thiên Chúa được "sinh ra" từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Kitô, "nguồn suối của lòng thương xót, tuôn trào sự tha thứ", không chỉ tha thứ tội Tổ Tông, mà còn liên kết chúng ta với Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần.
Thiên Chúa là Tình Yêu và hay thương xót, Ngài không bao giờ phản bội với danh Ngài. Qua mầu nhiệm Khổ Nạn, Sự Chết và Phục Sinh của Đức Kitô, cuộc sáng tạo mới được hoàn thành, chính lúc Ađam ngủ, Thiên Chúa đã tạo dựng Evà từ cạnh sườn của ông, nay lúc Chúa Kitô ngủ trên Thánh Giá Thiên Chúa đã khai sinh Giáo hội từ cạnh sườn Chúa.
Từ trái Chúa Kitô bị đâm thủng Giáo hội được sinh ra: thánh Tôma đã nhận được món quà vô giá là thọc bàn tay vào cạnh sườn của Đấng Phục Sinh gần trái tim Chúa, tha thứ cho sự hoài nghi của ông. Ông chạm vào con người và nhận ra Thiên Chúa, một lần nữa Lòng Thương Xót Chúa mạc khải cho ông.
Như thánh Tôma, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta: "Hãy sỏ ngón tay con vào đây, hãy đưa tay ra và thọc vào cạnh sườn Thầy!" (Ga 20,19) Cử chỉ này đã đủ cho Tôma. Ông không thể sai lầm. Tay Chúa Kitô có một lỗ đanh, cạnh sườn Chúa có vết thương: ngần ấy các dấu chỉ của tình yêu mà Chúa Giêsu không che giấu, thậm trí Người cho chúng ta thấy: lỗ đanh, vết thương ở cạnh sườn Người mà từ đó máu và nước chảy ra: lòng thương xót của Thiên Chúa.
2) Từ sợ hãi đến niềm vui
"Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do thái " (Ga 20,19). Không phải sợ. Hầu như sợ hãi là không thể nhưng chúng tồn tại và có thật. Sợ hãi làm cho cửa lòng mình đóng lại với người khác. Sau khi Chúa chết, nhà các môn đệ giống như ngôi mộ, họ sống với sự sợ hãi, sợ chết. Chúa Giêsu không còn ở trong Mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại "Ðấng hằng sống" (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Cái chết đã bị đánh bại: vậy thì còn gì phải sợ? "Họ vui mừng khi thấy Chúa": các môn đệ từ sợ hãi đến vui mừng.
Chúa vui, các môn đệ vui, niềm vui của tình Thầy trò bén dễ sâu trong tình yêu. Niềm vui này không tách rời khỏi Thập Giá, nhưng trong khả năng của mình, con người có thể hiểu được Thập Giá và thảm kịch của con người.
Với niềm vui, Đấng Phục Sinh đã ban cho chúng ta một món quà khác là: bình an. Bình an và niềm vui là những "món quà" của Chúa Kitô, đồng thời "dấu chỉ" để nhận biết Người. Sự bình an và niềm vui nảy nở trong tự do và hy sinh.
3) Sự tha thứ là sứ mệnh
Cuộc gặp gỡ thương xót của Đức Kitô với Tôma, không chỉ riêng Tôma mà cả các môn đệ kia nhờ Tôma mà thấy tỏ tường những vết thương của Thầy Chí Thánh. Các môn đệ hết sức vui mừng vì được gặp Chúa. Từ niềm vui của các môn đệ đến niềm vui của người được yêu thương, mời gọi chúng ta yêu thương như Chúa đã yêu. Sứ mạng của Hội Thánh tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, được Chúa Cha gửi đến cho các anh em mình. Chính vì thế mà chúng ta là những tạo vật mới, được Thần Khí làm cho sống, là tình yêu, hồng ân và sự tha thứ cho hết thảy mọi người. Nếu chúng ta tha thứ, chúng ta giống như Chúa Giêsu và chúng ta sẽ có sự bình an của Người: "Bình an cho các con".
Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại" (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân "tha thứ các tội lỗi" diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi Phục Sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài" (Ga 3, 16). Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng.
Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại của Chúa, Chúa đã mạc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha cho chúng con, chúng con tin thác vào Chúa, chúng con lặp lại ngay lúc này với xác tín rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới.
Lạy Mẹ maria, Mẹ của lòng nhân từ hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Ðấng cứu chuộc chúng con. Amen.
Tin mừng Ga 20: 19-31: Tô ma sau khi đã được cảm nghiệm về Chúa phục sinh, ông đã tin, một niền tin đầy đủ nhất "Lạy Chúa tôi". SỨ MỆNH CỦA CHÚA KITÔ ĐƯỢC
ỦY THÁC CHO GIÁO HỘI (Ga 20,19-31)
CÂU HỎI GỢI Ý:
Đoạn văn này đã lấy lại, theo kiểu đóng khung, những dữ kiện nào trong các chương trước? Và có thêm gì không PS 2-ABC356
1. Đoạn văn này đã lấy lại, theo kiểu đóng khung, những dữ kiện nào trong các chương trước? Và có thêm gì không
2. Thử làm một bản đối chiếu Ga 20,19-29 với Lc 24,34-53.
3. Xin nêu lên các ý tưởng hay yếu tố chính của trình thuật. Chúng xoay quanh chủ đề nào?
4. Trình thuật này nặng về phương diện lịch sử hay phương diện thần học, và nói lên một khung cảnh nào?
5. Toàn bộ giai thoại mời ta suy nghĩ về cái chi?
Nhờ khía cạnh hấp dẫn thú vị, giai thoại về Tôma dễ làm ta chỉ chú tâm đến nó. Tuy nhiên, bản văn ghi lại hai cuộc hiện ra: một cho các môn đồ và một cho Tôma. Sự chen lẫn ấy có lý do của nó và cả hai giai thoại dều soi sáng cho nhau.
Hơn nữa, Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các môn đồ sai họ đi truyền giáo vào chính chiều ngày Phục sinh. Cách trình bày như thế xem ra mâu thuẫn với lối trình bày của Tin Mừng Nhất lãm. Chắc chắn nó nói lên một chủ ý quan trọng của tác giả Tin mừng thứ tư.
I. VĂN MẠCH VÀ CƠ CẤU BẢN VĂN.
a. Được đặt lại trong toàn bộ cuốn sách, và nếu để ý chương 21 là một phụ lục, thì đoạn văn này xuất hiện như là phần kết thúc toàn bộ Tin mừng thứ tư.
Ở vị thế đó, ý nghĩa của đoạn văn sẽ được sáng tỏ rõ ràng nếu ta xem làm sao nó lấy lại, theo kiểu đóng khung, một số dữ kiện đã được đề ra ngay từ chương đầu tiên. Đối ứng với "lúc khởi nguyên" của Bài Tựa (1,1) là "ngày thứ nhất trong tuần" (20, 1) củ a cuộc Sáng tạo mới (20,22). Đối ứng với lời loan báo của Gioan Tẩy giả: "Chính Người là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần" (1,33) mà Chúa Giêsu đã dùng lại trong diễn từ giã biệt (14,16-18.26) là việc thực hiện: "Hãy nhận lấy Thánh Thần" (20,22). Đối ứng với nỗi sợ hãi của các sứ đồ chiều thứ Năm tuần thánh và với lời Chúa Giêsu hứa ban bình an (14, 1.27) là việc họ đang khiếp sợ người Do thái và sự bình an Chúa Giêsu đem đến cho họ (cc. 19-21) ; đối ứng với niềm vui được loan báo cùng chiều hôm đó (16,20-24) là niềm vui đang tràn ngập các môn đồ (c.20); sau cùng, đối ứng với cạnh sườn bị đâm thủng (19,34) là cạnh sườn đang được tỏ cho thấy. Như thế, có thể xem Tin mừng thứ tư như một sự quảng diễn lời rao giảng Tin Mừng sơ khai trong một khung cảnh phụng vụ: hoàn tất Thánh kinh (1; đặc biệt là 1,45) trong con người Chúa Giêsu (2, 12) tự hiến trong cuộc khổ nạn vinh hiển (13,19) cùng thông ban Thánh Thần và quyền tha tội cho cộng đoàn môn đồ (ch.20.). Được đặt lại trong kết cấu chung như vậy, đoạn văn mặc trọn vẹn chiều kích của nó: chứa đựng một suy tư về công trình cứu độ phổ quát được hoàn tất nhờ Chúa Giêsu.
Đi ngày trước và liền sau bản văn là những giai thoại nhằm đặc biệt soi chiếu nó. Đoạn đi trước nói về Maria Mađalêna, là người lúc đầu cứng tin như Tôma, rồi vắng mặt khi các môn đồ đến viếng mộ như Tôma đã vắng mặt lúc Chúa Giêsu hiện ra cho nhóm sứ đồ, và chừng như ông, bà đã tuyên tín khi nghe Chúa Giêsu nói một câu nhỏ, trong cả hai trường hợp, đều là vấn đề đi từ niềm ao ước một sự hiện diên thể lý của Chúa Giêsu sang niềm ao ước sự hiện diện mới mẻ của Người, là từ nay chỉ cảm nhận được nhờ đức tin.
Sau cùng, bản văn được tiếp nối bằng câu kết thúc toàn bộ Tin mừng' "Các điều đã viết đây là để anh em tin..." (c.31) một câu kết luận dĩ nhiên cũng áp dụng vào bản văn sau hết đó. Thành thử ta như đang đứng trên một đỉnh cao đưa vào xác thực tại chủ yếu nhất đối với đức tin.
b. Cơ cấu của bản văn là một cơ cấu tam phần, như trong trình thuật hiện ra cho nhóm 11 của Lc. Việc đối chiếu trình thuật này giúp làm nổi bật hơn các sắc thái, tiểu dị riêng biệt của Gioan (xem trang bên)
Các điểm tương hợp thật rõ ràng. Các điểm dị biệt được gồm tóm như sau:
Nơi Lc, "sứ mệnh" là một diễn từ có kèm theo lời hứa và đứng một mình, độc lập với việc "nhận biết"; nơi Gioan trái lại, yếu tố thứ hai được lồng vào trong yếu tố thứ nhất và chứa đựng một cử chỉ.
Nơi Lc, yếu tố "nhận biết" có nhiệm vụ cho thấy Đấng Phục sinh không phải là ma; nơi Gioan, nó nhằm gây xác tín về sự đồng nhất giữa Đấng Phục sinh với Đấng mà các môn đồ đã biết bằng xương bằng thịt.
Sau cùng nơi Lc, lòng cứng tin hòa lẫn với niềm vui và việc nhận biết không xảy ra lập tức; nơi Gioan trái lại, lòng cứng tin hoàn toàn tập trung trên Tôma, trong lúc việc nhận biết xảy ra tức thì và niềm vui thật thật trọn vẹn.
Cả hai thánh sử hẳn là tùy thuộc cùng một nguồn liệu. Nhưng bản văn Gioan vừa giản dị vừa nặng tính chất thần học hơn. Tác giả muốn phân biệt cái có liên hệ đến sự cứng lòng tin với cái liên hệ đến sứ mệnh của các môn đồ. Vì thế, như thường thấy trong thánh sử thứ tư, mỗi cảnh đều trở thành đặc thức của chủ đề ông trình bày. Tuy nhiên cả hai quang cảnh đều được nối kết mật thiết bởi khung cảnh không gian và thời gian phụng vụ (cc.19-26). Cả hai biến cố quả là có tầm mức Giáo Hội vậy.
Vì phần liên hệ đến "sứ mệnh" sẽ được nghiên cứu về sau (xem bài Chú giải lễ Hiện xuống), nên đoạn còn lại của giai thoại chia làm hai phần:
- Hiện ra cho Tôma: cc.24-29.
Kết luận của Tin mừng: cc.30-31.
Trình thuật về chính cuộc hiện ra được kết cấu như sau:
Nhận biết:
Nỗi hoài nghi của Tôma và vai trò của cộng đoàn: cc.24-25. Cuộc hiện ra của Chúa Giêsu: c.26a
- không thể nhận ra: c.26b
- sáng kiến bằng cách nói một lời: c.27 Đức tin của Tôma: c.28
kết luận:
Liên quan đến Tôma: c.29a Liên quan đến tất cả Kitô hữu: c.29b
II. CÁC Ý TƯỞNG CHÍNH CỦA BẢN VĂN
Thành thử các yếu tố chính của bản văn đều xoay quanh đức tin và có thể được nghiên cứu dưới ba khía cạnh.
1. Thái độ của Tôma trước tiên cho thấy: dù được tiếp nhận qua trung gian của cộng đoàn, đức tin vẫn là một hành động cá nhân, có tính cách phê phán.
Tôma được đề cập (c.24) ntlư là "một người trong nhóm Mười hai" và nhóm này được nhắc đến hai lần (cc.24-25) Thành ngữ "nhóm Mười hai" rất hiếm nơi Gioan, điều đó. Gợi lên tầm quan trọng của sứ đồ đoàn trong việc khơi dậy đức tin: chính vì chứng từ của họ mà Tôma đã tự vấn (c.25) và đã được đặt trên con đường "nhận ra" Chúa Giêsu.
Hơn nữa, nhóm Mười hai này đã lại hội nhau "tám ngày sau đó" (c.26). Tiểu chú này, đi tiếp theo tiểu chú "ngày thứ nhất trong tuần" (c.19) hay ngày phục sinh, chắc chắc là dấu chứng nói lên khung cảnh của cộng đoàn sơ thủy, trong đó hình thành bài giáo lý về cuộc hiện ra cho Tôma. Tiểu chú này còn được tăng cường bằng một nét khác là lời chào "Bình an cho các ngươi" mà nay vẫn còn được dùng trong các cuộc cử hành Thánh Thể.
Tất cả các điều này nói lên tầm quan trọng của việc tụ họp và cử hành phụng vụ cũng như của vai trò các tham dự viên trong việc đưa dẫn một người nào đó đi vào mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục sinh.
Để quán triệt tiến trình của Tôma và đích điểm ông sẽ đến là không thấy mà tin, phải quan sát ông phát xuất từ chỗ nào. Một- đoạn văn khác soi sáng điểm này được: đoạn văn nói về cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với các môn đồ trước khi ra đi (14,1-12). Trong trình thuật đó Tôma xuất hiện như là kẻ không hiểu rõ hai nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nói. Người bảo thế này: "Và Ta đi đâu, các người biết đường rồi", Tôma hỏi: "Thưa Ngài, chúng tôi không biết Ngài đi đâu, làm sao biết con đường được". Thế nhưng Chúa Giêsu lại nói đến con đường là chính Người. Tính tình thực tiễn đó của Tôma cũng tỏ hiện trong phản ứng của ông là chỉ nghĩ đến cái chết khi Chúa Giêsu gợi lên vinh quang của Người (11, 15-16). Bấy giờ Philíp đặt một câu hỏi và được trả lời như sau: "Philíp, ai thấy Ta là đã thấy Cha; làm sao ngươi nói: xin tỏ cho chúng tôi thấy Cha? Ngươi không tin...?"..
Do đó, thấy" Chúa Giêsu là thấy người về phương diện nhân loại, bằng xương bằng thịt, nhưng nhất là, bên trên cái khả giác đối với mắt trần, đạt đến ngôi vị của Người và biết bằng cách tin vào ngôi vị đó. thành ra sự hiểu biết này đồng thời là một sự "nhận biết". Có thể đi sát cánh một người không biết nhân cách sâu xa của họ. Chỉ về sau, khi nhân cách này được biểu lộ hoặc bởi lời nói hoặc bởi hiệu quả của làm đương sự trên kẻ khác, thì nó mới được biết rõ ràng hơn ; có thể bảo rằng nó được "nhận ra" vậy.
Gioan luôn nối kết hai hạn từ "thấy" (oran) và tin (pistouein) trong mục đích làm nổi bật khía cạnh đặc biệt sau đây của niềm tin: tin là "thấy" ngang qua các sự kiện cụ thể hay chính con người Chúa Giêsu. Nó hoàn toàn khác với một thứ trực quan hay với một thứ ý thức hệ nào đó: nó là niềm tin vào một vị Thiên Chúa làm người. Ay là tất cả ý nghĩa đặc biệt Gioan gán cho chữ "chứng nhân martys, thường dùng trong Tin mừng của ông. Cái làm các môn đồ thành "chứng nhân" không chỉ là sự kiện đã được thấy Chúa kitô bằng xương bằng thịt: điều này đã xảy ra cho nhiều kẻ từng đi bên cạnh Người mà chả nhận biết Người là ai. Cái các ông làm chứng phát xuất từ thái độ tiếp nhận của các ông, thái độ đã giúp các ông nhận ra một lời mời gọi tin vào, Chúa Giêsu, ngang qua các dấu chỉ mà Người đã thực hiện. ó đây, đức tín của Tôma được tóm kết trong một chữ gói trọn tất cả kinh nghiệm của ông: ông đã "thấy" Chúa Giêsu khi Người còn sống, theo nghĩa "thấy" thông thường, và ông đã thấy Người, theo nghĩa "đã nhận biết", trong đức tin sau khi Người phục sinh.
2. Đức tin là một cuộc tiếp xúc với Chúa Giêsu, một Giêsu Chúa-Thiên Chúa, qua việc đón nhận lại Người.
Trái với điều mà nhiều nhà giảng thuyết lẫn thần học gia đôi khi đưa ra quá vội, bản văn không hề bảo Tôma đã tin sau khi làm cử chỉ ông yêu cầu. Giải thích cuộc hiện ra theo kiểu đó là đi vào đường hướng của Lc chứ không trung xác với Gioan, vì đối với Gioan thì Chúa Giêsu, kể từ khi sống lại, là Đấng người ta chẳng còn có thể chạm đến, như đã thấy trong trình thuật trước về Maria Mađalêna. Khi bảo "Hãy đem ngón tay ngươi đặt đây...", Chúa Giêsu chỉ lặp lại mối bận tâm của Tôma và chính sự kiện nhận ra mình bị "thấy" đã hoán cải vị sứ đồ, như Nathanael (1,48) và một cách khác như Maria Mađalêna (20,16). Chính trên lời đó của Chúa Giêsu mà ông đã lập tức thốt lên tiếng kêu đức tin: "lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi".
Tước hiệu được gán cho Chúa Giêsu như vậy không lặp lại ở đâu khác, cả trong Gioan, trong Công vụ lẫn trong Phaolô. Theo Công vụ, chữ "Chúa", Kyrios, mà các dịch giả của bản 70 dùng thay tên riêng của Thiên Chúa, đã được áp dụng cho Chúa Kitô trong lời rao giảng của Giáo hội sau lễ ngũ Tuần, khi các sứ đồ đã có một niềm tin dứt khoát vào thần tính của Chúa Giêsu. Ở đây, thánh sử đưa từ ngữ về thời tiền Hiện xuống, và kết hợp nó với tước hiệu Thiên Chúa để không ai còn nghi ngờ gì về ý nghĩa hành vi đức tin của Tôma.
Thành ngữ "Thiên Chúa của tôi", được áp dụng vào Chúa Giêsu, gây ngạc nhiên không ít. Vẫn biết Chúa Kitô được gọi là Thiên Chúa" ở nhiều chỗ trong Tân ước (1Tm 16; Cl 1,15) và trong Tin Mừng Gioan (1, 1), nhưng việc nối kết "Chúa-Thiên Chúa" là điều bất thường. Để giải thích, cần phải nhờ đến Cựu ước. Việc nối kết này thường gặp dưới các công thức như: "Lạy Chúa là Thiên Chúa" (2sm 7,28; Tv 30,2). Thành thử Tôma áp dụng cho Chúa Kitô một tước hiệu nói lên thần tính của Người, và nếu được đặt lại trong văn mạch Gioan (5,23; 14,9...) thì tước hiệu có thể diễn giải: "Lạy Chúa tôi, Đấng trong đó tôi nhận ra Chúa Cha". Vị sứ đồ không thể diễn tả toàn vẹn hơn niềm tin của mình, và nhờ chủ từ đại danh từ "của tôi", ông góp thêm một tính chất cá vị vào cái mà Phụng vụ gán cho ông nói dưới hình thức lập thể: Lạy Chúa và là Thiên Chúa chúng tôi" (Kh 4,11).
3. Đức tin là sự đi vào trong bình an và hạnh phúc, hoa quả của cuộc Khổ nạn vinh hiển.
Có mối liên hệ chặt chẽ nối kết sự "bình an" mà Chúa Kitô ban tặng cho môn đồ Người (c.26) với dấu chỉ là Người đề xuất trong lời nói (c.27). Chào các sứ đồ bằng chữ "bình (shalom) là sử dụng thành ngữ thông thường nhất, một thành ngữ không chỉ diễn tả tài tình mà còn diễn tả việc ban phúc lành của Thiên Chúa. Hơn nữa, kể từ cuộc Phục sinh, ban tặng này thực hiện cái Chúa Giêsu đã hứa (14,27; 33) và đã chiếm-hữu được nhờ cuộc Khổ nạn vinh hiển. Đó là điều được nhấn mạnh qua việc đề cập đến các vết thương ở tay và cạnh sườn (chi tiết sau chỉ có Gioan đề cập, khác với Luca). Đức tin tin vào sự đồng nhất ngôi vị giữa Đấng bị đóng đinh và Chúa hằng sống, Đấng ban Thánh Thần. Chính khi đã mặc lấy thân phận con người như vậy mà Chúa Kitô mới chuyển đạt tình yêu và bình an của người cho những kẻ đón nhận Người trong đức tin.
Như thế, Tôma chỉ nhận ra thần tính Chúa Giêsu qua cách Người đã sống cuộc sống con người, kể cả và nhất là cái chết, khi ông tiếp nhận ánh sáng đã được dấu chỉ ấy ban cho ông. Một trong những nét chủ yếu của Tin mừng thứ tư là đấy cuốn Tin mừng hằng bận tâm làm nổi bật điều này là: niềm tin phát sinh từ một sáng kiến nhưng không của Chúa Kitô, nhưng đồng thời cũng đòi con người làm một hành vi tự ý để tiếp nối sáng kiến đó.
Bấy giờ xuất hiện một mối chân phúc mà tầm quan trọng càng tăng vì là mối phúc duy nhất được Gioan ghi lại trong Tin mừng của ông. "Phúc cho": tiếng kêu này được áp dụng suốt bộ Cựu ước cho những kẻ tin vào Thiên Chúa và vào sự hiện diện của Ngài trong đời họ. Với Chúa Kitô, mối phúc mặc trọn ý nghĩa: chính trong Người giờ đang sống mãi, có sự hiện diện của Thiên Chúa, phúc cho ai tin nhận Người.
Thành thử mối phúc này nhắm đến tất cả những kẻ đã tin hay sẽ tin, bắt đầu từ chính các sứ đồ, đặc biệt là Tôma, người đã được gói trọn trong nối phúc đó. Quả thế, bản văn do ông đã "tin" và đây là điều làm ông "hạnh phúc". Toàn giai thoại về việc "nhận biết" chỉ có ý nghĩa với cách giải thích như vậy về mối phúc kết thúc giai thoại ấy! nhưng dữ kiện này được Gioan đưa ra với một lối biện chứng cần được làm sáng tỏ Chúa Giêsu nói: "Bởi thấy Ta, ngươi đã tin. Phúc cho, những ai không thấy là tin". Đây là một cách bảo rằng: đức tin của Tôma là nguyên kiểu của đức tin mọi Kitô hữu về sau. Nếu khác, có lẽ đức tin sẽ không thể truyền đạt và mất sức lôi cuốn đối với những người đã chẳng biết Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt. Thành thử đức tin của ông và của họ có một cái gì chung và khác nhau.
Cái mà Tôma có chung với toàn thể Kitô hữu, là ông chẳng có đủ bằng chứng, theo nghĩa ngày nay người ta gán cho chết này trong ngôn ngữ thông dụng, nhưng là có một lời nói. Thế mà trong ngôn ngữ Thánh kinh, gán một lời nói cho Thiên Chúa là khẳng định sự hiện diện thực sự của Ngài, sự hiện diện được nhận thấy trong đức tin, vượt lên trên mọi biểu tượng.
"Cái khác biệt, ngoại trừ cường độ của hành động Chúa Gisêu trong ông và việc ông đáp trả hành động đó, là cái ông
phải tin: Chúa Giêsu đang sống bây giờ trong một điều kiện không có tính cách vật chất như trước kia cũng là kẻ mà ông biết bằng xương bằng thịt và đã bị đóng đinh thập giá. Như trong mọi hành vi đức tin, chẳng những chỉ lý trí mà toàn thể con người ông đều mở rộng và khăng khít với một ánh sáng. Sau khi đã biết và tìm cách nhận ra Chúa Giêsu, thì giác quan của ông nhận được một sự dột lại của chức tin trên chúng, phù hợp với hoàn cảnh đặc biệt này. Tôma là thành viên của nhóm mà Gioan đã đề cập: "Chúng tôi đã được ngắm vinh quang Người" (1,14): "chúng tôi" đây không phải là một tiếng số nhiều trang trọng, cũng chẳng chỉ tất cả mọi người, nhưng chỉ nhóm nhỏ chứng nhân đã mục kích cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu, chỉ những kẻ sau đó đã "nhận biết" người đang sống mãi. Chính sự nhận biết thích hợp và vượt quá kinh nghiệm giác quan ấy là yếu tố đặc thù của đức tin các môn đồ. Từ đó, đức tin của các Kitô hữu chỉ làm họ nhận biết được Chúa Giêsu xuyên qua điều mà các sứ đồ đã nói cho họ hay. Đức tin của họ dựa trên kinh nghiệm đầu tiên này vậy.
Còn lại giáo huấn của phần kết thúc. Giáo huấn này được gởi đến các Kitô hữu và tóm tắt cách nào đó toàn bộ sứ điệp Tin mừng thứ tư trong mục đích giúp họ tiến lên trong đức tin. Nó được chứa đựng trong các chữ: dấu chỉ, tin, Chúa Kitô. Con Thiên Chúa, sự sống.
III. MÔI TRƯỜNG LỊCH SỬ CỦA BẢN VĂN
Có nhiều yếu tố giúp định vị bản văn trong môi trường lịch sử của lần biên soạn nó sau cùng.
Tác giả ngỏ lời với các cộng đoàn mà chủ yếu là gồm những kẻ chẳng trực tiếp kinh nghiệm về các cuộc hiện ra và phải tin dầu không bao giờ được biết Chúa Kitô bằng xương bằng thịt. Ông muốn minh chứng rằng, nhờ đức tin, họ thông sự một cách đầy đủ, trọn vẹn vào cùng niềmvuì như các sứ đồ: vì dù có khác về hoàn cảnh lịch sử, kinh nghiệm của các sứ đồ vẫn chẳng kém bao hàm một hành vi đức tin tương tự như họ.
Bản văn ăn sâu tron.g lột cử hành của cộng đoàn. Nó mặc khải cho thấy các Kitô hữu, vào cuối thế kỷ I, đã chú tâm đến thời gian (ngày Chúa nhật), nơi chốn và các công thức bình an cho các ngươi") có tính cách phụng vụ còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Thành thử ý nghĩa của việc tụ họp ngày Chúa nhật là để "nhận biết" Chúa không ngừng.
Nguyên việc giai thoại được tường thuật trong 5 câu và với một cấu trúc thần học rõ ràng, đủ nói lên rằng tác giả không có ý cung cấp những chi tiết chính xác về biến cố. Ông chỉ đưa ra điều cốt tủy, trình bày một quét có chung với mọi lời tuyên xưng đức tin sơ khởi khác: các sứ đồ ý thức mình đã tin dựa vào các sáng kiến của chua Giêsu, Đấng mà họ nhận biết đang còn sống qua các biến cố của đời họ. Đặc biệt, việc đồng hóa Chúa Giêsu đang sống với Chúa Giêsu mà họ đã biết trước đây và đã chết, lại được chứng thực trong bản văn song song với Luca (24,36-43). Chính kinh nghiệm độc nhất vô nhị đó đã làm nền tảng cho đức tin của họ, và rồi đến lượt đức tin này lại làm cơ sở cho đức tin của mọi Kitô hữu. Đó là điều mà lời rao giảng xưa nhất do Phaolô ghi lại đã minh chứng (1 Cr 15,3).
Ngoài ra, nếu tác giả trình bày những người có tính khí dễ bốc đồng, bồng bột, thì ta có thể nghi ngờ điều ông nói. Vì thế nhưng ông lại cho thấy một Tôma với tính tình thực tiễn. Chống lại mọi sự nhẹ dạ, dễ tin, nên càng kêu lời ta tin hơn vào xác thực tính của sự kiện.
Sau cùng, phải ghi nhận sự đóng góp của đoạn văn này đối với kiến thức sử học của chúng ta về việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh thập giá. Thân hình tử tội có thể bị cột hoặc bị đóng đinh. Chính là nhờ trình thuật hiện ra cho Tôma mà chúng ta biết phương thức nào trong hai phương thức trên đã được sử dụng trong trường hợp Chúa Giêsu. Năm 1968, người ta đã khám phá, trong một nghĩa địa phía đông Bắc Giêrusalem, bộ xương của một kẻ bị đóng đinh cách đây 2000 năm. Đây là lần đầu tiên những cái đinh được tìm thấy trong thạch mộ, khiến thói tục mà thánh sử cho thiết càng được chính xác hơn trong lãnh vực các sự kiện.
IV. SỨ ĐIỆP CỦA BẢN VĂN
Toàn bộ giai thoại này mời gọi Kitô hữu suy nghĩ về đức tin: đức tin là sự "nhận biết" một hữu thể đang sống nhưng vô hình; nó giả thiết một hành vi tự phát cá nhân và sự chấp nhận chứng từ của các môn đồ tiên khởi; cuối cùng, nó là nguồn hạnh phúc đích thực của con người.
Xét trên bình diện nhân loại, mọi tương giao với một con người giả thiết một niềm tin nào đó. Không thể nghĩ đến việc muốn kiểm chứng mọi lời kẻ ấy nói được. Để tin, chỉ cần có các dấu chỉ là đủ. Trong trường hợp Chúa Giêsu, dấu chỉ người đưa ra là dấu chỉ về sự sống và sự chết của Người: người đã sống và chết phù hợp hoàn toàn với ý Cha Người. Chính vì thế mà Người đã được mặc khải là Chúa-Thiên Chúa. Điều đó đòi buộc người môn đồ tiếp nhận. Người phải vượt lên trên mọi biểu tượng khả giác. Ngay cả những kẻ đã biết Người về phương diện thể lý cũng phải thoát ra khỏi các hình ảnh họ đã lưu giữ về Người. Việc một kẻ thực tế và do dự như Tôma mà cũng đã làm cái bước nhảy đó, khích lệ các Kitô hữu không ngừng bị hăm dọa bởi sự vô tín hằng giam hãm Chúa Giêsu trong một biểu tượng.
Vì thuộc về một nhóm mà tất cả đều đã bắt đầu tin, Tôma nhắc cho mọi Kitô hữu đã sinh ra hay đang sống trong một hoàn cảnh tương tự điều này là: đức tin trước tiên là hành vi tự phát và kinh nghiệm cá nhân. Thật là thường tình khi con người từ chối dấn thân vì một lời kẻ khác nói, bao lâu mình "chưa cảm nghiệm được trong chính mình sáng kiến của Đấng Phục sinh. Nhưng ngược lại sẽ là ba phải chủ nghĩa hay tôn giáo xã hội học chứ chẳng phải là đức tin.
Ngoài kinh nghiệm đó là kinh nghiệm về Thần khí xuất phát từ trái tim Chúa Giêsu ra, thì đức tin của tín hữu dựa trên chứng từ của các môn đồ tiên khởi mà nay được cộng đoàn Giáo hội truyền lại. Kẻ không tìm xem mình đã đạt tới đức tin thế nào nhưng tìm kiếm cơ sở niềm tin của mình, thì sẽ luôn luôn thấy sự kiện này là những ai đã biết Chúa Giêsu đều nói Người là, Đấng sống lại. Tính cách cộng đoàn đó của đức tin cũng nhắc nhở những kẻ thấy khó chấp nhận ý kiến chung của cộng đoàn và vì thế đang phải "khủng hoảng", hãy sống niềm tin bằng cách diễn tả nó ra ngay chính trong cộng đoàn, là việc lắng nghe Lời Chúa trong buổi lội họp phụng vụ sẽ là một yếu tố để soi sáng họ.
1. Khi nghe các bạn sứ đồ báo tin Chúa sống lại và hiện ra cho họ, Tôma đã phản ứng mãnh liệt. Vì việc sống lại ra Chúa vừa khó tin, vừa gây bực bội. Tôma giới hạn tri giác thực tại và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay của khả năng suy tư. Những gì ông không thể hiểu, không thể đo lường, sờ chạm, đều bị ông chối từ. Thật là một nhà duy vật chủ nghĩa hạng nặng. Phải chăng Tôma thứ hai chính là tôi? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng, hãy lập lại lời khiêm nhường của Tin Mừng: "Lạy Chúa, con tin nhưng xin ban thêm đức tin cho con".
2. Nhiều khi ta trách Tôma sao lại không tin lời các bạn sứ đồ, nhưng có lẽ phải trách các sứ đồ mới đúng. Lý do: Họ nói "Chúng tôi đã thấy Chúa, đã được Thánh Thần, đã được sai đi..." thế mà 8 ngày sau vẫn còn ngồi ì một chỗ mà run sợ, thì thử hỏi các ông tin Chúa đã sống lại ở chỗ nào? Nếu chính các ông không tin, không tỏ dấu chỉ là tin, thì làm sao khiến cho Tôma tin được? Thái độ bất động, không thay đổi của họ có lẽ càng làm cho Tôma xác tín là ông đang bị các bạn đùa dai, chứ thực ra làm gì có chuyện sống lại và hiện ra của Chúa! Tôma đâu cần phải lý luận chi xa xôi, cứ nhìn vào các sứ đồ kia thì đủ mà nghi rằng làm gì có được chuyện Chúa sống lại và hiện ra với các ông. Cho nên câu Chúa nói như để trách sự cứng lòng của Tôma: "Phúc cho những ai không thấy mà tin"' còn có thể hiểu như một câu gián tiếp kết tội "lòng tin" không việc làm" của các sứ đồ... Dùng lời lẽ chứng minh cho đức tin là tốt, nhưng tốt hơn và cần hơn là hành độn.g cho người khác thấy được niềm tin của mình. Đó chính là điều mà "các bạn của Tôma" lẽ ra phải có nhưng đã không có. Còn tôi?
3. Tất cả là nhắm để ta tin vào Thiên Chúa, tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến là Chúa Giêsu Kitô, để nhờ tin mà ta được sống muôn đời. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã tìm hết cách để các môn đồ nhận ra Người và tin vào N. Chúa sẵn sàng làm tất tả để họ tin: hiện ra, đàm dạo, ăn uống, chỉ các vết thương, cho phép đụng đến các giấu đinh... Mục đích duy nhất của lòng ưu ái, nhân nhượng, khoan dung ấy là: "Chớ cứng lòng nhưng hãy tin", vì có tin mới được sống. chính trong hoàn cảnh đó Chúa Giêsu Kitô đã thêm vào tám mối phúc thật" một mối phúc thật thứ chín (hay là mối phúc duy nhất theo Tin mừng Gioan): "Phúc cho nhữnng ai không thấy mà tin".
Bài tin mừng này, Gioan kể lại hai lần Chúa hiện ra với các Tông đồ cách nhau một tuần. Một lần PS 2-ABC357
Bài tin mừng này, Gioan kể lại hai lần Chúa hiện ra với các Tông đồ cách nhau một tuần.
Một lần hiện ra ngay chính buổi chiều ngày Chúa sống lại khi không có mặt Tôma. Và lần sau có mặt Tôma. Mục đích Chúa hiện ra là làm cho các Tông đồ tin rằng NGÀI ĐÃ SỐNG LẠI THẬT.
II. SUY NIỆM:
1/ "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần":
Theo người Do thái, ngày thứ bảy là ngày cuối tuần và là ngày lễ nghỉ, ngày thứ nhất trong tuần tức là ngày Chúa nhật bây giờ và là ngày Chúa sống lại. Thời Tân ước, Giáo Hội lấy ngày thứ nhất trong tuần tức là ngày Chúa nhật, ngày lễ nghỉ, ngày Chúa phục sinh.
+ Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín vì sợ người Do thái: Từ khi có biến cố ngôi mộ trống vào ngày thứ nhất trong tuần, dân chúng thì xôn xao, nhà cầm quyền thì điên đầu vì khó xử, các môn đệ nửa tin nửa ngờ, qui tụ nhau để bàn bạc, cầu nguyện, nhưng vì có tiếng đồn là các môn đệ đã lấy trộm xác Chúa nên các ngài sợ bị theo dõi vì thế đã đóng kín hết các cửa của phòng họp.
2/ "Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói":
* Việc Chúa Giêsu hiện đến trong phòng đóng cửa kín cho thấy thân xác phục sinh của Chúa không còn bị giới hạn bởi không gian nữa.
* Việc Chúa hiện đến đứng giữa các ông và nói: nêu lên ý nghĩa Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết thì bây giờ đã sống lại thật.
3/ "Bình an cho các con":
Lời này được Chúa Giêsu nói sau khi Người phục sinh có ý diễn tả:
+ Ơn tha thứ cho các môn đệ: vì biến cố thương khó tử nạn đã làm cho các tông đồ sợ và đã bất trung với Thầy mình.
+ Ơn giao hoà giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau: vì Chúa Giêsu chịu chết đã chuộc tội cho nhân loại và Chúa Giêsu phục sinh đem lại sự sống cho nhân loại.
+ Ơn phúc lành: sự hiện diện của Chúa phục sinh là một phúc lành vì Người là sự bình an cho những ai đón nhận Người. Các tông đồ đã tin nhận Chúa phục sinh đem lại an bình, can đảm và dấn thân trong sứ mệnh truyền giáo.
4/ "Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người":
Việc cho xem các vết thương này có mục đích cho thấy có sự liên tục giữa thân xác Chúa đã chịu khổ nạn và thân xác Chúa đã phục sinh là một.
5/ "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con":
Việc Chúa Giêsu xác định về giá trị của ơn gọi để làm phấn khởi các môn đệ:
+ Việc sai các môn đệ đi vào thế gian sau phục sinh chứng tỏ biến cố phục sinh là nền tảng ơn gọi và sứ mạng của các môn đệ.
+ Ơn gọi các môn đệ rập theo khuôn mẫu ơn gọi của Chúa Giêsu.
+ Trong bài Tin Mừng này không thấy Gioan nói tới sứ mạng phổ quát của các môn đệ là đi giảng dậy muôn dân, có lẽ vì điều này đã được các Tin Mừng nhất lãm nói trước rồi (Mt 28, 19 ; Lc 24, 47 ; Mc 16, 25).
6/ "Nói thế rồi, Người thổi hơi...":
Tác động này tương tự việc tạo dựng con người (St 2, 7) và cho thấy ở đây cũng có thể kể như một cuộc tạo dựng mới, đó là cuộc tạo dựng trong Thánh Thần.
7/ "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần":
+ Chúa Thánh Thần như đã được hứa trong bài diễn văn sau bữa tiệc ly (Ga 10, 16 - 26 ; 16, 7 - 13) chỉ được ban đầy đủ vào lễ Ngũ tuần (Cv 2, 1 - 12). Còn ở đây (Ga 20, 22) chỉ là nhận một phần đầu tiên của ơn Chúa Thánh Thần để cho các tông đồ có thể lãnh quyền tha tội, vì tuy có nhiều đặc ân khác nhau nhưng chỉ có một Chúa Thánh Thần (1Cr 12, 4).
+ Các con tha tội... các con cầm tội ai...: Chúa thiết lập Bí tích Giải tội bằng cách ban quyền giải tội cho các môn đệ. Quyền này được tiếp tục trong Giáo Hội.
8/ "Có ông Tôma gọi là Dyđimô không cùng ở với các ông":
+ Tôma biệt hiệu là Dyđimô (con sinh đôi) vốn là người có tính thẳng thắn, rõ ràng và thực tiễn:
+ Khi Chúa nói với các môn đệ rằng: Con đường Thầy đi sau này các con cũng sẽ đi, Tôma liền thưa: nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao biết được đường lối của Thầy (Ga 14, 5).
Khi Thấy Chúa Giêsu dứt khoát muốn lên Giêrusalem bất chấp nguy hiểm thì Tôma lại bảo anh em: Nào cả chúng ta nữa, hãy lên Giêrusalem để chịu chết với Người.
+ Tôma vẫn giữ tính đó khi nghe nói Chúa sống lại, Tô mà đã không căn cứ vào sự kiện mồ trống, những bài Thánh Kinh, nhất là lời Chúa Giêsu nói trước về sự sống lại, ngay cả việc Chúa đã hiện ra với các môn đệ khác vào chiều thứ trong tuần. Nhưng Tôma đòi những điều kiện khả giác chắc chắn là nhìn thấy vết đinh, thọc ngón tay vào lỗ đinh...
9/ "Tám ngày sau, các môn đệ họp nhau trong nhà, có Tôma ở với các ông":
Đây là lần thứ hai Chúa hiện ra với các tông đồ trong cùng một quang cảnh như lần trước, nhưng lần này có cả Tôma và Tôma như là một các cớ để Chúa hiện ra lần này.
Việc Chúa hiện ra ở đây nói lên rằng: Người kiên nhẫn và hiền lành chấp những điều kiện Tôma đưa ra. Nhưng khi Chúa hiện ra, ta không thấy Tin Mừng nói Tôma có sỏ ngón tay và bàn tay như ông đã đòi hỏi hay không. Nhưng ta hiểu Tôma đã không kiểm nghiệm như ông đã đòi hỏi. Chỉ nguyên việc gặp gỡ và nghe Lời Chúa đã đủ để đánh động con người ông.
10/ "Chờ cứng lòng nhưng hãy tin":
Diễn tả kiểu nói không được tiếp tục công việc đang làm tức là hãy đừng cứng lòng, nhưng hãy tin. Sự hiện diện của Chúa như một mệnh lệnh bảo Tôma đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin vào Người.
11/ "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!":
Đây là lời tuyên xưng của Tôma, Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng Chúa cách đầy đủ nhất: lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi!
+ Tôma thường bị mang tiếng là cứng lòng tin. Nhưng các môn đệ khác ở vào trường hợp ông cũng không hơn gì. Đàng khác, qua lời tuyên xưng, ta thấy Tôma có yếu kém phần nào về đức tin việc Chúa sống lại, thì Tôma lại đáng khen khi qua đó ông tuyên xưng Người là Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa thì Tô ma đã không trông thấy nhưng ông đã tin.
12/ "Phúc cho những ai đã không trông thấy mà tin":
+ Cái "Phúc" này đã được áp dụng suốt bộ Cựu ước cho những kẻ tin vào Thiên Chúa và vào sự hiện diện của Người trong đời họ.
+ Với Chúa Kitô, mối phúc này mang ý nghĩa: chính trong người Đấng đã phục sinh, có sự hiện diện của Thiên Chúa. Phúc cho những ai tin nhận Người.
Vì vậy, mối phúc này nhắm đến tất cả những ai đã hay sẽ tin, bắt đầu từ chính các môn đệ, tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa. 13/ "Để anh em tin":
Cũng mang nghĩa "Anh em tiếp tục tin", vì ở đây nói với những người đã có đức tin. Vì vậy, nói lời này thánh Gioan muốn củng cố các tín hữu trong đức tin.
III. ÁP DỤNG:
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội dùng bài Tin Mừng này của thánh Gioan để mời gọi chúng ta suy nghĩ về đức tin.
1/ Việc Chúa Giêsu hiện ra hai lần với nhóm mười một tông đồ là để củng cố niềm tin cho các ông. Giáo Hội cũng muốn chúng ta suy niệm bài Tin Mừng này để xác tín vào việc Chúa Giêsu phục sinh hầu giúp cho ta phấn khởi sống theo niềm tin ấy mà hy vọng vào sự phục sinh của mình ngày sau.
2/ Biến cố phục sinh là nền tảng ơn gọi và sứ mệnh của các tông đồ. chúng ta chỉ có thể làm tông đồ cho Chúa khi chúng ta xác tín vào Thiên Chúa.
Chúng ta chỉ có thể hướng dẫn người ta về sự sống đời sau khi chúng ta xác tín và sống hướng về sự sống đời sau.
3/ Đức tin là nguồn hạnh phúc đích thực của con người vì "Phúc cho những ai không thầy mà tin" và "để anh em tin mà được sống nhờ danh Người".
B/ Áp dụng thực hành:
1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:
a/ Chúa Giêsu đã sống lại như lời Người đã hứa: chúng ta thường hứa điều này, dốc quyết điều kia, nhưng chúng ta có dùng ý chí để thực hiện điều mình hứa hay dốc quyết không?
b/ Chúa Giêsu hiện đến và ban bình an cho các ông: chúng ta là người thuộc về Chúa Kitô, khi hiện diện ở đâu với ai... thì cũng tạo nên sự bình an vui vẻ, hoà thuận hiệp nhất... ở đó.
c/ Chúa Giêsu đã kiên nhẫn và nhân từ đối với sự cứng lòng của Tôma: chúng ta có đủ kiên nhẫn và quảng đại, dịu hiền đối với những người có thái độ cứng cỏi đối với chúng ta không?
d/ Nhìn vào Tôma: những gì ông không thể hiểu, không thể đo lường, sờ chạm đến, đều bị ông từ chối. Thật là nhà duy vật chủ nghĩa hạng nặng. Phải chăng Tôma thứ hai chính là tôi: nhưng "Phúc cho kẻ không thấy mà tin".
+ Tôma sau khi đã được cảm nghiệm về Chúa phục sinh, ông đã tin, một niền tin đầy đủ nhất " Lạy Chúa tôi ". Chúng ta chỉ được vững mạnh về đức tin khi chúng ta có cảm nghiệm về niềm tin đó. Chúng ta tin vào tình thương Chúa khi chúng ta có cảm nghiệm bằng cách đón nhận tình thương của Chúa trong cuộc sống của mình qua đời sống cầu nguyện, thực hành lời Chúa và siêng năng lãnh nhận các Bí tích.
Chúng ta vừa long trọng mừng lễ Phục Sinh. Bầu khí ồn ào náo nhiệt của những cuộc kiệu rước PS 2-ABC358
Chúng ta vừa long trọng mừng lễ Phục Sinh. Bầu khí ồn ào náo nhiệt của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống, những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua. Đối với một số tín hữu, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết. Đây là cái nhìn thiển cận và là một lối suy nghĩ lệch lạc về đời sống Đức tin. Để tránh những hiểu lầm đó, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa Phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu. Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau. Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I). Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ, để nâng đỡ, soi sáng họ trong đời sống Đức tin.
Một sự hiện diện gây ngạc nhiên: Bài Tin mừng hôm nay kể lại hai cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Cuộc gặp gỡ thứ nhất vào buổi chiều chính ngày phục sinh; cuộc gặp gỡ thứ hai sau đó tám ngày. Trong cả hai cuộc gặp gỡ này, tâm trạng của các môn đệ đều ngạc nhiên và vui mừng. Các ông ngạc nhiên vì chính các ông đã chứng kiến cái chết của Chúa mà nay Người sống lại; các ông vui mừng vì cuộc gặp gỡ này giúp các ông hiểu rõ hơn sứ mạng của Chúa. Cuộc gặp gỡ thứ nhất không có Tôma; cuộc gặp gỡ thứ hai, Tôma là trung tâm chú ý của mọi người. Nếu có những người xác tín vào sự phục sinh của Chúa, thì lại có những người chưa sẵn sàng để đón nhận tin vui này. Tôma đại diện cho những người chỉ tin khi chứng minh được bằng kinh nghiệm.
Một sự hiện diện giúp các môn đệ thêm sức mạnh: Cuộc gặp gỡ với Đấng phục sinh đã làm thay đổi suy nghĩ và quan niệm của các môn đệ. Các ông đã theo Chúa ít là ba năm, nhưng trước biến cố thập giá, con mắt và tâm trí các ông vẫn bị bao phủ. Trường hợp hai môn đệ buồn bã về quê ở Emmaus cho thấy các ông thất vọng trước cuộc khổ nạn của Thày mình. Khi hiện ra với các môn đệ, Đấng Phục sinh đã ban cho các ông Thánh Thần, là Đấng ban sức mạnh. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho các ông, giúp các ông hiểu biết kế hoạch của Chúa Cha. “Như Cha đã sai Thày, Thày cũng sai anh em”, không chỉ được sai đi, các môn đệ còn được Chúa ban quyền tha tội và cầm buộc. Tha tội và cầm buộc là chính sứ mạng của Chúa Giêsu. Từ nay, các ông lên đường, có Chúa ở với các ông. Các ông không còn sợ hãi, vì các ông hoạt động nhân danh Chúa Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết.
Một sự hiện diện toả sáng niềm vui. Sự hiện diện của Đấng phục sinh tác động và ảnh hưởng đến các tông đồ cũng như cộng đoàn tín hữu. Thánh Luca đã kể về một cộng đoàn tín hữu chỉ có một lòng một ý. Mọi người đều chuyên tâm cầu nguyện và chia sẻ bác ái. Kinh nghiệm về Đấng phục sinh đã giúp họ loại bỏ những bất đồng, để sống Đức tin. Trở về với nhân vật Tôma, ông không còn thách thức Chúa nữa, nhưng tâm phục khẩu phục. Lời thưa: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” vừa là lời tuyên xưng Đức tin, vừa là lời sám hối chân thành. Đó cũng là tâm tình yêu mến chân thành mà người môn đệ bày tỏ với Thày mình. Hai môn đệ Emmaus đã vui mừng trở về Giêrusalem ngay trong đêm để kể lại với anh em mình về Đấng phục sinh. Tôma tuyên xưng đức tin với niềm vui và tình yêu mến. Mỗi chúng ta cũng vui mừng vì cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Đấng đã chết và đã sống lại.
Chúng ta cử hành mầu nhiệm Phục sinh với niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa. “Phúc cho những người không thấy mà tin”. Tin là chấp nhận một điều dù con mắt không nhìn thấy. Tin cũng là chấp nhận một chuỗi những điều bị coi như nghịch lý so với quan niệm thông thường. Quả vậy, còn gì “nghịch lý” hơn là một người đã chết rồi sống lại? Còn gì “nghịch lý” hơn một người đã sống cách đây hai ngàn năm, mà hôm nay vẫn đang hiện diện giữa chúng ta? Thiên Chúa quyền năng cũng là Thiên Chúa của những nghịch lý ấy, và Ngài làm cho những nghịch lý trở thành hiện thực.
“Phúc thay những người không thấy mà tin”. Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tn vào Người thì sẽ không phải thất vọng.
Chúa nhật II Phục sinh cũng là Chúa nhật kính Lòng Chúa thương xót. Cuộc đời của Chúa Giêsu, giáo huấn của Người, cuộc khổ nạn thập giá và phục sinh, tất cả đều diễn tả lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại. Nhận ra lòng thương xót của Chúa, chúng ta được mời gọi thực thi lòng thương xót đối với anh chị em đồng loại, để tình thương của Chúa lan toả đến mọi người, mọi môi trường xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô ước mong nơi nào có cộng đoàn tín hữu, nơi đó sẽ trở thành một linh địa của lòng thương xót. Đây cũng là điều đã thực hiện nơi cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giêrusalem mà sách Công vụ đã kể lại.
“Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).
Tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa là điều vô cùng quan trọng, vì thế nên chính Chúa Giêsu PS 2-ABC359
Tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa là điều vô cùng quan trọng, vì thế nên chính Chúa Giêsu đã dạy Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (1905-1938, Dòng Đức Mẹ Thương Xót – O.L.M., Our Lady of Mercy) – và cũng dạy mỗi chúng ta: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài.” Chính Ngài muốn Giáo Hội đặc biệt tôn kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) vào Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh – tức là CN II PS, và Ngài hứa 10 điều quý báu. Trong Nhật Ký, số 699, Thánh Nữ Faustina cho biết:
1. Vào ngày đó, mọi chiều sâu thẳm nhất về Lòng Nhân Từ của Ta sẽ được rộng mở ra.
2. Ta sẽ tuôn đổ ra cả một đại dương về ơn huệ trên tất cả những linh hồn nào tiếp cận với Nguồn Suối Nhân Từ của Ta qua Bí Tích Hòa Giải và Rước Mình Thánh Chúa.
3. Linh hồn nào đi xưng tội trước đó và lãnh nhận Thánh Thể vào ngày lễ này sẽ lãnh nhận được sự tha thứ trọn vẹn của Ta, thoát khỏi mọi án phạt về tất cả các tội đã phạm.
4. Vào ngày lễ này, tất cả mọi cánh cửa về ơn huệ của Thiên Chúa sẽ được mở rộng ra cho tất cả mọi người.
5. Đừng để một tâm hồn nào phải sợ hãi khi đến gần Ta, thậm chí ngay cả khi người đó đầy các tội lỗi tày trời.
6. Lòng Nhân Từ của Ta cao vời đến nỗi không một tâm trí nào của loài người hoặc thiên thần có thể hiểu và đo lường được mãi cho đến muôn đời.
7. Trong mối quan hệ với Ta, mỗi tâm hồn sẽ suy niệm về tình thương và lòng nhân từ của Ta đến muôn đời.
8. Ngày lễ kính Lòng Thương Xót được nổi bật lên từ chiều sâu thẳm Lòng Nhân Từ của Ta.
9. Mong ước của Ta là ngày lễ này được trọng thể cử hành vào Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh.
10. Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi nào biết quay về Nguồn Suối Nhân Từ của Ta.
Quả thật, Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta nên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng ta. Vâng, Ngài yêu thương đến tận cùng, chính cái chết trên Thập Giá là minh chứng hùng hồn về tình yêu thương đó, vấn đề là chúng ta có thành tâm đón nhận và tín thác vào Ngài hay không.
Trong Phúc Âm có nhiều dụ ngôn nói về LCTX, nhưng nhân vật “nổi bật” được nhắc tới là tông đồ Tôma – nickname là “Người Cứng Lòng Tin.” Nhưng đó chỉ là “chuyện nhỏ,” vì chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã thể hiện lòng thương xót trên Can-vê, chính “người trộm lành” Dismas là người đầu tiên được hưởng LCTX ngay chiều hôm đó. Bất cứ ai thật lòng tin vào LCTX, điều kỳ diệu sẽ xảy ra ngay lập tức.
Người ta sống nhờ tin. Điều đó chứng tỏ rằng đức tin quan trọng và cần thiết. Một lần nọ, Chúa Giêsu đã xác định với Mácta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 11:25-26) Chúa Giêsu đã sống lại trước sự kinh ngạc của mọi loài, nhờ sự phục sinh của Ngài mà mọi loài nên mới, tưng bừng vui mừng: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.” (Tv 118:24)
Có lẽ ai trong chúng ta cũng vẫn còn non yếu về đức tin, nhưng có điều chắc chắn hằng ngày chúng ta vẫn được hưởng LCTX. Thánh Vịnh gia nhắc nhở: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở.” (Tv 118:1) Đó là lòng thương xót. Hạnh phúc tiếp tục dâng cao, lan tỏa, chúng ta không thể không tạ ơn.
Kinh Thánh cho biết rằng, sau khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, “cộng đoàn tín hữu đầu tiên đông đảo lắm, nhưng họ chỉ có MỘT LÒNG MỘT Ý, không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, mọi sự đều là của chung.” (Cv 4:32) Sự hiệp nhất thật tuyệt vời, như một thế giới đại đồng. Đó là họ sống theo di ngôn của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13:34; Ga 15:12) Đó cũng chính là sống và thực thi lòng thương xót theo Thánh Ý Chúa. Bất cứ ai cũng đã và đang được Thiên Chúa thương xót, thế thì không thể không thương xót nhau.
Mọi thứ phát xuất từ Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.” (Cv 4:33-35) Có Chúa, sống vì Chúa và vì tha nhân, người ta sẽ thanh thản và bình an. Đó mới là hạnh phúc và tự do đích thực, và được tận hưởng ngay ở đời này.
Tình yêu Thiên Chúa và lòng thương xót của Ngài luôn được đề cập rất nhiều lần trong Kinh Thánh: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:2-4) Đặc biệt là Tv 136, có 26 câu thì câu nào cũng nhắc lại điệp ngữ đó. Bất kỳ ai, từ dân Ítraen tới nhà Aharon, từ người kính sợ Chúa tới tội nhân, cũng đều hân hoan xưng tụng như vậy. Lời xưng tụng đó cũng chính là lời xưng tụng LCTX bao la muôn thuở. Không xưng tụng sao được, bởi vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực,” nhờ vậy mà “tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm,” và dù “Chúa sửa phạt tôi, nhưng không nỡ để tôi phải chết.” (Tv 118:16-18) Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa quá bao la, quá nhân từ, quá diệu kỳ, chúng ta không thể hiểu thấu.
Chắc chắn không ai hiểu hết, bởi vì LCTX vượt quá trí hiểu của phàm nhân: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.” (Tv 103:11) Thật vậy, Thiên Chúa đã tuyên phán qua miệng ngôn sứ Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49:15) LCTX cao vời khôn ví, chúng ta chỉ còn biết cúi đầu tôn kính và cảm tạ. Bức tượng không thể hiểu nổi hoặc đòi hỏi gì ở người tạc tượng. Thụ tạo không thể hiểu nổi Tạo Hóa – Tạo Vật, Ông Trời, Thiên Chúa. Chắc chắn như vậy. Và điều kỳ diệu đã thực sự xảy ra: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” (Tv 118:22-23)
Thánh Gioan, con người của tình yêu, đã lý luận rất lô-gích: “Phàm ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người.” (1 Ga 5:1-2) Yêu thương liên quan niềm tin – và ngược lại. Hai vấn đề không thể tách rời nhau.
Thánh Gioan biện luận: “Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.” (1 Ga 5:3-4) Yêu và Tin như hai đầu của một sợi dây, không thể có đầu này mà không có đầu kia. Nghe rất đơn giản, luật rất “nhẹ” (có nặng nề gì đâu) mà lại không hề đơn giản chút nào. Nguyên nhân cản trở là chính “cái tôi” của chúng ta, nó gây rắc rối đủ kiểu.
Thánh Gioan cho biết về nguồn đức tin: “Ai là kẻ THẮNG được thế gian, nếu không phải là người TIN rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ NƯỚC và MÁU; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” (1 Ga 5:5-6) Nói kiểu nào cũng vẫn liên quan đức tin, có tin thì mới hành động: Sống yêu thương để minh chứng LCTX.
Trình thuật Ga 20:19-31 kể về chuyện “cứng lòng tin” của tông đồ Tôma – Điđymô. Ông là người đa nghi, theo thuyết thực nghiệm. Cái gì cũng phải rạch ròi như 2 với 2 là 4 vậy.
Thánh Gioan cho biết: Tám ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
Không biết ông Tôma bận chuyện gì mà vắng mặt hôm đó, không hiện diện với các tông đồ khác. Khi nghe các bạn nói Thầy sống lại và đã hiện ra với họ, ông nhất định không tin, cương quyết: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin.” Thế thì “bó tay” thôi!
Đá cũng chẳng mồ hôi và cũng mòn vì nước chảy qua. Một tuần sau, các tông đồ lại họp mặt trong nhà, lần này có Tôma. Các cửa vẫn đóng kín, thế mà Đức Giêsu bất ngờ xuất hiện, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Ngài nói ngay với Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Thật ngại quá chừng, chắc là ông Tôma chẳng dám sờ thử đâu. Có lẽ vậy nên ông cúi đầu thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Trong cái may lại có cái xui, trong cái xui vẫn có cái may. Cũng nhờ ông Tôma cứng lòng tin mà chúng ta có thêm một mối phúc: “Không thấy mà tin.” Thật lạ quá chừng!
Và Thánh Gioan kết luận: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20:30-31) Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói với Thánh Faustina: “Trước khi Ta đến như một Thẩm Phán công bình, Ta sẽ mở rộng Cửa của Lòng Thương Xót. Ai từ chối bước qua Cửa của Lòng Thương Xót thì phải bước qua Cửa của Sự Công Bình.” (Nhật Ký, 1146)
Thời Cuối Cùng đang diễn tiến, mỗi người phải tự “liệu hồn” mà sám hối khi còn trong thời gian của Giờ Thưng Xót, vì Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi những con chiên chưa cùng một ràn chiên...
Tình yêu Thiên Chúa vô biên và tuyệt đối, Chúa Giêsu quyết yêu thương chúng ta tới cùng, (Ga 13:1) không chỉ chịu chết để giải thoát chúng ta, mà Ngài còn tìm mọi cách để chúng ta được cứu độ. Thánh Faustina cho biết rằng Chúa Giêsu bảo thánh nữ lần chuỗi Lòng Thương Xót trong chín ngày trước Đại Lễ LCTX, bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần Thánh: “Nhờ tuần cửu nhật này, Ta sẽ ban mọi ân sủng cho các linh hồn.” (Nhật Ký, 796)
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin tái tạo chúng con nên mới theo đúng Thánh Ý Ngài, xin giúp chúng con biết thể hiện lòng thương xót với bất cứ ai, và xin giúp chúng con kiên trì tin yêu đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trong cuốn Nhật Ký Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, thánh nữ Faustina viết rằng, muốn nhận PS 2-ABC360
Trong cuốn Nhật Ký Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, thánh nữ Faustina viết rằng, muốn nhận được LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa, thì bạn và tôi cần phải làm ít nhất ba việc sau đây:
• Một là THỈNH CẦU lòng thương xót. "Các linh hồn nào kêu gọi đến Lòng Thương Xót của Ta- đều làm cho Ta vui thích. Ta sẽ ban cho các linh hồn đó còn nhiều hơn cả điều họ xin (1146).
• Hai là TÍN THÁC vào lòng thương xót. "Khi một linh hồn tiến đến gần Ta với lòng tín thác, Ta đổ tràn đầy ân sủng trên họ đến mức độ họ không tài nào chỉ giữ riêng cho mình, mà phải toả ra cho các linh hồn khác (1074).
• Ba là THỰC HÀNH lòng thương xót. "Con có bổn phận thực hành lòng thương xót đối với những người lân cận của mình, bất cứ lúc nào và ở đâu, không được thoái thác hay tránh né, hoặc chữa mình" (742).
Trong ba việc THỈNH CẦU–TÍN THÁC & THỰC HÀNH LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA, bạn nghĩ thử xem cái nào là cái khó nhất? Theo tôi, THỰC HÀNH lòng thương xót của Chúa là việc khó nhất? Bạn biết tại sao vậy không? Xin thưa là bởi vì trong mỗi người chúng ta, cái tôi, cái ích kỷ và cái tự ái…bao giờ cũng lớn, bao giờ cũng cồng kềnh, và luôn có khuynh hướng lấn át cái lòng thương xót của chúng mình. Tôi xin đơn cử ra đây một vài ví dụ cụ thể, để chứng minh rằng thực hành lòng thương xót là một việc rất nan giải chứ không hề dễ chút nào cả!
• Vừa đi làm về, đang mệt mỏi, bước vào nhà thì nghe mẹ của bạn nói bà muốn đi tham dự thánh lễ, đi sinh hoạt với hội cao niên, đi thăm người này, đi viếng người kia… Lúc đó bạn có vui vẻ lắng nghe, có sẵn sàng đưa bà cụ đi không? Hay là bạn càu nhàu, nhăn nhó, hay tệ hơn nữa, nói những lời làm bà cụ buồn phiền.
• Đang lúc đọc lời truyền phép: “Cùng một thể thức ấy sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, tạ ơn Chúa, dâng lời chúc tụng và trao cho các môn đệ và nói…” thì điện thoại của một người nào đó kêu ầm ĩ theo điệu nhạc: “Ò e Ro-be đánh đu, thằng tây nhảy dù, cowboy bắn súng…” Lúc đó bạn vẫn cầm lòng cầm trí, vẫn cử hành thánh lễ bình thường, hay là bạn nhăn nhó và nhìn về phía người giáo dân đó với cặp mắt mang hình “viên đạn”?
• Tình hình kinh tế xuống dốc, công việc thì ít, mắm muối, gạo thịt, xăng nhớt cứ lên giá vùn vụt… Vậy mà tháng nào nhà thờ cũng xin tiền lần thứ hai cho chỗ này chỗ nọ… Bạn có vui vẻ làm theo lời khuyên của ông Tôbia: “Tùy con có bao nhiêu, hãy cho bấy nhiêu; có nhiều thì cho nhiều, có ít thì đừng ngại cho ít” (4:8). Hay là bạn lầm bầm: “Lại tiền, cứ đến nhà thờ là nghe xin tiền, mai mốt ông đi...chùa cho khoẻ!”
Còn nhiều lắm, mà tôi tin rằng ít nhiều gì thì bạn cũng đã cảm nghiệm được rằng thực hành lòng thương xót không phải là chuyện dễ dàng. Như vậy thì phải làm sao đây? Không lẽ thấy khó rồi chúng mình bỏ cuộc không thực hành lòng thương xót như Chúa Giêsu mong ước hay sao? No way! Bạn và tôi phải nỗ lực cố gắng, và kiếm cách để thực hành lòng thương xót, để rồi mình mới được Thiên Chúa xót thương.
Để có thể thực hành “lòng thương xót đối với những người lân cận của mình, bất cứ lúc nào và ở đâu, không được thoái thác hay tránh né, hoặc chữa mình” (Nhật Ký #742) bạn và tôi hãy nhớ “Khi tôi thực hành lòng thương xót với người khác, là khi đó tôi và bạn đang thương xót chính bản thân mình và đang làm LỢI cho chính mình nữa.” Lợi ở chỗ nào hả? Có đấy!
• Lợi ở đời này. Bởi vì Chúa Giê-su đã khẳng định:“Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mc 4:24). Khi bạn và tôi lâm cảnh khốn khó và nghèo túng…lúc đó, tha nhân và chính Chúa sẽ tỏ lòng thương xót chúng mình y như chúng mình đã có lòng thương xót tha nhân vậy. Bây giờ mà mình không thực hành lòng thương xót đối với tha nhân, thì mai mốt này sẽ không có ai thương xót mình cả, đó là một sự thật rõ ràng như 2+2=4 vậy!
• Lợi ở đời sau. Khi còn sống ở đời này mà chúng mình biết thương xót người ta, thì khi ra trước tòa phán xét, bạn và tôi chắc chắn sẽ được Thiên Chúa xót thương, tha thứ và sẽ được Ngài ban thưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Bởi vì Chúa Giê-su đã phán: “Phúc thay ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”(Mt 5:7).
Thực hành lòng thương xót đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với bà con láng giềng, với bạn bè, với các linh mục, với các tu sĩ, với các dòng tu, với những anh chị em mình chưa hề biết mặt, chưa hề gặp gỡ…thương xót họ bằng những hành động cụ thể là một cái PHÚC cho mình, cho gia đình, cho con cái cháu chắt của mình nữa, bạn có tin không?
Nếu bạn tin thương xót người khác là có PHÚC thì xin bạn đừng ngần ngại hay so đo tính toán nữa, JUST DO IT! Còn nếu bạn không tin đó là cái PHÚC, thì Chúa cũng xin chào… thua chứ đừng nói đến tôi!
Cầu chúc bạn một mùa Phục Sinh tràn đầy ơn Chúa, mạnh khỏe và bình an.
Trong trình thuật kể lại hai lần hiện ra của Chúa Giê-su hôm nay, việc đầu tiên Người làm là PS 2-ABC361
Trong trình thuật kể lại hai lần hiện ra của Chúa Giê-su hôm nay, việc đầu tiên Người làm là chúc bình an cho các môn đệ. Thật ra, đây không phải là lời cầu chúc của Chúa Giê-su mà thôi, nhưng đó là hồng ân của Chúa Phục Sinh dành cho các môn đệ.
Không ai hiểu trò bằng thầy. Đức Giê-su thấu hiểu lòng trí hoang mang và các nỗi sợ hãi của các môn đệ. Họ cần được bình an để thoát khỏi nỗi âu lo này. Bởi vì, một khi tâm hồn có được bình an, lòng trí được thanh khiết thì họ mới có thể nhận ra người đang hiện diện trước mặt các ông là Chúa Giê-su, người thầy yêu dấu của họ.
Sau đó Chúa cho họ thấy tay và cạnh sườn của Người. Đây là một điều thật đặc biệt, Chúa muốn cho các ông nhận ra rằng thân xác của Chúa Phục Sinh và con người đã trải qua khổ nạn, chết trên Thập Giá là một người. Khi thấy những chứng tích đó, các môn đệ đã vui mừng và tin rằng người đang ở trước mặt họ là Đức Giê-su, vị Thầy đáng kính của họ. Sau đó, Chúa Giêsu một lần nữa lại ban bình an và Thánh Thần cho các ông để các ông ra đi hoàn thành sứ mạng mà chính Người vừa hoàn tất.
Trong lần hiện ra lần thứ nhất này không có mặt Tô-ma. Các môn đệ khác đã kể lại cho ông biết về việc này: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Nhưng Tô-ma đã không tin vào lời loan báo của các bạn mình.
Thật ra, các bạn của ông cũng chẳng làm chứng được gì. Họ vẫn đóng kín vì sợ người Do Thái. Cho dù Thần khí đã đuợc trao ban, nhưng các bạn của Tô-ma đã không để cho sức mạnh của Thần Khí tác động, họ vẫn chưa ra khỏi vùng an toàn, vẫn dựa vào các cánh cửa đã đuợc đóng kín để bảo vệ, chưa sẵn sàng ra đi rồi vịn cớ là không biết đi đâu! Lời loan báo của họ không đi đôi với việc làm như thế thì làm sao có thể truyền lửa cho Tô-ma đuợc.
Còn Tô-ma, ông muốn niềm tin của ông phải dựa trên trải nghiệm của cá nhân. Ông muốn chạm vào thân thể của Chúa, nên đáp rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”
Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra với các ông, lần này có mặt Tô-ma. Trước tiên, Người cũng ban bình an cho các môn đệ rồi quay sang Tô-ma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Tô-ma đã đáp trả bằng một niềm xác tín thật cao độ rằng Người là CHÚA và là THIÊN CHÚA của ông.
Sau đó qua Tô-ma, Chúa đã thể hiện tình thương của Người dành cho chúng ta bằng cách trao ban cho chúng ta thêm mối phúc nữa là “Phúc thay những người không thấy mà tin.”
Trước khi xem xét cách biểu lộ niềm tin của Tô-ma, chúng ta cũng nên nhìn nhận rằng ông không phải là trung tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Trình thuật diễn tả cách thức Chúa hiện ra thì Chúa phải là trọng tâm. Khi nhìn như thế, chúng ta mới khám phá ra lòng đại lượng phát sinh từ tình yêu của Chúa. Chúng ta vẫn thường đuợc dậy bảo niềm tin vào Chúa phải là một niềm tin vô điều kiện, phó thác hoàn toàn theo Chúa. Nhưng hôm nay, Chúa hành xử với Tô-ma quả thật khác hẳn với lối suy nghĩ cầu toàn của chúng ta. Chúa chấp nhận điều kiện mà Tô-ma đưa ra. Cho dù đã đuợc tôn vinh, nhưng Chúa vẫn không che dấu các thương tích. Đó chính là chứng tích của Tình yêu thì làm sao phải che dấu! Các vết thương đó cần đuợc bộc lộ hơn là che dấu.
Tô-ma cũng có nỗi đau của riêng mình. Ông cũng là nguời đang mang thương tích. Chúa Giê-su, Thầy đáng kính của ông đã chết. Cái chết của Người để lại trong ông một tâm trạng buồn rầu và mất mát. Biết trông cậy và nương tựa vào ai nữa đây! Ông đi trốn, cần có một không gian và nơi ẩn nấp để đối diện với niềm đau này. Vì thế ông đã hụt mất một cơ hội khi Chúa hiện ra lần trước.
Các bạn của ông cũng thế, họ cũng có niềm đau rồi sinh ra chán nản và thất vọng. Nhưng họ đã chọn cách đối diện với bi kịch mà họ đang đón nhận bằng cách liên đới, chia sẻ, an ủi và hỗ trợ nhau.
Nói chung là chỉ có ai đã kinh qua đau khổ mới thông cảm cho những người đồng cảnh ngộ. Chúa đã bị thương tích và Người cũng nhìn thấy các nỗi đau khổ mà Tô-ma đang đối diện; vì thế Người cũng muốn cho ông biết là Người rất thông cảm với yêu cầu của ông.
Qua sự tiếp xúc, Thầy trò gặp và nhận ra nhau. Chúa chữa lành thuơng tích cho Tô-ma. Còn ông nhận ra Thầy mình là Chúa và là Thiên Chúa của ông. Ông đầu phục hoàn toàn trước quyền năng của Thầy mình, Đấng mới bị giết và treo trên Thánh Giá mấy ngày qua. Còn chúng ta thì sao?
Anh chị em thân mến,
Phần chúng ta hãy nhớ rằng: Chúa Phục Sinh không xoá đi dấu vết của thập giá. Vết thương vẫn là vết thương. Thập giá vẫn còn đó nhưng nay mang một giá trị mới. Thập giá, án phạt dành cho tội nhân nay đã biến thành Thánh Giá, nguồn ơn cứu độ cho các kẻ tin. Đó không còn là án phạt mà là hồng ân. Vì thế, cho dù hiện nay thế giới của chúng ta vẫn chứa đầy những vết thương, cụ thể là các vết thương gây ra bởi đại dịch Covid-19. Virus Corona đã giết đi bao nhiêu sinh mạng, khiến cho thân nhân của họ bị tan nát cõi lòng; chưa kể đến niềm đau thương còn kéo dài trên cuộc sống của những người thất nghiệp, các trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, v.v…
Trước hiện tình của thế giới đầy thương tích như thế, làm sao người tín hữu có thể nhắm mắt, làm ngơ trước những vết thương của tha nhân rồi tuyên xưng, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Cho dù, họ có nói trăm lần, vạn lần thì lời tuyên xưng đó cũng chỉ là tuyên xưng bằng môi miệng. Con người cần chạm vào những vết thương của nhau, và đó là việc làm cần thiết cho một đức tin đúng theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay.
Như vậy, khi đối diện với các thương tích gây ra bởi Covid-19, chúng ta tuy còn hoang mang và lo sợ; nhưng nỗi niềm lo sợ đó không làm cho chúng ta quên đi ân huệ bình an mà Chúa dành cho những ai tin cậy ở nơi Người. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần hãnh diện về niềm tín thác: đó là tuy sống giữa tâm bão của hoang mang và lo sợ, nhưng không ai trong chúng ta được phép đánh mất niềm hy vọng vì ‘bình an của Chúa ‘ vẫn đang ở cùng chúng ta.
Bình an là sứ mạng mà Đức Ki-tô Phục Sinh đã đem đến. Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh đã trao ban. Ngay trong lúc này, chúng ta hãy ra đi mà an ủi và tạo cho nhau niềm hy vọng vào Chúa Phục Sinh, Đấng vẫn đồng hành và ban cho muôn dân muôn nước ơn bình an để vượt qua kiếp nạn đại dịch vẫn đang đe dọa cuộc sống của chúng ta.
Sau cùng, Đức Giê-su với các dấu đinh và các vết thương còn trên thân xác, đã chết thật. Nay Người đã sống lại thật rồi anh chị em ơi! Và bình an của Chúa Phục Sinh luôn mãi ở cùng chúng ta. Alleluia, Alleluia!
Đền Thánh Lòng Thương Xót Chúa tại Quận Lagiewniki, miền đất được Thánh Gioan Phaolô II gọi PS 2-ABC362
Đền Thánh Lòng Thương Xót Chúa tại Quận Lagiewniki, miền đất được Thánh Gioan Phaolô II gọi là “Thủ Đô Lòng Thương Xót”. Ðền Thánh được xây trên vùng đất trước đây là Tu Viện Dòng Ðức Mẹ Nhân Lành. Tại trung tâm của đền thánh có một nhà nguyện, lưu giữ bức tranh nguyên thủy về lòng thương xót của Chúa Giêsu, thi hài thánh Faustina được chôn cất trong nguyện đường của Hội Dòng. Các công trình này được xây dựng từ năm 1999-2002 và được Thánh Gioan Phaolô II thánh hiến ngày 17.8.2002. Bề ngoài của đền thánh giống một con tàu, với tháp chuông cao 77m. Nơi đây có thể đón tiếp cùng lúc khoảng 5.000 người. Ở đây còn có Tu Viện Đức Mẹ Nhân Lành và Trung tâm Gioan Phaolô II, lưu dấu nhiều chứng tích của thánh nhân. Năm 2016, dịp Đại hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Ba lan, chúng tôi đã đi hành hương đến nơi này.
Vào ngày 13.3.2015, tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố mở một “Năm Thánh đặc biệt” được gọi là “Năm Thánh Lòng Chúa Thương xót”. Thông điệp “Dives in Misericordia” của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là động lực thúc đẩy Đức Phanxicô khai mở Năm Thánh này.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị Thánh của Lòng Chúa Thương Xót, chính là nguồn gợi hứng cho Năm Thánh Lòng Thương Xót, nguồn gợi hứng này được nảy sinh từ thị kiến của thánh nữ Maria Faustina Kowalska, nữ tu dòng Đức Mẹ Nhân Lành, vị tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót, người được Chúa Giêsu tỏ mình và sai đi loan báo cho thế giới biết về Lòng Chúa Thương Xót: “Hỡi tông đồ Lòng Thương Xót của Thầy, con hãy công bố cho toàn thế giới về Lòng Thương Xót khôn dò của Ta. Đừng chán ngại trước những khó khăn con phải đương đầu khi rao truyền tình thương của Ta. Những khó khăn này tuy làm con đau khổ, nhưng hết sức cần thiết cho việc nên thánh của con và là bằng chứng cho thấy công cuộc này là của Ta. Ái nữ của Thầy ơi, con hãy tỉ mỉ ghi lại từng câu Ta dạy cho con về lòng nhân lành của Ta, bởi vì nhờ đó rất nhiều linh hồn sẽ được hưởng nhờ lợi ích” (Trích trong cuốn Nhật Ký của Thánh nữ Maria Faustina Kowalska, số 1142, nguồn: giesu.net/tieu-su-thanh-nu-faustina-kowalska).
Thánh Nữ Faustina được mọi người khắp thế giới biết đến với tước hiệu “Tông Đồ và là Sứ Giả của Lòng Thương Xót Chúa”, một vị thánh được các nhà thần học kể vào số những nhà thần bí trổi vượt trong Giáo hội. Ngài được nhìn thấy Chúa Giêsu với 2 luồng ánh sáng chiếu giải từ Trái Tim Chúa.
1. Tuổi thơ.
Faustina chào đời ngày 25 tháng 8 năm 1905 tại Glogowiec, Ba Lan, và được đặt tên là Helen Kowalska. Thánh nữ là con thứ ba trong một gia đình nông dân nghèo khổ có 10 người con, 2 trai 8 gái. Faustina lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy ngày 27 tháng 8 năm 1905, tại nhà thờ giáo xứ Swinice, Warckie, và được đặt tên là Helen. Ngay từ khi còn nhỏ, Helen đã nổi bật về đời sống yêu thích cầu nguyện, làm việc chăm chỉ, vâng lời, và hết lòng thương cảm trước nỗi khổ đau của tha nhân.
Năm lên 7 tuổi, lần đầu tiên Helen được cảm nhận về ơn gọi sống đời sống tu trì, sống đời thánh hiến và gắng đạt đến sự trọn lành. Năm lên 9 tuổi, Helen được xưng tội và rước lễ lần đầu. Thánh nữ Faustina rất có lòng sùng kính bí tích Thánh Thể, đến nỗi hầu như mọi trang nhật ký của chị đều có nhắc đến bí tích này. Ngày 30 tháng 10 năm 1921, Helen đã được Đức Cha Vincent Tymieniecki của giáo phận Aleksandrow – Lodz ban bí tích Thêm Sức. Trong thời gian này, Helen đang sống xa nhà và giúp việc cho một gia đình khác.
Khi đã 12 tuổi, Helen mới cắp sách đến trường tại Suinice Warckie. Helen không thể đi học sớm hơn vì nhà trường bị đóng cửa trong thời kỳ quân Nga chiếm đóng Ba Lan. Đến năm 14 tuổi, Helen đã rời gia đình để đi làm như một người giúp việc tại Aleksandrow và tại Lodz, với mục đích tự lập và giúp đỡ gia đình.
2. Nữ Tu
Năm 18 tuổi, Helen mới ngỏ ý với mẹ về ước muốn vào tu trong một tu viện. Cha mẹ dứt khoát không đồng ý. Helen đã muốn bóp nghẹt lời mời gọi trong tâm hồn. quá xao xuyến vì một thị kiến về Chúa Giêsu tử nạn và những lời trách cứ của Ngài: “Cha còn phải chịu đựng con cho đến bao giờ, con còn phụ rẫy Cha cho đến bao giờ nữa đây?” (NK 9). Helen đã xin vào dòng tu. Chị đã gõ cửa không ít Tu viện nhưng không được nơi nào đón nhận. Cuối cùng ngày 1 tháng 8 năm 1925, Helen đã được bước qua ngưỡng cửa của Dòng Đức Mẹ Nhân Lành ở phố Zytnia tai Warsaw.Helen cảm thấy tràn ngập hạnh phúc. Dường như chị đã bước vào cuộc sống thiên đàng. Một lời kinh chợt phát ra từ tâm hồn chị, một lời kinh tạ ơn. Vào dòng, Helen nhận tên mới là Maria Faustina.
Vào năm 1933, nữ tu Faustina đã được tuyên khấn trọn đời. Chị sống trong hội dòng Các Nữ Tu Đức Mẹ Nhân Lành được mười ba năm, đảm nhận các công tác như làm bếp, coi vườn, giữ cổng tại nhiều trụ sở của dòng tại Plock, Vilnius, và Krakow. Trong tất cả các nơi ấy, chị thánh đã trung thành với những tục lệ của cộng đoàn và tận tâm chu toàn các việc phận sự.
Bề ngoài, không có gì cho thấy cuộc sống phong phú nơi nội tâm chị thánh. Chị sốt sắng chu toàn các công tác và trung thành giữ trọn luật dòng. Chị thánh có một cuộc sống tịnh hiệp cao độ, nhưng rất tự nhiên, thanh thản, và có một đức ái vô điều kiện với người chung quanh. Mặc dù bên ngoài, đời sống chị thánh xem ra vô nghĩa và đơn điệu, nhưng bên trong là một sự kết hiệp ngoại thường với Thiên Chúa. Từ khi còn nhỏ, chị đã ước ao trở nên một vị đại thánh, và với lòng kiên định, chị đã hoàn thành hoài bão này đến mức hiến dâng chính cuộc sống cho các tội nhân.
Những năm sống trong dòng, thánh nữ Faustina tràn đầy những ân huệ ngoại thường: hưởng những lần thị kiến, các dấu thánh kín ẩn, chia sẻ cuộc thương khó của Chúa, hiện diện hai nơi cùng một lúc, đọc được tâm hồn người khác, nói tiên tri, và được đặc ân cao quí là kết ước nhiệm hôn cùng Chúa.
Mối tương giao sống động giữa chị thánh với Thiên Chúa, Đức Mẹ, các thiên thần, các vị thánh, các linh hồn luyện ngục – toàn bộ thế giới vô hình – cũng thực tế như thế giới hữu hình mà chị thánh cảm nhận được qua các giác quan.
3. Sứ Giả
Đời sống đạo đức của thánh nữ Faustina chủ yếu tập trung vào việc sùng kính Lòng Thương Xót Chúa. Rõ ràng, nhờ hội dòng đặc biệt của mình, chị thánh đã chuẩn bị đầy đủ cho các công việc sứ mạng. Ngoài nếp sống của dòng, chị thánh còn có một lòng sùng kính ngoại thường với Thánh Tâm Chúa Giêsu và Thánh Thể.
Chúa đã ủy thác cho chị nữ tu hèn mọn nhưng mạnh mẽ, khiêm nhượng, và tín thác cao độ của Người một sứ mạng đặc biệt: “Hiện nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến cho toàn thế giới, Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim lân tuất của Cha” (NK 1588).
Chúa đã biến đổi Faustina thành nên người Tông Đồ của Lòng Thương Xót. Thánh nhân là chứng nhân sống động của Chúa, công bố Lòng Thương Xót của Chúa bằng ngôn từ và hành động, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu trong việc cộng tác cứu độ các linh hồn.
Chúa đã chuẩn bị chị thánh Faustina cho sứ mạng này một cách tiệm tiến. Bước quan trọng để thực hiện sứ mạng này là việc vẽ bức hình Chúa Thương Xót – theo như mẫu Người đã hiện ra tại Plock. Qua bức hình này, ý nghĩa của sứ mạng ấy trở nên rõ rệt và có nền tảng vững vàng hơn.
Nếp sống khổ hạnh và những lần chay tịnh đến kiệt sức đã làm yếu nhược thể trạng của chị. Gần cuối năm đầu của thời kỳ nhà tập, chị còn phải trải qua những kinh nghiệm thần bí đớn đau lạ thường của giai đoạn đêm tối giác quan và sau đó là các khổ đau tinh thần và luân lý liên quan đến sức mạng mà chị nhận lãnh từ Chúa Kitô. Faustina đã hy hiến cuộc đời cho các tội nhân, vì thế chị đã chịu đựng những đau khổ tư bề để trợ giúp các linh hồn. Trong nhũng năm tháng cuối đời của chị thánh, các đau khổ nội tâm của đêm thụ động linh hồn và những bệnh nặng phần xác càng trở nên dữ dội hơn. Tuy kiệt quệ thể lý, nhưng Faustina đã đến mức trưởng thành sung mãn trong đời sống thiêng liêng. Sau 13 năm sống đời tu, ngài đã từ trần vào ngày 5 tháng 10 năm 1938, khi mới 33 tuổi đời. Thi hài của ngài an nghỉ tại ngôi mộ chung trong nghĩa trang Tu viện. Năm 1966, trong khi tiến hành các thủ tục điều tra án phong Chân phước, thi hài của ngài được cải táng vào Nhà nguyện của Tu Viện.
Mặc dù chỉ có một học vấn rất giới hạn, nhưng người nữ tu hèn mọn này được giáo dục trong trường học của Thấy Chí Thánh. Chị đã để lại một cuốn nhật ký (đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), khơi lên một nguồn hoan lạc và là trường dạy về đời sống thánh cho hàng ngàn tín hữu nam nữ. Từ quyển Nhật Ký này, người đọc có thể tìm thấy những con đường đưa họ đến với Chúa và học biết để sống tín thác và nhân ái.
Chúa Giêsu đã ủy thác cho chị nữ tu đơn sơ, ít học nhưng can trường và tín thác vô hạn này một sứ mạng cao cả là rao truyền sứ điệp lòng Thương Xót Chúa cho thế giới. Chúa phán với ngài: “Cha sai con đem tình thương của Cha đến cho toàn thế giới. Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim Thương Xót của Cha” (NK 1588); “Con là thư ký của Lòng Thương Xót Cha. Cha đã tuyển dụng con làm nhiệm vụ ấy ở đời này và đời sau” (NK 1605)…”Nhiệm vụ và công tác suốt đời con là tiếp tục làm cho các linh hồn được biết về Lòng Thương Xót lớn lao của Cha dành cho họ và kêu gọi họ tín thác vào Lòng Thương Xót vô hạn của Cha” (NK 1567).
Vào ngày 18 tháng 4 năm 1993, tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, Đức Gioan Phaolô II đã tôn phong nữ tu Faustina Kowalska lên hàng chân phước.
Sáu năm sau, vào ngày 11 tháng 4 năm 1999, nhân dịp năm dâng kính Chúa Cha, Đức Gioan Phaolô II đã chúc mừng 50.000 tín hữu từ khắp thế giới tụ về quảng trường thành Phêrô tại Rôma, để cử hành lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Đó là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa được cử hành lần đầu tiên tại quảng trường thánh Phêrô.
Ngày 30 tháng 4 năm 2000, Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong nữ tu Maria Faustina lên bậc hiển thánh. Chị là đấng thánh đầu tiên của năm thánh Cứu Độ. Trong một lời công bố đầy ngạc nhiên, Đức Thánh Cha đã ấn định Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa trong toàn Giáo Hội hoàn vũ.
Tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa có nguồn cội từ lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Từ thời thánh Gioan Tông đồ, người môn đệ cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa cách đặc biệt qua cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá. Với cảm nghiệm này, ngài đã mượn lời Kinh thánh để nói tiên tri về việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa trong đời sống thiêng liêng của Dân Chúa: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37), nghĩa là ngước nhìn “về Trái Tim Chúa Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu, từ đó máu và nước chảy ra (x. Ga 19,34), dấu chỉ của ‘bí tích tuyệt vời cho toàn thể Giáo Hội’ ” ... Ngoài ra, đoạn Tin Mừng Gioan tường thuật về biến cố Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ và chỉ cho các ông thấy bàn tay và cạnh sườn của Người (x. Ga 20,20) cũng tạo ra ảnh hưởng rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu trong cộng đoàn Dân Chúa. (x.Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on popular piety and the Liturgy principles and guidelines, ban hành ngày 17-12-2001, số 167, bản dịch Việt ngữ của Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2003).
Năm 1673, Chúa Giêsu hiện ra với thánh nữ Margarita Maria Alacoque (1647–1690) tại Tu viện Thăm Viếng ở Parayle Monial và trao cho chị việc truyền bá lòng tôn sùng Trái Tim Người: “Trái Tim đã yêu dấu loài người quá bội”. Tôn Sùng Thánh Tâm Chúa là mời kêu gọi tha thiết, dịu dàng qua việc cầu khẩn “Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Nhưng dần dần con người đã sao nhãng.
Nối tiếp, Chúa Giêsu lại trao cho thánh Maria Faustina về Lòng Chúa Thương Xót: “Con chuẩn bị cho thế giới về lần đến cuối cùng của Ta… Hãy làm cho cả nhân loại nhận biết Lòng Thương Xót sâu thẳm khôn dò của Ta. Đó là dấu hiệu của thời cuối cùng, sau đó sẽ là ngày công lý”.
Niềm tin đem lại nhiều hy vọng. Lòng Thương Xót Chúa vượt thắng tất cả. Hãy tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa.
Một linh mục bạn chia sẻ: Một nam sinh viên có ý đi tu, đang trọ trong lưu xá của một dòng tu PS 2-ABC363
Một linh mục bạn chia sẻ: Một nam sinh viên có ý đi tu, đang trọ trong lưu xá của một dòng tu gởi thư và nêu thắc mắc bao gồm nỗi khổ rất lớn, liên quan nhiều đến lý tưởng ơn gọi của bản thân anh. Anh hỏi rằng:
“Thưa Cha, hiện nay con đang hoang mang lo lắng cho ơn gọi của con không được bền đỗ. Con luôn bất an vì linh cảm rằng, rất có thể mình sẽ rời bỏ nhà dòng trong một thời gian không xa.
Bởi từ khi ba con qua đời, nhà nội con không bằng lòng để con đi tu. Mọi người bên nội chống đối ơn gọi của con ra mặt dữ dội, không cần che đậy gì. Con lo sợ lắm, vì nội con nói rằng, nếu đi tu thì từ nay đừng nhìn mặt nội nữa. Nặng hơn, nội không cho để tang khi nội qua đời.
Có hai lý do để nội cấm con vào nhà dòng, thứ nhất, đó là vì con là đứa cháu trai duy nhất của nội. Nhưng lý do thứ hai mới là điều quan trọng. Tuy vậy, đối với con chẳng đáng là gì, nhưng đối với nội, đó là một chuyện quá lớn. Nội bảo, ngày xưa nội rất tin các linh mục, nhưng từ khi cha sở của nội có một vấn đề gì đó, mà nội cho rằng cha sở xúc phạm Mình Thánh Chúa và xúc phạm giáo dân, cho nên nội không còn tin bất cứ một nhà tu nào.
Con xin thú thật, nhiều lúc con thấy bên nội cố chấp quá đáng, nhưng phận làm con cháu, con không thể nói gì hơn, chỉ còn cách trình bày suy nghĩ của mình, nhưng chẳng ai nghe. Con hiểu rằng, lỗi lầm của một ai đó, dù là giáo hoàng đi nữa, cũng đâu phải là cớ đánh mất ơn gọi của mình phải không cha? Nếu nghĩ như nội của con, chắc Giáo Hội sẽ không còn ai đi tu. Từ đó, chắc đến một ngày sẽ không còn Giáo Hội? Nhưng Giáo Hội làm sao mà mất được. Vì bên cạnh nhiều người sống chưa tốt, vẫn có rất nhiều người khác đã nên thánh và vẫn tiếp tục nên thánh trong ơn gọi của mình. Thưa cha, con hiểu rằng, một bên vẫn còn nhiều gương mù, nhưng bên kia vẫn có đó rất nhiều tấm gương sáng. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ để con thấy rằng, sự ham thích đi tu của mình là niềm ao ước quý giá. Nhưng con buồn vì gia đình bên nội của con không thể hiểu được điều đó.
Chỉ có mỗi mình mẹ con vẫn âm thầm chiều ý con, và chấp nhận để cho đứa con trai duy nhất của bà đi tu. Bản thân con thì không sao, vì đi học xa nhà, sống tạm trú tại lưu xá của nhà dòng, nơi con muốn nhập tu. Chỉ có mẹ con là phải chịu đựng mọi nỗi khổ, mọi lời trách móc, thậm chí có lúc nội không dằn lòng được, đã nói những lời lẽ rất khó nghe, nghe rất xót xa, đau đớn, do mẹ con không đứng về phía nhà nội.
Thương mẹ, không muốn để mẹ phải chịu đựng vì mình, đã có lần con nói dối với nội rằng, con đã thay đổi ý định, không muốn đi tu nữa. Chính lúc ấy, nội con có vẻ vui nhưng mẹ con lại đau khổ hơn. Mẹ đã gọi con lại và mắng con như được dịp trút tất cả nỗi đau của bà. Chỉ khi con cho mẹ con biết rằng, con đã nói dối nội, mẹ con mới yên tâm. Nhưng ngay sau đó, con lại giật mình vì biết, mình vừa lừa dối mẹ. Vì thực tế, đã không ít lần, con muốn bỏ ý định đi tu.
Thưa cha, trong suy nghĩ của con bây giờ nhiều mâu thuẫn quá, lòng con hoang mang quá. Con không biết mình chọn lý tưởng tu trì là đúng hay sai? Con cảm thấy thánh giá Chúa gởi cho con lớn quá. Ba mất, con đã mất đi một điểm tựa. Giờ chỉ còn lại mẹ. Mẹ lại phải gánh nặng vì con mình chọn đường tu.
Giờ con rối lắm, không tìm thấy lối thoát. Có những khi con ngồi bên Thánh Thể suốt ngày, mong tìm sự bình an, nhưng rồi trở về với cuộc sống, con lại mất hy vọng. Thưa cha, con phải làm gì bây giờ. Nhiều lúc chính con cũng không thể hiểu nổi mình nữa. Con đã cau có, nặng lời không ít với nhiều người. Dù không dám ghét nội, nhưng con thầm trách nội không ít. Không những thế, nhiều lúc con còn nặng lời một cách thầm kín với vị linh mục đã để lại ác cảm trong lòng nội con. Con có tội không, khi tự mình nổi loạn như thế? Con phải làm sao để có bình an?”
Và trong lá thư hồi âm cho người thanh niên, vị linh mục viết:
“Tôi hiểu bạn lắm. Nỗi khổ tâm của bạn quả là một vấn nạn lớn không dễ gì có thể giải quyết ngay, cũng không dễ gì một mình bạn lại có thể đảm nhận trách nhiệm giải quyết nó. Và nếu tôi có trả lời cho bạn, thì một vài con chữ trên một lá thư như thế này, cũng sẽ không đi tới đâu. Nó không thể giúp bạn giải tỏa những gì mà bạn phải mang, phải gánh, càng không thể giúp người thân của bạn đứng về phía bạn. Vì mọi quyết định cho chính đời sống của mình, tùy thuộc và trở nên quan trọng bởi chính mình, người khác, nếu có, chỉ là một đóng góp rất nhỏ bé mà thôi. Về phần tôi, chỉ có mấy điều tôi có thể làm được cho bạn đó là:
1. Xin cho tôi được đồng cảm bằng một sự cảm thông, chia sớt sâu xa nỗi buồn của bạn. Ước mong với sự thông cảm này, bạn có thêm một người hiểu mình, để bạn hiểu rằng bạn không cô đơn. Chính vì thế, cũng giống như người mẹ kính yêu của bạn, tôi ủng hộ bạn đến cùng trong quyết định dấn thân cho ơn gọi tu trì. Vì đó là một ước muốn tốt; một lý tưởng đẹp; một con đường mà mỗi cá nhân đều có quyền và hết sức tự do quyết định theo hay không theo; một chuẩn bị cho tương lai bằng tất cả sự chọn lựa của cá nhân chứ không phải ai khác có thể chọn lựa thay thế; một hướng sống mà sau khi đã chọn lựa rồi, chính bản thân là người trực tiếp sống cho chọn lựa ấy chứ không phải một người thứ hai nào có thể “nhảy vào” để có thể sống “giùm” mình, sống “giúp” mình, sống “thay cho” mình.
2. Bạn thân mến, chọn lựa có khi là cả một thái độ can đảm, đòi hỏi sự cứng rắn, dứt khoát. Chọn lựa là đón nhận nhưng cũng là hy sinh. Đón nhận điều mình chọn lựa và hy sinh để sự chọn lựa thành toàn. Đã gọi là hy sinh chắc chắn không bao giờ là điều dễ dãi. Ngược lại hy sinh nào cũng đòi phải chết đi, phải chấp nhận thương tích, chấp nhận đớn đau, có lúc ê chề, có lúc nặng nề tưởng như khó có thể mang vác nổi. Tắt một lời: mãi mãi chọn lựa cần chiến đấu. Chiến đấu để vươn lên cho chọn lựa thành toàn.
3. Trong thư có chỗ bạn viết rằng: “Có những khi con ngồi bên Thánh Thể suốt ngày.” Đúng lắm! Bạn đã làm một điều đúng trên tất cả mọi điều đúng. Hãy tiếp tục làm như thế. Vì ơn gọi theo Chúa, chứ không phải theo một ai khác, phải được chính Chúa quyết định cho theo hay không cho theo. Đàng khác, theo ai phải bộc lộ, phải tỏ tình với người mình theo để chiếm lấy họ. Theo Chúa mà không bày tỏ lòng mình, không lo chiếm lấy Chúa thì làm sao có thể theo. Vì thế, cầu nguyện là điều kiện trước nhất và trên hết cho bất cứ ai dấn thân cho ơn gọi tu trì. Không thể hiểu được nếu ai đó nói rằng mình muốn đi tu mà lại lãng tránh sự cầu nguyện.
Bạn đừng lo mỗi khi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể “mong tìm sự bình an, nhưng rồi trở về với cuộc sống, con lại mất hy vọng” rồi chán nản bỏ cuộc. Đừng bỏ cuộc dẫu mất hy vọng đến ngàn lần. Càng mất hy vọng và chới với bao nhiêu, càng phải cầu nguyện nhiều bấy nhiêu. Vì chính sự cầu nguyện đã là sức mạnh, là niềm an ủi, là trợ lực giúp ta có khả năng chấp nhận mình, chấp nhận hoàn cảnh, chấp nhận anh chị em quanh mình. Ngay chính sự cầu nguyện đã là biểu hiện của đức tin, càng cho ta thêm lòng tin, thêm niềm yêu mến.
Mặt khác, nếu những khi không còn ai có thể hiểu mình, không còn biết thổ lộ cùng ai, không còn có sức mạnh nào để mình nương tựa, mà lại bỏ luôn cả sự cầu nguyện, nghĩa là bỏ luôn nguồn an ủi cuối cùng, sẽ cô đơn, sẽ đau thương, sẽ mất mát, sẽ càng quay quắt trong chính nội tâm đau khổ không lối thoát của mình… Đó là nguy hiểm lớn bạn ạ. Không còn có nguy hiểm nào bằng khi lòng người chỉ còn mỗi một mình đối diện với thương đau của chính mình. Nó có thể cướp mất đức tin của ta. Có người đã đầu hàng số phận đến nổi tự tìm đến cái chết, coi như đó là cách giải quyết cuối cùng cho một kiếp người bi ai. Có thể người chọn đường tu trì không đi theo cách giải quyết cuối cùng ấy, nhưng tự để mình cô đơn với chính nỗi đau của mình, vẫn là một nguy hiểm khó có thể nói trước điều gì. Vì thế, ngoài sự cầu nguyện, bạn cũng có thể chọn một vị linh hướng đáng tin cậy để vị ấy giúp bạn làm sáng vấn đề. Vị linh hướng cũng sẽ là người cầu nguyện cho bạn, đồng hành với bạn như một người bạn đáng tin cậy.
Quan trọng hơn, khi cầu nguyện, bạn đừng đòi Chúa phải “làm phép lạ” y như mình là chúa của Chúa, Chúa phải nghe mình, phải chiều theo ý muốn của mình lập tức vậy. Không! Bạn đừng hiểu sự cầu nguyện một cách lệch lạc như thế. Đúng hơn, cầu nguyện là tìm thánh ý Chúa để vâng theo, là tìm sức mạnh trong ơn Chúa, nhờ đó giúp mình can đảm chấp nhận thực tại mà mình đang đối diện.
4. Điều cuối cùng, tôi muốn mời gọi bạn, đó là hãy mở Thánh Kinh ra và suy niệm mỗi ngày, những tấm gương kiên trung của đức tin nơi những con người dám đặt đời mình trong tay Thiên Chúa. Chẳng hạn: ông Abraham, ông Môisen, ông Gióp, ông Samson, tiên tri Êlia, tiên tri Giêrêmia, thánh Gioan Tẩy Giả, các tông đồ của Chúa Giêsu, nhất là tấm gương của Đức Mẹ, cũng như của chính Chúa Giêsu...
Mở Thánh Kinh ra và suy niệm về đời sống của cha ông mình, ta sẽ thấy nơi các ngài cả một lòng tin đáng kính phục, sẽ thêm nghị lực, thêm sức mạnh giúp ta chấp nhận những gì đang phải đối mặt. Bởi những gì ta phải gánh lấy hôm nay, đâu phải chỉ riêng ta, nhưng Con Thiên Chúa và biết bao nhiêu người đi trước cũng đã từng gánh lấy.
Mở Thánh Kinh ra, bạn cũng sẽ nhận thấy một sự thật rằng, hình như tất cả những ai theo Chúa, được Chúa yêu thương đều phải sống trong thử thách triền miên, có lúc nặng nề đến mức như không thể thoát ra khỏi màn đêm của u uất, của thất bại. Bạn và tôi đang đối mặt với đau khổ, phải chăng, đó chính là dấu ấn của tình thương Thiên Chúa dành cho ta như đã dành cho nhiều kẻ mà Người yêu thương đã từng có mặt trong cuộc đời, trước chúng ta!”.
Hôm nay, sống mùa Phục Sinh, tôi muốn ghi lại hai lá thư trên để bạn và tôi cùng cảm nhận điều mà vị linh mục cảm nhận: Đau khổ “chính là dấu ấn của tình thương Thiên Chúa dành cho ta”. Bởi không phải đơn giản, và nếu không có chiều sâu nội tâm, hay thiếu tinh thần cầu nguyện, lại có thể thốt lên những lời đáng trân trọng như thế.
Tôi nghĩ rằng, cả hai lá thư, nhất là những lời động viên của vị linh mục rất cần thiết cho bạn và tôi. Vì có những lúc đau khổ tột cùng, những lúc tưởng như cuộc đời mình bế tắc…, chúng ta có dám đặt đời mình, đặt cả con người mình trong vòng tay Thiên Chúa nữa hay không? Ta có cảm nhận rằng “đó chính là dấu ấn của tình thương Thiên Chúa dành cho ta”?
Đọc các bài tường thuật Chúa Phục Sinh hiện ra bằng chính hình ảnh của Đấng đã chịu đóng đinh, nay sống lại, sẽ là câu trả lời quý giá về nỗi đau trong cuộc đời của bạn và của tôi. Vì hiểu được ý nghĩa của Tin Mừng Phục Sinh, sẽ giúp ta vững tin hơn.
Chẳng hạn, bài Tin Mừng Chúa nhật II Phục sinh (Ga 20, 19-31), chỉ là một bài Tin Mừng không dài lắm, nhưng thánh Gioan có đến hai lần kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra cùng các môn đệ.
Có lẽ bạn sẽ thắc mắc: hôm nay Hội Thánh đang cử hành mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của niềm vui, một niềm vui lớn. Đàng khác bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Phục sinh hiện ra với các môn đệ, lại là một niềm vui không nhỏ. Vậy mà từ đầu tới giờ, tôi chỉ toàn nói đến đau khổ.
Vì sao lại nói đến đau khổ giữa mùa Phục sinh? Bởi vì không tự nhiên mà phục sinh. Chúa phục sinh từ trong đau khổ. Chúa phục sinh từ trên thánh giá.
Hôm nay, dù sống lại, chiến thắng khải hoàn, thân xác Phục sinh chói ngời đã cùng quyền năng Thiên Chúa bước vào vô biên, bước vào vĩnh cửu… nhưng bây giờ hiện ra, thân xác Phục sinh rạng rỡ ấy vẫn còn y nguyên dấu thập giá.
Cả hai lần, đoạn Tìn Mừng (Ga 20, 19-31) đều chứng minh Chúa hiện ra với cùng một hình ảnh. Lần thứ nhất, ngay khi hiện ra “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”.
Bạn có biết điều gì trên tay và cạnh sườn mà Chúa cho xem? Nơi ấy, dấu thập giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay và cạnh sườn ấy, còn nguyên dấu tích của cây đinh, lưỡi đòng đâm thấu qua.
Chỉ sau khi xem tay và cạnh sườn bị thương tích, các môn đệ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy “vui mừng vì xem thấy Chúa”. Như vậy dấu của thập giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ.
Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt, ông nhất quyết không tin. Bởi đó tám ngày sau, Chúa lại hiện ra lần nữa, có mặt thánh Tôma.
Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn, dứt khoát hơn lần trước. Chúa Phục sinh không chỉ cho xem tay và cạnh sườn, mà còn lên tiếng đòi: “Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin”.
Ví dụ một ngày nào Chúa hiện ra và cũng nói với bạn những lời đã từng nói với thánh Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, hãy thọc bàn tay con vào đây”, bạn còn dám nhìn Chúa không? Chẳng những không dám nhìn, càng không dám đưa ngón tay, đưa bàn tay, mà có khi run rẫy chết khiếp, bạt vía kinh hồn.
Thánh Tôma không hề là trường hợp ngoại lệ. Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: “Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin”.
Mạnh mẽ, kiên quyết và dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thập giá còn in một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.” Một lần nữa, thánh Gioan lại cho thấy, dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.
Vì dấu thập giá là bảo đảm cho đức tin, nên trong mùa phục sinh, ta bàn về vấn đề đau khổ, cũng là điều hợp lý.
Chúa Phục sinh đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thập giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục sinh, lại làm cho các môn đệ dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.
Người ta nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Cũng vậy, đau khổ rèn đức tin người có đạo. Đau khổ là trường dạy đức tin cho những ai dám dấn mình theo Chúa.
Trường hợp anh sinh viên bên trên, tôi tin, nếu anh chịu khó nghiền ngẫm Lời Chúa, suy nghĩ nhiều về cuộc đời của Chúa Kitô, về sự chết và sống lại của Chúa, chắc anh sẽ có chọn lựa đúng đắn, phù hợp với Thánh Ý Thiên Chúa và phù hợp với chính niềm hy vọng của anh.
Chính khi phải chọn lựa giữa muôn vàn thử thách, chọn lựa trong đau đớn nhưng ngoan cường, dứt khoát, anh mới nhận ra giá trị lớn vô cùng của ơn gọi.
Cái giá phải trả cho ơn gọi mà mình chọn lựa không phải là vật chất, hay chỉ một tiếng đáp trả là xong, nhưng là cả một sự tự hiến rát xót. Vì thế, ơn gọi không bao giờ là một chọn lựa dễ dãi, càng không bao giờ là một trò chơi để khi thích thì tham gia, hết thích thì nghỉ chơi.
Có nhận ra ơn gọi quý giá như thế, mới mong sự chọn lựa của anh là một chọn lựa tinh ròng trong tự do, trong sự quả cảm, cả đến hy sinh nhức buốt.
Nhưng đâu chỉ là người thanh niên ấy. Mỗi chúng ta đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng một người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình, như trường hợp anh thanh niên mất cha, chỗ dựa của cần thiết của anh.
Hay con đường tương lai, sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình…
Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn. Những lúc bi đát đến cùng cực ấy, bạn và tôi hãy nhớ lời vị linh mục: “Đó chính là dấu ấn của tình thương Thiên Chúa dành cho ta” mà cố giữ lấy đức tin, vượt qua thác ghềnh, chèo chống đến cùng để tự tin đạp trên mọi sóng gió, mọi thăng trầm của đời mình.
Chúng ta rất may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ. Và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn nguyên trên thân thể dấu tích của khổ giá.
Chính vì thế, những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu… mãi mãi vẫn là câu trả lời trọn vẹn nhất cho chính đau khổ của chúng ta.
Bởi Chúa đã phục sinh từ trên thánh giá, ta cũng đi qua “chốn lưu đày” mà bước vào vinh quang của Đấng Cứu Chuộc, nay đã Phục Sinh.
Đó cũng chính là lý do vì sao tôi cứ miên man suy nghĩ về sự đau khổ, trong khi những ngày này vang vọng lời ca Allêluia hạnh phúc, chúc tụng Đấng Phục Sinh vinh quang và khải hoàn.
Bởi lẽ Chúa cứu chuộc chúng ta trên thánh giá, nhưng Chúa không làm điều đó một mình, mà cần đến sự cộng tác của ta, cần đến thánh giá đời ta tháp nhập vào thánh giá của Chúa.
Mới hay rằng Chúa đã chiến thắng, nhưng Chúa không xóa vết tích của thánh giá. Điều đó có nghĩa là:
Người ta thường nói: “Lòng không động, tay chẳng làm”. Câu nói này có thể ám chỉ Tông đồ PS 2-ABC364
Người ta thường nói: “Lòng không động, tay chẳng làm”. Câu nói này có thể ám chỉ Tông đồ Tôma trong bài Tin Mừng Gioan hôm nay. Kinh nghiệm về sự hồ nghi và Niềm Tin. Phải chăng muốn có Niềm Tin cần phải chiến đấu giữa lý trí và cảm nghiệm?
Chúa phục sinh hiện ra với các Tông đồ quả rất bất ngờ và có chủ đích. Vào một buổi chiều, ngày thứ nhất trong tuần, trong khi các ông đang lo lắng, sợ hãi, ở yên trong nhà cửa kín then cài. Thế giới bên ngoài đầy nghi hoặc và ám khí thù nghịch. Xác Đức Giêsu bị ai lấy đi đâu mất tích? Bất ngờ, người chết xuất hiện giữa nhà trong khi tất cả mọi cửa đều đóng chặt, tâm hồn cứng ngắc, viễn kiến mù lòa. Chúa Giêsu xuất hiện nhẹ nhàng hơn bao giờ trước một môn đệ cứng lòng, tâm hồn hồ nghi. Tôma rụt rè đặt tay vào những vết thương của Chúa và tình yêu của ông bùng cháy. Làm sao bạn nghe câu chuyện này mà không nghĩ tới bức tranh của họa sĩ danh tài Caravaggio diễn tả quang cảnh Chúa hiện ra với Tôma như thế này.
Tôma là ai? Anh ta, cùng với nhiều môn đệ khác đã từng đứng trước Thánh Giá, mà lại không hiểu gì cả. Giấc mơ của Tôma lúc đó đang treo lủng lảng trên thập giá và hy vọng của ông đã vỡ tan ra từng mảnh. Có một thời tôi coi Tôma là một trong các môn đệ được Chúa yêu thương nhất, không phải một tay cúng đấu cứng cổ, ngoan cố và suốt đời chỉ có bi quan, hồ nghi như truyền thống Kitô giáo thường gán cho ông. Khi lớn lên, tôi chẳng bao giờ thích nghe tiếng “Tôma đa nghi”, đơn giản chỉ vì tôi thích đặt vấn đề!
SỰ PHẤN ĐẤU CỦA TÔMA VÀ CỦA CHÚNG TA
Chúng ta phải làm gì khi mà điều chúng ta hy vọng quyết tâm dành lấy cho được lại bị đổ vỡ tan tành? Chúng ta phải làm gì khi mà những cơ chế vô hình lại đầy quyền lực đè bẹp người mà chúng ta tuyệt đối trung thành? Chúng ta phải làm gì khi mà phản ứng của chúng ta đáng lẽ phải hành động ngay nhưng lại chạy trốn và né tránh vì sợ hãi đám đông nổi giận hạy sợ mất quyền lợi? Đó là những câu hỏi của phần lớn các môn đệ, gồm cả Tôma là người đã yểm trợ và theo Chúa Giêsu suốt ba năm trời để được chỗ “ngồi trên”.
Tôma đa nghi ở giữa chúng ta cần phải sửa đổi. Chúng ta được yêu cầu phải trả lời cho những vết thương, trước tiên ở trong chính chúng ta rồi ở nơi những người khác. Ngay cả những lúc chúng ta yếu đuối, chúng ta cũng phải ráng thở mạnh để lấy Thần Khí hầu giúp cho các vết thương mau lành và nỗi sợ tiêu tan đi mau. Với Tôma, chúng ta phải tin khi tay chúng ta run rẩy, ngập ngừng vươn tới Chúa trong cộng dồng tin yêu. Lời Chúa nói với Tôma cũng phải như nói với chúng ta: “Phúc cho ai không thấy mà tin!”
Cách đây đã lâu, Thánh Gregry Cả đã nói về Thánh Tôma Tông đồ: “Nhờ sờ tay vào vết thương của thầy mình, Tôma có thể giúp chúng ta vượt thắng những vết thương đa nghi, cứng lòng. Lúc đó con người đa nghi Tôma sẽ hữu ích cho chúng ta hơn là niềm tin của tất cả các Tông đồ khác.”
Nhiều thế kỷ sau, chúng ta vẫn luôn luôn biết ơn Tôma vì sự lương thiện và tính ‘người’ của ông. Dù chúng ta biết rất ít về ông, gia đình ông và số phận của ông, nhưng chỉ biết cái tên Tôma của ông -theo tiếng Hy Lạp triết tự- là“sinh đôi/twin”. Vậy nửa Tôma kia là ai? Có lẽ chúng ta có thể nhìn thấy nửa kia của Tôma ở trong gương. Do đó nửa Tôma kia là bất cứ ai đã phải phấn đấu với đau khổ vì không tin, hồ nghi và thất vọng. Chính Tôma đã khiến Chúa Giêsu phục sinh làm điều khác lạ.
TẠI SAO LẠI GỌI LÀ LÒNG CHÚA THUONG XÓT
Lòng Chúa thương xót không phải là một chọn lựa. Ít năm trước, có nhiều vị chuyên viên phụng vụ và thừa tác viên than phiền là Chúa nhật này đã được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Năm Toàn Xá 2000 đặt cho một tên mới. Sau khi Vatican II cải tổ phụng vụ thì Chúa Nhật này chính thức được gọi là Chúa Nhật II Phục Sinh. Nhưng hiện nay do sắc lệnh của Thánh Bộ Phụng Thờ Thiên Chúa và Bí Tích, thì được đổi thành Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, nhưng vẫn có thể gọi là Chúa Nhật II Phục Sinh.”
Tại sao lại gọi Chúa Nhật này là Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót?
Đức Giáo hoàng đã bất ngờ thông báo tin này trong lễ tuyên thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalsha vào ngày 30-4-2000. Ngài nói đây là “điều quan trong khi chúng ta nhận toàn thể sứ điệp mà Lời Chúa gửi cho chúng ta dịp Chúa Nhật II Phục Sinh này. Và kể từ nay toàn thể Giáo Hội sẽ gọi Chúa Nhật này là ‘Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót’.”
Nữ tu Ba Lan này đã làm gì với câu chuyện của Tôma và sự kiện Chúa sống lại? Chúng ta có cần phải tìm ra sự liên hệ giữa Lòng Chúa Thương Xót và câu chuyện Phúc Âm nói về Tôma và Chúa Phục Sinh không? Trả lời cho câu hỏi thứ nhất là: “Tất cả mọi sự!” và cho câu hỏi 2 là: “Không!”
Mừng Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót không phải là cạnh tranh hoặc làm mất tính vẹn toàn của Mùa Phục Sinh, cũng không lấy đi mất tính đặc thù của câu chuyện Tôma và việc Chúa Phục Sinh. Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót là ngày Bát Nhật Phục Sinh, mừng tình yêu thương sót của Thiên Chúa chiếu tỏa xuyên suốt Tuần Tam Nhật Phục Sinh và toàn thể màu nhiệm Phục Sinh.
Việc nối kết thì hiển nhiên hơn ở những bài đọc của Chúa Nhật I sau Phục Sinh. Vào lễ tuyên thánh cho nữ tu Faustina, Đức Gioan Phaolô II đã nói trong bài giảng của ngài: “Chúa Giêsu đã đưa bàn tay và cạnh sườn của Người cho các Tông đồ thấy. Chúa chỉ những vết thương Người chịu nạn, đặc biệt vết thương Trái Tim của Người, là suối nguồn máu tình thương đổ ra cho toàn thể nhân loại.”
Ý NGHĨA CỦA NGÀY LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót không phải là một lễ mới để mừng những mạc khải của Thánh Faustina. Thực sự nó chẳng dính dáng gì đến Thánh Faustina cả, mà đúng ra là để làm sống lại truyền thống phụng vụ cổ xưa, phản ảnh một giảng huấn về ngày bát nhật Phục Sinh mà người ta cho là của Thánh Augustine đã được ngài gọi là “Ngày thương Xót và Tha Thứ,” và ngày Bát Nhật này tự nó đã là “bản tóm tắt những ngày thương xót.”
Vatican đã không đặt cho Chúa Nhật II Phục Sinh này cái tên “Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót” như một “chọn lựa tùy thích”. Điều đó có nghĩa là giảng về Lòng Chúa Thương Xót vào Chúa Nhật này bắt buộc phải có, không phải là một chọn lựa. Không giảng về Lòng Chúa Thương Xót là một sai lầm quan trọng vì đã bỏ qua, không đọc những lời nguyện, các bài đọc và những ca vịnh đã được chỉ định cho lễ này, cũng như danh hiệu “Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót” hiện nay đã được ghi trong Sách Lễ Rôma.
Tôma cứng lòng tin, không tin Chúa sống lại. Nhưng Chúa hiểu Tôma, thương Tôma nên đã cho Tôma đặt tay vào những vết thuong của Chúa. Nhờ đó Tôma đã tin và được cứu rỗi. Nếu Chúa không để cho Tôma sờ và đặt tay vào cạnh sườn Chúa thì số phận của Tôma sẽ thế nào? Lòng Chúa thương xót quả là vô biên. Chúng ta tin Chúa Kitô chịu chết để cho chúng ta được sống mà không chấp nhận lòng Chúa thương xót, không tin lòng Chúa Thương xót là vô ơn. Không chấp nhận được. Vô lý.
Thông điệp về Lòng Thương Xót được Chúa Giêsu nói với thánh nữ Faustina vào năm 1931 nay PS 2-ABC365
Thông điệp về Lòng Thương Xót được Chúa Giêsu nói với thánh nữ Faustina vào năm 1931 nay đã trở thành sự thật. Những gì đã được nói trong sự cô độc của một tu viện đóng kín ở Plock Ba lan ngày nay được Giáo hội hoàn cầu long trọng mừng kính.
Cuộc đời của thánh Maria Faustina Kowalska dòng Bí tích Thánh Thể không được nhiều người biết tới. Nhưng qua ngài, Thiên Chúa đã gửi đến cho toàn thể thế giới và Giáo hội một thông điệp về Lòng Thương Xót vô biên của Chúa. Thông điệp đó là gì? Mặc dù nội dung của thông điệp này nhiều vô kể, nhưng dưới đây là năm điều căn bản Chúa Giêsu muốn lòng sùng kính mới mẻ này được nên sống động:
1. Suy niệm Lòng Thương Xót của Chúa qua hình ảnh thánh. Chúa Giêsu yêu cầu thánh Faustina vẽ một hình ảnh về lòng thương xót của Ngài để mọi người nhìn thấy. Hình Chúa Giêsu với hai tia sáng phát xuất từ trái tim của Ngài. Tia đầu tiên có màu xanh lam, biểu trưng cho Lòng Thương Xót tuôn chảy qua Bí tích Rửa tội; và tia thứ hai có màu đỏ, biểu trưng cho Lòng Thương Xót tuôn tràn qua Máu Thánh Thể.
2. Cử hành Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót. Chúa Giêsu nói với thánh Faustina rằng Ngài muốn một Lễ Lòng Thương Xót được cử hành hằng năm. Thánh lễ trọng thể kính Lòng Chúa Thương xót này được thiết lập như một cử hành phổ quát vào ngày thứ tám của Tuần Bát nhật Phục sinh. Vào ngày đó, nguồn ân sủng của Lòng Thương Xót được mở ra và nhiều linh hồn được nên thánh.
3. Chuỗi Lòng Thương Xót. Đây là một món quà thật quý giá mà chúng ta nên tìm cách thực hành mỗi ngày.
4. Tôn vinh giờ tử nạn của Chúa Giêsu. Vào lúc 3g00 chiều, Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng và chết trên Thập giá. Đó là ngày thứ Sáu. Vì lý do này, Thứ Sáu phải luôn được xem là một ngày đặc biệt để tôn vinh cuộc Thương khó và sự hy sinh cao cả của Ngài. Nhưng vì nó diễn ra lúc 3 giờ, nên việc tôn vinh Chúa vào giờ đó mỗi ngày cũng rất quan trọng. Đây là thời điểm lý tưởng để cầu nguyện với Chuỗi Lòng Thương Xót. Nếu không thể lần chuỗi, thì vào giờ đó có thể dừng lại đôi phút để cảm tạ và kính nhớ cuộc khổ nạn của Chúa.
5. Phong trào Tông đồ của Lòng thương xót Chúa. Đây là lời kêu gọi của Chúa Giêsu, muốn mỗi người chúng ta tích cực tham gia vào công việc truyền bá Lòng Thương Xót của Ngài. Cụ thể là truyền bá thông điệp Ngài đã ban và sống lòng thương xót đối với tha nhân.
Ngày thứ Tám của tuần Bát nhật Phục sinh, chúng ta suy gẫm về những khát khao của Thánh tâm Chúa Giêsu. Bạn có tin rằng thông điệp của Lòng Thương Xót không chỉ có ý nghĩa đối với bạn mà còn đối với cả thế giới? Bạn có tìm cách học hỏi và kết hợp thông điệp này vào trong cuộc sống của mình không? Bạn có tìm cách trở thành công cụ của lòng thương xót không? Hãy ý thức và khao khát trở thành môn đệ của Lòng Thương Xót, tìm cách rao truyền Lòng Thương Xót theo cách mà Chúa ban cho bạn.
Lạy Chúa từ nhân, con tín thác vào Chúa và lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin giúp chúng con biết gia tăng lòng sùng kính trái tim từ nhân của Chúa và mở rộng tâm hồn chúng con để đón nhận nguồn ân sủng phong phú mà Chúa đã ban trong cuộc sống của chúng con. Chúng con luôn đặt tin tưởng vào Chúa, yêu mến Chúa và luôn là công cụ rao truyền Lòng Chúa Xót Thương cho toàn thế giới.
Đức Giêsu Phục Sinh bất ngờ xuất hiện giữa các tông đồ. Ngài trao ban bình an và cho họ xem PS 2-ABC366
Đức Giêsu Phục Sinh bất ngờ xuất hiện giữa các tông đồ. Ngài trao ban bình an và cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Chúa vẫn mang dấu tích của cuộc khổ nạn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Thầy, và hơn nữa còn được Thầy ủy thác sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
Chỉ có một người không vui là ông Tôma, vì ông vắng mặt khi Chúa hiện ra. Có vẻ giữa ông và nhóm anh em có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn. Ông không tin vào ai khác, chỉ tin vào giác quan của mình. Trước sự thách thức và cố chấp của ông, Chúa Giêsu lại hạ mình để hiện ra một lần nữa. Ngài trách ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em. Rõ ràng con người Tôma có cái gì bất ổn, bất thường, lập dị, tách biệt. Nhưng may là ông trở về với đời sống cộng đoàn, nên đã chứng kiến việc Chúa phục sinh.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy Chúa, đã sờ chạm vào Chúa. Tất cả các tông đồ đều đã hy sinh mạng sống mình để làm chứng là Đức Kitô đã sống lại, Ngài là Đấng cứu độ duy nhất cho loài người… Tiếp nối các tông đồ đã có hàng triệu người cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, đã dâng hiến đời mình vì niềm tin ấy, trong số đó có hằng ngàn cha ông chúng ta đã hiên ngang đổ máu mình để lưu truyền đức tin lại cho con cháu hôm nay, cụ thể là 118 thánh tử đạo Việt Nam.
Quanh chúng ta cũng vẫn có nhiều anh chị em đạo đức, đầy lòng tin mến. Họ đã được ơn “thấy và chạm đến” Chúa một cách nào đó, nên họ rất chuyên chăm trong đời sống cầu nguyện, sốt sắng trong thánh lễ, và tích cực làm việc tông đồ. “Thấy và chạm” đến Chúa nghĩa là “cảm nghiệm” hay “cảm nhận” về sự hiện diện của Chúa khi nghe Lời Chúa, khi Rước Mình Chúa, khi phục vụ anh chị em, khi thăm viếng và cứu giúp những người bệnh tật, nghèo hèn, khốn khó…
Để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cũng không cần phải nổi bật cái gì hết, mà chỉ cần nổi bật lòng thương xót của Chúa. Thương xót nói theo thánh Phaolô là: đón nhận tất cả, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tuy nhiên, thương xót không có nghĩa là làm ngơ trước tội lỗi và sai lạc của người khác, cũng không phải là dung túng hay nhượng bộ cho những xấu xa vẫn xảy ra trong đời ta. Thương xót là muốn cho nhau một cuộc sống tốt hơn, là tìm cách dẫn đưa anh em về đường ngay nẻo chính. Muốn vậy, nhiều khi chính mình phải hy sinh và chấp nhận thương đau.
Cũng như xưa, con người ngày nay làm sao có thể tin Chúa được, nếu họ không thấy chứng tích của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, hay của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu nơi Giáo hội, nơi các bạn trẻ. Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của bạn đi! Mahatma Gandhi đã từng tuyên bố với người công giáo như thế.
Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra rằng mình được diễm phúc trở nên Kitô hữu là nhờ lòng thương xót Chúa, để suốt đời ta biết sống cho mọi người, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn, là đối tượng ưu tiên của lòng Chúa xót thương. Quả thật “Phúc thay ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Chúa xót thương”.
Cầu nguyện
Lạy Cha! Thương xót không chỉ là hành động của Cha, mà còn là tiêu chuẩn để biết ai là con cái, để nối dài lòng thương đoái của Cha.
Thương xót không loại trừ công bằng và sự thật, không dung túng cho những điều tai ác xấu xa, nhưng để người ta biết kiên nhẫn vượt qua, để đón nhận những hồng ân cao cả, xứng đáng với những gì con người “là”.
Thương xót cũng là hành động cao quí nhất, cho thấy phẩm chất sâu nhất của con người, là hành vi thờ phượng cao hơn cả, vì điều Chúa muốn không phải là lễ vật, mà là cuộc sống với tất cả lòng nhân.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã nhập thể làm người thế, là để thể hiện lòng thương xót của Cha, ngay trên thập giá Chúa vẫn nói lời thứ tha, trước lòng dạ vô tâm và bạc ác của con người, vì muốn gánh hết mọi tội đời cho thiên hạ.
Chúa gọi chúng con nên hoàn thiện như Cha, không phải là không còn gì thiếu sót, mà hãy có lòng nhân từ và tha thứ, không xét đoán và càng không lên án, luôn bao dung và đại lượng vô vàn, vì thương xót là tình yêu không giới hạn.
Xin cho tim con được đầy lòng thương xót, dù nhiều khi rất đắng đót trong đời, nhưng nhờ vậy mà phát sinh con người mới, để tình yêu Chúa hằng tỏa sáng khắp nơi.
Đời con đã được Chúa xót thương, nên con chẳng mong ước được gì hơn, là thân con trở thành lòng thương xót Chúa, loan báo tin vui ơn cứu độ cho đời. Amen.
Nhờ công nghệ phát triển, người ta ở gia đình mà vẫn biết mọi thông tin tốt xấu đang xảy trên PS 2-ABC367
Nhờ công nghệ phát triển, người ta ở gia đình mà vẫn biết mọi thông tin tốt xấu đang xảy trên khắp thế giới. Do đủ dinh dưỡng, gia đình xã hội luôn tin tưởng vào tương lai, chiều cao và sức khỏe của thế hệ trẻ sẽ được cải thiện hơn. Vì lắm tiền nhiều của, thầy thợ tài giỏi vô cùng phong phú, những ngôi nhà xinh đẹp cứ thế sẽ mọc lên ở thành thị và cả nông thôn. Được và mất, có và không, vẫn là những cụm từ đối nghịch nhau, nhiều người cho rằng may hơn khôn: thánh nhân đãi kẻ khủ khờ, cũng không ít kẻ lạc quan khi nói: con hơn cha, nhà có phúc. Thực ra, bậc làm cha làm mẹ có vất vả, có già xấu đi, các ngài mới chứng minh rõ ràng hơn cho con cháu hiểu: tất cả vì tình yêu. Theo quy luật, ai giúp đỡ ta vượt qua khó khăn, đi đến thành đạt, đều đáng gọi là ân nhân, bậc sinh thành dù không nuôi dạy ta nên người “hùng tài”, thiên chức là bố là mẹ, rất thiêng liêng vẫn theo ta suốt cuộc đời.
Không biết từ bao giờ, cha ông ta đã biết căn dặn con cháu: vì người mình yêu hãy làm tất cả, nhưng đừng làm tất cả để có được người mình yêu. Cũng từ kinh nghiệm dân gian truyền lại, bậc làm cha mẹ thường khuyên dạy các con phải lưu ý: một lần bất tín là vạn lần không tin. Việc Đấng Kitô phục sinh từ cõi chết, cho thấy TIN và YÊU thật quan trọng với các môn đệ, với cả nhân loại chúng ta hôm nay. Chắc phải được cha mẹ, được người thân: yêu, rồi trưởng thành, ta mới biết yêu như quy luật: cây thẳng lên, nhờ được nghệ nhân uốn nắn, người lớn lên, được khôn ngoan, nhờ sự chăm sóc giáo dục tốt. Cũng trải qua nhiều nỗi lắng lo, sợ hãi ê chề, tai tiếng vì hèn nhát, bất trung, những người học trò Đức Giêsu mới thấm thía thế nào là tin là yêu. Đấng phục sinh chứng minh cho các học trò, cho nhân loại: vì yêu Ngài đến trần gian, chịu đóng đinh trên thập giá, chịu chết và sống lại, hiện ra với các môn đệ, dù niềm tin của các ông vào Thầy còn mơ hồ !
Ngày hôm nay, Đấng phục sinh vẫn minh chứng Thiên Chúa giầu lòng xót thương, Đấng Kitô đang sống lại nơi mỗi tâm hồn người tín hữu, dù ta chưa mạnh tin và đức ái kitô chưa sống động, hoặc cách ứng xử của ta còn đầy giới hạn. Tin Con Thiên Chúa đức độ, lời rao giảng hùng biện, thu hút, thì có. Sống mến Chúa yêu người không hề đơn giản, nhất là lúc đau khổ không được hóa giải, lời cầu xin Chúa mau cất chén đắng cho ta chẳng thấy tí hy vọng nào ! Ở trong tình trạng nửa vời, đầy hoài nghi như thế, có phải bạn và tôi sẽ hình dung ra: có những người chắc chắn ở trong tim ta, đối lại chưa chắc ta đã thực sự tin và yêu họ. Có phải ông Tôma cùng từng tin và yêu đại loại như thế: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin”.
Tin và yêu, hay yêu và tin, đều cần đến thước đo thời gian, phải được kiểm chứng bằng hành động. Nhóm 12 yêu Thầy, tin Thầy, rồi sau đó các ông: bán Thầy, chối Thầy, bỏ Thầy, có khác gì đám đông lúc đó: tung hô, chúc tụng, rồi đả đảo, hò hét “đóng đinh nó” vào thập giá ! Tục ngữ thì nói yêu ai yêu cả đường đi, ca dao thì lại đưa đến một kinh nghiệm khác: những người tính nết thật thà, đi đâu cũng được người ta tin dùng. Chúa phục sinh thì nói gì với các học trò ? Thưa, Đấng phục sinh khởi đầu cho việc tin và yêu là trao ban: “bình an cho các con”, là củng cố niềm tin cho các học trò: “Người ban Thánh Thần, cho các ông xem tay, chân, và cạnh sườn Người”. Đấng phục sinh chính là Đấng giầu lòng thương xót, Chúa không oán trách tâm tính nhút nhát của các học trò, không “phớt lờ” sự thách thức của Tôma, nhưng Chúa phục sinh để lại một thông điệp: “phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Vì tin, vì yêu, Đức Kitô đã cho nhân loại cảm nhận rõ nét về sự nên Một trong tình yêu với Chúa Cha và Thánh Thần. Vì tin, vì yêu, Đấng phục sinh ban Thần Khí, trao ban sứ vụ đặc biệt: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”, dù Chúa dư biết các học trò của Chúa bất xứng và đầy giới hạn. Vâng, các bậc hiền tài để lại nhiều lời hay ý đẹp: trước khi trả lời, hãy lắng nghe. Trước khi hành động, hãy suy nghĩ. Trước khi quở trách, hãy đồng cảm. Trước khi bỏ cuộc, hãy thử lại. Và trước khi cầu nguyện, hãy thứ tha. (William Arthur Ward). Hôm nay tôi và bạn sẽ nghĩ gì, nói gì, khi lòng thương xót của Đấng phục sinh đã trả lời rõ ràng: tất cả vì yêu. Tất cả vì Đấng phục sinh: tin các học trò, yêu cả nhân loại tội lỗi. Đúng, Đấng phục sinh mời gọi hãy tin, hãy yêu, hầu sẽ thấy sự kỳ diệu như lời Ngài quả quyết: “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Xin Đấng phục sinh ban bình an, ban tình yêu cho chúng con. Amen.
Chúa nhật II Phục Sinh được gọi là Chúa nhật Lòng Thương Xót. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô PS 2-ABC368
Chúa nhật II Phục Sinh được gọi là Chúa nhật Lòng Thương Xót. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập lễ này vào ngày 30 tháng 4 năm 2000 dựa trên lòng sùng kính của người Công Giáo đối với Thiên Chúa, do thánh Faustina Kowalska loan truyền. Qua thánh lễ này, Giáo Hội muốn cổ võ mọi người tín hữu khám phá và chạy đến lòng thương xót Chúa được biểu lộ qua Đức Giêsu Kitô, dung mạo hữu hình lòng thương xót Chúa.
Bởi thế, hôm nay, chúng ta suy niệm về những món quà mà Đấng Phục Sinh ban tặng cho chúng ta. Đó là: 1) Sự bình an; 2) Thánh Thần; 3) Ơn tha thứ.
1- “Bình an cho các con”
Trước hết, bình an là quà tặng đầu tiên mà Đấng Phục Sinh ban. Bình an là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng cuộc sống và thi hành tốt sứ vụ. Có bình an sẽ có những thứ khác. Mất bình an sẽ mất hết mọi sự.
Quả thế, khi đối diện với cuộc tử nạn và cái chết tức tưởi của Thầy mình, các môn đệ rơi vào tình trạng lo lắng, sợ hãi và bất an. Họ ở trong phòng kín vì sợ người Do Thái. Khi hiện ra với các ông, Đấng Phục Sinh nói với họ: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19). Tiếng Do Thái gọi là: “Shalom – bình an.” Người Do Thái chào nhau bằng từ này khi gặp nhau: Bình an cho anh (chị). Ở đây không chỉ là một lời chào hỏi xã giao, mà là một ơn huệ của Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ, như lời Chúa đã hứa trước: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27).
Bình an của Chúa mang lại cho tâm hồn sự an ủi, niềm vui nội tâm và sức mạnh để vượt qua những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Bình an Chúa ban không theo kiểu thế gian ban tặng. Vì bình an của Chúa ban thì bền vững và sâu lắng, còn bình an thế gian ban thì chóng qua và bên ngoài.
Xét như là ân huệ, bình an ở đây được hiểu là chính Đấng Phục Sinh. Vì Chúa Kitô chính là “Hoàng Tử Bình An” như lời tiên tri Isaia đã loan báo (x. Is 9,5) và được thánh Phaolô quả quyết, chính Chúa Giêsu là “bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Bởi thế, trong thánh lễ, chủ tế lặp lại nhiều lần lời cầu chúc này: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em.” Điều này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của ơn bình an và chính Chúa Giêsu là nguồn mạch bình an cho tâm hồn, cho gia đình và cho tổ quốc. Ở đâu có Chúa, ở đó có sự bình an. Vì thế, chúng ta hãy mở lòng và chạy đến với Chúa, đặc biệt khi gặp khó khăn thử thách, để đón nhận bình an mà Người đã hứa ban, nhờ đó chúng ta sống và thi hành tốt sứ vụ của mình.
2- “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22)
Món quà thứ hai mà Đấng Phục Sinh ban tặng là Chúa Thánh Thần. Quả thật, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con, là Quà Tặng (Donum) của Chúa Cha và Chúa Con cho chúng ta. Cùng với Chúa Con, Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần xuống để thực hiện một chương trình cứu độ duy nhất trong lịch sử nhân loại.
Mặc dầu Kinh Thánh đã nhiều lần nói tới sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần trong công trình sáng tạo, trong đời sống con người, cách đặc biệt trong Chúa Giêsu. Nhưng phải đợi đến khi Chúa Giêsu phục sinh, lời hứa ban Thánh Thần cho Giáo Hội mới được thực hiện. Thánh Gioan cho biết: Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ, Người thổi hơi và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Ở đây cần chú ý tới hành vi Chúa “thổi hơi và ban Thánh Thần.” Trong Cựu Ước, khi sáng tạo con người, Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam, nhờ đó ông có sự sống. Đấng Phục Sinh thổi hơi và ban Thánh Thần cho các Tông Đồ là ban sự sống mới, sức mạnh mới để họ thi hành sứ vụ được giao phó. Đây quả là cuộc tạo dựng mới! Chúa Thánh Thần là quà tặng lớn nhất của Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đấng Phục Sinh. Bởi lẽ, Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi ơn sủng của Thiên Chúa. Kinh Thánh làm chứng về điều này cách rõ ràng, khi chưa có Chúa Thánh Thần, các môn đệ là những người nhát đảm sợ sệt, yếu đuối. Nhưng khi đầy Thánh Thần, họ trở thành những chứng nhân can đảm, hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, bất chấp khó khăn thử thách. Họ nói được các thứ tiếng lạ, cầm được rắn trong tay, làm phép lạ, trừ quỷ và chữa lành bệnh tật như Chúa Kitô đã làm. Đó là những hiệu quả của ơn Chúa Thánh Thần mang lại.
Ngày nay, Chúa Kitô Phục Sinh tiếp tục ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta qua các bí tích, đặc biệt qua bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Thánh Thần sẽ đồng hành, hướng dẫn và thánh hóa để chúng ta trở thành môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Nên ở đâu có Chúa Thánh Thần, ở đó có Giáo Hội và các ân sủng của Người. Ở đâu có Chúa Thánh Thần ở đó có sự sống, sức mạnh và sự thánh thiện.
Vì thế, mỗi ngày chúng ta được mời gọi hãy mở lòng và cầu xin Đấng Phục Sinh ban tặng Chúa Thánh Thần cho chúng ta.
3- Ơn tha tội
Quà tặng thứ ba mà Đấng Phục Sinh ban là ơn tha tội và quyền tha tội. Quả thế, ơn tha thứ là hoa quả lớn nhất cho nhân loại mà Đấng Phục Sinh mang lại qua cái chết và sự phục sinh của Người. Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi loài người. Người diệt trừ tội lỗi và chiến thắng sự chết. Đây là Tin Mừng mà Giáo Hội loan báo hơn hai ngàn năm qua. Chúa Kitô sống lại để giải thoát con người khỏi xiềng xích tội lỗi và sự chết; Người hòa giải con người với Thiên Chúa và dẫn tới sự sống mới, sự sống vĩnh cửu.
Đấng Phục Sinh không chỉ tha tội, mà ban quyền tha tội cho Giáo Hội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Ơn tha thứ là dấu chỉ lớn lao về lòng thương xót Chúa với loài người qua dòng lịch sử cứu độ. Giờ đây, Đấng Phục ban quyền tha thứ đó cho Giáo Hội. Một cách cụ thể, Chúa Kitô ủy thác quyền tha tội cho Đức Giáo Hoàng, các giám mục, các linh mục khi cử hành các bí tích, nhất là bí tích Rửa Tội và Hòa Giải. Các ngài có năng quyền tha tội, tha vạ cho người mắc phải. Như thế, Đấng Phục Sinh muốn Giáo Hội trở thành cánh tay nối dài, là thừa tác viên của lòng thương xót Chúa cho con người mọi thời. Sự trao quyền tha tội cũng là quà tặng của Đấng Phục Sinh. Nhờ đó, chúng ta đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa qua thừa tác viên Giáo Hội Người.
Như thế, hôm nay, chúng ta tìm hiểu về ba món quà quý giá mà Chúa Kitô Phục Sinh ban tặng, đó là: ơn bình an, Chúa Thánh Thần và ơn tha tội. Cả ba món quà ấy là dấu chứng tuyệt hảo của lòng thương xót Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết chạy đến Chúa Kitô Phục Sinh để đón nhận những ơn huệ này, đồng thời chúng ta cũng được mời gọi trở thành những chứng nhân của lòng thương xót,” biết cảm thông và giúp đỡ tha nhân, nhất là với người nghèo khổ, như xưa các tín hữu đã sống khi họ sẵn sàng chia sẻ những gì mình có với người nghèo và coi mọi sự là của chung. Amen!
Có một câu chuyện kể rằng: một cậu con trai tuổi dậy thì, sau một trận cãi vã kịch liệt với ba PS 2-ABC369
Có một câu chuyện kể rằng: một cậu con trai tuổi dậy thì, sau một trận cãi vã kịch liệt với ba, cậu bé đùng đùng bỏ nhà ra đi. Tuy giận dữ và đau lòng, nhưng người cha biết rằng con mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để trưởng thành. Vậy nên ông đã bôn ba khắp nơi để tìm kiếm đứa bé nổi loạn ấy. Cuối cùng, khi tới Thánh phố, trong nỗ lực cuối cùng của mình, ông cho đăng một thông cáo trên báo: “X thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa tòa soạn. Mọi tội lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con”.
Chiều hôm đó, người cha đến tòa soạn thật sớm vì ông không muốn trễ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới đó, ông đã gặp… 10 cậu bé tên X. Cả 10 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và đều đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng tay dang rộng yêu thương.
Vâng, đôi lúc có những người chúng ta yêu thương lại làm tổn thương khiến chúng ta rất đau lòng. Và còn đau lòng hơn khi họ không nói lời xin lỗi. Không có chút biểu lộ sự ân hận, Lúc đó chúng ta tổn thương biết bao!
Có lẽ những người làm cho chúng ta tổn thương họ biết chúng ta đau lòng. Có thể họ cũng có chút ân hận. Nhưng vì lòng tự ái quá cao nên không đủ khiêm tốn nhận lỗi, và vì cũng không tin mình sẽ được tha thứ nên họ không dám ngỏ lời.
Vâng, lòng tha thứ phải đi trước. Lòng tha thứ là một trong nhân đức mà Đức ái ky-tô giáo mời gọi chúng ta phải sống. Thánh Phao-lo đã dạy: ‘Đức ái thì bao dung, nhân hậu, không ghen tương. Đức ái thì nhẫn nại, thi hy sinh. . .” Và ngài đúc kết rằng: “anh em đừng mắc nợ nhau điều gì “ngoài đức bác ái yêu thương”.
Thực ra, ai cũng có thiếu sót. Sống với nhau cần phải học bài học tha thứ. Tha thứ là đón nhận nhau. Tha thứ là tạo cho nhau cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Tha thứ là sống tình yêu bao dung như Chúa Giê-su để xót thương kẻ tội lỗi và cả những kẻ có lỗi với mình.
Trong nhật ký của thánh nữ Faustina có đoạn viết rằng: “Hôm nay con hãy dâng lên cho Cha toàn thể nhân loại, cách riêng là tất cả các tội nhân, rồi dìm họ vào đại dương thương xót của Cha. Như vậy con sẽ an ủi Cha trong cơn sầu não vì sự trầm luân của các tội nhân đã gây ra cho Cha”. (1210 – NK LTX)
Lòng Thương Xót của Chúa luôn đi bước trước đến với tội nhân. Lòng Thương xót của Chúa luôn sẵn lòng xóa đi những yếu đuối, vấp ngã của con người. Phúc âm kể rằng sau khi Chúa Giê-su sống lại, Ngài không bận tâm tới quá khứ của những người làm hại hay bỏ rơi Chúa. Chúa không hề nhắc tới những lỗi lầm của các môn đệ. Nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần. Nơi các môn đệ hèn nhát bỏ chạy trong đêm tối vườn Cây Dầu. Nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng theo lý luận thuần túy nhân loại. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông. Nếu Chúa sống lại nhưng không tha thứ cho các ông thì đời các ông sẽ ra sao? Chúa đã sống lại và ban ơn tha thứ cho các tông đồ để từ đây các ngài sẽ ra đi rao giảng về Lòng Thương xót Chúa.
Chúa nhật 2 Phục sinh cũng là ngày kính nhớ “Lòng Thương Xót” của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta: hãy sám hối ăn năn vì những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Hãy tin vào tình thương tha thứ của Chúa để sửa đổi bản thân nên hoàn thiện hơn như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Xin đừng tiếp tục xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa. Xin đừng lợi dụng lòng thương xót của Chúa để tiếp tục sống buông thả trong những đam mê lầm lạc, những quan hệ bất chính, những thói đời gian dối hại người.
Một cách đặc biệt là hãy dâng những hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về cùng Chúa. Và chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina để thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con xin phó thác cuộc đời con, gia đình con và nhân loại hôm nay nơi lòng thương xót của Chúa. Chúng con xin dâng những hy sinh, lời cầu nguyện để bù cho những tội lỗi nhân gian”. Amen.
Thầy chết, các tông đồ như đàn chiên không có người chăn, sợ hãi như bị sói dữ bủa vây. Các PS 2-ABC370
Thầy chết, các tông đồ như đàn chiên không có người chăn, sợ hãi như bị sói dữ bủa vây. Các ông đang trốn cùng nhau trong một căn nhà đóng kín cửa vì sợ người Do thái. Thầy đã bị bắt Thầy, bị giết thì đến lượt họ cũng sẽ bị tìm bắt và bị tiêu diệt. Tương lai mờ tịt và không biết đi về đâu. Nỗi sợ hãi bao trùm cả căn phòng. Dường như chỉ một tiếng động nhẹ cũng làm các ông giật thót tim. Chiều hôm nay, chiều ngày thứ nhất trong tuần, Thầy Giêsu đã đến với các ông đang khi cửa đóng then cài. Thầy đến rất bất ngờ và nhẹ nhàng.
Thầy Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20, 19). Bao đêm mất ngủ, lo lắng vì sợ hãi, mặt các ông hốc hác và tiều tụy lắm. Lòng các ông cứ như lửa đốt, chẳng lúc nào yên. Thầy biết rõ điều các ông đang cần: Bình an. Thầy chính là bình an. Nhìn thấy Thầy, lòng các ông mừng vui. Được xem các dấu đinh trên tay và trên chân của Thầy, được đặt tay lên cạnh sườn Thầy, các ông vừa mừng vừa tủi. Mừng vì Thầy đã sống lại thật, Thầy đang ở bên các ông ngay lúc này và ở nơi đây. Tủi vì nghĩ đến bao lầm lồi của bản thân, tủi và hối hận vì trong những lúc Thầy cần mình nhất thì mình lại chạy trốn. Các ông đều thấy rằng mình đã xử với Thầy quá tệ bạc. Thầy không giận hờn cũng chẳng trách mắng các ông điều chi. Trái tim Thầy vẫn trọn một chữ yêu. Chữ yêu ấy đẹp lắm. Thầy chẳng những không quở trách các ông đã xử tệ bạc với mình mà Thầy còn tín nhiệm trao cho các ông lệnh truyền: “Bình an cho anh em. Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 21-23). Nhận được bình an của Chúa phục sinh, các ông cũng sẽ là người mang đến bình an cho những người các ông chăn dắt. Bình an ấy đến từ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Tôma, người môn đệ vắng mặt đã không được thấy Chúa phục sinh. Niềm vui được gặp Chúa khiến cho các môn đệ khác không thể không chia sẻ với ông. Họ đều nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” (Ga 20,25). Những lời ấy đã không làm cho ông Tôma vui mừng. Không phải vì ông không muốn Thầy sống lại nhưng nhưng việc Thầy sống lại là điều khó có thể tin được. Ông quả quyết: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Ông đã bỏ lỡ cơ hội được gặp Thầy chỉ vì ông không ở với các anh em. Tám ngày sau, đang lúc các ông quây quần bên nhau, Thầy Giêsu lại đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,26). Dù lần trước đã được gặp Thầy nhưng các ông vẫn còn sợ hãi lắm, chỉ dám quanh quẩn trong căn phòng đã đóng kín cửa. Thầy đi rồi, các ông lại rơi vào sợ hãi. Thầy đến cũng vì để cho Tôma – người môn đệ chưa được diện kiến Thầy- để ông được mừng vui, được giải thoát khỏi mối ngờ vực. Thấy Thầy rồi, ông chẳng cần phải chạm tay vào các vết thương của Thầy như ông đòi hỏi. Nghe giọng nói thân thương của Thầy, ông thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Mấy ngày trước, dù cho các anh em có cố gắng thuyết phục thế nào, ông cũng không thể tin được Thầy đã sống lại. Bởi vì, xác tín đó là xác tín của riêng các anh em, không phải của ông. Đến bây giờ, chính ông đã tự nguyện thốt lên bằng cả trái tim và ý chí của mình cách mạnh mẽ: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Quả thật, đức tin là món quà nhưng không Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người, nhưng chỉ những ai mở lòng đón nhận và xác tín bằng chính kinh nghiệm riêng tư của mình với Chúa, đức tin ấy mới vững vàng và được triển nở. Ta đã đón nhận hồng ân đức tin từ thuở lọt lòng mẹ, tháng ngày lớn lên với bao thăng trầm của cuộc sống, đức tin ấy không chỉ là đức tin của ông bà, của cha mẹ, của xứ đạo nhưng còn là đức tin của cá nhân ta (x. Youcat, các số 22, 26). Ta được đi vào tương quan cá vị với Thiên Chúa, yếu mến Chúa và mạnh mẽ xác tín: Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa của con.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh! Con hết lòng cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương con và gìn giữ con tháng ngày. Chúa đã làm cho con được lớn lên và trưởng thành trong đức tin. Xin Chúa giúp con biết mở rộng trái tim đón nhận lòng thương xót vô biên của Chúa. Dù con ngỗ nghịch và xử tệ với Chúa, Chúa vẫn một lòng thương yêu con. Khi con co rúm và tự đóng chặt cửa lòng mình vì bao ngờ vực và sợ hãi, xin Chúa hãy cho con cảm nhận được sự hiện diện của Chúa ngay trong trái tim con. Dù con không nhìn thấy Ngài bằng mắt, nhưng Chúa vẫn dõi theo con. Xin Chúa đến cùng con và trìu mến nhìn con, ban lời của Ngài cho con: “Bình an cho con!”, để nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, con mở tung cánh cửa để đến với mọi người. Amen.
Ngày 30 tháng Tư năm 2000, trong bài giảng ngày lễ phong thánh cho chị Faustina, Đức thánh Giáo PS 2-ABC371
Ngày 30 tháng Tư năm 2000, trong bài giảng ngày lễ phong thánh cho chị Faustina, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã ấn định Chúa Nhật II Phục sinh sẽ là ngày mừng kính Lòng Thương Xót. Tin Mừng của Chúa Nhật II Phục sinh kể về việc Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ đang khi các ông cùng quây quần bên nhau, các cửa đều đóng kín. Người đến ban bình an, thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông. Người nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 22-23).
Nói về lòng thương xót của Chúa, trước hết, chúng ta phải nói đến ơn tha thứ Thiên Chúa ban cho nhân loại qua giá máu châu báu của Đức Giêsu, Con Một yêu quý. Đó là món quà vô cùng lớn lao và cũng là lòng thương xót hải hà Thiên Chúa dành cho nhân loại. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Đức Giêsu Kitô đã tự nguyện hy sinh mạng sống, làm chiên vượt qua mà chuộc lấy nhân loại tội lỗi. Chính khi được dương cao trên thánh giá, người cũng kéo nhân loại lên với mình (x. Ga 12,32). Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho con người mà còn mời gọi con người tha thứ cho nhau. Ngài đã tha cho ta món nợ “khổng lồ”,ta cũng hãy tha thứ cho nhau món nợ “cỏn con” (x.Mt 18,23-35).
Lòng thương xót của Chúa không dừng lại ở việc cứu chuộc nhân loại tội lỗi khi ban ơn tha thứ, cho nhân loại được giao hòa cùng Người mà còn đi xa hơn. Đó là Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu Kitô phục sinh. Sự phục sinh của Đức Giêsu mở đường cho đức tin của Hội Thánh lớn lên, củng cố và tràn đầy ánh sáng hy vọng. Cũng nhờ đó mà nhân loại được tham dự vào sự sống mới trong Đức Giêsu. Thật vậy, thánh Phaolô khẳng định: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì niềm tin của anh em thật hão huyền” (1Cr 15,17). Đức Giêsu thật sự đã Phục sinh. Giả như Thiên Chúa chỉ dừng lại ở việc cứu chuộc con người khi trao ban chính Con Một cho nhân loại qua cái chết trên thập giá thì đức tin của các Tông đồ, của Hội Thánh sẽ đi về đâu? Phải chăng đi vao ngõ cụt?
Sau khi Thầy Giêsu bị treo trên cây gỗ, chết cách nhục nhã, các Tông đổ đi vào sự đau buồn, sợ hãi, tuyệt vọng (x. Ga 20,19; Lc 24,13-17). Trong tình hình đó, nhóm Mười Hai có thể sẽ tan rã, ai nấy về nhà mình. Lịch sử nhân loại sẽ không có những trang sách kể về các vị anh hùng tử đạo. Nhân loại sẽ chẳng nhận biết ơn cứu độ vì chẳng còn kẻ rao giảng. Thế rồi Đức Giêsu sẽ đi vào sự quên lãng. Nhưng không. Thiên Chúa luôn sáng kiến trong tình yêu. Người đã cho Đức Giêsu trỗi dậy từ cõi chết. Các Tông đồ hết buồn lo, sợ hãi, tuyệt vọng. Các Ngài là những chứng nhân của Tin Mừng Phục sinh. Bước chân của các ngài rảo khắp năm châu rao giảng về một Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh chỉ vì yêu nhân loại. Sự sống mới được ban cho nhân loại. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực thi và bày tỏ tình thương yêu, lòng thương xót của mình đối với nhân loại. Mặc cho nhân loại vẫn tiếp tục lún sâu trong tội lỗi, Ngài vẫn tiếp tục tuôn đổ nguồn ơn phúc, nguồn ơn cứu rỗi cho con người. Vì “dù tội ta có cao biết mấy, nhưng tình Chúa vẫn cao hơn nhiều”.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương chúng con. Suối nguồn Lòng Thương Xót của Chúa vẫn tiếp tục tuôn đổ xuống nhân loại. Xin cho chúng con là những kẻ tội lỗi biết ăn năn trở về cùng Chúa,, chạy đến với Lòng Thương Xót của Chúa để lãnh nhận ơn thứ tha, cùng biết rộng lòng tha thứ cho nhau. Nhất là, xin cho chúng con biết sống trọn vẹn niềm vui, hy vọng của ngày Chúa Phục sinh.
Năm 2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong bài giảng ngày lễ phong thánh Thánh nữ PS 2-ABC372
Năm 2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong bài giảng ngày lễ phong thánh Thánh nữ Maria Faustina đã chính thức công bố Chúa nhật thứ II Phục sinh sẽ được gọi là Chúa nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa (mà ta quen gọi tắt là Lòng Thương Xót Chúa). Ngài đã mô tả về ngày lễ kính này như sau: “Theo một cách đặc biệt, đây là ngày Chúa nhật dành để tạ ơn về lòng thương xót mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho chúng ta trong suốt mầu nhiệm Phục Sinh của Người”.
Ngày lễ kính Lòng Thương Xót (LTX) cũng chính là ngày thứ tám (Octave Day) của mùa Phục Sinh như là cách thức để đưa chúng ta đến sự hiệp thông trọn vẹn vào việc Đức Kitô Phục Sinh. Ngày lễ này như là một sự hội tụ tất cả các lăng kính vào trong ánh sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Từ đó tỏa chiếu ra từng tia sáng chói lọi cao vời về tình yêu thương nhân từ và ân huệ của Thiên Chúa dành cho toàn thể thế giới thông qua sự chiến thắng của Chúa Giêsu Phục Sinh trên tội lỗi, sự chết và ma quỷ.
Việc chọn ngày Chúa nhật thứ nhất sau lễ Phục Sinh làm ngày lễ kính LTX của Thiên Chúa có một ý nghĩa sâu xa, cho thấy mối dây liên lạc mạnh mẽ giữa mầu nhiệm Phục Sinh của việc cứu chuộc và mầu nhiệm LTX. Thật vậy, các bài đọc của ba năm phụng vụ trong ngày Chúa nhật này đều dành để nói về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Chiều ngày thứ nhất trong tuần sau khi chịu chết và được mai táng, Đức Kitô Phục Sinh đã hiện đến giữa các môn đệ vốn đang còn bàng hoàng, lo âu vì những biến cố dồn dập xảy ra. Người cho các ông xem tay và cạnh sườn và nói nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (x. Ga 20,19-31).
Đoạn Tin Mừng trên mô tả việc Chúa Giêsu Phục Sinh thiết lập ra Bí Tích Hòa Giải, một trong những bí tích vĩ đại về LTX của Người. Tội lỗi đã làm con người xa rời Thiên Chúa: Ađam sau khi phạm tội thì lẩn tránh cái nhìn của Người, không dám gặp dù Người đích thân đến tìm ông.
Khi đã được thanh tẩy bằng nước qua Bí tích Rửa Tội, con người được giải thoát khỏi tội tổ tông nhưng hậu quả của tội lỗi vẫn làm mọi trật tự nơi vũ trụ, nơi con người bị xáo trộn. Thánh Phaolô đã cảm nhận rất sâu sắc: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7,19). Con người không làm chủ được bản thân của mình. Lý trí báo cho họ biết là điều ấy không đúng, không được làm, nhưng ý chí không còn vâng phục lý trí nữa mà sẵn sàng dấn thân vào điều xấu.
Thánh Gioan đã nói: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1,5), Hậu quả của tội lỗi còn làm cho con người sợ ánh sáng, sợ phải đối diện trước mặt Chúa vì tất cả những điều xấu sẽ bị phơi bày. Con người càng rời xa Chúa thì càng dễ chìm ngập trong những đam mê của tội lỗi.
Tội lỗi làm cho con người bất an, tội lỗi càng nặng bao nhiêu, lương tâm con người càng áy náy buồn phiền bấy nhiêu. Đó chính là tâm trạng của vua Đavít: “Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi, thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét.” (TV 32, 3).
Có lẽ ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về tội lỗi. Một hình ảnh rất cảm động, ngay cả những linh mục khi tĩnh tâm hằng năm cũng đều xếp hàng để được xưng tội. Những người từng ngồi tòa lắng nghe tội của người khác, nhưng khi đối diện với Thiên Chúa, cũng là những tội nhân.
Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi và tha thứ tội lỗi cho con người trong suốt lịch sử cứu độ. Trong đáp ca của ngày lễ, điệp ca: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 118,1-29) đã nhắc nhở điều đó. Và trong mùa chay, chúng ta cũng đã được nghe rất nhiều câu chuyện trong Kinh Thánh nói về Tình Yêu và LTX của Người.
Dụ ngôn ”cây vả không ra trái” (Lc 13,6-9) cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa thật vô cùng vô tận và Người vẫn kiên nhẫn chờ đợi, mong ngóng chúng ta sinh hoa kết trái theo thánh ý của Ngài. Dụ ngôn “người cha nhân hậu” (Lc 15,11- 32) cho thấy Thiên Chúa chính là người cha nhân hậu, là Đấng giàu lòng thương xót.
Và cảm động nhất là câu chuyện về người “phụ nữ ngoại tình” (Ga 8,2-11) khi Chúa Giê-su nói: “Tôi không kết án chị đâu!”. Đấng Thánh tinh tuyền và giàu LTX đã tha tội cho một kẻ đáng chết: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ đối với các tội nhân, và mặc cho họ phẩm giá làm người.
Lòng Thương Xót mời gọi chúng ta trở về giao hòa với Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa Giải để làm mới lại cuộc đời. Trở về với Thiên Chúa để nhận ra con người thật của mình, tôn vinh Thiên Chúa để được yêu thương hướng dẫn, để rồi không còn buông theo những đam mê trần tục tầm thường.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Tương lai của nhân loại trên mặt đất này sẽ ra sao? Chúng ta không được biết. Tuy nhiên, con người có thêm tiến bộ thì không may cũng không thiếu kinh nghiệm đớn đau. Nhưng ánh sáng của lòng thương xót Chúa sẽ chiếu sáng đường đi cho con người trong thiên niên kỷ thứ ba.”
Ngài cũng cho rằng chỉ khi nào con người cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại thì con người mới có thể “nhìn vào anh chị em của mình với đôi mắt mới, với thái độ vị tha và liên đới, đại lượng và tha thứ”.
Sáng thứ Sáu 04-03-2016, trước khi chủ sự nghi thức sám hối tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến khoảng 500 tham dự viên của khóa học về tòa trong. Khóa học nhằm giúp các chủng sinh và linh mục mới chịu chức cử hành đúng đắn Bí Tích Hòa Giải.
Ngài nhấn mạnh: “Ai cũng có thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha yêu thương luôn chờ đợi tất cả con cái Người, nhất là những ai lầm lạc hay những người xa cách. Bí Tích Hòa Giải là nơi đặc biệt để cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy luôn luôn quay về với Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa Giải để ngụp lặn trong lòng thương xót của Người như Thánh vương Đavít đã làm:
Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Người lầm lỗi của con. Con tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa,” và chính Người đã tha thứ tội vạ cho con.
Câu ‘Ngày Thứ Nhất Trong Tuần’ mang nhiều í nghĩa quan trọng. Ngày thứ nhất được hiểu là PS 2-ABC373
Câu ‘Ngày Thứ Nhất Trong Tuần’ mang nhiều í nghĩa quan trọng. Ngày thứ nhất được hiểu là ngày đầu tiên, ngày tiên khởi, bắt đầu một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của sự sống lại của chính Đức Kitô.
Thứ nhất ‘Ngày Thứ Nhất Trong Tuần’ chính là ngày đầu tuần, Đức Kitô, sống lại từ cõi chết, hiện ra với các tông đồ. Trước đó, các ông lo sợ trốn sau cửa gài then, Đức Kitô hiện đến với các ông, báo hiệu cánh cửa mộ an táng Đức Kitô đã mở toanh. Tảng đá lớn che cửa mộ đã được lăn sang một bên. Ánh sánh thiên nhiên lọt vào, thắp sáng mộ tối. Từ nơi mộ tối, Đức Kitô, Ánh Sáng sự sống trường sinh bước ra, đem tin vui cho các môn đệ, thắp sáng niềm tin nơi các ông, củng cố đức tin các ông. Ngày thứ nhất cũng là ngày hoàn thành lời Đức Kitô tiên báo trước khi chịu khổ nạn; sau ba ngày Ngài sẽ sống lại vinh quang và hẹn gặp các môn đệ tại Galilê- Mk 14,28.
Người ta nói khi cánh cửa này đóng lại, cánh khác mở ra. Lạm dụng ơn tự do Chúa ban, con người chọn phạm tội, mang tội vào trần gian. Sự Phục sinh của Đức Kitô đã mở cửa nước trời cho những ai yêu mến Đức Kitô, chọn ngài làm Chúa đời họ. Tường thuật Sáng thế Kí 1:1 Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Đức Kitô Phục Sinh mang ánh sáng Phục Sinh vào cuộc đời Kitô hữu, sưởi ấm con tim sỏi đá, nguội lạnh. Ngài ban bình an, sự sống cho môn đệ. Hai lần Ngài nói cùng các ông:
‘Bình an cho anh em’. c. 20.
Thứ hai, Sau bữa Tiệc Li, các môn đệ sống trong lo âu, sợ hãi. Gặp Đức Kitô Phục Sinh, lòng các ông tràn ngập niềm vui. Niềm vui phá tan bóng tối sợ hãi. Đức Kitô đổi mới cuộc đời các ông. Ban cho các ông niềm vui mới, tương lai mới, hạnh phúc mới. Từ đây các ông trở thành con người mới, đời sống mới, hướng dẫn bởi Thần Khí Phục Sinh.
Thứ ba, ‘Ngày Thứ Nhất Trong Tuần’, Đức Kitô Phục Sinh cho các ông xem vết thương nơi tay, chân và cạnh sườn Ngài. Vết thương chưa lành xác nhận Đức Kitô hiện diện trước mắt các ông chính là Đức Kitô bị đóng đanh ba ngày trước. Điều này nói lên tâm tình yêu mến, quan tâm đặc biệt Đức Kitô dành cho các ông.
Thứ tư, ‘Ngày Thứ Nhất Trong Tuần’ cũng là ngày các môn đệ nhận sứ mạng mới, sứ mạng mang tin yêu, ơn tha tội cho những tâm hồn thống hối, ăn năn.
‘Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em’.c.21.
Các tông đồ nhận cùng sứ mạng Đức Kitô nhận từ Chúa Cha. Từ đây các ông rao giảng cho đến mọi nơi, khắp cùng trái đất.
Thứ Năm, ‘Ngày Thứ Nhất Trong Tuần’ cũng là ngày các môn đệ nhận Thần Khí Đức Kitô Phục Sinh. Ngài thổi hơi vào các ông phán bảo,
‘Hãy Nhận Lấy Thánh Thần’. c.22.
Đức Kitô hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ, được thực hiện. Thần Khí Đức Kitô Phục Sinh luôn đồng hành cùng các môn đệ trong bước đường truyền giáo.
Thứ Sáu, ‘Ngày Thứ Nhất Trong Tuần’ cũng là ngày đầu tiên các môn đệ nhận cuộc sống mới. Sau khi Đức Kitô bị bắt, các ông như chiên lạc, chạy tứ tán, hy vọng tiêu tán. Đức Kitô tìm kiếm các ông, ban cho các ông sứ mạng mới, rao giảng Tin Mừng, tin Đức Kitô Phục Sinh và ơn tha tội Đức Kitô trao ban, khởi đầu là tên trộm biết ăn năn, thống hối trên thập tự.
Thứ Bảy, ‘Ngày Thứ Nhất Trong Tuần’ cũng là ngày Đức Kitô hiện ra với các môn đệ. Thomas vắng mặt ngày hôm đó. Tám ngày sau, gặp lại Đức Kitô, Thomas đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin,
‘Lậy Chúa, lậy Thiên Chúa của tôi’ c.28.
Lời Thomas thú nhận vang vọng lời người trưởng đội quân thú nhận ba ngày trước đó. Lúc Đức Kitô tắt thở ông cũng đấm ngực tuyên xưng
‘Quả thật, Người này chính là Con Thiên Chúa’. Lc 23,48.
Hai câu, nói trong hai hoàn cảnh khác nhau, nói trong hai ngày khác nhau, và nói về cùng một người- Đức Kitô. Câu đầu nói về người mới chết- Đức Kitô tắt thở; câu sau nói về người mới sống lại – Đức Kitô Phục Sinh.
Chúng ta xin ơn nhận được niềm vui Phục Sinh như các tông đồ cảm nhận trong ngày ‘Thứ Nhất Trong Tuần’.
Lòng thương xót là gì? 2/ Đức Giê-su hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa như thế nào? PS 2-ABC374
1/ Lòng thương xót là gì? 2/ Đức Giê-su hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa như thế nào? 3/ Chúng ta thực thi lòng thương xót để Loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay như thế nào?
Câu chuyện minh hoạ:
Một ngày rất đẹp trời, tôi bắt gặp một người đàn bà dân tộc Thái, trạc tuổi 45. Chị xin gặp tôi có việc gấp. Tôi vui vẻ chào chị và mời chị vào phòng khách nói chuyện. Với vẻ mặt âu sầu và lo lắng của chị, tôi đoán ngay chị đang có chuyện buồn. Tôi làm mục vụ truyền giáo nơi đây nên tôi biết khá rõ về chị này. Gia đình nghèo xơ xác và còn bị bệnh tật triền miên. Tôi chủ động bắt chuyện và chị ta kể: thưa cha. Như cha biết con là người dân tộc, không phải là con chiên của cha, nhưng con không thể không đến với cha được vì có nhiều người giới thiệu, mong cha thông cảm và tha lỗi cho con. Tôi trấn an chị: không sao đâu chị! Cha đến đây là để gặp gỡ và nếu được cha sẵn sàng giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn mà. Chị biết không đạo của cha là đạo yêu thương cơ mà.
Vì thế, cha lên đây để cố gắng sống yêu thương hết mọi người mà không phân biệt lương dân hay sắc tộc, nhất là những người nghèo chị ơi. Ồ vậy con cám ơn cha. Con cứ sợ vào gặp cha sẽ bị nạt và đuổi đi. Giờ con bớt lo lắng rồi. Được tôi ngỏ lời như vậy, chị ta bắt đầu giãi bày: thưa cha, năm nay gia đình con gặp khó khăn nhiều quá, vợ chồng bệnh tật triền miên, con cái thì nheo nhóc mà còn ốm yếu suốt. Vì thế, dù ốm những con cũng cố gắng đi ra Hà nội làm thuê để kiếm đôi đồng để vừa chữa bệnh vừa góp chút ít cho cuộc sống gia đình. Nhưng cha biết không, ra làm được mấy tháng con bị bệnh và phải đi bệnh viện. Do chưa có tiền nên con phải vay nặng lại hết 7 triệu và hôm nay gần 7 tháng là hết 21,718,000 đồng. Con đã trả được 7 triệu tiền gốc, còn lại là số tiền con phải trả là 14,718,000 đồng ạ. Giờ con cứ bị người ta gọi điện thoại và hỏi nợ liên tục. Con không biết làm sao chỉ nghe nói đến cha là con làm liều chạy đến nhờ cha giúp đỡ. Tôi nghe xong thấy thương chị và gia đình quá. Tôi nói chị cho cha 2 ngày để trả lời chị nhé. Sau đó chị về với một niềm hy vọng. Còn tôi, tôi bắt đầu cầu nguyện với Chúa xem sao. Trong lúc đó, tôi nhắn tin cho một chị ân nhân ở Mỹ trình bày sự việc như trên và mọi người biết không? Chị ấy đồng ý ngay. Sáng hôm sau tôi gọi điện thoại cho chị kia và bảo cha đồng ý giúp chị trả sổ tiền đó nhé. Chị đi ra ngân hàng cùng cha nhé.
Thế là hai chúng tôi đi ra ngân hàng để làm thủ tục xoá nợ. Tới nơi, tôi hỏi cô Văn phòng về tên tuổi của người phụ nữ đáng thương này và sổ tiền nợ như thế nào. Được biết đúng sự thật như thế. Tôi nói ngay rằng tôi sẽ trả nợ cho người này. Xin ghi biên lại xoá nợ nhé. Cô Văn phòng làm ngay và tôi đã trao số tiền mặt là 14,718,000 để trả nợ cho họ. Lấy xong giấy biên lai, tôi trao cho người phụ nữ đáng thương và chào tạm biệt nhau từ đó.
Ngày nay một số người cho rằng người Công Giáo vô tâm với thế giới bên ngoài mà chỉ chủ tâm lo cho bản thân mình là Giáo hội, Giáo Phận, Giáo xứ, Giáo họ hoặc là chỉ những người đồng đạo. Liệu câu nói đó có thật sự đúng với lối sống của chúng ta hằng ngày không?
Nói như vậy thì hoàn toàn không đúng vì Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 1 đã xác định cách rõ ràng như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ.” Như vậy, tất cả chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận để sống tương quan với mọi người, với vũ trụ vạn vật vì tất cả đều là anh chị em của nhau trong Gia đình Thiên Chúa. Nhưng làm sao để chúng ta nối kết được với mọi người và vũ trụ vạn vật? Phải chăng đó là thực thi lòng thương xót? Nhưng làm sao chúng ta thực thi được lòng thương xót của chính mình nếu chúng ta không gặp gỡ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô? Chính Ngài là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa mà chúng ta cần bén rễ sâu để từ đó chúng ta ra đi Loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay.
1/ Lòng Thương Xót là gì?
Theo từ điển Webster, lòng thương xót là “ý thức cảm thông với nỗi đau của người khác kèm theo ước muốn làm vơi đi nỗi đau đó”. Như vậy, thương xót nghĩa là biểu lộ lòng xót xa, đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn. “Thương: đau lòng. Xót: thương sâu xa. Lòng thương xót là sự đau lòng, xót xa trước nỗi bất hạnh của người khác, thường được thể hiện bằng hành động cụ thể, như việc giúp đỡ hay ủi an.” Theo Hồng Y Kasper: “Chữ misericordia trong tiếng La Tinh có nghĩa đen là có tâm hồn gần người nghèo (miseri); có quả tim cùng đập một nhịp với người nghèo.” Theo đó, lòng thương xót rất gần nghĩa với lòng nhân hậu. Nhân: lòng thương yêu; hậu: sâu nặng. Nhân hậu: lòng thương yêu sâu nặng. Người có lòng nhân hậu luôn mong muốn và cố gắng thực hiện điều tốt cho người khác.Theo cựu giáo sư giáo luật ở Tübingen, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng cho Hợp nhất tín hữu Kitô dưới triều Đức Gioan-Phaolô II thì lòng thương xót là “thuộc tính thần thánh chiếm chỗ đầu tiên”, “thành ngữ diễn tả Thiên Chúa là tình thương”, Đấng “biểu lộ Chúa đoái thương đến con người và đến thế giới qua lòng thương xót.” Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về những định nghĩa này dưới đây.
2/ Đức Giê-su hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa như thế nào?
Chúa Giê-su là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Trước hết, hiện thân nơi việc chấp nhận làm người dầu là Con Thiên Chúa để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 4,16-17). Khi giáng sinh, Đức Giêsu được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1,23). Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta là vị Thiên Chúa gần gũi, thân thiện, là nơi chúng ta nương ẩn, là sức mạnh, là tình yêu và là nguồn ơn cứu độ của chúng ta. Trong hành trình sứ vụ công khai, Đức Giêsu xuất hiện như một một sứ giả hay chứng nhân của Lòng Thương Xót Thiên Chúa Cha để xoa dịu nỗi đau và giải thoát con người.
Khi nhìn thấy đám đông dân chúng đã quá mệt mỏi và kiệt sức không người chăn dắt, Đức Giê-su chạnh lòng thương xót họ cách trìu mến (x. Mt 9,36). Khi thấy những hoàn cảnh đau yếu bệnh hoạn tật nguyền và bị quỷ ám, Người thương xót họ cũng như chữa lành cho họ (x. Mt 14,14 tt; Mc 5,19). Bên cạnh đó, chính Đức Giêsu đã luôn luôn chủ động đến gặp gỡ những người tội lỗi, thu thuế và giúp họ hoán cải như hình ảnh ông Matthêu, Giakêu hay bà Maria Mađalêna,…Hơn nữa, Đức Giê-su là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa khi dám chấp nhận chết một cách nhục nhã trên Cây Thập Tự chỉ vì yêu thương nhân loại. Một vị Thiên Chúa diễn tả tình yêu tột đỉnh và Lòng Thương Xót vô ngần cho người mình yêu, đó là nhân loại chúng ta.
Đặc biệt hơn, chúng ta bắt gặp một Đức Giê-su, hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa ngang qua bài Tin Mừng của Chúa nhật II Phục Sinh cũng là Chúa nhật của Lòng Thương Xót rất thiết thực và cụ thể. Lòng thương xót của vị Thiên Chúa Phục Sinh nơi Đức Giê-su được biểu lộ qua việc hiện ra để trấn an và xoa dịu những nỗi buồn, nỗi mất mát và sợ hãi của các môn đệ thân yêu sau khi Ngài chịu chết trên cây Thánh giá. Mặt khác, lòng Thương Xót của Thiên Chúa Phục Sinh ngang qua Đức Giê-su với những lời chúc lành, nhất là chúc bình an cho các Tông đồ nói riêng và nhân loại nói chung: Bình an cho anh em. (Ga 20, 19.21.26). Sự bình an của Chúa là sự bình an đích thực. Sự bình an của Đức Giê-su ban tặng chính là món quà vô giá đến từ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta chỉ đón nhận được sự bình an đích thực đó khi chúng ta cố gắng tìm gặp liên lỉ và khiêm tốn núp bóng trong Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Ngoài ra, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa luôn luôn cảm thông và tha thứ. Lòng Thương xót của Thiên Chúa luôn sẵn sàng đáp lại những đòi hỏi và tìm kiếm của con người. Điều này đã diễn tả cách rõ ràng nơi Tin Mừng hôm nay qua hình ảnh của ông Tôma. Ông đã không tin khi nghe nói Chúa Giê-su sống lại và hiện ra với anh em mình. Ông sẽ chỉ tin khi thấy tỏ tường bằng tay bằng mắt con người Chúa Giê-su qua các dấu đinh hay vết thương. Lòng tin và sự đòi hỏi của ông Tôma đã được Chúa lắng nghe, đón nhận và cho thoả mãn cái nghi ngờ trong 8 ngày sau đó.(x. Ga 20, 26-29) Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nơi Đức Giê-su Phục Sinh quả thật gần gũi, thân thiện và thương mến ngang qua sự đồng hành, khích lệ, an ủi và giải thích Lời Chúa và bẻ bánh của ‘Người Bạn Giê-su’ với các môn đệ trên đường Emmaus. (x. Lc 24, 13-35)
Quả thật, khi nói đến hình ảnh Đức Giê-su hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có những lời rất ý nghĩa và sâu sắc trong Tông Chiếu Misericordiae Vultus: “Chúa Giêsu Kitô là khuôn mặt của lòng thương xót Chúa Cha. Những lời này có thể tổng hợp sâu sắc mầu nhiệm của đức tin Kitô. Lòng Thương Xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Ðức Giêsu thành Nazareth, và đạt đến đỉnh cao nơi Người. Chúa Cha, “giàu lòng thương xót” (Eph 2,4) (Misericordiae vultus, số 1). Và Ngài nói tiếp: “Các dấu chỉ Người thực hiện, đặc biệt trước những kẻ tội lỗi, người nghèo, người bị gạt ra ngoài lề, người bệnh, và những người đau khổ, tất cả đều nhằm giảng dạy về lòng thương xót. Mọi thứ nơi Người nói lên lòng thương xót. Không có gì nơi Người thiếu vắng lòng từ bi” (Misericordiae vultus, số 8). Tuy nhiên, đón nhận được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Khổ Nạn và Phục Sinh, chúng ta cũng được mời gọi thực thi lòng thương xót trong đời sống thường ngày cho những anh chị em chung quanh chúng ta. Vậy,
3/ Chúng ta thực thi lòng thương xót để Loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay như thế nào?
Như Đức Giê-su là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa qua mọi nơi và mọi lúc trong mọi hoàn cảnh, là những môn đệ của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi trở thành chứng nhân hay là hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa ngang cách sống, lời nói cử chỉ nhằm giúp mọi người ở khắp mọi nơi nhận ra được dung mạo Lòng Chúa Xót Thương để được hưởng ơn cứu độ.
Nơi bài đọc I (Cv 4, 32-35): Lòng thương xót của Thiên Chúa đã được thực thi qua lối sống hiệp nhất nên một. Tình huynh đệ – tình anh em đã được nảy sinh nhờ sức mạnh của đức tin vào Đức Giê-su Phục Sinh. Nhờ đó, mối tình tương ái được nở rộ và lan toả qua việc biết cùng nhau góp tiền, góp của cải làm đồ chung nhằm giúp đỡ lẫn nhau, cùng chia sẻ yêu thương cho nhau để không ai bị loại ra ngoài. Một lối sống quan tâm và nối kết với nhau của cộng đoàn tiên khởi ki-tô giáo thật tuyệt vời. Phải chăng đây là cách sống mà mỗi chúng ta trong thời đại hôm nay được mời gọi nỗ lực duy trì, nỗ lực phát huy sống hăng say mỗi ngày nhằm tạo nên một nhịp cầu yêu thương hơn là bức tường hận thù ghen ghét.
Quả thật, thực thi lòng thương xót phải chăng là nên một với nhau, là tâm đầu ý hợp, là cùng nhau chia sẻ vui buồn, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chịu, là nảy sinh tình huynh đệ, là trở nên anh em một gia đình hiệp nhất và gắn bó mà không so đo hay tính toán. Điều này, Thánh Gioan Tông Đồ cũng mời gọi chúng ta một cách khẩn thiết nơi Bài đọc II (1 Ga 5, 1-6):“Anh em thân mến, phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.” Như thế, đón nhận được Lòng Thương Xót hay sự tha thứ của Chúa, chúng ta không thể không tỏ lòng xót thương hay tha thứ cho anh em đồng loại. Nhờ đó, dấu chỉ của sự Loan báo Tin Mừng được thể hiện rõ nét ngang qua cung cách sống. Nhưng ai là người thân cận của tôi? Ai là anh em của tôi? (x. Lc 10, 25-37) để tôi gặp gỡ, yêu thương và giúp đỡ? Phải chăng đó là thực thi lòng thương xót đối với những kẻ bé mọn, những hoàn cảnh khó nghèo, những hoàn cảnh bị bỏ rơi, những người tội lỗi,…Khi làm như thế là chúng ta đang làm cho chính Chúa (x. Mt 25, 31-45).
Nhằm làm rõ hơn về việc thực thi lòng thương xót để Loan báo Tin Mừng, chúng ta không thể không nhắc đến “Thông Điệp Fratelli Tutti” của Đức Thánh Cha Phanxico tất cả anh chị em, về tình huynh đệ và tình bạn xã hội, được ngài ký tại Assisi chiều thứ bẩy 3/10/2020 và được công bố trong cuộc họp báo sáng chúa nhật 4/10/2020 tại Vatican: trước nhiều bóng tối đó, thông điệp đối lại bằng một tấm gương sáng ngời, đem lại niềm hy vọng, đó là tấm gương của người Samari nhân hậu. Qua đó, ĐTC nhấn mạnh rằng, trong một xã hội băng hoại đang quay lưng lại với khổ đau và hoàn toàn “mù tịt” với việc chăm lo cho người đau yếu và dễ bị tổn thương (số 64-65), tất cả chúng ta được mời gọi – như người Samari nhân hậu – trở thành người thân cận với tha nhân (81), bằng việc vượt qua những thành kiến, tư lợi, những rào cản lịch sử và văn hoá. Thật vậy, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm trong việc xây dựng một xã hội biết đón nhận, hội nhập và nâng đỡ những ai quỵ ngã và đau khổ (77). ĐTC còn khẳng định rằng tình yêu bắc những nhịp cầu và “chúng ta được sinh ra cho tình yêu” (88), ngài khuyến khích cách đặc biệt các tín hữu nhận ra Đức Kitô nơi nhưng ai bị loại trừ (85). ĐTC Phanxicô mời gọi chúng ta “ra khỏi chính mình” để thấy nơi tha nhân “sự tăng trưởng của hiện hữu” (88). Phải chăng đây là một trong những cách thực thi Lòng Thương Xót để Loan báo Tin Mừng một cách có hiệu quả và phù hợp chân lý Tin Mừng mà Đức Thánh Cha muốn chúng ta cố gắng thực hiện mỗi ngày?
Thật vậy, lễ “Lòng Thương xót Chúa” mà Đức thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Người!” Để nhờ đó, sau khi được chiêm ngắm và lãnh nhận Lòng Thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Phục Sinh, chúng ta cũng được mời gọi trở thành chứng nhân của lòng thương xót đối với mọi người qua đời sống yêu thương, tha thứ, giúp đỡ, quảng đại, hy sinh và phục vụ trong đời sống hằng ngày. Đây phải chăng là một trong những phương cách hữu hiệu để loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay.
Có 2 câu thơ thiền chẳng rõ tác giả: “Tìm gì giữa chốn trần gian? Dạ thưa tìm chút bình an đủ rồi.” Người đời chỉ tìm chút bình an thôi, còn Đức Giêsu Phục Sinh ban cho ta bình an trọn vẹn: “Bình an cho anh em!” Làm thế nào để ta được bình an đó?
Trong sứ điệp Phục Sinh 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Chúa Giêsu Phục sinh mang dấu vết của các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn. Những vết thương này là dấu ấn vĩnh cửu của tình yêu Người dành cho chúng ta. Tất cả những ai trải qua thử thách đau đớn về thể xác hay tinh thần đều có thể tìm thấy nơi nương tựa trong những vết thương này và qua các vết thương ấy, nhận được ân sủng của niềm hy vọng không làm thất vọng.” Chỉ khi biết nương tựa vào những vết thương của Đức Giêsu, ta sẽ được bình an đích thực. Ngược lại khi chấp nhận những vết thương vì tình yêu, ta là người mang đến bình an cho người khác.
Một tuần sau khi Chúa sống lại, Tôma đòi kiểm tra các vết thương của Thầy Giêsu vì ông không tin Ngài sống lại. Đấng Phục Sinh sẵn sàng cho ông thấy và kiểm chứng các vết thương nơi thân thể Ngài, lúc đó ông tin. Nghĩa là chỉ nhờ các vết thương trên thân thể Đức Giêsu mà Tôma tin Chúa sống lại, và nhờ đó ông được bình an vì ông đang rất hoang mang trong cuộc tử nạn của Đức Giêsu.
Các thương tích nơi thân xác Đức Giêsu là dấu chứng cho một tình yêu bất diệt, tình yêu phải trãi qua đau khổ. Chính vì thế những đau khổ, những bất hạnh trong cuộc đời sẽ không mãi là màu đen tang tóc, nhưng nó sẽ rực sáng lên như ánh bình minh trong ngày Chúa Phục Sinh. Những vết thương, những đau khổ, bất hạnh đó sẽ được hóa giải trong Đấng Phục Sinh. Tìm bình an nhưng phải chấp nhận đau thương có phải là một nghịch lý?
Các bác sĩ Nga tại bệnh viện thành phố Blagoveshchensk đã giành được sự ngưỡng mộ không chỉ ở Nga mà còn trên toàn thế giới, sau khi quyết định ở lại mổ tiếp cho một bệnh nhân đau tim trong khi bệnh viện đang bốc cháy hôm thứ Sáu Tuần Thánh.
Không chỉ có các bác sĩ, lính cứu hỏa cũng được tuyên dương là các anh hùng. Các nhân viên cứu hỏa đã mất hơn hai giờ để dập tắt ngọn lửa ở thành phố Blagoveshchensk. Họ cho biết họ đã sử dụng quạt để xua khói ra khỏi phòng mổ và chạy dây cáp điện để tiếp tục cung cấp điện cho phòng mổ.
Nếu sợ thương tích, và sợ chết thì các bác sĩ đã chạy thoát thân và bệnh nhân chắc chắn sẽ chết, vì đây là ca phẫu thuật tim. Kết quả sau đó là một niềm vui trào tràn của mọi người, nhất là các bác sĩ vì họ đã mang đến sự sống cho người khác. Chính họ được bình an và làm lan tỏa bình an đó đến khắp nơi vì họ đã chấp nhận mang thương tích, chấp nhận cái chết để người khác được sống.
Cốt lõi niềm tin Kitô giáo là tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Sự Phục Sinh của Ngài không phải như một thứ bùa chú để hóa giải nạn kiếp cho con người. Cũng giống như đến với Lòng Thương Xót Chúa không phải là để tìm dấu lạ… Nhưng nhờ ánh sáng Phục Sinh ta sẽ vững tin hơn giữa đêm tối của cuộc đời; đến với Lòng Thương Xót Chúa để ta biết Chúa yêu thương ta đến tận cùng. Giữa đêm tối, giữa biển cả mênh mông, giữa những đau khổ mà ta còn một điểm tựa thì chắc chắn ta sẽ được bình an.
Những ai đến với Chúa chỉ vì những lợi ích nhất thời thì cuộc đời của họ sẽ không bao giờ được bình an đích thực. Đó là lập luận của những người đi lễ theo thời vụ, khi nào cuộc sống ổn định thì đi; đi lễ “1 năm chỉ là 1 lần” vào dịp Tết để xin lộc của Chúa theo kiểu bùa chú để lấy “hên”. Niềm tin đích thực là xác quyết rằng đâu là hạnh phúc đích thực của ta?
Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu để trốn tránh con đường thập giá, để tìm kiếm con đường dễ dãi. Ngài đã chiến thắng bằng những vết thương của Ngài. Satan lại tiếp tục cám dỗ con người để tin theo thứ tôn giáo chỉ để thỏa mãn những nhu cầu của con người. Vì vậy không lạ gì người ta chạy theo Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ; Câu Lạc Bộ Tình Người trá hình để bỏ ra một số tiền hầu được giải nghiệp; dẹp bỏ bàn thờ tổ tiên trong gia đình để theo một giáo phái nào đó vì họ cho mình một số tiền, cất cho mình cái nhà; thậm chí hạ bàn thờ Chúa để được tự do tìm kiếm lợi lộc, vì thấy bàn thờ Chúa người ta không giúp đỡ…
Sự Phục Sinh của Đức Giêsu để cho ta một niềm hy vọng chiến thắng. Lòng Thương Xót Chúa để cho ta một điểm tựa chắc chắn ta không bị bỏ rơi. Đây không phải là một liều thuốc trấn an cho tinh thần; nhưng nhìn vào thương tích của Đức Giêsu qua 5 vết thương, qua máu và nước từ trái tim Chúa để để ta được bình an giữa cuộc đời đầy gian nan thử thách, tiếp thêm sức mạnh để ta vững bước tiến về phía trước.
Những vết thương của Đức Giêsu cũng thúc đẩy ta chấp nhận những đau thương vì yêu trong cuộc đời.
Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm, tháp nhập vào Thánh Tâm Chúa – suối nguồn PS 2-ABC376
Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm, tháp nhập vào Thánh Tâm Chúa – suối nguồn ơn cứu độ – nơi này chúng ta múc lấy tình yêu vĩnh cửu. Với tâm tình cảm tạ lòng lân tuất vô bờ bến của Chúa, chúng ta cũng không quên thể hiện lòng cảm mến sâu xa đến Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, người đã công bố thánh lễ mừng kính Lòng Chúa Thương Xót qua chứng tá của Thánh nữ Maria Faustina.
Nhìn ngắm Thánh Tâm, cảm nghiệm lòng Chúa xót thương, chúng ta nguyện luôn luôn chúc tụng, hát khen “tình thương của Chúa con sẽ hát ca, con sẽ hát hoài, con sẽ ca ngợi suốt đời” (Tv 89). Đồng thời, qua đó, chúng ta biết nhìn lại con người yếu đuối, tội lỗi của ta, để rồi chúng ta luôn biết sống sao cho phải đạo, cho xứng đáng là người con của Chúa ‘nhân từ, chậm bất bình và rất mực khoan dung’. Chắc hẳn quý ông bà và anh chị em ít nhiều cũng cảm nghiệm, được ơn ích mỗi lần kính lòng thương xót Chúa! Một điều chúng ta xác tín là: lòng Chúa thương xót vô vàn, không bờ bến, trải qua muôn ngàn thế hệ, lớn lao hơn tội lỗi, sự yếu hèn của con người chúng ta. Qua các bài đọc Phụng vụ hôm nay, chúng ta càng được thấy rõ điều này.
‘Lòng Chúa thương xót’ quy tụ dân Chúa, cộng đoàn tín hữu đầu tiên sống trong niềm thành tín, yêu thương và hiệp nhất với nhau (x. Cv 4, 32-35). Mỗi người một vẻ, nhưng tất cả đều đồng tâm nhất trí với nhau qua việc kinh nguyện và nghi thức bẻ bánh (Thánh lễ). Và quan trọng hơn, khi họ tiếp xúc với Lời Chúa, với chính Sự sống của Chúa, cộng đoàn tín hữu đầu tiên đã ‘ra đi’ loan truyền lòng xót thương của Chúa mà họ đã được trải nghiệm bằng việc chia cơm sẻ áo, trợ giúp lẫn nhau, yêu thương tha nhân. Lòng Chúa thương xót thúc giục mỗi chúng ta hãy mạnh dạn ra khỏi tính ương hèn, lười biếng, nếp sống bàng quang, do dự, hờ hửng, dửng dưng, v.v… của bản thân, để đưa chân tiến bước chia san sau khi miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tâm hồn được chan chứa nguồn vui. Lòng Chúa thương xót mời gọi chúng ta sống cho nhau, chứ không chỉ biết ‘co cụm’, ‘quanh quẩn’ những nơi làm thoả mãn tính ích kỷ của ta, những chốn xa hoa, phố phường, những ‘ngôi biệt thự không hồn’ của cộng đoàn, của chúng ta.
Hơn nữa, Lòng Chúa Thương Xót giúp chúng ta thắng hết sự yếu hèn, thú vui, đam mê, tật xấu thế gian (x.1Ga 5, 1-6) Con người chúng ta thường có xu hướng lên án, kết tội anh chị em qua những toà án di dộng. Mỗi khi chúng ta ngồi lê đôi mách, chúng ta thường kể tội của anh chị em, những người không hiện diện, và vô hình dung chúng ta xét xử anh chị em với sự tham gia của vị thẩm phán đó là chúng ta, vị luật sư bào chữa là chúng ta, và nhân chứng cũng là chúng ta. ‘Toà án di động’ này chẳng đem lại cho chúng ta nguồn vui, niềm thảnh thơi nào, ngoài sự áy náy, nuối tiếc trong tâm tư của chúng ta! Nếu chúng ta thực sự tôn sùng, kính yêu lòng Chúa Thương Xót, chúng ta hãy đón nhận suối nguồn lân tuất, biết tha thứ, biết chiến thắng những thói quen không lành mạnh, những gì là trái ngược với lòng Chúa xót thương mà Ngài luôn luôn trao ban cho chúng ta. Và qua sự chia san, tương thân, tương ái, ‘người ta sẽ nhận biết anh em chính là môn đệ của Thầy’ (x. Ga 13, 35), là ‘môn đệ của lòng vị tha, bác ái, bao dung’.
Sau cùng, Lòng Chúa Thương Xót vượt trên tính kiêu ngạo, lòng nghi ngờ, sự yếu đuối của con người có lòng tin yếu hèn (x. Ga 20, 19-21). Chẳng có gì mà đáng lo ngại, tội lỗi cho bằng ‘nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta’ (Thánh Gio-an Maria Viên-nê). Giữa xã hội thực dụng này, mọi điều đều quy ra vật chất, quy ra những gì mà ‘sờ, đụng, cân, đo, đong, đếm’ được. Kể cả lòng tin, giá trị, văn hoá, v.v… cũng bị mặc cả, ra giá như món đồ thông thương. Nhưng nhờ lòng Chúa Thương Xót, người Ki-tô giáo chúng ta nhận ra điều gì làm đẹp lòng Chúa, sự gì trái ngược với đạo nghĩa làm người, và làm con Thiên Chúa. Lòng tin cần được cụ thể hoá, cảm nghiệm một cách sâu xa và mang tính cá vị như một cuộc gặp gỡ, đối diện với người mình đặt trọn niềm tin. Lòng tin không dựa trên lời ra tiếng vào, lời rêu rao, nghe ngóng từ ‘những đài truyền thanh di động’, mà lòng tin đích thực, chân chính phải dựa trên mối tương quan giữa người với người, cuộc gặp gỡ giữa hai tâm hồn, giữa hai con tim sống động như cuộc gặp gỡ giữa hai thầy trò: Chúa Giê-su và thánh Tô-ma. Lòng tin đích thực không ‘ngặm nhấm quá khứ tệ hại’ hay ‘trông mong, kỳ vọng mong lung về tương lai’, nhưng lòng tin chân chính biết chấp nhận và vun trồng cho ‘hiện tại’ dẫu cho nó không sáng sủa là bao! Hơn thế, lòng tin không bám víu, lệ thuộc vào luật lệ, điều lệ, mà là phụ thuộc vào lối sống, thái độ, động lực của chúng ta. Lòng Chúa thương xót mời gọi chúng ta can đảm vượt thắng tính đố kỵ, ngờ vực, kỳ vọng mong lung hay thần tượng hoá, v.v…Hơn thế nữa, lòng chúng ta ích kỷ vô hạn, nhưng nếu được đặt vào Lòng Chúa xót thương vô hạn thì sự hữu hạn của chúng ta sẽ được sự vô vàn, bao dung vô hạn của Chúa lấp đầy!
Nguyện xin Chúa cho tâm hồn khép kín của chúng con biết mở rộng, cho đôi mắt ‘bệnh tật’ của chúng con được sáng tỏ, cho đôi tai ‘điếc lác’ của chúng con mở toan ra, cho đôi môi ‘thâm’ của chúng con được trở nên trong sạch, và cho đôi tay, đôi chân ‘bại liệt’ của chúng con được chữa lành hầu chúng con sẵn sàng đón nhận, ra đi với người anh chị em như lòng Chúa thương xót vô bờ bến mà Ngài hằng dành trọn cho nhân loại. Amen.
Chúa Giê-su nói với ông Tô-ma: “Phúc thay những ai không thấy mà tin.”
Vậy thì những ai tin vào Thiên Chúa thì được hồng phúc gì? Người tin vào Chúa Giê-su, bước PS 2-ABC377
Vậy thì những ai tin vào Thiên Chúa thì được hồng phúc gì?
Người tin vào Chúa Giê-su, bước theo Ngài và vâng nghe lời Ngài dạy sẽ được những hồng phúc cao quý sau đây:
Hạnh phúc vì có Chúa là Cha
Nguyễn Thị Martine là một cô gái da đen, tóc quăn, xấu xí, là con rơi của một người lính da đen trong đội quân viễn chinh Pháp chiếm đóng Việt Nam thời kỳ trước năm 1954.
Vào năm 1972, khi lên 18 tuổi, vì gia cảnh nghèo đói, Martine vào làm phu bốc vác cho nhà máy xi-măng Hà Tiên, cuộc đời rất đen tối, lầm than.
Một ngày cuối năm 1972, khi Martin đang bốc vác xi-măng, người cậu của cô vội vã chạy đến báo tin mừng: “Martine! Đi về thay đồ gấp, chuẩn bị đi gặp ba mày đang làm tổng thống…”
Martine sững sờ! Cô không ngờ người cha da đen mà cô chưa hề thấy mặt, tên là Bokassa, đã rời khỏi Việt Nam sau hiệp định Genève năm 1954, hiện nay là tổng thống của Cộng hòa Trung Phi, đang cố sức tìm kiếm cô để đưa về ở với ông trong dinh tổng thống tại vương quốc giàu kim cương này.
Từ thân phận người làm thuê khốn khổ, bỗng trở nên đứa con cưng của tổng thống Trung Phi giàu có; đây là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời, không gì sánh được.
Tuy nhiên, hạnh phúc của Martine chẳng là gì so với hạnh phúc khác triệu lần lớn lao hơn của mỗi người chúng ta, khi nhận ra mình có một người Cha rất tuyệt vời là Thiên Chúa. Ngài là đấng đầy quyền năng, đã tạo nên trời đất muôn vật, đặc biệt là đã sinh chúng ta ra đời làm con chí ái của Ngài. Ngài là Cha thật của chúng ta, Ngài muốn chúng ta gọi Ngài cách thân thương là Abba, tức là Bố ơi! Cha yêu ơi! Và Ngài luôn yêu thương, ấp ủ chúng ta như đứa con thơ bé trong tay Ngài.
Phúc thay cho những ai nhờ tin mà biết mình có một Người Cha tuyệt vời như thế.
Hạnh phúc có Chúa Giê-su cứu độ
Ngày 29 tháng 7 năm 1941, tại trại tù Auschwitz (Ao-suyt) của Đức quốc xã tại Ba Lan có một tù nhân trốn trại và chiếu theo luật trại tù, hễ có một tù nhân trốn trại, thì viên cai tù sẽ chọn 10 tù nhân khác, đem giam vào hầm đói cho đến chết. Francis (Franciszek) là một trong mười tù nhân bất hạnh này; Anh kinh hoàng tột độ vì thần chết đã điểm mặt anh. Anh chết điếng người vì không bao giờ còn gặp lại vợ và các con yêu quý!
Thế rồi, một tù nhân khác là cha Kolbe, dũng cảm tiến lên trước mặt viên cai tù, đề nghị ông ta cho ngài chết thay cho Francis, vì thương xót anh nầy.
Được cai tù chấp thuận, cha Kolbe cùng với 9 người tù bất hạnh khác đi vào hầm tử thần chịu giam đói đến chết. Nhờ cha Kolbe chết thay cho mình, Francis được thoát chết và sau này được về đoàn tụ với vợ con.
Tương tự như thế, nhờ Chúa Giê-su chết thay cho ta, mỗi người chúng ta được thoát khỏi án phạt đời đời.
Tội lỗi loài người gây ra khiến họ phải mang án phạt đời đời trong hỏa ngục. Thế nhưng, Thiên Chúa không nỡ để cho người tội lỗi phải sa vào hỏa ngục nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân. Ngài nộp mình chịu khổ nạn để đền tội thay cho chúng ta và chịu chết đau thương để chúng ta khỏi sa vào hỏa ngục.
Tin vào Chúa Giê-su để được Ngài đền tội thay, chết thay cho mình được sống và sống đời đời trên thiên quốc là nguồn hạnh phúc vô cùng vô tận!
Hạnh phúc vì có Chúa Thánh Thần dẫn ta về quê trời
Tàu thuyền trôi dạt giữa biển khơi trong đêm đen mà không có hải đăng, không có la bàn chỉ hướng thì thật là tai hại khôn lường.
Mỗi người chúng ta cũng như tàu thuyền trôi dạt trên biển đời đen tối, sóng gió hãi hùng; nếu không được Chúa Thánh Thần là Ánh sáng soi đường chỉ lối, thì không ai có thể nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, không ai có thể đạt tới quê trời.
Lạy Chúa Giê-su,
Còn rất nhiều hồng phúc khác sẽ đến với những người ai tin vào Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài. Xin gia tăng thêm lòng tin cho chúng con để cuộc đời chúng con thêm hoan lạc và chan hòa hạnh phúc. Amen.
Chúa Nhật Hai Phục Sinh cũng là Chúa Nhật Lòng Chúa thương xót. Chúa thương ban nhiều ơn PS 2-ABC378
Chúa Nhật Hai Phục Sinh cũng là Chúa Nhật Lòng Chúa thương xót. Chúa thương ban nhiều ơn phúc cho ta, và ơn lớn nhất phải chăng là ơn làm cho lòng ta nên giống Lòng Chúa thương xót.
1. Lòng Chúa thương xót. Chúa Phục Sinh đã cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Ngài – đó là những thương tích của Lòng Chúa yêu thương đến độ dám chết vì yêu. Chúa Phục Sinh vẫn mang thương tích trên mình nghĩa là Chúa sống lại không rời xa chúng ta, mà Người vẫn mang nỗi đau của nhân loại để cảm thương, xoa dịu và chữa lành. Chúa Phục Sinh cũng ban ơn tha thứ cho thấy Lòng Chúa thương xót luôn lớn hơn tội lỗi.
2. Lòng con tin yêu. Lời Chúa trong Bài đọc 1 diễn tả tấm lòng tin yêu tuyệt vời của cộng đoàn các tín hữu ban đầu.
a) Lòng yêu. Mọi người một lòng một ý, hiệp nhất, đoàn kết, yêu thương nhau.
b) Lòng chung. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.”
c) Lòng quảng đại. “Tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.”
d) Lòng tin. Ông Tô-ma lúc đầu cứng lòng, nhưng sau đó đã mạnh mẽ tuyên xưng lòng tin Đức Giêsu là Thiên Chúa. Lòng tin đã giúp cho các môn đệ Chúa thắng được thế gian. Vì thế, các tượng ảnh Lòng Chúa thương xót thường có câu về lòng tin: “Lạy Chúa Giêsu, con xin tín thác vào Chúa.”
Thực sự để có tấm lòng như cộng đoàn tín hữu ban đầu là điều rất khó. Thế nên, chúng ta rất cần dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa.” Khi xưa, Chúa Giêsu Phục sinh thổi hơi đổi đời các môn đệ, thì nay xin Chúa tiếp tục thổi tinh thần yêu thương của Ngài cho chúng ta, để tất cả những ai tin Chúa cũng có tấm lòng thương xót giống Ngài. Amen.
Thánh Tôma được dán cho cái mác là “người kém tin”. Khi Chúa hiện ra, ban bình an và tỏ PS 2-ABC379
Thánh Tôma được dán cho cái mác là “người kém tin”. Khi Chúa hiện ra, ban bình an và tỏ cho họ biết Ngài đã sống lại, tất cả các tông đồ đều có mặt, còn ông Tôma không hiện diện nơi trong ngôi nhà được đóng kín. Do vậy, khi ông trở về, đồng bạn thuật lại sự kiện Chúa đã hiện ra với họ cho ông nghe, thì ông không tin, thậm chí còn gay gắt tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Do thái độ cứng rắn của thánh Tôma, khi Chúa hiện ra cho các ông một lần nữa, lần này Thánh Tôma có mặt ở đó, Ngài mới khiển trách ông là kẻ kém tin.
Nếu theo tường thuật của Tin Mừng, thì không ai chối cãi, Tôma là kẻ kém tin. Nhưng nếu nhìn vấn đề với thái độ thiện cảm hơn, hay nếu ta tìm hiểu nhiều hơn về thái đọ và cảm xúc của thánh Tôma xuất hiện trong các đoạn Tin Mừng khác, thì ta thấy ngài nói như vậy vì là ngài quá yêu mến Chúa và ước mong được gặp thấy Ngài. Ngài nói lời gay gắt với anh em mình chắc chắn vì ngài cảm thấy tiếc nuối cho cái số xui xẻo không may của mình. Có thể thánh Tôma suy nghĩ rằng, tại sao Chúa không cho mình thấy dung mạo của Ngài cách trực tiếp mà lại phải nhờ lời tường thuật của các anh em? Làm sao các anh em được may mắn hơn mình? Bao nhiêu câu hỏi xảy ra trong đầu của ngài khi nghe anh em nói một tin “động trời” là Thầy mình đã phục sinh. Phải chăng ngài đang “ghen tỵ” với các anh em khác?
Điều này cũng dễ hiểu, chẳng hạn khi chúng ta ngưỡng mộ một nhân vật nổi tiếng nào đó, hay khi chúng ta muốn gặp một ai mà lâu nay ta thường mong muốn, bỗng nhiên có người nói nhân vật này vừa ở đây, mới rời khỏi nơi này trong chốc lát. Nếu lúc chúng ta không có mặt ở đó thì làm sao chúng ta dám tin. Một ví dụ khác, chẳng hạn nếu có ai đó nói rằng hôm qua Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa thăm Việt Nam, họ được gặp và bắt tay với ngài. Làm sao chúng ta tin được tin này, vì Đức Giáo Hoàng thăm Việt Nam lúc này là chuyện khó có thể. Đối với Tôma, việc Chúa hiện ra cho các ông lại càng khó tin hơn, vì Chúa đã báo trước Ngài sẽ Phục sinh và sống lại nhưng sống lại như thế nào từ trước tới nay các ông chưa hề hay biết, hơn nữa nếu Ngài sống lại thì tại sao Ngài không ở lại với các môn đệ lâu hơn mà chỉ hiện ra trong chớp nhoáng?
Nếu lúc đó thánh Tôma tin thì ngài cũng có quyền nghĩ rằng tại sao Thầy mình lại đối xử với mình không công bằng như thế? Tại sao lại không để cho ngài được thấy như các tông đồ khác? Thánh Tôma có quyền suy nghĩ như thế, vì ngài là người rất trung thành và có lòng yêu mến Thầy mình. Kinh thánh có đoạn viết, khi Đức Giêsu muốn vào miền Giuda để chữa cho ông Lazaro sống lại, các tông đồ biết nếu Chúa vào nơi đó sẽ gặp nhiều nguy hiểm, họ biết người Do thái đang tìm cách hại Chúa, họ biết nếu Chúa đi vào đó khác gì tự nộp mạng cho kẻ thù. Vì thế ai nấy đều ngăn cản không muốn Chúa đi vào, trong khi đó, với lòng trung thành và sự dũng cảm, thánh Tôma quả quyết: “Nào chúng ta cũng vào thành để chịu chết với Thầy” (Ga 11: 16).
Có thể nói, Tôma là một người rất có cá tính, nên trả lời thẳng thắn với các anh em, “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Lời này quả thực một lời thề tốt hay như một thách thức đối với Thầy mình. Tuy nhiên, Chúa biết rõ tâm can của Tôma, Chúa biết rõ ngài là người có lòng ao ước được tận mắt thấy Chúa Phục sinh, nên sau đó tám ngày, khi có mặt đầy đủ các tông đồ thì Chúa hiện ra với họ. Quả thật, khi thấy Chúa, khi Chúa đưa tay, chân và cạnh sườn cho Tôma thấy thì ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Một tình huống “rất Tôma”, nếu trước đây ngài “cứng tin” chừng nào thì bây giờ ngài tỏ ra mạnh mẽ và tôn phục Thầy mình hơn ai hết. Đúng là một người dám sống dám chết, dám nói dám làm, dám hận dám yêu.
Nói cách công bằng, nếu cho rằng, trong lần thứ hai khi Chúa hiện ra với các môn đệ, Ngài trách móc và bảo Tôma “đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Lc 27), thì ta cũng phải công nhận rằng nhờ thánh Tôma mà chúng ta mới dám tin. Chúng ta phải biết ơn về thái độ cương quyết của ngài, vì nhờ câu nói của ngài mà Chúa đã trực tiếp dạy bảo: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Lc 20, 29). Lời dạy bảo này không chỉ còn dành cho thánh Tôma nhưng dành cho mọi người chúng ta, vì bằng con mắt thịt, chúng ta chưa thấy Chúa bao giờ, phải nhờ con mắt đức tin chúng ta tin rằng Chúa đã phục sinh; Ngài đã được Chúa đưa về trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và luôn ban ơn lành cho chúng ta.
Quả thật, phúc cho chúng ta, vì chưa bao giờ chúng ta thấy Chúa nhưng chúng ta đã tin Chúa từ rất lâu, tin cả hàng chục năm và hứa trung thành, nhất quyết không từ chối Chúa bao giờ. Phúc cho chúng ta, khi sống trong thời đại khoa học kỷ thuật con người chỉ biết đi tìm thỏa mạn vật chất và bỏ quên đời sống tinh thần, khi nhiều người dùng khoa học để bác bỏ đức tin, nhưng chúng ta vẫn một mực tin tưởng vào Chúa là Chúa của lòng thương xót. Hạnh phúc lắm thay! Có được hạnh phúc lớn lao thế này, chúng ta càng biết ơn một thánh Tôma đầy cá tính và một mực trung thành.
Xin cho mỗi chúng ta, biết sống khiêm nhường, nghiêng mình trước tạo vật vì biết đó là sản phẩm do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng nên. Xin cho chúng ta luôn sẵn sàng mở rộng con tim để đón Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta, để Ngài đổ đầy niềm vui Phục sinh cho chúng ta. Và xin cho chúng ta, biết mở rộng con mắt đức tin để thấy được Thiên Chúa hiện diện nơi tạo vật, nơi mọi anh chị em và trong mọi sự.
Trong xã hội hiện đại hôm nay, việc kể lại một người đã chết ba ngày rồi sống lại sẽ bị coi PS 2-ABC380
Trong xã hội hiện đại hôm nay, việc kể lại một người đã chết ba ngày rồi sống lại sẽ bị coi là chuyện cổ tích hay ảo tưởng. Tuy vậy, sự kiện Chúa phục sinh từ cõi chết là sự kiện lịch sử và là nền tảng đức tin cho các Kitô hữu. Hai ngàn năm sau cái chết của Chúa Giêsu, có nhiều người xác tín vào sự phục sinh của Chúa, nhưng vẫn có những người phủ nhận sự sống lại của Người. Người ta dựa vào những chứng lý của khoa học và dựa vào kinh nghiệm đời thường để không tin Chúa đã sống lại. Đối với chúng ta là Kitô hữu, dựa trên lời Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin”, chúng ta tuyên xưng vững vàng Đức Giêsu “ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại“. Quả vậy, trước một vấn đề mà con mắt thể lý chúng ta không nhìn thấy, chúng ta cần có đức tin. Vì nếu nhìn thấy rồi, thì đâu cần tin nữa. Chấp nhận tin như thế được Chúa tuyên bố là người có phúc. Tin vào Chúa phục sinh không phải là ảo tưởng và mù quáng. Bởi lẽ Thiên Chúa là Đấng quyền năng, từ hư vô Ngài đã dựng nên trời đất, con người và muôn vật. Nếu ở khởi đầu của lịch sử, Chúa đã lấy bùn đất mà nắn thành con người, thì nay, Chúa Cha đã cho Con của Ngài từ cõi chết sống lại là điều dễ dàng và có thể hiều được. Nhiều người phủ nhận Chúa phục sinh, bởi họ chỉ dựa trên lý luận theo kiểu của con người, mà không tin rằng Chúa quyền năng có thể làm mọi sự. Đối với Ngài, mọi sự đều có thể. Tôma, một trong mười hai tông đồ, là người đã lý luận theo kiểu con người. Ông đòi phải có những điều kiện này nọ mới tin. Nói cách khác, ông chỉ tin vào những gì ông nhìn thấy. Đây là một cách lý luận nơi nhiều người, do ảnh hưởng thuyết duy vật hôm nay. Họ chỉ tin vào vật chất và phủ nhận những thực tại thiêng liêng. Đối với họ, những gì liên quan đến thế giới siêu hình đều bị coi những điều nhảm nhí, chỉ dành cho một số người lạc hậu và dân trí thấp. Vẫn còn đó xung quanh chúng ta những Tôma, tức là những người hoài nghi sự hiện hữu của Thiên Chúa và chỉ tin vào những gì mà họ kiểm chứng bằng giác quan. Chúa Giêsu đã đáp trả những thách thức của Tôma. Tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Người đã hiện đến với các tông đồ, cùng với những thương tích trên thân thể Người. Trước đó, Tôma đã ra điều kiện để tin, như tận mắt thấy những vết thương của Chúa, thì nay Người đã cho ông thấy rõ ràng. Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa. Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Tôma không còn biết nói gì khác hơn là một lời tuyên xưng quyền năng của Thiên Chúa với niềm xác tín nơi Ngài. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình. Ngày hôm nay, xung quanh ta, Chúa Giêsu vẫn hiện diện với những thương tích do cuộc khổ nạn thập giá. Đó không còn phải là một con người mang dấu đinh và vết thương ở cạnh sườn, nhưng đó là những anh chị em đang bầm dập vì cuộc sống đầy gian nan thử thách. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã sớm nhận ra Chúa hiện diện trong Giáo Hội và nơi những người nghèo. Vì thế mà họ chuyên cần cầu nguyện, hăng hái chia sẻ và quan tâm đến những người bất hạnh. Chính Đấng Phục sinh đã dạy họ thực thi những điều đó, và liên kết họ trong tình bác ái thân thương, để rồi, qua những nghĩa cử bác ái đó, họ càng nhận ra sự hiện diện của Chúa một cách cụ thể hơn (Bài đọc I). Thánh Gioan tông đồ đã quảng diễn tình yêu dành cho Chúa và đức bác ái dành cho tha nhân đi song song với nhau không thể tách rời. Hơn thế nữa, những ai tin vào Chúa và thực thi lời dạy của Người sẽ chiến thắng thế gian và sẽ được an bình giữa biển cả ba đào đầy gian nguy thử thách (Bài đọc II). Tin vào Chúa phục sinh được kể là người có phúc. Đó là phần thưởng cho người tin. Trong chúng ta, chưa ai nhìn thấy Chúa Phục sinh như ông Tôma và các tông đồ, nhưng chúng ta tin chắc điều đó, vì Chúa là Đấng có thể làm được mọi sự. Nhờ niềm xác tín này, chúng ta được chúc phúc, giống như Đức Trinh nữ Maria, qua lời chào của bà Elisabeth: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45). “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúa Giêsu Phục sinh đang nói điều đó với tôi, với bạn và với cả thế giới hôm nay. “Tất cả những gì không thể hiểu được, ít nhằm để người ta không hiểu được cho bằng để người ta hiểu nhiều hơn” (Blaise Pascal). “Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).
Dòng sông lững lờ trôi. Những cánh bèo trôi dạt từng đám, lênh đênh. Nhìn dòng sông ta nghĩ PS 2-ABC381
Dòng sông lững lờ trôi. Những cánh bèo trôi dạt từng đám, lênh đênh. Nhìn dòng sông ta nghĩ đến dòng đời trôi chảy. Dòng sông cuộc đời cần lắm những thương yêu, cần lắm những dưỡng nuôi, bao bọc của mọi người. Đời ta lênh đênh trong nhọc nhằn vất vả hay êm ấm trong hạnh phúc? Có khúc sông êm đềm chảy, hiền lành cho ta soi bóng mỗi buổi hoàng hôn. Nhưng cũng có khúc sông chảy xiết, con nước dữ tợn, xoáy sâu và sẵn sàng nhận chìm những gì trôi qua nó. Dù ở khúc sông nào, ta cũng sẽ trải nghiệm những hương vị của tình người. Cách ta cảm nếm và đón nhận những hương vị khác nhau ấy trở thành những kinh nghiệm cho ta sống cuộc đời hạnh phúc.
Cũng như bao cuộc đời khác, cuộc đời của tông đồ Tôma cũng đã êm đềm trôi trong vị ngọt của tình yêu, là thành công, là tiếng thơm khi trở thành môn đệ của Thầy Giêsu, người Thầy mà bao tâm hồn luôn mong ngóng đợi chờ. Ông đã rất hạnh phúc khi theo Thầy. Ông cũng đã đặt trọn niềm tin tưởng nơi Thầy. Một niềm tin như những người môn đệ khác, đó là Thầy sẽ mang lại hạnh phúc, sẽ giải thoát dân tộc, là Đấng Mêsia mà ông và cả dân tộc mong đợi. Ba năm theo Thầy, cũng chia sẻ phút giây vinh quang khi Thầy được ca tụng, cũng chịu đói khát khi Thầy trò lỡ đường và chấp nhận trở thành vô gia cư.
Con sông cuộc đời bây giờ không còn là tháng ngày êm đềm nhưng chảy xiết với bao nguy hiểm cận kề. Bởi, Thầy tự nguyện đi vào chỗ chết, mặc cho anh cả Phêrô can ngăn, dĩ nhiên chính ông Tôma cũng không muốn phải đi vào con đường đầy nguy hiểm ấy. Ông bị vỡ mộng khi Thầy bị bắt, bị đóng đinh cách nhục nhã trên đồi Sọ. Thầy chết thật rồi, ông cũng rơi vào nỗi hoang mang, sợ hãi như các anh em khác. Rất có thể, đối tượng mà giới lãnh đạo Do Thái nhắm đến để tiêu diệt tiếp theo là một trong số các ông, có thể là từng người và cũng có thể là tất cả cùng một lúc. Có lẽ, chính nỗi sợ ấy đã khiến ông tách riêng ra chăng? Ông đã không ở với các anh em sau khi Thầy hiện ra. Tụ tập một chỗ thì nguy hiểm sẽ cao hơn hay nương tựa vào nhau sẽ an toàn hơn? Ông đã không có mặt khi Thầy hiện ra vì thế khi nghe các anh em khác báo tin vui “Chúng tôi đã được thấy Thầy”, ông không tin. Ông đòi phải được chạm đến Thầy, được thấy tận mắt chứ chỉ nghe nói thôi thì chưa đủ. “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Chính ngay lúc này, lòng ông không có sự bình an của Thầy, không có niềm vui Chúa sống lại.
Tám ngày sau, các môn đệ tụ họp và ông cũng có mặt. Chúa Giêsu hiện ra chúc bình an cho các ông và Ngài tỏ lòng thương xót đến môn đệ Tôma. Chúa biết rõ điều ông đòi hỏi khi muốn xác thực Thầy đã sống lại thật nên vừa khi chúc bình an cho các môn đệ, Chúa đã nói với ông “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin” (Ga 20, 27 ). Ông sấp mình xuống mà tuyên xưng rằng “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Không cần phải chạm đến nữa vì chính mắt ông đã thấy và tai ông đã nghe Thầy nói đây. Bây giờ, không gì có thể lay chuyển niềm tin ông đặt trọn nơi Chúa. Bây giờ, lòng ông tràn ngập bình an vì chính thầy đang ở với ông. Tông đồ Tôma đã tuyên xưng Thầy là Con Thiên Chúa khi trải qua kinh nghiệm được Thầy yêu thương cách đặc biệt. Từ đây, các môn đệ đều vững lòng trông cậy Chúa và ra đi loan Tin Mừng bằng một niềm tin vững vàng và một con tim rực lửa yêu mến.
Lạy Chúa! Cuộc sống của con luôn cần đến những trải nghiệm của chính mình chứ không phải chỉ nghe người khác nói. Xin cho con mỗi ngày biết cùng với chị em gặp gỡ Chúa vì chính nơi cộng đoàn, con có được kinh nghiệm yêu thương. Xin cho con nhạy bén với sự hiện diện của Chúa, cảm nếm tình yêu của Chúa từ những điều bé nhỏ hằng ngày nơi chính tâm hồn con. Amen.
Mỗi ngày sống của chúng ta là hỗn hợp nhiều hương vị và màu sắc. Có những điều hay điều dở PS 2-ABC382
Mỗi ngày sống của chúng ta là hỗn hợp nhiều hương vị và màu sắc. Có những điều hay điều dở, điều thánh thiện và tội lỗi, nhưng trong bản thân mỗi người luôn hướng về điều tốt hơn điều xấu, sự thiện hơn là tội lỗi. Cũng như khi phạm tội, chúng ta thường mong được tha thứ, được xót thương từ Thiên Chúa và mọi người xung quanh. Chúng ta thường dễ tha thứ cho người có lòng khát khao và ăn năn sám hối hơn là tha thứ cho một người cứng lòng, đa nghi. Thế nhưng, khác với quan điểm chúng ta, Chúa Giêsu đã thể hiện tình thương của Ngài cách trọn vẹn nơi chính người môn đệ của mình.
Suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày, chúng ta sẽ thấy được lòng Chúa xót thương qua những con người cụ thể như ông Ladarô, những người mù, những người bị quỷ ám,… Chúa xót thương dân chúng đã xúc phạm đến Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Chúa xót thương người trộm lành “Quả thật, Ta bảo ngươi, hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23, 42). Ngay khi Chúa sống lại, Chúa đã hiện ra với môn đệ, đặc biệt là Chúa đã tỏ tình thương cho Tôma, người môn đệ kém lòng tin.
Chúng ta thường nghe nói rằng “Thấy nhưng vẫn chưa tin hoặc không thấy thì sao mà tin được”. Môn đệ Tôma là một trong những người có lối suy nghĩ ấy. Ông đã từng được ở với Chúa Giêsu, được chứng kiến sự hiện diện của Thầy. Chúa đã chết thật rồi và điều đó đã khiến ông quả quyết“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Ông tỏ ra dứt khoát và đòi hỏi phải có chứng cớ, phải được sờ thấy ông mới tin. Ông khác với những người bệnh đã được Chúa cứu chữa. Họ luôn khắc khoải, khát khao được Chúa chữa lành. Bởi vậy, họ mong chờ từng ngày và nghe ngóng Chúa Giêsu ở đâu để đến gặp. Người phụ nữ bị băng huyết lâu năm đã được khỏi nhờ tin rằng chỉ cần sờ vào tua áo của Chúa Giêsu. Bà không cần gặp hay nói chuyện gì cả nhưng chỉ với lòng tin vào Chúa thôi. Ông Tôma đã cứng lòng tin nhưng Chúa đã dùng lòng xót thương mà tỏ mình cho ông, để đánh tan thái độ cứng lòng tin ấy. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin” (Ga 20, 27). Ông sấp mình xuống mà tuyên xưng rằng “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Được thấy Thầy, tâm hồn ông rực lên niềm tin tưởng mãnh liệt về Thiên tính của Đấng phục sinh. Chúa vẫn sẽ ở mãi với con người và hằng chúc phúc cho những ai không thấy mà tin.
Lòng xót thương của Chúa là thế đó, dành cho tất cả mọi người và luôn bao la. Chúa muốn con người có lòng khao khát tìm kiếm và bằng một lòng tin vững mạnh. Vậy lòng thương xót của Chúa được thể hiện ở đâu? Thật sự, mỗi người sẽ tự trải nghiệm về lòng thương xót Chúa dành cho riêng mình ngay lúc hạnh phúc, thành công hay cả những khi đau khổ và thất bại. Cảm nhận sự hiện diện của Chúa ngay chính những điều nhỏ mà chúng ta đối diện trong từng ngày sống, và nó sẽ trở thành những điều cần thiết giúp chúng ta có khả năng nhìn thấy Chúa và nuôi dưỡng đức tin mỗi ngày thêm vững mạnh hơn.
Lạy Chúa! Xin hãy đến và chạm đến tâm hồn chúng con. Amen.
Chúa nhật thứ hai mùa phục sinh hằng năm đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn PS 2-ABC383
Chúa nhật thứ hai mùa phục sinh hằng năm đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn làm ngày lễ tôn kính Lòng Thương Xót của Chúa. Vì, các bài đọc hôm nay nhấn mạnh cách đặc biệt đến việc Chúa Giêsu Phục Sinh thể hiện lòng thương xót của Ngài qua các tông đồ và giáo hội sơ khai, như người cha ân cần lo cho con cái, giúp cho Giáo Hội lớn lên cả về đời sống đức tin và đời sống vật chất.
Bài Tin Mừng cho thấy Chúa Phục Sinh lo lắng cho các tông đồ và củng cố đức tin cho các ông, để sau này, các ông trở thành những người xây dựng đức tin nơi các cộng đoàn. Chắc chắn, biến cố thập giá đã khiến cho đức tin của các tông đồ vô cùng chao đảo. Nhiều năm đi theo Chúa, tin Chúa là Đấng quyền năng, vậy mà, trước mắt các ông, Thiên Chúa dường như chịu thua trước thế lực của sự dữ. Ngài đã bị bắt, bị người ta hành hạ, bị giết chết bằng cái chết kinh hoàng trên thập giá mà chính các ông đã chôn táng Ngài. Điều này khiến đức tin của các ông bị giằng co: Thầy Giêsu có phải là Thiên Chúa quyền năng không?. Các tông đồ dường như rơi vào tuyệt vọng vì nhiều năm theo Thầy Giêsu, giờ đây dường như đã chấm dứt không có kết quả. Thêm vào đó là nỗi sợ hãi vì những kẻ hung hãn tìm cách tiêu diệt những người có liên hệ với Chúa Giêsu. Nhiều người khác thì nhìn các tông đồ bằng con mắt khinh miệt vì có liên quan đến một tử tội.
Chúa Giêsu Phục Sinh thấu hiểu tâm trạng của các tông đồ. Vào buổi chiều ngày phục sinh, Chúa đã hiện ra với các tông đồ và nói với các ông: “Bình an cho các con!”. Ơn bình an là ơn mà lúc này, các tông đồ đang rất cần để có thể vượt qua được thử thách trong cuộc sống và trong đức tin. Để củng cố lòng tin của các ông, Chúa Phục Sinh đã cho các ông xem tay và cạnh sườn của Chúa, đụng chạm đến các dấu vết yêu thương của Ngài. Điều này giúp các tông đồ vượt qua được những hoang mang nghi ngờ. Sau đó một lần nữa, Chúa Giêsu lặp lại: “Bình an cho anh em! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Có thể nói, lần thứ nhất khi ban bình an cho các tông đồ, Chúa giúp các ông lấy lại được sự thăng bằng trong tâm hồn, còn lần thứ hai này, ơn bình an của Chúa Phục Sinh, giúp các tông đồ mạnh dạn thực hiện mệnh lệnh Chúa sai đi.
Cùng với mệnh lệnh sai đi, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các ông, ban Thánh Thần và ban quyền cho các ông nhân danh Chúa để tha thứ. Hơi thở của Chúa Phục Sinh, chính là hơi thở tái tạo các tông đồ, biến đổi các ông từ tình trạng chết chóc, tê liệt chuyển sang sống động, từ con người cũ được Thánh Thần biến đổi thành con người mới, từ những con người nhút nhát thành những con người can đảm. Đặc biệt hơn, cùng với Thánh Thần, các tông đồ được trao phó sứ mạng yêu thương và tha thứ. Qua việc tha thứ , các tông đồ trở thành những người diễn tả và nối dài lòng thương xót của Thiên Chúa cho thế giới. Ơn tha thứ chính là món quà cao quý nhất của lòng thương xót mà Chúa Phục Sinh đã ban cho nhân loại.
Tình thương của Chúa Phục Sinh không phải là một sự quan tâm chung chung. Trái lại, đó là tình yêu thương cụ thể, cá biệt cho từng người. Tin Mừng Gioan kể về trường hợp của Tôma: “Vào chiều ngày Phục Sinh, Chúa hiện ra với các tông đồ, lúc đó không có mặt Tôma”. Có lẽ nỗi đau từ biến cố tử nạn thập giá của Chúa đã khiến ông hoàn toàn thất vọng, ông bỏ anh em để tự mình đi tìm câu trả lời về việc Chúa đã sống lại. Sự thất vọng của ông dường như đi đến cực đoan đến độ ông đòi hỏi: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ tay vào lỗ đinh, không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”. Câu nói của Tôma khiến cho nhiều người cho rằng ông cứng lòng, nhưng thực ra câu nói này thể hiện một tâm hồn vẫn còn khao khát được đụng chạm đến Chúa Phục Sinh, như các anh em tông đồ khác đã được nhìn thấy dấu đinh.
Chúa Phục Sinh đã thấu hiểu tâm trạng đáng thương của Tôma, Chúa đã đáp ứng sự khao khát trong ông. Tám ngày sau, Chúa hiện ra với các tông đồ, Ngài cũng ban bình an cho các ông, cách riêng cho Tôma. Chúa Giêsu đã mời gọi Tôma xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa. Chúa cho ông được tiếp xúc đụng chạm tới Chúa, từ đó Tôma đã có một kinh nghiệm đức tin hết sức đặc biệt. Lòng thương xót Chúa dành cho Tôma đã hoàn toàn biến đổi con người ông. Ông đã tuyên xưng: “Lạy Chúa của tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi!” Ông tuyên xưng Đức Giêsu không chỉ là Thầy, mà là Chúa là chủ, là Thiên Chúa Đấng tổ tiên ông tôn thờ.
Chúa Giêsu đã đón nhận lời tuyên xưng của Tôma, nhưng Chúa nói thêm: “Vì con đã thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời chúc phúc này là lời chúc phúc Chúa dành cho tất cả mọi tín hữu sau các tông đồ. Tất cả các tín hữu đều không được thấy những lần Chúa hiện ra, cũng không được đụng chạm đến vết đinh nơi Chúa Giêsu, nhưng chúng ta vẫn tin Chúa đã sống lại nhờ lời chứng của các tông đồ.
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy quyền năng của Chúa Phục Sinh hoạt động cách mạnh mẽ nơi các tông đồ, khiến các ông miệt mài đi khắp nơi để loan truyền Tin Mừng vĩ đại này cho muôn dân. Cũng vậy, các tín hữu sơ khai đã đón nhận niềm tin Chúa Phục Sinh và được Thánh Thần của Chúa quy tụ thành một dân mới, một dân đã được biến đổi nhờ sức sống và quyền năng của Chúa Phục Sinh ban cho.
Sách Công Vụ kể lại: “Các tín hữu sống đồng tâm nhất trí nên một với nhau trong cùng một đức tin”. Họ không coi thứ gì là của riêng, nhưng mọi sự đều là của chung. Họ sống tình bác ái chia sẻ với nhau, không để ai trong cộng đoàn phải thiếu thốn. Họ đem tiền bạc của cải đặt dưới chân các tông đồ, để các ông phân phát cho những người có nhu cầu. Một vài phác họa như thế cho thấy các cộng đoàn giáo hội sơ khai được gọi là các cộng đoàn phục sinh, vì họ sống sức sống của Chúa Phục Sinh. Họ làm cho lòng thương xót của Chúa được lan tỏa cách cụ thể đến với từng người.
Thưa quý OBACE! trong đời sống, nhiều khi chúng ta cũng gặp thử thách trong đức tin, nhất là khi đối diện với đau khổ, sự chết. Có những lúc thử thách dường như quá sức chịu đựng, chúng ta cũng rơi vào tình trạng tuyệt vọng và thách thức Chúa như Tôma. Tin Mừng hôm nay khẳng định rằng: Chúa Phục Sinh không bỏ rơi Giáo Hội và cũng không bỏ rơi bất cứ thành viên nào trong Giáo Hội, Ngài luôn hiện diện kịp thời để nâng đỡ cho sự yếu kém của chúng ta, chỉ có điều chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài hay không mà thôi. Chúa Phục Sinh vẫn hằng ở bên chúng ta, chúng ta có thể tiếp xúc, đụng chạm đến Ngài. Bí Tích Thánh Thể là sự hiện diện nâng đỡ của Chúa giúp chúng ta vững bước trên hành trình theo Chúa. Nơi Bí Tích Thánh Thể, chúng ta không chỉ được đụng chạm mà còn được đón rước Ngài vào cư ngụ trong tâm hồn và gia đình mình.
Lòng thương xót của Chúa vẫn đang được ban tặng cho chúng ta nơi Bí Tích Giải Tội. Nơi đây, chúng ta được cảm nhận, được đụng chạm đến trái tim yêu thương và sự tha thứ của Chúa. Cũng chính nơi Bí Tích Giải Tội, chúng ta đón nhận được ơn bình an của Chúa Giêsu phục sinh, ơn mà Ngài đã ban cho các tông đồ, khiến tâm hồn các ông được tái sinh, đổi mới.
Cộng đoàn giáo hội sơ khai ngày xưa vẫn là gương mẫu cho chúng ta ngày nay. Chúng ta sống trong Giáo Hội, và chỉ trong sự hiệp thông hiệp nhất với Giáo Hội, chúng ta mới có thể đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh. Giống như Tôma ngày xưa, khi tách rời khỏi cộng đoàn các tông đồ là Giáo Hội, đức tin của ông bị chao đảo, thử thách. Chỉ khi ông quay trở về đón nhận lời chứng của các tông đồ, đức tin của ông mới được củng cố. Và, chỉ trong Giáo Hội, cùng với Giáo Hội, Tôma mới có thể cảm nghiệm và gặp gỡ được Chúa Phục Sinh.
Xin Chúa cho chúng ta một lòng trung thành yêu mến gắn bó với Giáo Hội. Vì tin rằng, Giáo hội là Mẹ đang nhân danh Chúa Phục Sinh để nuôi dưỡng, chăm sóc từng người chúng ta. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể cho chúng ta nhờ siêng năng đến đón rước Chúa, được củng cố đức tin và sống tình huynh đệ bác ái với mọi người. Amen.
Chúa nhật II Phục Sinh là ngày Giáo hội mừng kính tuyên dương lòng Chúa Thương Xót. Đức PS 2-ABC384
Chúa nhật II Phục Sinh là ngày Giáo hội mừng kính tuyên dương lòng Chúa Thương Xót. Đức Chân phước Giáo hoàng G. Phaolô 2 đã thiết lập lễ này ngày 30/4/2000, dịp lễ tuyên phong Chân phước Faustina Kowalska lên bậc Hiển thánh. Thánh nữ là người có lòng sùng kính và truyền bá Lòng Chúa Thương Xót. Đặc sủng này của Thánh Faustina được Đức Giáo Hoàng G. Phaolô 2 ngưỡng mộ và đề cao. Vì thế, việc ấn định Chúa nhật II Phục Sinh được dành để tôn kính Lòng Chúa Thương Xót đã trở thành định hướng suy niệm mầu nhiệm Phục Sinh. Mầu nhiệm Phục Sinh là tột đỉnh của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại và biểu lộ trọn vẹn Lòng Chúa Thương Xót và muốn cứu con người khỏi thân phận phải chết, khỏi ách thống trị của ma quỷ để nhân loại được cứu độ, được sống muôn đời.
Bài Tin mừng hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy ý nghĩa sâu sa về Lòng Chúa Thương Xót và hành trình đức tin của tông đồ Thomas.
Lòng Chúa Thương Xót được biểu lộ qua việc Chúa Giêsu Phục sinh đến ban bình an cho các tông đồ, ban Thần Khí của Ngài cho các ông:
“Bình an cho anh em,
Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Sự kiện Thầy bị bắt, bị kết án tử hành và chết trên thập giá một cách thê thảm, khiến các ông kinh hoàng sợ hãi“Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái”.
Giữa lúc các Tông đồ sợ hãi, tuyệt vọng. Bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu hy vọng đã tan biến. Tâm hồn các ông giờ đây nặng trĩu ưu phiền thất vọng. Đức Giêsu Phục sinh vì yêu thương đã hiện đến với các ông để phá tan u buồn thất vọng đem lại niềm vui an bình cho các môn đệ. Đức Giêsu muốn các ông an lành, bình an, hạnh phúc, Ngài cho các ông xem“tay và cạnh sườn” những dấu vết cụ thể của cuộc khổ nạn, những dấu tích liên quan tới cái chết để minh chứng Ngài đang sống, đang hiện diện bằng xương thịt giữa các ông. Đó là bình an của Chúa Giêsu Phục sinh. Bình an của Đấng đã chiến thắng sự chết. Sự chết, điều đáng sợ nhất của loài người, sẽ đem lại sức mạnh giúp các tông đồ thắng vượt mọi lo sợ, khó khăn, đe dọa. Đó là dấu chỉ của Lòng Chúa Thương Xót. Đem lại bình an cho tâm hồn những người theo Chúa, chính là ơn thương xót Chúa dành cho con người.
Bình an là khát vọng của con người hôm nay đang sống trong một thế giới luôn âu lo vì nạn khủng bố khắp nơi. Khi bình an, người ta hỏi thi hào Dante người Italia:
– Đâu là điều ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống?
– Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: Đó là sự Bình An.
Bình an đích thực chỉ có được nơi Đức Kitô Phục sinh dựa trên nền tảng tình thương và công lý.
Đức Giêsu Ohục sinh đến ban Thần Khí cho các Tông đồ và sai các ông ra đi loan báo Tin mừng về sự tha thứ.
“Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.
ĐứcGiêsu Phục sinh đã tái tạo đổi mới các tông đồ bằng hơi thở Thần Khí. Qua hơi thở của Đấng Phục sinh, vũ trụ và con người cũng được tái sinh, đổi mới, được sống. Đó là cuộc sống đích thực của các tâm hồn không còn sợ hãi nữa nhưng mạnh mẽ, can đảm lên đường, loan báo và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót qua việc nhân danh Chúa ban ơn tha tội cho con người.
Như vậy, Ơn Thánh Thần, bình an và ơn tha tội chính là kết quả sung mãn của mầu nhiệm Phục sinh, mầu nhiệm của Lòng Thương Xót Chúa. Chính thần khí của Đức Giêsu Kitô phục sinh ban cho chúng ta sự bình an, sự sống mới như thánh Phaolô nói: “Thần khí của Người đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới”. (Rm 8, 11)
Gặp Đức Giêsu Kitô phục sinh và tiếp nhận Thần khí của Ngài, các tông đồ trở nên can đảm, an vui, hăng say làm chứng vì Tin mừng Đức Kitô phục sinh. Niềm tin vào Đức Giêsu Kitô phục sinh là nguyên lý của cuộc sống nhân loại.
Nội dung thứ hai của bài Tin mừng hôm nay là hành trình đức tin của tông đồ Thomas.
Ông Thomas vắng mặt vào buổi chiều Chúa hiện ra với 10 tông đồ. Vì không có hơi thở của Thần khí do không gặp Đức Giêsu Kitô phục sinh, tâm hồn Thomas vẫn cứng tin. Ông muốn kiểm chứng Chúa có sống lại thật không? Những điều các tông đồ thuật lại không thuyết phục Thomas?
Chúa Giêsu phục sinh đã chiều theo ý muốn của Thomas. Chúa hiện ra với ông tám ngày sau. Thiên Chúa rất kiên nhẫn và rất mực yêu thương. Khi gặp Đức Giêsu phục sinh, Thomas được nhìn thấy con người của Chúa bằng xương, bằng thịt, một vị Thầy ngày nào đầy khoan dung và nhẫn nại. Một người Thầy đầy Lòng Thương Xót. Khi gặp Đức Giêsu Kitô phục sinh, được ban Thần khí, Thomas mới sống trong con người mới và tin vào Thầy: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Thomas đã tin.Tin Thầy Giêsu là Chúa, Đấng chiếm trọn cuộc sống của ông. Tin Thầy Giêsu là Thiên Chúa, Đấng ban sự sống vĩnh cửu. Hành trình niềm tin của Thomas vào Đấng phục sinh không chỉ do nhìn thấy những dấu đinh nơi chân tay, vết đòng đâm thâu nơi cạnh sườn, mà chính là được cảm nhận sự nhẫn nại của một tình thương chờ đợi của Chúa.
“Phúc thay những người không thấy mà tin”. Đức tin là một hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa ban để ta gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và chấp nhận những chân lý mà Thiên Chúa mặc khải để chúng ta được cứu độ. Tin mừng thánh Gioan quả quyết:
“Anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, mà để nhờ tin mà sống nhờ danh Người”.
Đức tin là cần thiết để được cứu độ. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16, 6).
Xin Đức Giêsu Kitô củng cố niềm tin cho chúng ta để chúng ta sống chứng nhân về Lòng Chúa Thương Xót.
Chúng ta vừa nghe một câu chuyện mà chúng ta đã thuộc lòng từ khi còn nhỏ. Câu chuyện hôm nay PS 2-ABC385
Chúng ta vừa nghe một câu chuyện mà chúng ta đã thuộc lòng từ khi còn nhỏ. Câu chuyện hôm nay đã trở thành một gợi hứng cho rất nhiều bài suy niệm với rất nhiều khía cạnh khác nhau. Riêng tôi qua bài Tin Mừng hôm nay tôi chỉ xin chia sẽ với anh chị em một vài cảm nghĩ rất riêng tư của mình. Nói một cách rất vắn tắt tôi thấy Toma có những đức tính làm tôi nể phục.
1. Trước hết là sự minh bạch và rõ ràng trong lập trường của ông.
Tôma không phải là người trung lập. Ông có một lập trường rất rõ rệt. Ông sống quyết liệt, không sống nửa vời. Ông nhất định không chịu nói là mình tin khi ông không tin. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ của mình xuống bằng cách làm như mình không hề nghi ngờ. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng.
Đó là thái độ mà tôi tưởng Chúa cũng thích. Chính vì thế mà không những Chúa không khiển trách Tôma mà còn xem như bằng lòng với ông khi hiện ra với ông trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa không thích thái độ dở dỡ ương ương, thái độ nửa vời vì nó là một thái độ rất khó chịu và rất nguy hiểm.
Để cho người ta thấy thái độ nửa vời nguy hiểm như thế nào thì chúng ta hãy nhớ lại một ít lời trong Kinh Thánh:
Trong Tin Mừng Luca Chúa bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với nước của Thiên Chúa (Lc 9,62)
Trong sách Khải Huyền. Chúa nói với dân Laoxiđê: “Ta biết các việc ngươi làm. Ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng ta (Kh 3,15-16)
Ngày hôm nay chẳng thiếu những người giữ đạo cho có, chỉ hình thức, lạnh chẳng ra lạnh, nóng cũng chẳng ra nóng. Những người như thế đang là mối nguy cho Chúa hôm nay.
Chúng ta hãy xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tình trạng dửng dưng lạnh nhạt và lười biếng tinh thần, dứt bỏ những ươn hèn của thân xác và linh hồn để được sống lại trong đời sống mới của ơn thánh, trong hăng say yêu mến và nhiệt thành phục vụ Chúa.
Đức tính thứ hai mà tôi cảm phục nơi con người của Tôma là khi đã biết chắc chắn, ông sẽ đi cho đến cùng. Đây là đức tính của những anh hùng. Người anh hùng khi đã biết chắc chắn, họ sẽ đi cho đến cùng. Khi Tôma nói: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi” thì ông đã biết ông phải sống như thế nào rồi. Tôma không đứng ở vị trí lưng chừng. Ông không làm bộ hoài nghi chỉ nhằm chơi trò ú tim tinh thần. Sở dĩ ông nghi ngờ là vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã biết chắc rồi, ông hoàn toàn tuân phục.
Theo một cuốn sách ngoại kinh có nhan đề “Các công việc của Tôma” thì người ta thấy Tôma được mô tả là một con người rất trung thực. Sau đây là một trích đoạn có liên quan đến Tôma.
“Sau khi Chúa sống lại, các môn đệ được phân bổ khu vực để đi rao truyền Tin Mừng của Chúa cho mọi người. Mỗi người phải đến một nơi nào đó để mọi người trên khắp thế gian đều được nghe Tin Mừng. Tôma bắt thăm nhằm xứ Ấn độ. Thoạt đầu Tôma không chịu. Ông nói:
– Tôi là một người Do thái, làm sao lại có thể đến sống giữa những người Ấn độ mà truyền giảng chân lý cho họ được?
Tối đến, Chúa Giêsu hiện ra với ông và bảo:
– Này Tôma, đừng sợ, hãy đến Ấn độ và giảng ở đó, vì ân sủng của Ta ở cùng con.
Lúc đó có một thương gia tên Abbanes từ Ấn đến Giêrusalem. Ông này được vua Gundaphorus sai đi để tìm cho nhà vua một người thợ mộc giỏi để đem về Ấn độ. Tôma vốn là một thợ mộc. Chúa Giêsu đến cùng Abbanes ngoài chợ và hỏi:
– Ông có muốn mua một thợ mộc không?
Abbanes đáp:
– Muốn.
Chúa Giêsu nói:
– Tôi có một tên nô lệ làm thợ mộc và tôi muốn bán!
Rồi Chúa chỉ Tôma đang đứng đàng xa. Hai bên ngã giá và Tôma bị bán. Tờ biên nhận viết như sau: “Tôi tên là Giêsu, con trai Giuse thợ mộc, nhìn nhận có bán tên nô lệ của tôi là Tôma cho ông Abbanes, thương gia của Gundaphorus, vua dân Ấn”. Sau khi viết xong giấy bán, Chúa Giêsu đi tìm Tôma, đưa ông đến với Abbanes. Abbanes hỏi:
– Có phải người đó là chủ của anh không?
Tôma đáp:
– Phải.
Abbanes nói:
– Tôi đã mua anh từ ông ta.
Tôma yên lặng. Sáng hôm sau, Tôma dậy thật sớm để cầu nguyện, sau đó ông đến thưa với Chúa Giêsu:
– Lạy Chúa, con xin nhận bất cứ nơi nào Chúa muốn, nguyện ý Ngài được nên trọn.
Và sau đó ông lên đường.
Vâng! Đó chính là Tôma một người chậm tin, chậm thuần phục, nhưng khi đã thuận phục thì thuận phục hoàn toàn.
Câu truyện còn tiếp tục kể rằng vua Gundaphorus ra lệnh cho Tôma xây một cung điện, Tôma tâu với vua rằng ông có đủ khả năng để làm việc ấy. Nhà vua cấp tiền đầy đủ cho ông mua vật liệu và thuê nhân công, nhưng ông đem phân phát hết cho người nghèo. Ông luôn luôn tâu với vua rằng ngôi nhà đang được xây cất. Sau một thời gian nhà vua sinh nghi bèn cho gọi Tôma đến hỏi:
– Ngươi xây cung điện cho ta xong chưa?
Ông đáp:
– Bây giờ hoàng thượng chưa thể đến xem được, nhưng sau khi lìa bỏ đời này thì hoàng thượng sẽ thấy.
Thoạt đầu nhà vua muốn nổi cơn thịnh nộ và người ta tưởng là tánh mạng của Tôma lâm nguy, nhưng cuối cùng như một phép lạ, nhà vua tin Chúa. Và như thế, Tôma đã đem Kitô giáo đến Ấn độ.
Kính thưa anh chị em
Con người của Tôma là thế. Nơi Tôma, có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ, ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay. Tôma là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả. Nhưng một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cùng. Đức tin như Tôma tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi. Ông là người muốn biết rõ và sau khi đã biết, ông đã sống chết với gì gì ông biết.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ. Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau. Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ. Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi. Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Chính Chúa Giêsu đã mặc khải ước muốn của Ngài cho Thánh nữ Faustina, vị Tông đồ tiên khởi PS 2-ABC386
Chính Chúa Giêsu đã mặc khải ước muốn của Ngài cho Thánh nữ Faustina, vị Tông đồ tiên khởi của LCTX: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341).
Và Ngài hứa: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta” (Nhật Ký, số 1109). Ơn “tha thứ hoàn toàn” đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dismas đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, lúc 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào Lòng Thương Xót của Ngài.
Thiên Chúa công minh khi xét xử và ra hình phạt thích đáng khi con người phạm tội, nhưng ngay lúc đó Ngài cũng chứng tỏ lòng thương xót: Khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa ra hình phạt là phải đau khổ và phải chết, nhưng Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu con người để giải lời nguyền đó; Cain đã nhẫn tâm sát hại đứa em Abel, Thiên Chúa phạt Cain phải sống lưu lạc và bị người ta ruồng bỏ, nhưng Ngài vẫn thương xót bằng cách ghi dấu trên người Cain để người ta nhìn thấy mà không được phép giết: “Bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp bảy lần” (St 4:15).
Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh, đặc biệt trong Phúc Âm có các dụ ngôn “điển hình” về Lòng Chúa Thương Xót: Người Samari Tốt Lành (Lc 10:30-37), Con Chiên Bị Mất (Lc 15:4-7), Đồng Bạc Bị Mất (Lc 15:8-10), và nhất là Người Cha Nhân Hậu (Lc 15:11-32).
Nói về tình hiệp nhất, sách Công vụ Tông đồ cho biết: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có MỘT LÒNG MỘT Ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4:32). Đó là một thế giới đại đồng, thật lý tưởng biết bao!
Chúa Giêsu đã phục sinh – Alleluia! Thánh Vịnh gia xá nhận: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:24). Chính các Tông Đồ không còn sợ hãi nên đã can đảm “làm chứng CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI”, đó là “nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban” và “Ngài ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng” (Cv 4:33). Có điều đặc biệt là “trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4:34-35). Tình hiệp nhất được thể hiện rất cụ thể – một cách sống Lòng Thương Xót.
Điều đó chứng tỏ mọi người tràn đầy Ơn Chúa và thực sự có Chúa ngự trong tâm hồn. Khi có Chúa trong mình, người ta biết khước từ Cái-TÔI-Đáng-Ghét, biết sống đại lượng hơn, biết CHO hơn là NHẬN, biết sống VỚI và sống VÌ người khác, thể hiện cách sống Mầu Nhiệm Đức Kitô Phục Sinh.
Điệp ca “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” được lặp đi lặp lại trong Tv 118 và trong Tv 136. Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúng xô đẩy tôi, xô cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118:13-14), bởi vì “tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:15). Thiên Chúa luôn làm những việc lạ lùng, hoàn toàn “ngược đời”, ngoài sức tưởng tượng của con người: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Vì “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” và là “ngày Chúa đã làm ra”, nên chúng ta “hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:23-24). Niềm vui mừng quá lớn, không thể không nói ra.
Vừa xác định vừa định nghĩa, Thánh sử Gioan nói: “Ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1 Ga 5:1). Tôi được Thiên Chúa tái sinh, bạn cũng được Thiên Chúa tái sinh, vậy tôi phải yêu thương bạn, nếu không thì tôi chỉ là người ích kỷ và nói dối. Yêu thương cũng là thương xót. Thánh Gioan phân tích: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Ngài. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian” (1 Ga 5:2-4). Thánh Gioan nói “có nặng nề gì đâu”, thế nhưng lại không hề đơn giản, nếu không cầu nguyện và cố gắng thì không dễ thực hiện “luật nhẹ nhàng” ấy của Chúa.
Chính nhờ lòng tin mà chúng ta thắng được thế gian, nếu không tin thì không thể làm gì, điều này chứng tỏ lòng tin vô cùng quan trọng, vì thế mà Chúa Giêsu đã luôn nhắc nhở về lòng tin. Thánh Gioan đặt vấn đề: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?” (1 Ga 5:5). Câu hỏi đó cũng chính là câu trả lời. Thánh Gioan giải thích luôn: “Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ Nước và Máu; không phải chỉ trong Nước mà thôi, nhưng trong Nước và trong Máu. Chính Thần Khí Chúa là chứng nhân, và Thần Khí Chúa là sự thật” (1 Ga 5:6). Máu và nước rất mềm nhưng lại không gì mạnh bằng, thiếu máu và nước thì người ta không thể sống nổi!
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Ngài cho các ông xem để trấn an và củng cố đức tin cho họ. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20:21). Rồi Ngài thổi hơi vào họ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23). Ngài “sai đi” là Ngài trao trọng trách, nhưng Ngài cũng ban Chúa Thánh Thần để hỗ trợ chúng ta hằng ngày.
Chính Chúa Giêsu đã dùng Máu và Nước để rửa sạch tội lỗi và tái sinh chúng ta, đồng thời Ngài cũng ban Thần Khí để giúp chúng ta can đảm làm chứng về LCTX vô biên, bởi vì Ngài biết chúng ta còn yếu đuối lắm – cả thể lý lẫn tinh thần!
Chiều hôm đó, một người trong Nhóm Mười Hai là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”. Nhưng ông Tôma nói ngay: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20:25). Động thái của ông Tôma cũng chính là động thái của chúng ta, vì đôi khi ngay lúc chúng ta nói tin nhưng hành động của chúng ta lại không chứng tỏ niềm tin đó, thậm chí có khi còn hành động trái ngược!
Một tuần sau, các môn đệ lại có mặt trong nhà, lần này có cả ông Tôma. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20:27). Ui da! Sao Ngài biết vậy nhỉ? Ông Tôma hết hồn và choáng váng, liền thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20:28). Ông không nói tin hay không, nhưng câu “lạy Chúa” của ông đã nói lên tất cả. Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Nếu chúng ta thật lòng tin Chúa-Giêsu-Tử-Nạn-và-Phục-Sinh thì chúng ta có phúc hơn Tông Đồ Tôma rồi đấy!
Và Thánh sử Gioan kết luận: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà ĐƯỢC sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20:30-31).
Quả thật, LCTX mầu nhiệm biết bao! Tuy nhiên, được tận hưởng LCTX thì chúng ta phải thực thi lòng thương xót với tha nhân – không trừ ai. Thánh Phaolô nói: “PHẢI đối xử tốt với nhau, PHẢI có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4:32). Trong tâm tình đó, Tông Đồ Giuđa cũng vui mừng gởi lời chúc tốt lành tới tất cả chúng ta: “Chúc anh em được đầy tràn lòng thương xót, sự bình an và tình thương” (Gđ 1:2), và “hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời” (Gđ 1:21).
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin chạnh lòng thương chúng con. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin Thánh Faustina và Thánh Gioan Phaolô II cầu thay nguyện giúp chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Cho tới nay nhiều người đã quá quen với câu: “lò nóng củi tươi cho vào cũng cháy” của ông tổng PS 2-ABC387
Cho tới nay nhiều người đã quá quen với câu: “lò nóng củi tươi cho vào cũng cháy” của ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Câu này đã làm cho nhiều quan chức mất ăn, mất ngủ vì tội của mình sẽ bị phanh phui. Một cuộc chiến tranh giành quyền lực hay làm sạch đội ngũ cán bộ cũng làm cho bầu trời như đang sụp đổ với nhiều người.
Chỉ mấy tháng thôi mà ta đã thấy những thanh củi tươi một thời lẫy lừng phải hầu tòa liên tiếp hết tội này đến tội khác như Trịnh Xuân Thanh hay Đinh La Thăng. Rồi đến những tướng lĩnh ngành công an hay như những đại gia ngân hàng hiển hách một thời nay cũng lao vào vòng lao lý.
Nhìn vào thế sự xảy ra ta mới thấm thấm thía câu nói:
Sông kia có lúc người có khúc Dâu bể – phù phu – lắm đổi thay! Diễm phước lên voi, đừng hãnh tiến Ngừa khi xuống chó bể sa lầy Điều mà người xưa vẫn dạy là.
Thực ra, cuộc đời vốn không bao giờ ưu đãi với ta. Cuộc đời luôn đưa đến sóng gió, thử thách, nghi nan. Có người vượt qua nhưng có người đã ngã quỵ. Sóng gió có thể do tội mình gây ra nên phải chịu hình phạt của hậu quả như những quan chức sống thiếu thanh liêm. Sóng gió có thể do người khác đưa đến mà mình là nạn nhân đôi khi cũng cảm thấy mệt mỏi như khi bị hiểu lầm, bị hàm oan. . . Sóng gió có thể do thiên tai hay tai nạn dồn dập khiến ta rơi vào bế tắt tột cùng.
Trong biến cố đồi Calve các tông đồ cũng rơi vào tuyệt vọng tứ bề. Khi thì nghe xôn xao người ta bắt Thầy Giê-su. Lúc thấy quân dữ hành hung Chúa. Khi thấy đám đông la hét đòi đóng đinh Chúa. Và rồi thấy Chúa tắt hơi thở được an táng trong mồ. Bầu trời đã hoàn toàn sụp đổ nơi các tông đồ. Kẻ về quê, người lẩn trốn. Kẻ hoang mang – người tuyệt vọng.
Phúc âm hôm nay cho ta thấy khuôn mặt mang tính cách tuyệt vọng trong cô độc của Tô-ma. Phúc âm ghi lại: Chúa phục sinh đã hiện ra với các tông đồ, trừ Tô-ma. Tô-ma đã vắng mặt ngày hôm đó. Không rõ lý do tại sao vắng mặt, nhưng nếu có thể đoán với tính tình mau nản dễ bỏ cuộc của ông. Ông đã tách lìa cộng đoàn. Ông đã quá quen với những tin tức đen tối u buồn, cho nên những tin tức nào có tính cách đau thương, thất bại, bách hại thì ông mới tin. Ông không đủ lạc quan để tin vào niềm vui Chúa sống lại. Thế nên, khi nghe tin Thầy Giê-su sống lại thì ông đòi sự kiểm chứng. Ông đã hùng hồn tuyên bố: nếu tôi không xỏ ngón tay vào cạnh sườn, vào lỗ đinh ở tay, chân Chúa thì tôi không bao giờ tin. Ở đây ta thấy lòng thương xót Chúa đã khuất phục ông. Khi hiện ra với ông , Chúa không than trách ông mà còn cho ông xem những mũi đinh trên thân thể Người. Tô-ma đã thấy và đã tin.
Cuộc đời chúng ta đôi khi cũng đánh mất đi quá nhiều cơ hội, bỏ lỡ nhiều dịp may để hy vọng, để tin, để sống. . . Chúng ta bỏ lỡ đi sự hiện diện, cứu giúp của Chúa, ơn tha thứ của Chúa. Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn chìm đắm trong đau khổ và thất vọng. Có một điều chúng ta phải học nơi Tôma là ông dám làm lại cuộc đời sau khi gặp được Chúa. Tôma đã được biến đổi. Từ một con người thờ ơ lãnh đạm, nghi ngờ yếu đuối, ông trở thành một người tuyên xưng đức tin hùng mạnh: “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Tô-ma chính là mẫu gương cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những lúc chúng ta bước đi trong đêm tối của cuộc đời. Muốn buông xuôi. Muốn bỏ cuộc. Có những lúc chúng ta thất vọng muốn xa rời cộng đoàn, chẳng dám tin ai. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn. Sống trong cô đơn, thất vọng. Nhưng ông đã trở về với cộng đoàn. Ông bám vào cộng đoàn, nhờ đó mà ông tìm được niềm vui Chúa phục sinh.
Hôm nay là Chúa nhật lòng thương xót như muốn củng cố thêm đức tin cho chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ thua cuộc. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Thiên Chúa luôn thi thố lòng thương xót của mình cho những ai tin vào Người. Tô-ma cứng tin nhưng vẫn được Chúa xót thương cho xem cạnh sườn Chúa. Tô-ma đã từng tuyệt vọng nhưng lòng thương xót Chúa đã hồi phục Tô-ma trong ánh sáng sự phục sinh.
Nguyện xin Chúa Phục sinh ban cho chúng ta ơn bình an và lòng tin mạnh mẽ để có thể tuyên xưng Chúa trong mọi biến cố vui buồn trong đời. Xin cho chúng ta đừng bao giờ rời xa cộng đoàn, nhưng luôn hiệp nhất với nhau trong một đức tin, đức cậy, đức mến nồng nàn. Amen
“Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người.” (Mt 28, 7).
Galilê gợi nhắc bao nhiêu điều từ ngày đầu tiên gặp gỡ ấy, giữa Chúa Giêsu và các Tông Đồ. Từ PS 2-ABC388
Galilê gợi nhắc bao nhiêu điều từ ngày đầu tiên gặp gỡ ấy, giữa Chúa Giêsu và các Tông Đồ. Từ lời mời gọi “Hãy theo Thầy” (Mt 4, 19), các môn đệ đã bỏ chài, bỏ lưới theo Chúa, sống với Chúa. Rồi đến ngày Chúa chịu chết, các môn đệ trở về quê cũ, nhưng Chúa lại quy tụ, nhắc một lần nữa: “Hãy theo Thầy” ở điểm hẹn Galilê (Ga 21, 19).
Điểm hẹn Galilê
Có biết bao điểm hẹn Chúa với các môn đệ, nhưng tại sao lại là điểm hẹn Galilê. Ở Galilê, các môn đệ nhớ lại một kỷ niệm đẹp đầu đời của những ngày bỏ mọi sự đi theo Chúa. Lời mời gọi của ba năm trước vẫn nằm trong ký ức sống động của các môn đệ.
Galilê, là nơi chôn nhau cắt rốn của các môn đệ, lớn lên giữa làng chài, quanh năm bám với biển. Ở đó có tuổi thơ tinh nghịch trên những bãi cát, thuyền bè, những ngày bơi lội, tắm biển, phơi nắng, chạy chân trần trên bãi cát… Tuổi thơ có ngày đói, ngày no cùng với những mẻ cá, cha mẹ vất vả với sóng nước.
Lớn lên một chút rồi cũng phụ cha mẹ trong những vất vả vá lưới, kéo thuyền, ra khơi đánh bắt. Cuộc sống cứ thế cho đến một ngày, Chúa đi qua bãi biển, cất tiếng mời gọi. Một lời mời gọi như cách diễn tả trong thơ Xuân Quỳnh:
“Từ ngày nào chẳng biết
Thuyền nghe lời biển khơi
Cánh hải âu, sóng biếc
Đưa thuyền đi muôn nơi” (Thuyền và biển)
Cái ngỡ ngàng của ngày theo chân đầu tiên ấy, nhẹ nhàng mà cứ nhớ mãi. Chẳng biết vì lý do hấp dẫn từ đâu tới, lôi cuốn mãnh liệt, bỏ hết mọi sự đi theo Thầy. Galilê, một mảnh đất linh thiêng, nơi có con người – Chúa đến đặt chân trên mảnh đất này. Có lẽ Chúa biết điểm hẹn ấy là một kỷ niệm khó phai mờ nên đã hẹn gặp gỡ các môn đệ sau Phục sinh để sống lại một thời đã yêu, đã thương, đã bước theo chân. Kỷ niệm sống lại để sống những điều mới mẻ trong những gì đã tưởng chừng cũ.
Người Kitô hữu cũng có điểm hẹn đầu tiên đó, trong ngày được lãnh nhận bí tích rửa tội. Dù ngày xưa, còn thơ bé, được ẵm trên tay, cha mẹ bế tới nhà thờ để gặp gỡ Chúa trong bí tích. Cái thưở chưa biết gì ấy, làm sao có gì để lưu luyến, nhưng có đâu, để không có gì để. Nhiều nhiều lắm, tiếng Chúa gọi qua tiếng ầu ơ, đưa võng. Tiếng Chúa mời gọi qua những lời kinh, dấu Thánh Giá của người anh, người chị, của cha mẹ, dịu êm bên tai, trong những giờ kinh tối của gia đình. Tiếng Chúa gọi từng lần trong trái tim, mỗi khi hạnh phúc, từng khi đau khổ, mỗi khi ngã sa…
Rồi tuổi thơ, những ngày được đưa đến nhà thờ dự lễ, nơi mảnh đất chung của nhiều người trong xóm đạo. Dù chưa biết gì, cũng làm dấu, cũng chạy nhảy và nghịch ngơm cả trong những giờ đang cử hành Thánh Lễ. Tuổi thơ lớn lên, dần dà ý thức trang nghiêm mỗi khi đến với Chúa. Quỳ gối, đọc kinh theo chặng đàng Thánh Giá và những kỷ niệm của ngày hôn chân Chúa. Những nắm nả, những tiếng kinh, mùi dầu thơm của ngày hôn chân Chúa. Trong ngày lễ vọng Phục sinh, từng kỷ niệm ấy góp về để nhớ về một thời được bồng trên tay, xức dầu, đổ nước rửa tội, được nhắc lại trong lời tuyên xưng đức tin, rảy nước Thánh… Những điểm hẹn dấu yêu!
Galilê, những ngày sống chết với Chúa và sống với nhau.
Theo chú giải của William Barclay: Sử gia Josephus nói về dân Galilê như sau: “Bao giờ họ cũng thích cải cách, bản tính họ thích thay đổi và thích bạo động. Họ luôn sẵn sàng theo một thủ lãnh và phát khởi một cuộc nổi dậy. Họ nổi tiếng là người nóng tính và thích cãi vã. Tuy nhiên, họ cũng là những người hào hùng nhất”. Có lẽ vùng đất đầy hấp dẫn này, Chúa có kinh nghiệm về con người nơi đây.
Bắt đầu từ hội đường Nazareth, nơi Người sinh trưởng, không phải là làng quê hẻo lánh mà là một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ.
Vậy Chúa Giêsu đã kêu gọi những môn đệ đầy nhiệt huyết muốn thay đổi xã hội cách họ đang sống, để hướng tới một thế giới yêu thương hơn, bớt đi những xấu xa và bất công. Họ theo chân Chúa, vì họ nhận ra trong lời nói cũng như việc làm, “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).
Thời gian các môn đệ ở với Chúa, có biết bao buồn vui cùng với Thầy của mình, những lúc chứng kiến Chúa chữa lành, xua trừ ma quỷ, rao giảng về Nước Trời và dạy dỗ họ. Vùng đất của biết bao kỷ niệm ở Galilêa có thành Capharnaum, Nazareth. Samaria nằm giữa xứ Palestina với những con đường nối liền Nam-Bắc. Giuđêa là miền núi có thủ đô Giêrusalem và Pêrêa bên kia sông Giođan. Phía Bắc là miền Decapolis nơi dân cư phần nhiều thuộc văn hóa Hylạp.
Nơi đâu cũng có những dấu ấn kỷ niệm của một thời, những ngày tranh luận ai lớn nhất Nước Trời, tranh nhau ngồi chỗ nhất, tuyên xưng rồi lại ngăn cản Thầy không thể bị chết như thế được… Có sống với những kỷ niệm vui buồn, đau thương khi vấp ngã mới nhớ được rõ hơn từng nơi trải qua. Những kỷ niệm giờ đây Chúa lại hẹn về Galilê, để đốt nóng lên những tình yêu xưa, các tông đồ tưởng như đã hết, nay lại đã dồi dào sức sống.
Không chỉ ở Galilê, ngay trong ngôi nhà, mỗi gia đình đều có những dấu ấn kỷ niệm của những ngày hạnh phúc hay đau thương, chỗ này cha ngồi nghỉ mỗi khi mỏi mệt, nơi này mẹ đã ngồi kể những chuyện xưa cho các con, chỗ này nơi anh chị em cùng hội họp sẻ chia hạnh phúc, nơi này ngậm ngùi chia cách… Những dấu ấn từng gia đình, biết bao lần cùng nhau ôn lại, những kỷ niệm được sống lại trong những lúc gặp gỡ, chuyện vui, chuyện buồn, giờ kinh giỗ… Kể cho nhau để sống những gì tốt đẹp và để quên đi những nỗi buồn chất chứa. Đó là một phần nào đó sống chút ít kinh nghiệm như xưa Chúa hẹn gặp lại các môn đệ ở nơi chôn nhau cắt rốn.
Cộng đoàn, nhà thờ, hội đoàn, người Kitô hữu thường lui đến nhóm họp. Biết bao kỷ niệm, bao là dấu ấn thời gian ghi khắc. Những khuôn mặt thân quen, những giọng đọc, giọng hát, tiếng cười nói của những năm tháng. Những chỗ ngồi, chỗ đứng, nơi từng bước dạo, trong cũng như chung quanh nhà thờ. Có người đã ra đi và những chỗ đứng ngồi ấy vẫn còn đây. Rồi bao chuyện vui, buồn, tang tóc… nơi nhà thờ từng đưa tiễn, nơi nhóm bạn hát, nhóm, hội đoàn, cùng sẻ chia… Bao nhiêu tâm tình, nếu chỉ là đất ở, có lẽ cũng chẳng có nhiều kỷ niệm như là mảnh đất mà những tâm hồn đang cùng nhau hiệp thông cùng Chúa. Đó cũng là một phần kinh nghiệm để sống Chúa hẹn gặp tại Galilê.
Những điểm hẹn, đẹp, êm đềm và hằng cháy mãi trong lòng không nguôi. Chúa đã ghi dấu tình yêu trong mỗi trái tim chúng con, nên điểm hẹn với Chúa, với nhau, với từng gia đình, trở nên tràn nhựa sống và thêm đầy ý nghĩa cho đời sống hôm nay.
Hôm nay Phúc Âm nhắc lại việc Thánh Tôma nghi ngờ về điều đồng môn thuật lại. Điều quan trọng PS 2-ABC389
Hôm nay Phúc Âm nhắc lại việc Thánh Tôma nghi ngờ về điều đồng môn thuật lại. Điều quan trọng không phải là ông nghi ngờ về tính chất xác thực của việc thuật truyện mà chính là điều ông yêu cầu. Tôma biết rõ, ngoại trừ Thiên Chúa, điều ông yêu cầu không ai có khả năng thoả mãn. Ước mong được đụng chạm vào vết thương của Đức Kitô là điều Tôma cầu mong. Tất cả chúng ta có điểm chung giống Tôma đó là nghi ngờ bởi nghi ngờ là một phần của lẽ sống. Tất cả những bộ óc bình thường đều có nghi ngờ. Nghi ngờ về khả năng của mình, về trí nhớ, về mức độ chịu đựng và ngay cả về niềm tin. May mắn thay chúng ta sống trong hy vọng và nhờ hy vọng mà chúng ta dám dấn thân làm nhiều công việc khác nhau. Nếu không có hy vọng thì nghi ngờ làm chúng ta chùn bước. Thực ra nghi ngờ là điều cần trong cuộc sống bởi chính nhờ nghi ngờ mà con người học hỏi và khám phá ra nhiều điều mới lạ. Như thế nghi ngờ không phải luôn luôn xấu mà chính là điều cần thiết trong tiến trình tìm hiểu học hỏi. Qua thắc mắc mà chúng ta học hỏi tìm hiểu sâu thêm về tình yêu và lòng Chúa xót thương. Những gì Tôma chứng kiến chiều hôm Thứ Sáu Tuần Thánh còn ghi đặm nét trong tâm khảm của Tôma vì thế những gì bạn ông thuật lại không làm giảm đi hình ảnh Thầy mình bị đóng đanh trên thập tự. Có lẽ Tôma được xếp vào hạng người thực tiễn, nhìn hình ảnh ghi đậm trong trí nhớ có sức mạnh hơn là nghe lời tường thuật vì thế ông đòi coi bằng chính hình ảnh.
Nghi ngờ để học hỏi trái với nghi ngờ để phản bác. Nghi ngờ để học hỏi là tinh thần của người hiếu học, thích tìm tòi cho hiểu biết thêm. Nghi ngờ để phản bác có mục đích lung lạc í kiến của người khác để ủng hộ lập trường mình. Như thế nghi ngờ phản bác mang tính ích kỉ. Nghi ngờ theo kiểu của Tôma là nghi ngờ để học hỏi, bổ sung cho điều đang tin tưởng. Tôma chắc chắn nhớ điều Đức Kitô nói trước cuộc tử nạn là Ngài sẽ bị phản bội, bị nhục mạ, bị vác thập giá, chết trên thập tự và sau ba ngày sẽ sống lại vinh quang Mk 8,31. Tôma tin điều đó và ông đang đứng ở ranh giới tin vào sự sống lại của Đức Kitô nhiều hơn là sống trong nghi ngờ, thuộc về ranh giới của niềm tin nhiều hơn là ranh giới của kiến thức hiểu biết. Điều Tôma ước ao- đụng chạm vào vết thương Đức Kitô- là điều không ai cung cấp được, ngoại trừ Thiên Chúa. Tôma thương mến Thầy và ước ao được đụng chạm vào thân thể Thầy hơn là mong có bằng chứng cụ thể để tin.
Không ai có thể học hỏi, tìm tòi mà không cần đến thắc mắc, nghi ngờ bởi chính thắc mắc nghi ngờ dẫn đến khám phá mới vừa ngạc nhiên vừa thích thú. Càng nhiều kiến thức càng nhiều thắc mắc bởi thắc mắc cung cấp kiến thức và kiến thức này liên kết với kiến thức khác vì thế càng biết nhiều càng cảm thấy mình biết ít và nhỏ bé. Kiến thức thường ngầm chứa điều bí ẩn vì không ai có thể học biết hết bí ẩn của ngành mình đang nghiên cứu. Mọi cố gắng tìm tòi, học hỏi đều đòi tính chất liều, nếu đòi biết chắc trăm phần trăm trước khi dấn thân hành động sẽ dẫn đến tình trạng lí thuyết nhiều hơn thực hành. Khi thánh Gioan Tẩy Giả trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Đức Kitô Ngài là Đấng Messiah hay là chúng tôi còn phải chờ thêm nữa Gn 29,27. Đức Kitô không đáp lại là đúng hay sai nhưng Ngài nói với sứ giả của Gioan. Về nói cho Gioan biết điều mắt các ông thấy và tai các ông nghe. Như thế Đức Kitô cho sứ giả biết thuật lại cho Gioan nhiều dữ kiện mới để Gioan thẩm định sự việc. Thắc mắc đó là loại thắc mắc tốt, nghi ngờ tốt bởi chính điều nghi ngờ đó làm cho Gioan yên tâm biết sứ mạng sửa đường cho Chúa Cứu Thế của ông đã hoàn chỉnh. Thắc mắc chân thành, đúng đắn về đức tin thường dẫn đến hiểu biết bất ngờ, đầy thích thú trong hy họng. Tôma mong mỏi đặt tay vào lỗ đinh vào cạnh sườn Thầy nhưng khi Thầy đến ông không làm điều đó nhưng lớn tiếng thưa ‘Lậy Chúa con, lậy Chúa của con’ điều ông ấp ủ trong tâm trí, từ lâu ông mong nói ra, giờ đây được bộc lộ. Đức Kitô đã nói với ông
‘Bởi con thấy Thầy nên con đã tin, phúc cho ai không thấy mà tin’ Gn 29,29
Đức tin của chúng ta đặt nền tảng trên Lời Chúa, không thấy nhưng vẫn tin. Hôm nay cũng là Chúa Nhật Lòng Chúa Xót thương, chúng ta cầu xin học hỏi từ Đức Kitô, thực hiện với khả năng mình lòng thương xót tới anh chị em đang cần đến chúng ta.
Chúa Kitô đã phục sinh. Sự phục sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa PS 2-ABC390
Chúa Kitô đã phục sinh. Sự phục sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa nhòa bất cứ một dấu ấn nào của thánh giá trên thân thể Người.
Hôm nay, dù đã sống lại, đã chiến thắng khải hoàn, thân xác phục sinh chói ngời đã cùng quyền năng Thiên Chúa bước vào vô biên, bước vào vĩnh cửu, nhưng bây giờ hiện ra với các môn đệ, cũng chính là Hội Thánh sơ khai mà Chúa đã thiết lập, thân xác phục sinh rạng rỡ ấy vẫn còn y nguyên dấu của thánh giá.
Cả hai lần Chúa hiện ra cùng Hội Thánh của Người đều có chung một cách thức. Thánh Gioan ghi nhận:
– Chính trong ngày Phục sinh, ngay khi hiện ra, “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”. Nơi cánh tay, nơi cạnh sườn ấy, dấu thánh giá không phai nhòa: Vẫn còn đó, nguyên vẹn vết thương của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu. Chỉ sau khi xem tay và cạnh sườn bị thương tích như thế, các môn đệ mới hết nghi ngờ, mới “vui mừng vì xem thấy Chúa”. Như vậy dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ .
– Nhưng lần ấy, thánh Tôma không có mặt, thánh nhân nhất quyết không tin. Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra một lần nữa, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn, dứt khoát hơn. Chúa không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa còn lên tiếng: “Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin”.
Trước dấu thánh giá còn in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Một lần nữa, thánh Gioan lại cho thấy, dấu thánh giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.
Khi Chúa cho xem tận mắt các vết sẹo trên thân thể. Đó cũng là vết hằn của thánh giá không hề phai, vết hằn của thánh giá mãi mãi đi theo Đấng Cứu Thế bước vào vĩnh cửu.
Tôi vẫn xác tín rằng, đức tin mà không có thử thách, không có sự tôi luyện, sẽ khó có thể trưởng thành. Sự trưởng thành của đức tin cần thiết để mỗi cá nhân đối diện cùng những va đập trong biển cả cuộc đời và chịu trách nhiệm với chính mình, với tình yêu của mình với Đấng mà mình chọn làm đối tượng để tin, để trao tình yêu.
1. Nếu gọi những thử thách, thậm chí những thách thức gây đau khổ là thánh giá mà bất cứ ai theo Chúa đều mang gánh, thì mỗi lần nhìn lại đời sống của Hội Thánh, tôi nhận ra, từ khi bắt đầu thành lập đến lúc xây dựng và phát triển, Hội Thánh không lúc nào không mang dấu thánh.
Chính thánh giá hun đúc đức tin của Hội Thánh, giúp Hội Thánh mạnh mẽ hơn, can trường hơn. Thánh giá làm cho Hội Thánh càng bám chặt vào Chúa Kitô, càng thấy mình chịu cùng một bản án với Chúa Kitô. Vì thế, đau khổ chẳng những không làm Hội Thánh mất đức tin, ngược lại, còn giúp Hội Thánh nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô trong chính đau khổ và trong đời sống thường nhật của mình. Thánh giá trở thành bằng chứng bảo đảm đức tin của Hội Thánh.
2. Với kinh nghiệm của mình, tôi cũng nhận ra, mỗi khi rơi vào những hoàn cảnh tăm tối, bi đát, tôi thường:
– Cầu nguyện nhiều hơn. – Tìm đến Chúa múc lấy sức mạnh và lòng can đảm giúp mình vượt qua. – Tin tưởng và phó thác chính mình trong tay Chúa. – Xin Chúa giúp tôi hiểu và cảm thông với người đau khổ.
– Những lúc đau khổ quá sức, tôi có cảm giác như một chiếc lồng úp xuống chặng hết mọi lối đi, bao phủ hết mọi hy vọng, lấp hết mọi ánh sáng, tôi chỉ còn biết ngả mình vào lòng Chúa, để mặc Chúa toan tính y như cánh lục bình để mặc dòng sông đưa đẩy.
– Trong đớn đau, tôi cũng từng xin Chúa tha thứ, nếu vì đau khổ của tôi mà người khác có thể bị lây lan, bị khổ cùng. Hoặc vì sự thiếu hiểu biết, thiếu tình yêu của bản thân mà mình đã từng gây nên đau khổ cho anh chị em và tự chuốc lấy đau khổ, tôi càng muốn xin lỗi Chúa và xin mọi người tha thứ hơn.
– Trong đớn đau, tôi cũng hiến dâng lên Chúa như việc đền tội cần thiết để đền tội mình và đền thay cho mọi người tội lỗi. – Nhiều lần tôi dâng đau khổ như hy sinh khả dĩ cầu nguyện cho việc truyền giáo của Hội Thánh. – Nhiều lần tôi xin Chúa thánh hiến đau khổ của tôi để mang lại nhiều lợi ích, nhiều sự cần thiết cho đời ơn gọi và cho thánh chức của tôi. – Tôi xin Chúa biến đau khổ thành dụng cụ giáo dục tôi để tôi trung thành với Chúa hơn, tin tưởng, cậy trông vào Chúa hơn. – Tôi xin Chúa dùng tôi để sáng danh Chúa. – Tôi mong, vì đau khổ của tôi mà nhiều người được lợi ích thiêng liêng. – Tôi cũng cầu nguyện thật nhiều cho hoàn cảnh hay cho người nào có ý gieo nỗi thương đau cho tôi. Và như Chúa Giêsu xin ơn tha thứ cho kẻ hại mình, tôi khẩn cầu tha thiết: “Lạy Chúa, xin tha tội cho chúng con”.
Có thể nói, trong đau khổ, thậm chí trong đau khổ dữ dội, có thể giúp chúng ta nhận ra khuôn mặt thánh giá của Chúa Kitô.
Và trong ơn Chúa, trong tình thương được Chúa giữ gìn và trong sự cầu nguyện, trong quyết tâm giữ vững lòng tin của bản thân, và luôn luôn trong khiêm nhường, một khi nhận ra khuôn mặt thánh giá của Chúa Kitô, chúng ta có thể hãnh diện mà khẳng định rằng: Dấu thánh giá là bảo đảm đức tin của chúng ta.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Phục Sinh năm B tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và PS 2-ABC391
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Phục Sinh năm B tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và những thành quả mà biến cố này đem lại trong suốt Mùa Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần.
Cv 4: 32-35
Đoạn trích sách Công Vụ này trình bày cuộc sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi: chia sẻ cho nhau nhu cầu cần thiết trong cuộc sống hằng ngày như cơm ăn áo mặc.
1Ga 5: 1-6
Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh đã biến đổi những mối quan hệ giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa.
Ga 20: 19-31
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho các Tông Đồ, đặc biệt là thánh Tô-ma, qua người môn đệ cứng lòng tin này, Ngài nhắn gởi đến tất cả chúng ta: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
BÀI ĐỌC I (Cv 4: 32-35)
Trong suốt Mùa Phục Sinh, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ trình bày cho chúng ta một cái nhìn bao quát trên cuộc sống cộng đồng tiên khởi, cộng đồng Ki-tô hữu tại Giê-ru-sa-lem.
Bố cục và nội dung Như chúng ta biết, sách Công Vụ bao gồm hai phần: phần thứ nhất nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, vạch lại thuở ban đầu của Giáo Hội; phần thứ hai được dâng hiến cho hoạt động truyền giáo của thánh Phao-lô, mà thánh ký Lu-ca là người đồng hành và là môn đệ của thánh nhân: tác giả tường thuật những biến cố mà mình được dự phần vào hay biết rất rõ.
Để mô tả thời kỳ mà tác giả đã không được trải nghiệm, thánh Lu-ca đã lợi dụng thời gian sống hai năm ở Pa-lét-tin trong khi thánh Phao-lô bị giam cầm ở Xê-da-rê (59-60), để điều tra, tìm hiểu những chứng nhân mắt thấy tai nghe. Chúng ta thấy những dấu vết của sự tra cứu tận nguồn này ở nơi văn phong, từ vựng, những ngữ điệu sê-mít điểm xuyến phần thứ nhất của sách. Trong khi đó, tác giả biên soạn phần thứ hai tùy thuộc vào chứng liệu của riêng mình, nên ngữ điệu Hy-lạp trau chuốt hơn.
Sự kiện Ki-tô giáo lan tràn nhanh chóng đánh động thánh ký Lu-ca. Thánh ký khám phá sức sống kỳ diệu của Giáo Hội tiên khởi, vừa ở nơi tác động của Chúa Thánh Thần (tác động này chiếm một chỗ quan trọng trong sách Công Vụ), vừa ở nơi sức mạnh lời chứng của các Tông Đồ cũng như cuộc sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Ba lần thánh Lu-ca phác họa đời sống của các Ki-tô hữu này, chắc chắn hơi được lý tưởng hóa, nhưng thật sự là mẫu mực. Trong chu trình Phụng Vụ năm B này, chúng ta đọc bản tóm lược thứ hai. Bản tóm lược thứ nhất (Cv 2: 42-47) đã được đọc vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm A, còn bản tóm tắt thứ ba (Cv 5: 12-16) sẽ được đọc vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm C.
Một lòng một dạ
Cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chắc chắn là một tập thể hỗn hợp gồm có những người Ki-tô hữu gốc Do thái bản địa và những người Ki-tô hữu gốc Do thái hải ngoại hay còn gọi những Ki-tô hữu chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp (Cv 2: 9) sống cùng nhau tại Thành Thánh và các vùng phụ cận, họ thuộc đủ tầng lớp: giàu cũng như nghèo, dân thường cũng như tư tế (Cv 6: 7), không phân biệt nam hay nữ (Cv 5: 14). Bất chấp những nguồn gốc và tầng lớp khác nhau này, họ đồng một lòng một ý với nhau: một niềm tin duy nhất gắn bó họ lại với nhau, đó là niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh vinh quang.
Thánh Lu-ca cũng không cố tình che dấu những bất đồng, những tranh cãi nhỏ nhặt trồi lên ở giữa lòng cộng đoàn hỗn tạp này, ví dụ như những lời kêu trách của các Ki-tô hữu Do thái hải ngoại đối với những Ki-tô hữu Do thái bản địa, nhưng những bất đồng mà thánh ký gợi lên không tác động đến sự duy nhất trong cùng một niềm tin của họ.
Mọi sự đều là của chung
Sự duy nhất niềm tin này tạo nên đức ái huynh đệ được cụ thể hóa bởi việc đặt của cải chung, điều này hàm chứa việc người giàu chia sẻ cho người nghèo những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hằng ngày như cơm ăn áo mặc. Việc chia sẻ này không bắt buộc, nhưng hoàn toàn tự nguyện. Phần tiếp theo của sách nêu gương ông Ba-na-ba, một thầy lê-vi thuộc đảo Sýp. Có một thửa đất, “ông bán đi lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4: 37).
Mẫu gương của cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chắc chắn tạo nên những làn sóng thi đua. Lời chứng gần nhất với lời chứng của sách Công Vụ là cộng đoàn Ki-tô hữu Carthage cuối thế kỷ thứ hai. Cảnh tượng mà cộng đoàn này phô diễn về một cuộc sống huynh đệ đáng thán phục đã lay động nhà biện giáo Tec-tu-li-a-nô lừng danh và không lạ gì đã lôi kéo nhà biện giáo này theo. Ông hết lòng ca ngợi đức ái sống động của cộng đoàn này ở nơi việc chia sẻ của cải, lòng ưu ái đối với những người nghèo.
Không ai phải thiếu thốn
“Tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các tông đồ”. Dường như thánh Lu-ca muốn mặc cho hành vi này một sắc thái phụng vụ. Quả thật, trong thời kỳ Ki-tô giáo tiên khởi, những của lễ mà các tín hữu dâng hiến đều được định vị trong khung cảnh phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành Thánh Thể. Phụng sự Thiên Chúa hàm chứa “phục vụ anh em”. Không phải Bàn Tiệc Thánh Thể đã dâng hiến mẫu gương tuyệt vời nhất ở đó mọi người, giàu cũng như nghèo, đều đón nhận cùng một của ăn thức uống đó sao?
Mỗi người đều được phân phát tùy theo nhu cầu
Từ vựng mà thánh Lu-ca sử dụng ở đây thật đáng chú ý. Động từ “phân phát” được dùng ở đây cũng là động từ Đức Giê-su đã sử dụng khi Ngài bảo chàng thanh niên giàu có: “Hãy bán tất cả những gì anh có mà phân phát cho người nghèo” (Lc 18: 22). Việc ám chỉ đến Tin Mừng này kết thúc bức phác họa của thánh Lu-ca về cộng đoàn tiên khởi.
BÀI ĐỌC II (1Ga 5: 1-6)
Sau bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị chúng ta suy niệm các bản văn của thánh Gioan: các thư và Tin Mừng Gioan, chung cho ba cả ba năm Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh. Điều này phù hợp với một truyền thống rất lâu đời (chỉ trừ Chúa Nhật III Phục Sinh, được trích từ Tin Mừng Lu-ca về hai người môn đệ trên đường Em-mau).
Ba bức thư không đề tên tác giả đều được quy cho thánh Gioan. Quả thật, tư tưởng và văn phong rất gần với sách Tin Mừng Gioan nên không thể không xếp chúng vào cùng một tác giả. Thư thứ nhất dài nhất và quan trọng nhất trong số ba bức thư này dường như gởi cho các cộng đoàn miền Tiểu Á bị tác động bởi các trào lưu ngộ đạo. Thánh Gioan nhấn rất mạnh trên đức tin. Chính nhờ đức tin mà chúng ta nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Đấng Mê-si-a) và là Con Thiên Chúa. Không thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đấng Ki-tô.
Thánh Gioan liên kết mật thiết đức tin với đức ái, vì tiêu chuẩn của đức tin Ki-tô giáo chính truyền là đức ái đối với anh em đồng loại, nghĩa là, “yêu người đích thật” là hoa trái của “mến Chúa thực lòng”. Cuối cùng, thánh Gioan cũng liên kết đức tin với lời chứng của Chúa Thánh Thần.
Gắn bó với Đức Ki tô
Hành vi đầu tiên của đức tin là gắn bó với Đức Giê-su Ki-tô. Hành vi này dẫn đưa chúng ta vào trong cung lòng của Chúa Cha, Đấng sinh chúng ta ra làm con cái Thiên Chúa về phương diện siêu nhiên và liên kết chúng ta với nhau trong mối tử hệ tình yêu này đến nỗi đức ái huynh đệ Ki-tô giáo là hệ luận tức khắc của đức tin.
Những khẳng định này là đòn đáp trả chí mạng cho những diễn từ sai lạc của hai trào lưu tư tưởng: học thuyết của những Ki-tô hữu gốc Do thái và ngộ đạo thuyết, đang hoành hành ở giữa lòng các cộng đoàn mà bức thư này gởi đến.
A. Học thuyết của những Ki-tô hữu gốc Do thái
Trào lưu thứ nhất xuất phát từ những Ki-tô hữu gốc Do thái. Những người này không chấp nhận Đấng Mê-si-a bị đóng đinh, vì thế họ phân biệt ở nơi con người của Đức Giê-su, một phàm nhân là con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a và một nhân vật được biến đổi thành Đấng Mê-si-a nhờ phép Rửa và nhờ việc Thánh Thần xức dầu tấn phong. Trở thành Đấng Ki-tô (nghĩa là được xức dầu tấn phong), Đức Giê-su đã có thể công bố một sứ điệp siêu việt và thi hành các phép lạ, nhưng Đức Ki-tô thiên giới này tự tách ra khỏi Đức Giê-su phàm nhân vào giây phút Tử Nạn. Vì tự bản tính thần linh, Đức Ki-tô thiên giới này không thể nào chịu đau khổ và phải chết được.
Từ đó, chúng ta hiểu điểm nhấn của thánh Gioan: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Trong một đoạn văn trước đó, với một giọng điệu mãnh liệt hơn, thánh Gioan viết: “Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô? Kẻ ấy là tên phản Ki-tô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con” (1Ga 2: 22). Hai tước hiệu: Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa, không ngừng được lập đi lập lại trong bức thư này.
B. Ngộ đạo thuyết
Trào lưu ngộ đạo này xuất phát từ những Ki-tô hữu gốc lương dân. Họ nhạy bén trước những tư tưởng thần bí của các tôn giáo mầu nhiệm rất thịnh hành vào lúc đó, đặc biệt trong những miền Tiểu Á này được xem như chiếc nôi của chúng. Những người truyền bá trào lưu tư tưởng này cho rằng không cần thiết phải qua Đức Ki-tô để đến Thiên Chúa. Con người có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua ơn thần khải nội tâm, sự xuất thần hay thậm chí nghi thức khai tâm.
Chống lại những suy luận này, thánh Gioan đề cập đến tử hệ thần linh mà Chúa Cha ban ngay tức khắc cho những ai tin vào Con của Ngài. Ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, người ấy thật sự sinh ra từ Thiên Chúa. Người này không thể nào không yêu mến Chúa Cha, bởi vì chính Chúa Cha là tác giả của cuộc sinh hạ siêu nhiên này.
Ngược lại với những suy luận trừu tượng này, thánh Gioan nêu lên việc thực hành “mến Chúa” và “yêu người” như tiêu chuẩn cơ bản của Ki-tô giáo chính truyền.
Đức Tin và Đức Ái
Từ đó, thánh Gioan mạnh mẻ xác quyết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa”. Đức ái Ki-tô giáo cắm rễ sâu vào tận nguồn mạch Thiên Chúa. Thánh nhân tố cáo ngụy thần bí đức ái theo đó yêu thương anh em của mình chỉ vuông tròn trong một thứ tình cảm thuần túy nhân bản. Cội nguồn yêu thương độc nhất và chân thật là Thiên Chúa.
“Đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa, và thi hành các điều răn của Người”. Những điều răn này đã được xác định ở 3: 23, ở đó Chúa Cha đòi hỏi con người: phải tin vào Con của Ngài và phải yêu thương nhau. Việc đòi hỏi này không là gánh nặng: “Các điều răn của Người chẳng có gì là nặng nề”. Ở đây ám chỉ đến lời của Đức Giê-su: “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11: 30). Thánh Âu-gút-ti-nô đã quảng diễn lời này trong một biểu thức danh tiếng: “Ở đâu có tình yêu ở đó không có sự nhọc mệt; hay nếu có sự nhọc mệt, thì sự nhọc mệt được yêu” (De bono viduitatis 26).
Đừng quên rằng những dòng này được ngỏ lời với những Ki-tô hữu trung thành sống điều răn kép: đức tin và đức ái, trong hoàn cảnh đầy khó khăn. Vị tông đồ an ủi họ: “Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian”. Đây là một chủ đề mang đậm nét Gioan: người Ki-tô hữu sẽ chiến thắng thế gian (thế gian được hiểu theo nghĩa thế giới tội lỗi, từ chối tin như trong sách Tin Mừng thứ tư). Trong thư thứ nhất của thánh Gioan này, động từ “chiến thắng” lập đi lập lại đến sáu lần.
“Chúng ta thắng được thế gian, chính là nhờ lòng tin”. Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan xưng hô: “chúng ta”, như thế, thánh nhân liên kết mình vào cùng một cuộc chiến với những tín hữu của ngài. Thánh nhân nâng đỡ và khích lệ họ; ngài nhắc nhở cho họ lý do cuộc khải hoàn của họ: đối diện với mọi diễn từ sai lạc, họ đã giữ vững niềm tin vào tính toàn vẹn bất khả phân của Đức Giê-su. Vừa là Đấng Ki-tô vừa là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su đã tỏ mình ra không chỉ trong nước Thánh Tẩy của Ngài nhưng cũng trong máu Tử Nạn của Ngài, nghĩa là không chỉ trong nước mà thôi như những nhà ngụy giáo khẳng định, nhưng cả trong máu hiến tế của Ngài nữa. Đây không là một Đức Giê-su phàm nhân nhưng Con Thiên Chúa nhập thể đã đổ máu mình ra.
Chắc chắn thánh Gioan cũng nghĩ đến ân ban cao vời của Đấng Ki-tô, dù đã chết vẫn để máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của mình (Ga 19: 34-35). Vị tông đồ là chứng nhân nhãn tiền của những dấu chỉ về bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể.
Chúa Thánh Thần làm chứng
Nếu nước và máu là những chứng từ hữu hình, thì cũng có một chứng từ vô hình khác, chứng từ của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chân lý chiến thắng sự sai lạc, đức tin chiến thắng lạc giáo, điều này chứng thực sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chính Ngài gìn giữ sự thật.
Ở nơi lời nhắc nhở đạo lý này, chúng ta nhận ra một cuộc bút chiến. Vài trào lưu ngộ đạo tự nhận mình là “thuộc Thần Khí” và viện dẫn những ơn đặc sủng của mình cũng như ánh sáng “thần khải” của mình là “thuộc Thần Khí”. Ấy vậy, hành động của Thần Khí chỉ được xem là chính truyền nếu hoạt động này làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện, bởi vì Chúa Cha làm chứng cho Chúa Con khi sai phái Chúa Thánh Thần đến. Đoạn trích thư này kết thúc với việc ghi nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Việc ghi nhận Ba Ngôi Thiên Chúa thường hằng được lập đi lập lại trong bức thư thứ nhất này của thánh Gioan.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-31)
Đây là một trong những trang Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: “Đức Giê-su của niềm tin thật sự là Đức Giê-su của lịch sử”. Chính các Tông Đồ chứng thực sự kiện Phục Sinh. Hơn nữa, nhờ sự cứng tin của một trong số họ, vài ngày sau đó, họ hưởng được một sự kiểm chứng.
Theo truyền thống, bản văn này được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, bởi vì thánh ký nói với chúng ta, Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau”, nghĩa là cũng vào “chiều ngày thứ nhất trong tuần” sau đó. Quả thật, chúng ta đọc thấy nơi bài tường thuật này hai tình tiết: Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho mười Tông Đồ vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, và Ngài hiện ra đặc biệt cho Tô-ma cũng vào buổi chiều thứ nhất trong tuần sau đó.
Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho mười Tông Đồ(20: 19-23)
“Chiều thứ nhất trong tuần” tức là vào chính buổi chiều của biến cố Phục Sinh. Việc chỉ dẫn thời gian này rất quý: ngày thứ nhất trong tuần chính là ngày mà những người Ki-tô hữu đã chọn rất sớm để cùng nhau tham dự việc bẻ bánh, như vậy nhấn mạnh tính chất phục sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho thánh Tô-ma được định vị “tám ngày sau đó”, nghĩa là cũng chính ngày thứ nhất trong tuần sau đó.
Các Tông Đồ họp nhau lại gồm mười vị bởi vì rõ ràng thiếu Tô-ma. Dường như Tô-ma đã không tha thiết gì đến việc hội họp với các Tông Đồ khác nữa. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ họ để thông báo cho họ những sự cố vừa mới xảy ra: việc khám phá ngôi mộ trống, quang cảnh khăn che mặt không để lẫn với những băng vải liệm, sự kiện bà Ma-ri-a Mác-đa-la trong số vài người phụ nữ nói đã thấy Đức Giê-su Phục Sinh và Ngài đã nói với bà…
Chúng ta đoán rằng các Tông đồ đang sống trong bầu khí hoang mang vừa hy vọng lẫn sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”. Diễn ngữ “vì sợ người Do thái” được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Gioan, thậm chí trước cuộc Thương Khó, như cha mẹ của anh mù từ lúc mới sinh chỉ trả lời vòng vo “vì sợ người Do thái” (Ga 9: 22). Trong Tin Mừng thứ tư, người Do thái trước hết chỉ giáo quyền Giê-ru-sa-lem. Họ đã ra án tử cho Thầy bây giờ sẽ ra tay với các môn đệ chứ?
Và này, Đức Giê-su thình lình đứng giữa họ bất chấp “các cửa đều đóng kín”; Ngài tự đặt mình ở giữa nỗi hãi hùng xao xuyến của họ cũng như Ngài đã đồng hành bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên đường Em-mau (Lc 24: 13-32). Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ sớm biến thành niềm vui.
A. Bình an cho anh em
Đây là lời chào thường ngày theo phong tục tập quán của người Do thái, nhưng lời chào của Đức Giê-su trong bối cảnh này chẳng bao giờ là thường tình cả. Đức Giê-su đem sự bình an của Ngài, sự bình an mà Ngài đã hứa, đến cho những người này, những người đã bỏ rơi Ngài vì thất vọng. Ngài đem đến cho họ sự bình an qua sự hiện diện và sự tha thứ của Ngài: không một lời quở trách, không một ám chỉ đến bất kỳ kiếm khuyết của họ, cả nỗi cô độc mà họ đã bỏ rơi Ngài một mình trong cuộc khổ nạn của Ngài. Để cho họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho họ thấy những chứng tích ở tay và cạnh sườn Ngài như chính thức đồng nhất hóa “thân thể phục sinh” của Ngài với “thân thể chịu đóng đinh” của Ngài.
Ở đây, chúng ta thẩm định tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, thân thể của Ngài không bị phân hủy trong ngôi mộ, còn mặt khác, chính thân thể ấy mà Ngài hiện ra với các ông, chứ không như bóng ma: chỉ một thân thể đang sống, có thể đụng chạm, gặp gỡ tiếp xúc, chính thân thể ấy mang lấy những vết thương của cuộc khổ nạn. Lúc đó “các môn đệ thật sự tràn ngập niềm vui”.
B. Những chứng tích của cuộc khổ nạn
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nêu lên những vết thương ở tay và cạnh sườn của Đấng Phục Sinh, trong khi thánh Lu-ca trong bài tường thuật song song viết: “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24: 40). Thánh Gioan là thánh ký duy nhất tường thuật tình tiết người lính Rô-ma lấy lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn của Đức Giê-su. Thánh ký đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân ban tột cùng từ cái chết của Đức Ki-tô. Thánh ký đã thấu hiểu ở đây dấu chỉ biểu tượng: cuộc sinh hạ Giáo Hội trong và bởi bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể. Ở đây, thánh ký nhấn mạnh thêm một lần nữa. Chính xác Giáo Hội chào đời vào buổi chiều Phục Sinh này, dưới hơi thở của Thần Khí và bởi việc sai các Tông Đồ đi thi hành sứ vụ. Sự tương phản đáng ngạc nhiên: với những con người giam mình sợ hãi giữa bốn bức tường trong căn phòng cửa khóa then cài, Đức Giê-su ra lệnh lên đường, ra đi gặp gỡ “hết tất cả mọi người” không phân biệt một ai.
Vì mục đích sứ vụ này, Đức Giê-su tái tạo họ, chúng ta có thể nói như vậy, khi thổi Thần Khí của Ngài, Đấng Phục Sinh, trên họ và ban cho họ được quyền tha thứ cho anh em mình… như Ngài đã hứa với họ: máu Ngài đã đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Chúa Giê-su phục sinh hiện ra đặc biệt cho thánh Tô-ma (20: 24-29) A. Tô-ma cứng lòng tin
Chắc chắn thánh Tô-ma gắn bó rất mật thiết với Đức Giê-su; thánh nhân đã yêu mến Ngài và tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem sau cùng, ông đã hăm hở nói với các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Người” (Ga 11: 16). Nhưng ông không ngờ Ngài phải chịu chết ô nhục trên thập giá; cái chết này đã làm giấc mơ của ông tan thành mây khói. Niềm thất vọng lẫn nỗi buồn phiền khiến ông tách biệt khỏi các bạn đồng môn khác. Chúng ta biết được nhân cách của Tô-ma chỉ nhờ Tin Mừng thứ tư. Tin Mừng này ba lần đặt thánh nhân vào hoạt cảnh.
Với một tâm trí thực tiễn, trước đây trong bữa Tiệc Ly thánh nhân đã nêu lên cho Đức Giê-su một câu hỏi thực tế và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14: 4-5); vì thế, bây giờ thánh nhân từ chối tin vào sự kiện Phục Sinh nếu không có bằng chứng do chính ông kiểm chứng. Trong mỗi người chúng ta ẩn hiện một dáng dấp nào đó của thánh Tô-ma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
B. Lời tuyên xưng của thánh Tô-ma
Đức Giê-su Phục Sinh cảm thương người môn đệ có tâm hồn nhiệt thành này đang đắm chìm trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác đang hớn hở vui mừng; vì thế, Ngài bằng lòng đáp ứng những đòi hỏi của ông: tám ngày sau, Chúa Giê-su lại hiện đến với các ông, đặc biệt với Tô-ma.
“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Bản văn không nói cho chúng ta biết thánh Tô-ma có thực sự làm đúng như Thầy bảo, nhưng đúng hơn ông lập lại điều mà thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi đi vào trong ngôi mộ: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Thánh Tô-ma có được bằng chứng của biến cố Phục Sinh, vì thế, ngay lập tức ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”.
Trong toàn bộ các sách Tin Mừng, đây là lần đầu tiên tước hiệu “Thiên Chúa” được ban cho “Đức Giê-su”. Tuy nhiên, còn dấu chỉ nào cho thấy Thần Tính của Ngài rực sáng hơn biến cố Phục Sinh? Tiếng kêu cá nhân của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông, vì Đức Giê-su đã quan tâm đặc biệt đến ông.
Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy nên anh mới tin”, đoạn, nghĩ đến tất cả những ai đã không được diễm phúc như ông, Đức Giê-su nhắn gởi đến đám đông bao la các tín hữu của mọi thời đại: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Đây là mối phúc duy nhất của Tin Mừng Gioan. Trước hết, mối phúc này chính xác dựa trên lời chứng của nhóm Mười Một, mà lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất.
Chỉ cần sáng suốt một chút, người ta dễ dàng phân biệt mầu đen khác mầu hồng, sầu buồn khác PS 2-ABC392
Chỉ cần sáng suốt một chút, người ta dễ dàng phân biệt mầu đen khác mầu hồng, sầu buồn khác với an vui hạnh phúc. Dù khái niệm về tình yêu còn giới hạn, tự nhiên người ta vẫn thích được quan tâm, và rất sợ phải sống trong đơn độc. Yêu và ghét, được tôn trọng và bị khinh thường, có thể chúng ta đã gặp, nhưng muốn xử trí những mâu thuẫn, bất hoà, chọn lựa khôn ngoan nhất phải là bình tĩnh, đặt để tình yêu thương tha thứ vào đúng chỗ, đúng lúc. Kinh nghiệm cho thấy, nói lời yêu thương với bậc sinh thành, không khó, ai nói cũng được ; sống yêu thương, bao giờ cũng phức tạp, dù là tương quan vợ chồng, họ vẫn phải minh chứng được tính kỷ luật và sự thuỷ chung.
Xu hướng chung, chỗ dựa vững chắc hơn cả hay chọn lựa ưu tiên nhất ở đời thường áp dụng: đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn ; và người ta chỉ thấy nơi cha mẹ là người trước tiên dùng tình yêu thương mà thuyết phục con cháu. Buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần hôm nay, Đấng phục sinh đến gặp các môn đệ, các học trò, ngoài thương yêu, Ngài còn gợi lên một chiều kích mới: “bình an cho các con”. Chính việc sống lại, hay trở về từ cõi chết, không phải là điều dễ hiểu, khi gặp lại Thầy hiện diện trong phòng cửa đóng then cài, các ông run sợ hay phản ứng tưởng trông thấy ma ! Đấng phục sinh vẫn trong tư cách là Thầy, là Chúa, Ngài thấu biết số học trò đang cần ơn bình an, cần ơn Thánh Thần, qua đó các ông mới hiểu ý Chúa Cha, và rồi các ông còn phải sống sứ mạng tông đồ ở phía trước.
Ngày xưa hay hôm nay cũng vậy, quan niệm Chúa sống lại và tỏ mình ra với các tông đồ là vì yêu thương, nhất định không phải vì công trạng của các ông. Ông Tôma vắng mặt hẳn vì tình cờ, chứ không phải vì ông bất xứng tội lỗi ; sau 8 ngày, Đấng phục sinh lại tỏ mình với các học trò, nhưng chắc không phải do lời thách thức của Tôma. Tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân, hay tất cả vì Đấng phục sinh mời gọi con người qua các thời đại “hãy tin”, Chúa đã thắng sự chết, các tông đồ, và những ai tín thác vào tình yêu Chúa dều sẽ chiến thắng sự chết. Cứ theo suy nghĩ tự nhiên, người thương gia mọi lúc đều hướng về lợi nhuận, bậc thánh hiền, chỉ chuyên tâm mong sao có thể dâng hiến trọn vẹn con tim khối óc của mình để cứu đời. Còn người môn đệ theo Thầy Giêsu, thiết tưởng chỉ cần tâm hồn có Chúa, có tình yêu của Đấng phục sinh ở cùng là đủ.
Chúa đã sống lại, xưa hay nay gì cũng thế, chúng ta chỉ có thể cùng với các môn đệ hiệp lòng tạ ơn chúc tụng Đấng đã chết vì yêu, đã sống lại vì yêu, Đấng thắp sáng niềm tin cho con người vẫn là Đức Kitô phục sinh cho nhân loại được sống. Ngày hôm nay, bậc cha mẹ chỉ có thể diễn tả tình yêu thương con cháu bằng những hy sinh, công sức tiền của, bằng thời giờ sức khoẻ, nếu không chứng minh như thế, con cháu sẽ coi cha mẹ nó chỉ lý thuyết mà thôi. Chúa phục sinh không phải chỉ vì yêu các môn đệ hay một số người Do-thái tốt lành, Chúa phục sinh là vì yêu nhân loại, là thực hiện sứ mạng Chúa Cha trao phó, trong đó có cả người tội lỗi và người công chính.
Vì tình yêu, Đấng phục sinh hiện ra với các môn đệ một hai lần đã là diễm phúc rồi, nhưng thực ra, Chúa phục sinh còn ở với những người học trò ấy cho tới khi các ông hoàn tất sứ mạng được giao phó, còn gọi là ở với các con mọi ngày cho đến tận thế. Ngày hôm nay, ơn bình an của Đấng phục sinh vẫn quan trọng cho những ai theo Chúa, chứ không phải cho riêng các vị giám mục, linh mục, tu sĩ, ơn ban của Đấng phục sinh sẽ đến khi mỗi người biết bày tỏ niềm tin của mình. Không ai có kinh nghiệm về việc chết đi, sống lại, chẳng ai có đủ điều kiện để có hạnh phúc thật mà không cần Đấng phục sinh, và cũng chẳng ai đủ cảm nhận lòng Chúa bao dung, nếu không xét thấy mình đầy bất xứng tội lỗi.
Tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân, Chúa phục sinh đặt tình yêu thương là trên hết, các môn đệ có cảm nhận đủ hay không Chúa vẫn yêu các ông, dù Tôma có yêu nhưng không tin, hay không tin không yêu, Chúa vẫn sống lại. Lỗ hổng lớn nơi tâm hồn, nơi gia đình, chắc không phải vì thiếu điều kiện kinh tế, thiếu hiểu biết, nhưng là thiếu ơn bình an của Đấng phục sinh, do đó tình yêu mà người ta chia sẻ cho nhau chỉ là tình yêu “vị lợi”, tình yêu có qua có lại mà thôi. Tiền bạc có thể mua được nhiều thứ, có thể sai khiến và giúp trôi chảy nhiều việc, nhưng tình yêu và lòng bao dung mới là trọng tâm để các môn đệ đứng lên và đi trọn hành trình người học trò. Kinh nghiệm về ơn bình an của Đấng phục sinh sẽ không bao giờ thừa đối với những ai muốn thực sự theo Đức Kitô làm môn đệ. Tình yêu Chúa sẽ không bao giờ đủ, nếu chúng ta thực sự muốn làm sứ giả tình yêu của Đấng Kitô. Nếu chúng ta biết sống như thế nào để tình yêu và bình an của Đấng phục sinh hàng ngày sẽ đồng hành với chúng ta. Amen.
Chiều ngày thứ nhất trong tuần, Cửa nhà đóng kín, thấm nhuần thương đau. Giê-su hiện đến thật PS 2-ABC393
Chiều ngày thứ nhất trong tuần, Cửa nhà đóng kín, thấm nhuần thương đau. Giê-su hiện đến thật mau, Bình an cầu chúc, cùng nhau vui mừng. Thổi hơi Thần Khí lửa bừng, Sai đi rao giảng, Tin mừng khắp nơi. Các con tha tội cho người, Điều gì cầm buộc, trên trời không tha. Tông đồ thắc mắc, Tô-ma, Thường khi vắng mặt, xa nhà không tin. Ông rằng xem thấy mới tin, Ngón tay thọc lỗ, mắt nhìn chứng minh. Chúa thương hiện diện an bình, Cho xem vết xẹo, thân mình nát tan. Tô-ma phủ phục xin van, Con tin Thiên Chúa, phá tan nghi ngờ.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra nhiều lần với nhiều nhóm người khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau. Lần nào hiện ra, Chúa cũng an ủi rằng: Bình an cho các con. Chúa muốn từ từ củng cố niềm tin của các tông đồ và những người theo Chúa. Qua biến cố Chúa chịu khổ nạn và chịu chết, tâm hồn các tông đồ như tan vỡ, thất vọng, chán nản và muốn bỏ cuộc. Từng bước Chúa đã dẫn dắt họ từ sự thất vọng, nghi ngờ và lo sợ tới niềm tin tưởng tuyệt vời.
Đầu tiên Chúa hiện ra với Maria Madalena và các bà thân quen. Các bà thật bỡ ngỡ nhưng rất vui mừng. Các bà đã mau mắn đem tin vui đến với các môn đệ. Các môn đệ tản mát mỗi người một nơi nhưng rồi Chúa quy tụ họ lại như gà mẹ ấp ủ đàn con dưới cánh. Chúa dùng nhiều cách khác nhau để khuyến khích và chỉ dạy các ông. Các ông đã thấy Chúa và đã tin.
Phúc âm kể truyện tông đồ Tôma. Ông cũng như các tông đồ khác, buồn sầu vì Thầy đã chết. Ông tách rời khỏi đám đông và tự giam mình trong cô độc. Ông đã vắng mặt khi Chúa hiện ra. Được các tông đồ khác báo tin là Chúa đã sống lại. Ông không tin. Ông muốn có bằng chứng xác thực vì đây là sự kiện ngoại thường. Ông đòi phải có chứng cớ rõ ràng và hiển nhiên rồi ông mới tin. Chúng ta cám ơn tinh thần thực nghiệm của Tôma. Chúa đã đáp ứng sự đòi hỏi của ông và cho ông được thấy Chúa, được xỏ ngón tay vào tay và cạnh sườn của Chúa. Ông thấy và ông hoàn toàn xác tín.
Đôi khi chúng ta cũng như Tôma, khi gặp khó khăn hay thất bại trong công ăn việc làm, gia đình đổ vỡ, con cái hư hỏng và cuộc sống khó khăn, chúng ta giảm dần niềm tin cậy nơi Chúa. Có khi chúng ta trách Chúa hoặc chối bỏ thập giá của Chúa.
Với cái chết của Chúa Giêsu, thập giá trở thành biểu tượng của chiến thắng. Chiến thắng của tình yêu trên hận thù. Nơi nào có thập giá của Chúa nơi đó có sức mạnh của tình yêu. Bóng thánh giá đã làm cho Tôma hoảng sợ, chán nản và thất vọng nhưng chính thánh giá đó đã mang lại niềm an ủi lớn nhất. Vết thương nơi chân tay và cạnh sườn của Chúa đã minh chứng hùng hồn sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên cây thập giá.
Chúng ta hãy đặt niềm tin nơi Chúa. Chúng ta không thể loại thánh giá ra khỏi đời sống. Mỗi khi chúng ta bước qua đoạn đường nghi ngờ như thánh Tôma, chúng ta hãy đến với Thập Giá Chúa, ngắm nhìn dấu đinh nơi chân tay và dấu gươm nơi cạnh sườn của Chúa, chúng ta sẽ tìm được nguồn ủi an và tìm được sự bình an đích thực.
Những Hạt Đậu Biết Nhảy” là tựa đề của một câu chuyện ngắn về Phật Học của Lâm Thanh Tuyền PS 2-ABC394
“Những Hạt Đậu Biết Nhảy” là tựa đề của một câu chuyện ngắn về Phật Học của Lâm Thanh Tuyền, được Phạm Huê chuyển qua Việt Ngữ. Sát biên giới Tây Tạng, có một bà lão sống rất cô độc, chồng con đều chết cả. Cảm thấy bị nghiệp chướng nặng nề nên bà tìm cách đọc kinh niệm thần chú để giải trừ nghiệp chướng. May thay, một người hành hương tốt bụng đã dạy bà niệm như sau: “Om ma ni bay may hôm.” Nhưng vì già cả lú lẫn bà lại nhớ rằng: “Om ma ni bay may khuya.” Bà đặt một cái chén đổ đầy hạt đậu nành bên cạnh một cái chén không. Niệm xong một câu bà nhặt một hạt đậu bỏ vào chén không. Cứ thế, đến khi cái chén không đã chứa đầy hạt đậu, bà làm ngược lại. Bà lão niệm thần chú như thế đã trên 30 năm.
Một ngày nọ, có một vị sư từ Tây Tạng đi qua nhà, thấy hào quang chiếu tỏa rực rỡ, ngỡ là một vị chân tu đắc đạo đang ở trong nhà. Nhà sư ghé vào thăm. Trông thấy bà lão đang ngồi niệm thần chú, nhưng lại niệm sai, ông mới sửa lại cho bà là: “Om ma ni bay may hôm.” Biết mình đã đọc sai hơn 30 năm nay, bà lão đau buồn tiếc nuối công lao tu luyện. Nhưng từ khi niệm câu thần chú mới, lòng dạ bà trở nên buồn thảm, hỗn độn, hoang mang, và nghi ngờ. Bà không thể tập trung tinh thần được nữa.
Nhà sư đã ra đi được một đỗi rất xa. Ông quay lại nhìn bầu trời phía sau, nhưng không còn thấy hào quang chiếu sáng trên căn nhà của bà lão nữa, mà chỉ là một bóng tối âm u. Giật mình vì biết rằng mình đã làm hại bà lão, nhà sư bèn quay trở lại xin lỗi vì đã đùa nghịch và chỉ muốn thử thách lòng thành kính của bà mà thôi. Câu thần chú của bà mới là đúng. Bà lão lại vui mừng, tiếp tục niệm thần chú với tâm hồn bình an phấn khởi. Đi lên tới đỉnh núi, nhà sư nhìn xuống túp lều tranh của bà lão thấy hào quang chiếu sáng rực cả một góc trời.
Bà lão trong “Những hạt đậu biết nhảy” và Thánh Tôma trong bài Phúc Âm hôm nay, Ga 20: 19-31, đều nói lên vai trò của sự hoài nghi trong đời sống đức tin. Sau cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, các tông đồ buồn nản thất vọng, tản mát mỗi người một nơi. Trong cái đau và nỗi chán, Tôma chỉ muốn rút lui vào ốc đảo cô đơn và hoài nghi của riêng mình. Vì vậy ông đã vắng mặt khi Chúa hiện ra lần thứ nhất.
Ông nổi tiếng với biệt danh “Tôma Kẻ Hoài Nghi” – “Thomas, The Doubter”. Thật là bất công cho ông khi phải mang biệt danh này. Vì sau khi mấy người phụ nữ ra thăm mộ về, báo tin là đã thấy Chúa Giêsu, những môn đệ khác cũng đã hoài nghi. Ngay khi đã trông thấy Chúa Giêsu hiện ra lần thứ nhất rồi, vài môn đệ khác vẫn còn nghi nan: “Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28:17). Xem thấy rồi mà vẫn còn hoài nghi, huống chi Tôma đã không thấy. Ông hoài nghi cũng là điều dễ hiểu. Đó là thái độ rất tự nhiên của con người. Nhưng chính vì vậy mà Tôma đã để lại một kinh nghiệm sống đức tin cho chúng ta. Trước tiên, hoài nghi là điều kiện để trưởng thành. Sau khi nhìn thấy Chúa Giêsu hiện ra, và mời gọi ông đưa tay ra đụng vào những thương tích của Người, Tôma liền phủ phục xuống trước mặt Chúa Giêsu và tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” Từ giây phút đó trở đi, Tôma đã trở nên một tông đồ nhiệt thành. Theo truyền thống lưu lại, Tôma đã sang truyền giáo bên Ấn Độ, “nơi Tôma đã được tôn kính như là vị thánh tử đạo và sáng lập giáo hội.” Một người Kitô hữu trưởng thành nhờ qua những nghi ngờ và thắc mắc.
Chúng gây hoang mang lúc đầu, nhưng sau đó sẽ củng cố đức tin mạnh mẽ hơn. Một người tín hữu chân chính không sợ sự tra vấn, thắc mắc và tìm hiểu. Vì đã từng trải qua những giai đoạn của sự hoài nghi, nên họ có thể trở thành những nhân chứng đích thực cho niềm tin như thần học gia Hans Kung đã nói: “Người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi.” Hoài nghi giúp cho đức tin trưởng thành. Đức tin dùng sự hoài nghi và thắc mắc để tự nuôi dưỡng mình. Hoài nghi và những thắc mắc thúc đẩy chúng ta cố gắng tìm hiểu điều chúng ta tin, giúp chúng ta luôn phấn đấu, cầu nguyện, nghiên cứu và học hỏi thêm. Do đó, hoài nghi là một dấu hiệu chứng tỏ sự quan tâm sâu xa của chúng ta phải có đối với đức tin. Nhà thần học Paul Tillich đã nói: “Sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh.” Thứ đến, hoài nghi giúp chúng ta khiêm tốn. Ở một mức độ hiểu biết nào đó của kiến thức con người, sự hoài nghi là điều không thể tránh được. Mỗi người chúng ta đã từng có kinh nghiệm những lần lúng túng phân vân. Không biết tin cái gì? Đâu là sự thật? Những nhân vật trong Thánh Kinh như Môsê, bà Sara, Đức Mẹ Maria, Thánh Giuse, Thánh Tôma Tông Đồ trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay và các thánh, đều là những người đã chịu thử thách và trưởng thành qua sự hoài nghi. Họ đã dùng sự hoài nghi để làm cho đức tin lớn mạnh lên. Thành thật mà nói, đôi khi chúng ta cũng có những hoài nghi. Tại sao? Vì chúng ta là con người. Chúng ta bị giới hạn trong sự hiểu biết. Nếu biết hết mọi sự thì đâu phải nghi ngờ điều gì nữa. Không biết nên phải hoài nghi. Hoài nghi chứng tỏ sự giới hạn của con người. Nó thách thức chúng ta phải trưởng thành và tìm hiểu sâu xa hơn trong sự khiêm tốn.
Hơn nữa, hoài nghi là khả năng của sự tự do chọn lựa. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự tự do và khả năng đi tìm kiếm sự thật. Kiếm tìm sự thật ẩn tàng một ước muốn thay đổi hướng đi của cuộc đời, một ước muốn thay đổi thái độ trong những liên hệ với người khác, một ước muốn từ bỏ những sự phải từ bỏ để theo đuổi một lý tưởng. Bác sĩ Scott Peck, tác giả cuốn sách “The Road Less Travelled”, một cuốn sách được gọi là bán chạy nhất – the best selling book. Peck là một nhà tâm lý học đã trải qua hầu hết thời giờ làm việc với những bệnh nhân trong bệnh viện tâm thần. Bác sĩ nói rằng ông đã khám phá thấy một sự thờ ơ lãnh đạm nơi những người bệnh trong mọi lãnh vực: thiếu sự quan tâm; chẳng muốn hỏi bất cứ nghi vấn nào; không muốn tìm kiếm cái mới để phát triển; “không có sở thích về huyền bí.” Ông cũng khám phá thấy rằng nếu ông có thể đào luyện nơi bệnh nhân một sự ước ao muốn tìm tòi và học hỏi, thì sẽ có hy vọng. Nhưng nếu không, ông nhìn thấy ít hy vọng.”
Qua sự thắc mắc, tìm kiếm sự thật sẽ đưa chúng ta đến gần với Thiên Chúa hơn (Dt 11:6; Gc 4:8). Từ nỗi khổ đau, cô đơn, bất mãn, nghi ngờ, và sợ hãi chúng ta được biến đổi trong sự sống lại của Chúa Kitô. Isidore Robey, nhà vật lý danh tiếng thế giới, đã đến Hoa Kỳ khi còn là một em bé và đã lớn lên trong vùng phía Đông nghèo nàn của thành phố New York. Trong một cuộc phỏng vấn, ông đã được hỏi làm thế nào một chú bé di dân nghèo lại có thể trở nên một trong những nhà vật lý học hàng đầu của thế giới. Ông trả lời, “Tôi đã chẳng có thể làm gì được. Đó là nhờ mẹ của tôi. Mẹ tôi đã rất quan tâm tới việc đi tìm kiếm sự thật. Và mỗi ngày khi tôi đi học về, mẹ tôi đã hỏi tôi: ‘Hôm nay con có thắc mắc được một câu hỏi xứng đáng nào không?’”
Nếu hoài nghi là điều không thể tránh được, thì đức tin cũng không thể tránh được trong cuộc sống. Phải có đức tin để sống. Ngay cả những nhà khoa học, họ phải tin vào những phương pháp của họ và vào một thế giới có trật tự đến nỗi những phương pháp của họ có thể phát sinh ra được những sự kiện đáng tin tưởng. Thế giới trật tự đó phải được một Đấng Thượng Trí tối cao dựng nên. Đó là Thiên Chúa đã sáng tạo và cứu chuộc mọi sự qua Đức Giêsu Kitô. Qua sự Phục Sinh của Đức Kitô vũ trụ và con người tìm thấy ý nghĩa và mục đích của mình.
Hơn một thế kỷ vừa qua, một ông già đang ngồi một mình trên chuyến xe lửa ở Pháp. Chàng thanh niên ngồi bên cạnh, nhìn ông già đang với tay vào chiếc cặp lấy ra một cuốn Thánh Kinh, và bắt đầu đọc. “Cụ đang đọc cái gì đấy?” Chàng thanh niên hỏi. “Tôi đang đọc chương thứ sáu của Phúc Âm Mác-cô trong Tân Ước,” ông cụ già trả lời. “Chương ấy nói gì vậy cụ?” chàng thanh niên hỏi. “Đó là câu chuyện về phép lạ của năm chiếc bánh và hai con cá.” Với một chút diễu cợt chàng thanh niên hỏi, “Cụ có thực sự tin điều đó không?” “Có, tôi tin chứ,” cụ trả lời. Chàng thanh niên kích bác, “Cháu có thể nhìn thấy rằng cụ đã bị tẩy não bởi những sự mê tín dị đoan xa xưa rồi. Điều này không bao giờ có thể xẩy ra với cháu. Cụ xem, cháu là một nhà khoa học. Mọi sự xảy ra trong thế giới này cuối cùng đều có thể được giải thích một cách khoa học. Câu chuyện cụ vừa đọc coi rẻ những luật lệ của khoa học, do đó hoàn toàn là ảo tưởng. Hãy cho cháu những dữ kiện, những dữ kiện có thể chứng minh được. Như một nhà khoa học, cháu không tin vào những phép lạ. Cháu cũng chẳng mong gì cụ hiểu điều đó.” Xe lửa bắt đầu chậm lại. “Trạm của cháu đây rồi,” chàng thanh niên nói và đứng lên rời khỏi chỗ ngồi, “Thật là tốt được nói chuyện với cụ. Cháu xin lỗi đã không hỏi tên cụ.” Ngay lúc đó, ông cụ trao cho chàng thanh niên tấm danh thiếp của mình mang tên, Louis Pasteur, một trong những khoa học gia vĩ đại nhất của thế giới.
Đối với các nhà khoa học, sự hoài nghi thắc mắc là khởi điểm cho những khám phá mới lạ. Nhưng nếu sự hoài nghi trở thành một nguyên tắc triết lý để sống, dùng nó để phủ nhận những chân lý và giá trị siêu nhiên của tôn giáo, nó biến chúng ta trở thành những con người vô thần theo chủ thuyết bi quan, yếm thế – cyniscism, agnosticism.
Hoài nghi thường bị lẫn lộn với vô tín ngưỡng. Hoài nghi là thái độ chưa chắc chắn về một sự thật hay một thực tại nào đó: một niềm tin hay một ý kiến chưa được quyết định. Còn vô tín ngưỡng là thái độ cương quyết, phủ nhận sự tin tưởng nơi thần quyền. Vô tín ngưỡng là chọn lựa không tin tưởng gì hết. Còn hoài nghi là đang chọn lựa cái để mà tin. Như vậy, chúng ta không sợ, hay tránh né sự hoài nghi và thắc mắc, nhưng đối diện với chúng, sử dụng chúng, và làm cho chúng phục vụ đức tin của chúng ta. Sự hoài nghi cũng là một hình thức của lòng khát khao khôn cùng của con người đi tìm kiếm Thiên Chúa. Kẻ thù của nguy hiểm nhất của đức tin không phải là sự hoài nghi mà là sự dốt nát.
Thánh Gioan Phaolô II đã khuyên chúng ta như sau: “Mỗi người cần phải được đào tạo trọn vẹn và hoàn chỉnh – về văn hóa, nghề nghiệp, giáo lý, thiêng liêng và tông đồ – để giúp mình sống trong một mối thống nhất nội tâm và cho mình có thể trình bày cho bất cứ ai thắc mắc về lý do hy vọng của mình. Căn tính Kitô hữu đòi ta phải cố gắng và bền bỉ học hỏi mỗi ngày mỗi sâu rộng hơn, vì dốt nát là kẻ thù nguy hiểm nhất của Đức Tin. Ai có thể nói rằng mình thực sự yêu mến Chúa Kitô, mà lại không dấn thân học biết Ngài hơn nữa?” (TVNNTB, Chương I, Đức Tin, trang 35).
Bài Tin Mừng hôm nay (CN II/PS-B – Ga 20, 19-31) nói đến thái độ của Tông đồ Tô-ma. Trong PS 2-ABC395
Bài Tin Mừng hôm nay (CN II/PS-B – Ga 20, 19-31) nói đến thái độ của Tông đồ Tô-ma. Trong khi bà Maria Mac-đa-la và 2 môn đệ trên đường Em-mau được chứng kiến Đức Giê-su Ki-tô đã sống lại, nhưng khi họ kể lại cho các môn đệ khác thì mọi người vẫn không tin. Chỉ đến khi Chúa hiện ra với các ông vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, các ông mới chịu tin. Tuy nhiên, khi các môn đệ này kể lại cho Tô-ma, thì ông cũng không tin và đòi phải được xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy, thì ông mới tin. Mãi tới “Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Tới lúc đó, Tô-ma mới thực sự tin và kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 26-28).
Tâm lý chung của con người chuyện gì cũng đòi phải được “chứng kiến tận mắt” (thực mục sở thị) hoặc phải có chứng cớ xác thực, mới chịu tin. Các Tông đồ (kể cả Tô-ma) cũng không ngoại lệ, các ông mới chỉ “nghe” thì chưa tin mà còn phải được “thấy”, được “đụng vào” vật chứng mới tin. Không những thế, mà nhiều khi được chứng kiến tận mắt, cũng vẫn còn có kẻ “không tin vào mắt mình”, mà lại đi tin vào những truyền thuyết hoang đường, những ma mị quỷ quái. Và cũng chính cái tâm lý chỉ tin khi được “thực mục sở thị” đã đẻ ra tâm trạng hoài nghi. Thật thế, chỉ vì được trông thấy nhãn tiền Thầy mình đã chết khổ nhục trên thập giá, đã được chính tay mình liệm xác Thầy và táng trong hang đá, thì làm sao tin được Thầy mình đã sống lại? Và vì thế nên khi thấy Thầy hiện ra thì “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma”.(Lc 24, 37). Ấy là chưa kể lúc Thầy còn sống và ở liền bên không rời một bước, vậy mà khi thấy Thầy đi trên mặt biển đã vội hô hoán lên là “ma đấy!”
Nói về niềm tin của con người thì rất đa dạng: Có những người dễ tin thì cũng có những người khó tin, có những người tin một cách sáng suốt thì cũng không ít những kẻ tin một cách mù quáng, có những người trông thấy nhãn tiền mà vẫn “không tin vào mắt mình” thì cũng có những kẻ chẳng cần biết ất giáp gì cũng cứ “nhắm mắt mà tin”. Dễ tin thì cũng dễ mất lòng tin (dễ tin trong trường hợp này thì cũng dễ tin trong trường hợp khác, thậm chí có những lúc các trường hợp đó trái ngược nhau cũng vẫn OK tuốt luốt, nên lúc gặp thử thách rất dễ bị chao đảo, đánh mất niềm tin). Ấy là chưa nói đến những trường hợp tin theo thói quen, theo truyền thống, tin hùa theo đám đông (a dua, a tòng), tin theo mê tín dị đoan. Những kẻ khó tin thì thường đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới tin và khi có đầy đủ chứng cớ rồi thì niềm tin trở nên kiên định (kiểu như Tông đồ Tô-ma thủa xưa). Tuy nhiên cũng không thiếu những kẻ khó tin, mà vì quá cực đoan nên rất dễ sa vào chủ thuyết hoài nghi (chẳng tin vào bất cứ chuyện gì cho dù đó có là sự thực hiển nhiên).
Chính vì thế, Đức Tin là một yếu tố quan trọng hàng đầu đối với mọi tôn giáo. Riêng đối với Ki-tô Giáo thì đức tin là cơ sở vững chắc tuỵêt đối để đạt được cứu cánh Nước Trời. Tâm lý con người kể cũng lạ, cứ đòi “thấy” nhãn tiền mới tin, nhưng nhiều khi được “thấy” tận mắt cũng vẫn bán tín bán nghi. Vì thế Đức Ki-tô mới dạy: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20, 29). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Tuy nhiên, nếu chỉ tin trên môi miệng mà trong lòng thì trống rỗng, cũng chưa thể kể được là tin, mà phải là “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ.” (Rm 10, 9-10).
Thánh Gia-cô-bê Tông đồ còn xác quyết mạnh hơn: “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi… Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24.26). Vì thế, hai khía cạnh “tin thật trong lòng” và “tuyên xưng ngoài miệng” phải được xem là “tuy hai mà một”, bởi “lòng có đầy miệng mới nói ra” (Mt 12, 35). Thật vậy, lòng còn hoài nghi mà miệng leo lẻo nói tin tưởng, hoặc giả trong lòng tuy có tin, nhưng bề ngoài thì sợ nọ sợ kia, sợ bóng sợ vía cứ “câm miệng hến” thì cũng kể như không. Mà cũng vì thế, mọi Ki-tô hữu “Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần.” (Gđ 1, 20).
Đặt giả thử trong một gia đình có những người con không chịu tin vào những lời dạy bảo, những việc làm của cha mẹ, mà chỉ tin và nghe lời của những người hàng xóm lắm chuyện, thích “thọc gậy bánh xe”, hoặc của những ông thầy, bà mụ huyễn hoặc, thì liệu những đấng sinh thành có tha thứ không? Chắc chắn là không! Nếu chẳng nổi cơn thịnh nộ đánh cho một trận nhừ tử thừa sống thiếu chết rồi tống ra khỏi cửa, thì ít nhất cũng lạnh lùng coi như không có những người con bất hiếu bất mục đó. Và chuyện này cũng lại là chuyện xưa như trái đất, chẳng có gì là trái thường nghịch lý cả. Con người mà! Hỷ nộ ái ố là đương nhiên thôi!
Còn với chàng thanh niên Giê-su con bác thợ mộc Giu-se và bà nội trợ Maria – cũng như những chàng thanh niên bằng xương bằng thịt khác trên đời – thì sao? Lạ lắm! Chàng không chỉ khoan dung với những học trò hoài nghi, mà còn tha thứ cho những kẻ đã bán rẻ mình cho quân dữ, thậm chí còn cầu xin với Cha trên trời tha thứ cho cả những kẻ đã đánh đập, đã đóng đinh mình trên thập tự nữa (“Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” – Lc 23, 34). Ấy cũng bởi vì chàng chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, đến thế gian để kêu gọi người tội lỗi và hy sinh cả mạng sống mình làm giá chuộc muôn người. Tuy nhiên, loài người vẫn còn quá nhiều những kẻ không tin hoặc giả có tin thì cũng chỉ là tin trên môi mịêng bề ngoài mà thôi.
“Có hai khía cạnh trong mầu nhiệm Vượt Qua: Đức Ki-tô chết để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và phục sinh để mở đường vào cuộc sống mới… Cuối cùng, sự phục sinh của Đức Ki-tô, cũng như chính Đức Ki-tô Phục Sinh, là nguyên lý và nguồn mạch sự sống lại của chúng ta mai sau.” (Giáo lý HTCG, số 654-655). Chính vì thế, Mầu nhiệm Phục Sinh Cứu Độ – bao hàm sự đau khổ, sự chết, sự mai táng, sự phục sinh và thăng thiên của Chúa Cứu Thế, đồng thời với việc gởi Chúa Thánh Thần đến, phải được kể là một Thông điệp Đức Tin từ Trời cao ban cho toàn thể nhân loại, đó là Thông điệp “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Vâng, Người mang Thông điệp này đến và thực hành cho nhân loại, chính là Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Người đã đến vì “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: ‘Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9, 12-13).
Chính Đức Giê-su là biểu tượng duy nhất của “Lòng Chúa thương xót” và cũng chính Người trao sứ vụ cho các Tông đồ tiên khởi đem Thông địêp này đến với muôn dân: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 21-23). Lòng Thương xót của Thiên Chúa trải dài theo lịch sử loài người từ khi được dựng nên cho đến ngày cánh chung, nhưng tập trung nhất vẫn là thời điểm mạc khải mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Con Một Thiên Chúa: Đức Giê-su Ki-tô. Người đã đến, đang đến và sẽ đến như Lời Người mạc khải cho Thánh Nữ Faustina Kowalska (1905-1938): “Trước khi Ta đến là một Đấng Thẩm Phán công chính, thì Ta đến trước hết là một “Vua Lòng Thương Xót”. Hãy nói cho nhân loại biết ngay lúc này hãy đến trước ngai tòa của Lòng Thương Xót Ta với sự tin tưởng tuyệt đối!” (Nhật ký “Lòng Thương xót Chúa” – Faustina Kowalska).
Thật vậy, Chúa Giê-su đã đích thân chỉ định theo ý muốn của Người khi Người nhấn mạnh: “Hãy làm tất cả những điều mà các con có thể làm cho công việc của Lòng Thương Xót” (Nhật ký “Lòng Thương xót Chúa” – Faustina Kowalska). Vì thế, trong buổi lễ phong Thánh cho nữ tu Faustina vào ngày 30/4/2000, Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã tuyên bố: “Một điều rất quan trọng là chúng ta nên công nhận toàn bộ thông điệp đã đến với chúng ta qua Lời của Chúa trong ngày Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh, vì thế, từ đây trở đi toàn thể Giáo Hội sẽ tuyên xưng ngày này là “Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa”. Và đến ngày 23/5/2000, Thánh Bộ Phụng Tự đã ra quyết định chính thức chọn ngày Chúa Nhật II Phục Sinh là Lễ kính “Lòng Thương Xót Chúa”.
Cũng trong bài giảng tại lễ phong thánh cho nữ tu Faustina như nêu trên, Thánh GH Gioan-Phaolô II còn xác quyết: ”Cũng như Thánh Faustina, chúng ta cũng tuyên xưng rằng ngoài Tình Chúa Thương Xót, không còn nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại. Chúng ta cùng hết lòng tin tưởng kêu lên Chúa: “Lạy Chúa Giê-su, con tin tưởng nơi Chúa”. Một năm sau, vào Chúa nhật II Phục Sinh năm 2001, trong Thánh lễ kính Lòng Thương xót Chúa, Thánh GH dâng lời tạ ơn: “Con xin cảm tạ Chúa, một năm trước đây đã ban ơn cho con để con tuyên bố cho toàn thể Giáo Hội Chúa Nhật Thứ II Phục Sinh là ngày lễ Tình Thương Xót của Chúa.”
Ôi! Lạy Chúa! Chúng con xin “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, đến muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118, 1). Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, hằng năm Chúa dùng ngọn lửa Phục Sinh để khơi lại niềm tin trong lòng dân thánh, cúi xin Chúa gia tăng ân sủng để chúng con hiểu rằng: chính Chúa Ki-tô đã thanh tẩy chúng con bằng phép rửa, để tái sinh chúng con bằng Thánh Thần và cứu chuộc chúng con bằng Máu Thánh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật II – Phục Sinh)
Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ hai Phục sinh hôm nay, Chúa cho con có dịp soi rọi niềm tin của PS 2-ABC396
Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ hai Phục sinh hôm nay, Chúa cho con có dịp soi rọi niềm tin của con vào Thiên Chúa và Hội Thánh Người.
Đọan Tin mừng thuật lại việc Chúa hiện ra với các tông đồ đã qúa quen thuộc với con. Lời Chúa nói với ông Tô-Ma chúng con vẫn thường nói cho nhau nghe:”Phúc cho kẻ không thấy mà tin” mỗi khi có ai còn nghi ngờ về một điều nào đó “khó tin mà có thật “ hôm nay. Rồi chúng con cũng còn mạnh miệng phê phán Tô-Ma ngày ấy là người cứng lòng vì đã có đến 10 người làm chứng Chúa đã sống lại và hiện ra, nhưng ông vẫn không chịu tin, dẫn đến thái độ lên án anh chị em: “cứng lòng như Tô-Ma “.
Ngày hôm nay, con đang sống trong một xã hội mà ở đó hằng ngày xảy ra biết bao điều giả dối, lừa lọc.Trên các phương tiện truyền thông biết bao tin tức, sự kiện “ảo” được loan báo. Những chiêu quảng cáo hấp dẫn nhưng không có thật diễn ra một cách công khai. Rồi trong quan hệ giữa người với người, bao lời hứa hão của người trên đối với kẻ dưới, những lời thề thốt của người này với người kia không được thực hiện, khiến cho câu nói :”thấy mới tin “ hay :”Nói vậy nhưng không phải vậy” trở thành câu nói quen thuộc trên môi miệng con người thời đại.
Con có tin Chúa đã sống lại ? Con có tin có Chúa thật ?
Trong đời sống đạo, con tự nhận mình là người tin Chúa, con vẫn tuyên xưng mỗi khi tham dự Thánh lễ Chúa nhật và lễ trọng. Nhưng những lời tuyên xưng ấy nào có ý nghĩa gì nếu cuộc đời con không thay đổi từ sự Phục sinh của Chúa. Lòng tin của con nếu không có những hành động cụ thể đi kèm hầu biến đổi đời con, thay đổi thái độ sống của con, theo gương Chúa, với anh chị em đang cùng sống với con; thì dù có được Chúa hiện ra như Người đã hiện ra với TôMa, tận mắt nhìn thấy Chúa, tận tay xỏ vào lỗ đinh nơi bàn tay Chúa chưa chắc con đã sống niềm tin ấy được .
Xin cho con, trong cuộc sống mỗi ngày, luôn biết minh chứng niềm tin của mình. Con thật có phúc vì chưa thấy được Chúa hữu hình, nhưng con tin và chính niềm tin ấy sẽ giải thóat con khỏi mọi sự dữ, giúp con trở nên người con yêu dấu của Chúa.
Xin ánh sáng từ trái tim của Lòng Thương Xót Chúa chiếu rọi vào tâm hồn con, để con luôn cảm thấy lòng mình ấm lên, tin tưởng tuyệt đối vào Chúa “LẠY CHÚA GIÊSU CON TÍN THÁC NƠI NGÀI – JESUS, I TRUST IN YOU “. AMEN.
LỜI CHÚA: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC KI-TÔ CHỈ ĐƯỢC TÔN VINH SAU KHI TRẢI QUA TỬ NẠN THẬP GIÁ:
Một hôm do muốn cám dỗ thánh Mác-ti-nô phạm tội, nên quỷ đã hiện hình thành một ông vua oai phong và phán rằng “Hỡi Mác-ti-nô, Ta cám ơn con đã tin vào Ta, và Ta mong rằng từ nay con sẽ luôn ở bên Ta và vâng nghe lời Ta truyền dạy”.
Mác-ti-nô chăm chú nhìn ông vua giàu sang kia và hỏi: “Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?”. Vua liền trà lời: “Ta là Vua Ki-tô đây !”
Mác-ti-nô lại hỏi: “Vậy những vết thương ở tay chân của Đức Ki-tô đã biến đi đâu cả rồi?” Vua liền đáp “Ta từ trời xuống, nên không cần đến các vết thương đó nữa !”
Bấy giờ Mác-ti-nô nói: “Tôi sẽ không bao giờ tin vào một Đức Ki-tô không chịu khổ nạn và tay chân không mang thương tích!” Tên vua quỷ nghe vậy liền biến mất.
Đức Ki-tô sau khi Phục sinh vẫn giữ những vết thương của cuộc khổ nạn. Khi hiện ra với Tô-ma, Chúa Phục Sinh đã cho ông xem những vết thương trên tay chân và cạnh sườn Người để chứng minh Người là Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn thập giá và đã từ cõi chết trỗi dậy.
2) GIÁ TRỊ CỦA CÁC VẾT SẸO TRÊN THÂN MÌNH ĐỨC GIÊ-SU:
Một võ sĩ đã trở lại đạo Công giáo, ngày nọ gặp một người bạn thân. Anh bạn kia hỏi: “Tôi nghe nói anh mới theo đạo công giáo phải không? Thật là tức cười !”
Võ sĩ tân tòng liền đápi: “Sao lại tức cười? Đó là điều tốt mà anh”. Người bạn kia lại hỏi: “Nếu vậy, liệu anh có xoá nổi chân tướng con người du côn của anh trước đây không? Những vết sẹo còn lại trên khuôn mặt anh sẽ tố cáo con người thật của anh”.
Võ sĩ tân tòng trả lời: “Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo là dấu vết của hành động bạo lực tội lỗi trước kia, thì nay lại trở thành cửa sổ giúp tôi đón nhận ơn Chúa. Thực vậy, những tội của tôi đã được Chúa thứ tha, nay tuy vẫn còn dấu vết, nhưng là dấu vết tình thương của Chúa. Người đã thương tôi và đã ban ơn cứu độ cho tôi”.
Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Phục Sinh đã giữ nguyên những vết sẹo để các ông có thể nhìn xem, sờ chạm và nhận ra Người. Khi hiện ra với Tô-ma, Chúa đã thỏa mãn đòi hỏi của ông khi phán: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20,27). Chúa Ki-tô Phục Sinh sẽ khó thuyết phục Tô-ma tin rằng Người đã từ cói chết sống lại nếu không cho ông xem các vết sẹo trên hai bàn tay, hai bàn chân và nơi cạnh sườn của Người.
3) “LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON”:
Trong tạp chí Guidepots, đã bài viết về bác sĩ SCOTT HARRISON, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay. Trong một bài tác giả đã viết về bác sĩ này như sau: “Lần nào khi đang giải phẫu tay cho một người nào đó, ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen nầy ngay từ hồi còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã để lại cho ông một cảm xúc sâu xa, đến nỗi sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, ông đã quyết định học chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật lạ gây ra, chẳng hạn như một viên đạn. Khi vật ấy xuyên thủng lớp da, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay một ngườim nhà phẫu thuật ấy thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp mà Chúa Giê-su đã phải chịu khi đôi tay Người bị đóng đinh vào cây thập giá.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, nhà phẫu thuật đã phát biểu như sau: “Tiếng kêu ‘Lạy Chúa là Thiên Chúa của con’ của tông đồ Tô-ma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy cảm thông của vị tông đồ này ông nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc của Chúa Giê-su. Chỉ đến lúc đó, Tô-ma mới nhận thức được cơn đau đớn mà Người đã phải chịu đựng trên cây thập giá. Ông đã kết thúc bài nói chuyện như sau: “Mỗi lần thực hiện giải phẫu cho một ai đó, tôi luôn nhớ tới Chúa Giê-su đã từng chịu đóng đinh hai tay vào thập giá vì tôi. Khi ấy, cũng như Tô-ma, tôi đều phải thốt lên rằng : “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.
4) CÓ THIÊN CHÚA KHÔNG?
Một bác học người Pháp muốn làm một cuộc nghiên cứu trong sa mạc. Ông chọn mấy người Ả rập làm hướng dẫn viên. Một buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn, một người trong nhóm dẫn đường trải tấm thảm xuống cát và ngồi lên đó trong dáng điệu trầm tư. Thấy thế nhà bác học buộc miệng hỏi:
– “Ngươi làm gì thế?”
– “Dạ, tôi cầu nguyện,” người kia trả lời.
– “Cầu nguyện à, thời buổi này mà còn cầu nguyện sao? Vậy ra anh vẫn còn tin có Thiên Chúa? … Mà anh đã nhìn thấy Chúa chưa?” Nhà bác học như muốn bắt bẻ.
– “Dạ chưa.”
– “Vậy anh đã nghe Chúa nói chưa?”
– “Dạ chưa.”
– “Vậy anh đã sờ chạm vào Chúa chưa?”
– “Dạ chưa,” người hướng dẫn kiên nhẫn trả lời.
– “Nếu thế thì anh thật là một gã điên khi tin vào một Thiên Chúa mà chưa bao giờ thấy, không bao giờ nghe, và cũng chẳng bao giờ đụng chạm được.”
Sau đó mọi người vào lều nghỉ đêm. Sáng hôm sau, trước khi hừng đông, nhà thông thái vừa bước ra khỏi lều đã vội kêu lên:
– “Ồ, này mọi người ơi: Tối hôm qua đã có một con lạc đà đi ngang qua nơi này!”
Người hướng dẫn trợn mắt kinh ngạc:
– “Vậy chứ ngài đã nhìn thấy con lạc đà đó đi ngang qua đây sao ?”
– “Không,” nhà thông thái tự đắc trả lời.
– “Vậy chứ ngài đã đụng chạm vào nó à?”
– “Không.”
– “Vậy chứ ngài nghe thấy tiếng kêu của nó à?”
– “Không.”
Người hướng dẫn reo lên:
– “Thế thì ngài thực là một kẻ điên khi tin rằng có một con lạc đà đã đi ngang qua khu vực chúng ta ở, khi mắt ngài không thấy, tai ngài không nghe, và tay ngài không đụng chạm đến.”
Nhà thông thái đáp lại:
– “Nhưng ta biết được có con lạc đã ấy là nhờ những dấu chân của nó còn để lại trên mặt cát kìa.”
Ngay lúc đó mặt trời hừng đông bắt đầu mọc lên, toả muôn tia sáng rực rỡ lung linh. Người hướng dẫn liền chỉ tay về phía mặt trời và nói: “Thế thì tôi cũng nhìn vào dấu vết là mặt trời kia để quả quyết có một Thiên Chúa đang đi qua cuộc đời tôi.”
Ngày nay không ít người đã dựa vào những khám phá của khoa học để tuyên bố không có Thiên Chúa, mà chỉ con người mới là chúa của vũ trụ. Và niềm tin vào Thiên Chúa đang bị khoa học bóp chết. Thế nhưng, cùng lúc đó lại có rất nhiều người khác, nhờ những khám phá của khoa học, đã nhìn thấy nhiều điều bí ẩn, siêu việt trong thế giới này, mà trí khôn con người chỉ mới vén mở được một phần sự thật it ỏi. Từ đó họ đã nhận biết sự hiện hữu của một Đấng siêu việt trên tất cả, Đấng mà các tín hữu gọi là Thiên Chúa.
SUY NIỆM:
1) Từ không tin đến tuyên xưng đức tin của ông Tô-ma:
Tin Mừng Gio-an hôm nay tường thuật hai lần Đức Giê-su hiện ra với các tông đồ sau khi sống lại. Cả hai lần Chúa đều hiện ra vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần và cách nhau đúng một tuần lễ. Lần thứ nhất vắng mặt Tô-ma, và lần thứ hai có ông hiện diện với các anh em. Trước đó, Tô-ma đã tuyên bố sự cứng tin của mình khi đòi phải được “mắt thấy tay sờ” mới tin Thầy sống lại từ cõi chết. Do đó, trong lần hiện ra thứ hai, Chúa Giê-su đã thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma khi cho ông xem các vết đinh ở hai bàn tay bàn chân và vết thương do lưỡi đòng đâm thâu ở cạnh sườn Người. Bấy giờ Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng đức tin : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”(Ga 20,28). Sau đó Đức Giê-su đã nhắn nhủ Tô-ma và qua ông, Người chúc phúc cho các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà Tin!” (Ga 20,29).
2) Các môn đệ khác đạt được đức tin như thế nào ? :
Các môn đệ của Đức Giê-su không phải là những người dễ tin. Các Tin Mừng thuật lại diễn tiến đức tin của các ông như sau:
– Vào sáng ngày Thứ Nhất trong tuần, khi nghe bà Ma-ri-a bao tin xác Thầy biến mất, hai môn đệ Phêrô và Gioan đã chạy đến mồ quan sát thực hư. Gioan đã đạt tới đức tin trước các anh em nhờ nhìn thấy những tấm khăn liệm xác và các dây băng được xếp gọn để lại trong mồ. “Ông đã thấy và đã tin”. Đức tin đến với ông nhờ sự tư duy và trực giác (x Ga 20,1-8).
– Bà Ma-ri-a Mácđala ban đầu đã gặp được Chúa Phục Sinh, nhưng bà không nhận ra Người mà tưởng là người giữ vườn. Bà chỉ nhận biết Ngừơi khi Người gọi tên “Ma-ri-a” (Ga 20,16).
– Hai môn đệ làng Em-mau cũng chỉ nhận ra Chúa Phục Sinh sau khi đã được nghe Người giải thích Kinh thánh và chứng kiến việc Người bẻ bánh là điểm (x Lc 24,13-31).
-Bảy môn đệ rủ nhau đi đánh cá tại biển hồ Ga-li-lê đã nhận ra Chúa Phục Sinh do vâng lời Người nên đã bắt được mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,1-14).
– Riêng ông Tô-ma trong Tin mừng hôm nay đã tin khi được Đức Giê-su thỏa mãn đòi hỏi “mắt thấy tay sờ” (x Ga 20,19-29).
– Tuy nhiên các môn đệ chỉ đạt tới đức tin trọn vẹn vào lễ Ngũ Tuần, sau khi các ông đã được gặp Chúa hiện ra nhiều lần. Nhất là sau khi các ông đã vâng lời Chúa cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a và các anh em Chúa trong Nhà Tiệc Ly và nhận được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần (x Cv 2,1-12); Chính nhờ đón nhận được sức mạnh Thánh Thần từ trên cao, các ngài đã đạt được đức tin trọn vẹn và hăng say chu tòan sứ mệnh “loan báo Tin mừng » được ủy thác đến tận cùng thế giới”.(x Cv 1,8).
3) Làm thế nào để thuyết phục được nhiều người trong thế giới hôm nay tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su?
Như Tô-ma xưa, con người ngày nay cũng không dễ tin: họ luôn đòi phải được “mắt thấy tay sờ”, phải thấy được bằng chứng đáng tin. Do đó, các tín hữu chúng ta cần trình bày mầu nhiệm Chúa Phục Sinh bằng chứng tích đời sống của mình.
Thực vậy:
– Làm sao anh em lương dân có thể tin vào Chúa Phục Sinh, nếu không được xem những vết chai cứng nơi bàn tay lao động, những khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi vì phục vụ những người nghèo khổ của các tín hữu chúng ta?
– Làm sao họ tin Chúa đã yêu thương chịu chết đền tội và sống lại để ban cho họ sự sống đời đời, nếu họ không nhìn thấy những dấu chỉ yêu thương quên mình phục vụ trong cộng đoàn Hội Thánh … như sách Công vụ đã thuật lại sinh họat của Hội Thánh Sơ Khai tại Giê-ru-sa-lem: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải , lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ,. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).
– Yêu thương nhau là dấu hiệu môn đệ đích thực của Đức Giê-su: “Ở điểm này , mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Con người ngày nay luôn đòi phải được xem thấy những dấu chứng tình thương nơi các tín hữu như Đức Phaolô VI đã khẳng định: “Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân”.
4) Thể hiện Lòng Chúa Thương Xót cụ thể là cách loan báo Tin Mừng hữu hiệu cho con người hôm nay:
Hội Thánh đã chọn Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm để kính Lòng Chúa Thương Xót, qua đó mời gọi các tín hữu chúng ta hãy noi gương Chúa thực hiện lòng thương xót đối với tha nhân nhất là những người nghèo khổ bất hạnh đang sống gần bên chúng ta.
– Mỗi người chúng ta cần tránh những lời nói, thái độ vụ luật và bất nhân của bọn Biệt Phái và Kinh Sư Do thái xưa đã bị Chúa nặng lời quở trách, nhờ đó anh em lương dân sẽ dễ dàng đón nhận đức tin vào Chúa hơn.
– Mỗi tín hữu chúng ta cũng cần thực hiện các việc bác ái cụ thể như kinh thương người, trong đó có 7 việc thương người về thể xác cần thực hiện như: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống; Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; Cho khách đỗ nhà: Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết.
– Cũng cần thực hiện lòng bác ái thương người cả về phạm vi linh hồn như: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo: Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
– Để có thể thực hành lòng thương người nói trên, mỗi người chúng ta nên quyết tâm làm một việc bác ái cụ thể như: chia sẻ cơm bánh và khiêm tốn phục vụ tha nhân, kèm theo một lời nguyện tắt như sau: “Lạy Chúa. Con xin làm việc này để cầu cho một người lương tin yêu Chúa, để họ cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với con”. Làm như vậy là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su: ”Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
THẢO LUẬN:
1) Trước đây bạn có bị ai thù ghét làm hại hay không? Nếu có, bạn sẽ làm gì để thực hành Lời Chúa dạy tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình?
2) Bạn hãy đọc thuộc kinh Thương Người và xin Chúa ban ơn giúp chúng ta thực hiện tình thương tha nhân hằng ngày.
NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.
Khi chúng con đi tìm kiếm Chúa trong nước mắt đau thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên bà Ma-ri-a đang khóc bên mộ Chúa khi xưa.
Khi chúng con chán nản muốn bỏ Chúa, xin hãy đi với chúng con trên những đọan đường dài, như Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường về làng Em-mau.
Khi chúng con đóng cửa lòng vì sợ hãi, xin hãy đến ban sự bình an cho chúng con, như Chúa đã đến ban bình an cho các môn đệ vào chiều ngày phục sinh.
Khi chúng con đang hòai nghi bất tín, xin hãy tiếp tục kiên nhẫn và khoan dung với chúng con, như Chúa đã tỏ lòng khoan dung với sự cứng lòng của Tô-ma.
Khi chúng con gặp thất bại trong cuộc sống, xin hãy đến nâng đỡ ủi an chúng con, như Chúa đã đến phục vụ bánh và cá cho bảy môn đệ trên bờ biển hồ Ga-li-lê xưa.
Lạy Chúa Giê-su phục sinh, xin hãy tỏ mình ra cho chúng con thấy Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn, để chúng con quảng đại chia sẻ cơm bánh vật chất và nhiệt tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, hầu sau này chúng con sẽ được Chúa liệt vào hàng các chiên ngoan trong đoàn chiên Chúa.
Hôm nay là Chúa nhật Thứ hai Phục sinh cũng là Chúa nhật Lòng Thương xót Chúa. Ngày 30 PS 2-ABC398
Hôm nay là Chúa nhật Thứ hai Phục sinh cũng là Chúa nhật Lòng Thương xót Chúa. Ngày 30 tháng 4 năm 2000, trong lễ phong hiển thánh cho nữ tu Faustina, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ nhị đã quyết định tuyên bố và đặt Chúa nhật sau phục sinh là Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót. Khi tuyên bố đặt ngày lễ này, Thánh Giáo hoàng hy vọng rằng chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa và tri ân lòng thương xót của Chúa, đồng thời trở thành sứ giả lòng thương xót của Người.
Chúng ta cần tìm hiểu lòng thương xót nghĩa là gì? Thương xót nghĩa là sự biểu lộ lòng xót xa đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn. Lòng thương xót đối với Chúa còn là sự khao khát muốn làm vơi đi những nỗi đau khổ đó. Như vậy, lòng thương xót của Chúa là sự biểu lộ tình thương trước những hoàn cảnh khó khăn của dân Chúa.
Lòng thương xót của Chúa không như con người. Vì con người thương xót nhưng có chọn lựa, có tính toán hay thuận tiện. Cùng hoàn cảnh nhưng chúng ta thương người này và có thể ghét người kia. Thế nhưng, lòng thương xót của Chúa thì trải rộng cho mọi người. Không toan tính. Không chọn lựa. Ngài yêu thương con người bất kể tình trạng của họ. Bởi vi, Chúa vẫn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Lòng thương xót của con người chúng ta thì giới hạn. Chúng ta có thể xót thương người khốn khổ. Xót thương những người già yếu, bệnh tật và cô đơn. Xót thương những trẻ nhỏ bị khuyết tật, mồ côi, ăn xin hay bị cha mẹ bỏ rơi hay không có người nuôi dưỡng. Và chắc chắn chúng ta sẽ chẳng bao giờ xót thương những người phạm pháp, trộm cắp, lừa dối, ích kỷ và thù ghét chúng ta.Chúng ta thường không thương xót họ mà có khi còn nguyền rủa họ.
Lòng thương xót Chúa thì không giới hạn. Ngài yêu thương mà không cần biết họ là ai? Ngài chỉ bận tâm đến nhu cầu của con người và ra tay nâng đỡ. Thánh Kinh nói rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được. Thế nhưng, Chúa đã không chấp tội mà cũng không giáng phạt theo như tội chúng ta đã phạm. Lòng thương xót của Chúa trải rộng trên con người. Trên người lành cũng như người dữ. Ngài luôn biểu lộ lòng thương xót cho bất cứ ai đến với Ngài. Lòng thương xót ấy không dừng lại ở nơi kẻ yêu Ngài mà còn dành cho cả kẻ ghét Ngài, xỉ nhục, phỉ báng và kết án Ngài. Chính trong đau thương khổ nhục mà Ngài vẫn xót thương những kẻ đang hành hạ Ngài khi Ngài cầu nguyện cùng Cha: Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.
Có lẽ với bản tính con người, chúng ta thù hận kẻ làm hại, gian dối và áp bức chúng ta. Có lẽ chúng ta cũng kinh tởm kẻ vô ơn, phản bội với chúng ta. Thế mà, Chúa Giê-su dường như không còn nhớ đến tội lỗi của con dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngài đã tha thứ cho kẻ làm nhục Ngài. Ngài cũng tha thứ cho những môn đệ đã phản bội, từ chối và bỏ rơi Ngài trong tuần thương khó.
Chúng ta thấy khi Chúa sống lại Ngài không tìm ai để trách móc, kêu oan hay trả thù. Và dường như Ngài cũng không bận tâm đến lỗi lầm của các môn đệ. Ngài đã trao bình an và chúc phúc cho các môn đệ mỗi khi hiện ra với họ. Ngài biết trong lòng các ông còn một nỗi sầu khổ vì phản bội, vì bỏ rơi Thầy trong lúc gian nguy. Ngài biết sau khi Chúa sống lại lòng các tông đồ còn bối rối hoang mang lo sợ, bất an vì mặc cảm tội lỗi, mặc cảm phản bội Thầy, vì sợ hãi và nghi ngờ. Chúa đã biết điều đó nên đã đi bước trước để ban bình an cho các ông.
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Chúa Giê-su Ki-tô hiện đã ra với các tông đồ một lần không có sự hiện diện của Tô-ma. Tám ngày sau đó, khi cửa phòng đóng kín, Chúa Giêsu lại hiện ra với các tông đồ một lần nữa có cả Tôma. Khi hiện ra với các tông đồ, trước hết Chúa Giêsu Phục sinh đã chúc bình an cho họ, và sau đó đã cho Tô ma và mọi người thấy những vết thương ở tay và cạnh sườn. Sau khi được nhìn tận mắt, Tô ma đã tin Chúa đã sống lại thật, và quì xuống tuyên xưng: ‘’Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con.”
Vì có một niềm tin vững chắc, không nghi ngờ, vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, cho nên các tông đồ đã ra đi trở thành sứ giả của Chúa Ki-tô, trung thành và can đảm thi hành sứ vụ Chúa trao ban như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một. Họ bác ái và quảng đại, hy sinh và can trường làm chứng cho Chúa, và không nao núng trước những sự vu khống, thù hằn, đe dọa, gian khổ và tù đày, để cùng đồng tâm nhất trí, và chung sức xây dựng Giáo hội mà Chúa Giê-su Ki-tô đã thiết lập. Đời sống yêu thương và hiệp nhất của họ đã thu hút nhiều người tin vào Chúa và giai nhập Giáo hội càng ngày càng thêm phát triển. Niềm tin vào Chúa Giê-su Phục sinh và ơn Chúa Thánh Thần đã làm cho họ can đảm và làm được nhiều phép lạ như Chúa Giê-su đã làm. Họ nhận biết khả năng tự nhiên của họ giới hạn và quá ít. Nhưng họ tin có Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh trợ sức, hướng dẫn và đồng hành, để lời rao giảng về Mầu nhiệm Thập giá của họ trở thành nguồn ơn cứu độ và lòng thương xót của Chúa.
Sứ điệp của Chúa nhật lòng Chúa thương xót hôm nay là sứ điệp của yêu thương và tha thứ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục xót thương dân Người. Lòng thương xót của Chúa không bị tội lỗi của con người cản trở mà vẫn đong đầy cho những ai đến với Ngài. Lòng thương xót Chúa vẫn xoa dịu những ai đang bất an vì tội lỗi. Lòng thương ấy vẫn đang chữa lành cho những ai đang đau khổ bệnh tật tâm hồn hay thể xác. Lòng thương xót ấy vẫn là căn tính của Thiên Chúa rất yêu thương và xót thương dân Người.
Xin cho mỗi người chúng ta vững tin vào Chúa, tín thác vào lòng thương xót Chúa cho dẫu chúng ta còn mang đầy những vết thương của yếu đuối lỗi lầm. Hãy để cho lòng thương xót Chúa chữa lành những tật nguyền của chúng ta và giúp chúng ta trở thành sứ giả lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng có một tấm lòng bác ái và quảng đại, để gạt qua những thành kiến, những đố kỵ, ghen tương mà đón nhận nhau trong yêu thương chia sẻ, rao giảng Tin mừng và xây dựng giáo xứ. Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở thành một chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa bằng tình yêu hiến dâng phục vụ tha nhân.
Chúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa PS 2-ABC399
Chúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa Phục Sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? đòi hỏi của ông có thật sự cần thiết không? gặp được Thầy Giêsu sống động, đi lại, nói năng và ăn uống như người thường, chẳng lẽ lại không đủ sao? tại sao ông lại đòi hỏi phải được “cho xem tay và cạnh sườn” Người? hơn nữa, việc mắt thấy tay chạm có ý nghĩa đặc biệt nào đối với nhóm môn đệ nhút nhát, nhất là đối với ông Tô-ma?
Dưới cặp mắt các môn để, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý về cái chết đau đớn của một thân xác treo trên giá thập tự. Đối với các ông - và đó cũng là nội dung giáo huấn trường kỳ của Đức Giêsu trước đây, dấu đinh trên tay chân và vết thương nơi cạnh sườn mà họ nhìn thấy nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, diễn tả tình yêu bao la của Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đấng Phục Sinh hẳn muốn nói cho các môn đệ thân yêu một điều gì vượt xa lời khảng định rằng: Người đã sống lại về mặt thể lý. Điều Người muốn khảng định qua các dấu tích đó là: tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng! Các môn đệ do đó cần một cảm nhận cụ thể để tin vào điều này cách vững bền. Các ông là những nhân chứng được chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng lòng xót thương tha thứ đó vẫn còn sống, vì nó là vô địch.
Môn đệ Tô-ma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều khi bị coi là thách thức: “Nếu tôi không….” Phần mình Đức Giêsu phục sinh đã coi yêu cầu đó là hoàn toàn chính đáng, và Người không ngần ngại đáp ứng: “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Quả vậy, Tô-ma và tất cả các môn đệ khác đều cần tới cái cảm nghiệm cụ thể này, nhất là sau tất cả các biến cố xáo trộn mà các ông vừa trải qua; ông đã thấy, đã chạm vào các dấu tích…, và ông đã tin. Ông không chỉ tin Chúa đã sống lại, mà đúng hơn: tin vào sự toàn thắng của tình yêu cứu độ.
Đối với Kitô hữu chúng ta thuộc các thế hệ sau này thì sao; Đức Giêsu đã không hề tuyên bố trải nghiệm đó là không còn cần thiết! Ngược lại là đàng khác! Tuy nhiên Người khảng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì phải đụng tới bằng giác quan thể lý, “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Bí tích Thánh Thể mà Người đã thiết lập chính là để các tín hữu trải qua các thế hệ chạm tới được các dấu đinh trên tay chân và vết thương cạnh sườn Chúa Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể vì thế trở nên tâm điểm của đời sống Kitô hữu, chính vì nơi đây, trong niềm tin, các Kitô hữu từng người một, cảm nghiệm cách rất riêng tư và sống động lòng thương xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lặp lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh mục và tín hữu cùng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”; đúng là họ, hơn bất cứ ai khác, cần đụng chạn tới biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và hữu hiệu của nó. Bất luận ai là Kitô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm! Họ sẽ có cùng thái độ của Phê-rô và Gio-an, khi đứng trước người bất toại trong hành lan đền thờ: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh đây…” (Cv 3:6) Mọi Kitô hữu, bao gồm cả tu sĩ, linh mục lẫn giáo dân, cách riêng các tân tòng, đều cần ý thức rằng: họ không nhất thiết phải là người giầu có nhất về mặt vật chất tiền của, cũng không cần là những người phong phú nhất về diện tinh thần hay thiêng liêng, nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân duy chỉ một mình họ có, đồng thời cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới, và được cử hành cách sinh động lòng thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Kitô Giêsu.
Riêng cá nhân tôi! tôi có thực sự xác tín điều này không?
Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được dùng đức tin để xỏ ngón tay con vào các lỗ đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng: tình yêu cứu độ Chúa dành cho con quả là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người cảm nhận mình đượcThiên Chúa yêu thương, và tin chắc rằng: tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử hành mầu nhiệm Phục Sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống hàng ngày của con. Amen.
PHỤC SINH: TẠO DỰNG CON NGƯỜI MỚI TRONG THẦN KHÍ THỨ THA
Theo tông đồ Gio-an: lần Đức Kitô Giêsu hiện ra trước đông đủ các môn đệ sau khi sống lại (việc PS 2-ABC400
Theo tông đồ Gio-an: lần Đức Kitô Giêsu hiện ra trước đông đủ các môn đệ sau khi sống lại (việc hiện ra lần hai có mặt cả Tô-ma, càng nhấn mạnh sự đông đủ này) có một tầm quan trọng rất lớn. Sau những lời chào hỏi và tự giới thiệu, Người đã tuyên bố một điều và làm một cử chỉ long trọng hầu biểu lộ trọn vẹn bản chất sâu xa nhất của tông đồ đoàn và của người môn đệ, tức là của những kẻ tin và thuộc về Người – của Hội Thánh. Người thổi Sinh Khí mới vào các môn đệ và sai các ông ra đi để thứ tha; “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em… Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Nếu trước đó Người đã ‘cho các ông xem tay và cạnh sườn’ thì cũng chỉ là: để các ông nhận ra Con Người Phục Sinh cũng chính là Con Người Cứu Chuộc. Con Người đó đã được Chúa Cha sai đến để cứu rỗi trần gian, “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Người Con này một khi đã sống lại, cũng yêu thế gian đến nỗi, đã sai các môn đệ của mình đi, hầu tiếp tục sứ vụ làm cho thế gian khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’.
Cũng như trong cuộc tạo dựng đầu tiên, hơi thở của Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người để làm cho A-đam được sống, thì cũng vậy, hơi thở của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh thổi Thần Khí vào các môn đệ, hầu các ông trở thành sinh vật mới. Nếu thổi hơi lần đầu đã ban cho con người quyền sống để làm bá chủ muôn loài (St 2:7), thì hơi thổi lần hai này ban cho người môn đệ ơn tha thứ, để rồi họ cũng thi hành quyền thứ tha cho hết mọi người “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha”. Nếu Thiên Chúa tạo dựng là Thiên Chúa hằng sống, và ai nhận được hơi thở của Ngài sẽ có sự sống và có khả năng thông truyền sự sống (St 1:28), thì Đức Kitô Phục Sinh là hiện thân Thiên Chúa thứ tha và xót thương, nên ai nhận được hơi thở của Người cũng được tha thứ, và có khả năng làm lan tỏa thứ tha tới hết mọi người; như thế, trong Thần Khí Đức Kitô Phục Sinh người môn đệ trở nên tạo vật mới đầy tràn sức sống của thứ tha và xót thương. Nếu mọi con người đều có quyền sống, thì mọi Kitô hữu đều có quyền sống thứ tha! Nếu mọi người nhân loại đều phải bảo vệ sự sống và truyền sinh, thì mọi Kitô hữu trong Hội Thánh cũng đều phải bảo vệ ơn tha tội và thúc đẩy việc thứ tha! Tôi thiết tưởng: cái gọi là ‘quyền tha tội và cầm buộc’ của Hội Thánh phải được hiểu trong ý nghĩa và nội dung này.
Về mặt này tôi rất tâm đắc với nhận xét của Hurault trong Christian Community Bible: “Kitô hữu càng nỗ lực tiến xa trong đời sống thiêng liêng luân lý, thì càng thấy mình chưa được hoàn toàn giải thoát khỏi tội lỗi. Do đó họ càng cảm nhận ơn tha tội là một quà tặng và quyền lợi lớn lao nhất được ban cho Hội Thánh. Tội không phải chỉ là những lỗi luân lý phạm hàng ngày, trong đó phần sai lầm và yếu đuối là chính. Tội thực ra là từ chối hay e sợ nộp mình cho Thiên Chúa tình yêu và tha thứ, là Đấng duy nhất có khả năng đưa chúng ta đến một cuộc sống hoàn toàn trần trụi, nhưng lại hoàn toàn viên mãn. Một khi tha tội cho chúng ta, Người ban cho ta khả năng biết tự nộp mình cho Người. Nói cách khác, đó là khả năng tha thứ, là sức mạnh duy nhất cho phép ta giải quyết và giải phóng mọi kiểm tỏa con người… Thái độ dung thứ là bí quyết vô cùng quí giá mà Hội Thánh phải xem là tài sản độc đáo nhất của mình, là Tin Mừng mình đón nhận và trao ban cho thế giới… Kitô hữu lãnh nhận bí tích rửa tội tức là họ ý thức thân phận tội lỗi trường kỳ của mình, họ đón lấy hơi thở Thần Khí thứ tha của Thiên Chúa, và họ quyết sống tình yêu tha thứ này luôn mãi trong đời mình và trong mọi tương quan với tha nhân. Tha thứ, đối với họ, là quyền sống căn bản nhận được từ Đức Kitô Phục Sinh, mà họ sẽ cố bảo vệ bằng mọi giá”. Như thế: ai càng thuộc về tông đồ đoàn, thì càng phải cảm nhận được hơi thở tha thứ của Đức Kitô Phục Sinh cho mình; càng là tín hữu trung kiên trong Hội Thánh, tôi càng phải sở đắc và sống sung mãn ơn cứu độ và thứ tha.
Tôi thiết nghĩ, trong tư cách một linh mục của Hội Thánh, tôi là người trước hết phải nắm bắt được bản chất thánh thiện đích thực này của Giáo Hội, và thi hành quyền ‘thứ tha’ mà Đức Kitô đã ban cho Hội Thánh trong Thánh Thần với tất cả sự khẩn trương và quảng đại. Đặc biệt trong thế giới hôm nay, khi mà giới trẻ đang trông chờ được Hội Thánh chính thức trình bày cho chúng khuôn mặt thật này của Đức Kitô Phục Sinh: một Đức Kitô đầy nhân ái và thứ tha mà chúng hằng mong đợi.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Thần Khí một lần nữa trên con và trên mọi tín hữu như Chúa đã thổi trên các môn đệ trong lần hiện ra đầu tiên. Trong đêm Phục Sinh, con đã tuyên xưng mình muốn sống Kitô hữu cách trọn vẹn hơn. Xin dạy cho con hiểu rằng: sống Kitô hữu là giữ trọn quyền được tha thứ và thứ tha cho tha nhân. Xin hãy sai con đi làm chứng tá cho tình yêu Phục Sinh của Chúa. Amen.