Bùi-Tuần 2374: NHỮNG NGƯỜI LÀ ĐIỂM TỰA CHO TÔI
Bùi-Tuần 2375: CHÚA XÓT THƯƠNG NHỮNG KẺ KÍNH SỢ CHÚA
Bùi-Tuần 2376: HÃY NGHE ĐỨC MẸ BÁO TIN
Bùi-Tuần 2377: ĐỨC MẸ KHÓC
Bùi-Tuần 2378: Tỉnh Thức Trước Biến Chuyển Đời Tu
Bùi-Tuần 2379: ĐỨC MẸ SẦU BI CỨU NHỮNG AI KHIÊM NHƯỜNG
Bùi-Tuần 2380: ĐỨC MẸ DẠY TÔI VỀ PHỤC VỤ THẦM LẶNG
Bùi-Tuần 2381: ĐỨC MẸ AN ỦI TÔI
Bùi-Tuần 2382: ĐỨC MẸ ĐẶT TRONG TÔI MỘT TRÁI TIM THAO THỨC
Bùi-Tuần 2383: CẢNH GIÁC VỀ NHỮNG LỖI TƯỞNG LÀ NHỎ
Bùi-Tuần 2384: ĐỨC MẸ KHUYÊN TÔI HÃY THEO GƯƠNG THÁNH GIUSE LUÔN PHẤN ĐẤU VỚI CHÍNH MÌNH
Bùi-Tuần 2385: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI ĐƯỢC THUỘC VỀ CHÚA
Bùi-Tuần 2386: ĐỨC MẸ DẠY TÔI HÃY LO CỨU MÌNH CHO KHỎI TỘI LỖI
Bùi-Tuần 2387: CHIA SẺ VỀ NẾP SỐNG CỦA MỘT NGƯỜI CAO TUỔI
Bùi-Tuần 2388: CHUỖI TRÀNG HẠT MÂN CÔI GIÚP ĐÓN NHẬN SỰ BÌNH AN CỦA CHÚA
Bùi-Tuần 2389: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI SỐNG YÊU THƯƠNG LÚC NÀY
Bùi-Tuần 2390: NHỜ ĐỨC MẸ CẦU BẦU, TÔI ĐƯỢC CHÚA THƯƠNG CỨU
Bùi-Tuần 2391: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI ĐI VỀ VỚI CHA TRÊN TRỜI
Bùi-Tuần 2392: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI NHÌN VÀO ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH
CHÚA
Bùi-Tuần 2393: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI GẶP ĐƯỢC AN ỦI CỦA CHÚA
Bùi-Tuần 2394: ĐỨC MẸ DẠY TÔI HÃY BIẾT ĐÓN NHẬN CHỨ ĐỪNG QUÁ LO CHO ĐI
Bùi-Tuần 2395: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI LẮNG NGHE NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT
Bùi-Tuần 2396: ĐỨC MẸ MARIA ĐANG KÊU GỌI CHÚNG TA
Bùi-Tuần 2397: ĐỨC MẸ DẠY TÔI: MUỐN LÀ CON YÊU CỦA MẸ, HÃY BIẾT ĐAU CÁI ĐAU CỦA NGƯỜI KHỔ ĐAU
Bùi-Tuần 2398: ĐỨC MẸ CHỮA LÀNH
Bùi-Tuần 2399: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI ĐÓN NHẬN SỰ BÌNH AN CỦA CHÚA
Bùi-Tuần 2400: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI ĐÓN NHẬN SỰ AN ỦI CỨU ĐỘ
Đời tôi là một chuyến đi. Đi từ ngày nọ sang ngày kia. Đi từ khát vọng này qua khát vọng khác Bùi-Tuần 2351
Đời tôi là một chuyến đi. Đi từ ngày nọ sang ngày kia. Đi từ khát vọng này qua khát vọng khác. Chẳng lúc nào tôi không ước mơ. Không sự gì làm tôi no thỏa.
Trong mọi ước muốn nhỏ to, hình như tôi vẫn tìm hoài một hạnh phúc vô biên. Ban đầu tôi không hiểu. Nhưng sau tôi biết được hạnh phúc vô biên tôi tìm chính là Thiên Chúa. Thành ra, vô tình hay hữu ý, suốt đời tôi là một chuyến đi tìm Thiên Chúa.
Tìm Chúa, đó là nỗi băn khoăn lớn nhất đời tôi. Tôi đọc kinh, xưng tội, rước lễ, suy gẫm và nhiều cách khác để tìm Ngài. Nhưng đã bao lần tôi tự hỏi: Tôi đã thực sự gặp Chúa chưa? Không phải một Chúa xa lạ mơ hồ nhưng là một Chúa thân mật, sống động, một Chúa tên là “Tình yêu” (x. 1 Ga 4,8). Có cách nào tốt giúp tôi gặp được Chúa không?
Để tìm giải đáp, tôi đã nhìn lên núi Sọ chiều thứ sáu tuần thánh. Nơi đây có nhiều hạng người tới coi xử tội. Phân tách kỹ tôi thấy rằng:
Hạng người thứ nhất đã không gặp được Chúa, đó là những kẻ qua đường.
Kinh Thánh ghi: “Có những kẻ qua đường thấy Chúa bị đóng đinh thì cười chê và nói: Ông này có tiếng hay làm phép lạ. Ông bảo ông dám phá đền thờ, rồi nội trong ba ngày sẽ làm lại y nguyên. Sao lúc này không cứu mình đi?” (Mt 27,39-40).
Nghe thế, Chúa Giêsu làm thinh không trả lời gì. Và những kẻ qua đường chỉ thấy một người có vẻ đáng khinh. Họ không nhận ra người đó chính là Thiên Chúa.
Tại sao vậy? Thưa vì họ nhẫn tâm.
Gặp một người đang đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần mà không chút xót thương, lại còn nỡ lòng chế nhạo. Không an ủi được một lần thì chớ, họ còn xỉ nhục thêm. Thái độ nhẫn tâm của họ đã cản trở họ gặp được Chúa.
Hạng người thứ hai đã không gặp được Chúa, đó là những trưởng tế và luật sĩ.
Theo Phúc Âm, thì các trưởng tế và luật sĩ đã thách thức Chúa rằng: Nếu ông là vua Israel thì hãy xuống khỏi thập giá đi rồi chúng tôi sẽ tin (x. Mt 27,42-43).
Tại sao? Thưa vì họ ác tâm.
Chính bọn họ đã bôi nhọ thanh danh Chúa. Chính họ đã bày mưu bắt Chúa. Chính họ đã bỏ vạ và xúi dân xin giết Chúa. Bây giờ Chúa như là kẻ ra hàng, thất trận, đã bị hành hạ đến cực độ. Thế mà họ vẫn chưa thoả lòng, họ còn muốn làm nhục thêm. Thái độ ác tâm của họ đã làm họ không gặp được Chúa.
Hạng người thứ ba đã không gặp được Chúa đó là những binh lính đã thi hành án lệnh giết Chúa.
Bài thương khó kể rằng: Mấy người lính đóng đinh Chúa ngẩng mặt lên chế giễu Chúa rằng: Ông xưng Ông là vua Do Thái, có giỏi thì nhảy xuống đi, rồi bọn tôi sẽ tin (x. Lc 28,36-37).
Nghe thế, Chúa Giêsu làm thinh không trả lời gì.
Và các lính đó đã chỉ nhìn Chúa như một tử tội. Họ không nhận ra người đó chính là Thiên Chúa.
Tại sao? Vì họ dã tâm.
Đành rằng họ phải đóng đinh Chúa theo lệnh thượng cấp. Nhưng họ đã đi quá giới hạn nhiệm vụ. Không ai buộc họ phải khích bác Chúa. Nhưng họ làm vì mị dân và dã tâm. Thái độ dã tâm của họ đã không cho họ gặp được Chúa.
Hạng người thứ bốn đã không gặp được Chúa, đó là kẻ trộm bên tả.
Phúc Âm thuật: Một kẻ trộm bên tả quay sang nói khích Chúa rằng: Nếu ông là vị cứu thế, thì hãy cứu mình và cứu tôi đi! (x. Lc 23,39). Nghe thế, Chúa Giêsu làm thinh không trả lời gì. Và kẻ trộm đó chỉ gặp một người như tội nhân hèn hạ. Hắn không nhận ra người đó chính là Thiên Chúa.
Tại sao? Thưa vì hắn tiểu tâm.
Hắn đã biết đau khổ là gì. Đáng lý ra hắn phải biết thông cảm với người cùng chung hoàn cảnh. Đàng này, hắn lại chế nhạo khích bác. Ngoài ra, hắn còn ích kỷ. Có ba người cùng thụ án, mà hắn chỉ nghĩ tới việc cứu hắn. Còn anh trộm bên hữu thì sao? Thái độ tiểu tâm của hắn ngăn trở hắn gặp được Chúa.
Hạng người thứ năm đã gặp được Chúa, đó là kẻ trộm bên hữu.
Ông không nhẫn tâm vào hùa đám đông như kẻ qua đường. Nhưng một mình ông dám lên tiếng nói Chúa là người vô tội.
Ông không ác tâm như các trưởng tế, và luật sĩ, chủ tâm hạ Chúa xuống đất đen. Nhưng ông nói: “Khi nào lên trời, xin nhớ tới tôi” (Lc 23,42). Có nghĩa là: Ông là người lành, người thánh, ông sẽ lên thiên đàng. Ông cũng không dã tâm như bọn lính. Ông phân biệt ai đáng tội, ai không. Ông nói: “Chúng tôi chịu tội thì đáng lắm. Còn ông này có làm gì nên tội?” (Lc 23,41). Ông cũng không tiểu tâm như kẻ trộm bên tả. Vì thái độ bênh đỡ Chúa một cách công khai và mạnh mẽ của ông đã an ủi Đức Mẹ rất nhiều.
Tóm lại, cái bí quyết đã giúp kẻ trộm bên hữu gặp được Chúa chính là sự ông biết thương người. Ông thấy cạnh ông có một người bị đau đớn cực khổ, ông động tình thương. Ông để ý thì thấy người ấy bị oan, nên ông lên tiếng bênh. Chỉ một mình ông dám bênh, đang khi cả ngàn người đồng thanh kết án. Ông dám nói, đang khi không một ai, dù các người thân tín nhất của Chúa, dám hé môi nói nửa lời an ủi Chúa.
Thấy ông có lòng thương người thực sự Chúa liền ban ơn cho ông nhận biết Chúa: “Hôm nay ông sẽ về thiên đàng với tôi” (Lc 23,43). Ông đã gặp được Chúa.
Nhìn lại tôi, tôi thấy lo sợ. Biết đâu xưa nay tôi cũng như bốn hạng người trên. Mỗi khi tôi xử tệ với người khác là chính lúc tôi xử tệ với Chúa. Và đó là lý do tại sao tôi không được gặp Chúa.
Lạy Chúa, con xin Chúa giúp con biết thương người. Con nhìn nhận thương người là đường dẫn tới Chúa. Chúa đợi con đàng sau những người đau khổ. Xin giúp con biết yêu thương họ, để qua họ, con sẽ gặp được Chúa lòng con luôn khát vọng.
Tôi là kẻ có tội. Khi đọc kinh Cáo Mình, tôi tự thú đã phạm tội nhiều. Khi đọc kinh Lạy Cha, tôi Bùi-Tuần 2352
Tôi là kẻ có tội.
Khi đọc kinh Cáo Mình, tôi tự thú đã phạm tội nhiều.
Khi đọc kinh Lạy Cha, tôi tự xưng tôi cần phải xin ơn tha thứ.
Khi đọc kinh Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, tôi tự nhận tôi là kẻ có tội.
Khi chịu bí tích giải tội, tôi tự đặt mình vào hạng người tội lỗi.
Mà thực, tôi đã phạm tội không biết bao nhiêu mà kể: Trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.
Không nhận mình có tội là phạm thêm một tội nói dối. Vì tôi là kẻ có tội, nên tôi mang thân phận con người tội lỗi. Tôi không chối từ thân phận đó. Nó là của tôi!
Mà chối từ sao được, khi tôi và kẻ tội lỗi cũng đồng nghĩa như nhau, khi ngày đêm tôi vẫn ăn năn trên cuộc đời của tôi nhiều tì ố!
Không những tôi không chối từ, không trốn tránh, không than trách mà còn muốn giữ mãi thân phận đó như một nơi trú ngụ êm đềm.
Chính nơi đây, tôi đã tìm gặp được bản thân tôi, một bản thân trần trụi và yếu đuối.
Tôi chỉ là thế. Tôi chỉ có thể nhìn nhận chân thành thực trạng đó là tôi đã trở về với tôi, tôi đã hợp nhất với tôi.
Sự hợp nhất âm thầm này cho tôi một niềm vui ngọt ngào và một bình an sâu thẳm. Như thế sau cơn mơ tôi lại được gặp chính mình. Như thế tôi đã tìm được một căn nhà riêng thực là của tôi, một chỗ ở thích hợp hoàn toàn với tôi.
Trong sự vắng vẻ và hoang vu của thân phận tội lỗi, tôi lắng nghe lòng tôi. Và tôi chỉ thấy duy nhất một lời: Chúa yêu con.
Lời đó là lời Chúa nói với tôi, hay là lời tôi nói với Chúa? Chắc chắn là cả hai.
Tôi không muốn phân tách những lý do tại sao tôi muốn Chúa và tại sao Chúa thương tôi.
Tôi chỉ tin và cảm thấy rằng: Tôi thiếu thốn tất cả và Chúa là tất cả cho tôi. Tôi là vực sâu dưới hư vô, nhưng tôi lại được Chúa thương yêu vô cùng. Chỉ có Ngài là trung tín và chân thành tuyệt đối. Ngài thương tôi từ thuở đời đời, Ngài thương tôi hơn chính tôi thương tôi. Ngài cho tôi một niềm tin khi tôi đã mất hết niềm tin ở mọi người.
Niềm tin của tôi là sự gặp gỡ sống động giữa tất cả con người của tôi với ngôi vị Thiên Chúa.
Tôi tin Chúa, không phải chỉ là tin có Chúa, cũng không phải tin lời Chúa, nhưng trước hết và cốt yếu là tin Chúa yêu thương tôi.
Tôi tin Chúa gần tôi, quan tâm đến tôi, thương yêu tôi vô cùng, Ngài là Chúa và là Cha tôi. Ngài có quyền và có lòng thương, thế là đủ cho tôi rồi.
Tôi tin nên tôi yêu. Hay tôi yêu nên tôi tin? Tôi không rõ.
Tôi chỉ biết rằng: niềm tin nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ niềm tin. Có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin.
Nhưng trong thân phận tội lỗi của tôi tình yêu đó khởi đầu từ một niềm tin cũng như niềm tin đó đã xuất hiện từ sự trở về, nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình.
Càng trở về sâu trong thân phận, tôi càng thấy niềm tin lớn mạnh, để rồi lại càng đốt nóng lên một tình yêu thầm kín.
Và như thế, khi tôi mất tất cả lại là lúc tôi gặp được tất cả. Vì Chúa là tất cả của tôi, và tất cả cho tôi. Các người đạo đức bảo tôi rằng: Biết mình là đầu mối sự khôn ngoan, là điều kiện trước tiên của mọi sự cải tiến.
Đúng lắm. Nhưng biết mình không phải dễ. Không ai gần tôi cho bằng tôi. Nhưng chính tôi thường xa lạ với tôi hơn ai hết.
Làm sao để biết mình?
Cách thứ nhất tôi thử dùng là so sánh mình với kẻ khác. Thấy không bằng họ, thì coi mình kém. Thấy không thua họ, thì yên trí chẳng sao.
Nhưng có chuyện làm tôi nghi ngờ cách biết mình này: Một ông Pharisêu và một ông nhân viên thuế vụ vào đền thờ cầu nguyện. Ông Pharisêu so sánh mình với ông thu thuế thì thấy mình khá quá, thì nói với Chúa rằng: Con không như tên thu thuế kia. Rốt cuộc, người thu thuế lại được Chúa thương hơn (x. Lc 18,9-14). Thế là ông Pharisêu đã lầm lớn.
Hay là tôi so sánh mình với những người hơn tôi xem sao, nhưng tôi vẫn sợ lầm. Vì thế nào để phân biệt được chắc chắn ai hơn ai kém. Đàng khác, so sánh mình với người khác dễ gì đúng được. Mình thiên vị mình là chuyện thường. Chủ quan mà cứ tưởng khách quan mới thực là nguy.
Không tin vào cách so sánh mình với người khác, tôi thử dùng cách hai để biết mình là dựa vào dư luận. Người ta nói về tôi thế nào thì tôi cũng coi tôi là thế.
Nhưng Phúc Âm lại có chuyện dạy tôi phải coi chừng dư luận. Trong lịch sử đạo Công giáo lần đầu tiên dư luận đại chúng được phát biểu là vấn đề nên tha Giêsu hay Baraba. Kết quả là tất cả đã lên án Chúa Giêsu. Thực là mỉa mai cho chủ trương lấy ý kiến đại chúng làm tiêu chuẩn để phân biệt lành dữ. Dư luận nhiều khi chỉ là luận dư và vô trách nhiệm.
Thấy dư luận không bảo đảm, tôi lại dùng cách thứ ba để biết mình, đó là căn cứ vào các điều răn để biết mình xem có phạm gì nặng không. Nếu không phạm gì nặng thì chẳng thánh, ít ra cũng chẳng đến nỗi nào.
Nhưng có mấy lời Chúa phán làm tôi phải dè dặt. Thời Chúa Giêsu, những người thu thuế và đĩ điếm đều bị xã hội xếp vào hạng người tội lỗi quái gở. Còn Pharisêu và các thầy cả thì được dân chúng tôn trọng như các bậc đạo đức mô phạm. Thế mà có lần Chúa nói với các vị này rằng: “Ta nói thực với các ông, những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông” (Mt 21,31). Mà mấy vị đó xem ra có phạm gì nặng nề đâu. Thì ra Chúa biết nhiều quá. Và Chúa xét đoán khác thiên hạ.
Hay là tôi sẽ căn cứ vào nếp sống hình thức hàng ngày để biết mình? Hễ tôi thấy mình làm đủ việc luật dạy, năng đi nhà thờ, kinh kệ đàng hoàng, thì là dấu tốt. Bằng không thì là dấu xấu.
Nhưng cách này cũng không làm tôi yên trí. Còn ai giữ luật cặn kẽ bằng ông Pharisêu! Thế mà Chúa mắng bọn họ là “Những mồ mả ngoài thì sơn trắng, nhưng trong thì đầy xương hôi tanh” (Mt 23,27). Nếp sống hình thức chỉ là cái vỏ, chỉ là mặt nạ. Nó không phải là tôi.
Vậy còn một cách sau chót tôi thử dùng để biết mình, là căn cứ vào lương tâm. Hễ lương tâm an ổn thì là dấu tôi tốt. Hễ lương tâm bứt rứt không an, thì là dấu tôi có gì trục trặc.
Nhưng cách này cũng không chắc chắn. Lương tâm tôi thì bình an lắm. Nhưng biết đâu chỉ vì lương tâm tôi đã quen sai lầm, đã ra chai đá? Và dù lương tâm tôi thuộc loại chính xác, thì tình trạng yên ổn của nó cũng có thể rất chủ quan. Chính thánh Phaolô cũng đã nói: “Thực, lương tâm tôi không trách tôi điều gì. Nhưng không vì thế tôi là người công chính. Chỉ có Chúa là Đấng phán xét tôi” (1 Cr 4,4).
Thì ra năm cách tôi thử dùng để biết mình đều không bảo đảm.
Vậy phải làm sao bây giờ?
Tôi thấy một trả lời từ Kinh Thánh: Saolô từ Damas đi Giêrusalem bị một ánh sáng từ trời đánh ngã. Ngài hỏi: Chúa muốn con làm gì? Rồi ngài mờ mắt. Ba ngày đêm không ăn uống. Chỉ suy nghĩ cầu nguyện. Trong cảnh cô tịch nội tâm đó, ngài đã để lòng mình đối diện với Chúa và ngài đã được biết rõ mình. Từ đó ngài đã trở lại và nên thánh (x. Cv. 9).
Muốn biết rõ mình, tôi cũng hãy dùng cách của thánh Phaolô: suy nghĩ và hỏi Chúa trong cõi thinh lặng. Chúa là đường và là sự thật. Chúa rất thương tôi. Tôi tin chắc chắn khi nhìn vào Chúa, thì tôi sẽ thấy tôi. Sự biết này vừa rõ, vừa gợi niềm cậy trông và khiêm tốn. Nó êm đềm chứ không làm tôi kiêu căng, sợ hãi hay bối rối. Nó cho biết và đồng thời cũng chữa trị. Vì thực ra, lúc đó Chúa đã ở trong tôi rồi.
Lạy Chúa, con biết tin vào đâu? Con đặt niềm tin trọn vẹn vào Chúa. Sự thực của Chúa bao giờ cũng đầy đủ dịu dàng, êm đềm và khích lệ, rất khác với những chỉ giáo của loài người. Xin giúp con năng biết tìm Chúa, hỏi Chúa trong thinh lặng nội tâm, để nhờ đó con biết mình, biết đời và biết Chúa.
Tôi có đạo, và tôi hân hạnh xưng mình có đạo. Nếu ai hỏi tôi về đạo, tôi thưa: Điều cốt yếu của Bùi-Tuần 2353
Tôi có đạo, và tôi hân hạnh xưng mình có đạo. Nếu ai hỏi tôi về đạo, tôi thưa: Điều cốt yếu của đạo tôi là tin thờ Thiên Chúa. Khi trước tôi tưởng thế là đủ. Nhưng bây giờ xét kỹ lại, tôi thấy không đủ. Bởi vì đạo của tôi buộc không những phải tin thờ Chúa, mà còn phải yêu thương người khác.
Tôi ngỡ yêu người chỉ là điều phụ. Nhưng đọc lại Kinh Thánh, tôi thấy yêu người cũng là điều chính. Một luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Trong các điều răn, điều nào trọng nhất?”. Chúa Giêsu đáp: “Đây là điều răn thứ nhất: ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn điều răn thứ hai cũng giống như điều trước: là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy” (Mc 12,28-31). Nếu điều răn thứ hai cũng giống điều răn thứ nhất, thì tất nhiên yêu người cũng quan trọng như mến Chúa, cũng cần như mến Chúa, cũng phải giữ cẩn thận như mến Chúa.
Như thế, căn bản đạo tôi có thể tóm tắt vào hai việc mến Chúa yêu người. Thực ra, đó chỉ là hai mặt của một tình yêu. Cả hai chỉ là một. Bỏ một tức bỏ hai. Đủ cả hai mới thành được đạo. Vì thế, kẻ vô thần không mến Chúa, thì gọi là vô đạo. Người Công giáo không yêu người cũng là một thứ vô đạo.
Nhiều khi tôi thấy Chúa coi việc yêu người còn quan trọng hơn việc thờ Chúa. Chẳng thế mà có lần Chúa bảo: “Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ, mà sực nhớ ra anh em có điều gì bất bình với ngươi, thì hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, đi về làm hòa với anh em đã, rồi mới trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Rõ ràng Chúa muốn tôi thực hiện yêu người trước cả việc đọc kinh dâng lễ.
Hơn nữa, Chúa coi việc yêu người như đặc điểm của môn đệ Chúa: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Suy lời trên đây, tôi thấy thực đáng lo. Vì tôi thường nhận biết người Công giáo nhờ một số dấu bề ngoài như đeo ảnh tượng, đọc kinh, làm dấu thánh giá, đi nhà thờ. Người khác cũng căn cứ vào dấu đó để nhận ai là người Công giáo. Nhưng nếu bây giờ bỏ tất cả những dấu đó đi, để căn cứ vào đời sống bác ái, thì chắc chắn sẽ có những cảnh nhận lộn ghê gớm. Có những người hay thương những kẻ nghèo, bênh vực kẻ yếu, an ủi kẻ đau khổ. Tôi sẽ tưởng họ là Công giáo, nhưng không phải. Trái lại vô số những người gian tham, chuyên nói xấu, nói hành, bày mưu hại người, dửng dưng trước những đau khổ của tha nhân. Tôi tưởng họ sẽ vô thần. Nhưng không phải.
Còn tôi.
Đến ngày phán xét, chính Chúa cũng căn cứ vào đặc điểm yêu người, để định đoạt ai được lên thiên đàng, ai phải xuống hỏa ngục. Chúa phán: “Khi ấy, Chúa sẽ phán cùng các kẻ ở bên hữu Ngài rằng: Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến nhận lấy phúc đã sắm cho các ngươi. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống. Ta là khách các ngươi đã tiếp rước, Ta ở trần các ngươi đã cho mặc. Ta bệnh tật các ngươi đã săn sóc, Ta bị ở tù, các ngươi đã thăm hỏi.
Bấy giờ các kẻ lành sẽ thưa rằng: Lạy Chúa đã bao giờ chúng tôi thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Có khi nào thấy Chúa là khách mà tiếp rước, hoặc ở trần mà cho mặc đâu? Hoặc thấy Chúa đau ốm hay bị ở tù mà đi thăm đâu? Ngài thưa lại rằng: Ta nói thật với các ngươi, bao nhiêu lần các ngươi làm những việc ấy cho những kẻ hèn mọn là anh em Ta đây, tức là các ngươi làm cho Ta đó” (Mt 25,34-40).
Kế đó Chúa quay sang bên tả, trách mắng những người đứng đó, vì xưa đã không làm cho Ngài những việc kẻ lành đã làm, họ cũng thắc mắc như kẻ lành. Nhưng Chúa phán: “Ta nói thật cho các ngươi, bao nhiêu lần các ngươi bỏ qua không làm những việc đó cho những kẻ hèn mọn đây, tức là không làm cho Ta vậy!”. Rồi Chúa nói tiếp: “Những người này phải chịu xuống gia hình muôn kiếp. Còn các kẻ lành lên hưởng phúc trường sinh” (Mt 25,45-46).
Lời Chúa thật rõ ràng, tôi không thể hiểu cách khác được. Rõ ràng yêu người là điều bao trùm tất cả luật đạo. Thánh Phaolô đã xác định dứt khoát như thế: “Ai yêu người là đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8).
Yêu người quan trọng đến mức đó, thế mà nhiều khi xét mình xưng tội, tôi lại ít để ý tới. Thực đáng ngại, khi coi thường bổn phận bác ái, để tự lừa dối mình và lừa dối người khác bằng hình thức giả đạo đức giả tạo đâu đâu.
Lạy Chúa, con tin ở lời Chúa dạy không thể sai lầm. Con tin nhận yêu người là điều răn quan trọng nhất, đạo đức hệ tại ở đó. Và luật đạo cũng ở trong đó. Xin Chúa thương giúp con biết thực hiện hàng ngày giới răn yêu người, để đời này con được mang dấu hiệu sống động của môn đồ Chúa...
Cứ mỗi lần nghĩ tới dụ ngôn Chúa nói về gương yêu người, tôi lại buồn. Có một cái gì như mỉa Bùi-Tuần 2354
Cứ mỗi lần nghĩ tới dụ ngôn Chúa nói về gương yêu người, tôi lại buồn.
Có một cái gì như mỉa mai làm tôi hổ thẹn. Có một cái gì cay đắng làm tôi bứt rứt.
Tôi tưởng rằng khi đưa ra gương bác ái, Chúa sẽ bảo: Hãy bắt chước thầy cả này, người giáo hữu kia. Nhưng Chúa lại bảo: Hãy bắt chước gương người ngoại đạo!
Không những thế, Chúa còn đem ra đối chiếu ba thái độ: một của thầy cả, một của người quý chức trong đạo và một người ngoại giáo. So sánh lại càng thấy rõ hai vị cao cấp trong tôn giáo kia thua kém xa người ngoại đạo.
Đây dụ ngôn Chúa kể cho một luật sĩ: “Người kia đi từ Giêrusalem đến Giêricô dọc đường bị sa vào ổ cướp. Chúng lột hết quần áo và đánh nhừ tử, rồi bỏ mặc người nửa sống nửa chết mà đi. Tình cờ một thầy cả nọ cũng xuống theo con đường ấy, thấy người kia, ông liền tránh một bên và đi qua. Cũng vậy một thầy Lêvi đến nơi, thấy thế cũng tránh một bên và đi qua. Song một người Samari đi đường đến gần thấy vậy, liền động lòng thương người ấy. Ông liền lấy dầu và rượu xoa rịt vết thương, lại đặt lên ngựa mình đem về nhà quán mà săn sóc. Hôm sau, ông trao cho chủ quán hai quan tiền và dặn rằng ‘Xin săn sóc người này, có tốn kém hơn thì lúc về tôi sẽ trả thêm’. Trong ba người đó, ông nghĩ ai là kẻ thân cận với kẻ bị cướp? Luật sĩ thưa: Chính kẻ đã thương giúp nạn nhân. Chúa Giêsu phán: Ông hãy về bắt chước như thế” (Lc 10,29-37).
Càng suy càng thấy đau xót.
Vị thầy cả chuyên giảng luật Chúa. Nhưng luật căn bản của Chúa là luật bác ái thì ngài lại không giữ.
Thầy Lêvi thuộc người thế giá, lại chuyên lo việc đạo, nhưng điều răn chính của đạo là yêu thương thì họ lại không thực hành.
Còn người Samari mà người Do Thái kể là kẻ ngoại, không nên đi lại tiếp xúc, thì lại thực sự yêu người.
Ông thực sự yêu người, bởi vì ông đã thực sự cho đi. Yêu thương là cho đi. Ông đã cho đi thời giờ, tiền của, công lao khó nhọc của ông, bàn tay săn sóc của ông, những lời an ủi của ông, những lo lắng của ông đối với nạn nhân chứng tỏ ông đã cho đi rộng rãi tấm lòng yêu thương chân thành của ông. Ông đã cho đi nhiều, nên ông đã yêu thương nhiều.
Còn hai vị kia có cho gì đâu để đáng gọi là yêu thương!
Tất nhiên dụ ngôn nhắc lại đạo cũ. Các người trong chuyện đều đã qua rồi.
Nhưng tôi tự hỏi: Nếu hôm nay Chúa đến đất nước này, hay đến miền này để giảng lại dụ ngôn bác ái, Chúa sẽ đem ai ra làm gương? Biết đâu Chúa sẽ nói y nguyên dụ ngôn trên với những danh từ mới.
Nghĩ tới đây, tôi buồn kinh khủng.
Tôi buồn vì thấy nhiều khi chúng tôi giống hệt mấy người lãnh đạo tôn giáo xưa. Họ đi đâu cũng đeo luật Chúa trước ngực, nhưng trong lòng thì độc ác. Cũng thế, đi đâu chúng tôi cũng mang danh hiệu của đoàn thể bác ái này, tổ chức đạo đức kia, mở miệng ra là khuyên yêu thương bác ái, nhưng lòng chúng tôi chứa đầy ganh ghét, hành động vẫn ác nghiệt, lời nói xấu như mũi tên độc bắn lén trong đêm. Đôi khi chúng tôi có làm được ít việc bác ái, nhưng bao lần làm để trình diễn hơn là thực sự bác ái.
Tôi buồn vì thấy nhiều khi chúng tôi hành động giống hệt những người Do Thái xưa. Họ không dám vào phủ đường của Philatô, nại lý do là nhà Philatô là nhà ngoại đạo, kẻ có đạo vào đó sẽ mắc dơ (x. Ga 18,28). Nhưng chính lúc đó, họ không ngại cáo gian và xin lên án giết một người cực thánh là Chúa Giêsu. Cũng thế, nhiều khi chúng tôi cặn kẽ với một vài hình thức đạo đức bề ngoài, nhưng lại coi thường các tội tày trời lỗi đức thương yêu, như cứng cỏi với người nghèo nàn, khinh dể kẻ yếu đuối, tàn nhẫn với người đau khổ, nói xấu bỏ vạ vv...
Tôi lo sợ chúng tôi cũng bị Chúa mắng trách như ký lục và biệt phái xưa:
“Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, các ngươi ngốn cả nhà cửa các bà góa mà còn làm bộ cầu nguyện lâu dài...
“Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phải giả hình, các ngươi đi nộp thuế thập phân về bạc hà, rau ngò, rau húng, nhưng lại bỏ lơ những điều quan trọng hơn hết của lề luật là lòng chính trực, lòng nhân nghĩa, lòng thành tín. Các ngươi gạn lọc con muỗi nhưng lại nuốt trôi con
lạc đà!
“Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, các ngươi rửa sạch chén dĩa, nhưng trong lòng thì đầy tham ô vô độ” (Mt 23,14.23-25)
Tôi có vào số những người đó không?
Tôi biết rằng: đạo tôi là yêu thương và yêu thương là biết cho đi.
Tôi cũng biết rằng: lịch sử đạo tôi không thiếu những gương yêu thương.
Nhưng nơi khác có, mà có thể ở đây không có. Trước đó, mà có thể hôm nay không có.
Nếu thực sự hôm nay và ở đây không có, thì không gì đau xót bằng.
Là thành phần của đoàn thể, của họ đạo, của địa phận, của Giáo Hội, tôi có trách nhiệm vì sự thiếu sót đó.
Tôi đừng xét đoán ai. Tôi đừng trách ai. Tôi hãy tự xét mình và trách mình trước.
Lạy Chúa Giêsu nhân từ, con xin Chúa thương cho con nhìn rõ bổn phận yêu thương. Xin Chúa tha thứ mọi lỗi lầm của con. Xin Chúa ban cho cộng đồng của con được nhiều gương bác ái, để gương lành của họ nâng đỡ dìu dắt sự yếu đuối của con. Chúa là tình yêu, xin làm cho trái tim con trở nên giống trái tim Chúa.
Tội là điều xấu. Tất cả những gì liên quan đến tội đều xấu, thì dịp tội phải xấu, người phạm tội cũng Bùi-Tuần 2355
Tội là điều xấu. Tất cả những gì liên quan đến tội đều xấu, thì dịp tội phải xấu, người phạm tội cũng xấu.
Mà đã xấu thì không đáng yêu. Phải ghét phải tránh xa. Nên nếu tôi ghét kẻ tội lỗi, thì đâu có gì nghịch lý!
Lập luận xem ra đúng. Nhưng nếu tôi muốn thuận lý với tôi, thì tôi phải ghét tất cả mọi người. Vì chẳng ai vô tội hết. Mọi người cũng sẽ phải ghét tôi hết. Vì tôi đâu phải là người sạch tội. Tôi cũng sẽ phải ghét tôi. Mọi người cũng sẽ phải ghét nhau. Vì tất cả đều có tội không nhiều thì ít. Và như thế giữa nhân loại với nhau, sẽ chỉ còn khinh ghét là dây liên lạc hợp lý!
Ý kiến trên đây chắc không được ai chấp nhận. Kẻ khùng nhất cũng cho đó là đúng.
Đúng thế. Tội xấu, nên phải ghét. Nhưng kẻ phạm tội, tuy xấu, nhưng vẫn có bao điều tốt trong nhiều phương diện. Ghét là trái lý tự nhiên, là trái lương tri nhân loại, là trái luật Chúa buộc yêu thương mọi người.
Chính Chúa đã yêu thương kẻ tội lỗi. Hơn nữa, người còn dành cho họ một tình yêu đặc biệt.
Chúa nói: “Ta đến không phải để gọi kẻ công chính, nhưng là để gọi kẻ tội lỗi” (Mt 9,13).
Quả thực, vì yêu thương người tội lỗi Chúa đã giáng trần, mặc lấy thân phận con người mỏng giòn, đã sinh ra khó nghèo, đã sống lầm than và đã chết khổ cực.
Vì yêu thương kẻ tội lỗi, Chúa đã lập các bí tích để cứu chữa, nâng đỡ và nuôi dưỡng họ.
Tóm lại, suốt đời Chúa Giêsu là tận tụy cho kẻ tội lỗi.
Kẻ tội lỗi là ai? Phải kể trước hết là tôi. Tôi tội lỗi hơn bao người, thế mà cũng được Chúa yêu thương rất mực. Tại sao tôi lại không yêu thương kẻ tội lỗi khác như Chúa đã yêu thương tôi.
Nếu tôi cho rằng họ xấu, thì sao tôi không nhận ra rằng chính tôi cũng xấu, và có lẽ còn xấu vạn lần hơn họ.
Nếu tôi bảo rằng họ chẳng đáng thương thì sao tôi không nhận ra rằng chính tôi kiêu căng ích kỷ hay khinh chê kẻ khác mới thực là kẻ chẳng đáng thương.
Nếu tôi xử tệ với kẻ có tội, thì sao tôi không nhớ rằng tôi cũng sẽ bị Chúa xử lại với tôi như vậy (x. Mt 18,33-35).
Tôi không được phép khinh ghét người có tội, trái lại, tôi phải yêu thương họ. Nhưng yêu thương cách nào? Tôi hãy học nơi Chúa Giêsu.
Trước hết tôi thấy Ngài bênh đỡ họ. Có bao giờ Chúa đứng về phía Pharisêu kiêu căng và hay kết án tội lỗi đâu? Chúa chỉ trách mắng hạng người tội lỗi kiêu căng cố chấp như Pharisêu. Còn đối với kẻ tội lỗi yếu đuối thì luôn bênh đỡ.
Một hôm, đám đông điệu một người đàn bà ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và tố cáo rằng: Chị này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Cứ theo luật thì chị này phải ném đá chết. Còn Thầy nghĩ sao?
Chúa Giêsu bình tĩnh trả lời: “Ai trong các ngươi vô tội, thì yêu cầu ném hòn đá thứ nhất đi”. Rồi Chúa cúi xuống, lấy ngón tay viết chữ trên nền nhà, không nhìn, không nói với ai. Lúc ngẩng đầu lên, thì chỉ còn chị phụ nữ đứng đó. Chúa bảo: “Không ai kết án chị sao? Vậy tôi cũng chẳng kết án chị. Chị về bình an và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,1-11).
Nếu tôi đứng đó, có lẽ tôi cũng sẽ hùa theo đám đông, tỏ bộ khinh bỉ và nói những lời chê bai đối với người đàn bà tội lỗi ấy.
Nhưng Đấng thánh thiện vô cùng lại không khinh chê, ghét bỏ và lên án chị. Trái lại thái độ của Chúa còn có tính cách bênh đỡ rõ rệt.
Trên núi Sọ, tôi thấy tội dân Do Thái rõ rành rành. Thế mà Chúa Giêsu còn tìm cách bênh đỡ và cắt nghĩa lành cho họ. Ngài đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Nhìn thái độ Chúa, tôi thấy tất cả những thái độ hung hăng hay lên án kẻ khác thường không phản ảnh tinh thần của Chúa. Trái lại người nào càng thánh, càng trong sạch thì lại càng giàu tình thương yêu đối với kẻ yếu đuối lầm lạc.
Tôi cũng thấy Chúa Giêsu hay tiếp xúc đi lại với các người tội lỗi.
Ông Giakêu là nhân viên thuế vụ có tiếng tham nhũng. Dân chúng thường xa tránh bọn đó, nhưng Chúa đã đến thăm gia đình ông. Mà ông có mời đâu! (x. Lc 19,1-10).
Matthêu cũng là người thu thuế bị nhiều điều tiếng. Chúa đến dùng bữa tại nhà ông. Có nhiều người thu thuế khác và xấu nết cùng ngồi đồng bàn với Chúa (x. Mt 9,9-13).
Rồi tại bờ giếng Giacóp, một người đàn bà đang kéo nước lên, bà đã có năm đời chồng và người đang chung sống với bà lại không phải là chồng bà. Chúa Giêsu bước đến và chính Người bắt chuyện trước (x. Ga 4,7-26).
Cả đến đoàn lũ đông đảo hay lui tới Chúa cũng như những người Chúa hay tới viếng thăm đâu có phải toàn là những người trong sạch. Có thể nói họ toàn là những người tội lỗi.
Chúa thì thế, còn tôi thì sao?
Mặc dầu tôi phải đề phòng, dè dặt và khiêm tốn, nhưng đừng đạo đức theo kiểu Pharisêu chủ trương xa lánh kẻ tội lỗi. Đừng muốn sống Phúc Âm hơn Chúa Giêsu, kẻo sẽ trở thành một đời sống ngoài Phúc Âm của Chúa Giêsu.
Tôi cũng hãy bắt chước Chúa năng hy sinh cầu nguyện và tìm mọi cách phục vụ cho họ. Số tội nhân thì vô vàn, mà giờ nào tôi cũng có thể cầu nguyện và hy sinh. Sự góp phần của tôi tuy nhỏ, nhưng cũng sẽ cứu được nhiều người khỏi sa hỏa ngục. Tôi có thể làm mà không chịu làm, thì làm sao xong mình được trước mặt Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương con là kẻ đầy tội lỗi xấu xa, xin giúp con biết yêu thương mọi người tội lỗi như Chúa đã yêu thương con.
(NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 12)
****(NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 13. - Xem Bùi Tuần 1262)
Ngay từ hồi nhỏ, tôi đã được sách giáo khoa dạy rằng: không gì tốt bằng cái lưỡi, nhưng cũng không Bùi-Tuần 2356
Ngay từ hồi nhỏ, tôi đã được sách giáo khoa dạy rằng: không gì tốt bằng cái lưỡi, nhưng cũng không gì xấu bằng cái lưỡi.
Hồi đó tôi không hiểu lắm. Nhưng dần dần càng đi sâu vào đời, tôi càng nghiệm thấy đúng.
Không biết tôi có bi quan hay không. Nhưng kinh nghiệm sống đã cho tôi cảm nghĩ không mấy khác những tư tưởng của mấy đoạn Kinh Thánh sau đây: “Nhiều người đã chết vì võ khí, nhưng số người chết vì chính cái lưỡi của mình lại nhiều hơn” (Hc 28,18). “Rắn rết và thú dữ thì con người trị nổi, chỉ có cái lưỡi là khó ai trị nổi. Nó đầy nọc độc. Đi đâu thì hại đó...” (Gc 3,7-8).
Cái lưỡi con người độc đến nỗi giết được người khác. Nhưng đáng sợ nhất là nó có thể giết luôn chính người có lưỡi. Tất nhiên ở đây nói theo nghĩa bóng. Giết có nghĩa là làm hại.
Lưỡi tôi hại tôi, vì tôi dùng nó để hại người khác. Cách dễ nhất để hại người khác là nói xấu họ.
Nói xấu người khác dễ ợt, chẳng vất vả gì, chẳng tốn kém gì. Nói ở đâu cũng có người nghe. Nói bất cứ điều xấu gì về người khác dù có thực, dù bịa đặt, thì cũng có người chú ý. Chính vì thế mà tôi dễ phạm và tôi coi thường.
Nhưng sự coi thường đó có thể hại tôi vô số.
Tôi bị hại lớn, vì tôi đã tự làm cho tôi ra hèn.
Tôi hèn vì nói xấu làm một điều trộm vụng. Đó là thái độ tiểu nhân, bắn lén tên độc trong đêm tối.
Tôi hèn vì nói xấu là một việc thiếu ngay thẳng. Thường, lời nói xấu của tôi hay được ngụy trang dưới những ý hướng đạo đức giả tạo, nào là để cầu nguyện cho họ, nào là để rút kinh nghiệm vv... Nhưng tôi thử hỏi Chúa Giêsu xem tôi thực sự có ý ngay lành hoàn toàn không?
Tôi hèn vì nói xấu là dùng cách đê tiện để khoe mình. Nói xấu ai tức là chê họ. Mà chê ai thì bao giờ cũng gián tiếp khoe mình không xấu như họ. Hơn nữa, sự nói xấu đó nhiều khi cũng ngậm một sự ganh tỵ kiêu căng muốn hạ người khác để mình được nổi hơn.
Tôi hèn vì nói xấu là dùng cách bần tiện để cầu thân. Nhiều khi gặp ai, tôi không có gì cho hay nói, thì làm quà cho họ một chuyện xấu của kẻ vắng mặt. Gọi là để tâm sự, gọi là để chứng tỏ lòng mình tin tưởng. Sự tôi làm như thế đã tố cáo tôi là kẻ nghèo nàn hèn hạ.
Tôi bị hại lớn, vì tôi đã làm cho người khác không tin ở tôi. Điều đó dễ hiểu. Ai biết suy nghĩ một chút tất phải nghĩ rằng một người hay nói xấu kẻ khác với họ, thì cũng dễ nói xấu họ với kẻ khác. Một người không kính trọng kẻ vắng mặt, thì đâu họ có trừ ai.
Tôi cũng sẽ bị hại lớn, vì tôi phạm tới đức công bình bác ái. Nói xấu là một cách đâm chém và ám hại người. Tiền bạc sức khoẻ là quý nhưng danh giá còn quý hơn nhiều. Người bị tôi nói xấu sẽ bị thiệt thòi mất mát. Những tủi nhục, mặc cảm và đau đớn khó chịu khó có thể lường được. Nhiều khi lời nói xấu của tôi còn ảnh hưởng đến sự nghiệp, đến liên đới của họ với các bạn bè, đến cả đời sống xã hội của họ nữa.
Tôi sẽ bị hại lớn, vì tôi khó có thể đền trả được những thiệt hại do tội nói xấu của tôi gây nên. Rắc một nắm bông gòn ra ngoài đường trước gió, rồi một ngày sau lượm lại, hỏi rằng kết quả được bao nhiêu. Cũng thế, lời nói xấu của tôi cũng bay từ miệng người này sang miệng người khác, làm sao dập tắt được. Rồi những đau khổ mất mát tinh thần vật chất người ta phải chịu do lời nói xấu của tôi, thì làm sao tôi đền trả được. Mà không đền trả thì không thể xong mình trước mặt Chúa.
Tôi sẽ bị hại lớn, nhất là vì tôi sẽ bị Chúa phạt nặng nề. Sự tôi làm cho kẻ khác thì Chúa kể như là làm cho chính Chúa. Như thế là chết tôi rồi.
Thánh Bonaventura chỉ điểm cho tôi bốn cách nói xấu:
- Một là khi người khác có sự tốt còn kín, tôi tìm cách che giấu đi, kẻo có ai biết mà khen.
- Hai là người khác có sự tốt đã trống tôi tìm cách dèm pha, để người ta nghi ngờ mà bớt khen.
- Ba là khi người khác có sự xấu còn kín, tôi tìm cách khui ra để người ta biết mà chê.
- Bốn là khi người khác có sự xấu đã trống, tôi tìm cách tuyên truyền rộng ra, để người ta càng biết mà chê thêm.
Cách nào cũng xấu hết. Và cũng không một lý do nào biện minh được cho việc nói xấu của tôi.
Như thế từ trước đến giờ tôi đã dùng lưỡi để hại biết bao nhiêu người. Và như thế tôi đã hại tôi.
Sự tôi hay nói xấu là một dấu rõ rệt báo hiệu sự suy sụp trầm trọng đức bác ái là căn bản của đạo Chúa.
Nếu đặc điểm chính thực của môn đệ Chúa là yêu thương, thì sự tôi hay nói xấu đã vạch trần bộ mặt thực của tôi rồi. Dù tôi đeo mặt nạ đạo đức nào, thì tôi vẫn chỉ là Kitô hữu thứ giả.
Lạy Chúa, con thành tâm xin lỗi Chúa. Con nhận biết rằng: con lỗi với người khác là con lỗi với Chúa. Con chẳng được một lợi lộc gì bởi những lời con nói xấu. Trái lại con đã gây thiệt hại cho chính con. Biết đâu vì lưỡi con mà con sẽ phải mất linh hồn đời đời. Xin Chúa thương giúp con từ nay biết can đảm chừa tội xấu xa ghê gớm đó.
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Lời ca của thiên thần đêm Giáng Sinh đã trở thành đầu Bùi-Tuần 2357
“… Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Lời ca của thiên thần đêm Giáng Sinh đã trở thành đầu kinh “Vinh Danh” trong thánh lễ.
Lời ca đó, tôi nghe và đọc hoài từ nhỏ tới giờ, không biết đã mấy chục ngàn lần.
Còn nhỏ, tôi đã đọc lời đó giữa những tin của cuộc đại chiến.
Lớn lên, tôi đọc lời đó giữa cảnh đấu tranh Cách Mạng Mùa Thu.
Trưởng thành, tôi đọc lời đó trong khói lửa chinh chiến và hôm nay tôi đọc lời đó bên một chân trời còn vang tiếng súng.
Bình an đâu?
“Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Càng nghe tôi càng thấy lòng chua xót. Chua xót như phải nhìn một bất lực của thiện chí, như chứng kiến sự thắng thế của bạo tàn.
Tôi muốn oán thù những người đã gây nên cuộc chiến. Tôi muốn tiêu diệt những người gieo rắc đau thương. Tôi coi họ là những người phá hoại hòa bình.
Nhưng, chính trong cảm nghĩ đó tôi mới chợt nhìn thấy rằng: Nếu tôi oán thù, nếu tôi cảm giận, nếu tôi ước muốn tiêu diệt kẻ khác thì chính tôi lại là người đang mất bình an, đang phá hoại hòa bình.
Thì ra trách nhiệm việc đánh mất sự bình an không phải bắt đầu tìm ở nơi người khác, mà phải bắt đầu tìm ở trong tôi. Khởi điểm xây dựng hòa bình là chính lòng tôi.
Xây dựng làm sao đây?
Thiên thần bảo: Có thiện tâm sẽ có hòa bình.
Thiện tâm là tôn trọng công lý: nghĩa là chu toàn bổn phận đối với Chúa và với tha nhân.
Thiện tâm là biết yêu thương. Thương yêu là cho đi sự tốt lành bằng ước muốn, thái độ, việc làm và tiền của. Và vì thương yêu là cho đi sự tốt lành, nên tôi phải biết tha thứ, chịu đựng, phải biết thông cảm, không được phán đoán xấu cho ai, không được nói hành bôi lọ một ai.
Do đó, thiện tâm đòi tôi phải khiêm nhường nhiều lắm. Khiêm nhường như trẻ thơ vô tội, không ác ý, không thù hằn, không kiêu căng ích kỷ.
Chúa Giêsu Hài Đồng trong máng cỏ là hình ảnh bình an, vì Ngài bé nhỏ, vì Ngài khiêm nhường.
Tôi phải bắt chước Ngài. Và tôi phải bắt đầu xây dựng ngay tự lòng tôi.
Lạy Chúa, xin giúp con biết cố gắng tự thắng chính mình, tự thắng ích kỷ và kiêu căng để thực hiện Công lý và Tình thương, xây nền cho hòa bình chân chính.
(NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 15)
***** (NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 16 - Xem Bùi Tuần 1266)
Tiền không bao giờ nói. Nhưng bao giờ cũng có tiếng nói về tiền. Tuy nhiên nói chưa nhiều bằng Bùi-Tuần 2358
Tiền không bao giờ nói. Nhưng bao giờ cũng có tiếng nói về tiền. Tuy nhiên nói chưa nhiều bằng nghĩ. Mấy gia đình đã không có những người nghĩ đến tiền dù chỉ trong một buổi.
Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền. Cần mà không dễ có. Muốn có phải lo tìm. Tìm hoài vẫn thường chẳng đủ. Không đủ nên mới lại càng cần. Cái vòng lẩn quẩn đó dắt con người lại làm quen với tiền. Làm quen rồi quen thuộc. Quen thuộc dẫn tới quen thân. Cứ thế, đồng tiền ung dung đi vào cuộc đời con người bằng đủ mọi đường mọi ngã.
Tiền là vật chất, nhưng nó không là một sự vật như mọi sự vật khác. Dù rách, dù hôi, nó vẫn được quý trọng. Dù đẹp dù xấu, nó vẫn được người ta dành cho nhiều tình cảm. Phải chăng tương quan giữa người và tiền có gì đặc biệt? Nếu không, làm sao hiểu được đặc ân đó. Tương quan cắt nghĩa thái độ, cũng như thái độ được thành hình trên những tương quan. Thắc mắc đó xuất hiện như một thách thức. Nó dừng ở cuối đường hiện tượng của tiền, chờ đợi những ai muốn nhìn sâu vào thế giới đó. Thắc mắc đó không báo hiệu những khám phá dễ dàng. Tuy nhiên cứ đi vẫn hơn là dừng. Được chừng nào hay chừng đó, có còn hơn không. Biết đâu một vài kết quả khiêm tốn cũng góp được phần nào vào việc hiểu biết những khía cạnh quan trọng của vấn đề tiền.
CƠ CẤU THÁI ĐỘ CẦN TIỀN
Đối với tiền, người ta có nhiều thái độ. Nhưng cần tiền là thái độ được coi là thông thường nhất. Hiểu nó, có lẽ sẽ dễ hiểu các thái độ khác.
Muốn biết, phải phân tách. Khi phân tách thái độ cần tiền, ta gặp hai yếu tố hiển nhiên, đó là con người như chủ thể và tiền như đối tượng. Cặp đôi này chưa cắt nghĩa được gì vì nó chưa phải là tất cả. Một ví dụ sẽ nâng đỡ những suy tư trừu tượng:
Lúc nãy tôi đang ngồi ở bàn giấy, thì một người tới thăm. Họ tặng tôi 20.000 đồng. Cử chỉ hào hiệp của người khác làm tôi vui sướng. Tôi tính sẽ dùng tiền đó để mua sách. Nhưng sau nghĩ lại, tôi nhất định lấy tiền đó mua thuốc và gạo cho một người nghèo. Hy vọng họ sẽ khỏi bệnh. Họ sẽ có thể đi làm lại, gia đình họ sẽ bớt lo âu. Mấy đứa con họ may ra có thể tiếp tục học hành. Nhận được sự giúp đỡ này chắc họ vui lắm.
Trước mắt tôi bây giờ số tiền nói trên chỉ là một xấp giấy 500. Nhưng rõ ràng là tôi đã không nhìn vào xấp giấy đó như những tờ giấy có hình, có màu, có số, nhưng tôi đã nhìn vào giá trị của nó. Giá trị của nó là một thứ giá trị kinh tế, có thể mua một thứ đồ vật tương đương. Tôi nhìn vào giá trị này, nhưng để rồi lại vượt qua ngay. Vì đang sau gói thuốc bao gạo đã có những giá trị khác tôi nhắm tới. Đó là sự phục hồi sức khỏe của người bệnh. Tôi lại nhìn xa hơn giá trị đó nữa. Cái nhìn của tôi lướt từ giá trị này tới giá trị khác, để rồi nhoà đi trong một chân trời tương lai hứa hẹn hạnh phúc hiện lên mơ hồ.
Tôi coi mỗi giá trị tôi nhắm tới như một cái mốc để thể hiện đường đi lên. Nếu đạt được cái nào tôi sẽ mừng lắm. Nhưng tôi vẫn cảm thấy nó tương đối, tạm thời. Trong thỏa mãn như đã có mầm bất mãn. Thỏa mãn vì đạt được. Bất mãn vì chưa đủ. Mỗi giá trị đạt được lại gọi tới những giá trị khác xa hơn. Chung quy, chẳng qua những giá trị đó chỉ là những hình thức tôi coi như phần mảnh để xây dựng một hạnh phúc. Hạnh phúc lý tưởng này sẽ là đích điểm, nhưng đã là động lực thúc đẩy tôi đi từ khởi điểm của chuỗi dài các giá trị nối tiếp nhau.
Như thế, trong thái độ cần tiền của tôi không những chỉ có sự đối chiếu giữa tôi là chủ thể và tiền là đối tượng, mà ngay trong chính đối tượng cũng đã có nhiều sự đối chiếu, đối chiếu giữa sự tôi mơ ước sẽ có, đối chiếu giữa thế giới thực tại với thế giới mơ ước của tôi mà tôi dự tính xây dựng bằng tiền, đối chiếu giữa các thế giới dự tính đó với nhau, và đối chiếu chúng với hạnh phúc lý tưởng sau cùng.
Tất cả những tương quan giữa các đối tượng đó được giàn trải ra trước ý thức, để chờ lựa chọn. Lựa chọn là việc của ý chí. Ý chí hành động một cách tự do không gì cưỡng bách được nó. Tuy nhiên sự lựa chọn của ý chí tự do không phải là hoàn toàn đứng ngoài mọi ảnh hưởng.
Ảnh hưởng trực tiếp là lý trí. Lý trí phán đoán và đề nghị chọn lựa. Lý do đề nghị thường là những gì thực tiễn theo hoàn cảnh chính lúc đó và ngay chỗ đó, chứ không phải luôn luôn là những lý do xét theo lý thuyết và nguyên tắc bất định. Những lý do thực tiễn đó rất phức tạp nào lý nào tình, nào khách quan, nào chủ quan.
Chính trong việc lý trí đề nghị, và phán đoán đã có nhiều động lực ngầm hoạt động trong tôi, để những lý do đưa ra trở nên những lý do có tính cách quyết định. Những động lực đó là khuynh hướng, đam mê, tình cảm, tập quán... Chúng ngầm kéo lý trí và ý chí coi trọng lý do này, coi nhẹ lý do kia, để rồi sau cùng ý chí tự do của tôi sẽ lấy một lựa chọn theo chiều hướng của những lý do thực tiễn đó. Lựa chọn tự do, phải, nhưng là một tự do dấn thân trong hoàn cảnh.
TỚI THÁI ĐỘ MÊ TIỀN
Nhìn vào cơ cấu trên đây của thái độ cần tiền, người ta phỏng đoán được đâu là những yếu tố có thể biến thái độ cần tiền, thành thái độ mê tiền.
Đầu tiên là những ý nghĩa mà mỗi người gán cho đồng tiền và cho cuộc sống. Dĩ nhiên đã có những ý nghĩa được các nhà đạo đức nêu lên toàn là những ý nghĩa trong trắng siêu việt. Không ai chê những ý nghĩa đó. Nhưng không vì thế mà những ý nghĩa đó được trở thành những chỉ tiêu cho mọi người trong thực tế. Trong thực tế, dĩ nhiên chỉ những gì thực tế mới coi như đáng kể, ít là theo phương diện chủ quan. Những thực tế đó là những gì? Thưa là đâu đâu đồng tiền cũng nắm quyền chỉ huy, đâu đâu tiền bạc cũng được coi là một giá trị làm nên mọi giá trị. Người nhiều tiền được kính nể. Nghề nhiều tiền được coi là quý. Người khéo làm ra tiền được coi là người giỏi. Nhiều tiền mới trông có được một đời sống đỡ khổ. Nhiều tiền mới mở mang được các cơ sở tôn giáo. Nhiều tiền mới thực hiện được những dự án xã hội bác ái. Nghèo đi liền với khổ. Có nhiều tiền tuy sao cũng sướng hơn. Tiền xem ra giải quyết tất cả. Ai cũng lo kiếm tiền trên hết. Nhiều đấng đạo đức dạy rằng tiền bạc là những giả trá thế gian phải coi như phân bón. Nhưng một số không nhỏ các đấng ấy vẫn chịu khó thu tích những sự giả trá đó, và vẫn kè kè giữ cho mình những phân bón đó. Có ai chê tiền đâu.
Thực tế là thế. Thực tế làm nên kinh nghiệm, kinh nghiệm xây dựng dần dần nơi mỗi người ý nghĩa về tiền. Tất nhiên, lý trí vẫn hiện diện. Nhưng như trên đã nói, những lý do thực tiễn thường dễ được lý trí quan tâm hơn.
Trong hoàn cảnh ấy, nếu tôi thụ động thiếu suy nghĩ và thiếu ý chí, để vô tình hay chú ý chấp nhận tất cả mọi ý nghĩa về tiền, mà thực tế hàng ngày chiếu giãi vào ý thức tôi, thì tôi không nên quả quyết quá mạnh là tôi không bao giờ mắc chứng mê tiền.
Nếu tiền đã được coi như một giá trị vạn năng trong thực tế, thì chính cuộc sống thường cũng được hiểu theo một chiều hướng ăn nhịp với ý nghĩa của tiền. Một khi tiền được kể như phương thế cần thiết để gây nên hạnh phúc thì khó có chuyện tách rời cuộc sống ra khỏi đồng tiền.
Khởi đi từ cuộc sống hiện tại, con người hướng tìm hoài về cuộc sống an vui và sung sướng hơn. Cuộc sống đó chưa có nhưng được xây dựng bằng mơ ước dự trù, chẳng hạn đó là đủ gạo ăn, đủ áo mặc, đủ chi tiết những chuyện lặt vặt, thường ngày. Cái thế giới mộng ước đó có thể thực hiện được, tất nhiên phải kiếm ra tiền. Nhưng khi mộng ước đó đã thành, nó lại trở nên một giới hạn chỉ hướng về một thế giới mộng khác đẹp hơn chẳng hạn đó là một căn nhà đúc, một khoảnh vườn. Để thực hiện cũng lại phải tiền. Có nhà cao vườn rộng rồi, người ta vẫn cảm thấy có một hạnh phúc cao hơn mời gọi mình bước tới, nhưng nó vẫn khuất dạng, sau những gì mình đang hưởng. Lại cũng phải tiền mới có. Cứ thế, con người có thể đi xa mãi, trong bối cảnh đó, ai không tự chế biết dừng mộng ước lại ở một giới hạn nào thích hợp, thì sẽ dễ theo đà đi xa hoài trong chiều hướng cặp đôi: mê tiền theo mộng, để rồi lại mê mộng theo tiền. Cũng thế, trong một cuộc sống bị đặt dưới áp lực của đồng tiền, ai không đủ tự chủ và sáng suốt, sẽ khó lại được đời sống mình vào những ý nghĩa sạch khỏi hơi hám của tiền bạc.
Một chi tiết đáng để ý ở đây, đó là: ý nghĩa của sự chênh lệch giữa cuộc sống mơ ước và là cuộc sống hiện tại. Cuộc sống hiện hữu là một gợi ý và sơ thảo cho cuộc sống mơ ước. Nên cuộc sống ước mơ bao giờ cũng hơn cuộc sống hiện hữu một bậc. Vì thế, người nghèo luôn chỉ có ước mơ nhỏ, đang khi người giàu xây dựng những ước mơ lớn. Thế giới mộng ước của người không có đồng bạc dính túi, thường chỉ khiêm tốn trong khoảng mấy chục ngàn. Nhưng thế giới mộng ước của người đang làm chủ mười triệu trong tay phải ít là mấy trăm ngàn mới thấm. Thế mà ước mơ đó họ vẫn cho là khiêm tốn. Nếu có thể nói: kẻ mong được nhiều tiền là kẻ dễ mê tiền hơn kẻ chỉ mong được ít, thì kẻ càng giàu càng dễ mê tiền.
Kẻ giàu khi đã quen xài tiền, và quen hưởng danh lợi thú do việc xài tiền, thì thói quen đó trở thành một nếp sống. Nếp sống đó tiến lên một nhu cầu và đẻ sinh ra nhiều đòi hỏi mới. Để thoả mãn, họ phải nhiều tiền. Nhiều tiền để duy trì nếp sống đã cao. Nhiều tiền để đuổi theo những mời gọi mới. Một đời sống đã bị thói quen ràng buộc vào đồng tiền quá chặt chẽ như thế sẽ không dễ tránh được tính mê tiền. Nhất là khi ý chí đã không quen từ chối những rủ rê của thế gian xác thịt.
TỚI MỨC ĐỘ MÙ QUÁNG
Thói quen nào cũng có thể trở thành đam mê. Đam mê nào cũng có thể làm cho con người mù quáng. Có ý kiến cho rằng đam mê sắc dục dễ mù quáng nhất. Nhưng thiết tưởng tính mê tiền cũng mù quáng không kém, có phần lại hơn. Người đam mê sắc dục tới một giới hạn nào đó sẽ dễ biết mình lỗi lầm. Họ mắc cỡ, xấu hổ, giấu giếm tư tưởng và việc làm của mình, họ biết mình hèn. Nếu là người công giáo có lương tâm, họ sẽ cáo mình những tội đó. Còn người mê tiền thường không thấy một giới hạn nào. Họ có thể ước mơ tiền bạc suốt đêm, bàn tán về tiền suốt ngày, lo làm tiền suốt tháng, vơ vét tiền bạc suốt năm, mà vẫn không cho đó là vấn đề ít ra thỉnh thoảng cần phải xét lại. Đặc biệt là họ có thể mặc cho tính mê tiền của họ đủ các thứ áo đạo đức. Do đó, họ không cho việc mê tiền của họ là một tính xấu. Họ mê mà vẫn tưởng mình không mê. Họ đâu có cho việc tiền bạc của họ là hèn, trái lại họ còn tự phụ là khác. Nếu họ lại sống trong một xã hội thối nát, thì mây mù càng kéo dày trên mặt họ hơn, bởi vì họ sẽ được khuyến khích hơn. Những kẻ cầm cân nẩy mực đều hơn kém như họ. Chẳng ai trách được ai. Huề cả làng nghĩa là có sự đồng ý, có sự thông cảm, có sự chấp nhận, có sự hợp thức hoá, hiểu ngầm. Đã cố tình cho là hợp lý, hợp đạo, thì làm gì đặt ra được vấn đề sửa lại. Không nhìn thấy vấn đề, hay không muốn nhìn vào vấn đề, thì làm sao giải quyết vấn đề.
Có lẽ chính là loài người mù quáng chai đá, bất trí mà Chúa Giêsu đã muốn nói tới khi tuyên bố một câu kinh khủng: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn kẻ giàu có vào nước thiên đàng” (Lc 18,24).
Cần tiền là chuyện không tránh được, nhưng mê tiền là tính xấu, đầy nguy hiểm. Nguy hiểm vì nó dễ làm cho con người trở nên cứng cỏi, thiếu bác ác với người nghèo, giống như người giàu có trong Phúc Âm đã xử tệ với người hành khất tên Ladarô (x. Lc 16,19-31).
Nguy hiểm vì nó dễ xúi con người phạm những tội bất công hại người, tương tự như trường hợp Giuđa bán Chúa (x. Mt 26,15).
Nguy hiểm vì nó dễ làm cho con người trở nên loại Pharisêu giả hình tỏ vẻ đạo đức, “kinh kệ dài dòng, nhưng lại nuốt trôi gia tài những bà góa” (x. Mt 23,14).
Nguy hiểm vì nó dễ làm ta coi thường những sự thánh, giống như những người đổi chác tiền bạc mà Chúa đã đuổi ra khỏi đền thờ (x. Mt 21,12-16).
Nguy hiểm, vì nó cũng dễ đẩy ta vào số phận chết không kịp chuẩn bị, như người phú hộ nọ trong Phúc Âm đang lúc mải miết tính toán tiền bạc, thì thần chết ập tới lôi đi (x. Lc 12,16-21).
Trong một thế giới mà ảnh hưởng của đồng tiền bao trùm quá rộng từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đến cả luân lý, đạo đức, thì những lời cảnh cáo của Chúa sẽ bị coi như lạc lõng. Chúa biết, nhưng Người đã nói: “Dù trời đất qua đi, Lời Ta sẽ không qua đi bao giờ” (Lc 21,23).
(NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 17)
***** (NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 18 - Xem Bùi Tuần 1268)
Mỗi khi quỳ trước ảnh Thánh Gia tôi nghĩ tới Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse xưa đã sinh Bùi-Tuần 2359
Mỗi khi quỳ trước ảnh Thánh Gia tôi nghĩ tới Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse xưa đã sinh sống khó nghèo, tôi thấy thương các Ngài.
Tôi nghĩ giả như tôi được gặp các Ngài hồi đó, tôi sẽ phục vụ các Ngài tận tuỵ biết mấy. Tôi sẽ lo cho các Ngài từng ly từng tí. Tôi sẽ nhường căn phòng của tôi cho Thánh Gia. Tôi sẽ liệu đủ mùng mền, đủ đồ đạc, đủ mọi tiện nghi cho các Đấng. Tôi sẽ rất vui mừng được nhịn ăn bỏ ngủ để phục dịch hầu hạ Thánh Gia suốt ngày đêm. Tóm lại, tôi sẽ làm hết sức mình để các Ngài được vui...
Những tư tưởng trên đây của tôi đẹp quá. Nhưng nghĩ đi rồi nghĩ lại, tôi thấy những tư tưởng của tôi chỉ là một thứ đạo đức quá dễ dàng.
Lòng tốt của tôi có thực sự phản ảnh đức tin không? Để thử trắc nghiệm lòng tôi, tôi đưa ra những giá dụ thực tế hơn.
Giả như hôm nay, Thánh Gia tàng hình đến với tôi dưới hình thức đôi vợ chồng nhà quê nghèo nàn dắt theo một đứa nhỏ rách rưới. Các Ngài đến tôi xin cơm, xin tiền, xin trọ. Tôi sẽ đối xử thế nào?
Nếu tôi là người giàu sang, tôi có cho các Ngài bước vào nhà tôi? Hay là tôi sẽ để các Ngài đứng ở cổng, ngoài sân, dưới thềm, rồi bố thí cho mấy chục bạc và giục mau đi nơi khác?
Rất có thể tôi sẽ xử sự theo cách thứ hai.
Nếu tôi thuộc cấp cao, Thánh Gia tàng hình làm kẻ nghèo như thế có hy vọng được tôi tiếp không?
Còn lâu?
Nếu tôi ở địa vị lãnh đạo, mà Chúa Giêsu tàng hình làm dân thường, lại dám lên tiếng phê bình tôi giả hình, bất xứng, tôi sẽ có thái độ nào?
Ô! Tôi sẽ cho biết tay tôi!
Thì ra tôi cũng chẳng hơn gì người xưa. Nếu bây giờ Chúa có sinh xuống thế gian một lần nữa dưới hình thức kẻ nghèo, may lắm Ngài mới được sinh ra ở nhà thương thí. Ngài cũng sẽ bị khinh, bị đuổi và bị chế giễu.
Xưa các thầy cả đạo cũ và Pharisêu đã làm gì cho Chúa, thì bây giờ rất có thể tôi cũng làm y hệt, nếu Ngài tàng hình đến đây đả phá bất công và đời sống đạo đức giả tạo của tôi. Tôi cũng sẽ cắt nghĩa xấu cho Ngài, cũng sẽ tìm cách bắt bẻ và bôi lọ Ngài.
Rất có thể chính tôi cũng sẽ nhân danh đạo, nhân danh Giáo Hội, nhân danh Thiên Chúa kết án Ngài là kẻ xách động, kẻ phá quấy, kẻ rối đạo.
Và nếu Ngài cứ tàng hình làm người dân nghèo, sống nghèo, hăng hái bênh vực kẻ nghèo, dám mạnh dạn nói lên sự thật phật ý kẻ có quyền đời đạo, như Ngài đã làm xưa, thì không chừng tôi sẽ chụp luôn cho Ngài cái mũ đỏ.
Đúng như vậy.
Thì ra tôi tưởng tôi có đức tin mạnh mẽ lắm, nhưng sự thực, nhiều khi tôi tin Chúa ở tượng ảnh hơn là tin Chúa ở nơi người nghèo. Tôi giữ đạo đối với tượng ảnh hơn là đối với tha nhân.
Tôi cứ tưởng tôi có đức tin sống động lắm nhưng thật ra tôi vẫn thường đánh giá con người theo dáng vẻ bề ngoài. Kẻ giàu sang thì được tôi kính trọng, kẻ bần cùng thì bị tôi khinh.
Tôi cứ tưởng tôi hăng hái bênh vực quyền lợi của đạo, của Chúa, nhưng thật ra nhiều khi tôi chỉ vin vào đạo Chúa để bênh vực quyền lợi riêng tư của tôi.
Lạy Chúa, đức tin của con còn hời hợt quá. Xin giúp con biết sống đức tin hợp tinh thần Phúc Âm hơn, nhất là bằng cách biết nhìn thấy Chúa trong các người nghèo.
Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội...”. Tôi thầm nguyện lời đó Bùi-Tuần 2360
“Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội...”.
Tôi thầm nguyện lời đó khi tôi ngẩng nhìn lên trời.
Trên cao xa, chỉ thấy mênh mông thăm thẳm sau những tầng mây. Nhưng tôi nguyện cầu không phải với trời, với mây, song là với Đấng cai trị trời mây.
Tôi xin Người đổ sương xuống vì tôi biết tôi khô cạn. Tôi xin Người cứu độ tôi, vì tôi biết tôi quá nghèo nàn.
Thân phận tôi!
Tôi biết tôi thực sự không đúng như tôi thường cảm nghĩ về tôi. Tôi biết tôi thực sự không đúng khi tôi vốn ước mơ cho tôi. Tôi biết tôi thực sự không đúng như người ta tưởng về tôi.
Tôi biết tôi thực sự không đúng như sự mà tôi tưởng người ta nghĩ về tôi.
Tôi quá nhỏ bé và lệ thuộc. Tôi không tự mình mà có. Trong tôi có gì gọi được là hiểu biết, có gì gọi được là đạo đức, có gì gọi được là tốt đẹp, đâu có phải do một mình tôi. Hầu hết tôi có học được nơi người khác và do người khác.
Cả đến đời sống vật chất, tôi cũng phải lệ thuộc. Từ không khí đến cơm và nước uống. Đến áo quần nhà cửa.
Tôi quả là một sự thiếu thốn trần trụi.
Trong sự thiếu thốn đó, tôi lại chất đống bao nhiêu thứ dại dột: ý nghĩ dại dột, ước mơ dại dột, lời nói dại dột, việc làm dại dột. Và thứ dại dột tệ nhất chính là phạm tội.
Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót, và như thế mỗi ngày không biết bao nhiêu lần. Một chút lợi thú có thể làm tôi phạm tội. Cũng như một cơn gió, một miếng ăn, một tai nạn có thể làm tôi đau và làm tôi chết.
Tôi quả thật là yếu.
Thân phận tôi là thế và còn hơn thế. Nhưng tôi tin Chúa vẫn thương tôi. Người yêu tôi lắm. Người là tình thương. Người là hy vọng.
Càng hiểu thân phận mình, tôi càng thấy mình gần Chúa và mến Chúa hơn. Tôi không chút gì sợ sệt ngã lòng. Nhưng tôi vẫn tin nhìn Chúa và thành tín nguyện cầu:
“Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội...!”.
Noel những năm trước, tôi đói hòa bình. Noel năm nay, tôi vẫn đói hòa bình, lại còn thêm đói Bùi-Tuần 2361
Noel những năm trước, tôi đói hòa bình. Noel năm nay, tôi vẫn đói hòa bình, lại còn thêm đói ăn.
Cái đói nào cũng khổ.
Đã đói lại còn lo. Lo không biết làm sao để hết đói. Lo không chừng chiến tranh lại tái phát thê thảm.
Đói nên lo, lo nên buồn.
Lo buồn này kéo lo buồn khác như những mặt xích của một dây chuyền dài, càng ngày càng xiết chặt cuộc sống vốn đã ốm gầy.
Tương lai mù mịt. Những lời hứa hẹn tốt đẹp nhất cũng chỉ dù loé lên một vài hy vọng mờ nhạt. Tin ai được, khi đời sống đã bị lừa đảo quá nhiều, đã bị thất vọng quá nhiều niềm tin.
Đời nghèo đói như một ngõ cụt. Chẳng ai muốn vào đó. Ai lỡ vào rồi thì tìm đủ cách để thoát ra.
Thế mà, Chúa ơi! Sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm, Chúa không biết sao! Vừa túng thiếu vất vả nhọc nhằn vừa bị người ta khinh bỉ, thiệt thòi đủ thứ. Chúa chọn cảnh nghèo làm chi vậy? Nếu Chúa không phải là Chúa, thế nào người ta cũng chê là dại.
Nhưng dần dà con đã hiểu.
Chỉ có Chúa thánh thiện, khôn ngoan và thương yêu vô cùng mới dám “dại” như thế.
Thực vậy, việc Chúa chọn phận nghèo chính là một nguồn an ủi lớn cho con.
Trước hết, với cuộc sống nghèo, Chúa đã tích cực chia sẻ cuộc đời túng thiếu của con. Chúa chia sẻ thực sự bằng cách Chúa sống với người nghèo, trong cảnh nghèo, như người nghèo và cho người nghèo.
Nhìn hang đá Noel, con thấy Chúa còn nghèo hơn con. Nhưng nhờ đó, con cảm thấy Chúa gần con, như một người bạn, như một người thân.
Chẳng ai dám chia sẻ đời nghèo của con để sống gần con như thế. Có Chúa, con cảm thấy bớt cô đơn buồn tủi.
Ngoài ra, sự Chúa chọn phận nghèo, còn dạy cho con giá trị cao quý của đau khổ.
Chúa đã dùng đau khổ để cứu con và nhân loại; con không thể lên trời bằng con đường khác. Hiện giờ đau khổ không thiếu. Chỉ cần con chịu những đau khổ ấy với tâm tình mến Chúa và khát khao tìm Chúa, tức khắc đau khổ sẽ trở thành con đường đưa con về hạnh phúc bất diệt.
Cũng nhờ đó con mới nhận ra rằng cảnh nghèo không thể kéo dài hơn cuộc sống trần gian. Nó chỉ tạm thời, rồi nó sẽ qua đi. Nếu nó có thể dùng vào việc mở cửa thiên đàng, thì nó không phải chỉ biết gây đau thương và bất hạnh.
Tất nhiên, con sẽ cố gắng xoay xở làm ăn để có đủ sống xứng đáng con người, nhưng nếu cảnh nghèo cứ bám chặt lấy đời con, thì con phải lợi dụng nó, để biến nó thành một phương tiện làm giàu thiêng liêng.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin giúp con biết thánh hoá cảnh túng nghèo đau khổ. Công việc không dễ dàng. Nhưng với ơn Chúa, con tin sẽ thực hiện được. Ngay từ bây giờ, xin thương ban cho tâm hồn con tinh thần bình an và phó thác, để dù no dù đói, con luôn nhận thấy tình thương Chúa theo sát đời con.
Mỗi chiều tôi âm thầm nói với Chúa “Từ vực sâu con kêu lên Chúa, Chúa ơi...” (Tv 50). Tôi nói Bùi-Tuần 2362
Mỗi chiều tôi âm thầm nói với Chúa “Từ vực sâu con kêu lên Chúa, Chúa ơi...” (Tv 50).
Tôi nói lời đó với tất cả tâm hồn tôi.
Tôi nhìn rõ vực sâu tôi đang ở, không phải thung lũng này. Không phải căn nhà này, không phải trần gian này.
Vực sâu là tội lỗi muôn vàn của tôi.
“Ngày mới sinh, tôi đã mắc tội rồi, “Trong lòng mẹ, tôi đã là bất chính” (Tv 50)
Rồi từ bé tới giờ, tôi đã phạm không biết bao nhiêu là tội.
Tội nào cũng là một vực sâu. Không tội nào không lăn xuống dốc.
Không tội nào không đào lỗ chôn tôi.
Tội đẩy tôi xa Chúa. Mà Chúa là mặt trời công chính, nên càng xa Chúa, tôi càng nhìn xuống tối tăm đen đặc.
Chúa là nguồn sống, nên càng xa Chúa, tôi càng chôn sâu hồn tôi vào cõi chết.
Chúa là tự do, nên tôi càng xa Chúa, tôi càng cột mình vào kiếp sống nô lệ.
Tội làm nên xa vắng. Tội làm nên cô đơn.
Vì tội cướp mất tình yêu. Vì tội để trong lòng tôi khoảng trống rợn rùng.
Khoảng trống của sự mất mát, nên mới xót xa. Khoảng trống đợi chờ, nên mới cô đơn.
Khoảng trống này không phải là không có gì, nhưng là hiện diện cay đắng của một sự thiếu vắng tình yêu
tha thiết.
Trong khoảng trống âm u này, tôi vẫn biết Chúa nhìn tôi. Nhưng tội lỗi tôi làm tôi không dám ngước nhìn lên Chúa. Hai bên khác xa nhau hơn trời cao với vực thẳm.
“Ai sẽ lên núi Chúa? “Ai sẽ đứng trên thánh điện Ngài? “Là kẻ có bàn tay vô tội, có tâm hồn trong trắng” (Tv 23).
Nhơ nhớp như tôi, sao có thể xứng đáng được cảm thấy mình hèn hạ. Tôi tự đặt mình vào một thái độ ẩn lánh trong vực thẳm linh hồn. Như ẩn trốn mà vẫn khóc than gọi Chúa.
Lòng tôi không ngừng khát vọng Chúa. Nhưng trong vực sâu, tôi như con chim bay hoài không tìm được chỗ thoát. Tư bề ngăn chặn. Bay lên lại rơi xuống. Đã bị giam rồi, còn bay về đâu?
Chính trong tình trạng này, tôi lại nhìn thấy rõ sự yếu đuối của tôi. Tôi chẳng có sức gì. Tôi chẳng có công phúc gì. Sự yếu đuối tôi là một vực sâu nối liền vực sâu tội lỗi.
Thánh Phaolô nói: "Tôi khoe mình vì sự yếu đuối của tôi, để quyền năng Chúa ngự trị trên tôi” (2 Cr 12,9). Nhưng tôi thì khác. Tôi khó có khoe mình được như thánh Phaolô. Ngài khoe mình yếu đuối chỉ vì khiêm tốn. Còn tôi không biết có đủ khiêm tốn thực sự để khoe mình yếu đuối hay không? Tôi có lý do để sợ, vì sự khiêm tốn của tôi cũng rất mực yếu đuối. Nhìn thấy thế, tôi mới lại càng rõ mình yếu hèn kém cỏi.
Vực sâu nào mà chẳng nguy hiểm, huống hồ vực sâu của tội lỗi và của sự yếu đuối. Những vực sâu này có thể nuốt tôi xuống hỏa ngục đời đời. Ngay một nguy hiểm đó cũng làm tôi khiếp sợ.
Nhưng không phải vì khiếp sợ, mà tôi sẽ tránh nhìn vào vực sâu. Cũng không vì để tránh khiếp sợ mà tôi sẽ giấu mình rằng tôi không đứng trong vực sâu nào cả. Không chịu biết mình mới lại là một vực sâu còn nguy hiểm gấp bội.
Lạy Chúa, con nhận biết con đang ở dưới vực sâu thăm thẳm. Con không sao cứu được con. Cũng chẳng ai sẽ có thể giải thoát cho con. Con kêu van Chúa. Xin Chúa đoái thương.
Đau của tâm hồn bao giờ cũng khổ cực hơn đau của thân xác. Và trong những nỗi khổ của tâm Bùi-Tuần 2363
Đau của tâm hồn bao giờ cũng khổ cực hơn đau của thân xác. Và trong những nỗi khổ của tâm hồn xem ra không gì đau đớn bằng cô đơn.
Chúa Giêsu cũng đã trải qua tình trạng đó. Trong suốt cuộc khổ nạn, Chúa không hề kêu đau. Dù chịu trói, chịu đánh, chịu đóng đinh, Chúa vẫn luôn luôn nín thinh chịu đựng.
Thế nhưng, trong vườn cây dầu Chúa đã phải than: “Tâm hồn Thầy buồn rầu đến chết được”.
Rồi trên thánh giá, trong những giờ đau đớn cực độ, Chúa lại thốt ra một lời ảo não: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con!”. Ôi lời cô đơn của một người cô đơn nhất. Đúng là một nỗi buồn đang giết chết.
Nỗi buồn đến chết được thường đẩy con người xuống cô đơn thăm thẳm. Người buồn ưa chui vào trong cô đơn nội tâm heo hút, như để lẩn tránh, như để mình thương cho số phận mình.
Cô đơn không phải là không có ai, nhưng là một thiếu vắng. Nó là một sự hiện diện cay đắng của một sự thiếu vắng những gì thân yêu nhất. Bởi chưng làm gì có cô đơn, nếu chẳng có đợi chờ.
Nếu sự thiếu vắng chỉ là vô tình và vô tội, thì cô đơn vẫn không đến nỗi ác nghiệt. Nhưng nếu là một sự thiếu vắng chủ ý do lòng không tốt, thì cô đơn trở thành cực hình. Và khi cô đơn có nghĩa như một sự thiếu vắng vì phản bội và tự ý từ bỏ, thì đó là một cô đơn tàn sát.
Chúa Giêsu đã cảm thấy tất cả những cô đơn đau đớn nhất. Phêrô phản bội, các môn đệ bỏ trốn một cách hèn nhát, những người chịu ơn lánh mặt, dân chúng vô ơn, cả nhân loại hững hờ. Chính Đức Chúa Cha cũng như bỏ rơi Ngài.
Người cô đơn là người sống trong một thế giới sụp đổ. Không phải thế giới bên ngoài, nhưng thế giới trong lòng mình. Thế giới khách quan vẫn còn đó. Nó là của chung và lãnh đạm. Nhưng mỗi người đều có một thế giới riêng, một thế giới tâm tư xây dựng bằng những đường dây tình thương, vui buồn và hy vọng. Nó cũng là những ý nghĩa của thế giới khách quan đối với mình. Mình quen sống trong đó như một quê hương lựa chọn. Nhưng khi những đường dây bị đứt, thế giới đó sụp đổ, con người đột nhiên thấy mình trơ trọi bơ vơ.
Trơ trọi giữa đám đông, thế mới khổ. Những sự gần thì mình nhìn như xa vắng. Những sự xa vắng thì mình lại tìm như một sự thân yêu. Mâu thuẫn đó di chuyển tâm hồn trở đi trở lại trên con đường hai chiều cùng hoang vắng. Sự mình đang có thì vắng lòng chờ đợi. Sự lòng mình đợi chờ thì lại thiếu vắng hiện diện.
Chung quanh Chúa Giêsu khổ nạn có hàng ngàn người tuôn đến. Nhưng Chúa vẫn cảm thấy cực kỳ cô đơn. Bởi vì cái thế giới hiện diện không phải là cái thế giới Ngài chờ đợi. Sự có mặt của bấy nhiêu người không có ý nghĩa một sự thiện cảm, một sự chia sẻ và bênh đỡ nhưng có ý nghĩa một sự biểu lộ khinh chê thù ghét. Cũng như sự trốn tránh của các môn đệ, và sự chối bỏ của Phêrô đều mang ý nghĩa của một sự ích kỷ, một sự thất hứa, một sự phản bội. Những ý nghĩa đó như những con dao sắc bén đâm sâu vào một trái tim chỉ biết có yêu, chỉ đợi có tình.
Sự cô đơn của Chúa Kitô khổ nạn là một đau khổ ghê gớm. Với sự cô đơn đó, Chúa đã sống trọn vẹn thân phận con người, để sự cô đơn của tôi không trở thành đơn độc.
Tôi cô đơn, vì tôi không nhờ được ai sống hộ cuộc đời của tôi. Tôi cô đơn, vì tôi nhìn thấy chung quanh tôi có quá nhiều bức tường xa cách. Tôi cô đơn, vì tôi chạy trốn tình yêu.
Tôi cô đơn, vì nhiều khi tôi gọi những người thân yêu của tôi ở thế giới bên kia, nhưng tôi vẫn cảm thấy xa vắng lạnh lùng.
Tôi cô đơn, vì nhiều khi tôi thiết tha đi tìm Chúa, nhưng Chúa vẫn như lánh mặt.
Có những giờ phút cô đơn hơn nước mắt, và đe dọa hơn sự chết.
Chỉ còn Chúa, nhưng ôi! Lạy Chúa, sao Chúa cũng bỏ con.
Xưa kia, Chúa sống trong đau khổ của cô đơn, nhưng Chúa đã biết trước mọi diễn tiến và giờ khắc của nó: bắt đầu từ chiều thứ năm sang ngày thứ sáu, chấm dứt ba giờ chiều đêm thứ bảy rạng Chúa nhật là sống lại vui vẻ vinh quang. Còn con, con đau khổ cô đơn trong mù mịt. Con không biết được sự đau đớn của con sẽ đi tới đâu và bao giờ hết. Con chỉ biết tin vào Chúa. Chúa đã sống lại thì con cũng tin rằng mọi đau khổ cô đơn của con không trở nên vô ích. Có ngày sẽ hết. Con sẽ được vui với Chúa. Con biết thế đó, nhưng niềm tin không làm con hết khổ. Chính Chúa cũng đã tranh đấu với cơn buồn khổ cô đơn, đến khi phải kêu than và đến toát mồ hôi máu, phương chi một người yếu đuối như con. Ôi! Chúa Giêsu yêu dấu của con, con chấp nhận cô đơn vì Chúa, xin thêm cho con Đức Tin và can đảm.
Tôi di cư đã 20 năm. Tôi biết miền Bắc. Bao nhiêu kỷ niệm còn đó. Nhưng luyến tiếc miền Bắc Bùi-Tuần 2364
Tôi di cư đã 20 năm. Tôi biết miền Bắc. Bao nhiêu kỷ niệm còn đó. Nhưng luyến tiếc miền Bắc không ngăn trở tôi thương mến miền Nam. Quê Bắc, hương Nam: cả hai cùng làm nên một quê hương yêu dấu.
Tuy nhiên, tôi luôn luôn sống trong cảm tưởng của một kẻ lưu đày. Vì dù sống ngoài Bắc hay trong Nam, tôi vẫn luôn luôn nhớ nhung một quê hương khác, vẫn luôn luôn khắc khoải đi tìm một thứ quê hương lạ.
Quê hương đó đẹp lắm. Tôi nhìn thấy rất rõ, như thể có lần tôi đã ở và nay đã mất rồi. Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có toàn sự thực. Nhưng trong kiếp sống bọt bèo này, tôi đã gặp biết bao sai lầm. Tôi lầm, người khác lầm, ai cũng có thể lầm. Lầm lỗi, là chuyện thường. Không lầm lỗi mới lạ.
Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có toàn sự chân thành. Nhưng tôi đã đụng phải vô số sự giả dối. Đồ vật giả tạo đã nhiều, mà lòng người giả dối lại càng nhiều hơn. Nếu tôi biết rõ được người khác nghĩ gì về tôi, nói gì sau lưng tôi, cảm gì khi tôi được may, hay gặp rủi, làm gì sau khi tôi chết, chắc tôi sẽ thấy chân thành là một báu vật rất hiếm hoi trên đời.
Tôi đi tìm quê hương chỉ có toàn tình yêu ngọt ngào và tuyệt đối. Nhưng tôi đã thấy hận thù và những tình yêu tương đối, pha trộn đắng cay. Những bài ca tình thường nức nở. Những bài ca sầu thường than khóc tình yêu. Khi tôi muốn ca ngợi tình yêu thì tình yêu đổi thành nước mắt. Khi tôi muốn kể lể đau khổ, thì đau khổ lại biến thành tình yêu.
Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có toàn sự trung tín. Nhưng tôi đã gặp vô số những thất trung thất tín. Hình như trong thề hứa đã có mầm phản bội, cũng như trong hy vọng, đã có mầm thất vọng, chỉ đợi hoàn cảnh thuận tiện là mọc lên.
Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có đoàn tụ. Nhưng tôi thấy khắp quanh tôi là một khúc ly ca vĩ đại. Hoa nở rồi tàn. Mây tụ rồi tan. Trăng tròn rồi khuyết. Người gần rồi xa. Mỗi thoáng thời gian là chia ly chen vào cuộc sống.
Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có niềm vui. Nhưng tôi chỉ gặp những dòng sông nước mắt. Con người sinh ra trong tiếng khóc, lớn lên trong vất vả, trưởng thành trong thử thách, già nua trong tiếc thương và chết trong đau khổ.
Tôi đi tìm một thứ quê hương chỉ có sự tốt lành. Nhưng tôi đã gặp muôn vàn tội lỗi. Tội nhiều quá. Tội dữ quá. Chúng hùa nhau muốn kéo cho sập vận mệnh của tôi, của đồng bào tôi, của cả nhân loại.
Tóm lại, quê hương tôi muốn thì tôi không gặp. Những thứ gì tôi không muốn thì lại phải gặp. Thực là mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó sống ở trong tôi và tôi sống trong mâu thuẫn đó.
Mâu thuẫn đó gây trong tôi một sự băn khoăn thường xuyên đầy nguy hiểm. Nguy hiểm không ở sự tôi sẽ như kẻ si tình sống về tương lai, hay như kẻ thất tình tìm về dĩ vãng, nhưng nguy hiểm ở chỗ tôi có thể chán nản, buông xuôi, bất cần đến tương lai quá khứ, để đành nhận trần gian hiện tại này làm quê hương sau chót.
Tôi sẽ bị cám dỗ đi tìm vô cùng trong những sự có cùng và tuyệt đối hoá những sự chỉ là tương đối.
Tôi sẽ bị cám dỗ thích thờ những bò vàng hơn thờ Chúa, thích trở về nơi nô lệ để được ăn hành tỏi, hơn là đi về đất hứa để phải ăn Manna dọc đường.
Còn bao nguy hiểm khác.
Nhưng hồn tôi ơi! Hãy tin vào Chúa. Chúa ở bên tôi, Chúa hiểu tôi, Chúa thương tôi, Chúa dư sức giúp tôi. Thế là đủ cho tôi rồi. Chúa ôi! Mỗi nhịp tim đập là mỗi lời con gọi Chúa. Mỗi hơi con thở là mỗi tiếng tình con gởi vào lòng Chúa. Con muốn trao tặng Chúa thật nhiều. Cho Chúa tất cả, để lòng con nhẹ, chỉ còn mang Chúa và Chúa đưa con về trời. Con biết chuyến đi không dễ dàng. Có những ngày dài không ánh sáng. Có những đêm dài không thấy rạng đông. Có những tháng dài như đường hầm sâu thẳm. Con lầm lũi đi trong đó một mình. Chỉ còn tin yêu dẫn dắt con. Đàng sau con là địa ngục chỉ có đau khổ không tình yêu. Đàng trước con là thiên đàng chỉ có tình yêu không đau khổ. Mà đường con đi là đau khổ có tình yêu. Nên con xin Chúa cho con thêm tình yêu nhiều nữa. Để con khổ mà vẫn yêu, để con mãi vẫn yêu, dù phải khổ. Chúa yêu dấu của con ơi, xin giúp con vững bước. Chính Chúa đang làm con khát vọng quê trời. Chính Chúa sẽ là hạnh phúc tuyệt vời của con trên quê hương sắp tới.
Kinh nghiệm nào tôi cũng có thể có, nhưng tôi không thể có chút kinh nghiệm nào về sự chết Bùi-Tuần 2365
Kinh nghiệm nào tôi cũng có thể có, nhưng tôi không thể có chút kinh nghiệm nào về sự chết. Tôi chỉ biết rằng thế nào tôi cũng sẽ chết. Nó chưa tới, nhưng tôi đã nhìn thấy rõ.
Tôi coi cái chết như một sự chấm dứt cuộc đời gian khổ, như một sự giải phóng khỏi kiếp sống bọt bèo, như chiếc cửa dẫn vào một thế giới hoàn toàn xa lạ, như chiếc cầu bắc sang một sự sống khác, như một sự biệt ly để bước xuống thầm lặng ngàn đời.
Chết là một chuyến đi xa nhất. Đi không bao giờ về. Chuyến đi xa nhất, mà cũng cô đơn nhất. Có ai chia sẻ được phần nào sự chết của tôi đâu. Tôi sẽ ra đi một mình. Tôi sẽ một mình chìm trọn vào sự chết của tôi.
Rồi có gì bên kia sự chết?
Hiện giờ tôi không nhìn thấy gì cả. Nhưng tôi tin chắc vị đầu tiên tôi sẽ giáp mặt chính là Cha tôi trên trời.
Ngài đợi đó để đón tôi. Đón về đâu? Tôi có thể sợ Ngài đợi đó để phán xét và ruồng rẫy tôi. Nhưng, Chúa ơi! Tôi không tin được điều đó, không phải vì tôi trong sạch, nhưng vì tôi yêu Chúa và tin chắc Chúa yêu tôi vô cùng. Nếu Chúa là một vị thánh, thì tôi có lý do để sợ. Vì nhiều vị ngặt nghèo và cặn kẽ lắm. Nhưng Chúa là chính sự thánh thiện toàn vẹn. Ngài công bình vô cùng, nếu Ngài dựng nên triệu triệu con người chẳng ai gống ai, thì chắc Ngài cũng chẳng phán xét tôi một cách hoàn toàn giống như phán xét người này người nọ. Chính vì Ngài công bình vô cùng, nên Ngài sẽ không thẳng nhặt với những ké quá hèn như tôi. Ngài là tình yêu nên Ngài sẽ không bao giờ hắt hủi một kẻ luôn vác gánh nặng tội lỗi trên vai, lảo đảo ngày đêm đi tìm Ngài.
Nhiều đấng thánh đã có những đường lối vào trời thực oai phong lẫm liệt. Còn tôi yếu hèn tội lỗi quá, tôi chọn lối vào thiên đàng như người ăn trộm.
Người ăn trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa là một người tội lỗi bị dân chúng phỉ nhổ. Thế mà ông đã được vào trời rất sớm. Chính Chúa bảo đảm với ông: “Ngay ngày hôm nay ông sẽ được vào nơi vui vẻ với tôi”. Ơn này to lớn quá. Mấy ai được lên thiên đàng mà không phải dừng lại lâu lâu ở luyên ngục. Còn ông ăn trộm này lại đi lối tắt.
Ông được thế, bởi vì ông đã vào Nước Chúa qua một cái chết tin tưởng trên thánh giá. Tôi cũng muốn bắt chước ông.
Tôi tự đóng đinh tâm hồn tôi vào thánh giá làm bằng những chịu đựng đau khổ, những cố gắng quên mình, những chiến đấu cam go triền miên khủng khiếp.
Kẻ chịu đóng đinh là kẻ trần trụi nhất. Của cải không có gì, danh giá không còn gì. Bỏ lại tất cả. Xa lìa tất cả. Chỉ còn giữ lại đau đớn và niềm tin.
Có vị thánh bảo thánh giá là hoa hồng. Còn tôi, tôi vẫn thấy nó là đau đớn. Bao lần trong một ngày tôi phải cự tuyệt những dụ dỗ hữu tình hữu cảm, để ôm lấy một Đấng vô hình, không hương không sắc. Bao lần trong một ngày tôi phải từ chối những mời mọc, hưởng thụ trong ngay chính tầm tay để chẳng hứng chờ gì ngoài một tiếng vọng chỉ nghe được bằng niềm tin. Tranh đấu vẫn mệt. Chiến thắng vẫn trải trên mồ hôi vết máu. Tôi không dám gọi đó là những hy sinh. Vì tiếng hy sinh cao cả quá. Tôi chỉ coi đó như những cái nhìn rướm máu tìm gặp người yêu tôi và người tôi yêu.
Ở trên thánh giá, tức là đang ở trong sự chết kéo dài. Cái chết của ông ăn trộm kéo dài không quá một ngày. Còn cái chết của tôi sẽ kéo dài bao lâu. Tôi không biết nên tôi e ngại. Tôi sợ tôi không chịu lâu, nên sẽ xuống khỏi thánh giá, để chỉ nhìn Chúa như đám đông trên Golgotha. Tôi sợ tôi sẽ tự ái để ở lại thánh giá mà không nhìn vào Chúa như thái độ người ăn trộm bên tả.
Chúa ơi! Mỗi lần sợ như vậy là mỗi lần con lại phải tự đóng đinh con chặt thêm vào thánh giá và càng nhìn thẳng vào Chúa hơn.
Con biết rằng cái chết của người treo trên thánh giá sẽ là cái chết đau buồn tức tưởi. Nhưng không hề gì. Cái chết trên chiến trường đầy bụi bặm sứt sát máu me vẫn hơn cái chết thua trên giường nệm. Phải chết để sống. Phải mất đi để tìm lại. Chúa ơi, con luôn luôn chờ giờ phút đó. Xin Chúa hãy đến tìm con.
Thời buổi này có nhiều sự việc xảy ra làm tôi hoang mang. Hồi trước bao nhiêu ý kiến đạo đức Bùi-Tuần 2366
Thời buổi này có nhiều sự việc xảy ra làm tôi hoang mang.
Hồi trước bao nhiêu ý kiến đạo đức đã cho rằng: Bất cứ một chi tiết nhỏ nào trong phụng vụ cũng cần thiết và mang nhiều ý nghĩa cao trọng. Nhưng bây giờ Phụng vụ mới đã có nhiều loại bỏ và thay đổi lớn lao.
Hồi trước có những văn kiện lịch sử và những sách đạo dạy tôi rằng: Giáo Hội Chính Thống và các giáo phái Tin Lành, đều là các “quân rối đạo”, tôi không được phép thông công với họ. Nhưng bây giờ giáo thuyết của Công đồng Vatican II cũng như thái độ của Toà Thánh đã cho tôi thấy là tất cả các Giáo Hội kể cả Giáo Hội Công Giáo, đều phải tự vấn và sám hối, để xích lại gần nhau trong sự tha thứ và tôn trọng lẫn nhau.
Hồi trước, có những chính sách tôn giáo cho tôi tin rằng: chủ thuyết vô thần vô sản là một thứ thù địch ghê gớm, tôi không bao giờ được phép sống chung với họ. Nhưng bây giờ, có những dấu hiệu rõ rệt làm tôi nghĩ rằng con đường trước mắt là hoà giải hơn là thù nghịch.
Hồi trước, có mấy tác giả đạo đức dạy tôi rằng: sự vâng lời “tối mặt” mới là bậc cao nhất của đức vâng lời. Nhưng bây giờ, những vị thế giá bảo tôi phải vâng lời ý thức không loại trừ đối thoại.
Còn bao nhiêu sự việc khác đã làm tôi suy nghĩ.
Điều tôi lo ngại không phải là những sự thay đổi kia bắt tôi đặt lại nhiều vấn đề. Nhưng điều tôi lo ngại nhất, chính là sự tôi dễ hoang mang vì những sự thay đổi đó.
Tôi hoang mang như thể thay đổi một vài đường lối, một vài lễ nghi là thay đổi đạo.
Tôi hoang mang như thể Giáo Hội hôm nay đã đi ngược lại Giáo Hội ngày trước.
Nhưng nghĩ kỹ lại, tôi thấy tôi không đủ lý để hoang mang.
Trước hết, bởi vì nhiều thay đổi tôi tưởng là của Giáo Hội, nhưng thực ra đó chỉ là của một số cá nhân trong Giáo Hội.
Hay dở là thuộc trách nhiệm những cá nhân đó. Tôi không nên đồng hóa họ với Giáo Hội. Hai là thực sự Giáo Hội cũng đã chủ trương nhiều thay đổi, nhưng thay đổi nào thì cũng dựa trên những lý do đã được cân nhắc.
Theo Công đồng Vatican II, thì Giáo Hội là kẻ lữ hành còn phải đi nữa, là đền thờ còn phải xây thêm, là cộng đoàn hữu hình cần phải luôn canh tân và cố gắng thánh hóa.
Còn phải đi nữa tức là còn phải khai phá. Còn phải xây dựng thêm, tức là còn phải sáng kiến. Canh tân đâu có nghĩa là cứ để luôn như cũ. Cố gắng thánh hóa cũng không đồng nghĩa với tình trạng đã hoàn toàn nên thánh. Như thế đổi mới chỉ là một đòi hỏi. Không chịu thay đổi gì mới chính là điều đáng phải ngại.
Ngoài ra, Giáo Hội hoạt động giữa trần thế và cho người ta, nên vừa phải trường tồn mà cũng vừa phải thích nghi. Thích nghi chứ không phủ nhận và mâu thuẫn chính mình.
Thực ra, Giáo Hội có thay đổi gì trong căn bản giáo lý đâu. Giáo Hội chỉ canh tân và thánh hóa những yếu tố có tính chất nhân loại trong bản tính mình, để nên tốt đẹp và thành công hơn.
Mọi thay đổi của Giáo Hội đều được nghiên cứu thận trọng và dựa trên tiêu chuẩn: để Chúa được yêu mến hơn và nhân loại được thương yêu nhau hơn.
Thế thì có gì phải hoang mang.
Đã hẳn, Giáo Hội trung ương, cũng như địa phương, có thể sai lầm trong những quyết định thay đổi. Nhưng bao lâu tôi không đủ bằng cớ chắc chắn và rõ rệt chứng minh việc này việc nọ của Giáo Hội là sai lầm, thì những hoang mang của tôi phải kể như thiếu nền tảng chính đáng.
Tôi tin Chúa Thánh Linh hiện diện trong Giáo Hội. Tôi tha thiết cầu xin cho Giáo Hội tôi. Lòng tin mến của tôi đối với Giáo Hội phải tăng thêm vì những hoang mang này chứ không ngược lại. Hoang mang phải trở thành một niềm thao thức cùng nhịp với hồn thiêng Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin giúp con biết lợi dụng những hoang mang của con đối với Giáo Hội, để con càng thêm tin yêu Giáo Hội và càng hăng hái dấn thân hơn cho Giáo Hội của Chúa và cũng là của con.
Khi tôi tố tham nhũng, có lẽ tôi đã tự tố tôi. Nếu tôi bênh tham nhũng, tất nhiên là tôi tự bênh Bùi-Tuần 2367
Khi tôi tố tham nhũng, có lẽ tôi đã tự tố tôi.
Nếu tôi bênh tham nhũng, tất nhiên là tôi tự bênh tôi.
Tôi đặt tôi vào vấn đề đang đặt cho người khác. Tôi lấy chuyện người để hỏi lại lòng tôi.
Đối diện với lương tâm dưới ánh sáng bình lặng của Chúa, tôi thấy mình khó có thể gọi được là trong sạch. Chấp nhận điều đó là điều quan trọng. Nhưng ý thức được tai hại của tham nhũng còn quan trọng hơn. Vì có thấy xấu, tôi mới xác tín đủ để xa tránh, gớm ghê.
Tôi tưởng tham nhũng không đến nỗi gì. Nhưng xét kỹ, tôi thấy nó nguy hại không ít.
Tham nhũng là tính cách tội lỗi của hành vi đặt tiền bạc tư lợi lên trên công bình và luật pháp.
Tham nhũng nghịch đức công bình, hoặc công bình giữa cá nhân với cá nhân hoặc công bình đối với xã hội. Khi vì tiền bạc tư lợi tôi xét xử thiếu công minh, phân phối thiếu vô tư, áp dụng lề luật không đúng đắn, đối xử một cách thiên vị, thì tôi gây hại cho ích chung và cho những người liên hệ. Nếu mọi sự đều được giải quyết bằng tiền bạc và tư lợi thì sẽ tạo thành một thứ công lý giả tạo, theo đó kẻ ít tiền sẽ luôn luôn là kẻ thua thiệt.
Tham nhũng thường nghịch đức bác ái. Tôi dễ trở nên chai đá với những kẻ không biết mua chuộc tôi. Tôi sẽ dễ xử tệ với những người không có gì để cho tôi. Tôi sẽ coi thường những kẻ chỉ vì nghèo khó mà sa vào kiếp lầm than, không xứng đáng phẩm giá con người. Tôi sẽ dễ tàn nhẫn với những người muốn sửa sai tôi. Hành vi của tôi gieo mầm bất mãn, hận thù và sẽ dễ gây gương xấu.
Tham nhũng hay nghịch đức ngay chính. Vì tôi sẽ phải giả dối, quanh co, giấu giếm. Tôi sẽ cố biện minh cho hành vi tham nhũng của tôi bằng những lý do nguỵ tạo hợp pháp và đạo đức. Biện minh cho một việc là để có thể tái diễn lại việc đó. Nhiều hành vi làm nên thói quen. Quen phạm tội sẽ không còn sợ tội. Quen không sợ tội sẽ coi thường tội. Tình trạng đó làm hư hỏng lương tâm. Tội không làm hư cho bằng một lương tâm hư. Vì lương tâm hư sẽ không còn thấy rõ mình hư, sẽ không còn nhìn rõ các giá trị thực.
Tham nhũng là một tội, nên tôi không thể chấp nhận được.
Tôi sẽ cố gắng thực hiện bằng tâm tình và hành động những lời chỉ đạo rõ rệt sau đây của Đại hội Giám Mục Á châu:
“Chúng tôi nhất quyết lấy can đảm mà lên tiếng bênh vực quyền lợi của những người bị thiệt thòi và có thể chống lại mọi hình thức bất công từ đâu tới. Chúng tôi sẽ không tự bó tay bằng cách thỏa hiệp và cấu kết với những người giàu có và những người có thế lực trong những quốc gia chúng tôi” (Tuyên ngôn Đại hội Giám Mục Á châu, Manila 29/10/1970).
Tôi kết án tham nhũng nhân danh công bình bác ái. Chính vì thế, đường lối sửa sai của tôi cũng phải trong tinh thần công bình bác ái.
Tôi đả phá tham nhũng nhân danh đạo đức. Chính vì thế, phương pháp tôi dùng cũng phải đạo đức.
Tôi muốn ném đá những người tham nhũng, nhưng tôi sợ Chúa sẽ bảo tôi: “Ai thấy mình trong sạch, hãy ném hòn đá thứ nhất đi”. Lúc đó tôi không khỏi giật mình. Nên tôi phải khởi sự từ chính mình. Với chính mình, tôi sẽ gắt gao hơn với người khác. Có thể tôi không tham nhũng theo nghĩa ăn tiền, nhưng lại tham nhũng dưới những hình thức khác. Nếu may ra tôi không tham nhũng dưới bất cứ hình thức nào, thì chưa chắc gì tôi đã không phạm vô số những tội nghịch đức công bình, bác ái trong tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu sót.
Tôi thực tình ăn năn sám hối với các Đức Giám Mục Á châu, khi các ngài tự thú: “Chúng tôi nhìn nhận rằng chúng tôi cũng đã thiếu sót. Chúng tôi chỉ bảo vệ những quyền lợi hẹp hòi và riêng tư. Chúng tôi đáng lẽ phải tỏ ra cảm thương và lo lắng hơn cho người nghèo và phải lên tiếng một cách mạnh mẽ hơn cho công bình, và cho công cuộc bảo vệ nhân quyền” (Tuyên ngôn Đại Hội Giám Mục Á châu, 1970).
Lạy Chúa, người phú hộ trong Phúc Âm đã bị kết án đày xuống hỏa ngục, vì quá lo thụ hưởng, không để ý người ăn mày Ladarô, phương chi con, nếu chẳng những không lo giúp người nghèo thì chớ, lại còn làm cho kẻ đói nghèo càng phải nghèo thêm do những bất công thối nát và hèn nhát của con.
Xin Chúa cho con thêm sáng suốt, và can đảm để thực thi công bình bác ái.
Tôi đang sống trong một thời đại dồn dập nhiều biến cố. Có những biến cố chỉ đụng chạm tới tôi Bùi-Tuần 2368
Tôi đang sống trong một thời đại dồn dập nhiều biến cố. Có những biến cố chỉ đụng chạm tới tôi. Có những biến cố làm xôn xao cả nước. Có những biến cố liên hệ đến toàn thể Giáo Hội và thế giới.
Sự xuất hiện của những phong trào gây sôi động cũng là những biến cố.
Mỗi biến cố là một dấu chỉ. Mỗi dấu chỉ đều có một ý nghĩa. Nhiều khi Chúa muốn nói với tôi qua biến cố. Nhưng tôi phải khiêm tốn và bình lặng mới nghe thấy được.
Mỗi biến cố đều mang một ẩn số. Ẩn số đó gói một sứ điệp Chúa muốn gởi cho tôi. Nhưng tôi phải chăm chú và vô tư lắm mới khám phá được sứ điệp đó.
Mỗi biến cố là một bài toán. Bài toán đó gài vào đời tôi. Nhưng tôi phải phục thiện lắm mới tìm ra được giải pháp.
Không phải vô lý mà Công đồng Vatican II đã khuyên tôi phải để ý đến những dấu chỉ của thời đại (Hiến chế Gaudium et Spes).
Thời đại cho thấy nhân loại không ngừng đổi thay. Nhưng nếu trong những đổi thay đó Chúa vẫn luôn luôn hiện diện và cũng muốn tôi hiện diện như một chứng nhân của Ngài, thì tôi phải làm gì đây?
Câu hỏi trên đây nhiều khi làm tôi bứt rứt.
Để tìm trả lời, có lúc tôi thử đặt tôi vào thời của Chúa Cứu Thế, để dò coi phản ứng của tôi thế nào. Thời đó được coi là thời có nhiều biến cố và khởi xướng nhiều thay đổi. Đại khái thế này:
Chúa Cứu Thế sinh ra trong cảnh cơ cực nghèo nàn. Ấy thế mà sự sinh ra của Ngài đã bị coi là một biến cố gây xáo trộn, nên vua Hêrôđê đã hạ lệnh giết hết các trẻ em vùng Bêlem, với hy vọng giết luôn được Chúa.
Ba mươi năm sau, Chúa Cứu Thế công khai đi rao giảng việc canh tân lòng người. Ngài lại bị cánh Pharisêu kết án đủ tội.
- Tội không kiêng việc ngày lễ (x. Ga 9,16) - Tội không giữ tục lệ cha ông dạy phải rửa tay trước khi ăn (x. Lc 11,38) - Tội nhờ phép quỷ mà làm điều lạ (x. Mt 12,24) - Tội đi lại ăn uống với người tội lỗi (x. Mt 9,11) - Tội gây nguy hại cho nền an ninh quốc gia (x. Ga 11,48).
Thế rồi đến 33 tuổi, Ngài bị bắt và bị kết án tử hình, vì cho rằng Ngài xách động quần chúng (x. Lc 23,2), gian ác (x. Ga 18,30), và lộng ngôn (x. Mc 14,64).
Giáo quyền tố cáo, chính quyền kết án, dân chúng a dua, toàn là biến cố động trời.
Giả như tôi sống trong thời đó, tôi sẽ đứng về phía nào? Liệu tôi có dám bênh Chúa không? Tôi nghi tôi quá. Những biến cố xảy ra có dạy tôi điều gì không?
Hoàn cảnh của tôi bây giờ không hoàn toàn giống thời đó. Vì tôi có một Giáo Hội cởi mở và khôn ngoan. Chính Giáo Hội chủ trương phải lắng nghe dấu chỉ của thời đại để kịp thời canh tân và thích ứng Phúc Âm vào lịch sử.
Tuy nhiên, trong việc cắt nghĩa những dấu chỉ của thời đại, tôi không nên vội vàng và thiên kiến. Tìm ý Chúa bao giờ cũng đòi một sự khiêm tốn và vô tư.
Tôi hãy biết ghi nhận trung thực các sự kiện. Tôi hãy lắng nghe tiếng nói của mọi phía. Tôi hãy đến nhận khát vọng của mọi tầng lớp. Tôi hãy quan sát chiều hướng của các diễn biến. Tôi hãy cầu nguyện và bàn hỏi với Chúa.
Phải rất khiêm tốn và ngay thẳng mới trông tìm được đúng ý nghĩa của các dấu chỉ hiện nay.
Nếu tôi thành thực, các dấu chỉ hiện nay sẽ cho tôi biết rõ hơn về tôi, về tình thế và về ý Chúa.
Có lẽ điều quan trọng hơn cả là phải can đảm, dám chấp nhận ý nghĩa Chúa muốn gởi vào các dấu chỉ.
Sự thực nhiều khi bi đát. Bởi vì sự thực có thể sẽ kết án và bắt tôi phải sửa lại tất cả nếp sống.
Chúa Giêsu đã được hôn, có thể là nhiều lần. Chẳng hạn ba má Ngài hôn Ngài, thế nào mà chẳng Bùi-Tuần 2369
Chúa Giêsu đã được hôn, có thể là nhiều lần. Chẳng hạn ba má Ngài hôn Ngài, thế nào mà chẳng có. Điều đó khỏi nói.
Phúc Âm chỉ nói tới hai lần Chúa được hôn. Một lần do Giuđa, một lần do Mađalêna.
Giuđa là tông đồ. Ông đi tìm Chúa, khi gặp, ông bước tới, ôm Ngài và hôn mặt (x. Lc 22,47). Cái hôn của ông có vẻ vừa hợp tình vừa hợp lý. Người ngoài dù lạ dù quen, dù nam hay nữ, không ai đã chê trách cái hôn đó.
Còn Mađalêna thuở còn là một cô gái bị dư luận cho là không đàng hoàng. Cô đi tìm Chúa. Khi gặp, cô quỳ xuống, khóc ướt chân Chúa. Cô lấy tóc lau, và “không ngừng hôn chân Ngài” (Lc 7,45). Nhưng cái hôn của cô có vẻ không được thích hợp. Chả thế mà ông Simon đã lẩm bẩm này nọ trong bụng và đâm nghi ngờ Chúa (x. Lc 7,39).
Ngay trong thời buổi tự do này, nếu câu chuyện đó xảy ra ở bất cứ nơi nào trên trái đất, nhất là ở nước tôi, thì chắc chắn người ta sẽ không để yên cô đó, và chính Chúa là người cũng sẽ bị kết án tơi bời.
Người ta thì thế. Còn Chúa thì sao?
Chúa đã trách cái hôn của Giuđa, và đã bênh những cái hôn của Mađalêna.
Chúa thấy rõ tâm tư thầm kín của từng người. Giuđa hôn Chúa, nhưng để nộp Người. Còn Mađalêna hôn Chúa, để xin ơn làm lại cuộc đời.
Cái hôn của Giuđa chỉ tốt ở bề ngoài vì hợp phong tục, đúng luật xã giao và tình nghĩa. Nhưng ý hướng bên trong thì quá xấu.
Cái hôn của Mađalêna thì bề ngoài không được thích hợp vì những lý do dễ hiểu, nhưng bên trong đầy những ý hướng tốt đẹp.
Giá trị bên trong mới đáng kể.
Chuyện cái hôn trên đây dạy tôi phải biết dè dặt.
Nếu tôi thấy một người có hành động và thái độ xem ra không thích hợp với thói quen xã hội và tôn giáo, thì tôi đừng vội nghi ngờ họ. Họ không được xã hội đồng ý nhưng trước mặt Chúa, chưa chắc họ đã thua ai. Rất có thể họ đã đẹp lòng Chúa hơn tôi. Chúa đã chẳng bênh Mađalêna và trách ông Simon là gì. Kẻ khinh người khác là tội lỗi đã bị Chúa đặt dưới kẻ chính họ đã khinh.
Điều tôi phải sợ nhất, đó là sự tôi có thể dùng hình thức đạo đức để bán Chúa, thí dụ dùng việc đạo để lo kiếm tiền kiếm bạc, dùng thế giá đạo để xây dựng uy tín riêng mình. Vịn cớ tôn giáo để chèn ép bắt nạt người ta, nêu lý do đạo đức để khoe khoang, bôi lọ, nói xấu người khác... Thiếu gì người đã nhân danh Chúa để mà giết Chúa và giết tha nhân.
Lạy Chúa, xin cho con biết chân thành trong mọi việc đạo đức và khiêm tốn trong mọi ý nghĩ đối với tha nhân.
Nhiều khi suy gẫm đời Chúa, tôi thấy Chúa có những đường lối khác hẳn những gì tôi tưởng nghĩ Bùi-Tuần 2370
Nhiều khi suy gẫm đời Chúa, tôi thấy Chúa có những đường lối khác hẳn những gì tôi tưởng nghĩ.
Tôi tưởng Chúa phải chọn một phụ nữ giàu sang quyền quí làm mẹ. Ai ngờ Chúa đã chọn một thôn nữ nghèo.
Tôi tưởng Chúa phải giáng trần trong một đền đài giữa thành thị phồn hoa. Ai ngờ Ngài đã sinh ra trong chuồng bò giữa cánh đồng lạnh vắng.
Tôi tưởng Chúa sẽ làm gì để ngăn cản vua Hêrôđê, không cho ông lạm quyền ra lệnh hạ sát các trẻ nhỏ với thâm ý tiêu diệt Đấng Cứu Thế. Ai ngờ Chúa lại âm thầm để Đức Mẹ và thánh Giuse đưa Chúa trốn đi, đang khi bao trẻ vô tội phải bị chết oan.
Tôi tưởng Chúa thấy gia đình Chúa làm ăn vất vả, thì sẽ ra tay làm một chút phép lạ cho cha mẹ được dư giả, để các ngài được thong thả an nhàn sung sướng. Ai ngờ Ngài và cha mẹ Ngài cũng cứ mần ăn vất vả như mọi người lao động khác.
Tôi tưởng Chúa xuống trần cứu thế, thì phải tính chuyện cứu thế một cách cấp kỳ, sớm ngày nào hay ngày đó. Ai ngờ Ngài cứ lẳng lặng sống âm thầm suốt 30 năm, rồi mới ra mặt giảng dạy.
Tôi tưởng Chúa phải ra mắt dân chúng trong một cuộc đại lễ rầm rộ, có cờ xí phất phới, có tiền hô hậu hét, có tuyên ngôn nẩy lửa, có dân chúng hoan hô. Ai ngờ Ngài lại trà trộn giữa đám dân đông đến xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình như một người tội lỗi. Chính trong cảnh ấy, Gioan đã giới thiệu Ngài với dân chúng bằng một câu đơn giản: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Ngài sẽ cất tội lỗi thế gian”. Đồng thời, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng chỉ giới thiệu một lời vắn tắt: “Đây là Con chí ái của Ta, kẻ Ta hết lòng yêu dấu!”.
Tôi tưởng Chúa sẽ lo xây dựng Nước Trời bằng cách khởi sự mua một khu đất; lập một trụ sở, cất một thánh đường. Ai ngờ suốt cuộc đời ngài chỉ lo xây dựng Nước Chúa trong lòng người ta.
Tôi tưởng Chúa sẽ tuyển lựa rất nhiều cán bộ học thức và nhiều thế giá. Ai ngờ Ngài chỉ chọn 12 ngừơi trong đám dân thường.
Tôi tưởng Chúa sẽ chọn một người có nhiều bằng cấp và không có chút tì ố gì làm đại diện Ngài lãnh đạo Giáo Hội. Ai ngờ Ngài chọn một dân chài quê mùa đã công khai ba lần chối Chúa.
Tôi tưởng Chúa sẽ bắt các môn đệ Ngài mặc một thứ đồng phục nào hay đeo một thứ huy hiệu nào để người ta dễ phân biệt họ với người khác. Ai ngờ Ngài lại bảo: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”.
Tôi tưởng Chúa sẽ căn dặn môn đệ phải lo năng đi nhà thờ, xem lễ, chịu khó vâng lời, giữ mình sạch sẽ và cho đó là những điều quan trọng nhất làm nên người đạo đức thánh thiện. Ai ngờ Chúa lại cứ nhấn mạnh hoài đến đức thương yêu và gọi đức thương yêu là điều răn mới và trọng bậc nhất của đạo Ngài.
Tôi tưởng Chúa sẽ cứu chuộc nhân loại bằng cách nói với Đức Chúa Cha vài lời như cách người ta thường can thiệp với các ông lớn. Ai ngờ Chúa lại chọn cách chịu chết nhục nhã đau đớn quá như vậy.
Tôi tưởng suốt 33 năm dài, Chúa có dư sức và dư thời giờ để bắt mọi người phải tin phục Chúa và thiết lập nên một Giáo Hội đầy chiến thắng vẻ vang. Ai ngờ Chúa đã chết như một người thất bại, các môn đệ nòng cốt bỏ trốn và số người tin lúc đó chẳng được bao nhiêu...
Thật, có lúc tôi nghĩ Chúa làm lắm cái coi ngược đời quá. Giả như tôi là Chúa, tôi sẽ giải quyết mọi chuyện một cách dễ dàng như chơi và tôi tưởng tôi khôn ngoan nhất vũ trụ.
Nhưng, đọc kỹ lại Phúc Âm, tôi thấy tôi tính toán trật lất. Thì ra đường lối của Chúa nhiều khi khác hẳn đường lối của tôi.
Chúa nhìn xa thấy rộng, thấu hiểu mọi sự, biết rõ điều hay điều dở. Còn tôi thì thiển cận nông nổi, dại dột. Thế mà nhiều khi tôi lại dám kêu trách Chúa.
Bao lần tôi cầu nguyện, nhưng thực ra là tôi đặt chương trình cho Chúa và đòi Chúa thực hành. Không được như ý tôi thì tôi đâm ra khó chịu.
Nhiều khi tôi định một đàng lại xảy ra một nẻo. Cả những việc tôi tưởng sẽ làm vinh danh Chúa, thế mà cũng bị thất bại. Lúc đó tôi dễ chua xót và chán nản.
Nhưng khi đọc lại Phúc Âm và suy gẫm lời Chúa trong tinh thần cầu nguyện, tôi mới thấy rõ Chúa khôn ngoan vô cùng trong hết mọi việc, còn tôi thì ngu xuẩn hết chỗ nói. Một khi nhìn nhận điều đó một cách chân thành, tôi thấy lòng tôi bình an, nhẹ nhàng và dễ dàng phó thác. Cũng nhờ đó tôi mới hiểu được nhiều ý nghĩa của hiện trạng Giáo Hội và quê hương tôi.
Thì ra lỗi lầm lớn nhất của tôi từ trước đến giờ là ít tìm Chúa trong Phúc Âm. Trong đó Chúa dạy tôi rõ ràng đủ mọi chuyện. Tôi lầm lạc là tại tôi.
Lạy Chúa, con hứa với Chúa từ nay sẽ năng suy gẫm Phúc Âm, để con nhìn rõ con phải sống làm sao, cắt nghĩa các việc xảy ra thế nào. Phúc Âm là nguồn mạch mọi khôn ngoan chân thật sẽ là cuốn sách tuỳ thân yêu dấu nhất của con.
Tôi có thói quen hay cắt nghĩa tất cả mọi sự đều do Chúa định. Thói quen đó được tôi dùng như Bùi-Tuần 2371
Tôi có thói quen hay cắt nghĩa tất cả mọi sự đều do Chúa định. Thói quen đó được tôi dùng như một giải pháp đạo đức dễ dàng để trấn an lương tâm.
Đối với những điều lành xảy ra, thì lối cắt nghĩa đó không gây thắc mắc. Nhưng đối với những điều dữ, thì nhiều khi tôi nghĩ rằng lối giải thích đó hơi mơ hồ.
Chẳng hạn tôi bị ghẻ. Tôi cho là do Chúa định. Nhưng thực ra cũng có thể là do tôi không giữ vệ sinh.
Tôi nghèo. Tôi cũng bảo là do Chúa muốn. Nhưng thực ra cũng có thể là do tôi không biết làm ăn.
Tôi thấy chiến tranh tàn phá làng tôi, cướp mất gia đình tôi. Tôi cho là do Chúa đã định. Nhưng thực ra cũng có thể là do tội những người lãnh đạo chiến tranh.
Tôi thất bại trong chuyện đời đạo. Tôi cho là tại Chúa xếp đặt như thế. Nhưng thực ra cũng có thể là vì tôi đã thiếu tài thiếu đức.
Tôi thấy xứ đạo tôi, địa phận tôi, Giáo Hội tôi có những khuyết điểm lớn nhỏ. Tôi cho là Chúa an bài như vậy. Nhưng thực ra cũng có thể là tại lỗi lầm của tôi, của các bề trên tôi, của anh chị em đồng đạo và của cả cộng đoàn Kitô hữu.
Tôi không nên đổ thừa cho Chúa các tội lõi và hậu quả tội lỗi của chính tôi và của người ta.
Tôi không nên gán cho Chúa những sự không thể hợp với sự thánh thiện, khôn ngoan và tình thương vô cùng của Chúa.
Tôi không nên lôi Chúa ra để bắt Chúa lãnh chịu những cái dở do tôi và người khác đã dại dột gây ra.
Tôi phải nhận rằng: trên đời này chỉ có Đức Giáo Hoàng là không sai, và Ngài chỉ được ơn không sai lầm trong một số trường hợp rất hiếm hoi, đó là khi Ngài phán quyết điều gì về đức tin và phong hóa nhân danh đại diện Chúa Kitô. Chỉ có thế thôi. Còn ngoài ra, mọi người đều có thể sai lầm trong bất cứ phương diện nào. Lỗi lầm là điều thường tình theo sát thân phận con người. Ai dám nói rằng: cả đến Tòa Thánh cũng có thể tránh được hoàn toàn mọi lầm lỡ thiếu sót.
Nhìn nhận những sự thực đó mới là lương thiện. Đừng đổ thừa cho Chúa những điều mà chẳng ai muốn nhận là của mình. Oan cho Chúa quá!
Đã hẳn, Chúa quan phòng mọi sự. Nhưng sự quan phòng của Chúa được thực hiện với sự cộng tác tự do của con người.
Chúa có chương trình của Chúa. Nhưng Chúa không ngăn trở người ta làm sai chương trình của Chúa. Chúa không cưỡng bách ai, kẻo họ mất tự do, hết trách nhiệm và hết điều kiện để thưởng phạt.
Vì thế, bao nhiêu sự không hay đã xảy ra rõ ràng không phải do Chúa. Chỉ tại người ta đã thiếu cộng tác vào ý muốn của Chúa.
Nếu chân thành nhìn nhận như thế, rồi cố gắng sửa sai bằng cách rút ra từ những lỗi lầm đó các bài học hữu ích, đồng thời nỗ lực cộng tác với ơn Chúa mà vươn lên, thì đó mới là điều người ta quen nói: “Mọi sự đều có thể trở nên tốt cho những người có lòng mến Chúa”.
Nhưng để biết lợi dụng thất bại, thì cũng cần và càng cần cộng tác sự tự do của con người vào ơn Chúa.
Nếu không, thì thất bại vẫn chỉ là thất bại, hay có thể trở thành thất bại nặng nề hơn. Nguyên nhân cũng lại do tại con người đã không cộng tác vào chương trình của Chúa.
Lạy Chúa, con nhìn nhận rằng: tất cả mọi sự xấu xảy ra ở trần gian này đều phát xuất do tội lỗi con người đã thiếu cộng tác với ơn thánh Chúa. Lỗi của tổ tông, lỗi của riêng con, lỗi của người khác. Con dốc lòng từ nay sẽ cố gắng cộng tác với ơn thánh Chúa, để mọi chương trình Chúa muốn về con được hoàn toàn thực hiện.
Có lúc tôi có cảm tưởng như nghèo đói là một luật lệ của thân phận gia đình tôi. Từ nhỏ cho tới Bùi-Tuần 2372
Có lúc tôi có cảm tưởng như nghèo đói là một luật lệ của thân phận gia đình tôi.
Từ nhỏ cho tới bây giờ, tôi chưa bao giờ được thấy gia đình sung túc. May mà chưa có ai phải chết đói. Nhưng không chết đói không có nghĩa là đã đủ ăn. Mà dù có lúc nói được là đủ ăn, thì thứ đủ ăn đó cũng chỉ là thứ đủ ăn của kẻ nghèo, nghĩa là ăn đủ no chứ không ăn đủ sức. Đủ cơm ăn nhưng không đủ áo mặc, đủ gạo ăn nhưng không đủ nhà ở, đủ đồ ăn nhưng không đủ tiền mua thuốc và cho trẻ em đi học.
Thú vật chỉ cần no là đủ. Con người no mà vẫn có thể nghèo thê thảm. Con thú no là đã đạt được kiếp thú.
Con người no nhưng nghèo túng vẫn không thể sống cho ra kiếp người. Phương chi lại vừa đói vừa nghèo.
Kẻ nghèo thường phải mất mát nhiều quá, mất sự kính nể, mất bạn bè, có khi mất cả nhân phẩm, niềm tin và hy vọng.
Nhìn sang các gia đình chung quanh, tôi thấy cũng hơn kém như thế. Thì ra cảnh nghèo là một thứ quê hương chung của đa số đồng bào tôi.
Muốn an ủi mình và những kẻ cùng trong thân phận nghèo, có lúc tôi muốn lượm lặt tất cả những lời người ta đã nói tốt về cảnh nghèo, để đúc nên một bài ca tán tụng thân phận nghèo đói.
Nhưng tôi không làm được. Vì cảnh nghèo đói hầu như chẳng được ai tán thưởng. Cũng có ít người tỏ vẻ muốn khen, nhưng khổ nỗi là họ lại chẳng bao giờ đã muốn, đã dám và đã thực sự phải sống nghèo. Vì thế, lời họ khen đã trở thành mỉa mai và mang màu đạo đức giả tạo.
Còn Chúa Giêsu thì có bao giờ Ngài đã khuyến khích cảnh nghèo đói đâu. Trái lại Ngài tỏ ý muốn mọi người được sống đầy đủ. Chẳng thế mà Ngài đã dạy ta “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”. Lương thực hằng ngày ở đây được hiểu về tất cả những sự cần ích cho cuộc sống vật chất và tinh thần.
Nên Chúa có lần đã nói: “Phúc cho kẻ nghèo khó trong tinh thần”, thì đó không phải là sự cổ võ cảnh nghèo đói, nhưng chỉ là một lời khuyên nhủ mọi người, dù nghèo dù giàu, nên có tinh thần dứt bỏ với của cải.
Mặc dầu Chúa không xuống thế vì mục đích giải quyết vấn đề cơm áo cho nhân loại, nhưng không vì thế mà Chúa không quan tâm đến thân phận kẻ nghèo. Trong số hơn 40 phép lạ được kể trong Phúc Âm, có bao nhiêu phép lạ Chúa đã làm cho kẻ nghèo và vì kẻ nghèo.
Đạo Chúa dạy tôi phải làm theo Chúa và giữ luật Chúa. Bổn phận đối với kẻ nghèo thì Chúa đã nêu lên nhiều gương đáng sợ, và ra nhiều luật quyết liệt. Như gương người giàu có và người ăn mày tên Ladarô. Như gương Chúa sẽ đối xử với người ta trong ngày phán xét căn cứ vào thái độ đối với kẻ nghèo. Như luật đã ghi trong kinh Mười bốn mối thương xót.
Nghĩ tới đây, tôi thấy lương tâm tôi áy náy vô cùng.
Bao lần tôi đã không quan tâm đến cảnh nghèo của người khác. Bao lần tôi đã vô tâm xài phí tiền bạc bên cạnh những người đói khổ. Bao lần tôi đã nhẫn tâm khinh miệt hắt hủi những kẻ rách rưới, nghèo nàn, bao lần tôi đã lên mặt đạo đức giả, gán cho kẻ nghèo những ý nghĩ xấu, chỉ vì họ quá nghèo đến nài van tôi giúp đỡ.
Lạy Chúa, con đã gặp kẻ nghèo hay con đã gặp Chúa? Có phải họ, hay là Chúa đó? Đúng là con đã gặp họ, nhưng cũng đúng là con đã gặp Chúa. Vì Chúa kể việc con làm cho kẻ nghèo như việc con làm cho chính Chúa. Đến ngày phán xét, Chúa sẽ tính tất cả, lúc đó, con biết ăn nói làm sao đây? Lạy Chúa, nếu Chúa căn cứ vào thái độ của con đối với kẻ nghèo để đánh giá con, thì con khó thấy có hy vọng được chọn.
Lạy Chúa, xin giúp con biết thành tâm xét kỹ lại thái độ của con đối với kẻ nghèo.
Tìm hiểu những thành bại trong việc giáo dục không phải chỉ là ghi nhận kết quả, mà còn phải Bùi-Tuần 2373
Tìm hiểu những thành bại trong việc giáo dục không phải chỉ là ghi nhận kết quả, mà còn phải nhận diện những nguyên nhân. Đem nhiều kinh nghiệm ra so sánh và phân tách, người ta thấy rằng: thành công hay thất bại của việc giáo dục tùy thuộc phần lớn ở nguyên nhân tâm lý: đó là lý tưởng. Giáo dục có lý tưởng hay không có lý tưởng, tính cách của lý tưởng, sự hấp dẫn của lý tưởng, sự hăng say đối với lý tưởng... tất cả những khía cạnh đó, nếu không phải là yếu tố cấu thành thì cũng là những yếu tố ảnh hưởng của kết quả giáo dục.
Lý tưởng là một danh từ quen thuộc. Theo nghĩa rộng, lý tưởng được hiểu như tốt đẹp, như vừa ý, hoàn toàn. Một người bạn lý tưởng, có nghĩa là một người bạn hoàn toàn. Một buổi chiều lý tưởng là một buổi chiều tốt đẹp vừa ý.
Theo nghĩa hẹp, lý tưởng là một ý tưởng hay một hình ảnh trong trí khôn được chọn làm mẫu để rập theo, hay làm đích để đạt tới. Là lý tưởng hay hình ảnh, nên lý tưởng thuộc phạm vi tinh thần, nằm trong thế giới nội tâm. Là mẫu được chọn, nên lý tưởng đúc kết những nét hoàn bị nhất chọn lọc bởi kinh nghiệm, suy tư, hợp với khát vọng. Là đích để đạt tới, nên lý tưởng là một tiếng mời gọi đi lên.
Như thế, tất nhiên lý tưởng phải có tính cách siêu việt. Nhưng không vì thế mà nó chỉ là ảo tưởng. Ảo tưởng là tưởng sai, không đúng sự thực. Còn lý tưởng thì xây dựng bằng những sự có thực. Lý tưởng siêu vượt ở chỗ nó gồm toàn những gì cao đẹp, những đặc điểm hoàn toàn, vượt trên những mức độ tầm thường. Do đó lý tưởng xứng đáng chỉ được hiểu về những gì hoàn bị.
Lý tưởng có thể chỉ là một ý tưởng bao quát, thí dụ: đạo đức, thông thái, anh hùng. Có khi được xác định trong một vài chi tiết như bác ái, chuyên triết học, diệt xâm lăng. Cũng có khi lý tưởng được đặt vào một hình ảnh của một nhân vật mẫu hay được xây dựng do tưởng tượng sáng tạo. Dù dưới hình thức nào, lý tưởng bao giờ cũng là cái nhìn cao đẹp hấp dẫn. Nó là đối tượng muốn tìm, là mẫu người muốn bắt chước, là mục tiêu muốn đạt tới.
Thực vậy, con người sinh ra là người, nhưng chưa làm người. Muốn nên người thì phải học làm người. Làm người cũng giống như làm một ngôi nhà, vẽ một chân dung. Cần phải có một hoạ đồ, một kiểu mẫu, để nhìn vào đó mà xây dựng. Chọn một lý tưởng làm mẫu cho nếp sống tức là tìm cho đời mình một hướng đi, một ý nghĩa. Đã hẳn, không có lý tưởng, người ta vẫn sống. Nhưng giá trị con người không phải chỉ là sống suông, mà là sống xứng nhân tính với tất cả những gì cao đẹp của nó.
Nhân tính đã có nơi mỗi người từ lúc mới nhập cuộc sống, nhưng lúc đó chỉ là mầm non. Con trẻ sơ sinh mới chỉ là hy vọng. Nó mang nhiều khả năng phong phú, nhưng những khả năng này thường đa diện đa năng. Óc thông minh có thể khám phá điều hữu ích, mà cũng có thể tạo ra điều tai hại. Can đảm có thể làm nên anh hùng, mà cũng có thể làm nên tướng cướp. Chính vì những khả năng nơi con trẻ còn trong tình trạng vô định mênh mông, nên mới cần phải giúp chúng định hướng về mục tiêu lợi ích tối đa. Mục tiêu định hướng đó chính là lý tưởng.
Mục tiêu định hướng là điều quan trọng cho mọi cuộc hành trình. Đi đàng mà không biết đi về đâu là đi vơ vẩn. Đi vơ vẩn trên đường đôi khi còn có một chút ý nghĩa, chứ đi vơ vẩn trên cuộc đời thì thực là bi đát. Đời sống là một hành trình dài. Mỗi người đều có trách nhiệm về cuộc hành trình đó. Nếu không tìm mục tiêu hay chọn sai mục tiêu thì hậu quả trách nhiệm chắc sẽ không phải nhỏ. Vai trò của mục tiêu cũng chính là vai trò của lý tưởng.
Nói theo lý thì ai ai cũng đều có thể có lý tưởng. Vì đã là người, thì đều hướng về Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối. Nhưng những tuyệt đối đó chỉ là tư tưởng trừu tượng. Chứ trước mắt đâu có gì gặp được là tuyệt đối. Do đó mới có những trường hợp đi tìm tuyệt đối ở những cái rất mực tương đối, có khi ở cả những cái phản ngược lại đạo đức và chân lý. Nhưng trường hợp đó thường gọi là những mẫu đời không lý tưởng, những cuộc sống chạy theo bóng dáng lý tưởng. Số đó không phải ít. Chính vì thế mà một nền giáo dục toàn diện, không thể không quan tâm đến vấn đề gây lý tưởng.
Lý do rất dễ hiểu, là vì hành động phát sinh từ ham muốn. Ham muốn phát sinh từ ý tưởng. Nên một đường lối giáo dục có lý tưởng phải khởi đầu bằng việc gây ý thức về lý tưởng.
Việc gây ý thức này không phải chỉ có tính cách làm giàu kiến thức, mà còn có mục đích đun đẩy người thụ huấn tới việc thực hiện ý thức đó. Có thể nói, việc gây ý thức về lý tưởng nhằm mục đích thực tiễn hơn mục đích lý tưởng, nhằm mục đích thực tiễn hơn mục đích lý thuyết. Chính vì thế, nên lý tưởng phải được kêu gọi bằng những ý thức giàu động lực.
Đó là một vấn đề liên hệ đến tư tưởng thì tất nhiên không thể tránh được trừu tượng. Trừu tượng không phải là không hấp dẫn. Nhưng đối với những bộ óc còn non yếu, thì lý tưởng động lực cần phải đặt vào những hình thức rõ rệt, thiết thực và cụ thể. Muốn rõ thì phải xác định. Xác định thì phải tách biệt. Thí dụ: Tôi nhìn rõ chữ này, tức là tôi nhận diện các nét của nó trong một tổng hợp và phân tích, đồng thời phân biệt được nó với những chữ chung quanh. Cũng vậy, nếu tôi chọn bác ái làm lý tưởng đời tôi, thì tôi cần phải hiểu rõ thế nào là bác ái với những điều kiện và tương quan của nó, đồng thời phải biết phân biệt bác ái thực với những hình thức bác ái giả tạo thấy nhan nhản khắp nơi. Lý tưởng càng rõ càng dễ thực hiện.
Thêm vào tính cách rõ ràng, ý tưởng cũng cần phải thiết thực. Gọi là thiết thực những gì có thể thực hiện được và có tính cách thỏa mãn chính đáng chủ thể cũng như nhu cầu ngoại cảnh. Nếu tôi muốn làm tổng thống và theo đuổi ý muốn đó như một lý tưởng tha thiết đời mình thì chắc chắn lý tưởng đó không có chút gì là thiết thực. Vì sự tôi làm tổng thống là việc chẳng cần, chẳng được và cũng chẳng nên.
Nếu lý tưởng được cụ thể hóa trong một nhân vật, thì càng có tính cách sống động và hấp dẫn hơn. Nói về tinh thần bất khuất của dân tộc, có khi không gây xúc động được ai, nhưng khi thấy trò Ơn bị ngã gục, thì hàng ngàn người đã nhìn vào hình ảnh đó như một tấm gương lý tưởng. Họ thấy như lý tưởng vừa xa vừa gần, vừa sống động vừa linh thiêng, tuy cao vượt nhưng cũng không quá tầm của họ. Tính cách cụ thể của lý tưởng là một động lực rất hấp dẫn. Và nó sẽ hấp dẫn một cách lạ lùng đối với học trò nếu lý tưởng lại được cụ thể hóa nơi chính nhà giáo của chúng. Tấm gương của nhà giáo là một cách gợi ý thức nhiều động lực không gì bằng. Nó có thể thay thế tất cả, nhưng không gì thay thế được nó.
Gây ý thức về lý tưởng mới chỉ là khởi đầu. Làm sao đạt được lý tưởng đã ý thức lại là vấn đề khác. Cho tới đây tất cả còn nằm trong lý thuyết. Tuy nhiên, nếu lý thuyết chỉ huy hành động, thì sự giải quyết một vấn đề trên lý thuyết cũng là một điều cần thiết vậy.
Từ mấy tháng nay, đặc biệt là trong mấy ngày này, tôi cảm nhận thấm thía thân phận con người Bùi-Tuần 2374
1. Từ mấy tháng nay, đặc biệt là trong mấy ngày này, tôi cảm nhận thấm thía thân phận con người già yếu của tôi.
2. Với 96 tuổi, tôi bám vào thực tế giây phút hiện tại, và tôi thấy thân phận của tôi đang được nhiều người nâng đỡ.
3. Đối với tôi, họ là những người được Chúa sai đến với tôi, mang sứ điệp tình yêu thương xót của Chúa.
Tôi quen coi họ là những người mang đến niềm hy vọng.
4. Nét đẹp của họ là bước xuống những việc phục vụ âm thầm, nhỏ bé, hèn mọn.
5. Hằng ngày, họ cung cấp cho tôi nhiều tin tức về những người bước xuống.
6. Những người này bước xuống, nghĩa là họ quan tâm đến những đối tượng khổ đau, cô đơn, túng thiếu, lầm than.
7. Họ bước xuống, nghĩa là họ không gặp gỡ như những người đề cao quyền lực.
8. Đức Mẹ Maria là con người bước xuống, để cứu con cái.
9. Chúa Giêsu là Đấng bước xuống, để cứu nhân loại.
10. Bước xuống, hãy bước xuống, đó là tiếng kêu gọi trong lương tâm tôi lúc này.
11. Riêng tôi, lúc này tôi đang được hạnh phúc, cũng nhờ những người dám bước xuống, để cùng với Chúa và Đức Mẹ mà cứu giúp tôi.
12. Tôi rất cảm ơn những người bước xuống với tôi.
13. Tôi hy vọng rất nhiều nơi những người dám bước xuống với tôi.
14. Tới đây, tự nhiên tôi nhớ tới thánh Augustinô. Ngài đã viết rất nhiều. Ngài viết, để ca tụng Chúa là Đấng đã bước xuống để cứu lấy con người tội lỗi Augustinô.
15. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi xác tín: Để theo Chúa trong mục vụ tại Việt Nam hôm nay, người môn đệ Chúa phải coi con đường bước xuống là cần thiết. Muốn thế, thì phải học, phải phấn đấu với chính mình, phải cầu nguyện rất nhiều. Tất nhiên, bước xuống nói đây phải được hiểu đúng nghĩa của nó.
16. Tôi hay cầu nguyện theo kinh Vực Sâu: “Từ vực sâu, con kêu lên Chúa, Chúa ơi.” Tôi nhận thức tôi ở vực sâu tội lỗi. Chúa đã bước xuống vực sâu đó, để cứu tôi. Tôi được an ủi và hy vọng tràn trề. Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót.
Long Xuyên, ngày 04.9.2021
------------------------------
Bùi-Tuần 2375: CHÚA XÓT THƯƠNG NHỮNG KẺ KÍNH SỢ CHÚA
+ GB. Bùi Tuần
Mấy ngày nay, tôi tha thiết xin Chúa xót thương tôi, những người thuộc về tôi, Tổ Quốc của tôi Bùi-Tuần 2375
1. Mấy ngày nay, tôi tha thiết xin Chúa xót thương tôi, những người thuộc về tôi, Tổ Quốc của tôi, Hội Thánh của tôi.
Trong thanh vắng nội tâm, tôi nghe một tiếng nhỏ nhẹ nói với tôi: “Chúa xót thương những kẻ kính sợ Chúa.”
2. Với tâm tình người con bé nhỏ, tôi hỏi Đức Mẹ: “Ai là những kẻ được Chúa coi là kẻ kính sợ Chúa.” Thì Đức Mẹ dạy tôi hãy đọc lại dụ ngôn hai người cầu nguyện được Chúa Giêsu nêu lên trong Phúc Âm thánh Luca (Lc 18). Đại khái thế này:
3. Người Pharisêu bước lên sát bàn thờ xin Chúa xót thương ông. Vì ông nhận mình có nhiều công phúc.
4. Người thu thuế, thì bước xuống cuối nhà thờ, xin Chúa xót thương ông, vì ông nhận mình có nhiều tội lỗi.
5. Rồi, Đức Mẹ dạy tôi: Người thu thuế đó là kẻ được Chúa coi là kẻ kính sợ Chúa, nên được Chúa xót thương.
6. Những gì Đức Mẹ vừa dạy tôi trên đây đang là dòng ơn thánh giúp tôi thanh luyện chính mình.
Bởi vì lúc này, đâu đâu cũng phát động phong trào cầu nguyện. Nhưng, nếu không tỉnh thức, thì lại cầu nguyện theo kiểu cách Pharisêu. Cầu nguyện, mà thêm tội.
7. Cầu nguyện, mà thêm tội, đó là nguy cơ đang xảy ra đó đây.
8. Satan đang phá Hội Thánh Chúa bằng cách xúi giục cầu nguyện mà thêm tội.
9. Xưa, có lần Chúa Giêsu đi vào đền thờ, gặp nhiều người đang tụ tập trong đó, để bàn chuyện tiền bạc, Ngài trách: “Nhà thờ là nơi cầu nguyện, thế mà các người biến nhà thờ thành nên như hang trộm cướp.” (Lc 19,46)
10. Nay, có thể Chúa Giêsu, khi thấy nhà thờ nơi này nơi nọ tụ họp đông người, mà Ngài cũng sẽ nói như thế, thì quả là đau xót lắm.
11. Chúa xót thương những kẻ kính sợ Chúa. Đó là sự thực.
Vậy, chúng ta có được là những kẻ kính sợ Chúa, đúng như Chúa thấy không?
12. Trong bản kê các ơn Chúa Thánh Thần, có ơn kính sợ Chúa. Lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta xin Chúa Thánh Thần thương ban cho chúng ta ơn biết kính sợ Chúa.
13. Riêng tôi, tôi kính sợ Chúa, và hay nói với Chúa thế này: “Lạy Chúa, xin đừng bao giờ ruồng bỏ con, mặc dù con tội lỗi, bất xứng, chìm sâu dưới vực thẳm yếu đuối, hèn hạ.”
Chúa thực sự không ruồng bỏ tôi. Dù chỉ một phút, một giây. Đó là hạnh phúc của tôi. Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót.
Long Xuyên, ngày 06.9.2021
----------------------------
Bùi-Tuần 2376: HÃY NGHE ĐỨC MẸ BÁO TIN
+ GB. Bùi Tuần
Hôm nay là lễ kính Sinh Nhật Đức Mẹ Maria. Tôi rất vui mừng, xin Mẹ ban quà cho các con Bùi-Tuần 2376
1. Hôm nay là lễ kính Sinh Nhật Đức Mẹ Maria. Tôi rất vui mừng, xin Mẹ ban quà cho các con của Mẹ.
2. Riêng tôi, tôi nhận được món quà bất ngờ. Đó là Mẹ dẫn lòng trí tôi đến Fatima. Rồi Mẹ tha thiết nói: “Những gì Mẹ đã báo trước tại đây, nay đang xảy ra. Mẹ báo trước về những sự kiện khủng khiếp sẽ xảy đến cho nhân loại, cho Hội Thánh, cho Đức Giáo Hoàng. Những khủng khiếp đó sẽ chỉ được giảm bớt, nếu người ta vâng lời Mẹ, mà sám hối và gắn bó với Mẹ bằng kinh Mân côi, và tôn sùng Trái tim Mẹ.”
3. Qua những gì Đức Mẹ vừa làm cho tôi, tôi hiểu người môn đệ Chúa lúc này phải coi việc cảnh báo là một việc nên làm, phải làm.
4. Cảnh báo theo những gì Đức Mẹ đã cảnh báo ở Fatima, đó là việc mà nhiều tín hữu tại Việt Nam đang thực hiện lúc này dưới nhiều hình thức.
5. Tôi thấy không gì khó bằng việc cảnh báo. Nhưng không nên vì ngại khó mà bỏ cảnh báo.
6. Phải coi thời điểm cảnh báo là chính lúc này, kẻo sẽ quá muộn.
7. Thời đại lúc này loan tin về số tử vong tăng lên từng giờ từng phút. Nếu những người tử vong đó được biết Đức Mẹ là người mang lại cho họ ủi an, thì họ sẽ rất mừng. Thế thì, tại sao chúng ta không báo cho họ tin đó.
Hãy làm ngay, kẻo sẽ quá muộn.
8. Đức Mẹ đang báo tin cho tôi về lòng thương xót Chúa. Tôi được an ủi. Tôi sống phó thác. Tôi xin báo tin đó cho mọi người, để chúng ta cùng đồng hành trong niềm tin vào Chúa, nhờ Đức Mẹ.
9. Đối với tôi, cuộc sống là một chuyến đi, mỗi ngày là một chuyến đi.
10. Tôi không đi một mình, mà luôn đi với Hội Thánh, với Đức Mẹ, với Chúa.
11. Tôi được Hội Thánh, Đức Mẹ, và Chúa đồng hành và báo cho tôi những tin cần thiết, từng giờ, từng phút.
12. Chuyến đi như vậy là đông đảo, là đầy đủ, là tốt đẹp. Nhưng người mà tôi ôm chặt lấy, chính là Đức Mẹ.
13. Chuyến đi càng nhiều báo động, tôi càng ôm lấy Đức Mẹ chặt hơn. Bởi vì tôi yếu đuối, tội lỗi. Ôm lấy Mẹ, tôi được an tâm.
14. Tôi được an tâm, nhất là có Mẹ, tôi được Mẹ dạy bảo những gì nên làm, và không nên làm trong từng thời điểm cụ thể.
15. Đức Mẹ bảo cho tôi những khủng khiếp và những cứu độ. Tôi xác tín: Đức Mẹ cũng đang báo cho nhiều người như vậy.
Long Xuyên, ngày 08.9.2021
-------------------------
Bùi-Tuần 2377: ĐỨC MẸ KHÓC
+ GB. Bùi Tuần
Đã từ rất lâu rồi, Đức Mẹ hay đến với tôi. Mẹ đến dưới nhiều hình dạng khác nhau. Nhưng lúc này Bùi-Tuần 2377
1. Đã từ rất lâu rồi, Đức Mẹ hay đến với tôi. Mẹ đến dưới nhiều hình dạng khác nhau.
Nhưng lúc này, Mẹ hay đến với tôi dưới hình dạng “Mẹ khóc”.
2. Đọc Phúc Âm, tôi thấy xưa Đức Mẹ đã khóc trên đường theo Chúa Giêsu vác thánh giá lên Núi Sọ, và nhất là Mẹ đã khóc dưới chân thánh giá Chúa chịu đóng đinh.
3. Đọc lịch sử Giáo Hội, tôi thấy Đức Mẹ đã nhiều lần hiện ra dưới hình dạng người mẹ ôm mặt khóc. Như tại La Salette.
4. Từ mấy ngày nay, Đức Mẹ hay đến với tôi cũng dưới hình dạng “người Mẹ khóc”.
Với hình dạng “người Mẹ khóc”, Đức Mẹ đi vào hồn tôi một cách âu yếm và rất sâu.
5. Mẹ báo cho tôi nhiều biến cố thê thảm sẽ xảy ra cho nhân loại, nếu nhân loại không sám hối.
6. Mẹ báo cho tôi nhiều biến cố thê thảm sẽ xảy ra cho những người trong Hội Thánh, nếu họ không thực sự trở về với Chúa.
7. Mẹ báo cho tôi nhiều biến cố thê thảm sẽ xảy ra cho chính tôi, nếu tôi không vâng phục thánh ý Chúa.
8. Vâng phục thánh ý Chúa là điều không dễ chút nào, nên tôi nài van Mẹ hãy dạy tôi lời “Xin Vâng” mà Mẹ xưa đã thưa với sứ thần của Chúa.
9. Đức Mẹ luôn dạy tôi Xin Vâng. Tôi học mãi, mà vẫn chưa đạt. Đức Mẹ lại khóc. Nước mắt của Mẹ đang thấm vào tôi.
10. Bây giờ thì tôi cảm nhận Đức Mẹ khóc, đang là trường học cao quí Chúa dành cho tôi và nhiều môn đệ Chúa.
11. Hằng ngày, tôi vẫn được nghe tiếng khóc của cộng đồng dân Chúa, khi họ cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con.” Đó là tiếng khóc. Đó là nước mắt.
12. Nếu khóc mà được cứu rỗi, thì đừng ngại khóc.
Tới đây, tôi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã hứa:
“Phúc thay ai sầu khổ khóc lóc, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” (Mt 5,4)
Chúa nói về những ai khóc lóc vì sám hối.
13. Riêng tôi, tôi khóc mà không thành tiếng. Nhưng Đức Mẹ hiểu tôi. Đức Mẹ an ủi tôi, Đức Mẹ cứu tôi.
14. Hiện giờ, ảnh Đức Mẹ sầu bi đang được nhiều người tại Việt Nam ái mộ.
Thiết tưởng, đó cũng là cách Đức Mẹ khóc đến với Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay.
Long Xuyên, ngày 10.9.2021
----------------------------
Bùi-Tuần 2378: Tỉnh Thức Trước Biến Chuyển Đời Tu
§ +GM JB Bùi Tuần
1/ Đối với tôi, đi tu là đáp lại tiếng gọi của Chúa.
Theo mạc khải và kinh nghiệm, thì trong các điều Chúa mời gọi người tu, có 3 điều quan trọng. Điều Bùi-Tuần 2378
Theo mạc khải và kinh nghiệm, thì trong các điều Chúa mời gọi người tu, có 3 điều quan trọng.
Điều thứ nhất là đời sống nội tâm, tương quan của ta với Chúa.
Chúa mời gọi ta, để dâng mình cho Chúa, ta hãy theo đường hẹp: "Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy". "Hãy đi vào cửa hẹp".
Dâng mình cho Chúa, thì phải sống mật thiết với Chúa. "Thầy là cây nho, các con là cành".
Điều thứ hai là đời sống phục vụ đồng bào.
Xưa Chúa phán: "Ta thương xót dân này". "Hãy cho họ ăn". Chúa muốn và kêu gọi chúng ta hãy thương xót dân, và cứu họ khỏi đói.
Họ đói của ăn vật chất, và càng đói của ăn thiêng liêng, tức là tình thương, các chân lý cứu độ, nhất là sự sống của Chúa, gương sáng về tinh thần trách nhiệm.
Điều thứ ba là đời sống tiến thân.
Chúa trao cho mỗi người chúng ta một số nén bạc, tức là thời giờ, sức khoẻ, địa vị, kiến thức, hoàn cảnh tốt, và bảo chúng ta phải sinh lời, với những bước tấn tới cho đời sống riêng và chung.
Trên thực tế một số người tu đã đáp lại tiếng Chúa gọi. Họ trả lời 3 lời kêu mời trên bằng những cố gắng tích cực.
Nhưng, cũng có một số người tu đã chỉ đáp lại bằng việc đi tu, nhưng trong đời tu, họ không đáp lại 3 lời kêu gọi trên.
2/ Lỗi phạm của họ là thế nào?
Tiên tri Isaia gọi lỗi phạm của họ là sự vô ơn của con người đối với người cha (Is 64, 7-8).
Cũng tiên tri Isaia còn gọi lỗi phạm đó là sự bất hiếu của người con đã quên tình mẹ cưu mang (Is 49, 15).
Tiên tri Osê thì gọi lỗi phạm đó là sự bất trung đối với người yêu (Os 2).
Nghĩa là, khi người ta không đáp lại những lời Chúa kêu mời họ, thì ta xúc phạm đến tình yêu Chúa. Xúc phạm đến tình yêu Chúa, chứ không hẳn là xúc phạm đến luật Chúa. Và như vậy, khi sám hối ăn năn, người tu nên để ý đến sự mình xúc phạm đến tình yêu Chúa.
3/ Nếu người tu không sám hối ăn năn, sửa mình về 3 lời kêu gọi trên, thì kết quả sẽ thế nào?
Thưa, họ sẽ đi vào tình trạng nguội lạnh. Kinh Thánh mô tả nguội lạnh là không nóng, không lạnh. Kết quả là họ sẽ bị Chúa mửa họ ra. Họ sẽ rơi vào những thảm hoạ sau đây:
a) Mất dần ý thức về tội. Coi những bất trung là bình thường. Coi vô cảm trước trách nhiệm là bình thường.
b) Đời sống nội tâm ra trống vắng. Họ hay lấp cái trống vắng đó bằng đời sống nghiêng về hình thức, ồn ào.
c) Nhiều khi họ đánh lạc hướng bằng sự tự mãn vì một số thành tích thành công bề ngoài.
Kết quả là: Người tu sẽ làm gương xấu cho xã hội, gây hại cho Đạo Chúa.
Đến đây, chúng ta có thể có một cái nhìn tổng quát về một chuyển biến nguy hiểm đang xảy ra ở nơi này, người nọ trong đời tu tại Việt Nam. Hinh ảnh tu không còn được sáng về nhiều nét tu tốt đẹp.
Cái nhìn trên đây sẽ giúp cho những người có trách nhiệm đào tạo.
Đào tạo người tu thành những người biết tổ chức, biết hoạt động hội đoàn, là điều tốt. Nhưng điều tốt hơn, sẽ là đào tạo họ nên những người bén nhạy với những lời mời gọi của Chúa, và biết đáp ứng lại những mời gọi của Chúa.
Người tu chúng ta hãy cầu nguyện nhiều và hãy cộng tác vào việc đào tạo mình, để ta có cái tâm biết thuộc về Chúa, biết gắn bó với Chúa, biết dấn thân cho tình yêu Chúa. Nếu không, đời tu sẽ xuống dốc thảm hại.
Long Xuyên, ngày 7 tháng 7 năm 2009
+GM JB Bùi Tuần
------------------------
Bùi-Tuần 2379: ĐỨC MẸ SẦU BI CỨU NHỮNG AI KHIÊM NHƯỜNG
+ GB. Bùi Tuần
Nhân dịp lễ kính Đức Mẹ sầu bi, tôi tha thiết cầu xin Mẹ thương cứu tôi, Hội Thánh của tôi, Tổ Bùi-Tuần 2379
1. Nhân dịp lễ kính Đức Mẹ sầu bi, tôi tha thiết cầu xin Mẹ thương cứu tôi, Hội Thánh của tôi, Tổ quốc của tôi, khỏi cơn gian nan khốn khó hiện giờ.
Đức Mẹ trả lời: “Mẹ cứu những ai khiêm nhường.”
2. Đức Mẹ nhắc cho tôi kinh Mân côi có câu: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.”
Hãy nhận mình là kẻ có tội, đó là thái độ khiêm nhường rất cần cho tu đức và mục vụ lúc này.
3. Đức Mẹ là đấng rất khiêm nhường. Nên Mẹ dạy dỗ một cách khiêm nhường.
4. Tức là Mẹ không làm áp lực, không bắt ép. Mẹ chỉ khiêm tốn nhắc bảo.
5. Riêng đối với tôi, Đức Mẹ nhắc cho tôi những gương sáng về khiêm nhường của Chúa Giêsu, của Mẹ, của thánh Giuse.
6. Có một thời gian tôi vấp ngã, thì Mẹ nhắc cho tôi gương khiêm nhường của thánh Phêrô và thánh Phaolô.
7. Mẹ dạy tôi: Kiêu ngạo là thứ nọc độc nguy hiểm nhất, xưa đã làm cho thiên thần Luciphe từ trời phải lao xuống hỏa ngục. Theo Luciphe, kiêu ngạo vẫn là thứ nọc độc đã phá nhiều người suốt lịch sử nhân loại từng mấy ngàn năm.
8. Riêng lúc này, Luciphe càng phá Nước Chúa bằng nọc độc kiêu căng một cách đều khắp và khủng khiếp.
9. Hãy xin Mẹ sầu bi ban cho chúng ta ơn khiêm nhường.
Khiêm nhường là một ơn rất cần. Thế mà rất nhiều người trong chúng ta đã không quan tâm đủ và đúng đến khiêm nhường.
10. Khiêm nhường sẽ cứu Hội Thánh, sẽ cứu nhân loại, sẽ cứu chúng ta.
11. Do vậy, ác quỷ đang ra sức quấy phá khiêm nhường bằng nhiều cách, kể cả cách tạo nên những hình thức khiêm nhường giả.
12. Vì thế, nhân lễ Đức Mẹ sầu bi, chúng ta xin Mẹ thương điều chỉnh lại tình hình khiêm nhường nơi chúng ta.
13. Có khiêm nhường, chúng ta mới biết đón nhận và biết cho đi, để cùng với Mẹ đi vào cõi phúc trường sinh.
14. Hiện giờ, tôi đang thấy khắp nơi tại Việt Nam yêu dấu của tôi, chỗ nào cũng thắp hương khói, cũng có bái lạy, chứng tỏ tinh thần khiêm tốn trước thế giới thiêng liêng.
Tôi có cảm tưởng là thời điểm cứu rỗi đang tới gần. Xin Mẹ sầu bi thương ban cho chúng ta ơn khiêm nhường để được cứu rỗi.
Long Xuyên, ngày 13.9.2021
-------------------------
Bùi-Tuần 2380: ĐỨC MẸ DẠY TÔI VỀ PHỤC VỤ THẦM LẶNG
+ GB. Bùi Tuần
Mấy ngày này, tôi rất mệt, Đức Mẹ ở bên tôi, Mẹ lo cho tôi về mọi nhu cầu trong mọi lãnh vực Bùi-Tuần 2380
1. Mấy ngày này, tôi rất mệt, Đức Mẹ ở bên tôi, Mẹ lo cho tôi về mọi nhu cầu trong mọi lãnh vực. Tất cả những gì Mẹ lo cho tôi đều được Mẹ thực hiện trong thầm lặng.
2. Dần dần tôi hiểu điều Đức Mẹ muốn dạy tôi. Đó là phục vụ trong thầm lặng.
3. Chính Đức Mẹ đang phục vụ tôi và rất nhiều người trong thầm lặng.
4. Rất nhiều người gần xa mà tôi được biết cũng đang phục vụ một cách thầm lặng.
5. Phục vụ thầm lặng thì rất khiêm nhường. Phục vụ mà không tìm được khen. Phục vụ mà lại cảm ơn chính người mình phục vụ.
6. Phục vụ thầm lặng thì có niềm tin vững mạnh. Họ tin có một Đấng thiêng liêng nhìn thấy việc phục vụ của họ. Cho dù việc phục vụ của họ là rất kín đáo.
7. Phục vụ thầm lặng thì có niềm vui riêng, rất ngọt ngào. Niềm vui lớn nhất của họ là họ gặp được Chúa.
8. Phục vụ thầm lặng là mùa Xuân thiêng liêng Chúa đang thực hiện tại Việt Nam chúng ta.
9. Tuy nhiên, không gì tốt đẹp, đạo đức, mà không bị ác quỷ Satan mưu đồ quậy phá.
Đọc các thư của thánh Gioan tông đồ, tôi thấy ngài cảnh báo nhiều lần về nguy cơ phục vụ bằng yêu thương sẽ gặp nhiều chống phá.
10. Lúc này, Đức Mẹ cũng đang nhắc cho tôi về những gì thánh Gioan tông đồ đã nói xưa.
11. Mẹ hay gợi ý cho tôi cầu nguyện theo ý Mẹ. Cầu nguyện theo ý Mẹ là cầu nguyện dựa vào Lời Chúa.
12. Riêng tôi, Lời Chúa mà tôi hay dựa vào để cầu nguyện lúc này là lời Chúa đã nói xưa với thánh Gioan tông đồ: “Đây là Mẹ của con” và lời Chúa nói với Đức Mẹ về Gioan “Đây là con của Mẹ”.
13. Chỉ với những Lời Chúa đã nói trên đây, tôi cầu nguyện rất nhiều. Nhờ vậy, tôi thấy phục vụ thầm lặng đang trở thành cuộc sống đức tin cho tôi.
Long Xuyên, ngày 14.9.2021
---------------------------
Bùi-Tuần 2381: ĐỨC MẸ AN ỦI TÔI
+ GB. Bùi Tuần
Lúc này, tôi cần đủ thứ. Nhưng sự tôi cần hơn cả, đó là sự an ủi. Tôi thấy nhiều người cũng như Bùi-Tuần 2381
1. Lúc này, tôi cần đủ thứ. Nhưng sự tôi cần hơn cả, đó là sự an ủi.
Tôi thấy nhiều người cũng như vậy.
Chúng tôi coi an ủi là nhu cầu rất cần cho cuộc sống hiện nay.
2. Tôi đem nhu cầu đó trình bày với Đức Mẹ. Đức Mẹ trả lời: Mẹ đã và đang an ủi những ai hoán cải mình, để theo Mẹ sống lời “Xin vâng”.
3. Nghe vậy, tôi xin Mẹ cho tôi thấy: Tôi có hoán cải mình để sống lời Xin vâng, như Mẹ muốn không? Thì Mẹ cho tôi thấy: Tôi rất yếu đuối, có nhiều thiết sót. Nhưng khi biết sám hối, thì Mẹ không từ chối an ủi tôi.
4. Thực sự, Đức Mẹ an ủi tôi suốt đời sống ơn gọi của tôi.
5. Nhờ được Mẹ an ủi, tôi có những cái nhìn rất đơn sơ, về Chúa, về Hội Thánh, về những người ngoài Hội Thánh, về những kẻ khổ đau, về những ai lầm lạc.
6. Đơn sơ là không phức tạp, không rắc rối.
Gương đơn sơ xưa nhất là Đức Mẹ.
Gương đơn sơ gần nhất là thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
7. Tôi thấy hoán cải mình để trở nên người đơn sơ theo ý Chúa là chuyện không dễ chút nào.
8. Tình hình lúc này là rất phức tạp, khiến con người khó mà sống đơn sơ được.
9. Tuy nhiên, tôi được Đức Mẹ dạy là: Chính vì tình hình rất phức tạp, nên các con của Mẹ càng cần phải sống đơn sơ.
Đơn sơ là hãy tập trung vào những gì căn bản, bỏ đi những gì không cần đối với tình hình lúc này.
10. Muốn được như vậy, người môn đệ Chúa cần có ơn phân định, đôi khi cũng cần đến ơn tiên tri.
11. Đức Mẹ đang an ủi Hội Thánh tại Việt nam lúc này, khi ban cho nhiều môn đệ Chúa nơi này nơi nọ được ơn phân định và ơn tiên tri.
12. Tuy nhiên, quỷ Satan lại đang dùng nhiều cách, để quấy phá ơn phân định và ơn tiên tri.
Đó là chuyện có thực.
Xin hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
13. Xưa, tại tiệc cưới Cana, Đức Mẹ đã nói với Chúa Giêsu: “Nhà này hết rượu rồi”. Nể lời Đức Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước trở thành rượu.
14. Nay, tôi cũng đang nghe thấy Đức Mẹ nói về nơi này nơi nọ tại Hội Thánh Việt Nam: “Nhà này hết ơn phân định, hết ơn tiên tri, hết ơn an ủi rồi”.
Tôi thấy Chúa Giêsu đang làm phép lạ cho những nơi đó.
Long Xuyên, ngày 16.9.2021
-----------------------------
Bùi-Tuần 2382: ĐỨC MẸ ĐẶT TRONG TÔI MỘT TRÁI TIM THAO THỨC
+ GB. Bùi Tuần
Đã từ rất lâu rồi, nhưng nhất là lúc này, tôi cảm thấy trong tôi một trái tim thao thức. Thao thức Bùi-Tuần 2382
1. Đã từ rất lâu rồi, nhưng nhất là lúc này, tôi cảm thấy trong tôi một trái tim thao thức. Thao thức mãnh liệt. Thao thức thường xuyên. Tôi thao thức gặp gỡ Đức Mẹ Maria, mẹ của tôi.
2. Khi gặp Đức Mẹ Maria, tôi thấy Mẹ có đủ mọi tước hiệu, đã được kể ra trong Phụng vụ, trong Kinh cầu Đức Bà. Nhưng đối với riêng tôi, Mẹ mang một cái gì rất riêng tư. Yếu tố riêng tư đó không thể diễn tả được.
3. Với yếu tố riêng tư đó, Mẹ là người tôi luôn yêu mến, luôn khao khát, luôn đợi chờ, luôn nhớ nhung, luôn gắn bó.
4. Tôi luôn thao thức về Mẹ. Thao thức đó luôn đổi mới tôi.
Từ một người hay bi quan, tôi được đổi mới thành người lạc quan. Tôi lạc quan, nhờ có Mẹ.
5. Từ một người hay sợ hãi, tôi được đổi mới thành người phó thác. Tôi phó thác, nhờ có Mẹ.
6. Đổi mới chính mình, nhờ Mẹ. Đó là điều tôi ca ngợi và cảm tạ Chúa, từng giờ, từng phút.
7. Thực vậy, tôi thấy không gì vui cho bằng thấy mình được đổi mới theo đúng hướng của Chúa.
8. Đức Mẹ là hướng Chúa chọn cho tôi lúc này. Đức Mẹ là hướng Chúa cũng chọn cho Hội Thánh lúc này. Đức Mẹ là hướng Chúa cũng chọn cho cả nhân loại lúc này.
9. Với xác tín đó, tôi sống rất mật thiết với Đức Mẹ. Lúc nào cũng nhớ Mẹ. Việc gì cũng gọi Mẹ.
10. Đức Mẹ là thao thức của tôi. Ngay khi tôi dâng thánh lễ, và làm giờ thánh kính lòng thương xót Chúa, tôi vẫn có Mẹ thao thức ở bên tôi. Nhờ vậy mà tôi trở nên bé nhỏ, được Mẹ ấp ủ, yêu thương, an ủi.
11. Những ngày này, khi nhiều đồng bào của tôi, Tổ quốc của tôi, Hội Thánh của tôi, trong cơn gian nan khốn khó khác thường, tôi cũng thấy Đức Mẹ thao thức ở giữa chúng tôi. Có vẻ như Mẹ khóc. Tôi không rõ Mẹ đang nói gì với Chúa. Chỉ chắc là Mẹ nói với Chúa về các con của Mẹ.
12. Tôi tin, nhờ Mẹ cầu bầu, Chúa đang rộng mở kho tàng lòng thương xót Chúa, để cứu chúng ta.
13. Đức Mẹ đang thao thức. Các con của Mẹ cũng đang thao thức. Tôi sống trong bầu khí thao thức đó. Và tôi thấy mình được bình an, một sự bình an mà chỉ Chúa mới ban cho được mà thôi.
14. Đến đây, tôi thấy rõ: Biết sống thao thức, đó là một ơn cao quí Chúa thương ban.
Long Xuyên, ngày 17.9.2021
--------------------------------
Bùi-Tuần 2383: CẢNH GIÁC VỀ NHỮNG LỖI TƯỞNG LÀ NHỎ
+ GB. Bùi Tuần
Tôi mới đọc lại sách Tông Đồ Công vụ, thấy đoạn sau đây khiến tôi lo cho chính mình và cho Bùi-Tuần 2383
1. Tôi mới đọc lại sách Tông Đồ Công vụ, thấy đoạn sau đây khiến tôi lo cho chính mình và cho Hội Thánh hiện nay:
“Có một người tên là Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Ông đồng ý với vợ giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các Tông Đồ. Ông Phêrô mới nói: ‘Anh Khanania, sao anh lại để Xatan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần, mà giữ lại một phần giá thửa đất? Khi đất còn đó thì nó chẳng còn là của anh sao? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó sao? Sao anh lại rắp tâm làm việc ấy? Anh đã không lừa dối người phàm, mà lừa dối Thiên Chúa.’ Nghe những lời ấy, Khanania ngã xuống tắt thở. Tất cả những ai nghe kể lại chuyện này đều rất sợ hãi. Các thanh niên đến liệm xác ông và đem đi chôn.
“Khoảng ba giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay biết chuyện đã xảy ra. Ông Phêrô lên tiếng hỏi: ‘Chị nói cho tôi hay: anh chị bán thửa đất được bấy nhiêu, phải không?’ Chị ta đáp: ‘Vâng, được bấy nhiêu thôi.’ Ông Phêrô liền nói: ‘Sao anh chị lại đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí Chúa? Kìa những người đã chôn cất chồng chị còn đứng ở ngoài cửa, họ sắp khiêng cả chị đi đấy!’ Lập tức bà ta ngã xuống dưới chân ông Phêrô và tắt thở. Khi vào, các thanh niên thấy bà đã chết, liền khiêng đi chôn bên cạnh chồng. Toàn thể Hội Thánh và tất cả những ai nghe kể chuyện này đều rất sợ hãi.” (Cv 5,1-11)
2. Chuyện trên đây dạy tôi điều này: Có những lỗi ai cũng tưởng là lỗi nhỏ, thế mà hậu quả lại quá nặng nề. Vợ chồng ông Khanania dâng cúng của cải cho Hội Thánh, nói là có bao nhiêu thì dâng cúng hết, nhưng thực sự vẫn giữ lại một phần nhỏ. Thế là hai ông bà đã bị thánh Phêrô kết án nặng nề như sau:
- Để Satan xâm chiếm lòng mình, - Lừa dối Chúa Thánh Thần, hậu quả là bị chết đau đớn.
3. Chuyện trên đây là một bài học cho tôi và cho các môn đệ Chúa trong tình hình hiện nay.
+ Nói không đúng sự thực, mà lại cho là chuyện bình thường. + Nói dối, để tìm lợi cho cộng đoàn đức tin, mà tưởng đó là việc lành. + Nói có hại cho người khác mà vẫn an tâm.
4. Đức Mẹ cho tôi thấy hình ảnh vợ chồng Khanania đang xuất hiện đó đây, ngay tại Hội Thánh Việt Nam lúc này.
5. Xin Mẹ thương cứu chúng ta.
Long Xuyên, ngày 19.9.2021
-----------------
Bùi-Tuần 2384: ĐỨC MẸ KHUYÊN TÔI HÃY THEO GƯƠNG THÁNH GIUSE LUÔN PHẤN ĐẤU VỚI CHÍNH MÌNH
+ GB. Bùi Tuần
Mấy ngày này, tình hình diễn biến rất phức tạp, về mọi mặt, trong đạo cũng như ngoài đời. Tôi Bùi-Tuần 2384
1. Mấy ngày này, tình hình diễn biến rất phức tạp, về mọi mặt, trong đạo cũng như ngoài đời.
Tôi như nản lòng. Tôi nghe có người quá nản, đã tự tử.
2. Tôi cầu nguyện với Đức Mẹ. Thì Đức Mẹ dạy tôi: “Chính lúc này, con cần phấn đấu. Gương phấn đấu là thánh Giuse.”
3. Nghe Đức Mẹ dạy, tôi hiểu sống đạo lúc này là phải phấn đấu. Tình hình càng khó khăn, càng nhiều thử thách, thì các con của Đức Mẹ càng phải phấn đấu.
4. Nhận thức điều Đức Mẹ dạy, tôi coi phấn đấu là một việc tôi nên chọn lúc này. Tôi thấy nhiều người con của Mẹ xung quanh tôi cũng đang vâng lời Mẹ, mà phấn đấu.
5. Xưa, thánh Giuse đã suốt đời phấn đấu với chính mình.
+ Ngài phấn đấu bằng khiêm tốn. + Ngài bỏ đi mọi tính toán theo sự khôn ngoan thế gian. Ngài coi sự vâng phục thánh ý Chúa là cần thiết tuyệt đối. Ngài vâng phục mau lẹ, kiên trì. + Ngài phấn đấu bằng phục vụ lặng thầm. + Ngài phấn đấu bằng lắng nghe những báo mộng của Chúa. + Ngài phấn đấu bằng phó thác cuộc sống mình và cái chết của mình trong tay Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
6. Nay, nhiều người kính thánh Giuse cũng đang phấn đấu với chính mình như vậy.
Tình hình càng khó khăn, phức tạp, họ càng coi việc phấn đấu với chính mình là khẩn thiết.
7. Tu đức nơi họ đặt nặng việc phấn đấu với chính mình, chứ không phải là phấn đấu với xã hội, chống lại xã hội.
8. Hơn nữa, họ coi việc họ lo tu đức phấn đấu với chính mình sẽ có lợi cho chính xã hội.
9. Riêng tôi, tôi thấy phấn đấu với chính mình là việc rất khó. Mặc dầu đã hết sức cố gắng, tôi vẫn thấy mình luôn phải bắt đầu lại. Ngày nào, giờ nào, phút nào, tôi cũng cần Mẹ giúp cho những phấn đấu mới.
10. Rất mừng là Đức Mẹ đã và đang giúp tôi bằng nhiều cách. Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua các thành phần trong Hội Thánh.
11. Phấn đấu với chính mình, đó là hành trình cuộc sống của tôi. Phấn đấu mà vui. Phấn đấu mà hy vọng.
12. Tới đây, tôi thấy rõ: Phấn đấu theo gương thánh Giuse là một tu đức rất cần cho các môn đệ Chúa tại Việt Nam lúc này.
13. Nhờ tu đức đó, chúng ta sẽ mang lại cho nhau những yêu thương, những liên đới ngọt ngào, những đỡ nâng đầy an ủi.
14. Phấn đấu với chính mình đang trở thành nguồn sống cho Hội Thánh tại Việt Nam, cho dù tình hình lúc này là rất phức tạp.
Long Xuyên, ngày 22.9.2021
-------------------------
Bùi-Tuần 2385: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI ĐƯỢC THUỘC VỀ CHÚA
+ GB. Bùi Tuần
Niềm vui lớn nhất của tôi lúc này là được Đức Mẹ giúp tôi thuộc trọn về Chúa. 2. Tôi thuộc về Bùi-Tuần 2385
1. Niềm vui lớn nhất của tôi lúc này là được Đức Mẹ giúp tôi thuộc trọn về Chúa.
2. Tôi thuộc về Chúa, do lòng thương xót Chúa, cho dù tôi tội lỗi, muôn vàn bất xứng.
3. Tôi thuộc về Chúa, do Đức Mẹ cầu bầu, cho dù tôi là kẻ có tội hơn mọi người khác.
4. Đối với tôi, được thuộc về Chúa là được Chúa nhận tôi làm con của Chúa, được quyền gọi Chúa là Cha.
5. Đối với tôi, được thuộc về Chúa là được Chúa nhận là môn đệ, là tông đồ của Chúa Giêsu.
6. Đối với tôi, được thuộc về Chúa là được Chúa sai đến với những kẻ khốn cùng, để chia sẻ Tin Mừng lòng thương xót Chúa cho họ.
7. Tôi thuộc về Chúa, nên lòng tôi nhẹ nhàng, thanh thản. Tôi trở nên bé nhỏ, tuyệt đối tin vào Chúa.
8. Tuy nhiên, Đức Mẹ dạy tôi luôn phải tỉnh thức và cầu nguyện, nhất là phải phấn đấu với chính mình. Bởi vì tôi càng thuộc về Chúa, thì Satan càng ra sức tấn công tôi, để tôi trở nên con người bị chối từ.
9. Xưa, Chúa Giêsu bị treo trên thánh giá, là do nội bộ những người có đạo đã từ chối Ngài.
10. Cảnh đau thương đó vẫn tái diễn trong lịch sử dưới nhiều hình thức cho đến bây giờ.
11. Bị chối từ, ngay trong chính nội bộ những người xưng mình thuộc về Chúa. Đó là nỗi đau lớn, đó là những tổn thương sâu đậm, nhiều người đã gặp. Tôi cũng đã gặp.
12. Riêng tôi, tôi được Đức Mẹ dạy là hãy sống cảnh đau xót đó như một thánh lễ. Tôi trở thành của lễ, kết hợp với của lễ Chúa Giêsu dâng trên thánh giá xưa.
13. Sống thân phận kẻ bị chối từ, nhưng không vì thế, mà khóa chặt lòng mình. Lòng họ vẫn rộng mở, theo gương trái tim Chúa.
14. Bị chối từ, nhưng không từ chối.
15. Hãy coi đây là một ơn huệ Chúa ban. Ơn này mới chỉ là khởi đầu cho nhiều ơn khác, mà Chúa dành cho những người con của Đức Mẹ.
16. Tôi thuộc về Chúa, nên tôi luôn sống trong tâm tình cảm tạ Chúa.
Tôi hay cùng với Đức Mẹ dâng lên Chúa lời kinh Magnificat “Linh hồn tôi tung hô Chúa”.
Long Xuyên, ngày 24.9.2021
---------------------------
Bùi-Tuần 2386: ĐỨC MẸ DẠY TÔI HÃY LO CỨU MÌNH CHO KHỎI TỘI LỖI
+ GB. Bùi Tuần
Sáng nay, Chúa Giêsu đến gặp tôi. Chúa hỏi: Con muốn Cha làm gì cho con? Tôi nhìn Đức Mẹ Bùi-Tuần 2386
1. Sáng nay, Chúa Giêsu đến gặp tôi. Chúa hỏi: Con muốn Cha làm gì cho con? Tôi nhìn Đức Mẹ, thì Đức Mẹ gợi ý cho tôi là: Hãy xin Chúa cứu con khỏi tội lỗi trong con.
2. Trong giây lát, tôi nhìn thấy tôi là kẻ tội lỗi, và Đấng cứu tôi khỏi tội là Chúa.
Nhận thức đó mở đầu cho cuộc gặp gỡ giữa Chúa và tôi.
3. Cuộc gặp gỡ càng sâu, tôi càng nhận rõ hơn điều mà Chúa muốn nơi các môn đệ Chúa lúc này, đó là hãy chống tội lỗi trong chính bản thân mình. Nhờ vậy mà Hội Thánh, Tổ quốc, đồng bào sẽ được cứu.
4. Chống tội lỗi trong chính bản thân mình sẽ khởi đi từ sám hối.
5. Lúc này hơn bao giờ hết, mọi tín hữu đều coi sám hối là việc Chúa mời gọi tha thiết nhất.
6. Lúc này, các mục tử khắp nơi đều nhấn mạnh đến sám hối. Sám hối trong phụng vụ. Sám hối trong tu đức. Sám hối trong truyền giáo.
7. Chính các mục tử đang nêu gương sáng về sám hối trong cuộc sống của mình.
8. Gương sáng về sám hối không đặt nặng hình thức, mà quan tâm nhiều đến tâm tình bên trong. Thí dụ quan tâm lo an ủi, đỡ nâng những đối tượng gặp cảnh cô đơn, bị xã hội từ chối. Nhất là họ dám chịu đau khổ thay cho những người khác.
9. Họ đau cái đau của người khác. Họ chia sẻ nỗi đau của người khác.
Họ bén nhạy trước cảnh đau khổ của người khác, nên đi bước trước trên đường liên đới.
10. Sám hối, đền tội mình bằng những việc bác ái, đó là cách lo cứu mình cho khỏi tội.
11. Nhờ vậy, họ sẽ được Chúa cứu cho khỏi hỏa ngục.
12. Cứu cho khỏi hỏa ngục, đó là điều Chúa nhấn mạnh trong Phúc Âm, và nhất là lúc này.
13. Tới đây, tôi sức nhớ đến lời kinh Đức Mẹ dạy ở Fatima.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con. Xin gìn giữ chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem hết thảy các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa hơn.
14. Cứu cho khỏi tội lỗi, Cứu cho khỏi hỏa ngục. Đó là những gì cần thiết, mà lúc này Đức Mẹ đang nhắc cho chúng ta.
15. Như vậy, sám hối thực tình luôn gắn liền với cầu nguyện khiêm nhường. Thế rồi, đơn sơ phó thác.
Long Xuyên, ngày 26.9.2021
----------------------
Bùi-Tuần 2387: CHIA SẺ VỀ NẾP SỐNG CỦA MỘT NGƯỜI CAO TUỔI
+ GB. Bùi Tuần
Ngày 01 tháng 10 hằng năm được dành cho người cao tuổi. Năm nay, tôi 97 tuổi. Nhiều người hỏi Bùi-Tuần 2387
1. Ngày 01 tháng 10 hằng năm được dành cho người cao tuổi.
Năm nay, tôi 97 tuổi. Nhiều người hỏi tôi về nếp sống của tôi.
Với lòng biết ơn, tôi xin chia sẻ nếp sống của tôi. Đơn giản là thế này: Tôi luôn vui học những gương sáng gần xa. Ở đây, tôi chỉ xin được nêu lên vài loại gương sáng.
2. Loại gương sáng thứ nhất là những người sống bé mọn.
Chúa kêu gọi hãy trở nên như trẻ nhỏ và những kẻ hèn mọn. (Mt 19; Lc 10)
Gương sáng về sự trở nên bé nhỏ, đã lôi kéo tôi là thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, và chị Magdeleine de Jésus dòng tiểu muội ở Rôma.
3. Loại gương sáng thứ hai là những người sống thân mật với Chúa Giêsu, như cành nho với cây nho. (Ga 15,6)
Gương sáng về cách sống đó, mà tôi đã gặp là Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Và Đức Bênêđictô XVI.
4. Loại gương sáng thứ ba là những người bị nhục mạ, mà vẫn tha thứ, như Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha cho những kẻ giết Người. (Lc 23,34)
Gương sáng về tha thứ mà tôi đã gặp là Đức Tổng Phaolô Nguyễn Văn Bình và Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận.
5. Loại gương sáng thứ tư là những người vâng phục thánh ý Chúa.
Phúc Âm luôn đề cao sự vâng phục thánh ý Chúa, coi đó là căn bản của đạo đức.
Gương sáng về vâng phục thánh ý Chúa, mà tôi đã học được rất nhiều, đó là Đức Cố Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Ngài vừa làm gương, vừa khuyên dạy tôi hãy vâng theo thánh ý Chúa, nhất là khi tình hình biến chuyển phức tạp, gây khó khăn cho mục vụ.
6. Trên đây là mấy nét về lối sống của tôi. Tất cả đều dựa trên niềm tin vào Chúa.
7. Tôi tin chính Chúa đi tìm tôi. Chúa tìm tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi.
Chúa tìm tôi, để chữa lành cho tôi, để tha thứ cho tôi, để cứu tôi.
8. Niềm tin đó được Đức Mẹ luôn đào tạo cho tôi. Mẹ luôn ở bên tôi.
Càng cao tuổi, tôi càng cần đến Mẹ.
9. Như vậy, cuộc sống của tôi là một chuyến đi dài. Tôi đi về với Chúa, có nghĩa là tôi luôn hoán cải chính mình, tôi luôn học hỏi những điều tốt nơi những người tốt.
10. Đối với tôi, nhận ra người tốt việc tốt là điều không dễ. Nên nếu tôi có những sai lầm về phân định, thì xin Chúa và mọi người tha thứ cho tôi.
11. Riêng tôi, tôi tin vào Chúa một cách tuyệt đối, tôi cũng tin vào con người với nhiều mức độ.
12. Lối sống tha thiết nhất của tôi lúc này là cầu nguyện. Cầu nguyện của tôi lúc này tập trung vào cảm tạ và tín thác.
Tôi hay cầu nguyện theo kinh “An bình ra đi” (Nunc dimittis): “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an.” (Lc 2,20)
Long Xuyên, ngày 30.9.2021
------------------------------
Bùi-Tuần 2388: CHUỖI TRÀNG HẠT MÂN CÔI GIÚP ĐÓN NHẬN SỰ BÌNH AN CỦA CHÚA
+ GB. Bùi Tuần
Đã từ lâu rồi, nhưng đặc biệt những ngày này, tôi hay cầu nguyện bằng chuỗi tràng hạt mân côi Bùi-Tuần 2388
1. Đã từ lâu rồi, nhưng đặc biệt những ngày này, tôi hay cầu nguyện bằng chuỗi tràng hạt mân côi.
2. Tôi cầu nguyện cho tôi, cho những người thân, cho Tổ quốc của tôi, cho Hội Thánh tại Việt Nam lúc này.
3. Tôi cầu nguyện bằng chuỗi tràng hạt mân côi. Nghĩa là tôi cầu nguyện với Đức Mẹ Mân Côi.
4. Điều mà Đức Mẹ tha thiết dạy tôi, khi cầu nguyện lúc này là hãy khao khát đón nhận sự bình an của Chúa.
5. Được sống trong sự bình an của Chúa là hạnh phúc đích thực. Mà sự bình an của Chúa thì Chúa chỉ ban cho những ai biết khiêm tốn đón nhận.
6. Phúc cho những ai biết đón nhận sự bình an của Chúa. Khốn cho những ai từ chối đón nhận sự bình an của Chúa.
7. Để biết đón nhận sự bình an của Chúa, tôi luôn xin Đức Mẹ dạy dỗ tôi.
Mẹ dạy dỗ tôi bằng cách Mẹ luôn ở bên tôi.
Cuộc sống của tôi là một hành trình, thì suốt hành trình đó, Đức Mẹ luôn đồng hành với tôi.
8. Trong suốt hành trình cuộc sống, tôi được Đức Mẹ dạy điều này, là hãy luôn sống vâng phục thánh ý Chúa.
Thánh ý Chúa thì rất nhiệm mầu. Không ai có quyền đặt chương trình cho Chúa.
9. Riêng tôi, tôi được Đức Mẹ luôn nhắc bảo về thánh ý Chúa, là hãy tin vững vàng Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
10. Khi cầu nguyện bằng lần chuỗi tràng hạt mân côi, tôi hay được Đức Mẹ cho tôi nếm được mùi vị ngọt ngào của Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
11. Từ đó, tôi đón nhận sự bình an của Chúa. Một sự bình an rất nhiệm mầu.
12. Tuy nhiên, sự bình an mà Chúa ban cho tôi, luôn bị Satan quấy phá. Tôi phải tỉnh thức và cầu nguyện, cùng với Đức Mẹ.
13. Rất mừng là có nhiều người thương cầu nguyện cho tôi.
Tôi rất yếu đuối, rất tội lỗi, nhưng không vì thế, mà Hội Thánh ruồng bỏ tôi.
14. Từ nhận thức đó, tôi hay cầu nguyện bằng lần chuỗi mân côi, xin Chúa thương tha thứ tội lỗi cho tôi. Tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu xót.
15. Tôi cũng xin Chúa thương giúp mọi người và từng người vượt qua được những cơn gian nan khốn khó, gặp được sự bình an của Chúa.
16. Sẽ có nhiều bất ngờ trong tương lai, nên tôi tuyệt đối tín thác vào lòng xót thương của Chúa, nhờ Đức Mẹ.
Một cách tín thác mà Đức Mẹ hiện giờ khuyên dạy tôi tha thiết, đó là hãy phục vụ cho sự hiệp nhất trong Hội Thánh, và phục vụ những người đau khổ.
Long Xuyên, ngày 06.10.2021
-------------------------
Bùi-Tuần 2389: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI SỐNG YÊU THƯƠNG LÚC NÀY
+ GB. Bùi Tuần
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi khao khát sống yêu thương, theo lời Chúa Giêsu đã trối lại trong Bùi-Tuần 2389
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi khao khát sống yêu thương, theo lời Chúa Giêsu đã trối lại trong Bữa Tiệc Ly.
“Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con.” (Ga 13,34)
2. Từ lâu rồi, tôi hiểu yêu thương mà Chúa muốn, là hãy chia sẻ những gì mà lòng thương xót Chúa đã dành cho tôi. Đặc biệt ở chỗ Chúa tha thứ tội lỗi cho tôi.
3. Hằng ngày, tôi vẫn tha thiết cầu xin Chúa cho những người thân của tôi biết cảm tạ Chúa vì được Chúa tha thứ tội lỗi cho mình.
4. Đối với tôi, nhận ra mình được Chúa tha thứ tội lỗi, đó là điều căn bản của tu đức.
5. Để được như vậy, thì điều hết sức cần, đó là nhận mình là kẻ có tội.
Thực tế cho thấy: Rất nhiều người trong chúng ta không dễ dàng nhận mình là kẻ có tội. Thường thì chúng ta sống như Chúa Giêsu đã phán xưa: “Cái rác trong mắt người khác thì thấy rõ, còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy.” (Mt 7,3)
6. Hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Bởi vì, chúng ta xét đoán người khác thế nào, thì Chúa cũng sẽ xét đoán chúng ta như thế. (Mt 7,1)
7. Phúc Âm là như vậy. Những lần Đức Mẹ hiện ra đó đây cũng luôn nhắc nhở các con của Mẹ là hãy tránh xa tội lỗi, hãy xin Chúa thứ tha cho khỏi tội lỗi, cho khỏi hỏa ngục.
8. Tội lỗi, hỏa ngục là những gì khủng khiếp hơn ngàn lần các thứ virus hiện giờ.
9. Vì thế, khi vâng lời Đức Mẹ mà sám hối, tôn sùng trái tim Mẹ, lần chuỗi Mân Côi như Đức Mẹ dạy ở Fatima, tôi hiểu đó cũng là những cách để tránh tội và hỏa ngục.
10. Tránh tội lỗi, thoát khỏi hỏa ngục, đó là điều Đức Mẹ đang khơi dậy tại Việt Nam lúc này.
11. Nếu chúng ta coi trọng ý của Đức Mẹ, thì hạnh phúc cho chúng ta và cho những người thân của chúng ta.
12. Tình hình đang diễn biến phức tạp. Chúng ta hãy biết sống yêu thương như Đức Mẹ nhắn nhủ trên đây.
Yêu thương đừng dừng lại ở sự chia sẻ của cải và cuộc sống lúc này, mà cần bước thêm, bước sâu vào đức tin. Đó là giúp nhau được ơn Chúa thứ tha tội lỗi, được tránh khỏi hỏa ngục, được lên thiên đàng.
13. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi hay cầu nguyện theo kinh Đức Mẹ dạy ở Fatima: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những người cần đến lòng thương xót Chúa hơn”. Tôi tin người cần đến lòng thương xót Chúa hơn, chính là tôi, một kẻ yếu đuối, một người tội lỗi.
Long Xuyên, ngày 10.10.2021
----------------------------
Bùi-Tuần 2390: NHỜ ĐỨC MẸ CẦU BẦU, TÔI ĐƯỢC CHÚA THƯƠNG CỨU
+ GB. Bùi Tuần
Phúc Âm thánh Gioan kể lại một chuyện rất hay về Đức Mẹ Maria. Chuyện đó đã và đang ảnh Bùi-Tuần 2390
1. Phúc Âm thánh Gioan kể lại một chuyện rất hay về Đức Mẹ Maria. Chuyện đó đã và đang ảnh hưởng lớn đến cuộc đời của tôi. Chuyện đó đại khái thế này.
2. Tại Cana, có một tiệc cưới. Chủ tiệc mời Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria đến dự. Giữa tiệc, Đức Mẹ thoáng nhìn thấy chủ tiệc bối rối vì hết rượu. Đức Mẹ lập tức xin Chúa Giêsu can thiệp, sao cho chủ tiệc thoát được cảnh tổn thương. Vì nể lời Đức Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước lã trở thành rượu
3. Nay, trong cuộc sống của tôi, Đức Mẹ cũng đã nhiều lần nhận thấy cảnh thiếu thốn của tôi về nhiều lãnh vực, nên Mẹ đã nói với Chúa Giêsu thương cứu tôi.
Nó hết sức khỏe rồi. Nó cạn kiệt niềm tin rồi.
4. Nể lời Đức Mẹ, Chúa Giêsu đã thương cứu tôi. Chúa cứu tôi không do công trạng nào của tôi. Tôi chỉ là con người tội lỗi.
5. Chúa cứu tôi, chỉ do lòng thương xót Chúa mà thôi. Nhờ Mẹ cầu bầu, Chúa đã lấy máu Chúa đổ ra, để rửa sạch tội lỗi của tôi. Chúa đã chịu chết thay cho tôi. Chúa xóa tội của tôi bằng máu Chúa.
6. Cảm nhận trên đây diễn ra trong tôi từ ngày này sang ngày khác, từng giờ phút này sang giờ phút khác.
7. Tôi cảm nhận điều này, đó là Đức Mẹ rất gần gũi với tôi, Đức Mẹ luôn gần gũi với tôi. Mẹ lo cho tôi đủ thứ.
8. Từ những nhu cầu về tinh thần cho đến những nhu cầu về vật chất. Mẹ đều lo cho tôi. Và tôi chẳng bao giờ dám lạm dụng lòng tốt của Mẹ.
9. Được như vậy, là do Chúa thương ban. Niềm vui lớn nhất của tôi là được Chúa thương tha thứ tội lỗi cho tôi.
10. Thực vậy, tôi là kẻ tội lỗi ở dưới vực thẳm hèn mọn. Nhưng Chúa đã và đang cứu tôi. Bởi vì Chúa giàu lòng thương xót. Và bởi vì Đức Mẹ cầu bầu cho tôi.
11. Hằng ngày, tôi vẫn cầm tràng hạt Mân Côi, để cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ. Bé nhỏ và đơn sơ, trong tình Mẹ dắt dìu, trong tình Chúa xót thương.
Và đó là hạnh phúc của tôi.
12. Hạnh phúc nhất của tôi là ở cuộc sống thầm lặng. Một cuộc sống có Chúa, có Đức Mẹ. Một cuộc sống phục vụ cho sám hối, cho yêu thương.
Long Xuyên, ngày 15.10.2021
-------------------------------
Bùi-Tuần 2391: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI ĐI VỀ VỚI CHA TRÊN TRỜI
+ GB. Bùi Tuần
Tình hình đang diễn biến rất phức tạp. Mà tôi thì già yếu, mệt mỏi như muốn tắt thở. Tôi mở Bùi-Tuần 2391
1. Tình hình đang diễn biến rất phức tạp. Mà tôi thì già yếu, mệt mỏi như muốn tắt thở. Tôi mở Phúc Âm, thì gặp ngay đoạn kể lại những phút sau cùng Chúa Giêsu sắp tắt thở trên Thánh giá.
2. Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở”. (Lc 23, 46)
3. Đọc xong, tôi được Đức Mẹ cho biết, khi Chúa Giêsu nói những lời sau hết trên đây, thì có Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá. Đức Mẹ hiểu ý Chúa Giêsu. Nên từ đó Đức Mẹ luôn phó thác mình cho Chúa Cha.
4. Đức Mẹ khuyên tôi cũng hãy bắt chước Mẹ.
5. Được Đức Mẹ giúp, tôi coi những giờ phút hiện giờ tôi đang sống là một cuộc tôi trở về với Thiên Chúa là Cha.
6. Trên đường trở về, động lực mạnh nhất thôi thúc tôi, đó là phó thác.
7. Khi phó thác, tôi được Đức Mẹ dạy tôi là phải hết sức khiêm nhường.
8. Về khiêm nhường, thì Thánh Phêrô quả quyết: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường”.(1Pr 5, 5b)
9. Về khiêm nhường, thì Thánh Phaolô rất rõ ràng, khi Ngài xưng mình là kẻ yếu đuối : “Sự thiện tôi muốn, thì tôi không làm. Sự ác tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7, 12).
10. Riêng tôi, tôi được Đức Mẹ dạy tôi bằng chính cuộc sống của tôi. Cuộc sống của tôi là yếu đuối, là tội lỗi: Nếu tôi được như hôm nay, thì hoàn toàn do lòng Chúa xót thương tha thứ tội lỗi cho tôi.
11. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi thấy Đức Mẹ đang giúp nhiều người trở về với Chúa là Cha.
Sự trở về của họ thực rất lạ lùng, nhất là ở sự họ phó thác mình cho Chúa.
12. Cụ thể là nhiều người đã nhờ chuỗi tràng hạt Mân Côi mà trở về với Chúa.
13. Trong mọi hình thức trở về với Chúa, bao giờ cũng có sám hối và tin tưởng vào lòng thương xót Chúa.
14. Tôi đang trở về với Cha trên trời. Xin anh chị em thương cầu nguyện cho tôi. Tất nhiên, tôi luôn phó thác anh chị em, từng người cho Đức Mẹ.
Long Xuyên, ngày 18.10.2021
-----------------------------
Bùi-Tuần 2392: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI NHÌN VÀO ĐỨC TIN CỦA HỘI THÁNH CHÚA
+ GB. Bùi Tuần
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi thấy đức tin phát triển mạnh mẽ dưới nhiều hình thức tại Hội Thánh Bùi-Tuần 2392
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi thấy đức tin phát triển mạnh mẽ dưới nhiều hình thức tại Hội Thánh trên quê hương Việt Nam yêu dấu của tôi.
Tôi chỉ xin nêu lên một số hình thức phát triển sau đây.
2. Một là số người cầu nguyện nhiều hơn trước.
Do tình hình dịch bệnh, rất nhiều ngời công giáo cầu cứu với Chúa. Họ sống thinh lặng hơn, sống chậm hơn. Họ có giờ nói với Chúa nhiều hơn trước.
3. Hai là số người công giáo làm việc từ thiện nhiều hơn trước.
Lòng họ mở ra, như bắt được tần số ngầm nơi những người đau khổ xung quanh họ. Như vậy, họ biết đau cái đau của người khác. Từ đó, mà họ gần lại nhau, họ chia sẻ một cách thầm lặng.
4. Ba là số người công giáo nghĩ về cõi sau một cách sâu sắc nhiều hơn trước.
Họ cảm thấy rất rõ cuộc đời họ là một chuyến đi về cõi sau. Chết là bước vào cõi sau. Lúc đó, họ sẽ phải đối diện với Chúa. Sẽ lãnh nhận phần thưởng hay hình phạt do cuộc sống của mình ở trần gian.
5. Bốn là số người công giáo trở về với Chúa nhiều hơn trước.
Trước đây họ sống dửng dưng với đức tin. Bây giờ họ sống dấn thân hơn cho đời sống đức tin. Đức tin của họ không có tính cách trình diễn, mà thực chất giữa mình với Chúa mà thôi.
6. Năm là những hình thức loan báo Tin Mừng đột nhiên bùng phát khắp nơi nhiều hơn trước.
Các lễ trực tuyến, các nội san, các nhóm cầu nguyện, các Thánh lễ với quy tụ nhỏ. Tất cả như một sự sống mới lan tỏa khắp nơi.
7. Đức Mẹ cho tôi nhìn thấy đức tin của Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay là rất đang lạc quan.
8. Riêng tôi, tôi đang nhờ đức tin như thế, mà đi về với Chúa.
Thú thực là tôi đang đau nhiều lắm. Nhưng tôi đứng dậy được, tôi bước đi được, tôi tự mình làm vệ sinh cho mình được, tôi viết bài được. Tôi coi tất cả ơn đó là nhờ đức tin của nhiều người tại Hội Thánh Chúa. Họ đang đỡ nâng tôi. Tôi rất cảm ơn họ.
9. Tuy nhiên, Đức Mẹ khuyên tôi và Hội Thánh địa phương hãy nhớ thực hiện lời sau đây của Thánh Phêrô:
“Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sử tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. (1Pr 5, 8)
Đúng là như vậy.
10. Lạy Chúa, xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa, mà ban cho chúng con ơn bình an và hiệp nhất theo Thánh ý Chúa.
Long Xuyên, ngày 22.10.2021
-----------------------------
Bùi-Tuần 2393: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI GẶP ĐƯỢC AN ỦI CỦA CHÚA
+ GB. Bùi Tuần
Thú thực là nhiều lúc, nhất là lúc này, tôi quá khổ đau, như không còn muốn sống. Tôi thành thực Bùi-Tuần 2393
1. Thú thực là nhiều lúc, nhất là lúc này, tôi quá khổ đau, như không còn muốn sống. Tôi thành thực nói tình trạng đó của tôi cho Đức Mẹ.
2. Tôi xác tín sự tôi xin Đức Mẹ an ủi tôi sẽ không làm Đức Mẹ buồn, mà còn ngược lại, Đức Mẹ sẽ vui vì tôi tin Đức Mẹ.
3. Không phải đợi lâu, tôi được Đức mẹ dẫn tôi đến với Chúa Giêsu. Tôi nhìn thấy Chúa Giêsu đi vào phòng tôi.
4. Ngài nói với tôi rõ ràng thế này: “Cha đến với con, để xóa tội cho con. Đúng là con như vực thẳm tội lỗi, như con đã tự nhận. Nay Cha đến với con, là để xóa tội cho con”.
5. Nghe vậy, tôi hết sức vui mừng. Không gì an ủi tôi bằng sự Chúa đến với tôi, để xóa tội cho tôi.
6. Như vậy, Chúa đến với tôi, là để cứu tôi cho khỏi tội lỗi, cho khỏi hình phạt của hỏa ngục, nhờ đó mà sẽ được lên Thiêng Đàng.
7. Sự an ủi đó giúp tôi cho mình lối sống khác xưa. Xưa, tôi cầu nguyện là xin ơn này ơn nọ. Nay, tôi cầu nguyện là chỉ xin ơn biết đón tiếp Chúa. Được đón tiếp Chúa là được đón nhận ơn an ủi do được Chúa xóa tội cho tôi.
8. Khao khát được gặp Chúa như vậy trở thành một thao thức. Thao thức đó giúp tôi sống phó thác mình cho Chúa một cách thường xuyên và mạnh mẽ.
9. Nhờ thao thức đó, tôi cảm nhận rất rõ Chúa đồng hành với tôi trong suốt cuộc đời. Cuộc đời càng phức tạp, thì Chúa càng ở bên tôi. Người ở bên tôi, như người cha giàu lòng thương xót, để ủi an, để dắt dìu, để giải cứu.
10. Nhiều khi tôi không nhận ra Chúa ở bên tôi. Nhưng hoặc sớm hoặc muộn, Đức Mẹ vẫn đánh thức lương tâm tôi, để tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng giờ, từng phút, từng giây của cuộc sống này.
11. Tuy sao, sự an ủi Chúa ban cho tôi không miễn cho tôi những thử thách. Nghĩa là tôi vẫn phải phấn đấu với chính mình, với thế lực, với Satan.
12. Phấn đấu có lúc rất cam go. Nhưng Chúa chưa bao giờ ruồng bỏ tôi. “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”.
13. Đến giờ này, tôi mới hiểu sự an ủi của Chúa dành cho tôi luôn là một ơn trọng đại gắn liền với Thánh Giá để tôi có thể trở thành một của lễ, được kết hợp với của lễ Chúa Giêsu dâng trên Thánh Giá xưa.
14. Nhìn tổng quát những an ủi Chúa đã và đang ban cho tôi, tôi không thể không cảm tạ đặc biệt Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần phối hợp các an ủi Chúa ban cho tôi thành một nguồn sống thiêng liêng, ăn khớp với nhịp sống đức tin của Hội Thánh.
Chúa Thánh Thần nhẹ nhàng an ủi mọi tâm hồn thiện chí, không phân biệt trong công giáo hay ngoài công giáo, đưa họ vào Nước Chúa là Nước tình yêu và ân sủng.
Riêng với tôi, Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời. Xin hết lòng cảm tạ Chúa.
Long Xuyên, ngày 24.10.2021
--------------------------
Bùi-Tuần 2394: ĐỨC MẸ DẠY TÔI HÃY BIẾT ĐÓN NHẬN CHỨ ĐỪNG QUÁ LO CHO ĐI
+ GB. Bùi Tuần
Đã từ lâu rồi, nhưng đặc biệt lúc này, Đức Mẹ dạy tôi điều này: “Hãy luôn coi mình là kẻ cần Bùi-Tuần 2394
1. Đã từ lâu rồi, nhưng đặc biệt lúc này, Đức Mẹ dạy tôi điều này: “Hãy luôn coi mình là kẻ cần đón nhận, chứ đừng chỉ lo cho đi”.
Thực là như vậy.
2. Tôi luôn đón nhận sự tha thứ của Chúa dành cho tôi, cho dù tội tôi rất nhiều.
3. Tôi luôn đón nhận lòng xót thương của Chúa dành cho tôi. Chúa bảo vệ tôi như con ngươi trong mắt Chúa. Chúa cho tôi ẩn mình trong đôi cánh bay của Chúa. Như Thánh vương Đavid đã nói xưa. (Tv 17,8)
4. Khi tôi vâng ý Đức Mẹ, coi mình là kẻ lãnh nhận nhiều hơn là cho đi, thì tôi cảm nhận được hạnh phúc của trẻ thơ. Tôi thấy mình như trẻ thơ, mà Chúa nhiều lần nhắc tới trong Phúc Âm.
5. Hạnh phúc của trẻ thơ là đón nhận tình thương của mẹ, của cha.
Hạnh phúc của tôi đúng là như vậy.
6. Nhưng để trở nên trẻ thơ thiêng liêng, thì phải có ơn Chúa. Ơn làm cho tôi được trở nên trẻ thơ trong đời sống thiêng liêng là một sự hoán cải, một ơn trở về.
7. Nếu không có ơn Chúa giúp, con người tự nhiên thích cho mình là kẻ cho đi nhiều hơn là lãnh nhận. Tự mãn, tự phụ, tự đắc coi đó là dám nói dám làm.
8. Satan cũng theo hướng đó, mà đẩy con người đi xa mãi trên con đường tự mãn.
9. Tự mãn trong đời sống đạo là một nguy cơ lớn. Cá nhân tự mãn, tập thể tự mãn, đó là hiện tượng đang xảy ra. Khi coi đó là chuyện bình thường, thì nguy cơ càng trở nên trầm trọng.
10. Vì thế, lời Đức Mẹ dạy ở Fatima về sám hối, đáng được chúng ta thực hiện lúc này một cách thực tình, kẻo sẽ quá muộn.
11. Tình hình đang diễn biến rất phúc tạp, hãy biết đón nhận nhiều hơn là cho đi.
12. Theo chiều hướng đó, tôi hay cầu nguyện một mình theo bài Thánh ca quen thuộc:
“Giữ gìn con Chúa ơi. Vì Chúa là chốn con tựa nương tháng năm. Trong cánh tay Người hồn con vui sống. Tình yêu Chúa khoan dung bền vững muôn đời.
Hồn con thao thức bên lòng Chúa. Chúa là gia nghiệp duy nhất đời con. Là chén phần phúc con trông mong. Con tiến dâng Người tấm lòng cậy trông.
Hồn con lên tiếng ca tụng Chúa. Chúa là hy vọng nâng đỡ đời con. Là chính cùng đích con trông mong. Nơi cánh tay Người vững một niềm tin.
Dìu con đưa bước trên đường sống. Nép mình bên Người chan chứa niềm vui. Hồn con còn dám trông mong chi. Dâng tiến cuộc đời kết hiệp cùng Cha.” (Ca tình tri ân – Lm Kim Long)
Bùi-Tuần 2395: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI LẮNG NGHE NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT
+ GB. Bùi Tuần
Thời sự từ mấy tháng nay nói nhiều về những người chết. Chết nhiều, chết tức tưởi. 2. Tôi cầu nguyện Bùi-Tuần 2395
1. Thời sự từ mấy tháng nay nói nhiều về những người chết. Chết nhiều, chết tức tưởi.
2. Tôi cầu nguyện cho họ. Và tôi nghĩ đến số phận của tôi. Biết đâu tôi cũng sắp chết như họ.
3. Một lúc không ngờ, tôi nghe Đức Mẹ gọi tôi: “Hãy lắng nghe những người đã chết”.
Tôi lắng nghe nhiều người chết nói với tôi. Trong số đó, có Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II, Đức Hồng y Phanxico Nguyễn Văn Thuận, chị tiểu muội Magdeleine de Jesus, Đức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
4. Tất cả các đấng đó đều nói với tôi đại khái thế này: “Chúng tôi hiện giờ đang rất hạnh phúc. Bởi vì, khi còn sống chúng tôi đã thuộc về Chúa, thuộc về Hội thánh Chúa”.
5. Chính Chúa, mà chúng tôi tôn thờ và gắn bó, khi chúng tôi còn sống trên cõi đời, đón chúng tôi khi chúng tôi bước qua cái chết, để vào cõi sau.
6. Chính Hội thánh, mà chúng tôi sống hiệp nhất, khi chúng tôi còn sống đã đón chúng tôi. Họ rất đông ở trên trời.
7. Tất cả đều khuyên tôi, khi còn sống, hãy hết lòng thuộc về Chúa, và thực tình thuộc về Hội thánh Chúa.
8. Hết lòng thuộc về Chúa, đối với tôi, là một cuộc sống luôn luôn đón chờ Chúa, luôn luôn ở lại trong Chúa, luôn luôn sống mật thiết với Chúa, luôn luôn lắng nghe Chúa.
9. Tôi luôn tin rằng: Chính Chúa đi tìm tôi. Người đi tìm tôi, để xóa tội cho tôi, để chữa lành tôi, để an ủi tôi, để vỗ về tôi là kẻ sợ sệt, yếu đuối và tội lỗi.
10. Những người đã chết khuyên tôi. Để thuộc về Chúa, hãy gắn bó với Hội thánh Chúa.
Phải hiểu Hội thánh Chúa là một thực tại gồm nhiều thành phần, ở trần gian, ở trên thiên đàng, và ở dưới luyện ngục.
11. Riêng tôi, tôi sống hiệp thông với các thành phần Hội thánh Chúa một cách đơn sơ. Tôi hay lặng lẽ gửi đến các thành phần Hội thánh tâm tình của tôi.
Có lúc tôi nói với các thiên thần. Có lúc tôi nói với các Thánh trên trời, có lúc tôi nói với các linh hồn dưới luyện ngục.
12. Tôi gửi đi, và tôi đã nhận được hồi âm.
Hội thánh từ các nơi, trên trời, dưới đất và trong luyện ngục đều lo cho tôi, theo sáng kiến của Chúa Thánh Thần. Tôi cảm nhận rất rõ sức mạnh của cuộc sống hiệp thông.
13. Lắng nghe những người đã chết đó là sự thực đang mang lại cho tôi hạnh phúc.
14. Đời tôi là một chuỗi dài những chia ly với nhũng người thân. Họ đi về cõi sau.
Tôi còn ở lại trần gian.
Nhưng chúng tôi nay thường lại gặp nhau. Họ khuyên tôi hãy biết lo cho những người khổ đau theo gương Chúa Giêsu.
Long Xuyên, ngày 02.11.2021
-------------------------
Bùi-Tuần 2396: ĐỨC MẸ MARIA ĐANG KÊU GỌI CHÚNG TA
`+ GB. Bùi Tuần
Tình hình lúc này là rất bất ổn trong mọi lãnh vực, khắp nơi, một cách khủng khiếp. Người ta phải Bùi-Tuần 2396
1. Tình hình lúc này là rất bất ổn trong mọi lãnh vực, khắp nơi, một cách khủng khiếp.
Người ta phải phấn đấu từng ngày, từng giờ, từng phút để bám lấy bất cứ gì là hy vọng
2. Đối với tôi, hy vọng lớn nhất là Đức Mẹ Maria.
Tôi đã được Chúa trao phó tôi cho Đức Mẹ. Tôi đã được Đức Mẹ nhận là con của Mẹ.
Đã từ nhỏ tới giờ, tôi vẫn sống thân mật gắn bó với Đức Mẹ. Hoàn cảnh càng phức tạp, tôi càng bám vào Đức Mẹ.
3. Đối với tôi, hoàn cảnh hiện giờ là rất phức tạp.
Một đàng do ngoại cảnh.
Một đàng do bản thân tôi, tuổi già, sức yếu.
4. Chính vì vậy, tôi càng bám vào Đức Mẹ. Lúc nào, tôi cũng cảm nhận Đức Mẹ ở bên tôi.
5. Bằng nhiều cách, Đức Mẹ luôn khuyên nhủ tôi hai điều sau đây.
Một là hãy xa tránh tội lỗi.
Hai là hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
6. Xa tránh tội lỗi, thì tôi vẫn quyết tâm. Nhưng trên thực tế, tôi phải thú nhận như thánh Phaolo xưa: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7, 19).
7. Tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, thì tôi vẫn tin tưởng.
Tôi tin Chúa, vì xót thương tôi, nên đã tìm tôi.
Chúa tìm tôi, để xóa tội lỗi cho tôi.
8. Tuy nhiên, được như thế, mà nhiều khi tôi không coi là một ơn vô cùng quý giá. Có lúc tôi vẫn dửng dưng.
9. Thực tế cho thấy tôi rất yếu đuối. Nhưng không vì thế, mà Đức Mẹ ruồng bỏ tôi.
10. Tình thương Mẹ dành cho tôi thực là bao la, bền vững. Mẹ vẫn tiếp tục thương tôi.
Tôi có cảm tưởng là ngày nào tôi cũng được Đức Mẹ đào tạo nên một con người mới.
11. Tôi trở nên bé nhỏ hơn, đơn sơ hơn, phó thác hơn.
Còn Đức Mẹ, thì lo cho tôi đủ thứ, từ nhu cầu lớn đến nhu cầu nhỏ. Mẹ dắt dìu tôi. Mẹ xót thương tôi.
12. Hiện giờ, tôi hướng nhìn lên trái tim Đức Mẹ. Từ trái tim Mẹ, tôi nghe những tiếng kêu gọi tha thiết: “Con ơi, hãy đến ẩn mình trong trái tim Mẹ”.
13. Tôi ẩn náu trong trái tim Mẹ, và tôi được hạnh phúc.
14. Trong trái tim Mẹ, tôi cũng được gặp nhiều tâm hồn ẩn náu trong đó. Họ được Mẹ qui tụ trong đó. Nhiều người không là Công giáo. Đó là điều bất ngờ khiến tôi càng cảm ơn Chúa đã ban Đức Mẹ cho nhân loại.
15. Tới đây, tôi xin nói chỉ một lời để kết thúc. Đó là hãy lắng nghe Đức Mẹ kêu gọi. Thời điểm này là rất nghiêm trọng.
Long Xuyên, ngày 09.11.2021
--------------------------
Bùi-Tuần 2397: ĐỨC MẸ DẠY TÔI: MUỐN LÀ CON YÊU CỦA MẸ, HÃY BIẾT ĐAU CÁI ĐAU CỦA NGƯỜI KHỔ ĐAU
+ GB. Bùi Tuần
Từ lâu rồi, tôi vẫn sống thân mật với Đức Mẹ Maria. Bởi vì tôi được biết chắc chắn: Chúa đã trao Bùi-Tuần 2397
1. Từ lâu rồi, tôi vẫn sống thân mật với Đức Mẹ Maria. Bởi vì tôi được biết chắc chắn: Chúa đã trao tôi cho Đức Mẹ, và Đức Mẹ nhận tôi làm con của Đức Mẹ.
Bất cứ việc gì tôi biết là cách để mình thuộc về Đức Mẹ, thì tôi vui vẻ lắm.
Tôi được an tâm.
2. Nhưng từ ít tháng nay, nhất là lúc này, sự an tâm của tôi về đời sống thân mật với Đức Mẹ được Đức Mẹ đánh thức.
3. Bằng nhiều cách, Đức Mẹ đánh thức tôi. Hãy để ý đến một nhu cầu cấp bách cho thời điểm này, đó là hãy thực sự biết đau cái đau của người khổ đau.
4. Mẹ đánh thức tôi thế này: Tôi đang đau nhiều lắm. Phần xác đau, phần hồn đau. Tôi mong được cứu. Chính trong tình trạng thê thảm đó, tôi được những tấm lòng tốt đến với tôi.
Họ cho tôi những gì họ có. Của họ cho không nhiều. Nhưng quý hóa là cách họ cho tôi.
5. Tôi nhận ra ngay, họ không là những người vô cảm, mà là những người đồng cảm. Họ đau cái đau của tôi một cách sâu sắc. Họ an ủi tôi bằng những gì là cụ thể và quảng đại.
6. Tôi được an ủi. Từ sự an ủi đó, Đức Mẹ dạy tôi: “Những gì con đã nhận lãnh, thì con cũng hãy cho đi như vậy”.
7. Trong một thoáng nhìn, tôi thấy hiện giờ, những người đau khổ là rất đông. Mẹ muốn tôi hãy cùng với Mẹ mà cứu họ.
Hãy cứu họ bằng những gì là cụ thể và quảng đại.
8. Tôi còn rất nhớ lời Đức Thánh Cha Benedicto XVI có lần đã nhấn mạnh: “Lúc này cần thương người, bằng những gì là cụ thể và quảng đại”.
9. Tôi xét mình, thì thấy tôi chưa cụ thể và quảng đại đủ trong cuộc sống liên đới với những người đau khổ xung quanh tôi.
10. Tôi muốn sửa mình. Nhưng tôi biết tự mình tôi không sửa mình được. Nên tôi phó thác sự sửa mình của tôi cho Đức Mẹ.
11. Đức Mẹ đang giúp tôi sửa mình từng giờ, từng phút. Nguy cơ lớn nhất cản ngăn việc Mẹ đang làm nơi tôi, đó là sự tự mãn hay lẻn vào trong tôi, những lúc tôi không ngờ.
12. Vì thế, lúc này hơn bao giờ hết, tôi thấy tôi phải luôn vâng lời Chúa, mà “tỉnh thức và cầu nguyện”.
13. Khi nào, tôi còn thấy mình biết đau cái đau của người khổ đau, đó là dấu hiệu sức khỏe tâm hồn tôi tốt.
Nếu không, thì đó là dấu hiệu báo nguy.
Xin Mẹ thương cứu giúp con.
Long Xuyên, ngày 11.11.2021
---------------------------
Bùi-Tuần 2398: ĐỨC MẸ CHỮA LÀNH
- GB. Bùi Tuần
Tôi vẫn nhìn Đức Mẹ là người Mẹ chữa lành. Mẹ chữa lành cả phần xác lẫn phần hồn. Riêng lúc Bùi-Tuần 2398
1. Tôi vẫn nhìn Đức Mẹ là người Mẹ chữa lành. Mẹ chữa lành cả phần xác lẫn phần hồn.
Riêng lúc này, Đức Mẹ đang chữa lành đặc biệt trong lãnh vực thiêng liêng trên đất nước Việt Nam yếu dấu của tôi.
Tôi thấy thế này.
2. Lúc này, đồng bào của tôi cầu nguyện một cách hồn nhiên, bằng nhiều hình thức, trong gia đình và tại các nơi công cộng.
3. Lúc này, hầu hết đồng bào của tôi tin một cách công khai: Có Đấng thiêng liêng xét xử. Ai làm điều thiện thì sẽ được thưởng. Ai làm điều ác sẽ bị phạt. Thưởng phạt sẽ rất công minh, không cách này thì cách khác.
4. Lúc này, đồng bào của tôi rất coi trọng những tấm lòng: Không câu nệ hình thức, mà rất trọng những gì là yêu thương thực nhất.
5. Lãnh vực thiêng liêng đang được thanh luyện tại Đất nước Việt Nam của tôi.
Nhờ vậy, mà cuộc sống giữa các khác biệt trở nên bao dung hơn. Bao dung tạo nên gần gũi, thân thương.
6. Tuy nhiên, chữa lành trong lãnh vực thiêng liêng sẽ không luôn dễ dàng. Phải tỉnh thức và phải phấn đấu không ngừng.
7. Riêng tôi, tôi tỉnh thức và phấn đấu nhờ Đức Mẹ và tràng hạt Mân côi.
8. Ngay từ nhỏ, tôi đã được mẹ thân sinh của tôi dẫn tôi vào cuộc sống gắn bó với Đức Mẹ và tràng hạt Mân côi.
Cuộc sống đó đã trở thành mái ấm cho tôi suốt mọi ngày trong đời sống của tôi.
9. Đức Mẹ và tràng hạt Mân côi càng là nguồn an ủi lớn lao cho tôi trong những thời khủng hoảng.
10.
Nhờ Mẹ và tràng hạt Mân côi, tôi cảm nhận một sự nhẹ nhàng giữa dòng đời phức tạp, rất nguy hiểm.
11. Nhờ Mẹ và tràng hạt Mân côi, tôi cảm nhận một niềm vui lạ lùng ngay trong đời sống đức tin lúc này bị chao đảo.
12. Nhờ Mẹ và tràng hạt Mân côi, tôi cảm nhận một sự an tâm ngọt ngào trong cuộc sống mong manh giữa sự sống và cái chết lúc này.
13. Nhờ Mẹ và tràng hạt Mân côi mà tôi cảm nhận một sự hiệp thông sâu sắc với giáo phận của tôi có nhiều khác biệt
14. Đức Mẹ và tràng hạt Mân côi đang chữa lành tôi và nhiều người cả phần xác lẫn phần hồn, đó là sự thực, một sự thực đầy an ủi, chứa chan hy vọng, nhất là trong tình hình hiện nay.
Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót.
Long Xuyên, ngày 12.9.2021
-----------------
Bùi-Tuần 2399: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI ĐÓN NHẬN SỰ BÌNH AN CỦA CHÚA
+ GB. Bùi Tuần
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi khao khát được bình an. 2. Trên thực tế, ngay từ lúc vừa thức dậy Bùi-Tuần 2399
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi khao khát được bình an.
2. Trên thực tế, ngay từ lúc vừa thức dậy, tôi dã bắt đầu đón nhận sự bình an đến từ Đức Mẹ.
3. Đức Mẹ giúp tôi nâng tâm hồn lên với Chúa. Tôi được Chúa âu yếm đoái nhìn. Cái nhìn của Chúa như một luồng sáng, tràn vào hồn tôi, tình yêu cứu độ của Chúa.
4. Tôi cảm nhận rất rõ: Chúa là Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Tôi thấy mình rất cần được cứu. Nhiều người cứu tôi. Nhưng Chúa mới là Đấng cứu độ, vừa có quyền năng, vừa có lòng thương xót.
5. Cảm nhận đó khiến tôi phó thác toàn thể con người của tôi và tất cả cuộc sống của tôi cho Chúa.
6. Sự phó thác mình tôi cho Chúa trở thành một cuộc sống chìm sâu trong tình thương của Chúa.
7. Lúc nào tôi cũng gặp gỡ Chúa. Lúc nào tôi cũng tìm Chúa. Lúc nào tôi cũng thuộc về Chúa.
8. Tôi ở lại trong Chúa. Tôi gắn chặt tôi vào Chúa, như cành nho gắn chặt vào thân cây nho.
9. Vâng như vậy, tôi được bình an. Sự bình an đó rất lạ lùng.
10. Tôi không tránh được những cơn đau. Tôi vẫn phải phấn đấu. Nhưng tôi vẫn được bình an.
11. Nhiều lúc tôi rất mệt mỏi. Tôi có thể nghỉ ngơi cách này cách khác. Nhưng sau cùng, tôi thấy được nghỉ ngơi trong Chúa vẫn là một hạnh phúc tuyệt vời, đem lại bình an sâu sắc.
12. Tới đây, tôi sực nhớ lại lời chào chúc mà Chúa Giêsu gửi cho các muôn đệ của Ngài sau khi sống lại. Bao giờ hiện ra, Chúa cũng chào chúc: “Bình an cho các con”.
13. Chúa Giêsu nay vẫn hay chào chúc tôi như vậy, những khi tôi nói chuyện với Chúa về hoàn cảnh của tôi. Lời chúc bình an của Chúa có sức thiêng lạ lùng, đem lại cho tôi những chữa lành sâu sắc trong tâm hồn tôi.
14. Vì thế, điều quan trọng đối với tôi trong cuộc sống hiện nay, chính là sự gặp gỡ Chúa.
15. Ngay những khi cử hành Thánh Lễ, tôi phải coi sự gặp gỡ Chúa là cốt yếu, chứ không phải là lo nghi thức.
16. Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã nhiều lần nhắc cho tôi điều quan trọng đó.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nêu gương đó cho tôi.
17. Hiện giờ, phong trào tổ chức Thánh Lễ trực tuyến tại nhiều nơi đang bùng phát, nguy cơ nặng về trình diễn, không đem lại sự bình an đích thực cho các tâm hồn.
Nhận thức đó là hữu ích, cái gì tốt thì giữ lại. Cái gì không tốt thì bỏ.
18. Điều Đức Mẹ hay nhắc nhở tôi về sự bình an, là hãy luôn sống theo thánh ý Chúa, xa tránh tội lỗi và chân thành sám hối.
19. Sự bình an của Chúa là một ơn cao quí, chỉ Chúa mới ban tặng được cho chúng ta.
Long Xuyên, ngày 15.11.2021
------------------------------
Bùi-Tuần 2400: ĐỨC MẸ GIÚP TÔI ĐÓN NHẬN SỰ AN ỦI CỨU ĐỘ
+ GB. Bùi Tuần
Nếu tôi biết được tôi sắp phải chết một cách bất ngờ, thì tự nhiên tôi khát khao được an ủi Bùi-Tuần 2400
1. Nếu tôi biết được tôi sắp phải chết một cách bất ngờ, thì tự nhiên tôi khát khao được an ủi.
2. Tôi cầu mong được an ủi. Tôi đợi chờ những ủi an từ người gần đến người xa.
3. Khi được an ủi, tôi rất mừng. An ủi đó giúp tôi ra đi trong bình an.
4. Tôi coi đó là những an ủi cứu độ.
Trong những trường hợp như thế, tôi mới cảm nhận thật thấm thía vai trò của an ủi trong cuộc sống, nhất là khi gặp cảnh gian nan khốn khó.
5. Xưa, trước giờ bước vào cuộc thương khó, Chúa Giêsu trong vườn cây Dầu, đã đi tìm an ủi nơi các muôn đệ của Ngài.
Nay, trước giờ phải chết, nếu tôi đi tìm an ủi nơi những người thân, thì tôi cũng làm theo Chúa Giêsu.
6. Từ kinh nghiệm bản thân đó, tôi rất thông cảm với bất cứ ai đi tìm an ủi khi gặp gian nan khốn khó.
7. Hơn nữa, từ những kinh nghiệm bản thân đó, tôi rất được an ủi, khi được Đức Mẹ nhắn nhủ tôi lời này: “Con ơi, bất cứ cần an ủi nào, bất cứ lúc nào, con hãy cứ gọi Mẹ”.
8. Tôi đã làm như Đức Mẹ dạy. Tôi hay gọi Mẹ. Tôi gọi Mẹ bất cứ lúc nào. Tôi gọi Mẹ bất cứ tôi cần gì.
Đức Mẹ luôn chứng tỏ Mẹ hiện diện bên cạnh tôi, rất gần, rất âu yếm.
9. Nay thì tôi cảm nhận được hình ảnh của Đức Mẹ đối với tôi là tuyệt vời.
10. Tất cả những lời mà Hội Thánh, từ xưa đến giờ, nói về Đức Mẹ, đều rất đúng. Hơn nữa, đối với riêng tôi, tôi cho là tất cả những lời đó về Mẹ vẫn chưa đủ.
11. Mẹ là Mẹ hơn mọi người mẹ. Mẹ an ủi tôi hơn bất cứ ai.
12. Tôi cầu mong nhiều người cũng được Mẹ an ủi, như tôi đã được và đang được.
13. Theo tôi, thời điểm này, ai cũng rất cần sự an ủi. Nhiều người đã biết đón nhận sự an ủi, và đã biết cho đi sự an ủi.
14. Tới đây, tự nhiên tôi nhớ tới bài thánh ca quen thuộc sau đây:
“Lạy Mẹ xin yên ủi chúng con luôn luôn. Mẹ từ bi xin phá những nỗi u buồn. Vì đời con gieo rắc biết bao đau thương. Và tràn lan gai góc vướng trên con đường.
Ớ Mẹ rất nhân từ Mẹ quên sao được hôm xưa. Lời mẹ hứa khi ở trên núi kia. Lúc mà Chúa sinh thì Mẹ đứng âu sầu lặng yên. Là Mẹ chúng con Mẹ xin lĩnh quyền.
Đến giờ chết xin Mẹ ngự đến bên giường khyên con. Và ban xuống cho chúng con những ơn. Ước gì chúng con được hầu sát ngay cạnh Mẹ liên. Từ nay hết lo lắng hết chán phiền.” (Nguyễn Khắc Xuyên).
15. Tôi nghĩ Đức Mẹ sẽ rất hài lòng, khi nghe ta cầu nguyện với Mẹ trong tâm tình như thế.