Nhật Ký Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 41-80

Thứ ba - 05/05/2020 09:46
Nhật Ký Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 41-80
Nhật Ký Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 41-80
Nhật Ký Truyền giáo của Cha PiôHậu Bài 41-80
----------------------------------
Mục lục:

PiôHậu 41. Ở CUỐI ĐƯỜNG HẦM... 2
PiôHậu 42. ĐỔI MỚI 11
PiôHậu 43. ĐI LANG THANG.. 15
PiôHậu 44. NHƯ CHUYỆN TIẾU LÂM... 20
PiôHậu 45. GIÓ TỪ ĐÂU ĐẾN ?. 24
PiôHậu 46. NƯỚC TRỜI GIỐNG NHƯ TRÁI MẮM... 27
PiôHậu 47. CƠN BÃO SỐ 5. 31
PiôHậu 48. SAU CƠN BÃO SỐ 5. 36
PiôHậu 49. AGAPÊ: ĂN VÌ YÊU, ĂN ĐỂ YÊU…. 48
PiôHậu 50. SAU MỘT CUỘC GẶP GỠ.. 53
PiôHậu 51. ĐỌC THÁNH KINH.. 55
PiôHậu 52. LINH MỤC CỦA AI 58
PiôHậu 53. ÁO NHÀ TU.. 60
PiôHậu 54. NGƯỜI BIỆT PHÁI CẦU NGUYỆN.. 65
PiôHậu 55. LÒNG KHIÊM TỐN LÀ CHỨNG TÁ TIN MỪNG.. 69
PiôHậu 56. ĐẾN VỚI NGƯỜI NGHÈO.. 72
PiôHậu 57: Kính gửi đến quý ÔBACE.. 76
PiôHậu 58: Tản mạn về Vaticanô II 78
PiôHậu 59: CHÚA GIESU LÀ NGƯỜI QUÁ KHÍCH ?. 80
PiôHậu 60: TẠI SAO KHÔNG CÓ NỮ LINH MỤC.. 83
PiôHậu 61: Giới thiệu cuốn sách "DẤU CHÂN CỦA THẦY". 86
PiôHậu 62: CẤM LI DỊ LÀ VÔ NHÂN ĐẠO ?. 88
PiôHậu 63: ĐẠO TẠI TÂM... 91
PiôHậu 64: SAI LẦM: ĐÁNG TIẾC, NHƯNG KHÔNG ĐÁNG TRÁCH.. 94
PiôHậu 65: GIÁO HỘI BỊ MẮNG VỐN.. 97
PiôHậu 66: KHOE ĐẠO.. 99
PiôHậu 67: CHỌN ĐƯỜNG.. 102
PiôHậu 68: MỘT HỌC TRÒ NHIỀU THẦY CÔ (P2) 105
PiôHậu 69: MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ (P1) 108
PiôHậu 70: NGẪM NGHĨ SỰ ĐỜI 111
PiôHậu 71: ĐI VÀO MIỀN ĐẤT LẠ.. 114
PiôHậu 72: ĐI LANG THANG.. 123
PiôHậu 73: CON TU HÚ.. 127
PiôHậu 74: RỒNG VÀNG VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP. 130
PiôHậu 75: Vui buồn đời truyền giáo. 134
PiôHậu 76: Hồng Ân Bất Ngờ Và Hồi Hộp. 138
PiôHậu 77: Người Quỷ Ám Ở Ghêrasa. 141
PiôHậu 78: Lồng Chợ Đêm Hôm Ấy. 146
PiôHậu 79: Lá thư ngỏ gửi chi Hồng Băng. 150
PiôHậu 80: LÁ THƯ NGỎ GỬI NI CÔ DIỆU THẢO.. 153

----------------------------------

 

PiôHậu 41. Ở CUỐI ĐƯỜNG HẦM


 Cái Rắn, ngày 25-2-1999

 

 Đức Cha Mẫn về rồi. Mình nói với chị Giám tỉnh Bác ái Vinh Sơn: - Chúng ta còn một buổi chiều bỏ: PiôHậu 41


Đức Cha Mẫn về rồi. Mình nói với chị Giám tỉnh Bác ái Vinh Sơn:

 - Chúng ta còn một buổi chiều bỏ trống. Nên tranh thủ đi tham quan thị trấn Sông Đốc, một thị trấn giàu có nhất của tỉnh Cà Mau.

 - Xa không cha ?

 - Chừng ba mươi cây số. Đặc biệt là hôm nay vẫn còn "trong mùng" (Mùng 10 Tết Kỷ Mão), chúng ta có thể thấy tàu đánh cá đông ken như cá kèo trong khạp.
 
Mình đếm được mười chín bộ áo màu xanh dương, đa số ở tuổi tứ tuần: già dặn, dạn dĩ. Có ai đó gào lên để lấn át tiếng máy nổ:

 - Xin cha làm "guide" (hướng dẫn viên).

 - Chúng ta đang đi trên kinh Ba Ngàn. Con kinh này do ông Cố Đức Cha Mẫn đào vào đầu thập niên ba mươi. Lúc đó ông Cố làm quản lý hai trăm héc ta đất Nhà Chung ở đây. Con kinh này dài ba ngàn mét, có công dụng xả phèn và để ông Cố chèo xuồng về thăm ông già ở Rạch Lùm. Rạch Lùm sát kề thị trấn Sông Đốc thuộc xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, quê hương thứ hai của ông nội Đức Cha Mẫn và là nơi sinh trưởng của bác Ba Phi... Hết ba ngàn mét, chúng ta sẽ đi vào kinh Ông Tự, rồi trổ ra Sông Ông Đốc.

 - Tại sao lại gọi là Sông Ông Đốc ?

 - Con sông này dài hơn năm mươi cây số, bắt đầu từ sông Trẹm, thị trấn Thới Bình, và kết thúc ở bờ biển phía Tây Nam. Con sông mang tên ông Đốc vì vào cuối thế kỷ 18, vua Gia Long đã trốn quân Tây Sơn đến ở Cái Rắn, đặt hai quan Đốc trấn ở hai điểm: Ông Đốc Lới đóng quân ở Đốc Lới (thuộc ấp Tân Ánh bây giờ, và ở cách nhà thờ Cái Rắn chừng 8 cây số); Ông Đốc Vàng đóng quân ở vàm con sông nói trên. Trong trận giao tranh với quân Tây Sơn ở Tắc Thủ, vua Gia Long thua. Ông Đốc Vàng đổi áo với vua Gia Long. Ông để quân Tây Sơn giết lầm. Vua Gia Long trốn thoát. Có lẽ vì thế mà con sông này mang tên sông Ông Đốc để ghi ơn Ông Đốc Vàng, một “Lê Lai liều mình cứu Chúa”.

 - Bộ vua Gia Long đã đến ở Cái Rắn hả cha ?

 - Ừ, ông đã đến vùng này và cho đào một cái ao, gọi là Ao Ngự, ở cách nhà thờ Cái Rắn chừng hai trăm mét.

 - Cha lấy tài liệu ở đâu mà nói rành rẽ dữ vậy ?

 - Các vị cao niên ở đây kể lại như thế.

 Thuyết minh chán rồi thì ngồi chơi. Ngó bâng quơ. Nhai kẹo cà phê nhóp nhép. Đắng đắng. Ngọt ngọt. Béo béo. Thơm thơm. Tuyệt !

 - Sắp tới thị trấn Sông Đốc rồi ! Các chị nhìn phía tay phải.

 - Ui cha ! Tàu đâu mà nhiều thế ? Chừng nhiêu cái, cha ?

 - Hơn bốn trăm cái. Tàu về ăn Tết, chưa xuất hành nên mới đông ken như vậy.

 - Mỗi chiếc tàu trị giá chừng mấy chục triệu ?

 - Mấy chục triệu hả ? Mấy chục triệu thì tôi cho chị rờ nó một cái. Những chiếc lớn đánh cá ở hải phận quốc tế thì trị giá từ bốn trăm triệu đến một tỉ đồng.

 - ? !!

 - Như vậy có nghĩa là ở Sông Đốc có chừng bốn trăm tỉ phú.

 Đối với người Sàigòn thì chỉ có cảnh tàu bè chen chúc nhau là đáng coi. Còn chợ búa thì họ chỉ liếc qua một cái, rồi đòi về. Trên đường về, có một chị hơi giống Việt kiều ngồi cùng băng với mình.

 - Xin lỗi, chị tên chi ?

 - Tên con là Pascal.

 - À biết rồi, chị bay tới bay lui như con cào cào. Chị ở đâu về ?

 - Con thì nay đây mai đó, nhưng ở Palawan rất thường.

 - Tôi muốn nghe chuyện Palawan (Philippines).

 - Palawan thiếu nước như ở sa mạc vậy. Kỹ sư địa chất đi tìm mạch nước, khoan biết bao nhiêu giếng mà vẫn không thấy nước. Dân khổ vô cùng !

 - Ở Mêriba, Môsê đã lấy gậy đánh vào vách đá để lấy nước. Còn chị thì sao ?

 - Có một ông cha cầm gậy rà trên bản đồ thì biết chỗ nào có nước. Các kỹ sư cho là dị đoan, nhưng cùng đường rồi, thì chúng con phải điều đội khoan đến đó. Con kêu các bà phước, và bà con ra ngồi thành vòng tròn trên bãi cát, ngước mắt lên trời, đập tay lên cát để xin nước. Người đạo thì kêu Chúa, người ngoại thì con dạy họ: "Lạy Cha Trời, lạy Mẹ Đất, xin cho chúng con nước". Cứ gào lên như thế, cứ đập tay lên cát như thế. Một lần, hai lần.. . hai mươi lần...

 - Có giống người điên không ?

 - Không biết. Nhưng mà cùng đường rồi thì phải van xin như thế. Không có nước thì chết sao ? Và... cuối cùng thì có nước thật. Các kỹ sư sửng sốt.....

----------------
 
Cái Rắn, ngày 26-2-1999 .

  Các chị Bác Ái Vinh Sơn rời Cà Mau đi Cần Thơ vào lúc 17g45. Mình lấy xe honda ôm vọt thẳng về Cái Rắn. Mệt lắm, nhưng sao thấy không buồn ngủ. Thì ra câu chuyện đi tìm nước ở Palawan vẫn còn ám ảnh mình.

 Khi tới cuối đường hầm của cuộc đời, người ta phải chết hoặc tìm ra một lối thoát. Khi con dế bị ngộp thở ở đáy hang, nó phải bò ra để nộp mình cho thằng cu tí. Khi ông Nguyễn Phúc Ánh bị dồn đến Cái Rắn và Sông Đốc, thì tìm được con đường trốn qua Phú Quốc. Khi chị Pascal và đồng bào bị chết khô ở Palawan, thì đã gào lên như điên và đã có nước. Còn mình thì... đã nhiều lần đi tới cuối đường hầm mà không tìm được lối ra.

 1- Có một người đàn bà dắt hai đứa trẻ thơ, thất thểu đi vào nhà thờ Cà Mau. Mình mời vô nhà xứ.
 - Mời chị ngồi. Chị đi đâu vậy ?

 - Con ở Trà Vinh qua bên đây để đi xin ăn.

 - Chồng chị đâu ?

 - Ổng đi theo vợ bé. Ổng chê con bị lao phổi. Con qua bên đây đi xin ăn mà không đủ gạo nuôi con. Cứ đi được chừng hai trăm mét, thì lại phải ngồi xuống để thở. Bác sĩ nói là con bị lao tới giai đoạn ba... Xin cha nuôi giùm con hai đứa con… Con không còn sống được bao lâu nữa...

 - Hiện chị ở đâu ?

 - Ban ngày đi xin, tối về ngủ ở nhà lồng chợ.
 
- Có ai ngủ ở đó nữa không ?

 - Có ba mẹ con của con với một ông cùi. Ông cùi nói với con: “Chị đừng đi xin nữa. Đi không nổi đâu. Người ta cho tôi nhiều lắm, ăn không hết. Còn chị thì xin không đủ ăn. Để tôi nuôi cả mẹ lẫn con. Tôi chỉ yêu cầu một điều thôi là mỗi tuần cho tôi h... một lần". Hu... Hu... Con biết làm gì bây giờ ?! Không chiều người ta, thì hai đứa con phải đói. Nghe người ta, thì... Hu... Hu...

 Mình dốc hết túi tiền cho người đàn bà ấy, rồi đứng lặng nhìn ba mẹ con thất thểu đi ra. Bây giờ thì chắc người đàn bà ấy đã chết rồi. Còn hai đứa bé thì không biết đã trôi dạt về đâu ?
 
2- Ông Hai P. mượn tiền để làm mùa. Mình chờ tới mùa để thấy ông dư ăn. Năm ấy thất mùa. Nước mặn tràn vào. Lúa trổ cờ trắng xóa. Gia hạn cho ông một năm nữa. Năm ấy đứa con gái của ông bị bịnh động kinh. Ông đến gãi tai với mình:

 - Xin ông cha rửa tội cho nó, thì nó mới hết bịnh.

 - Không phải vậy. Bịnh thì phải vô nhà thương.

 - Vô rồi. Bác sĩ biểu không có bịnh gì hết. Đi thầy pháp ở tuốt dưới Năm Căn. Thầy biểu phải cúng một con heo. Đi thầy pháp ở tuốt bên U Minh. Hết một con heo nữa. Bịnh vẫn còn nguyên si. "Nó" không cho ăn, nên con tôi bây giờ xanh như lá cây. Tốn hết mấy cây vàng rồi. Vay mượn riết rồi, đành bỏ mặc tới đâu thì tới.

 Mình giới thiệu con ông với một trạm xá đông y ở bên Kiên Giang. Sau một tháng, trạm xá gửi trả lại.

 - Có bớt được chút nào không ?

 - Chút đỉnh à.

 Thế rồi, một ngày kia bà phước báo tin:

 - Con B. tự tử chết rồi.

 - Bằng cách nào ?

 - Thắt cổ.

  Mình chẳng biết nói thế nào để an ủi vợ chồng ông Hai P. Họa vô đơn chí ! Biểu ông can đảm chịu đựng ư ? Can đảm gì nổi. Biểu ông cầu nguyện ư ? Cầu nguyện thế nào ? Cầu nguyện với ai ? Cầu nguyện để làm gì nữa ? Ông P. chưa có niềm tin. Mình cảm thấy bất lực hoàn toàn.

 ----------------
 
Cái Rắn, ngày 3-6-1999

 7g30. Chín bà phước có mặt đầy đủ ở bến nhà thờ. Túi xách, máy chụp, sổ tay và cây viết y như ký giả lên đường. Nhóm một đi Kinh Giữa. Nhóm hai đi Đập Vườn và Kinh Thổ. Mình theo nhóm hai.

 Xuồng chở hơi khẳm. Bà phước Sàigòn nhát như thỏ, không dám nhúc nhích, không dám trò chuyện. Họ ngồi lặng lẽ như hàng trâm bầu không có gió mơn man để phe phẩy.

 Xuồng cập bến, ông Hai Chữ Thập Đỏ nhảy phóc lên bờ. Mình và các bà phước lom khom bò theo. Mảnh sân trơn trượt. Căn nhà lá nghèo nàn.

 - Xin lỗi ông thứ mấy ?

 - Tôi thứ ba.

 - Nhà ông Ba có một người tàn tật ?

 - Có thằng cháu ngoại dị tật bẩm sinh. Cha nó thôi mẹ nó. Mẹ con nó bây giờ ở với vợ chồng tôi.

 - Ông bà Ba nuôi cả hai mẹ con luôn.

 - Tôi mười một đứa con. Nghèo quá! Nhưng biết sao được? Mẹ góa, con dị tật, cha mẹ phải lo.

 - Tên cháu là gì ?

 - Thằng Cu.

 - Tên giấy tờ kia.

 - Thì nó chỉ có một tên đó: Nguyễn Văn Cu.

 Ông châm nước. Mình chạy ra hàng ba coi mặt thằng Cu. Các bà phước đang phỏng vấn, chụp hình, ghi chép lia lịa. Thằng Cu mười tuổi rồi mà chỉ cao bằng người mẹ ngồi chồm hổm. Đầu to và vuông như đầu thằng rôbốt. Tóc rậm rì rũ xuống che kín cặp mắt đang híp lại, nhăn nhúm như mắt khỉ con. Cái miệng ngoác ra để lộ hai hàng nướu trống trơn với cái lưỡi dày cộm. Nước miếng và nước mắt nhểu xuống nhễ nhãi. Một tay ôm cổ mẹ, một tay dị dạng cong queo. Hai chân vòng kiềng. Mười ngón chân xòe ra một cách vô trật tự.

 Bà phước nhỏ nhẹ:

 - Cháu có nói được không chị ?

 - Nó nói đớt đát được vài tiếng. Hồi mới sanh, dì Bảy có nói trước là cháu sẽ khó nói.
 - Cháu đói có biết đòi ăn không ?

 - Đói thì nó đòi ăn, nhưng đái ỉa thì nó lại không biết. Cứ cho ra đầy quần rồi nó mới cho hay. Giặt hoài hủy thôi. Cứ suốt ngày phải canh chừng nó. Lỡ đi đâu thì nhờ bà ngoại trông chừng...

 Người đàn bà cứ thao thao bất tận kể vanh vách về đời sống của đứa con điên khùng và dị dạng của mình. Nét mặt của chị hân hoan. Nụ cười của chị không vương vấn nỗi khổ. Chị ôm thằng Cu rôbốt, yêu thương và trìu mến. Nó là niềm hy vọng độc nhất và cuối cùng của chị. Chị sẽ nuôi nó suốt đời, yêu thương nó suốt đời trong cảnh nghèo đói tận cùng.

 Mình im lặng xuống xuồng đi sang nhà khác, để lại chứng kiến thêm những nỗi thống khổ trập trùng. Nhưng vẫn thầm cảm phục người đàn bà cười tươi với thằng Cu rôbốt... hôm nay và mãi mãi.

 ----------------------
 
Cái Rắn, ngày 5-6-1999

 Hôm nay một đoàn đi Bàu Láng, một đoàn đi Tân Ánh. Bà Tư Quý hướng dẫn đoàn một. Ông Chữ Thập Đỏ hướng dẫn đoàn hai. Vì tò mò mình xuống xuồng đi Tân Ánh. Khu vực này có nhiều ca tàn tật gây nhiều cảm xúc. Địa bàn lắt léo, phải đi tìm anh công an ấp nhờ làm hướng dẫn viên. Đi tìm anh cũng mất một tiếng đồng hồ.

 Anh dẫn đoàn vào một căn nhà rách nát:

 - Nhà này có tới ba người tàn tật lận !

 - Nhiều dữ vậy sao ?

 Người đàn bà có khuôn mặt nhăn nhúm chống gậy tập tễnh đi ra. Các bà phước bao quanh. Lại chụp hình. Lại phỏng vấn và ghi chép lia lịa.

 Mình đến ngồi tâm sự lẻ với người con trai cả.

 - Năm nay anh mấy mươi ?

 - Gần bốn chục.

 - Anh có thấy được chút gì không ?

 - Không.

 - Hai tay anh như vậy thì còn nấu cơm, giặt đồ được không?

 - Không. Tay có tật, chân cũng liệt một nửa.

 - Vậy ai nấu cơm giặt đồ cho anh ?

 - Vợ tui

 - Ủa, anh có vợ hả ?

 - Tôi mới cưới vợ năm rồi. Con Lủng này là con riêng của nó.
 - Vợ anh đâu ?

 - Nó đi giăng lưới kiếm cá ở ngoài ruộng.

 - Mẹ anh không thấy đường, anh cũng không thấy đường, vậy thì một mình vợ anh phải lao động nuôi cả nhà này ?

 - Hổng có. Thằng thứ sáu nuôi mẹ, nuôi anh, nuôi chị dâu và bé Lủng. Nó cũng bị tật ở tay và chân nhưng còn quơ quào được. Nó đang đi phát cỏ ở ngoài ruộng. Để tôi cho người đi kêu nó về.

 Người con trai thứ sáu từ ngoài sân lết vào. Ướt mem.

 - Cái tay này còn cầm phảng được không ?

 - Được.

 - Đánh lộn được không ?

 - Hổng dám đâu.

 - Sao vậy ?

 - Đánh không lại người ta.

 - Năm nay anh nhiêu ?

 - Ba mươi sáu.

 - Chừng nào cưới vợ ?

 - Mình tàn tật thì cưới vợ chi để làm khổ người ta.

 - Người ta thương thì sao ? Anh Sáu ơi, em thương anh hết sức. Hổng lấy được anh, chắc em chết quá à ! Nếu có cô nào nói như thế, thì anh tính sao ?

 - Hổng dám đâu. (Cười sung sướng)

 Mình vỗ vai giã từ anh Sáu. Có người ghé tai mình nói nhỏ:

 - Dường như vợ anh Hai mắc bịnh cùi.

 - Không nên nghĩ vậy.

 Anh công an ấp ra lệnh cho tài công ghé đầu kinh Thầy Chùa. Có một người đàn bà đang tuổi mơn mởn từ đâu chạy về.

 - Tôi nghe nói nhà chị có một đứa con gái cụt một tay. Chị cho tôi nói chuyện với cháu.

 - Yến ơi, con ra ngoài này cho chú hỏi chuyện.

 - Năm nay con nhiêu ?

 - Con mười sáu tuổi.

 - Học lớp mấy ?

 - Con đang học dở lớp năm thì nghỉ.

 - Con có một tay thì có tiếp gì được cha mẹ không ?

 - Nó nấu cơm, giặt đồ...được hết trơn. Mẹ của Yến nói xen vào. Hồi nó mới bốn tháng, tui thì qua bên bà ngoại nó, cha nó thì đi nhắp câu ở sau nhà, chừng một công đất (360m), con heo nái, trèo lên giường lôi nó xuống nhai nát bàn tay. Nghe tiếng khóc thì cha nó chạy vô. Nó chết giấc. Đưa đi Cà Mau, bác sĩ tháo khớp.

 - Tôi muốn hỏi chuyện ông xã chị để hiểu thêm.

 - Ông xã tôi chết hồi mới sanh đứa em kế nó.

 - Chết bịnh hả ?

 - Khi tôi sanh thằng này, thì nó không có lỗ đít. Cha nó thắt cổ tự vận. Không một lời trăn trối.

 - Thế bây giờ nó đã có hậu môn chưa ?

 - Bác sĩ đưa hậu môn ra bên hông. Mười bốn năm rồi "nó" muốn ra lúc nào thì ra.

 - Sao không đưa xuống dưới như mọi người.

 - Bác sĩ biểu phải tốn tiền lắm. Tui nghèo không lo nổi.

- Chị có muốn kiếm một ông chồng nữa để ổng lo tiếp chị không ?

 - Thì đó đó. Được thêm một đứa nữa. Tôi vừa có bầu, thì cha nó bỏ về luôn bên Vĩnh Châu.

 - Thì kiếm một ông nào tốt bụng, biết thương, biết lo.

 - Hết dám rồi ! (Cười duyên)

 Sau khi chụp hình và an ủi, các bà phước xăn quần, lội sình, lần ra bến. Chừng mười phút sau có người hiệu đính lời khai của mẹ em Yến-Hợi (Yến sinh năm Hợi, bị con hợi nhai mất bàn tay).

 - Mẹ nó khai không đúng đâu. Cha nó nằm ngủ trên giường với đứa bé. Heo lôi con xuống nhai mất tay mà cha vẫn còn ngủ ?!...

 - Hay là hắn say rượu ?

 - Biết đâu à.

 - Có lẽ lương tâm hắn cắn rứt, cộng thêm cái đau vì đứa con kế đó không hậu môn, nên hắn đã tự vận. Tội nghiệp con Yến. Mặt xinh như thế mà lại cụt tay. Hồi nãy mình có hỏi nó về tương lai, nó trả lời: “Tới đâu hay tới đó”.

 Mình không chịu thua, nhưng chưa biết sẽ làm gì cho Yến cụt tay và thằng em không có hậu môn ?
 
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

----------------------------------
 
 

PiôHậu 42. ĐỔI MỚI


 Sàigòn, ngày 1-3-1999
 
 

 Hôm nay mình đi thăm Cha T., một linh mục cao niên nghỉ hưu. Hưu rồi, nhưng vẫn còn thèm công:  PiôHậu 42


Hôm nay mình đi thăm Cha T., một linh mục cao niên nghỉ hưu. Hưu rồi, nhưng vẫn còn thèm công tác mục vụ, vẫn còn ham đọc và viết, vẫn thông minh và khả kính.

 - Cha ở đâu vậy ?

 - Con ở Cần Thơ.

 - Ở Cần Thơ, Đức cha cho phép rước lễ trên tay ?

 - Vâng. Ở Cái Rắn của con thì rước lễ trên tay 100%.

 - Từ ngày Tòa Thánh cho phép rước lễ trên tay, lòng đạo đức và lòng tôn kính Thánh Thể sa sút nhiều lắm. Hậu quả của nó thật là khôn lường. Rước lễ trên tay là một cách phá đạo rất tinh vi...

 Mình tìm cách đánh trống lảng để chuyển đề tài. Nhưng đi vòng vòng một lát, ngài lại quay trở về đề tài cũ. Khi bắt tay giã từ, ngài ân cần dặn dò lần chót:

 - Cha đừng cho rước lễ trên tay.

 - Thưa ông cố, con về.

 Ngồi trên xe Honda ôm trở về trung tâm thành phố, mình hỏi mình: "Tại sao lại có chuyện kỳ vậy nhỉ ?"

 ------------------------
 
Sàigòn, ngày 3-3-1999

 Hôm nay mình có hẹn với Đức cha Mẫn. 11 giờ mình đã có mặt ở Tòa Tổng. Mình quyết tâm đem chuyện "Rước lễ trên tay" ra méc...

 Ăn cơm trưa xong, mình bắt tay giã từ Đức cha. Khi ngồi vững vàng trên xe Honda ôm, mình mới sực nhớ là chưa méc chuyện ấy.

 Tức thế ! Thôi không thèm méc nữa. Cứ ghi khắc trong lòng để suy gẫm.

------------------------------
 
Sàigòn, ngày 4 -3-1999

 Đêm hôm qua mình chỉ ngủ 5 tiếng đồng hồ, còn 2 tiếng nữa thì nằm chỏng gọng suy nghĩ sự đời. Sự đời nằm trong sự đạo. Mình gẫm lại chuyện xưa để lý giải chuyện rước lễ hôm nay.
 
1- Cha Lý Thành Truyền kể chuyện:

 “Ở Hòa Thành có một cụ già cần cù làm ăn. Ông dành dụm cắc củm mấy chục năm mới dựng được một căn nhà khang trang. Ông lựa được một bộ cột tràm thẳng băng, bào láng coóng. Đó là mồ hôi nước mắt. Đó là danh dự của một thằng đàn ông chân lấm tay bùn. Đó là sự nghiệp của một người cha xứng đáng truyền lại cho con cháu. Bây giờ nhắm mắt cũng được rồi.

 Bỗng dưng thằng con đui mù của ông không nhìn thấy giá trị của bộ cột tràm bóng lưỡng như sơn dầu. Nó mua vật liệu về để một đống ở trước sân. Nó sẽ đúc nhà tường. Căn nhà có bộ cột tràm thẳng băng sẽ chỉ còn là nhà bếp của nó. Nó coi cha nó không ra gì. Từ đó ông tỏ vẻ không vui. Ông không nói năng gì hết. Cứ lặng lẽ như con sò. Con sò ngậm trái bom nổ chậm.

 Thợ xây cứ làm việc ì xèo, nhậu nhẹt cứ lao xao. Ông cụ già cứ đi ra đi vô, nhếch mép cười mỉa. Tới giai đoạn lót gạch bông thì trái bom nổ. Con sò mở miệng:

 - Lót gạch tàu cho ấm giò !

 - Nhà xây như vậy thì phải lót gạch bông mới tương xứng ba ạ.

 - Mày lót gạch bông cho chó nó ỉa. Tao dứt khoát không cho lót gạch bông.

 Công trình tạm ngưng. Thằng con chạy vào nhà xứ, gãi tai:

 - Ông cố cứu con với. Gạch bông mua đủ hết rồi mà cha con không cho lót. Nhà như vậy mà lót gạch tàu coi sao được, ông cố.

 - Để tao nói giùm. Người già hay bảo thủ lắm.

 Bây giờ thì thợ đã lót gạch bông. Những buổi trưa nóng nực, ông cụ già cởi trần nằm ngủ khò trên nền gạch bông. Chẳng có con chó nào dám đến ỉa..."

 2- Lúc ấy còn làm lễ quay lên

 Mình làm phó cha Trần Văn Long sáu năm ở nhà thờ Chánh Tòa Cần Thơ. Lúc ấy còn làm lễ quay lên. Bàn thờ có tam cấp. Hai vị thiên thần quỳ một gối, mỗi vị ôm một chùm đèn, hầu hai bên. Thấy không vừa mắt, cha Long cho khiêng hai tượng thiên thần cất vào kho. Chưa hết, trên phông cung thánh có hai tượng thiên thần đắp phù điêu. Thấy không đẹp mắt, cha Long cho đục bỏ. Sẵn trớn cha Long cho quét sơn lại toàn bộ.

 Quả thật, nhà thờ đẹp hơn trước nhiều. Sáng sủa. Trang nhã. Nhưng có một nỗi phẫn nộ âm ỉ và lây lan trong họ đạo. Giáo dân Cần Thơ hiền lành như dòng sông Hậu. Họ không phản đối, nhưng vẫn cứ xầm xì sau lưng. Mình chỉ phát giác được cơn phẫn nộ hiền lành ấy trong một buổi nói chuyện riêng tư.

 - Bệnh của cha sở rắc rối lắm: Vừa tiểu đường, vừa huyết áp cao. Uống thuốc trị tiểu đường thì nối giáo cho anh huyết áp cao. Trị bệnh tăng-xông thì vỗ béo anh đái đường.

 - Chúa phạt ổng. Ai biểu dẹp thiên thần làm chi ?
 
3- Một cha già đọc báo rồi kể chuyện.

 Ở bên Pêru gì đó có một nhà thờ nhận thánh Rôcô làm bổn mạng. Thánh Rôcô cưỡi ngựa. Tượng sơn màu loè loẹt. Với thời gian chồng chất, màu lòe loẹt trở thành màu nhôm nham, loang lổ. Nghệ thuật không còn nói được sự thánh thiêng nữa. Vả lại trong ngành điêu khắc thì đường nét và thể khối mới quan trọng, màu sắc là thứ yếu.

 Nhân dịp trùng tu nhà thờ, cha xứ cho sơn lại tượng thánh Rôcô. Người ngựa, râu tóc, quần áo đều được sơn bằng một màu duy nhất: màu kem. Cha xứ tấm tắc khen ngợi: màu này nhã lắm. Thế mới là nghệ thuật.

 Ai ngờ ... chiều hôm ấy, giáo dân nổi loạn, bao qnanh nhà xứ, la hét om sòm.
 - Treo cổ cha xứ lên.

 - Sơn Thánh Rôcô lại như trước cho chúng tôi.

 Sau đó cha xứ nhận được lệnh Tòa Giám mục:“Rời nhiệm sở trong vòng 24 giờ”
 
4- Tượng Đức Mẹ đẹp tuyệt vời

 Năm 1971 mình đến Năm Căn. Năm 1972 dựng tượng Đức Mẹ. Tượng Đức Mẹ làm bằng xi măng trắng, cao 1m50. Chân đế làm tạm bằng thùng đạn róckét. Gặp con nước ròng, sân nhà thờ ngập lai láng. Bầu trời xanh biếc. Mặt nước mênh mông như biển cả. Tượng Đức Mẹ đẹp tuyệt vời. Đức Mẹ giống như cánh buồm trắng đang vượt khơi. Mẹ là Nữ Vương trời đất, là Nữ Vương biển khơi. Giáo điểm Năm Căn sẽ theo Mẹ ra khơi. Mình cứ âm thầm hưởng thụ cái hạnh phúc tuyệt vời ấy cho tới một ngày kia…

 Một bà già bĩu mỏ, nói toáng lên ở trước giáo điểm:

 - Cái ông cha này bất nhân thiệt, bắt Đức Mẹ đứng dang nắng suốt ngày. Tội nghiệp bả !

 Năm 1980 mình xây đài và dựng tượng Đức Mẹ ở nhà thờ Bảo Lộc, Cà Mau. Đức Mẹ lại đứng giữa khoảng không, dãi dầu mưa nắng. Lại bị mắng vốn. Bà Chín Khòm kéo áo mình:

 - Ông cố ơi, con chịu tiền sắm cho Đức Mẹ cái dù. Tội nghiệp quá à!

 - Đừng tội nghiệp Đức Mẹ. Đức Mẹ phải đứng giữa trời như thế mới làm Nữ Vương trời đất được chứ.

 - Vậy hả ?

 Bà Tám Mến từ Hòa Thành về khoe với mình:

 - Đức Mẹ trong Hòa Thành bảnh hết biết, đứng trong lồng kính đàng hoàng. Đức Mẹ Bảo Lộc cực quá à !

 - Không sao đâu. Làm lồng kính thì cũng dễ thôi, nhưng tôi sợ rằng ở trong ấy thiếu ốcxy làm Đức Mẹ ngộp thở.

 - Ông cố này nói kỳ quá à !
 
5- Một bà phước nói với mình:

 - Người lớn thì rước lễ trên tay, còn con nít thì rước lễ bằng miệng.

 - Tại sao vậy ?

 - Tay con nít dơ quá à. Vọc cát cho đã rồi vô cầm Mình Chúa tỉnh bơ.

 - Tay, không dơ bằng miệng. Miệng, không dơ bằng bao tử. Chúa hổng chê cái nào hết. Làm sao cho trang trọng là được.
  
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

------------------------------
 
 

PiôHậu 43. ĐI LANG THANG


 Cái Keo, ngày...1973
 
 

Hạnh, con mượn xuồng máy cho cha đi Đồng Cùng chưa?   - Xuồng ông Sáu Khôi kẹt rồi. PiôHậu 43


- Hạnh, con mượn xuồng máy cho cha đi Đồng Cùng chưa?

 - Xuồng ông Sáu Khôi kẹt rồi.

 - Chết cha tôi rồi ! ... Không sao, để cha đi bộ.

 - Đi bộ xa lắm !

 - Bốn cây số không đủ để mỏi chân. Con kiếm đứa nào chèo xuồng đưa cha qua Cái Muối, rồi cha đi ên ! (đi ên là đi một mình)

 - Cha đừng đi bộ. Lỡ có lựu đạn thì sao ?

 - Thì nó nổ... Cha đi hoài con đường này rồi.

 Gặp con nước rong, sông Bảy Háp phẳng lì như mặt hồ. Bên tả ngạn: mắm, đước trập trùng, màu xanh bát ngát. Mình đi bên hữu ngạn: nhà cửa lưa thưa, rừng dừa xơ xác. Nếu thần chết đừng lởn vởn đâu đây, thì phong cảnh này đẹp đến mê hồn. Đẹp đến mê hồn, nhưng cũng sợ đến chết được. Mình đang cẩn trọng lội qua đám rau mui bịt bùng, thì có tiếng hỏi vọng ra từ phía căn nhà lá, có vườn bông mồng gà:

 - Ông cha đi đâu mà lội bộ vậy ?

 - Tôi xuống Đồng Cùng.

 - Sao không đi vỏ cho nó khỏe cái giò ?

 - Nếu tôi đi vỏ thì làm sao được gặp và nói chuyện với ông. Ông thứ mấy nhỉ ?

 - Tôi thứ Năm. Mời ông cha vô uống nước.

 Thế là mình có thêm một người bạn tốt. Ông Năm hiền từ và quảng đại. Chiều nào bà con lối xóm cũng tụ tập ở đây. Đàn ông thì hút thuốc, đàn bà thì ăn vặt. Dừa đó, cứ việc bẻ; chùm ruột đó, cứ việc hái. Ông Năm hứa sẽ cho mình mượn nhà để nói chuyện đạo, để làm lễ... Phải chăng đây chính là căn nhà của "bà Maria, mẹ của Gioan Máccô" mà Chúa sắp ban cho mình.

 -----------------------

Sơn Tây, ngày... 1990

 Sáng nay mình đi tham quan nhà máy thủy điện Hòa Bình...Về đến Kỳ Sơn thì xe xẹp bánh. Người lái đi vá, còn mình thì đi lang thang... Có một căn nhà lá nằm dưới sườn đồi. Thấp thoáng có bóng người con gái. Mình mò tới để gạ chuyện.

 - Chào cô, tôi là dân Nam Bộ, thấy nhà cô có hai cây vú sữa, tôi cảm động quá. Cứ tưởng chỉ có dinh Bác Hồ mới có một cây vú sữa, ai ngờ… Nó có quả chưa cô ?

 - Bố cháu lấy giống ở Hà Nội đem về trồng từ ba năm nay rồi, mà chả thấy nó ra quả.

 Đến đó là hết chuyện. Im lặng nặng nề. Mình muốn vô nhà, mà cô gái không mời. Tức khí, bèn mở lối.

 - Nhà cô có hai cây hồng ở đàng kia, sai quả quá, cô có bán không ?

 - Hồng nhà cháu còn xanh lắm chưa ngâm được. Chú quá bộ xuống chợ mà mua. Ở đấy thì có vô khối, tha hồ mà mua.

 - Tôi muốn mua hồng của cô kia. Hồng ngoài chợ thì tôi thèm vào.

 Lại hết chuyện. Lại im lặng nặng nề. Mình muốn vô nhà, mà cô gái vẫn không mời. Phải chăng vì chỉ có một mình cô ở nhà, nên cô giữ kẽ với mình ? Hay vì cô không muốn tiếp khách du lịch trong căn nhà nghèo nàn ? Kệ, mình tấn công một lần nữa, một lần cuối cùng.

 - Cô ơi, nhà cô có điếu thuốc lào không ?

 - Thưa có ạ. Mời chú vào.

 Mình vê một điếu, rít một hơi giòn giã. Người đàn ông đang ngủ ngon bỗng giật mình lồm cồm bò dậy, gãi đầu và nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu...

 - Đây là anh của cháu.

 - Chào anh. Tôi thèm thuốc quá, anh thông cảm nhá.

 Người đàn ông mỉm cười, lết tới bàn, vê một điếu thuốc, rít một hơi thật điệu nghệ, ngửa cổ, phun khói lên mái nhà. Sướng ! Chủ và khách bỗng trở nên bạn thân, bạn thuốc lào... Ông anh hút nhiều, nói ít. Cô em không hút, nói nhiều. Cô có trình độ cấp ba, làm thư ký cho nhà máy giấy. Quần áo của cô thì bèo nhèo, nhưng cái miệng của cô thì dẻo quẹo. Cô có rất nhiều bạn theo đạo công giáo và cô rất quý mến họ. “Họ tốt lắm, ở đây không có nhà thờ. Những ngày lễ lớn họ đi về lễ ở Hà Nội" .

 Lời tâm tình của cô khiến mình cảm động đến rơi lệ. Những anh chị em công nhân công giáo xa họ đạo, xa nhà thờ, nhưng vẫn sống chứng tá giữa đồng bào của mình. Họ là men. Họ là muối. Họ đang giảng Lời.

 Sực nhớ đến người lái xe, mình kết thúc vội vã:

 - Tôi cũng theo đạo Thiên Chúa. Thôi chào anh, chào cô, tôi phải đi. Nếu chẳng may lỡ đường, cho tôi ngủ nhờ nhá.

 - Không dám ạ, nhà cháu nghèo lắm.Nhưng nếu chú không chê nghèo, thì xin chú cứ tới ạ.

 - Tôi thích người nghèo lắm. Chúa yêu người nghèo mà. Chào người nghèo !

 - Cháu cũng thích đạo này lắm. Chào chú.

 Mình tìm đến chỗ vá xe. Ở chốn đèo heo hút gió này, người vá xe chỉ vá xe đạp. Xe Honda thì hắn phải mầy mò. Không có đồ vá chín (vá ép), hắn đành vá sống.

 - Cháu vá tạm. Hai chú xuống chợ huyện thì có vá chín.

 - Đành thế... Ờ, mà cậu có cái gì dán ở cửa kia ?

 - Đức Mẹ đấy… Mà cháu cũng chẳng biết nữa. Hồi cháu vào trong Nam, cháu thấy đẹp thì đem về dán ở đấy.

 Hắn là người dân tộc Mường, đi bộ đội, vào giải phóng miền Nam, đem ảnh Đức Mẹ về dán ở cửa, giữ gìn một cách trân trọng, và nói một cách thành kính: "Đức Mẹ đấy". Sau đó lại sang số: « Mà cháu cũng chẳng biết nữa... Cháu thấy đẹp thì đem về dán ở đấy ». Vấn đề không đơn giản như vậy...

 Hai người dắt xe ra quốc lộ 6, đạp máy và phóng về phía Sơn Tây. Đúng là Kỳ Sơn. Núi đẹp quá. Trập trùng. Muôn hình. Muôn dạng. Gió mát như gió ướp lạnh. Đà Lạt ơi ! Thua 0-1 rồi!

 Mình muốn dừng xe và ở lại luôn để thấy và để cảm nghiệm hết cái đẹp của Kỳ Sơn. Tại sao ở đây không có một "nhà thờ con gà" ? Tại sao Kỳ Sơn chưa đi vào văn chương Việt Nam ?...

 Vừa đến Xuân Mai, thì xe lại xì hơi. Bỏ người lái xe, mình  men theo bờ dốc đến trước một ngôi nhà ngói ba gian, có tường đá ong bao bọc xung quanh. Mình đứng ở cổng, ngó mông lung về phía đồi chè.

 - Bác muốn tìm ai đấy ?

 - Tôi không tìm ai cả. Tôi đi tham quan nhà máy thủy điện Hòa Bình. Về đến đây thì xe nổ lốp. Người lái đi vá. Còn tôi... thấy nhà của chị đẹp quá thì đứng ngắm một tí.

 - Mời bác vào xơi nước ạ.

 - Nhà chị đẹp quá, lại có bài vị sơn son thếp vàng. Chắc nhà chị có nhiều người tài giỏi lắm ?

 - Không dám. Nhà cháu nghèo lắm.

 - Chị theo đạo nào ?

 - Cháu là người lương.

 - Người lương khác người đạo thế nào ?

 - Người đạo là người Thiên Chúa, không thờ cúng ông bà.

 - Đạo gì mà kỳ vậy ? Công đức sinh thành mà không thờ là thế nào ?

 - Cái đó thì cháu chả biết. Nhưng mà. .. cứ đến ngày giỗ, anh em họ lại về với nhau.

 - Ừ, mà có lẽ họ đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ đấy.

 - Vâng, cháu cũng nghĩ thế.

 - Người đạo và người lương có quan hệ tốt với nhau không?

 - Chúng cháu vẫn chơi bời bình thường với nhau.

 - Có nhà thờ không ?

 - Ở đây không có nhà thờ. Ngày Chủ Nhật người ta đi lễ ở Sơn Tây.

 Mình từ giã người đàn bà. Lòng vui phơi phới. Không cho lập bàn thờ ông bà là một sai lầm lớn của Giáo Hội, vậy mà người đàn bà ấy lại bao che một cách khéo léo. Không có nhà thờ, vậy mà tín hữu ở đây vẫn sống chan hòa với lương dân và hàng tuần vẫn đi lễ ở nhà thờ xa hằng chục cây số. Hạt giống cứ âm thầm mọc lên (Mc. 4, 26-29).
 
-------------------------------
 
 

PiôHậu 44. NHƯ CHUYỆN TIẾU LÂM


 Cà Mau, ngày... 2-1999
 
 

Hôm nay mình đi Cà Mau. Nhà cha Quản hạt có nhiều khách Sàigòn. Vui anh, vui em và vui miệng: PiôHậu 44


Hôm nay mình đi Cà Mau. Nhà cha Quản hạt có nhiều khách Sàigòn. Vui anh, vui em và vui miệng. Mười Râu kể chuyện:

 "Râu đi kẻ liệt cho một bà già bỏ sáu mươi mùa Phục sinh. Đi từ chiều mà mãi tới nửa đêm mới đến nơi. Râu không mang Mình Thánh Chúa, nên chỉ ngồi tòa, xức dầu rồi sập mùng ngủ liền. Bỗng có người đánh thức. Râu mở mắt ra thì thấy một họng súng đen ngòm đang chĩa vào Râu. Râu lạnh toát xương sống.

 - Ông cha ơi, dậy nhậu với tôi một chầu.

 - Một chút thôi nghen !

 Râu uống hai cốc. Kiếm cớ đi đường xa mệt mỏi, nên lại chui vô mùng ngủ tiếp. Sáng hôm sau khi thức giấc, thấy trong mùng mình có thêm một người nữa, ngào ngạt ùi rượu...

 Râu kê bàn làm lễ. Đang làm lễ thì một người đàn ông lẳng lặng đặt trên bàn thờ một ly nước lạnh. Râu bỡ ngỡ hỏi:

 - Chi vậy ?

 - Để ông cha chữa lửa.

 - ? !!!

 Thương quá là thương ! Vô tình nhưng không vô tâm. Mười Râu cho biết người đàn ông gí súng mời Mười Râu dậy nhậu, rồi chui vô mùng ngủ chung với Mười Râu, rồi cho Râu một ly nước chữa lửa chính là đứa con của bà Tư 60 năm lạc đạo. Anh không có đạo nhưng rất mừng khi mẹ được ông cha đến cử hành thánh lễ. Anh cám ơn Mười Râu và ước mong có một thánh lễ như thế nữa, để anh mời chánh quyền địa phương đến tham dự... Đạo đời sẽ hiểu nhau hơn, anh bảo thế."

 ----------------------------
 
Cái Rắn, ngày... 1998.

 Chưa kịp ăn sáng thì có người ở Phú Tân lên.

 - Thưa cha, má con mới mất. Xin Cha xuống làm lễ an táng cho má con.

 - Là ai vậy nhỉ ?

 - Má con là bà Tám Sét, má của Út Hiền, Lành.

 - À biết rồi. Cha Mười đâu ?

 - Cha Mười đi thành phố.

 - Ăn xôi với tôi rồi ta cùng đi.

 Người bán xôi vắt cho mỗi người một vắt. Ai nấy ăn vội vã như người Do Thái ăn bữa Vượt Qua ở Ai Cập. Vỏ lãi nhỏ, gắn máy Honda 11 ngựa (?), lướt ào ào như gió. Sau hai tiếng rưỡi ngồi xếp bằng trên chiếu, mình bước lảo đảo đi vào nhà tang, đến thẳng giường người chết. Út Lành, một cô gái lớn cồ cồ ôm cứng lấy mình. Mếu máo. Nhệu nhạo:

 - Cha ơi, cha làm phép lạ cho mẹ con sống lại đi cha ơi !

 - Thôi đi... để cha thắp nhang cho mẹ con.

 Mình nâng cao cây nhang trước trán, nhác thấy anh chàng cameraman chạy tới. Hú hồn ! Nếu hắn đến sớm hơn một chút nữa, thì mình đã nằm gọn trong vòng tay của Út Lành cho tới muôn đời muôn kiếp. Cái may và cái rủi ở trên đời này đôi khi chỉ cách nhau một ly tấc, một khoảnh khắc ngắn ngủi. Hôm nay mình đã gặp được cái may ấy... .

 Út Lành ngoan ngoãn buông mình ra làm mình liên tưởng đến buổi hừng đông hôm ấy. Chị Maria Mácđala đang ngồi khóc tỉ ti, bỗng nhào về phía trước ôm choàng lấy chân Chúa, thảng thốt kêu lên: “Rắpbôni !” Còn Chúa thì nhắc chị một cách khéo léo: "Thôi đi... Hãy đi gặp các anh em của Thầy..." Nếu ở đấy có một cameraman rình rập, thì Thầy của mình có thái độ nào ? Mình thành thật muốn biết điều ấy và chờ mong một ơn soi sáng.

 -------------------------
 
Tắc Sậy, ngày 28-6-1997

 Các dì phước đi thực tế về. Mừng rỡ đón nhau như đón mẹ về chợ. Cười toe toét. Nói tía lia. Hồn nhiên như thiên thần. Họ có trăm chuyện để nói, trăm chuyện để nghe. Họ trao cho nhau những kinh nghiệm quý như gia bảo. Họ kể cho nhau những mẩu chuyện buồn cười đến bể bụng:

 1. Có một con chuột tò mò chui vào mùng bà phước. Bà phước sợ chuột kêu á.. á. Chuột sợ bà phước kêu chít.. chít. Hai bên sợ nhau cùng nhảy tưng tưng trong mùng... Mình nói thầm trong bụng: "Ai biểu ở dơ làm chi ?". Nhưng công bằng mà nói thì tại hầu hết vùng nông thôn trong tỉnh Cà Mau đều khan hiếm nước ngọt và nước sạch. Ở dơ là tế nhị đối với tha nhân, là nhường “sạch sẽ” cho người khác.
 
2. Cha Mười từ dưới xuồng bước lên. Bà phước chạy ra đón. Mừng quá, vì sắp có thánh lễ. Đói Thánh Thể quá rồi mà. Cha Mười tỏ vẻ không vui. Bồn chồn. Ray rứt.

 - Ma-xơ ơi, tivi ở đâu ?

 Bà phước đơn sơ như thiên thần, dẫn cha Mười đi bọc ra phía sau, chỉ tay vào căn buồng kín mít:

 - Tivi ở trong đó, cha.

 - Tôi muốn hỏi cái tivi ấy kia...

 Bà phước ớ ra. Cha Mười phải giải thích một hơi bà mới hiểu. Thì ra, ở nông thôn miền sông Cửu Long người ta ngồi trong ấy (?), (chỉ thấy bán thân) giống như xướng ngôn viên trên màn ảnh truyền hình.
 
3. Có một bà phước đã đi thực tế một lần. Bà cảm nghiệm được nỗi ray rứt của các "thánh đồng trinh" trong những căn nhà tắm sơ sài của bà con nông thôn: vách lá chỉ che tới vai; cửa nhà tắm chỉ là tấm cao su ỡm ờ; mái che là một khung trời vô tận. Con chuồn chuồn vô tình bay qua, rồi cố tình đậu lại trên vách... Nhột chết được !

 Ma-xơ vắt óc để sáng chế ra một phòng tắm bỏ túi. Kín đáo và gọn nhẹ, đó là mục tiêu. Vật tư là những mảnh cao su mỏng, nhưng tối như mực. Khung sườn thì kiếm tại chỗ. Tre, trúc, tầm vông, chỗ nào cũng có... Lý luận sáng suốt, bàn tay khéo léo, ma-xơ hoàn thành tác phẩm một cách mau lẹ. Bà bí mật nhét tác phẩm vào túi xách, hí hửng đi thực tế. Đến nơi bà đem ngay buồng tắm bỏ túi ra trình làng. Căn buồng tắm xinh đẹp đứng giữa vườn chuối. Bà con tấm tắc khen ngợi. Ma-xơ đỏ mặt sung sướng, sướng hơn ông Edison đứng ngắm bóng đèn rực sáng. Ma-xơ đích thân "cắt băng khánh thành". Không gian ba chiều kín như bưng.

 Bỗng có một con heo ngu xuẩn bị chó rượt, chạy thục mạng và chui tọt vào nhà tắm. Nhà tắm rung rinh. Sắp đổ.

 - Chúa ơi !

 - Ôộc … Ôộc

 ----------------------------
 
Cái Rắn, ngày 27-2-1999
 Hôm kia, hai dì phước của tổ ấm Nhật Hồng xuống Cái Rắn để dự lễ rửa tội của em Tâm khiếm thị. Hôm qua vì thương em Tâm mù, hai dì lặn lội đưa em về tận Bến Bọng. Có dì Út Lệ cùng đi. Trưa hôm nay dì Út về, kể chuyện Bến Bọng cho cả nhà cùng nghe:

 "Nhà cầu gì mà thấp tè tè. Phía đằng trước chỉ cao bằng này này. Ai mà dám vào ? Bà ngoại cứ lắc đầu lia lịa. Con xúi bà:

 - Làm đại đi bà ngoại. Hoặc ra tuốt đằng sau vườn…

 - Không dám đâu.

 - Thì chịu chết sao ?

 Bà ngoại đã 83 tuổi đời, đã từng bôn ba hết ba miền đất nước, đã từng lãnh nhiều trách nhiệm quan trọng, vậy mà đành lắc đầu thất vọng.

 Ngôi Lời đã làm người và trở nên mọi sự như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Con người Ngôi Lời sai đi, thì sẵn sàng sống như người địa phương: ăn như, ở như, yếu đuối như, đôi khi tội lỗi như, nhưng nhất định không chịu "ấy" như. Dễ đấy mà cũng khó đấy, khó vô cùng. Chính mình đã nhiều lần phải thốt lên: "Thà chết còn hơn". Hội nhập văn hóa ơi, đến bao giờ ?!... .
 
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------
 
 

PiôHậu 45. GIÓ TỪ ĐÂU ĐẾN ?


 Cái Rắn, ngày 30-05-1998
 
 

Sáng nay mình ra Cà Mau để mở hộp thư. Thấy thư của Phượng. Phượng viết: "Vợ chồng chúng: PiôHậu 45


Sáng nay mình ra Cà Mau để mở hộp thư. Thấy thư của Phượng. Phượng viết: "Vợ chồng chúng con có tâm huyết xây tặng người nghèo một ngôi trường, trường cấp một hoặc cấp hai cũng được. Xin cha lên phương án giùm chúng con…" Đọc xong lá thư, mình xếp lại, bỏ vào túi áo ngực, sát kề con tim đang đập rộn ràng, nhảy phóc lên xe Honda ôm, đi thẳng về Cái Rắn.

 Trời mưa tầm tã. Sình văng lên, làm ướt nhẹp và đỏ lòm hai ống quần. Sình đỏ văng lên tới lưng. Kệ, miễn là giữ được cái đầu. Mình rúc đầu vào trong áo mưa của anh lái xe. Áo mưa bay phần phật. Mình gí mũi vào lưng của anh, để tìm sự an toàn tuyệt đối. Ở đấy không có giọt mưa nào lọt tới. Nhưng ở đấy nồng nặc mùi hôi nách... Đúng là tránh vỏ dưa, đạp vỏ dừa. Và... trong tình huống ấy, mình xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.

 Vừa về tới cầu Cái Rắn, mình lết ngay vào văn phòng Ủy Ban Xã. Hành lang Ủy Ban ướt nhẹp, trơn trượt. Ông Chủ tịch đang ngồt co ro trong văn phòng ẩm mốc. Mình ngoắt tay.

 - Anh Ba ơi, ra ngoài này tôi nói cho nghe...Tôi không dám vô đâu. Anh coi tôi nè...

 - Linh mục đi đâu về mà dơ dữ vậy ?

 - Tôi ở Cà Mau về. Có một ân nhân muốn cho xã mình một ngôi trường. Anh lấy không ? Nếu không, thì mai tôi xuống huyện để cho xã khác.

 - Tôi vừa dưới huyện về được ba phút. Năm nay xã lập thêm một Ban Giám Hiệu nữa. Xin Phòng ngân khoản, thì Phòng từ chối. Nếu linh mục cho, thì mình xây ở ngay đập ông Tân.

 - Như vậy là anh chịu rồi phải không ? Ngày mai tôi đến coi địa điểm và cho tiến hành ngay để kịp ngày khai giảng... Mà này, thủ tục đơn giản nghen. Không cần thiết kế, vì thợ của tôi thuộc lòng rồi. Khỏi đóng thuế xây dựng nghen. Mình ở vùng sâu vùng xa mà. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng nấy. Thôi, tôi về nghen.

 Thế là mình bắt đầu một công việc bất ngờ do Chúa Thánh Thần trực tiếp nhúng tay vào. Ngài lôi mình đi bê bê như thầy trợ tế Philíp thời Công vụ Tông đồ. Ngôi trường được xây vào thời điểm này và vào địa điểm ấy là tuyệt vời ! Cái tuyệt vời này phải ghi sâu trong ký ức và thưởng thức một mình mà thôi...

 -----------------------------------------

 Cái Rắn, ngày 8-12-1998

 Hôm nay có một lá thư lạ. Lá thư đầu tiên mình nhận được từ tỉnh Vĩnh Phúc. Tác giả là một cô gái dân tộc Tày. Tác giả viết:

 ”Chắc cha bỡ ngỡ lắm, vì tại sao con biết cha và viết thư cho cha… Có một đoàn du lịch đến thăm quê con ở Yên Bái. Theo cách xưng hô của họ, con đoán họ là người công giáo mình. Họ đến thăm một gia đình bên cạnh nhà con. Khi họ về thì bỏ quên mấy số báo Công Giáo và Dân tộc, và cuốn Nhật Ký Truyền Giáo của cha. Đọc NKPiôHậu  của Cha, con thích quá, con lần mò đi tìm địa chỉ của cha… Con có một người bạn có đạo mà không bao giờ đi lễ. Bạn con bảo: đi lễ thì được cái gì ? Xin cha giúp con phải đối xử thế nào với bạn ấy ? Con có nên chơi với bạn ấy không ?...”

 Mình trả lời ngay lập tức. Bỗng dưng mình vớ được một người bạn truyền giáo từ một địa bàn xa tắp tít. Cô gái dân tộc Tày ơi, hãy làm chứng nhân cho Tin Mừng ở đấy nhé ! Thánh Thần là nhân tố chính yếu trong mọi sinh hoạt truyền giáo. Hãy cầu nguyện với Người !

---------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 30-1-1999

  Hôm nay mình nhận được một phong thư dày cộm. Thư viết từ Houston, Texas, USA. Thư của Nguyễn Thị... Đọc xong lá thư, mình đứng ngẩn ngơ…

 Cách đây gần một phần tư thế kỷ, mình đã bị đàn ông chửi thậm tệ, chửi từ ngày này qua ngày khác. Hôm nay đến lượt đàn bà chửi. Phải được đàn bà chửi, mới cảm nghiệm được hết ý nghĩa của động tù chửi.

 Mình bị chửi là ngu: "ông ngu quá" . Ừ, thì mình vẫn ngu từ thuở nào đến bây giờ và sẽ còn ngu mãi cho đến chết. Bà Nguyễn Thị... nói rất đúng. Đó là một lời nhắc nhở cần thiết. Mình muốn gởi đến Houston một lời cám ơn vang vọng.

 Bà Nguyễn Thị... chửi tiếp: “Ông đừng hòng tôi lạy lục ông... Tôi không được ăn học để chửi cho ông biết” . Vâng, thưa bà Nguyễn Thị..., ở trên đời này không ai có quyền bắt ai lạy mình. Tất cả đều là anh em. Đó là giáo huấn của Đức Giêsu, Thầy của chúng ta. Tôi lại cám ơn bà một lần nữa.

 Lá thư của bà Nguyễn Thị … được cất kỹ làm kỷ niệm… Những câu chửi thậm tệ được ghi khắc trong lòng để suy gẫm. Sau bão Linda, giáo xứ của mình đón nhận nhiều sinh hoạt mới, nằm trong chiến lược truyền giáo của Chúa Thánh Thần. Mình hy vọng sau trận bị chửi này, mình cũng sẽ lượm hái được nhiều bông hoa vừa đẹp vừa lạ.

 Cất kỹ lá thư của bà Nguyễn Thị..., mình bóc lá thư của Emilie Sitzia, người bạn không hề quen biết. Lá thư của bà Nguyễn Thị… chua chát chừng nào, thì lá thư của Emilie ngọt ngào chừng nấy. Emilie viết:
 
“Je m'appelle Emilie. J'ai 20 ans. Je suis actuellement étudiante en littérature à Paris et je m'occupe d'Antoine lorsqư il sort de l'école.

 J'ai depuis des années une fascination pour votre pays aux paysages et au patrimoine culturel immensément riche. Ma rencontre avec Françoise Roux et Antoine a nourri ma curiosité et mon attachement toujours grandissant pour le Vietnam...”

 ( Tôi là Emilie, 20 tuổi, hiện là sinh viên văn khoa ở Paris. Tôi giữ bé Antoine mỗi khi em rời nhà trường.

 Đã từ nhiều năm, tôi say mê đất nước của cha. Quê hương của cha có phong cảnh và một kho tàng văn hóa phong phú vô cùng. Từ ngày tôi gặp bà Françoise Roux và bé Antoine tôi càng tò mò muốn tìm hiểu và muốn gắn bó hơn với Việt Nam )

 Một cô sinh viên người Pháp mê Việt Nam như điếu đổ và quyết tâm qua Việt Nam thăm Hà Nội, Huế, Sài Gòn và Cái Rắn. Phong cảnh Việt Nam đẹp quá ! Văn hóa VN phong phú quá ! Yêu Hà Nội, Huế và Sài Gòn thì mình không thắc mắc. Nhưng yêu Cái Rắn thì phải hỏi: tại sao ?

 Câu chuyện này bắt đầu từ năm năm về trước:

 Bà Françoise Roux qua Việt Nam xin con nuôi. Bà xin được bé Lộc mang tên tây là Antoine. Bà tâm sự với mình: ”Antoine là niềm vui tuyệt vời cho tôi và mẹ tôi”. Bà nhờ mình tìm nguồn gốc sinh học của Antoine. Nguồn gốc ấy ở ngay ấp Cái Rắn A. Thế là bà thương luôn Cái Rắn. Bà vận động cho Cái Rắn 10 học bổng, mỗi học bổng 1.000.000 đồng / 1 năm. Bà mướn cô sinh viên Emilie chăm sóc Antoine sau giờ tan học. Emilie đã yêu Việt Nam, nay lại yêu Việt Nam hơn nữa...

 Những sự kiện tình cờ trên đi tìm nhau, móc nối với nhau thành một chuỗi sự kiện liền lạc, y như có một bàn tay vô hình đang âm thầm ráp nối linh kiện theo một thiết kế có từ muôn thuở.

 Lá thư của Emilie làm mình liên tưởng đến thánh Phêrô ở Gióppê. Phêrô cầu nguyện trên sân thượng của ông Simon. Phêrô nhận thị kiến. Phêrô đến giảng cho gia đình ông Cornêliô ở Xêdarê. Ông bỡ ngỡ vì Thánh Thần đáp xuống trên dân ngoại. Ông về Giêrusalem, bị đồng đạo xì nẹc về tội vô nhà người ngoại. Ông thanh minh, ông giải thích... làm mọi người sửng sốt về ơn Chúa ban cho dân ngoại. Cuối cùng ông lột xác bảo thủ để đứng hẳn về phía Phaolô đấu tranh cho người ngoại trở lại đạo, khỏi cắt bì và khỏi giữ luật Môsê. Đây là sự cố đổi mới có tầm mức chiến lược. Phêrô đóng vai chính trong mọi mắt xích sự cố mà chính ông thì như người đi trong mơ. (Cv 10,34-48; 11,1-18; 15,1-21)

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

------------------------------- 
 
 

PiôHậu 46. NƯỚC TRỜI GIỐNG NHƯ TRÁI MẮM


 Bến Bọng, ngày .... 6.1975 .
 
 

Hôm nay mình thấy buồn da diết. Trong tay chỉ có hai cuốn sách: Bài đọc mùa Vọng, mùa Giáng: PiôHậu 46


Hôm nay mình thấy buồn da diết. Trong tay chỉ có hai cuốn sách: Bài đọc mùa Vọng, mùa Giáng Sinh, và Prières du temps présent. Đọc riết rồi chán. Chán đọc thì viết. Viết để giết thời giờ. Nhưng thời giờ hôm nay dãn nở quá cỡ, giết hoài không hết... Mình vận dụng trí nhớ để hướng về quá khứ. Nhớ anh chị em trong giáo điểm. Nhớ nhà. Nhớ học trò. Nhớ cây cầu khỉ lắt lẻo…

 Vẫn còn dư giờ, nên phải nhớ đến con ba khía vẫn thường trú trong nhà cầu của mình. Người ta bảo: Ba khía ăn trái mắm. Nhưng con ba khía của mình lại ăn phân. Hai cái càng của nó thay nhau gắp, gắp hoài không mệt… Nhớ chán rồi thì thèm.

 Mình thèm miếng chuối chiên vàng rộm của Xa Cảng Miền Tây quyện với giọng soprano sắc buốt của cô bé lọ lem: "Ai... chuối chiên... đi !"

 Mình thèm con khô bổi nướng. ăn với cơm trắng còn nóng hổi, ở nhà thờ Chánh tòa Cần Thơ... Nước miếng tứa ra, xót xa chịu không nổi...

 Mình đi ra bờ sông, gác chân lên gốc mắm, đứng nhìn trời mây nước. Trời xanh thăm thẳm, xa cách ngàn trùng. Vài cụm mây mỏng tanh trôi lững lờ, ngơ ngơ như người không có linh hồn. Con nước ròng đang chảy miết ra vàm, quên cả bờ bến. Vô tâm. Vô tình. Mình cảm thấy cô đơn quá chừng !...

 Bỗng gió nổi lên. Cành mắm rung xào xạc. Những trái mắm trái mùa rơi lõm chõm xuống dòng sông, trôi lều bều như rác rến, xoáy thành những vòng tròn sau cột miệng đáy, rồi mất dạng theo dòng nước thủy triều.

 Bất giác mình tự hỏi: “Trái mắm trôi về đâu ?”

 Số phận của nó là lênh đênh, là vô định. Có thể nó sẽ trôi tới Rạch Chèo rồi mất hút trong vịnh Thái Lan mịu mù. Cũng có thể nó sẽ vướng vào đám ô rô, cóc kèn nào đó ở Bàu Trấu, Đồng Cùng, Mang Rổ... rồi phải vật lộn với ô rô, cóc kèn để tồn tại và phát triển.

 Mình nhớ đến thánh Phêrô, một con người tầm thường như trái mắm, trôi nổi bồng bềnh trên dòng lịch sử của miền Địa Trung Hải. Ông lên Giêrusalem để giảng Lời Chúa, thì bị lãnh đạo tôn giáo bỏ tù. Ông được ra tù, thì lại bị vua Hêrôđê tống ngục. Từ trong ngục, ông theo sứ thần đi ra mà cứ ngỡ là mình ngủ mơ. Ông đến Rôma, thủ đô của quân xâm lược để tiếp tục giảng Lời.

 Ông sống chui lủi như con chuột xạ, nay ở hang toại đạo này, mai ở xóm nô lệ kia. Chính bản thân ông đã là tên nô lệ rồi. Có những lúc ông không biết nên ở hay nên đi; nên ở đây hay ở đó. Ông nhớ lại lời Thầy tiên báo: “Khi con về già, người ta sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đi đến những nơi con không muốn” (Ga. 21,18). Số phận của Phêrô đã được an bài rồi: Bồng bềnh và vô định.

 Bất giác mình nghĩ về mình. Mình cũng là một trái mắm đang trôi nổi vật vờ. Đi về đâu, nào ai biết được ? Số phận là bồng bềnh và vô định. Mình trở vô căn nhà vắng lặng để tìm Thầy, Thầy của Phêrô, Thầy của mình…

 -----------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 25-2-1999

 Sáng nay vỏ lãi tốc hành đón Đức cha Mẫn và đoàn tùy tùng ở cầu Cái Rắn.

 Dẹp bỏ Sàigòn đèn đỏ đèn xanh, khép lại thời khóa biểu ngộp thở của Tòa Tổng Giám Mục, Đức cha thả hồn về quá khứ êm đềm của hơn năm mươi năm về trước. Ngài dán mắt vào từng gốc mắm, từng bụi dừa nước, để tìm những cặp mắt lồi của những con cá thòi lòi láo xược. Ngài mơ ước có một cái giàn thun thật tốt để diễn lại cuộc đời của cậu bé xạ thủ tuyệt vời trên kinh rạch miền cuối Việt này. Nhưng...cụt hứng. Không còn một bóng thòi lòi… Dường như thòi lòi đã tuyệt chủng trên con rạch ngoằn ngoèo này. Bất đắc dĩ, Đức cha chuyển hồn qua cây mắm. Dường như ngài rất am tường về cây mắm. Đã có lần ngài tự ví mình với cây mắm.

 Mắm là loại cây tạp, được Từ Điển Tiếng Việt gọi là "Cây nhỡ". Bà nội trợ chê mắm, vì củi mắm dai nhách, khó bửa, cho lửa thì ít, cho khói thì nhiều. Thợ mộc cũng chê mắm, vì ván mắm lắm thớ, làm dơ lưỡi bào… Chẳng ai thèm trồng mắm, nhưng mắm cứ mọc tràn lan. Chẳng ai thèm đốn mắm, nên mắm cứ mọc bạt ngàn.

 Nghe Đức cha minh họa cây mắm, người Sàigòn cứ ớ ra như vịt nghe sấm.

 - Cây mắm khác cây đước ra sao ? Cây nào là cây mắm ?

 - Cứ nhìn xuống gốc cây. Gốc nào có nhiều rễ mọc ngược lên, lởm chởm như bàn chông, thì đó là cây mắm.

 Mình cao hứng bèn phụ họa thêm:

 - Khoa học gọi rễ đó là rễ thở. Dân gian gọi là c..: c.. mắm, c.. bần. Mắm nhiều hơn bần vô cùng lần. C.. mắm cũng hữu ích hơn c.. bần vô cùng lần. C.. mắm chống hiện tượng xói mòn hai bên bờ sông và giữ được đất phù sa. Vậy mà Từ Điển Tiếng Việt chỉ chiếu cố từ “C.. bần”, mà cố tình bỏ quên từ “C.. mắm”. Mình viết thư khiếu nại với Ban Biên Tập. Họ đã từ chối thẳng thừng. Bà nội trợ chê củi mắm. Thợ mộc chê ván mắm. Bây giờ Ban Biên Tập Từ Điển Tiếng Việt lại chê c.. mắm. Mắm ơi ! Đừng buồn nhé !

 ---------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 26-2-1999

 Sáng nay mình đưa gần hai chục "con gái Thánh Vinh Sơn" đi tham quan Mũi Cà Mau. Người con gái nào cũng chậm rãi. Chậm rãi vừa là nhân đức, vừa là thói xấu của con gái. Để giảm thiểu cái xấu ấy của chậm rãi, mình ra lệnh:

 - Phải đi thật sớm để không về trễ. Phải ăn sáng trên vỏ, để tranh thủ thời gian.

 - Bao xa cha ?

 - Cả đi lẫn về không dưới hai trăm cây số.

 - Đẹp không cha ?

 - Xấu hoắc ! Đi để biết! Biết Mũi Cà Mau, phao câu của tổ quốc để yêu thương quê hương hơn khi chưa biết.

 - Ở đó có những gì ?

 - Ở đó có cái bảng bự, viết chữ thật to: “Mũi Cà Mau”, và… rừng mắm trập trùng.

 - Người ta trồng mắm để làm gì ? Trái mắm ăn được không?

 - Chỉ có ba khía và cá dứa ăn trái mắm. Còn cây mắm thì chẳng ai trồng. Chúa trồng mắm để bảo vệ lục địa và đưa lục địa ra khơi.

 - Cha hay tếu quá à !

 - Tôi nói chuyện thực tế. Lát nữa tôi sẽ giải thích cho chị nghe.

 Vỏ lãi rời bến nhà thờ vào lúc 6g15. Nó gầm lên và lao tới để khoe tốc độ với người Sàigòn. Mình sốt sắng giới tbiệu các địa danh ghi khắc nhiều kỷ niệm: Rau Dừa, Cái Nước, Cống Bà Chủ, Đồng Cùng. Dường như bà phước không quan tâm. Bà đang lâm râm lần hạt. Thì ra bà đọc kinh, mình lo ra, chúng ta cùng đi.

 7g30 vỏ lãi tới Đồng Cùng, quẹo tay phải, rồi cắt ngang sông Bảy Háp, lao đầu vào "Kinh Tắc Năm Căn".

 - Còn mười ba cây số nữa thì tới Năm Căn.

 - Năm Căn đâu ? Năm Căn đâu ?

 Năm Căn, mối tình đầu của Dòng Bác ái Vinh Sơn. Nói đến Năm Căn, con tim của họ co thắt như điện giật. Còn những mười ba cây số nữa mà đã nhao nhao lên: "Năm Căn đâu ? Năm Căn đâu ?

 Năm 1972 họ đã đặt chân lên đất Năm Căn, nay là Hàng Vịnh. Họ là Dòng tu đầu tiên đến hoạt động ở miền cuối Việt này . Họ mở lớp gia chánh, cắt may bình dân, để nâng cao trình độ của các bà mẹ tương lai. Họ mở lớp mẫu giáo vườn trẻ để vun xới cho thế hệ tương lai ngay từ tuổi thơ ấu. Họ mở phòng phát thuốc để cứu khổ nhân dân, giữa một vùng mà muỗi nhiều hơn trấu, nước ngọt quý hơn nước thuốc (Một chai bia con cọp giá 18 đồng. Một đôi nước mưa giá 150 đồng). Chiến tranh tàn khốc: bom đạn ì xèo, hỏa châu giăng mắc, họ vẫn ôm cứng lấy Năm Căn, không chịu xa lìa.

 Tiếc thay, mối tình đầu ấy lại là mối tình dang dở. Số phận nghiệt ngã đã chặt đứt vòng tay của họ. Họ ở Sàigòn mà vẫn liếc trộm về Năm Căn... Mối tình đầu đã trở thành dang dở. Mối tình dang dở đang trở thành vụng trộm. Tại sao yêu mà phải khổ đến thế ?

 10g45 vỏ lãi tới chợ Rạch Tàu. 11g15 ghé đồn công an biên phòng. Khách đổ bộ lên mũi, nhưng chỉ thấy tấm bảng bự với ba chữ to: “Mũi Cà Mau” và rừng mắm trập trùng. Xa xa có hòn Khoai, mờ mờ sau lớp mây mù. Người ta dự tính rằng: chỉ hơn một trăm năm nữa, rừng mắm sẽ biến hòn Khoai thành núi Khoai.

 Giã từ đất Mũi, mình chỉ giữ lại hình ảnh trái mắm. Mình thiển nghĩ: Nếu Đức Giêsu giảng Lời ở đây, Ngài sẽ nói: “Nước Trời giống như cái gì ? - Nước Trời giống như trái mắm”

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------
 
 

PiôHậu 47. CƠN BÃO SỐ 5


 Cà Mau, ngày 3-11-1997
 
 

 Tôi về đây ! Nghe nói bão số 5 làm Cà Mau và Bạc Liêu te tua hết rồi.  - Cha đừng về. Không có xe đâu.  PiôHậu 47


- Tôi về đây ! Nghe nói bão số 5 làm Cà Mau và Bạc Liêu te tua hết rồi.

 - Cha đừng về. Không có xe đâu.

 - Cứ đi thử coi.

 Mình chui vào chiếc xe 12 chỗ. Toàn bộ hành khách là dân Cà Mau. Đề tài trao đổi chỉ là bão số 5.

- Gọi điện thoại về Cái Nước không được.

 - Không biết nhà cửa có còn gì không ?

 - Thằng em tôi đi khơi, không biết số phận ra sao ?

 - Về Cà Mau không biết có đò về Cái Nước hay không đây

 15g45, mình về tới Cà Mau, lấy xe honda ôm đi thẳng về nhà thờ Quản Long. Cửa đóng kín mít.

 - Anh Ba ơi ! Cha quản hạt ơi !

 Không có tiếng trả lời. Mình quay ngoắt một cái, đi te te ra cổng. Bỗng có tiếng gọi từ phía nhà thờ.

 - Cha, có dì Tư nè.

 - Cha quản hạt đâu rồi ?

 - Ông cố đi Cái Rắn rồi. Nghe nói nhà thờ sập một căn, lớp học tình thương sập một căn. Nhà giáo dân thì mười sập tám. Mời ông cố vô nhà uống nước.

 - Thôi, tôi về Cái Rắn liền bây giờ.

 Không thèm vô nhà mình vội vã ra đường, ngoắt xe Honda đi về Cái Rắn. Hai bên quốc lộ vườn chuối te tua. Ở chỗ này cây còng trốc gốc, ở chỗ kia hàng tràm cụt đầu. Nhà cửa mất mái, xiêu vẹo, đổ sập… Thấy mà ngao ngán. Xe Honda dừng lại ở cầu Cái Rắn, ngay căn nhà bà Út. Căn chòi lá của bà Út sập, lòi ra một góc bộ ván. Không một bóng người. Nhìn xa thêm một chút: nhà Năm Tiệm, vợ chồng con Thu, vợ chồng con Nhanh, không sập nhà trước thì sập nhà sau. Nhà con Thu thì chỉ còn là đống lá mục.

 Mình còn đang đứng ngẩn ngơ thì...

 - Ông cố ơi, ông cố đi vỏ của con nghen.

 - Mười ngàn nghen.

 - Dạ.

 Rạch Cái Rắn đã ngoằn ngoèo quá chừng, hôm nay lại ngoằn ngoèo thêm, vì ngọn mắm, cành còng ngã đổ rải rác từ doi này tới doi kia. Trường Phú Hưng bị sập một dãy. Nhà Ba Khoan chỉ còn là đống lá vụn, vài cây róng thò ra như những cánh tay kêu cứu. Nhà con Hà cho mướn đồ cưới hôm nay trống phộc và vắng tanh. Bà Sáu Sen đang dọn dẹp trước căn nhà sáng trưng như chưa lợp mái.

 - Tiêu rồi sao bà Sáu ?

 - Dạ.

 Vỏ lãi ghé bến nhà thờ. Điêu tàn ! Nhà thờ chỉ còn là đống lá. Nhà xứ và lớp học tình thương chỉ còn là hai bộ xương khô. Me, xoan, bạch đàn, thậm chí cây bàng tí hon cũng bị trốc gốc. Chỉ còn sót một cây, cây gừa vô duyên mọc bên cạnh chuồng heo bà phước. Mình nghĩ bụng: "Đêm nay ta sẽ ngủ ở đâu ?".

 May quá, căn nhà của bà phước lẽ ra phải sập thì lại còn đứng đó, khúm núm và xấu hổ vì... không còn kín đáo như hôm nào. Mình đi tìm bà phước để lấy tin tức. Chỉ thấy nước, rác và bàn ghế lổng chổng. Có bóng ai thấp thoáng bên cây me trốc gốc.

 - Cha quản hạt đâu rồi ?

 - Cha quản hạt đi thăm nhà giáo dân.

 - Dì Chín đâu ? Ông thầy đâu ?

 - Dì Chín và ông thầy đi với cha quản hạt.

 - Nhà bị sập nhiều không ?

 - Nhiều lắm. Ba Cảnh, Út Đáng, Sáu Quý, Út Vui, Mười Lợi, Huế Tài… biết bao nhiêu mà nói.

 Thánh lễ chiều do cha quản hạt dâng ngay trong phòng khách nhỏ tí xíu của bà phước. Trên đầu chủ tế, mái lá để lủng một lỗ thật lớn. Qua lỗ hổng ấy mình thấy bầu trời vẫn đẹp như bao giờ. Lồng lộng và trong sáng. Quả vậy hồi nãy, sau một buổi đi thăm nhà sập, cha quản hạt tâm sự với mình:

 - Nhà sập. nhưng mình thấy bà con vẫn cười vui vẻ.

 - Như vậy là tinh thần chưa sập. Thế thì được.

 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 4-11-1997

 Sáng nay mình tiễn cha quản hạt về Cà Mau. Mình ghé qua bưu điện để gửi thư và nhận thư. Bưu điện đông nghẹt người ta. Có ai như Vũ Quang Nam ?

 - Nam !

 - Ồ ? Cha già !

 - Ao Kho thế nào ?

 - Nhà thờ thì hư hao chút đỉnh. Nhà giáo dân thì sập quá nhiều. Nghe nói Cây Bốm thì thảm thương lắm: nhà trường tình thương thì tanh bành, nhà giáo dân thì sập gần hết. Con tính gọi điện thoại báo tin cho ông già, rồi đi Cây Bốm xem sao.

 - Cái Rắn thì te tua rồi. Cái Cấm thì chiều hôm qua có người về cho biết nhà thờ sập hoàn toàn, nhà xứ thì chỉ hư hao chút đỉnh …

 - Thôi chào cha già nhá. Đến lượt con gọi điện.

 Từ giã Vũ Quang Nam, mình lủi thủi đi về nhà thờ Quản Long. Cửa nhà xứ mở toang. Mười Râu đang ngồi ở phòng khách, nhão ra như một pho tượng đắp vội bằng sình non.

 - Anh Tám ơi, bốn nhà thờ của em sập hết rồi. Còn em thì xíu nữa là toi mạng. Em đi vỏ từ Kinh Nước Lên về Kinh Ba ngay lúc đang bão... Em không biết lội...
 
- Nhà dân thì sao ?

 - Kinh Nước Lên, Đất Mới, Kinh Ba và Rạch Chèo thì sập kể như trăm phần trăm. Chỉ còn lác đác mấy căn nhà đúc bêtông... Quần áo của em ướt nhẹp hết. Hôm nay ra Cà Mau phải mua áo thun để mặc. Cái quần này chịu ướt từ hôm thứ Bảy.

 - Bà phước của cậu đâu rồi ?

 - Cho về hết rồi. Có nhà đâu mà ở... Chiều ngày Chúa nhật, các bà chui hết xuống gầm sàn. Em bồng một đứa bé để cho mẹ nó chui xuống gầm sàn trước. Không hiểu tại sao em chỉ bồng có cặp giò, còn đầu nó thì cứ chúi xuống...

 Sau một hơi tuôn ra hết nỗi kinh hoàng của cơn bão số 5, nỗi buồn của Mười Râu cũng tuôn ra hết, để lại một tâm hồn thanh quang như một bầu trời không mây. Mười Râu vung tay, giọng chắc nịch:

 - Qua biến cố này, chúng ta phải tìm hiểu xem Chúa muốn nói gì với chúng ta.

 - Sớm quá đấy. Cứ ghi khắc trong lòng và suy gẫm lần lần.

 Trong bữa cơm chiều, mình thông tin cho các bà phước và ông thầy ở Cái Rắn hay về những thảm họa giáng xuống Hạt Cà Mau.

 + Sáu nhà thờ bị sập: Cái Rắn. Cái Cấm. Hòa Trung, Kinh Ba, Kinh Nước Lên và Đất Mới.
 + Nhà thờ Bảo Lộc bị lủng mái nhiều chỗ, không còn làm lễ được. Các phòng giáo lý bị lột mái 50%.

 + Nhà thờ Hòa Thành bị bể vài chục viên ngói. Nhà xứ bị lột vài tấm thiếc.

 + Nhà thờ Tắc Vân hư hao chút đỉnh. Phòng giáo lý bị lột mái vài chục phần trăm.

 + Huyện Sử chỉ hư hao chút đỉnh.

 + Khánh Hưng, U Minh và Bàu Sen chưa có tin chính xác.

 + Nhà thờ Quản Long mất vài viên ngói. Nhà bà phước mất bảy tấm tôn. Tôn bay xuống đường người ta lượm mất.

 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 5-11-1997

 Sáng nay mình mời HĐGX họp.

 - Họ đạo mình bị sập bao nhiêu nhà ?

 - Chừng 80%. 13 thành viên HĐGX thì chỉ có ba người may mắn.

 - Cứ lo giúp nhau dọn dẹp và dựng đại cái chòi mà ở đỡ. Ngày Chúa nhật tới sẽ lo dọn dẹp nhà thờ, nhà xứ.

 Bữa cơm trưa hôm nay vui hơn ngày Tết.

 * Bà Tư Ngoan, một người lương dân đến thăm bà phước tặng hai trái ổi to bằng hai trái cam. Tình người chan chứa.

 * Dì Út vừa ăn vừa vẽ tranh. Bức tranh ghi lại cơn bão số 5. Ông thầy, bố ông thầy và ba bà phước đang nằm co ro dưới gầm của một cái giường. Dì Út thuyết minh thêm: “Hai đầu gối dì Chín run lẩy bẩy, đập vào nhau lụp cụp”.

 Thế đấy, qua cơn giông tố thì trời lại sáng. Sau cơn hoạn nạn, người ta lại thương nhau nhiều hơn.
 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 6-11-1997

 Sáng nay các dì kể chuyện. Có một người đàn bà sanh con ngay trong đêm bão. Nhà sập rồi, đành ra bụi trúc mà sanh.

 - Ông cố biết ai đó không ? Mẹ con Mẹt, học trò của mình đấy.

- Vậy thì nên đặt tên cho bé là Linda, hoặc Số-năm. Dù bão số 5, dù đại hồng thủy cũng không tiêu diệt được sự sinh tồn của loài người.
   
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------
 
 

PiôHậu 48. SAU CƠN BÃO SỐ 5


 Cái Rắn, ngày 6-11-1997
 
 

Sáng nay mình đi thăm nạn nhân trên bờ Kinh Giữa. Đã bốn ngày nay rồi mà cây cối vẫn còn nằm: PiôHậu 48


Sáng nay mình đi thăm nạn nhân trên bờ Kinh Giữa. Đã bốn ngày nay rồi mà cây cối vẫn còn nằm ngổn ngang trên lối đi. Ai nấy lo dựng nhà cho mình và cho lối xóm, quên cả dọn dẹp trong vườn và ngoài ngõ. Mình trèo qua những thân cây bạch đàn lớn, nhảy qua những thân cây bạch đàn nhỏ, luồn dưới những bụi cây trâm bầu bị chém treo cành.

 Ui da ! Ong ! Một con ong chích vội một phát vào cánh tay trên trắng nõn nà của mình rồi chuồn mất dạng. Mình dừng lại ngay. Bất động, để tránh sai lầm thêm, để dò tìm hướng tấn công của địch. Ngước nhìn lên một cách chậm chạp: một tổ ong chỉ ở cách đầu mình một gang tay. Rút lui thật nhẹ. Thua nhỏ để thắng lớn. Thở phào nhẹ nhõm. Rút kinh nghiệm chiến trường.

 - Tại sao chỉ có một thằng đánh lén ?

 - Tại sao địch ở thế lâm nguy như thế mà vẫn sinh hoạt tỉnh bơ: Hàng chục con ong cứ bò tới bò lui trên một mảng ô lục lăng to bằng ngón tay cái ? Lười biếng ? Vô trách nhiệm ? Ngu đần ?

 - Không phải: thằng đánh lén là ong lính, có nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ; những thằng bò tới bò lui là ong thợ cần cù, có nhiệm vụ xây dựng. Việc ai nấy làm trong một cơ chế hoàn hảo tuyệt đối. Ta bị ong đánh là sai lầm của ta. Ong đánh ta và không đánh ta là túi khôn của trời đất.

 Mình đem kinh nghiệm lượm được trên đường đi này để trao đổi với các nạn nhân bão số 5.

 - Bà Bảy ơi, tôi vừa bị ong đánh nè.

 - Ông cố bị ong đánh ở khúc nào vậy ?

 - Ngay khúc nhà Ba Tấn.

 - Tội nghiệp ông cố quá vậy ?

 - Tôi ngu thì tôi chịu. Ai bảo đưa đầu vào ngay tổ ong làm chi !

 - Ông cố này nói kỳ quá à. Ong đánh ông cố là nó ác nhân thất đức, chứ đâu phải là ông cố ngu. Ông cố mà ngu sao?

- Ừ đấy, ong khôn, tôi ngu; bão số 5 khôn, chúng ta dại. Bão tố là trật tự của thiên nhiên, còn ta không biết trước để đề phòng là ta dại.

 Bà Bảy ớ ra, rồi đánh trống lảng sang chuyện khác.

 - Ba mẹ con tui sập nhà hết trơn. Thằng Nhơn nó mới về tiếp cho được một bữa, hôm nay nó về Cái Nước rồi.

 Đi được ba bước thì tới nhà Huế Tài, con rể bà Bảy. Huế Tài đang ngồi chon von trên nóc nhà.

 - Tài ơi, bỏ đó đi, xuống đây chúng mình kéo vài hơi thuốc lào đã. Màn trời chiếu đất hai ngày nay rồi, dầm mưa dãi nắng thêm một ngày nữa cũng chẳng nhằm nhò gì.

 Huế Tài trèo xuống, xách điếu cày ra, mồi thuốc cho mình.

 - Ờ, thuốc lào của cậu ngon đấy. Đượm khói ra phết... Thùy, hôm bão, con chun vô đâu ? Sợ không ?

 - Sợ

 - Hỡi người yếu tin, tại sao các người sợ ?

 - (Cười e lệ)…

 Chắc là bé Thùy nhớ ra bài giảng của mình về phép lạ Chúa làm sóng gió im lặng. Hôm đó cha con mình làm một băng reo.

 - Sợ là…

 - Hèn.

 - Sợ là ….

 - Yếu tin….

 Huế Tài thao thao bất tuyệt.
 - Mấy ông già ở đây cứ hỏi con:

 - "ở ngoài Bắc bị bão hoài, bão là gì ?".

 Nói hoài các ông cũng chẳng hiểu. Bây giờ con chỉ cần trả lời:

 -"Bão là vậy đó"...

Khoa học của loài người còn dở quá. Bão như thế mà chỉ báo khẩn cấp có vài tiếng đồng hồ, thì bố tôi cũng không kịp chạy… Còn chuyện thiên tai như động đất, bão lụt là chuyện thông thường của thiên nhiên cũng như ngứa mũi thì hắt hơi.

 Huế Tài thích triết lý lắm, nên mình cũng triết lý với anh ta cho quên nỗi lo của cơn bão số 5... .

--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 9-11-1997

 Ăn sáng vừa xong, cây tăm vẫn còn đang uốn éo trên hai ngón tay, thì có tiếng gầm gừ của vỏ lãi chạy bằng máy xe hơi. Cố Hiến vô. Quản Long vô. Mình vội chạy ra bến.

 - Chào anh Ba. Chào Quản Long. Ê, có Manu (bà quản lý dòng Chúa Quan Phòng) nữa nè .

 - Có dì Mười nữa (bà Giám tỉnh dòng Chúa Quan Phòng).

 - Chào dì Mười. Dì Mười mà không xuống thăm Cái Rắn, thì tôi sẽ gọi là dì ghẻ. Người ta nói “chết cha còn chú, sểnh mẹ bú dì”. Cha, chú, mẹ chết hết, chỉ còn một mình dì Mười đó thôi.

 - (Cười tủm tỉm) Hôm bão con đang ở Vũng Tàu, chứ nếu không thì xuống đây còn sớm hơn nữa.

 - Vâng. Cái Rắn là con cưng của dì Mười ?

 - Hổng cưng đâu. Cộng đoàn nào cũng như cộng đoàn nấy…

 - Nói vậy mà không phải vậy. Đứa nào cực khổ thì thương hơn chứ.

 Hôm nay Cái Rắn vui như Tết và đông như hội chợ. "Chị Quản Long" thì gò tôn, nối kèo, dựng lại và lợp lại căn nhà ba phòng (lớp tình thương. lớp giáo lý và lớp cắt may). "Em Cái Rắn" thì dọn dẹp nhà thờ đổ nát và lợp lại mái nhà xứ. Cha Quản hạt, dì Mười, dì Manu, dì Chín và mình thì lấy vỏ lãi làm một vòng Kinh Giữa, Biện Tràng, Kinh Cùng, Kinh Thổ và Đập Vườn để thấy tận mắt nỗi đau thương và cảnh tan nát của Cái Rắn.

 Chỉ trong một ngày, đống đổ nát đã cuốn gói đi theo bão số 5 . Đi về đâu ? Không biết. Chỉ biết nhà xứ bây giờ ấm cúng như xưa, nhà trường lại khang trang như thuở nào và tình người thì chan chứa. Bão số 5 thì đi, còn tình người thì đến. Bão đến rồi đi. Tình đến rồi ở lại.

 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 11-11-1997

 Hôm nay Nữ tử Bác ái từ Sàigòn xuống. Áo xanh, áo xanh và toàn là áo xanh. Màu xanh dương sậm vừa khiêm tốn như nô tỳ, vừa thật thà, hiền hậu như nàng thôn nữ vùng sâu. Chiếc vỏ lãi gầm lên như con hổ nổi giận, cày xới dòng sông Gành Hào một cách không thương xót, nhưng lại làm vui lòng người Sàigòn, bạn thân của tốc độ.
 Sàigòn, Cà Mau, Cái Rắn, Cái Nước, Đồng Cùng, Kinh Nước Lên, Đất Mới, Kinh Ba, Cái Cấm, Cà Mau, Tân Lộc và Sàigòn… trong vòng ba ngày. Mệt gần đứt hơi, nhưng người con gái của thánh Vinh Sơn vẫn còn thèm thuồng.
 - Có đi Năm Căn không cha ?
 - Xa lắm, đi không kịp đâu ?
 - Bác Ái Vinh Sơn không quên Năm Căn được. Chúng con đã đến đó. Chúng con sẽ trở lại đó.
Bác ái Vinh Sơn là như vậy. Họ đã đến Năm Căn vì Năm Căn lúc ấy nghèo như ông Gióp. Họ muốn trở lại Năm Căn vì Năm Căn là khởi điểm để đi đến với người nghèo. Yêu người nghèo. Yêu Năm Căn. Yêu dai như đỉa... Và bây giờ thì yêu nạn nhân của bão số 5.
--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 14-11-1997

 Mình theo cha Quản hạt tháp tùng đoàn cứu trợ từ Sàigòn xuống. Đi suốt hai ngày, nối tiếp hai ngày. Mệt đứ đừ. Đoàn gồm nhiều thành phần đến độ nhớ không nổi.

 - Mười Râu ơi, bà nào cao như ông Tây đó ?

 - Chị Thu, giám đốc khách sạn Continental.

 - Chị ở dòng nào vậy ?

 - Con ở Mân Côi, Chí Hòa.

 - Còn chị ?

 - Dòng Đức Bà.

 - Không phải, dòng chim chư ù, một ông thầy Đa Minh chen vào.
 - Còn bác ?

 - Con thuộc giáo xứ Xây Dựng, còn ông này thì ở bên Vườn Xoài. Chúng con ở trong nhóm Đoàn Kết.

- Còn chị thì tôi biết rồi: dòng thánh Phaolô. Chúng tôi có nhiều kỷ niệm về dòng thánh Phaolô. Các chị ở số 4, chúng tôi ở số 6 đường Cường Để…

 Mình tự hỏi: nếu không có cơn bão số 5, thì những khuôn mặt lạ hoắc này có đến vùng cuối Việt này không nhỉ ? Nếu không có nhà sập, thì liệu họ có biết mình và thương mình không nhỉ ? Mình mất một nhà thờ, một nửa nhà xứ, một nửa trường học…. nhưng lại được vô số tình yêu. Như vậy thì lời hay lỗ ? Cứ sau một tai họa khủng khiếp, một trang sử lại lật qua, trang sử của một người, của một tập thể… Mình sực nhớ lời Mười Râu phát biểu ngày 4-11-1997 vừa qua: "Chúng ta phải tìm hiểu xem Chúa muốn nói với chúng ta điều gì qua biến cố này ?". Đúng vậy, có một trang sử nào đó đang được Chúa lật qua…

--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 15-11-1997

 Hôm nay P.P. từ Sàigòn xuống thăm Cái Rắn. P.P. đã làm mình sửng sốt nhiều phen: cánh tay thật dài, vòng tay thật rộng. Khiêm nhu như cây cỏ. Âm thầm như bóng đêm. Lặng lẽ như gió thu. Mình gửi Fax cho P.P. ngày 5-11, thì ngày 7-11 mình đã nhận được quà cứu trợ của P.P.: món quà lớn nhất, sớm nhất, nhưng cũng âm thầm nhất, vị tha nhất.

 P.P. sống trong một gia đình nửa Phật nửa Chúa. Bởi vậy P.P. từ bi theo Đức Phật, vị tha theo Đức Giêsu. P.P. biết mình một cách tình cờ. Mình đến với P.P. một cách ngẫu nhiên. Có một bàn tay vô hình nào đó đang lần mò và nối ráp khoảng cách tưởng như vô cùng giữa mình và P.P. Mình thầm mơ ước trên đời này có thật nhiều P.P. để chúng sinh bớt khổ đau, tiếng rên la của loài người không còn ai oán...

 Trong thánh lễ chiều nay, mình cầu nguyện cho P.P. thật nhiều để tỏ lòng biết ơn, nhớ ơn và đền ơn.

--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 16-11-1997
 Hôm nay Mến Thánh Giá và giáo xứ Tân Lập đến với Cái Rắn. Người ta kể rằng: “Những bao quần áo cũ ấy được các bà hiền mẫu ủi suốt đêm”. Như thế có nghĩa là nạn nhân bão số 5 không bị thương xót mà được kính trọng và yêu thương. Mình hân hoan đón nhận tình yêu, nhưng quyết liệt từ chối lòng trắc ẩn. tình yêu là trao tặng, trắc ẩn là bố thí.
 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 17-11-1997

 Sáng nay mình tới UBND xã để trao đổi về việc sửa chữa khẩn cấp của ngôi trường bị sập. Bốn trường trong ấp bị sập hoàn toàn. Hơn sáu trăm học sinh bơ vơ như trẻ thơ không mái ấm. P.P. giúp 20 triệu, xã phụ thêm 7 triệu. Thế là một ngôi trường đầu tiên được phục hồi sau cơn bão số 5. Mái trường sẽ đẹp hơn và ấm hơn. Ông Chủ tịch tâm sự:

- Hôm qua có một phái đoàn cứu trợ đến tặng quà. Bà con giành giật mất trật tự quá xá. Người thì được hai ba bọc, người thì chẳng được tí gì, chửi bới um sùm. Mất thể diện quá !

Đó là quy luật. Cung-cầu không cân bằng thì gây xáo trộn.

 Cầu quá lớn mà cung quá nhỏ thì gây nên đại họa. Luật cung-cầu này không chỉ đúng trong lãnh vực kinh tế mà còn đúng cả trong lãnh vực tôn giáo và đạo đức nữa.

 Năm 1989 mình đến thăm một họ đạo thuộc tỉnh Phú Thọ. Cha xứ mời mình ngồi tòa. Tòa giải tội rung rinh như có động đất. Mình đứng dậy ra quan sát tình hình. Thật là khủng khiếp. Thật là quái gở. Một rừng người chen lấn nhau một cách hổ lốn. Tại tòa có ba người cùng quỳ: người ở giữa thì xưng tội, người ở bên tả bên hữu thì lấy ngón tay trỏ thọc vào lỗ tai, để khỏi lỗi ấn tòa. Cả hai đều ở thế tấn công để chiếm ngay vị trí của người vừa xưng tội xong...

 Có một người đàn ông bốc vội thằng cu tí bỏ ra ngoài, để chiếm chỗ của nó: "Mày là trẻ con. có tội gì nặng đâu mà xưng. Mười năm nay tao chưa được xưng tội” .

 Giận quá ! Nhưng suy cho cùng thì đó cũng chỉ đơn giản là luật cung cầu. Linh mục ngồi toà thì quá ít, mà giáo dân muốn xưng tội thì quá nhiều. Có người trong suốt hai thập niên chỉ được giải tội tập thể mà thôi.

 Mình vẫn còn ghi khắc một kỷ mệm nữa về luật cung-cầu, ở bến xe Cà Mau, trong thời xe cộ khan hiếm. Chỉ có môït chiếc xe cà tàng sửa soạn đi Cần Thơ, thế mà hành khách thì đông như hội chợ. Bộ đội có, ông già có... thậm chí bà bầu cũng có. Trập trùng. Lố nhố. Bỗng có một ông thầy tu khoẻ mạnh len lỏi, luồn lách, lạng bên phải, lạng bên trái, bất chấp ông già, bà bầu. Ổng lọt vào được cửa xe, chạy vội ra khung cửa sổ kêu ơi ới:
 - Dì Tám ơi ! Lại đây nè !
 Thế là ông lôi bà phước chui qua cửa sổ, chiếm gọn ngay một băng hai, rồi cười sung sướng như kẻ vừa chiến thắng vẻ vang. Đấy khi cầu quá lớn mà cung quá nhỏ, thì một ông thầy tu, một bà phước... cũng sẵn sàng "mất nết” một cách vô tư như thế.
--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 20-11-1997

 Hôm nay mình gửi cho xã 500 phần quà. Mỗi phần quà gồm có một bọc quần áo cũ, mới, vài ba bao mì ăn liền... và một bọc 5 ký gạo. Bảy ấp cho người đến nhà thờ lấy về phân phối cho nạn nhân. Riêng ấp Cái Rắn A thì phát tại chỗ.

 Khi bọc quần áo thứ 73 được trao cho ông trưởng ban thì trong kho có tiếng la:

 - Hết.

- Như vậy là thiếu 27 bọc quần áo. Bọc gạo thì còn dư nhiều lắm. Bây giờ tính sao đây ông cố ?

 - Bây giờ ai đồng ý thì lãnh một bọc gạo nữa thay cho bọc quần áo. Ai không đồng ý thì chờ ít ngày nữa.

 - Tôi cần quần áo: rách hết, bay hết rồi. Gạo thì tôi chưa cần. Ở nhà tôi còn năm giạ lúa nữa.

 - Còn tôi thì đồng ý lấy hai bọc gạo.

 Có tiếng trẻ con khóc oà lên. Dòm lại, mình thấy một thằng cu tí chừng sáu tuổi đang khóc thổn thức. Mình hỏi mẹ nó:

 - Tại sao nó khóc vậy ?

 - Nó khóc vì không được lãnh quần áo. Nó chỉ có một cái áo này là coi được.

 Tiếng khóc của trẻ thơ làm mình xót xa. Mơ ước của nó thật là nhỏ bé... thế mà bỗng trở thành không tưởng. Tại sao trẻ thơ phải khổ đến thế nhỉ ? Mình không ngăn được giọt lệ. Chạy trốn về phòng, đóng cửa lại, khóc một mình.

 Bão số 5 giật sập nhà thờ, lột mái nhà xứ..., mình không hề nao núng. Thế mà hôm nay mình không cầm lòng được khi thấy những người đàn bà kẹp ở nách một cái bao ni-lông xẹp lép, ra về một cách tuyệt vọng, giận hờn... Vết chém của bão số 5 nhanh quá, không kịp đau. Bây giờ mới thấm.

 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 21-11-1997
 Đức cha Mẫn đã đến Cà Mau từ chiều hôm qua. Mình buột miệng nói với ngài:
 - Muốn mời Đức cha vô thăm Cái Rắn quá sức mà vẫn cứ phân vân.
 - ? …
 - Sợ một ảo tưởng. Người ta nghĩ rằng Đức cha sẽ cho nhiều tiền lắm. Người ta sẽ bu quanh Đức cha, kéo áo Đức cha và… Đức cha không có đường rút…

 Mình liên tưởng đến một con cò mẹ có một bầy cò con. Cứ mỗi lần cò mẹ mỏi cánh tha mồi về tổ, thì cả bầy cò con há mỏ chờ đợi. Quạc, quạc. Nhưng chỉ có một đứa được toại nguyện. Cò mẹ lại bay đi. Những cái mỏ mở toang hoác vẫn còn đó. Hy vọng và tuyệt vọng.

 Ngồi nói chuyện lan man với Đức cha, mới thấy bão số 5 đẻ ra vô số vấn đề.

 - Có một người đàn bà than thở với bạn: "Bên Công giáo các chị được Ông Chúa báo trước, nên không ai chết chìm. Bên đạo chúng tôi chết nhiều quá !"

 - Chuyện gì nữa vậy ?

 - Ở vùng Duyên Hải, Vũng Tàu, Phước Tỉnh... giáo dân đi khơi đều kéo nhau về hết từ ngày 1-11 để dự lễ Các Thánh Nam Nữ và Các đẳng Linh hồn. Nhờ đó mà thoát chết.

 - Ở Cái Rắn cũng có tiếng đồn: "Trời thương bà phước hơn ông cha. Mái nhà ông cha lợp bằng fibro thì bể hết. Mái nhà bà phước lợp bằng lá thì còn nguyên. Hai cây me mọc ở hai góc nhà bà phước đều đổ ra phía ngoài" .

 - Bão mà cũng biết phân biệt đối xử sao ta ? Sở dĩ cây me đổ ra phía ngoài, vì theo bản năng sinh tồn, nó đưa hết rễ ra phía
 
ngoài, vùng đất có nhiều muối khoáng và nước. Nhất nước, nhì phân mà. Đất nền nhà vừa khô vừa chua. Thế là mạnh phía ngoài và yếu phía trong. Hai cây me này giỏi về mặt kinh tế và dở về mặùt quốc phòng. Nhờ thế mà bà phước thoát chết.
 
Bão số 5 ơi, mi đã đến và mi đã đi, không kèn không trống. Mi không nhiều lời, mà tại sao loài người nhiều lời đến thế ?!
 
--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 23-11-1997
 
- Ông cố ơi, Đức cha tới !
 
- Chết rồi, không kịp chuẩn bị gì hết !
 
Mình vội chạy ra bến. Áo thun cụt tay. Có ai đó đang kè Đức cha từ dưới vỏ lên.
 
- Đêm qua mưa, khí hậu ẩm thấp, chân tôi lại sưng lên và đau khớp.
 
Đức cha chỉ kịp ăn cơm trưa. Bữa cơm giản dị dưới mức trung bình. Ăn xong Đức cha lại xuống vỏ đi thăm Khánh Hưng và Thời Hưng. Ngài nói thật nhỏ bên tai mình:
 
- Tôi có chút quà gởi cho bà con. Mai cha ra Cà Mau mà lấy.
 
Tình yêu của một người cha nhưng lại khéo léo như tình yêu của một người mẹ. Tình yêu âm thầm. Tình yêu dấm dúi.
--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 26-11-1997

Chiều hôm nay mình đang dâng lễ thì có khách: khách Sàigòn, khách Vườn Xoài. Toàn là phụ nữ, trừ một người vừa to vừa cao. Nghỉ đêm. Muỗi như trấu, lì như trâu, cắm vòi xuyên qua quần jean, xuyên qua chiếu dày. Người đẹp mất ngủ.
 
Sáng nay, các bà nhao nhao lên:
 
- Cha cho tụi con đi thăm bé Linda, bé ra đời vào đúng lúc bão giật sập nhà.
 
- Nhà nó ở xa lắm.
 
- Ông cố ơi, mẹ con nó về ở nhà ông nội rồi. Gần lắm Rồi, con đưa các bà đi thăm mẹ con nó.
 
Các bà đua nhau bồng Linda và khen bé xinh. Tặng quà lia chia. Thăm hỏi rối rít và... le lưỡi vì Linda là đứa con thứ tư của một người mẹ trẻ như con gái !
 
--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 27-11-1997
 
Chiều nay khách đến rất đông: Mặt trận xã, Liên hiệp Phụ nữ xã, Dân chính ấp... Đề tài trao đổi là cứu trợ. Chuyện ngoài lề là những tiếng than: than vì chưa được cứu trợ; than vì được cứu trợ ít quá; than vì kẻ được người không. Cán bộ oán trách dân. Dân oán trách cán bộ. Người cứu trợ oán trách nạn nhân. Nạn nhân xâu xé người cứu trợ... Khổ ơi là khổ !
 
Cũng chỉ vì thiên tai của một thế kỷ; thống khổ của một trăm năm !
 
Vết thương của bão số 5 vẫn còn lở loét, nhưng rồi sẽ khép miệng và mọc da non. Bĩ cực rồi thái lai. Cứ chịu đựng và chờ đợi.
 
--------------------------------------------------------------------------------
 
Cái Rắn, ngày 7-12-1997
 
Lớp Thần học Nguyễn Văn Bình đến đây từ tối hôm qua, nhưng vì tối tăm và lấm lem, nên sáng nay chủ và khách mới nhìn rõ mặt nhau. Xơ Thảo ở đường Nam Kỳ Khởi Nghiõa trao cho mình một lá thư và một gói quà cứu trợ. Bao giờ mình cũng nhận quà cùng với nụ cười của người trao tặng. Hôm nay thì không. Mình chờ nụ cười duyên dáng của xơ Thảo. Tuyệt vọng ! Dường như xơ Thảo đang ấm ức điều gì đó. Giận mình chăng ? Không. Hận đời chăng ? Có lẽ thế. Lá thư nhảy nhảy trong bàn tay run run của xơ Thảo:
 
Ngày 4-12-1997
 
Kính gửi cha,
 
Thưa cha, chúng con là một nhóm bạn trẻ khuyết tật, vào đời với đôi chân khập khễnh. Sau hơn bốn năm phấn đấu sống tự lập nuôi bản thân. Hằng ngày chúng con sống bằng nghề may, thêu, buôn bán nhỏ, dạy học.
 
Chúng con có dành dụm được một số tiền để chống dột căn nhà chúng con đang ở. Nhưng vào thời điểm này, chúng con biết được một số lớn đồng bào ở Hậu Giang bị cơn bão số 5.
 
Đứng trước cảnh đau thương đó, chúng con cũng là những người bất hạnh. Chúng con ước mong có thật nhiều tấm lòng hảo tâm cùng góp sức để xoa dịu nỗi đau của đồng bào Hậu Giang, giúp họ sớm ổn định cuộc đời.
 
Chúng con xin kính nhờ cha chuyển giúp số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu chẵn) chúng con có, đến quý đồng bào đó.
 
Chúng con cám ơn cha và kính chúc cha một cuộc sống bình an.
 
Kính chào cha,
 
Thay mặt nhóm trẻ khuyết tật
 
Nguyễn Thị Mai
 
Đọc xong lá thư và nhìn năm triệu đồng nằm trần trụi trên bàn, mình cảm thấy tim thắt lại. Bây giờ mình mới hiểu cái ấm ức của xơ Thảo.
 
Các xơ đồng trinh. không sinh con, nhưng lòng mẹ của các xơ vẫn dạt dào như biển Thái Bình. Lòng mẹ ấy đùm bọc, nâng niu và nuôi nấng hàng trăm, hàng ngàn những đứa trẻ bất hạnh “vào đời với đôi chân khập khễnh . Dành dụm, chắt chiu mãi vẫn chưa sửa lại được mái nhà dột nát thì... đùng một cái, bão số 5 ập tới. Số người bất hạnh lại tăng lên hàng vạn, hàng triệu.
 
Những đứa con bất hạnh của các xơ lại phải quên cái bất hạnh ngổn ngang của chính mình, để cứu vớt những kẻ bất hạnh khác. Đau khổ thì trùng trùng điệp điệp. Bất hạnh thì tầng tầng lớp lớp. Thế mà vẫn có những người thờ ơ và tỉnh bơ... ném tiền qua cửa sổ. Lòng mẹ bao la đối với con cái, nhưng lại nhỏ hẹp đối với những người lòng chai dạ đá.
 
Hiền như ma-xơ, nhưng cũng ấâm ức và hậm hực như ma-xơ, vì đời trớ trêu. vì đời bất công và vì… con của ma-xơ đã quá khổ, mà nay lại phải khổ thêm.
 
-------------------------------------------------------------------------------
 
Sàigòn, ngày 8-12-1997
 
Hôm nay mình đi Sàigòn. Lá thư của Nguyễn Thị Mai vẫn được cất kỹ một cách trang trọng trong cuốn Giờ kinh Phụng vụ. Đọc kinh tối xong, mình lại đọc lá thư của Nguyễn Thị Mai, đại diện cho nhóm bạn trẻ khuyết tật "vào đời với đôi chân khập khễnh". Hôm qua đọc lá thư này, mình thấy xơ Thảo hậm hực, ấm ức. Hôm nay đọc lại thư này, mình thấy Nguyễn Thị Mai bừng lên như ngọn đuốc. Hôm qua đọc lá thư này, mình thấy đời là đống đổ nát, tàn tạ. Hôm nay đọc lại thư này, mình thấy trên đống hoang tàn bỗng mọc lên một bông hoa lạ, hương thơm ngào ngạt, tỏa lan theo làn gió mơn man.
 
Cám ơn Nguyễn Thị Mai. Cám ơn các bạn trẻ khuyết tật “vào đời với đôi chân khập khễnh”. Ngợi ca các bạn, vì các bạn không còn khập khễnh vào đời, mà đã dẫn đời vào con đường trơn nhẵn của tình yêu. Xin tặng các bạn "bông hoa lạ trên đống hoang tàn".
 
--------------------------------------------------------------------------------
 
Sàigòn, ngày 9-12-1997
 
Mình tản bộ tà tà về phía đường Kỳ Đồng ngang qua nhà ga Hòa Hưng. Một chiếc xích lô lách vội một cái để tránh vũng nước, quệt vào cánh tay mình. Ui da ! Cái đụng hơi đau ấy lại do một cái hang đá to đùng chất đầy chiếc xích lô... Thì ra Noel đã gần tới rồi !
 
Đã qua hai tuần Mùa Vọng mà mình chưa hề nghĩ đến lễ Giáng Sinh. Cả tâm lẫn trí cứ lang thang từ cứu trợ đến cứu trợ. Có một ông bạn hỏi mình:
 
- Lễ Giáng sinh năm nay anh chọn chủ đề nào ?
 
- Chưa có trong trí khôn.
 
- Vậy năm nay anh tổ chức lễ Giáng sinh như thế nào ?
 
- Chưa biết. Chỉ biết chắc là không có văn nghệ. Ông thầy và bà phước bù đầu vào công tác cứu trợ, không còn giờ nào để tập ca, tập múa.
 
- Vậy thì năm nay Giáng sinh sù ?
 
- Không sù. Giáng sinh năm nay là bác ái: dựng nhà giùm cho nhau, tặng cho nhau những cây tràm cụt đầu, những cây so đũa bị chém treo cành, những tàu lá xác xơ, chia sớt cho nhau những lon gạo vơi đầy… Họ đạo Cái Rắn đã chuyển đến nạn nhân bão số 5 hơn 2.000 phần quà, 50 triệu tiền mặt, dựng lại hai ngôi trường trị giá mỗi ngôi trường là 20 triệu. Chánh quyền địa phương phụ vào mỗi ngôi trường 7 triệu... Và công tác cứu trợ vẫn còn tiếp tục, vì những tấm lòng quảng đại từ khắp nơi vẫn chưa cạn nguồn… Đó là Giáng sinh 1997 của chúng tôi... Được chưa ?
 
- Tạ ơn Chúa.
 
- Và Giáng sinh 1997 của chúng tôi còn có nhóm bạn trẻ khuyết tật “vào đời với đôi chân khập khễnh”. Tuyệt vời !
 
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

 ------------------------------
 
 

PiôHậu 49. AGAPÊ: ĂN VÌ YÊU, ĂN ĐỂ YÊU….

 
Cần Thơ, ngày… 1969
 
 

Sáng nay cha sở giơ tay ngoắt mình theo kiểu Tây:  - Piô... Nói nghe nè ! - Có chuyện gì đó ông: PiôHậu 49


Sáng nay cha sở giơ tay ngoắt mình theo kiểu Tây:
 
- Piô... Nói nghe nè !
 
- Có chuyện gì đó ông Chín ?
 
- Tối nay, nhà mình có tiệc. Piô chuẩn bị tiếp khách dùm tôi. Tiếng Pháp thì tôi rành, còn tiếng Anh thì... Piô ráng nghe !
 
- Eo ơi ! Con sợ lắm ! ông Chín nói tiếng Pháp như ngỗng ỉa. Còn con thì nói tiếng Anh như gà mắc dây thun !
 
- Cố gắng ! Kinh nghiệm của tôi đó: “Mọi vấn đề quan trọng đều được giải quyết trên bàn ăn”.
 
Câu nói của cha sở bắt mình suy nghĩ. Chắc mình sẽ nhớ mãi cho đến chết: “Mọi vấn đề quan trọng đều được giải quyết trên bàn ăn”. Lần đầu tiên trong đời, mình được ăn cơm Tây, với Tây và chỉ nói tiếng Tây. Ăn cơm Tây thì lạt miệng. Nói tiếng Tây thì mỏi tay. Mình vác khổ giá gần ba tiếng đồng hồ. Nhưng có một điều chắc chắn là cây khổ giá nở rất nhiều hoa. Ban đầu người ta cụng ly một cách hữu ý, nhưng vô tâm và vô tình. Đến ly hậu bôi, thì tình người đã đầy tràn chan chứa. Chủ khách siết tay giã từ nhau một cách thắm thiết. Lời giã từ "See you again" (hẹn gặp lại), nghe âm ấm như có linh hồn...
 
Khi chiếc xe cuối cùng đã ra khỏi cổng nhà thờ, cha sở quay lại bắt tay mình:
 
- Bonne nuit, chúc Piô ngủ ngon. Chúng ta thành công.
 
- Good night. Chúc ông Chín ngủ ngon.
 -------------------
 
Đồng Cùng, ngày... 1973 .

 Hôm nay mình đưa bà mẹ Catherine và dì Ba Gertrude vào thăm ông Năm Hiếu. Ông Năm là nhân vật nổi tiếng ở đây. Ông quyết tâm cầm khách ở lại.

 - Ông cha, bà mẹ đến thăm tôi, tôi đội ơn. Nhưng chưa ăn với tôi một bữa cơm thì tôi kể như chúng mình chưa gặp nhau bao giờ.

- Ông Năm khó vậy sao ? Vậy thì tôi xin thua.

 Món ăn chính là rùa nướng. Ông năm lôi bộ lòng ra, lấy tay ngắt từng khúc ruột, bỏ vào chén của từng người khách. Hai bà phước đưa mắt dòm mình, ý muốn xin "cứu bồ". Mình lờ đi. Thanh toán xong phần của mình, mình khích lệ:

 - Bà mẹ ăn đại đi, trong đó có tình yêu đấy. Nếu không ăn thì ông Năm giận đến đời đời.

 Hai bà phước sợ ông Năm giận thật, nên vội vàng gắp hai khúc ruột lòng thòng bỏ vào miệng, rồi thầm thĩ cầu nguyện… Chắc Chúa đã nhậm lời, nên hai bà được bình an vô sự...

 Thấy thế, ông Năm mừng quá đỗi. Ông lôi ra một bộ lòng nữa. Lại lấy tay ngắt ra từng khúc và lại bỏ vào chén khách. Thấy hai bà phước tái mặt, mình ra tay tế độ:

 - Ông Năm cho tôi hết đi. Cho bà phước ăn thịt rùa khác nào cho chim cú đậu cành mai.

 Dì Ba chắp tay xá mình lia lịa và ngỏ lời tri ân:

 - Cám ơn cha !

 Về tới nhà, hai bà phước vẫn còn rùng mình, nhưng tràn ngập niềm kiêu hãnh, vì đã dám ăn để yêu. Một kỷ niệm không quên !

 -----------------------
 
Cà Mau, ngày.....

 Anh Ba Hiến vừa leo cầu thang vừa la oang oang:

 - Bắt được con chuột rồi, mời “xóm biên đình” qua Quản Long dự tiệc mừng.

 - Bắt được con chuột mà cũng ăn mừng sao ?

 - Kiếm cớ để anh em gặp gỡ, chia sẻ tâm tình. Chúng ta khổ quá rồi, lâu lâu phải ăn với nhau một bữa cơm...

 Một sáng kiến thương quá là thương ! Linh mục là người cô đơn, cô đơn phía trên, cô đơn phía dưới.

 Phía trên là Giám mục, thì một năm chưa chắc đã có được một lần tâm sự.

 Phía dưới là hằng ngàn giáo dân, nhưng chưa chắc đã có được một người bạn nối khố.

 Bây giờ chỉ còn phía bên hông là giữa anh em linh mục với nhau, nếu không tạo thời cơ để ngồi ăn với nhau, thì chưa chắc đã ngồi lại mà trao đổi và chia sẻ công tác mục vụ với nhau.

 Chuột ơi, hãy đến hoài hoài, để anh em linh mục ăn với nhau và thương nhau mãi mãi.
------------------
 
Sài Gòn, ngày 8-4-1996 .

 Hôm nay mình lên Sàigòn để tái khám. Muốn đi tái khám thì phải đến 36 Tú Xương. Hồ sơ của mình để ở đó. Cổng đóng im ỉm.

 - Leng keng... leng keng...

 - Cha !

 Một bà ngoại tám mươi ba tuổi nắm lấy tay mình:

 - Mời cha vô trong kia. Nhà mình mà !

 Mình vô nhà cơm. Bữa cơm đã tàn. Bắt đầu tráng miệng. Xoài tượng và nước mắm đường. Sáu quả xoài tượng to tổ bố. Những miếng xoài to và dày như lưỡi trâu. Gần hai chục bà phước ăn xoài xanh. Im phăng phắc. Thời gian như ngưng đọng. Không gian như hư vô. Bề trên ăn, bề dưới ăn. Thể xác ăn, linh hồn ăn. Ăn với tốc độ và nồng độ như nhau. Hạnh phúc là thế. Thiên đàng là đây. Mình nói với chị Camille:

 - Một agapê tuyệt vời. Egalité (bình đẳng) và fraternité (huynh đệ) tuyệt đối. Không còn phân biệt trên dưới, già trẻ. Tất cả chỉ là một. Cái kết quả cao quí khôn lường ấy lại được trả bằng một cái giá rẻ mạt không ngờ: sáu trái xoài tượng.

 Xây dựng hạnh phúc cộng đoàn nhiều khi phải xoay trở đến toát mồ hôi, mà cuối cùng vẫn phải "anh đi đường anh, tôi đi đường tôi". Thế nhưng, nhiều khi hạnh phúc ấy lại đến ngồi chờ ở cổng nhà ta. Vấn đề chỉ còn là mở cổng hay không. Cũng thế, nhiều khi ta phải trị bệnh bằng đại phẫu tốn cả cây vàng, mà cuối cùng chỉ còn là một sự sống vật vờ trong một thân xác không toàn vẹn. Trong khi đó bệnh ấy chỉ cần trị bằng một nắm dược thảo mọc hoang dại trong vườn nhà.

--------------------
 
Cà Mau, ngày....

Hôm nay anh em ngồi chia sẻ những nỗi đoạn trường của đời mục vụ. Vạn sự khởi đầu nan vẫn là cái hộ khẩu. Nhưng cái nỗi gian nan khổ ải ấy lại qua đi như mây bay nhờ một agapê, một bữa cơm thân ái.

Hôm ấy Tư Vinh đưa Mười Râu đi “gãi tai” để kiếm cái hộ khẩu.

 - Tụi con ở đây biết bao lâu rồi. Ông Hai biết tụi con quá rồi mà. ông Hai cho anh Mười nhập khẩu đi.

 - Để đó… để đó. Tụi bay nhậu với tao một cái đã, rồi tao tính sau.

 Trời đã xâm xẩm tối. Tư Vinh nhìn Mười Râu. Mười Râu nhìn Tư Vinh. Tiến thoái lưỡng nan... Nhưng không lẽ lại về tay không ?

 - Chơi luôn ! Mười Râu cười với Tư Vinh, buông thõng một câu.

 - Bưng đồ ăn lên đây. Đem rượu ra. Chơi cho hết tình hết nghĩa.

 Tợp một cốc rượu, gắp một miếng mồi. Tình yêu nhích lên một chút. Tợp một cốc nữa, gắp một miếng nữa. Tình yêu lớn lên như thổi.

 Tư Vinh và Mười Râu chịu chơi, nhưng không dám chịu chết. Hai anh làm bộ say gục đầu xuống bàn. Ông Hai bí thư xã dìu hai anh vào giường… Có một dấu hiệu khả nghi. Ông Hai quày trở lại, vén mùng, lấy ngón tay khều khều ở hai ổ nách Tư Vinh và Mười Râu.

 - Hí... hí...

 - À chưa chết ! Ra đây chịu tội.

 Hai tên « đào ngũ » lồm cồm bò ra chịu tội. Một lát sau, ngựa lại về đường cũ. Ông Hai lại nghi ngờ, lại rờ hai ổ nách. Nín khe. Thở phò phò…

 - Chết thiệt rồi.

 Ông Hai bí thư tấn mùng cho khách một cách cẩn trọng và trìu mến... Sáng hôm sau, ông lấy giấy ra, ký xoẹt một cái. Thế là xong. Mười Râu ôm lấy cái chữ ký kềnh càng của ông Bí thư như ôm một hũ vàng.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------
 
 

PiôHậu 50. SAU MỘT CUỘC GẶP GỠ


 Cà Mau, ... 1977
 
 

Hôm nay mình đến thăm mục sư Xuân Phong và tặng ông cuốn Thánh Kinh mới toanh. Mình hãnh: PiôHậu 50


Hôm nay mình đến thăm mục sư Xuân Phong và tặng ông cuốn Thánh Kinh mới toanh. Mình hãnh diện khoe với ông:

 - Theo tôi, đây là bộ Thánh Kinh sáng giá nhất từ trước tới nay xét cả về kỹ thuật ấn loát, lẫn về khoa chú giải.

 Mục sư Xuân Phong cầm bộ Thánh Kinh ngắm nghía hồi lâu rồi lần giở một cách trang trọng. Bỗng ông như giật mình và nói một cách thảng thốt:

 - Một bộ Thánh Kinh lớn lao như thế này tại sao lại chỉ có một mình linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch và chú giải ? Tại sao lại không có một ủy ban dịch thuật ?

 Mình cụt hứng và đánh trống lảng sang chuyện khác. Câu chuyện cứ lan man mãi từ văn hóa, khoa học, chính trị, rồi lại vòng trở về vấn đề truyền giáo và Thánh Kinh. Mình khen Tin Lành:

 - Bên Tin Lành của mục sư giàu quá, Thánh Kinh in hàng triệu cuốn và tặng không cho tín đồ.

 - Công giáo giàu hơn Tin Lành nhiều. Nhưng bên đó có bao nhiêu tiền thì bỏ ra xây tháp chuông và mua chuông hết rồi, còn tiền đâu mà in Thánh Kinh nữa.

 Mình lại cụt hứng và lại đánh trống lảng.

 Sau cuộc gặp gỡ, mình thấy có cái gì nghèn nghẹn ở cổ. Mình còn nhớ khi còn là sinh viên Đại Chủng viện có lần thầy Bùi Châu Thi đã than thở ngay trong lớp học:

 .“Cử nhân Thánh Kinh thì Giáo hội Việt Nam có hằng rổ. Nhưng không ông nào chịu ngồi lại với nhau để cùng làm công tác dịch thuật. Cứ mạnh ai nấy làm. Cứ đèn nhà ai nấy rạng. Lẽ ra Hội đồng Giám mục phải làm được chuyện này. Thế nhưng không hiểu tại sao các đấng lại không làm ? “

 Niềm tâm sự của thầy Thi đã ám ảnh mình mãi mãi. “Không ông nào chịu ngồi lại với nhau”. Đó là một sự thật, một sự thật đau buồn. Vì thế vừa khi nhận trái pháo đầu tiên của ông mục sư, mình kéo cờ trắng liền, không một phát súng kháng cự.

 Bộ Thánh Kinh Giêrusalem, TOB đều có cả một ban cố vấn, dịch thuật thật hùng hậu… Nhưng ở đây thì không. Có người, dù không chuyên môn cũng đem hết khả năng để dịch, để xuất bản một cuốn Thánh Kinh toàn bộ. Sách đã được bán hết. Nhưng chắc không độc giả nào nghĩ rằng nó sẽ được tái bản. Nay, đến Nguyễn Thế Thuấn, một người có khả năng về khoa Thánh Kinh đã dịch và cho xuất bản một bộ Thánh Kinh trong một hoàn cảnh thật đáng hoan nghênh. Nhưng ai cũng nhận thấy rằng bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn có giá trị cao về mặt khoa học, nhưng văn chương Việt Nam của ông thì lỉnh kỉnh quá. Đọc bản dịch của ông giống như lái xe đi trên đường ổ gà. Có lẽ rồi đây còn có nhiều bản dịch khác nữa. Mỗi bản dịch đều có mặt ưu và khuyết nào đó.

 Và cho đến bao giờ các nhà chuyên môn Thánh Kinh ở Việt Nam mới ngồi lại với nhau để cùng nhau dịch thuật và cống hiến cho độc giả một bản dịch có nhiều ưu điểm nhất và ít khuyết điểm nhất ?

 Còn về cái ý kiến người công giáo lo xây tháp chuông và mua chuông nên không còn tiền để in Thánh Kinh thì mình chả biết phải nghĩ thế nào bây giờ. Trái pháo thứ hai nầy của ông mục sư quá bất ngờ, khiến mình không kịp đối phó.

  Những hồi chuông binh boong vang vọng vào những dịp lễ lớn làm biết bao con tim rạo rực. Đó là tiếng Chúa thôi thúc qui tụ đoàn con hiếu thảo và nhắc nhở những con chiên lạc bầy. Có biết bao tâm hồn xa Chúa, quên Chúa, bỏ Chúa lâu năm, bỗng giật mình trở về vì tiếng gọi mầu nhiệm ấy. Một ngọn tháp cao vời vợi, một hồi chuông vang dội là những tín hiệu của niềm tin và của cộng đồng dân Chúa. Nó đã đi vào lòng người, đã trở thành truyền thống và trở nên thân thương đến mức độ không thể thiếu vắng đối với đa số tín đồ công giáo.

 Nhưng trên thực tế, mỗi một ngọn tháp cao đều chiếm 2/5 ngân sách xây nhà thờ. Thế mà trên tháp cao và tốn tiền ấy chỉ hiện diện một vài quả chuông với một bầy dơi. Không ai ngồi trên đó để tham dự các nghi thức phụng vụ cả.

 Có một cây tháp cao để tôn vẻ uy nghi của ngôi Nhà Chúa là một điều đáng ham muốn. Có những quả chuông to để thôi thúc tín đồ đi lễ cũng là điều đáng khích lệ.

 Nhưng nếu vì xây tháp cao mà không còn tiền để mỗi người, mỗi gia đình có một cuốn Thánh Kinh, thì vấn đề phải được đặt lại. Hoặc giả vì quá say mê ngọn tháp cao để quên không nghĩ đến nhu cầu đọc Lời Chúa trong gia đình và trong đời sống riêng tư, thì cũng cần suy nghĩ lại.

 Còn nếu ở đâu có cộng đồng dân Chúa vừa có tháp cao, vừa có chuông to lại vừa có Thánh Kinh trên tay nơi mỗi tín đồ, thì mình sẽ chộp lấy như một trái pháo để gởi tặng ông mục sư Xuân Phong bạn của mình... Và mình vẫn chưa tìm được trái pháo ấy !

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------
 
 

PiôHậu 51. ĐỌC THÁNH KINH


 Cà Mau, ...
 
 

Mình đang đọc cuốn "Đất dữ" của Hoócghê Amađô. Mình dừng lại ở câu chuyện kể về gia đình: PiôHậu 51


Mình đang đọc cuốn "Đất dữ" của Hoócghê Amađô. Mình dừng lại ở câu chuyện kể về gia đình ông “đại tá" Antoninô đọc Kinh Thánh. “Đại tá” chỉ có nghĩa là một ông chủ đồn điền giàu có. Antoninô có một bà vợ rất đạo đức. Tối nào bà cũng qui tụ mọi người lại để nghe bà đọc Thánh Kinh. Khi bà chết rồi, thói quen đọc Thánh Kinh trong gia đình vẫn được tuân hành như một kỷ niệm đáng kính. Bây giờ người chủ trì buổi đọc Sách Thánh là đứa con gái của bà.

 Antoninô cảm thấy đồn điền của mình chưa rộng lớn đủ. Ông ngó sang đồn điền bên cạnh chỉ cách đồn điền của ông bằng một cái thung lũng hẹp. Ông muốn hai thành một. Ông muốn tìm hiểu ý Chúa. Tối hôm ấy ông ngỏ lời với đứa con gái của ông: ”Con đọc Sách Thánh xem có chỗ nào Chúa muốn bố chiếm đồn điền bên kia thung lũng không ?” Con ông mở Sách Thánh và đọc một đoạn. Ông lắc đầu. Con ông lại mở và đọc một đoạn khác. Ông lại lắc đầu. Cuối cùng con ông mở sách Giosuê và đọc ngay đoạn kể ông Giosuê đưa quân lội qua sông Giođan, bao vây và gieo thần tru trên Giêricô. Ông gật đầu lia lịa: “Được rồi, con” .

 Sáng hôm sau, khi trời chưa hừng sáng, ông đã xua quân tràn qua thung lũng chiếm đồn điền của bạn. Lương tâm ông tỉnh queo, vì ông bảo: “Đó là Lời Chúa...”

 Đọc Sách Thánh ư ? Chưa đủ ! Còn phải đọc Sách Thánh với tinh thần nào nữa chứ. Thời Trung Cổ, người ta đã trích một câu trong Thánh vịnh để làm bài hịch xua Thập Tự quân qua chiếm Đất thánh, mở màn cho một cuộc chiến dài hai thế kỷ (l096 -1270). Exurge, Domine (Lạy Chúa, xin hãy chỗi dậy).

 Cuộc chiến này là một trong những sai lầm lớn của Giáo hội.

 Như vậy có nghĩa là vẫn có một lối đọc Thánh Kinh sai lầm. Người ta không bỏ mình để theo Chúa, mà lại bắt Chúa phải bỏ mình để đi theo người ta. Bây giờ mình mới hiểu câu nói: “Ai muốn theo Ta thì phải bỏ mình đi”. Phương pháp đọc Thánh Kinh quan trọng hơn việc đọc Thánh kinh. Học cách đọc Thánh Kinh quan trọng hơn việc mua và đọc Thánh Kinh.

--------------------------------------------------------------------------------
 
Cà Mau, ... 1975

 Anh Ba Hiến mời mình tham gia lớp “Chia sẻ Lời Chúa" của giáo xứ Quản Long. Một cô gái đưa cho mình một tập sách nhỏ bằng Anh ngữ. Tác giả phản đối việc y khoa hiện đại tiếp máu cho bệnh nhân, nhân danh lời tuyên bố của Thánh Giacôbê trong Cv 15,26: “Anh em hãy kiêng ăn máu huyết” . Ôi, người ta nhân danh Lời Chúa để làm những chuyện buồn cười. Mình tin rằng tác giả tập sách nhỏ này đã đọc Kinh Thánh nhiều lắm, nhưng lại hiểu Lời Chúa một cách tùy tiện.

 Đọc Lời Chúa chưa có nghĩa là đã hiểu Lời Chúa. Hiểu Lời Chúa chưa có nghĩa là đã đồng cảm với Chúa. Muốn đọc, hiểu và cảm được Lời Chúa, mình phải tự hủy ý riêng một cách thật sâu sắc. Mình còn phải khiêm tốn như kẻ đi tìm Chúa mà chưa gặp được Chúa. Mình rất sợ hiện tượng:

 - Nhân danh Chúa, tôi trừ diệt chúng.

 - Nhân danh Chúa, tôi chống tiếp huyết cho bệnh nhân.

 - Nhân danh Chúa, tôi đưa người lạc giáo lên giàn hỏa thiêu.

 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cà Mau, ....

 Mình thường xuyên chia sẻ Lời Chúa với Nga, một cô giáo theo đạo Tin Lành. Sau buổi chia sẻ Lời Chúa, cô tham dự thánh lễ rồi mới về. Hôm nay cô ngỏ ý với mình:
 - Cha cho con rước Mình Thánh Chúa đi. Đi dự lễ mà không được rước Chúa, con thấy nó thế nào ấy.

- Chị phải hỏi ý kiến mục sư xem sao. Bên Tin Lành không tin có Chúa hiện diện thật trong hình bánh đâu.

 Nga có một tâm hồn rất ngay thẳng. Cô tự sám hối về sự chia rẽ của Kitô giáo. Cô rất hăng say rao giảng Đức Giêsu. Chính cô đã khuyên một học sinh Công giáo bỏ thói bê tha mà trở về công tác giúp lễ. Với Nga thì vấn đề quan trọng của công tác truyền giáo không phải là Công giáo hay Tin Lành, mà là Đức Giêsu. Nga đã biết từ bỏ ý riêng để đọc Kinh Thánh.
--------------------------------------------------------------------------------
Cà Mau, ...
 
Mình đang sửa soạn mặc áo lễ, thì có người thò đầu vào qua cửa phòng mặc áo:
 - Tôi muốn gặp linh mục Hậu.

 - Tôi đây.

 - Có thư của Việt Hưng ở Cần Thơ gởi cho linh mục. Việt Hưng giới thiệu tôi đến gặp linh mục. Việt Hưng là học sinh trường Đồng Tâm của linh mục ngày xưa.

 - Hẹn anh sau lễ nhé.

 Mình đang cởi áo lễ, thì anh ta lại thò đầu vào. Như vậy là anh ta đã ngồi chờ mình từ đầu đến cuối thánh lễ.

 - Sau lễ tôi lại bận. Hẹn anh đúng 8 giờ nhé.

 - Vâng! Anh ta trao thư của Việt Hưng cho mình rồi lủi thủi ra về.

 Đúng 8 giờ anh ta có mặt ở nhà xứ. Mình dẫn anh ta lên lầu.

- Tôi là người không tín ngưỡng. Anh là linh mục. Nhưng chúng ta cứ góp ý thoải mái, không sợ ai.

 - Dĩ nhiên.

 - Tôi tin rằng đạo của anh có chân lý, vì nó đã tồn tại hai mươi thế kỷ. Nếu nó không có chân lý, thì nó đã bị lịch sử đào thải rồi. Nhưng tôi vẫn chẳng hiểu đạo của anh là cái gì. Tôi đã đọc nhiều sách nói về đạo của anh, nhưng vẫn chưa thấy được đạo. Cụ thể là hai tác phẩm của cùng một tác giả là Victor Hugo, mà lại nói khác hẳn nhau về đạo của anh. Cuốn “Nhà thờ Đức Bà Paris” cho thấy đạo của anh bẩn quá chừng ! Ngược lại cuốn “Những người khốn khổ” lại mô tả đạo của anh đẹp tuyệt vời. Bây giờ anh có cách nào giúp tôi hiểu một cách đúng đắn về đạo của anh không ?

 - Đọc Thánh Kinh. Đọc Đức Giêsu. Chân lý của đạo không ở những tác phẩm văn học, mà ở trong Thánh Kinh. Đức Giêsu mới là ĐẠO, còn Giáo Hội chỉ là người đang hành trình tìm về Đức Giêsu mà thôi.

 - Tôi không thấy Thánh Kinh trong nhà sách.

 - Dĩ nhiên .... Chắc anh cũng hiểu tại sao rồi. Vả lại, chính bản thân tôi bây giờ, muốn mua một cuốn Thánh Kinh, thì cũng chẳng biết mua ở đâu !...

 Hai người nói chuyện mãi cho tới mười giờ đêm. Trước khi nhắm mắt ngủ, mình liên tưởng đến một buổi tối nọ, Thầy Chí Thánh ngồi nói chuyện rỉ rả thật lâu với ông Rắp-bi Nicôđêmô. Mình gởi ông bạn này cho Ngài....
 
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------
 
 

PiôHậu 52. LINH MỤC CỦA AI


 Sài gòn, .... 1984
 
 

Hôm nay Chúa Nhật, mình đi dự lễ ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Đi lễ ở đây để xem ng­ười ta tổ: PiôHậu 52


Hôm nay Chúa Nhật, mình đi dự lễ ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Đi lễ ở đây để xem ng­ười ta tổ chức mục vụ, để nghe cha dòng giảng, để nghe ca đoàn hát và để coi người ta trưng bông. Mình đến thật sớm để thấy thật nhiều. Cái mình muốn xem thì chưa thấy, cái mình không chờ thì bất ngờ lại thấy...

 Sân nhà thờ ướt nhẹp vì mới qua một trận mưa tầm tã. Trên ba mươi người hành khất xếp thành hai hàng dài nối liền cổng với cửa nhà thờ. Họ cúi rạp mình xuống, hoặc nằm bẹp trên những vũng nước để thê thảm hóa đến cùng cực cái thực trạng đã quá thê thảm rồi. Những người cùi cố tình bôi thuốc đỏ loe loét trên những vết thương vốn chỉ nhỏ bằng cái vỉ ốc. Họ tự nguyện biến thành những đống giẻ rách có linh hồn và tự nguyện xóa nhân phẩm để được xót thương.

 Chuông nhà thờ đổ hồi. Số lượng tín đồ tràn vào nhà thờ như một dòng thác. Những đụn giẻ rách bỗng chồm dậy gật gù và van vái như những bóng ma. Những cánh tay khô khẳng và đen đúa giơ lên thật cao, chộp lấy những đồng tiền thơm tho rơi ra từ những bàn tay nõn nà. Phải công nhận rằng tín đồ ở đây mặc đẹp thật. Một rừng người là một rừng hoa. Những model mới nhất đều góp mặt ở đây, kể cả mini-jupe. Mùi nước hoa phảng phất trên khắp khuôn viên nhà thờ, làm át cả mùi tanh tưởi của những người hành khất.

 Thánh lễ đã bắt đầu. Dòng người thôi chảy. Hai hàng rào hành khất tan rã, mỗi người tìm một chỗ, ngồi đếm tiền, nét mặt phở lở.

 Mình là người vô nhà thờ sau cùng và có lẽ là người lo ra số một. Mình hãnh diện vì nhà thờ tượng trưng cho lòng từ thiện, nên đã qui tụ được một số người hành khất đông như thế. Mình cũng hãnh diện vì con cái Chúa ở đây vừa giàu đẹp, vừa rộng tay bố thí. Tiền bố thí rơi rụng như lá mùa thu. Nhưng mình lại xấu hổ quá lẽ vì bên này những đụn giẻ rách có linh hồn là con cái Chúa, và bên kia, một rừng hoa muôn sắc cũng là con cái của Chúa. Giáo hội là những người giàu rộng tay bố thí, hay Giáo hội là những người nghèo chìa tay xin giúp đỡ, hay Giáo hội là nơi mọi người đều có cơm ăn áo mặc mà không ai phải xin xỏ ai?

 Đã hai mươi thế kỷ rồi, Giáo hội vẫn nổi tiếng là người rộng tay bố thí, nhưng Giáo hội mới chỉ nuôi sống người nghèo, chứ chưa giết chết tình trạng nghèo. Người nghèo mới chỉ được xót thương, chứ chưa được kính trọng...

 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cà Mau, ... 1984

 Reng... Reng... Reng...

 Ba hồi chuông thật dài làm náo động cả nhà xứ. Người bấm chuông kiểu này phải là người thân nhất. Vậy chắc là anh Ba Hiến và anh Mười Râu rồi. Mình vội vàng chạy xuống cầu thang nhanh như đá truồi. Cánh cửa mở toang.

 - … ? !

 - Ông cha, cho tôi ít trăm mua cơm ăn. Đói quá rồi !

 - Số của anh là số xui. Nếu hôm qua anh tới đây, thì tôi còn có chút ít cho anh. Hôm nay thì tôi không còn một đồng xu dính túi.

 - Đ.m. làm cha mà không có tiền hả ? Người đàn ông ném cho mình một cái nhìn hận thù rồi quay gót.

 Bị chửi quá bất ngờ, mình không kịp cảm thấy tủi nhục, cứ đứng trơ ra như trời trồng.

 Mình không còn tiền, đó là sự thật, nhưng một sự thật khó tin. Trong túi không còn một đồng xu, nhưng mình vẫn mang kiếng gọng Đức trị giá gần 200 ngàn; trên cổ tay vẫn ngự trị một cái đồng Seiko 5 trị giá hơn một chỉ vàng; mình vẫn đang sống trong một biệt thự cổ có nhiều tiện nghi... Mình vẫn thương người ng­hèo và vẫn giúp đỡ người nghèo, khi thì một bộ quần áo, khi thì một vài ngàn, khi thì vài chục ngàn..., nhưng chưa bao giờ mình phải nhịn ăn, nhịn mặc vì người nghèo. Như vậy có nghĩa là mình chỉ mới cho người nghèo những cái dư thừa, chứ chưa dám chia sẻ những cái cần thiết.

 Mình mới chỉ dám SỐNG CHO người nghèo, mà chưa đủ can đảm để SỐNG VỚI người nghèo. SỐNG VỚI người nghèo, mới là SỐNG CHO đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất. Chỉ khi nào mình SỐNG VỚI người nghèo, mới cảm nghiệm được thân phận của người nghèo và mới cảm thấy cần phải giải phóng người nghèo khỏi tình trạng nghèo. Ba phần tư nhân loại vẫn sống nghèo. Và nghèo vẫn là một trọng tội, vì nghèo sinh ra dốt nát, vì nghèo sinh ra bần tiện và tình trạng mất nhân phẩm.

 Mình sẽ không bao giờ có nhiều tiền để chấm dứt tình trạng nghèo. Mình cũng không đủ can đảm để SỐNG VỚI người nghèo. Mình không phải linh mục CỦA người nghèo, không phải là linh mục CHO người nghèo và không là linh mục VỚI người nghèo. Vậy mình là linh mục của ai ? Có lẽ lương tâm mình sẽ cắn rứt cho đến chết.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

--------------------------
 
 

PiôHậu 53. ÁO NHÀ TU


Năm Căn, ngày 25-5-1971
 
 

Hôm nay mình đi tìm người công giáo, để từ đó mình đến với lương dân. Làm thế nào để tìm được họ: PiôHậu 53


Hôm nay mình đi tìm người công giáo, để từ đó mình đến với lương dân. Làm thế nào để tìm được họ ? Mình mặc áo dòng rồi cứ thả bộ trên đường dọc theo bờ sông... Bỗng có tiếng la lên:

 - Cha !

 - Ông có đạo hả ?

 - Dạ.

 Ông Năm móc ví ra, rồi đưa cho mình một tấm hình thánh Antôn. Tấm hình được gấp bốn, cũ và nhàu nát. Đã từ lâu rồi, ông Năm cất đạo trong lòng, không dám biểu lộ ra bên ngoài. Đạo đồng nghĩa với đóng đinh, ông hiểu như thế. Trong căn lều của ông không có dấu hiệu gì của người công giáo: Không có ảnh Thánh giá, không có hình Đức Mẹ. Nhưng trong ký ức của ông có nhiều hình ảnh thân thương về đạo, trong đó có cái áo dòng đen. Nếu không mặc áo dòng, thì hôm nay mình đã không tìm ra được ông Năm.

 Áo dòng ơi, ta không thích màu đen tang tóc của ngươi, nhưng ta cần ngươi, vì nhờ ngươi mà ta tìm ra được những người anh em thân yêu đang trôi dạt trên mảnh đất Năm Căn ô hợp này...

 --------------------------------------------------------------------------------
 
Cà Mau, ...

 Hôm nay mình được nghe một tin vừa rất tầm thường, vừa rất nhiều ý nghĩa.

 Có một vị Tổng Giám mục người Pháp, sau khi đi dạo phố Sàigòn, đã viết thư cho Đức Tổng Bình, đại ý như sau:

 “Xin Đức Cha cấm các linh mục không được mặc áo dòng khi đi ra phố: nó chướng quá ! Ra phố thì mặc “xi-vin” như mọi người…”

 Mình nghĩ bụng: mắt tây thì thấy chướng, chứ mắt ta thì chưa chắc. Nhưng có một điều rất chắc chắn, đó là giáo sĩ và tu sĩ nên tìm ra một con đường để đi đến, và một nếp sống để trở nên giống mọi người. Chắc hẳn Đức Giêsu cũng đã hòa mình với quần chúng theo đường lối đó. Vấn đề không phải là mặc hay không mặc áo dòng, mà là trở nên người với mọi người, trừ sự tội để đưa mọi người về với Đức Kitô.

--------------------------------------------------------------------------------

Cái Rắn, ngày 10-9-1995

 Hôm nay mình nhận được một lá thư của một ông bạn già chưa hề diện kiến. Ông khuyên mình nên mặc clergy-man. Ông gửi đính kèm hai tấm hình cắt từ báo Công Giáo và Dân Tộc: Tấm hình cha Huỳnh Công Minh mặc clergy-man với lời ghi chú: ”vừa gọn, vừa đẹp”, tấm hình cha Ngô Đình Phán mặc xi-vin với lời ghi chú: ”chẳng biết là cha hay không cha” . Ông lập luận:

 1- Dù áo dòng không làm nên thầy tu (L'habit ne fait pas le moine), nhưng thầy tu thì phải mặc áo thầy tu. Cũng như anh bộ đội thì mặc quân phục.

 2- Chiếc áo dòng tạo được sự kính nể của nhân dân. Các vị sư lúc nào cũng mặc áo cà sa và còn để đầu trọc nữa: có mất mát gì đâu.

 3- Mặc áo dòng giúp giáo sĩ và tu sĩ giữ mình giống như áo giáp bảo vệ người chiến sĩ.

 4- Áo dòng cũ có vẻ lình xình khó đi lại. Clergy-man vừa gọn, vừa đẹp lại vừa phân biệt với người đời. Thêm một cây thánh giá nhỏ cài ở túi áo nữa thì tuyệt vời.

 Đọc thư của ông bạn già xong, mình cảm thấy nhột nhạt quá, vì từ ngày 5-1-1975 mình chỉ mặc áo dòng trong khuôn viên nhà thờ và lúc cử hành các nghi thức phụng vụ mà thôi. Mình cũng đã hai lần may clergy-man. Nhưng chưa lần nào có được một cái phô-côn cho ra hồn. Mình bèn thảo một lá thơ gởi ông bạn già, lá thơ không gởi.

 Bác Mạnh mến,

 Tôi đã đọc thư của bác. Bối rối quá, vì tôi chưa mặc áo dòng, hoặc clergy-man như bác đề nghị. Tôi cũng chưa quyết định sẽ mặc tu phục như bác đề nghị hay không. Ở đây tôi chỉ xin ghi lại vài kỷ niệm của đời mình liên quan đến việc mặc và không mặc áo dòng để anh em mình cùng suy nghĩ:

 + Năm 1947 tôi gia nhập Tiểu chủng viện. Tu phục của tôi lúc đó là áo dài đen. Một lần kia tôi đi qua một xóm ngoại. Một bầy trẻ chăn trâu bu lại làm thành một cuộc biểu tình bỏ túi. Khẩu hiệu duy nhất là: "đả đảo áo dài !" . Tôi vừa sợ vừa xấu hổ, cúi đầu lầm lũi mà đi. Đi đã xa, mà tiếng hô "đả đảo" vẫn còn dính vào tà áo.

 + Năm 1994 tôi cùng 12 nữ tu Mến Thánh Giá Tân Lập đi về miền cực Nam của tổ quốc... Chẳng ai trong chúng tôi mặc áo dòng. Tôi ngồi ở băng trên. Sau tôi là một bà giáo tập. Bỗng có tiếng nói trao đổi phía sau lưng:

 - Mời dì ngồi, tôi đứng cho.

 - Ủa, bà phước hả ?

- Sao dì biết ?

 - Thấy tử tế quá à ! Và cái mặt hiền hiền...

 + Năm 1989 tôi ra Hà Nội. Chiếc xe tốc hành Đà Nẵng-Hà Nội tới bến Kim Liên vào lúc 2 giờ sáng. Sớm quá. Tối quá. Nỗi sợ bao trùm... Bốn giờ sáng tôi mới dám ra khỏi xe xuống phố uống cà phê, rồi kêu xích lô về nhà thờ Chánh tòa dự lễ. Sau lễ tôi vào Tòa Giám mục chào Đức Hồng y Căn. Đúng giờ ăn sáng, nên tôi được mời vào bàn. Tôi cảm thấy cô đơn lạ lùng, vì tất cả đều mặc áo dòng trừ một mình tôi. Ăn xong, Đức cha Thuận kéo áo và ghé vào tai tôi:

 - Cha vui lòng mặc áo dòng, vì Đức Hồng y người muốn như thế.
 - Dạ...
 Miệng nói dạ, nhưng trong bụng đã tính bài chuồn, vì trong túi hành trang không có áo dòng. Và tôi đã chuồn thật. Chuồn để khỏi độn thổ...

 Về Sơn Tây tôi vẫn cũn cỡn với chiếc áo sơ-mi cụt tay. Tối hôm đó vô nhà nguyện đọc kinh tối. Bỗng có tiếng động nhẹ ở phía sau. Tôi quay lại thì thấy một chiếc áo dòng vắt ngang trên thành ghế. Tôi hiểu đó là một lời nhắc nhở khéo léo.

 Hai năm sau tôi lại vô Tòa Giám mục Hà Nội. Đứng nói chuyện ở trước cửa phòng Đức cha Thuận có bốn người: Đức cha Thuận, Đức cha Tùng Cương, cha Sinh và tôi. Bỗng có tiếng chuông kêu leng keng từ phòng ăn vọng lên.

 - Chết rồi các đấng. Tôi không có áo dòng thì xuống nhà cơm được không ? Đức cha Tùng Cương bận clergy-man giơ hai tay lên và thốt ra như thế.
 
- Xin Đức cha cứ noi gương Đức Tổng. Cha Sinh chỉ về phía Đức cha Thuận.

 Tôi ngó Đức cha Thuận. Không có áo dòng. Không có clergy-man. Quần bà ba đen. Áo sơ-mi đen may kiểu clergy-man nhưng không cài nút cổ và không phô-côn. Hôm ấy trong phòng ăn, không có ai mặc áo dòng, vì Đức Hồng y không còn nữa.

 + Năm 1982, tôi đến nhà thờ Cây Quéo thì được thấy cha sở mặc áo đòng bạc màu đang tà tà đạp xe cọc cạch trên đường. Ngồi sau yên xe của ngài là một ông sư mặc áo cà sa vàng. Hình ảnh dễ thương quá chừng !...

--------------------------------------------------------------------------------

Bắc Ninh,... 1989

 Hôm nay mình đi Bắc Ninh vì tò mò muốn biết một vị giám mục miền Bắc có nhiều tư tưởng mới. Đức cha Tụng tiếp mình một cách thân tình. Mình hỏi thật nhiều. Đức cha Tụng sẵn sàng trả lời nhiều hơn mình hỏi. Nhưng mình chỉ ghi lại những câu mình thích nhất thôi.

 + Vì hoàn cảnh chiến tranh, chúng tôi không được biết thấu đáo về Vaticanô II. Nhưng chúng tôi cứ theo lương tâm mình mà suy nghĩ và hành động. Sau khi đất nước hòa bình, chúng tôi mới có được đầy đủ tài liệu về Vaticanô II. Chúng tôi rất vui vì những gì mình đã nghĩ và làm, không ngờ lại rất phù hợp với Vaticanô II.

 + Chúng tôi chủ trương: tương quan giữa mọi thành phần của Giáo hội phải là Fraternité (huynh đệ). Muốn có Fraternité, thì phải có Égalité (bình đẳng). Các linh mục làm việc cho Giáo hội, được Giáo hội bảo đảm về đời sống vật chất. Người giáo dân làm việc cho Giáo hội thì cũng phải được bảo đảm về vật chất như thế. Đó là Égalité và nhờ đó sẽ có Fraternité.

 + Chúng tôi chủ trương: linh mục chỉ làm những công tác thuộc phạm vi chức năng của mình. Những gì không liên quan đến bí tích, thì trao hết cho giáo dân.

 + Chúng tôi không quan tâm đến việc xây cất cơ sở vật chất, để lo xây dựng con người. Chúng tôi cho giáo dân đi học y khoa, kiến trúc, giáo dục... để sau này họ phục vụ đồng bào.

 + Chúng tôi chủ trương: Linh mục không xây nhà thờ bằng gỗ đá. Công việc này sẽ do giáo dân làm. Linh mục chỉ xây dựng thánh lễ misa thôi. Và chỉ bấy nhiêu thôi, linh mục xây dựng suốt đời cũng chưa xong.

 Mình ghi nhận những lời trên như những “lời vàng”. Đó là tư tưởng của Vaticanô II. Mong rằng những tư tưởng ấy mau chóng trở thành hiện thực.

 --------------------------------------------------------------------------------

Sơn Tây,... 1990

 Hôm nay có chừng bốn chục cựu tu sĩ họp mặt. Họ đến từ khắp giáo phận để dâng công xây Tòa Giám mục. Có mặt thì họp mặt. Anh nào cũng hăng hái bàn về Vaticanô II.

 - Phải canh tân mới được, chịu hết nổi rồi. Chúng ta đã ăn cơm nhà Đức Chúa Trời, thì bây giờ phải trả ơn.

 - Các Đấng cứ coi bọn chúng mình là "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba thầy xuất”, thì còn làm ăn gì được. Các cha mới canh tân Giáo hội… Còn chúng mình thì cứ theo đóm ăn tàn là xong. Point final (chấm hết).

 - Thì có thấy đấng nào canh tân đâu ? Trước sao, sau vậy. Vẫn như cũ ! “Chẳng canh tân cũng được rỗi linh hồn" các đấng bảo vậy.

 - Nếu cuộc canh tân không bắt đầu từ trên, thì bắt đầu từ dưới. Thánh Phanxicô Khó khăn có phải là giáo phẩm, giáo sĩ gì đâu, thế mà ngài đã làm cách mạng canh tân Giáo hội đấy. Nếu các đấng không canh tân, thì chúng mình canh tân. Đi từ dưới di lên. (Vỗ tay).

 Mình nghĩ bụng: Anh chàng này nói hay quá. Tư tưởng đã hay, lại còn dẫn chứng lịch sử nữa. Tuyệt ! Quả vậy, chính tư tưởng của Vaticanô II cũng đã manh nha từ những cá nhân, những nhóm thiện chí có trước Công đồng. Thời Công vụ Tông đồ, giáo dân Antiôkia đã có ý tưởng và sự nghiệp truyền giáo cho lương dân trước cả các tông đồ (Cv 11, 19-26).

 Mình còn nhớ tháng 11-1974, trong cuộc họp về truyền giáo tại Nha Trang, ai nấy đều thắc mắc rằng: Tại sao trong khi ai nấy đều nghĩ mình phải xưng hô với Chúa là “con” và “chúng con” thì mới khiêm tốn và thân tình, thế mà Ban Phụng vụ của HĐGM lại bắt xưng hô "tôi" và “chúng tôi" như cũ !

 Chừng đó bí mật được bật mí rằng: "Tại Đức cha Hoàng Văn Đoàn. Ngài lý luận rằng theo nguồn gốc tiếng Việt thì “tôi" là tôi tớ. Phải xưng "tôi" với Chúa mới là khiêm tốn và đúng địa vị. Chẳng ai dám cãi với ngài, vì ngài chuyên về ngôn ngữ học. Như thế thì không thuận tình và thuận lý, nên có tình trạng sình bụng đòi xì hơi. Cách xưng hô “con” với Chúa cứ âm thầm lan tràn, ngược lại với luật của bề trên.

 Bây giờ thì “con” đã thay thế "tôi" một cách chiùnh thức rồi. Kết quả này là của cuộc cách mạng từ dưới đi lên đấy.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

--------------------------
 
 

PiôHậu 54. NGƯỜI BIỆT PHÁI CẦU NGUYỆN


 Cần Thơ, ... 1971
 
 

Hôm nay Thu Thủy tặng mình cuốn “Đời sống tốt đẹp” của giáo sư Lâm Ngữ Đường. Thấy tên tác giả: PiôHậu 54


Hôm nay Thu Thủy tặng mình cuốn “Đời sống tốt đẹp” của giáo sư Lâm Ngữ Đường. Thấy tên tác giả, mình sáng mắt lên, vì hồi còn học ở Chủng viện, mình đã được các thầy giới thiệu Lâm Ngữ Đường như một nhà trí thức lớn. Là giáo sư Đại học Thượng Hải, nhưng tên tuổi của ông đã vang dội ở Âu châu.

Trước khi xếp giờ để ngốn trọn vẹn cuốn sách, mình đọc kỹ từng khúc… Tình cờ mình thấy Lâm Ngữ Đường cầm cuốn Thánh Kinh. Thế là mình dừng lại ở khúc này.

Lâm Ngữ Đường mê đi tìm chân lý. Ông nghiên cứu đạo Lão, đạo Khổng, đạo Phật và cuối cùng ông nghiên cứu Thánh Kinh. Hôm ấy ông đến nhà thờ. Sau lời cầu nguyện tự phát của người truyền đạo, Lâm Ngữ Đường bất bình và tự nhủ rằng: Người đạo Kitô ích kỷ lắm, cứ vơ Chúa vào cho mình, coi mình là hơn người ng­oại, làm như thể người ngoại không phải là con của Chúa như họ. Rồi Lâm Ngữ Đường thề với lòng mình rằng: “Từ nay tôi chỉ theo một đạo mà thôi, đạo làm người” . Thế là ông không đọc Thánh Kinh nữa...

Số là hôm ấy nhà truyền đạo cầu nguyện đại khái như sau:

“Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho con ơn Đức Tin, trong khi biết bao nhiêu người ngoại vẫn còn ngồi trong bóng tối sự chết”. 

Thái độ bất bình của ông Lâm Ngữ Đường trước lời cầu nguyện trên khiến mình chới với. Quả thật chính mình vẫn hằng cầu nguyện như thế. Cha linh hướng chủng viện cũng dạy mình cầu nguyện như thế. Ngài nói: "Các chú có thấy không, các chú được Chúa thương gọi vào đây để được học hành và rồi mai ngày các chú sẽ được bước lên bàn thánh, trong khi biết bao bạn bè cùng trang lứa với các chú giờ này còn đang chăn trâu ngoài đồng…” 

Bây giờ mình mới khám phá ra rằng Đức Giêsu đã chống lại não trạng cầu nguyện của mình và của ông truyền đạo nào đó ở Trung Quốc bằng dụ ngôn "Người biệt phái và người thu thuế" (Lc 18,9-14). 

Mình đã làm người biệt phái từ mấy chục năm qua mà không ngờ. Cám ơn ông Lâm Ngữ Đường nhé, bởi vì nhờ thái độ giận dữ của ông mà tôi giác ngộ để trở về với giáo huấn của Đức Giêsu, Thầy của tôi. Nhưng tôi cũng rất buồn vì chính con cái của Chúa đã làm ông mất một thời cơ để tìm gặp Đức Giêsu.

Để đền ơn ông và để đền tội thay cho ông truyền đạo nào đó mà ông đã gặp ở Trung Quốc, tôi xin kể hầu ông một câu chuyện, câu chuyện của đời tôi:

Năm 1968, chiến tranh đổ bom đạn xuống quê hương tôi như những trận mưa dai dẳng. Năm ấy tôi đang làm linh mục phụ tá tại nhà thờ Chánh tòa Cần Thơ.

Một đêm nọ, những tiếng nổ ục, ình, chát chúa làm tôi nhảy nhổm khỏi giường. Những lằn chớp nhức mắt đan chằng chịt trên bầu trời đen. Tất cả chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc thật ngắn ngủi, không tới mười phút. Dường như chính thần chết cũng rất sợ chết, nên chỉ hối hả múa một đường kiếm lửa rồi chuồn thẳng. Tôi lại nằm xuống và chờ xem có tiếng chuông báo mời đi kẻ liệt hay không. Tất cả chỉ là im lặng. Tôi lại chìm vào giấc ngủ... 

Sáng hôm sau, giáo dân đi dự lễ đông hơn thường lệ. Sau thánh lễ bà con không âm thầm ra về như mọi khi, mà ở lại nói chuyện với nhau ở sân nhà thờ. Có vài giọng nói oang oang:

- Đêm rồi tôi thấy có một bà mặc áo trắng đứng ở trên không, cứ nghe ục một cái, thì thấy bà lại khoát tay một cái. Sau đó là nghe ình một cái ở bên xóm Cao Đài. 

- Đúng là Đức Mẹ gìn giữ họ đạo mình rồi. Pháo nhiều như thế mà xóm đạo không bị một trái nào. Tất cả đều rớt xuống xóm Cao Đài. 

- Tội nghiệp xóm Cao Đài. Bị thương và chết bộn à ! 

- Hôm nay chúng mình nên đến từng nhà quyên tiền xin các cha dâng một thánh lễ trọng thể để tạ ơn Đức Mẹ. 

Ông Lâm Ngữ Đường ạ, tôi thật tình thông cảm với số phận không may của anh em xóm Cao Đài. Nhưng tôi bận chia vui với tín đồ của tôi mà đã quên không đi thăm và ủy lạo anh em Cao Đài xấu số… Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy xấu hổ quá. Tôi là linh mục nhưng tôi thấy mình cũng ích kỷ như nhận xét của ông: "Người đạo Kitô ích kỷ lắm, cứ vơ Chúa vào cho mình...” . Ông tha thứ cho tôi nhé !

-----------------------------

Kinh Bảy,…. 1994

Sáng nay cha xứ nhờ mình giúp các giảng viên giáo lý một giờ.

- Chú cho mình đề tài đi. 

- Bác muốn nói gì thì nói. 

- Nói bao nhiêu phút ? 

- Nói suốt ngày cũng được. 

Mình đành chọn đề tài: “Sứ mạng người giảng viên giáo lý là trình bày Đức Giêsu một cách trung thực” . Mình cảnh giác họ:

- Coi chừng kẻo chúng ta lại rao giảng một Đức Giêsu đã bị bóp méo, hoặc bị cắm thêm râu ria. Coi chừng kẻo chúng ta lại dạy các em cầu nguyện giống như ông biệt phái trong Tin Mừng theo Thánh Luca. Ông biệt phái tạ ơn Chúa vì ông không gian dối, trộm cắp, ngoại tình; mỗi tuần ăn chay hai lần; vẫn đều đều nạp thuế thập phân cho đền thờ... Tạ ơn Chúa như vậy là hay lắm đấy. Sống được như thế là tuyệt vời rồi đấy. Nhưng... tất cả đều bị Chúa đổ xuống sông hết, chỉ vì ông ấy thêm một câu vào lời cầu nguyện tuyệt vời kia: “Con không giống như người thu thuế kia”. 

Một anh giảng viên có khuôn mặt vuông, râu ria lún phún và có giọng nói khào khào giơ tay xin góp ý:

- Thưa cha, chúng con chỉ dạy theo tài liệu có sẵn. Các đấng bề trên đã soạn sẵn cả những lời cầu nguyện cho các em rồi, chúng con cứ như thế mà theo. Chính trong tài liệu cũng có một lời cầu nguyện giống như cha đã nói. Các em cám ơn Chúa vì các em được Chúa thương ban ơn đủ thứ hơn tất cả các em ngoại giáo... 

Mình không đòi tài liệu để thấy bằng chứng cụ thể, vì mình tin là anh giảng viên ấy nói thật. Mình chỉ buồn vì hôm nay vẫn còn có nhiều người đang đi vào vết xe của mình ngày xưa.

Ông biệt phái vẫn đứng đó, giữa cung thánh, giang hai tay lên trời...

Ông biệt phái ơi ! Ông oai hùng quá ! Ngày xưa Chúa đã quật ngã ông ngay trước mặt người thu thuế. Ngài cho ông ăn "điểm hột vịt" khi Ngài nói: “Người này ra về và không được công chính hóa”. 

Còn người thu thuế, Chúa cho điểm cao khi Ngài nói: “Người này ra về và đã được tha tội” . Chúa cho điểm, đồng thời cho nhận xét: “Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống”. Ông bị Chúa quật ngã, nhưng ông lại đứng lên và ông đang đứng hiên ngang trong lòng tôi, trong lòng anh em tôi. Thì ra trong tôi đã có men biệt phái của ông. Và bây giờ thì tôi đã hiểu. Tôi xin mời ông ra đi vĩnh viễn ông nhé !

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

--------------------------

 

PiôHậu 55. LÒNG KHIÊM TỐN LÀ CHỨNG TÁ TIN MỪNG


Sài Gòn, 1-4...
 
 

Mình được mời về Sàigòn giảng Mùa Chay. Đề tài tự do. Mình chọn đề tài truyền giáo. Nhà thờ: PiôHậu 55


Mình được mời về Sàigòn giảng Mùa Chay. Đề tài tự do. Mình chọn đề tài truyền giáo. Nhà thờ đông nghẹt giới trẻ. Mặt mũi sáng sủa. Áo quần model. Mùi nước hoa phảng phất.

Đề tài hôm nay: Truyền giáo là bản chất của Giáo hội. Mình duyệt lại lịch sử Giáo hội và nghiệm ra rằng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVI, Giáo hội gần như không còn đến với lương dân nữa. Âu Châu đã được nghe Tin Mừng. Phía Bắc chỉ còn hải cẩu và băng tuyết. Phía Tây và Đại Tây Dương, lúc ấy ngành hàng hải chưa vượt qua được. Phía Đông và phía Nam là hai bức tường Hồi giáo. Không còn đi đến với lương dân nữa, Giáo hội quay về củng cố nội bộ. Nhưng vì đánh mất bản chất, Giáo hội càng củng cố nội bộ chừng nào thì càng lủng củng chừng nấy.

 - Chính trong thời này, nhiệm thể Chúa Kitô bị chia thành bốn khúc: Công giáo, Chính thống, Tin lành và Anh giáo.

 - Ngoài ra cơ cấu lãnh đạo còn bị chính trị và các gia đình thế lực chen vào làm mất phẩm chất. Sự hư hỏng không phải chỉ có ở cấp dưới mà có ngay ở cấp cao nhất.

 - Lòng đạo đức của giáo dân sút kém. Người ta sống trong thời Tân Ước mà như trong thời Cựu Ước. Thiên Chúa đáng sợ hơn đáng yêu. Dòng chiêm niệm cũng sa sút. Dòng kín trở thành dòng hở. Mẹ Têrêxa Avila phải đứng ra cải tổ hơn 40 dòng kín. Mẹ phải đương đầu với bao lực lượng chống đối, thậm chí có lần bị giáo dân bao vây, chụp mũ lạc giáo, và đòi lôi cổ đưa lên giàn hỏa thiêu.

 - Tòa án tôn giáo đưa lên giàn hỏa thiêu những người lạc giáo. Một việc làm không phù hợp với Phúc âm và ngày nay bị coi là vi phạm nhân quyền.

 - Gần hai thế kỷ tuốt gươm chống người Hồi giáo (1096-1270). Điều này không phù hợp với giáo huấn của Chúa khi Ngài dạy Phêrô “Hãy xỏ gươm vào bao”. Ngoài sai lầm trên, cuộc chiến tranh này còn gặp thất bại về nhiều mặt khác. Bảy cuộc chiến thì thập tự quân chỉ thắng hai và thua năm. Thập tự quân cũng biết cướp bóc và hãm hiếp. Các vua Anh- Pháp - Đức tham chiến thì giành ảnh hưởng với nhau, khoèo giò nhau. Hơn 30.000 thiếu niên vì cuồng tín, đã đòi vượt Địa Trung Hải qua Đất Thánh để đánh quân Hồi nhưng không một em nào trở về.

 Cuối cùng là hậu quả hận thù giữa Công giáo và Hồi giáo kéo dài cho đến nay, khiến chưa có được một cuộc đối thoại tốt đẹp nào giữa hai tôn giáo này.

 Sau bài giảng của mình, một thính giả đụng đầu với cha sở ngay tại cửa nhà thờ, ông tỏ vẻ bất bình và than rằng: "Giảng như thế là thất bại, người giáo dân chưa trưởng thành đủ để nghe những sự thật ấy" . Mình giơ tay đầu hàng và thưa với Chúa rằng:

 “Lạy Chúa, tại sao giáo dân vẫn chưa trưởng thành ? Tại sao giáo dân vẫn còn chưa hiểu mình yếu đuối để thấy sức mạnh của Chúa ? Có cần phải đặt lại nền giáo dục cho giáo dân không ? Giáo dục bưng bít có phải là giáo dục lành mạnh không ?”.
--------------------------------------------------------------------------------

Sài Gòn, 2-4...

 Sáng nay ông Chủ tịch Hội Đồng Giáo xứ đến gặp mình. Ông kể rằng:

 - 4 giờ sáng con đã thức dậy để chuẩn bị đi kiếm người giúp tuần phòng. Bà xã con nằm trong mùng hỏi vọng ra:

 - Anh đi đâu mà sớm thế ?

 - Anh đi "lo việc cho cha ta".

 - Anh không nghe bài giảng hôm qua sao ? Đức Giáo Hoàng còn chả ra gì huống hồ là các cha của anh.

 Mình hiểu rằng có một luồng gió mạnh đang thổi khắp họ đạo. Có những niềm tin đang rụng lá.

 Cha sở không phát biểu gì. Mình ái ngại nhìn ông. Sự im lặng của ông giống như mảnh đất hoang có gài mìn. Bất giác mình phải lên tiếng:

 - Anh có ý kiến gì về bài giảng của mình sáng hôm qua không ?

 - Có thắc mắc mới có vấn dề. Gây được thắc mắc là bắt đầu thành công rồi. Cậu cứ tiếp tục giảng đi.

 Mình nghĩ bụng: Ông cha sở này khôn quá, ông không hề đá động đến nội dung của bài giảng. Ông vẫn đứng bên ngoài và đứng quan sát cả cha giảng phòng lẫn giáo dân của ông. Ông nói mà như vẫn im lặng. Mảnh đất hoang vẫn bị nghi ngờ có gài mìn.

 Bài giảng chiều nay: Giáo dân truyền giáo thế nào trong 20 thế kỷ qua. Mình đúc kết lịch sử truyền giáo của giáo dân như sau:

- Thời Công vụ Tông đồ là thời vàng son của giáo dân. Mỗi người đều rao giảng: Philíp, Xtêphanô, vợ chồng Prixkilla, Apollô. Tại Antiôkia, giáo dân là những người đầu tiên có sáng kiến loan báo Tin Mừng cho lương dân. Khi đã thành công, các Tông đồ ở Giêrusalem mới phái Barnaba tới để quan sát. Trong thơ Rôma, thánh Phaolô nhắc đến tên một lô giáo dân, trong đó có hàng chục người phụ nữ. Những người này đã đồng lao cộng tác với ngài trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (Rm 16,1-15).

 - Sang thời Giáo phụ thì địa vị giáo dân tụt xuống và bị định nghĩa: ”Giáo dân là những đứa con nít cần phải canh chừng”

 - Sang thời Trung Cổ giáo dân chỉ còn là một giai cấp tùng phục.

 - Phải chờ tới Đức Piô Xl, người giáo dân mới bắt đầu tìm lại được địa vị và công tác của mình. Nhưng với câu định nghĩa sau đây của Đức Piô Xl, người giáo dân mới chỉ được vực từ thế nằm sang thế ngồi: “Công giáo tiến hành là việc giáo dân tham dự vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm dưới quyền lãnh đạo của hàng Giáo phẩm”.

 - Phải chờ đến Vatican II, người giáo dân mới thực sự đứng dậy và đi hàng đầu trong công tác loan báo Tin Mừng.

 Sau bài giảng, một ông bạn sồn sồn đến tâm sự rằng:

 - Vatican II đề cao giáo dân. Ban đầu con tưởng rằng vì thiếu linh mục và tu sĩ, nên Giáo hội mới mị giáo dân như thế. Bây giờ thì con hiểu rằng Giáo hội đã chân thành xác nhận địa vị của giáo dân trong công tác truyền giáo, đó là ơn soi của Thánh Thần.
 --------------------------------------------------------------------------------

Sàigòn, 3-4...
 Chiều nay mình kết thúc tuần phòng bằng đề tài: "Thánh Thần trong công tác loan báo Tin Mừng" . Trước khi vào đề, mình gởi tới thính giả một lời tâm sự:

 -"Tôi rất buồn vì bài giảng đầu tiên của tôi làm một số người trong anh chị em bất bình, một số khác bị lung lay về đức tin. Tôi xin lỗi, nhưng tôi không rút lời. Sự thật thì anh chị em đã nghe biết nhiều chuyện còn động trời hơn:

 + Thứ nhất: Đức Giáo hoàng Phêrô đã run sợ trước một đứa con gái gác cổng mà đã chối Chúa một lần. Rồi sau đó Ngài còn chối Chúa thêm hai lần nữa.

 + Thứ hai: Có một vị Giám mục hay ăn cắp tiền của tập thể rồi cuối cùng đã thắt cổ tự tử. Đó là Đức cha Giuđa Ixcariốt mà anh chị em vẫn quen miệng gọi là thằng Giuđa.

 Những chuyện tiêu cực như thế không nên làm ta nản lòng. Tốt hơn chúng ta hãy từ đó khám phá ra sức mạnh của Thánh Thần trong Giáo hội".

 Có nhiều cái đầu gật gù tỏ vẻ đồng ý. Nhiều bà nhiều chị mỉm cười đắc ý. Mình an tâm và trình bày về sức mạnh của Thánh Thần trong công tác loan báo Tin Mừng.

 Quả thật đến bây giờ ngồi viết lại những điều này mình mới hiểu lời Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu Độ”. Bên cạnh chứng tá bác ái Kitô giáo, Ngài còn nói đến một chứng tá mới đó là khiêm tốn nhìn nhận sự hèn yếu của mình trong phạm vi cá nhân cũng như tập thể .

 Bây giờ mình mới hiểu thấm thía điều đó. Có lẽ trong cuộc đời rao giảng của Thánh Phêrô, không có lời nào có sức thuyết phục cho bằng lời kể về những lần ngài chối Chúa. Có lẽ bài giảng làm nhói tim thính giả của thánh Phaolô chính là lời kể về những lúc ngài bắt bớ tàn nhẫn các tín đồ của Chúa. 

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

--------------------------
 
 

PiôHậu 56. ĐẾN VỚI NGƯỜI NGHÈO


 Cà Mau, ….1990
 
 

 Hôm nay mình kết thúc chương trình giáo lý dự tòng cho Thúy Linh. Mình đã dạy Thúy Linh 40 bài: PiôHậu 56


Hôm nay mình kết thúc chương trình giáo lý dự tòng cho Thúy Linh. Mình đã dạy Thúy Linh 40 bài. Những buổi học đầu tiên Linh lo ra thật nhiều. Dường như cô bé đi học Giáo lý là để biểu diễn thời trang. Mỗi lần đi học, cô mặc một bộ đồ mới, kẹp tóc một kiểu mới. Lần nào cũng son phấn. Lần nào cũng xức dầu thơm. Dần dần cô bé tỏ ra ngoan hơn, đơn sơ hơn... Bây giờ thì không còn son phấn nữa, ăn mặc bình dị và tiếp thu bài một cách nghiêm chỉnh. Sau kinh Sáng Danh và lời giã từ, Thúy Linh móc trong túi xách ra một bọc đồ, đặt trên bàn.

 - Con biếu cha một bộ đồ. Nói xong nàng ra về.

 Lớp giáo lý được kết thúc như thế đó.

 Mình đã dạy hàng ngàn người dự tòng rồi, Thúy Linh là người đầu tiên có sáng kiến "biết ơn thầy". Xách gói quà về phòng, mình cảm thấy vui vui.

 Trước khi đi ngủ mình soạn bài Phúc Âm ngày mai. Luca kể chuyện Chúa Giêsu vào nhà ông Giakê. Ông thưa với Chúa:

 - Con xin hiến một nửa gia tài cho người nghèo.

 Mình thấy lạnh ở cột sống...

 Ủa tại sao Thúy Linh không hứa với mình là sẽ giúp người nghèo một bộ đồ ? Và tại sao Giakê lại không biếu Chúa vài lượng vàng nhỉ ? Mà lại thay thế món quà ấy bằng một nửa gia tài cho người nghèo ?

 Niềm vui của Chúa là thấy người nghèo được giúp đỡ, còn niềm vui của mình là được tặng quà.  Mình cảm thấy xấu hổ. Khi giảng giáo lý mình vẫn khuyên học viên yêu thương và kính trọng người nghèo, nhưng có lẽ mình chưa nhấn mạnh đủ và cũng chưa bày kế để họ giúp đỡ người nghèo. Có lẽ mình sống gần người giàu hơn ng­ười nghèo. Có lẽ mình yêu thương ng­ười giàu hơn người nghèo. Người nghèo thường xuyên là gánh nặng đè trên vai mình, nên mình không có hứng thú để dạy Thúy Linh tận tình yêu thương và giúp đỡ họ. Chắc Thúy Linh cũng không hứng thú gì nếu phải đem gói quà này tặng cho người nghèo thay vì cho mình.

 “Giáo hội của người nghèo” phải như thế nào nhỉ ?

 Mình tắt đèn đi ngủ, lòng nặng trĩu ưu tư.

 --------------------------------------------------------------------------------

Hiền Quan, ...1989

 Hôm nay mình về thăm quê sau 37 năm xa cách. Quê mình còn nghèo quá.

 Sau thánh lễ đầu tay tại quê hương, mình gởi lời chào bà con. Lời chào được kết thúc như sau:

 - Tôi về quê với hai bàn tay trắng, không có một cái kẹo cho các cháu. Nhưng tôi xin tặng bà con một quả tim và một cây bút...

 Trên đường từ nhà thờ về nhà xứ, một đứa em rể ba đời nói nhỏ bên tai mình:

 - Anh không có cái gì cho người ta, thì khi anh nói, ai mà nghe !

 Câu nói thật chân thành và thực tế thốt ra từ miệng một đứa em rể chưa hề biết Chúa là ai, cũng chưa hiểu thế nào là cái nghèo của linh mục. Câu nói ấy làm mình suy nghĩ mông lung:

 1- Tại sao quê mình nghèo ?

 Có nhiều lý do. Có những lý do mà chẳng ai dám nói ra. Nhưng một trong những lý do có thể nói ra đó là dân số gia tăng khủng khiếp. Hồi mình còn bé, xóm đạo quê mình chỉ có trên 200 nhân danh, bây giờ đã lên đến 1000 rồi. Vậy mà diện tích trồng trọt không những không gia tăng mà còn giảm đi để làm đất thổ cư. Kỹ thuật canh tác vẫn còn là con trâu và cái cày ! Việc điều hòa sinh sản có ý nghĩa gì đối với xóm đạo. Sinh nhiều con thì thêm nhiều người thờ Chúa ở đời này và thêm nhiều người hưởng­ phước thiên đàng đời sau. Người ta vẫn nói với nhau như thế, vì cha xứ vẫn dạy giáo dân như vậy. Người Kitô hữu chỉ nhìn vấn đề dân số một cách giản dị như thế sao ? Và những người con của Chúa được quyền sống lạc hậu và nhếch nhác như thế sao ?

 2- Tại sao mình sống nghèo ?

 Có một ông bạn nói một cách mạnh mẽ rằng: "Nếu Giáo hội nghèo, thì lấy gì mà giúp đỡ người nghèo ?" . Mình vẫn sợ câu nói ấy. Quả thật nghèo là một cái tội. Nghèo sinh ra bần tiện. Nhưng là linh mục, mình cũng rất sợ giàu sang. Sống nghèo, mình thấy yên tâm hơn. Nhưng nghèo như mình thì có ích gì cho người nghèo ? Nghèo như mình, thì tiếng nói có còn giữ được trọng lượng không ? Dù sao thì mình vẫn chọn con đường nghèo khó. Phêrô chẳng có tiền bạc để giúp đỡ người hành khất què, nhưng ông vẫn hữu ích tuyệt vời và tiếng nói của ông vẫn như thần thánh.

 3- Chắc chắn nhiều ước mơ bị vỡ mộng.

 Người ta nghĩ rằng mình về thăm quê thì ít ra cũng phải tặng họ đạo một cây orgue, hoặc một cái ampli. Thế mà hôm nay: một viên kẹo cho các cháu cũng không có. Người ta hiểu tấm lòng của mình không? Hay người ta nghĩ rằng mình keo kiệt?  “Các cha thì thiếu gì tiền”. Người ta vẫn nói như thế. Quả thật mình mang mặc cảm đã đem về quê hương một nỗi tuyệt vọng. Rồi sau lưng mình người ta bàn tán thế nào ? Thôi kệ, mình cứ tặng bà con những bài giảng, những buổi ngồi tòa triền miên. Còn tiền bạc thì ngoài tầm tay của mình.
--------------------------------------------------------------------------------

Cà Mau, ...1988

 Hôm nay anh Ba Mẫn trao cho mình một tài liệu của Thượng Hội đồng Giám mục 1987.

 - Anh Tám đọc đi xem có gì hay, thì chia sẻ với anh em.

 Mình đọc lướt qua bỗng vấp phải lời phát biểu của vị đại diện Mỹ châu Latinh: “Người nghèo rao giảng Tin Mừng cho người nghèo. Đó là kinh nghiệm tuyệt vời của chúng tôi. Chỉ người nghèo mới hiểu hết ý nghĩa của thập giá…”

 Vị đại diện Mỹ châu Latinh không những hãnh diện giới thiệu kinh nghiệm truyền giáo của xứ mình bằng hình dung từ "tuyệt vời" mà còn hung hăng đến mức thách đố: "Nếu Giáo hội không cảm nghiệm được điều đó, thì vấn đề truyền giáo hôm nay chẳng có gì là mới mẻ cả”.

 Về Mỹ châu Latinh, mình đã đọc Têrêda, Cacao, Đất Dữ mà mình chỉ thấy ở đó có một cái nghèo đáng nguyền rủa, một quần chúng nghèo đáng tội nghiệp. Hôm nay lại thấy một đoàn người nghèo đi rao giảng cho người nghèo và được tôn vinh là tuyệt vời. Tại sao thế ?

 Trước hết đoàn Tông đồ của Chúa chẳng phải là người nghèo:

 Phêrô có cơ sở làm ăn ở Caphácnaum, chắc hẳn cũng tương đương với một chủ hàng đáy ở vùng Minh Hải này. Anrê cũng làm ăn với ông. Gia đình ông Giêbêđê cũng có một cơ sở làm ăn khá lớn. Đã có ba lao động là ông, Gioan, và Giacôbê, vậy mà ông vẫn phải mướn thêm nhiều người nữa (Mc 1,20).

 Chúa có rất nhiều người thân, vừa hằng tâm, vừa hằng sản như bà Gioanna vợ của ông quản lý nhà vua, bà Maria mẹ của Gioan Marcô giàu sang như một "bà lớn", gia đình Bêtania cũng rất giàu có.

Nhưng một điều rất chắc chắn là trên đường truyền giáo họ không được quan tâm đến tiền bạc mà chỉ lo rao giảng. Họ phải có tinh thần nghèo, nghĩa là chỉ coi tiền bạc là phương tiện truyền giáo. Bản thân họ thì không hưởng thụ, nghĩa là họ sống nghèo thật sự.

 Kinh nghiệm của các nhà truyền giáo cho thấy người nghèo đón nhận Tin Mừng một cách chân thành, còn người giàu vì đã no đủ vật chất, nên chưa cảm thấy thiếu thốn, chưa cảm thấy cần Chúa.

 Người nghèo một khi đã thấm nhuần đức tin và đi loan báo Tin Mừng thì họ sẽ trình bày cây thập giá của Chúa bằng lời, bằng cuộc đời, bằng kinh nghiệm bản thân họ. Họ đã hiểu hết ý nghĩa của từ nghèo trong Tin Mừng.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------
 
 

PiôHậu 57: Kính gửi đến quý ÔBACE

 

Kính gửi đến quý ÔBACE, đặc biệt những ai đang cảm thấy buồn sầu, thất vọng và đang bị suy PiôHậu 57


Kính gửi đến quý ÔBACE, đặc biệt những ai đang cảm thấy buồn sầu, thất vọng và đang bị suy sụp, bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxico trong thánh lễ tại Tacloban, Phillipines; nơi đã gánh chịu thiệt hại nặng nhất do cơn bão Hải Yến (Haiyan) gây ra cách đây 14 tháng.
Với những chia sẻ từ chính trái tim của Người Mục tử nhân lành dành cho con chiên của Ngài. Thiết nghĩ bài giảng này không chỉ dành riêng cho những nạn nhân của siêu bão Hải Yến mà còn dành cho tất cả chúng ta, những con người hữu hạn, nhất là những lúc chúng ta nghĩ rằng mình mất tất cả như những nạn nhân của siêu bão Hải Yến. Kính mời quý ÔBACE cùng cảm nghiệm, ước mong mỗi chúng ta sẽ được vững mạnh thêm trong tình yêu của Thiên Chúa.

P.S. Trong bài post đã thay đôi đại từ "tôi" thành "Cha" so với bản dịch gốc.

Nguyên văn bài giảng của Đức Thánh Cha như sau:

“Chúng ta có một vị thượng tế, Đấng có khả năng cảm thông với những yếu đuối của chúng ta. Đức Giêsu giống như chúng ta. Đức Giêsu đã sống y hệt chúng ta và giống như chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi vì Người không phải là tội nhân. Nhưng để giống chúng ta hơn, Người đã nhận lấy điều kiện và thân phận tội lỗi của chúng ta. Người đã tự xếp mình vào hàng tội nhân. Đây là điều Thánh Phaolô đã nói với chúng ta. Đức Giêsu luôn đi trước chúng ta và khi chúng ta trải qua một kinh nghiệm, một thập giá, Người đã trải qua tất cả những điều đó trước chúng ta rồi. Và nếu hôm nay, chúng ta hiện diện nơi đây sau 14 tháng, chính xác là 14 tháng sau cuộc hoành hành của siêu bão Haiyan, đó là bởi vì chúng ta biết chắc rằng đức tin của chúng ta sẽ không suy yếu vì Đức Giêsu đã ở đây, trước chúng ta. Trong cuộc thương khó của mình, Đức Giêsu đã nhận lấy hết mọi nỗi đau khổ của chúng ta. Vì thế, Người có thể hiểu chúng ta, như chúng ta nghe thấy nơi bài đọc một.

Cha xin chia sẻ với anh chị em những tâm tình từ con tim Cha. Ở Roma, khi Cha nhìn thấy tai ương này xảy đến với anh chị em, Cha đã cảm thấy là Cha phải đến đây. Trong những ngày đó, Cha quyết định sẽ đến đây. Và Cha đang ở đây với anh chị em, hơi trễ một chút nhưng Cha đang ở đây. Cha đến để nói với anh chị em rằng Đức Giêsu là Đức Chúa. Và Người không bao giờ khiến chúng ta suy sụp. Anh chị em có thể nói: “Nhưng thưa cha, con đã rất suy sụp vì con đã mất rất nhiều thứ, nhà cửa, kế sinh nhai.” Sự thật là thế nếu anh chị em chia sẻ với Cha như vậy và Cha tôn trọng những tâm tình của anh chị em. Nhưng Đức Giêsu đã ở đó, bị đóng đinh trên thập giá và từ đó, Người không để chúng ta suy sụp. Người đã được thánh hiến như là Đức Chúa với vương quyền và ở đó Người trải nghiệm tất cả những nỗi thống khổ mà chúng ta trải qua. Đức Giêsu là Đức Chúa. Và Đức Chúa từ cây thập giá đang ở đó vì anh chị em. Giống y hệt như anh chị em trong mọi thứ. Đó là lý do vì sao chúng ta có một Đức Chúa đã khóc với chúng ta và bước đi với chúng ta trong những khoảnh khắc khó khăn nhất của cuộc sống.

Nhiều người trong anh chị em đã mất tất cả. Cha không biết phải nói gì với anh chị em. Nhưng Chúa thì biết sẽ nói gì với anh chị em. Một số trong anh chị em đã mất đi người thân trong gia đình. Tất cả những gì Cha có thể làm là giữ thinh lặng và bước đi cùng với anh chị em với con tim thinh lặng của Cha. Nhiều người trong anh chị em đã hỏi Chúa – Tại sao vậy Chúa? Và với từng người trong anh chị em, từng con tim, Đức Kitô trả lời bằng con tim của Người trên thập giá. Cha không có lời nào hơn dành cho anh chị em. Chúng ta hãy nhìn lên Đức Kitô. Người là Đức Chúa. Người hiểu chúng ta vì Người đã trải qua tất cả những thử thách mà chúng ta, chính anh chị em, đã trải qua. Và đứng bên cạnh thập giá là Mẹ của Người. Chúng ta hệt như đứa con nhỏ trong những khoảnh khắc đau đớn và không thể hiểu được gì nữa. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là nắm lấy tay Mẹ thật chặt và nói “Mẹ ơi” – giống như một đứa bé thường làm khi sợ hãi. Đó có lẽ là những lời duy nhất chúng ta có thể thân thưa trong những lúc khó khăn – “Mẹ ơi”.

Chúng ta hãy dành ít phút thinh lặng cùng nhau và cùng nhìn lên Đức Kitô trên thập giá. Người hiểu chúng ta vì Người đã chịu đựng mọi thứ. Hãy nhìn lên Mẹ của chúng ta và, giống như một đứa con thơ bé, chúng ta hãy nắm lấy tà áo của Mẹ và hãy thực lòng thân thưa “Mẹ ơi”. Trong thinh lặng, hãy nói với Mẹ điều mà anh chị em đang cảm thấy trong lòng. Chúng ta biết rằng chúng ta có một người Mẹ là Mẹ Maria và một người Anh Cả là Đức Giêsu. Chúng ta không cô đơn. Chúng ta cũng có nhiều anh chị em nữa, những người đã đến giúp đỡ chúng ta trong những lúc gặp tai ương. Chúng ta cũng thế, chúng ta sẽ thấy mình giống như anh chị em của nhau hơn vì chúng ta biết giúp đỡ nhau.

Đây là những điều đến từ con tim Cha. Hãy tha thứ cho Cha nếu Cha không có được lời nào khác để diễn tả chính mình. Xin hãy biết rằng Đức Giêsu không bao giờ khiến anh chị em suy sụp. Hãy biết rằng sự hiền dịu của Đức Maria không khiến anh chị em suy sụp. Và khi nắm lấy tà áo Mẹ và với sức mạnh đến từ tình yêu của Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta hãy tiến tới, cùng bước với nhau như là những anh chị em trong Chúa.”

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
Nguồn: dongten.net/noidung/45116

----------------------------------

 

PiôHậu 58: Tản mạn về Vaticanô II


 Sài Gòn, ... 1962
 
 

Các nghị phụ thuyết trình bằng tiếng Latinh. Văn chương Latinh của các nghị phụ thì xuýt xoát PiôHậu 58


 “Các nghị phụ thuyết trình bằng tiếng Latinh. Văn chương Latinh của các nghị phụ thì xuýt xoát như nhau. Nhưng giọng Latinh của các ngài thì trời ơi đất hỡi. Nhất là khi các nghị phụ Mỹ thuyết trình, thì chỉ có Chúa nghe thôi. Vả lại mình đã có bản dịch tiếng Pháp cầm trong tay rồi, nên nghe hay không nghe cũng được. Ngồi lâu buồn ngủ, tôi xuống phòng giải khát được thiết lập ngay bên dưới những hàng ghế bậc thang. Không ngờ lại gặp một Đức cha người Pêru cũng vừa "cúp cua" xuống đây.

 Tôi đến nói chuyện với ngài. Ngài nói tiếng Tây Ban Nha,

 tôi không hiểu. Tôi nói tiếng Pháp, ngài không hiểu. Chúng tôi đành nói chuyện bằng tiếng Latinh, tiếng Latinh ba cọc ba đồng, nhưng cũng hiểu được nhau:

 - Địa phận của Đức cha có bao nhiêu dân ?

 - Một triệu rưỡi.

 - Trong số đó có bao nhiêu giáo dân ?

 - Thì một triệu rưỡi chứ còn gì. 100% mà !

 - Thế địa phận Đức cha có bao nhiêu linh mục ?

 - Mười ba, cộng với tôi là mười bốn.

 - ? !

 Tình hình Công giáo ở Mỹ châu Latinh là như thế đó. Phải có Công đồng để làm lại mọi sự".

 Gần một nửa dân số Công giáo thế giới nằm trong vùng Mỹ châu Latinh. Nhưng đạo ở đó èo uột như thế đấy. Có cần phải trở về quá khứ để duyệt lại phương pháp truyền giáo ở đó không nhỉ ?

--------------------------------------------------------------------------------
 Hà Nội,... 1993

 Hôm nay mình vô chủng viện Hà Nội. Tình cờ gặp lại cha Chí từ Sàigòn mới ra. Hồi còn học ở trường Hồ Ngọc Cẩn, cha Chí ngồi dưới mình một lớp. Gần bốn chục năm xa cách hôm nay gặp lại nhau, biết để đâu cho hết chuyện tâm sự. Chuyện nọ xọ chuyện kia. Loanh quanh một hồi, rồi đến chuyện Công đồng. Cha Chí kể:

 “Hôm ấy là một ngày mùa đông. Mùa đông bên ấy lạnh lắm, nên cửa kính đóng im ỉm. Đóng cửa kính, thì căn phòng ấm áp, nhưng… hôi lắm. Và hôm ấy Đức Gioan 23 đang tiếp kiến một vị Hồng y. Đức Giáo Hoàng ngỏ ý muốn mở Công đồng, Công đồng Vaticanô II. Đức Hồng y sửng sốt hỏi:

 - Đức Thánh Cha mở Công đồng để làm chi vậy ?

 - Để làm chi hả ? Đây này... (Đức Giáo Hoàng đứng dậy ra mở cửa sổ cho không khí trong sạch tràn vào). Đấy, thấy chưa ? Ngộp quá rồi mà !...”

 Không biết cha Chí kể chuyện thật hay chuyện tiếu lâm, nhưng chắc chắn là Giáo hội phải canh tân và đó là mục tiêu của Vaticanô II. Nhưng Vaticanô II bế mạc 30 năm rồi mà dường như công việc canh tân vẫn chưa đạt tiêu chuẩn. Tại sao ? Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trả lời dứt khoát trong Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu độ”.

 “Sứ vụ truyền giáo canh tân Giáo hội, tăng cường niềm tin và căn tính người Kitô hữu, đem lại diệu cảm mới và những động lực mới. Niềm tin càng mạnh khi đem chia sẻ" (SVĐCĐ, 2). Từ đó mình xác tín rằng: nếu Giáo hội không đến với muôn dân, thì Giáo hội không thể canh tân được; hoặc mọi công tác canh tân sẽ trở nên vô hiệu. Nếu không đến với muôn dân, Giáo hội sẽ mãi mãi là căn phòng mùa đông, cửa kính đóng im ỉm.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

----------------------------------

 

PiôHậu 59: CHÚA GIESU LÀ NGƯỜI QUÁ KHÍCH ?

W
 

Một anh sinh viên về quê ăn Tết. Chiếc balô con cóc lép kẹp dán sát vào lưng. Hắn thất thểu đi vào PiôHậu 59


Một anh sinh viên về quê ăn Tết. Chiếc balô con cóc lép kẹp dán sát vào lưng. Hắn thất thểu đi vào nhà xứ, y như người thất nghiệp đi kiếm thầy bói.

- Ông Cố ơi ! Ông Cố có rảnh không ?

- Con có chuyện chi vậy ?

- Bạn con nó chê Chúa Giêsu đủ điều. Con trả lời không được. Ông Cố gỡ bí giùm con.

- Thử kể cha nghe coi.

- Nhiều lắm, con kể một hơi, rồi đến lượt ông Cố trả lời cho con nha.

1. Nó chê Chúa là bác ái quá khích: “Ai vả má ngươi bên phải, thì đưa cả má bên trái cho nó vả nữa”.

Nó bảo: “Ông Nguyễn Khắc Viện cũng chê Chúa là quá khích. Cái gì cũng phải vừa vừa thôi. Đạo Trung Dung của Nho giáo đúng hơn, thực tế hơn giáo lý của Chúa”.

2. Chúa đòi hỏi ta những điều quá đáng: “Ai không ghét cha mẹ, anh em, vợ con… vì Thầy, thì không xứng đáng là môn đệ của Thầy”.

Bộ môn đệ của Chúa toàn là bọn bất hiếu và phản bội thôi sao?

3. Chúa tự mâu thuẫn khi bảo rằng: “Thầy đến không phải để mang hòa bình đâu nhá. Thầy đến để mang gươm. Thầy đến để làm cho con trai chống cha, con gái chống mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng”.

4. Chúa dại thấy mồ. Con gái ông Giairô chết rồi, mà lại bảo là nó ngủ. Nói ngang nói ngược, để người ta chửi cho. Mà là đàn bà chửi mới đau chứ. Dại ơi là dại !

5. Chúa bảo: “Ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng, thì ngay bây giờ và ở đời này sẽ được gấp trăm về nhà cửa, ruộng vườn …”. Phi lý. Bộ bỏ một vợ để đi theo Chúa, thì sẽ có một trăm vợ hả ? Bỏ một cái nhà để theo Chúa, thì có một trăm cái nhà hả ? Chúa nói dóc không à.

- Hết thắc mắc chưa ?

- Chưa, nhưng mà con mệt quá rồi. Ông Cố cứ trả lời dùm con bấy nhiêu thôi đã.

- Được rồi. Ráng mà nghe. Ráng mà nhớ. Ăn Tết xong rồi về Sài Gòn, mà trả lời cho tụi nó.

1. Khi Chúa bảo: “Ai vả ngươi má bên phải, thì đưa cả má bên trái cho nó vả nữa”, thì chỉ là kiểu nói, mà văn chương gọi là “cường điệu” hay “thậm xưng”.

Bằng chứng cụ thể là khi tên vệ sĩ của thượng tế vả mặt Chúa, thì Chúa không những không đưa má kia cho nó vả, mà còn đặt vấn đề với nó:

- “Nếu tôi nói đúng, thì tại sao anh đánh tôi ?

- Còn nếu tôi nói sai, thì sai ở chỗ nào?”.

Phải hiểu ý Chúa, hơn là hiểu lời theo nghĩa đen. Hiểu và làm theo nghĩa đen có thể không là bác ái, mà là khiêu khích nữa.

Ví dụ một anh chồng xỉn rượu đánh vợ cái bụp. Cô vợ la lên: “Mày đánh nữa đi ! Mày đánh chết tao đi !”.

Như vậy là bác ái Kitô giáo ư ? Eo ơi ! Coi chừng đấy.

2. Theo Chúa mà phải ghét cha mẹ, vợ con ư ? Đó cũng là lối nói cường điệu đấy.

Ý Chúa chỉ muốn nói rằng: người theo Chúa thì phải đặt quyền lợi của Chúa trên quyền lợi của gia đình. Cả đương sự, lẫn thân nhân, đều phải hiểu và làm như vậy.

Chúa cường điệu cũng giống như cha mẹ ta cường điệu.

Mẹ la thằng cu Tí: “Mày phá như giặc vậy”. Không đúng, không đúng tí nào. Phá như giặc thì phải có đốt nhà, cướp của và hãm hiếp chứ. Eo ơi ! Mẹ nào nỡ tâm đánh giá con mình như thế ! Cường điệu đấy thôi.

3. Chúa đến mang hòa bình, tình thương và sự tha thứ. Vậy mà Người lại bảo là Người đến để gây chia rẽ. Eo ơi ! Làm gì có.

Nhưng chắc chắn là có nhiều người vì theo Chúa, mà bị thân nhân ghét bỏ.

Lúc ấy các tông đồ cũng đang bị thân nhân chê trách, chế giễu. Họ tưởng là theo Chúa để có xôi thịt. Ai ngờ chỉ có cây khổ giá. Vỡ mộng. Tủi lắm ! Chúa nói thế để an ủi họ, để họ hiểu rằng Chúa không làm vua và chẳng ai trong bọn họ sẽ làm thủ tướng đâu.

4. Phải chăng Chúa lỡ lời khi nói với các bà phụ nữ đang khóc rằng: “Em bé có chết đâu. Nó ngủ đấy. Khóc làm chi ?”.

Cả Mátthêu, Máccô và Luca đều nói rằng: “Họ chế giễu Người”.

Họ là ai ? Là các bà. Các bà chửi thì ghê thật. Chúa làm bộ lỡ lời để cho người ta chửi, nhưng chỉ chửi hai phút thôi.

Khi thấy em bé sống lại thì ai chửi nhiều nhất, sẽ thương Chúa nhiều nhất, tin Chúa nhiều nhất và truyền giáo hăng say nhất. Lỗ hai phút, để lời muôn đời. Khôn ơi là khôn !

5. Chúa hứa cho người bỏ mọi sự mà theo Chúa, thì được gấp trăm ở đời này. Người nói mỉa đấy.

Cho gấp trăm ở đời này, mà “cùng với sự bắt bớ”, thì có khác gì cho một tô phở ngon “cùng với một giọt dầu hôi”.

Sở dĩ Người nói mỉa như thế là để dằn mặt các tông đồ vẫn còn xôi thịt. Nói mãi vẫn chưa lọt lỗ tai họ.

Ngay trong Bữa Tiệc Ly, các ông vẫn còn tranh luận sôi nổi xem: ai sẽ là người lớn nhất trong nước của Chúa. Nghĩa là khi Chúa làm vua, thì ông nào sẽ làm thủ tướng. Xôi thịt đến thế là cùng ! Bị Chúa nói mỉa như thế cũng chưa vừa đâu.

- Bây giờ con hiểu rồi. Con cảm ơn ông Cố.

- Đọc Lời Chúa thì chưa đủ. Còn phải tìm hiểu Ý Chúa và Tâm của Chúa nữa. Lời là ngôn ngữ của loài người. Nó tương đối lắm. Có khi ngôn ngữ chỉ là quy ước thôi. Lấy tiếng Việt làm ví dụ:

- Khi chàng trai hỏi người con gái rằng: “Em có yêu anh không ?”, thì nàng sẽ trả lời rằng: “Ghét thấy mồ”. Ghét là yêu đấy.

- Khi mẹ bảo: “Đi chợ mua cho mẹ một nải chuối lá xiêm trắng, thì phải hiểu rằng đó là chuối lá xiêm có màu vàng sáng”.

- Khi nhà văn mô tả: “Trời nắng như đổ lửa”, thì phải hiểu là trời nắng dữ lắm. Vậy thôi.

- Đang đêm có tiếng kêu của bà hàng xóm: “Bớ làng nước ơi ! Nó đánh chết tôi rồi !”, thì phải hiểu là còn lâu mới chết. Giận chồng thì phải kêu lớn như thế.

- Khi mẹ nói: “Tao rầu thúi ruột”, thì phải hiểu là mẹ buồn lắm, nhưng ruột vẫn lành lặn trăm phần trăm.

Đọc Lời Chúa, cũng phải cân nhắc như vậy đó. Nếu không thì coi chừng…

Trích sách Như Trái Mắm
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu


-------------------------------

 

PiôHậu 60: TẠI SAO KHÔNG CÓ NỮ LINH MỤC

 

Mình ngồi đối diện với một ông bạn vô thần. Ở giữa hai người là hai tách cà phê nóng và một PiôHậu 60


Mình ngồi đối diện với một ông bạn vô thần. Ở giữa hai người là hai tách cà phê nóng và một gói thuốc Con Mèo. Cà phê là chồng. Thuốc lá là vợ. Cà phê thì đắng. Thuốc lá thì cay. Cả hai “vợ chồng” tạo ra cảm giác say say và làm cho hai ông bạn “vô-hữu” quấn lấy nhau, dìu nhau vào chuyện đạo, lôi nhau vào chuyện đời, nói mãi không thôi… Bỗng ông bạn vô thần thoọc mình một cái.

- Bộ anh không có vợ thiệt hả?

- Bộ anh không tin thiệt hả?

- Không có vợ thì chịu sao nổi?

- Không nổi thì chìm. Chìm thì chết. Nếu không dám chết, thì phải ráng mà nổi.

- Phải công nhận là các anh tu luyện hay thiệt. Ủa… mà sao trong đạo của anh không có nữ linh mục? Như vậy thì có kỳ thị nữ giới, có phân biệt đối xử không?

- Đạo tôi không kỳ thị nữ giới, nhưng có phân biệt đối xử và chủ trương phải phân biệt để đối xử hợp tình và đúng lý.

- Anh nói gì mà kỳ vậy?

- Thủng thẳng. Uống cà phê và “phì phà” đi, vì chuyện đàn bà đàn ông là chuyện của thế giới, là chuyện của loài người. Mà lịch sử loài người thì dài như vô tận.

* Trước hết, đạo của tôi không kỳ thị nữ giới. Bằng chứng là ông Ađam (người đàn ông đầu tiên) khi thấy Eva (người đàn bà đầu tiên) liền tuyên ngôn như xuất thần rằng: “Đây là xương của tôi, đây là thịt của tôi”. Rồi ông còn tuyên bố y như Quốc Hội công bố luật gia đình rằng: “Từ nay, người nam sẽ giã từ cha mẹ để kết hợp với người nữ. Cả hai chỉ còn là một xương một thịt”. Đức Giêsu khẳng định ý kiến ấy của Ađam là ý trời: “Điều gì Thiên Chúa nối kết, loài người không được phân ly”. Tương quan giữa nam và nữ là thế, thì tuyệt vời rồi. Nếu có kỳ thị nam giới hay nữ giới, thì đó là lạc đạo, là ngoại đạo, là người trong đạo đi lạc ra ngoài đạo.

* Bây giờ thì sang vấn đề phân biệt đối xử. Tôi đã khẳng định với anh rằng đạo của tôi chủ trương phải phân biệt, để đối xử hợp tình và đúng lý. Tôi lý giải dài dòng lắm. Anh cứ uống cà phê và hút thuốc đi.

- Vì phân biệt đối xử, nên cha mẹ bắt con trai đi xúc cát, vác đá… lem luốc xấu xí như quỷ sứ. Trong khi đó con gái quét nhà..., lặt rau… lúc nào cũng mượt mà, điệu đà. Rất hợp tình và đúng lý. Con trai không cự nự. Con gái không vùng vằng.

- Vì VNPT phân biệt đối xử, nên cứ thấy công nhân nam ngồi vắt vẻo trên cột điện, giữa trời nắng đổ lửa. Da thì đen đúa. Mồ hôi thì chua lè. Trong khi đó nữ nhân viên thì ngồi trong phòng lạnh, gõ phím vi tính, đóng mộc trên con tem… khỏe ra. Lúc nào cũng tha thướt. Lúc nào cũng thơm phưng phức. Chẳng ai chống đối. Chẳng ai đòi cào bằng công tác giữa nam và nữ.

- Vì nhà nước phân biệt đối xử, nên trên thao trường đổ lửa và trên chiến trường loang máu chỉ thấy đàn ông con trai. Trùng trùng điệp điệp. Trong khi ấy người nữ ở hậu phương vẫn yểu điệu, vẫn duyên dáng, vẫn tỉa tót… Loài người vẫn đồng ý. Lịch sử vẫn đồng thuận. Không ai đòi cào bằng.

- Vì Tạo Hóa phân biệt đối xử, nên chỉ có đàn bà mang bầu, sanh con và cho con bú. Đàn ông thì cứ ngơ ngơ, chẳng biết gì những việc ấy. Thương vợ ột ệt, nếu đàn ông muốn chia sẻ công tác mang bầu với vợ, thì Trời cũng chẳng cho. Đành đi cày sâu cuốc bẫm, dầm mưa dãi nắng và dâng mồ hôi nước mắt cho “xương của tôi và thịt của tôi”. Lịch sử hai triệu năm của loài người vẫn thành hình như thế. Rất êm ả. Đàn bà không chống đối. Đàn ông không đòi đổi công tác.

Tôi nói lòng vòng như vậy đó. Anh chịu chưa?

- Chưa. Anh đánh trống lảng sang chuyện khác rồi. Vấn đề là “Tại sao không có nữ linh mục?”, mà anh không hề đá động tới.

- Có đá rồi, nhưng chưa động tới thôi. Bây giờ thì…

1. Từ xưa tới nay chưa có nữ linh mục. Tại sao?

- Có người bảo rằng vì Đức Giêsu tuyển chọn 12 người đàn ông làm Tông đồ. Còn người nữ chỉ tháp tùng đoàn truyền giáo thôi.

Quả thật Đức Giêsu đã tuyển chọn đoàn Tông đồ toàn là đàn ông. Nhưng Người không hề bảo rằng đàn bà không được làm Tông đồ. Cũng như Người chỉ chọn 12 Tông đồ. Con số 12 dường như có một ý nghĩa quan trọng lắm, nên sau khi đoàn chỉ còn 11 vị, thì Thánh Phêrô yêu cầu bổ sung cho đủ 12. Nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội không được phép có hơn 12 giám mục.

Đức Giêsu tuyên bố ơn gọi của Người là đi loan báo Tin Mừng. Suốt đời truyền giáo, Người “đi” chứ không “ở”. Nhưng không phải vì thế mà ngày nay ta không được xây nhà thờ, chủng viện và nhà xứ.

2. Hiện nay đang có một số người đòi hỏi phải có nữ linh mục. Họ còn đấu tranh và cho rằng nếu không cho người nữ làm linh mục thì Giáo Hội kỳ thị nữ giới và đi ngược với phong trào đòi “nam nữ bình quyền”.

Theo ý kiến của tôi, thì vấn đề không phải là “người nữ không được làm linh mục” mà là “người nữ có nên làm linh mục hay không?. Hoặc “chức năng linh mục có phù hợp với phụ nữ hay không?”.

Hiến Chương Quốc Tế Nhân Quyền cũng như Hiến Pháp Việt Nam không hề cấm nam giới làm giáo viên mẫu giáo mầm non. Nhưng trong thực tế chẳng có giáo viên tu mi nào muốn làm nghề ấy. Không phải vì họ không “được làm” mà vì họ sợ không thể “làm được”.

Xin đơn cử một ví dụ: anh là nữ linh mục. Vào đúng 24 giờ: trời tối om om; mưa rơi lất phất; đường làng vắng hoe. Có một cú điện thoại: “Mời mẹ sở đi kẻ liệt gấp. Ông Mỗ đang hấp hối. Xe ôm đang chờ mẹ ở cổng nhà xứ…”. Tôi hỏi thiệt anh, nếu anh là nữ linh mục, anh có dám xách đồ đi ngay không? Nếu anh không đi ngay, thì anh có thi hành chức năng linh mục không?

3. Trong tương lai, có thể có nữ linh mục không? Hãy để tương lai trả lời. Nhưng vẫn phải trung thành với nguyên tắc: “Phải phân biệt để biết đối xử cho hợp tình và đúng lý” và “không được kỳ thị nữ giới cũng như nam giới”. Con người là mẫu số chung, là căn bản. Còn nam hay nữ, màu da hay tiếng nói chỉ là chuyện phụ. Tất cả chỉ là một trong Đức Giêsu Kitô.

Trích sách: "Như Trái Mắm"
Lm Pio Ngô Phúc Hậu
Đăng trên báo Công giáo và Dân tộc .

-------------------------------

 

PiôHậu 61: Giới thiệu cuốn sách "DẤU CHÂN CỦA THẦY"


 - Lm Pio Ngô Phúc Hậu

LỐI VÀO ...
(Cuốn sách những “Dấu Chân” của Thầy yêu dấu)
 

Có một người giấu tên, tự nhận mình là một môn đệ được Thầy yêu dấu (Ga 13, 23) Người ấy còn PiôHậu 61


Có một người giấu tên, tự nhận mình là một môn đệ được Thầy yêu dấu (Ga 13, 23) Người ấy còn khoe rằng, mình biết rất nhiều về Thầy; nào là được nhìn ngắm Thầy; nào là được đụng chạm đến thân thể của Thầy (1Ga 1) thậm chí còn được tựa đầu vào ngực của Thầy ( Ga 13, 25). Sung sướng vô cùng. Hãnh diện quá chừng.

Người ấy, kể lại thân thế và sự nghiệp của Thầy, trong một tác phẩm. Nhưng chỉ kể rất ít thôi. Tại sao biết nhiều như vậy, mà lại chỉ kể ít quá như thế ? Người ấy bảo rằng: nếu viết hết mọi việc Thầy làm và lời Thầy giảng, thì cả thế giới này cũng chẳng đủ chỗ để chứa hết bộ sách lớn lao ấy. Người ấy còn tự biện hộ rằng: tuy ít nhưng vẫn đủ để độc giả tin và được cứu  độ ( Ga 21, 25; Ga 20, 30- 31). Người ấy cứ lý luận tỉnh bơ như vậy đó.

Bây giờ thì người ấy đã chết rồi, mang theo xuống mồ một kho tàng quý giá vô tận. Hằng triệu  người, hằng tỉ người tiếc xót ngẩn ngơ, tiếc từ thời này qua thời nọ, tiếc mãi cho đến muôn đời.

Người ta bảo: người ấy là Thánh Gioan Tông đồ, Thánh Sử.

Ôi Thánh Gioan ! Xin ngài cứ viết, viết suốt đời, viết mãi cho đến hết mọi lời Thầy nói và mọi việc Thầy làm. Loài người miễn cho ngài mọi công tác để ngài chỉ viết về Thầy  mà thôi. Viết về Thầy cũng là loan báo Tin Mừng vậy. Còn chỗ chứa sách của ngài thì loài người chúng tôi phải lo. Chúng tôi dư sức để lo. Nếu Ngài viết trên da dê, da trừu  thì chúng tôi cũng chỉ cần một nhà kho diện tích 10000 mét vuông. Chúng tôi không sử dụng  những  510.000.000 cây số vuông của trái đất để chứa pho sách của ngài đâu.Và… trong thời đại vi tính này, chúng tôi chỉ cần một đĩa CD mỏng te là đủ rồi.

Thầy Giêsu yêu ngài, chúng tôi  không chối cãi điều đó.Nhưng ngài cũng yêu chúng tôi, yêu da diết. Đố ai dám chối cãi điều đó.

Ngài yêu Thầy… Chúng tôi cũng vậy. Ngai hay chúng tôi yêu Thầy nhiều hơn ? Chúa biết ai hơn ai. Để đấy!

Khi yêu thì người ta muốn biết thật nhiều về người mình yêu. Biết từ kẽ tóc đến chân tơ . Ngài yêu Thầy và được biết qúa nhiều về Thầy. Sướng quá ! Còn chúng tôi yêu Thầy thì chỉ biết một tí xíu về Thầy. Cái tí xíu ấy là những mảnh vụn rời rạc về cuộc đời  của Thầy mà ngài đã bố thí cho chúng tôi. Tức đến chết được.

Ngài bố thí cho chúng tôi một cách xẻn to như thế, mà không ân hận sao ? Ngài vẫn tỉnh bơ, chỉ vì cái tí ấy vẫn đủ để đem lại ơn cứu độ. Chúng tôi chỉ muốn yêu Thầy, còn ơn cứu độ  thì chúng tôi chưa nghĩ tới. Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu khả ái của chúng tôi đã khẳng định  rằng: Xuống hoả ngục cũng được, miễn là vẫn được yêu .

Ôi Thánh Gioan !  Chúng tôi giận ngài, giận quá. Tức quá !

Nhưng tức làm chi, giận làm gì. Chẳng ai gọi được hồn của ngài về  để được nghe ngài kể tiếp cuộc đời của Thầy còn đang dang dở. Đành vậy thôi. Đó là số phận hẩm hiu của chúng tôi, những người sinh sau đẻ muộn.

Nhưng..dường như những mảnh vụn về cuộc đời  của Thầy mà ngài và các thánh ký ghi lại một cách hà tiện qúa đáng vẫn là những dấu chân còn in hằn trên lối đi mềm. Dấu chân không phải là người. Nhưng dấu chân lại nói rất nhiều về người. Nếu nghiên cứu cặn kẽ, sẽ thấy dấu chân là tánh ý, là tâm hồn, là sự nghiệp của người đã đi qua.

Cũng vậy, Dấu chân Thầy không phải là Thầy. Nhưng chúng  tôi sẽ quỳ gối xuống để chiêm ngắm, đề trìu mến dấu chân của Thầy. Chúng tôi sẽ thấy dấu chân ấy là thân xác của Thầy, là linh hồn của Thầy và là thiên tính của Thầy. Một Ngôi - Lời làm người. Chúng tôi cũng sẽ như Ngài cảm thấy mình được tựa đầu vào ngực của Thầy, nơi con tim chân thành đang đập rộn ràng vì đang yêu và đang được yêu.

Trích sách Dấu Chân của Thầy của Lm Pio Ngô Phúc Hậu

Hiện được bán Online tại https://www.denmaxem.vn/dau-chan-cua-thay.2943 xin mời Quý Ông Bà và Cộng đoàn tìm đọc ạ

Chúng tôi thôi tiếc, thôi buồn, thôi giận, vì đang bận yêu thầy và đang được thầy yêu. Xin ngài cùng chúng tôi nhìn ngắm thầy và yêu thầy, yêu mãi, yêu hoài và chỉ yêu mà thôi.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

-------------------------------

 

PiôHậu 62: CẤM LI DỊ LÀ VÔ NHÂN ĐẠO ?

 

Một ông Công giáo ở tuổi năm mươi, góa vợ. Một cô cán bộ ở tuổi bốn mươi, lỡ thời. Hai người PiôHậu 62


Một ông Công giáo ở tuổi năm mươi, góa vợ. Một cô cán bộ ở tuổi bốn mươi, lỡ thời. Hai người đến gặp cha xứ để làm đơn xin chuẩn hôn nhân khác đạo. Cha xứ xởi lởi, cởi mở, hướng dẫn họ làm đơn và đính kèm lá thư xin đức Giám Mục ký thuận.

Thấy cô cán bộ tủm tỉm cười hoài, cha xứ hứng khởi trình bày một hơi về hôn nhân Kitô giáo.

– Hôn nhân Kitô giáo có hai điểm đặc thù: Một, đơn nhất tính, tức là một vợ, một chồng. Hai, vĩnh cửu tính, tức là hai người phải chung thủy cho đến chết. Trước hết đạo Công giáo chỉ cho phép một vợ, một chồng. Vậy cô có ý kiến gì về luật này?

– Tôi hoan nghênh tối đa.

– Cám ơn cô. Nhưng đạo Công giáo chúng tôi đã phải khổ gần hai mươi thế kỷ, vì cái luật một vợ một chồng này. Sienkiewics – tác giả cuốn Quo Vadis, giải Nobel văn chương năm 1905, đã cho ta biết thời đạo Công giáo được truyền bá rộng rãi ở Rôma, thì người phụ nữ Công giáo bị gọi một cách mỉa mai là “con mẹ một chồng”. Đàn ông nhiều vợ thì sang. Đàn bà nhiều đời chồng, thì được khen là tuyệt vời. Khi đạo Công giáo được truyền bá ở Phi Châu thì luật một vợ một chồng là một cản trở lớn. Các tộc trưởng da đen đều đa thê. Có những tộc trưởng sẵn sàng theo đạo và đưa cả bộ lạc vào đạo, nhưng… với điều kiện là cho giữ lại hết các bà vợ. Các nhà truyền giáo đành giơ tay đầu hàng.

Khi đạo Công giáo được truyền bá sang Việt Nam thì luật một vợ một chồng bị tác giả cuốn “Gia Tô Bí Lục” gọi là “kế ngu dân” của Đức Giêsu.

Phải chờ cho tới sau Cách Mạng Tháng Tám, luật một vợ một chồng mới được chính thức công nhận là luật tiến bộ. Hai ngàn năm. Ôi! Hai mươi thế kỷ bị chống đối, bị chế giễu, bây giờ mới được ngước mặt lên hãnh diện với đời.

Như vậy là chị đồng ý và hoan nghênh luật một vợ một chồng?

– Đúng thế. Một ông hai bà, một bà hai ông sẽ lung tung lắm. Cứ ghen nhau không thôi, cũng đủ chết rồi.

– Còn luật chung thủy cho đến chết, tức là không cho ly dị, thì chị nghĩ sao?

– Ai cũng muốn vợ chồng chung thủy, nhưng… hôm nay là thế, ngày mai sẽ ra sao? Yêu nhau mà sống với nhau thì tuyệt vời. Không yêu nhau, thậm chí ghê tởm nhau mà phải bắt sống với nhau, thì có khác gì sống trong Hỏa ngục. Đạo không cho ly dị thì có khác gì đày đọa kiếp người.

Yêu nhau mà sống với nhau là tuyệt vời. Ghét nhau mà không cho ly dị thì vô nhân đạo.

Tôi hoan nghênh tình yêu chung thủy. Nhưng tôi yêu cầu Giáo Hội Công giáo khoan dung đối với những đôi vợ chồng bất hạnh. Yêu nhau mà trao thân gửi thịt cho nhau là tuyệt diệu, là trên tuyệt vời. Nhưng ghét nhau, khi dể nhau, mà phải trao thân gửi thịt cho nhau, thì thật là ghê tởm, là quái đản. Hỏa ngục trần gian có thể chỉ là thế.

Ông cha xứ cúi đầu ngẫm nghĩ. Không ngờ, một cô gái lỡ thời mà lại cảm nghiệm được đời sống lứa đôi và cảm nghiệm được cả nỗi đau của những cặp vợ chồng hụt hẫng đến như thế. Cha xứ nghĩ đến những cặp vợ chồng bất hạnh trong giáo xứ. Cha thương họ. Cha muốn họ được giải thoát. Cha muốn Giáo Hội khoan dung, theo yêu cầu của cô gái lỡ thời.

Nhưng… Bỗng cha xứ ngẩng đầu lên, giảng thuyết một cách hùng hồn.

– Hai người yêu nhau, lấy nhau, trao thân gửi thịt cho nhau, sinh con đẻ cái, nuôi nấng và dạy dỗ để con cái thành nhân. Tất cả bấy nhiêu chi tiết đều nằm trong bản thiết kế chung của Đấng Tạo Hóa. Mục đích của hôn nhân là tạo dựng nhân vị có nhân phẩm, có nhân cách. Tình yêu là phương tiện tất yếu để đạt được mục đích. Chính vì thế tình yêu phải chung thủy. Thiếu chung thủy thì công việc giáo dục con cái sẽ hụt hẫng.

Cảnh sát quốc tế đã khẳng định rằng hầu hết các thiếu niên phạm pháp đều là con cái của gia đình ly dị, hoặc bất hạnh. Như thế ly dị là thảm họa của xã hội. Cho ly dị là vô nhân đạo với con cái và đối với xã hội.

– Như vậy thì tốt nhất đừng lấy vợ, lấy chồng.

– Đúng vậy. Nhưng hãy lấy vợ, lấy chồng, khi đã có một tình yêu chân chính.

– Thế nào là tình yêu chân chính?

– Tình yêu chân chính là tình yêu quên mình để chỉ lo cho người mình yêu được hạnh phúc.
– Nhưng yêu mà bị phản bội thì sao?

– Tình yêu chân chính sẽ chinh phục người yêu phản bội. Tình yêu chân chính không bao giờ loại trừ. Chỉ yêu một lần và yêu mãi mãi.

– Yêu mà phải khổ suốt đời sao?

– Có sao đâu. Mẹ sanh con, thì muốn con mình lành mạnh. Nếu chẳng may sanh con tàn tật, thì mẹ vẫn yêu, vẫn nuôi, và yêu đứa con ấy nhiều hơn yêu các đứa con không tàn tật. Tại sao vợ chồng lại không bắt chước tình yêu mẫu tử?

Tình yêu chân chính là tình yêu tha thứ, chấp nhận. Nếu không tha thứ, không chấp nhận, thì chưa phải là tình yêu chân chính.

– Cha không có  vợ, cha không thông cảm với người có vợ có chồng. Nếu cha có vợ có lẽ cha sẽ bao dung hơn đối với những đôi vợ chồng không may mắn.

– Tôi nghĩ đến họ. Tôi thương họ. Tôi muốn bao dung với họ. Nhưng tôi lại thương các bé thơ, tôi lại thương đời sống an sinh của xã hội. Xin chị cứ thương các đôi vợ chồng lỡ dở. Nhưng xin chị xác tín rằng: “Ly dị là thảm họa của gia đình và xã hội”. Rồi sau đó chị sẽ thấy rằng không cho ly dị là vô nhân đạo hay là cho ly dị mới là vô nhân đạo?

Xin kết luận rằng:

1.Phải chuẩn bị hôn nhân kỹ lưỡng.

2.Phải học hỏi nhiều về ý nghĩa và cuộc sống hôn nhân.

3.Phải xác tín rằng vợ chồng chỉ là thợ xây, nên phải trung thành với bản thiết kế của hôn nhân do Tạo Hóa vẽ.

4.Vợ chồng là cộng tác viên của Thượng Đế chứ không phải là chủ công trình.

-------
Trích sách "Như Trái Mắm"
Lm Pio Ngô Phúc Hậu

Đăng trên báo Công giáo và dân tộc
#Nhutraimam - #NgoPhucHau

-------------------------------

 

PiôHậu 63: ĐẠO TẠI TÂM

 

Cha xứ đi thăm mục vụ, ghé nhà một ông Công giáo. Một người đàn ông xồn xồn vai u thịt PiôHậu 633


Cha xứ đi thăm mục vụ, ghé nhà một ông Công giáo. Một người đàn ông xồn xồn vai u thịt bắp, mặt vuông chữ điền, đi đứng vững vàng như xe hủ lô. Ông xồn xồn vồn vã đón tiếp. Cha xứ mở lời:

- Cậu đi đâu mà lâu quá không gặp?

- Con chẳng đi đâu cả. Cứ đi làm rồi về nhà. Xong công tác ngoại vụ, thì ôm ngay công tác nội vụ, tiếp tay bà xã.

- Biết lo cho bà xã như cậu thì cậu quả là người chồng lý tưởng. Bà xã của cậu quả là một người đàn bà có phúc hơn mọi người nữ, trừ Đức Mẹ mà thôi.

- Vậy cha đề cử con là tín đồ gương mẫu của giáo xứ đi.

- Cậu mới là người chồng lý tưởng của đàn bà, nhưng chưa là người con tuyệt vời của Chúa?

- Tại sao vậy cha?

- Tôi chả thấy cậu đi lễ, kể cả Chúa nhật.

- Đạo tại tâm mà cha. Con tin Chúa. Con thờ Chúa. Mà Chúa thì ở khắp mọi nơi.

- Cậu nói rất đúng: “Đạo tại tâm” nhưng chưa đúng hết.

- Ủa, tại sao đúng rồi lại chưa đúng.

- Đạo tại tâm nhưng cái tâm mới chỉ là cái cốt yếu, chứ chưa phải là tất cả. Tâm là cái ruột, nhưng ruột phải được bảo trì bởi cái vỏ. Cái vỏ rồi sẽ vứt đi, nhưng vứt vỏ sớm quá thì ruột tiêu ma.

- Cha triết lý quá, con nghe không kịp.

- Rồi, ngồi xuống đi. Cho tôi một tách cà phê và một điếu Jet đã, tôi sẽ triết lý kiểu hai lúa cho mà nghe.

- Jet và cà phê là nghề của con. Có ngay.

Hai cha con ngồi rỉ rả: chíp chíp cà phê nóng, phì phà điếu thuốc Jet. Hai vị đắng và cay quyện lấy nhau, xoắn lấy nhau. Thời gian như ngưng đọng, không gian như thu hẹp lại… uống hết một ấm nước trà đặc, cha xứ bắt đầu phun châu, nhả ngọc.

- Đạo của cậu là “Đạo tại tâm”. Đạo của cậu chỉ là cái tâm trần trụi. Cái tâm thì đẹp quá, mà vì trần trụi, nên mắc cỡ quá.

- Con chưa hiểu.

- Thì bây giờ hiểu. Đạo tại tâm có nghĩa rằng cái tâm là chánh. Nhưng cái chánh thì phải có cái phụ. Nhiều khi cái phụ lại rất cần thiết để gìn giữ cái chánh. Tôi đan cử một số ví dụ.

Ví dụ một: Bà xã cậu đi chợ mua một chục hột vịt về để làm món omơlét. Trong trường hợp này thì tròng đỏ và tròng trắng là chánh, là cái tâm, còn vỏ trứng là cái phụ. Vỏ là cái phụ. Nhưng phải giữ cái vỏ mãi cho tới khi bà xã cậu đập trứng lấy tròng đỏ và tròng trắng để chiên. Cái vỏ lúc ấy hết nhiệm vụ, từ hữu ích trở thành vô dụng; từ thái độ giữ gìn cẩn trọng, thành coi thường và không thương tiếc. Bỏ vô sọt rác.

Ví dụ hai: Nếu cậu mua một chục hột gà về để làm giống, thì mầm sống là cái chánh, là cái tâm. Vỏ là cái phụ. Nhưng cái phụ này không những cần thiết, mà còn là khẩn thiết, đến mức độ trở thành điều kiện “ắt có và đủ” để đạt mục đích là có một chục gà con ra chào đời. Khi con gà con thò đầu và chui ra khỏi cái vỏ, thì cái vỏ hết nhiệm vụ, trở thành vô dụng một cách đáng ghét. Gà mẹ phải kẹp cái vỏ bỏ ra ngoài ổ, để cứu lấy đôi chân đỏ son, non nớt của bầy nhí dễ thương.

Ví dụ ba: Cậu đi siêu thị mua một hộp bánh Bích quy. Bánh là ruột, là cái tâm. Nhưng vẫn phải có cái vỏ. Vỏ là phụ gồm bọc nylông, bọc thuốc chống ẩm và cái hộp thiếc lòe loẹt. Những cái vỏ này vẫn phải đồng hành với cái ruột suốt thời gian chờ bạn đến chơi. Ăn bánh xong. Thưởng thức cái tâm xong, thì mới vứt cái phụ, cái vỏ đi. Không cần thương tiếc.

Ví dụ bốn: Cậu lấy vợ, cậu yêu vợ. Yêu vợ là chánh, là cái tâm của tình nghĩa vợ chồng. Nhưng chỉ có thế thôi sao? Yêu vợ mà chỉ có cái tâm, nghĩa là không ve vuốt, không hôn hít, không “chắp cánh liền cành”. Như vậy là chỉ có cái chánh mà không có cái phụ; chỉ có cái ruột mà không có cái vỏ. Cậu cứ thử yêu vợ kiểu “Đạo tại tâm” đi, rồi cậu sẽ thấy cái tâm ấy nó sẽ đi về đâu? Từ chết đến chết.

- Cha ngụy biện quá à ! Đạo của Chúa là thánh mà cha cứ lấy chuyện đời để so sánh. Chúa đã dạy rằng: “Từ nay người ta không thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem, cũng không thờ ở Garidim, mà chỉ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý”.

- Tôi thấy Đức Giêsu vẫn về thủ đô mừng Lễ Vượt Qua. Và trong Bữa Vượt Qua cuối cùng Người đã biến hóa bánh mì và rượu nho thành Thân Thể và Máu Người. Người bảo môn đệ ăn và uống, lại còn năn nỉ: “Anh em hãy làm việc này để nhớ Thầy”. Như vậy ta phải cử hành Thánh lễ và rước lễ để nhớ Chúa. Nhớ trong tâm mà thôi thì Chúa không hài lòng đâu.

- Thế tại sao Chúa lại bảo chỉ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý?

- Anh phải hỏi Chúa tại sao lại hỏi tôi. Nhưng đây là ý kiến của tôi. Chúa nói vậy là muốn xóa bỏ cái tranh chấp giữa người Do Thái và người Samari. Do Thái thì cho rằng đền thờ ở Giêrusalem là chính thống; đền thờ ở Garidim là xé rào. Còn người Samari thì cho rằng thờ Giavê ở Garidim cũng là chính thống. Chúa không đồng ý sự tranh chấp như thế, vì cả hai đều thiếu cái tâm đối với Giavê, cả hai đều đầu cơ Giavê cho mình. Vả lại thời Cựu Ước đang nhường chỗ cho Tân Ước rồi. Hiến tế bằng máu chiên bò chẳng còn ý nghĩa gì nữa, khi máu hiến tế của “Chiên Thiên Chúa” đang lừng lững bước tới.

- Như vậy cha biểu con phải đi Lễ Chúa nhật chứ gì?

- Chứ sao ! Cậu vừa ở nhà để tin và thờ Chúa trong tinh thần, vừa đi lễ để nhớ Chúa, để hóa thân thành một với Chúa. Ngài có nhắc to tiếng với cậu đấy: “Ai không ăn Thịt Tôi và không uống Máu Tôi, thì không có sự sống đời đời”. Đạo có ruột mà cũng có vỏ, có cái chánh mà cũng có cái phụ. Cái ruột là cái niềm tin trong tinh thần của cậu. Cái vỏ là nghi thức, là kinh sách, là sự có mặt để hiệp thông. Nó là cái vỏ, là cái phụ. Nhưng cần thiết và hữu ích lắm đấy. Bánh Bích Quy mà không có bao bì thì có nguy cơ mốc meo đấy. Trứng gà mà không có vỏ thì eo ôi đấy. Yêu vợ mà không biểu lộ tình cảm thì coi chừng mất vợ đấy…

Cha xứ và vợ chồng ông xồn xồn cùng cười hô hố. Họ bắt tay giã từ. Hai bàn tay siết nhau, xoắn nhau như không muốn xa nhau.

- Đi lễ Chúa nhật nhá.

- Dạ.

-------
- Trích "Như Trái Mắm"
- Lm Pio Ngô Phúc Hậu

Đăng trên báo Cgvdt
#Nhutraimam #NgoPhucHau

-------------------------------

 

PiôHậu 64: SAI LẦM: ĐÁNG TIẾC, NHƯNG KHÔNG ĐÁNG TRÁCH

 

Sai lầm là một đáp ca được vang lên rền rĩ suốt dòng lịch sử của mọi dân tộc, mọi tập thể và PiôHậu 64


Sai lầm là một đáp ca được vang lên rền rĩ suốt dòng lịch sử của mọi dân tộc, mọi tập thể và mọi cá nhân. Sai lầm là người bạn thân thiết của loài người đến mức độ đã làm người, thì không thể không sai lầm.  Sai lầm là bản chất của con người.

Ta thử tìm gặp nó trên đường truyền giáo. Gặp ngay. Gặp hoài.

1. CÁC TÔNG ĐỒ SAI LẦM

 Giacôbê và Gioan được sai đi dọn chỗ để Thầy đến. Bị từ chối. Thế là hai ông nổi sùng lên: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi tụi nó không?”. Hai thừa sai sai quá! Bị Thầy mắng cho (Lc 9,51-56).

Gioan đi truyền giáo gặp một người kia, lạ hoắc mà dám nhân danh Giêsu để trừ quỷ. Ông cấm không cho người ấy được nhân danh Thầy mình để trừ quỷ. Ông tưởng mình làm đúng, về khoe và kể công với Thầy, bị Thầy phản đối: “Đừng ngăn cản người ta”. Gioan làm sai mà không biết.

Thánh Phêrô được Thầy dạy rằng: “Mọi đồ ăn đều thanh hết”(Mc 7,19), nghĩa là Thầy xóa bỏ hoàn toàn luật thanh-uế được Môsê tỉ mỉ trình bày trong Lêvi chương 11. Phêrô không hiểu, nên bị Thầy mắng là “tối dạ”. Bị mắng là tối dạ, ông vẫn tối dạ. Trên đường truyền giáo ông vẫn rao giảng Môsê với luật thanh-uế. Ông quên, hay đúng hơn ông không hiểu giáo huấn của Thầy trong Mc 7,19. Ông cứ rao giảng sai ý của Thầy mãi cho tới thị kiến ở Gióppê. Ông được thị kiến một cái màn có lúc nhúc những con vật mà Môsê bảo là uế (Lv 11). Còn Thầy thì bảo là không uế (Mc 7,19). Có tiếng từ Trời phán: “Hãy giết đi mà ăn”. Ông quên Thầy để theo Môsê, nên chê ngay như một phản xạ: “Không bao giờ con ăn những gì ô uế”(Cv 10,1-16). Dường như Phêrô đã rao giảng sai ý Chúa về luật thanh-uế trong suốt thời gian mười năm.

Thánh Giacôbê, trong Công đồng Giêrusalem đã giải quyết cho người ngoại trở lại khỏi cắt bì, khỏi giữ luật Môsê. Nhưng lại yêu cầu họ phải giữ một điều sai với ý của Chúa. Đó là không được ăn huyết tươi, chỉ vì huyết tươi là đồ ăn uế. Trò thì bảo là uế (Cv 15,20) còn Thầy thì bảo là không (Mc 7,19).

Toàn thể Giáo hội sơ khai đều tin rằng ngày tận thế sẽ xảy ra ngay trong thời mà nhiều người trong họ chưa nếm cái chết (Tx 4,13-18). Chờ mãi. Chờ mãi… nhưng chẳng thấy đâu. Tin sai. Chờ sai. Rao giảng cũng sai.

2. CHÚNG TA SAI

Trên đường truyền giáo có rất nhiều sai lầm và sai sót. Sai từ nội dung truyền giáo đến phương pháp truyền giáo. Sai từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ.

 Năm 1952, Hội đồng Giám mục Đông Dương đã bỏ một bài kinh trong sách Mục lục. Đó là Kinh cầu nguyện với ThánhPhanxicô Xaviê cho người ngoại trở lại. Kinh ấy có một lời như sau: “Người ngoại sa xuống đầy dẫy hỏa ngục, thì ố danh Chúa tôi là dường nào?”.

Sai về tín lý, sai về phương pháp truyền giáo. Sai về tín lý vì người ngoại không sa xuống hỏa ngục đầy dẫy như thế. Sai về phương pháp truyền giáo, vì nếu người ngoại nghe đọc kinh ấy, thì sẽ nổi giận hơn là sám hối.

Nhà truyền giáo De Rhodes gọi Đức Phật Thích Ca là tên gian dối (Phép Giảng Tám Ngày, ngày thứ bốn). Sai. Sai quá chừng. Đức Phaolô VI trong Thông điệp đầu tay (Ecclesiam Suam) gọi các vị sáng lập các tôn giáo là con đường dẫn đến chân lý. Mọi tôn giáo đều có thiện chí giải đáp những thắc mắc căn bản của con người về thiện-ác, về sống-chết, về thế giới hữu hình và vô hình…

Phương pháp “bàn bào” (tabula rasa) của ba trăm năm về trước là một sai lầm có tầm mức chiến lược. Dẹp bàn thờ ông bà là một trong những sai lầm ấy. Tai hại khôn lường! Đáng tiếc vô cùng!

Một vị Hồng y kể chuyện.
Có một tân tòng đến thăm ngài. Ngài được thông tin trước về niềm tin vững chắc của người nữ tân tòng này. Ngài ưu ái hỏi thăm.

– Chị trở lại đạo từ hồi nào vậy?


– Con đi tới chứ con không trở lại.


– Chị nói hay quá!

Vị Hồng y ấy dùng câu chuyện này để nhắc nhở các nhà thừa sai rằng: các tôn giáo bạn đều tốt lắm. Các tín đồ bạn đang đi trên đường ngay thẳng. Nếu họ theo đạo Chúa là họ tiến thêm một bước nữa chứ không phải là họ đi lạc mà trở lại. Cái từ “trở lại đạo” tố cáomột sai lầm tiềm ẩn trong não trạng của người Kitô hữu từ thuở nào cho đến bây giờ.

3. Sai thì đáng tiếc chứ không đáng trách.

Thánh Gioan, Thánh Phêrô và Thánh Giacôbê đã thấm nhuần tinh thần Cựu ước quá sâu rồi, không dễ gì các ngài đón nhận ngay được giáo lý của Chúa, của Thầy, Đấng từ trời mà xuống. Cái luật thanh-uế đã thấm vào tâm, não và xương thịt của người Do Thái. Kin ta Kun tê, nhân vật chính của tác phẩm Cội Rễ, theo đạo Hồi, kiêng thịt heo theo luật Môsê. Anh ghê tởm thịt heo. Ngửi thấy mùi heo là buồn nôn. Anh sống bên Mỹ ba mươi năm mà vẫn không thể ngửi được mùi thịt heo…

Các nhà truyền giáo Âu Châu không thể hiểu được, không thể cảm nghiệm được những cái hay cái đẹp tiềm ẩn trong văn hóa Đông phương. Tám trăm năm không đi truyền giáo (từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVI) khi bắt đầu đi truyền giáo thì hành trang “hội nhập văn hóa” lép kẹp. Đành phải sai thôi.

Điều sai thì phải tiếc. Tiếc vô vàn. Nhưng chẳng phiền trách ai vì sai lầm là căn tính của con người. Tuy nhiên phải khiêm tốn nhìn nhận những sai lầm của mình. Nhìn nhận sai lầm không phải là vạch áo cho người xem lưng, nhưng là “chứng tá của Tin mừng” (Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Độ, số 42).

-------
Trích Như Trái Mắm
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

#Nhutraimam
#NgoPhucHau

-------------------------------

 

PiôHậu 65: GIÁO HỘI BỊ MẮNG VỐN

 

Giáo hội mới bị mắng vốn tưng bừng bằng mọi phương tiện truyền thông hiện đại, khiến nhiều Kitô PiôHậu 65


Giáo hội mới bị mắng vốn tưng bừng bằng mọi phương tiện truyền thông hiện đại, khiến nhiều Kitô hữu muốn độn thổ. Đó là vụ lạm dụng tình dục trẻ em nơi hàng giáo sĩ Mỹ. Buồn đến chết được ! Nhưng tại sao lại nên nông nỗi này ? Người ta bảo rằng có nhiều lý do và tình huống khác nhau.

1. Có những ai đó biết rõ rằng các giáo phận đều có hàng trăm triệu đô la. Thế là ở đâu có xác chết thì ở đó có ruồi bu. Nhiều luật sư đi săn tìm nạn nhân bị lạm dụng tình dục, hướng dẫn họ làm đơn thưa. Thế là cả luật sư lẫn nạn nhân đều giàu to. Còn giáo phận thì bị rách túi đến thảm thê. Thậm chí có giáo phận phải tự tuyên bố phá sản.

2. Có những nỗi oan khiên tức tưởi vô cùng. Đó là trường hợp của Đức Hồng y Bernadin.

Có một cựu chủng sinh tố cáo một linh mục giáo sư chủng viện về tội lạm dụng tình dục. Luật sư khuyên hắn nên nhắm vào Hồng y Bernadin thì mới moi được nhiều tiền. Thế là dư luận nổ tung. Báo chí, truyền thanh, truyền hình, điện thư, internet đều hiến tặng kẻ thù của Giáo hội một trận cười khoái trá. Con cái của Giáo hội thì gục mặt xuống. Tức tưởi quá chừng. Riêng Đức Hồng y Bernadin thì âm thầm cầu nguyện.

Một trăm ngày sau, ngài họp báo. Phóng viên của các cơ quan truyền thông đua nhau phỏng vấn và hau háu chờ Hồng y bị “nóc-ao”... Ai ngờ... ngài lật thế cờ. Phóng viên lại đứng về phía ngài để bênh vực chân lý. Bên nguyên tự thú là mình vu khống để kiếm tiền. Hắn xin lỗi Đức Hồng y. Một thời gian sau hắn chết vì bệnh HIV/AIDS. Uy tín của Đức Hồng y lại rực sáng. Giáo hội thở phào nhẹ nhõm và thầm thương cảm cho bao nỗi oan khiên khác không lật được thế cờ.

Sau nỗi đau của hàng giáo sĩ Mỹ, mọi anh em đồng nghiệp khắp thế giới đều ngậm ngùi suy nghĩ. Buồn mà thương. Thương mà vẫn cứ tức vì con sâu làm rầu nồi canh. Nhưng tức làm chi, vì:

Chính Đức Giêsu cũng đã bị mắng vốn, mà... không oan.

Đức Giêsu ăn chay. Có lần Ngài đã ăn chay suốt mươi ngày. Biệt phái, luật sĩ và mọi người đạo đức đều ăn chay một tuần hai ngày: thứ Hai và thứ Năm. Còn các tông đồ thì... không. Thế là Đức Giêsu bị mắng vốn, bởi chính các môn đệ của Gioan Tẩy giả: “Tại sao chúng tôi và những người Biệt phái ăn chay mà môn đệ của Thầy lại không ăn chay” (Mt 9,14).

Sự thật là thế. Đau quá!

Vào một ngày Sabát, Đức Giêsu cùng cácTông đồ băng qua một cánh đồng. Có Biệt phái và quần chúng cùng đi. Ai cũng đói hết. Nhưng chỉ có các môn đệ của Chúa tạt xuống ruộng bứt lúa và vò rồi ăn. Thế là Đức Giêsu bị các ông Biệt phái mắng vốn: “Thầy coi kìa, các đệ tử của Thầy làm điều không được phép làm trong ngày Sabát”. Xấu hổ quá ! Đệ tử không làm vinh dự cho Thầy, mà còn làm nhục cho Thầy.

Có ai đó bênh vực các Tông đồ rằng: “Đói quá thì mới làm như vậy”. Nhưng cũng phải thành thật mà thú nhận rằng tác phong của các Tông đồ còn thấp quá, chứ nếu đói quá thì mọi người đều đói cả. Vả lại hôm ấy là ngày sabát luật chỉ cho đi bộ tối đa là 1800 mét. Nghĩa là chỉ trong vòng mươi lăm phút nữa sẽ đến chỗ dừng chân rồi. Tha hồ mà ăn. Bấy giờ hẵng ăn thì ai  mắng vốn làm chi. Âu cũng chỉ vì yếu đuối mà thôi.

Đức Giêsu đã bị mắng vốn. Giáo hội vẫn bị mắng vốn suốt dòng lịch sử hai mươi thế kỷ... và... sẽ còn bị mắng vốn cho đến tận thế. Cũng chỉ vì Thầy Chí Thánh và chỉ có Thầy mới thánh, còn trò thì xa Thầy vời vợi. Muôn đời vẫn xa như thế. Có ai đó mơ ước Giáo hội hôm nay được giống như Giáo hội thời Công vụ Tông đồ. Lúc ấy ai nấy một lòng một dạ. Của cải tư thành của cải chung. Chẳng ai phải thiếu thốn.

Sự thật thì không phải như thế. Cộng đoàn Giáo hội sơ khai chỉ đẹp như mơ ở bốn  chương đầu của Công vụ Tông đồ. Đến chương 5 đã xảy ra vụ Anania và Saphira – giáo dân lừa dối các Tông đồ, Tông đồ thì đối xử với giáo dân chẳng hợp tình hợp lý chút nào. Sang chương 6, người ta lại thấy trong Giáo hội có sự chia rẽ, mà lý do chỉ là cơm áo. Chương 15 cho thấy có sự tranh chấp lớn lao về phương pháp truyền giáo. Người bảo thủ chủ trương phải chịu phép cắt bì mới được cứu độ, phe tiến bộ thì bảo rằng cắt bì là cái chi chi. Hai bên cãi vã nhau chẳng ai chịu thua ai. Đành phải nại đến Công đồng Giêrusalem.

Các Công đồng giải quyết được nhiều cuộc tranh chấp, nhưng chẳng có Công đồng nào chấm dứt được sự yếu đuối trong Giáo hội. Do đó, Giáo hội sẽ mãi mãi còn bị mắng vốn.

Phải làm gì bây giờ ? Đành phải khiêm tốn nhận lỗi mà thôi. Đức Gioan Phaolô II đã coi thái độ khiêm tốn nhận lỗi ấy là chứng tá của Tin Mừng:

“Giáo hội và các nhà truyền giáo cũng phải nêu lên chứng tá về lòng khiêm tốn, trước hết đối với chính mình, khi dám tự kiểm thảo ở mức độ cá nhân cũng như cộng đoàn, ngõ hầu sửa chữa lại trong cung cách sống của mình những gì đi ngược với Tin Mừng và làm biến dạng dung nhan của Đức Kitô” (Sứ vụ Đấng Cứu độ, 43).

Khiêm tốn là nhân đức tuyệt vời của thế giới hôm nay. Khiêm tốn để được tha thứ. Khiêm tốn để lấy lại tình thương. Và... lạ lùng thay, Giáo hội yếu đuối ấy vẫn được Đức Giêsu yêu thương. Trong phòng Tiệc ly, Thầy đã tiên báo sự trung thành mỏng manh của Phêrô và đồng môn. Họ yếu đuối lắm. Thầy biết hết. Nhưng Thầy vẫn yêu họ, yêu da diết, yêu đến xuất thần mà nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy” (Ga 13,33). Thầy thì trẻ măng. Trò thì lớn cồ cồ. Thế mà Thầy gọi trò là đoàn con bé nhỏ. Thế mới biết Thầy yêu trò tới mức độ nào. Mà trò thì vẫn yếu đuối và sa ngã. Thế mới lạ ! Ôi, tình yêu của Thầy !

------
Trích Như Trái Mắm
Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

#Nhutraimam
#NgoPhucHau

-------------------------------

 

PiôHậu 66: KHOE ĐẠO

 

Năm 1989, mình về thăm quê hương Hiền Quan, sau 37 năm xa cách. Mình đi thật nhiều, để PiôHậu 66


1. Năm 1989, mình về thăm quê hương Hiền Quan, sau 37 năm xa cách. Mình đi thật nhiều, để “trả thù” 14 năm bó cẳng ở Cà Mau. Mình đến thăm một họ đạo nhỏ bé: giáo dân chỉ có chừng 200 nhân danh. Nhà thờ nhỏ xíu, mái ngói rêu phong, vách ván mốc thếch, tượng Chúa và các thánh sơn phết tèm lem, chân đèn tróc sơn hoang lổ như làn da ghẻ lở. Ông trưởng ban hành giáo ngỏ lời với mình:

– Cha ở trong Nam ra, xin cha sắm cho chúng con một bộ Kèn Tây.

– Nghèo thì lo cơm ăn áo mặc, sắm Kèn Tây làm chi. Và còn phải lo truyền giáo nữa chứ.

– Mình phải hơn người ngoại, thì người ngoại mới theo đạo mình.

– Như vậy là khoe đạo chứ không phải là truyền đạo đâu.

Ông trưởng ban hành giáo cười trừ và làm thinh.

2. Năm 1978, giáo dân từ Hà Nam Ninh dắt díu nhau vào thành lập nông trường U Minh. Có cơm ăn, có áo mặc, nhưng thiếu nhà thờ và thiếu Thánh lễ. Bức xúc chịu không được, một ông cao niên đến gặp mình.

– Con xin phép lạy cha. Xin cha giúp đỡ để chúng con có nhà thờ, có cha xứ và có Thánh lễ. Chúng con tưởng rằng trong này thì thiếu gì nhà thờ. Ai ngờ… đồng không mông quạnh. Ở quê con, nhà thờ to lắm chứa được cả triệu người ấy.

– Theo luật xây dựng, nhà thờ chứa được một triệu người thì phải có diện tích một triệu mét vuông. Một triệu mét vuông tức là một cây số vuông đấy.

– Xã của chúng con toàn tòng Công giáo, không có một người ngoại nào chen vào được.

– Như vậy là men không chịu ở với bột. Men để trong chai, trong bọc nilông. Men ấy sẽ mốc.

Mình nói thế mà ông cao niên không hiểu. Ông cứ tủm tỉm cười, cười một cách mãn nguyện.

3. Ba người lạ mặt đi xe ôm đến thăm mình. Lịch sự. Sáng láng. Mình ở vùng sâu vùng xa mà có khách đến thăm thì thích lắm. Ai ngờ.

– Họ đạo chúng con mới xây xong nhà thờ, còn thiếu cái tháp. Xin cha giúp chúng con với.

– Các ông xây mấy tháp và tháp cao bao nhiêu?

– Chúng con xây hai tháp y như Nhà thờ Chính tòa Sàigòn.

– Họ đạo các ông có bao nhiêu giáo dân?

– Chúng con có bốn trăm.

– Có bốn trăm giáo dân mà xây nhà thờ lớn làm chi vậy?

– Không xây thì thua người ta sao. Giáo họ nào cũng phải có nhà thờ. Nhà thờ nào cũng phải có tháp. Tháp nào cũng phải có chuông. Hai ba chuông…

Mình coi bản thiết kế. Hai tháp chuông cao hai mươi mét. Mình nhỏ nhẹ tâm sự:

– Cái Rắn tôi vẫn chưa có tháp, thì làm sao tôi giúp các ông xây tháp được. Ở đây có nhiều người nghèo quá, giúp cơm áo cho người nghèo chưa xong, thì lấy tiền đâu mà giúp các ông xây tháp.

Mình chỉ trao cho họ vài trăm ngàn để trả tiền xe ôm. Họ ra về. Buồn man mác. Đành phải vậy thôi.

4. Cách nay một nửa thế kỷ mình chứng kiến một cảnh rước kiệu Đức Mẹ thật hoành tráng: kiệu thì sơn son thếp vàng; người đi kiệu thì trùng trùng điệp điệp; cờ xí thì hằng hà sa số, tung bay phất phới; kèn đồng thổi lên nghe như sấm như sét…

Đoàn người đi kiệu chiếm hết lòng đường quốc lộ. Xe cộ ùn tắc như một bãi ốc bươu vàng. Tài xế và hành khách trên xe đò đều thở dài ngao ngán. Vài người thiếu tế nhị văng tục um sùm.

Mình ngồi trên xe vừa nghe hành khách chửi thề vừa nghe tiếng cầu kinh của đoàn người đi kiệu. Chẳng biết nên vui hay nên buồn. Người đi kiệu thì hãnh diện vô cùng. Người ngồi trên xe thì ấm ức quá chừng.

Bây giờ ngồi nghĩ lại chuyện xưa, mình thấy bối rối quá chừng. Mình sực nhớ dụ ngôn “Men trong bột”. Áp dụng vào văn hóa Việt Nam, mình đặt tên là “Men trong nếp”.
Để men biến nếp thành cơm rượu, men phải có ba điều kiện: chỉ là một thiểu số; trộn đều trong nếp; âm thầm trong bóng tối.
Nhưng tiếc thay, đồng đạo của mình không muốn làm men theo những điều kiện trên. Chính vì thế:
1) Họ hãnh diện khoe: “Xã tôi toàn tòng Công giáo, không có người ngoại nào chen vào được”. Mình liên tưởng đến hũ cơm rượu ở nông thôn miền Nam. Nếu men không chịu trộn đều trong nếp thì:nếp bị thiu, men bị mốc. Họ đạo thì vẫn còn đó với nhà thờ hoành tráng và kinh kệ rền rĩ. Nhưng Đức Giêsu thì không thấy đâu. Mình đan cử một chuyện đã xảy ra tại một giáo xứ kia:

Có một bà góa chửa hoang. Thế là vè vãn được sáng tác tràn lan. Trẻ con nghêu ngao đọc vè để chế giễu. Ông chánh trương tổ chức một buổi họp để giải quyết chuyện chửa hoang này. Ông nói với đứa con trai cả của bà góa: “Mày phải nhớ rằng: bây giờ mày là chủ của cái nhà này chứ không phải là mẹ mày. Bởi vậy mày phải đuổi mẹ mày đi để giữ lấy gia phong”.

Mình tự hỏi, nếu Đức Giêsu có mặt ở đó, thì Ngài có giải quyết như thế không? Chắc chắn là không. Ngược lại, Ngài sẽ bảo ông chánh trương: “Nếu ông sạch tội, thì hãy đuổi người đàn bà này đi”.

Mình tự nghĩ, ông chánh trương này là tín đồ đạo nào chứ không phải là Kitô hữu.

Cả họ đạo ấy đều theo ý kiến của ông chánh trương. Thế là họ đã đánh mất Đức Giêsu rồi.

2) Họ muốn có Kèn Tây, họ muốn có tháp cao và muốn có chuông to, để hơn người ta, để hơn người ngoại. Như vậy là khoe đạo chứ không phải truyền đạo.

Khoe đạo không làm cho người ngoại mến đạo mà còn làm cớ cho họ ghét đạo. Người khiêm nhu được mọi người quý mến. Người kiêu ngạo bị mọi người ghét bỏ. Đạo cũng vậy.

Chính vì thế mình chỉ mơ ước một thánh đường đơn sơ, mát mẻ, dễ cầu nguyện, chứ không cần hoành tráng. Mình không thích một áo dài thêu kim tuyến của các bà mệnh phụ. Mình chỉ thích một áo dài trắng đơn sơ của cô nữ sinh, vừa đẹp, vừa dễ thương. Mình thích truyền đạo chứ mình không thích khoe đạo.

-----
- Trích "Như Trái Mắm"
- Lm Pio Ngô Phúc Hậu

Đăng trên báo Cgvdt
#Nhutraimam #NgoPhucHau

-------------------------------

 

PiôHậu 67: CHỌN ĐƯỜNG

 

Anh Hai Cay vừa hớt tóc cho cha xứ, vừa kể chuyện về đời mình. – Tôi có một người bạn theo PiôHậu 67


Anh Hai Cay vừa hớt tóc cho cha xứ, vừa kể chuyện về đời mình.

– Tôi có một người bạn theo đạo Công giáo. Hai đứa chúng tôi thương nhau lắm. Vì hoàn cảnh khó khăn, nó phải lên Bình Dương kiếm sống. Nó viết thư cho tôi và dặn tôi mỗi ngày phải nhớ và đọc cho nó một Kinh Lạy Cha. Vì thương nó, nên tôi đi dự các khóa Giáo lý Dự tòng của Cha. Thế là tôi hiểu đạo của Cha và thuộc Kinh Lạy Cha. Cứ mỗi buổi sáng, khi gà vừa gáy, tôi ra sân đứng trước bàn thờ Ông Thiên, chắp tay đọc kinh Lạy Cha. Tôi vái trời chúc lành cho thằng bạn của tôi. Làm riết rồi tôi mê đạo này luôn. Tôi hướng dẫn vợ con tôi theo đạo Chúa. Còn tôi thì kẹt, không theo đạo này được.

– Tại sao lại kẹt?

– Cha tôi theo đạo Hòa Hảo. Tôi cũng theo đạo của cha tôi. Nếu bỏ đạo Hòa Hảo, thì là bất hiếu với cha, là phản bội đạo của cha. Chắc là tôi phải theo cả hai đạo, thì mới yên tâm được.

– Theo đạo là một chuyện lớn. Bỏ đạo này theo đạo kia cũng là một chuyện lớn. Trước khi quyết định, anh nên suy nghĩ nhiều và cầu nguyện thật nhiều. Cụ thể là mỗi buổi sáng anh đứng trước bàn thờ Ông Thiên đọc Kinh Lạy Cha, xin Chúa chúc lành cho bạn của anh, thì bây giờ anh thêm một ý nguyện nữa là: xin cho ý Chúa thể hiện nơi chính cuộc đời của anh. Trong khi chờ anh cầu nguyện và suy nghĩ, tôi kể chuyện dông dài cho anh nghe chơi.

1. Suốt đời, cha anh chỉ có một cái xuồng be mười và chỉ có một cặp chèo. Chèo xuồng đi thăm ông nội. Chèo xuồng đi đám cúng cơm. Chèo xuồng đi hỏi vợ cho con. Chèo xuồng đi chà gạo… Thôi thì trăm thứ chuyện, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, tất cả đều làm với cái xuồng ấy và với cặp chèo ấy. Bây giờ cha anh chết rồi anh thừa kế cái xuồng be mười ấy. Anh lại tiếp tục chèo. Chèo lõm chõm, chèo luồn lách từ rạch này qua rạch kia. Thương quá là thương!

Bỗng thằng con của anh góp ý: “Xuồng chèo bây giờ lạc hậu lắm rồi ba ơi. Mình mua xuồng composite gắn máy đuôi tôm, chạy bảnh hơn nhiều”.

Bây giờ tôi hỏi anh Hai nhá.

– Nếu anh bán xuồng chèo, để mua xuồng máy, thì cha anh ở chín suối có buồn giận anh không?

– Thấy con cái mình làm ăn khấm khá, thì ổng mừng chứ buồn giận gì?

– Thấy anh bán xuồng chèo của ông già, thì xóm giềng có lên án anh là thằng con bất hiếu không?

– Hổng dám đâu. “Con hơn Cha là nhà có phước”. Ai cũng nói vậy đó.

– Người ta thường bảo rằng: Đạo nào cũng tốt, nên theo đạo nào cũng được. Cần chi mà phải đứng núi này trông núi nọ. Để anh yên tâm, tôi kể thêm một chuyện nữa.

2. Anh xách vali đi Sàigòn. Tới ngã ba, lẽ ra anh phải lên xe buýt đi về hướng Bắc, thì anh lại lên xe lam đi về hướng Nam. Đi được một tiếng đồng hồ, anh mới giật mình: “Chúa ơi! Tôi đi lộn đường rồi”. Ông bạn ngồi kế bên góp ý với anh: “Không sao. Đường nào cũng tốt. Cứ tiếp tục đi với tôi. Đường nào cũng dẫn ta tới một mục tiêu nào đó”. Anh nghĩ gì về ý kiến của người bạn đó?…

Ở trên đời này có rất nhiều tôn giáo vừa cao siêu vừa tốt đẹp. Nhưng không phải vì thế mà ta cứ vô bừa đạo nào cũng được. Đạo là đường. Đường nào cũng dẫn ta tới một mục tiêu. Nhưng ta phải chọn. Nếu ta muốn đi Sàigòn thì phải quẹo tay phải để đi về hướng Bắc. Nếu ta muốn đi Cà Mau thì phải quẹo tay trái đi về hướng Nam. Các tôn giáo cũng vậy. Đạo nào cũng tốt. Nhưng vẫn phải chọn lựa. Đường nào cũng đưa ta tới mục tiêu. Nhưng vẫn phải tự hỏi mình sẽ đi về đâu, để chọn một trong các con đường ấy.

3. Có một người theo đạo Phật. Đạo Phật cao quá, đẹp quá. Tìm hiểu và sống đến chết vẫn chưa hưởng hết được cái đẹp của Đạo. Bỗng một ngày nọ, người ấy gia nhập đạo Công giáo. Mừng quá! Bạn cũ bạn mới đua nhau chất vấn.

– Chị bỏ đạo Phật, theo đạo Công giáo, chị có thấy lương tâm bứt rứt gì không?

– Thưởng thức rừng hoa này, rồi sang rừng hoa khác để thưởng thức nữa, thì tại sao lại phải bứt rứt. Chỉ có niềm vui này cộng với niềm vui kia mà thôi.

– Khi chị trở lại đạo Công giáo, thì mặc nhiên là chị đã bỏ đời sống cũ, để mặc lấy đời sống mới.

– Tôi không hề trở lại đạo Công giáo, có đi sai thì mới trở lại. Tôi theo đạo Phật, đạo Phật quá tốt. Như vậy tôi đi đúng đường. Nay tôi thấy đạo của Chúa hợp với ý nguyện của tôi hơn, thì tôi đi tới. Tôi đi tới, chứ tôi không trở lại. Tôi cám ơn Đức Phật đã dìu dắt tôi tới ngưỡng cửa nhà Chúa. Tôi cám ơn Chúa vì Ngài đã đưa tay ra dắt tôi vào nhà của Ngài.

Anh Hai ơi! Tôi tặng anh ba câu chuyện trên để anh suy nghĩ và cầu nguyện. Tôi cũng cầu nguyện với anh để “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

---------
Trích "Như Trái Mắm"
Lm Pio Ngô Phúc Hậu
Đăng trên báo Cgvdt
#Nhutraimam #NgoPhucHau

-------------------------------

 

PiôHậu 68: MỘT HỌC TRÒ NHIỀU THẦY CÔ (P2)


4. CÔ ACB

 

Mình gặp một vị chủ chăn cao cấp, ngài vừa cười vừa kể chuyện: “Có một cô làm việc trong Ngân PiôHậu 68


Mình gặp một vị chủ chăn cao cấp, ngài vừa cười vừa kể chuyện:

“Có một cô làm việc trong Ngân hàng ACB. Cô mới xin học đạo và theo đạo. Tân tòng mà sốt sắng hơn đạo dòng! Nghe người ta khen mà tôi chưa gặp mặt cô lần nào. Bỗng hôm ấy, trong một dịp đại hội, có một người dẫn cô ấy đến giới thiệu với tôi.
Đã biết chuyện và sẵn có thiện cảm với cô, tôi nói chuyện vui vẻ và cởi mở ngay.
– Chị trở lại đạo hồi nào?

– Thưa (ngập ngừng), con “đi tới” chứ con không “trở lại”. Con theo đạo Phật. Đạo Phật quá hay. Bây giờ con khám phá ra là đạo Chúa hay hơn. Thế là con đi tới luôn. Con không “trở lại” đạo, vì con có đi sai đi lạc đâu mà “trở lại”…

Kể xong chuyện, ngài nhắc nhở mình: “Coi chừng đấy nhá. Chúng ta có thói quen nói là người ngoại trở lại đạo. Nói vậy thì vừa sai vừa xúc phạm đấy…”.

Nghe chuyện “cô ACB trở lại đạo”, mình hồi tưởng câu chuyện của nhà thơ Charles Péguy.

Năm 39 tuổi, Charles Péguy xin học đạo. Khi học Giáo lý, anh được giáo lý viên trình bày về Hỏa Ngục. Người ta thích nói về sự khủng khiếp của Hỏa Ngục, để người nghe vì sợ Hỏa Ngục mà không dám phạm tội. Rõ thật là hay mà không hay.

Sau khi kết thúc bài Giáo lý về Hỏa Ngục, giáo lý viên phỏng vấn Charles Péguy.

– Anh có sợ Hỏa Ngục không?

– Không!

– Ơ hay. Tại sao anh không sợ Hỏa Ngục?

– Tôi có xuống đó đâu mà phải sợ nó.

– Anh này buồn cười nhỉ. Tại sao anh biết là anh không xuống Hỏa Ngục?

– Tôi biết chứ, vì Chúa không muốn cho tôi xuống Hỏa Ngục. Tôi cũng không muốn luôn.

???!!!…

Vô tình Charles Péguy đã trở thành thầy giáo của giáo lý viên. Vô tình cô ACB trở thành cô giáo của mình. Cám ơn Thầy Charles Péguy. Cám ơn Cô ACB.

5. THẦY PHILIPPHÊ

Được Thầy tuyển chọn, Philipphê mừng quá vội chạy đi khoe với Nathanaen: “Đấng mà Môsê và các ngôn sứ nói, tớ vừa mới gặp. Đó là Đức Giêsu, con ông Giuse, người làng Nadarét”. Nghe nói đến Nadarét, Nathanaen cười muốn bể bụng: “Nadarét có gì hay đâu?”. Quả vậy, mọi Ngôn sứ, mọi nhân tài đều xuất thân từ Samari và Giuđê. Galilê quê một cục. Nadarét quê hai-ba cục. Lịch sử minh chứng điều đó. Nadarét quê mùa tới mức độ người Ả Rập cũng biết và có một câu ngạn ngữ nói về cái quê mùa ấy của Nadarét: “Thằng đàn ông nào mà ông Trời ghét nhất, thì ông ấy cho nó một con vợ Nadarét”. Thế là đời nó tàn!

Nathanaen nói đúng quá, Philípphê đành ngậm tăm. Nhưng may quá, anh ta lại nảy ra một sáng kiến: “Thì cậu cứ đến mà xem”. Philípphê dẫn Nathanaen đến gặp Đức Giêsu… Thế là xong. Nathanaen cúi đầu trước Đức Giêsu Nadarét: “Quả thật, Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”. Philípphê lật thế cờ từ thua đậm thành thắng lớn.

Thấy Philípphê hí hửng sung sướng, mình nghĩ ngay đến chiến thuật bất ngờ của ông ta: “Cái gì mình thấy bí thì trao cho Đức Giêsu. Hễ gặp khó khăn vượt tầm tay thì nhờ Đức Giêsu giải quyết. Tâm hồn nào cứng cỏi mình không chinh phục được, thì cứ gửi gắm cho Đức Giêsu. Thế là xong”.

Trên đường truyền giáo, mình bắt chước Philípphê và thấy kết quả đến ngay trước mắt. Tự nhiên mình cảm thấy Philípphê như một người đàn anh giàu kinh nghiệm. Bất giác mình gọi ông là “thầy giáo của mình”

CÔ GIÁO PEARL BUCK

Pearl Buck là con của một cặp vợ chồng người Mỹ sang truyền giáo ở Trung Quốc. Sống và lớn lên ở đấy. Bà am tường văn hóa Trung Hoa như người Tàu và hơn người Tàu. Bà là nhà văn được giải Nobel.

Mình biết bà từ khi đọc cuốn La mère (Người Mẹ) rồi cuốn Good earth (Đất lành). Nhờ bà mình có thêm mớ kiến thức về văn hóa Đông Tây. Nhờ bà mình có được nhiều chuyện dí dỏm để trình bày Tin Mừng.

Khi đọc cuốn Những người đàn bà vĩ đại của dòng họ Kennedy, mình khám phá ra một chân trời mới: một phương pháp truyền giáo khá mới lạ.

Bà Pearl Buck là bạn thân của mẹ Tổng thống Kennedy. Bà Pearl Buck là tín đồ Tin Lành nên mặc nhiên là chống Thánh lễ Misa và chức linh mục: coi chức linh mục là phạm thánh. Bà mẹ Tổng thống Kennedy là một tín đồ Công giáo: rất nhiệt thành, rất ham đi dâng lễ.

Một lần kia bà mẹ Tổng thống Kennedy mời bà Pearl Buck đi dự lễ. Đó là điều tối kỵ đối với tín đồ Tin Lành. Bà Buck nể bạn mà đi. Nhưng trong thâm tâm thì cứ thấy lợn cợn.

Sau lần dâng lễ ấy, bà Buck thú nhận: “Thánh lễ Misa của đạo Công giáo Rôma ru tâm hồn con người vào thế giới thần linh thật”.

Thay vì chống đối và kết án, bà Pearl Buck lại khen ngợi và tôn vinh, tại sao lại có một hiệu quả ngược chiều như thế? Mình ngẫm nghĩ và thấy rằng chính Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể đã chinh phục bà Pearl Buck. Từ sự kiện ấy, mình quyết tâm mời người lương đi dự lễ. Lễ cưới, lễ truyền giáo, lễ bổn mạng họ đạo… mình động viên giáo dân mời tối đa bạn lương dân đến tham dự.

Mình nhận định như sau: Ai ghét đạo mà đi lễ, thì thôi ghét.
Ai vô tâm vô tình với đạo mà đi lễ, thì có thiện cảm với đạo. Ai có thiện cảm với đạo mà đi lễ, thì sẽ xin theo đạo. Kết quả đó là do chính Đức Giêsu Thánh Thể thực hiện.

Một lần kia mình tổ chức lễ 20.11, mình gọi là ngày Nhớ ơn thầy cô. Ai trong họ đạo từ nhỏ tới lớn đã từng học với thầy cô nào, thì mời đến nhà thờ dự lễ để cha sở có điều kiện cám ơn các thầy cô chung một lần. Sau Thánh lễ các cô phát biểu: “Cha ơi, chúng con khóc hết, chịu không nổi. Cả nhà thờ cùng đứng, cùng ngồi, cùng hát, cùng im lặng. Nhất là khi các em cùng cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho thầy cô”. Các thầy thì không khóc, nhưng thành thật công nhận: “Ấn tượng quá linh mục ơi!”.

Bà Pearl Buck ơi, nhờ bà mà tôi mới nghĩ ra cách truyền giáo này. Cám ơn bà! Xin bà cho tôi gọi bà là cô giáo của tôi.

------
Trích "Như trái mắm"
Lm Pio Ngô Phúc Hậu
đăng trên báo CgvDt
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 69: MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ (P1)


1. THẦY SẦU RIÊNG

 

Mình đi dạo lang thang trong vườn Đan viện Xitô. Vườn mà mênh mông như rừng. Bỗng xuất hiện PiôHậu 69


Mình đi dạo lang thang trong vườn Đan viện Xitô. Vườn mà mênh mông như rừng. Bỗng xuất hiện một hàng sầu riêng. Mình đếm một, hai, ba, bốn… đếm mãi mới hết. Lá sầu riêng lưa thưa không che được cái lõa lồ của trái. Kẽ nách này một chùm. Kẽ nách kia một quả. Không muốn giấu giếm, không thèm che đậy. Mình cười thầm trong bụng: “Khoe của”.

Mình thì thầm đếm. Mình im lặng ngắm. Trên màn ký ức xuất hiện biết bao kỷ niệm vui buồn về trái sầu riêng. Bất giác mình thốt lên: “Chào thầy”.

Mình vẫn coi trái sầu riêng là bậc thầy dạy mình rất nhiều về nhân tình thế thái. Trên thế giới hiện nay có bảy tỷ người, thì có lẽ 95% chẳng biết trái sầu riêng là gì. Còn lại 5% thì chia thành hai phe. Phe này ca tụng sầu riêng là “ngon tuyệt vời”. Phe kia thì chửi sầu riêng là “thối như xác chết”. Phe ca tụng thì lầm lầm lì lì cứ ngồi ăn hì hục. Vừa liếm láp vừa mút mát. Liếm mút đến trơ trụi cái hột, đến nhẵn nhụi mười đầu ngón tay. Ăn rồi vẫn tiếc hùi hụi…

Phe chửi thì ầm ĩ, mạt sát không tiếc lời. Lại còn ví von để bêu diếu: “Vàng vàng như…, nhão nhão như…, thum thủm như…”.

Mình đứng ở giữa không theo bên nào nhưng vẫn tự hỏi: “Ai đúng ai sai”. Ai cũng bảo là mình đúng và họ nói với tất cả tấm lòng thành của mình. Cuối cùng mình phải hỏi trái sầu riêng: “Sầu riêng ơi, mày thơm hay mày thối?”. Sầu riêng cố tình không trả lời. Mình hỏi cấp cao: “Chân lý ơi, sầu riêng thơm hay thối?”. Có tiếng trả lời: “Tương đối thôi”. Thì ra khả năng con người chỉ có thế. Đành phải chấp nhận nhau, tìm hiểu nhau và thông cảm với nhau thôi.

Thầy Sầu Riêng ơi, em cám ơn thầy.

2. CÔ GIÁO MAI

Ông nhà vườn đang chuẩn bị hốt bạc. Ông trồng 1.000 cây mai. Ông chăm bẵm như cô bảo mẫu chăm sóc bé thơ. Ông bón phân. Ông tưới nước. Ông đo nhiệt độ ban ngày và ban đêm. Ông đo chiều cao của thân cây và chiều dài của cành xòe. Ông đi tới đi lui. Ông dừng chân và nhìn ngắm. Ông đặt tay lên trán và suy nghĩ… Người ta bảo ông nhà vườn phải lòng vườn mai.

Rồi bỗng dưng ông quên vườn mai. Không bón phân. Không tưới nước… Người ta tưởng ông ngã bệnh nặng… Không phải. Ông mê cờ tướng, ngồi đánh cờ suốt ngày. Người ta xì xào: “Bán đồ phi phế”, “Đánh trống bỏ dùi”; “Mê bồ nhí, thí phu nhân”. Nói mãi chán mồm, không ai thèm nhắc đến ông nhà vườn và 1.000 cây mai nữa.

Bỗng ông nhà vườn lại xuất hiện nhưng không tưới bón mà còn phá phách. Ông ngắt hết lá của 1.000 cây mai, biến rừng xanh thành vườn chết cháy. Một ngàn cây mai giống như một ngàn thằng chết đói, giơ tay khẳng khiu van xin cháo thí… Người xấu mồm bảo:

 “Thằng khùng giãy chết”; “Con điên xé váy”. Ông nhà vườn nghe biết, nhưng không thèm chấp nhất.

Thời gian trôi nhanh. Ngày đầu Xuân sầm sập đi tới. Rừng mai chết biến thành rừng hoa mai vàng bạt ngàn. Trập trùng. Rực rỡ. Xe cộ từ thành phố đổ về nườm nượp. Con buôn xỉa tiền nhanh như máy. Ông nhà vườn hốt tiền nhanh hơn nhân viên môi trường hốt rác. Láng giềng xấu mồm bây giờ há hốc miệng. Chết điếng!

Từ ngày ấy, hễ cứ thấy cây mai thì mình lại ngắm nghía và suy nghĩ, rồi buột miệng: “Chào cô”. Cây mai là hình ảnh tuyệt vời để mình suy niệm Mầu nhiệm Cứu Độ: “Từ thụ nạn đến Phục Sinh”, “Từ khổ giá đến vinh quang”.

Cây mai cũng phải trải qua lịch sử: “Từ khổ gốc đến vinh quang”. Giáo dục trẻ em cũng phải theo gương cây mai. Mọi người muốn làm nên sự nghiệp cũng phải theo gương cây mai. Linh mục, tu sĩ muốn đạt được hào quang của bậc tu trì thì cũng phải nhận cây mai là cô giáo của mình.

Chào Cô Mai.

3. THẦY “SANH-SI-SỌP-GỪA”

Mình đi lượm rác xung quanh nhà thờ, nhác thấy một cây gừa thò đầu ra từ trong kẽ tường. Tức quá, mình túm lấy ngọn nó, kéo thật mạnh. Đứt ngọn. Mình lảo đảo muốn té… Mà gốc và rễ vẫn nằm gọn trong kẽ tường. Thế là nó thắng, mình thua. Mình đứng lặng suy nghĩ…

Sanh-Si-Sọp-Gừa giống như bốn thằng đàn ông có bà con với nhau. Lập trường của chúng nó là sống khỏe, hơn là sống đẹp. Rễ của chúng nó bủa ra xung quanh gốc cây, để lấy muối khoáng y như các loại cây khác. Chúng nó còn cho rễ bung ra khắp mọi cành, mọInhánh. Rễ thả xuống tua tủa như tóc tiên. Rễ còn ôm chặt lấy thân cây như cánh tay vạm vỡ của thằng khổng lồ. Dùng rễ để tồn tại và tồn tại oai hùng. Nhưng để phát triển thì sao? Kế hoạch của chúng nó là không ồn ào như rễ. Chúng nó rất âm thầm và khiêm tốn.

Trái của chúng nó nhỏ xíu chẳng ai để ý. Chỉ loài chim mới thấy. Chim ăn rồi ỉa. Chim ỉa trên nóc nhà, trên đỉnh ngọn tháp. Trong cứt chim có hạt của chúng nó, hạt đó không bị hủy hoại. Nó âm thầm mọc lên. Mọc trên tháp, mọc trên ống máng, mọc trong kẽ tường. Bất khuất. Người ta tức mà chẳng làm gì được nó.

Bốn anh em nhà Sanh-Si-Sọp-Gừa vừa dạy mình một bài học về truyền giáo. Bài học ấy là:

– Hiến thân mình làm thực phẩm nuôi chim.
– Khiêm tốn biến thành cứt chim để được chim gieo giống hộ trên cao.

– Sống cho trọn vẹn nghĩa là sẵn sàng hỗ trợ và hợp tác bất cứ tổ chức nào, bất cứ tôn giáo nào, miễn là tổ chức ấy có ý tốt. Khiêm tốn đến tận cùng, đến độ không ai biết đến, miễn là Đức Giêsu được rao giảng. Cứ thế Tin Mừng sẽ lớn lên, tồn tại, phát triển và bất khuất. Cám ơn Thầy Sanh-Si-Sọp-Gừa.

-----
Trích "Như trái mắm"
Lm Pio Ngô Phúc Hậu
Đăng trên báo CgvDt
#Nhutraimam
#NgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 70: NGẪM NGHĨ SỰ ĐỜI

 

Bảy mươi sáu tuổi đời: gần đất xa trời. Sáu mươi bảy năm ăn tết tha phương: buồn buồn, tủi tủi PiôHậu 70


Bảy mươi sáu tuổi đời: gần đất xa trời. Sáu mươi bảy năm ăn tết tha phương: buồn buồn, tủi tủi. Năm nay mình về ăn tết quê nhà: buồn vui đắp đổi.

Buồn vì người ta mặc áo đẹp quá, mà mình thì không dám. Sợ miệng đời: “Già mà chơi trống bỏi”; “Già mà ham”.

Vui vì người người cười tươi như hoa. Một rừng hoa trùng trùng điệp điệp. “Vui với người vui”, Thánh Phaolô đã bảo thế.

Vui quá quên buồn, mình lê đôi dép cà tàng đi dạo xóm. Gặp bà cụ chống gậy lom khom, mình đon đả hỏi thăm:

– Năm nay bà cụ thọ được mấy mươi rồi?

– Cảm ơn Chúa. Cảm ơn Cha. Năm nay con được tám mươi tư rồi ạ.

– Chúc bà cụ sống một trăm tuổi nhé.

Miệng thì chúc tuổi nghiêm túc như thế, nhưng bụng thì cứ cười thầm. Mình liên tưởng đến câu ca dao:

“Bà già tuổi tám mươi tư. Ngồi trong cửa sổ, viết thư tìm chồng”.Tám mươi tư tuổi mà vẫn còn “tìm chồng”. Ôi, tình đời!

Bà còng như thế kia mà vẫn còn “tí táng” ư? Oan khiên vô cùng. Ôi! Miệng đời!

Mình giã từ bà già tuổi tám mươi tư, để ghé thăm mọi nhà. Nhà nào cũng mời mình uống cà phê. Nhà nào cũng ép mình hút thuốc. Dường như họ đã nghe lóm được câu “ranh ngôn” của mình: “Hút thuốc mà không uống cà phê, thì giống như người đẹp mà phải chống ề” (ế chồng).

Thuốc lá và cà phê không cho mình ngủ trưa, đành vắt tay lên trán nhớ về nhà hưu dưỡng linh mục, nghĩ về thân phận hưu của mình. Sáu khuôn mặt linh mục già hiện ra trên màn ảnh ký ức của mình. Rõ mồn một.

1. Bộ pyjama màu cháo lòng, rộng thùng thình, bọc lấy một ông già ốm nhom ốm nhách. Hai ngón tay khô khẳng đang mân mê chuỗi hột rối nùi. Hai hốc mắt trõm lơ. Cái miệng há hốc, ú ớ không thành lời “a…i… a…” Tạm thông dịch là “Maria”. Cha già buồn tủi vì thấy mình quá cô đơn. Nhưng chỉ buồn mà không thất vọng. Đức tin và đức cậy chập chờn như ngọn đèn dầu trước gió. Nhưng đức mến lại thò ra như tim đèn đang được khêu lên. Buồn vui đắp đổi. Buồn buồn chứ không buồn quá. Tủi tủi mà không dỗi hờn.

Mình đặt tay lên ngực, thì thầm trong miệng:

“Cha già tuổi tám mươi tư, Nằm trên giường bệnh tâm tư buồn buồn”

2. Có một Cha già đi phom phom trên hành lang sâu hun hút. Tóc hoa râm, mặt tươi rói. Lưng ngay đơ. Tay ôm một pho sách dày cộm…

Đó là một linh mục trí thức gạo cội. Đi hưu rồi, nhưng vẫn là con mọt sách, vẫn viết lách. Gần đất xa trời, nhưng vẫn yêu đời, không muốn lìa đời.

Ngài giống như ông tiên sống trên rừng hoa, ngắt từng bông hoa, ném xuống dòng sông. Ngài mỉm cười nhìn xem dòng sông hoa mải miết trôi về miền xuôi, trôi ra biển khơi. Trôi mãi. Trôi mãi.

Bất giác mình thốt lên:

“Cha già tuổi tám mươi tư.  Ngồi trong thư viện viết thư dạy đời”

3. Có một linh mục lưng dài vai rộng, kinh bang tế thế. Suốt năm mươi năm linh mục, chỉ biết làm mà không biết nghỉ. Đứng thì lừng lững như cột đình, đi thì ào áo như bão tố. Nói thì oang oang như sấm vang. Ai cũng tưởng ngài đội đá vá trời xanh. Ai ngờ… có tiếng mà không có miếng. Có lẽ ngài là người có nhiều “bài sai” nhất và bị thuyên chuyển nhiều nhất.

Âu cũng chỉ vì “khôn mà không khéo”, có địa lợi mà thiếu nhân hòa.

Thế rồi tuổi già sầm sập đi tới. Luật nghỉ hưu thì sờ sờ ra đó. Hưu nhưng vẫn khỏe. Ngồi chơi xơi nước thì chịu không được. Ngài bèn đi chu du khắp thiên hạ. Núi rừng trùng điệp, biển khơi bát ngát, thành phố nhộn nhịp, làng quê hiu quạnh… chỗ nào cũng in vết chân ngài. Đi đâu cũng vui cười. Đến đâu cũng tếu táo. Ở đâu cũng một lời hai ý… Cứ thấy ngài ở đâu thì mình buột miệng:

“Cha già tuổi tám mươi tư. Chu du khắp chốn làm thơ ngạo đời”

4. Có một cha già ngồi trên ghế đá, nhìn bâng quơ về phía nghĩa trang của nhà hưu. Hai hàng mộ dài hun hút, đều tăm tắp. Ngài giơ một ngón trỏ, miệng thì thầm: “Một, hai, ba… Ủa, tại sao lại thiếu một cái?” thì ra, ngài tưởng mình đã chết. Chết mà sao không có mộ. Buồn. Tủi.

Bà phước nấu cho ngài một xoong cháo. Ngài khen: “Cháo lươn ngon quá! Ma sơ giỏi quá!” Bà phước bới cho ngài một đĩa cơm. Ngài im lặng ngồi ăn, im thim thít. Im lặng như bà phước nguyện gẫm. Ngài im lặng đứng lên. Ngài im lặng về phòng. Bà phước lẳng lặng khóa cửa phòng ăn và nhẹ nhàng lui gót. Đèn hành lang phụt tắt, bóng hồng chập chờn biến dạng.

Một phút trôi qua. Hai phút trôi qua. Có tiếng đập cửa phòng ăn: “Bình bình. Bình bình”.

– Ma sơ ơi, tới giờ cơm rồi… Bà phước bỏ đói tôi rồi. Thôi, không sao, ăn chay để đền tội.

Thấy thế, mình bụm miệng cười và thầm đọc:

“Cha già tuổi tám mươi tư. Quên quên nhớ nhớ khiến “sơ” bật cười”

5. Có một cha già, già lắm. Ngài đếm từng ngày trên tờ lịch. Mỗi lần đếm ngày ngài lại thì thầm: “Xin để tôi tớ này được an bình ra đi…”.

Ngài mặc áo dòng đen suốt ngày, quanh năm. Lúc nào cũng có chuỗi hột lủng lẳng dưới bàn tay. Ngài quỳ cầu nguyện trong nhà nguyện nhiều hơn ngồi nói chuyện trong nhà khách.

Nét mặt ngài lúc nào cũng đăm chiêu, y như vị ẩn tu trên rừng vắng. Giáo dân cũ của ngài đến viếng thăm ngài thường xuyên. Kính trọng, quý mến, họ xin ngài ban phép lành. Họ xin ngài làm phép chuỗi hột.

Thấy mà ham, thấy mà thèm. Ham quá, thèm quá, mình cầm lòng không được, bèn đọc to lên:

“Cha già tuổi tám mươi tư. Chắp tay cầu nguyện giống như thiên thần”.

6. Cha giám đốc nhà hưu mặc áo các phép, miệng thì thầm đọc lời xá giải và xức dầu bệnh nhân.

Bệnh nhân là một linh mục già, cặp mắt đăm đăm nhìn vào hình bánh tròn tròn, miệng thì thầm: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con. Nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.

Cha già khẽ mở miệng, khẽ khép lại. Hai mắt khép hờ. Hai bàn tay chắp lại trước ngực. Dường như ngài xuất thần.

Bà phước dòng Thánh Phaolô làm dấu Thánh Giá. Cúi đầu nhắm mắt, dường như bà chờ một cái gì chưa đến, nhưng sắp đến.

Mình thổn thức nghĩ về thân phận của mình. Chẳng còn bao lâu nữa, mình cũng sẽ lim dim mắt, run run môi, và cũng sẽ “Amen”. Mình hít một hơi dài, dõng dạc tuyên bố như đọc một tuyên ngôn:

“Cha già tuổi tám mươi tư. Thở ra một cái, giã từ thế gian”.

Tết đến rồi đi. Chẳng thương chẳng nhớ. Hình ảnh các cha già hưu đến rồi đọng lại – Thương mến vô vàn! Xót xa quá chừng!

-----
Trích "Như Trái Mắm"
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
cgvdt.vn
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 71: ĐI VÀO MIỀN ĐẤT LẠ

 

Đức Cha Quang kêu mình lên phòng riêng. Hai cha con chia sẻ với nhau một gói Bastos xanh. Trong PiôHậu 71


Đức Cha Quang kêu mình lên phòng riêng. Hai cha con chia sẻ với nhau một gói Bastos xanh. Trong làn khói thuốc nhẹ nhẹ bay, ngài tâm sự với mình:

– Họ đạo Bàu Sen từ trên mười năm rồi chưa có cha nào đến làm lễ. Không biết tình hình đức tin thế nào. Cha ráng tìm hiểu xem sao?

– Ở Năm Căn có một gia đình gốc Bàu Sen. Để con tìm cách liên lạc lấy tin tức. Nếu cần con sẽ vô đại.

– Vô vùng giải phóng nguy hiểm lắm. Cha nên thận trọng.

– Con là dân chịu chơi mà Đức cha… Nói chơi vậy thôi. Nhưng mà vì Chúa và có Chúa thì con cóc sợ!

Trở về Năm Căn mình gặp ngay ông Tư Thư.

– Ông Tư ơi! Tôi muốn vô thăm họ đạo Bàu Sen. Ông Tư nhắm chừng được không?

– Chắc không sao đâu. Bà con của con ở trong đó còn nhiều lắm. Nếu cha muốn đi thì con đưa đi. Con cho thằng Hiếu đi với cha cũng được nữa. Nó rành đường lắm.

Ngày mồng 9 tháng 2 năm 1973, mình lên đường. Anh Hai nhà mới làm tài công. Thằng Hiếu làm liên lạc viên. Mình ngồi xếp bằng ở giữa xuồng, mặc áo dòng đen, cổ quấn khăn tiều. Ở mũi xuồng cắm một lá cờ Tòa Thánh. Xuồng be mười gắn máy Kobler, chạy xénước. Sông Cửa Lớn rộng mênh mông. Hai bên bờ, rừng đước bạt ngàn. Đẹp quá chừng! Ôi, Năm Căn yêu dấu! Ngươi đẹp, đẹp quá!

Trời nhá nhem tối, mình ghé nhà bà Hai Huế. Bà đến đây từ thời cha Trọng lập dinh điền. Hai mươi năm trôi qua rồi, mà giọng nói của bà vẫn còn đặc sệt Huế.

– Cha cứ ở ni, để tui đi nói với tụi nó.

– Bà đi mô?

– Cha mà cũng mô tê hỉ? Tui đi trình chánh quyền ấp, để tụi nó cho cha nghỉ ở nhà tui.

Mình ăn chưa xong bữa cơm, thì bà Hai về báo tin vui: “Êm rồi cha. Cha đi nghỉ cho khỏe”.

Mình chui vô mùng. Bà Hai tấn mùng, miệng thì thầm: “Muỗi dữ lắm đó. Phải tấn cho kỹ mới được”.

Mình đang thiu thiu ngủ, thì bà Hai kéo mùng, thò đầu vào, ghé sát tai mình: “Chưa êm đâu cha ơi. Nó lại bắt con đi trình nữa. Nhưng kệ nó. Có gì thì mai mình tính”.

“Kệ nó”. Bà Hai bảo thế. Mình cũng nhủ lòng mình: “kệ nó” rồi ngủ một giấc cho tới sáng.

Hôm sau bà Hai xuống xuồng đưa mình tới nhà thờ Bàu Sen, giao mình cho ông Sáu Mẫn. Ông Sáu Mẫn đưa mình đi xem nhà thờ. Nhà thờ chỉ còn là cái nền hoang vắng. Một vài cục gạch đúc bằng ximăng to tổ bố nằm lăn lóc đây đó, cỏ dại mọc um tùm. Mình đứng nhìn cái nền nhà thờ, lòng buồn man mác. Một họ đạo không có cha sở, không có thánh lễ, không có Bí tích rửa tội cho trẻ thơ, không có lễ Hôn phối cho đôi trẻ, không có Bí tích Xức dầu cho người sắp giã từ cõi sống… Nó giống y như cái nền nhà thờ này. Buồn quá. Thương quá.

Nghe tin có ông cha Năm Căn tới, bà con kéo nhau đến ùn ùn. Dường như nhà nào cũng đóng cửa bỏ đó, bồng bế nhau, dắt díu nhau đến để gặp ông cha. Thấy mình, các bà già khóc mếu máo. Mừng quá. Mười năm rồi chưa thấy bóng áo dòng đen. Trẻ con thì dòm mình như dòm người lạ từ cung trăng rơi xuống. Cũng thương đấy, nhưng không dám đến gần. Dòm mãi. Dòm mãi, để biết thế nào là một người mà cha mẹ, ông bà gọi là ông cha một cách thành kính. Lần đầu tiên các em được khoanh tay, cúi đầu “chào ông cố”. Niềm vui của Bàu Sen như bùng vỡ. Gà vịt chết lả tả. Cá lóc, cá rô, rau ngò, rau muống…, người ta đem đến kìn kìn. Cùng nhau cho, cùng nhau nấu nướng, cùng nhau ăn và cùng nhau uống. Uống vì vui quá. Uống vì mừng quá… Tình nghĩa chan hòa. Tình đồng đạo. Tình xóm giềng. Thương quá là thương.

Ba ngày ngồi tòa, dâng lễ, rao giảng, rửa tội và hợp thức hóa Hôn phối… Sáng ngày 12 tháng 8, sau thánh lễ, mình ngỏ lời với bà con.

– Tôi đến đây có mục đích gặp chánh quyền tỉnh để xin phép được ra vô thường xuyên, giúp anh chị em giữ đạo. Chờ hai ngày rồi mà vẫn chưa được gặp chánh quyền. Hôm nay tôi phải về, để ngày mai khai trương giáo điểm Cái Keo. Vậy xin anh chị em ngỏ lời với chánh quyền tỉnh giùm tôi.

– Họ đến rồi. Bà con đua nhau khoe tin vui.

Cả họ đạo kéo nhau qua nhà kế bên. Chánh quyền tỉnh đang ngồi chờ ở đó.

Bước vào nhà, mình đon đả bắt tay bốn ông cán bộ. Bàn tay ông nào cũng mềm xèo. Mặt ông nào cũng nghiêm nghị như ông vua ra ngự triều. Mình tươi cười mở màn xã giao:

– Tôi vô đây để được gặp quý vị, để xin quý vị giải quyết cho tôi được phép ra vô thường xuyên…

– Chưa! Một người trong bốn giơ tay làm dấu hiệu không được nói.

Bầu khí trở nên căng thẳng quá chừng. Im lặng tuyệt đối. Không ai dám nhìn mặt nhau. Bà con ngồi chồm hổm chật căn nhà, ngó nhau một cách thất vọng. Im lặng chừng một phút mà tưởng như mười phút. Một ông (có lẽ là cao cấp nhất) bắt đầu lên tiếng:

– Anh vô đây là bất hợp pháp.

– Đúng thế. Tôi ở vùng quốc gia, ở đây là vùng giải phóng. Tôi phải vô bất hợp pháp, để xin quý vị cho tôi được vô hợp pháp.

– Nhưng anh tập họp dân chúng bất hợp pháp.

– Tôi không tập họp bà con. Bà con thấy tôi vô thì mừng quá. Họ đến gặp tôi, chứ tôi không mời họ.

– Nhưng anh làm lễ bất hợp pháp.

– Tôi ở vùng quốc gia, nên không biết luật của địa phương này. Tôi làm ba lễ mà không thấy ai cấm, nên tôi tưởng là được phép. Bây giờ tôi mới biết, nên từ nay tôi không làm lễ nữa.

Bầu khí căng thẳng bỗng trùng xuống. Trùng xuống mãi, rồi hai bên bắt đầu cười tươi với nhau. Ông cán bộ tỉnh tự giới thiệu mình là thứ tám, đi tập kết ra Bắc năm năm mươi tư, trở về để cùng nhân dân kháng chiến chống Mỹ. Ông kể chuyện vui: “Khi ra Bắc, thì được học tập ngay là không được chửi thề đ.m. Con nít ngoài Bắc nó nói chuyện ngộ lắm. Nó nói như nó là cha mình vậy: “Bác ơi bác. Bác lại đây cháu bảo cái này”. “Bảo cái này” chỉ có nghĩa là nó muốn kể chuyện cho mình nghe thôi. Ban đầu chưa hiểu thì tức lắm. Cứ tưởng là nó hỗn. Sau mới hiểu…”.

Thấy ông Tám cởi mở kể chuyện vui, mình đáp lễ bằng chuyện không vui mà cởi mở. “Hồi tôi mới vô Nam, bị bọn con nít chọc quê: Bắc kỳ ăn cá rô cây! Tôi trả đũa: “Bắc kỳ ăn cá rô cây, rồi đậu ông Nghè, làm quan huyện Nhà Bè. Nam kỳ chợ chạy te te, không kịp ăn cá rô thật”. Ông Tám đắc ý: “Đúng thiệt. Ngoài Bắc người ta ham học lắm. Nhà nghèo chỉ ăn rau muống luộc chấm tương, nhưng vẫn cố cho con đi học Đại học”.

Chuyện vui nói mãi cũng không hết. Đành phải kết thúc.

– Xin quý vị vui lòng cho tôi một giấy phép được thường xuyên vô làm lễ ở Bàu Sen.

– Chúng tôi chưa thể giải quyết ngay được. Xin mời linh mục đi với chúng tôi lên cấp trên, để cùng trao đổi thêm.

Có tiếng bà Sáu Mẫn từ trong nhà bếp vọng ra:

– Thà là bắn tôi ngay bây giờ, rồi cho cha về. Không được bắt cha.

– Ai nói gì kỳ vậy? Đây là chúng tôi mời linh mục đi lên cấp trên để lo cấp giấy cho linh mục đi lại tự do. Ai bắt linh mục hồi nào đâu.

– Không bắt thì tại sao có súng?

– Thôi, bà Sáu ơi! Để tôi đi vắng ít bữa, rồi sau này tôi sẽ được ra vô tự do. Bà con có thánh lễ hoài hoài. Mình bớt lửa, để nồi nước khỏi trào ra.

– Ừ thì chúng tôi để cha đi. Nhưng mà phải có quới chức đi theo.

Hai ông quới chức già cùng ngồi chung một xuồng với mình. Nhưng vẫn có một anh bộ đội ôm súng ngồi ở đằng mũi. Đi mãi, đi mãi mà chả biết đi đâu. Xế chiều, xuồng ghé một nhà dân để ngủ đêm. Nhà này có một đứa con mới bị rắn cắn chết. Xác thì chôn rồi, nhưng bầu khí tang tóc vẫn còn bao trùm. Hương khói vẫn còn nghi ngút. Mình chẳng dám nói gì. Chỉ nghe người ta nói với nhau. Chẳng dám chia buồn, mình chỉ lặng lẽ thắp một cây nhang. Đứng lặng một lát, rồi theo ông chủ nhà dẫn đến cái giường có buông mùng sẵn. Nằm trong mùng, mình giả vờ ngủ ngon, để theo dõi tình hình và lượng đoán những gì sẽ xảy ra vào ngày mai.

Sáng hôm sau, mình xuống xuồng và lại đi như hôm trước. Đi được chừng một tiếng, thì xuồng ghé bến. Có người chạy ra đón, chào cha tíu tít. Sau này mới biết đây là nhà ông Bảy Cho, người Công giáo có vợ ngoại đạo.

7 giờ 20, bốn ông cán bộ gặp hôm qua, nay đến “làm việc”. Làm việc suốt từ lúc đó đến 10 giờ đêm. Ăn hai bữa cơm tại chỗ, vừa ăn vừa làm việc. Ông Tám đề nghị:

– Nếu anh thấy mệt, thì chúng ta nghỉ một chút.

– Tôi không bao giờ biết mệt, đề nghị cứ làm việc luôn cho tới khi có kết quả.

Nội dung xoay quanh vấn đề Công giáo chống Cộng. Cụ thể là Bùi Chu – Phát Diệm; Giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi đưa dân Công giáo vào Nam để dồn phiếu cho Ngô Đình Diệm khi tổ chức bầu cử chọn chế độ; Trà Lồng, Hòa Thành, Tắc Sậy… biến nhà thờ thành đồn bót chống phá cách mạng; “Nhất Hóa, nhì Tông, tam Đầy, tứ Đợi”: bốn linh mục cực kỳ phản động… Khi thấy bầu khí căng thẳng quá, mình tìm cách lái sang chuyện tiếu lâm. Có lúc hứng quá quên chuyện chánh trị, bàn chuyện thịt chó đến cả nửa tiếng đồng hồ. Nam Bộ thì có món khìa và xào lăn là ngon. Bắc bộ thì có tiết canh, nhựa mận, thịt luộc và thịt nướng. Thịt chó Nam thì ngon nhưng không ghiền. Thịt chó Bắc thì vừa ngon, vừa ghiền. Ghiền đến độ phải đưa thịt chó vào văn hóa dân tộc: “Sống trên đời đánh miếng dồi chó, xuống âm phủ biết có hay không”.

Cứ vô đề rồi lại lạc đề như thế suốt hơn 14 tiếng đồng hồ. Nguyên tắc tranh luận của mình là:
Một: Không bao giờ nói dối. Không sợ giấu đầu hở đuôi. Hai: Ai có Chúa Thánh Thần, thì người ấy thắng.

Theo nguyên tắc ấy, mình cứ bình tĩnh như con ếch, tranh luận hơn 14 tiếng đồng hồ mà không thấy mệt.

Đúng 22 giờ, ông Tám tuyên bố bế mạc, rồi nhắn nhủ mình: “Gia đình ông Bảy đây là người đạo. Chúng tôi bố trí cho anh ở đây, để anh đọc kinh và làm lễ cho thoải mái. Anh em sẽ giải quyết tốt cho anh thôi”. Mình lấy mùng ra để giăng. Anh công an huyện giành giăng giùm. Cái mùng nhà binh màu cứt ngựa làm mình nhột. Mình vội tếu táo: “Anh Sáu ơi, thằng Mỹ thì nó xấu, mà mùng của nó thì tốt quá. Người ta bán đầy ở ngoài chợ ấy”. Anh Sáu chỉ cười: “Thôi anh ngủ ngon. Tôi về nha”. Năm ngày sau mình nhận được giấy phép đi từ Bàu Sen về Năm Căn.

Lần đầu tiên mình đi vào vùng Giải phóng. Ba ngày ở nhà ông Sáu Mẫn, mình sinh hoạt thoải mái như một cha sở đi mở tuần đại phước. Sáu ngày ở nhà ông Bảy Cho, mình co giò như một người bị tạm giữ vì nghi vấn chánh trị. Lúc nào mình cũng banh mắt ra để nhìn, để thấy thật nhiều. Thấy cảnh thiên nhiên tuyệt vời. Thấy nhà dân nghèo xơ xác. Thấy cây vườn bị mảnh đạn pháo cưa cắt nham nhở… Lúc nào mình cũng vểnh tai lên để nghe. Nghe tiếng khóc thổn thức của bà già phải sống xa nhà thờ. Nghe tiếng đạn pháo bập bùng từ xa vọng về, nghe vui vui như tiếng trống đại của lễ hội, mà làm máu chảy thịt rơi… Đĩa nén hình ảnh và âm thanh bị nạp quá tải. Đành phải xóa một mớ. Chỉ giữ lại những kỷ niệm không bao giờ quên.

KỶ NIỆM MỘT

Ở nhà ông Bảy Cho được một ngày, thì hai ông quới chức già xởi lởi với mình:

– Chúng con thấy công việc của cha cũng đã tạm ổn. Chúng con xin phép về. Thủng thẳng rồi chúng con lại vô thăm cha.

– Thôi được, các ông cứ về đi. Ở đây lóng ngóng suốt ngày chẳng làm được việc gì đâu.

Mình tiễn chân hai ông xuống bến. Chẳng buồn, chẳng vui. Không tiếc, không nhớ. Tâm trí cứ bồng bềnh trôi, không bờ không bến. Hai ông ở lại cũng chẳng có chuyện gì để nói. Có nói cũng chẳng đúng tần số tư duy của nhau.

Trưa hôm sau có một xuồng ghé bến. Trên bờ dưới sông gọi nhau ơi ới. Thì ra các ông các bà Bàu Sen tới. Toàn là chỗ quen thân của ông Bảy Cho. Họ đi thăm nuôi mình. Bánh, kẹo, bia, nước ngọt và thuốc lá Capstan, Ruby. Ai nấy đều mừng rỡ như chợt tìm được sự sống trong cõi kẻ chết. Sau này mình mới hiểu rõ chuyến thăm nuôi này.

Hai ông quới chức già vừa mới về tới Bàu Sen, thì bị các bà bao vây, chửi cho một trận tơi bời hoa lá.

– Cho hai ông đi để hủ hỉ với cha, các ông lại bỏ cha mà về.

– Thấy tình hình êm rồi, thì về. Có ở đó thì cũng có giúp cha được gì đâu.

– Các ông nói hay nhỉ. Đàn ông gì mà buồn cười quá à.

Một đàn bà, hai đàn bà, một tập thể đàn bà nói xa xả như bắn đại liên. Đàn ông chỉ cười trừ chịu trận. Đàn ông đánh đàn bà, thì thắng. Nhưng cãi với đàn bà, thì chỉ từ thua đến thua.

Đàn bà ơi, trong lúc khó khăn, tôi mới thấy thế nào là đàn bà. Đàn bà như sao trên trời, nhà văn Nguyễn Quang Sáng bảo thế. Sao trên bầu trời chỉ thật lấp lánh vào những đêm 30, đêm tối tăm mù mịt. Và đời tôi đang là đêm 30 ấy. Cám ơn đàn bà. Và mãi mãi không quên.

KỶ NIỆM HAI

Một ông cán bộ hỏi mình:

– Anh nghĩ thế nào mà dám vô đây?

– Giản dị thôi. Đất nước ta là một. Nhân dân ta là một. Hiệp định Paris hai bên đã ký. Chánh sách Cách mạng là xóa bỏ hận thù, chín bỏ làm mười. Bàu Sen là Việt Nam. Giáo dân Bàu Sen là người Việt Nam. Vậy thôi.

– Nhưng lỡ anh em cấp dưới không hiểu, bắt anh, bỏ tù anh thì sao?

– Không sao cả. Cách mạng luôn luôn sáng suốt, thế nào cũng biết tôi là người tốt, thì sớm muộn gì cũng thả tôi ra thôi. Chính tôi cũng đoán trước rằng thế nào tôi cũng bị bắt và sẽ bị giam giữ ít nhất là ba tuần. Các anh sẽ phải cho người về Năm Căn để điều tra về tôi. Mà tôi thì đã ở Cần Thơ bảy năm, nên các anh còn phải cho người về Cần Thơ để điều tra về tôi nữa. Thời gian nhanh nhất cũng phải cỡ hai mươi mốt ngày. Không ngờ các anh chỉ làm việc trong vòng có sáu ngày. Mau quá!

– Những lỡ anh bị bắn lầm thì sao?

– Cũng không sao hết. Tôi sống thì tôi còn sai lầm. Tôi chết thì hết sai lầm. Chết là về với Chúa. Sướng!

– Thế thì tôi xin thua anh. Ông cán bộ mỉm cười, chắp tay xá mình một cái.

Quả thật, mình không thể ngờ được tình hình đang xấu như thế bỗng xoay chiều đẹp như vậy. Bạn bè của mình không ở trong cuộc chê trách mình là liều lĩnh, là dại dột và gọi mình là anh Tám-Liều. Ừ thì mình có liều thật, nhưng mình tin rằng có một bàn tay vô hình vẫn dìu dắt mình. Bất giác mình nghĩ đến thánh Phêrô. Ông đang ngồi tù chờ hôm sau sẽ dâng đầu cho vua Hêrôđê. Thế rồi bỗng xiềng rơi ra. Thiên Thần bảo ông khoác áo vào mà đi. Đi tới cửa phòng giam, cửa tự động mở. Đi tới cổng trại giam, cổng cũng tự động mở. Ông đi trên đường phố, cứ ngơ ngơ, ngỡ mình đang mơ…

KỶ NIỆM BA

Trong thời gian làm việc suốt 14 tiếng lẻ 20 phút, có một câu hỏi có vẻ nặng kílô nhất.

– Thằng Mỹ là một đế quốc siêu cường, thế mà nó phải ngồi vào hội nghị xin tạm ngưng chiến với ta. Như vậy là nó thua. Theo ý anh thì nó có chịu thua thật không?

– Tôi là linh mục, tôi chỉ hiểu biết về tôn giáo. Còn về chính trị, thì tôi phải học hỏi với quý vị. Nhưng tôi cũng có ý kiến riêng của mình. Vì ý kiến của tôi rất thô thiển, nên mong được quý vị góp ý thêm.

Theo như tôi biết thì Mỹ đã đổ vào cuộc chiến Việt Nam hơn 600 tỉ mỹ kim. Một trực thăng rớt là mất đứt 300.000 đôla. Một chiếc xuyên tốc đĩnh (PCF) bị bắn chìm, thì cũng 300.000 đôla bay thành mây khói. Một máy bay B52 rớt, thì bằng thiêu rụi hằng 100 triệu đôla. Còn súng đạn bắn hằng ngày thì hằng hà sa số. Tất cả đều là đôla đổ xuống sông. Bây giờ ngưng chiến, Mỹ sẽ để dành được mỗi năm hằng trăm tỉ đôla. Với số tiền này Mỹ có thể mua chuộc cán bộ ta. Có tiền thì mua tiên cũng được. Đức Giêsu, Chúa của chúng tôi đề cao cảnh giác tối đa về tiền bạc. Ngài dạy rằng: “Các ngươi không thể vừa thờ Thiên Chúa, vừa thờ tiền bạc được”. Giuđa, đệ tử của Ngài, cũng chỉ vì mê tiền mà phản bội Ngài.

Bốn ông cán bộ đều sững người. Im lặng tuyệt đối chừng mười giây. Sau đó các ông mới mỉm cười tươi.

– Cám ơn anh đã thẳng thắn góp ý.

Đến bây giờ mình vẫn tự hỏi tại sao hôm ấy mình lại bạo mồm đến thế? Âu cũng chỉ vì mình sợ tiền quá thể. Và cũng chỉ vì mình thông cảm rất sâu sắc với nỗi đau của Thầy chí thánh khi một đệ tử của Ngài đã bị thần tài đánh gục ngay trước mắt của Ngài.

Đau quá! Trên thế gian này đã có biết bao nhiêu người phản quốc, phản thầy, phản cha mẹ, phản vợ chồng, phản anh em, phản bạn bè. Truy ra, thì nguyên nhân căn bản cũng vẫn chỉ là tiền mà thôi. Tiền ơi, ta sợ mi quá đi thôi! Rồi cuối cùng thì trên thế giới này chẳng còn thần tượng nào đứng vững, chẳng còn lý thuyết nào tồn tại. Chỉ còn mi và Thiên Chúa đó thôi. Thầy chí thánh của ta đã tuyên bố rằng: Ai thờ mi, thì chống lại Thiên Chúa. Ai thờ Thiên Chúa, thì sẽ chống lại mi. Giuđa đã theo mi và chống lại Thầy của ta. Mi thắng và Thầy của ta thua. Nhưng Giuđa theo mi, thờ mi, thì được cái gì? Mátthêu và Phêrô, hai đồng liêu của Giuđa đã trả lời thay mi. Giuđa treo cổ tòn ten trên cành cây. Tiền ơi, mi thưởng công cho đệ tử của mi như thế ư? Đểu!Mi là thằng đểu có tầm cỡ trên thế gian này. Người ơi, tiền là thế đấy.

KỶ NIỆM BỐN

Ông cán bộ trao cho mình tấm giấy đi đường, ân cần dặn dò:

– Ở đây chúng tôi quen biết anh rồi, nên anh có thể ra vô thoải mái. Nhưng chỉ vô đây thôi, đừng vô chỗ khác. Lỡ ra mà anh gặp nạn, thì rắc rối lắm.

– Không sao đâu. Tôi sẽ đi Cái Cấm. Tôi sẽ lại bị bắt. Cách Mạng sáng suốt sẽ lại điều tra. Và tôi sẽ được thả ra.

– Đừng! Nếu anh muốn đi Cái Cấm, thì móc nối cho chúng tôi hay, để chúng tôi bố trí đón tiếp.

Ông cán bộ tỏ vẻ băn khoăn lo âu. Còn mình thì cứ tỉnh bơ như con ếch, cứ coi trời bằng vung.

Mình đi làm công tác mục vụ trong vùng giải phóng làm khổ biết bao nhiêu người. Ông Nhan Nhựt Chương, Đại tá Tỉnh trưởng tỉnh An Xuyên than phiền với mình rằng: “Cha vào làm lễ trong vùng giải phóng, chỉ làm lợi cho Cộng sản”. Ông méc Đức cha Quang và xin Đức cha cấm không cho mình vô vùng giải phóng. May quá, Đức cha Quang không cấm mà còn khuyến khích. Ông ra lệnh cho Quận trưởng Đầm Dơi không được cho mình vào Bàu Sen. Nhưng cảnh sát Đầm Dơi lại dấm dúi kiếm xuồng cho mình đi. Lại còn tiễn chân bằng vài gói thuốc Salem nữa. Ở Bàu Sen, cán bộ xã giận mình quá lẽ. Hăm dọa đủ thứ. Dân méc cán bộ Tỉnh. Tỉnh điều tra. Anh nào cũng chối đay đảy. Tỉnh và Huyện đều phải cắn răng chịu đựng, vì sự đã rồi. Tiến thoái lưỡng nan. Khổ ơi là khổ. Mình không hối hận vì đã đi làm công tác mục vụ trong vùng giải phóng. Nhưng mình muốn gởi lời xin lỗi đến với những người đã khổ vì mình, dù người ấy ở bờ bên này hay ở bờ bên kia của con sông tanh tưởi mùi máu.

-----
Trích sách "Như Trái Mắm"
Lm Pio Ngô Phúc Hậu
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 72: ĐI LANG THANG

 

Trời rét căm căm. Mưa bui bui. Hạt mưa nhỏ như nước đái muỗi, không đủ sức rơi xuống đất, đành PiôHậu 72


Trời rét căm căm. Mưa bui bui. Hạt mưa nhỏ như nước đái muỗi, không đủ sức rơi xuống đất, đành bay theo gió bấc. Rét quá, mình phải khoanh tay mà đi. So vai, rụt cổ, khúm núm y như đứa con gái đang ăn vụng bị mẹ bắt quả tang. Người người khoanh tay. Người người khúm núm. Mùa rét miền Bắc là thế. Mưa phùn gió bấc là vậy. Buồn cười…

Mình đang đắc chí với câu định nghĩa “mùa đông là mùa lễ phép, là mùa khúm núm”, thì bỗng cụt hứng! Một luồng gió lạnh buốt từ dưới sông thổi lên quật vào mặt tuồn vào cổ, luồn qua nách, lách vào mọi ngõ ngách của thân thể. Mình thôi khoanh tay, để lấy hai bàn tay bịt mặt. Lạnh buốt xương sống, tê buốt hai chân.

Chẳng còn hứng thú gì để ngắm cảnh, mình đành dừng bước để thủ thế. Hai đường đùi khép khít khịt. Hai bàn tay bịt chặt lấy mặt. Nhưng vẫn để hở một kẽ nhỏ, để thấy xe cộ lác đác vụt qua, để may ra gặp được một tình người ấm áp…

Bỗng thấy một ông già từ đàng xa đi tới. Tay phải cầm roi tre, vừa đi vừa quất, y như người vô công rỗi nghề. Râu bạc trắng, ngắn tủn và lưa thưa, mẫu người không cầu toàn. Mình thôi bịt mặt, chăm chắm nhìn ông. Ông đứng lại, chăm chắm nhìn mình. Mình toe miệng cười. Ông toét miệng đáp lễ. Mình vội vã chạy đến với ông. Hai bàn tay xoắn lấy nhau. Mình đon đả hỏi:

– Bác đi đâu đấy?

– Tôi đi chăn bò. Mới buộc nó vào cọc ở đàng kia. Tính về nhà nghỉ một tí.

– Nhà bác ở xa không?


– Ngay đàng kia kìa.


– Năm nay bác thọ bao nhiêu?

– Bảy mươi hai rồi.

– Thế là bác thua tôi bốn tuổi. Tôi bảy mươi sáu rồi.

– Tôi thua thì tôi xin làm em.

– Làm em thì phải ăn thêm vác nặng. Còn tôi làm anh thì… đóng đanh vào đít.

Hai người cùng cười hể hả, y như bạn thân từ thuở thơ ấu. Chưa quen mà đã thân, mình dấn tới:

– Bác cho tôi theo về thăm nhà được không?

– Thế thì hân hạnh quá.

Hai ông già băng qua đường, xuống dốc đê, vừa đi vừa nhảy bậc y như hai thằng trẻ con. Từ chân đê về đến nhà ông chăn bò không tới 100m. Căn nhà gỗ ba gian cũ kỹ. Trang trí nội thất vừa chật chội vừa rườm rà, y như bà già đang níu kéo sắc đẹp một cách vô vọng.

Sau một tuần trà, hai ông già thi nhau dốc bầu tâm sự, mình mở màn:

– Bác tên là gì nhỉ?

– Em tên là Cầu (tên tác giả đặt, không phải tên thật).

– Tại sao bác bảy mươi hai tuổi rồi mà còn lanh lẹ thế? Răng còn nguyên, mắt còn tinh, tai còn thính. Chỉ có cổ thì… như có dây leo…

– Em mồ côi cả cha lẫn mẹ, được Đền Và đem về nuôi. Ai cũng bảo em chỉ sống được đến ba lăm tuổi là cùng. Thế mà năm kia em mừng thất tuần rồi đấy.

– Nhắm chừng bác sống tới một trăm không?

– Sống chết là do trời định, có ai biết được đâu? Thế còn bác thì nhà ở đâu?

– Nhà tôi ở trong Nam. Tôi di cư vào Nam năm 1954. Sau ba mươi bảy năm tha phương cầu thực, bây giờ lá rụng về cội. Cội ở 70 Lê Lợi, Sơn Tây.

– Thế còn vợ con thì thế nào?

– Không vợ, không con. Cu ky chùi lủi. Vì thế hôm nay mới rảnh mà đi lang thang. Nhờ đi lang thang mới gặp bác ở đây. Nhờ gặp nhau mà biết nhau và kết nghĩa anh em.

– 70 Lê Lợi là chỗ nào nhỉ?

– Là Nhà thờ Sơn Tây.

– Thế thì em biết. Em đến đó hôm có đám tang ông Giám mục. Thế bác đi tu hả?

– Ừ. Tôi là linh mục. Nhưng nghỉ hưu rồi. Sở thích của tôi là truyền giáo. Nếu bác muốn tìm hiểu về đạo Công giáo thì tôi nói hết cho mà nghe.

– Đạo nào tôi cũng quý. Nếu được thì bác đến nhà tôi, dạy đạo cho tôi.

– Sẵn sàng. Để rồi chúng mình tính sau. Bây giờ tôi phải về, vì sắp tới giờ cơm. Chúng tôi ăn cơm tập thể. Mai mốt tôi sẽ tặng bác một cuốn sách do tôi viết. Bác đọc sẽ thấy tôi là ai và đạo Công giáo là gì… Thôi chào bác nhá.

– Anh về. Nhớ trở lại thăm em nhá.

Hai ông già bắt tay nhau, vỗ vai nhau, cười với nhau, níu kéo nhau. Có vẻ thân thương lắm, may mà không có ai trông thấy. Nếu có ai thấy thì bia miệng lại dèm pha: “Già mà chơi trống bỏi. Già mà như trẻ con”.

Sơn Tây 27.02.2012

Sáng nay mình lấy một cuốn Nhật Ký Truyền Giáo và một cuốn Viết Cho Em bỏ vào túi xách, nhẩn nha đến bậc cầu thang, xuống văn phòng, bảo chú tu sinh:

– Con lấy xe máy chở cha đi dạo một tiếng đồng hồ.

Xe chạy với tốc độ 40km/h. Gió thổi vù vù. Lạnh quá! Mình giấu mặt sau lưng chú tu sinh để tránh gió. Gió lạnh không quất vào mặt được, thì lại vuốt hai đường đùi. Đùi tê cóng. Mình phải lấy hai bàn tay mà xoa. Hai đùi ấm lên. Nhưng hai mu bàn tay lại lạnh buốt. Đúng là tránh hùm phải hạm. Buồn cười. Đời là vậy.

Sau mười phút. Mình đã đứng trong sân nhà ông Cầu. Căn nhà gỗ ba gian: cửa đóng im ỉm. Căn nhà dưới: cửa mở kiểu e thẹn. Mình la to:

– Ông Cầu có ở nhà không?

– Có! (Giọng the thé của đàn bà). Ông ơi! Về mau đi, có khách hỏi thăm ông đấy!

Ông Cầu từ bên nhà đứa con cả, vội vã chạy về. Hai vợ chồng mừng quá đua nhau nói tíu tít, nói oang oang. Chồng nói nhiều, vợ nói nhiều hơn. Cuối cùng chồng ngồi yên, để cho vợ nói một mình.

Bà khen chồng: “Ông nhà tôi lành lắm. Từ ngày lấy nhau đến bây giờ, tôi chưa hề nghe ông ấy nói ‘Đ…M…’ bao giờ”.

Bà khoe con: “Con cái nhà tôi đứa nào cũng có công ăn việc làm. Chỉ có đứa con gái thì nghèo. Chồng nó gặp khó khăn phải bán nhà bán cửa, ra Hà Nội làm mướn. Không đến nỗi thiếu ăn nhưng không dư giả được. Mà… nó có một đứa con học giỏi lắm. Tôi dặn nó phải học thật giỏi để được lên tivi… Con nhà tôi không biết nói tục, đứa nào chửi tục thì tôi bảo: “Dù anh hay em cũng được vả vào mồm nó”.

Bà tôn vinh ông thân sinh: “Ông cụ sinh ra chúng tôi dạy chúng tôi phải giúp đỡ xóm giềng. Ai không có cơm ăn, thì cho người ta một bát gạo. Ai hỏi vay, thì cho vay. Không được từ chối…”.

Bà tự khen mình: “Tôi nhớ mãi lời của ông cụ. Thấy ai nghèo, tôi cũng giúp đỡ. Có những người xấu vay mà không trả. Tôi cũng bỏ qua luôn…”.

Thấy bà già nói muốn hụt hơi, mình ra tay tế độ. Mình vỗ vai bà già:

– Bà ơi, bây giờ bà cho tôi phỏng vấn bà nhá. Tôi không phải là nhà báo, nhưng tôi cũng có viết lai rai.

– Bác muốn phỏng vấn cái gì?

– Bà có bốn đứa con, vậy mỗi đứa bà chùi đít cho nó bao nhiêu lần?
– Tôi chả nhớ đâu.

– Tôi tính rồi. Mỗi đứa con được mẹ chùi đít ít nhất là 1.500 lần. Mẹ chùi đít cho con nhiều như thế, mà con thì chưa chùi cho mẹ được một lần nào. Thế mới thấy: công cha mẹ thì quá nhiều, mà con cái đáp đền chẳng có bao nhiêu.

– Có chứ. Tôi được chùi đít cho ông cụ tôi nhiều lần. Những ngày cuối đời, cụ nằm một chỗ, tôi phải lo hết, từ thay quần áo cho tới lau chùi…

– Bà hiếu thảo với cha mẹ: tốt quá. Nhưng còn người cha nữa mà chưa thấy bà hiếu thảo.
– Tôi có một cha một mẹ thôi. Còn cha mẹ nào nữa?

– Ông Trời là người cha cao nhất. Chúng ta vừa phải thờ cha mẹ, vừa phải thờ ông Trời nữa. Tôi là linh mục truyền giáo, tôi chỉ mơ ước được thấy bà thờ Trời, gọi ông Trời là cha. Bà đã hiếu thảo với cha mẹ, bà đã yêu thương người nghèo, bà đã làm đúng ý trời đấy. Tôi đề nghị với bà là, mỗi sáng bà chắp tay lạy Trời nhưng phải gọi ông Trời là cha: “Lạy ông Trời là cha của con”. Khi nào rảnh, tôi sẽ đến đây nói chuyện ông Trời là cha cho bà nghe.

– Thế bác là linh mục hả? Vâng con xin mời cha đến dạy con về đạo. Con đội ơn cha.

– Rồi, tôi về nhá. Tôi sẽ trở lại thăm hai bác hoài hoài.

Mình ra về, lòng vui phơi phới. Vui quá, quên cả mưa phùn, quên cả gió bấc. Mình thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa biến gia đình này thành gia đình Lyđia, con đầu lòng của giáo đoàn Philipphê”.

--------
Trích "Như Trái mắm"
Lm Ngô Phúc Hậu
Đăng trên báo CGvDT
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 73: CON TU HÚ

 

Tu hú… Tu hú…”. Nghe tu hú kêu, mẹ mình bảo: “Vải sắp chín rồi”; bố mình bảo: “Nước sông Hồng PiôHậu 73


“Tu hú… Tu hú…”. Nghe tu hú kêu, mẹ mình bảo: “Vải sắp chín rồi”; bố mình bảo: “Nước sông Hồng sắp tràn bờ”; còn mình thì tự nhủ: “Sắp được nghỉ hè rồi”.

Từ hồi còn bé tí, mình đã yêu tu hú.Yêu da diết thế mà chỉ nghe tu hú kêu, chứ chưa bao giờ được nhìn thấy dáng dấp của nó. Thế rồi hôm ấy có một con tu hú non rơi từ ngọn cây gạo xuống đất. Rơi mà không đau vì nó đã có lông cánh và đang chập chững tập bay. Vừa bay bằng cánh, vừa chạy bằng chân. Mình đuổi theo để bắt… thì vèo một cái, con quạ bay xẹt qua đầu mình. Nó muốn đánh mình, để bảo vệ con tu hú non.

Con tu hú có lông đen như con quạ, nhưng lại mọc xen kẽ những cái lông màu iốt. Mình hỏi bố:

– Bố ơi, tại sao quạ mẹ lại đẻ ra tu hú con?

– Không phải vậy đâu. Quạ thì đẻ ra quạ. Tu hú thì đẻ ra tu hú. Nhưng… buồn cười lắm. Để bố kể cho mà nghe.

Tu hú không làm tổ. Nó chờ cho quạ đi vắng, thì vào đẻ trộm trong tổ quạ. Quạ ngu chả biết. Cứ nằm ấp cả hai thứ trứng. Khi trứng nở, thì có cả quạ con lẫn tu hú con. Quạ ngu quá, cứ tưởng tất cả là con của mình. Hằng ngày đi tha mồi về bón cho cả hai dòng con. Tập bay cho chúng cùng một lượt. Đến khi tu hú đủ lông đủ cánh thì bay vù đi. Tu hú vẫn là tu hú, chẳng lai quạ một tí nào. Quạ bị tu hú lừa gạt từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ngàn năm trôi qua, ngàn thế kỷ trôi qua, quạ vẫn chả biết gì. Quạ vẫn là tên đại ngu, tu hú mãi mãi vẫn là tên đại bịp sống nhởn nhơ giữa càn khôn. Thiên nhiên không tố cáo. Lịch sử không kết tội.

Mới đây, nhà văn Nguyễn Quang Tuyến lại tố cáo con tu hú về một tội lừa bịp khác nữa, độc ác hơn, đểu giả hơn. Khi tu hú mái đến giờ đẻ, tu hú trống tạo điều kiện để quạ đi vắng. Nó hét lên “Tu hú… tu hú”. Tiếng hét nghe nhức nhối. Hét như chửi vào mặt các loài chim trong khu vực. Thế là một cuộc chiến bùng lên. Quạ trống, quạ mái, chim trống, chim mái hè nhau rượt đuổi con tu hú trống. Nó cứ bay miết về phía xa. Vừa bay vừa hét. Vừa bay vừa chửi “Tu hú. Tu hú…”.

Cả xóm chim đi vắng. Chồng chồng đi đánh nhau. Vợ vợ đi chửi nhau. Thế là con tu hú mái thủng thỉnh bước vào tổ quạ. Vài quả trứng nằm tênh hênh. Tu hú mái thọc mỏ vào vỏ hút hết tròng đỏ và tròng trắng để bồi dưỡng cơ thể của người mẹ mang nặng đẻ đau. Bồi dưỡng xong, nó gắp vỏ trứng quạ, ném xuống đất, rồi ung dung đẻ trứng…

Đẻ xong, tu hú mái tung cánh bay lên, hát một điệp khúc: “Tu hú… Tu hú”. Đó là mật hiệu “Xong rồi. Xong rồi”.

Con tu hú trống không còn khiêu chiến nữa. Bọn quạ và bọn chim láng giềng bay về tổ. Lúc vợ chồng quạ bay đi, thì trong tổ có hai quả trứng. Bây giờ về chỉ còn một quả. Quả trứng lạ hoắc. Thế mà cả hai vợ chồng chẳng biết gì… Quạ ngu chừng nào, tu hú đểu chừng nấy. Tội đểu chồng chất. Tội đểu triền miên.

Hồi còn bé, mình yêu tu hú. Bây giờ thì không. Không yêu, nhưng không dám ngồi tòa xét xử, vì đó là quy luật của càn khôn. Mình khoanh tay, cúi đầu, ngẫm nghĩ.

1. Tu hú có phạm tội lừa gạt. Lừa cả tình lẫn tiền. Nhưng không thể kết tội nó được, vì nó là một hữu thể không có lý trí. Nếu kết tội nó, thì đồng thời cũng phải kết tội cả bão tố, sóng thần, động đất và núi phun lửa.

Hãy kết tội những hữu thể có lý trí đang nhân danh tình hữu nghị mời bạn mình chích miễn phí một liều bạch phiến. Kết quả là giết chết một đời người, để làm căng phồng một túi tiền của ai đó. Bịp bợm! Đểu cáng!

Hãy kết tội những hữu thể có lý trí đang kinh doanh người nghèo với nhãn hiệu “vì người nghèo”. Kết cuộc thì người nghèo vẫn nghèo, còn kẻ “yêu người nghèo” thì lại giàu quá. Bịp bợm và đểu cáng!

Hãy kết tội những hữu thể có lý trí đang kinh doanh tôn giáo, đang thương mại hóa tôn giáo. Người dẫn đầu tập thể này là Giuđa Ítcariốt. Giuđa bán Thầy. Giuđa hiến kế bắt Thầy. Giuđa xun xoe chào Thầy, hôn Thầy để chỉ điểm cho địch bắt Thầy ngay chóc. Đểu cáng vô cùng! Một tập thể ùn ùn theo nhau biến đền thờ Chúa thành hang trộm cướp là tập thể tư tế, quản lý đền thờ Giêrusalem, mà Đức Giêsu đã khiển trách nặng nề. Hình ảnh của Giuđa, hình ảnh của nhóm tư tế đền thờ Giêrusalem vẫn còn thấp thoáng đây đó ở khắp mọi nơi trên thế giới. Buồn thay!

2. Trên đường truyền giáo, mình quên hết cái tính bịp bợm đểu cáng của con tu hú, để lấy nó đặt tên cho một phương thức truyền giáo: “Phương thức con tu hú”. Mình áp dụng phương thức này từcuối thập niên 1980. Có lẽ mình sẽ còn theo đuổi phương thức này cho tới khi mình nhắm mắt xuôi tay.

Không làm tổ. Không ấp trứng. Không mớm mồi. Chỉ đẻ thôi. Không vất vả. Không hao sức… Thế nhưng loài tu hú vẫn tồn tại, vẫn giữ được bản chất của mình. Vẫn kêu “tu hú” chứ không kêu “quạ, quạ”.

Người Kitô hữu có mặt trong mọi môi trường của xã hội, được xã hội đào tạo và trả lương, nhưng vẫn làm chứng tá cho Tin Mừng, vẫn “sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc”, vẫn có thể là người “Tốt đạo, đẹp đời”.

Giáo hội không cần bỏ ra hàng ngàn tỉ đồng để mở trường Đại học ngõ hầu đào tạo nhân tài Kitô hữu. Nhân tài thì xã hội đào tạo được. Làm cho nhân tài sống đức tin, thì không có tiền cũng làm được. Con tu hú có thể đẻ nhờ trong tổ quạ, hay tổ sáo, thì khi nở ra thành con, con ấy vẫn là tu hú. Kitô hữu sống niềm tin, thì học trường nào cũng thành tài và còn làm tông đồ nữa. Người Kitô hữu biết sống đức tin thì làm nhà khoa học hay làm chính trị gia, do bất cứ trường nào đào tạo, thì họ vẫn loan báo Tin Mừng trong môi trường của mình.

Nếu mình có một ngàn tỉ để mở trường đại học, mình sẽ dùng số tiền đó để giúp học sinh nghèo đi học đại học. Vừa đỡ mệt mỏi, vừa có được nhiều nhân tài hơn. Mở trường là ấp trứng. Cấp học bổng là đẻ trứng.

Nếu mình có nhiều tiền để làm công tác từ thiện, mình sẽ chia cho những cơ quan, những cá nhân, những tôn giáo khác, để có thêm việc từ thiện mà mình không quá bận rộn và mệt mỏi. Như vậy là đẻ mà không ấp. Không nuôi con mà vẫn có con.

Mình vẫn còn nhớ một chuyện.

Một năm nọ, bệnh viện X: bình bầu được tám khuôn mặt gương mẫu. Những người này được tôn vinh trong nội bộ. Sau đó được tôn vinh trên đài phát thanh, trên đài truyền hình và trên báo chí. Họ là ai? 75% họ là Công giáo (6/8). Những người Công giáo là dược sĩ, y sĩ, y tá, y công. Nhà nước đào tạo họ, trả lương cho họ và họ làm công tác tốt. Họ làm chứng tá đức tin trong bệnh viện, mà Giáo hội chẳng tốn một đồng nào. Giáo hội đẻ trứng mà không ấp là vậy. Kết quả tốt đẹp này là do con tu hú mà có.

Tu hú ơi, cám ơn mày nhá. Tuy nhiên tao vẫn phải nói với mày rằng mày chỉ là ân nhân của riêng tao mà thôi nhá!

-----
Trích "Như trái mắm"
Lm Pio Ngô Phúc Hậu
Báo CGVDT
#nhutraimam #PioNgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 74: RỒNG VÀNG VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP

 

Mình thơ thẩn đứng ngắm tượng đài Đức Mẹ. Đức Mẹ trẻ đẹp. Đầu đội mấn kim tuyến. Rất kiêu PiôHậu 74


1. Mình thơ thẩn đứng ngắm tượng đài Đức Mẹ.

Đức Mẹ trẻ đẹp. Đầu đội mấn kim tuyến. Rất kiêu sa. Áo dài thanh thiên, quét gót. Gió đùa nhẹ làm bay bay tà áo, để lộ bàn chân trắng muốt. Duyên dáng. Chúa hài nhi quần vải trúc bâu trắng, áo dài màu lam chỉ phủ một nửa ống chân. Dễ thương.

Phông đài cao và thanh thoát. Màu sắc dìu dịu từ xanh biếc đến xanh lá mạ. Sau phông đài là hai cây tùng thanh mảnh. Trước tượng Đức Mẹ là một chậu bông giấy. Lá xanh lưa thưa. Hoa vàng, trắng, hồng đua nhau khoe sắc. Đẹp quá!

Bất giác, mình hát tỉ ti: “Lạy mẹ là ngôi sao sáng”. Hát được nửa bài thì tịt. Mắc cỡ với Đức Mẹ. Để chống thẹn, mình lùi năm bước làm bộ nhìn toàn cảnh.

Giật mình đánh thót một cái. Hai con rồng vàng từ hai bên xông tới. Mõm ngoác ra để lộ hai cái nanh nhọn hoắt. Vây sắt buốt xếp thành hàng dài từ đầu tới đuôi. Những bàn chân vạm vỡ đầy móng vuốt đang cào cào vào các bậc cấp. Thân to và dài đang uốn lượn để lấy đà phóng mạnh về phía trước. Vảy tê tê phủ đầy mình. Thấy mà ghê!

Mình rút lui, thầm nghĩ trong bụng: Không biết ngày mai Đức Mẹ duyên dáng và Chúa Hài Nhi dễ thương có còn đứng ở đó nữa hay không.

Vừa ra khỏi cổng nhà thờ, thì gặp một người có vẻ quen quen.

– Chào cha – Cha còn nhớ con không?

– Lúc nãy thì hơi nhớ. Bây giờ thì rất nhớ. Nhớ cả hình ảnh cậu khóc làm mủi lòng người đẹp chưa thèm yêu cậu.

– Mời cha ghé nhà con uống nước. Cha đừng nhắc chuyện ấy với vợ con nhá. Quê thấy mồ!…

– Cha uống trà hay cà phê?

– Cà phê “một Chúa Ba Ngôi”! (3 trong 1).

– Cha hút thuốc không?

– Hút. Uống cà phê mà không hút thuốc thì khác nào người đẹp ở giá.

– Cha vẫn tếu như thuở nào.

Cà phê đắng đắng ngọt ngọt. Thuốc lá cay cay thơm thơm. Hai thứ quyện lấy nhau gợi nhớ tình bạn ngày xưa. Mình vào đề.

Cậu có biết ai thiết kế đài Đức Mẹ đó không?

– Biết

– Ai?

– Thằng này. Cha thấy thế nào?

– Màu sắc, thể khối, đường nét rất hài hòa, trừ… con rồng vàng: thằng phá đám.

– Lưỡng long chầu Thiên Mẫu mà. Uy nghi tuyệt vời!

– Chầu hỗn! Chầu thì phải cúi đầu cung kính. Chầu gì mà há mõm, nhe nanh, uốn cong mình như sắp nuốt sống người ta. Coi chừng nó táp Đức Mẹ hồi nào không hay.

– Hội nhập văn hóa mà cha. Cha nghĩ gì mà kỳ vậy.

– Cứ khách quan mà nhận xét. Đứng trên phương diện nghệ thuật mà nói, thì đường nét cầu kỳ, rậm rạp và phức tạp của con rồng mâu thuẫn với đường nét đơn giản mà thanh thoát của toàn bộ cấu trúc. Nói một cách quê mùa kiểu hai lúa của tớ, thì nội bộ tác phẩm của cậu cãi nhau chí chóe. Chủ đề là Đức Mẹ thì bị con rồng vàng bức tử. Con rồng nổi quá: màu vàng chang chói; đường nét chằng chịt, thể khối dài rộng quá mức. Lấn chiếm không gian. Khống chế mọi thể tích.

Ấy là chuyện nghệ thuật. Còn vấn đề hội nhập văn hóa, thì tớ sẽ bàn sau…

– Con chưa thua.

2. Hình ảnh lưỡng long chầu Thiên Mẫu khiến mình liên tưởng đến những con rồng rải rác khắp nơi trên đất nước, từ cung điện nhà vua cho tới đình chùa, miếu mạo và biệt thự. Con rồng nào cũng hung dữ. Con rồng nào cũng nanh vuốt, vây, vảy. Con rồng nào cũng ở trong tư thế phóng mạnh về phía trước. Con rồng nào cũng muốn ăn sống nuốt tươi kẻ thù đang ở trước mặt. Mình tự hỏi “tại sao thế”?

Nếu cặp rồng từ trong tiền sảnh phóng ra, thì mình đoán là nó tấn công ngoại thù, để bảo vệ chủ nhà cùng với tài sản kếch sù của ông ấy. Ông chủ cô đơn.

Nếu trong chính cung có một ông vua đang ngự triều, thì cặp rồng hung dữ ấy do ông vua nuôi và tung ra để bảo vệ ngai vàng của mình cho đến muôn muôn thế hệ. Không hữu tình, nhưng hữu lý đối với chế độ phong kiến. Ngày nay cặp rồng ấy là kẻ thù của chế độ dân chủ.

Ngày hội làng, dân chúng trùng trùng điệp điệp tiến vào sân đình. Hát xoan. Hát quan họ. Chập cheng, cắc tùng, vui hơn ngày tết. Ấy thế mà cặp rồng ở cổng đình lại nỡ tâm nhe nanh, há mõm.

Để chào dân ư? Vô duyên! Để đuổi dân ư? Lếu láo! Tiếp viên nhà hàng và khách sạn hôm nay mà cứ vô duyên và lếu láo như thế thì… eo ơi! Từ phá sản đến tan hoang.

Bà mệnh phụ mặc áo dài nhung. Vạt trước vạt sau đều thêu rồng bay bằng sợi chỉ kim tuyến. Mõm mở toang hoác, nhưng lại có một viên ngọc nằm hờ hững trên lá lưỡi hiếu động. Cũng vây, cũng vuốt, cũng vảy, nhưng không ghê tởm vì toàn là kim loại lóng lánh. Rồng cũng uốn khúc, nhưng để bay chứ không để tấn công. Nói chung là đẹp, là sang quý, nhưng không thân thương. Dễ nể, chứ không dễ gần.

Có một ngôi nhà thờ cổ kính kiến trúc theo kiểu gôtích. Vòm nhà thờ, tòa đặt tượng các thánh, khung cửa ra vào, khung cửa sổ, khung kính màu… tất cả đều giống như hai bàn tay khép hờ, bàn tay của người đạo đức đang tâm sự với Đấng vừa tối cao, vừa thân thương. Màu sơn tường là màu mỡ gà. Khung vòm được sơn bằng màu hột nhãn non. Không hoành tráng, không kiêu sa. Rất dễ cầu nguyện.

Bỗng có một cặp rồng vàng sang quý xuất hiện ở hai bên nhà tạm…

Có một người hỏi mình: “Cha thấy được không?” Mình không trả lời, đánh trống lảng sang chuyện khác. Vấn đề hội nhập văn hóa là một vấn đề vừa quá lớn vừa quá bức xúc. Nhưng… khó ơi là khó. Sắc lệnh “Đến với muôn dân” của Công đồng Vatican II, Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu Độ” và Tông huấn “Giáo hội tại Á châu” của Đức Gioan Phaolô II đều tha thiết kêu gọi người truyền giáo phải hội nhập văn hóa. Là người truyền giáo, mình hết sức băn khoăn về vấn đề này. Người ta đang đua nhau hội nhập mà mình thì cứ ngơ ngơ. Chê người ta, thì không dám, vì mình không đủ kiến thức để chê. Văn hóa tạo hằng mấy ngàn năm, mà mình chỉ thấy được vài trăm năm. Văn hóa thì hành trình cùng với lịch sử, mà lịch sử thì thăng trầm, và đường đi của nó thì ngoằn ngoèo như đường đèo lên Sapa.

Mình chỉ biết chắc một điều là:- Trầu cau là văn hóa của dân tộc, vì“miếng trầu là đầu câu chuyện”. Nhưng liệu trầu cau còn sống được 20 năm nữa không?

– Răng đen là văn hóa của dân tộc, vì “Bốn thương răng ánh hạt huyền kém thua”. Nhưng liệu răng đen còn tồn tại thêm được 10 năm nữa không? Răng đen đang sống gượng gạo đầy mặc cảm tự ti.

– Cái váy cũng là văn hóa của dân tộc, vì “Cái thúng mà thủng hai đầu. Bên ta thì có bên Tàu thì không”. Thế nhưng vào cuối thế kỷ XVIII, vua Gia Long đã bức tử nó tại miền Nam. Miền Bắc cố thủ cái váy, viện lý do “phép vua thua lệ làng”. Nhưng cuối cùng cái váy của miền Bắc cũng đã ra đi không một lời giã từ. Dường như nó biến mất sau Cách Mạng Tháng 8.

– Mẹ nhai cơm rồi bón cho con là văn hóa của dân tộc, vì “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm”. Bây giờ còn ai dám làm điều ấy để nhắc nhở công ơn cha mẹ nữa không? Thách đấy.

– Áo tứ thân, yếm thắm… đều là văn hóa của dân tộc. Nhưng áo sơ mi, quần jean đã chiếm chỗ hết rồi. Nhưng dân tộc vẫn có văn hóa, văn hóa của hôm nay.

Riêng vấn đề Rồng Vàng thì mình vẫn biết nó là văn hóa của dân tộc. Có người bảo rằng đó là văn hóa của Trung Hoa. Nhưng có người cãi rằng rồng Tàu và rồng Ta khác nhau.

Đồng ý là vậy. Nhưng mình chỉ đồng ý ở trên đầu. Còn con tim của mình thì nó cứ ngúng nguẩy không chịu. Thấy con rồng ở bất cứ nơi nào, nó cũng cứ tưởng là mình sắp bị nuốt chửng. Ghê quá! Hỗn quá! Láo quá!

Biết sao bây giờ. Con tim có lý lẽ của nó. Xin lỗi mọi người.

-----
Trích "Như trái mắm"
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
Đăng trên báo cgvdt.vn
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 75: Vui buồn đời truyền giáo


1. ĐIẾU THUỐC ĐỊNH MỆNH

 

Mình khai giảng lớp giáo lý dự tòng. Có chừng 50 học viên. Người già nhất là bà cụ bảy mươi PiôHậu 75


Mình khai giảng lớp giáo lý dự tòng. Có chừng 50 học viên. Người già nhất là bà cụ bảy mươi bốn. Người trẻ nhất là cậu con trai mười hai. Đa số ở tuổi xồn xồn bốn mươi, năm mươi.

Tay vẽ lia lịa. Miệng giảng lia chia. Một trăm con mắt nhìn mình lom lom. Nhưng có một cặp mắt nhìn mình một cách say đắm. Ai thế? Mình không quen biết người này, nhưng dường như người này đã biết mình.

Đến giờ giải lao, người ấy mở gói thuốc chìa ra trước mặt mình.

– Cha hút với con một điếu thuốc. Cha còn nhớ con không?

– Xin lỗi. Tôi không nhớ một tí nào hết.

– Con từng ở chung với cha ở trại Kiến Vàng đó.

– Vậy hả? Thế thì chúng ta đã là đồng cảnh và sắp trở thành đồng đạo.

– Cha hút với con một điếu thuốc nữa, để mừng con sắp thành người đạo.

– Hút thuốc có hại cho sức khỏe.

– Kệ. Con cứ hút, vì nhờ hút thuốc mà con thoát chết.

– Chuyện gì mà kỳ vậy?

– Cha con theo Cách mạng. Con đi lính Quốc gia. Đồn của con thất thủ. Con bị bắt. Du kích xã biết mặt con nên kết án tử hình con. Họ đào lỗ rồi, chỉ còn chờ bắn thôi. Con năn nỉ:

– Đàng nào thì tôi cũng chết rồi. Trước khi chết, xin các anh cho tôi một điếu thuốc. Hút cho đã thèm rồi tới đâu thì tới.

– Bày đặt. Đây này. Tao mồi cho. Hít đi. Năm phút nữa thôi nhá.

Con hút được nửa điếu, thì ông Bí thư Huyện Ủy tới. Ông là bạn thân của cha con. Ông hỏi: “Tội gì mà phải chết?”. Nghe du kích trình bày xong, ông tuyên bố: “Tội này không đáng chết. Đi tù là được rồi”.

Thế là con thoát chết. Con đi tù ở Kiến Vàng. Nhờ đó mà con biết cha. Nhờ biết cha mà hôm nay con theo đạo. Vừa theo đạo vừa hút thuốc. Giữ đạo và hút thuốc cho đến chết.

2. SÁU MƯƠI NĂM NHỚ ĐẠO VÀ THÈM ĐẠO

Mình xối nước trên đầu ông lão già 76 tuổi: “Tôi rửa ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Sau khi kết thúc các nghi lễ, ông lão trở về ghế ngồi. Ông bưng mặt khóc nức nở.

Trong buổi liên hoan, ông tâm sự với mọi người: “Tôi yêu đạo này từ năm 16 tuổi, thế mà hôm nay tôi mới được vô”. Mình tò mò. Mình phỏng vấn, ông già chậm rãi kể lể như sau:

“Năm 16 tuổi, tôi cắp sách đến trường xin học lớp ABC. Ông thầy giáo đuổi đi, không cho vào lớp. Tôi đành cắp sách đến nhà thờ Rau Dừa, xin ông cha cho học diệt dốt. Ông cha nhận ngay. Thế là nhờ nhà thờ mà tôi biết chữ, nhờ nhà thờ mà tôi hết dốt.

Lớn lên tôi đi kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Thương đạo quá, thèm vô đạo quá mà không có điều kiện. Bây giờ 76 tuổi rồi mới được toại nguyện. Mừng hết biết”.

Thấy ông già mừng quá, mình gạ gẫm:

– Ông Chín biết Chúa và được theo Chúa rồi. Còn biết bao nhiêu người chưa được biết Chúa. Ông Chín kể chuyện Chúa cho người ta nghe nhá.

– Ai biết thì theo. Không biết thì thôi. Tôi không rủ rê ai hết để khỏi bị nói ra nói vô!

Ông Chín theo đạo, mình mừng năm phút. Ông Chín không chịu truyền đạo, mình buồn mười phút.

3. ĐẠO NÀY KHÓ QUÁ À!

Hôm ấy mình thao thao bất tuyệt về bác ái Kitô giáo. Mình phân tích, mình ví von, mình so sánh… để làm nổi bật tình yêu không biên giới của Kitô giáo.

Ông cha ta dạy: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.

Như vậy, tình yêu bị thu hẹp trong phạm vi gia đình mà thôi. Còn xa giáo lý của Chúa lắm.

Tha thứ, thì chỉ ba lần thôi: “Quá tam ba bận”. Ông Phêrô tưởng rằng tha tới 7 lần là cao thượng lắm rồi, là đáng được Chúa khen rồi. Ai ngờ Chúa chê là quá tầm thường: “Phải tha tới 70 lần 7”. Nghĩa là mãi mãi, là không giới hạn.

Chúa đòi hỏi một tình yêu không biên giới, một sự tha thứ không giới hạn. Thậm chí Ngài còn dạy: “Nếu không cầu nguyện và chúc lành cho kẻ thù, thì không xứng đáng là con của Cha trên trời”.

Mình đang cao hứng giảng, thì một người đàn bà giơ tay xin phát biểu: “Đạo này khó quá à! Tôi không theo nổi đâu. Tôi có đứa con dâu. Nó hỗn quá, tôi không thể tha thứ được. Tôi ghi âm đàng hoàng, dặn dò con cháu không được nhìn mặt nó”.

Nói xong, bà ngúng nguẩy ra khỏi lớp. Mình cụt hứng đứng chết trân tại chỗ. Mình chờ bà trên mười năm rồi, mà vẫn chưa thấy bà trở lại học giáo lý. Buồn ơi là buồn.

CON THẰN LẰN

Sau ba ngày học hỏi và chia sẻ về kinh nghiệm truyền giáo trên miền sông nước, hơn một chục bà phước khăn gói lên đường. Nhiệt khí bừng bừng như rừng cháy. Cặp mắt nào cũng long lanh. Cặp môi nào cũng toe toét.

Một bà phước to con, tròn vo như hột mít, hai tay xách hai túi đồ to như hai con heo nái, đến đứng trước mặt mình đại diện chị em, trịnh trọng đọc lời tuyên thệ:

“Thưa cha, chúng con lên đường truyền giáo. Tù đày chúng con không sợ. Chết chóc chúng con không sợ. Nhưng nếu người ta bỏ con thằn lằn vào cổ áo chúng con, thì chúng con bỏ đạo ngay, chạy về xưng tội với cha”.

Mình đốp chát ngay:

“Sợ thằn lằn là hèn”.

Tất cả các bà phước đều giơ tay trả lời nhịp nhàng, mạnh mẽ và tếu táo:

“Chúng con chấp nhận HÈN”.

Vô lý đến thế! Lì lợm đến thế! Chúa cũng phải thua. Ôi đàn bà! Ôi bà phước!

-----
Trích "Như Trái Mắm"
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
- Đăng trên báo cgvdt.vn
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 76: Hồng Ân Bất Ngờ Và Hồi Hộp

 

Trưa 16 tháng 6 năm 1975, chúng mình tập họp ở phòng khách Tòa Giám mục Cần Thơ. Đức cha PiôHậu 76


Trưa 16 tháng 6 năm 1975, chúng mình tập họp ở phòng khách Tòa Giám mục Cần Thơ. Đức cha Quang từ trên lầu đi xuống, vừa e hèm, vừa cười tươi sung sướng. Anh Năm Hoạch đứng chặn ở chân cầu thang, dang tay thẳng băng, oang oang tuyên bố: “Thưa Đức cha, chúng con nguyên vẹn trở về!”. Mình chửi yêu trong bụng: “Hứng dữ!”. Anh Năm vui, thì mình hiểu. Nhưng tại sao anh hứng quá như thế, thì mãi về sau mình mới hiểu.

Thời gian bốn tháng, ba tuần phải bất đắc dĩ sống ở Bến Bọng chưa phải là thời gian quá dài. Nhưng những khó khăn không tên từ đâu len lén mò tới, bất ngờ khiến anh Năm Hoạch giật mình lo sợ. Sợ quá, vì tưởng mình đã ngã gục. Thấy mình vẫn cứ đứng trơ trơ ra đó, ngơ ngơ chẳng hiểu tại sao. Mừng quá!

1. Hôm ấy, thằng con trai chị Năm Hiệu xách phảng đi phát cỏ. Đến trưa, vừa về tới nhà, nó chửi thề, la toáng lên: “Rõ ràng, sáng nay tui tháo cái nhẫn vàng bỏ vào cái bình thủy bể này, thế mà bây giờ mất tiêu. Thằng nào ăn cắp? Trong nhà này chẳng có ai ngoài thằng Năm Hoạch”.

Oan khiên quá chừng! Có mất trộm thật không? Hay thằng Trạng dựng lên vụ trộm này, hay…? Anh Hoạch, tứ cố vô thân, chẳng biết thanh minh ra sao. Im lặng là thua. Mở miệng nói cũng thua. Từ chết đến chết, không có bị thương. Anh đành cắn răng chịu đựng, phó mặc số phận cho Chúa Quan Phòng… May quá, chị Năm, mẹ của người “mất vàng” lên tiếng nói giùm: “Mày mất vàng thì đúng rồi, còn người ăn cắp, thì chưa có bằng chứng cụ thể, không làm đơn thưa được”. Chuyện mất vàng tạm gác. Những nghi vấn cũng tan theo. Anh Năm Hoạch thở phào nhẹ nhõm.

2. Chị Năm Hiệu có hai cô gái lớn. Dung lấy chồng, rồi thôi chồng. Cô nàng mở một quán cóc bán cà phê ở bên kia con sông hẹp. Gái thôi chồng, giống như gái góa. Còn trẻ, nhưng kể như lỡ thời. Dung phải đi một bước nữa. Nhưng phải nhìn lên hay nhìn xuống? Chắc là không dám chèo mèo đeo con trai. Đành gởi thân cho một người đàn ông nào đó. Ai cũng nghĩ thế…

Bỗng có một người đàn ông đi tới. Người này chưa có vợ, nhưng đã ba mươi ba tuổi, kể như lỡ thời. Người này có trình độ đại học, sáng giá vô cùng. Chẳng ai bảo ai, nhưng ai cũng bảo rằng: “Con Dung với thằng Năm Hoạch là có lý”. Anh Năm phải bị ở nhà bà Năm Hiệu, mẹ của Dung, khiến mọi người càng chắc mẩm rằng “Con Dung có số lấy chồng Bắc Kỳ”.

Dung có thương anh Năm của mình hay không, thì mình không biết. Mình chỉ thấy Dung một lần. Mình vô quán cà phê của Dung cùng với anh Hai Hoàng, người có nhiệm vụ quản lý tụi mình. Trong hoàn cảnh ấy, mình chỉ thấy chứ không dám nhìn. Dung có quyết tâm đeo đuổi anh Năm hay không, thì mình mù tịt. Nhưng chắc một điều là bà con lối xóm thì muốn vun vào. Dì Chín của Dung thì khen anh Năm hết lời: “Nội trong mấy thằng này, thì thằng Năm Huế là được nhứt”; “Thằng Huế Hoạch đen mà có duyên”. “Thằng Năm Hoạch nói chuyện dễ thương hết sức”…

Còn anh Năm Hoạch có bị cám dỗ hay không, thì chỉ một mình Chúa biết. Nhưng chắc chắn trong nội tâm của anh vẫn có hai tiếng nói: Tiếng nói thì thào của lương tâm linh mục; tiếng nói ào ào của một người sa cơ lỡ vận. Thua dễ hơn thắng. Chết chắc hơn sống. Xác thịt thì nặng nề; tinh thần thì nhẹ tênh. Thế mà kết cuộc thì anh đã thắng. Y như trong mơ. Mừng quá đỗi.

Chị Năm Hiệu còn một người con gái lớn nữa tên là Ven. Ven chưa có chồng, nhưng đang mơ lấy chồng. Anh Năm Hoạch kể chuyện cho mình nghe:

“Đêm hôm ấy cả nhà đi đám hết. Chỉ có mình và Ven ở nhà. Mình ngủ ở nhà ngoài. Hắn ngủ ở buồng trong… Có một thằng con trai lẻn vào. Hai đứa cứ lục đục với nhau ở trong ấy. Mình lo quá, lỡ sau này nó có chuyện gì, thiên hạ đổ thừa cho mình, thì kẹt dữ ạ…”. Anh Năm hiểu rằng có thể có ai đó vẫn mong đợi, vẫn rình mò, vẫn mở đường để anh sa ngã. Làm cho một linh mục sa ngã, hoặc làm cho một linh mục bị tai tiếng là sa ngã, là cách vô hiệu hóa linh mục khôn khéo nhất và… dường như là nhân đạo nhất. Anh Hoạch đã vượt qua được cả hai trường hợp ấy. Mừng hết biết!

3. Anh Năm Hoạch lo cho mình chưa xong, thì lại lo cho anh em, trong đó có mình. Mình ở đậu nhà chị Chín, nhà vắng hoe. Anh Năm Hoạch ở đậu nhà chị Năm, khách khứa dập dìu. Ở đó người ta nói đủ thứ chuyện. Ở đó người ta cắp đôi cắp lứa cho mình với chị Chín. Mấy đứa cháu chị Chín vẫn gọi mình là “dượng Chín”. Mình không nghe, nhưng anh Năm nghe đầy lỗ tai. Mình không lo, nhưng anh Năm thì lo quá. Mình không ngại chị Chín, vì lập trường của chị quá rõ: “Anh đừng nói với người ta là tôi không nói chuyện với anh.Anh là nhà tu hành, còn tôi thì là đàn bà góa”. Chị Chín không muốn nói chuyện với mình. Tối nào chị cũng qua chơi bên nhà chị Năm Hiệu. Ở đó có “thằng Huế Hoạch nói chuyện dễ thương”. Dường như chị Chín không ưa mình. Trước mặt thì gọi là “anh Tám”, sau lưng thì gọi là “Thằng Tám Hậu”. Chị than thở với láng giềng: “Đi làm đám mạ về mệt muốn chết. Muốn nằm võng nghỉ một chút, thì thằng Tám Hậu nó cứ nằm ở đó hoài”. Chị Chín không thể là lý do để mình sa ngã. Nhưng anh Hoạch thì cứ canh cánh bên lòng. Anh lo, vì có lý do.

Lý do một. Bà con trong xóm thương hại chị Chín. Chị Chín ở giá 13 năm rồi và đang ở tuổi U40, tuổi hồi xuân trỗi dậy. Phải đi một bước nữa thôi. Mình thì chỉ hơn chị Chín có một tuổi, lại đang là khách trọ có dàn xếp. Chắp cánh liền cành là điều không thể tránh được và chả nên tránh làm gì. Ai cũng nghĩ thế. Ai cũng muốn thế.

Lý do hai. Có ba cặp mắt ướt át vẫn cứ hấp háy về phía mình. Có thể chẳng ai biết. Nhưng có thể cả làng đều biết. Thế là anh Năm Hoạch lại lo sốt vó lên.

Người đàn bà thứ nhất có chồng đi công tác triền miên. Công tác văn nghệ, một công tác dễ nảy ra những mối tình văn nghệ. Gia đình vì thế mà chao đảo. Người đàn bà ấy đến chơi thường xuyên, kể lể trăm thứ chuyện. Chuyện chánh trị, chuyện tình duyên và chuyện tình vận nữa. Vừa nói chuyện chị vừa nằm ngửa trên bộ ván, phạch hết ngực ra cho thằng cu tí tự do chọn lựa nguồn sữa. Thằng cu tí thì vô tư. Mẹ nó vô cùng vô tận. Còn mình thì vô cảm. “Bên ấy” thì không thể cám dỗ được. “Bên này” thì không thể sa ngã được. Yên tâm vô cùng! Cám ơn Chúa quá chừng!

Người đàn bà thứ hai khác hẳn người đàn bà thứ nhất: rất trẻ, cao ráo, trắng trẻo và rất quý phái. Người ấy đến xin phát cỏ mướn cho chị Chín. Ra vườn phát cỏ thì ít, mà vô nhà mài phảng thì nhiều. Người ấy muốn kiếm cớ để nói chuyện với mình. Còn mình thì quyết tâm không mở miệng. Địch thì quá mạnh mà ta thì quá yếu. Đánh thì thua. Cố thủ thì chết. Đành “đào vi thượng sách”. Ta trốn.

Ba ngày sau người đẹp rút lui, bỏ lại mảnh vườn nham nhở.

Người đàn bà thứ ba cũng có chồng, nhưng không yêu chồng, vì chồng chị yêu rượu. Khi mẹ con chị Chín đi Cà Mau, thì người đàn bà này xuất hiện. Chị đến vào lúc trời mới rạng sáng và chỉ đến từ phía vườn sau. Lần nào áo quần cũng ướt sương khuya. Lần nào đôi má cũng đầm đìa nước mắt. “Bên ấy” chỉ muốn “bên này” cho một lời an ủi và một cử chỉ xót thương. “Bên này” thì muốn lắm, nhưng lại chẳng dám muốn. Im lặng tuyệt đối khiến “bên ấy” tự thấy hẫng mà cáo từ ra về: “Em về. Mai mà rảnh thì em tới”. Tới mãi rồi thôi tới. Mình không thắng nhưng không thua. Không thua là một cách thắng. Cám ơn Chúa.

Vượt qua bấy nhiêu bãi mìn, mìn không nổ. Băng qua bấy nhiêu cạm bẫy, bẫy không sập. Anh Hoạch mừng quá, vì anh sợ quá. Đó là hiện tượng bùng vỡ của tâm lý. Mình hiểu anh Hoạch. Vì thế mình thương anh và biết ơn anh. Chỉ tiếc là anh không còn ở cõi đời này nữa, để lâu lâu lại hứng một lần, vì bàn tay vô hình của Chúa lâu lâu lại ban một hồng ân bất ngờ và hồi hộp như thế.

-----
Trích “Như Trái Mắm”
Lm Piô Ngô Phúc Hậu
Nguồn Báo CGVDT
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

----------------------------------

 

PiôHậu 77: Người Quỷ Ám Ở Ghêrasa

 

Một bầy heo chập chùng đang nhởn nhơ trên sườn đồi. Không la hét. Không cắn lộn. Con nào PiôHậu 77


Một bầy heo chập chùng đang nhởn nhơ trên sườn đồi. Không la hét. Không cắn lộn. Con nào cũng lặng lẽ kiếm mồi. Ở chỗ này, con heo nọc ủi được một bụi sậy đang nhai nhóp nhép một chùm rễ trắng nhởn. Mặt vênh váo. Cặp mắt lơ láo. Nước nhãi nhễu một dây lòng thòng. Ở chỗ kia, con heo tơ vớ được một con ốc sên, đang nhai rạo rạo. Mặt cũng vênh váo. Cặp mắt lơ láo. Nước nhãi cũng nhễu một dây lòng thòng. Xa xa có một con heo nái nằm chình ình. Bầy heo con đang giành nhau mút chùn chụt. Dưới gốc cây vả, bọn chăn heo đang đánh bài ăn tiền. Nói chuyện tục tĩu. Cười hô hố. Vỗ đùi nhau bèn bẹt.

Bỗng có loạn…

Một rừng heo nhớn nhác, kêu eng éc. Kêu ôộc ôộc.

Một sư đoàn heo điên điên rùng rùng xô nhau chạy xuống sườn đồi. Heo con bị đạp nát nằm giãy giụa, thở khèng khẹc. Heo béo lăn lông lốc như khối đá tròn. Lăn mãi, lăn mãi, lăn chóng mặt, rồi rơi tòm xuống mặt hồ. Mặt hồ Galilê đang phẳng lặng như tờ, bỗng nổi sóng và sủi bọt. Hàng ngàn con heo phơi thây trên sườn đồi. Hàng ngàn con heo rơi tòm xuống nước. Mất tăm.

Bọn chăn heo hốt hoảng, la toáng lên, rồi bỏ chạy về làng. Cả làng Ghêraxa nổi loạn, ùn ùn kéo ra sườn đồi. Hàng ngàn người tràn ra bờ hồ, đứng lặng nhìn mặt nước. Mặt nước vô tư. Thất vọng!

Hàng ngàn người ấy lại thất thểu ra về. Trầm ư. Sợ đứng tim. Một nỗi sợ bao trùm; trùm lên mặt hồ bao la; trùm lên sườn đồi bát ngát; trùm lên ngôi làng Ghêraxa sầm uất.

Một ngày trôi qua. Một tuần trôi qua. Nỗi sợ lắng xuống. Tin tức loạn xạ được sàng lọc. Bình luận vô trách nhiệm được cân nhắc. Chừng đó khách thập phương tò mò được dân làng Ghêraxa kể lại rành rẽ như sau:

* Một cụ già khả kính thủng thỉnh vuốt chòm râu rậm rì, rồi lấy hai ngón tay mân mê sợi râu dài thoòng. Im lặng hồi lâu, ông nhỏ nhẹ kể:

Thằng Ghêraxa (tên này do khách thập phương đặt cho) có gia thất đàng hoàng. Vợ hiền. Con ngoan. Cả làng ai cũng thương. Bỗng nó đổ đốn: Cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm, đánh vợ, chửi con. Bố mẹ khuyên, không được. Xóm giềng nói, không nghe. Tôi rầy nó, nó chửi tôi. Tôi già như thế này mà nó dám xưng hô mày tao với tôi. Tội nghiệp cho con vợ nó: hiền ơi là hiền. Khổ sở như thế, nhục nhã như vậy mà vẫn cúc cung tận tụy. Cơm vẫn ngon, canh vẫn ngọt. Vẫn vâng vâng, dạ dạ. Vẫn một điều “Em xin anh thương vợ con, đừng như thế nữa”. Vẫn một điều “Nếu anh muốn cưới vợ bé, thì em cũng chịu nữa, nhưng đừng chơi bời nhăng nhít với bọn đĩ điếm”. Nó phớt lờ.

Thế rồi cách nay đúng một tháng, quỷ nhập vào nó. Nó đuổi vợ con ra khỏi nhà, đập nồi niêu xoong chảo, xé xà rông, xé áo dài. Trần truồng tồng ngồng, ra đứng giữa đường, dạng tè he, không cho ai qua lại. Đàn bà, con gái bịt mặt chạy trốn. Đàn ông con trai nhào tới khống chế…

* Một người đàn ông lưng dài, vai rộng, mặt vuông chữ điền, vai u thịt bắp, vừa cười hề hề vừa kể chuyện.

Thằng Ghêraxa này vốn là bạn thân của tôi. Hiền khô. Yếu xìu. Nó không chịu nổi một quả đấm của tôi. Thế mà khi bị quỷ nhập, nó khỏe như voi đực. Tôi thử đá vào đùi nó. Đùi nó cứng như gỗ. Chân tôi muốn sụm luôn. Tôi thoi vào mặt nó một cú trăm cân. Mặt nó trơ như đá. Tay tôi rướm máu. Tôi ôm nó để tụi thanh niên trói nó lại. Trói bằng dây luộc to bằng ngón tay cái. Nó gồng lên. Dây đứt cái phực. Trói bằng xích sắt. Nó gồng lên. Dây xích đứt loảng xoảng. Cả làng phải thua nó, phải sợ nó. Cơ bắp của tôi như thế này mà phải thua nó. Đành tránh mặt. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Khi nó hét thì như sư tử rống. Nghe mà rụng rời chân tay. Nó ra nghĩa trang, chui vào hang mộ trống để ở. Chẳng ai dám dòm ngó. Thấy nó thì bỏ chạy. Một người bỏ chạy. Trăm người bỏ chạy. Khu nghĩa địa vắng hoe.

* Hai người đàn bà xồn xồn ngồi đấu láo với nhau.

Tao thấy tội nghiệp cho con vợ thằng Ghêraxa. Khổ ơi là khổ! Xấu hổ vô cùng tận. Chồng gì mà thổn thện như con vật. Người gì mà tồi tàn hơn con lợn.

– Nhưng bây giờ thì nó lại sướng như xưa. Hạnh phúc hơn ngày xưa. Chồng nó bây giờ còn đàng hoàng hơn ông thánh.

– Mày có biết do ai mà ra không?

– Biết đâu à.

– Tại sao mày ngu thế. Tất cả là do ông Giêsu. Người ta đồn ông ta là người của Ông Trời đấy. Người ta theo ông ta đông lắm. Bịnh cỡ nào mà rờ vào áo ông ta là khỏi liền.

– Ông ta ở đâu. Chúng mình đi coi đi.

– Ông ta về bên Caphácnaum rồi.

* Khi bọn chăn heo hốt hoảng chạy về báo tin cho chủ, các chủ heo giận tái mặt.

– Tụi bay làm gì mà để cho cả hai ngàn con heo lao xuống hồ? Heo mà biết tự vận sao?

– Tại quỷ nhập đàn heo. Quỷ giết heo.

– Quỷ nào mà ghét heo? Quỷ nào mà dám hại chúng tao? Chính tụi bay hại chúng tao. Tụi bay là quỷ, quỷ hơn cả quỷ. Tin chúng bay không nổi… Nhưng mà thằng kia. Tao thấy chỉ có mày là thật thà. Mày báo cáo cho chúng tao nghe coi.

– Con không thích đánh bài. Con ghét nói chuyện tục tĩu. Con ngồi chơi một mình ở dưới gốc cây chà là. Con thấy một chiếc thuyền buồm của người Do Thái ghé bến. Một người đàn ông bước lên bờ: cao to và uy nghi; hiền từ và dễ thương hết sức. Con đang nhìn ngắm ông ấy thì thằng quỷ ám ào ra, hai chân nhảy chồm chồm như vó ngựa phi. Nó quỳ mọp dưới chân ông ấy. Con nghe hai người đối đáp rõ ràng mới biết rằng người đàn ông vừa đáng kính vừa đáng mến ấy là ông Giêsu. Ông Giêsu vừa là người vừa là Con Ông Trời.

– Tao lệnh cho mày phải xuất khỏi người này.

– Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa tối cao. Chuyện tôi can gì tới ông. Tôi xin ông đừng hãm hại tôi.

– Tên mày là gì?

– Đạo binh.

– Xuất ra ngay!

– Vâng. Nhưng xin ông đừng đày chúng tôi xuống âm ty. Xin ông cho chúng tôi nhập vào đàn heo.

– Đi ngay!
Ông Giêsu vừa nói xong, thì bầy heo nổi điên ào ào lao xuống hồ. Sợ hết hồn luôn.

Quỷ xuất ra, thằng quỷ ám hoàn hồn. Thấy mình trần truồng nó xấu hổ ngồi thụp xuống. Ông Giêsu cởi áo choàng trao cho nó. Nó quấn vội cái ào choàng, quỳ xuống ôm chân ông Giêsu. Hai người nói chuyện lí nhí với nhau, con nghe không rõ…

– Ông Giêsu cứu được thằng quỷ ám, nhưng lại phá hoại chúng ta. Tống cổ ông ấy đi.

– Đừng nói bậy. Coi chừng!

– Ông ta cứu được thằng quỷ ám, thì cũng cứu được chúng mình chứ.

– Để đó. Nhưng trước mắt là cứ phải mời ông ấy đi chỗ khác đã.

– Cái đó tùy các ông. Còn tôi thì vẫn thấy ông Giêsu là một vấn đề lớn. Động đến Con Ông Trời, thì phải coi chừng.

* Người quỷ ám trở về nhà, vừa đi vừa chạy. Tấm áo choàng phong phanh che kín chỗ này lại để hở chỗ kia. Kệ – sướng quá chừng! Vợ con trợn mắt nhìn – vẫn còn sợ – vẫn chưa tin chồng và cha mình đã được trừ quỷ. Người quỷ ám mỉm cười dang tay ôm vợ con vào lòng. Nước mắt ràn rụa. Vợ con òa khóc. Khóc như người chết sống lại. Cả thân tộc mừng. Cả làng ứa lệ. Niềm vui bùng vỡ. Tiệc tùng liên miên.

Một ngày trôi qua. Hai ngày trôi qua. Niềm vui hạ nhiệt. Hạnh phúc gia đình chìm vào nội tâm. Người được cứu thoát bây giờ lại hiền lành như những năm xưa. Nhưng dường như có vẻ trầm tư, giống như người tương tư. Bà vợ ôm vai chồng, thỏ thẻ như buổi yêu ban đầu.

– Anh ơi! Anh được ông Giêsu cứu sống, thì nay đừng chơi bời.

– Thầy Giêsu đã dạy anh rồi. Anh thề với em là từ nay anh không còn dám như thế nữa đâu.

– Nhưng tại sao em thấy anh vẫn có cái gì là lạ. Dường như anh vẫn chưa vừa lòng với vợ con.

– Không phải. Anh thương em và các con vô cùng. Anh muốn thương thật nhiều để đền bù… nhưng anh nhớ Thầy Giêsu quá! Anh thương Người quá! Anh muốn đi theo Người, mà Người… không cho. Người bắt anh về với em, về với các con để kể cho em và các con những hồng ân Người đã ban cho anh. Em có thương Người không?

– Thương. Anh thương Người, thì em phải thương Người.

Người đàn bà khóc hụ lên. Nước mắt ràn rụa làm ướt đẫm vai chồng. Họ yêu Đức Giêsu quá chừng. Họ yêu nhau như ngàn tình yêu vợ chồng cộng lại. Tình yêu này xoắn lấy tình yêu kia và bốc lên như triều dâng.

Thằng cu tí, con bé tí ti chạy lại ôm lấy cha, ôm lấy mẹ và nói nhệu nhạo theo dòng lệ tuôn trào.

– Tại sao cha mẹ khóc? Mẹ lại giận cha hả?

– Không phải. Mẹ khóc vì mẹ thấy cha thương mẹ hơn xưa ngàn ngàn lần.

– Chưa đúng đâu. Mẹ khóc vì thương cha. Mẹ còn khóc vì thương Thầy Giêsu nữa kia.

– Thầy Giêsu là ai vậy?

– Là người cứu cha thoát khỏi bầy quỷ. Bầy quỷ nhập vào bầy heo theo nhau nhào xuống hồ đó. Thế chúng con có thương Thầy Giêsu không?

-Thương. Cha mẹ thương Thầy Giêsu bao nhiêu?


– Thương vô cùng.


– Chúng con cũng thương Thầy Giêsu vô cùng.


Cả nhà ôm nhau. Lại khóc hù hụ. Vừa khóc vừa cười.

------

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

--------------------------------

 

PiôHậu 78: Lồng Chợ Đêm Hôm Ấy

 

Nhà lồng chợ đầy ắp hàng hóa, bỗng dưng vơi dần… vơi dần… rồi trống phộc và vắng te. Người PiôHậu 78


Nhà lồng chợ đầy ắp hàng hóa, bỗng dưng vơi dần… vơi dần… rồi trống phộc và vắng te. Người vô gia cư đến đây để tạm trú. Khách lỡ đường đến đây để ngủ qua đêm. Người hành khất đến đây để nghỉ, để ở, để ngủ, để yêu nhau và để chết… Bao nhiêu tội lỗi, bao nhiêu nỗi khổ của cuối thập niên bảy mươi, thế kỷ hai mươi đều tập trung về đây. Chồng chất. Chồng chất.

Trong xó xỉnh tối om om, có một người đàn bà ốm nhom đang gục đầu trên hai đầu gối. Xương vai nhấp nhô theo nhịp ho sù sụ. Hai thằng cu tí ôm lưng mẹ mà ngủ. Xa xa có một ông cùi ngồi vấn thuốc rê, bên cạnh ngọn đèn bánh ú leo lét cháy. Ánh sáng chập chờn của ngọn đèn lần mò đi tìm những đường cong hiếm hoi trên thân thể của người đàn bà ốm nhách như con khô kèo. Cặp mắt ông cùi không tìm được điểm dừng. Xót xa. Tiếc nuối, nhưng vẫn thèm thuồng. Người đàn bà đang hấp hối, nhưng chưa chết được, vì quá khứ, hiện tại và tương lai còn đang giằng xé nhau, chưa buông tha nhau. Quá khứ là nguyên nhân của hiện tại. Hiện tại là nguyên nhân của tương lai. Đau quá! Tức tưởi quá! Quá khứ là một thằng đàn ông phản bội: không thể tha thứ; không thể quên được. Tương lai là hai thằng cu tí đang ôm lưng mẹ để ngủ và để sống.

Bến Tre là quê hương yêu dấu của chị. Nhưng Bến Tre cũng là nơi chồng chị bỏ chị mà đi trong những ngày tháng khó khăn, hoảng sợ. Đi mà bỏ lại người vợ yếu đuối và hai đứa con thơ. Đi mà không để lại một giạ lúa, không để lại một cắc bạc, chỉ để lại một lá thư vĩnh biệt: “Tôi đi, bà đừng mong tôi trở về. Tôi không thể tự hủy hoại đời mình, để sống với người ho lao ghê sợ như bà. Số Trời định thế, bà thông cảm với tôi. Còn hai thằng bé, nếu bà không nuôi được, thì gởi cho bà nội chúng nó”. Người vợ bị bỏ rơi, kêu “Trời” một tiếng, rồi ngất xỉu.

Một tuần lễ trôi qua, không thấy cha mẹ chồng hỏi thăm, người đàn bà ho lao tức tưởi ra đi, không thèm nhìn lại quê hương không còn gì để yêu dấu. Chị dắt con xuôi về Cà Mau, đến tá túc ở ngôi nhà lồng chợ. Ban ngày thì dắt con đi ăn xin. Tối đến thì về nhà lồng chợ để ngủ. Đi ăn xin, mà xin không đủ ăn. Cứ thất thểu đi được một trăm mét, thì phải ngồi nghỉ mười lăm phút. Nghỉ chưa hết mệt, thì lại phải ho. Ho sù sụ, ho rũ rượi, ho đến muốn đứt cả ruột.

Đến nhà thương xin khám bệnh, thì bác sĩ bảo: “Phải nghỉ tuyệt đối, vì bệnh lao phổi đã sang tới giai đoạn ba rồi”. Xin thuốc, thì bác sĩ bảo: “Hết thuốc đặc trị rồi. Ra chợ đen mà mua, thì may ra còn”. Tuyệt vọng!

Người đàn bà không muốn sống nữa. Bà muốn đâm đầu xuống sông để chết cho rồi. Nhưng… nhìn hai đứa con thơ dại, bà không nỡ tâm. Bà lại tiếp tục dắt con đi ăn xin. Lại ngồi xuống ho sù sụ. Bỗng bà thấy có một ngôi nhà thờ. Nhà thờ vắng hoe. Cây thánh giá mốc thếch. Chắc ông cha cũng nghèo lắm. Hy vọng nhỏ nhoi vừa nhen nhúm bỗng lụi dần… lụi dần. Nhìn lại hai đứa con bé tí, mặt buồn so.

– Mẹ…

– Cái gì? Đói hả? Biết sao bây giờ. Hu… hu…

– Về nhà lồng chợ đi. Ông cùi còn một nửa nồi cơm nguội. Ông cùi thương mẹ con mình, để dành cơm cho mình đấy.

-Tao cấm chúng mày không được nhắc đến ổng nữa.

Hai thằng cu tí sụ mặt. Thất vọng!

Thương con quá, người đàn bà thôi khóc, dắt hai đứa bé vào khuôn viên nhà thờ. Hy vọng mỏng manh, nhưng… không lẽ ông cha lại không cho được một chén cháo. Bà rụt rè bấm chuông. Chuông không reo. Con chó sủa gâu gâu. Hai thằng bé ôm lấy mẹ.

Cha sở vác cuốc từ ngoài vườn đi vào.

– Chị kiếm ai đó?

– Chú cho con gặp ông cha.

– Ông cha là ông vác cuốc đây nè. Mời vô.

– Con xin lỗi cha. Tại con không biết, xin cha thông cảm.

– Không những thông cảm, mà còn cảm thông nữa. Mời chị ngồi. Hai đứa con ngồi hai bên mẹ để mẹ vui. Có mẹ sướng quá ta.

Thấy cha sở xởi lởi, người đàn bà nhếch mép cười. Nụ cười héo hắt.

– Thưa cha, con ở tuốt bên Bến Tre lận. Chồng con chê con ho lao, bỏ con đi theo người ta. Con qua bên đây đi ăn xin, để nuôi hai đứa con. Con đi không nổi. Vừa đi vừa ho. Đi suốt ngày mà không đủ ăn.

– Qua bên đây, thì chị ở đâu.

– Con ngủ ở nhà lồng chợ.

– Nhà lồng chợ thì đông người lắm. Chắc là vui lắm nhỉ? Nguyên cãi nhau cũng đủ vui rồi.

– Cha cứ nói đùa. Khổ lắm cha ạ. Đói thì con nhịn được. Nhưng mà hai đứa con của con, chúng nó không biết nhịn đói. Mỗi bữa mỗI đứa chỉ được ăn một chén cơm. Hết cơm thì ngồi khóc. Thấy con khóc thì mẹ đứt cả ruột. Nhưng biết làm sao bây giờ. Con chỉ biết khóc. Khóc để chúng nó thương mẹ, mà biết nhịn đói.

– Nhà lồng chợ đông người như thế mà không có ai cho chúng nó một chén cơm, một củ mì sao?

– Có một ông cùi muốn giúp chúng con. Nhưng… kỳ lắm!

– Kỳ lắm là sao? Kỳ cục, hay kỳ diệu?

– Cha cứ nói đùa hoài à. Ông cùi nói với con thế này: “Tôi đi ăn xin, người ta cho nhiều, ăn không hết, còn chị thì đi ăn xin suốt ngày, mà không đủ ăn. Thôi đừng đi đâu nữa. Cứ ở nhà mà nghỉ. Tôi nuôi hết cả ba mẹ con luôn. Nhưng mỗi tuần chị phải cho tôi hôn một lần”. Không chiều người ta, thì con mình phải nhịn đói. Mà chiều người ta thì…

Người đàn bà ôm mặt khóc hù hụ. Hai thằng bé cúi mặt nhìn hai bàn chân. Cha xứ nhìn ba mẹ con, cắn môi cầm nước mắt. Ông vào trong phòng, vét hết số tiền đang sở hữu, e thẹn đặt vào tay người đàn bà khốn khổ.

– Khả năng của tôi chỉ có thế. Chị thông cảm.

– Con không sống được bao lâu nữa đâu. Xin cha thương nuôi giùm hai đứa con của con.

– Tôi chưa dám hứa, vì tôi cũng chưa biết tương lai của tôi sẽ ra sao.

Người đàn bà dẫn hai đứa con ra khỏi khuôn viên nhà thờ, vừa đi vừa đếm những đồng tiền lẻ. Bà dặn hai đứa bé: “Từ nay ông cùi cho chúng mày bất cứ cái gì, thì cũng không được lấy. Nhớ chưa?”.

Ông cha sở trở về phòng, ngồi gục đầu xuống bàn, suy nghĩ mông lung. Người đàn bà sẽ chết trong nay mai. Hai đứa bé sẽ đi về đâu? Người nghèo khổ thì trập trùng. Người cứu khổ thì bất lực. Nỗi khổ thì chồng chất, phương thức giải khổ thì chìm lỉm.

Ba mươi năm sau…

Ngồi trong tòa nhà hưu dưỡng đồ sộ và mất điện. Cha già cảm thấy mình bé nhỏ và cô đơn quá chừng. Bao nhiêu công trình, bao nhiêu thành tích của năm mươi ba năm truyền giáo đều tan biến thành mây khói. Chỉ còn lại hình ảnh người đàn bà đang hấp hối. Chỉ còn lại hình ảnh hai đứa trẻ bơ vơ. Chỉ còn lại ngôi nhà lồng chợ tối om. Cha già hối tiếc vì mình không cứu được nhân sinh đang chết chìm trong biển khổ. Việc từ thiện nào cũng chỉ là muối bỏ biển. Việc bác ái nào cũng chỉ là đánh trống bỏ dùi.

Con tắc kè quen thân e hèm lấy giọng, gióng lên một hồi “Tắc kè… Tắc kè…” Tiếng kêu thật to, rồi nhỏ dần… nhỏ dần. Căn phòng vẫn tối om om và lại im phăng phắc.

Chuông điện thoại reo.

– Alo. Nhà hưu dưỡng linh mục Cần Thơ nghe đây.

– Cha! Có phải cha là ông cha sở vác cuốc đó không?

– Xin lỗi, ai ở đầu dây?

– Chúng con là hai thằng cu tí, con của người đàn bà ho lao cư ngụ ở nhà lồng chợ Cà Mau đây. Chúng con kiếm cha muốn chết luôn.

– Xin lỗi, các anh đang ở đâu?

– Chúng con đang ở khách sạn Ninh Kiều… Sáng mai chúng con sẽ đến thăm cha thật sớm. Chuyện đời dài lắm. Kể hết thì cha nghe mệt luôn? Chúc cha ngủ ngon.

Lại có điện. Căn phòng rực sáng. Cha già dang tay thẳng băng như cánh diều. Cặp mắt xuất thần. Đôi môi thì thầm: “Lạy Chúa. Xin để tôi tớ này được an bình ra đi…”.

-----

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

--------------------------------

 

PiôHậu 79: Lá thư ngỏ gửi chi Hồng Băng

Như Trái Mắm

Chị Hồng Băng mến!

 

Từ ngày gặp chị cho đến nay, tôi đếm được chẵn ba trăm sáu mươi lăm ngày, lẻ một buổi chiều PiôHậu 79


Từ ngày gặp chị cho đến nay, tôi đếm được chẵn ba trăm sáu mươi lăm ngày, lẻ một buổi chiều. Suốt thời gian dài đằng đẵng ấy, tôi suy nghĩ rất nhiều về chị, tôi ngẫm nghĩ rất nhiều về Thầy Giêsu. Và buổi tối hôm nay, tôi dàn trải tất cả bấy nhiêu suy tư, để gửi về chị. Ước mong được chị đồng cảm.

Tôi tự tiện đặt tên cho chị là Hồng Băng. Chị biết tại sao không? Tôi đố chị đấy. Hồng Băng dẫn tôi vào con đường quanh co. Mỗi khúc quanh là một hình ảnh, một kỷ niệm, một suy tư. Vừa buồn cười, vừa tức tưởi.

1. Hôm ấy tôi đi dạo chơi cho đỡ buồn. Tình cờ thấy một đám đông đang bao quanh một cái gì đó. Tôi kiễng chân để ngó. Tôi thấy một người đàn bà quỳ mọp dưới chân Thầy Giêsu, vừa van xin, vừa run rẩy. Còn Thầy Giêsu thì như đang thắc mắc, như đang bực bội gì đó. Tôi hỏi đám phụ nữ: “Chuyện gì vậy?”. Bà nào cũng bĩu môi, nháy nhau bằng ngón tay trỏ đặt trên môi. Có một bà, mặt vuông như mặt đàn ông, vêu cái miệng hô ra, hét vào mặt tôi: “Chuyện đàn bà. Đàn ông đừng xía vào đây!”. Bị đàn bà chửi, tức quá, nhục quá.

Nhưng đành phải chuồn thôi. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. “Đào vi thượng sách”. Cãi nhau với đàn bà, thì từ chết đến chết, không có bị thương…

2. Tôi chuồn, nhưng tôi không bỏ cuộc. Tôi né đàn bà, nhưng tôi đi tìm đàn ông, gặp ngay anh chàng Simon, mẫu người ruột để ngoài da. Hai đứa đi tìm gốc cây, ngồi nhâm nhi hết hai bầu rượu. Rượu vào, lời ra. Tình nghĩa chan hòa. Anh Simon hung hăng kể chuyện.

“Người thì đông như kiến cỏ. Người nào cũng chen, cũng lách, để tới gần Thầy. Thế là đạp lên nhau. Đàn bà thì la quéc quéc. Đàn ông thì cười hố hố. Thế mà Thầy cứ hỏi đi hỏi lại “Ai đụng vào Ta?”. Tớ đã giải thích cho Thầy rằng: Người ta chen lấn nhau, đụng vào Thầy, đụng vào nhau. Có vậy thôi: Nói thế mà Thầy vẫn không chịu. Thầy cứ day dí mãi: “Ai động vào Ta?”. Cuối cùng mới vỡ lẽ là có người đụng vào Thầy thật. Người ấy sợ quá, quỳ mọp xuống xin lỗi Thầy. Bà ấy kể rằng bà bị xuất huyết từ mười hai năm. Ruộng vườn bán gần hết mà vẫn “tiền mất, tật mang”.

Tớ thấy Thầy nóng như lửa. Tưởng rằng Thầy sẽ quát cho bà này một trận. Ai ngờ Thầy mỉm cười, đổi giọng nói ngọt lịm như đường phèn: “Đức tin của bà chữa bà đấy. Chúc bà về bình an nhá!”.

3. Tôi điều tra lý lịch người đàn bà ấy thì hóa ra là chị. Tôi tìm nhà chị. Hỏi nhà chị ở đâu, thì con nít cũng biết, đua nhau dẫn đường.

Nhà chị khá khang trang. Nhưng trống phộc. Bàn ghế, giường tủ bằng gỗ quý đều bán sạch sành sanh. Đành mời khách ngồi phệt xuống nền gạch. Chị kể chuyện hào hứng như một nhà hùng biện. Chuyện “ấy” của đàn bà, mà chị cứ kể oang oang, chẳng biết xấu hổ là gì. Mừng quá, sướng quá quên cả thẹn thùng…

Chuyện kể của chị dài như một dòng sông. Thế mà tôi nhớ hết. Nhớ cả những cái không nên nhớ. Tôi ghi đậm những nét sau đây.

Mười giọt cơm mới làm được một giọt máu. Thế mà chị mất máu quanh năm. Dầm dề mười hai năm. Cơm ăn bao nhiêu cũng không tô hồng cho gò má. Người cứ xanh như tàu lá. Má cứ hóp như người chết đói. Gái mới nạ dòng, mà trông như bà lão tám chục.

Ngôi nhà khang trang. Ruộng vườn mênh mông. Con đàn cháu đống. Ai cũng khen là nhà có phước. Thế mà bỗng dưng: ruộng vườn cứ thu hẹp dần; vàng bạc không chân mà cứ đua nhau chạy trốn; con đàn cháu đống cứ rủ nhau đi tha phương cầu thực. Chỉ còn căn nhà trống phộc và đôi vợ chồng ngơ ngác.

Thầy thuốc Do Thái, thầy thuốc La Mã, thầy thuốc Ả Rập đua nhau kê toa. Cứ hy vọng rồi lại thất vọng. Cuối cùng chỉ là “Tiền mất, tật mang”.
May quá, chị nghe người ta đồn Thầy Giêsu là Sứ Ngôn có khả năng trị bệnh mà không cần uống thuốc. Có một sức mạnh thần thiêng từ trong thân thể của Người tràn ra làm cho người què được đi, người mù được thấy, người cùi được sạch… chị quyết tâm đi gặp Người. Kể lể hoàn cảnh khốn khổ và xấu hổ của mình, để xin Người cứu độ. Nhưng nghĩ lại, chị lại thôi, xấu hổ lắm! Chị tự nghĩ: cứ lén lút rờ vào tua áo của Người cũng được khỏi. Cần gì phải gặp. Cần gì phải kể chuyện xuất huyết làm chi.

Nghĩ là làm liền. Chị đi tìm Thầy Giêsu. Thấy ngay. Nhưng mà người ta đông quá. Kệ. Chị lách. Chị chen. Ai chửi cũng kệ. Cứ chen. Cứ lách. Gần tới chỗ Thầy đứng, chị thò tay rờ vào áo của Thầy một cái. Chị thấy trong người khỏe hẳn ra. Chỗ ấy không còn cảm giác dầm dề… Mừng quá!

Chưa kịp khoe với mọi người là mình được khỏi bệnh, thì giật mình, vì Thầy cứ hỏi: “Ai động đến Ta?”. Tính trốn, thì lại nghe Thầy điều tra: “Ai động vào Ta?” Biết mình không qua mặt Thầy được, đành đưa đầu ra nhận lỗi. Bị mắng, bị phạt, bị đánh cũng được, vì đã được khỏi bệnh rồi. Ai ngờ, Thầy không mắng, mà còn an ủi. Lời của Thầy cứ ngọt sớt. Ánh mắt của Thầy hiền như ánh mắt của Mẹ. Nỗi vui mừng như nở ra lớn gấp trăm…

Trên đường về, chị ghé thăm thầy Tư Tế để xin làm lễ thanh tẩy. Theo luật Môsê thì máu làm người ta mắc uế. Mỗi lần có kinh là mắc uế. Sạch kinh thì thanh tẩy. Mười hai năm mắc uế mà không thanh tẩy được. Mặc cảm tội lỗi đầy mình. Thân xác sướng một, bây giờ linh hồn sướng gấp mười lần.

4. Chị nói nhiều quá, khiến ông xã của chị nhăn mặt. Ông nhắc khéo: “Em xuống bếp kiếm bánh trái lên đãi khách chứ”.

Chị vừa đi khỏi, ông xã của chị ghé sát tai tôi, thầm thì kể lể. Vừa kể vừa cười hí hí: “Anh biết không? Bà xã tôi bị mắc uế triền miên mười hai năm, đâu có làm lễ thanh tẩy được. Thế là tôi phải kiêng “ấy” mười hai năm đấy. Khổ thân tôi chưa! Bây giờ bà ấy được Thầy Giêsu chữa khỏi, tôi mừng hết biết. Tôi cám ơn Người quá thể. Chả biết lấy gì mà đền ơn Người được. Có lẽ chỉ còn một cách là đi truyền giáo với Người thôi”.

    5. Ăn bánh, uống nước với hai vợ chồng chị xong, tôi đi tìm Thầy Giêsu để phỏng vấn. Tôi phải ngồi chờ Thầy ở nhà anh Simon mãi cho tới khuya mới gặp Người được. Hỏi Thầy đi đâu, thì anh Simon cười hề hề: “Thầy đi cầu nguyện”. Hỏi Thầy cầu nguyện ở đâu, thì anh Simon lắc đầu: “Biết đâu à”.

Thầy cầm tay tôi, ngồi nói chuyện như hai bạn quen thân từ lâu. Tôi mở đầu:

– Thưa Thầy, tính con hay tò mò, chuyện gì cũng muốn biết đến nơi đến chốn. Xin Thầy thông cảm.

– Cứ nói đi. Thoải mái mà.

– Thưa Thầy, chuyện Thầy cho người đàn bà bị băng huyết mười hai năm được khỏi, thì con biết hết từ đầu đến đuôi. Nhưng có vài cái con không hiểu. Một: bà ấy bị băng huyết. Chuyện ấy là chuyện đàn bà, chuyện tế nhị. Lẽ ra Thầy nên bỏ qua. Thế mà Thầy cứ day dí mãi, khiến bà ấy khai vanh vách, làm cho các bà phụ nữ đỏ mặt hết trơn. Hai: tại sao Thầy hù dọa làm cho bà ấy run như cầy sấy? Tưởng là chuyện lớn. Ai ngờ Thầy lại nói một câu ngọt lịm “Đức tin của bà chữa bà đấy. Chúc bà về bình an nhá”. Thưa Thầy, tại sao vậy?

– Tại sao hả? Đồng ý với anh là khi bà ấy được khỏi bệnh là xong. Chấm hết. Đúng thế. Nhưng khi tôi không cho thế là xong, tôi làm bộ tra vấn để bà ấy sợ run lên… rồi lại ngọt ngào với bà, thì có phải là bàvui hơn, tin hơn gấp trăm lần không? Ấy là chưa nói đến chuyện bà sẽ yêu mến và truyền giáo mạnh hơn gấp trăm lần.

– Thưa Thầy, con hiểu. Đó là chiêu truyền giáo của Thầy: Khéo tay, gốc cây thành pho tượng.

------

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu
#Nhutraimam
#PioNgoPhucHau

--------------------------------

 

PiôHậu 80: LÁ THƯ NGỎ GỬI NI CÔ DIỆU THẢO


Chị Diệu Thảo mến!

 

Tôi đã gặp chị nhiều lần. Chị kể cho tôi nghe về Đức Phật. Tôi kể cho chị nghe về Đức Chúa. Lần PiôHậu 80


Tôi đã gặp chị nhiều lần. Chị kể cho tôi nghe về Đức Phật. Tôi kể cho chị nghe về Đức Chúa. Lần gặp cuối cùng cách nay ba mươi ba năm. Ba mươi ba năm xa cách. Ba mươi ba năm biệt tăm. Nhưng những kỷ niệm về chị vẫn đầy ắp và vẫn nóng hôi hổi.

KỶ NIỆM MỘT

Một ngôi chùa xinh xinh ẩn mình trong một góc vườn nhãn bạt ngàn. Ni cô Diệu Thảo ngồi thiền trước tượng Phật Thích Ca. Cặp mắt lim dim. Sợi khói hương thơm nhẹ nhàng lan tỏa. Tiếng mõ cốc cốc nghe khô khốc làm ai đó giật mình. Tiếng chuông coong… ngân nga… ngân nga mãi, ru hồn người ấy vào thế giới thần linh…

Tiếng mõ khô khốc nhắc nhở “Đời là bể khổ”. Tiếng chuông ngân nga xoa dịu nỗi khổ của kiếp người.

Sau một giờ ngồi thiền, Ni cô Diệu Thảo chậm rãi đứng lên, nhẹ nhàng vuốt lại tà áo màu xám tro, lặng lẽ đi ra cổng chùa.

KỶ NIỆM HAI

Ni cô Diệu Thảo cúi mình chui vào căn lều xiêu vẹo.

– Ai đó?

– Con đây. Diệu Thảo đây. Bà Hai khỏe chưa?

– Ni cô đấy hả? Còn hơi sức đâu mà khỏe. Cầu Trời khấn Phật cho tôi chết sớm ngày nào hay ngày nấy.

Mười ngón tay ngọc ngà xếp mười quả quýt thành một vòng tròn xinh xắn bên cạnh cái gối đầu xám xịt của bà Hai.

– Con biếu bà Hai một chục quýt. Bà Hai ăn để lấy sức. Quýt Đoan Hùng từ ngoài Bắc đem vào. Quýt bá tánh cúng dường quý lắm đấy.

– Cám ơn ni cô. Ni cô tốt hết biết.

Ni cô thoăn thoắt bóc quýt, miệng cười nhỏn nhoẽn. Bà Hai nhai nhóp nhép, miệng móm xọm, cặp mắt hấp háy. Bệnh là khổ, già là khổ. Nhưng khổ cứ vơi dần, vơi dần.

KỶ NIỆM BA

Chiếc xe Môbilét xanh chậm chậm lăn bánh. Tà áo màu xám tro nhẹ nhẹ bay. Một chiếc xe Dream láng coóng từ phía sau vượt lên. Một bàn tay đặt lên lưng ni cô Diệu Thảo. Một cảm giác ấm ấm. Ni cô nhô vai lên, rụt cổ xuống.

– Gái xinh thế mà đi tu. Uổng phí một đời người.

– Anh Thắng làm gì mà kỳ vậy?

– Kỳ diệu trên tuyệt vời!

– Em… Tôi không đùa đâu nhé.

– Anh van xin em. Anh yêu em thật tình. Nếu không lấy được em, thì anh xin làm Romêô – Sống mà không được em yêu, thì sống làm gì?

– Không nói chuyện với anh nữa.

Ni cô Diệu Thảo lấy tay áo gạt nước mắt. Chiếc xe Môbilét xanh lại lăn bánh. Bánh lăn không bình thường.

KỶ NIỆM BỐN

Chiếc xe Môbilét xanh đứng chơ vơ dưới gốc cây phượng cổ thụ. Ni cô Diệu Thảo quỳ mọp trước hang đá Đức Mẹ, hai tay bưng lấy mặt, khóc rấm rứt.

– Lạy Đức Mẹ đồng trinh, xin giúp con giữ được đời đồng trinh. Tình yêu và tình dục đời thường vẫn quấy nhiễu con.

– (Văng vẳng tiếng của Thắng): Nếu anh không lấy được em, nếu em không yêu anh, thì anh sống để làm gì?

– Mẹ đồng trinh ơi, cứu con với.

Ni cô Diệu Thảo nhìn lên ảnh Đức Mẹ với cặp mắt xuất thần – Nhìn mãi – Nhìn mãi – không chớp mắt, y như đang thấy một cái gì lạ lắm…

KỶ NIỆM NĂM

Ni cô Diệu Thảo và Ni cô Diệu Hạnh ngồi bên nhau trong phòng khách của tôi. Hai ni cô đơn sơ và hồn nhiên như hai bé mầm non. Dễ thương quá chừng! Là ni cô nhưng vẫn gọi tôi là cha và tự xưng là con, nghe cứ ngọt xớt như đường phèn.

– Cha ơi! Đọc Cựu Ước, con thấy buồn nôn quá à!

– Ủa, tại sao vậy? Nói thật hay nói đùa?

– Thiệt mà. Sứ ngôn Êlia ra lệnh giết hơn bốn trăm sãi thần Baal trên núi Carmel, làm đỏ ngầu cả dòng suối. Còn khủng khiếp hơn là Pônpốt.

– (Diệu Hạnh phụ họa thêm): Samuel ra lệnh giết cả trẻ thơ. Ghê tởm quá chừng!

Hai ni cô lấy hai bàn tay úp chéo trước ngực, cúi đầu, nhắm mắt. Dường như hai tâm hồn đang tê tái trước nỗi đau của kiếp người. Dường như hai linh hồn đang chết lịm vì tội sát sinh chồng chất, chồng chất…

Tôi chẳng biết nói gì, đành cúi mặt, làm thinh. Bầu khí vui tươi của phòng khách trở nên trang trọng lạ thường.

KỶ NIỆM SÁU

Ni cô Diệu Thảo ôm cuốn Tân Ước trước ngực. Cặp mắt khép hờ. Tâm tư trầm lắng. Hai giọt nước mắt lăn nhẹ xuống gò má, chạm phải đôi môi đang run run. Tà áo màu xám tro chùi nhanh hai giọt lệ.

– Cha ơi! Cái chết của Chúa đẹp quá! Không buồn, không giận, không than, chỉ một niềm yêu, chỉ một lời cầu “Xin tha cho họ”. Hai mắt Chúa khép lại. Đầu Chúa gục xuống. Chỉ còn lại một chữ yêu. Chỉ còn lại một lời tha thứ. Chúa đi rồi, nhưng yêu thương và tha thứ vẫn còn đó, lan tỏa khắp nơi. Nỗi đau vơi dần, vơi dần.

– Như vậy là Diệu Thảo thấm tình Chúa rồi phải không?

– Còn hơn thế nữa cha ạ.

Chị Diệu Thảo mến.

Cái lối xưng hô “cha – con” ngọt xớt của ba mươi ba năm về trước, bây giờ phải khép lại. Có lẽ chị đã là một thiền sư của một ngôi chùa lớn nào đó. Cũng có thể chị đã là một Kitô hữu như tôi? Nhưng chắc chắn là con đường chị đã đi qua bắt tôi phải suy nghĩ.

1. Là một Phật tử thấm nhuần tinh thần từ bi, hỷ xả của Đức Phật, chị bị sốc nặng khi thấy máu tuôn chảy suốt dòng lịch sử của dân tộc Do Thái. Chị kinh hãi khi thấy Êlia ra lệnh sát hại hơn bốn trăm sãi của thần Baal trên núi Carmel. Chị lợm giọng khi thấy tín đồ Do Thái cầu nguyện tỉnh bơ: “Nhờ danh Chúa, tôi trừ diệt chúng”. Họ còn cảm tạ Chúa, vì chân của họ chìm ngập dưới bùn trộn máu kẻ thù. Họ cũng còn hãnh diện vì thấy chó của họ được liếm thây quân thù, nằm ngổn ngang trên chiến trường…

Tôi hối hận vì đã tặng chị cuốn Cựu Ước, trước khi chị gặp được Đức Giêsu. Tôi thành thật xin lỗi chị về điều ấy.

Cựu Ước chỉ là con đường dẫn đến Đức Giêsu. Cựu Ước chưa có mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Mạc khải trọn vẹn ấy chỉ có trong Đức Giêsu mà thôi. Môsê chưa phải là “Thầy”. Các sứ ngôn trong Cựu Ước chưa phải là “Thầy”. “Thầy” ấy chỉ là Đức Giêsu mà thôi. Gioan Tẩy Giả là sứ ngôn cao trọng nhất đã phải thú nhận rằng: “Thầy đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Thầy”.

Chị Diệu Thảo ơi!

Dường như chị đã cảm nghiệm được Đức Giêsu. Dường như chị đang “có” Đức Giêsu. Tôi mừng cho chị và tôi không còn hối tiếc nữa khi đã lỡ tặng chị cuốn Cựu Ước, trước khi chị ôm vào ngực cuốn Tân Ước một cách trìu mến.

2. Chị tu thiền. Chị ngồi thiền. Chị tạo được cái “tâm” trong như pha lê. Chị tạo được một cái “tư” trống không, mênh mông như một bầu trời, cao vời vợi, không vương một sợi mây.

Tu thiền là tiền sảnh của chính điện. Chính điện của tôi là Đức Giêsu, là mạc khải trọn vẹn của Chúa Cha. Tôi đã vào chính điện. Tôi đã gặp được Đức Giêsu, “Thầy” của tôi.

Nhưng… tôi phải ghen với chị. Dường như… tôi chưa cảm được Ngài, như chị đã cảm. Hôm ấy tôi thấy chị như xuất thần, hai tay đặt chéo trước ngực, rưng rưng hai giọt lệ. Chị cảm thấy Chúa là tình yêu, một tình yêu lan tỏa. Một tình yêu xóa hết nỗi đau của đời người.

Tôi mừng cho chị, vì chị đã đi qua cái “tiền sảnh” ấy trước khi vào gặp Đức Giêsu. Bây giờ tôi mới hiểu được lời giáo huấn của Thầy: “Ai muốn theo tôi, thì phải từ bỏ chính mình”. Thiền của chị là một cách từ bỏ chính mình. Thời gian chị ngồi thiền là thời gian chị quét dọn cái có, để có cái không. Cái không là điều kiện để có Đức Giêsu một cách trọn vẹn.

Cầu mong để chị có Đức Giêsu. Có thật nhiều. Có trọn vẹn.

Thân mến.

Lm. Pio Ngô Phúc Hậu

----------------------------------
 

Tác giả: Lm Piô Ngô Phúc Hậu

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây