Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!" Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. - Ðó là lời Chúa.
Trong Tông Thư “Khuôn Mặt Xót Thương”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Trong dụ ngôn về PS 2-ABC401
Trong Tông Thư “Khuôn Mặt Xót Thương”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Trong dụ ngôn về lòng thương xót, Chúa Giêsu tiết lộ bản tính của Thiên Chúa như một người Cha không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi Ngài đã tha thứ kẻ sai phạm và vượt qua sự từ khước với lòng trắc ẩn và thương xót”.
Thật vậy, tha thứ là bản chất của Thiên Chúa. Trong thời Cựu Ước, biết bao lần dân Chúa phản bội, chạy theo các thần của dân ngoại, nhưng mỗi khi dân biết sám hối quay trở về thì Ngài sẵn sàng tha thứ. Sang thời Tân Ước, Chúa Giêsu luôn dạy về sự tha thứ. Khi Phêrô hỏi Chúa phải tha thứ bao nhiêu lần, có phải bảy lần không? Chúa trả lời “Không phải là bảy lần nhưng bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22).
Không những Chúa Giêsu dạy sự tha thứ mà chính Ngài đã thực hành sự tha thứ. Ngài tha thứ cho Phêrô qua cái nhìn đầy trìu mến yêu thương sau khi Phêrô chối Ngài ba lần. Ngài tha thứ cho kẻ trộm lành. Ngài tha thứ cho những người đóng đinh Ngài “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu không hề nhắc tới tội của Phêrô, tội bỏ trốn của các Tông đồ. Sự nghi ngờ của ông Tôma. Ngài tha thứ cho họ tất cả. Ngài tha thứ cho Phaolô khi ông trên đường đi lùng bắt các kitô hữu. Nếu Giuđa có lòng thống hối, chắc chắn Chúa cũng sẽ tha luôn. Ngài đã lập Bí tích Giao Hoà để tha thứ tội lỗi cho con người mỗi khi con người phạm tội và biết thống hối ăn năn. Chính trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã ban cho các Tông đồ quyền tha tội : “Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha” (Ga 20,23).
Giáo Hội qua mọi thời đại không những thi hành sự tha thứ cho các tội nhân qua bí tích Giao Hoà mà còn thực hành sự tha thứ trong cuộc sống. Sách Công Vụ Tông đồ cho biết, chính Thánh Phêrô đã sống tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu trên Thánh giá khi coi hành động của những người Do Thái và cả của các thủ lãnh của họ như “do không hiểu biết” (Cv 27,25). Thánh Stêphanô đã cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho Phaolô (x. Cv 7,60). Muôn vàn gương tha thứ khác của Giáo Hội và các thành viên trong Giáo Hội mà chúng ta không thể kể hết ra đây. Trong thời đại chúng ta có gương tha thứ của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Ngày 13 tháng 05 năm 1981, tên khủng bố Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhỉ Kỳ, đã cố ý giết Đức Thánh Cha Gioan Phalô II bằng ba phát súng lục trong một cuộc tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma. Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Ngài đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là tha thứ cho y.
Trong cuộc sống chung, không thể tránh khỏi những va chạm, có những va chạm gây ra đổ máu, chết chóc: Giữa các thành viên trong gia đình; giữa những người làng xóm làng giềng với nhau; giữa bạn bè; giữa những người trong cộng đoàn; giữa những người không quen biết; có những va chạm đến từ những người không cùng quan điểm, tôn giáo với chúng ta, họ ghen ghét vì chúng ta là người kitô hữu...Nhưng trong mọi trường hợp, Chúa và Giáo Hội luôn mong muốn chúng ta phải thể hiện tinh thần tha thứ.
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 04 tháng 11 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các gia đình sống tinh thần tha thứ cho nhau, Ngài nói: “Gia đình là một thao trường lớn để tập luyện sự trao ban và tha thứ cho nhau, chẳng vậy không có tình yêu nào có thể trường tồn. Trong kinh nguyện mà chính Ngài đã dạy chúng ta, kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thưa với Chúa Cha: ‘Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Vào cuối kinh, Chúa bình luận: ‘Thực vậy, nếu các con tha thứ những lỗi lầm của người khác, thì Cha các con trên trời cũng tha thứ cho các con; nhưng nếu các con không tha thứ cho tha nhân, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ những lỗi lầm của các con’ (Mt 6,12.14-15). Ta không thể sống mà không tha thứ, hoặc ít là không thể sống tốt đẹp, nhất là trong gia đình. Mỗi ngày chúng ta làm những điều lầm lỗi đối với nhau. Chúng ta phải để ý đến những sai lầm ấy, do sự yếu đuối và ích kỷ của chúng ta. Nhưng điều mà chúng ta được yêu cầu là chữa lành ngay những vết thương chúng ta gây ra cho nhau, nối lại tức khắc những mối dây đã bị đứt đoạn. Nếu chúng ta chờ đợi quá lâu, thì tất cả trở nên khó khăn hơn. Và có một bí quyết đơn giản để chữa lành những vết thương và giải tỏa những lời cáo buộc, đó là đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không xin lỗi, không làm hòa giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, giữa mẹ chồng và nàng dâu! Nếu chúng ta học cách xin lỗi và tha thứ ngay cho nhau, thì chúng ta chữa lành những vết thương và hôn nhân được củng cố, gia đình trở thành căn nhà vững chắc hơn, chống lại được những chấn động do những thói xấu lớn nhỏ của chúng ta gây ra”.
Đối với những người khác, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu chúng ta học cách sống như thế trong gia đình, thì chúng ta cũng làm như vậy ở bên ngoài, bất kỳ nơi nào chúng ta sống. Nghi ngờ về điều này là điều dễ dàng. Nhiều người, kể cả các tín hữu Kitô nghĩ rằng đó là một điều thái quá. Họ nói: nói thì dễ, thì đẹp, nhưng không thể thực hành được. Nhưng cám ơn Chúa, không phải như vậy. Thực thế, chính khi lãnh nhận ơn tha thứ từ Chúa, mà chúng ta có khả năng tha thứ cho người khác. Vì thế, Chúa Giêsu đã yêu cầu lập lại những lời này mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi ngày. Và điều không thể thiếu được, đó là một xã hội nhiều khi tàn ác, có những nơi, như gia đình, trong đó chúng ta phải học tha thứ cho nhau”.
Chúa Nhật kính lòng thương xót Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cảm nghiệm lòng thương xót tha thứ của Chúa. Qua Bí tích Giao hoà, biết bao lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Từ đó, chúng ta đừng hẹp hòi khi cần phải tha thứ cho anh chị em mình. Bởi vì: Nếu chúng ta không tha thứ lỗi lầm cho người khác, thì Cha chúng ta trên trời cũng sẽ không tha thứ tội lỗi cho chúng ta” (x. Mt 6,15). Amen.
Đức tin, theo quan niệm kitô giáo, là sự Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian, xuyên qua những công PS 2-ABC402
Đức tin, theo quan niệm kitô giáo, là sự Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian, xuyên qua những công trình thiện hảo Người đã làm. Mỗi loài thụ tạo đều mang dấu vết của Đấng tạo hóa, đặc biệt, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên họ có thể nhận biết một cách không sai lầm sự hiện hữu của Ngài.
Hiểu biết nhờ quy luật nhân quả phổ quát hơn hiểu biết nhờ trải qua kinh nghiệm. Sự phục sinh của Chúa Giê-su là biến có siêu lịch sử, nên chỉ có thể đón nhận qua những dấu vết, những bằng chứng Chúa thực hiện nơi các Tông Đồ và nơi cộng đoàn tín hữu khắp trần gian.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày niềm hy vọng đức tin vào Chúa Giê-su phục sinh thể hiện bằng việc làm của cộng đoàn tín hữu.
Bài đọc I, trích sách Tông Đồ Công Vụ, ghi nhận nếp sống rất đặc biệt của cộng đoàn tín hữu sơ khởi:
* Tinh thần hiệp nhất đại đồng: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý” (Cv 4, 32). Sự hiệp nhất nên một khơi nguồn từ sự hiệp nhất của Cha và Con. Trong lời nguyện hiến tế, Giê-su cầu nguyện cho sự hiệp nhất “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Sự hiệp nhất vừa mang chiều kích thần thiêng: đến từ Thiên Chúa, vừa mang chiều kích nhân sinh: cố gắng phấn đấu bảo vệ sự hiệp nhất.
Như vậy, sự hiệp nhất kitô giáo có đặc tính bí tích, nghĩa là: ân sủng cứu độ được ban tặng khi mọi người sống hiệp nhất yêu thương nhau. Tự thân hiệp nhất là lời cầu nguyện, là tâm tình tạ ơn đẹp lòng Chúa và có sức cứu độ những kẻ tin.
Tinh thần liên đới hiệp thông trong cộng đoàn là dây ràng buộc mọi điều toàn thiện: quảng đại sẻ chia, không ai coi những gì mình có là của riêng, quan tâm săn sóc nhau, đến nỗi, trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn.
* Các Tông Đồ hăng hái nhiệt thành làm chứng Chúa đã sống lại: bằng lời rao giảng, bằng chứng từ cuộc sống các ngài và bằng những dấu lạ điềm thiêng. Chúa ban cho cộng đoàn dồi dào ân sủng và số các tín đồ mỗi ngày gia tăng.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc nhấn mạnh chiều kích cử hành. Gio-an ngầm tuyên xưng sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong việc cử hành phụng vụ, nhất là bí tích Thánh Thể.
Gio-an ấn định là buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, rồi tám ngày sau, cũng nhằm ngày thứ nhất. Các Tông Đồ hội họp là để cử hành bữa ăn của Chúa. Chính trong việc cử hành bí tích Thánh Thể, Đức Kitô hiện diện thực hữu trong cộng đoàn.
Việc cử hành giúp củng cố đức tin, gia tăng đức cậy và đức mến. Nơi điều này, các tín hữu đã có lối sống đạo khác thường và phi thường trước mặt muôn dân. Nhờ tin vào Chúa Phục Sinh, tín hữu dám hy sinh tất cả và nâng đỡ nhau cách tích cực, đến nỗi trong cộng đoàn không một ai phải thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu.
Bài học không vui cho Thomas là không được gặp Chúa, vì không có mặt trong cộng đoàn phụng vụ. Ông đòi bằng chứng, phải chờ mãi tới tám ngày sau, cũng vào giờ cử hành phụng vụ, ông đã gặp Chúa, không phải do giác quan tự nhiên, nhưng con mắt đức tin: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con” (Jn 20, 28).
Thomas có phúc vì xem thấy Chúa, nhưng còn phúc hơn cho ông vì nhờ lòng tin cộng đoàn, đức tin của ông đã được thanh luyện, được chữa lành.
Bài Tin Mừng, không dừng lại trong việc tuyên xưng Chúa đã sống lại thật, mà muốn đưa cộng đoàn đi xa hơn nữa trong việc đón nhận trọn vẹn hiệu quả cứu độ của ơn phục sinh. Chúa thổi hơi ban Thánh Thần: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Jn 20, 22 – 23).
Thánh Thần là hồng ân thời cánh chung ban cho kẻ tin vào Chúa Kitô được trở nên con Thiên Chúa, đồng thời, giúp họ cầu nguyện hợp với thánh ý Chúa, giúp họ sống đời kitô hữu hoàn hảo, trở nên chứng nhân Chúa phục sinh cách cụ thể và sống động, như men, muối, ánh sáng cho đời.
Thánh Gio-an, trong bài đọc II, coi đức tin là tuyệt đối cần cho việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nhờ đức tin mới có lòng yêu mến chân thành, yêu mến tất cả những gì thuộc về Chúa: mến Chúa, yêu người, thành tín vâng giữ luật Chúa.
Nhờ sức mạnh đức tin, người môn đệ Chúa sống giữa thế gian mà vẫn không thuộc về thế gian này.
Chính Thánh Thần của Đấng phục sinh ban cho họ sức mạnh chiến thắng thế gian và ác thần.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta:
* Một là: Đức tin chỉ có thể lớn mạnh, sinh hoa kết trái nhờ việc kiên trì lắng nghe giáo huấn của các tông đồ và siêng năng tham dự phụng vụ, đặc biệt bí tích Thánh Thể và bí tích hòa giải. Thánh thể là mầu nhiệm đức tin, ban và củng cố, nuôi dưỡng đức tin. Chúng ta yêu mến Thánh Thể, siêng năng tham dự thánh lễ. Chúa Giê-su đã cử hành hy tế Thánh Thể để cứu độ trần gian. Làm như Chúa dạy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” để cứu rỗi chính mình và cứu độ trần gian.
* Hai là: Đức tin có việc làm. Hiệp nhất yêu thương là căn bản đối với kitô hữu: người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa, đó là “yêu thương nhau”. Chia sẻ yêu thương tùy khả năng cũng là cách làm chứng cho tin mừng phục sinh.
Xin nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày mừng Chúa phục sinh hôm nay. Amen.
Chúa Giêsu phục sinh! Một biến cố vô tiền khoáng hậu, đã đảo lộn tất cả mọi sự. Người Công giáo PS 2-ABC403
Chúa Giêsu phục sinh! Một biến cố vô tiền khoáng hậu, đã đảo lộn tất cả mọi sự. Người Công giáo tin vì chúng ta biết Thiên Chúa là ai và Ngài yêu thương chúng ta. Chúng ta tin nhờ những chứng nhân Ngài đã chọn, đã sống với Ngài, đã chứng kiến việc Ngài sống lại. Nhưng những bước khởi đầu của niềm tin này không dễ dàng đối với các tông đồ. Họ phải lần mò trong trong đêm tối, hoài nghi cho đến ngày thứ nhất trong tuần sau tử nạn, Chúa hiện đến với các ông.
“Các cửa đều đóng kín vì sợ người Do Thái”. Một chi tiết nhỏ nhưng quan trọng. Đóng đinh Thầy rồi, các môn đệ cũng không thể yên thân. Nhờ đó các ông tụ họp lại với nhau, chỉ trừ một người vắng mặt.
Chúa Giêsu đến đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Thánh Gioan không nói gì về phản ứng của các môn đệ, chỉ nói: “Họ vui mừng” chứ không hoảng sợ. Chúa Giêsu muốn các ông tin Ngài trước khi gặp Ngài. Vì thế, họ không ngạc nhiên mà cảm thấy như khi Ngài còn ở giữa họ.
“Các cửa vẫn đóng kín”. Ngài vào nhà như thế nào?
Điều này cho thấy, khi sống lại, Ngài không còn lệ thuộc vào vật chất nữa. Ngài vẫn mang lấy thân xác như trước kia, tiếng nói của Ngài bình thường như thuở nào. “Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài”. Những chứng tích của sự toàn thắng. Ngài chính là Đấng chịu đóng đinh, đã bị đâm thâu; giờ đây, Ngài đã sống lại, là Đấng đang sống và là Sự Sống. Ngài vẫn là con người, đã mang lấy kiếp người đọa đày của chúng ta, đã mệt nhọc, đau khổ như chúng ta, đã bị hành hình, bị con người chà đạp nát tan, nhưng giờ đây, từ một thân thể nát tan, Ngài đã sống lại.
Từ “sống lại” có làm cho chúng ta ngạc nhiên không? Chắc không mấy người ngạc nhiên, vì mọi sự không gì thay đổi, nhưng lại là một dấu lạ tuyệt đỉnh vì chỉ có Ngài mới sống lại: “Ta là sự sống lại và là sự sống”.
Ngài thân tình như ngày nào: “Bình an cho anh em”. Tiếng chào bình an nối kết lại sự gián đoạn mấy ngày qua. Đây là lời chào bình thường thân mật. Nhưng Ngài lặp lại: “Bình an cho anh em”. Đây không còn là lời chào nữa mà là hồng ân: “Ngài là sự bình an của chúng ta”.
Những ngày qua là bối rối, lo âu, sợ sệt, hôm nay bình an đã trở lại. Bình an không như thế gian ban tặng: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”.
Tội lỗi đã cướp mất bình an của nhân loại. Giờ đây, Ngài chiến thắng tội lỗi trả lại sự bình an cho mọi người. Nhưng bình an này không là một vật quí chúng ta có thể tìm gặp và đem cất, mà là cuộc chiến thắng trên tội lỗi. Chúa Giêsu đã lâm vào cuộc chiến đó và Ngài đã chiến thắng.
Chúng ta muốn được sự bình an đó cũng phải dấn thân vào cuộc chiến cam go chống lại tội lỗi, nhưng chúng ta không cô đơn. Ngài trợ lực chúng ta bằng Thánh Thần của Ngài, Thánh Thần ban ơn tha thứ: “Ngài thổi hơi trên các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội ai, người ấy được tha…” Sự toàn thắng của Ngài mang lại ơn tha thứ. Ngài sai chúng ta: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em…” Ngài đã đi trước, chúng ta theo sau với sứ mệnh như Ngài, tiêu diệt tội lỗi, loan báo sứ điệp phục sinh. Ngài tin vào chúng ta như đã tin vào các tông đồ. Chúng ta là những tông đồ của hôm nay. Sứ điệp phục sinh không được dễ dàng chấp nhận. Cần có những chứng nhân đáng tin cậy…
Chúng ta sẽ gặp sự chối từ lịch sự như Phaolô ở quảng trường Aêrôpagô: “Để lần sau chúng tôi sẽ nghe ông…” Chúng ta sẽ gặp bách hại mang nhiều sắc thái tinh vi và khoa học. Nhưng chúng ta không thể dừng bước. Ngài biết Ngài sai chúng ta “như chiên giữa sói”. Ngài biết chứ! Ngài biết rằng thế gian sẽ không tha thứ cho chúng ta, nhưng có Ngài… Ngài vẫn là Đầu và là Cuối của mọi sự. Chúng ta có thể chiến thắng như Ngài: bằng cái chết, Nhưng chúng ta sẽ sống lại như Ngài…
Tôma vắng mặt khi Ngài đến, nhất quyết cự tuyệt không tin anh em.
Tôma không tin, vì việc này quá khó tin. Một người đã chết rồi sống lại, chuyện này chỉ có trong thần thoại.
Tôma không dám tin vì ông đang sống trong một thế giới đầy gian trá. Ông đã trở nên đa nghi. Thầy vô tội mà người ta còn giết được thì tin ai đây?
Anh em đã bỏ Thầy trốn hết thì có thể tin họ được không? Thầy chết rồi, vết thương trong lòng của Tôma còn rỉ máu. Nỗi tuyệt vọng đang dằn xé tim ông. Cái chết của Thầy quá thê thảm, làm sao tin rằng Thầy sống lại?
Chúng ta thử hỏi Tôma: “Nếu Thầy không sống lại thì sao? Chúng ta sẽ là gì? Những cánh bèo trôi dạt theo ngày tháng, những tử tội chờ ngày lên đoạn đầu đài.
“Nếu Chúa Kitô không sống lại thì lòng tin của anh em thật hảo huyền…
Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (Thánh Phaolô đã nói như thế).
Hóa ra chúng ta tin vào một thây ma, hóa ra chúng ta tôn thờ một bộ xương khô hay sao?
Không, chúng ta tin vững chắc rằng Chúa đã sống lại và chúng ta hãnh diện vì Thiên Chúa của chúng ta hằng sống.
Tám ngày sau, các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông, chúc bình an và quay sang Tôma, người anh em cứng lòng có mặt tại đó: “Tôma, đặt ngón tay vào đây… Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Không một lời trách móc, Ngài chỉ giúp Tôma vững tin. Tôma không biết nói sao, chỉ biết kêu lên: “Ôi Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!” Từ Chúa ở đây là một tiếng kêu đầy yêu mến mang nhiều ý nghĩa. Tôma không thể ngờ được mình được yêu thương như thế! Câu thứ hai mới là lời tuyên xưng đức tin. Chúa cũng nói với chúng ta như đã nói với Tôma: “Đừng cứng lòng nữa”. Chúng ta tin, nhưng chúng ta không tin hết mình. Chúng ta vẫn đứng giữa hai vực thẳm, Thiên Chúa và thế gian. Chúng ta nghiêng ngã, không vững chắc. Đức tin của nhiều người chỉ là thời cơ: bên nào mạnh thì theo. Khi mọi sự thuận lợi, vui mừng, chúng ta ngã theo Chúa, nhưng khi gặp thất bại gian nan, chúng ta nản lòng. Niềm tin chúng ta dao động.
Chúa Giêsu đòi hỏi: Hãy tin thôi! Hơn nữa, giờ đây không còn thấy nữa mà chỉ tin vào những chứng nhân: Không thấy mà tin. Nhờ Tôma, chúng ta được chúc phúc: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Chúa vẫn đến với chúng ta, như đến với Tôma và các Tông đồ, nhưng dưới một hình thức mới: một tấm bánh. Ngài là Đấng đã toàn thắng sự chết và sống lại. “Ngài không còn chết nữa. Sự chết không còn quyền gì trên Ngài nữa”. Ngài đến để củng cố niềm tin hay chao đảo của chúng ta, Ngài đến để giúp chúng ta dám dấn thân để làm chứng nhân cho Ngài. Ngài cần những chứng nhân đáng tin, vì trong Giáo hội hôm nay có quá nhiều những phản chứng. Người tín hữu hôm nay không thể để cho Giáo hội trở thành một bà lão hơn 2.000 năm tuổi mà là một nàng dâu xinh đẹp của Chúa Kitô. Chúng ta hãy ăn lấy Bánh Hằng Sống, Chúa của chúng ta, Thiên Chúa của chúng ta để có thể đủ can đảm sống tốt giữa một thế giới đồi trụy, gian ác. Chúng ta sống đẹp, sẽ làm cho khuôn mặt của Giáo hội tươi trẻ lại.
Chúa Nhật II phục sinh Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết PS 2-ABC404
Chúa Nhật II phục sinh Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: "Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta" (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.
Lòng thương xót của Chúa được diễn tả qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
1. Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại: khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ: Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được'. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng 'lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi'. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình: "Lạy Thiên Chúa của con". Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói: "người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi". Nhà thần học Paul Tillich nói: "sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin". Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: "Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững". Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).
2. Lòng mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
3. Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người trong chúng ta, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công Giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: "Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa". Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thừơng để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Từ 4 tuổi, cậu ấm Nguyễn Văn Thích đã được Thân phụ dạy chữ Hán, rồi lớn lên vác lều chỏng PS 2-ABC405
Từ 4 tuổi, cậu ấm Nguyễn Văn Thích đã được Thân phụ dạy chữ Hán, rồi lớn lên vác lều chỏng thi Hương, đến trường ba thì hỏng (chuẩn bị bằng Cử nhân). Thời gian nầy, cậu Thích cũng học chữ quốc ngữ và chữ Pháp rồi vào trường Pèlerin gọi là «Trường Dòng» do các Sư huynh Lasan điều khiển và giảng dạy, ở Huế. Trường nầy được thành lập năm 1904 và học sinh Nguyễn văn Thích thuộc thế hệ đầu tiên được các Sư huynh truyền dạy kiến thức cả đời lẫn đạo. Nơi đây cậu ấm được học hỏi, trau dồi tiếng Pháp và được khai tâm về Giáo lý Kitô giáo. Không chỉ những lời giảng dạy, mà còn gương sống hy sinh tận tụy của các «Thầy Dòng» đã giúp học sinh con nhà Nho thấy được phần hòa âm tuyệt diệu giữa Nho giáo và ánh sáng Tin Mừng. Về sau, khi Thân phụ là Cụ Thượng Mại chống đối mạnh mẽ đạo Công giáo, thì cậu giải thích cho Thân Phụ rằng chữ TRỜI là THIÊN của Khổng giáo cũng là THIÊN CHÚA của đạo Công giáo. Sau khi trưng dẫn 30 câu trong các sách Nho về chữ THIÊN, thầy Nguyễn Văn Thích trình bày: chữ Thiên đây không phải là bầu trời với trăng sao vằng vặc, hay mặt trời chói lọi, mà là một Ngôi vị thiêng liêng, là Đấng Tạo Hóa Tối Cao và Toàn Năng Toàn Ái.
Nhưng từ lòng Tin vào Đấng Tối Thiện đến thể hiện niềm Tin ấy đối với đứa con một gia đình thâm nho, như gia đình của cụ Thượng Mại là Thượng Thư Bộ Lễ, không phải là chuyện đơn giản. Thời đó Giáo hội Công giáo không chấp nhận việc thờ kính tổ tiên, ngăn cấm người Công giáo thi hành nghi lễ này. Trong khi đó đối với truyền thống đạo đức Việt Nam, chữ HIẾU, với lòng thảo kính tổ tiên, ông bà cha mẹ là thiêng liêng, là nền tảng của đạo làm người. Do đó, Thầy Thích vô cùng khắc khoải, vì trở nên Công giáo sẽ bị xem là bất hiếu, nhất là trong một gia đình nổi tiếng, vị vọng của đất thần kinh. Ông Bà Nguyễn văn Mại khi biết con mình muốn theo đạo Công giáo thì quyết liệt ngăn cản.
Sau 3 năm suy tư, trở trăn và cầu nguyện, cậu ấm Thích chờ thời điểm thuận lợi. Với bằng Cao đẳng Tiểu học và một năm Sư phạm, Thầy Thích được bổ làm trợ giáo tỉnh Khánh Hoà tháng 2-1911. Bốn tháng sau, ánh sáng Đức tin tỏ rạng trong tâm hồn, thúc giục thầy quyết định nhận bí tích Rửa tội để trở nên con cái Thiên Chúa. Linh mục Charles Eugène Saulcoy, tên Việt là Cố Ngoan, ngày 29 tháng 6, tại Nhà thờ Bình Cang, xã Vĩnh Trung, Nha Trang, đã ban phép Thanh Tẩy cho Thầy giáo Thích với tên thánh là Giuse Maria. Được tin sét đánh, cụ Thượng không cầm nổi tức giận, dùng roi gậy đánh nhừ tử «đứa con bất hiếu». Khi cơn gia biến dịu dần với thời gian, Cụ Thượng thân phụ nghĩ đến việc lập gia đình cho con trai đã 26 tuổi. Cụ mời Đức Cha Lý (Cố Allys) đến nhà, xin Đức Cha làm mai mối với con gái Cụ Thượng Công giáo Nguyễn Hữu Bài, để con mình yên phận, không còn gây thêm tai vạ nữa. Ngờ đâu, khi được «hung tin» này, môn đệ của Đức Giêsu lấy quyết định từ giã gia đình qúy tộc…
Một đêm thanh vắng, thầy Giuse Maria hoá trang làm cô gái đội nón lá, mặc áo dài tha thướt ra đi, sáng sớm tháng 9 năm 1917, trực chỉ đến Tiểu chủng viện An Ninh tại Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị. Muốn được nhận vào Tiểu chủng viện thường là 12 đến 14 tuổi, mà thầy Thích đã 26 tuổi thì phải làm sao đây? May mắn là Giám mục Lý (Allys) nắm rõ hoàn cảnh, nên nhận ngay người chủng sinh rất độc đáo nầy, vừa học tiếng Latinh và chương trình đào tạo linh mục, vừa được mời làm giáo sư Pháp văn, Hán văn, Quốc văn cho chủng sinh. Sau 2 năm tu tập vừa làm trò vừa làm thầy nơi đây, thầy giáo «tiểu chủng sinh» được gửi vào Đại chủng viện Phú Xuân, Huế, và 6 năm sau được thụ phong Linh mục ngày 18 tháng 12 năm 1926. (Lm GM Nguyễn Văn Thích, Gương sống đức tin, web GP Nha Trang)
Hành trình đến với Đức Tin của Lm GM. Nguyễn Văn Thích, vốn được các môn sinh tôn xưng là “Hiền Nhân của thời đại,” trải qua bao khó khăn, gian nan, thử thách. Nhưng nhờ ơn Thiên Chúa, ngài đã thủ đắc đức tin và làm rạng danh Nước Chúa qua cuộc đời chứng nhân ngời sáng đạo hạnh, tài năng và đặc sắc.
Trong Tin Mừng Chúa nhật Lòng Thương Xót hôm nay, thánh sử Gioan phác hoạ đôi nét về Đức Tin, qua sự kiện ông Tôma cứng lòng, yêu cầu được xỏ ngón tay vào cạnh sườn Chúa Giêsu Phục Sinh, thì mới chịu khẳng định Người sống lại thật.
Đức Tin vượt giác quan
Bà Maria Mắcđala và quý bà đạo đức đã ra ngôi mộ táng xác Đức Giêsu. Nhưng không còn xác Người, thiên sứ báo tin Người đã Phục Sinh. Nghe tin lạ, hai môn đệ Phêrô và Gioan cũng vội vã chạy đến quan sát. Nhưng ngôi mộ trống rỗng, chỉ còn khăn liệm và khăn trùm đầu xếp gọn ghẽ. Thế mà trong bấy nhiêu người chứng kiến tỏ tường sự việc, chỉ duy nhất Người Môn Đệ Được Chúa Yêu Thương “đã thấy và đã tin” Chúa Giêsu phục sinh. Mặc dầu ai cũng đều sáng mắt, chứng kiến cùng một cảnh ngộ, một sự kiện nhãn tiền, thì tại sao chỉ mình ông Gioan nhận được đức tin?
Qua những dấu chỉ trong thiên nhiên, dấu chỉ từ các sự kiện xã hội, hay những diễn biến lịch sử, Thiên Chúa dẫn dắt vào niềm tin những người hướng thượng, thành tâm và thiện chí. Như ba vị chiêm tinh, khao khát đấng minh quân xuất hiện, đã tìm thấy ngôi sao dẫn đường, đến Bêlem thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Như môn đệ Gioan, đã mỹ mãn thành công giải mã dấu chỉ ngôi mộ trống.
Như thế, đức tin không thể nào kiểm chứng, vì vượt qua giác quan, vượt qua cảm nhận thông thường. Đức tin thuộc lãnh vực siêu nhiên, phi vật chất, không thể thấy, nghe, nếm, ngửi, đụng chạm, hoặc cân đo đong đếm. Nếu khoa học kiểm chứng được thì đâu cần đến nhân đức tin. Nói như ông Tôma thì cũng chẳng cần viện đến niềm tin, vì đã là một sự thật hoàn toàn."Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." (Ga 20, 25)
Vì thế Đức Giêsu mới chúc lành cho ai thực sự có đức tin bền vững, không mảy may nghi ngờ, chao đảo cám dỗ, đầy lửa mến, đức cậy: “Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20, 29)
Đức Tin vượt tri thức
Khi hai môn đệ sầu buồn thê thảm, ê chề thất vọng, lê gót chân trên đường Emmau, đều thiếu lòng tin tưởng, trông chờ vào Chúa, dù đã được loan báo tin vui từ nhiều nguồn.“Ðã hẳn, có vài người phụ nữ trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi hoảng hồn. Tảng sáng họ đi đến mồ; và không gặp xác Ngài, họ về phân phô là đã thấy thiên thần hiện ra nói rằng Ngài đang sống. Có vài người trong chúng tôi đã đi tới mồ, và đã gặp thấy y như các phụ nữ đã nói, còn Ngài thì họ không được thấy!" (Lc 24, 22-24)
Không nhờ đến giác quan, mà dựa trên tri thức, suy luận, để lý giải, phân tích, tổng hợp dữ kiện, thì cũng chẳng thể nào lãnh hội được đức tin. Hai môn đệ đã phải thú nhận sự thất vọng sâu xa về đấng đến phục quốc: “Phần chúng tôi, chúng tôi đã hy vọng rằng chính Ngài là Ðấng sẽ giải thoát Israel. Nhưng với ngần ấy cớ sự, nay đã là ngày thứ ba rồi, kể từ khi các việc ấy diễn ra!” (Lc 24, 21) Ba ngày trôi qua sau khi Đức Giêsu tử nạn, sao còn hy vọng được? Sau ba năm theo Đức Giêsu dạy dỗ, các ngài vẫn còn ngộ nhận về sứ vụ cao cả của Người, vẫn còn nặng lòng với vật chất, danh lợi.
Vượt qua tri thức, đức tin chỉ đạt được bằng con đường trái tim, yêu thương. Nhưng phải là tình yêu xả kỷ, bao dung, cho đi, khiêm nhường, trong sáng, vô vị lợi, mến Chúa yêu người, yêu thương, phục vụ những người cùng khổ, khó nghèo, đói rách, bệnh hoạn, tù đầy, bị bỏ rơi, bị xua đuổi, cả đến người thù địch.
Trả lời những người chống đối, Đức Giêsu không ngần ngại công khai nhận xét chính tâm hồn họ chai đá, lạnh nhạt với Chúa, phũ phàng với tha nhân, nên chẳng thể nào tin vào Con Người được sai đến: “Nhưng tôi biết: các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?” (Ga 5, 42-44)
Trong thư gửi tín hữu Philípphê, thánh Phaolô đặc biệt nhấn mạnh đến tình yêu, đức mến: “Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn.” (Pl 1, 9-10). Dồi dào lòng mến, nồng nàn yêu Chúa, yêu tha nhân, mới dễ dàng đón nhận được ơn tri thức, cũng như lãnh nhận được đức tin.
Vậy ai yêu Chúa thì vâng theo, hoàn toàn tin tưởng, trông cậy, thực thi Lời Chúa, sẽ được Người thân thương yêu quý, và được hạnh phúc ở lại trong Người, như Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.” (Ga 14, 23)
Thánh Têrêsa Hài Đồng cảm nghiệm tình yêu chân chính thế nào: “Yêu thương trước tiên là ‘mong muốn’, chứ không luôn là ‘cảm thấy.’
Đức Tin từ Lòng Thương Xót
Hai môn đệ đang trên đường Emmau,” bộ mặt ảo não,” đau buồn, xót thương Đức Giêsu chịu tử nạn. Người lặng lẽ hiện ra, “tiến lại gần bên mà đi với họ; nhưng mắt họ bị ngăn ngừa làm sao họ không nhận ra được Ngài.” (Lc 24, 15-16).
Thật phúc đức thay cho hai môn đệ đã vô cùng thương xót Chúa, nên được Chúa thương xót đáp lại.“Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.” (Mt 5, 7) Chúa Giêsu dùng chính Lời Chúa để giải thích cho các ngài mầu nhiệm phục sinh. “Và khởi từ Môsê và hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ những điều đã viết về Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh.” (Lc 24, 27)
Cũng vì Lòng Thương Xót, Chúa Giêsu chẳng hề nỡ trách mắng ông Tôma cứng lòng, mà chỉ nhân từ, ôn tồn dạy bảo Tôma: "Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20, 27)
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. (Thánh Âu-Tinh, Rabbouni, 120 Lời nguyện của bạn trẻ Việt Nam, Vietnamese Missionaries in Asia)
Kính xin Mẹ Maria, biến đổi chúng con theo gương mẫu Mẹ, luôn biết sống yêu thương, nhân ái, khiêm nhường, đơn sơ và vâng phục, để chúng con có thể xứng đáng hưởng từ Lòng Thương Xót, hồng ân đức tin mạnh mẽ như Mẹ vậy. Amen.
Từ lâu, gương mặt của Tôma đã cuốn hút nhiều người. Người ta thường đã nhìn thấy nơi ông PS 2-ABC406
Từ lâu, gương mặt của Tôma đã cuốn hút nhiều người. Người ta thường đã nhìn thấy nơi ông, một con người hoài nghi và Gioan đã giải thích thái độ và cử chỉ của Tôma ra sao. Ông đã không có mặt khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, chiều ngày Phục Sinh và khi Ngài đã thổi hơi trên họ. Mặc dù các môn đệ kể lại cho ông điều họ đã nhìn thấy, ông vẫn không tin. Ông đáp: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Gn 20,25).
Trong thực tế, Tôma không phải là người hoài nghi, mà là người muốn tự mình cảm nhận tất cả. Ông không bằng lòng với những gì người khác kể lại. Ông còn phải thấy và tự mình sờ chạm và chỉ tin với điều kiện ấy mà thôi.
Gioan mời gọi chúng ta theo gót Tôma để tin vào sự Phục Sinh. Điều kiện mà Tôma đưa ra để tin, chất vấn mỗi người chúng ta.
Tại sao ông lại đặt nặng vấn đề các thương tích của Đức Giêsu, những dấu đinh trên bàn tay và vết đâm nơi cạnh sườn? Có lẽ ông cần đến bằng chứng rằng Đấng Bị Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh là một, vì thật lòng mà nói quả là rất khó tin rằng người chết trong những đớn đau khủng khiếp như thế, lại có thể sống lại một hai ngày sau đó. Ông khó lòng chấp nhận rằng Đấng Messia đã chết trên Thập Giá, một cách bất ngờ, khủng khiếp như vậy, cho nên ông cần một bằng chứng rõ ràng để tin vào một Đấng Phục Sinh. Chính vì vậy học giả Merrill Tenney đã nói như sau: “bất chấp việc các môn đệ khác nói đi nói lại rằng Đức Giêsu đã sống lại, Tôma vẫn không tin. Ông biết rõ cái chết của Đức Giêsu, nên ông không dễ tin vào những lời tường thuật về việc Đức Giêsu hiện ra, và khẳng định ông chỉ tin khi nào ông đụng chạm đến thân thể Người. Điều Tôma cần không gì khác hơn là những chứng cứ vật chất. Sự cứng tin của ông là bằng chứng cho thấy sự kiện hiện ra sau Phục Sinh không phải là ảo tưởng vì quá mong nhớ Thầy.”
Tuy bị coi là cứng lòng tin, nhưng Tôma lại đạt tới đỉnh cao của niềm tin Kitô giáo vì không những Tôma tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, mà còn ý thức được rằng Đức Giêsu chính là “Ngôi Lời” của Thiên Chúa, do đó ông đã tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa của con”. Không chỗ nào trong Tân Ước có được lời chứng mạnh mẽ về Đức Giêsu như ở đây. Qui nạp hai tước hiệu đó vào Đức Giêsu Kitô là điều cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo.
Bác sĩ C. Scott Harrison đã đồng cảm với Tôma trong niềm tin này khi thi hành nhiệm vụ của một bác sĩ chuyên khoa giải phẫu bàn tay. Trong một bài báo được phát hành trên toàn quốc, ông viết rằng trong mọi cuộc giải phẫu, ở một điểm nào đó, ông đã phải kêu lên, "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!
Câu chuyện đàng công việc giải phẫu xảy ra trong thời gian ông ở Việt Nam. Một tối kia, sau khi mới tốt nghiệp y khoa, ông được gọi đến để lấy một viên đạn từ tay một người lính. Đã vậy, ông phải thi hành điều đó dưới ánh sáng của đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã làm ông cảm động đến nỗi, sau cuộc chiến, ông quyết định chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Vì sự chuyên môn này, nhà phẫu thuật rất thấu hiểu sự đau đớn khủng khiếp gây nên bởi vật gì đó, tỉ như viên đạn, xuyên xé qua xương, bắp thịt, và các thần kinh của bàn tay. Ông nói cứ mỗi lần ông nghĩ về sự đau đớn khủng khiếp mà Chúa Giêsu phải chịu khi bị đóng đinh trên Thập Giá thì ông lại phải nhăn mặt.
Nói về bài Tin Mừng hôm nay, bác sĩ cho biết ông nghĩ rằng lời kêu than của Tôma, "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con," không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà đó còn là lời sửng sốt bàng hoàng khi thấy các bàn tay của Chúa Giêsu bị xé nát và sứt sẹo biết chừng nào. Chỉ lúc bấy giờ Tôma mới thực sự nhận thức được sự đau đớn mà Chúa Giêsu đã chịu trên Thập Giá. Với khám phá này, bác sĩ nói, "vượt quá mức chịu đựng của thánh Tôma."
Bác sĩ C. Scott Harrison đã kết thúc bài viết với lời lẽ xúc động như sau: "mỗi lần tôi giải phẫu và nhìn vào bên dưới lớp da... của bàn tay con người, tôi được nhắc nhở rằng Đức Kitô đã hy sinh bàn tay lành lặn của Người vì tôi. Và, cùng với Tôma, tôi thân thưa, 'Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.'"
Tóm lại, chúng ta thấy nơi Tôma: ông nhất định không chịu nói là tin khi ông không tin, không bao giớ nói mình hiểu khi chưa hiểu. Ông không hề đè nán sự nghi ngờ. Tôma không thuộc loại người chịu thông qua điều chưa hiểu. Ông muốn biết chắc mọi sự. Một người đòi hỏi chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ biết lặp đi lặp lại như con vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến. Chính khi hoài nghi như thế cuối cùng đã đạt đến một đức tin chắc chắn và khi biết chắc, ông sẽ đi đến cùng. Ông nói: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.” Với Tôma không có chuyện nửa với. Ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc và khi biết chắc rồi, ông hoàn toàn vâng phục. Đây chính là điều chúng ta phải học nơi Tôma. Amen.
Khi ta nói lòng thương xót, sự thương cảm, lòng trắc ẩn là ta muốn biểu lộ tình yêu của mình với PS 2-ABC407
Khi ta nói lòng thương xót, sự thương cảm, lòng trắc ẩn là ta muốn biểu lộ tình yêu của mình với những nỗi khổ đau cụ thể mà ta gặp trong cuộc sống. Có những lúc tự nhiên không kiềm được cảm xúc khi xem bộ phim hay đến nỗi nước mắt cứ ướt bờ mi. Có những lúc lòng không khỏi xót xa khi thấy cảnh cụ già lưng còng bán vé số giữa trời nắng chang chang. Có những lúc chạnh lòng nhớ cha mẹ gìa đang lam lũ vất vả vì con, khiến trong ta trỗi dậy lòng thảo hiếu muốn đền ơn đáp nghĩa.
Lòng thương xót là nhịp cầu để ta trao ban những nghĩa cử yêu thương đến người ta xót thương. Không có lòng thương xót con người sẽ mãi vô cảm trước những khổ đau, bất hạnh của anh em. Lòng thương xót còn là biểu lộ một trái tim từ tâm để có thể tha thứ cho kẻ làm hại mình, và còn cầu nguyện cho họ ăn năm sám hối.
Mới đây một linh mục đã được giải oan sau 8 năm oan ức trong tù về tội lạm dụng tình dục. Đó là Cha Adam Stanisław Kuszaj đã bị một thiếu niên 16 tuổi vu cáo lạm dụng tính dục.
Năm 2011, giáo quyền đã cấm cha Kuszaj thi hành tác vụ linh mục và cha bị trục xuất khỏi dòng. Cha cũng bị tòa dân sự kết án 6 tháng tù treo. Bị kỳ thị vì lời buộc tội nặng nề và bị bỏ rơi bởi hầu hết những người thân quen, cha chỉ có thể tự lo liệu cuộc sống của mình nhờ đi làm công nhân.
Năm 2016, vụ án đã được mở lại sau khi 3 người bạn của nguyên cáo khai rằng anh ta dựng lên những lời cáo buộc vì cha không giúp đỡ tài chính cho gia đình anh ta nữa. Nguyên cáo được thẩm vấn một lần nữa và các chuyên viên được tòa án hỏi ý kiến đã khẳng định rằng các lời tường thuật của người cáo buộc là không đáng tin. Toà án đã tuyên bố cha vô tội.
Giáo phận Ostrawa-Opava đã rút lại lệnh cấm cha Kuszaj thi hành thừa tác vụ. Về phần mình, cha không hề kết tội người làm hại mình, và cũng không buồn Giáo hội vì đã không tin mình, cha Kuszaj nói: “Tôi chỉ muốn phục vụ con người và Thiên Chúa. Tôi đã mất 9 năm nhưng tôi đã học được nhiều điều”.
Cha đã học được bài học của Lòng Thương xót để có thể chịu đựng sự xỉ nhục và lòng vẫn bình an nhờ luôn bao dung tha thứ.
Phúc âm hôm nay cho thấy dường như sau khi sống lại, Chúa Giê-su không bận tâm tới quá khứ của những người làm hại hay bỏ rơi Chúa. Chúa không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra. Nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần. Nơi các môn đệ hèn nhát bỏ chạy trong đêm tối vườn Cây Dầu. Nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng theo lý luận thuần túy nhân loại. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông. Nếu Chúa sống lại nhưng không tha thứ cho các ông thì đời các ông sẽ ra sao? Liệu rằng các ông có dám ngước mắt nhìn thẳng vào Thầy hay vẫn lấm lét, thẹn thùng đầy lo sợ, bất an như Adam năm xưa trong vườn địa đàng.Chúa đã sống lại và ban ơn tha thứ cho các tông đồ để từ đây các ngài sẽ ra đi rao giảng về Lòng Thương xót Chúa.
Chúa nhật 2 Phục sinh cũng là ngày kính nhớ “Lòng Thương Xót” của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta: hãy sám hối ăn năn vì những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Hãy tin vào tình thương tha thứ của Chúa để sửa đổi bản thân nên hoàn thiện hơn như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Xin đừng tiếp tục xúc phạm đến lòng thương xót của Chúa. Xin đừng lợi dụng lòng thương xót của Chúa để tiếp tục sống buông thả trong những đam mê lầm lạc, những quan hệ bất chính, những thói đời gian dối hại người. Một cách đặc biệt là hãy dâng những hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về cùng Chúa. Đó là điều mà Chúa đang chờ đợi nơi mỗi người chúng ta. Vì thế giới hôm nay đang bị tục hoá bởi một trào lưu văn hoá phóng túng và sa đoạ. Người ta phạm tội nhưng không còn ý thức về việc mình làm là tội. Người ta dùng thân xác để kinh doanh kiếm tiền. Hàng đêm vẫn còn đó biết bao cô gái dùng thân xác của mình để đổi lấy đồng tiền dơ bẩn. Hàng đêm vẫn còn đó những chàng trai rải tiền trên thân xác người khác để thoả mãn thú tính của mình. Thế giới tục hoá đã đánh mất sự linh thánh nơi con người là “nhân linh hơn vạn vật”, nên dẫn đến tình trạng sát hại thai nhi như những anh đồ tể giết một con vật vô tri vô giác. Người ta ước tính hàng năm có hàng triệu thai nhi bị sát hại ngay trên quê hương với bốn ngàn năm văn hiến.
Có lẽ ngày nay Chúa đang cần những con người có tâm hồn thanh sạch lòng ngay. Chúa cần những con người như vậy để vì họ mà Chúa nguôi cơn thịnh nộ trút xuống địa cầu. Điều đó đã được Chúa mạc khải qua thánh nữ Faustina. Ngài muốn có nhiều người chấp nhận lòng thương xót vô bờ bến của Ngài để máu và nước đổ ra từ trái tim bị đâm thâu của Ngài có thể tẩy xoá, rửa sạch tội lỗi, và ban sự sống mới cho những ai tin nhận nơi Ngài. Ngài muốn có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina để thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con xin phó thác cuộc đời con, gia đình con và nhân loại hôm nay nơi lòng thương xót của Chúa. Chúng con xin dâng những hy sinh, lời cầu nguyện để bù cho những tội lỗi nhân gian”. Amen.
Cuộc sống luôn đối diện với những điều không vừa ý và với những người gây tổn thương cho chúng PS 2-ABC408
Cuộc sống luôn đối diện với những điều không vừa ý và với những người gây tổn thương cho chúng ta. Phản ứng thông thường là đáp trả, là ăn miếng trả miếng. Nhưng thực ra, giận dữ phản kháng, trả đũa chẳng hóa giải được điều gì có khi còn làm cho tình huống thêm căng thẳng thêm.
Trên chuyến xe búyt có một đôi tình nhân, chàng trai gắt gỏng, giận dữ nói cô gái: “Nói với em bao nhiêu lần rồi, em vì cái gì mà không nhớ rõ, em làm sao vậy hả?”.
Cô gái kéo áo chàng trai, nhỏ giọng nói: “Em xin lỗi! Anh đừng lớn tiếng trước nhiều người như vậy!”.
Không biết hai người đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hành động của chàng trai khiến mọi người đều phản cảm. Ở nơi công cộng mà nổi nóng như vậy thật mất lịch sự, thật thiếu văn hóa...
Một điều dễ thấy rằng, phẫn nộ thì dễ mà tha thứ lại rất khó khăn. Phẫn nộ thì phá hoại còn tha thứ là xây dựng. Tha thứ chính là hiện thân của tình yêu vĩ đại, của lòng bao dung và từ bi với nhau. Phải có tình yêu vĩ đại lắm mới tha thứ cho kẻ làm hại và gây đau khổ cho mình.
Chúa Ky-tô là hiện thân của tình yêu vĩ đại ấy! Sau cuộc khổ hình Ngài đã sống lại là tin buồn cho những kẻ bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Ngài. Ngài sống lại cũng mang lại những hoang mang lo sợ cho những môn đệ đã từng bỏ rơi Ngài để chạy trốn, đã từng chối Thầy đến ba lần... Thế mà sau cuộc phục sinh ấy Ngài không hề tìm đến hỏi tội hay kết án ai. Ngài còn đi bước trước trong tình yêu tha thứ khi trao bình an cho các môn đệ. Nhiều lần và nhiều nơi khi Chúa hiện đến với các môn đệ Ngài đều nói “bình an cho các con”. Ngài hiểu rằng nơi các môn đệ lúc này là tâm trạng hối hận vì việc mình đã làm với Thầy Giê-su. Ngài đã đi bước trước trong tình yêu là nói lời bao dung tha thứ. Có lẽ Chúa sẽ nói: “Ai mà không có lúc lỗi lầm. Hãy can đảm đứng dậy. Thầy không trách tội các con. Hãy vui vẻ bình an”.
Chúa Giê-su trong thân phận con người Ngài cũng hiểu bản tính yếu đuối của con người. Ai mà không lầm lỗi. Ai mà không một lần cần đến sự cảm thông tha thứ nơi anh em. Ai cũng cần sự tha thứ để sửa đổi, để làm mới lại tương giao với nhau. Sự tha thứ của Chúa phục sinh đã làm mới lại tương giao với các môn đệ, để từ đây các ông sẵn sàng chết vì Thầy. Sự tha thứ của Chúa đã làm cho các môn đệ yêu mến Chúa nhiều hơn đến nỗi chỉ vâng lời Thiên Chúa chứ không vâng lời cường quyền trần gian.
Giữa cuộc đời hôm nay cần lắm Lòng Thương Xót dành cho nhau. Nếu cuộc đời cứ “oán báo oán – oán sẽ chập chùng”, và sẽ biến thế giới thành hoang tàn đổ nát. Chỉ có tình yêu tha thứ và lòng bao dung mới xây dựng tình người và dựng xây thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Chúa Giê-su đã củng cố các môn đệ dựa trên Lòng Thương Xót. Nhờ Lòng Thương Xót ấy mà Ngài đã thay đổi các môn đệ từ nhút nhát và đầy yếu đuối trở thành người can đảm tận trung với Chúa. Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta hãy có lòng xót thương nhau. Xót thương ngay chính trong gia đình để hàn gắn những nghi kỵ, hiểu lầm, ghen tương. Xót thương ngay chính trong cộng đoàn xứ đạo để sống hiệp nhất cùng nhau loan báo Lòng Thương xót Chúa. Chính Lòng Xót thương sẽ mang lại cho chúng ta bình an hạnh phúc, bởi vì nuôi dưỡng hận thù chỉ tổn hại tâm can chính mình.
Ước gì chúng ta có trái tim bao dung của Chúa để có thể nói lời tha thứ cho nhau và đón nhận anh em chung sống trong hiệp nhất yêu thương. Amen. 58. Định nghĩa Lòng Thương Xót
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ lòng thương xót Chúa. Thiết tưởng chúng ta cần hiểu lòng thương xót nghĩa là gì? Thương xót nghĩa là sự biểu lộ lòng xót xa đồng cảm với những hoàn cảnh khó khăn. Lòng thương xót đối với Chúa còn là sự khao khát muốn làm vơi đi những nỗi đau khổ đó. Như vậy, lòng thương xót của Chúa là sự biểu lộ tình thương trước những hoàn cảnh khó khăn của dân Chúa.
Lòng thương xót của Chúa không như con người. Vì con người thương xót nhưng có chọn lựa, có tính toán. Cùng hoàn cảnh nhưng chúng ta thương người này và có thể ghét người kia. Thế nhưng, lòng thương xót của Chúa thì trải rộng cho mọi người. Không toan tính. Không chọn lựa. Ngài yêu thương con người bất kể tình trạng luân lý của họ. Bởi vi, Chúa vẫn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thế nên, lòng thương xót của con người chúng ta thì giới hạn. Chúng ta có thể xót thương kẻ cơ hàn. Xót thương những người già yếu, bệnh tật bị bỏ rơi. Xót thương những trẻ nhỏ bị lạm dụng, bị bóc lột nơi cha mẹ hay người nuôi dưỡng. Và chắc chắn chúng ta sẽ chẳng bao giờ xót thương những phường tội lỗi như: trộm cắp, mại dâm, hay tham ô. Chúng ta thường không thương xót họ mà có khi còn nguyền rủa họ.
Lòng thương xót Chúa thì không giới hạn. Ngài yêu thương mà không cần nhìn xem họ là ai? Ngài chỉ bận tâm đến nhu cầu của con người và ra tay nâng đỡ. Thánh Kinh bảo rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được. Thế nhưng, Chúa đã không chấp tội con người, Ngài cũng không giáng phạt theo như tội ta đã phạm. Lòng thương xót của Chúa trải rộng trên con người. Trên người lành cũng như người dữ. Ngài luôn biểu lộ lòng thương xót cho bất cứ ai đến với Ngài. Lòng thương xót ấy không dừng lại ở nơi kẻ yêu Ngài mà còn dành cho cả kẻ ghét Ngài, xỉ nhục và kết án Ngài. Chính trong đau thương khổ nhục mà Ngài vẫn xót thương những kẻ đang hành hạ Ngài khi Ngài cầu nguyện cùng Cha: Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.
Có lẽ với bản tính con người, chúng ta sẽ thù hận kẻ giết hại chúng ta một cách oan uổng. Có lẽ chúng ta cũng kinh tởm kẻ vô ơn, phản bội với chúng ta. Thế mà, Chúa Giêsu dường như không còn nhớ đến tội lỗi của con dân thành Giê-ru-sa-lem. Ngài đã tha thứ cho kẻ làm nhục Ngài. Ngài cũng tha thứ cho những môn đệ đã bỏ Ngài trong tuần thương khó.
Vâng, khi Chúa sống lại Ngài không tìm ai để trách móc, kêu oan. Và dường như Ngài cũng không bận tâm đến lỗi lầm của các môn sinh. Ngài đã trao bình an cho các môn sinh mỗi khi hiện ra với họ. Ngài biết trong lòng các ông còn một nỗi buồn vì phản bội, vì bỏ rơi Thầy trong gian nguy. Ngài biết sau khi Chúa sống lại lòng các tông đồ còn rối bời hoang mang lo sợ, bất an vì mặc cảm tội lỗi, mặc cảm phản bội Thầy. Chúa đã biết điều đó nên đã đi bước trước để ban bình an cho các ông.
Sứ điệp lễ lòng Chúa thương xót là sứ điệp của yêu thương. Thiên Chúa vẫn tiếp tục xót thương dân Người. Lòng thương xót của Chúa không bị tội lỗi của con người cản trở mà vẫn đong đầy cho những ai đến với Ngài. Lòng thương xót Chúa vẫn xoa dịu những ai đang bất an vì tội lỗi. Lòng thương ấy vẫn đang chữa lành cho những ai đang đau khổ bệnh tật tâm hồn hay thể xác. Lòng thương xót ấy vẫn là căn tính của Thiên Chúa rất yêu thương và xót thương dân Người.
Ước gì mỗi người chúng ta biết tín thác vào lòng thương xót Chúa cho dẫu chúng ta còn mang đầy những vết thương của yếu đuối lỗi lầm. Hãy để cho lòng thương xót Chúa chữa lành những tật nguyền của chúng ta. Ước gì khi chúng ta đã hưởng nếm lòng thương xót vô bờ của Chúa thì cũng biết trao ban lòng thương xót ấy cho anh em. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng có một tấm lòng bao dung để gạt qua những thành kiến , những đố kỵ, ghen tương mà đón nhận nhau trong yêu thương chia sẻ. Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở thành một chứng nhân cho lòng thương xót của Chúa bằng tình yêu hiến dâng phục vụ tha nhân. Amen.
Có những lúc chúng ta vô tình làm người khác bị tổn thương, dù muốn dù không chúng ta vẫn PS 2-ABC409
Có những lúc chúng ta vô tình làm người khác bị tổn thương, dù muốn dù không chúng ta vẫn để lại một dấu ấn không đẹp trong lòng của họ. Nhưng điều quan trọng là: Có người khắc nó mãi mãi trong lòng, có người xua tan nó bằng sự bao dung và tha thứ. Thực ra, có bao dung tha thứ, lòng chúng ta mới thanh thản bình an. Có bao dung tha thứ, con người chúng ta mới sống bên nhau trọn đời.
Có hai người bạn đang đi trên một con đường vắng vẻ. Họ trò chuyện. Họ tranh luận với nhau. Vì bất đồng quan điểm nên một trong hai người đã không kiềm chế được bản thân nên đã tát một cái thật mạnh vào má của bạn mình.
Người bạn kia rất đau nhưng không nói một lời nào, anh lặng lẽ viết lên cát dòng chữ "Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt của tôi"
Hai người vẫn tiếp tục đi, đến một con sông họ xuống tắm, anh bạn bị tát bị vọp bẻ và suýt chết đuối nhưng may nhờ bạn mình cứu kịp nên thoát chết.
Khi đã hết hoảng sợ, anh viết trên vách đá "Hôm nay người bạn thân nhất đã cứu sống tôi"
Anh chàng kia ngạc nhiên hỏi: "Tại sao khi tôi đánh anh , anh viết trên cát, còn khi tôi cứu anh anh lại viết trên đá??"
Mỉm cười, anh trả lời: "Khi một người bạn làm chúng ta đau, chúng ta hãy viết điều gì đó trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng với sự tha thứ... Và khi có điều gì đó tốt đẹp cho chúng ta, hãy khắc nó lên đá như khắc sâu vào ký ức của trái tim, nơi không ngọn gió nào có thể xoá nhòa được...”
Trong cuộc sống đã có bao nhiêu lần chúng ta ghi lên đá và bao nhiêu lần chúng ta ghi lên cát? Chuyện vui, chuyện buồn luôn xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Vui buồn đều sẽ qua đi mau chóng hay âm ỉ lâu dài cũng tùy thuộc vào cách chúng ta đón nhận chúng. Cách tốt nhất để có cuộc sống hạnh phúc là đừng để cuốn sổ ghi nợ cuộc đời chi chít bởi số lần người khác không làm mình hài lòng. Hãy xóa đi những gì người khác làm cho mình không vui, đừng lưu giấu sự giận giữ, cũng như sự hận thù trong lòng. Chúng ta càng cau có với người khác bao nhiêu thì cuộc đời sẽ cau có với chúng ta bấy nhiêu! Hãy sống và mở rộng lòng mình để gió cuốn đi những ký ức không vui và khắc mãi những điều tốt đẹp người khác đã làm cho mình.
Cuộc sống rất cần sự tha thứ. Tha thứ để sống chung dài lâu với nhau. Tha thứ để sống chung hòa bình với nhau. Sống chung có đụng nên sự tha thứ cần thiết để hàn gắn những đổ vỡ do hiểu lầm, nghi kỵ, ích kỷ gây ra sự rạn nứt tình người.
Tuy nhiên, tha thứ không phải là chuyện dễ. Người tha thứ thường phải trả một giá rất đắt. Lắm khi chúng ta phải quên mình, chịu thiệt thòi hoặc dẹp bỏ tính tự ái của mình để tha thứ cho nhau. Có bà vợ kia, tự ý lấy tiền để hàn hụp làm ăn với bạn. Sau đó bị bạn lừa gạt nên mất số tiền khá lớn. Người chồng biết được việc này thì rất giận vợ cô cùng, nhưng khi thấy vợ thật lòng hối hận và xin lỗi. Người chồng sẵn sàng tha thứ. Từ đó dù cuộc sống có chật vật hơn nhưng họ vẫn vui vẻ cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Gương tha thứ cao cả nhất mà chúng ta cần học hỏi chính là gương của Chúa Giê-su. Ngài đã tha thứ và tha thứ luôn mãi. Ngài đã tha thứ cho các môn đệ khi họ phản bội Ngài, chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ khi người ta xỉ vả, đóng đinh Ngài. Ngài vẫn tha thứ khi Ngài sống lại mà có người vẫn còn cứng lòng tin.
Tình thương tha thứ hôm nay được thể hiện qua việc Ngài chúc bình an cho các môn đệ. Ngài không oán trách các ông. Ngài không để bụng tội các ông. Ngài hiện diện không phải để kết án mà để trao ban bình an của sự tha thứ. Chính tình yêu tha thứ đó, Ngài đã củng cố niềm tin nơi các môn đệ để từ nay họ trở thành kẻ loan truyền tình yêu và sự tha thứ cho nhân trần.
Ước gì chúng ta hãy tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ khi biết lấy lòng yêu thương, chấp nhận những oan trái mà người khác đã làm cho chúng ta. Tha thứ thật là chấp nhận nhau, đón nhận nhau trong bao dung tha thứ. Tha thứ thật cũng có nghĩa là dù có quyền giận nhưng vẫn vui vẻ tha thứ, dù có quyền trách móc nhưng vẫn nhẫn nại nhịn nhục.
Ước gì chúng ta hãy tha thứ cho nhau vì chính chúng ta cũng có lầm lỗi. Hãy sẵn sàng tha thứ cho vợ, chồng mình, vì ai cũng có những lầm lỗi. Hãy tha thứ cho nhau. Một người luôn sẵn lòng tha thứ, thì không phá hỏng gia đình vì những giận hờn, ghen ghét , nhưng luôn biết dùng tình yêu để cải hóa nhau. Tha thứ cũng phải kèm theo tính nhẫn nại. Một anh chồng nghiện ma túy, người vợ biết tha thứ thì phải nhẫn nại chịu đựng một thời gian dài để anh ta cai nghiện dần dần… Một chị vợ “lắm điều”, ông chồng muốn tha thứ cũng phải chịu đựng một thời gian để chị vợ dần dần nhận thức ra tình yêu thương của chồng mà đổi tính dần dần. Tuy nhiên, hạnh phúc phải hệ tại ở mọi thành viên trong gia đình. Một người có lòng tha thứ thì người kia cũng phải bớt đi những lỗi lầm. Cả hai cùng tôn trọng và xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Xin Chúa giúp chúng ta biết thực hành lời Chúa là “hãy tha thứ cho nhau”. Xin cho chúng ta luôn biết đem lại bình an cho nhau. Xìn đừng để những tật xấu làm mất đi tình hiệp nhất với nhau. Xin giúp chúng ta biết noi gương Chúa luôn biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Amen.
Ước gì chúng ta được phúc như tông đồ Tôma nhờ lòng thương xót Chúa mà thay lòng đổi dạ, để PS 2-ABC410
TMĐP- Ước gì chúng ta được phúc như tông đồ Tôma nhờ lòng thương xót Chúa mà thay lòng đổi dạ, để không còn chai lì nhưng mang lấy tâm tình của người môn đệ được Thầy cảm thông phận yếu đuối, thương xót thân tội lụy, khi sấp mình thân thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!“ (Ga 20,28) và khiêm hạ, tín thác lắng nghe Chúa nhủ bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!“ (Ga 20,29).
Đã hẳn lòng thương xót của Thiên Chúa đã được thể hiện trước muôn dân qua mầu nhiệm Thánh Giá của Đức Giêsu chịu đóng đinh, nhưng xem ra Đấng chịu đóng đinh ấy, sau khi sống lại từ cõi chết vẫn không muốn rời xa lòng thương xót bao la, đời đời của Ngài, qua những lần hiện ra với các môn đệ với thân xác còn nguyên vẹn những thương tích cuộc tử nạn.
Không rời xa lòng thương xót khi Ngài đến và đứng giữa các môn đệ, trong lúc cửa nhà các ông đóng kín, vì sợ người Do Thái với thân xác còn nguyên vẹn các dấu đinh trên tay chân và dấu đòng hoắm sâu bên cạnh sườn còn rướm máu.
Sở dĩ Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ với thân xác tuy đã sống lại vinh hiển nhưng vẫn loang lổ những thương tích cuộc tử nạn, vì Ngài muốn tỏ cho các ông biết đây mới thực là giờ chiến thắng của lòng thương xót, mới là thời đại huy hoàng của lòng thương xót, mới là mùa rực rỡ hoa Lòng Thương Xót, vì nhờ Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà sự sống đã hoàn toàn chiến thắng thần chết, và thập giá đã vĩnh viễn chiến thắng địa ngục, như được ghi trong sách Khải Huyền: “Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chià khóa của Tử Thần và Âm Phủ” (Kh 1, 17-18).
Mang trên mình đầy thương tích của lòng thương xót, Đức Giêsu sống lại từ cõi chết đã không chỉ ban bình an phục sinh của Ngài cho các môn đệ khi nói với các ông: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19), như chiến công hiển hách sau trận chiến chống lại ganh ghét, hận thù, bạo lực, mà còn ban ơn tha tội cho mọi người, khi “thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22), là Thánh Thần Tình Yêu, Thần Khí hoan lạc, hy vọng của Thiên Chúa, và sai các ông ra đi với sứ vụ thực hiện lòng thương xót của Thiên Chúa, khi nhân danh Thiên Chúa tha tội cho mọi người (x. Ga 20,23).
Lòng thương xót ở Đức Giêsu phục sinh còn được bày tỏ khi Ngài nhẫn nại chịu đựng sự cứng lòng của tông đồ Tôma, người đã khăng khăng phủ nhận sự việc “Chúng tôi đã được thấy Chúa” (Ga 20, 25) của toàn thể anh em, và ngạo nghễ tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).
Và lòng thương xót một lần nữa được Đức Giêsu quả quyết là ơn đổi mới tâm hồn, có sức làm cho qủa tim chai đá biến thành qủa tim bằng thịt (x. Ed 36,) khi âu yếm bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27).
Quả thực, phần đông chúng ta ít quan tâm đến những “phép lạ” kín đáo, âm thầm, nhẹ nhàng của lòng thương xót được Chúa thực hiện một cách sống động, cụ thể trong đời sống, qua những người anh em bé nhỏ, yếu đuối ở ngay bên cạnh, mà chỉ háo hức đi tìm những “điềm thiêng dấu lạ” mang tính ma mị, giả tạo, hoành tráng, ồn ào bên ngoài của thế gian, như Tôma đã cứng lòng không tin vào lời của anh em tông đồ kể cho ông về một Thiên Chúa phục sinh với thân xác còn nguyên vẹn những vết thương của cuộc tử nạn, bởi ông không mong chờ một Thiên Chúa phục sinh “yếu đuối và mang đầy thương tích của lòng thương xót như thế”, nhưng ngóng đợi một Thiên Chúa phục sinh hiển hách, oai hùng, không còn dấu tích tang thương của Thánh Giá lòng thương xót.
Biết Tôma cứng lòng không hẳn vì không tin anh em, nhưng vì điều anh em nói về Thầy trái với điều ông mong ước và suy nghĩ: nếu Thầy thực sự sống lại, Thầy sẽ không còn mang thân xác đầy thương tích của cuộc tử nạn, vì đó là dấu chứng của yếu đuối, thất bại, nên Đức Giêsu đã nói riêng với Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy”, như muốn nhắc nhở ông: Thầy vẫn mãi mang thân xác đầy thương tích Thánh Giá để nói lên lòng thương xót vô cùng, vô tận, không bao giờ lay chuyển, và tồn tại muôn đời của Thầy để mọi người nhận được ơn cứu sống, nếu tin vào lòng thương xót của Thầy, và chính lòng thương xót ấy đang đổi mới trái tim chai đá, cứng cỏi, ương ngạnh của con.
Ước gì chúng ta cũng được phúc như tông đồ Tôma nhờ lòng thương xót Chúa mà thay lòng đổi dạ, để không còn chai lì thách thức, nhưng mang lấy tâm tình của người môn đệ đang ngụp lặn trong hạnh phúc được Thầy cảm thông phận yếu đuối, thương xót thân tội lụy, khi sấp mình thân thưa: “Lạy Chúa của con, lậy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28) và khiêm hạ, tín thác lắng nghe Chúa nhủ bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
Một giáo lý viên đã lớn tuổi thật thà chia sẻ: Trước kia, khi mới dạy giáo lý dự tòng, cầm cuốn PS 2-ABC411
Một giáo lý viên đã lớn tuổi thật thà chia sẻ: Trước kia, khi mới dạy giáo lý dự tòng, cầm cuốn giáo lý là ông dạy từ đầu đến cuối. Nhưng sau này, ông lại làm ngược lại: dạy phần cuối cùng trước, rồi đi lên dần. Có nghĩa là ông bắt đầu dạy các dự tòng cầu nguyện trước tiên, sau đó dạy về luân lý, cuối cùng mới là phần tín lý.
Ông cho biết lý do vì sao ông lại làm chuyện xem ra ngược đời ấy: “Vì tôi nghĩ, một người mới bắt đầu theo Chúa, họ phải được gặp Chúa trước, để từ đó họ sống với anh em. Vì nghĩ như thế, tôi giúp họ cầu nguyện trước”.
Từ đời sống cầu nguyện bắt đầu chớm nở đó, ông nói với họ về lòng Thiên Chúa yêu thương, về sự hiến thân của Đấng là Thiên Chúa làm người, lòng tha thứ Thiên Chúa dành cho con người…
Khi họ đã có thể hiểu một cách tương đối, ông nói với họ về Điều răn của Thiên Chúa, về tám Mối phúc của Chúa Giêsu.
Sau khi đã bắt đầu hình thành một đời sống Kitô hữu như thế, ông đưa họ vào các chân lý đức tin, qua việc giúp họ hiểu giáo lý, trong đó có niềm tin vào Chúa Phục sinh. Đó là những chân lý rất khó, sẽ càng khó đón nhận hơn, nếu không được chuẩn bị, ít là những điều cần thiết một cách cơ bản.
Ông bảo rằng, Thiên Chúa đã trợ lực cho ông. Chính Người dùng miệng lưỡi của ông mà nói với dân của Người. và cũng chính ơn của Chúa đã đồng hành với anh chị em, để những gì xuất phát từ môi miệng ông, anh chị em có thể hiểu được và tin.
Kể chuyện về người giáo lý viên nói trên để thấy rằng, chúng ta không phải là những kẻ dễ tin. Nhất là thời đại khoa học phát triển đến mức chóng mặt như hiện nay, người ta vịn vào khoa học để giải đáp mọi vấn đề, thì những chân lý đức tin, như vấn đề thân xác sống lại chẳng hạn, càng không dễ dàng chấp nhận.
Anh chị em dự tòng đi học giáo lý, chắc Thiên Chúa phải ban ơn cho họ, để họ tin. Vì một người đã lớn khôn, đã có sự hiểu biết, rất bình thường về năng lực lý trí, bây giờ được nói tới những chân lý đức tin xem ra khá xa xôi, vậy mà họ có thể chấp nhận. Ít là có thiện chí để chấp nhận. Tôi nghĩ, Thiên Chúa phải chuẩn bị cho họ nhiều lắm.
Hôm nay suy niệm Tin Mừng về việc Chúa Phục sinh hiện ra với tông đồ Tôma, tôi thấy cả tôi cũng được Chúa chuẩn bị bằng ơn thánh của người.
Cũng giống như sự chuẩn bị cho các dự tòng và tân tòng, hoặc cũng giống như bản thân thánh Tôma, Chúa đã chuẩn bị cho thánh nhân đón nhận đức tin cách hoàn hảo khi đáp ứng yêu cầu “được xỏ vào lổ đinh, được thọc tay vào cạnh sườn” của Chúa. Để qua cuộc khám phá diện đối diện với Chúa Phục sinh của thánh Tôma, Chúa Phục sinh ban cho tôi một bằng chứng xác thực. Đó là sự chuẩn bị đức tin, Người dành cho tôi, để bây giờ tôi tin Người . Có người trách thánh Tôma là cứng lòng tin. nhưng riêng tôi, tôi thầm cám ơn thánh Tôma. Cám ơn, vì nơi thánh nhân, tôi thấy chính mình. Bởi không dễ dàng gì, một sớm một chiều tôi tin Chúa sống lại. Tôi cám ơn thánh Tôma do hai lý do: Lý do thứ nhất: để có được đức tin, chắc chắn tôi cũng sẽ đòi bằng chứng. Chúa Giêsu đã trả lời bằng một bằng chứng mạnh mẽ nhất: cho xem chính thân xác của Người. “Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh trên tay Thầy, hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy”.
Ngày xưa, với một bằng chứng xác thực, Chúa bảo đảm cho đức tin của thánh Tôma đã vậy, ngày nay đó cũng là một bảo đảm cho chính đức tin của tôi. Vì Chúa của tôi đã sống lại thật. Người trả lời cho tôi không phải bằng lời, nhưng bằng thân xác Phục Sinh đích thật của Người.
Lý do thứ hai: Nhờ sự đòi hỏi bằng chứng xác thực của thánh Tôma, tôi biết mình có phúc. Vì Chúa Phục Sinh đã nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Từ lời của Chúa Phục sinh, chúng ta vui mừng mà chúc phúc cho nhau: Phúc cho ông, phúc cho bà, phúc cho anh chị em, phúc cho các bạn là những người trẻ, phúc cho các bé thiếu nhi, phúc cho tôi, phúc cho tất cả chúng ta…, vì chúng ta không hề thấy nhưng lòng tin tưởng thì rất lớn lao.
Đặc biệt, trong những ngày này, chúng ta không thể quên các anh chị em tân tòng. Phúc thật, phúc lớn cho những anh chị em tân tòng, những người vừa mới đón nhận đức tin, đặt biệt những anh chị em mới đón nhận đức tin trong dịp lễ Phục Sinh. Họ cũng là những người giống như bạn, như tôi: đã không thấy mà tin.
Các bạn tân, dự tòng thân mến, Giáo Hội đã trao cho chúng tôi kho tàng đức tin. Giáo Hội cũng đã hoặc sẽ trao cho các bạn đức tin ấy. Nếu chúng tôi đã lãnh nhận kho tàng đức tin, đã sống và gìn giữ kho tàng quý giá đó suốt cả cuộc đời chúng tôi. Nếu chúng tôi đã tuyên xưng đức tin và hãnh diện nhận mình là người Công giáo, chúng tôi cũng mong muốn, và cả ước ao tha thiết nữa, các bạn sẽ bền tâm giữ đạo đến giây phút cuối cuộc đời. Vì đức tin mà các bạn vừa có được là do sự chọn lựa của chính các bạn. Chính các bạn quyết định lãnh nhận bí tích rửa tội để vào đạo, chứ không do bất kỳ ai thúc ép.
Tất cả chúng ta, dù là người đã đi đạo từ lâu, hay chỉ mới đi đạo, thậm chí mới được rửa tội đúng một tuần, hay đang là dự tòng, chúng ta mang trong lòng mình một niềm xác tín lớn lao về Chúa Kitô Phục sinh. Bởi đó, chúng ta cũng cưu mang niềm hy vọng phục sinh như Chúa của mình đã phục sinh.
Đức tin vào ơn Phục sinh là niềm xác tín của cả Giáo Hội nói chung. Nhưng rất đặc biệt, vì đức tin ấy cũng đã trở thành niềm xác tín của riêng từng người là con cái của Giáo Hội.
Chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng, tin vào ơn Phục sinh là một đức tin đã được chính Chúa chuẩn bị để ta có thể cưu mang và sống suốt cuộc đời của mình. Đức tin vào ơn Phục sinh cũng chính là lời chúc phúc trọng đại dành cho từng người, cho bạn cho tôi.
Bạn ạ, tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt, ra ngoài cái có thể thấy hay cảm nhận được. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu của thánh Tôma. Nhưng chúng ta, rõ ràng nhất là các tân, dự tòng, lại được thấy Chúa qua đức tin của thánh Tôma, của Giáo Hội và của biết bao chứng nhân trong Giáo Hội.
Thông thường, ta vẫn nghĩ thánh Tôma thật là diễm phúc vì được Chúa trả lời cho sự chất vấn về đức tin của thánh nhân. Thánh Tôma cũng như nhiều môn đệ khác, thật diễm phúc vì nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh cách nhãn tiền.
Nhưng nói cho cùng, tin mà vẫn không thấy, chúng ta vẫn là người có phúc, phúc lớn. Tin mà vẫn không thấy, đó là đức tin mạnh, mạnh vô cùng. Tin mà vẫn không đòi bằng chứng, chỉ cần lời giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta đáng hãnh diện về mình, một niềm kiêu hãnh thuộc về một giá trị tuyệt đối.….
Tin mừng Ga 20: 19-31: "Phúc cho những ai không thấy mà tin": Đức tin không dựa trên đôi mắt thể lý nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ đức tin này mà các Kitô hữu kết hợp sâu xa với Đức Kitô phục sinh và được sống nhờ Người.
Đức Kitô đã phục sinh, Người đã sống lại ra khỏi mồ. Đây là tin mừng được ghi nhận trong Kinh PS 2-ABC412
Đức Kitô đã phục sinh, Người đã sống lại ra khỏi mồ. Đây là tin mừng được ghi nhận trong Kinh Tin Kính, chúng ta được mời gọi liên kết vững chắc với Đức Kitô phục sinh trong ánh sáng của Thần Khí. Chính sự liên kết trong niềm tin này mang lại cho chúng ta khả năng quảng đại, phong phú của tâm hồn. Chính sự liên kết được chia sẻ trong Giáo Hội mang lại cho cộng đoàn Kitô hữu sức sống và sức mạnh của người đi chinh phục.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Tin mừng: Ga 20, 19-31
Qua sự hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu củng cố đức tin cho các ông đang còn bị lung lay, yếu đuối và trao phó cho các ông sứ mạng loan báo Tin mừng.
Ngay ở lần hiện ra đầu tiên vào ngày thứ nhất trong tuần (vào chiều ngày Phục sinh), Chúa Giêsu đã thuyết phục các môn đệ nhận biết rằng Người đã phục sinh và đang sống. Sau đó, trước khi rời các ông, Người trao cho các ông quyền tha tội.
Tám ngày sau, Người lại hiện ra với các ông lần nữa, tiến đến với Tôma, người đã vắng mặt ở lần trước và không tin lời các bạn mình nói Chúa đã sống lại. Người xác nhận với ông về điều này. Tôma đã tuyên tín: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Lời xác quyết long trọng này từ miệng của một người cứng tin nói lên sự hiển nhiên của việc phục sinh. Lời tuyên xưng này là chóp đỉnh của Phúc âm thứ tư. Ở đây hai tước hiệu ' Chúa' (Kyrios) và 'Thiên Chúa' được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu để nói lên thiên tính của Đức Kitô. Một công thức mang tính Kitô học.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin": Đức tin không dựa trên đôi mắt thể lý nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ đức tin này mà các Kitô hữu kết hợp sâu xa với Đức Kitô phục sinh và được sống nhờ Người.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Từ kinh nghiệm thể lý đến xác quyết của đức tin: niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu của các môn đệ luôn chuyển từ một kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng: Gioan tin khi thấy mộ trống, khăn liệm; Maria Mađalêna tin khi nhận ra going nói quen thuộc của Thầy; các tông đồ tin khi thấy lỗ đinh ở tay và cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu và cuối cùng đòi hỏi của Tôma cho thấy rõ, niềm tin của ông khởi từ mong muốn được thấy Chúa Phục sinh bằng đôi mắt khả giác. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm thể lý các Ngài đã tiến tới một bước dài trên hành trình đức tin, các Ngài đã can đảm làm chứng cho niềm tin của mình bằng cái chết. Để rồi từ đây dựa trên chứng cứ của các Ngài là những chứng nhân trực tiếp, đức tin của mỗi Kitô hữu không còn dựa trên cái nhìn khả giác, những kinh nghiệm thể lý nữa mà hoàn toàn là một cảm nghiệm thâm sâu của con tim và là sự dấn thân liều lĩnh bước theo tiếng gọi và ân sủng của Thiên Chúa. Ngày nay, chắc chắn không thể đòi hỏi như Tôma phải thấy Chúa bằng xương bằng thịt mới tin. Đã có cả truyền thống đức tin vững bền của Giáo Hội đủ để tạo nên thế giá cho niềm tin của chúng ta. Thực ra, tin không phải là điều dễ dàng khi mà chân lý đức tin luôn vượt quá trí hiểu của con người và tri thức khoa học của nhân loại. Tuy vậy, trong thực tế có những sự kiện người ta có thể hiểu rõ diễn biến của nó nhưng để chấp nhận lại đòi hỏi phải tin. Ai chẳng biết mỗi con người đều được sinh ra từ một người mẹ, tuy nhiên để khẳng định có là mẹ ruột của mình không thì lại dựa vào niềm tin là chủ yếu, nhất là dựa vào tình yêu. Cho dẫu ngày nay khoa học có thể thử máu, thử gène để biết chính xác, nhưng nếu như thế lại chứng tỏ sự nghi ngờ nào đó và có nguy cơ làm ran nứt tình cảm gia đình.
Với Kitô hữu hôm nay, chúng ta có thực sự tin vào màu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu Kitô theo giáo lý của Giáo Hội hay không? Nhiều người xem ra vẫn thích dựa vào những kinh nghiệm khả giác hơn là tin vào Kinh Thánh, vào lời giảng huấn của Giáo Hội, khi vẫn thích tìm kiếm phép lạ, vẫn thích đổ xô đến những nơi đựơc cho là Chúa Mạ hiện ra???
2. Từ Câu chuyện của Tôma đến cuộc khủng hoảng niềm tin của con người thời nay: Khi Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma vắng mặt, ông không tin lời của các bạn. Ông không tin là điều xem ra có vẻ hợp lý. Thấy mới tin mà, điều này rất dễ chấp nhận. Ông không thấy, nên ông nghi ngờ. Thế nhưng, khi ông đã thấy thì ông lại xác quyết đức tin của mình cách mạnh mẽ nhất, xem ra hơn cả các Tông đồ khác. Câu ông tuyên xưng hình như chưa có Tông đồ nào tuyên xưng cả: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Từ câu chuyện của Tôma ngày xưa nhìn đến con người ngày nay. Với sự tiến bộ vượt bậc của Khoa học kỹ thuật, nếp suy tư, nhìn nhận mọi biến cố cuộc sống theo tư duy khoa học đã ăn sâu vào trong suy tư của con người. Mọi việc đều phải có cơ sở khoa học, phải được chứng minh cụ thể rõ ràng mới có sức thuyết phục. Do đó, thuyết phục người ta tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu là điều có lẽ khó khăn. Ngay cả thời của Thánh Phaolô, khoa học chưa phát triển, nhưng triết thuyết Platon gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống thì chính Ngài cũng không thuyết phục được bao nhiều người của Thành Athène tin theo Chúa (Cv 17, 32-34). Có thể nói được rằng: trong xã hội ngày nay chúng ta đang chứng kiến một cuộc khủng hoảng niềm tin. Người chưa tin ngày càng gia tăng; người mất niềm tin trở nên khô khan nguội lạnh cũng ngày càng gia tăng. Khủng hoảng niềm tin vì nhiều lý do, nhưng có lẽ hơn hết vẫn là não trạng duy khoa học, duy lý trí khiến cho người ta khó tiếp cận được với chân lý đức tin, với mạc khải Kinh Thánh.
Người Kitô hữu hôm nay phải làm chứng cho niềm tin phục sinh của mình; phải nhận ra hoàn cảnh tri thức hiện tại và tâm thức con người hôm nay để có những cách thế phù hợp loan báo Tin mừng. Cách thế hữu hiệu vẫn là sự hiện diện và làm chứng bằng chính đời sống của mình để mọi người thấy được niềm xác tin mạnh mẽ của mình.
3. Từ Niềm tin đến hạnh phúc: Có nhiều người cho rằng Lời Chúa nói với Tôma: "Phúc cho những ai không thấy mà tin" là lời ngụy biện của những kẻ ngu dốt hay của những kẻ cuồng tín. Khi Chúa Giêsu nói câu này không phải Người không quan tâm gì đến việc phù hợp với lý trí và nhận thức của nhân loại, để rồi kêu gọi người ta tin một cách mù quáng. Ở đây Chúa đề cao tính hợp tình. Như trường hợp của Tám Mối Phúc Thật. Hạnh phúc mà Chúa chúc phúc xem ra trái nghịch với lẽ thường tình, với khao khát hạnh phúc của con người. Cũng thế, tin sẽ đưa con người ta đi vào hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa là bước vào sống thân mật với Người, yêu mến Người. Và yêu mến Người thì sẽ nhận đựơc hạnh phúc vì ở đời tình yêu luôn đi với hạnh phúc. Mối dây liên hệ giữa Tin, Yêu và hạnh phúc luôn là mối dây tương hỗ quyện lấy nhau. Niềm tin chứng tỏ tình yêu càng tin tưởng càng yêu thương, càng yêu thương càng thấy hạnh phúc. Người ta không thể sống mà không tin yêu. Không thể chuyện gì cũng phải thấy mới tin. Có nhiều chuyện không thấy mà vẫn tin: tin vào tình yêu, tin vào tương lai và tin vào tinh người…
Với Kitô hữu tin là cử ngõ đi vào cõi phúc. Tin để chứng tỏ tình yêu Chúa và yêu Chúa chính là hạnh phúc. Cảm nhận đựơc hạnh phúc bởi đức tin không phải bằng giác quan nhưng bằng con mắt đức tin. Đôi mắt xác thịt có thể tăm tối nhưng đôi mắt đức tin sáng tỏ sẽ nhận thấy niềm vui và hạnh phúc vô bờ nơi Thiên Chúa.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã phục sinh, Người đang hiện diện với chúng ta. Tin tưởng nơi Người chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mạng loan báo Tin mừng Phục sinh cho toàn thể thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội, nhất là các Đấng chủ chăn luôn vững mạnh trong đức tin, bền tâm trong đức cạy và sắt son trong đức ái, để trung thành đưa ánh sáng Tin mừng đến với thế giới và con người hôm nay.
2. "Phúc cho những ai không thấy mà tin". Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em khô khan nguội lạnh, những người chưa tin nhận Chúa và chống đối sứ điệp Tin mừng được mở lòng mở trí biết thành tâm tìm kiến chân lý và lẽ sống cao đẹp.
3. "Lạy Chúa Con! Lạy Thiên Chúa của con". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn mạnh mẽ tuyên xưng đức tin của mình bằng chính đời sống chứng tá theo ánh sáng của Tin mừng.
* Lời Kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương hiện diện và đồng hành cùng chúng con trong cuộc sống. Xin gia tăng đức tin cho mọi người chúng con để ai nấy đều cảm nghiệm từ thẳm sâu cõi lòng sự hiện diện yêu thương mang lại hạnh phúc của Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Tin mừng Ga 20: 19-31: Chúa nhật II Phục Sinh cũng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chỉ có lòng Chúa thương xót mới khiến chúng ta nhận ra Chúa, ơn lành của Chúa.
Suy niệm
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, ….. Các môn đệ Chúa sợ cũng phải thôi, vì PS 2-ABC413
“Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”. Các môn đệ Chúa sợ cũng phải thôi, vì biến cố khổ nạn và thập giá xảy đến cho Thầy làm các ông rất hoang mang và đau buồn. Hơn nữa, ngay đến Thầy là một người sống tốt, rao giảng đó đây, làm nhiều việc lành và được yêu mến vậy mà những thủ lãnh Do Thái còn đối xử án tử như thế, cho nên các môn đệ Chúa Giêsu khi phải đối diện với sự bách hại ấy càng mất bình an hơn. Các ông nghĩ cách tốt nhất để bảo vệ mình khỏi sự truy lùng của người Do Thái là đóng kín cửa, một số khác thì ẩn mình đi. Có lẽ vì lý do này mà Tôma đã không tụ họp chung với anh em đồng môn ngày hôm sau đó.
Chính trong cảnh tang thương của Thầy mình, các môn đệ tụ họp lại cùng cầu nguyện, an ủi và nâng đỡ nhau. Và Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra vào chiều ngày thứ nhất, đứng giữa các môn đệ và trao ban: “Bình an cho anh em!” Việc Người hiện ra đã xua tan nỗi lo âu và chán nản, bi quan và thất vọng nơi các môn đệ và để lấp đầy con tim bối rối của các ông bằng sự bình an của Đấng chiến thắng sự chết.
Đang lúc ấy, Tôma, còn được gọi với tên Đydimô, ông đi mô giữa lúc Chúa hiện đến giữa anh em nên ông không có được diễm phúc được chứng kiến Chúa phục sinh hiện ra, không nhận được lời Shalom chào chúc bình an của Chúa. Như câu chuyện bó đũa, một chiếc đũa tách riêng ra sẽ dễ bị bẻ gãy. Tôma tách rời ra khỏi anh em nên đức tin của ông đã bị chao đảo, ông cứng lòng tin mặc dầu nghe các bạn kể lại sự kiện Chúa phục sinh. Vì thế, ông vẫn khăng khăng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin". Tôma muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, kinh nghiệm đối diện với người thật việc thật để có thể nhìn nhận Chúa phục sinh.
May phước cho Tôma là ông có một vị Thầy giàu lòng thương xót, nhẫn nại và từ bi nên đã chiều theo ý ông. Chúa Giêsu hiện ra lần nữa vào tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất để cho ông cơ hội được mãn nguyện, để củng cố đức tin cho cả ông là một trong số những người sẽ trở nên rường cột Hội Thánh sau này. Điều này cũng cho thấy ngày Chúa nhật có một vị trí quan trọng hơn hẳn các ngày. Người hiện ra và lần này bảo chính Tôma: “Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Chúa mời gọi các môn đệ không những tin vì đã thấy mà còn cần phải tiến xa hơn: tin cho dù không được thấy.
Và quả thật, với kinh nghiệm đối diện với Đấng Phục Sinh, Tôma không chần chừ, đã tuyên xưng đức tin cá vị của chính mình: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Từ đây, Chúa Giêsu mới mạc khải chân lý này: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!" Đó là lời chúc phúc cho những môn đệ tương lai, là các Kitô hữu qua các thời kỳ.
Các môn đệ của Chúa được diễm phúc trở nên thị chứng nhân cho Chúa phục sinh. Niềm tin đó đã biến các ngài trở thành những chứng nhân bằng cả cuộc sống và thậm chí cả sự sống của mình. Đó là một sự kiện hiển nhiên mà đức tin Kitô Giáo chúng ta đã không sợ sệt khi đặt nền tảng trên sự thật này. Tuy nhiên, thời đại khoa học thực nghiệm ngày nay dường như khiến mọi thứ cần phải cân-đo-đong-đếm để xác nhận, được kiểm nghiệm mới đáng tin. Vậy chúng ta, những người Kitô hữu sống cách xa biến cố Chúa Phục Sinh 2000 năm, Liệu lời Tin Mừng hôm nay: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc” có còn hữu dụng không, khi lòng tin của chúng ta dựa trên chứng từ của các Tông đồ?
Nhà chú giải Kinh Thánh Dufour cho biết: “Kinh nghiệm mà những chứng nhân tận mắt được hưởng là kinh nghiệm làm nền và không thể được tái diễn: kinh nghiệm ấy được ban cho họ không chỉ vì họ mà thôi, nhưng còn vì những thế hệ tương lai mà lòng tin sẽ dựa vào lời chứng được truyền lại cùng với sức mạnh của Thánh Thần sẽ nối kết tất cả con cái Thiên Chúa nên một trong đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh”. Vâng, với ơn đức tin, chúng ta có thể cảm nhận Chúa Phục Sinh giữa cuộc sống thăng trầm của chúng ta. Con đường của lòng tin chúng ta ngày nay là con đường của lòng mến. Lòng tin và lòng mến biện chứng cho nhau, càng tin thì càng yêu mến, và càng yêu mến thì đức tin càng vững chắc. Thánh Tôma Aquinô cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin như Tôma được xem thương tích Chúa, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”.
Chúa nhật II Phục Sinh cũng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chỉ có lòng Chúa thương xót mới khiến chúng ta nhận ra Chúa, ơn lành của Chúa, ơn cứu chuộc bằng giá máu của Người để rồi chúng ta mới có thể biến đổi đời sống mình để có thể gặp gỡ được Chúa. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Ngài, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
Lòng thương xót Chúa được thể hiện qua mỗi Thánh lễ hằng ngày. Chúng ta cùng tìm hiểu xem PS 2-ABC414
Lòng thương xót Chúa được thể hiện qua mỗi Thánh lễ hằng ngày.
Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Lòng thương xót Chúa dành cho nhân loại đạt tới mức cao nhất, lớn lao nhất vào lúc nào?
Tất nhiên là lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện đến mức cao nhất, tuyệt vời nhất và lớn lao nhất nơi cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Qua biến cố đau thương này, Chúa Giêsu đón nhận vô vàn đau thương khốn khổ để đền tội thay cho nhân loại và Ngài đã chết thay cho muôn người để họ khỏi phải sa hỏa ngục và mở cửa cho họ vào thiên đàng. Đỉnh cao của lòng thương xót Chúa là đây!
Và điều đáng ghi nhớ là cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu không chấm dứt cách đây hơn 2.000 năm, nhưng vẫn còn tiếp diễn, tiếp diễn không ngừng trong các Thánh lễ được cử hành liên tục từng giờ, từng phút suốt dòng lịch sử nhân loại. Giáo lý Hội thánh dạy rằng “Hy tế khổ giá của Đức Ki-tô trên đồi Can-vê kéo dài qua các thời đại cho đến tận thế” (GLHTCG số 1323), “Thánh lễ hiện tại hóa hy tế thập giá của Chúa Giêsu” (GLHTCG số 1366) hay nói dễ hiểu hơn “Hy tế của Đức Ki-tô trên đồi Can-vê năm xưa và Thánh lễ hôm nay chỉ là một, vì chỉ có một Lễ vật duy nhất là Đức Ki-tô; hôm xưa, chính Ngài tự dâng mình trên thập giá, hôm nay, Ngài lại dâng mình nhờ tay linh mục” (GLHTCG số 1323. 1367).
Như vậy, Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót bao la không bờ không bến của Ngài qua các Thánh lễ được hiến dâng mỗi ngày.
Thánh lễ là nơi Thiên Chúa thể hiện lòng thương xót vô biên của Ngài qua 3 hồng ân lớn sau đây:
Thứ nhất, Bằng cuộc thương khó và tử nạn của mình được tiếp diễn trong Thánh lễ, Chúa Giêsu hiến dâng thân mình đền tội thay cho chúng ta, chết thay cho chúng ta… để tha thứ tội lỗi cho ta, nhằm cứu ta khỏi sa hoả ngục đời đời (GLHTCG số 1365 [1], 1367 [2] và 1366).
Như thế, qua Thánh lễ, lòng thương xót của Chúa dành cho chúng ta thật là vô biên, vô hạn.
Thứ hai, Vì yêu thương chúng ta vô biên vô hạn, Chúa Giêsu trao ban Thịt Máu Ngài làm lương thực cho ta, để nhờ đón rước Ngài vào lòng, chúng ta được hòa chung nên một với Chúa như giọt nước hòa trong chén rượu, như ao nước nhỏ hòa với đại dương… đúng như lời Chúa phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong kẻ ấy (Ga 6, 56). Nhờ đó, Chúa với ta không còn là hai mà chỉ là một và con người bụi đất hèn hạ này được nâng lên làm một với Đấng tối cao.
Thứ ba, Một khi chúng ta được nên một với Chúa qua việc rước mình thánh Ngài, Chúa Giêsu thông ban sự sống cao vời của ba Ngôi Thiên Chúa cho chúng ta; nhờ đó ta được mang sự sống của Thiên Chúa trong ta và được sống đời đời với Thiên Chúa như lời Chúa phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,54).
Như thế, chẳng còn ơn nào trọng hơn 3 hồng ân trên đây; không có gì cao quý bằng 3 hồng ân tuyệt vời này.
- Vậy thì chúng ta cần phải đến tôn vinh lòng thương xót Chúa ở đâu?
- Tất nhiên là đến với Thánh lễ hằng ngày, vì đây là nơi Chúa Giêsu thi thố lòng thương xót cao vời của Ngài cho tất cả chúng ta.
Vì thế, ai quay lưng lại với Thánh lễ là quay lưng lại với lòng thương xót Chúa; ai thờ ơ không tham dự Thánh lễ là không muốn đón nhận lòng thương xót Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Không có tình thương nào lớn lao cho bằng tình thương của Ngôi Hai Thiên Chúa nộp mình chịu thương khó, chịu chết trên thập giá để đền tội cho những con người hèn mọn chúng con.
Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của Chúa khi trao ban mình máu thánh Chúa cho chúng con để chúng con được hoàn toàn nên một thân mình, một dòng máu với Chúa.
Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của Chúa là Đấng đã trao ban sự sống đời đời của Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con biết tìm đến tôn vinh lòng thương xót Chúa trong các Thánh lễ hằng ngày để đón nhận những hồng ân lớn lao phát xuất từ tình thương bao la của Chúa.
------------------ [1] “Trong Thánh lễ, Chúa Ki-tô ban chính thân mình đã tự hiến trên thập giá, ban chính máu Ngài đã đổ ra cho mọi người được tha tội” [2] “Hy tế này (Thánh lễ) thực sự có giá trị đền tội”
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được gọi là Tông đồ của Lòng Chúa thương xót. Ngài đã PS 2-ABC415
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được gọi là Tông đồ của Lòng Chúa thương xót. Ngài đã cổ võ lòng sùng kính Lòng Chúa thương xót và đã có sáng kiến thiết lập ngày lễ kính Lòng Chúa thương xót vào Chúa nhật II Phục sinh hằng năm. Trong một bài giảng về Lòng Chúa thương xót, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã tuyên bố như sau: “Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa về Tình Yêu của Ngài, Tình Yêu ấy mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Tình Yêu ấy được mạc khải và được thực hành là Lòng Thương Xót, thúc giục mỗi người đáp lại tình yêu với Đấng bị đóng đinh… Với những tâm tình đó, chúng ta cử hành Chúa nhật thứ II sau lễ Phục sinh từ Năm Toàn Xá (năm 2000). Chúa nhật thứ II sau lễ Phục sinh được gọi là Chúa nhật Lòng Thương Xót (Divine Mercy Sunday)”.
Thực ra, giáo huấn về Lòng Chúa thương xót không phải là một khám phá mới của Thánh Gioan Phaolô II. Lòng Chúa thương xót được thể hiện trên từng trang của Kinh Thánh, Cựu ước cũng như Tân ước. Lịch sử Thánh, hay lịch sử Cứu độ ghi lại một chuỗi liên hoàn những phản bội của con người và lòng bao dung của Thiên Chúa. “Ngài là Đấng chỉ nổi giận trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời” (Tv 29,6). Hôm nay cũng vậy, con người lãng quên Thiên Chúa, thậm chí muốn gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc đời, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, vì yêu thương là bản chất của Ngài. Thánh Gioan Phaolô đã có công khơi gợi lại hình ảnh của Lòng Chúa thương xót, dựa vào nền tảng Kinh Thánh và những mạc khải tư Chúa tỏ cho thánh nữ Faustina, người đồng hương với Ngài, và cũng là người tông đồ được Chúa chọn làm sứ giả của Lòng Chúa thương xót.
Một ngày nọ, Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi biết tin vào Lòng Thương Xót của Chúa” (Nhật Ký, 300). Bối cảnh xã hội hiện tại cho thấy nhiều lo âu: Đại dịch Covid-19 chưa chấm dứt, thì lại nổ ra cuộc chiến tranh tàn khốc tại Ucraina. Trong thời đại vẫn được mệnh danh là thời hoà bình, mà cuộc chiến sát nhân vẫn xảy ra. Mặc dù biết bao lời kêu gọi, phê phán và lên án, cuộc chiến vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, trái lại còn đang nguy cơ leo thang và lan rộng. Tôn vinh Lòng Chúa thương xót và thiết tha cầu nguyện sẽ giúp cho thế giới tìm lại hoà bình. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy, qua thánh nữ Faustina.
Thánh Gioan Phaolô II đã gọi Lòng Chúa thương xót là tặng phẩm Phục Sinh. Trong Mùa Chay và Tuần Thánh, chúng ta đã cử hành và suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thập giá diễn tả một cách hoàn hảo Lòng Chúa thương xót. Hình ảnh người Tôi tớ đau khổ của Đức Giavê được mô tả trong sách Ngôn sứ Isaia đã thực hiện nơi Đức Giêsu: Người không còn hình dạng cho chúng ta nhìn ngắm. Người mang lấy trên thân mình tất cả tội lỗi nhân gian. Thiên Chúa đã “đánh phạt” Người (x. Is 52,13-53,12). Quả vậy, trên cây thập giá, Đức Giêsu như một tội nhân khốn khổ và như một người nghèo khó tới mức tột cùng. Dường như Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người: “Lạy Thiên Chúa! Lạy Thiên Chúa! sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 46).
Khi tôn vinh Lòng Chúa thương xót, chúng ta hãy nhận ra Người đang hiện diện giữa chúng ta. Đức Giêsu Phục sinh không phải một câu chuyện huyền thoại, cũng không phải một câu chuyện của thời xa xưa. Trái lại, Đấng Phục sinh đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Ngỏ lời với người trẻ trong Tông huấn “Chúa Kitô đang sống”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định: “Chúng ta cần luôn tự nhắc mình là Chúa Kitô đang sống, bởi vì chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm. Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta là Đấng đang sống. Người là Đức Kitô Phục Sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn. Vì thế Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1 Cr 15,17) (số 124).
Tông đồ Tôma đại diện cho trường phái hoài nghi, chỉ tin vào những gì cảm nghiệm bằng giác quan và sẵn sàng thách thức những điều kiện để tin. Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh đã cho ông một kinh nghiệm: Không phải chỉ những gì động chạm được bằng chân tay hay nhìn thấy tận mắt, thì mới đáng tin. Hơn nữa, “phúc cho những ai không thấy mà có lòng tin”. Cuộc gặp gỡ này giúp ông tin mà không cần “thấy dấu đinh ở tay Người, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Người”. Đứng trước Đấng Phục sinh, những thách thức này trở nên vô nghĩa.
Cùng với Tôma, chúng ta hãy tôn thờ Đấng Phục sinh và tuyên xưng Đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Câu tuyên xưng này cũng đồng nghĩa với lời kinh chúng ta vẫn đọc khi tôn vinh Lòng Chúa thương xót: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa!”. Hãy để Đấng Phục sinh đi vào cuộc đời chúng ta, để Người thay đổi tận căn trái tim và hành động của chúng ta. Nhờ được thấm nhuần Lòng Chúa thương xót, người Kitô hữu trở nên chứng nhân của Lòng Chúa xót thương.
Đã hẳn lòng thương xót của Thiên Chúa đã được thể hiện trước muôn dân qua mầu nhiệm Thánh Giá PS 2-ABC416
Đã hẳn lòng thương xót của Thiên Chúa đã được thể hiện trước muôn dân qua mầu nhiệm Thánh Giá của Đức Giêsu chịu đóng đinh, nhưng xem ra Đấng chịu đóng đinh ấy, sau khi sống lại từ cõi chết vẫn không muốn rời xa lòng thương xót bao la, đời đời của Ngài, qua những lần hiện ra với các môn đệ với thân xác còn nguyên vẹn những thương tích cuộc tử nạn.
Không rời xa lòng thương xót khi Ngài đến và đứng giữa các môn đệ, trong lúc cửa nhà các ông đóng kín, vì sợ người Do Thái với thân xác còn nguyên vẹn các dấu đinh trên tay chân và dấu đòng hoắm sâu bên cạnh sườn còn rướm máu.
Sở dĩ Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ với thân xác tuy đã sống lại vinh hiển nhưng vẫn loang lổ những thương tích cuộc tử nạn, vì Ngài muốn tỏ cho các ông biết đây mới thực là giờ chiến thắng của lòng thương xót, mới là thời đại huy hoàng của lòng thương xót, mới là mùa rực rỡ hoa Lòng Thương Xót, vì nhờ Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà sự sống đã hoàn toàn chiến thắng thần chết, và thập giá đã vĩnh viễn chiến thắng địa ngục, như được ghi trong sách Khải Huyền: “Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chià khóa của Tử Thần và Âm Phủ” (Kh 1, 17-18).
Mang trên mình đầy thương tích của lòng thương xót, Đức Giêsu sống lại từ cõi chết đã không chỉ ban bình an phục sinh của Ngài cho các môn đệ khi nói với các ông: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19), như chiến công hiển hách sau trận chiến chống lại ganh ghét, hận thù, bạo lực, mà còn ban ơn tha tội cho mọi người, khi “thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22), là Thánh Thần Tình Yêu, Thần Khí hoan lạc, hy vọng của Thiên Chúa, và sai các ông ra đi với sứ vụ thực hiện lòng thương xót của Thiên Chúa, khi nhân danh Thiên Chúa tha tội cho mọi người (x. Ga 20,23).
Lòng thương xót ở Đức Giêsu phục sinh còn được bày tỏ khi Ngài nhẫn nại chịu đựng sự cứng lòng của tông đồ Tôma, người đã khăng khăng phủ nhận sự việc “Chúng tôi đã được thấy Chúa” (Ga 20, 25) của toàn thể anh em, và ngạo nghễ tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).
Và lòng thương xót một lần nữa được Đức Giêsu quả quyết là ơn đổi mới tâm hồn, có sức làm cho qủa tim chai đá biến thành qủa tim bằng thịt (x. Ed 36,) khi âu yếm bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27).
Quả thực, phần đông chúng ta ít quan tâm đến những “phép lạ” kín đáo, âm thầm, nhẹ nhàng của lòng thương xót được Chúa thực hiện một cách sống động, cụ thể trong đời sống, qua những người anh em bé nhỏ, yếu đuối ở ngay bên cạnh, mà chỉ háo hức đi tìm những “điềm thiêng dấu lạ” mang tính ma mị, giả tạo, hoành tráng, ồn ào bên ngoài của thế gian, như Tôma đã cứng lòng không tin vào lời của anh em tông đồ kể cho ông về một Thiên Chúa phục sinh với thân xác còn nguyên vẹn những vết thương của cuộc tử nạn, bởi ông không mong chờ một Thiên Chúa phục sinh “yếu đuối và mang đầy thương tích của lòng thương xót như thế”, nhưng ngóng đợi một Thiên Chúa phục sinh hiển hách, oai hùng, không còn dấu tích tang thương của Thánh Giá lòng thương xót.
Biết Tôma cứng lòng không hẳn vì không tin anh em, nhưng vì điều anh em nói về Thầy trái với điều ông mong ước và suy nghĩ: nếu Thầy thực sự sống lại, Thầy sẽ không còn mang thân xác đầy thương tích của cuộc tử nạn, vì đó là dấu chứng của yếu đuối, thất bại, nên Đức Giêsu đã nói riêng với Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy”, như muốn nhắc nhở ông: Thầy vẫn mãi mang thân xác đầy thương tích Thánh Giá để nói lên lòng thương xót vô cùng, vô tận, không bao giờ lay chuyển, và tồn tại muôn đời của Thầy để mọi người nhận được ơn cứu sống, nếu tin vào lòng thương xót của Thầy, và chính lòng thương xót ấy đang đổi mới trái tim chai đá, cứng cỏi, ương ngạnh của con.
Ước gì chúng ta cũng được phúc như tông đồ Tôma nhờ lòng thương xót Chúa mà thay lòng đổi dạ, để không còn chai lì thách thức, nhưng mang lấy tâm tình của người môn đệ đang ngụp lặn trong hạnh phúc được Thầy cảm thông phận yếu đuối, thương xót thân tội lụy, khi sấp mình thân thưa: “Lạy Chúa của con, lậy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28) và khiêm hạ, tín thác lắng nghe Chúa nhủ bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
Câu chuyện đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm mà chúng ta đang tưởng nhớ và cử hành hôm nay PS 2-ABC417
Câu chuyện đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm mà chúng ta đang tưởng nhớ và cử hành hôm nay là câu chuyện Đức Giêsu thành Nadarét chết và sống lại, chuyện thật như bịa, chuyện có một không hai trong lịch sử nhân loại, chuyện quá mới mẻ gây ngạc nhiên đến mức không thể tưởng tượng, không thể tin nổi!
Quả thế, sau khi thấy thầy Giêsu bị treo trên cây thập giá và chết một cách nhục nhã đau đớn, các Tông Đồ trong đó có Tôma thất vọng và bỏ cuộc. Niềm tin của họ bị khủng hoảng. Chỉ có con đường duy nhất là “về vườn” để kiếm sống. Việc Chúa sống lại là chuyện “động trời,” không ai dám nghĩ tới.
Tuy nhiên, chính Đấng Phục Sinh đã hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emmaus, và với nhiều Tông Đồ khác khi họ họp mặt. Trong những lần đó, Tôma (biệt danh là Điđimô) không có mặt. Họ kể lại: “Chúng tôi đã được thấy Chúa” (Ga 20,22). Nhưng Tôma vẫn không tin nếu không trực tiếp nhìn thấy các dấu đinh của Người (x. Ga 20,24). Tám ngày sau, họ lại họp nhau và có Tôma ở đó. Chúa hiện ra và tỏ cho ông thấy các dấu đinh. Tôma mới tin và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,29).
2- Ý nghĩa của biến cố phục sinh
Qua biến cố phục sinh, chúng ta rút ra những ý nghĩa sau đây:
1) Việc Chúa Giêsu chết bày tỏ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa. Còn việc Chúa sống lại minh chứng quyền năng cứu độ của Người. Thiên Chúa chiến thắng sự dữ và thần chết. Nhờ sự vâng phục, Đức Kitô được Thiên Chúa Cha siêu thăng, tặng ban danh hiệu là “Đức Chúa và là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát” của nhân loại. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ cho chúng ta (x. Cv 4,12).
Vì thế, trong Thông Điệp Dives in Misericordia, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố phục sinh, thập giá không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Ðấng tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Người đối với con nguời. Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa” (số 7).
2) Đức Kitô Phục Sinh củng cố niềm tin cho các môn đệ và cho chúng ta. Như thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả Đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Nếu Chúa không sống lại, sẽ không có Giáo Hội và không có cộng đoàn chúng ta như hôm nay. 3) Đức Kitô Phục Sinh chính là sứ giả của Lòng Thương Xót Chúa. Người mang đến cho các môn đệ và cho chúng ta những ân huệ mới: đó là sự bình an, Chúa Thánh Thần và ơn tha thứ.
Vì thế, mỗi lần Chúa hiện ra đều nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,21). Có Chúa Phục Sinh là có sự bình an. Có bình an là có tất cả. Sự bình an này quý giá, giúp chúng ta vững vàng trước mọi gian nan thử thách.
Đức Giêsu thổi hơi và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúng ta nhớ lại, khi sáng tạo con người, Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam, nhờ đó, ông có sự sống. Cũng vậy, trong những lần hiện ra, Đấng Phục Sinh thổi hơi và ban Thánh Thần cho các Tông Đồ, để họ có sự sống mới. Đây quả là cuộc tạo dựng mới. Chúa Thánh Thần là Quà Tặng của Đấng Phục Sinh. Việc Chúa “thổi hơi và ban Thánh Thần” là ban cho Giáo Hội sự sống mới và sức mạnh mới.
Đấng Phục Sinh còn sai Giáo Hội ra đi với quyền tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (Ga 20,23). Tha thứ là dấu chỉ rõ ràng về lòng thương xót vô bờ bến của Chúa, được thể hiện qua bí tích Hòa Giải.
3- Sứ giả lòng Thương Xót Chúa
Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa. Một ngày nọ, Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina Kowalska, sứ giả của Lòng Thương Xót, rằng: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi biết tin vào Lòng Thương Xót Chúa” (Nhật Ký, 300). Lòng Thương Xót là tặng phẩm mà Giáo Hội nhận từ Đức Kitô Phục Sinh và trao ban cho nhân loại ngay khi khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba. Mầu nhiệm của Lòng Thương Xót đã thay đổi tận gốc số phận của nhân loại.
Thánh nữ Faustina thấy phát ra hai tia sáng từ Thánh Tâm Chúa chiếu tỏa thế gian một cách dịu dàng. Theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ: “Hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước.” Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, là bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3,5; 4,14). Những tia sáng từ lòng nhân từ Chúa ban là niềm hy vọng đặc biệt cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.
Mỗi Chúa Nhật đều là Chúa Nhật Lòng Thương Xót. Mỗi thánh lễ là nguồn mạch của Lòng Thương Xót. Bởi vì, thánh lễ tái hiện cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô để đền bù tội lỗi của chúng ta và toàn thế giới. Chúng ta được mời gọi hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để đón nhận Lòng Thương Xót Chúa. Hãy đến với bí tích Hòa Giải để lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nếu có ai cảm thấy mình quá yếu đuối và tội lỗi, thì hãy nhớ đến Lòng Thương Xót Chúa bao giờ cũng lớn lao hơn tội lỗi chúng ta. Chỉ có lòng thương xót Chúa ban cho chúng ta hy vọng chỗi dậy và tiến bước. Chúng ta hãy tín thác vào Chúa, đừng bao giờ sợ hãi, đừng bao giờ thất vọng!
Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại, Chúa đã mạc khải Lòng Thương Xót Chúa cho loài người. Chúng con tín thác vào Chúa: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới. Amen!
Chúa nhật II Phục sinh có nhiều tên gọi như “Chúa nhật áo trắng” vì các tân tòng mặc áo trắng PS 2-ABC418
Chúa nhật II Phục sinh có nhiều tên gọi như “Chúa nhật áo trắng” vì các tân tòng mặc áo trắng từ đêm Vọng Phục sinh tới hôm nay, cũng còn gọi “Chúa nhật của ông Tôma” vì Chúa hiện ra cho các tông đồ đặc biệt là cho ông Tôma, còn Đức giáo Hoàng Yoan Phaolô II đặt tên là “Chúa nhật về Lòng Thương xót Chúa”.
Tin mừng hôm nay ghi nhận hai lần hiện ra của Chúa Giêsu đều vào chiều ngày thứ nhất trong tuần: lần I vào chiều ngày Chúa sống lại và lần II đúng một tuần lễ sau cũng trong khung cảnh như Chúa nhật trước. Vì thế mà ngày nay chúng ta giữ ngày Chúa nhật: Ngày Chúa sống lại và cũng là ngày Chúa hiện ra với tập thể các tông đồ.
– Lần I: chỉ có 10 tông đồ: Giuđa đã tự tử, Tôma không biết lí do gì vắng mặt. Các tông đồ họp lại trong căn phòng cửa đóng then cài: Tin mừng Gioan nói vì các ông sợ người Do thái, nói rõ hơn là vì sợ giáo quyền Do thái khi đó. Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa các ông. Lúc này thân xác Chúa Giêsu Phục sinh đã trở nên thân xác thần thiêng nên cửa đóng, Chúa vẫn đi qua được. Chúa chúc bình an cho các ông. Điều đặc biệt trong lần hiện ra này là Chúa Giêsu cho các ông xem tay và cạnh sườn Chúa: xem tay và cạnh sườn tức là Chúa cho xem các vết thương do cuộc tử nạn mà chúng ta thường gọi là năm dấu đinh để cho các tông đồ biết rằng Chúa Giêsu Phục sinh cũng là chính Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh thập giá. Các ông vui mừng vì được gặp lại và xem thấy Chúa. Chúa Phục sinh là niềm vui cho chính Chúa và Chúa lan tỏa niềm vui đó trước hết cho các tông đồ rồi cho mọi người tin Chúa.
Trong lần hiện ra đầu tiên cho tập thể các tông đồ, hai lần Chúa chúc bình an cho các ông. Chúng ta liên tưởng tới Đêm Giáng Sinh, các thiên thần Chúa cũng chúc bình an cho người thiện tâm, để rồi cùng với lời chúc bình an, Chúa sai các ông đi trong sứ mạng làm chứng cho Chúa: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” đồng thời Chúa ban Chúa Thánh Thần qua lời: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” Các tông đồ nhận Chúa Thánh thần kèm theo quyền được tha tội và quyền cầm buộc: “Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì tội người ấy bị cầm lại” Như vậy Chúa Giêsu hiện ra không chỉ để các ông được nhìn thấy Chúa sống lại mà còn để trao sứ mạng làm chứng, cùng với quyền tha tội cho các tông đồ nữa.
Lần II: Có ông Tôma. Tôma không tin Chúa Giêsu đã sống lại dù các bạn đã làm chứng: “Chúng tôi đã thấy Chúa”. Ông đòi chính ông phải được kiểm chứng bằng mắt thấy và tay sờ vào các vết đinh của Chúa. Yêu sách của ông có phần gay gắt nhưng Chúa Giêsu vẫn chấp nhận đòi hỏi này. Chiều Chúa nhật sau, Chúa lại hiện ra cũng trong khung cảnh như chiều Chúa nhật trước: là cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu vào và đứng giữa các ông cũng với lời chào chúc:”Bình an cho các con”. Rồi Chúa kêu ông Tôma tới và cho ông làm theo yêu sách của ông như lời Chúa nói: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng nhưng hãy tin” Tôma đã được thấy Chúa. Chắc chắn ông xúc động vì Chúa yêu thương và quan tâm tới mình. Không biết lúc này ông có làm như ông đã yêu sách không nhưng ông đã tin và xưng ra đức tin bằng lời tuyên xưng rạng rỡ: “Lạy Chúa con, Lạy Thiên Chúa của con” Qua lời này chúng ta thấy không những ông tin Chúa sống lại mà còn tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa của mình tức là ông nhận ra Thần tính của Chúa Giêsu. Như thế Tôma là người tin Chúa sống lại sau các tông đồ khác nhưng ông lại là người đầu tiên xưng ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Điều rất khích lệ và an ủi cho chúng ta là sau khi Chúa Giêsu chấp nhận lòng tin của Tôma, Chúa hướng về các thế hệ sau khi nói: “Tôma vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Ngày nay chúng ta không đòi phải được nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh như các tông đồ nhưng chúng ta vẫn tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại thật và đó là mối phúc lớn cho chúng ta vì đức tin của chúng ta là đức tin tông truyền tức là do các tông đồ truyền lại. Các tông đồ cả ông Tôma nữa vì là nhân chứng nên họ cần phải nhìn thấy Chúa Giêsu sống lại: như lời thánh Phêrô: “Chúng tôi là những chứng nhân Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với người sau khi Người từ cõi chết sống lại (Cv 10,41)”
Ngày 30/4/2000 nhân lễ phong thánh cho chị nữ tu M. Faustina Kowalska, Đức giáo hoàng Yoan Phaolô II đã tuyên bố Chúa Nhật II Phục sinh sẽ được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa. Nên nhớ năm 1931, thánh M. Faustina được Chúa Giêsu mặc khải về Lòng Thương xót. Chúa dạy chị vẽ tấm hình Chúa mặc áo dài trắng, bàn tay phải dơ lên ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực: từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ tượng trưng bí tích Thánh Thể và bí tích Rửa tội cùng với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Người”.
Chúng ta kính nhớ Lòng thương xót Chúa và noi gương Chúa, chúng ta thể hiện Lòng thương xót đối với anh em như lời Chúa dạy: “Phúc cho những ai thương xót người vì họ sẽ được xót thương (Mt 5,7)”. Amen.
Khi nói về thánh Tôma, thường chúng ta hay gán cho ngài là kẻ cứng lòng tin. Chính vì thế PS 2-ABC419
Khi nói về thánh Tôma, thường chúng ta hay gán cho ngài là kẻ cứng lòng tin. Chính vì thế, trong đời thường, gặp một ai còn xa rời đức tin, hay lạnh nhạt khi được nói về đức tin, hay tỏ ra ngoan cố trong việc lười biếng, bỏ bê việc đạo hạnh, người ta thường ví von so sánh họ: “Cứng lòng như Tôma”.
Thật ra, nơi đức tin và lòng mến của thánh Tôma với Chúa, nếu chúng ta chịu khó đào sâu, sẽ thấy đó là cả một bài học vô giá giúp ta sống đức tin của mình.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lổ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Qua câu nói, ta thấy thánh Tôma là người thực tiễn. Thái độ thực tiễn của thánh Tôma là câu trả lời khả dĩ cho đức tin vào Chúa Phục Sinh của thời đại thực nghiệm của chúng ta hôm nay.
Nhờ thánh nhân lên tiếng, ta mới thấy rõ hơn thế nào là sự trăn trở, sự giằng vặt của đức tin mà nỗ lực cá nhân của chính ta có thể đáp lại mạc khải của Chúa.
Cũng chính nhờ thánh nhân, Hội Thánh có một bằng chứng xác thực cho tất cả những ai nghi ngờ về đức tin Phục Sinh của người Công Giáo: Bởi Chúa Giêsu đã đáp ứng đòi hỏi của thánh Tôma: Tám ngày sau, Chúa đã hiện ra với tất cả mọi bằng chứng rõ ràng nhất mà thánh Tôma đã từng đòi hỏi.
Chúa đã đánh đổ thách thức của thánh Tôma, qua đó, Chúa đánh đổ mọi nghi ngờ của con người thực nghiệm thời nay: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin”.
Trước bằng chứng hùng hồn về tất cả nơi Chúa Phục Sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu thừa nhận. Thánh nhân tuyên xưng đức tin bằng một lời tuyên xưng long trọng, đầy tư cách cá nhân của chính mình với Chúa Phục Sinh của mình: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Là Kitô hữu, chúng ta đã tin chắc chắn Chúa đã phục sinh. Vậy chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa: sống một cách yêu thương, hòa dịu với mọi người. Ta dẹp bỏ thói ích kỷ, tính tranh giành, vụ lợi.
Ta cần luôn chú tâm xả thân phục vụ những lợi ích chung như thực hành các công tác trong giáo xứ, các công trình phúc lợi của xã hội, thực hành đức bác ái mọi nơi, mọi lúc…
Đặc biệt, qua tất cả công việc, trong hết mọi ngày đời ta, ta luôn nghĩ đến việc truyền giáo, để làm cho mọi người tin Chúa, thờ phượng Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin hãy mở cho chúng con đôi mắt, để chúng con nhận ra Chúa qua tất cả mọi biến cố của đời sống.
Xin làm cho nhiều người còn chưa biết Chúa, được nhận biết và tôn thờ Chúa, nhờ đó, Nước Chúa phát triển khắp nơi trên thế giới này.
Xin cho những ai đã thờ phượng Chúa, nhưng sai lạc trong đức tin, biết mau chóng trở về, nhìn nhận một mình Chúa duy nhất là Đấng có sự sống đời đời mà thôi. Amen.
Chúng ta không thể hiểu thấu thánh ý mầu nhiệm về sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa PS 2-ABC420
Chúng ta không thể hiểu thấu thánh ý mầu nhiệm về sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu Bà Êva không ăn trái cấm thì chúng ta không được đón Chúa Giêsu nhập thể và nhập thế, vì vậy Giáo Hội gọi đó là Tội Hồng Phúc; nếu Giuđa không bán Chúa thì chúng ta không được hưởng nhờ Bửu Huyết Vô Giá của Ngài; và nếu tông đồ Tôma không cứng lòng tin thì chúng ta không dám tin chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại thật.
Tất cả là hồng ân. Chúng ta chỉ biết cúi đầu cảm tạ và tuân hành thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Có vậy thì tâm hồn mới bình an. Sự bình an luôn là điều cần thiết ở mọi nơi và mọi lúc, nhất là trong xã hội bất ổn, bất an, xáo trộn, rắc rối,… ngày nay.
Rõ ràng nhất là đại dịch vẫn rình rập đêm ngày, chúng ta thực sự bất ổn nhiều phương diện. Được bình an hay không bình an đều có liên quan sự chọn lựa, mà sự chọn lựa lại có liên quan sự tự do. Thánh GH Gioan Phaolô II định nghĩa: “Tự do KHÔNG có nghĩa là LÀM điều chúng ta THÍCH, mà là CÓ QUYỀN LÀM điều chúng ta PHẢI LÀM.” Thánh LM Gioan Kim Khẩu nói: “Sau khi đặt sự thiện và sự dữ trong khả năng của chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta QUYỀN TỰ DO để lựa chọn. Người KHÔNG CHẤP NHẬN những gì MIỄN CƯỠNG, nhưng ĐÓN NHẬN những gì TỰ NGUYỆN.” Tự do cũng có giới hạn trong phạm vi hợp lý, tự do phải được hiểu chính xác theo ý Chúa. Quả thật, chính sự tự do cũng có giới hạn nhất định của nó.
Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) cũng là mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu bằng trí tuệ phàm nhân. Vì yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu chấp nhận mọi đau khổ, mặc dù nhân tính, Ngài cũng rất sợ phải uống chén đắng, Ngài muốn được bỏ qua nhưng Ngài vẫn muốn tuân phục thánh ý Chúa Cha. Và Ngài đã uống cạn “chén đắng” đó. Trên Thánh Giá, Ngài còn chịu mọi sỉ nhục, nhưng Ngài vẫn xin tha thứ cho những kẻ thủ ác.
Và mọi sự đã thay đổi! Thánh LM Gioan Kim khẩu nói: “Cây Thánh Giá là hy vọng của Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù lòa, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kềm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng vượt trên ma quỷ, là người chỉ đạo cho thanh niên, là bánh lái cho người vượt sóng, là cửa biển cho người đi xa, là thành lũy cho người bị vây hãm.”
Chúa Giêsu là Đấng vô tội nhưng đã bị vu cáo, là Đấng Công chính nhưng đã bị kết án, là Đấng chí thánh nhưng đã bị đày ải, là Vua trời đất nhưng đã bị hành hạ nhục nhã và bị đóng đinh chết tất tưởi, là Con Thiên Chúa toàn năng nhưng đã bị thóa mạ, bị chà đạp và bị từ chối, là Ánh Sáng nhưng đã bị tối tăm vây phủ, là Đấng vô cùng cao sang nhưng đã bị trần truồng tủi hổ, chịu chết treo trên hai miếng gỗ, là Sự Sống nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng, là Sự Chết nhưng cũng chính là Sự Sống Lại.
Quyền năng Thiên Chúa thực hiện qua các Tông Đồ, cho chúng ta biết về qua trình thuật Cv 5:12-16: “Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông Đồ. Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông, đàn bà rất đông. Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.”
Lời kể ngắn gọn nhưng cho thấy đầy đủ các dạng phép lạ như chính Chúa Giêsu đã làm trong ba năm rao giảng công khai. Ngày nay, các phép lạ thực sự cũng vẫn xảy ra qua lời cầu bầu của các tôi trung của Chúa, chẳng hạn ngay tại Việt Nam có LM P.X. Trương Bửu Diệp. Rất nhiều người hàng ngày đến Tắc Sậy để cầu xin ngài nguyện giúp cầu thay, trong số những người đến cầu xin ngài có nhiều người là dân ngoại. Đó là minh chứng hùng hồn và sống động về tôn giáo do chính Đức Kitô Giêsu thiết lập. LCTX vẫn trải qua từ đời nọ đến đời kia, như lời xác nhận của Đức Maria trong “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat – Lc 1:50).
Thánh Vịnh gia minh định: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:2-4) LCTX bao la và không hề thay đổi. Mỗi người trong chúng ta cũng đã, đang và sẽ đón nhận LCTX. Đó là điều không thể chối cãi hoặc phủ nhận, đơn giản nhất là không khí. Thiếu không khí thì chúng ta không thể sống, không khí loãng hoặc đặc lại một chút thì chúng ta cũng chết chắc! Đấng Thương Xót bị khước từ nhưng người ta vẫn phải công nhận, người ta hả hê nhạo cười và coi Ngài là thua cuộc nhưng Ngài đã vinh thắng, Ngài bị giết chết nhưng Ngài đã sống lại: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.” (Tv 118:22-24)
Ngày nay, chúng ta cũng vẫn đồng lõa trong “vụ án Giêsu,” nhưng Đấng Thương Xót vẫn bênh vực và cho rằng chúng ta lầm. (x. Lc 23:34) Thật là diễm phúc, vì thế mà chúng ta không thể không cầu xin: “Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy Chúa, xin thương giúp thành công. Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa. Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em.” (Tv 118:25-26)
Thánh Gioan, người được Chúa yêu, đã kể lại thị kiến qua trình thuật Kh 1:9-13, 17-19. Đó là ngày của Chúa, ông nghe đằng sau có một tiếng lớn như thể tiếng kèn, nói rằng hãy ghi điều đã thấy vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a. Ông quay lại để xem tiếng ai nói thì thấy bảy cây đèn vàng, ở giữa các cây đèn có ai giống như Con Người mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.
Thánh Gioan xác định: “Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy.” Nhưng rồi Người đặt tay hữu lên Gioan và động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ. Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này. Đây là ý nghĩa mầu nhiệm của bảy ngôi sao ngươi đã thấy trên tay hữu Ta, và của bảy cây đèn vàng: bảy ngôi sao là các thiên thần của bảy Hội Thánh, và bảy cây đèn là bảy Hội Thánh.”
Thật là lạ lùng, thật là mầu nhiệm, phàm nhân không thể hiểu nổi. Chính Thiên Chúa toàn năng làm nên mọi sự, biến không thành có. Và tất nhiên Ngài cũng có thể biến có thành không. Ngài toàn năng, hằng hữu, và là Thiên Chúa duy nhất.
Trình thuật Ga 20:19-31 (≈ Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49) cho biết về việc Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, tức là chiều ngày phục sinh, nơi các môn đệ ở đều đóng kín các cửa, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và chúc bình an cho họ. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Họ rất vui mừng vì được thấy Ngài nhãn tiền. Rồi Ngài nói với họ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Rồi Ngài thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” Họ đầy ơn Chúa Thánh Thần và có thể làm những gì Thầy Giêsu cho phép – cử hành các bí tích nhân danh Ngài.
Thế nhưng lúc đó chỉ có 10 môn đệ, vắng mặt Tôma – Điđymô. Các môn đệ khác kể cho Tôma về việc được diện kiến Thầy-Giêsu-phục-sinh, nhưng ông không tin và xác định: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”
Một tuần sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Ngài bảo ông Tôma đặt ngón tay vào vết thương ở cạnh sườn, nhìn xem tay Ngài, và bảo ông đừng cứng lòng nhưng hãy tin. Nhãn tiền thấy Thầy, ông Tôma vội thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Có lẽ ông Tôma chẳng dám kiểm chứng đâu. Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Đó là mối phúc mà tất cả chúng ta đang thừa kế. Thật là diễm phúc vô cùng!
Lần nào hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu cũng chúc bình an. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của sự bình an. Hằng ngày, khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng được mời gọi chúc bình an cho nhau. Bình an là điều cần thiết đối với mọi người, ở mọi nơi và mọi lúc.
Thánh Gioan kết luận: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà được SỰ SỐNG nhờ danh Người.” Như vậy, tin là bí quyết để được thương xót và được cứu độ. Còn Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho bạn được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.” (2 Tm 1:2)
Có nhiều cách thể hiện LTX, có thể dùng “nguyên tắc 4T” làm tiêu chuẩn: Tín Thác, Thỉnh Cầu, Thương Xót, và Tha Thứ. Cử hành Đại lễ LCTX theo lệnh Chúa Giêsu truyền, mỗi chúng ta cùng chân thành tái xác định: “Jezu ufam Tobie – Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài.” Thương xót là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người – Bởi vì sẽ được Chúa Trời xót thương.” (Mt 5:7)
Lạy Thiên Chúa tình yêu, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, luôn ẩn náu nơi Thánh Tâm Ngài, biết thương xót nhau chân thành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình thầy trò chưa cạn, ngày PS 2-ABC421
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình thầy trò chưa cạn, ngày mà các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ người Do Thái như Tin Mừng Gioan mô tả. Bỗng Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh, đã phục sinh! Người đứng giữa những người đang thương tiếc Người, đang khóa mình sau những cánh cửa đóng kín, đầy sợ hãi, đau khổ và nói: “Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Người chỉ ra những vết thương ở đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi sống lại. Người không phải là ma; nhưng thực sự là Thầy của các ông đã chết treo trên thập tự giá và được an táng trong mồ. Trước con mắt ngờ vực của các môn đệ, Chúa lặp lại: “Bình an cho các con!“.
“Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Ðây không phải là một lời chào, cũng không phải là một lời cầu chúc đơn sơ, nhưng là ơn quí trọng Chúa Kitô Phục Sinh cống hiến cho các mộn đệ sau khi đã trải qua cái chết thương đau. “Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Đây là hồng ân phát sinh từ những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Người trao ban bình an cho các môn đệ như lời Người đã hứa: “Thầy ban bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27). Bình an này là chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh, hoa trái tình yêu của Thiên Chúa trên sự dữ và tha thứ. Các môn đệ hết sức vui mừng khi Chúa trao ban bình an. Sợ hãi cũng biến mất nơi các ông. Đúng thế, đây là bình an đích thực, bình an sâu thẳm đến từ trái tim xót thương của Thiên Chúa. Cùng với sự trao ban ơn bình an, Đức Kitô Phục Sinh cũng trao Thánh Thần cho các Tông Ðồ để các ngài chuyển cho thế giới ơn tha thứ tội lỗi, ơn mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban, vì nó đã được trả bằng giá Máu của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa (x. Ga 20,21-23). Bình an mang lại sự tha thứ cho các ông và qua các ông, người khác cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi. Tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an.
Không hiểu sao buổi chiều hôm ấy, Tôma đi đâu mà vắng mặt lúc Thầy viếng thăm, dẫn đến lời tuyên bố trước anh em rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin” (Ga 20,25). Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các ông, có Tôma ở đó. Chúa Giêsu nói với Tôma, mời ông nhìn các vết thương của Ngài và sờ vào chúng, Tôma kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Ga 20,28). Chúa Giêsu nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20,29). Chúng ta có thể gọi là mối phúc của lòng tin.
Những người đã không trông thấy nhưng đã tin đó là là các môn đệ, các người nam nữ khác của thành Giêsusalem, dù đã không gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh, nhưng đã tin vào chứng tá của các Tông Ðồ và các phụ nữ.
Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Đức Thánh Cha Phanxicô xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).
Chúng ta tự hỏi: Thế giới đang cần gì? Nước Việt nam cần gì? Bản thân chúng ta cần gì? Thưa: Lòng thương xót !
Hàng ngày, trên các phương tiện truyền thông báo chí, chúng ta vẫn nghe chiến tranh tại Ucraina. Vậy nhân loại cần gì? Thưa: Lòng thương xót, chỉ có lòng thương xót của Thiên Chúa mới cứu con người khỏi chiến tranh. Và lòng thương xót Chúa phải đi đôi với lòng thương xót của chúng ta. Tình yêu là tên gọi thứ hai của lòng thương xót. Nếu con người biết yêu thương nhau, thì con người mới xứng đáng lãnh được lòng thương xót của Chúa, và chiến tranh mới lui dần. Con người càng thương xót nhau, càng yêu thương nhau, thì chiến tranh càng bị đẩy lùi. Vì vậy chúng ta phải thành thật nhận lỗi của mình thì chúng ta mới có thể thể hiện được lòng thương xót của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin thương xót chúng con và ban bình an cho thế giới. Amen.
Có một người bạn bác sĩ phẫu thuật nói rằng: Tôi đã thấy nhiều người đối phó với cơn đau một PS 2-ABC422
Có một người bạn bác sĩ phẫu thuật nói rằng: Tôi đã thấy nhiều người đối phó với cơn đau một cách rất khác nhau. Một số người tức giận xa lánh Thượng Đế, trong khi những người khác để cho nỗi đau đớn của họ mang họ đến gần Thượng Đế hơn.
Thực ra, không có nỗi đau nào mà chúng ta phải chịu đựng hay trải qua đều vô ích cả. Những điều này rèn luyện chúng ta những đức tính như tính kiên nhẫn, đức tin, sức dũng cảm chịu đựng và lòng khiêm nhường. …
Đối với người Công Giáo thì đây còn là cơ hội nhận ra sự nhỏ bé của chính mình mà biết bám vào Thiên Chúa đầy quyền năng và giầu lòng thương xót. Trong suốt 3 năm rao giảng Tin mừng , Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh như các bác sĩ hay lương y, nghĩa là loại bỏ bệnh tật, ma quỉ ra khỏi con người, nhưng còn mang vào mình, hay nói đúng hơn, Người chữa lành bằng cách mang vào mình mọi bệnh hoạn tật nguyền của con người. Thật vậy, khi chiêm ngắm thân thể nát tan của Ngài trên Thập Giá, chúng ta hiểu được mầu nhiệm “mang vác” này của Đức Giê-su.“Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Từ nay bệnh tật không còn là một hình phạt nữa, nhưng là sự cứu chuộc. Bệnh tật liên kết chúng ta nên một với Người; bệnh tật thánh hóa, thanh luyện tâm hồn, chuẩn bị cho chúng ta đón nhận một ngày mà Thiên Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt và lúc đó sẽ không còn bệnh tật, khóc than và đau khổ nữa. Và như vậy, nơi Thập Giá, Ngài mang vào mình các thứ bệnh và cả cái chết do hệ lụy của tội Adam nữa, để từ Thập Giá một nguồn ân sủng tuôn trào thành Đại Dương Lòng Thương Xót chữa lành mọi bệnh tật hồn xác cho con người.
Chúa Nhật 2 mùa phục sinh là ngày Đại lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa. Chúa Giê-su đã mặc khải cho thánh nữ Faustina về Thánh Tâm Nhân Lành Chúa Giêsu và chọn gọi thánh nữ trở thành một khí cụ của Lòng Thương Xót chữa lành của Chúa. Ngài đã phán với Thánh nữ: “Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim lân tuất của Cha (x. NK 588). Và vào ngày Đại lễ của Cha, ngày lễ kính Lòng Thương Xót Cha, con hãy rảo khắp thế giới và đem các linh hồn đang lả mệt về với suối nguồn thương xót của Cha. Cha sẽ chữa lành và bổ túc cho họ (NK 206).
Như vậy, lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa là lễ của niềm vui vì được nhận ra tình thương của Chúa vẫn ấp ủ và theo sát chúng ta trên mọi nẻo đường. Vì Ngài biết rõ ràng và tường tận nỗi đau đớn của từng người chúng ta đang gánh chịu. Ngài sẽ mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến với lòng thương xót Chúa, hầu nhận lãnh những ân phúc thiêng liêng từ ân sủng Lòng Thương Xót Chúa tuôn trào từ cạnh sườn nương long Chúa. Hãy dìm mình trong đại dương ân sủng Chúa để được bảo vệ và chữa lành. Và với lòng tin yêu phó thác chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát:”Chúa giầu lòng xót thương” để ca tụng tôn vinh và cầu xin cùng Lòng thương xót Chúa.
Lạy Chúa Giêsu con tin tưởng nơi Chúa. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Vì ngoài lòng Chúa xót thương, không còn nguồn hy vọng nào. Chúng con đặt vào Chúa lòng tín thác của mỗi chúng con. Nhân loại hôm nay đang trải qua bao là sự dữ. Con người hôm nay đang sống trong tuyệt vọng lo â. Chúng con đến kêu cầu Chúa giàu lòng xót thương. Ngài mở ra con đường, đưa đến tận nguồn suối yêu thương.
Nhóm Pharise và Kinh Sư phê bình, chỉ trích môn đệ Đức Kitô không giữ luật ăn chay. Đức Kitô PS 2-ABC423
Nhóm Pharise và Kinh Sư phê bình, chỉ trích môn đệ Đức Kitô không giữ luật ăn chay. Đức Kitô đáp,
‘Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi, ngày đó, họ mới ăn chay’. Lc 5,35.
Với Đức Kitô, ‘ngày đó’ thường được Đức Kitô nhắc đến là ‘Giờ Ta chưa đến’. Đó là ngày Đức Kitô để cho quân dữ bắt. Đối với tông đồ ‘ngày đó’ là thời gian các ông sống trong than khóc, lo âu, sợ hãi. Sợ lãnh đạo Do Thái bủa lưới, vây bắt đánh đập và giết chết. Đối diện với tương lai đen tối, cộng thêm mặc cảm tội lỗi chối Thầy các ông rất buồn sầu. Nhớ lại trong bữa Tiệc Li, ai cũng can đảm đoan hứa sẽ trung thành với Thầy đến chết. Khi sự việc xảy ra tất cả đều nhanh chân chạy trốn, để mình Thầy bơ vơ giữa bầy lang sói. Các ông hành động theo phản xạ tự nhiên của con người. Gặp nguy hiểm là chạy trốn, tìm đường sống. Đây là hành động hướng dẫn bởi khối óc, không phải của con tim yêu mến.
Sau ba ngày khóc than, các ông nhận lại được sự sống mới. Đức Kitô thương nhớ các ông và các ông thương nhớ Ngài. Sau khi trỗi dậy từ cõi chết, Đức Kitô không phí một phút nào, Ngài tìm gặp môn đệ. Điều này cho thấy môn đệ chiếm một vị trí quan trong trong con tim Đức Kitô. Ngài yêu mến, chăm lo, coi sóc, bảo vệ các ông. Đức Kitô không gặp bất cứ trở ngại nào trong việc kiếm nơi các ông lẩn trốn, và cũng không gặp trở ngại đi qua cửa đóng, then cài. Nghe lời chào bình an, giọng nói quen thuộc, các ông nhận ngay ra Thầy. Điều các ông lo buồn đã không xảy ra. Đức Kitô không hề đá động gì đến việc các ông thất hứa, trốn chạy. Thay vào đó Ngài mang đến cho các ông ơn bình an, hy vọng. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn để các ông nhận ra Ngài chính là Đức Kitô Phục Sinh, cùng một Đức Kitô trước và sau cuộc khổ nạn. Ơn bình an Đức Kitô trao ban là ơn đặc biệt. Ngài là Đấng duy nhất làm chủ món quà bình an Phục Sinh. Ai nhận được ơn bình an Phục Sinh, con tim người đó cảm thấy thảnh thơi, an bình, thoải mái, tin yêu, tràn đầy hy vọng, bởi ơn đó luân chuyển toàn thể châu thân.
Lời chào ‘Bình an cho anh em’ cho biết con người bằng xương, bằng thịt có thể nhận được ơn bình an Phục Sinh từ trời cao ban tặng. Trước khi sai môn đệ đi truyền rao Tin Mừng Phục Sinh, một lần nữa Đức Kitô nói với các ông,
‘Bình an cho anh em’. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.
Nói xong Ngài thổi hơi, ban Thánh Thần cho các ông. Trình thuật Sáng Thế Kí cho biết Chúa tạo dựng con người rồi thổi hơn ban cho con người sự sống. Đức Kitô thổi hơi ban cho môn đệ sức sống mới, đời sống mới. Từ nay các ông trở thành khuôn mặt mới của Đức Kitô. Với con tim mới, các ông là chân, là tay nối dài của Đức Kitô mang Tin Mừng Phục Sinh đến cho muôn dân. Thổi hơi đây chính là ban Thánh Thần, Đấng luôn là bạn đồng hành, hướng dẫn, chỉ bảo, dậy dỗ giúp các ông hiểu sâu hơn về mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
Lần đầu Đức Kitô hiện ra, vì một lí do nào đó, Thoma vắng mặt. Tuần sau, Ngài lại đến với các ông, và nói với Thoma,
‘Hãy nhìn xem tay Thầy và cạnh sườn Thầy’ Lc 20,27. Thoma thưa ‘Lậy Chúa của con, lậy Thiên Chúa của con’ Gn 20,28.
Câu trên Thoma tuyên xưng niềm tin hai lần. ‘Lậy Chúa của con’ chính là nói về nhân tính của Đức Kitô; ‘Lậy Thiên Chúa của con’ chính là nói về thiên tính của Đức Kitô. Như thế Thoma tuyên xưng Đức Kitô vừa là con người thật, vừa là Thiên Chúa thật.
Đức Kitô hiện ra với môn đệ và điều này thay đổi cuộc sống các ông, đang từ lo âu, buồn phiền, sợ hãi, các ông trở nên con người mới, sức sống mới, niềm tin mới, tương lai tươi sáng trong niềm hy vọng Phục Sinh. Đức Kitô nói với Thoma,
‘Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin’ Gn 20,29.
Chúng ta tin theo Đức Kitô không phải vì thấy mà dựa vào tường thuật, lẫn niềm tin của các tông đồ. Chúng ta là người có phúc, không trực tiếp nghe lời rao giảng của chính Đức Kitô, nhưng nghe, tin theo, nghe lời Đức Kitô Phục Sinh ghi lại trong Kinh Thánh. Nguồn hạnh phúc này trở nên vẹn toàn khi mỗi người trong chúng ta mang con tim mơí, trở thành khuôn mặt Đức Kitô Phục Sinh, trở thành tay, thành chân, nối dài của Đức Kitô Phục Sinh.
Các học trò Khổng Tử, bạch thầy: nếu chậm, chẳng thông minh, sức khoẻ bình thường, liệu có PS 2-ABC424
Các học trò Khổng Tử, bạch thầy: nếu chậm, chẳng thông minh, sức khoẻ bình thường, liệu có tu tập để thành “chánh quả” được không ? Khổng Tử nhìn các học trò rồi nói: dù chậm, không tài giỏi, dù bản thân giới hạn, nhưng ý thức được mình là ai, cứ từng bước từng bước tiến, đừng bỏ cuộc, rồi các con sẽ đến đích thành công, hạnh phúc. Thời nào cũng xuất hiện bậc hiền nhân quân tử, người học trò nói chung là ước muốn thành tài thành danh, tuy nhiên, ở đời vẫn cho rằng: trên bước đường thành công, không thể có dấu chân kẻ lười biếng. Trở nên người hữu ích, được thành “chánh quả”, là điều có thực, khi ta đủ bình tĩnh: biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. (Tôn Tử). Đó cũng là câu trả lời, tại sao yêu thầy mới được làm thầy, tại sao có yêu người mới thấy người yêu ta ? Tại sao lại có câu: tình yêu của bậc cha mẹ không bao giờ già nua, dù năm tháng có trôi qua.
Con người tự nhiên, hướng tới sự hoàn hảo, muốn được sống theo phong cách riêng của mình, vẫn phải chấp nhận một thực tại: có sinh, có tử, có đau khổ, có hạnh phúc, đó là sự thật. Khéo ăn khéo ở, mưu cao, tiền nhiều, chưa chắc đã mang đến cuộc sống như ý, vì thế mà các đấng bậc cho thấy một kinh nghiệm: không phải thực lực, mà là tính kỷ luật đã làm nên những con người vĩ đại. Người Việt chúng ta thì có câu: nhìn lên, không bằng ai, nhìn xuống khối kẻ vất vả hơn ta nhiều, phải chăng có thành công, có nhận ra mình hạnh phúc, tất cả là nhờ cái “kính chiếu hậu” ? Các tông đồ cửa đóng then cài, vì các ông sợ người Do-thái, Đấng phục sinh đã yêu đến cùng, tiếp tục hiện diện trao ban bình an, mở trí mở lòng, chia sẻ niềm vui và sức sống mới cho các học trò. Chúng ta đang nhìn “kính chiếu hậu” theo tinh thần nào ? Gương sáng của cha mẹ ông bà, suy nghĩ về tình Thầy Giêsu vĩ đại, khiếp sợ, mừng vui, khi đối diện với Đấng sống lại từ cõi chết ? Bằng hành động tin yêu, Đấng phục sinh đang xoá tan mọi nghi ngờ, bằng tình hiệp thông cầu nguyện, Đấng phục sinh sẽ ban bình an, thổi sức sống vào tất cả những gì đã chết nơi con người tội lỗi chúng ta.
Còn đó lời Thầy: “khi nào ác ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai” ? “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vâng, có phải bụng đói, ví rỗng, trái tim tan vỡ là tồi tệ nhất không ? Hãy mạnh mẽ tin rằng: túng thiếu, khổ đau, tình phụ, luôn là những bài học quý giá, rèn luyện ta đứng lên, và đi những bước vững chắc hơn đến hạnh phúc ở phía trước. Các tông đồ đóng cửa phòng vì sợ, đóng cửa lòng vì phải chứng kiến một sự thật, Đấng mà đám đông dân chúng đã từng hoan hô, chúc tụng, rồi sau đó họ lại hô to: “đóng đi nó vào thập giá” ! Còn đó những lời yêu thương: “việc Thầy làm bây giờ các con không hiểu, nhưng sau sẽ hiểu. Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng sẽ rửa chân cho nhau”.
Nếu muốn biết sự thật về lòng thương xót của Thiên Chúa, hãy nhìn lên cây thập giá. Nếu muốn cảm nhận hạnh phúc tình thầy trò, phải vượt qua đau khổ thập giá để đến vinh quang, không thể đi đường tắt. Nếu muốn biết sự chân thật của phụ nữ là gì, hãy để họ khóc. Nếu muốn hiểu đàn ông con trai là gì, hãy để họ say. Nếu muốn biết, tại sao các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa phục sinh, lại là khởi đầu cho việc sống niềm tin, hãy đọc tiếp … “Bình an cho các con, như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán: các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Tình yêu của con người là có qua có lại, mới toại lòng nhau. Đâu phải vô tình mà cha ông ta nói: giầu tình yêu thương và quảng đại sẻ chia, ai chẳng quý, giầu tiền lắm của mà nhân ái với mọi người, ai chẳng mến phục. Tình yêu của Đấng phục sinh là bình an, khai thông mọi bế tắc, là tiếp tục trao ban. Có những người ta yêu mà ta không thể ở bên cạnh họ, có người họ yêu ta, mà ta lại dửng dưng như không hề hay biết.
Còn đó lời Thầy: “Toma, hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Đúng, cơ hội giống như bình minh, nếu chờ đợi quá lâu, có thể bạn bị lỡ nhịp. Cuộc sống đẹp là sự cân bằng giữa cho đi và nhận lại, buồn vui, tin và yêu, vẫn là sự tự do thiết thực mà người ta phải bày tỏ, minh chứng. Đấng phục sinh vì yêu, đã đáp ứng đòi hỏi của Toma, đã khích lệ từng tâm hồn đang bị đóng băng vì hụt hẫng trong tình yêu: “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời mời gọi theo Thầy, tin Thầy, luôn cần thiết: hãy mạnh mẽ lên, mọi khổ đau rồi sẽ qua đi, bão có mùa, mưa có cơn, nắng sẽ lại lên, và cuộc đời sẽ tốt hơn. Đừng nên thắc mắc, tại sao Toma cứng lòng và các tông đồ nhát sợ hèn tin Đấng sống lại từ cõi chết, hãy liên đới tình hiệp thông, vượt qua khổ đau thập giá, chứ không phải không sợ hãi vác thập giá. Amen.
Khi bị treo trên thập giá, Thầy Giêsu đã đón nhận tất cả những sỉ nhục, khinh chê, những lời nhạo PS 2-ABC425
Khi bị treo trên thập giá, Thầy Giêsu đã đón nhận tất cả những sỉ nhục, khinh chê, những lời nhạo báng của nhiều hạng người. Thầy cũng đón nhận cả sự cô đơn, đón nhận sự vắng mặt của các môn đệ là những người đã từng sát cánh bên Thầy trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng. Từ trên thập giá, trái tim Thầy bị đâm thâu. Kể từ đó, trái tim ấy đã không bao giờ khép lại.
Sau khi phục sinh, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Thầy Giêsu đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Thầy không hề nhắc lại chuyện cũ. Thầy không hỏi tại sao các con bỏ Thầy mà đi. Thầy bị bắt, hầu hết các ông đều bỏ chạy thoát thân. Chỉ có ông Phêrô theo Thầy xa xa, nhưng ông cũng đã chối Thầy ba lần. Khi vừa chối Thầy lần thứ ba thì ông nghe có tiếng gà vừa gáy, ông chợt nhớ lại lời Thầy đã nói, ông bắt gặp ánh mắt của Thầy. Ông đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Chỉ còn người môn đệ mà cảm nhận được tình thương mến của Thầy trung thành bước theo Thầy đến tận đồi Canvê, ông cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá. Không còn Thầy bên cạnh, tông đồ trở thành những con chiên không có chủ chăn.
Các ông đã tự thu mình trong căn phòng đóng kín cửa, vì các ông sợ người Do thái. Chẳng ai trong các ông có thể vượt qua nỗi sợ để ra ngoài. Cửa phòng đóng kín và cửa lòng mỗi người cũng chẳng ai có thể tự mình mở ra được. Thế nhưng, sự hiện diện bất ngờ của Chúa Giêsu phục sinh đã mang lại cho các ông niềm vui và hạnh phúc. Chẳng ai trong các ông đủ can đảm để mở cửa phòng nhưng Chúa phục sinh không bị giới hạn về thời gian và không gian, không bị những cánh cửa ấy chặn lối. Người chủ động đến với các ông và ban bình an cho các ông. Chẳng ai trong các ông từ chối sự hiện diện của Thầy. Được thấy Chúa, lòng các ông được bừng sáng hân hoan. Bóng đêm của sợ hãi đã bị đẩy xa. Người cho các ông xem tay và cạnh sườn là những dấu chứng của tình yêu đến cùng của Người. Trái tim của Thầy đã bị đâm thâu nhưng từ nơi đó, mỗi người đều được nương ẩn, bấp chấp mọi tội lỗi và yếu đuối. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 21-23). Hội Thánh được Chúa Giêsu trao cho quyền tha tội là để lòng thương xót của Thiên Chúa qua đó tuôn chảy xuống nhân loại. Bất cứ ai chạy đến với trái tim từ ái của Chúa Giêsu đều được Người thứ tha muôn vàn tội lỗi. Trái tim Người đã mở ra là để đón lấy từng tâm hồn đầy thương tích của mỗi người.
Khi Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ, có một người môn đệ vắng mặt tên là Tôma. Nghe anh em kể lại việc mình đã được thấy Chúa, ông cứng lòng không tin. Ông quả quyết: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Tám ngày sau, Chúa phục sinh đã hiện ra với ông và cho ông xem tay và cạnh sườn Người. Được thấy Chúa, ông đã hân hoan thốt lên lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Chúa Giêsu không mỏi mệt khi chờ đợi, Người không mỏi mệt khi tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Trái tim Người đã và đang mang lấy những thương tích của từng người trong chúng ta. Người đã mang thương tích là để ta được chữa lành. Dù cho ai đó có cứng lòng không chịu tin thì Thiên Chúa vẫn chờ đợi và dùng nhiều cách thế để tỏ cho họ nhận biết tình thương của Người. Người đích thân đến với họ và ngỏ lời với họ.
Clive Staples Lewis (1898-1963, văn sĩ Anh, tác giả cuốn Ký sự Namia) đã từng nói: “Thiên Chúa thì thầm trong những lúc ta vui, Người thì thầm trong lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn và mạnh trong những đau khổ của ta. Những đau khổ đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một thế giới mê ngủ.” Mỗi ngày, ta hãy chú tâm lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa trong khi vui, tiếng nói vang lên từ tiếng lương tâm của ta và trong những lúc ta bị đau khổ giày vò. Hãy để cho Lời của Người đánh thức tâm hồn ta. Hãy hướng nhìn lên trái tim bị đâm thâu của Người, để thấy được cả nỗi đau của ta ở nơi đó. Và chắc chắn, tình yêu của Người sẽ chữa lành cho ta, mang lại niềm vui, bình an cho ta. Hãy hướng nhìn đến những anh chị em đang đau khổ, hãy để cho nỗi đau của họ chạm vào lòng ta và nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh đang hiện diện trong họ. Ta hãy trao cho họ tình yêu mà ta đã nhận lãnh từ Thiên Chúa.
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ và ban bình an PS 2-ABC426
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Trong lần hiện ra này, ông Tôma đã không ở cùng các anh em của mình, bởi vậy ông không được gặp Đức Giêsu Phục sinh – Thầy của ông. Tám ngày sau, Người cũng hiện ra với các ông, ông Tôma cũng ở đó. Gặp Thầy, được nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay, Tôma đã phải thốt lên: “ Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Quả thực ông đã tin, đức tin của ông được củng cố.
Chúng ta chẳng biết tại sao Tôma lại không ở đó với các em của mình. Có thể ông là người can đảm nhất trong số các môn đệ chăng? Trong khi các anh em tụ tập trong nhà cùng nhau, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do Thái, thì có thể Tôma đang lang thang đâu đó. Ông không ngồi ì trong nhà như các anh em. Ông dược diễm phúc gặp Thầy của mình. Cả hai lần hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu Phục sinh đều ban bình an cho các ông. Bởi Người biết, sau bao nhiêu biến cố xảy ra, các môn đệ của Người còn sợ hãi, nhát đảm. Các cánh cửa đóng lại hệt như tâm hồn đang đóng lại của các ông. Cái chết của Thầy là một mất mát quá lớn đối với các ông. Có thể rồi đây, người Do thái sẽ tìm bắt các ông y như tìm bắt Thầy Giêsu. Rồi các ông cũng sẽ chết y như Người vậy. Chính Đức Giêsu Phục sinh đã đến phá tan cánh của của sợ hãi, nhát đảm; Người ban sự bình an cho các ông. Chúa Giêsu luôn dành tình yêu thương cho từng người, Ngài chẳng để quên một ai.
“Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Đó là lời chúc phúc của Đức Giêsu Phục sinh dành cho tất cả chúng ta – những người “không thấy mà tin”. Thật vậy, chúng ta không có cơ hội được gặp mặt Đấng Phục sinh cách trực tiếp như các Tông đồ xưa. Chúng ta cũng không được nghe thấy giọng nói, nhìn thấy khuôn mặt của Ngài như các môn đệ. Nhưng chúng ta vẫn là những người được chúc phúc. Sau bao nhiêu thế hệ, Tin Mừng của Chúa vẫn được ban cho chúng ta. Có thể nói, lời thách thức của Tôma ngày xưa thật quý. Bởi chính vì sự cứng lòng tin của ông mà chúng ta thêm xác tín hơn về sự hiện diện của Đức Giêsu Phục sinh. Đó không chỉ là một mầu nhiệm chỉ biết lấy đức tin bù lại nhưng nó còn là sự thật được xác thực qua lời các nhân chứng. Đức tin của chúng ta hoàn toàn có cơ sở.
Cuộc sống hôm nay nhiều biến động: những khó khăn, thử thách xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Làm thế nào để chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong cuộc đời này? Người có đang ban ơn bình an và củng cố đức tin cho chúng ta như xưa Ngài đã làm với các môn đệ? Tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại thật lớn lao. Đó là một tình yêu trọn vẹn, yêu cho đến cùng. Tình yêu của Ngài không chỉ dừng lại ở cái chết trên thập giá. Ngài đã mở ra cho chúng ta cánh cửa của niềm hy vọng tràn trề về sự sống đời sau qua sự Phục sinh của Ngài. Thật vậy, thánh Phaolô đã từng nói: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15, 14). Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Ngài. Cũng bởi nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người (x. 1Cr 15, 19).
Đức Giêsu Phục sinh vẫn hiện diện với chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Người dùng các chứng nhân do Người tuyển chọn để loan báo về Tin mừng phục sinh và lời rao giảng của các vị ấy xác thực vì được gặp gỡ, cùng ăn uống với Đấng Phục sinh. Hôm nay, Ngài vẫn ở với chúng ta cách cụ thể qua Bí tích Thánh Thể. Mỗi lần chúng ta rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng là chúng ta đang được gặp gỡ chính Chúa Giêsu Phục sinh. Vì biết chúng ta kém lòng tin nên Ngài luôn đến củng cố đức tin cho chúng ta qua nhiều cách thức khác nhau. Xin Chúa Giêsu phục sinh ban cho chúng ta bình an của Ngài và giúp chúng ta can đảm làm chứng cho sự hiện diện của Ngài khi chúng ta sống yêu thương theo lối đường của Chúa.
Nếu trong thời gian Đức Giêsu còn tại thế, cộng đoàn tín hữu chỉ thu hẹp nơi những ai theo Người PS 2-ABC427
Nếu trong thời gian Đức Giêsu còn tại thế, cộng đoàn tín hữu chỉ thu hẹp nơi những ai theo Người để nghe Người giảng dạy, thì sau khi Chúa từ cõi chết sống lại, cộng đoàn ấy đã trở nên mạnh mẽ, đông đảo hơn nhiều. Tác giả sách Công vụ tông đồ diễn tả với chúng ta Giáo Hội như một cộng đoàn nhân chứng cho Đấng Phục sinh (Bài đọc I). Cộng đoàn ấy không còn phân biệt người Do Thái hay dân ngoại, nhưng giang rộng vòng tay đón nhận tất cả những ai thành tâm thiện chí tin vào Đức Giêsu. Số những người tin Chúa gia tăng ngày một đông đảo và họ chuyên tâm thờ phượng Chúa. Với sự kiện Đức Giêsu phục sinh, Giáo Hội bước sang một giai đoạn mới, như một mùa gặt bội thu. Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh, các tông đồ có thể làm phép lạ, như Chúa Giêsu khi Người còn ở trần gian. Toàn dân tuốn đến với các ngài, như trước đây họ tuốn đến với Chúa Giêsu để lắng nghe giáo huấn và xin làm phép lạ. Nhờ khả năng làm phép lạ, uy thế của các tông đồ ngày một tăng thêm. Các tông đồ cũng như mọi tín hữu, đều xác tín rằng, Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa cộng đoàn và Người làm nên sức mạnh cũng như sự tăng trưởng của Giáo Hội. Thánh Gioan tông đồ, trong một thị kiến, đã thấy Chúa Giêsu, với lời tuyên bố: “Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời…” (Bài đọc II). Đối với một số người khác, vấn đề Đức Giêsu phục sinh đang hiện diện giữa cộng đoàn tín hữu cũng gây những tranh cãi và bất đồng ý kiến. Họ muốn được trực tiếp gặp gỡ Đức Giêsu sau khi Người từ cõi chết sống lại. Tiêu biểu cho những người có tư tưởng này là Tôma. Ông là một trong nhóm Mười Hai được Chúa Giêsu chọn từ ban đầu. Vào ngày Chúa từ cõi chết sống lại hiện ra với các tông đồ, Tôma không có mặt ở đó. Nay ông muốn được kiểm chứng. Ông lên tiếng thách đố phải có những bằng chứng trực tiếp thì mới tin. Thiên Chúa là Đấng quyền năng, nhưng thiêng liêng vô hình. Tin là chấp nhận Chúa hiện diện mặc dù không nhìn thấy bằng con mắt thể lý. Mà thực ra, khi đã kiểm chứng được bằng giác quan thì chẳng cần phải tin. Hai ngàn năm đã qua, rất nhiều người tin vào Đức Giêsu, và nhờ Đức tin mà họ nên hoàn thiện. Tuy vậy, cũng có những người không chấp nhận Đức Giêsu như đối tượng của niềm tin. Có thể họ chỉ coi Người như một nhân vật lịch sử, đã sinh ra và đã chết đi như biết bao vĩ nhân khác. Khi hiện ra với các tông đồ và có mặt ông Tôma ở đó, Chúa Giêsu đã đáp ứng những thách thức của Tôma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thày. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thày. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Tôma đã đạt được điều ông thách thức, nhưng ông không dám kiểm chứng trực tiếp như mong muốn trước đó, kể cả khi có lời gợi ý của Thày mình. Ông chỉ còn biết quỳ gối xuống mà tuyên xưng Đức tin, tôn nhận Người là Chúa và là Thiên Chúa. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình. Bầu khí sôi động tưng bừng của lễ Phục Sinh đang dần khép lại. Mọi sinh hoạt của các cộng đoàn tín hữu đang trở lại với nhịp sống bình thường. Sứ điệp của Lễ Phục Sinh có nguy cơ bị coi nhẹ, thậm chí quên lãng nơi nhiều người. Ý thức Đức Giêsu phục sinh đang hiện diện nơi cộng đoàn, mỗi tín hữu hãy mở lòng đón nhận Người và thay đổi cuộc sống, nhờ đó thực sự được sống lại với Đức Kitô. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Thánh lễ Vọng Phục Sinh cử hành tại Rôma tối 26-3-2016, đã mời gọi các tín hữu “Hãy mở toang những nấm mộ đóng kín của chúng ta cho Chúa Giêsu bước vào”. Người Kitô hữu, khi tham dự Lễ Phục sinh, phải để cho ân sủng của Chúa biến đổi cuộc đời. Nơi mỗi cá nhân có những ngôi mộ đóng kín. Đó là sự ích kỷ, giận hờn và mâu thuẫn đối với những chị em xung quanh. Đức Thánh Cha diễn giải thêm: “Chúng ta cũng vậy, cũng như Phêrô và các phụ nữ, chúng ta không thể có được sự sống khi cứ mãi buồn phiền, thất vọng, và trở thành tù nhân của chính mình. Nhưng chúng ta hãy mở toang những nấm mộ đóng kín của chúng ta ra cho Chúa – mỗi người chúng ta đều biết những nấm mộ ấy là gì–, để cho Chúa Giêsu bước vào và ban cho chúng ta sự sống; hãy dâng cho Người những viên đá hận thù và quá khứ của chúng ta, những tảng đá nặng nề của những yếu đuối và vấp ngã. Người muốn đến và đưa tay cho chúng ta để kéo chúng ta ra khỏi mối lo lắng. Nhưng tảng đá đầu tiên phải lăn ra trong đêm nay là sự thiếu niềm hy vọng vốn nhốt kín chúng ta vào chính mình. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi cái bẫy khủng khiếp của những Kitô hữu không có niềm hy vọng, sống như thể Chúa đã không sống lại, như thể các vấn đề của chúng ta là trung tâm của đời sống”. “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúa Giêsu Phục Sinh đang nói với tôi, với bạn và với mọi tín hữu hôm nay. Xin cho chúng ta có niềm tín thác tuyệt đối nơi Chúa, một niềm tín thác không cần bằng chứng, nhưng nhờ cảm nhận bằng trái tim chân thành, nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên những chứng nhân của Chúa Phục Sinh giữa lòng thế giới.
Người ta thấy rằng, nhà tù chỉ có thể lấy đi tự do của một tội phạm, nhưng chưa chắc có thể PS 2-ABC428
Người ta thấy rằng, nhà tù chỉ có thể lấy đi tự do của một tội phạm, nhưng chưa chắc có thể giáo dục và thay đổi được cuộc đời con người. Trong nền giáo dục hiện đại, người ta cũng thấy rằng, hình phạt có thể ngăn chặn một số hành vi sai lỗi, nhưng chỉ có tình thương mới có thể cảm hóa và biến đổi được trái tim con người. Lịch sử cho thấy, Thiên Chúa đã dùng sư phạm của tình yêu để giáo dục và giúp con người biến đổi.
Chúa nhật thứ hai Phục sinh được Đức Thánh Giáo Hoàng JP II chọn là Chúa Nhật của Lòng Thương Xót Chúa, vì các bài đọc trong thánh lễ đã để lại vô số dấu chỉ tình thương của Chúa Phục Sinh dành cho các tông đồ và cho chúng ta. Tin Mừng Gioan thuật lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh. Cả hai cuộc hiện ra này, Chúa Phục Sinh đã thể hiện tình thương đặc biệt của Ngài đối với các tông đồ.
Lần thứ nhật xảy ra vào buổi chiều ngày phục sinh. Lúc đó, các môn đệ của Chúa sống hoàn cảnh hết sức tội nghiệp, đáng thương. Họ như rắn mất đầu, rơi vào tình trạng mất phương hướng và lo sợ, sống khép kín trong ngôi nhà đóng cửa cài then, không giao du, không tiếp xúc với ai. Tình trạng sống buồn bã ấy không khác gì một cuộc sống tuy còn thở nhưng tâm hồn đã chết vì suy sụp sau cuộc tử nạn của Thầy. Chúa Phục Sinh biết hoàn cảnh của các học trò mình. Vì thế, ngay chiều ngày thứ nhất, Ngài đã hiện ra, đứng giữa các ông. Sự hiện diện này như sự hiện diện của một người cha trước mặt con cái, sự hiện diện có sức an ủi và gia tăng niềm vui, nghị lực sống cho các tông đồ.
Món qùa đầu tiên Chúa Phục Sinh trao tặng cho các tông đồ là lời : Bình an cho các con. Đây không phải là một lời cầu chúc như chúng ta vẫn chúc nhau, nhưng đây thực sự là một tình trạng, một ơn được ban cho các tông đồ để biến đổi tâm hồn và cuộc đời các ông. Chúa Giêsu không hề khiển trách các ông về sự nhát đảm, bỏ trốn hoặc chối Chúa trong cuộc khổ nạn. Ngài đã quên hết mọi đau khổ các ông đã gây ra cho Ngài. Lòng thương xót của Chúa khiến Chúa Phục Sinh không kìm hãm được tình yêu. Ngài cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn Người, Người muốn cho các ông tận mắt được nhìn thấy dấu vết yêu thương để có thể cảm nhận được tình yêu tột cùng của Ngài.
Món quà tiếp theo là món quà sự sống mới của Chúa Phục Sinh, đó là món quà Thánh Thần, được trao cho các tông đồ. Ngài thổi hơi và phán : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Nếu như ngày xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào nắm đất để ban cho Adam sự sống, thì hôm nay, Chúa Phục Sinh đã thổi một hơi thở mới là Thánh Thần vào tâm hồn các tông đồ. Hơi thở này là một cuộc tạo dựng mới, làm nên một thế giới mới, con người mới, sức sống mới cho nhân loại và cho vũ trụ. Từ đây, con người và vũ trụ không còn sống con người cũ nữa, nhưng sống với trái tim mới, với con người mới, con người mang sức sống Phục Sinh.
Kế đến, Chúa Phục Sinh đã thể hiện lòng thương xót, thông cảm đối với những giới hạn, yếu đuối của con người, vì thế, Ngài đã trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tha thứ : Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm giữ. Tha thứ là thể hiện sâu xa nhất lòng xót thương của Thiên Chúa là Cha. Đức Thánh Cha Fancis đã khẳng định : Tội lỗi không thể ngăn cản được lòng thương xót của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi để tha thứ cho con người.
Trao ban cho các tông đồ quyền tha thứ, Chúa Phục Sinh muốn các ông trở thành “hiện thân” của Chúa, thành cộng tác viên, người nối dài lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa cho đến tận thế. Qua các tông đồ, cái chết và sự phục sinh Chúa không dừng lại, nhưng được tiếp tục trao ban cho nhân loại bằng ơn tha thứ và chữa lành của Thiên Chúa. Như thế, tha thứ là hoa quả lớn lao nhất của cuộc phục sinh mà Chúa Giêsu để lại cho Giáo Hội.
Lần hiện ra thứ hai của Chúa Phục Sinh mang tính cụ thể hơn nữa. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ là một tình thương chung chung, nhưng là một tình thương đụng chạm đến từng cá nhân mỗi người. Cuộc hiện ra tám ngày sau, có thể nói là cuộc hiện ra dành riêng cho Tôma, một người muốn kiểm chứng cuộc phục sinh của Chúa bằng kinh nghiệm cá nhân : Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin. Chúa Phục Sinh như muốn đáp ứng sự khao khát tìm kiếm dấu chỉ đức tin của Tôma. Vì thế, khi hiện ra, Chúa Phục Sinh đã gọi đích danh ông, cho ông có một cơ hội tiếp xúc, đụng chạm đến Đấng Phục Sinh. Ngài nói với ông : Hãy đặt ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.
Chúa Phục Sinh đã hết sức yêu thương và kiên nhẫn với học trò của mình. Chúa biết rằng, việc đón nhận mầu nhiệm Phục sinh không phải là điều dễ dàng. Chúa đã cho Tôma được xỏ bàn tay vào cạnh sườn của Chúa để có ông có thể đụng chạm đến trái tim thương tích của Ngài. Chạm vào vết thương của Chúa không phải là chạm vào vết đau mà Tôma được chạm vào tình thương của Chúa Phục Sinh. Một khi chạm vào tình yêu, con người được biến đổi. Khi chạm vào lòng thương xót của Chúa, giống như chạm vào một nguồn suối, từ đó mạch nguồn yêu thương của Chúa tuôn trào trên Tôma. Tôma đã đón nhận lời chứng của các tông đồ trong sự hồ nghi, thì giờ đây, với lòng thương xót của Chúa, niềm tin của ông đã đi đến một xác tín cá nhân : Lạy Chúa tôi ! Lậy Thiên Chúa của tôi.
Tin Mừng Gioan còn ghi lại lời chúc phúc của Chúa Giêsu dành cho chúng ta là thế hệ các tín hữu sau các tông đồ : Phúc cho những ai không thấy mà tin. Chúng ta vẫn đang tiếp tục được đón nhận lòng thương xót và đức tin qua các tông đồ và Giáo Hội. Chỉ khi chúng ta thực sự sống trong sự hiệp thông với các tông đồ, sống trong sự bao bọc của Giáo Hội, chúng ta mới có thể đón nhận được đức tin Chúa phục sinh và có thể dễ dàng đón nhận lòng Chúa thương xót qua Giáo Hội.
Tôma trước đây chưa thể đón nhận được mầu nhiệm Phục sinh, bởi vì ông đã tách lìa khỏi cộng đoàn các tông đồ. Vì một lý do nào đó, khi anh em vẫn tụ tập bên nhau chung quanh Simon, thì Tôma đã không hiện diện. Vì thế, khi anh em nói về việc họ đã được gặp Chúa Phục Sinh, được Chúa trao bình an và quyền thực thi lòng thương xót tha thứ, Tôma đã không thể tin. Chỉ sau khi ông quay trở về với anh em, cùng hiệp thông trọn vẹn với Simon và các tông đồ, ông mới có thể đón nhận được mầu nhiệm Phục sinh. Chỉ khi sống trong sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội, Tôma mới có thể cảm nhận được lòng thương xót của Chúa, được đụng chạm đến vết yêu thương của Ngài và đi đến xác tín vào Ngài.
Hôm nay cử hành lòng Chúa thương xót, chúng ta cùng cảm nhận và tuyên xưng rằng, mỗi chúng ta đang được Chúa xót thương. Chúa xót thương và chăm sóc cho mỗi người theo từng hoàn cảnh của họ và cho mỗi người được đụng chạm đến tình thương của Chúa. Tuy nhiên, có thể vì chúng ta đã không gắn bó đủ với Giáo Hội, vì đã đánh mất tình hiệp thông với anh em, nên chúng ta chưa nhận ra lòng xót thương của Thiên Chúa. Qua các biến cố xảy ra cho mỗi người, mỗi gia đình, Chúa cũng cho chúng ta được đặt ngón tay vào lỗ đinh, xỏ bàn tay vào cạnh sườn của Chúa, nhưng chúng ta vẫn nghi ngờ sự hiện diện sống động của Chúa trong cuộc đời của mình.
Qua ơn tha thứ Chúa trao cho Giáo Hội, Chúa thể hiện lòng xót thương, sự kiên nhẫn chờ đợi của Ngài. Ngài luôn cho chúng ta có cơ hội để chúng ta quay về với lòng thương xót tha thứ của Chúa. Đừng bao giờ hồ nghi về sự tha thứ của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đừng bao giờ giới hạn lòng thương xót qủang đại của Thiên Chúa, vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô bờ, không bao giờ bị giới hạn và không bao giờ cạn nguồn. Bí tích Giải tội là nơi Thiên Chúa mượn thánh vụ và môi miệng của các thừa tác viên của Giáo Hội để nói lời yêu thương, thông cảm, tha thứ của Chúa. Vì thế, đừng bao giờ ngại ngùng hoặc từ chối đến với Bí Tích Xót Thương này.
Xin Chúa cho chúng ta luôn khiêm tốn mở trái tim để đón nhận lòng Chúa xót thương và biến chúng ta thành thừa tác viên lòng thương xót của Chúa cho anh chị em chung quanh. Amen.
Sự bình an luôn là điều cần thiết ở mọi nơi và mọi lúc. Tại sao người ta luôn cần ơn bình an? Vì PS 2-ABC429
Sự bình an luôn là điều cần thiết ở mọi nơi và mọi lúc. Tại sao người ta luôn cần ơn bình an? Vì xã hội bất ổn, vì thế giới chiến tranh, vì tâm hồn bất an, vì gia đình xáo trộn, vì cộng đoàn rắc rối, vì các mối quan hệ rạn nứt, vì con người thiếu tình yêu thương, thiếu lòng thương xót,…
Được bình an hay không là có liên quan sự chọn lựa, mà sự chọn lựa lại có liên quan sự tự do. Thế nào là tự do? Phải chăng tự do là muốn làm gì thì làm?
Thánh GH Gioan Phaolô II có định nghĩa rất thú vị: “Tự do KHÔNG có nghĩa là LÀM điều chúng ta THÍCH, mà là CÓ QUYỀN LÀM điều chúng ta PHẢI LÀM”. Còn Thánh LM Gioan Kim Khẩu nhận định: “Sau khi đặt sự thiện và sự dữ trong khả năng của chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta QUYỀN TỰ DO để lựa chọn. Người KHÔNG CHẤP NHẬN những gì MIỄN CƯỠNG, nhưng ĐÓN NHẬN những gì TỰ NGUYỆN”. Tự do cũng có giới hạn trong phạm vi hợp lý, tự do phải được hiểu chính xác theo ý Chúa.
Cuộc khổ nạn, sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô Giêsu liên quan sự tự do và Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Về nhân tính, Chúa Giêsu cũng sợ uống chén đắng nên Ngài xin Chúa Cha bỏ qua, nhưng Ngài không muốn theo ý Ngài mà muốn tuân phục.
Trên Thánh Giá, Chúa Giêsu là Đấng vô tội nhưng đã bị vu cáo, là Đấng Công chính nhưng đã bị kết án, là Đấng chí thánh nhưng đã bị đày ải, là Vua trời đất nhưng đã bị hành hạ nhục nhã và bị đóng đinh chết tất tưởi, là Con Thiên Chúa toàn năng nhưng đã bị thóa mạ, bị chà đạp và bị từ chối, là Ánh Sáng nhưng đã bị tối tăm vây phủ, là Đấng vô cùng cao sang nhưng đã bị trần truồng tủi hổ, chịu chết treo trên hai miếng gỗ, là Sự Sống nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng, là Sự Chết nhưng cũng chính là Sự Sống Lại.
Và thật là kỳ diệu, “Cây Thánh Giá là hy vọng của Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù lòa, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kềm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng vượt trên ma quỷ, là người chỉ đạo cho thanh niên, là bánh lái cho người vượt sóng, là cửa biển cho người đi xa, là thành lũy cho người bị vây hãm” (Thánh LM Gioan Kim khẩu). Mọi sự hoàn toàn đã thay đổi!
Trình thuật Cv 5:12-16 cho chúng ta biết về phép lạ do quyền năng Thiên Chúa thực hiện qua các Tông Đồ: “Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông Đồ. Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông, đàn bà rất đông. Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành”.
Trình thuật ngắn gọn nhưng cho thấy đầy đủ các dạng phép lạ như chính Chúa Giêsu đã làm trong ba năm rao giảng công khai. Ngày nay, các phép lạ thực sự cũng vẫn xảy ra qua lời cầu bầu của các tôi trung của Chúa, chẳng hạn ngay tại Việt Nam có LM P.X. Trương Bửu Diệp. Rất nhiều người hàng ngày đến Tắc Sậy để cầu xin ngài nguyện giúp cầu thay, trong số những người đến cầu xin ngài có nhiều người là dân ngoại. Đó là minh chứng hùng hồn và sống động về tôn giáo do chính Đức Kitô Giêsu thiết lập.
LCTX vẫn trải qua từ đời nọ đến đời kia, như lời xác nhận của Đức Maria trong “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat – Lc 1:50). Tác giả Thánh Vịnh cũng đã minh định: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:2-4). LCTX bao la và không hề thay đổi. Mỗi người trong chúng ta cũng đã, đang và sẽ đón nhận LCTX. Đó là điều không thể chối cãi hoặc phủ nhận, đơn giản nhất là không khí. Thiếu không khí thì chúng ta không thể sống, không khí loãng hoặc đặc lại một chút thì chúng ta cũng chết chắc!
Đấng Thương Xót bị khước từ nhưng người ta vẫn phải công nhận, người ta hả hê nhạo cười và coi Ngài là thua cuộc nhưng Ngài đã vinh thắng, Ngài bị giết chết nhưng Ngài đã sống lại: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:22-24).
Chúng ta cũng là những người đồng lõa trong “vụ án Giêsu”, nhưng Đấng Thương Xót vẫn đại lượng tha thứ, coi là chúng ta lầm mà thôi (x. Lc 23:34). Thật là diễm phúc cho chúng ta, vì thế mà chúng ta phải tiếp tục cầu xin: “Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy Chúa, xin thương giúp thành công. Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa. Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em” (Tv 118:25-26).
Trình thuật Kh 1:9-13. 17-19 nói về thị kiến đầu tiên của Thánh Gioan, người-được-Chúa-yêu. Thánh Gioan đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau có một tiếng lớn như thể tiếng kèn, nói rằng hãy ghi điều đã thấy vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a. Ông quay lại để xem tiếng ai nói thì thấy bảy cây đèn vàng, ở giữa các cây đèn có ai giống như Con Người mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.
Thánh Gioan cho biết: “Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy”. Nhưng rồi Người đặt tay hữu lên Gioan và động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ. Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này. Đây là ý nghĩa mầu nhiệm của bảy ngôi sao ngươi đã thấy trên tay hữu Ta, và của bảy cây đèn vàng: bảy ngôi sao là các thiên thần của bảy Hội Thánh, và bảy cây đèn là bảy Hội Thánh”. Sự lạ quá đỗi, thật là mầu nhiệm, phàm nhân không thể hiểu nổi. Quả thật, Thiên Chúa toàn năng làm nên mọi sự, biến không thành có. Và tất nhiên Ngài cũng có thể biến có thành không.
Tin Mừng hôm nay cho biết về việc Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (Ga 20:19-31 – tương đương Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49).
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, tức là chiều ngày phục sinh, nơi các môn đệ ở đều đóng kín các cửa, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và chúc bình an cho họ. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Họ rất vui mừng vì được thấy Ngài nhãn tiền. Rồi Ngài nói với họ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào họ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”. Họ đầy ơn Chúa Thánh Thần và có thể làm những gì Thầy Giêsu cho phép – tức là cử hành các bí tích nhân danh Ngài.
Lúc đó chỉ có mười môn đệ, không có mặt Tôma, cũng gọi là Điđymô. Các môn đệ khác nói với ông Tôma về việc được diện kiến Thầy-Giêsu-phục-sinh, nhưng ông Tôma không tin: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Sau đó tám ngày, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Rồi Ngài bảo ông Tôma đặt ngón tay vào vết thương ở cạnh sườn, nhìn xem tay Ngài, và bảo ông đừng cứng lòng nhưng hãy tin. Nhãn tiền thấy Thầy, ông Tôma vội thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Có lẽ lúc đó ông Tôma chẳng dám đưa tay ra sờ để kiểm chứng đâu. Sau đó, Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Đó là mối phúc mới. Chúng ta đang thừa kế mối phúc này, thật là hạnh phúc biết bao!
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ là trong hai lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đã chúc bình an ba lần. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của sự bình an. Và hàng ngày, khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng được mời gọi chúc bình an cho nhau.
Thánh Gioan kết luận: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà được SỰ SỐNG nhờ danh Người”. Như vậy, tin là bí quyết để được thương xót và được cứu độ. Còn Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho bạn được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an” (2 Tm 1:2).
Thương xót là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người – Bởi vì sẽ được Chúa Trời xót thương” (Mt 5:7). Đây là “bộ tứ” (4T) để sống LCTX: Tín Thác, Thỉnh Cầu, Thương Xót, và Tha Thứ. Hôm nay, ngày Đại lễ LCTX, chúng ta cùng nhau chân thành cầu nguyện: “Jezu ufam Tobie – Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Nguyện xin Máu và Nước chảy ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu tẩy rửa linh hồn của mọi người nên tinh tuyền theo lượng từ bi của Ngài!
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giúp con biết tin nhận Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, biết ẩn náu nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, biết thương xót tha nhân và luôn sẵn sàng tha thứ. Xin ban cho con Ơn Bình An đích thực của LCTX. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Phục Sinh, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
-------------------------------------- Khuôn Mặt Thương Xót: https://www.youtube.com/watch?v=v8Vw4VfEgtY
Sau khi Chúa Giêsu Kitô sống lại Người đã hiện ra nhiều lần, khi thì với người này khi thì với PS 2-ABC430
Sau khi Chúa Giêsu Kitô sống lại Người đã hiện ra nhiều lần, khi thì với người này khi thì với người khác, lúc thì ở chỗ này, lúc ở chỗ kia. Các bài Tin mừng cho chúng ta biết Chúa Giê-su Kitô hiện ra với các phụ nữ đến thăm mộ Chúa vào sáng sớm ngày Chúa phục sinh, trong đó có bà Maria Mađalêna là người có lòng yêu mến Chúa một cách đặc biệt. Sau khi được thấy tận mắt, và được Chúa trao cho sứ mạng loan báo tin vui mừng phục sinh cho các tông đồ và mọi người, bà đã mau mắn chu toàn. Sau đó, Chúa Giê-su Kitô phục sinh đã hiện ra với 2 môn đệ với tâm trạng chán nản và thất vọng đang trên con đường đi Emmau trở về cuộc sống cũ, vì Chúa, là Thầy của mình đã bị đóng đinh và chết một cách nhục nhã trên thập giá. Nhưng sau đó các ông đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh trong lúc ngồi chung bàn ăn với các ông trong quán trọ. Tâm hồn các ông được sưởi ấm bởi lời Chúa nên các ông đã trở lại loan báo cho các tông đồ biết về sự kiện các ông đã chứng kiến. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Chúa Giê-su Ki-tô hiện đã ra với các tông đồ một lần không có sự hiện diện của Tô-ma. Tám ngày sau đó, khi cửa phòng đóng kín, Chúa Giêsu lại hiện ra với các tông đồ một lần nữa có cả Tôma. Khi hiện ra với các tông đồ, trước hết Chúa Giêsu Phục sinh đã chúc bình an cho họ, và sau đó đã cho Tô ma và mọi người thấy những vết thương ở tay và cạnh sườn. Sau khi được nhìn tận mắt, Tô ma đã tin Chúa đã sống lại thật, và quì xuống tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con.”
Chúa sống lại và hiện ra với các môn đệ nhiều lần qua nhiều hình thức, để thứ nhất minh chứng Người đã sống lại thật; thứ hai, Chúa chịu chết và sống lại là một; và thứ ba củng cố niềm tin cho họ, để họ luôn trung thành và can đảm thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng ơn cứu độ cho muôn dân, cũng như trở thành những chứng nhân cho sự thật, cho Chúa Giê-su, là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.
Ông bà anh chị em thân mến. Vì có một niềm tin vững chắc vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, cho nên các tông đồ đã trung thành và can đảm thi hành sứ vụ Chúa trao ban như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một. Họ bác ái và quảng đại, hy sinh và can trường làm chứng cho Chúa, và không nao núng trước những sự vu khống, thù hằn, đe dọa, gian khổ và tù đày, để cùng đồng tâm nhất trí, và chung sức xây dựng Giáo hội mà Chúa Giê-su Ki-tô đã thiết lập. Đời sống yêu thương và hiệp nhất của họ đã thu hút nhiều người tin vào Chúa và giai nhập Giáo hội càng ngày càng thêm phát triển. Niềm tin vào Chúa Giê-su Phục sinh và ơn Chúa Thánh Thần đã làm cho họ can đảm và làm được nhiều phép lạ như Chúa Giê-su đã làm. Họ nhận biết khả năng tự nhiên của họ giới hạn và quá ít, trước quyền năng của Lời Chúa ảnh hưởng vào sự tiếp nhận của người nghe. Nhưng họ tin có Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh trợ sức, hướng dẫn và đồng hành, để lời rao giảng về Mầu nhiệm Thập giá của họ trở thành thần lực. Và qua những dấu lạ điềm thiêng kèm theo, lời rao giảng Tin Mừng của họ mới có sức mạnh biến đổi tâm hồn người nghe và chữa lành bệnh tật thể xác. Các tông đồ đã làm được những việc Chúa Giêsu đã làm nhiều lần ngày xưa, và như vậy, Phêrô và các tông đồ khác bây giờ là hình ảnh và là hiện thân của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh.
Vì sự hiện ra của Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, lòng tin của các tông đồ và đặc biệt là của Tô ma được củng cố. Thế nhưng, như chúng ta vừa nghe, chính Chúa Giê-su Phục sinh đã tuyên bố rằng “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.” Hay nói một cách khác, Chúa Giê-su phục sinh muốn nói với tất cả chúng ta đang hiện diện trong ngôi thánh đường hôm nay “Phúc cho chúng con, tuy chúng con không thấy, nhưng chúng con đã tin vào lời Ta nói Ta là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, đã chết và đã sống lại thật.”
Ông bà anh chị em thân mến. Có lẽ chúng ta từng nghe người khác nói: “Thấy thì mới tin.” Điều này có nghĩa là họ không tin vào dù chỉ một lời chúng ta nói, vì tin như thế là nhận biết và tin điều gì họ không thấy. Không thấy thì không tin. Nhưng đối với người Ki-tô Công giáo chúng ta, và theo Lời Chúa nói, điều ngược lại thì đúng hơn, vì tin sẽ dẫn tới sự nhìn thấy những điều chúng ta sẽ thấy, đó là vinh quang phục sinh Nước Trời. Nhưng chúng ta phải tin trước. Chúng ta phải tin vào lời Chúa nói với chúng ta trước điều Chúa nói chúng ta sẽ thấy sau này. Chúng ta tin vào điều chúng ta nghe hôm nay vì chúng ta quyết định chọn tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, và Lời Chúa mang lại cho chúng ta ơn sủng bình an và sự sống hạnh phúc đời này và đời sau.
Chúng ta nhận biết một trong những sự thử thách to lớn cho đức tin của chúng ta ngày nay là Bí tích Thánh Thể, là sự hiện diện thật sự của Chúa Giê-su Ki-tô trong Thánh Thể. Chúa Giê-su phán bảo chúng ta “Đây là Mình Thầy… Đây là Máu Thầy.” Vì chúng ta không thể đặt Thánh Thể Chúa dưới lăng kính hiển vi và khám xét, để xem có thấy Chúa thật sự ở trong đó không, cho nên một số người cho là “Đó chỉ là biểu hiệu thôi.” Hay “Đây chỉ là một sự nhắc nhở mà Chúa Giê-su làm trong Bữa Tiệc Ly thôi. Không phải là Mình và Máu Chúa thật.” Tin mừng và Tông truyền của Giáo hội sơ khai xác tín cho chúng ta biết Bí tích Thánh Thể là chính ý định, và là chính thánh ý của Chúa Giê-su cho chúng ta. Ngày nay chúng ta có thể giải nghĩa sự lơ là của một số người không tham dự Thánh lễ là vì họ đã mất lòng tin nơi Bí tích Thánh Thể.
Ông bà anh chị em thân mến. Lời Chúa nói với Tô-ma trong bài Tin mừng có thể áp dụng cho chúng ta tham dự Thánh lễ hôm nay trong đức tin “Phúc cho những ai không thấy mà tin.” Và hôm nay cũng là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót của Chúa Giê-su Ki-tô. Vì lòng thương xót nhân loại, Chúa Giê-su đã chịu những sự thương khó, chịu đóng đinh chân, tay vào thập giá, và chịu lưỡi giáo đâm vào cạnh sườn, để máu và nước tuôn đổ ra trở thành nguồn thương xót cho chúng ta và nhân loại. Tin tưởng vào lòng Thương Xót Chúa, chúng ta sẽ luôn vững lòng tin, vững lòng trông cậy và phó thác nơi Chúa, khi gặp những gian khổ, thử thách, hay khi chúng ta phải đối diện với những khó khăn. Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh cần chúng ta, và cần nhiều người trở thành những chứng nhân và sứ giả cho lòng thương xót của Chúa trong xã hội ngày nay, để chiến thắng những âm mưu của ma quỉ, và để biến đổi đời sống những người không có đức tin hay nghi ngờ. Xin Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh ban nhiều ơn lành cho tất cả chúng ta, để chúng ta tâm đầu ý hợp, yêu thương và hiệp nhất xây dựng Giáo hội của Chúa, và làm sáng danh Người như các tông đồ xưa.
Cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu – Kitô chính là Dấu Chứng Phục Sinh, bởi vì , nếu không có Dấu PS 2-ABC431
Cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu – Kitô chính là Dấu Chứng Phục Sinh, bởi vì , nếu không có Dấu Chứng Tử Nạn, cụ thể là Năm Dấu Thánh, chưa kể Mão Gai, thì không thể là Chúa Giêsu Phục Sinh được. Vâng, niềm tin hay đức tin cần có hai điều kiện là : Mặc Khải và đáp trả. Thiên Chúa đã mặc khải chính Đức Kitô –Giêsu cho chúng ta, đó là điều kiện tiên quyết, điều kiện nầy đã được biểu lộ nhãn tiền qua Chúa Giêsu. Nhưng, để đưa loài người đến được bến bờ cứu độ, hay là giải thoát, tức mầu nhiệm Phục nhiệm Tử Nạn, vì nếu không “chết” thì không thể “sống lại”, có nghĩa là: cuộc Sinh, có nghĩa là Tái Sinh, để được trường sinh. Mặc nhiên, phải có mầu Tử Nạn của Chúa Giêsu phải xảy ra, phải thực hiện , rồi hoàn tất. Nhưng, cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu chính là điều khởi đầu, là chứng cứ, là dấu chứng Phục Sinh, vì nếu không có Dấu Chứng Phục Sinh, thì không thể là Chúa Giêsu chịu Tử Nạn được.Như thế, cho chúng ta thấy cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu luôn hiện hữu sống động và gắn liền với Mầu Nhiệm Phục Sinh, vì: “Cuộc Khổ Hình sinh ơn cứu độ….” , chứ không phải ơn cứu độ sinh ra cuộc khổ hình .
Vâng, thưa quý vị, Tin Mừng Chúa nhật II Phục Sinh ( Ga 20, 19 -31) hôm nay cho chúng ta ý nghĩa đó. Nhưng, trước hết, chúng ta cùng xem lại Tin Mừng hôm nay có hai phần :
Phần thứ nhất : Từ câu 19 – 23 . Phần nầy có 03 công việc của Chúa Giêsu: Một là ban Bình An : Bởi vì, Chúa Giêsu đến với các môn đệ bởi sự Phục Sinh của Người, trong bối cảnh các môn đệ lo sợ người Dothai, vì vậy, không gian mà Chúa Giêsu đến với các môn đệ là các cửa đều đóng kín. Chúa Giêsu ”hiện đến” giữa các ông, và điều đầu tiên là Người chúc bình an. Vâng, không gì có thể, trong lúc nầy mà cần thiết bằng ơn “Bình An”. Bình an nầy là bình an Phục Sinh của Đấng Phục Sinh, mặc nhiên, các ông rất hoảng sợ. Hoảng sợ sự có mặt của Chúa Giêsu trong lúc nầy.Nhưng, nói xong Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Như vậy, rõ ràng, chứng cứ Phục Sinh chính là: “tay và cạnh sườn” của Chúa Giêsu . Hai là ban Dấu Chỉ Thiên Sai : Người truyền sứ vụ Thiên Sai cho các Tông Đồ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” .( c 21) Ba là ban Thánh Thần : Nói xong , Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” ( c22) Theo đó, chúng ta thấy Bí Tích Thêm sức và Bí Tích Hòa Gỉai được bắt nguồn từ đoạn Tin Mừng hôm nay. Như vậy, từ Dấu Chứng Phục Sinh, Chúa Giêsu thiết lập hai Bí Tích Thêm Sức và hòa giải.
Phần thứ hai : Đức Tin của Tôma , hay là Chúa Giêsu biểu lộ Dấu Chứng Phục Sinh. Phần thứ hai của Tin Mừng ( Ga 20 , 19 -31) hôm nay cho chúng ta hai ý rõ ràng :
Thứ nhất : Lòng tin của thánh Tôma (c 24 -25) Như chúng ta biết , thánh Tôma là nhân vật làm chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu, nhưng niềm tin ấy là niềm tin “được nhìn thấy” , niềm tin được nhìn thấy là niềm tin không có công lao gì. Căn cứ vào Lời Chúa Giêsu nói :” Vì anh đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin “ ( c 29 b). Nếu ai tin vào Chúa Giêsu như Tôma, thì muôn đời không có được niềm tin, vì làm sao đòi hỏi như Tôma được. Tin như Tôma là Đức Tin được nhìn thấy, Đức Tin được nhìn thấy thì không cần phải tin, vì nó đã được thấy. Điều ấy thường nghịch với đức tin chân thật, vì bản tính của đức tin gồm hai yếu tố căn bản đó là: Thiên Chúa mặc khải và con người đáp trả . Nói đến mặc khải thường là huyền nhiệm, sự cảm nhận, xác tín qua một biến cố nào đó.
Triển khai đức tin của thánh Tôma chúng ta có mấy ý :
-Một là : Thánh Tôma cũng được mặc khải gián tiếp qua các Tông Đồ, nhưng ngài không tin, ngài đòi hỏi được mặc khải trực tiếp, và chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho ngài. Và sự đáp trả của ngài là được nhìn thấy. Như vậy, đức tin được nhìn thấy thì không có công phúc.
-Hai là: Đức tin của thánh Tôma góp phần minh chứng cách hiển nhiên Dấu Chứng Phục Sinh của Chúa Giêsu, và ngài làm chứng về Chúa Phục Sinh theo cách riêng của ngài. Qua thánh Tôma, chúng ta có được một Dấu Chứng Phục Sinh xác đáng, cụ thể, bởi một đức tin hiển nhiên. Vâng, tuy mang tiếng là đức tin Tôma, nhưng, chúng ta cám ơn thánh Tôma đã cho chúng ta một cách tin theo chứng cứ, để cho những ai cứng lòng hơn Tôma cũng phải nhìn nhận.
Việc Chúa Giêsu cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn của Người, điều đó nói lên Năm Dấu Thánh qua cuộc Thương Khó Tử Nạn của Người luôn gắn liền với mầu nhiệm Phục Sinh, như là Dấu Chỉ không bao giờ phai của ơn Cứu Độ, hay nói cách khác, nếu không có cuộc Tử Nạn, thì không có Phục Sinh. Rõ ràng Dấu Chứng Phục Sinh chính là dấu chỉ bình an và từ đó phát sinh ra ơn Thánh Thần, ơn tha thứ, ơn thiên sai. Như vậy, cho dù là Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, nhưng các Dấu Thánh Tích Tử Nạn vẫn hiện diện và là bằng chứng Phục Sinh hiển hiện nhất trong chương trình cứu độ bởi Thiên Chúa
Thánh Vịnh 117 hôm nay cho chúng ta biết, Thiên Chúa rất từ bi nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Viên đá mà người thợ xây loại bỏ lại trở nên viên đá góc tường.
Chúa Giêsu chính là Tảng Đá của ơn cứu độ, mà Thiên Chúa Cha đã đặt vào toà nhà cứu độ nhân loại. Chúng ta nhận ra điều gì trong đoạn Tin Mừng hôm nay về Lòng Chúa Xót Thương. Đó là Chúa Giêsu đã mở Tay và Cạnh Sườn của Người cho các môn đệ xem. Điều nầy cho thấy, Thiên Chúa quá yêu thương nhân loại, nỗi đau nơi Dấu Thánh còn đó, nơi phát sinh ơn cứu độ và các Bí Tích từ nơi vết thương của Người phát ra cho chúng ta và vì chúng ta. Vâng, đó chính là LÒNG THƯƠNG XÓT , sự bình an, ban Thánh Thần, sứ vụ sai đi, ơn tha tội, đều từ Dấu Chỉ Phục Sinh mà ra. Mà Dấu Chỉ Phục Sinh là nguồn Thương Xót vô tận bởi chính Chúa Giêsu chảy ra.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương nhân loại, một tình yêu vô tận chảy mãi không ngừng, đến độ từng những vết thương nơi bàn tay và chân của Chúa vẫn tuôn ra những dòng Máu ân tình, đồng thời nơi Thánh Tâm Chúa vẫn tuôn ra nguồn suối trường sinh là nguồn bình an đích thực cho chúng con. Xin thương tha thứ những bất xứng tội tình của chúng con qua dòng suối ân tình của Chúa, nơi đó chúng con mới tìm thấy hạnh phúc đích thực ./. Amen.
Để phân biệt giữa già xấu, và người trẻ đẹp, thật dễ dàng, ta chẳng cần vận dụng đến trí óc PS 2-ABC432
Để phân biệt giữa già xấu, và người trẻ đẹp, thật dễ dàng, ta chẳng cần vận dụng đến trí óc. Nếu kiểm chứng đâu là bóng dáng, giọng nói, người thân của mình, không ai phải nghe nhìn băng ghi hình đến nhiều lần làm gì. Cuộc sống cho chúng ta cảm nhận: nghi ngờ, giận hờn, hoặc ganh tỵ, chính là hậu quả gây nên rắc rối cho mình, tổn hại đến tình yêu thương mà ta đang có. Đời người đâu phải được ngồi đó mãi để thẩm định : hay dở, chất lượng, kỹ thuật, như công việc của “giám khảo”. Thực ra, mỗi người đều phải năng động, đầu tư, nhằm thể hiện rõ vai diễn của mình như “thí sinh” đang bước vào vòng thi chung kết.
Câu chuyện sống lại từ cõi chết, thường khó được chấp nhận trước những người xa lạ với niềm tin tôn giáo, theo họ, đó chỉ là khái niệm mơ hồ. Đức Giêsu là người thật, đã chết thật, ngoài “tình yêu”, người thân cận, người chỉ biết tìm kiếm hưởng thụ, làm sao họ có thể hiểu Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, đã sống lại từ cõi chết ? Theo suy xét tự nhiên, không một ai đáng được nhìn, xem, và thấy Đấng Phục Sinh, vì tất cả đều tội lỗi bất xứng, nếu không phải là tình yêu thương của Đấng sống lại mở lòng trí chúng ta.
Khởi đầu nơi những kẻ đang ôm ấp kỷ niệm từng được nghe, được đồng bàn cùng Đức Giêsu, ít là trong tâm trí họ còn nhớ tới Một Đức Giêsu chưa bị treo thập giá, số nhỏ bé đó tạm gọi là chút tin yêu. Đấng phục sinh đã đi bước trước trong tình yêu, “ngôi mộ trống”, “người mặc áo trắng”, “lời dặn dò” qua các phụ nữ, “người khách lạ” trên đường E-mau… Xưa và nay, Đấng phục sinh vẫn là dấu hiệu của tình thương, ai cũng có cơ hội để tìm gặp, để được lớn mãi trong tình yêu Giêsu.
Chiều ngày thứ nhất trong tuần thật ý nghĩa hôm đó, nơi các môn đệ đang hội họp cầu nguyện, đang thể hiện tình yêu hiệp nhất giữa các anh em huynh đệ. Đức Giêsu phục sinh đến giữa các ông, chào chúc bình an, ban Thánh Thần tình yêu, và ban sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các học trò thân thương ấy. Đấng sống lại từ cõi chết, đã cho các môn đệ nhìn xem chân tay và cạnh sườn, Ngài không hỏi tội, không oán trách các học trò điều gì, thay vào đó là tình yêu và ơn ban. Đấng sống lại còn ban phát nhiều thứ ơn cho các môn đệ, nhưng trên hết và căn bản mà các ông dễ cảm nhận hơn đó là “niềm vui Đấng phục sinh”.
Có những qui luật tự nhiên của tạo hóa, mà người ta không thể không thừa nhận : ớt dù cay vẫn ăn cả vỏ, chuối dù ngọt cũng bỏ vỏ ngoài. Đau khổ thập giá, thật đáng sợ, nhưng vì tin yêu, Đức Giêsu đã uống cạn chén đắng, và đã chiến thắng tử thần. Hạnh phúc đời đời, bao giờ cũng dễ nghe, mọi người đều mơ ước. Nhưng phải cùng đi với Đức Giêsu, vượt qua đau khổ thập giá, mới gặp được Đấng phục sinh, thật khó. Sống trong giầu sang phú quí ở đời này, không phải là không có đau khổ nước mắt, sống trong tin yêu mới là bước khởi đầu theo Đức Giêsu làm môn đệ.
Người xưa có câu : tiếng lành tiếng dữ, đồn xa, tiếng lành tiếng dữ, đồn ba ngày đàng. (ca-dao). Đức Giêsu đã mở mắt người mù, mở tai kẻ điếc, mở miệng kẻ câm, làm cho người què đi được, người chết sống lại. Lẽ nào Đức Giêsu chịu đóng đinh thập giá, chịu mai táng trong mồ, và nay sống lại ra khỏi mồ, dư luận đám đông, chứng nhân Tin Mừng, lại không làm vang vọng khắp địa cầu ? Đức Giêsu đã yêu, và yêu đến cùng trên thập giá, vì thế Đức Giêsu sống lại cũng từ cõi chết vẫn là Đấng yêu thương.
Cho dù người cùng thời và chúng ta hôm nay có khắt khe với ông Tôma, nói ông cứng lòng, lên án ông mau cạn tình cạn nghĩa, Đấng phục sinh vẫn thương ông. Dù Tôma yêu Chúa thật trong lòng, hay trong tim ông yêu Thầy giả dối; hoặc ta không đọc hết được ý của Đấng phục sinh khi nói Tôma hãy nhìn, hãy xem vết thương của Thầy, thì Ngài vẫn là Đấng yêu thương. Khi Đức Giêsu đã vượt qua đau khổ thập giá, làm sao thế lực trần gian ngăn cản được Đấng Kitô phục sinh ?
Đối diện với Đấng sống lại, Tôma chiều hôm đó không dám kiểm chứng, hẳn ông không phải là kẻ mạnh miệng xó bếp, thay vì lời xin lỗi, ông chỉ biết thưa lên : “lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Tôma, các môn đệ, các phụ nữ hôm xưa, và tất cả chúng ta hôm nay đều bất xứng tội lỗi giống nhau, Chúa tha thứ và còn tha thứ. Đấng phục sinh ban bình an, ban Thánh Thần cho các tông đồ, tất nhiên còn ban cho cả nhân loại chúng ta. Chúa sống lại, cho các môn đệ gặp gỡ Chúa bằng mắt đức tin và mắt phàm trần; tất cả những ai sống hiệp nhất trong tin yêu, mai sau và ngay lúc này, Chúa vẫn hiện diện bên chúng ta. Amen.
Ngày 30/04/2000, trong dịp lễ tuyên thánh cho nữ tu Faustina, môn đệ của Lòng Thương Xót, Đức PS 2-ABC433
Ngày 30/04/2000, trong dịp lễ tuyên thánh cho nữ tu Faustina, môn đệ của Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định chọn Chúa Nhật 2 Phục Sinh làm Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót. Điều hết sức đặc biệt là 5 năm sau, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được Chúa gọi về cũng vào đêm trước Chúa Nhật thứ 2 Phục Sinh (02/04/2005). Chín năm sau, cũng vào ngày Chúa Nhật thứ 2 Phục Sinh (27/04/2014), Đức Thánh Cha Phanxicô đã long trọng tuyên thánh cho Ngài cùng với Đức Gioan 23. Có thể nói một cách ngắn gọn: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là người thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót, qua đời vào dịp lễ kính Lòng Thương Xót và được tuyên thánh cũng vào ngày Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót.
15 năm sau ngày thiết lập đại lễ kính Lòng Thương Xót, ngày 11/04/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông sắc công bố Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót. Năm thánh này đã được khai mạc trọng thể vào ngày lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội (08/12/2015), và sẽ kết thúc vào ngày lễ Chúa Kitô Vua (20/11/2016)
Nhắc lại một vài thông tin như vậy để chúng ta biết mình đang cử hành lễ kính Lòng Thương Xót trong năm thánh lòng thương xót. Vì vậy hôm nay được xem là “cú đúp” của lòng thương xót. Trong “cú đúp” này chúng ta khám phá lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn luôn tồn tại.
I. TỪ THÔNG ĐIỆP PHỤC SINH 2016
Hằng năm, cứ vào đại lễ Phục Sinh, dân chúng khắp nơi mong chờ được nghe Thông Điệp Phục Sinh từ Đức Thánh Cha. Năm nay cũng vậy, lúc 10h15 sáng Chúa Nhật 27 tháng Ba, trước hàng trăm ngàn tín hữu đứng chật quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ Phục sinh. Tiếp theo đó là thông điệp Phục sinh Urbi et Orbi gởi dân thành Rôma và toàn thế giới.
Vì vậy, ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, trong Năm Thánh Lòng Thuơng Xót này, chúng ta mừng lễ kính Lòng Thương Xót, điều đó cho chúng ta xác tín rằng: “Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ chết”, vì “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”
II. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Từ các bài đọc lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được hiện thân của lòng thương xót là Đức Giêsu Phục Sinh đã làm mọi cách cho các môn đệ của mình cũng như cho con người đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh và cũng là đón nhận Lòng Thương Xót của Chúa Cha.
Theo tác giả Tin Mừng thứ tư, thì những lần hiện ra, những dấu lạ của Đức Giêsu Phục Sinh: “là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh của Người” (Ga 20, 31). Như vậy, 2 lần hiện ra chỉ cách nhau 1 tuần trong bài Tin Mừng hôm nay cũng không ngoài mục đích là để cho các môn đệ, cách riêng là Tôma tin rằng Đức Giêsu Kitô đã sống lại để cho họ được sống đời đời. Đó chính là ơn cứu độ, là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho họ, và từ họ đến với mọi người.
Cũng chính nhờ quyền năng của Đức Kitô Phục Sinh mà “nhiều dấu lạ điềm thiêng đã được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay của các Tông Đồ” (Cv 5, 12). Chính vì vậy mà “càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa” (Cv 5, 14).
III. LÒNG THƯƠNG XÓT KHÔNG BAO GIỜ CHẾT
“Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không bao giờ chết”. Chúa làm mọi cách để nhân loại được biết đến tình yêu thương, sự chăm sóc… ơn cứu độ mà Ngài đã dành cho chúng ta, thậm chí như lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thông điệp Phục Sinh: “vì chúng ta mà Ngài đã bước xuống những chiều sâu của hỏa ngục”. Chiều sâu của hỏa ngục ở đây, Đức Thánh Cha đã phân tích: “Trước những hỏa ngục tinh thần và đạo đức của nhân loại, trước những địa ngục đang mở tung ra trong các tâm hồn và kích động hận thù và cái chết, chỉ có một lòng thương xót vô hạn mới có thể mang lại cho chúng ta sự cứu rỗi. Chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những địa ngục này bằng tình yêu của Người, ngăn cản chúng ta khỏi rơi vào đó và giúp chúng ta tiếp tục cuộc hành trình cùng nhau hướng về vùng đất của tự do và sự sống”.
Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ chết. Lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn đang hành động trong vũ trụ vạn vật và cuộc đời của mỗi người chúng ta.
IV. LÒNG THƯƠNG XÓT VẪN ĐANG HIỆN DIỆN
Qua sự thông cảm, tha thứ, và mở cửa. Những ngày gần đây, trên các phương tiện truyền thông có nhiều tin tức liên quan đến vụ một nghệ sĩ hài khá nổi tiếng ở Việt Nam bị bắt tại Mỹ vì một tội danh cũng khá nhạy cảm. Với tội danh này, anh ta phải đối mặt với bản án 4-5 năm tù giam, hoặc số tiền chuộc lên đến hàng triệu USD. Nhiều người lên tiếng chê bai, chỉ trích, có người còn cho rằng đáng tội… Tuy nhiên cũng có những người lên tiếng thông cảm cho diễn viên hài này, trong đó có một nghệ sĩ đã viết: “Đã là con người, ai cũng có tật xấu… Cùng là người với nhau, hãy cho nhau chút tình người… Tha thứ cho người có lỗi và cho họ con đường sống……. Thay vì bôi nhọ danh dự người khác, tại sao các nhà báo không kêu gọi sự tha thứ và giúp đỡ khi người Việt bị nạn trên xứ người… Đồng thời cũng dạy cho người có lỗi biết sai mà sửa sai… và cho giới trẻ 1 bài học của sự khoan dung… Hãy là những nhà báo có Lương Tâm…Tôi thấy thương anh ta hơn là ghét bỏ anh ta…”
Đúng vậy, chúng ta thích kết án người khác, chúng ta cười hả hê khi thấy người khác có tội, chúng ta sẵn sàng cầm đá ném họ để loại trừ sự xấu ra khỏi cuộc sống chúng ta… Chúng ta quên rằng chính chúng ta cũng là kẻ có tội, và có khi tội chúng ta còn nặng hơn người khác, nhưng nhờ những lý do nào đó mà tội lỗi và sự xấu xa của chúng ta chưa được đem ra ánh sáng, chưa được phơi bày.
Từ đó Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi chúng ta: “Mọi người có tội đã được tha, thì được kêu gọi chia sẻ với tất cả anh chị em của mình đang còn tìm kiếm ơn này, bởi tất cả chúng ta như nhau, đều cần đến lòng thương xót Chúa. Ơn tha thứ làm sạch trái tim và biến đổi đời sống”. Lòng thương xót của Chúa vẫn đang hoạt động qua sự tha thứ liên lỉ cho chúng ta. Hơn thế nữa, nhờ sự Phục Sinh của Chúa, ơn tha thứ này còn có sức mạnh để giúp chúng ta quyết tâm chừa bỏ những tội lỗi của mình.
Qua việc để con người được tự do lớn lên Lòng thương xót của Chúa còn được thể hiện qua việc tôn trọng tự do của người khác. Ông Tôma đòi đụng chạm đến những vết thương của Chúa mới tin Ngài sống lại. Chúa đã sẵn sàng cho ông làm việc đó. Chỉ một yếu tố đó thôi cũng đủ để thấy lòng thương xót của Chúa không bắt người ta phải lệ thuộc mình, nhưng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ.
Ở chỗ khác, khi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài đi ngang qua thành Samaria, dân làng không đón tiếp các Ngài, Giacôbê và Gioan đòi “khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó”, Đức Giêsu không cho và còn quở mắng các ông. Ngài khó chịu trước thái độ bắt người khác phải giống mình, phải lệ thuộc mình. Ngài dẫn con người đến sự thật toàn vẹn, nhưng nếu con người không muốn đi theo con đường đó, Ngài cũng không ép buộc. Lòng Thương Xót của Chúa ở chỗ để con người được trưởng thành hơn, được lớn lên mỗi ngày. Ngài chấp nhận những vấp váp, những té ngã của con người, nhưng qua đó, họ nhận ra chỉ có Thầy mới “là đường, là sự thật và là sự sống”.
Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì lòng thương xót của Chúa vẫn dành cho con hôm qua, hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời. Lòng Thương xót vẫn hằng thông cảm, tha thứ, và không ngừng mở ra con đường sống cho con. Xin cho con cũng biết thông cảm cho những sai lỗi của người khác, để mở ra cho họ con đường sống. Lòng thương xót của Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do và để con lớn lên hằng ngày trong ơn sủng Chúa. Xin cho con biết để những người sống chung với con được lớn lên trong tự do của họ. Trên hết mọi sự xin cho con nhớ rằng: Con không phải là Thiên Chúa. Vì vậy con không có quyền ngăn cản lòng thương xót của Chúa.
Sau biến cố tử nạn của Thầy mình, các tông đồ tìm đến với nhau để ở lại với nhau trong sự an PS 2-ABC434
Sau biến cố tử nạn của Thầy mình, các tông đồ tìm đến với nhau để ở lại với nhau trong sự an ủi nhau khi bơ vơ tất bạt vì mất Thầy. Và cũng vì sợ người Do Thái truy lùng như trang Tin Mừng hôm nay thuật lại mà các tông đồ tụ họp trong phòng lầu tại Giêrusalem, đóng cửa và gài chốt bên trong.
Các ông tụ họp nhau lại cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau sau cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thầy mình,. Bỗng nhiên Ðức Giêsu hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức tin gần như bị tàn lụi của các ông.
Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin của các.
Lần thứ nhất (c 19-25): vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Phục Sinh đã hiện đến đứng giữa các môn đệ đang hội họp mà không có Tôma. Người cho các ông xem các vết thương nơi bàn tay và cạnh sườn để chứng minh Người đã sống lại sau cuộc tử nạn, rồi thổi hơi ban Thánh Thần và trao quyền tha tội cho các ông.
Lần thứ hai (c 24-29): Tám ngày sau, Chúa Giê-su lại hiện ra với các môn đệ và có Tôma. Người đặc biệt đáp ứng các đòi hỏi của ông. Rồi khi ông đã đạt đến đức tin, thì Người dạy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
Riêng có ông Tôma lại tách rời ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào vết đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20, 25). May phúc cho ông là chính Ðức Giêsu lại đích thân hiện ra để phục hồi đức tin của ông. Lúc này ông kêu lên: Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20, 28).
Tôma là người cứng tin, nhưng sau khi đã được gặp gỡ Chúa và đã cảm nghiệm về sự phục sinh của Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh nhất, thể hiện qua lời tuyên xưng đức tin : “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20, 28). Ngang qua Tôma, Chúa Giêsu chúc phúc cho các tín hữu sẽ tin theo Người sau này như sau: “Vì đã trông thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay người không thấy mà tin”.
Ngày nay, dẫu rằng không ai trong chúng ta được gặp Chúa Phục Sinh, không trực tiếp nghe lời nói của Người, cũng không được ăn uống tiếp xúc với Người như các Tông đồ xưa, nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc nếu chúng ta tin vào lời rao giảng của các Tông đồ là những chứng nhân đức tin, là những người không dễ tin nhưng đã từng cảm nghiệm về mầu nhiệm phục sinh như ông Tôma trong Tin Mừng hôm nay.
Do đó, cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể nói: “Ngón tay đa nghi của Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay đa nghi của Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn, đó là thân xác Đức Giê-su Kitô thực sự đã sống lại”.
Trong đời sống thường nhật, ta cần biểu lộ đưc tin bằng việc làm như cầu nguyện, dự lễ, hi sinh, bác ái. Nếu là thiên thần, người ta không cần biểu hiệu. Là loài người có xác, người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi đầu… để khơi dạy tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu hiệu như tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.
Thế giới ngày nay quá nhiều người hoài nghi và không tin tưởng vào Tin Mừng Phục Sinh. Cách thức duy nhất làm cho họ được ơn biến đổi trong lòng tin là làm sao để họ có thể “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng chạm“ vào Người qua con người nhân bản của các tín hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng xử khiêm tốn phục vụ vị tha của chúng ta.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Người thời nay không thích nghe các thầy dạy, mà chỉ thấy các chứng nhân; và giả sử như người ta có thích nghe các thầy dạy, thì các thầy dạy đó trước tiên phải là những chứng nhân”.
Hôm nay cũng là lễ kính “Lòng Thương xót của Chúa” mà Đức Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000. Chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska thưa với Người rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con xin tín thác vào Người !”
Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hiệp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
Hôm nay chúng ta mừng Đại Lễ Kính Lòng Thương Xót của Chúa trong chính Năm Thánh Lòng PS 2-ABC435
Hôm nay chúng ta mừng Đại Lễ Kính Lòng Thương Xót của Chúa trong chính Năm Thánh Lòng Thương Xót. Điều này giúp chúng ta sống trong hân hoan vui mừng và cảm nhận sâu hơn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô là dung nhan Lòng Thương Xót của Chúa Cha. Đồng thời ta cũng được mời gọi sống sứ mệnh của lòng thương xót như Thiên Chúa và như Chúa Giêsu đã truyền dạy.
Lòng Thương Xót – đó là chạnh lòng thương với những khổ đau, những phận người yếu hèn tội lỗi. Như người mẹ đầy tình yêu luôn cảm thông, ôm ấp tất cả những đứa con của mình dù chúng lành lặn hay thương tích. Thiên Chúa đã thể hiện lòng thương xót đối với con người ở tột đỉnh khi Ngài luôn “Nhẫn nại và từ bi, giàu ân nghĩa và thành tín.” (x. Xh 34,6) Lòng Thương Xót của Chúa luôn cụ thể như cha mẹ xót thương con cái mình. Với dọc dài lịch sử cứu độ mà chúng ta đã thấy rõ trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn trước những bất trung, yếu đuối của dân Ngài, Chúa chạnh lòng thương, ủi an, nâng đỡ, chữa trị, băng bó, giải thoát…(x. Tv 103.146.147) Lòng thương xót ấy đến từ sâu thẳm của trái tim và thể hiện với lòng cảm thông, trìu mến, khoan dung và tha thứ.
Lòng Thương Xót – đó là tha thứ không tính toán. Qua Chúa Giêsu, lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa đã có một khuôn mặt rõ ràng “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”( Lc 5,32) Lòng thương xót của Chúa đã thể hiện cho Giakêu trong ánh nhìn và lời ngỏ Chúa đến nhà ông – nhà người tội lỗi (x. Lc 19, 5-7) và “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”(Lc 19,10) Ánh mắt đầy tình yêu thương xót của Chúa cũng đã hướng về Matthêu để tha thứ và chọn ông theo Chúa dù ông là một tội nhân. Hơn thế nữa, qua dụ ngôn con chiên lạc, đồng bạc mất tìm thấy và người cha nhân hậu, chúng ta càng thấy rõ bản tính của Thiên Chúa thể hiện như một người cha đầy nhẫn nại và xót thương “Sẽ không bao giờ bỏ cuộc nếu như trước đó đã không tha thứ hết mọi tội lỗi và vượt lên trên sự khước từ với cảm thông và lòng xót thương.”( ĐTC Phanxicô) Lòng xót thương của Chúa mạnh hơn sự chết, thắng vượt tất cả mọi rào cản và dạt dào trong tim cho đến nỗi dù cận kề cái chết, Chúa Giêsu vẫn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34)
Lòng Thương Xót – đó là sống Bí tích Hòa Giải, Bí tích của sự tha thứ. Lòng Thương xót của Thiên Chúa Cha được biểu lộ trên dung nhan của Chúa Giêsu. Lòng Thương Xót là trung tâm mầu nhiệm đức tin của Kitô hữu. Mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào trong mầu nhiệm đức tin với lòng tin tưởng và niềm vui “Nhân danh Chúa Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa.”( 2Cr 5,20) Thế nhưng ngày hôm nay, nhiều người đã coi thường và bỏ Bí Tích Hòa Giải, không còn có tâm tình sám hối! Nhất là người ta đã mất lòng tin vào Bí Tích Hòa Giải do không còn cảm thức về tội, thiếu tình yêu và giảm sút niềm tin đối với Thiên Chúa và lòng thương xót của Ngài. Lòng kiêu ngạo đã ngăn chúng ta đến xưng tội với một Linh mục dù ta vẫn biết rằng ngài đã lãnh nhận quyền tha tội từ Hội Thánh mà chính Chúa Giêsu đã ban: “Anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha.”( Ga 19, 23) Linh Mục thi hành sứ vụ không bằng danh của ngài nhưng nhân danh Chúa Kitô, Đấng muốn chúng ta được hạnh phúc, được cứu độ, được tràn đầy niềm vui và sự thanh thản.
Làm sao chúng ta có thể sống tốt bí tích chữa lành nội tâm và lớn lên trong đời sống thiêng liêng nếu ta không nhận biết tội lỗi của mình cũng như những thiếu sót về tình yêu làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân? Chúa Kitô không nhìn chúng ta qua những tội lỗi khi ta xưng thú, nhưng Người nhìn chúng ta với tình yêu “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.”( Ga 15,9) Lòng thương xót của Chúa đã biểu lộ trọn vẹn trên cây Thánh giá “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.”( 1Pr 2,24) Vậy chúng ta hạnh phúc được đón nhận vòng tay xót thương mở ra từ bí tích Hòa Giải bởi vì tất cả đã được trao ban cho chúng ta: Linh mục, sự tha thứ, ơn xá giải, lòng sám hối. Tất cả là ân huệ nhưng không Chúa dành cho ta.
Đến với Bí tích Hòa Giải, chúng ta xác tín rằng Lòng nhân từ xót thương của Thiên Chúa thì mạnh mẽ và lớn hơn những yếu hèn tội lỗi của ta. ĐTC Phanxicô đã nhắc chúng ta “Bí tích Hòa giải không phải là một buổi tra tấn, một tòa án nhưng là ‘sự gặp gỡ với Chúa Giêsu và ở đó người ta đụng chạm vào lòng trìu mến của Người.” Và Ngài cũng nhắn nhủ với các Linh mục giải tội cần phải trở thành dấu chỉ thực sự của Lòng thương xót Chúa, “Trái tim một Linh mục có khả năng được đánh động và mủi lòng… Là thầy thuốc và quan tòa chữa lành và giải án. Nhiệm vụ của Linh mục là ban sự sống mới của Chúa Phục Sinh một cách quảng đại cho anh chị em trong Bí Tích Hòa Giải.”(ĐTC Phanxicô) Chính vì thế, với lòng tin tưởng, chúng ta hãy đặt mình vào trung tâm của Bí tích Hòa giải vì qua Bí tích, chúng ta được chạm tay vào sự lớn lao vô cùng của Lòng Thương Xót Chúa và chúng ta sẽ đón nhận được nguồn suối ân sủng, bình an thực sự trong tâm hồn và khám phá ra ý nghĩa cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.
Chúa Kitô Phục Sinh sai các Tông đồ “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” ( Ga 19, 21) Hôm nay đến lượt chúng ta, Chúa cũng mời gọi ta sống và loan báo Lòng Thương Xót của Chúa. Bởi vì Lòng thương xót là tiêu chuẩn mà nhờ đó người ta nhận ra chúng ta thực sự là con cái Thiên Chúa. Chúng ta hãy mở lòng mình ra với những khốn cùng của thế giới và những vết thương đau đớn của anh chị em. Tất cả những cử chỉ, hành động và lời nói của chúng ta cần trở nên thấm đẫm Lòng Thương Xót. Hãy sống cụ thể lòng thương xót qua việc không ngừng yêu thương tha thứ như lời mời gọi của Đức Thánh Cha cho toàn Hội Thánh:”Giáo Hội sẽ không bao giờ trở nên mệt mỏi trong việc giới thiệu Lòng Thương Xót và Giáo Hội luôn kiên nhẫn trong sự ủi an và tha thứ.”( M.Vultus số 25)
Lạy Chúa Giêsu, dung nhan nhân hậu của Chúa Cha, chúng con cảm tạ Lòng Thương Xót vô biên của Chúa đã dành cho chúng con. Xin cho chúng con khi đã lãnh nhận Lòng Thương Xót và ơn Tha thứ của Chúa, chúng con cũng biết không mệt mỏi chia sẻ, trao tặng lòng xót thương tha thứ cho anh chị em mà chúng con gặp gỡ. Amen
Kinh Thánh thuật lại rằng Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ cho dân chúng. Ngài đã cho PS 2-ABC436
Kinh Thánh thuật lại rằng Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ cho dân chúng. Ngài đã cho người mù được xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại … (Mt 11:5). Thế nhưng, để nhận được sự chữa lành, để những phép lạ được thực hiện, người ta đã phải hội đủ ba điều kiện sau:
• Thứ nhất là họ đã NHẬN RA họ đang bị bệnh, cần được Chúa chữa lành. Ví dụ như anh Ba-ti-mê, đã nhận rằng anh ta đang bị mù lòa, cho nên anh ta mới van xin Chúa Giêsu “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." (Mc 10:51).
• Thứ hai là đã có LÒNG TIN vững mạnh vào quyền năng của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như người đàn bà van xin Chúa chữa lành cho con gái bà, và con gái của bà đã được khỏi bệnh, lý do là bởi vì bà đã TIN vào Chúa Giê-su: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi” (Mt 15:28).
• Thứ ba là họ đã VAN XIN LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa. Điển hình là trường hợp của những người bị bệnh phong hủi. “Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương xót chúng tôi!" (Lc 17:12-13).
Trong ngày lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót hôm nay, mời bạn hãy hồi tâm và suy nghĩ thử xem, bạn có phải là người khỏe mạnh, lành lặn, sáng suốt hay đang bị yếu đau, mù lòa và què quặt?
• Bạn có nhìn thấy tình yêu, những sự hy sinh, những vất vả khó nhọc của ông bà, cha mẹ đã và đang dành cho bạn không?
• Bạn có thấy những bất hạnh, và những đau khổ mà con cái, mà người vợ hay chồng của bạn đang gánh chịu vì cái tật nghiện ngập xì ke, ma túy, cờ bạc, cá độ, say sưa chè chén…của bạn gây ra không?
• Bạn có nhìn thấy những sự nguy hiểm, những sự tàn phá và những tai hại do những hình ảnh dâm ô, do những cuốn phim con heo, do những cuộc tình vụng trộm gây ra cho bạn và cho gia đình của bạn không?
• Bạn có thấy những gánh nặng về tài chánh đang đè trên đôi vai của cha mẹ, bạn có đưa tay ra đỡ lấy những gánh nặng đó bằng cách phụ giúp các ngài trả tiền nhà, tiền điện, nước, thuế má…không?
• Bạn có mở miệng nói ra những lời nhỏ nhẹ, lịch sự, thanh nhã, tử tế, và nói lên những lời động viên khuyến khích…với những người chung quanh, bắt đầu từ những người ở trong gia đình của bạn không?
Nếu câu trả lời của bạn là YES, thì ALLELUIA, tạ ơn Chúa, bạn đang khỏe mạnh, không bị mù lòa, không bị bại liệt và cũng không bị câm! Còn nếu câu trả lời của bạn là “NO” thì tôi xin thành thật chia buồn, vì bạn đang trong tình trạng bị khiếm thị, bị bại liệt và bị câm rồi đấy! Tôi hy vọng bạn sẽ được Chúa chữa lành.
Nhưng để được Chúa chữa lành, trước tiên bạn phải NHẬN RA rằng, mình là người đau yếu, bệnh tật, mù lòa…Bạn cần đến ơn chữa lành của Chúa. Chứ nếu bạn không nhận ra bạn đang yếu đau, bệnh hoạn…thì bạn không cần đến bác sĩ Giêsu, bởi vì người khoẻ mạnh [thì] không cần thầy thuốc, [chỉ có những] người đau ốm mới cần [mà thôi] (Mc 2:17). Kế đến, bạn phải có LÒNG TIN, và phải tin mạnh mẽ rằng, Thiên Chúa có quyền năng trên những thứ bệnh hoạn tật nguyền mà bạn đang mắc phải. Cuối cùng, bạn phải VAN XIN LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa, xin Ngài cứu chữa …thì Chúa mới chữa lành cho bạn được!
• Hãy ĐẾN với bác sĩ Giêsu và hãy TIN rằng qua bí tích Giải Tội, tôi sẽ được chữa lành, bởi vì đây chính là phương thuốc thần diệu mà Ngài đã để lại giúp cho việc chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta. Bí Tích Giải Tội là một thứ Linh Dược vô cùng hiệu nghiệm!
• Hãy ĐẾN tham dự thánh lễ mỗi ngày, bởi vì trong thánh lễ, tôi có nhiều cơ hội để mở miệng van xin lòng thương xót của Chúa và nhất là tôi được lãnh nhận Linh Dược chính là Mình và Máu Thánh của Chúa Giêsu. Có Chúa ở trong tôi thì chẳng có loại vi trùng nào có thể phá hoại linh hồn và thân xác của tôi được.
Bạn có muốn được chữa lành không? Nếu muốn thì đừng chần chờ nữa! Hãy NHẬN RA mình đang bịnh, xin hãy TIN vào sự tài giỏi của bác sĩ Giêsu, và xin hãy MỞ MIỆNG ra xin Ngài chữa lành cho bạn. “Lạy Chúa Giê-su con tín thác nơi Chúa. Xin Chúa thương xót con!” mục lục
Chúa nhật II phục sinh Giáo hội tôn vinh lòng thương xót của Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết PS 2-ABC437
Chúa nhật II phục sinh Giáo hội tôn vinh lòng thương xót của Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: "Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đỗ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta" (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.
Lòng thương xót của Chúa được diễn tả qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
1. Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được'. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng 'lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi'. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Tôma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : "Lạy Thiên Chúa của con". Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói : "người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi". Nhà thần học Paul Tillich nói : "sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin". Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: "Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững". Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, trong bài giáo lý về Thánh Tôma Tông đồ có đoạn: “Trường hợp của Thánh Tông đồ Tôma với chúng ta có ít nhất ba điều quan trọng: Thánh Tôma mang lại niềm an ủi cho chúng ta trong những khi gặp hoài nghi; Thánh Tôma chỉ cho chúng ta, hoài nghi có thể dẫn đưa tìm đến ánh sáng giúp vượt qua sự bấp bênh mù mịt, và như Thánh Tôma, những lời của Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta đến ý nghĩa chính thật của đức tin. Đồng thời cũng giúp chúng ta can đảm, cho dù có những khó khăn hoài nghi, tiếp tục trung thành theo Chúa”.
2. Lòng mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu. Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
3. Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người trong chúng ta, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót.Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: "Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa". Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thừơng để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Thay vì “phải thấy mới tin”, thánh Tôma đã nhận ra rằng “phải tin mới thấy” trọn vẹn. Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép trong thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ yêu mến lặp lại lời tuyên xưng của thánh Tôma: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn….. Ngày hôm đó, tất nhiên, là một PS 2-ABC438
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em ." Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
“Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô ma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Chúa Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tôma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin." Tám ngày sau, các môn đệ Chúa Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em ." Rồi Ngài bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin ." Ông Tôma thưa Ngài: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " Chúa Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Gioan 20: 19-29).
Ngày hôm đó, tất nhiên, là một ngày không giống những ngày khác. Sau thực tế khủng khiếp về việc Chúa Giêsu bị đóng đinh và chôn cất vào ngày thứ Sáu, Chủ nhật tuần này đã mang đến một số sự kiện kỳ lạ và gây lo lắng.
Sáng sớm hôm đó, Maria Mácđala đau khổ đến nói với các môn đồ rằng xác Chúa Giêsu đã mất tích khỏi ngôi mộ. Phêrô vào “môn đồ kia” đã chạy đến ngôi mộ và tự mình chứng kiến điều đó là sự thật. Họ đã nhìn thấy những tấm vải lanh quấn quanh đầu và thân của Chúa Giêsu nằm ở đó mà không có xác chết nào được tìm thấy. Sau đó, một chút sau ngày hôm đó, Maria Mácđala lại đến với các môn đồ, lần này bà thở hổn hển vì phấn khích, và nói với họ, “Tôi đã thấy Chúa.”
“Vào buổi tối ngày hôm đó, ngày đầu tuần, và cửa ngôi nhà mà các môn đồ gặp đã bị khóa lại vì sợ người Do Thái…” Có thể chúng ta mong đợi rằng các môn đồ sẽ ăn mừng vào lúc này. Thay vào đó, chúng tôi thấy họ đang co ro sau những cánh cửa khóa chặt. Gioan nói rằng cửa đã bị khóa vì sợ người Do Thái. Tất nhiên, vì bản thân các môn đồ là người Do Thái, câu nói đó không thể có nghĩa là họ sợ người Do Thái nói chung. Chắc chắn họ sợ những nhà lãnh đạo Do Thái đứng sau âm mưu giết Chúa Giêsu. Họ có thể sợ hãi cho cuộc sống của chính họ, sợ hãi về tương lai không chắc chắn của họ.
Cách đây vài năm, tôi đọc một bình luận (tôi không nhớ ở đâu hoặc ai đã viết nó) cho rằng có thể, chỉ có thể, các môn đồ cũng sợ Chúa Giêsu. Vì cuối cùng, chính họ đã khiến Ngài thất bại thảm hại. Phêrô đã từ chối Ngài ba lần, và những người còn lại đã bỏ Ngài (ngoại trừ “người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến”, người đã ở dưới chân thập giá và đã đưa mẹ của Chúa Giêsu về nhà của mình). Có lẽ người cuối cùng mà các môn đồ muốn gặp vào buổi tối hôm đó là Chúa Giêsu, đã sống lại từ cõi chết để đương đầu với những thất bại của họ.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu sẽ không bị chặn lại bởi những cánh cửa bị khóa. Chính Ngài là “cửa” của bầy chiên: “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Gioan10: 7), đi qua ngay những cánh cửa bị khóa đó và xuất hiện giữa bầy chiên sợ hãi của mình. Ngài đến không phải để đối đầu với các môn đồ về thất bại của họ, nhưng để ban cho họ sự bình an. Lời chào của Ngài, “Bình an cho anh em” (Gioan10: 19), mang ý nghĩa của lời chào “shalom” trong tiếng Do Thái, một lời chúc không chỉ bao hàm sự bình an, mà là một cảm giác hạnh phúc sâu sắc và toàn diện - loại bình an mà thế giới không thể ban tặng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Gioan 14: 27).
Sau đó, Chúa Giêsu cho các môn đồ xem bàn tay và cạnh sườn của Ngài, để họ thấy rằng chính Ngài, là Chúa Giêsu thật, bằng xương bằng thịt, bị đóng đinh trên thập tự giá - không phải là một bóng ma hay sự hiện ra - đang ở trước mặt họ. Các môn đồ đáp lại bằng cách vui mừng khi thấy Chúa, giống như Chúa Giêsu đã nói với họ rằng họ sẽ vui mừng như vậy: “Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (16:22). Một lần nữa, Chúa Giêsu nói lời chúc bình an và nói với họ, “Như Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em” (Gioan 20:21).
Các môn đồ được sai đến để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu là bày tỏ Thiên Chúa cho thế gian. Họ sẽ không bị bỏ rơi một mình trong nhiệm vụ khó khăn này. Chúa Giêsu đã hứa sẽ cử một Đấng bảo trợ khác (paraklétos, một người được “gọi cùng với” một người nào đó) sẽ ở với họ mãi mãi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài, vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Gioan 14: 16-17). Bây giờ Ngài thực hiện lời hứa đó. Trong một hành động tạo dựng mới: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (Sáng thế ký 2: 7), Ngài ban cho các môn đồ của mình ân huệ Thánh Thần: “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Gioan 20:22). Đấng Đấng bảo trợ hay “Thần chân lý” này sẽ dạy họ, nhắc họ nhớ lại tất cả những gì Chúa Giêsu đã nói với họ, và hướng dẫn họ vào tất cả sự thật: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Gioan 14:26) và : “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Gioan16: 12).
Sau đó, Chúa Giêsu nói với các môn đồ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Gioan20:23). Như nhiều người giải thích đã chứng minh, “tội lỗi” trong tin mừng của Gioan chủ yếu không phải là một phạm trù đạo đức; đúng hơn, về cơ bản, đó là sự không tin, sự từ chối tiếp nhận sự mặc khải của Thiên Chúa trong con người của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không ban cho các môn đồ một quyền năng đặc biệt nào đó để quyết định tội lỗi của ai sẽ được tha thứ và tội lỗi của ai sẽ không được tha thứ. Đúng hơn, Ngài còn xác định rõ hơn ý nghĩa của việc được sai đi, để làm cho tình yêu của Thiên Chúa được biết đến mà chính Chúa Giêsu đã nhận biết. Khi mọi người biết và ở trong Chúa Giêsu, họ sẽ được “giải thoát” (aphiemi) khỏi tội lỗi của họ. Tuy nhiên, nếu những người được Chúa Giêsu sai đến không làm chứng, người ta sẽ vẫn mắc kẹt trong sự không tin của họ; tội lỗi của họ sẽ bị “lưu lại” hoặc bị “giữ lại” (kratéo). Phần nhiệm vụ này thực sự rất cao cả.
Vì một số lý do (chúng tôi không được cho biết tại sao), Tôma đã vắng mặt và bỏ lỡ cuộc gặp gỡ vào tối Chủ nhật đầu tiên này với Chúa Giêsu Phục sinh. Mặc dù ông ấy đã nhận được một tên gọi tệ là “Tôma hồ nghi,” ông ấy không yêu cầu gì hơn những gì những người khác đã nhận được: được nhìn thấy Chúa Giêsu, những vết thương và tất cả. Điều kỳ diệu của câu chuyện này là một tuần sau, Chúa Giêsu lại xuất hiện để cung cấp chính xác những gì Tôma cần. Và Tôma đáp lại bằng lời tuyên xưng Kitô học cao nhất so với bất kỳ ai trong Tin mừng. Lời tuyên xưng của Tôma không chỉ đơn giản là một lời tuyên xưng về giáo lý, mà còn là một lời tuyên xưng về sự tin cậy và mối quan hệ: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Gioan 20:28).
Phản ứng của Chúa Giêsu đối với Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (20:29) không phải là một lời quở trách, mà là một phúc lành cho tất cả những ai sẽ tin tưởng mà không có được lợi ích của cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt với Chúa Giêsu. Thật vậy, tác giả tiếp tục tuyên bố rằng đây chính là mục đích của cuốn sách này, nói đến tất cả chúng ta, những người chưa thấy nhưng đã nghe lời chứng này: “Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Nhưng những điều này được viết ra để các bạn có thể tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, và nhờ tin rằng bạn có thể được sự sống trong danh Ngài” (Gioan 20: 30-31).
Mùa Phục sinh của Alleluia – Mừng Vui Lên - đôi khi dường như để lại không nhiều chỗ cho những nghi ngờ, nỗi sợ hãi và nỗi đau của chúng ta. Chúng ta có xu hướng quên rằng đối với những môn đồ đầu tiên, họ đã từng sợ hãi, nghi ngờ, đau đớn và bối rối trước khi có được sự hiểu biết và vui mừng về những gì đã xảy ra vào ngày hôm đó. Một tuần sau khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đồ, họ lại tập trung sau những cánh cửa khóa chặt, cho thấy rằng Tôma không phải là người duy nhất cần được trấn an rằng trên thực tế, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết.
Một bài giảng về văn bản này có thể thực hiện theo nhiều hướng. Một là khám phá điểm chung của chúng ta với các môn đệ trong nỗi sợ hãi và nghi ngờ của họ. Ngày nay chúng ta có quá khác biệt không, ngay cả sau khi chúng ta nghe nói - chỉ một tuần trước - rằng Chúa Giêsu đã sống lại từ ngôi mộ? Làm thế nào để sự lo lắng và sợ hãi trong cuộc sống của chúng ta đừng phản bội lại sự tin tưởng của chúng ta? Một nhà giảng thuyết có thể nêu tên một số nỗi sợ hãi và lo lắng khiến chúng ta bị khóa chặt - với tư cách cá nhân và hội đoàn - và khiến chúng ta không thể hoàn thành sứ mệnh mà Chúa Giêsu đã kêu gọi và sai chúng ta.
Điều tự nhiên cần làm khi chúng ta cảm thấy lo lắng hoặc bị đe dọa là thu mình lại và khóa cửa, tập trung vào an toàn của chính chúng ta hơn là nhiệm vụ mạo hiểm mà chúng ta được gọi. Lời hứa của bản văn này là Chúa Giêsu không thể bị chặn lại bởi những cánh cửa đã khóa của chúng ta. Chúa Giêsu đến với chúng ta khi Ngài đến với các môn đệ đầu tiên, ngay trong lúc chúng ta sợ hãi, đau đớn, nghi ngờ và bối rối. Ngài đến và nói “bình an cho anh em”, thổi hơi thở vào cuộc sống lo âu của chúng ta bằng hơi thở của Chúa Thánh Thần.
Hơn thế nữa, Ngài vẫn tiếp tục xuất hiện. Khi trở lại với Tôma một tuần sau đó, Chúa Giêsu tiếp tục trở lại tuần này qua tuần khác giữa các môn đồ được quy tụ của Ngài - trong lời nói, nước, bánh và rượu - không muốn bất kỳ ai bỏ lỡ sự sống và sự bình an mà Ngài ban cho. Và Ngài tiếp tục đưa chúng ta ra khỏi căn phòng an toàn, nhưng khóa chặt của chúng ta, để đi vào một thế giới, giống như thế giới của chúng ta, vốn rất cần những ân huệ sự sống và bình an của Ngài. mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ, theo https://www.workingpreacher.org
Bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay (Cv 5:12-16) diễn tả mức sinh hoạt khá sống động của PS 2-ABC439
Bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay (Cv 5:12-16) diễn tả mức sinh hoạt khá sống động của Cộng Đồng Kitô Giáo Sơ Khai ở Jerusalem. Giáo Hội đã phát triển nhanh chóng và lạ lùng (2:41,47; 4:4; 6:1; 9:31). Một số lớn người, nam có nữ có đã chịu phép Thanh Tẩy và trở thành môn đệ Chúa (5:14). Những dấu chỉ lạ lùng và ngạc nhiên trước mắt là quà tặng do Chúa Thánh Thần ban qua những “phép lạ và việc lành” (1 Cr 12:9, 28) do các Tông đồ làm. Hình bóng Phêrô đầy quyền năng được thể hiện qua những hình ảnh được mô tả trong Công Vụ Tông Đồ (5: 15-16): “Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra ngoài đường phố, đặt trên chõng trên cáng trên giường để khi ông Phêrô đi qua, ít ra là cái bóng của ông phủ lên một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành xung quanh Jerusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau bệnh tật, cả những người bị thần ô uế ám ảnh. Tất cả đều được chữa lành.”
BÓNG HÌNH CỦA PHÊRÔ
Đọc đoạn Tin Mừng trên ai mà không cảm động và ngỡ ngàng. Chỉ cần cái bóng của Phêrô phủ lên người bệnh thì bệnh cũng hết, nỗi đau buồn phiền cũng tan đi. Nên hiểu tiếng “bóng hình” của Phêrô là quyền năng của Thiên Chúa hành động qua ông.
Những phép lạ chữa lành này đã thu hút người ta về với Giáo Hội sơ khai, xác nhận những giảng huấn của các Tông đồ là có thật và quả quyết quyền năng Thiên Chúa ở với các ông. Những tên lãnh đạo tôn giáo trước kia đã từng ghen tương với quyền năng của Chúa Giêsu, giờ này lại nhìn các Tông đồ như là mối đe dọa mới tiếp nối Chúa Giêsu, đòi hỏi mọi người phải kính trọng. Các Tông đồ không yêu cầu người ta kính trọng các ông; các ngài chỉ có mục đích đem niềm tin và sự kính trọng đối với Thiên Chúa. Các ngài được người ta kính trong không phải các ngài đòi hỏi. Các ngài xứng đáng được như vậy.
ĐTC BIỂN ĐỨC XVI Ở GIỮA CHÚNG TA
Qua bài Tin mừng này, chúng tôi liên tưởng đến ĐTC Biển Đức XVI trong cuộc du hành mục vụ ở Hoa Kỳ năm 2008 lúc ngài di chuyển giữa hàng trăm ngàn người ái mộ. Người mục tử thật, theo Chúa Giêsu thì phải bắt chước Chúa Giêsu và yêu thương đàn chiên đang tin tưởng nơi mình. ĐTC Biển Đức XVI đã làm đúng như vậy.
Từ nhiều năm nay, thế giới đã chứng kiến những diễn biến và đau khổ của nhiều người trẻ vì nạn lạm dụng tình dục, đã xẩy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới. Lạm dụng tình dục là quỉ quái, là một tội ác có tính hủy hoại. Một số nhỏ các linh mục và tu sĩ đã hứa bảo vệ, che chở và yêu thương con trẻ, đã làm ô danh Giáo Hội và xã hội. Một số người trách ĐTC Biển Đức XVI là chẳng hành động gì cả, đã che dấu tội lỗi và những bất hạnh của những trẻ vị thành niên bị lạm dụng tình dục. Trách cứ đó quả là bất công và tai hại vô cùng cho Giáo Hội, cho nạn nhân và cả xã hội nói chung.
Nghĩ đến cuộc viếng thăm mục vụ Hoa Kỳ của ĐTC Biển Đức XVI với tất cả cảm mến và biết ơn. Trong cuộc viếng thăm đó, cái bóng của Phêrô đã đến Hoa Kỳ cũng như ở bất cứ nơi nào mà một Giáo hoàng đặt chân đến để thăm Dân Chúa. Cái bóng đó là sự “đụng chạm” của Thiên Chúa. Nó bao phủ tất cả chúng ta với lòng thương xót, chữa lành và an bình. Khi ĐTC Biển Đức XVI bước đi giữa chúng ta, ngài đã làm nhiều hơn là chỉ nói xuông. Ngài đã gắn bó với chúng ta. Ngài đã làm cho biết bao nhiêu người cảm động phải rơi lệ. Ngài tỏ ra can đảm, khôn ngoan và đầy lòng trắc ẩn sâu xa. Báo chí đã không bỏ qua những cuộc thăm viếng riêng tư và linh động của ngài tại tòa đại sứ Vatican ở Hoa Thịnh Đốn với những nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục. Ngài đã không sợ và sẽ chẳng bao giờ sợ phải đi vào những nơi đau khổ, ngờ vực, buồn phiền và tai họa của khủng khoảng lạm dụng. Ngài muốn mọi người biết rằng ngài đã lắng nghe và thấu hiểu và, Giáo hoàng sẽ tiếp tục hành động để những thảm họa đó không bao giờ xẩy ra nữa.
Ở ĐÂU CÓ PHÊRÔ Ở ĐÓ CÓ GIÁO HỘI / UBI PETRUS IBI ECCLESIA
Đây là một thành ngữ Latinh, được thánh Ambrose sử dụng trước tiên ở thế kỷ IV đã trở lại trong trí tôi khi ĐTC Biển Đức XVI đến thăm Hoa Kỳ hồi tháng 04 năm 2008: “Ubi Petrus ibi Ecclesia nghĩa là Ở đâu có Phêrô ở đó có Giáo Hội”. Phêrô đã ở Hoa Kỳ, nụ cười dịu hiền và sự trầm lặng của ngài đã hâm nóng trở lại cả một quốc gia, một Giáo Hội và một lục địa với hy vọng giữa những chỉ trích, hoài nghi, chán nản, thất vọng và nhiều người muốn chết cho một Giáo Hội được sống và trẻ trung. Chỉ có thời gian, chiêm nghiệm và cầu nguyện mới biết được phép lạ chữa lành đã được gieo năm 2008 sẽ tiếp tục sinh hoa trái cho Giáo Hội Hoa Kỳ hay không!
Một điều chắc chắn là ĐTC Biển Đức XVI, cái bóng của Phêrô đã đổ trên cả triệu người dân Hoa Kỳ vào năm 2008 và còn tiếp tục đổ trên hàng triệu triệu người khác trên khắp thế giới cho đến ngày nay, nhất là những ai bị tổn thương và đau khổ do những hành động ác quái lạm dụng tình dục trẻ thơ. Đừng bao giờ quên rằng ĐTC Biển Đức XVI, một Phêrô vẫn còn luôn luôn ở với chúng ta.
NIỀM TIN CỦA TÔMA: PHÚC THAY AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Câu chuyện Chúa Phục Sinh do Gioan kể (Chương 20-21) có những biến cố xẩy ra giữa Chúa Giêsu và những người theo Chúa cho thấy có nhiều phản ứng khác nhau về niềm tin. Phải chăng những câu chuyện này đã xẩy ra với Simon Phêrô và người môn đệ Chúa yêu, Maria Mađalêna, các môn đê khác hay Tôma. Toàn thể quang cảnh đó cho thấy trong số những người tin lại có những mức độ tin khác nhau, những yếu tố khác nhau giúp họ tin và trở thành chứng nhân niềm tin và đi rao truyền tin mừng. Câu chuyện giữa chúa Giêsu và Tôma (Ga 20:19-31) ghi lại việc Chúa hiện ra lần thứ hai sau khi Chúa sống lại là một kinh nghiệm điển hình về hồ nghi, phấn đấu và tin.
Ở đây, thách đố cho mỗi Kitô hữu là ở chỗ: Không Thấy Mà Tin. Trong đoạn Tin Mừng này chúng ta thấy một câu chuyện lồng trong một câu chuyện: giải quyết sự hồ nghi của Tôma trong lúc Chúa hiện ra để khuyến khích các môn đệ đừng có sợ. Tôma chỉ tin khi nhìn thấy Chúa, nghe chính Chúa kêu gọi. Tôma không phải là người luôn luôn nghi ngờ hay ngoan cố hoặc cứng đầu cứng cổ. Tôma hồ nghi nhưng đã được Chúa cho phép làm một điều mà tất cả chúng ta ai cũng muốn. Ông được sờ và đặt tay vào lỗ đanh ở tay chân Chúa và đặt tay vào vết đâm nơi cạnh sườn Chúa, một cảm nghiệm thực của con người. Đối với chúng ta, điều này hơi khó đấy. Chúng ta cần phải khởi đầu bằng niềm tin trước, rồi mù quáng đụng chạm theo cách thức riêng trong thâm tâm chúng ta.
Chúng ta biết rất ít về Tôma, về gia đình dòng họ và số mệnh của thánh nhân, nhưng chúng ta có một yếu tố quan trọng về căn tính của ông. Tên ông là Tôma, tiếng Hy Lạp là Didymous, theo triết tự có nghĩa là “sinh đôi/twin”. Vậy ai là anh em sinh đôi / một nửa kia của Tôma? Chúng ta có thể thấy người đó khi nhìn vào gương. Anh em sinh đôi hay một nửa kia của Tôma là bất cứ ai đang phải phấn đấu với đau khổ vì hồ nghi và thất vọng. Sự hiện diện của Chúa Giêsu sống lại đã khiến nó trở thành khác biệt. Khi điều đó xẩy ra thì hồ nghi có đóng băng cũng tan thành nước.
Tôma và người anh em sinh đôi trên khắp địa cầu hy sinh tất cả mọi sự trong Chúa Giêsu và vì Chúa Giêsu để trở thành nguồn ơn phúc cho tha nhân dù họ hồ nghi và tuyệt vọng hay vì họ tuyệt vọng và hồ nghi.
CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Tại sao gọi Chúa Nhật II sau Phục Sinh là Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót? Chúa Nhật lòng Chúa thương xót không phải là ngày lễ mừng thánh Faustina Kowalsaki mạc khải (1905-1938). Thực ra chẳng có gì dính dáng đến thánh Faustina, đúng ra là nhắc lại truyền thống phụng vụ phản ảnh giảng huấn của thánh Augustinô về Tuần Bát Nhật sau lễ Phục Sinh mà thánh Augustinô gọi là “những ngày thương xót và tha thứ” ám chỉ Ngày Bát Nhật như là “bản tóm tắt những ngày thương xót.”
Cũng không cần thiết phải có liên hệ giữa Lòng Chúa Thương Xót và câu chuyện thánh Tôma và Chúa Kitô sống lại. Mừng Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót không có nghĩa là cạnh tranh hay làm mất đi sự nguyên vẹn của Mùa Phục Sinh, cũng không lấy nó ra khỏi câu chuyện Tôma và Chúa Giêsu phục sinh trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót là một ngày trong tuần bát nhật sau Phục Sinh, mừng Tình Yêu Chúa tràn đầy lòng thương xót chiếu tỏa suốt tuần tam nhật Phục Sinh và màu nhiệm Chúa Phục Sinh. Vào ngày 30-04-2000 thánh Faustina được tuyên hiển thánh, Đức Gioan Phaolô II đã nói trước hơn 200.000 người ở quảng trường thánh Phêrô: “Chúa Giêsu đưa những bàn tay và cạnh sườn của người (cho các môn đệ). Người chỉ vào đó và nói ‘đây là những vết thương Khổ Nạn, đặc biệt vết thương lòng là nguồn suối chảy ra những ngọn sóng thương yêu vĩ đại đổ trên loài người.”
Những năm trước đây, với tôi, thật khó có thể nhìn ra được sự liên hệ nội tại giữa Chúa Nhật II sau Phục Sinh là lễ thánh Tôma Tông Đồ và sự mạc khải của thánh Faustina, tôi đã phải tìm hiểu qua bài thánh ca do thánh Bernard ghi lại (Canticle 61, 4-5:PL 183, 1072): “Điều mà tôi không thể tự có được thì tôi cưỡng đoạt nó với lòng tin tưởng nơi vết đâm ở cạnh sườn Chúa, bởi vì người đầy lòng thương xót.” Câu chuyện Tôma và Chúa Kitô Phục Sinh đã cho tôi một cái nhìn tổng quát của một tân viễn cảnh về ý nghĩa lòng Chúa thương xót. Bấy giờ tôi đã hiểu ngày hôm nay là thế nào. Và bây giờ hơn bao giờ hết, trong Giáo Hội và trên khắp thê giới, tất cả chúng ta đều cần đến lòng Chúa Thương Xót. mục lục
Từ ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được tuyên Thánh (27/04/2014) Lễ Kính Lòng Thương Xót PS 2-ABC440
Từ ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được tuyên Thánh (27/04/2014) Lễ Kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa như có thêm sức lôi cuốn trong Hội Thánh, vì chính Thánh Giáo Hoàng đáng kính yêu ấy là người đã cỗ võ mạnh mẽ Lòng Thương Xót Chúa trong triều đại Giáo Hoàng của ngài.
Còn Thánh Nữ Maria Faustina (1) là người đã được Thiên Chúa tỏ cho biết mong muốn của Người là Hội Thánh tôn sùng và cổ võ Lòng Chúa Thương Xót: “Ta muốn ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót là một trợ giúp và nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, Lòng Thương Xót của Ta sẽ rộng mở; Ta sẽ tuôn đổ một đại dương hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch Lòng Thương Xót của Ta.” (Trích nhật ký, số 699).
Thât ra mạc khải tư của Thánh Nữ Maria Faustina cũng chỉ là một triền khai mặc khải của Thánh Kinh về Thiên Chúa. Thánh Gioan đã khẳng định “Thiên Chúa là Tình Yêu” mà Tình Yêu thì thương xót.
Chúng ta hãy đọc và suy niệm các bài Thánh Kinh hôm nay trong tâm tình hân hoan và biết ơn.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Cv 2, 42-47): "Tất cả mọi kẻ tin, đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung" Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu nguyện. Mọi người đều có lòng kính sợ. Vì các Tông đồ làm nhiều việc phi thường và nhiều phép lạ tại Giêrusalem, nên mọi người đều sợ hãi. Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp, rồi phân phát cho mọi người tuỳ nhu cầu từng người. Hằng ngàyhọhợp nhất một long một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách vui vẻ đơn sơ; họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng. Hằng ngày Chúa cho gia tăng số người được cứu rỗi.
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (1 Pr 1,3-9): "Nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống" Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn, dành để cho anh em trên trời. Anh em được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa, nhờ tin vào sự cứu độ đã được mạc khải trong thời sau hết. Lúc đó anh em sẽ vui mừng, tuy bây giờ anh em phải sầu khổ một ít lâu giữa trăm chiều thử thách, để đức tin anh em được tôi luyện, nên quý hơn vàng được thử lửa bội phần, nhờ đó, anh em được ngợi khen, vinh quang và vinh dự khi Đức Giêsu Kitô hiện đến. Anh em yêu mến Ngài, dù không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài; bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Ga 20,19-31): “Tám ngày sau, Đức Giêsu hiện đến” Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Đấng đã dùng quyền năng (điềm thiêng dấu lạ) mà tập họp các tín hữu đầu tiên thành một cộng đoàn hiệp thông, yêu thương, đoàn kết và san sẻ!
* Là Thân Phụ của Chúa Giê-su Chúa chúng ta và là Đấng đã ban cho chúng ta lòng tin và niềm hy vọng nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô.
* Là chính Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã được Thiên Chúa Cha cho trỗi dậy từ cõi chết và đã hiện ra với các môn đệ để củng cố lòng tin và huấn luyện các ngài bằng lời giáo huấn và bằng nhiều dấu lạ.
3.2 Sứ điệp hay Giáo huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là Tin & Làm Chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh và cho Thiên Chúa là Cha của Chúa Ki-tô là Đấng Giầu Lòng Thương Xót đối với các môn đệ và loài người.
Làm chứng hay thể hiện lòng tin vào Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót bằng tâm tình, thái độ, cử chỉ, lời nói và việc làm.
Làm chứng hay thể hiện lòng tin ấy không chỉ bằng lời kinh, tiếng hát mà còn bằng cách truyền bá Lòng Thương Xót ấy trong gia đình và nhất là ngoài xã hội loài người hôm nay.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng luôn chăm lo cho Ít-ra-en và tuyển chọn những con người thích hợp (là vua Đa-vít và là chính Con Một Thiên Chúa) để chăm lo cho dân. Thiên Chúa đối xứ với Ít-ra-en cũ thế nào thì cũng đối xử với Ít-ra-en mới là Hội Thánh y như vậy!
Sống với Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã được Cha sai đến để làm ánh sáng cho trần gian và đưa các Ki-tô hữu vào thế giới sự sáng.
Sống với Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và hành động trong lịch sử của Ít-ra-en cũng như trong lời nói và việc làm của Chúa Giê-su Na-da-rét, nhất là trong hành động chữa lành mắt người mù từ lúc mới sinh và trong mạc khải là Con Người, là ánh sáng trần gian.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay Giáo Huấn của Chúa,
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình dựa vào hai câu hỏi đơn sơ này:
- Tôi cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót như thế nào?
- Tôi truyền bá Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót bằng những cách nào? ở những nơi nào? cho những ai?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Bình an cho anh em!” Chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho các dân tộc trong thế giới hôm nay, nhất là cho các nước đang bị dịch cúm corona virus tàn phá, để các dân tộc ấy nhận được ơn bình an của Thiên Chúa qua Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Chúng ta hãy cùng cầu nguyện cách đặc biệt cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ là những người đã được Thiên Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho nhân loại, để các vị ấy thực thi sứ vụ một cách trung kiên và quảng đại.
Xướng: Chúng ta cùng cầu cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 “Bình an cho anh em! Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” Chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho các Ki-tô hữu thuộc giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để ai nấy được sống trong bình an của Chúa Ki-tô Phục Sinh và vững mạnh trong đức tin chính thống cùa Đạo Thánh Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” Chúng ta hãy cùng cầu nguyện cách đặc biệt cho những người cứng lòng và không tin để những người ấy thay đổi tư duy và hành động mà sống theo ánh sáng của lương tri và Thần Khí.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 12/04/2023
--------------------------- (1) Thánh Nữ Faustina Kowalska sinh ngày 25/8/1905 ở Glogowiec, nước Ba Lan và qua đời tại Cracovia năm 1938, lúc mới có 33 tuổi. Faustina là con thứ 3 trong đại gia đình gồm 10 anh chị em của một gia đình nông dân rất sùng đạo. Lúc 16 tuổi, Faustina làm việc trong những gia đình khá giả. Năm 20 tuổi, Faustina xin vào tu tại Dòng các Nữ tu Đức Trinh Nữ rất thánh, Mẹ của Lòng Thương Xót. Từ nhỏ Faustina đã nổi bật về đức tin, lòng mộ đạo và sự vâng lời. Faustina thường lập đi lập lại lời này: “Nơi Chúa Giêsu có tất cả sức mạnh của tôi.”
Trong 13 năm sống trong Dòng, Faustina đã được nhiều ơn mặc khải và thị kiến (visions). Ngày 22/2/1931, trong lúc ở tại tu viện ở Crakow, chị đã thị kiến Chúa Giêsu hiện ra với chị, và yêu cầu chị thực hành ngày Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa. Chị thấy Chúa Giê-su trong phẩm phục màu trắng với một tay chúc lành, còn tay kia chỉ vào tim của Chúa. Tấm hình đã được vẽ lại và loan truyền đi khắp thế giới. Sau những lần mạc khải, nữ thánh Faustina đã ghi chép lại rằng Chúa Giê-su yêu cầu lần chuỗi kính Lòng Thương Xót Chúa, để cầu cho người mắc tội trọng và cũng có thể khấn xin ơn riêng cho mình. Vào ba giờ chiều mỗi ngày, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội cùng tưởng niệm cái chết của Chúa Giê-su, vì Chúa cũng đã sinh thì trong giờ này.
Trong cuốn nhật ký “Lòng Thương Xót Chúa Trong Linh Hồn Tôi“ chị Faustina viết: “Buổi chiều khi đang ở trong phòng, tôi bổng thấy một thị kiến: Chúa hiện ra trong trang phục màu trắng, bàn tay mặt giơ lên như để chúc lành, bàn tay trái áp nơi con tim, từ nơi đó phát xuất hai luồng ánh sáng, một luồng đỏ và một luồng trắng. Tôi im lặng nhìn chằm chặp vào Chúa. Tâm hồn tôi dâng lên một nỗi sợ hãi, nhưng đồng thời với một niềm vui sướng khôn tả. Sau đó, Chúa Giê-su nói với tôi: “Con hãy họa một bức ảnh giống như con đã thấy, kèm theo chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Ngài". Ta hứa rằng linh hồn nào tôn sùng Ta qua hình ảnh này- sẽ không bị hư mất. Ta cũng hứa sẽ cho họ được chiến thắng những kẻ thù của họ trên trái đất này, đặc biệt là trong giờ chết. Ta sẽ bảo vệ họ như chính bảo vệ vinh quang của Ta. Ta sẽ hiến dâng nhân loại một nguồn mạch mà từ đó tuôn ra những ân sủng của Lòng Thương Xót. Nguồn mạch đó là bức ảnh này và dòng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Ngài“. Ta mong mỏi bức ảnh này phải được tôn sùng đầu tiên trong nhà nguyện của con, sau đó trên toàn thế giới “. (Trích tài liệu của thanhlinh.net/ lòng thương xót).
Chúng ta cũng có thể cầu nguyện bằng những lời này:
1. Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã thực hiện nhiều điềm thiêng dấu lạ để xây dựng cộng đoàn tín hữu đầu tiên và quy tụ nhiều người tin theo Chúa Kitô Phục Sinh là Con Một Chúa.
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Cha ban cho chúng con và những người khát khao tìm kiếm Chúa, những dấu chỉ “hiển nhiên” của sự hiện diện và hành động yêu thương của Cha trong chúng con và trong cộng đồng xã hội hôm nay!
2. Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã làm cho Con Chúa là Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết, đã để cho Người hiện ra với các tông đồ và nhiều tín hữu thời sơ khai để củng cố đức tin non yếu của họ.
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Cha ban Chúa Giê-su cho chúng con và cho những người thiện chí để chúng con trở thành các môn đệ trung kiên của Con Một Chúa!
3. Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã dùng thánh nữ Maria Faustina để khuyến khích chúng con tin vào Lòng Thương Xót Bao La của Chúa.
Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Cha ban Chúa Thánh Thần cho chúng con để chúng con mạnh dạn và hăng say truyền bá quyền năng và lòng từ bi thương xót của Chúa khắp mọi chốn mọi nơi. Amen!
Sau khi Đức Giêsu chịu chết và táng trong mồ, các môn đệ bàng hoàng lo lắng vì, theo các ông PS 2-ABC441
Sau khi Đức Giêsu chịu chết và táng trong mồ, các môn đệ bàng hoàng lo lắng vì, theo các ông, chết là hết, bao nhiêu mộng ước đã tan thành mây khói. Nhưng Chúa Giêsu đã hiện ra để củng cố đức tin cho các ông, yên ủi các ông, nâng đỡ các ông, đem sự bình an và niềm vui đến cho các ông. Trong niềm tin tưởng đó, các ông hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Tuy được niềm tin và niềm vui Phục sinh nâng đỡ, các ông cũng phải găp nhiều gian nan thử thách trong cuộc sống: “Anh em sẽ được vui mừng mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách”.
Trong những lần hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu đặc biệt quan tâm đến lời chào các ông: “Bình an cho các con”(Ga 20,19). Phải chăng đây là quà tặng của Chúa Giêsu Phục sinh tặng ban cho các ông? Đúng vậy, đây không phải chỉ là lời chào thông thường của người Do thái chào nhau mà còn có ý nghĩa thâm thúy hơn. Bình an mà Chúa Phục sinh ban cho các ông là ân ban của Chúa Thánh Thần giúp các ông giữ vững được tình yêu đối với Chúa và kiên tâm rao giảng Tin mừng trong những hòan cảnh phức tạp.
Muốn đón nhận và kiên trì giữ được sự bình an ấy, chúng ta phải cố gắng thực hiện: mặt tiêu cực là đừng phạm tội vì tội là phản nghịch cùng Chúa, sẽ gây xáo trộn trong tâm hồn; mặt tích cực là phải nỗ lực xây dựng sự bình an trong tâm hồn mình trong mọi hòan cảnh, dù gặp những phong ba bão táp trong cuộc đời. Sự bình an đích thực chỉ có được nơi những tâm hồn biết chiến đấu chứ không phải cho những người ngồi chờ sự an nhàn hưởng thụ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Cv 2,42-47.
Sau ngày lễ Hiện xuống, các tông đồ chia nhau đi rao giảng Tin Mừng, bắt đầu từ Giêrusalem. Cộng đoàn tín hữu sơ khai này có một điểm nổi bật đó là tình huynh đệ keo sơn. Mọi thành viên trong cộng đoàn yêu thương nhau, chỉ có một trái tim, một tấm lòng, một linh hồn: họ cùng nhau chia sẻ lời Chúa, tham dự lễ nghi bẻ bánh, góp của riêng thành của chung, phân phát cho nhau để không một ai trong cộng đoàn phải đói khát. Cộng đoàn tiên khởi này là khuôn mẫu tình huynh đệ cho Kitô hữu hôm nay. Cần phải trở về nguồn, cần phải canh tân đời sống Giáo hội theo khuôn mẫu cộng đoàn tiên khởi ấy.
+. Bài đọc 2: 1Pr 1,3-9.
Trong thư gửi cho tín hữu ở Tiểu Á, thánh Phêrô đã nói lên tâm tình cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa vì Người cho ta được tái sinh nhờ việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Ngài khuyên nhủ các tín hữu, trong niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh, hãy sống trung thành với ơn gọi của mình trong mọi hoàn cảnh. Theo Ngài, những khó khăn thử thách mà Kitô hữu phải đối diện hằng ngày là nhằm thanh luyện và củng cố đức tin vì đức tin phải được thử thách mới có giá trị. Vì thế, các tín hữu hãy sống trong hy vọng về sự phục sinh của mình để sống vui tươi và vững vàng trong mọi cơn gian nan thử thách.
+. Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thanh Gioan thuật lại cho chúng ta hai lần hiện ra của Chúa Giêsu. Lần thứ nhất là ngay chiều phục sinh và lần thứ hai là sau tám ngày. Mặc dù bà Maria Madalena đã báo cho các tông đồ biết rằng Chúa đã hiện ra với bà, nhưng các ông không tin. Chúa Giêsu phải hiện ra trước mặt các ông để các ông tin rằng Ngài đã sống lại như lời đã báo trước. Ngài hiện ra để củng cố đức tin cho các ông, đem lại an bình và niềm vui cho các ông để các ông vững mạnh đi rao giảng Tin mừng. Chính các ông sẽ là chứng nhân của việc Chúa sống lại. Còn sự cứng lòng tin của ông Tôma chỉ là cơ hội khơi lại đức tin nơi các tông đồ, giúp các ông vững tin trong việc rao giảng Tin mừng mặc dù gặp gian nan thử thách.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bình an cho các con
I. ĐỨC GIÊSU BAN BÌNH AN CHO CÁC MÔN ĐỆ.
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Phục sinh. Mầu nhiệm lớn lao của Chúa Phục sinh còn đang chi phối tâm hồn chúng ta. Bài Tin mừng hôm nay vẫn còn tiếp tục bàn về việc Chúa sống lại hiện ra với các Tông đồ.
Đức Giêsu đã sống lại được một tuần rồi, hôm nay thánh Gioan kể gồm hai lần Chúa hiện ra: một lần hiện ra ngay chính chiều ngày Chúa sống lại không có mặt Tôma và một lần có mặt Tôma. Mục đích việc Chúa hiện ra là làm cho các Tông đồ tin rằng Ngài đã sống lại thật.
Mặc dầu đã được Kinh Thánh cũng như Đức Giêsu báo trước về Ngài, các môn đệ vẫn tỏ ra bàng hòang khi chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Ông Phêrô thì chối Chúa, các môn đệ hầu hết đã bỏ trốn chỉ còn một số ít theo Ngài xa xa. Bao nhiêu mộng ước của các ông dường như đã tiêu tan cùng với cái chết của Thầy mình. Khi được báo tin Chúa sống lại, các ông vẫn còn bán tín bán nghi. Đức Giêsu đã phải hiện ra nhiều lần để trấn an, giải thích và củng cố niềm tin cho các ông.
Tin mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại hai lần hiện ra của Đức Giêsu với các môn đệ trong phòng cửa đóng kín và lời đầu tiên của Ngài là lời chúc bình an cho các ông. Trong cả hai lần gặp gỡ, Đức Giêsu đã lập lại lời chúc này tới ba lần: “Bình an cho các con). Ngài đã cho các ông xem tay chân và cạnh sườn Ngài, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, nhưng lần này vắng mặt Tôma.
Tám ngày sau các môn đệ lại tụ họp trong nhà, có cả Tôma ở đó nữa. Trong khi các cửa đều đóng kín, Đức Giêsu đến đứng giữa các ông, và sau lời chào bình an Ngài bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”(Ga 20,27). Xem ra Chúa có ý trách ông Tôma vì sự cứng lòng của ông, nhưng chính nhờ đó mà các môn đệ, và các thế hệ sau này là chúng ta có thêm bằng chứng mạnh mẽ về việc Chúa sống lại. Ở những lần hiện ra khác, Đức Giêsu cũng tỏ ra ân cần và thân mật khi gặp gỡ, giải thích Kinh Thánh hoặc cùng ăn cùng uống với các ông.
Sau khi chỗi dậy từ cõi chết, món quà đầu tiên mà Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không phải là những gì kiêu sa, huy hòang hay lộng lẫy, mà là một câu nói đơn sơ chất chứa tấm lòng chân thành thương yêu và săn sóc: “Bình an cho các con”(Ga 20,19).
Chính vì yêu thương Đức Giêsu đã đi bước trước và sớm nhận ra nhu cầu thiết yếu của các môn đệ trong hòan cảnh lúc đó. Đức Giêsu đã trấn an, củng cố niềm tin và ban Thánh Thần để gìn giữ các ông. Một trong những điểm nổi bật khiến chúng ta nên dừng lại và cùng suy tư tại sao Đức Giêsu lại lặp đi lặp lại nhiều lần lời chúc bình an trong đọan Tin mừng hôm nay.
Phải chăng Ngài muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết ý nghĩa thâm sâu của nguồn bình an đích thực? Không có bình an của Đức Kitô, cuộc đời các môn đệ khi xưa cũng như mọi người chúng ta hôm nay sẽ dễ dàng bị lún sâu trong phiền muộn, chán nản thất vọng và dần dần sẽ đánh mất đi niềm tin của mình.
II. BÌNH AN TRONG CUỘC SỐNG CHÚNG TA.
1. Lý do cần sự bình an.
Đọc những trình thuật Phục sinh trong bốn cuốn sách Tin mừng, chúng ta nhận thấy các tác giả đều nhắc lại lời chào của Đức Giêsu đối với các môn đệ: “Bình an cho các con”. Chúng ta phải thắc mắc tại sao Đức Giêsu chúc bình an cho các ông nhiềâu như vậy. Chắc hẳn phải có vấn đề khi Ngài chúc bình an cho các ông.
* Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho các con”(Lc 24,37).
* Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái, Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho các con”(Ga 20,19).
* Người lại nói với các ông: “Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con”(Ga 20,21).
* Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả Tôm ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho các con” (Ga 20,26).
Đức Giêsu chúc bình an nhiều như vậy, chắc chắn tâm hồn các môn đệ đang ở trong trạng thái hoang mang SỢ HÃI và mất BÌNH AN. Họ thiếu thốn bình an cho nên công việc đầu tiên khi Đức Giêsu hiện ra với họ là phải cung cấp ngay cho họ sự bình an của Ngài. Nếu đọc lại trình thuật Phục sinh trong Tin mừng của thánh Luca và của thánh Gioan một lần nữa, ta thấycả hai thánh sử đều nói rằng khi các môn đệ đối diện với Đức Giêsu Phục sinh thì họ đang ở trong tâm trạng kinh ngạc, nghi ngờ và sợ hãi.
Ai ở trong tâm trạng sợ hãi thì mất bình an. Kinh nghiệm cũng cho chúng ta thấy những lúc tâm hồn bị những SỢ HÃI thống trị và bao trùm cuộc đời của chúng ta thì lúc đó tâm hồn chúng ta mất bình an. Sau này, chúng ta thấy Đức Giêsu khuyên các môn đệ cũng như chúng ta ngày nay là ĐỪNG SỢ. Hai chữ “Đừng sợ” được nhắc rất nhiều lần trong Kinh Thánh, nhất là trong Tân ước.
2. Thế giới thiếu bình an.
Có lần người ta hỏi đại thi hào DANTE của nước Italia rằng: đâu là điều mà ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống? Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: đó là sự bình an”.
Đó là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ, chúng ta luôn ghi lời cầu xin: requiescat in pace: xin cho họ được an nghỉ ngàn thu. Phải chăng trong cuộc sống hiện tại nơi trần thế này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được hòa bình và an nghỉ? Trong những giây phúc cuối đời, Đức Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta: “Thầy ban bình an cho các con. Thầy ban bình an mà thế gian không thể ban tặng cho các con”.
Trước Chúa Kitô 600 năm tại Roma, một đền thờ đã được xây lên để kính nhớ thần Janus, vị thần mà người ta đã lấy tên để đặt cho tháng đầu tiên trong năm. Theo ước mong của tòan dân trong đế quốc La mã, đền thờ này chỉ được mở cửa trong thời bình. Trong vòng 600 năm ấy, dường như các cửa của đền thờ chỉ được mở trong ba giai đọan ngắn ngủi. Cánh cửa Hòa bình đóng mãi đối với con người ở mọi thời đại. Thời đại nào thế giới cũng mong hòa bình, thời đại nào con người cũng đợi hòa bình. Khát vọng của Hòa bình ăn rễ sâu trong lòng người, ngay cả những người suốt đời chỉ gieo rắc chiến tranh và đau thương cho người khác. Chúng ta thích khung cảnh tịch mịch thư thái, chúng ta ngây ngất trước ánh bình minh tươi sáng, chúng ta vui thỏa trước buổi chiều tà êm ả, chúng ta thích những cánh hoa tươi mát v.v… Chúng ta thán phục những con người luôn tỏ ra bình thản trước những hòan cảnh xáo trộn. Chúng ta đi tìm những tư tưởng bình an, những dòng nhạc êm dịu, những con người hiền lành (Đ.Ô Nguyễn văn Tài).
Thế giới của chúng ta dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút thái bình thực sự. Hòa bình chỉ là những khỏanh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến tranh và lo sợ.
Truyện: chiến tranh và hòa bình.
Trong cuốn Le retour de Jésus Christ, tiến sĩ René Pache có cho biết: kể từ năm 1496 trước Thiên Chúa giáng sinh cho đến năm 1861 của thời đại chúng ta, tức trong khỏang 3400 năm, tính được tất cả 3130 năm chiến tranh, thế giới chỉ được hưởng 268 năm hòa bình. Như thế, trung bình cứ 13 năm chiến tranh thiên hạ mới được hưởng một năm hòa bình.
Từ năm 1500 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, cho đến năm 1860 đời ta, tính có tới 8000 hiệp ước hòa bình. Tuy mọi hiệp ước đều có giá trị vĩnh viễn, nhưng trên thực tế, hiệu quả của mỗi hiệp ước trung bình không quá hai năm. Chỉ trong 19 năm, giữa hai thế chiến (1920-1939) tính đã có đến 4568 hiệp ước hòa bình. Nguyên 11 tháng trước đệ nhị thế chiến, đã có tới 211 hiệp ước rồi.
3. Muốn có bình an thật sự.
a) Tiêu cực: Phải tránh phạm tội.
Muốn có sự bình an trong tâm hồn thì cần phải là người của Chúa. Thánh Phaolô giải thích Người của Chúa là người hòan hảo chính trực, đã được huấn luyện về mọi việc lành phải làm (2Tm 3,17). Thánh Ambrôsiô viết tiếp: “Người của Chúa phải là người sạch tội, vì tội và Chúa chống đối nhau. Đâu có Chúa đấy không có tội và ngược lại”. Thánh Phaolô viết: “Chúa chính là sự bình an của chúng ta”(Ep 2,14). Vậy thì muốn được sự bình an của Chúa – thứ bình an trong tâm hồn – tất nhiên phải sạch tội.
Cái gì đã phá vỡ đời sống thanh nhàn của các thiên thần? (Js 14,12-13).
Cái gì đã làm cho tổ tông phải khóc lóc? (St 3,11-12).
Cái gì đã làm cho lòai người phải chìm đắm trong đại hồng thủy? (St 6,5).
Cái gì đã làm tháo thứ và khiến lửa bởi trời xuống đốt thành Sođôma và năm thành kế cận? (St 19,24).
Cái gì đã làm cho Đavít khóc lóc mất ăn mất ngủ? (Tv 6,7) Cái gì đã làm cho Phêrô đau đớn suốt đời? (Lc 17,61-62). Cái gì đã làm cho Giuđa buồn rầu bứt rứt phải đi thắt cổ? (Cv 1,18). Tất cả chỉ là TỘI. Hễ đâu có tội đấy không có bình an, vì lẽ sự bình an không ưa người có tội (Is 48,22; 55, 21).
Bắc thang thử hỏi ông Trời Những người phạm tội có ngồi yên không?
Họ không thể ngồi yên tại vì họ đã mất sự bình an. Mất sự bình an tức là mất Chúa vì Chúa chính là sự bình an của họ.
Truyện: Thiếu trách nhiệm
Bé Tám nhìn ba nó và nói:
- Ba ơi, chiếc cầu bắc qua mương để vào nhà mình sắp gẫy, Ba sửa lại đi, kẻo có người bị té đó!
- Con phải biết cách mà bước, đừng đặït chân giữa cầu, nhưng bước sát vào phía bờ thì không nguy hiểm đâu.
Bé Tám không an lòng:
- Nhưng những người gia đình mình không biết thì sao ba?
- Chuyện không liên quan gì đến con, con đi chơi đi, đừng hỏi nữa để ba lo việc khác.
Thấy vẻ mặt không vui của ba, bé Tám không dám nài nỉ thêm.
Tối đến, ông Bảy Minh đến gia đình bé Tám để từ giã, hai hôm nữa, ông Minh sẽ đi đòan tụ ở nước ngòai. Sau khi cạn tách trà, mọi người trong gia đình bé Tám ngậm ngùi tiễn người láng giềng ra về với những lời cầu chúc tốt đẹp mà người ta vẫn thường trao nhau. Ba bé Tám là người lưu luyến nhất, sau cái bắt thay thật chặt, ông là người cuối cùng quay vào nhà. Mọi người đang bàn về người hàng xóm may mắn kia thì có một tiếng động nặng nề như trái dừa rơi xuống đất. Bé Tám là người đầu tiên hét lên “Chết rồi ba ơi! Ông Bảy té”. Cả nhà chạy ra thì quả đúng như vậy. Ông Bảy đang nằm bất động dưới mương sâu lởm chởm đá. Tấm ván làm cầu đã bị gẫy, ông Bảy bị thương nặng.
Ba bé Tám ngượng ngùng, hối hận vì những lời cầu chúc bình an của ông trao cho người láng giềng đã không hiện thực. Vì thái độ vô tâm tắc trách của ông và vì ông không có tạo cơ hội cho lời cầu chúc có được cơ may thể hiện.
b) Tích cực: Phải nỗ lực xây dựng.
Hòa bình hay bình an không có nghĩa là không có chiến tranh, không có xáo trộn bên ngòai. Mà phải phấn đấu làm sao để tâm hồn có thể bình lặng trước những tiếng ồn ào, xáo trộn bên ngòai, tâm hồn vẫn có thể an nhiên trong mọi phong ba bão táp của cuộc đời.
Truyện: Bức tranh diễn tả bình an.
Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công thực hiện. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là bức tranh bình yên thật hòan hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của mình… Bình yên thật sự.
“Ta chấm bức tranh này” – Nhà vua công bố.
Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự bình yên trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên giữa the ágiới đang cần nỗ lực giành lấy trong cuộc sống này.
Không có sự bình yên thật sự khi con người không dấn thân để xây dựng. Xây dựng từ nơi chính mình bằng đời sống công chính, yêu thương với đức ái đòi hỏi. Không có sự bình an không có đấu tranh cho sự thiện, không có sự bình an cho những người ngồi chờ sự an nhàn. Sự bình an mà Đức Giêsu ban tặng là sự bình an cho những con người chấp nhận những thử thách để vượt qua thử thách bằng sự bình an của Đức Giêsu.
Truyện: Bình an trong tâm hồn.
Một tu sĩ rất đau khổ vì tính nhạy cảm của mình. Sau nhiều ngày chịu đựng bản tính nóng nảy không tự chủ được, từ cử chỉ đến lời nói, tệ hơn nữa, anh ta luôn dành những phần phải về phía mình. Một hôm, anh tự nhủ: “Ta sẽ bình an, nếu ta vào sống trong sa mạc hoang vắng xa cách mọi người”. Nghĩ sao làm vậy, anh ta đã sống những ngày bình an, nhưng một buổi chiềâu nọ, anh đặt chiếc bình sành dùng để đựng nước xuống đất, không biết vì đất nơi ấy lồi lõm hay vì ma quỉ muốn chọc phá, mà bình nước lật sang một bên đổ vỡ đôi, và làm đổ hết nước ra ngòai. Người ẩn tu hầm hầm nổi cơn thịnh nộ tưởng chừng như trời long đất lở.
Khi nguôi cơn giận, anh ta nhìn ngắm chiếc bình đã bể và tự nhủ: “Tôi đã bỏ các anh em trong tu viện, nhưng khổ nỗi lại mang chính cái tôi vào sa mạc hoang vu này, không phải họ, nhưng là chính cái nóng nảy của tôi đã làm cho tôi mất bình an”. Ngay chiều hôm ấy, anh ta trở về tu viện, và qua thời gian, với ơn Chúa giúp và những cố gắng cá nhân, tính nóng nảy đã bớt dần và sự bình an gia tăng trong tâm hồn anh.
Giáo hội luôn mời gọi chúng ta sống một cách thiết thực và sâu đậm lời của Đức Giêsu: “Bình an cho các con”, đó là lời chào luôn có trên môi miệng của Đấng Phục sinh. Thật ra, đây hẳn không phải là một lời chào thân thuộc của người Do thái, nhưng là ân ban mà Chúa Kitô Phục sinh đem lại cho con người. Bình an là nghịch lại với tất cả những gì sợ hãi, thất vọng, chết chóc. Bình an là đồng nghĩa với tin yêu, vui sống và hy vọng.
Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần… các môn đệ khi đó tụ tập lại… Tám ngày sau, các PS 2-ABC442
Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần… các môn đệ khi đó tụ tập lại… Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong nhà…
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày. Một cách tự nhiên, chúng ta có xu hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, đó là với Tôma… bởi vì chúng ta thường khi tự động hóa mình với ông, và tìm được một giải pháp thực tiễn là có dưới tay mình một người nào đó hoài nghi, một người nào đó khó tin… và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu lòng tin của chính chúng ta.
Nhưng những sự thông đồng của chúng ta với Tôma không ngăn chúng ta đọc toàn thể văn bản. Trước hết chúng ta lưu ý rằng Đức Giêsu hằng sống hiện ra, chuyện đó có phải tình cờ không? Vào Chúa nhật. Ngày thứ nhất trong tuần. Chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu không họp nhau mỗi ngày đâu. Chính họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình. Họ không thể luôn luôn ở với nhau được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu sống lại đến thăm. Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng đức tin là một công việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân: chúng ta nhận thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người ta thử nghiệm, nhận biết, cảm thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn. Họ ở với nhau,…hội họp lại… trong Giáo Hội.
Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu hiện đến và ở giữa họ.
Khi thánh Gioan viết điều đó, thì lúc ấy luôn luôn là thời gian sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Chúa Giêsu có thói quen khi hội họp ở nhà người này, khi ở nhà kia. Họ đón tiếp nhau… Họ tin cậy nhau. Có những vụ bỏ cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm… Họ cũng sợ… Họ cài chốt các cửa lại. Nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm lại, Chúa nhật đầu tiên này: một cách huyền nhiệm, Đức Kitô lẻn vào giữa những người thân của Người, tại nơi họ đang ở: E-phê-sô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Roma. Vâng, mỗi Chúa nhật, chính là lễ Phục sinh! Chúa ở đó, ngay giữa cuộc đời chúng con, và chính Chúa đã làm cho chúng con được sống… Không thấy Chúa, chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa hôm nay, chúng con cũng bị cám dỗ cài chết cữa nhà một cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi vào, chớ chi các bức tường trong nhà tù của chúng con sập đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con trở lại: Chúng ta hãy mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!
Trước khi đi xa hớn trong cuộc suy niệm Tin Mừng này chúng ta hãy xin Đức Kitô, để giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta sống lại khỏi tình huống chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức khỏe, như những gò bó đau đớn và tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp… Nơi mà ở đó họ đã gài then cửa!
Người nói với họ: “Bình an cho anh em!”.Nói xong Người cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: “Bình an cho anh em!”
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo trước hết không phải là một niềm vui dễ dãi, niềm vui tự phát, thứ niềm vui nâng chúng ta lên cao khi mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khỏe được tốt lành, tuổi trẻ ở đó đầy sức sống, khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các quan hệ bạn bè và gia đinh được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui đến sau sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tinh huống về cơ bản là thất vọng (cái chết của một Đấng bị đóng đinh) mà không gì có thể tước đoạt được! Đó là niềm vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu, ở mỗi cuộc hội họp Chúa nhật, giống như ngày đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua tiếng nói của vị linh mục: “Bình an cho anh chị em!”. Và Công đồng Vatican II đã lập lại truyền thống xưa “hôn bình an: các Kitô hữu được mời ban bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô. Trao cho nhau một cái bát tay, ôm lấy nhau, mỉm cười với nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó không phải là một cử chỉ tầm thướng… chính là “trở nên Đức Kitô” với người gần ta…, khi nhiều người họp nhau lại nhân danh Ta. Ta sẽ ở giữa họ.
“Như Chúa Cha đã sai Thầy. Thầy cũng sai anh em..”
Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt như thế!chính Đức Kitô nói lại với chúng ta… Tôi, người đàn ông đáng thương người đàn bà đáng thương, tôi là “Giêsu” được sai đến cùng anh em tôi… đúng như Người đã được Cha mình sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ này. Ta đừng đi quá nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại trên các từ về Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao cho chúng ta: “sứ mệnh” của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi, một phần. Tôi được Đức Giêsu sai đi… như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi còn phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ này, thêm một lần nữa, đó là những từ Latinh và Hy Lạp không được dịch ra, hỡi ôi. “Sứ mệnh” có nghĩa “sự sai đi” (từ missus trong Latinh)… và “tông đồ có nghĩa là “người được sai đi” (từ Apostolos trong tiếng Hy Lạp)…
Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong công việc của tôi, trong môi trường cuộc cống của tôi, tôi không ở đó chỉ nhân danh riêng tôi, vì lợi ích của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến đó nhân danh Người, vì lợi ích của chính Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi! Tôi còn phải nói với một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều mà tôi sắp nói với bạn… người đang sống trong tôi là đôi môi và thân xác của Người, ở gần với Người, để tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Khi đã nói xong. Người thổi hơi trên họ và Người nói với các ông: “Anh em nhận lấy Thánh Thần”.
Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo mới… Thần Khí của Đức Giêsu được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, “trở lại cùng với Cha”. Nhưng người Kitô hữu nhận lấy đà tiếp sức! Họ là những người mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người… họ đi theo công trình của Người: Thánh Phaolô sẽ nói: “Anh em là Thân thể Đức Ki- tô, anh em là Đền Thờ của Thánh Thần. Thánh Gioan, chính ông cho chúng ta thấy, vì lợi ích chính mình, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7): “Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến (Veni, Creator Spintua)”.
Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là buổi chiều ngày Lễ PS cái chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng cái chết, chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong những kẻ chết (Rm 8,11). Trong kinh Tin Kính, đó là điều mà chúng ta khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh Thần: Ngài là Đức Chúa, và Ngài ban sự sống. Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều ngày Phục sinh, và Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau, vào ngày lễ Hiện Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một đòn bậc Thầy nếu ta cấm nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết, đồng thời mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh. “Nhờ sự Phục Sinh Người được lập là Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần”.
“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha..”
Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm buộc… các tội lỗi. Lời lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng hai từ trái nghĩa để khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên từ “tích cực”. Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu cũng ban cho các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình: Từ nay, trên trần gian này, họ là những người mang theo lòng thương xót của Thiên Chúa… như Đức Giêsu khi trước: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là của Người, trong giáo đường Na-da-rét, đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi, Thần Khí Thiên Chúa đã thánh hóa tôi. Người đã sai tôi đi mang Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa, giải thoát những người tù đầy ” (Lc 4,18-19). Tôi có phải là người mang tinh thần đó, Thần Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu thương, và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một trong Nhóm Mười Hai, Tôma, lúc đó không ở với các ông, khi Đức Giêsu hiện đến… ông tuyên bố: “Nếu tôi không thấy… tôi sẽ không tin…”
Đấy là “người đến trễ, đến sau cuộc lễ Gặp gỡ. Tôma, luôn luôn, trong Tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri của mình, con người tích cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu. “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu” (Ga 14,15). Khi Đức Giêsu nói về sự sống lại của La-da-rô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết (Ga11,15-16).
Tám ngày sau… Đức Giêsu lại đến: “Đặt ngón tay anh vào đây, hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa…”
Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính khôi hài? Người đã để cho Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần. Chính với một cách mỉm cười mà tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như có vẻ nói với ông: Anh bạn đáng thương của tôi ơi, bạn đã tưởng tôi chết, và vắng mặt, khi bạn nói với các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin… nhưng tôi vẫn ở đó, vô hình, có nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho bạn lúc đó. Ôi! Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người luôn có tất cả thời gian của Người.
Tôma nói: “Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con”.
Đó chính là tiếng kêu đức tin của một người mà đối với anh ta, sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng Đức Giêsu, dù vồ hình, vẩn có ở đó. Ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng có mặt ở đó.
Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin.
Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể trông thấy những thực tại cao cả nhất của Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới đưa chúng ta tới đó. Đó chính là hạnh phúc đích thực.
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Giáo hội trình PS 2-ABC443
bày cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu sống lại trích từ Phúc âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho chặng đường đức tin của các Tông đồ. Đồng thời cho thấy sứ mạng sống đức tin, sứ mạng sống mầu nhiệm phục sinh nối dài trong đời thường của chúng ta.
Thật khó diễn tả cách hiện diện của Chúa Giêsu thế nào sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Chỉ biết Ngài xuất hiện cách lạ thường nhưng vẫn giữ nguyên nét gần gũi thân tình với các môn đệ. Do đó, ta không thể trách các Tông đồ. Các ông mới sống thân tình với Thầy ba năm nhưng sao lại thay đổi quá nhanh chóng như vậy? Đứng trước cái chết của Thầy mình, môn đồ làm sao mà thoát khỏi lo âu, ngạc nhiên và còn đầy sợ hãi. Các cửa nhà đều đóng kín. Họ đã kinh hoàng sợ hãi vì người Do thái vừa giết chết Thầy Giêsu. Chắc hẳn, rồi cũng sẽ đến các môn đệ của Thầy Giêsu thôi, các ông thừa hiểu rằng rồi đây sẽ đến lượt mình. Cửa nhà đóng kín và lòng người càng đóng kín hơn. Rõ ràng là một số môn đệ thất vọng đã trở về quê, một số khác nửa tin nửa ngờ khi biết xác Thầy không còn trong mộ nữa. Vì thế, đứng vào hoàn cảnh các Tông Đồ lúc bấy giờ chúng ta sẽ thông cảm hơn, đáng thương các ông hơn là đáng trách.
Tuy nhiên, Thiên Chúa có đường lối riêng của Ngài. Trong lúc sự kiện phục sinh còn quá mới mẻ, quá lạ thường này, các Tông đồ vẫn chưa được biến đổi hẳn thì Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra cho các ông, Ngài ban bình an và củng cố để các ông tin và đang sống niềm tin ấy. Riêng Tông Đồ Tôma thì dứt khoát hơn, ông cần một xác tín. Có lẽ, lúc này ông cần một sự ủng hộ Thầy Giêsu, ông cần một mạc khải, ông cần sự cảm thông và cần được sáng tỏ vấn đề. Sự khao khát này được thể hiện rất rõ trong câu nói đầy niềm trông cậy: “Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy thì tôi không tin”. Hay nói một cách khác: “tôi cần gặp lại Thầy Giêsu yêu dấu”. Dường như chúng ta đang đứng trước một sứ điệp của Tôma: “Nếu anh em đã gặp được Thầy thì tôi cũng cần gặp Người vì tôi cũng là môn đệ của Người”. Tôma tin điều ấy xảy ra.
Sự khao khát của Tôma là chính đáng. Tôma yêu mến Thầy Giêsu nên đã theo Thầy. Bây giờ Tôma muốn gặp Thầy. Chúa Giêsu thấu suốt những bí ẩn trong lòng người. Chúa Giêsu biết rõ con người Tôma. Chúa thấu hiểu tâm trạng hiện thời của Tôma, Chúa biết rõ tâm tình của Tôma trong những lúc này đây. Chúa không chỉ thấu hiểu tấm lòng mà Chúa còn là Đấng làm thoả lòng cho Tôma. Chính Ngài đến và nói: “Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây”. Sự kiện hiện diện của Thầy Giêsu lúc này là một minh chứng về tình thương và ân huệ của Thiên Chúa quan phòng. Chúa Giêsu thương mến các Tông Đồ trong đó có Tôma.
Trong cách thức mới, trong quyền phép Đấng Phục Sinh, Người hiện diện ở ngay bên nhưng các ông không biết được. Thế nên khi Thầy Giêsu hiện ra trong sự phục sinh, Tôma đã ý thức thân phận của mình chỉ là học trò của Thầy Giêsu nhưng được Thầy quan phòng yêu thương lớn lao, sự khao khát chính đáng của ông được Thầy chấp nhận, ông sung sướng thốt lên tâm tình tin tưởng và đầy lòng yêu mến: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi!”. Tôma thấy rõ hiệu quả của tình yêu và sự cậy trông của mình vào Thầy Giêsu. Đó quả là một đức tin chân chính.
Thầy Giêsu thì luôn quan phòng và yêu thương. Ngài không chỉ hiện ra để củng cố, an ủi và ban bình an cho các môn đệ mình mà Ngài còn muốn đi xa hơn nữa, Ngài muốn các Tông Đồ đem đức tin, tình yêu và bình an của Ngài đem cho muôn dân: “Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các con”, Ngài muốn các ông đi khắp nơi để làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm cho muôn dân cũng biết Thiên Chúa là tình yêu và quan phòng, cũng đón nhận ơn cứu độ là tin, yêu và giữ những điều Ngài muốn.
Tuy nhiên, chấp nhận bước theo Chúa để sống đức tin là đều không mấy dễ dàng. Các Tông đồ lo sợ nên ở lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải đi qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành. Dù các ông đang sống trong hoàn cảnh đó, Chúa quan phòng vẫn hiện diện bên các ông và đã dự liệu hiện ra nhiều lần. Mặc cho đau khổ, sự dữ, gian khó xảy ra, chúng ta luôn trung thành theo Chúa và thể hiện đức tin và tình yêu của mình. Các Tông Đồ, các môn đệ, các thánh tử đạo Việt nam,… đã là những nhân chứng về điều đó. Do đó, nhìn lại bản thân mỗi người, là Kitô hữu nghĩa là những người tin có Chúa Kitô, người có Chúa Kitô nên chúng ta phải sống niềm tin đó, ta phải thể hiện niềm tin “có Chúa Kitô Phục sinh” trong đời sống mình. Đó là sống chứng nhân.
Hơn nữa, người Kitô hữu tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha đầy yêu thươngnhân từ. Niềm tin ấy được thể hiện bằng một đời sống tin tưởng, hân hoan và phó thác vào Chúa Kitô; yêu thương, tha thứ và quảng đại với mọi người. Đồng thời, Chúa Kitô phục sinh cho chúng ta một xác tín rằng có cuộc sống sau khi chết. Nhờ Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin có một cuộc sống vĩnh cửu, bất diệt. Ý thức điều đó nên chúng ta sống như chuẩn bị cho cuộc sống mai sau ngay từ bây giờ, sống như đã chết. Sống như chết là sống hy sinh, sống từ bỏ mình, làm nhiều việc lành phúc đức, làm nhiều cử chỉ yêu thương bác ái. Cuộc sống này mỗi ngày với những điều kỳ diệu của nó là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của mình. Tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta thể hiện niềm tin của mình. Mặt khác, nếu không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho. Do đó, ta cần trung thành và trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp để chúng ta đi trọn đường đời và hoàn thành xuất sắc sứ mạng chứng nhân của người môn đệ bước theo Thầy Giêsu.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúa Kitô chính là hình ảnh về tình thương, lòng nhân lành và hay thương xót đối với loài người. Người luôn hiện diện bên chúng ta. Ngài ở trong cõi lòng mình, trong các Bí tích, nơi Nhà tạm, trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài vào những nơi đó để trò chuyện trong sự thân tình, đàm đạo trong sự thân mật, sống tâm tình tin tưởng đầy lòng yêu mến Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho cả cuộc sống của chúng con trở thành dấu chứng của tình yêu Chúa đối với mọi người. Đó là vui sống niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng, sống tình yêu thương bác ái đối với tha nhân. Xin cho bình an của Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời của chúng con để cho tất cả những ai gặp gỡ chúng con đều có thể nhận ra được tình yêu và sự hiện diện của Chúa. Amen.
Các Tồng Đồ của Chúa Giêsu là những người duy nhất trong loài người có đuợc niềm vui là PS 2-ABC444
Các Tồng Đồ của Chúa Giêsu là những người duy nhất trong loài người có đuợc niềm vui là gặp lại Thầy mình sau khi Người đã chết và mai táng trong mồ nhờ việc Người đã phục sinh từ cõi chết và hiện ra với các ông, không phải một mà là nhiều lần.
Chúng ta hình dung ra được sự kinh ngạc và niềm vui to lớn của các Tông Đồ khi thấy Thầy mình xuất hiện bằng xương bằng thịt với các dấu tích của sự thương khó và những lời ngọi ngào của Đấng Phục Sinh. Uớc gì chúng ta được tham gia vào các buổi gặp gỡ có một không hai mà Phúc âm Gioan kể lại hôm nay.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 20,19-31: Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 20,19-31:
3.1 Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến: Phúc âm Gioan mở đầu bài tường thuật: “Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Chúa Giêsu phục sinh cho các Ông xem tay và cạnh sườn của Người để các ông thấy là chính Người: “Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Đó là lần Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra lần thứ nhất.
Vì trong lần hiện ra lần thứ nhất Chúa Giêsu Phục Sinh không gặp được Tông đồ Tôma nên trong lần hiện ra lần thứ hai Chúa Giêsu Phục Sinh đã đặc biệt quan tâm tới vị Tông đồ này: “Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
3.2 Ý nghĩa của việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ không chỉ là để an ủi các ông mà là đễ các ông (và chúng ta) tin rằng Người chính là Đấng Kitô Con Thiên Chúa và để các Tông đồ (và chúng ta) được sống nhờ danh Người: “Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Ga 20,19-31:
4.1 Tin nhận Chúa Giêsu đã phục sinh: Việc làm đầu tiên của chúng ta là tìn nhận Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Cũng là nhìn nhận cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu là vì chúng ta,
4.2 Làm chứng Chúa Giêsu Phục Sinh cho những người xung quanh bằng nói nói và việc làm. Đó là cách chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa về ơn đức tin mà chúng ta đã được Người ban cho.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã chết và đã phục sinh. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.- ”Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người tin là Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ để các vị ấy vững tin vào Chúa Giêsu Phuc Sinh và hăng say thi hành sứ mệnh mà Chúa Giêsu Phuc Sinh đã ban cho các vị.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho giáo dân trong giáo xứ chúng ta và trong các giáo xứ khác, để mọi Kitô hữu biết trân quý những cuộc họp mặt của cộng đoàn mà tích cực tham gia!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho tất cả các Kitô hữu yếu tin để họ được Chúa Giêsu Phục Sinh năng đỡ.
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con; Người là Ngôi Lời đã nhập thể làm người và đã chết trên thập giá để cứu độ hết mọi người. Người đã phục sinh từ cõi chết để ban ơn phục sinh cho chúng con.
Chúng con xin dâng lên Cha lời tri ân cảm tạ và lời quyết tâm làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh bằng lời nói và việc làm. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Như các môn đệ đã được gặp Đức Giêsu phục sinh với thân xác còn nguyên vẹn thương PS 2-ABC445
TMĐP- Như các môn đệ đã được gặp Đức Giêsu phục sinh với thân xác còn nguyên vẹn thương tích của Lòng Thương Xót, chúng ta cũng được “Đấng chịu đóng đinh” thương xót tha tội và ban ơn Bình An của Ngài.
Hơn lúc nào hết, thế giới sống trong bất an trước những đe dọa mang tính tận diệt của chiến tranh hạt nhân, của khủng hoảng kinh tế, của môi trường, khí hậu, của con người ngày càng bạo lực, đổi trắng thay đen, và người ta không biết phải làm gì để được bình an, chạy đi đâu để an toàn mạng sống, và làm thế nào để gia đình, người thân được sống môt đời an bình.
Quả thực, cuộc sống con người xem ra càng văn minh càng rắc rối, càng tân tiến càng phức tạp, càng tiện nghi càng lệ thuộc, phiền phức đưa đến tình trạng xã hội dễ xáo trộn và tâm trạng con người bất ổn vì nhiều áp lực.
Ngoài những áp lực do xã hội thường xuyên xáo trộn mang lại, mỗi người còn chịu nhiều áp lực khác như áp lực gia đình, áp lực nội tâm … Và tất cả đều chung tay góp sức tạo nên tình trạng bất an, khi lấy đi bình an khỏi cuộc sống con người.
Tin Mừng Gioan của chúa nhật Lòng Thương Xót ngay từ dòng đầu đã đặt chúng ta trong bối cảnh không bình an của các môn đệ: “Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái” (Ga 20, 19).
Sợ là kẻ thù của bình an, như ông bà nguyên tổ sau khi phạm tội đã sợ hãi khi nghe thấy tiếng Đức Chúa gọi ông bà trong vườn (x. St 3,10), điều mà trước đây ông bà không hề nghĩ tới, khi còn ân nghĩa với Thiên Chúa; tâm trạng mà ông bà chưa hề cảm nghiệm trước đây, khi sống thân tình với Ngài, và chỉ từ khi bất tuân lệnh Thiên Chúa, ông bà mới cảm thấy bất an, vì sợ hãi Thiên Chúa. Chính vì sợ hãi, nghĩa là mất bình an như người ta bị lột trần truồng, mà ông bà đã lẩn trốn vào giữa cây cối trong vườn để khỏi giáp mặt Thiên Chúa (x. St 3, 7-8. 10).
Chúng ta nhận thấy ở đây một điểm rất quan trọng, đó là bình an như tấm áo không chỉ bảo đảm an toàn, mà còn gìn giữ phẩm cách, giá trị của bản thân. Nhờ đó, con người tin vào mình để sống xứng đáng, mà không vì bất an, áp lực, sợ hãi, mặc cảm, mà làm những điều xằng bậy, hạ thấp nhân vị, bởi thường khi mất bình an, chúng ta dễ rơi vào khủng hoảng là nguyên nhân của nhiều hành động vượt rào nguy hiểm.
Hôm ấy, các môn đệ đang sợ, nếu không muốn nói là rất sợ. Các ông sợ chính quyền và giáo quyền Do Thái tiếp tục truy lùng, bắt bớ và gán cho các ông tội đồng phạm âm mưu lật đổ chính quyền, cố ý chống lại luật Môsê, vì các ông là môn đệ thân tín của Đức Giêsu, người vừa bị công khai hành hình đóng đinh vào thập giá; các ông sợ đám đông Do Thái, tai mắt của chính quyền và giáo quyền không buông tha các ông, nhưng theo dõi, rình rập tìm cớ tố cáo các ông nối gót tội phạm Giêsu xách động quần chúng, gieo rắc tà thuyết, quảng bá giáo lý sai lạc; các ông sợ ngày mai đen tối, như đã sợ từ mấy hôm nay hiện tại đổ nát phũ phàng; các ông sợ tương quan xã hội không còn có thể hàn gắn, vì thất bại qúa ê chề, sau cái chết ô nhục của Thầy ; các ông sợ tình nghĩa gia đình không còn nguyên vẹn, vì cơ đồ vất vả xây dựng mấy năm nay khi đi theo Đức Giêsu phút chốc tan thành mây khói; và các ông sợ chính mình, khi nhận ra không ai dại dột, ngu xuẩn và liều lĩnh đầu quân theo một người tự xưng là Đấng Thiên Chúa sai đến để bị kết án tử hình đóng đinh như tội phạm nguy hiểm.
Đúng lúc các ông đang hoang mang, sợ hãi thì “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19), và Tin Mừng ghi rõ: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20).
Sở dĩ các môn đệ hôm đó vui mừng, cũng như môn đệ Tôma tám ngày sau đã xúc động quỳ sụp xuống trước mặt Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28), là vì Đức Giêsu ngay sau khi ban Bình An đã “cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, và đã bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20,20.27).
Cho các môn đệ xem và đặt tay vào những vết thương do đinh sắt và lưỡi đòng của hình phạt Thánh Giá trên thân thể mình, ngay sau khi ban Bình An, Đức Giêsu muốn tỏ cho các ông biết: Bình An Ngài ban cho các ông là Bình An của Lòng Thương Xót; Bình An Ngài đổ xuống trên các ông là hoa thơm trái ngot của cây Thánh Giá trên đó Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã hiến mình làm Của Lễ đền tội nhân loại. Vì thế, Bình An Ngài ban là Bình An của Ngài, không phải bình an vay mượn, hay mua bán, như lời Ngài nói với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy, bình an mà thế gian không ban được.” (Ga 14,27), bởi Bình An ấy chính là Máu từ trái tim thương xót của Ngài đã đổ ra trên Thánh Giá cứu chuộc.
Thực vậy, các môn đệ đã vui mừng đón nhận ơn Bình An của Đức Giêsu phục sinh, vì các ông nhận ra mình được thương xót. Chính lòng thương xót của Đức Giêsu làm cho các ông không còn sợ hãi, mặc cảm, không còn ray rứt, lo âu, nhưng thư thái, bình an, vì ngoài những nỗi lo gây ra bởi người khác, không kể những nỗi sợ đến từ bên ngoài, còn một nỗi lo không nhỏ liên lỷ có mặt trong tâm hồn và cắn rứt lương tâm người có tội; còn một nỗi sợ rất khủng khiếp không bao giờ chịu buông tha tội nhân, đó là nỗi lo bị Thiên Chúa trừng phạt, nỗi sợ bị xua đuổi khỏi Thánh Nhan trong ngày chung thẩm (x. Mt 25,31-46), nên niềm vui đích thực của các môn đệ khi được xem tận mắt, sờ tận tay dấu đinh trên tay chân và thương tích lưỡi đòng ở cạnh sườn Đức Giêsu chính là hạnh phúc được Thầy thương xót thứ tha tội đã chối Thầy, đã bỏ rơi Thầy, đã không nhớ lời Thầy hứa: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy” (Mt 17, 22-23).
Như các môn đệ đã không còn sợ hãi, nhưng bình an sau khi được gặp Đức Giêsu phục sinh với thân xác còn nguyên vẹn thương tích của Lòng Thương Xót, chúng ta cũng được “Đấng chịu đóng đinh” thương xót tha tội và ban ơn Bình An của Ngài, với điều kiện chúng ta không ở lì trong cái tôi ích kỷ, nghi nan, thất vọng, không đóng chặt cửa lòng, không khép kín trái tim trước Lòng Thương Xót bao la vô bờ bến của Đấng đã chết và sống lại khi Ngài đến ban Bình An cho chúng ta, bằng sống lòng thương xót đối với mọi người (x.Mt 18,23-35).
Tiếng hát reo vui Alleluia đang còn vang dội trong các thánh đường trong Giáo hội mừng Chúa sống PS 2-ABC446
Tiếng hát reo vui Alleluia đang còn vang dội trong các thánh đường trong Giáo hội mừng Chúa sống lại. Phải, chúng ta có lý do để vui mừng. Niềm vui này phát xuất từ một tình yêu, là chính tình yêu của Thiên Chúa. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian”. Đó là khởi điểm niềm vui của chúng ta là những kẻ tin. Con Thiên Chúa đã đến sống kiếp người như chúng ta, với chúng ta và cho chúng ta. Ngài đã chết và đã sống lại. Ngài toàn thắng tội lỗi và sự chết, cứu thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. “Nếu Chúa Kitô không sống lại, niềm tin chúng ta là hão huyền”. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế. Chúng ta vẫn tuyên xưng: “Chúa đã sống lại rồi!”
Làm sao chúng ta không rộn vui khi nghĩ rằng từ tro bụi, chúng ta được sống lại hiển vinh với Chúa, từ vũng lầy tội lỗi, chúng ta sẽ được vinh quang trong Chúa?
Để chứng minh việc lạ lùng đó, Chúa Giêsu đã xuất hiện cho các môn đệ khi họ đang đóng kín cửa, và sợ hãi. Thánh Gioan nói: “Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Ngài đến như thế nào? Chúng ta không thể biết và không ai biết. Ngài đã sống lại, Ngài không còn lệ thuộc vào thế giới vật chất, Ngài hoàn toàn tự do. Không một cái gì có thể cản trở Ngài. Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng không phải là một bóng ma. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Ngài vẫn có xác như mọi người. Các môn đệ có thể kiểm chứng. Ngài thành một con người vừa bí nhiệm vừa thực tế. Một huyền nhiệm. Thánh Gioan đã nói trong chương mở đầu sách Tin Mừng của ngài: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Ngài mãi mãi là người nhưng vẫn là Thiên Chúa. Sau này, khi sống lại, chúng ta cũng sẽ như Ngài, chúng ta vẫn mang lấy cơ thể bằng xương thịt của chúng ta, nhưng chúng ta sẽ là con người được vinh quang, không còn lệ thuộc vào vật chất. “Người ta sẽ như thiên thần” nhưng với cái xác này.
Thánh Gioan tiếp: “Các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa”. Chúng ta cũng sẽ được thấy Chúa. Lúc ấy niềm vui của chúng ta sẽ trọn vẹn. Chúa sống lại mang lại niềm vui. Cuộc sống chúng ta hôm nay cực nhọc khốn khổ, nhưng những kẻ tin vào sự sống lại sẽ còn niềm hy vọng, vì họ biết rằng những lao khổ đời này sẽ không thể so sánh với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta”.
Hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu không chỉ cho họ thấy Ngài mà thôi. Ngài đến để trao cho họ những hồng ân cuối cùng để chuẩn bị cho họ tiếp tục cuộc hành trình của Ngài: “Ngài nói với các ông: “Bình an cho anh em. Như Cha đã sai Thầy, thì Thầycũng sai anh em”. Chúa sống lại là khởi đầu một chương trình mới. Ngài đã làm xong những gì phải làm, bây giờ là đến lượt các môn đệ. Sứ mệnh của các ông cũng giống như sứ mệnh của Ngài. Ngài đã huấn luyện họ trong suốt mấy năm và giúp họ hiểu biết chương trình của Ngài, giờ đây chính là lúc họ phải ra đi, tiếp nối công việc của Ngài. Hôm nay chính thức họ được sai đi. Để làm gì? Để làm chứng rằng Chúa đã sống lại, Chúa đã cứu thoát mọi người khỏi tội, giờ đây chúng ta không còn đi trong tăm tối mà trong ánh sáng của Đấng đã sống lại.
Chúng ta cũng được sai đi làm chứng nhân cho Chúa. Mọi Kitô hữu đều là nhân chứng cho Chúa. Nhiều người trong chúng ta không biết đến ơn gọi đó của mình. Làm chứng cho Chúa không phải là làm những gì lạ thường mà chỉ cần sống thật tốt như Cha trên trời, mà chỉ cần thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Chúa không cần chúng ta, nhưng Chúa cũng muốn chúng ta tham dự vào công việc của Ngài, nhờ đó chúng ta tỏ lòng biết ơn của chúng ta vì chúng ta đã được cứu thoát và đưa vào ánh sáng và sự sống của Chúa.
Chúa Giêsu cũng thổi hơi của Ngài trên các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội ai, người ấy được tha…” Chúa muốn cho thấy Thánh Thần chính là hơi thở của Chúa. Khi chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao ban Thánh Thần khi trút hơi thở cuối cùng, hôm nay Ngài cũng trao Thánh Thần qua hơi thở. Ngài ban Thánh Thần là để tha thứ. Khi chúng ta đến tòa giải tội, chúng ta được Thánh Thần ban ơn tha thứ chứ không là một linh mục, nhưng qua tay linh mục.
Chúa Giêsu liên kết ơn tha thứ với Thánh Thần vì Thánh Thần là Đấng sáng tạo. Ngài sẽ tái tạo chúng ta thành con người mới, thành con Thiên Chúa, nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta được mời gọi sống mầu nhiệm phục sinh hôm nay, trong cuộc sống hằng ngày, liên kết với Chúa phục sinh. Ông Frédéric Nietzsche, một nhà chống đạo đã nói: “Mấy người nói rằng đã được cứu chuộc mà tôi không thấy các người vui mừng”. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nói: “Chúng ta đừng mang bộ mặt của người vừa đi đưa đám về”. “Có những người giữ đạo như chỉ có mùa chay mà không có mùa Phục sinh”. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Chúng ta không thấy Chúa nhưng chúng ta thấy được những dấu chỉ của Ngài, thấy những nhân chứng của Ngài là các Tông đồ và các thế hệ Kitô hữu dám sống cho niềm vui phục sinh.
Tám ngày sau. Tại sao lại tám ngày? Trong khoảng tám ngày đó Chúa ở đâu? Ngài là Thiên Chúa, Ngài không cần một nơi nào, Ngài sống trong mầu nhiệm của Ngài. Ngài hiện ra lần nữa và lần này hình như Ngài chỉ hiện ra cho Tôma mà thôi. Tôma vắng mặt khi Ngài hiện ra lần trước. Các anh em đồng thanh báo cho ông biết Thầy đã sống lại rồi: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Nhưng Tôma không chịu tin và tuyên bố một cách cương quyết rằng: “Nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh của Thầy, không thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy thì tôi không tin”. Tôma cho tất cả anh em là dối láo. Tôma chính là đại diện cho những con người hôm nay, những con người có đầu óc khoa học, đòi phải kiểm chứng rõ ràng mới tin. Những con người luôn hoài nghi và cố chấp, những con người xem khoa học là tất cả mà quên rằng, khoa học, dù có phát minh ra được nhiều thứ tinh vi, cũng chỉ là một bước chập chững đi vào thế giới thôi.
Chúa Giêsu không bỏ rơi con người cố chấp đó, Ngài biết ông thành thật. Ngài gọi: “Tôma, lại đây. Hãy xỏ ngón tay anh vào lỗ đinh Thầy đây… Và chớ cứng tin”. Đứng trước tấm lòng ưu ái của Thầy và những chứng cứ quá rõ rệt, Tôma khuất phục kêu lên: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Trước đó không ai thuyết phục được ông, giờ đây ông đã tuyên xưng đức tin bằng cả con tim. Xin cho chúng ta cũng biết tuyên xưng đức tin với cả con tim như thế. Niềm tin phát xuất từ con tim mới là đức tin đích thực. Niềm tin ấy chỉ có thể có được khi có một kinh nghiệm nào đó với Đấng chúng ta tin. Tôma không thể tin được nếu không nhìn thấy, không cảm nghiệm tình yêu của thầy mình. Câu nói của Chúa cũng khó hiểu: “Phúc thay những kẻ không thấy mà tin”. Tất cả chúng ta thuộc hạng diễm phúc này. Nhưng lời này chỉ áp dụng cho những người tin Chúa thôi, vì ở trong trần gian này, chúng ta không thể tin bất cứ ai. Trong xã hội hôm nay, sự dối trá đã trở thành đồng tiền thông dụng. Chúng ta chỉ có thể tin vào những chứng nhân đích thực của Chúa thôi, tức là Giáo hội. Niềm tin của Giáo hội là niềm tin của chúng ta, vì chỉ có Giáo hội mới là chứng nhân duy nhất của Chúa. Đức tin đó chỉ có một nội dung là tin rằng Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Ngài.
Niềm vui hôm nay của chúng ta được trọn vẹn khi chúng ta ăn lấy Chúa, đem Chúa vào trong con người chúng ta và sống với Ngài. Cầu xin cho đức tin của chúng ta cũng trọn vẹn, để chúng ta cũng có thể nói với Chúa: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con” với tất cả tình yêu đơn thật của chúng ta.
Khi nghe hay được nhắc đến “Lòng Thương Xót Chúa”, ACE có những cảm nhận, tâm tình và PS 2-ABC447
Khi nghe hay được nhắc đến “Lòng Thương Xót Chúa”, ACE có những cảm nhận, tâm tình và suy nghĩ như thế nào? Qua kinh nghiệm sống, cách ứng xử và lời tuyên xưng của Tôma trước ơn Chúa, làm tôi suy nghĩ và nghiệm lại với bản thân mình, vì sau khi phục vụ tại Tòa Giám Mục với sứ vụ là người Quản lý, cho nên khi được sai về phục vụ tại Gx. Tấn Tài, thú thật thưa ACE, tôi không biết phải phục vụ như thế nào, tôi rất lo lắng và ngay cả Đức Cha, Ngài cũng băn khoăn lo lắng cho tôi. Trong hoàn cảnh đó, tôi đã chọn đến với Lòng Thương Xót Chúa mỗi chiều vào lúc 3 giờ cùng với ACE tín hữu, để tôi đã phó dâng tất cả cho Ngài với lòng tín thác. Thật vậy, giờ đây cảm nghiệm lại, tôi chỉ biết dâng lời cảm tạ tri ân, dẫu rằng bản thân, còn biết bao nhiêu giới hạn, yếu đuối, nhưng Chúa vẫn luôn thương, ban ơn che chở và hướng dẫn tôi trong sứ vụ này, dù phải làm gì với những công việc mà tôi chẳng có một chút chuyên môn nào. Còn với ACE, Lòng Thương Xót Chúa đã làm gì cho mình? Hay ACE có muốn chọn Lòng Thương Xót Chúa để tin tưởng phó thác cho Ngài cuộc sống, sứ vụ của mình và gia đình?
Tôma trong Tin mừng, hơn bất cứ ai khác, đã cảm nhận được Lòng Thương Xót của Chúa Phục Sinh, vì chính tình thương Chúa đã tạo cho ông cơ hội để được đón nhận ơn thánh bình an và sự biến đổi của đức tin. Xét trên bình diện con người, những gì mà Tôma nghi ngờ, chất vấn với các môn đệ khác về Chúa Giêsu là điều hiển nhiên, dễ hiểu: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Vì làm sao có thể tin và chấp nhận, với một người đã chết mà nay sống lại, đã chết rồi làm sao có thể hiện ra mà có xương có thịt như con người bình thường được. Thật vậy, với cách ứng xử của Tôma, đây là một con người có lý trí, suy xét-phán đoán, chứ không cuồng tín. Cách phản ứng này cũng cho chúng ta thấy những giới hạn của con người chưa có ơn đức tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa và con người chưa có sự bình an và ơn thánh của Chúa Phục Sinh ban cho.
Thế nhưng, khi Đấng Phục Sinh hiện diện cùng với ơn thánh bình an của Ngài, Chúa đã cảm hóa và biến đổi con người thật của Tôma khi mời gọi: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Thật đây chính là lúc mà Lòng Thương Xót Chúa được biểu hiện. Vì đáng lẽ ra, nếu xét trên bình diện con người, đối với một người khó tin như Tôma, thì khi Chúa Phục sinh hiện diện, Ngài sẽ quở trách, loại Tôma ra khỏi nhóm môn đệ hay không trao ban ơn cho ông nữa. Nhưng với ơn thánh Chúa ban, qua lời tuyên xưng của Tôma, cho thấy giờ đây ông đã hoàn toàn bị thuyết phục và được trở nên một con người có đức tin chân thật. “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đức tin chân thật của Tôma có được là do sau khi đón nhận ơn thánh yêu thương, bình an của Chúa Phục Sinh; đây cũng chính là nền tảng đức tin vững chắc cho những ai luôn cậy trông vào Chúa Giêsu, là Thiên Chúa thật.
Chúng ta không được nhìn thấy Chúa Phục Sinh, không được sờ-chạm đến Ngài bằng xương bằng thịt như Tôma, nhưng qua ơn thánh Chúa, qua Lời Hằng Sống, qua Thánh Thể, chúng ta được đón nhận và rước lấy chính Đức Kitô Giêsu cùng với biết bao ơn thánh bình an, tha thứ của Ngài. Chúng ta cũng được Chúa mời gọi: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Vậy, thưa ACE, trong cuộc sống thường ngày, đặc biệt trong những hoàn cảnh khó khăn, đau khổ, thử thách, chúng ta đã sống, thể hiện, biểu lộ và tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Chúa Phục sinh như thế nào?
Những tín hữu đầu tiên, qua lời rao giảng và làm chứng của các Tông đồ về Đức Kitô Phục Sinh, họ đã chấp nhận, tin và làm theo lời dạy của các Tông đồ. Với ơn Chúa và lòng tin vững mạnh, họ cũng đã được Lòng Thương Xót Chúa cảm hóa, biến đổi hoàn toàn. Từ những con người xa lạ, họ đã đồng tâm nhất trí với nhau, mọi người đều coi nhau như là anh chị em, quan tâm chăm sóc yêu thương nhau, mọi của cải đều được coi là của chung và không ai phải túng thiếu. Thật vậy, nhờ ơn thánh Chúa, nhờ vào lòng tin được tuyên xưng và biểu lộ mà tất cả cộng đoàn đã được biến đổi.
Thánh GH. Gioan Phaolô II đã sống chứng tá, nêu gương, cổ võ và mời gọi chúng ta: “Hãy sống, cảm nghiệm và làm chứng cho sứ điệp tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa”. Giờ đây bên Chúa, xin Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng con, để với ơn Chúa Phục Sinh, với lòng tín thác tuyệt đối vào Chúa, chúng con cũng biết sống yêu thương, vị tha với tất cả anh chị em mình. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
THIÊN CHÚA MỜI GỌI CHÚNG TA TÁI PHÂN PHÁT CỦA CẢI VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT
Xin giúp con, lạy Chúa, để đôi mắt con biết xót thương, vì thế con sẽ không bao giờ nghi ngờ PS 2-ABC448
“Xin giúp con, lạy Chúa, để đôi mắt con biết xót thương, vì thế con sẽ không bao giờ nghi ngờ hay phán xét dựa vào vẻ bề ngoài, nhưng tìm kiếm những gì là đẹp đẽ trong tâm hồn anh chị em con và đến để cứu vớt họ” (Nhật ký, số 163). Đây là một trích đoạn từ “Kinh Thương xót” của thánh Faustina. Hôm nay là Chúa nhật Lòng Chúa thương xót, ngày nhắc nhớ chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa thương xót và tha thứ cho chúng ta và những người chung quanh. Bài đọc một cho thấy quan điểm của các Kitô hữu sơ khai về lòng trắc ẩn và thương xót vốn có thể truyền cảm hứng cho chúng ta ngày nay. Bài đọc hai và bài Tin mừng nhắc nhớ chúng ta về sức mạnh của Chúa Thánh Thần trong việc thúc đẩy Giáo hội tiến bước.
Bài đọc một trích sách Công vụ Tông đồ mô tả các Kitô hữu sơ khai sống hợp tác với nhau, chia sẻ tiền bạc và của cải với các thành viên trong cộng đoàn. “Trong số họ không một ai bị túng thiếu, vì những người có nhiều của cải và nhà cửa sẽ bán chúng đi, mang số tiền bán được đến đặt dưới chân các Tông đồ, và chúng được phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu”. Cái nhìn của Luca về Giáo hội sơ khai phản ánh một cấp độ cao về cộng tác với nhau, một kiểu thức xã hội bình đẳng, xóa bỏ nghèo đói. Các Kitô hữu sơ khai chăm sóc cho nhau về tài chính, thể hiện lòng thương xót và chia sẻ của cải để không một ai bị nghèo túng. Nhiều người ngày nay có thể nghĩ rằng sẽ rất khó khăn nếu không muốn nói là không thể nào lặp lại mô hình Kinh thánh này được, nhất là trong các xã hội tư bản. Tuy nhiên, nguyên tắc nơi bài đọc này có sức mạnh lớn lao và có thể giúp chúng ta suy nghĩ về việc tích lũy tài sản, về công bằng và quản trị kinh tế ngày nay.
Trong bài đọc hai và bài Tin mừng, Chúa Thánh Thần được nhắc đến một cách đặc biệt. Trước tiên, thánh Gioan nói về đức tin vào Đức Kitô, về lòng yêu mến Thiên Chúa và tầm quan trọng của việc tuân giữ giới răn. Những việc làm này có thể được thực nhiên nhờ vào quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng khẳng định những điều này là đúng đắn. Bài Tin mừng cũng bày tỏ vai trò của Chúa Thánh Thần như quyền năng và sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chúng ta.
Sau khi bà Maria, người môn đệ yêu dấu và Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đầu tiên với bà Maria. Sau đó, Chúa chuyện trò thân mật với các môn đệ khác, chúc bình an và cho họ xem những dấu đinh, những vết thương trên thân xác bị đóng đinh. Rồi Ngài thổi hơi trên họ, mà nói “Hãy nhận lấy Thánh Thần”. Một cách tuyệt vời, thánh Gioan ám chỉ một đến một trong những trình thuật về sáng tạo, trong đó Thiên Chúa, sau khi tạo dựng con người đầu tiên, “thổi hơi sự sống vào lỗ mũi” (St 2, 7). Hơi thở thần linh làm sống động nhân loại, và Chúa Giêsu thổi hơi Thánh Thần vào các Tông đồ làm cho Giáo hội trở nên sống động. Điều quan trọng là Chúa Giêsu đồng thời ủy quyền cho các Tông đồ, sai họ ra đi bắt đầu rao giảng Tin mừng. Họ cũng được trao quyền tha thứ tội lỗi, như là Chúa Giêsu tuôn đổ lòng trắc ẩn và thương xót vào Giáo hội ngay từ những ngày đầu. Lòng trắc ẩn và thương xót của Thiên Chúa là nền tảng trong Giáo hội và cũng phải ở lại trong lòng chúng ta.
Vào Chúa nhật Lòng Chúa thương xót này, chúng ta cầu xin lòng thương xót Chúa tiếp tục đổ xuống trên tất cả chúng ta. Hơn nữa, chúng ta cần được thúc đẩy để cư xử yêu thương với người khác, chia sẻ nguồn lực, quà tặng và cầu xin tha thứ cho nhau.
Trong thời đại 4.0 này, việc tin một người đã chết rồi ba ngày sau sống lại được coi là điều nhảm PS 2-ABC449
Trong thời đại 4.0 này, việc tin một người đã chết rồi ba ngày sau sống lại được coi là điều nhảm nhí và điên rồ. Điều đó chẳng có chi lạ. Bởi lẽ, vào thời các tông đồ, các quan chức Rô-ma và những người lãnh đạo Do Thái Giáo cũng đã cho việc các ông khẳng định Đức Giê-su đã chết và đã sống lại là điều tào lao. Các tông đồ không vì thế mà nhụt chí, vì các ông không thể không nói ra những điều mình được mắt thấy tai nghe (x. Cv 4,21). Hơn thế nữa, các ông còn lấy mạng sống mình đề đảm bảo những gì các ông nói.
Hai mươi thế kỷ đã qua, có rất nhiều người tin vào Đức Giê-su Phục sinh, nhưng cũng có rất nhiều người phủ nhận Người. Thống kê mới nhất của Toà Thánh cho thấy, Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, dân số thế giới là 7.785.769.000 (Bảy tỷ, bảy trăm tám mươi lăm triệu bảy trăm sáu mươi chín ngàn người) trong đó số tín hữu Công giáo là 1.375.852.000 (Một tỷ ba trăm bảy mươi lăm triệu tám trăm năm mươi hai ngàn người). Như vậy, tỷ lệ người Công giáo trên toàn thế giới ở mức 17,67%. Đó là chưa tính những tín hữu Ki-tô thuộc các giáo phái khác.
Một người đã chết nay sống lại là điều khó tin, ngay cả với ông Tô-ma, một trong mười hai tông đồ. Ông đặt ra những điều kiện cho niềm tin của mình, mặc dù trước đó, ông đã tận mắt chứng kiến những phép lạ ngoạn mục Chúa Giê-su đã làm. Ông đại diện cho trường phái hồ nghi, ở thời nào cũng có, nhất là trong thời đại của chúng ta hôm nay. Trường phái này chỉ tin vào những gì cảm nhận bằng giác quan.
Tuy vậy, khi đặt ra những điều kiện để tin như ông Tô-ma, là chúng ta đặt Thiên Chúa ngang hàng với người phàm. Nói cách khác, khi đòi phải có điều kiện, thì không còn là đức tin nữa, vì tin là chấp nhận những thực tại vô hình hay những thực tại mình không cảm nhận bằng giác quan. Hơn nữa, nếu đặt để niềm tin của mình nơi quyền năng của Thiên Chúa, thì cần xác tín: “không có gì mà Chúa không làm được”.
Mặc dù ông Tô-ma chẳng có lý do gì để thách thức Thiên Chúa, nhưng Chúa Giê-su Phục sinh vẫn chấp nhận lời thách thức đó. Vào ngày thứ tám sau sự kiện phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra với các tông đồ, có cả Tô-ma. Cuộc gặp gỡ này đã chứng minh những lời các tông đồ nói trước đó là xác thực. Đức Giê-su nhắc lại những thách thức của ông Tô-ma trước đó. Trước những lời này của Chúa, ông Tô-ma chẳng còn nói được điều gì. Ông chỉ có thể thưa với Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đây là lời tuyên xưng đức tin. Đây cũng lời sám hối, đồng thời diễn tả niềm xác tín vào Đấng Phục sinh. Chúng ta lưu ý: ông Tô-ma không còn gọi Chúa Giê-su là Thày như trước đó, mà ông tuyên xưng Người là Chúa và là Thiên Chúa. Những danh xưng này cho thấy ông đã thực sự tin vào Đức Giê-su. Đây cũng là lời tuyên xưng đức tin của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi.
Trong cả ba năm A,B,C, của Chúa nhật thứ hai Phục sinh, Phụng vụ đều cho chúng ta nghe cùng một bản văn, đó là trình thuật về sự cứng lòng của ông Tô-ma trong Tin Mừng theo thánh Gio-an. Mặc dù Chúa Giê-su Phục sinh là nhân vật quan trọng nhất, nhưng xem ra ông Tô-ma lại dành một vị trí đặc biệt trong trình thuật này. Phải chăng Phụng vụ muốn lưu ý chúng ta: vẫn còn đó những Tô-ma, trải qua mọi thời đại. Rất nhiều người giống như Tô-ma, chủ trương học thuyết thực nghiệm. Họ chỉ tin vào những gì mắt thấy tai nghe. Các tông đồ, là những chứng nhân mắt thấy tai nghe và kể lại cho chúng ta sự kiện Chúa sống lại với niềm xác tín. Trước Công nghị Do Thái. Các ông tuyên bố: Đức Giê-su, vị ngôn sứ thành Na-gia-rét, là người có quyền năng trong lời nói và hành động, đã chết và đã sống lại. Các ông sẵn sàng lấy mạng sống để làm chứng cho điều các ông nói. Một điều kỳ diệu, là các tông đồ vốn là những người dân chài chất phác ít học, nhưng lại uyên bác và trích dẫn Thánh Kinh để minh chứng rằng các lời ngôn sứ xưa kia đã thành hiện thực.
Chúa Giê-su Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Tác giả sách Tông đồ Công vụ diễn tả sức sống kỳ diệu của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi: cộng đoàn đông đảo “chỉ có một lòng một ý. Không ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”. Điều gì đã làm nên sự kỳ diệu ấy? Thưa, Đấng Phục sinh.
Thời nào cũng thế, vẫn còn đó những người tin và những người không tin vào Đức Giê-su. Tuy vậy, khi tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết và sống lại, các Ki-tô hữu được trở nên con Thiên Chúa. Thánh Gio-an tông đồ viết: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra”. Đó là cuộc sinh hạ trong đức tin và ân sủng. Họ cũng sẽ chiến thắng thế gian như Đức Giê-su đã chiến thắng. Các Ki-tô hữu cần thường xuyên ý thức về sức sống mới trong tâm hồn và cuộc sống của mình, để củng cố đức tin và thực sự nên giống Đức Giê-su Phục sinh. Chúng ta thấy đó là lý do tại sao Phụng vụ nhấn mạnh và cầu nguyện cho những người tân tòng, trong mùa Phục sinh.
Chúa nhật II Phục sinh cũng là Chúa nhật kính Lòng Chúa thương xót. Xin cho chúng ta cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, thể hiện qua cuộc đời và sứ mạng của Đức Giê-su nơi trần thế, nhất là qua cuộc khổ nạn và phục sinh vinh quang của Người. Xã hội hôm nay rất thiếu vắng lòng thương xót. Đó là nguyên nhân dẫn tới bạo lực, hận thù và xung đột chia rẽ. Khi cảm nhận lờng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta sẽ sống khiêm tốn hơn và dễ dàng thực thi lòng thương xót đối với tha nhân.
Tại Rô-ma, ngày 30/4/2000, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã tôn phong nữ tu Faustina lên PS 2-ABC450
Tại Rô-ma, ngày 30/4/2000, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã tôn phong nữ tu Faustina lên bậc hiển thánh và chính thức thiết lập ngày lễ kính Lòng Chúa Xót Thương vào Chúa nhật II Phục sinh trong toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Kể từ đó việc sùng kính Lòng Chúa Xót Thương ngày một phát triển sâu rộng trên khắp thế giới.
Khi nói về “Chúa Nhật Lòng Chúa Xót Thương” thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô đã viết như sau: “Cũng như Thánh Faustina, chúng ta tuyên xưng rằng ngoài Lòng Chúa Xót Thương, không còn nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại, đặc biệt cần thiết cho thời đại chúng ta hôm nay, một thời đại mà nhân loại đang phải trải qua những lo lắng hoảng sợ trước bao nhiêu sự dữ. Kêu cầu đến lòng thương xót của Chúa rất cần thiết để tự đáy tâm hồn đầy khổ đau, lo lắng, và bất ổn của chúng ta luôn trào dâng một niềm cậy trông vững chắc…”Từ cạnh sườn bị đâm thủng: nguồn ánh sáng và lòng thương xót tuông trào.
Phép Rửa tội đích thực là lòng thương xót của Thiên Chúa được “sinh ra” từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Ki-tô, “nguồn suối của lòng thương xót, tuôn trào sự tha thứ“, không chỉ tha thứ tội Tổ Tông, mà còn liên kết chúng ta với Chúa Ki-tô và Chúa Thánh Thần.
Cuộc gặp gỡ thương xót của Đức Ki-tô với Tô-ma, không chỉ riêng Tô-ma mà cả các môn đệ kia nhờ Tô-ma mà thấy tỏ tường những vết thương của Thầy Chí Thánh. Các môn đệ hết sức vui mừng vì được gặp Chúa.
Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giê-su trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi Phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tô-ma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa đổ xuống trên toàn thế giới, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng.
Như thánh Tô-ma, Chúa Giê-su cũng nói với chúng ta: “Hãy sỏ ngón tay con vào đây, hãy đưa tay ra và thọc vào cạnh sườn Thầy!” (Ga 20,19) Cử chỉ này đã đủ cho Tô-ma. Ông không thể sai lầm. Tay Chúa Ki-tô có một lỗ đanh, cạnh sườn Chúa có vết thương: ngần ấy các dấu chỉ của tình yêu mà Chúa Giê-su không che giấu, thậm trí Người cho chúng ta thấy: lỗ đanh, vết thương ở cạnh sườn Người mà từ đó máu và nước chảy ra: lòng thương xót của Thiên Chúa.
Để giúp chúng ta chuẩn bị lãnh nhận Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng linh hồn, Chúa để lại “phép lạ của Lòng Thương Xót”, đó là bí tích Giải tội. Ở đây Chúa hiện diện với chúng ta như Đấng Cứu Độ với lòng thương xót, là suối nguồn thương xót để ủi an, tha thứ và hoán cải đời sống chúng ta, cho dù tội lỗi chúng ta có đầy tràn.
Mỗi lần chúng ta đi xưng tội với đức tin và tâm tình sám hối thì thật không thể hiểu nổi Lòng Thương xót của Thiên Chúa bao dung tha thứ biết chừng nào. Anh trộm lành ngày xưa vừa nhận mình là kẻ có tội và quay sang xin với Chúa, ngay lập tức anh được Chúa thứ tha: “Ngay hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với Ta”.
Chúa nói với thánh Faustina: “Khi con đi xưng tội, tức là con đến với nguồn Thương xót này, gồm Máu và nước đổ ra từ Trái Tim Ta luôn luôn tuôn xuống linh hồn con… nơi Tòa Án Thương Xót, những phép lạ cao cả nhất tiếp diễn không ngừng… Đây là nơi gặp gỡ của Thiên Chúa Thương xót và linh hồn tội lỗi.
Con hãy dùng đức tin khi quỳ dưới chân người đại diện của Ta… Chính Ta đang chờ đợi con ở đó… Hãy xưng tội trước mặt Ta. Cá nhân vị linh mục đó là Ta, chỉ cách có bức màn. Đừng bao giờ thắc mắc vị linh mục mà Ta dùng đó là ai. Hãy mở linh hồn con khi xưng tội như là xưng với Ta, và Ta sẽ ban cho linh hồn con đầy ánh sáng…Hãy chỉ cho các linh hồn biết phải tìm đâu niềm an ủi. Đó chính là nơi tòa giải tội… bằng đức tin chân thành, hãy đến với vị đại diện Ta nơi tòa giải tội, và kể hết cùng ngài những khốn khổ của linh hồn, và rồi phép lạ của Lòng Thương xót sẽ xảy ra. Một linh hồn giống như thây chết đã thối rữa, đối với quan điểm của loài người là hết hy vọng, là mất tất cả. Nhưng đối với Thiên Chúa lại không vậy. Phép lạ của Lòng Thương xót sẽ phục hồi hoàn toàn linh hồn đó.” (Trích Thông điệp và việc sùng kính Lòng Thương xót Chúa).
Lạy Chúa Giê-su, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới.
Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ của lòng nhân từ hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Ðấng cứu chuộc chúng con. Amen.