Mấy ngày hôm nay, khi nghe tin về đại lễ kỷ niệm sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở La Vang, tôi thấy Bùi-Tuần 2301
Mấy ngày hôm nay, khi nghe tin về đại lễ kỷ niệm sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở La Vang, tôi thấy con số người tham dự được loan đi là rất khác nhau. Người thì nói 30.000, người thì nói 60.000, có người lại nói hơn 100.000 người. Trước sự khác nhau về con số, tôi có cảm tưởng là thời nay người ta đánh giá các sự kiện theo con số. Và đúng như vậy, đánh giá con người, đánh giá cộng đoàn, đánh giá sự kiện theo con số, đó là thói quen được phổ biến hiện nay ngoài đời, trong đạo.
Đánh giá như vậy có đúng không? Tôi nghĩ, ít là về phương diện Phúc Âm, đánh giá theo con số là không đúng. Chúng ta đọc Phúc Âm thì thấy, Đức Kitô ít khi nhắm vào đám đông để mà đánh giá, nhưng Ngài để ý đến phẩm chất của từng người, của từng cuộc lễ, của từng cộng đoàn. Có lần Đức Kitô đã nói: “Không phải mọi người nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những ai sống tuân phục thánh ý Chúa”. Có nghĩa là, số người có đạo biết Chúa, cầu nguyện với Chúa là rất đông, nhưng mà Chúa chỉ chọn những người có phẩm chất để cho lên thiên đàng, tức là những người sống tuân phục theo thánh ý Chúa.
Rồi có lần Đức Kitô cũng đưa ra một thí dụ về cộng đoàn: Mười người trinh nữ họ được tiếng là giữ mình đồng trinh tốt lắm, nhưng mà chỉ có năm người trinh nữ trong số họ được chọn lên thiên đàng, bởi vì những người đó có phẩm chất luôn tỉnh thức, sẵn sàng. Rồi có một lần khác, khi Đức Kitô quan sát những người cho tiền vào nhà thờ, Ngài chỉ khen có một bà goá, bởi vì Đức Kitô nói bà ấy đã cho tất cả những gì bà có, đang khi những người khác chỉ cho những cái dư thừa của mình. Chúa không đánh giá người đó cho nhiều tiền, làm nhiều việc, mà Chúa đánh giá cái phẩm chất của người cho, phẩm chất của việc cho.
Một câu Đức Kitô nói rất rõ về vấn đề Đức Kitô đánh giá, đó là: Kẻ gọi thì nhiều kẻ chọn thì ít. Có nghĩa là, được gọi rất đông, chịu phép rửa tội rất đông, đi lễ nhà thờ rất đông, nhưng mà Chúa chọn một số người, chứ không phải tất cả đại trà sẽ được chọn. Chúa chọn những người có phẩm chất. Nhận thức được điều đó, tôi không bao giờ đánh giá một họ đạo, một cộng đoàn theo số đông vì họ có nhiều người đi lễ, vì họ có nhiều việc xã hội. Tôi càng không bao giờ đánh giá một cá nhân theo con số, vì người đó có nhiều năm phục vụ, có nhiều công trình thực hiện. Tôi đánh giá theo Đức Kitô là phẩm chất.
Khi mang ý thức như vậy, đến họ đạo An Dũng này, tôi nhìn họ đạo của anh chị em là một họ đạo bé nhỏ, ít người. Có thể nói là không phát triển về con số, bởi vì tôi biết nhiều gia đình đã bỏ họ đạo đi làm ăn nơi khác, cũng vì lý do chính đáng thôi. Tôi để ý đánh giá họ đạo nói chung, và cá nhân các gia đình nói riêng theo phẩm chất. Tôi nghĩ rằng, mặc dù anh chị em còn một số ít người ở lại, nhưng mà cố gắng phát triển về phẩm chất, từ phẩm chất công bằng, đến phẩm chất văn hoá, đến phẩm chất Tin Mừng. Tuy kết quả chưa được là bao, nhưng những cố gắng là đáng kể. Tôi vui mừng tạ ơn Chúa vì những phát triển về phẩm chất đó.
Tiện đây, tôi cũng xin nói một quan điểm của tôi. Hiện nay Hội Thánh đang có chiều hướng đi về những cộng đoàn nhỏ, đang để ý nhiều đến những con đường nhỏ, đang quan tâm đến những dự án nhỏ. Chính những bông hoa nhỏ, chính những ngọn đèn nhỏ, chính những cộng đoàn nhỏ sẽ là những yếu tố làm sống lại Hội Thánh, sẽ là những yếu tố đổi mới xã hội, nhất là trong một xã hội đang tục hoá và đang muốn đẩy Hội Thánh ra ngoài lề. Với phẩm chất cao, những bông hoa nhỏ, những tấm men nhỏ, những ngọn đèn nhỏ, những con đường nhỏ sẽ dễ đi vào xã hội, sẽ dễ đem Tin Mừng vào tất cả các lãnh vực cuộc sống. Điều này là rất đúng. Và chính kinh nghiệm của tôi đã giúp cho tôi xác tín về điều này. Tôi rất quý những họ đạo nhỏ, bởi vì trong phạm vi nhỏ người ta rất dễ phát triển Tin Mừng, và dễ tạo nên những cộng đoàn nhỏ, những bông hoa nhỏ, những ngọn đèn nhỏ, những tấm men nhỏ đầy chất lượng.
Tôi đã dự rất nhiều những buổi họp của những nhóm nhỏ ở ngoại quốc, cũng như tại Việt Nam, và tôi thấy rằng Chúa Thánh Linh hiện nay đang nhấn mạnh đến những nhóm nhỏ đó, và muốn dùng những họ đạo nhỏ đó, để khơi dậy trong Hội Thánh những lễ Hiện Xuống mới.
Xin anh chị em hãy bằng lòng với số phận anh chị em, và biết khai thác hoàn cảnh của họ đạo. Anh chị em tăng cường nhiều hơn đến việc những nhóm nhỏ học hỏi Kinh Thánh, để ý nhiều hơn đến những nhóm nhỏ chầu Mình Thánh, để ý nhiều hơn đến việc thánh hoá mình bằng những việc nho nhỏ trong đời sống thường ngày. Chúng ta không nên thánh qua những qui tụ lớn, mà chúng ta nên thánh trong giây phút hiện tại. Nghĩa là ngay từ bây giờ, ngay trong lúc này, chúng ta có thể nên thánh do sự chúng ta biết lợi dụng ơn Chúa ban cho. Nhỏ thôi, âm thầm thôi, khiêm tốn thôi, nhưng mà chính cái đó làm cho chúng ta nên giống Đức Mẹ. Đức Mẹ đâu có làm cái gì rầm rộ bên ngoài. Chỉ là một người mẹ âm thầm. Chỉ là một người phụ nữ đảm đang. Chỉ là một người cộng tác với Đức Kitô trên con đường thánh giá, không khoe khoang, không bao giờ phô trương, không nói về mình. Chỉ là sống giây phút hiện tại một cách phong phú, nhất làm cái gì cũng hướng về Cha, đi đâu cũng nhớ về Cha, luôn luôn tuân phục thánh ý Cha, sống trọn vẹn ân huệ người con của Cha trên trời. Đơn sơ có thế thôi. Nhưng mà, chính nhờ đó Chúa đã dùng Đức Mẹ để chuyển ơn xuống cho nhân loại. Chúng ta cần phải theo gương Đức Mẹ để trở thành những người chuyển ơn thánh Chúa. Chúa không cần những người thông thái, những người khôn ngoan theo kiểu thế gian để mà chuyển ơn thánh, nhưng mà Chúa cần có những người như Đức Mẹ, tuân phục thánh ý Chúa, xin vâng trong mọi giây phút, luôn hướng về Cha, luôn trở về với Cha, luôn ca tụng Cha, luôn tuân phục ý Cha để mà chuyển ơn của Chúa xuống thế gian, xuống gia đình, xuống họ đạo.
Xin anh chị em ý thức ơn gọi của những người bé nhỏ, của những cộng đoàn nhỏ, để khai thác ơn đó, sống trọn ơn đó. Và nhờ đó chúng ta thấy số phận của chúng ta cũng là ân huệ Chúa ban. Và khi chúng ta biết dùng nó, nó sẽ trở nên một ân huệ lớn lao cho chính mình, cho cộng đoàn, cho Hội Thánh cho dân tộc. Amen.
Khi tôi đi thăm các họ đạo, tôi thường nhận được nhiều niềm vui. Thí dụ việc vui được đến họ Bùi-Tuần 2302
Khi tôi đi thăm các họ đạo, tôi thường nhận được nhiều niềm vui. Thí dụ việc vui được đến họ đạo có những phát triển mới về tôn giáo, về kinh tế, về văn hoá, về môi trường. Rồi thí dụ niềm vui được thấy họ đạo đã vượt qua được nhiều thử thách, khó khăn để có một nếp sống tốt đời đẹp đạo. Rồi thí dụ niềm vui được thấy họ đạo có những chọn lựa khôn ngoan trong việc huấn luyện đào tạo nhân sự và nếp sống. Trong những niềm vui như vậy, có một niềm vui được tôi coi là lớn nhất, sâu nhất, đó là niềm vui được thấy trong họ đạo có những người quan tâm đến ơn gọi của mình.
Có những nhóm người, có những phong trào, có những đoàn thể ý thức về ơn gọi của nhóm mình, phong trào của mình, đoàn thể của mình. Và cộng đoàn họ đạo cũng rất đi sâu vào ơn gọi cộng đoàn của mình.
Hôm nay, tới giáo xứ An Sơn này, tôi cũng đang nếm được niềm vui đó, bởi vì tôi thấy hai cha ở đây và giáo xứ anh chị em quan tâm nhiều đến ơn gọi người công giáo, coi ơn gọi đó là nền tảng đạo đức, coi ơn gọi đó là động lực cho mọi sáng tạo. Với niềm vui tôi đang có, và cũng để góp phần với anh chị em trong hướng đi sống ơn gọi của mình, tôi muốn nhắn nhủ anh chị em hôm nay một vài nét chính về sự sống ơn gọi người công giáo.
Sống ơn gọi người công giáo là thế nào? Đơn sơ ơn gọi người công giáo là ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô. Bài Phúc Âm hôm nay mở đầu bằng một lời thánh Matthêu viết: “Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ của Người”. Thánh Matthêu tự xưng mình là môn đệ Đức Kitô. Thánh Matthêu coi nhóm tông đồ là môn đệ Đức Kitô. Môn đệ Đức Kitô, đó là ơn gọi người công giáo. Môn đệ Đức Kitô, đó là vinh dự người công giáo. Môn đệ Đức Kitô, đó là sứ mạng người công giáo. Đời sống người môn đệ Đức Kitô là phải thế nào? Thưa, là phải đi theo Đức Kitô. Cũng trong bài Phúc Âm hôm nay, thánh Phêrô nói với Chúa Giêsu: “Chúng con đi theo Thầy”. Và Đức Kitô đã trả lời: “Chúng con đã đi theo Thầy”. Có nghĩa là khi làm môn đệ Đức Kitô thì chủ yếu không phải là giữ luật, không phải là học hành, mà là bước theo Đức Kitô, đi theo Đức Kitô.
Đi theo Đức Kitô là cố gắng cùng với Đức Kitô, theo gương Đức Kitô nhờ Chúa Thánh Thần mà sống ân huệ làm con Thiên Chúa, là sống tuân phục ý Chúa Cha, là luôn luôn cùng với Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, trở về với Chúa là Cha, là luôn luôn cùng với Đức Kitô, trong Đức Kitô luôn nhìn về Cha. Đó là sống môn đệ Đức Kitô, tuân phục ý Chúa Cha, nhìn về Cha, cảm tạ Cha, trở về với Cha.
Khi sống môn đệ Đức Kitô, đi theo Đức Kitô như vậy, thì chúng ta phải từ bỏ rất nhiều. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Phêrô nói rất rõ: “Thưa Thầy khi chúng con đi theo Thầy, thì chúng con đã từ bỏ hết mọi sư”. Thánh Phêrô hiểu đi theo Đức Kitô là phải thực hiện những điều kiện từ bỏ mọi sự. Rồi Đức Kitô trả lời rằng: Đúng như vậy phải từ bỏ. Nhưng thêm vào đó, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự từ bỏ thờ tiền của như là một thần tượng và mục đích của mình. Trong bài Phúc Âm chúng ta nghe Chúa Giêsu nói: “Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”. Có nghĩa là Đức Kitô khuyên các môn đệ của mình phải từ bỏ những thần tượng thế tục này, dùng của cải như phương tiện để về trời. Nhưng mà không dùng nó như thần tượng và mục đích của mình.
Theo Đức Kitô là phải từ bỏ, nhưng từ bỏ được ích gì? Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Kitô nói về phần thưởng những người sống ơn gọi là môn đệ Đức Kitô, đi theo Đức Kitô là phải từ bỏ. Đức Kitô, Ngài nói về những thần tượng đó là thứ nhất là những người đó sẽ được thưởng gấp trăm, gấp ngàn lần. Mình bỏ một nhưng mà sẽ được gấp trăm gấp ngàn lần; phần thưởng thứ hai là sẽ được sự sống đời đời; phần thưởng thứ ba quan trọng nhất là được chính Thiên Chúa, Đấng mà bài Phúc Âm hôm nay nói sẽ làm được tất cả những gì mà thế gian này không làm được. Khi tôi bỏ mọi sự vì Chúa, mà tôi được Chúa là gia nghiệp, thì chính Chúa sẽ là tất cả cho tôi, kể cả những sự mà thế gian này không thể làm được cho tôi.
Tối hôm qua, khi theo dõi các tin tức trên đài truyền hình, tôi thấy có những mục tin đáng được chúng ta quan tâm. Thí dụ như bản tin lụt lội ở Trung Quốc, tin khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản, tin biến động chính trị xã hội ở Indonesia, tin đạo đức suy thoái ở Việt Nam. Tất cả những luồng tin đó, tôi coi là những cảnh báo cho chúng ta, để giúp cho chúng ta tìm ra được cách sống trong ơn gọi đi theo Đức Kitô.
Theo tôi thì khi thế giới này, khi Đông Nam Á này, khi Đất Nước chúng ta đang có những chuyển biến, người giàu trở thành nghèo, người sang trở thành hèn, người no trở thành đói, người đạo đức trở thành tội lỗi, thì người công giáo chúng ta hãy tìm cho mình một cách sống xứng đáng, sâu sắc trong ơn gọi đi theo Đức Kitô, để không những vững cho mình trong tương lai, mà cũng giúp cho mình đóng góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cho Đất Nước chúng ta. Tôi nghĩ là cần phải cầu xin Chúa Thánh Thần rất nhiều, rồi cũng cần phải học hỏi, cần phải tìm tòi để tìm ra những cách sống về ơn gọi người môn đệ Đức Kitô trong thời điểm này, trong Đất Nước của chúng ta này.
Từ nãy đến giờ, tôi nhìn cuộc lễ đơn sơ, nhưng có nhiều phẩm chất Phúc Âm, gọn gàng nhưng có trình độ văn hoá, có Đức Mẹ làm bổn mạng, nhưng mà tập trung vào Đức Kitô. Tôi thiết tưởng rằng, những nhận xét trên đây cũng là một hướng để chúng ta biết chọn sống ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô một cách nhẹ nhàng, một cách có hiệu quả, một cách đơn sơ, ở trong một hoàn cảnh đầy biến động và có những thử thách, đe doạ cho tương lai.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin cùng với anh chị em cầu nguyện, để chúng ta biết được con đường chúng ta phải đi trong tương lai. Amen.
Thêm sức nhà thờ An Sơn, Kinh E/ 2, ngày 18/8/1998
Hôm nay là lễ kính Đức Mẹ lên trời, Tin Mừng Chúa ban cho tôi là: Nhờ Đức Mẹ, mà + tôi cảm Bùi-Tuần 2303
1. Hôm nay là lễ kính Đức Mẹ lên trời, Tin Mừng Chúa ban cho tôi là:
Nhờ Đức Mẹ, mà
+ tôi cảm nhận sâu sắc hơn tôi là kẻ tội lỗi, yếu hèn, mong manh. + tôi cảm nhận tôi cần thuộc về Chúa nhiều hơn. + tôi cảm nhận tôi cần yêu thương tha nhân đúng hơn. + tôi cảm nhận tôi cần gắn bó với quê hương Việt Nam tích cực hơn. + tôi cảm nhận tôi cần đi về cõi sau, với đức tin mạnh mẽ hơn.
2. Những cảm nhận trên đây thực là sống động, thấm thía, bao la.
Tôi đang sống với những cảm nhận đó bằng tâm tình hai kinh sau đây:
+ Kinh Magnificat của Đức Mẹ: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.” + Và kinh tràng hạt Mân Côi.
3. Dù với kinh Linh hồn tôi tung hô Chúa, dù với kinh Mân Côi, điều quan trọng tôi thực hiện là tôi bám chặt lấy Đức Mẹ.
4. Tôi không cần biết:
Tôi bám lấy Đức Mẹ, hay Đức Mẹ ôm lấy tôi. Tôi chỉ chắc chắn, Đức Mẹ ở bên tôi.
Đức Mẹ ở bên tôi, là để cứu lấy tôi bằng những gì hợp với tình yêu thương xót của Chúa.
5. Cầu nguyện của tôi lúc này tập trung vào cầu cứu và sám hối.
Cầu cứu và sám hối cùng với Hội Thánh, trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
6. Tình hình là rất trầm trọng. Lúc này, chúng ta rất cần cầu nguyện. Mà cầu nguyện chủ yếu là gặp gỡ Chúa.
7. Gặp gỡ Chúa khi cầu nguyện chú trọng đến gặp gỡ riêng tư và thân mật với Chúa.
8. Cầu nguyện chủ yếu là lắng nghe Chúa, đón nhận Chúa, nhìn vào Chúa, đối diện với Chúa.
9. Có lúc, nên hòa mình vào bầu khí cầu nguyện của cộng đoàn. Có lúc nên lùi vào cảnh thanh vắng nội tâm, để cầu nguyện một mình với Chúa.
10. Dù với cộng đoàn, dù một mình riêng tư, cầu nguyện luôn đòi một thái độ khiêm nhường, rất khiêm nhường, hết sức khiêm nhường.
11. Tỉnh thức, cầu nguyện và chiến đấu, để khỏi rơi vào bẫy kiêu ngạo của Satan.
12. Nếu có lúc nào tôi coi mình là khiêm nhường hơn những người khác, thì chính lúc đó tố cáo tôi là kẻ thiếu khiêm nhường, cần sám hối.
13. Với chút chia sẻ trên đây, tôi bám chặt lấy Đức Mẹ, để tín thác mình cho Chúa một cách đơn sơ như một trẻ thơ yếu đuối, hèn mọn.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về những người làm vườn nho. Có những Bùi-Tuần 2304
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về những người làm vườn nho. Có những người được gọi từ sáng sớm. Có những người được trao quyền giữa ban trưa. Và có những người được nhận vào làm việc khi đã xế chiều. Nhưng khi tính công, thì chủ xem ra đã chấm điểm tốt cho người đến sau. Và Chúa Giêsu kết luận dụ ngôn thế này: “Có những người sau hết lại trở nên những người trước hết”.
Khi suy nghĩ dụ ngôn trên đây, tôi nghĩ tới lớp trẻ, tôi nghĩ đến thế hệ đến sau. Rõ ràng là lớp trẻ, thế hệ đến sau, đã sinh ra sau chúng ta, những lớp người lớn tuổi, những lớp người đi trước. Rõ ràng là họ, lớp trẻ, lớp người đi sau, thế hệ sau này đã đi vào đời sau chúng ta, những người phụ huynh, những người lớn tuổi. Và cũng rõ ràng là lớp đi sau, lớp trẻ này về nhiều mặt đã khá hơn chúng ta, đã giỏi hơn chúng ta, đã nhạy bén nắm bắt được nhiều giá trị mới của thời đại chúng ta. Trước sự kiện này, tôi có hai chia sẻ muốn nói với anh chị em, đặc biệt là với các phụ huynh.
Tư tưởng thứ nhất là: chúng ta, những phụ huynh, những người lớn tuổi, những lớp người đi trước, không những hãy chấp nhận cho lớp đi sau được biến chuyển hơn chúng ta, mà còn phải quan tâm tạo điều kiện đến các lớp trẻ đó, có những bước tiến triển vượt bậc cao hơn chúng ta. Và khi họ đạt được những tiến triển, chúng ta vui mừng cho họ. Trong gia đình, con hơn cha, hơn mẹ là nhà có phúc. Trong họ đạo, lớp trẻ hơn lớp lớn tuổi là cộng đoàn có phúc. Trong một Hội Thánh địa phương, lớp trẻ đi sau hơn lớp già đi trước là một Hội Thánh địa phương có phúc. Cái hơn tôi nói ở đây là hơn trong những lĩnh vực giá trị.
Mấy tuần vừa qua, trên các báo, trên các đài, chúng ta đọc thấy và nghe thấy đang có phong trào xây dựng và phát triển những giá trị về văn hoá Việt Nam. Là người Việt Nam, tôi rất khuyến khích điều đó, và tôi coi việc phát triển xây dựng những giá trị đậm đà bản sắc dân tộc là chính đáng. Nhưng, là người môn đệ Đức Kitô, có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, tôi xin anh chị em hãy biết xây dựng thêm, hãy biết phát triển thêm một giá trị khác nữa, đó là giá trị người môn đệ Đức Kitô. Giá trị người môn đệ Đức Kitô hệ tại ở chỗ: chúng ta tập trung vào Đức Kitô, chúng ta coi Ngài là Thầy dạy chúng ta. Đức Kitô đã đi con đường nào, chúng ta cũng đi con đường đó. Đức Kitô suốt đời đi trên con đường tuân phục thánh ý Chúa Cha, chúng ta cũng vậy. Giá trị người môn đệ Đức Kitô là theo con đường Đức Kitô, tuân phục thánh ý Cha trong mọi sự. Đức Kitô suốt đời hướng về Chúa Cha, trở về Chúa Cha, gặp Chúa Cha, luôn luôn sống cho Cha, làm vinh danh Cha, thì người môn đệ Đức Kitô cũng phải đi theo con đường đó: Luôn hướng về Cha. Luôn tin vào Cha. Luôn tạ ơn Cha. Cha là tất cả. Chọn Cha hơn mọi sự trên trời dưới đất, bởi vì Cha là Đấng tạo thành, bởi vì Cha là nguồn mọi ơn phúc. Tôi nghĩ rằng, khi chúng ta phát triển giá trị người môn đệ Đức Kitô thì chúng ta có khả năng góp phần rất lớn vào việc xây dựng và phát triển nền văn hoá của người Việt Nam.
Điều thứ hai tôi muốn chia sẻ và nhắn nhủ anh chị em, những người phụ huynh, những người lớn tuổi, đó là chính chúng ta cũng phải có những cố gắng, để có được những hiểu biết về những giá trị mới mà lớp trẻ, con em chúng ta, đang đi vào. Tôi thấy bây giờ trong những hội nghị giới trẻ, người ta cũng mời những vị lão thành, những bậc phụ huynh, bởi vì những vị đó có một kinh nghiệm lâu dài, sâu sắc về những vấn đề cũ và vấn đề mới. Có nhiều vị lớn tuổi nhưng đã tự học, đã theo dõi về nhiều mặt. Các vị đó cũng thông thái, cũng thấu triệt những vấn đề mà hôm nay lớp trẻ đang đi vào. Có được như vậy thì tôi thấy có một sự liên tục giữa lớp đi trước và lớp đi sau. Trong một họ đạo, nếu lớp lớn tuổi cũng cố gắng có những hiểu biết về giới trẻ, về những giá trị mới, thì sẽ có được một sự hướng dẫn làm cho người ta kính phục đối với giới trẻ. Và như vậy, không có sự cắt đứt, đoạn tuyệt giữa giới trẻ và giới lớn tuổi, sẽ có sự nâng đỡ lẫn nhau, bổ túc cho nhau. Và do đó, họ đạo sẽ trở nên một ngọn đèn sáng về sự tiến triển trong địa phương mình.
Có được một ngôi nhà mới đẹp đẽ khang trang thì đây cũng là một niềm vui rất lớn. Nhưng mà, điều tôi mong đợi nhất ở họ đạo: là xây dựng những con người mới, những lớp trẻ mới, để lớp trẻ công giáo chúng ta, về mặt đời cũng như mặt đạo, không thua kém ai. Sẽ có những người trẻ biết dấn thân, sẽ có những người trẻ đầy hương vị Tin Mừng, đi vào các ngõ ngách của cuộc sống, để làm chứng cho Tin Mừng, để cùng với đồng bào thiện chí, xây dựng hạnh phúc cho đồng bào, xây dựng nền văn minh cho Đất Nước.
Tôi nghĩ rằng, những điều tôi vừa chia sẻ với anh chị em cũng là những thao thức của anh chị em. Chỉ cần chúng ta biết phấn đấu. Không có gì dễ dàng đâu, nhất là mấy ngày hôm nay, trên đài, trên báo có loan đi những tin không được lạc quan, lụt lội ở nhiều nơi, hạn hán ở nhiều nơi, khủng hoảng kinh tế ở nhiều nơi, thất nghiệp, đói khát ở nhiều nơi, dịch bệnh ở nhiều nơi. Tất cả những cái đó đã cho chúng ta thấy, cuộc sống trong tương lai sẽ có nhiều khó khăn. Nhưng chúng ta phải phấn đấu, không phải là cho lớp người lớn tuổi chúng ta, cho bằng lớp con em chúng ta, lớp trẻ chúng ta. Tập cho chúng có tinh thần phấn đấu, dù trong hoàn cảnh dễ dàng, dù trong hoàn cảnh khó khăn, phải biết ngẩng mặt lên mà đi tới, vượt khó và thắng được chính mình, để trở nên người môn đệ Đức Kitô giữa hoàn cảnh Việt Nam hôm nay, để Hội Thánh Việt Nam có một tiếng nói trân trọng, có một khuôn mặt đáng được người ta kính phục, nhờ lớp trẻ bây giờ, và nhờ những người lớn tuổi có ý thức về ơn gọi của mình.
Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta, cả những họ đạo nhỏ bé đã đạt nhiều thành tích vẻ vang như hai họ đạo trên đây, biết tiếp tục có những bước tiến dài hơn, lâu hơn, và sâu sắc hơn, nhất là trên con đường xây dựng lớp trẻ, thế hệ mai sau. Thánh Linh là sức sống, là ánh sáng, là lửa thiêng, sẽ giúp cho chúng ta đạt được những điều mà Phúc Âm hôm nay đã nhắn gởi chúng ta. Amen.
Hôm nay đến thăm họ đạo Tân Bình này, chúng tôi rất vui mừng nhận thấy cộng đoàn xứ này Bùi-Tuần 2305
Hôm nay đến thăm họ đạo Tân Bình này, chúng tôi rất vui mừng nhận thấy cộng đoàn xứ này đã có một nhà thờ mới. Nhà thờ mới này, được dư luận đánh giá là đẹp, vừa có những nét hiện đại và vừa có những nét về văn hoá truyền thống dân tộc, vừa đáp ứng nhu cầu phượng tự và cũng vừa phục vụ đồng bào nông thôn.
Có được một nhà thờ như thế này, cộng đoàn giáo xứ Tân Bình và nhất là Cha sở Antôn đã phải bỏ ra rất nhiều công sức, thêm vào đó là sự giúp đỡ đậm đà của các ân nhân xa gần, của chính quyền địa phương, của các tôn giáo bạn. Có thể nói, nhà thờ của chúng ta đây là một bài ca tán tụng Thiên Chúa, là một chứng từ của sự hiệp thông. Ngoài ra nhà thờ của chúng ta còn là một tiếng gọi.
Tôi vừa nói nhà thờ của chúng ta là một tiếng gọi. Qua câu đó tôi muốn nhấn mạnh đến một vài sự kiện, yếu tố trong nhà thờ này kêu gọi chúng ta khám phá sự mới mẻ của Tin Mừng hôm nay. Sự mới mẻ đó là tập trung vào Đức Kitô. Chúng ta hãy xem Nhà Tạm đựng Mình Thánh Đức Kitô, tuy nhỏ bé đơn sơ nhưng rất thu hút, nền thánh giá bao trùm cung thánh là rất lớn, tượng Đức Kitô phục sinh là rất sinh động, 14 đàng thánh giá của Đức Kitô là rất gây ấn tượng. Tất cả những chi tiết này đều có một hướng chung là giới thiệu Đức Kitô, là đề cao Đức Kitô, tập trung vào Đức Kitô. Việc đề cao này, việc tập trung này là việc rất đúng. Đúng với tu đức thời nay, đúng với phượng tự thời nay, đúng với thần học thời nay.
Nếu chúng ta biết cầu nguyện sốt sắng, có một thao thức đi tìm Thiên Chúa, có một sự thinh lặng nội tâm và sự nhạy bén tâm linh để đợi chờ ơn thiêng, thì khi nhìn những biểu tượng trong nhà thờ này chúng ta dần dần sẽ gặp được chính Đức Kitô. Và khi chúng ta gặp được chính Đức Kitô thì chúng ta sẽ thấy Đức Kitô mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa. Thiên Chúa được Đức Kitô mạc khải chính là Tình Yêu. Thiên Chúa Tình Yêu chính Ngài có sáng kiến đi tìm chúng ta. Thiên Chúa Tình Yêu chính Ngài chủ động đến gặp chúng ta. Thiên Chúa Tình Yêu được Đức Kitô mạc khải thương yêu chúng ta. Ngài thương yêu chúng ta trước khi chúng ta nhận biết Ngài. Ngài thương yêu chúng ta khi chúng ta còn trong tội lỗi. Khi gặp được Đức Kitô, chúng ta sẽ nghe tiếng Đức Kitô mời gọi đi theo Ngài, làm môn đệ của Ngài.
Làm môn đệ Đức Kitô và đi theo Đức Kitô là thế nào? Thưa, trước hết là cùng với Đức Kitô sống ân huệ làm con Thiên Chúa. Như Đức Kitô luôn hướng về Cha, luôn cảm tạ Cha, luôn phó thác nơi Cha, luôn hỏi ý Cha. Thiên Chúa là Cha tức là cùng đích của chúng ta. Được làm con Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Kitô, Con Thiên Chúa, sống ân huệ đó cho trọn vẹn. Rồi đi theo Đức Kitô, làm môn đệ Đức Kitô là hãy đi vào con đường mà Đức Kitô đã đi. Đức Kitô suốt đời đi trên con đường tuân phục thánh ý Chúa Cha: “Xin đừng theo ý Con, nhưng xin theo ý Cha mọi đàng”. Đi theo Đức Kitô là luôn luôn dấn thân phục vụ, yêu thương nhân loại giống như Đức Kitô đã truyền: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau, như chính Thầy đã yêu thương chúng con”. Rồi làm môn đệ Đức Kitô, đi theo Đức Kitô là hãy cùng với Đức Kitô biết thờ phượng Thiên Chúa là Cha trong tinh thần và trong chân lý, không những là trong tinh thần và trong chân lý của Phúc Âm, mà cũng trong tinh thần và trong chân lý của khoa học, của nghệ thuật, của văn hoá. Rồi đi theo Đức Kitô, làm môn đệ Đức Kitô là vững tin vào lời hứa của Đức Kitô. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã hứa hạnh phúc cho chúng ta. Phúc cho chúng ta những người sống trong cảnh nghèo. Phúc cho chúng ta những người sống trong tinh thần hoà thuận với nhau. Phúc cho chúng ta vì chúng ta biết xây dựng bình an trong xóm ngõ. Phúc cho chúng ta vì chúng ta chịu đựng gian khổ vì danh Chúa, vì lợi ích chung. Hạnh phúc mà Đức Kitô đã hứa cho chúng ta sẽ đến và chắc chắn là đến ở đời sau, nhưng mà thường cũng đến ngay ở đời này, trong cảm nghiệm nội tâm của mỗi người chúng ta. Và nội tâm đó, những cảm nghiệm linh thiêng đó sẽ đổi mới con người của ta, đổi mới xã hội, đổi mới Hội Thánh.
Khi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô, khi chúng ta tin theo Đức Kitô thì dần dần chúng ta sẽ khám phá thấy Đức Kitô chính là Tin Mừng. Đức Kitô chính là Tin Mừng, cho nên một họ đạo, một cá nhân khi đã cảm nghiệm thấy Đức Kitô chính là Tin Mừng của mình thì đó là một an ủi rất lớn, còn những cái khác rất là tương đối. Và khi một linh mục nhìn về những năm linh mục của mình, mà nhận thấy rằng sau cùng Đức Kitô chính là Tin Mừng của tôi, và bổn phận rao giảng Tin Mừng của tôi chính là rao giảng Đức Kitô, đã làm chứng Đức Kitô, đã đưa danh Đức Kitô vào các tâm hồn. Khi nhận ra quá khứ như vậy thì đó là một thành công lớn, còn những cái khác chỉ là rất tương đối. Mọi sự, kể cả nhà thờ mới, kể cả những con người cũng sẽ qua đi, nhưng khi chúng ta thấy Đức Kitô chính là Tin Mừng của chúng ta thì chúng ta đã nhìn thấy cõi trời đang chờ chúng ta. “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống”. “Thầy sẽ ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. Đức Kitô là Tin Mừng đã nói như vậy. Chúng ta tin vào Đức Kitô Tin Mừng của chúng ta. Và hôm nay, trong lễ tạ ơn, đang khi chúng ta nhìn vào nhà thờ như một phương tiện đáng mừng, chúng ta có tập trung vào Đức Kitô. Ngài chính là Tin Mừng bền vững, sâu đậm, rất có lợi cho chúng ta đời này và đời sau.
Chính Đức Kitô là Tin Mừng. Xin cảm tạ Chúa. Xin cậy trông Chúa. Xin phó thác nơi Chúa là Tin Mừng của chúng ta. Amen.
Lễ khánh thành nhà thờ Tân Bình, Tân Hiệp, ngày 20/8/98
Trong năm nay, nhất là trong tháng này, tôi đã đi thăm mục vụ nhiều họ đạo. Nhận xét chung của Bùi-Tuần 2306
Trong năm nay, nhất là trong tháng này, tôi đã đi thăm mục vụ nhiều họ đạo. Nhận xét chung của tôi là: Tất cả các họ đạo trong Giáo phận Long Xuyên đều đang phát triển tốt, nhất là về văn hoá và đạo đức. Đáng chú ý là các cộng đoàn nghèo, vùng sâu vùng xa. Họ thực rất đáng khen. Họ đã có những thành công đáng kể, mặc dù họ sống trong những hoàn cảnh thiếu thốn: Thiếu phương tiện đi lại, thiếu tiền của, thiếu linh mục, thiếu nơi phượng tự xứng đáng. Trong các họ đạo đó, xem ra mọi người lớn nhỏ đều đã nỗ lực phát triển các tiềm năng của mình.
Còn họ đạo nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên thì sao? Chắc chắn là anh chị em có nhiều hoàn cảnh thuận lợi hơn các họ đạo khác. Chắc chắn là anh chị em được phục vụ hơn bất cứ họ đạo nào trong địa phận. Phải nói là anh chị em được yêu thương hơn mình đáng được. Kết quả, theo tôi, là tích cực. Nhiều gia đình, nhiều cá nhân đã biết đáp ứng các ân huệ Chúa ban.
Điều làm tôi mừng hơn cả nơi họ đạo Long Xuyên là thấy các phụ huynh biết lo cho tương lai con cháu của mình.
Tương lai tuỳ thuộc vào hôm nay. Nếu hôm nay con em chúng ta được giáo dục tốt, thì hy vọng tương lai của chúng sẽ tốt.
Được giáo dục tốt là cả một chương trình rất dài, rất lớn. Ở đây, với tư cách chủ chăn, tôi chỉ xin nhấn mạnh đến điều này là: Con em chúng ta, cũng như chính chúng ta, hãy ý thức mình được làm con Chúa.
Được làm con Chúa, đó là một ân huệ lớn lao, một vinh dự cao cả, một bảo đảm quý giá.
Được làm con Chúa là được Chúa yêu thương, là được Chúa chúc lành, là được Chúa phù hộ che chở. Về phần mình, chúng ta hãy sống trọn vẹn ân huệ làm con Chúa. Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy tin mến Cha. Hãy ca tụng Cha. Hãy nhìn lên Cha, Hãy phó thác nơi Cha. Hãy sống tuân phục thánh ý Cha, nhất là hãy sống đẹp như Cha. Nét đẹp nhất nơi Cha là tình yêu hy sinh, tình yêu phục vụ, tình yêu hợp nhất.
Nhiều người, khi đi ngang qua nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, đã nhìn lên tượng Đức Mẹ. Trong giây phút cầu nguyện, bao người đã nhận được ơn Đức Mẹ ban. Một ơn mà tôi hay được nghe kể lại, là ơn biết chấp nhận thánh giá trong cuộc đời yêu thương phục vụ và xây dựng đoàn kết. Đúng là Đức Mẹ luôn sẵn sàng giúp chúng ta biết sống ơn gọi làm con của Chúa.
Kinh nghiệm cho tôi thấy, để sống ơn gọi làm con của Chúa, một mình con người không đủ sức đâu. Thiện chí mạnh mà thôi sẽ không đủ. Ý thức đúng mà thôi sẽ không đủ. Chúng ta rất cần phải nhờ đến ơn cứu độ của Đức Kitô và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Đức Kitô ban ơn cứu độ cho chúng ta trong từng giây phút hiện tại. Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta cũng trong từng chi tiết cuộc sống hiện tại. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận bằng tâm tình cầu nguyện, khiêm tốn, cậy trông. Đừng mơ tưởng một cuộc sống xa vời. Hãy đi về với Chúa là Cha bằng từng việc nhỏ hiện tại, bằng từng giây phút hiện tại. Với Chúa Giêu, nhờ Chúa Thánh Thần, bên Mẹ Maria, chúng ta luôn luôn đi về gặp Cha trên trời bằng đời sống cầu nguyện, đời sống phục vụ, đời sống yêu thương, đời sống hy sinh, đời sống phát triển các tiềm năng của mình, nhất là đời sống làm con của Chúa. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 23/8/1998
Tôi vẫn được nghe họ đạo Kitô Vua là cộng đoàn tốt. Hôm nay đến tận nơi, nhìn tận mắt tôi Bùi-Tuần 2307
Tôi vẫn được nghe họ đạo Kitô Vua là cộng đoàn tốt. Hôm nay đến tận nơi, nhìn tận mắt tôi thấy lời khen đó là đúng sự thực. Điều làm tôi cảm phục nơi anh chị em là nhìn thấy anh chị em tuy nghèo nhưng cố gắng hăng say xây dựng nhà Chúa. Và mặc dầu bận bịu với công việc xây dựng thánh đường bên ngoài, anh chị em vẫn tiếp tục xây dựng thánh đường bên trong, vẫn tiếp tục hăng say học hỏi lời Chúa theo các lớp giáo lý, sinh hoạt bí tích và phát huy tinh thần bác ái. Đúng là anh chị em đã biết sống đạo ở một mức độ cao hơn. Sống đạo ở một mức độ cao hơn thường, đó là điều Đức Kitô nhấn mạnh trong bài Phúc Âm hôm nay, để cho tất cả chúng ta nói chung, và cho họ đạo Kitô Vua nói riêng, biết xác tín đi về hướng sống đạo đó. Giờ đây, tôi xin chia sẻ vắn tắt lời Chúa hôm nay.
Thời đó cộng đoàn đức tin, từ lãnh đạo cho đến tín hữu, thường vẫn quan niệm sống đạo là phải quan trọng hoá luật bỏ tiền vào nhà thờ, việc rửa tay trước khi dâng lễ. Những việc đó là tốt, nhưng Đức Kitô nói rằng không nên dừng lại ở mức độ đó, mà phải tiến lên mức độ cao hơn, đó là sống đạo phải quan tâm đến công bình, đến bác ái, đến niềm tin.
Rồi hồi đó cộng đoàn đức tin, từ lãnh đạo cho đến tín hữu, thường quá quan tâm chú trọng đến luật kiêng việc ngày thứ bảy. Giữ luật đó là đúng thôi, và cũng cần. Nhưng Đức Kitô cho thấy phải bước cao hơn trong việc giữ đạo. Ngài nói: “Ngày thứ bảy vì con người, chứ không phải con người vì ngày thứ bảy”. Luật bác ái trên luật kiêng việc ngày thứ bảy. Phải bước cao hơn luật kiêng việc.
Thời đó, cộng đoàn đức tin, từ lãnh đạo cho đến tín hữu, thường quá quan tâm chú trọng đến việc thờ kính Chúa trong đền thờ Giêrusalem. Họ không dám làm việc tế tự ngoài Giêrusalem. Những việc đó cũng tốt thôi, nhưng Đức Kitô nhấn mạnh và Ngài nói: “Đến một ngày người ta sẽ không còn thờ Chúa trên núi này và ở đền thờ nữa mà phải thờ Chúa trong tinh thần và trong chân lý”, phải giữ đạo ở một mức độ cao hơn.
Rồi cũng thời đó, cộng đoàn tín hữu, từ lãnh đạo cho đến tín hữu, thường quá quan tâm đến việc đọc kinh, rồi quan tâm đến các phép lạ, quan tâm đến những lời tiên tri, coi những việc đó là tất cả chứng từ về Thiên Chúa và những gì đáng để cho mình lên thiên đàng. Những cái đó rất tốt, nhưng mà Đức Kitô cho thấy không nên dừng ở đó. Ngài nói: “Không phải những ai kêu: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời. Cũng không phải những ai đã nói với Ta rằng: Nhân danh Thầy, con đã trừ quỷ. Nhân danh Thầy, con đã làm phép lạ. Nhân danh Thầy, con đã nói tiên tri. Những người đó, Ta không biết là ai. Chỉ có những ai tuân phục thánh ý Chúa Cha sẽ được chọn lên thiên đàng”.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta giữ đạo ở một mức cao hơn, cao hơn cả việc đọc kinh, cao hơn cả việc làm phép lạ, cao hơn cả việc trừ quỷ, cao hơn cả việc nói tiên tri, mặc dù những cái đó là tốt, nhưng chỉ có ai tuân phục thánh ý Chúa mới được chọn vào Nước Trời.
Tất cả những sự kiện trên đây mời gọi chúng ta biết sống đạo. Mặc dù trung thành với những việc nhỏ, trong những ranh giới nhỏ, nhưng mà đừng dừng ở đó, mà phải biết bước lên mức độ cao hơn. Thờ Chúa trong tinh thần và chân lý. Làm chứng cho Chúa bằng bác ái. Xây dựng hoà bình trong xã hội. Tất cả đều là làm chứng cho Chúa, đều là giữ đạo.
Tôi thấy ở Cái Sắn chúng ta, về việc giữ đạo thường được đánh giá bằng sự đi lễ, đọc kinh. Điều đó là đúng, nhưng nếu chúng ta cứ dừng lại ở mức độ đó, tôi sợ là chúng ta sẽ không tồn tại và phát triển được tốt trong tương lai. Phải tiến lên những bậc cao hơn mà Chúa đòi hỏi trong việc sống đạo, để giúp cho chúng ta tiến lên. Nhiều cộng đoàn, nhiều nhóm nhỏ, nhiều cá nhân đã rất tự giác. Ngoài ra, tôi thấy bây giờ Chúa thương Hội Thánh chúng ta tại Việt Nam, ở Cái Sắn này, Chúa để cho có những khó khăn về xã hội, về văn hoá, để buộc chúng ta đừng quá chú trọng ngồi lì ở những mức độ thấp, mà phải tiến lên ở mức độ cao. Nếu có những luật khó khăn về thờ tự, hình thức bề ngoài thì Chúa đã mời gọi chúng ta hãy thờ Chúa trong tinh thần và chân lý. Nếu có những khó khăn về vấn đề tiền bạc, về vấn đề tổ chức, thì Chúa đã mời gọi chúng ta bước lên bậc cao hơn là sống đức tin, làm chứng cho Đức Kitô bằng công bình, bằng nhân ái, bằng niềm tin. Và nếu chúng ta không có dịp, không thể làm phép lạ, không thể nói tiên tri, thì Đức Kitô nói bậc cao nhất trong sự thánh thiện là tuân phục thánh ý Chúa. Mà tuân phục thánh ý Chúa là sống trọn vẹn giây phút hiện tại. Giây phút bây giờ là lúc này tôi đang nói để anh chị em nghe, lúc này anh chị em đang đứng, đang ngồi để nghe chia sẻ lời Chúa. Chúng ta có thể nên thánh ngay trong giây phút này bằng cách chúng ta hết tâm tình hướng về Chúa là Cha, lắng nghe ý Cha, ca tụng lòng Cha, trở về với Cha, và luôn luôn tìm ý Cha. Đó là giữ đạo ở mức độ cao nhất là tuân phục thánh ý Cha, làm trọn bổn phận trong từng giây phút hiện tại, trong từng chi tiết cuộc đời.
Tôi mong muốn rằng họ đạo Kitô Vua của chúng ta sẽ biết trung thành trong những việc sống đạo không chỉ ở mức độ thấp, mà còn phải cố gắng bước lên mức độ cao hơn như Đức Kitô mong muốn. Tôi tin rằng nếu chúng ta trung thành với lời Chúa kêu gọi, thì dù khó khăn biết mấy, chúng ta sẽ luôn đi về nhà Chúa.
Lúc nãy đầu lễ, chúng ta hát đi về nhà Chúa và tôi tâm niệm rằng bất cứ ở đâu, trong hoàn cảnh nào, tôi và anh chị em vẫn đi về nhà Chúa. Nhà Chúa, nhà Cha mới là cùng đích của chúng ta. Xây dựng nhà thờ, góp tiền, góp công vào đây, trang hoàng đẹp đẽ. Tất cả đều là những bước nhỏ để chúng ta đi về nhà Chúa. Chúng ta tin tưởng, chúng ta phó thác, vừa đi vừa ca tụng, vừa đi vừa nương náu ở Cha. Và như vậy, đời sống đạo của chúng ta trong mảnh đất Việt Nam này, trong quê hương Cái Sắn này, sẽ là hành trình đầy hạnh phúc, bởi vì chúng ta nghe lời Chúa, giữ đạo trung thành từ thấp cho đến cao, từ nhỏ cho đến lớn. Amen.
Lễ thêm sức và đặt viên đá đầu tiên, tại họ Kitô Vua, kênh C1, ngày 25/8/1998
Giả sử đêm nay chúng ta sẽ gặp một biến cố bất ngờ khiến chúng ta phải chết, thì chắc chắn chúng Bùi-Tuần 2308
Giả sử đêm nay chúng ta sẽ gặp một biến cố bất ngờ khiến chúng ta phải chết, thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy ứng nghiệm lời Phúc Âm hôm nay chúng ta vừa nghe. Có nghĩa là Chúa đến bất ngờ và khi Chúa đến gọi ta bất ngờ như vậy, nếu Chúa thấy chúng ta tỉnh thức đón chờ Chúa, đồng thời cũng khôn ngoan và trung tín phân phát lương thực cho những người xung quanh mà Chúa trao cho chúng ta thì Chúa sẽ khen chúng ta: “Phúc cho các ngươi”, rồi Chúa cho chúng ta được chia sẻ vinh quang với Người. Và nếu chẳng may khi Chúa đến bất ngờ, và lúc đó Chúa gặp chúng ta không tỉnh thức đợi chờ Chúa đến, đồng thời lại thấy chúng ta hờ hững với việc bổn phận phục vụ anh em, sống buông thả, sống ích kỷ, sống bất công, thì lúc đó Chúa sẽ than phiền về chúng ta: “Khốn cho các ngươi”, và Chúa sẽ để cho chúng ta rơi vào kiếp đoạ đày, dành cho những kẻ Chúa không chọn.
Chuyện giả sử trên đây hy vọng sẽ không xảy ra. Nghĩa là bình thường chúng ta sẽ không có một cái chết bất ngờ như vậy. Đổi lại tất cả để rồi sẽ bị kết án hay sẽ bị xét đoán như tôi vừa nói. Tuy nhiên lời Chúa dạy hôm nay vẫn có giá trị một lời cảnh báo.
Lời cảnh báo đó là: giờ Chúa đến cho chúng ta là rất bất ngờ. Và một điều bất ngờ khác là trong giờ phán xét Chúa sẽ không tra hỏi chúng ta nhiều điều như chúng ta tưởng, khảo kinh này, khảo bài giáo lý kia. Chúa sẽ truy xét hai điều: một là những ơn Chúa đã ban cho, ta có bảo vệ hay là chúng ta để cho trộm cướp thiêng liêng lấy đi, hao mòn đi, mất mát đi. Thí dụ ơn chịu phép rửa tội, ơn thêm sức, ơn được đi xưng tội, ơn được dự lễ Misa vv... Những ơn đó Chúa trao cho chúng ta giữ gìn và sinh lợi. Và Chúa hỏi của cải ấy Cha trao cho con, con có giữ trọn vẹn không, hay con để cho trộm cắp lấy mất, hao hụt đi.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa nói đến điều đó là điều thứ nhất. Và điều thứ hai Chúa trao cho chúng ta là con có trung tín và khôn ngoan, ban phát lương thực cho những người Cha trao phó cho con không? Lương thực đó là cầu nguyện, là gương sáng, là lời khuyên, là những việc lành hy sinh cho những người đó. Chúng ta có ban phát lương thực như vậy cho con cái chúng ta, cho xóm ngõ chúng ta, cho họ đạo chúng ta không? Chúa tra hỏi chúng ta hai điều đó, chúng ta tưởng rằng Chúa tra chúng ta những việc khác nhưng mà chúng ta thấy Chúa để ý hai điều đó cách riêng nơi chúng ta.
Khi suy nghĩ về lời cảnh báo trên đây, tôi nhìn về các họ đạo, tôi nhìn về các cộng đoàn, tôi nhìn về các cá nhân, các gia đình để xem sự thực thi hai bổn phận mà Chúa Kitô nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay nói chung, thì tôi vui lòng, vì nhiều cá nhân, nhiều địa phương đã thực thi tốt hai bổn phận đó. Bổn phận đối với Chúa là bảo vệ những ơn Chúa ban cho. Tôi thấy nhiều nơi, nhiều người không những là bảo vệ được ơn rửa tội, ơn thêm sức, ơn phép giải tội, ơn thánh lễ Misa vv... không những trọn vẹn mà còn phát triển ra cho sáng thêm, cho nó đẹp thêm. Rồi tôi cũng thấy nhiều gia đình, nhiều họ đạo rất tốt, đã ban phát chia sẻ lương thực thiêng liêng cho con cháu mình, cho những người chung quanh bằng những cách mà tôi vừa nói lúc nãy, cầu nguyện, gương sáng, sự hy sinh vv...
Riêng họ đạo anh chị em, họ Kitô Vua, tôi rất vui mừng vì thấy họ đạo anh chị em đã sống lời cảnh báo của Đức Kitô một cách tương đối là tốt. Và sự chu toàn hai bổn phận mà Chúa dạy trong Phúc Âm hôm nay, bổn phận đối với Chúa, giữ gìn ơn Chúa đã ban, không để hư hao, không để mất mát, trái lại còn là cho nó tăng thêm. Rồi bổn phận ban phát lương thực, chia sẻ lương thực cho những người trong gia đình, xóm ngõ, làng mạc là tương đối tốt. Anh chị em biết nhân lên.
Tôi biết là họ đạo anh chị em tuy là đông, nhưng đất thì ít và tương đối nghèo, thế mà anh chị em làm được nhà thờ này bằng công sức của mình, bằng sự hy sinh của mình. Đó là một dấu chỉ anh chị em cố gắng phát huy ơn Chúa ban. Và cũng lại để cho thế hệ sau gương sáng về làm chứng phục vụ họ đạo. Tôi rất để ý đến những gương sáng mà họ đạo thế hệ đàn anh ở đây làm cho con cháu mình. Và tôi nghĩ là con cháu chúng ta, những đứa trẻ mà cũng làm gương một lương thực thiêng liêng cho những họ đạo khác, cho những nơi khác, có thể cho chính tôi. Tôi nghe anh chị em rất vất vả, đã hy sinh rất nhiều làm không công để xây dựng nhà thờ. Đây cũng là lương thực thiêng liêng anh chị em họ đạo Kitô Vua đang cung cấp cho Cái Sắn, cho giáo hạt, cho giáo phận. Những gương sáng đó sẽ lan ra, nó là lương thực thiêng liêng giúp cho nhiều cộng đoàn biết sống tốt hơn.
Được như vậy tất nhiên chúng ta phải phấn đấu. Khi nhìn vào sự phấn đấu kiên trì, khiêm tốn của thánh Mônica mà chúng ta mừng lễ hôm nay thì thấy rằng thánh Mônica đã giữ được con mình, đã giữ được ơn Chúa ban cho gia đình mình không phải dễ dàng đâu, bằng biết bao nhiêu hy sinh, bằng biết bao nhiêu lời cầu nguyện. Rồi đã dùng gương sáng lời nói làm lương thực nuôi tất cả cộng đoàn bấy giờ. Một Mônica hai bổn phận đối với Chúa, đối với con, đối với gia đình và họ đạo, đúng là phải phấn đấu rất lâu, kiên trì. Anh chị em, những người lớn đã trải qua kinh nghiệm đó. Và tôi mong rằng anh chị em hãy vững tâm chu toàn bổn phận đối với Chúa, đừng làm hư hao ơn Chúa ban cho mình. Và hãy tiếp tục có những lương thực đúng giờ, đúng nơi để nuôi dưỡng gia đình xóm ngõ.
Có một điều tôi nhắc nhở anh chị em ở đây, thế giới bây giờ, Hội Thánh bây giờ chuyển biến rất mau lẹ. Thời xưa thì lương thực là một bài giáo lý, một buổi dự lễ là đủ. Nhưng mà thời nay lương thực nuôi dưỡng linh hồn phải cao hơn. Chúa nói trong bài Phúc Âm rằng: “Lương thực đúng lúc, đúng giờ”. Sống đạo bây giờ, lương thực tức là có lời Chúa, tức là đi tìm thánh ý Chúa, tức là sống tinh thần liên đới với nhau, chớ không là hình thức tụ tập lại đọc kinh, cầu nguyện, tổ chức, mà phải sâu hơn, lương thực cao. Tôi mong muốn rằng anh chị em, những người có trách nhiệm, các bậc phụ huynh phải có lương thực cao đó, phẩm chất đó, hợp thời đó để nuôi dưỡng đức tin cho thế hệ con em chúng ta. Tôi hy vọng rất nhiều ở những cộng đoàn như họ đạo anh chị em, ít người thôi, ít của. Nhưng mà, lòng tốt và đức tin là rất cần. Nhưng mà, như tôi thường nói, theo sự biến chuyển thời thế để nâng cao trình độ sống đạo cho có phẩm chất hơn.
Xin Chúa giúp cho chúng ta hôm nay đón nhận được ý Chúa nhắn nhủ chúng ta trong bài Phúc Âm. Chúa đến bất ngờ, Chúa gọi chúng ta những điều rất bất ngờ. Amen.
Làm phép nhà thờ Kitô Vua, kinh 1b, ngày 27/8/1998
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về các trinh nữ, nhưng mục đích là nói cho tất Bùi-Tuần 2309
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về các trinh nữ, nhưng mục đích là nói cho tất cả mọi người chúng ta. Chúa dạy chúng ta một điều mà Chúa thường nhắn nhủ. Điều đó là hãy tỉnh thức.
Sống đạo là cần phải tỉnh thức. Tỉnh thức gồm nhiều bổn phận, nhưng bổn phận tôi cho là quan trọng nhất đó là tỉnh thức lắng nghe lời Chúa, lắng nghe ý Chúa. Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin nhấn mạnh đến mấy lời Chúa mà tôi cho là Chúa muốn chúng ta phải biết lắng nghe và thực thi chu đáo, bởi vì sẽ rất ích lợi cho chúng ta.
Lời thứ nhất, đó là hãy mở cửa lòng ra. Trong Thánh Kinh Chúa nói: “Ta đứng ngoài cửa mà gõ, ai nghe được tiếng Ta gọi, mở cửa lòng ra, Ta sẽ vào và ở lại”. Lời Chúa nói trên đây cho chúng ta thấy tiếng Chúa gọi ta thường rất nhẹ nhàng, dịu dàng và long trọng. Để có thể nghe được tiếng Chúa gọi, chúng ta cần thanh vắng nội tâm. Sự thanh vắng nội tâm này chúng ta chỉ có được nếu chúng ta có sự hãm mình. Một sự hãm mình tối thiểu của người tu thân. Và một trong những sự hãm mình đó là biết từ bỏ mình, nhất là từ bỏ mọi hình thức kiêu căng, tự mãn, tự đại. Khi chúng ta có một sự thinh lặng như vậy trong tâm hồn, chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa gõ cửa trái tim ta. Lúc đó chúng ta hãy nói lời xin vâng, mở cửa lòng ra, hân hoan và trịnh trọng đón Chúa vào tâm hồn. Và khi được Chúa vào tâm hồn rồi, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc biết bao.
Lời thứ hai tôi muốn nhấn mạnh là lời Chúa gọi gắn bó với Chúa. Trong Kinh Thánh, Chúa dạy các tông đồ: “Thầy là cây nho chúng con là cành nho. Hãy ở trong tình yêu của Thầy”. Chúa muốn chúng ta gắn bó với Ngài, tập sao có một nếp sống chính nhờ Ngài, chính trong Ngài, chính với Ngài mà chúng ta suy nghĩ, chúng ta nói năng, chúng ta tiếp xúc. Khi chúng ta gắn bó với Đức Kitô trong đời sống, và ở lại trong tình yêu của Ngài, chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu ấy chính là tình yêu của Ngôi Cha dành cho Ngôi Con qua Chúa Thánh Thần. Và tình yêu ấy thanh luyện chúng ta, đổi mới chúng ta, làm cho chúng ta trở thành tạo vật mới. Anh em sẽ cảm thấy tình yêu đó nó rất ngọt ngào, nó rất cao quí. Sẽ không có gì sánh được với tình yêu mà Đức Kitô dành cho những người vâng phục Ngài, đi vào, ở lại trong tình yêu ấy.
Lời thứ ba mà Chúa muốn chúng ta biết lắng nghe và thực thi, đó là lời răn yêu thương. Trong bữa tiệc ly, Chúa dạy: “Thầy cho chúng con một điều răn mới, là chúng con thương yêu nhau. Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Mà Đức Kitô đã thương yêu chúng ta đến cùng, đến mức độ hy sinh mạng sống treo trên cây thánh giá để cầu thay, cứu chuộc cho chúng ta. Theo gương Đức Kitô, chúng ta cũng cần phải có những dấn thân hy sinh vì phần rỗi những người trong gia đình ta, những người trong họ đạo ta, những người trên Đất Nước ta. Hãy vui lòng trở thành những hạt lúa để Chúa gieo vào lòng đất, được thối ra, có thể trở thành cây cho ích lợi Hội Thánh. Thương yêu bao giờ cũng đòi hỏi phải có hy sinh.
Từ sáng tới giờ tôi nhìn anh chị em đi lễ, tôi thấy nhiều người chân còn dính bùn, tôi biết là anh chị em đến với Chúa qua những con đường vất vả. Và giờ đây tôi cũng đang nhìn thấy nhiều người phải đứng dưới nắng, phải ngồi trong một bầu khí chật chội. Tất cả những cái đó anh chị em chịu đựng như là một lễ hy sinh, bởi vì anh chị em đang nghe lời Chúa gọi: “Hỡi tất cả những ai gánh nặng hãy đến với Ta, Ta sẽ bỏ sức cho”. Chúa đang gọi anh chị em đến với Chúa. Anh chị em là những người gồng gánh nặng. Gánh nặng về thể xác, bệnh tật, yếu đuối. Gánh nặng về tinh thần do những bổn phận đối với gia đình, xóm ngõ. Rồi gánh nặng về thiêng liêng, đó là những tội lỗi, những sơ suất, những lỗi yếu đuối. Anh chị em cũng như tôi, ngày đêm gánh nặng trên vai. Chúa biết điều đó, nhưng Chúa bảo hãy đến với Chúa qua những con đường lầy lội, qua những nắng mưa phải chịu, bởi vì Chúa sẽ chia sẻ gánh nặng cho, và cho chúng ta những ơn an ủi không lường được.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi chỉ đưa ra một vài lời Chúa đã nhắn nhủ chúng ta. Thường xuyên chúng ta đã nhớ những điều đó, nhưng hôm nay Chúa dùng dịp này nhắc lại cho chúng ta một cách thận trọng, một cách thân thiết, để chúng ta từ nay sống mấy lời Chúa đó một cách nghiêm túc. Và khi biết lắng nghe lời Chúa, biết sống lời Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm mặc dầu sẽ có nhiều chuyển biến. Và những chuyển biến đó có thể làm mất mát đi của cải trần gian. Nhưng Chúa đã hứa ở với ta, Chúa đã hứa thương chúng ta, Chúa đã hứa sẽ làm cho gánh nặng chúng ta nhẹ đi thì Chúa sẽ giữ lời đó, vì Chúa rất trung tín với những lời Chúa hứa.
Xin Chúa Thánh Thần hôm nay giúp cho chúng ta và con em chúng ta biết tỉnh thức lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chúa gọi mở cửa lòng ra. Chúa gọi gắn bó với Chúa. Chúa gọi yêu thương mọi người. Chúa gọi hãy đến với Chúa, đem tất cả cuộc đời và gánh nặng đến với Chúa, Chúa sẽ bổ sức cho. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Thánh Gia kênh 1b, ngày 28/8/1998
Bài Phúc Âm hôm nay nói về sự Chúa Giêsu gọi và chọn mười hai tông đồ. Trong số mười hai Bùi-Tuần 2310
Bài Phúc Âm hôm nay nói về sự Chúa Giêsu gọi và chọn mười hai tông đồ. Trong số mười hai người đó, một người là Giuđa chết sớm, còn lại mười một người tông đồ. Mười một người tông đồ đó đã đi rao giảng Tin Mừng Đức Kitô khắp nơi. Và cùng với việc rao giảng Tin Mừng Đức Kitô, mười một tông đồ đó đã đặt tay truyền chức thánh cho nhiều người và sai họ đi. Đến lượt những người này lại đi rao giảng Tin Mừng Đức Kitô. Và cũng nhóm người này lại đặt tay truyền chức thánh cho những người khác mà các ngài chọn và gọi rồi sai đi. Cứ như vậy, Tin Mừng về Đức Kitô qua các tông đồ, và những người từ các tông đồ đặt tay sai đi, đã lan ra qua 2000 năm.
Tin Mừng Đức Kitô đã lan khắp nơi, cho tới Việt Nam, cho tới điạ phận Long Xuyên, cho tới Rạch Giá, Xẻo Dinh. Nếu chúng ta truy về nguồn, thì có thể là chức thánh của tôi, chức linh mục của các cha ở đây, phép rửa tội, thêm sức anh chị em có, là từ một trong nhóm các tông đồ xưa, biết đâu là từ thánh Phêrô, biết đâu từ thánh Gioan, biết đâu là từ các thánh tông đồ khác. Nhưng mà chắc chắn là chúng ta hưởng thụ Tin Mừng, bí tích, nhất là các chức thánh từ các thánh tông đồ. Suy nghĩ như vậy đã gợi nên trong lòng tôi một số tâm tình đạo đức. Tôi xin chia sẻ vắn tắt hai tâm tình này.
Tâm tình thứ nhất là tâm tình tạ ơn. chúng ta tạ ơn Chúa, vì xưa khi gọi các tông đồ, Đức Kitô đã nhớ đến chúng ta hôm nay, ở đây. Ngài đã nghĩ đến từng người. Ngài đã nghĩ tới từng cộng đoàn của chúng ta. Ngài đã thương yêu từng người chúng ta. Ngài đã bảo vệ và vẽ các chương trình cho từng cộng đoàn, cho từng họ đạo chúng ta. Chúng ta tạ ơn Chúa. Và ơn đó là rất lớn, ơn được gọi, ơn được chọn. Chúng ta tạ ơn Chúa nhất là được chia sẻ đời sống của Chúa Ba Ngôi. Qua các tông đồ và những vị nối tiếp các tông đồ, chúng ta được chia sẻ sự sống của Chúa Ba Ngôi. Đó là chúng ta được nâng lên một địa vị cao hơn. Chúng ta được bước vào những hy vọng lớn hơn. Chúng ta được đi vào một sự sống rất khác với sự sống tự nhiên của chúng ta.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì nhờ các tông đồ mà hôm nay chúng ta được hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, với tất cả các nơi trong Hội Thánh trên thế giới này, và được hiệp thông với Đức Mẹ, với thánh Giuse, với tất cả Hội Thánh trên trời. Hãy biết cảm tạ Chúa và hãy biết vinh dự được làm con Thiên Chúa qua phép rửa tội.
Ngoài tâm tình tạ ơn, chúng ta cũng cần phải tạ ơn những cái mà hôm nay chúng ta đang tham dự. Chúng ta tạ ơn vì nhà thờ mới. Đó là tất nhiên. Đó là một công trình đáng mừng. Nhưng khi tôi nhìn anh chị em từng người với một đức tin vững mạnh. Khi tôi nhìn nếp sống họ đạo với một nếp sống tương đối là đạo đức và có nhiều phấn đấu, thì tôi cho rằng: những cái đó chính là công trình còn quý hơn, còn tốt đẹp hơn cái nhà thờ vật chất này. Hãy biết cảm tạ Chúa vì những hồng ân Chúa đã ban.
Tâm tình đạo đức thứ hai là tâm tình trách nhiệm. Khi Chúa đã chọn ta, khi đã gọi ta thì Chúa trao trách nhiệm cho chúng ta. Trách nhiệm gìn giữ ơn Chúa đã ban, và trách nhiệm phát triển ơn Chúa theo đúng chiều hướng của Thánh Linh. Khi tôi nhìn anh chị em với kết quả đáng mừng hôm nay, tôi thấy là tinh thần trách nhiệm của anh chị em đã quá rõ. Không những bảo vệ được đức tin trong những thời gian khó khăn, thử thách, mà đã phát triển được đức tin về con số, về phẩm chất. Nhưng chúng ta đừng dừng ở mức độ này. Cần phải phát triển thêm nữa theo hướng, và tôi thấy chúng ta cần phải phát triển. Đó là nên đi sâu hơn về Lời Chúa. Thứ hai là nên đi sâu hơn về sự cầu nguyện. Thứ ba là đi sâu hơn về sự tham dự phụng vụ, thánh lễ. Thứ bốn là đi sâu hơn về trách nhiệm liên đới, từ thiện, bác ái đối với những người chung quanh.
Sáng hôm qua, khi tôi dự cấm phòng ở hạt Chợ Lớn, tôi có trao đổi với một số anh em linh mục về vấn đề phát triển Tin Mừng. Tôi thấy có nhiều linh mục đã có những kinh nghiệm rất hay về phát triển Tin Mừng qua sự học hỏi lời Chúa, qua sự tham dự cầu nguyện, qua sự tham dự phụng vụ thánh lễ, và nhất là qua sự tham dự phụng vụ thánh lễ rất nghiêm trang, rất tích cực, tập trung vào Đức Kitô, gặp gỡ Đức Kitô, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh từ Đức Kitô, đón nhận ơn sai đi từ Đức Kitô. Tất cả những cái đó là phát triển về chiều sâu.
Cách đây mấy ngày, tôi ở Bắc, ở địa phận Lạng Sơn, tôi có dịp trao đổi với một số giáo dân tông đồ. Và tôi thấy có một số giáo dân đúng là tông đồ kế tiếp phần nào các tông đồ xưa. Với hai bàn tay túng nghèo, với một số vốn liếng giáo lý thô sơ, nhưng mà đầy lửa mến, họ đã thu được từng trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm người vào đạo công giáo, mà chỉ là một người giáo dân thường. Quan trọng là có lửa trong lòng, có một đức tin đẩy mạnh đi về phía trước. Chỉ dựa vào ơn riêng của Đức Kitô mà thôi. Qua kinh nghiệm đó, tôi cho rằng việc ưu tiên mà chúng ta, trong tất cả các họ đạo, cần phải quan tâm đó là đào tạo những hạt nhân, đào tạo những tông đồ trong giới trẻ, trong gia đình, trong trí thức, trong người lớn. Phải có những người tông đồ giáo dân, phải biết cầu nguyện, phải biết đón nhận ơn Chúa Thánh Thần với một tấm lòng hết sức khiêm tốn.
Hôm nay gặp anh chị em, tôi vui mừng và tôi hy vọng. Tôi tin rằng sự gặp gỡ hôm nay trong nhà Chúa, nhất là trong dịp lễ mừng sinh nhật Đức Mẹ, sẽ khởi đầu một giai đoạn mới để chúng ta phát triển ơn của Chúa gọi, ơn của Chúa chọn. Và mỗi người chúng ta phải trở thành một tông đồ Chúa và nối nghiệp những tông đồ xưa, không phải là trong chức thánh, mà là trong việc đi rao giảng và làm chứng cho Nước Trời.
Xin Thánh Linh giúp cho chúng ta biết đón nhận ơn sai đi ngày hôm nay. Amen.
Lễ thêm sức và làm phép nhà thờ tại Xẻo Dinh, Rọc Lá, ngày 8/9/1998
Nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi nhận thấy đám đông đến với Chúa Giêsu mang theo nhiều khát Bùi-Tuần 2311
Nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi nhận thấy đám đông đến với Chúa Giêsu mang theo nhiều khát vọng khác nhau. Như khát vọng được chữa khỏi bệnh tật. Như khát vọng được trừ quỉ. Như khát vọng được nghe lời Đức Kitô giảng dạy và nhất là khát vọng được đón nhận ơn thiêng xuất phát từ bản thân Đức Kitô. Một sức mạnh thiêng liêng đem lại cho con người sự bình an và làm tiêu tan bệnh tật, lo âu, thất vọng.
Có một điều tôi nhận thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, là Chúa Giêsu đã đáp ứng tất cả những khát vọng của những người đến với Ngài, nhưng Ngài không đáp ứng một mình, mà Ngài đã đáp ứng trong tinh thần cộng đoàn. Ngài làm phép lạ, giảng dạy, ban ơn trước nhiều người trong tinh thần liên đới và nhóm mười hai tông đồ. Không phải là vì Ngài không thể làm phép lạ một mình, nhưng Ngài muốn cho tinh thần cộng đoàn được nở, phát triển. Vì thế Ngài mang theo các tông đồ đi, để các ngài cũng chia sẻ trách nhiệm và danh dự của Ngài.
Điều mà Đức Kitô làm trong bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy cũng đang và đã thực hiện ở trong họ đạo Rọc Lá chúng ta. Có nghĩa là đức tin của chúng ta, trong họ đạo này, đã và đang được phát triển nhờ tinh thần cộng đoàn, trong tinh thần cộng đoàn.
Trước hết là tinh thần cộng đoàn thu hẹp trong nội bộ. Tôi biết anh chị em gần 30 năm nay. Và tôi nhận thấy rằng tinh thần cộng đoàn trong nội bộ họ đạo chúng ta là bằng phẳng. Anh chị em đã biết nâng đỡ nhau. Và biết đón nhận sự nâng đỡ của nnhững người xung quanh, không phải chỉ là cộng đoàn những người đã rửa tội, mà gồm cả những người xung quanh mặc dù không rửa tội. Chúng ta vẫn đón nhận sự nâng đỡ của tất cả những người xung quanh. Và chúng ta rất trân trọng sự nâng đỡ đó, nhờ tinh thần cộng đoàn thu hẹp trong nội bộ là họ đạo. Chúng ta đã giữ gìn đức tin, đã phát triển đức tin. Một điều tôi nhận thấy ở đây là những người lớn tuổi đã biết làm gương sáng, và đã biết dùng lời nói để khuyên dạy thế hệ đi sau. Nhờ tinh thần cộng đoàn đằm thắm đó, hôm nay họ đạo có một lớp trẻ tương đối tốt.
Tiếp đến là tinh thần cộng đoàn mở rộng sang các họ đạo khác. Thánh lễ hôm nay đang làm chứng điều đó. Tôi đang nhìn thấy những người tham dự thánh lễ, những người tham dự vào ca đoàn, những người tham dự vào việc tổ chức thánh lễ hôm nay, đến từ các họ đạo khác. Nhờ tinh thần cộng đoàn mở rộng này mà Đức Kitô phát triển đức tin của chúng ta. Người ở tạm trú cũng nhờ tinh thần cộng đoàn mở rộng mà đón nhận ơn phát triển đức tin. Và những người từ xa tới tham dự thánh lễ hôm nay, trong tinh thần cộng đoàn, cũng được phát triển đức tin nhờ tinh thần dấn thân của mình.
Và sau cùng chúng ta có một tinh thần cộng đoàn mở rất rộng ra gắn bó với các thánh và Đức Mẹ Maria. Lúc nãy trong thánh lễ, anh chị em đã hát bài ca tụng Đức Mẹ và xin Đức Mẹ thương xót chúng ta. Tôi tin rằng, khi Đức Mẹ nghe lời chúng ta cầu nguyện thì không thể nào Đức Mẹ làm ngơ được. Tinh thần cộng đoàn, tinh thần mẹ con, tinh thần liên đới trong Hội Thánh sẽ khiến Đức Mẹ phù hộ, nâng đỡ chúng ta, nhất là cộng đoàn bé nhỏ, xa xôi này một cách đặc biệt hơn.
Chúng ta hãy có một tinh thần cộng đoàn luôn tiến mạnh và luôn phát triển, biết dấn thân cho đi và biết khiêm tốn đón nhận. Khi chúng ta làm những điều đó vì danh Đức Kitô, thì chính đức tin của chúng ta sẽ được vững mạnh, sẽ được phát triển ngay từ bây giờ, qua những tổ chức đơn sơ, nhẹ nhàng. Như hôm nay, con em chúng ta, khi gặp thấy tinh thần cộng đoàn nhiều màu sắc và rất thực tế này, sẽ có thể nhờ đó mà đi về phía trước, biết mở ra dấn thân, đón nhận, để làm tinh thần cộng đoàn Hội Thánh càng ngày càng trong sáng, càng ngày càng tích cực. Và đó, tôi nghĩ là điều mà Chúa Thánh Thần mong ước, là tinh thần cộng đoàn, tinh thần Hội Thánh được phát triển. Và nhờ đó, và trong đó, và cùng đó, đức tin của chúng ta sẽ mạnh lên, sẽ lan rộng ra và sẽ trong sáng ra. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay có một câu khiến tôi lo sợ. Câu đó là “Người mù lại dắt người mù Bùi-Tuần 2312
Trong bài Phúc Âm hôm nay có một câu khiến tôi lo sợ. Câu đó là “Người mù lại dắt người mù”. Nghe câu đó, tôi liên tưởng đến những người có trách nhiệm dạy bảo và làm chứng cho đạo. Trong số những người đó có các bậc phụ huynh nói chung, mọi tín hữu nói chung, và các người có trách nhiệm lãnh đạo dạy bảo như các tu sĩ, các giáo lý viên, các linh mục, giám mục nói riêng. Trong số tất cả những người này có những người tôi thấy đức tin rất mạnh, thiện chí rất cao, nhưng có thể là mù mịt phần nào về nội dung Tin Mừng. Tôi thấy có những người học rất nhiều kinh, thuộc lòng cả một cuốn kinh từng mấy trăm trang, và bắt những người khác cũng thuộc lòng như vậy, nhưng rồi không phân biệt được cái nào là chính, cái nào là phụ.
Đi vào những sai lầm trong quan điểm và trong việc làm, để rồi do đó tình hình đạo trở nên mù mịt, coi như không có sự sống, coi như không có ánh sáng, làm cho đạo trở nên một gánh nặng, trở nên một cái gì làm cớ cho thiên hạ chê cười bài bác. Hậu quả rất là tai hại. Và để tránh những điều tai hại đó, chúng ta phải làm gì để cho tình hình giữ đạo, dạy đạo, làm chứng cho đạo bớt mù mịt đi.
Tôi xin giới thiệu những nguồn sinh sự sống và ban ánh sáng chúng ta cần lui tới, để tình hình giữ đạo của chúng ta, dạy đạo của chúng ta, làm chứng cho đạo của chúng ta trở nên sống động, toả sáng các chân lý và toả sáng các nhân đức.
Nguồn thứ nhất là lời Chúa. Công đồng Vatican II khuyên dạy chúng ta: tất cả mọi người hãy trở về Kinh Thánh. Nếu cần tóm lại những điều công đồng dạy về Kinh Thánh, thì có mấy điểm sau đây. Công đồng dạy rằng tất cả mọi người có đạo cần phải tiếp xúc trực tiếp với lời Chúa. Nghĩa là phải đọc Kinh Thánh, trực tiếp đọc Kinh Thánh.
Thứ hai là mọi người tín hữu cần phải đọc Kinh Thánh một cách siêng năng và tự nguyện. Nghĩa là không phải bị ép buộc, thỉnh thoảng mới đọc, mà đọc một cách siêng năng và tự nguyện. Chẳng hạn là một tuần ít ra chúng ta đọc Kinh Thánh, lời Chúa một lần.
Thứ ba là mọi người tín hữu hãy cầu nguyện từ lời Chúa. Mình đọc Kinh Thánh xong, suy niệm một chút rồi lấy hứng từ lời Chúa mà cầu nguyện.
Và sau cùng mọi người hãy tìm hiểu Đức Kitô từ Kinh Thánh, chớ không phải là từ các kinh, từ các sách cắt nghĩa, mà là từ Phúc Âm.
Tôi thấy trong địa phận chúng ta nói chung, và trong hạt Chợ Mới này nói riêng, đã khởi sự phong trào trở về với Phúc Âm, học Kinh Thánh, chia sẻ lời Chúa. Và tôi thấy có nhiều kết quả tốt. Trong những nơi đã có kết quả tốt như vậy thì có Mỹ Luông ở đây. Anh chị em đã vâng lời Công đồng đi vào Kinh Thánh. Và Kinh Thánh sẽ giúp cho chúng ta bớt mù mịt đi, bởi vì có ánh sáng, có sự sống của Đức Kitô.
Nguồn thứ hai giúp cho chúng ta trở về với Chúa nguồn mạch sự sống và ánh sáng đó là phép Mình Thánh. Chúng ta tin rằng trong phép Mình Thánh có Chúa Giêsu: “Ta là bánh ban sự sống”, thì khi chúng ta đến với lòng tin khao khát, chắc chắn Chúa sẽ ban cho chúng ta sự sống. Nhưng mà đừng quên điều này, tôi xin nhấn mạnh, anh chị em hãy nhớ là khi chúng ta đến chầu Mình Thánh, cầu nguyện và rước lễ, thì hãy tập quen làm lại lời giao ước với Chúa, là cùng Đức Kitô trở mình, biến mình thành của lễ đẹp lòng Chúa, tuân phục thánh ý Chúa như Đức Kitô đã tuân phục thánh ý Chúa Cha trên thánh giá. Và của lễ này sẽ dâng lên để cho lợi ích các linh hồn. Khi chúng ta dâng lễ, chịu lễ và chầu Mình Thánh với một ý nguyện làm lại lời giao ước ấy với Chúa, thì chúng ta sẽ thấy Chúa đến với tâm hồn ta, ban sự sống của Người, ban ánh sáng của Người, và bấy giờ thực sự chúng ta nghèo khó chỉ lấy Chúa làm gia nghiệp mà thôi.
Nguồn mạch thứ ba là con đường thánh giá. Con đường thánh giá ở đây, không phải chúng ta chỉ vào nhà thờ viếng chặng đàng mà thôi, mà hãy theo Đức Kitô trên con đường thánh giá mà hiện nay Ngài đang đi trong Hội Thánh, nhất là Hội Thánh Việt Nam. Đức Kitô cũng đang vác thánh giá trong Hội Thánh với bao nhiêu khổ đau, và chúng ta cũng hãy đi trên con đường thánh giá mà Đức Kitô đang đi trong cuộc sống đồng bào Việt Nam.
Lúc nãy ông đại diện giáo xứ có nói tới khó khăn, phấn đấu của anh chị em trong cuộc sống. Đó là thánh giá mà chính Đức Kitô cũng đang chia sẻ những thánh giá cuộc đời của anh chị em. Chúng ta cũng vậy, nguồn mạch ơn thánh chúng ta có thể nhận lãnh được là đi vào sự chia sẻ thánh giá của Đức Kitô đang vác trong Hội Thánh Việt Nam, cho đồng bào Việt Nam, trong địa phương Chợ Mới này, nơi những người đau khổ, nơi những người bệnh, nơi những người nghèo, nơi những người không còn hy vọng.
Sau cùng một nguồn hứa ban sự sống và ban ánh sáng đó là sự phấn đấu thường xuyên, phấn đấu trong nội tâm của mình để chế ngự những gì là trái với Phúc Âm, là cản trở con đường nên thánh, là phấn đấu để mở ra đón nhận thánh ý Chúa, và phấn đấu cùng với đồng bào để đẩy lui bóng tối, từ bóng tối nghèo túng, bóng tối dốt nát, bóng tối tội lỗi. Mình cứ phấn đấu đi, và trong tinh thần Đức Kitô thì Chúa sẽ ban ơn.
Nếu anh chị em giàu, nếu anh chị em có văn hoá thì tôi rất mừng. Nhưng điều đó có thể đến chậm hơn cái điều mà anh chị em có thể có ngày mai, hôm nay, lúc này là anh chị em có sự sống của Đức Kitô, là anh chị em có sự sống của Chúa Ba Ngôi. Ánh sáng của Thiên Chúa và sự sống đó sẽ lớn mạnh lên. Điều đó tôi rất mừng. Tôi chỉ mong rằng đang khi chúng ta phấn đấu xóa đói giảm nghèo để mở rộng văn hoá, thì ít ra có một điều chắc chắn chúng ta có thể làm được, là phát triển về đời sống người con Thiên Chúa bằng bốn đường mà tôi vừa nói: học hỏi Lời Chúa, phép Mình Thánh, dấn thân vào con đường thánh giá, phấn đấu nội tâm và phấn đấu với những người chung quanh để nối dõi Nước Trời.
Xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta biết đón nhận ơn Chúa soi sáng hôm nay, và có một quyết tâm nào đó để cho chúng ta bớt mù mịt đi, để chúng ta sau này dù là phụ huynh, giáo lý viên, hội đồng giáo xứ, tu sĩ, giáo sĩ, chúng ta khi hướng dẫn người khác về đạo, khi làm chứng cho đạo trước mặt đồng bào ở ngoài công giáo ở đây, thì chúng ta nắm vững thế nào là nội dung Tin Mừng. Nội dung Tin Mừng chính là Đức Kitô. Amen.
Cách đây chừng một tháng, tôi đến thăm Bà Tư. Tôi thấy lúc đó Bà Tư và con cái Bà đang làm Bùi-Tuần 2313
Cách đây chừng một tháng, tôi đến thăm Bà Tư. Tôi thấy lúc đó Bà Tư và con cái Bà đang làm hết sức mình để sự sống của Bà được tồn tại một cách tốt hơn, nhưng đồng thời Bà và con cái Bà cũng chuẩn bị để chấp nhận những gì không thể tránh được.
Thái độ như thế của Bà Tư và của gia đình luôn kèm theo tâm tình cầu nguyện sốt sắng và tình yêu thương liên đới phục vụ rất cao. Chính tâm tình cầu nguyện này cùng với tình yêu thương liên đới phục vụ này đã làm cho cái nhìn của Bà Tư và gia đình thêm sâu sắc về đức tin. Mọi người đã nhìn thấy trong các biến cố cuộc đời, kể cả bệnh tật, sự chết, có một chiều kích thiêng liêng đầy ý nghĩa.
Tôi thấy, sốt sắng cầu nguyện và yêu thương liên đới phục vụ là con đường tắt để đến với Chúa, để đón nhận Nước Trời, để làm cho đời mình nên cao đẹp.
Bà Tư đã đi trên con đường đó. nên mặc dù đau đớn, Bà đã ra đi thanh thản. Bởi vì đối với Bà, chết là bước vào một cõi sống tốt đẹp hơn, ra đi là còn ở lại với một sự hiện diện gần gũi hơn.
Con cái Bà cũng đang đi trên con đường đó. Bởi vì mấy ngày nay, tất cả thời gian của gia đình đều tập trung vào cầu nguyện và sống tình yêu liên đới, biết đón nhận và biết cho đi những tâm tình cao quý nhất.
Mọi người chúng ta, giờ đây, cũng đang đi trên con đường đó. Bởi vì chúng ta có mặt ở đây lúc này, là để cầu nguyện và vì tình yêu thương liên đới.
Khi cầu nguyện thực tình, và khi phục vụ liên đới thực tình, chúng ta sẽ không hỏi Chúa, hỏi nhau, và hỏi mình: Tại sao, để làm gì, rồi sẽ ra sao. Bởi vì chúng ta tin tưởng nơi Chúa và tin cậy vào nhau. Đó là đặc điểm của Hội Thánh và của mọi thành phần Hội Thánh. Nhờ niềm tin, mà chúng ta khai phá được những giá trị cao quý không tưởng tượng nổi. Nhờ niềm tin, mà chúng ta đón nhận được những gì mà chúng ta không đáng được.
Trong bầu không khí cầu nguyện và yêu thương này, giờ đây tôi nhìn Bà Tư, để ngợi khen Chúa. Tôi nhìn nhận Bà đã góp phần không nhỏ vào chương trình làm vinh quang Chúa. Qua cuộc sống của Bà chồng chất những dấu ấn của cầu nguyện và yêu thương liên đới phục vụ.
Tôi nhìn Bà Tư, để cậy trông Chúa. Bởi vì Bà Tư đã đến với Chúa không hề với tâm thức kể công theo kiểu thống kê thành tích, nhưng với tâm tình người con đơn sơ bé nhỏ, mọi sự đều cậy trông nơi Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót.
Tôi nhìn Bà Tư, để càng thêm xác tín về tương lai Hội Thánh. Theo tôi, tương lai Hội Thánh chủ yếu sẽ là công việc của các giáo dân: Những giáo dân cũng như Bà Tư đây biết sống đạo, giảng đạo, mở đạo, làm chứng cho đạo bằng cầu nguyện và tình yêu thương phục vụ liên đới, với phấn đấu cao, với nội dung tốt, với phong cách đẹp.
Giờ đây, chúng ta tiếp tục tiễn đưa Bà Tư về nơi an nghỉ, cũng bằng cầu nguyện và tình yêu thương.
Giờ đây chúng ta tiếp tục nâng đỡ gia đình Bà Tư trong biến cố đau thương này cũng bằng cầu nguyện và tình yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng phục sinh, Chúng con vững tin vào Chúa. Amen.
Lễ an táng Bà Maria Lê Thị Ngời, Thân Mẫu Linh Mục Phêrô Nguyễn Tấn Khoa, tại nhà thờ Tôma ngày 14/9/1998
Trong phụng vụ có hai loại thánh lễ thường được rất chú ý. Một là loại thánh lễ mang niềm vui Bùi-Tuần 2314
Trong phụng vụ có hai loại thánh lễ thường được rất chú ý. Một là loại thánh lễ mang niềm vui, như là lễ mừng bổn mạng, mừng nhà thờ mới, mừng ngân khánh. Hai là loại thánh lễ mang nỗi buồn, như lễ cầu hồn, lễ an táng, lễ giỗ. Tất cả hai loại thánh lễ đó thường có khả năng gây được nhiều ảnh hưởng tốt trong mục vụ và trong truyền giáo.
Nhưng theo kinh nghiệm thì những lễ mang nỗi buồn khi được tổ chức tốt sẽ gây được nhiều ấn tượng sâu sắc hơn là những lễ mang niềm vui. Chính vì thế mà tôi và các cha có mặt hôm nay, tại đây, để dâng lễ giỗ 100 ngày cho bà cố Matta. Trong thánh lễ này, tôi sẽ không khen người quá cố. Khen là một việc làm rất tế nhị. Nếu không khéo lời khen sẽ dễ gây ra những dị nghị. Vì thế trong thánh lễ này, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút những suy tư của tôi về những người mẹ linh mục.
Người mẹ linh mục là một đối tượng tôi vẫn kính trọng cách riêng, là những đối tượng tôi vẫn giảng rất nhiều. Nếu được hỏi tôi rằng bà cố nào được tôi kính trọng hơn, để ý hơn, thì tôi xin thành thực thưa rằng đó là những bà cố, những bà mẹ linh mục giống tâm hồn Đức Mẹ sầu bi. Đức Mẹ sầu bi được gọi là sầu bi khi Đức Mẹ sống lời tiên tri Simêon: “Suốt đời bà tâm hồn bà sẽ bị đau đớn như lưỡi đòng đâm thâu qua”. Lưỡi đòng đó là tội lỗi nhân loại, là những khổ đau của Đức Kitô. Đức Mẹ gọi là Đức Mẹ sầu bi khi Đức Mẹ bước theo chân con mình trên đường vác thánh giá và đứng dưới thánh giá để chứng kiến và than phận những khổ đau của con mình là Đức Kitô. Đức Mẹ gọi là Đức Mẹ sầu bi khi Đức Mẹ dâng tất cả những đau đớn riêng biệt, bất thường và đời thường của mình trên trái tim, như bàn thờ đầy lòng mến, đầy khiêm tốn, đầy cầu nguyện.
Lưỡi đòng và thánh giá trên bàn thờ, lửa mến khiêm cung đó là đặc điểm của Đức Mẹ sầu bi. Hiện nay nếu bằng vào thánh giá trong tâm hồn đau đớn, cầu nguyện, khiêm cung, yêu thương cũng là những thời sự của Hội Thánh và của đời các linh mục chúng tôi. Chúng tôi biết rằng lưỡi đòng và thập giá trong yêu thương và tâm hồn khiêm tốn chính là cái giá mà Hội Thánh nói chung và các linh mục nói riêng sẽ phải trả để cho các linh hồn được cứu độ, để nhiều người được thánh hoá, để nhiều người được ơn đổi mới trở về với Chúa. Đối với những người đã có kinh nghiệm thì vinh quang của Đức Mẹ chính là lưỡi đòng và thánh giá trong yêu thương, khiêm tốn thế nào, thì các linh mục, những người theo chân Chúa Kitô và Đức Mẹ, vinh quang cũng là lưỡi đòng thánh giá trong trái tim yêu thương, khiêm tốn. Lưỡi đòng và thánh giá trong tinh thần cầu nguyện yêu thương, khiêm tốn hiện nay cũng là một ơn gọi đặc biệt Chúa gởi đến cho các cộng đoàn tín hữu, cho anh chị em. Và tôi thấy rất nhiều người đã quảng đại đáp lại ơn gọi đó và mỗi người đã sống ơn gọi đó theo mức độ của mình, theo hoàn cảnh của mình, theo khả năng của mình, nhất là những bà cố, những ông cố, những người có liên hệ mật thiết với chức vụ của linh mục, của những người truyền giáo. Tôi thấy nhiều người trong anh chị em luôn sống một đời âm thầm, khiêm tốn, chia sẻ lo âu và đau đớn của chủ chăn. Đó cũng là ơn gọi của Đức Mẹ sầu bi. Tôi thấy nhiều anh chị em vẫn âm thầm tham gia vào các hoạt động truyền giáo cách này cách khác, và âm thầm đi theo từng bước trên con đường thánh giá của các linh mục, của các nhà truyền giáo. Đó cũng là theo ơn gọi của Đức Mẹ sầu bi. Nhất là tôi thấy rất nhiều linh hồn hiện nay sống khổ cực, sống tuân phục thánh ý Chúa trong đời thường của mình để làm của lễ thánh hoá các linh mục, để giúp cho các linh mục bớt đi sự tầm thường, bớt đi những yếu đuối để sống xứng đáng là người môn đệ Đức Kitô. Khi nhìn những ngừơi như vậy, nhất là những ân nhân của linh mục, các bà cố, các ông cố, tôi nhớ lại lời Đức Kitô: “Những ai tuân giữ lời Chúa, tuân phục ý Chúa Cha, những người đó là mẹ Ta, là anh chị em của Ta”. Và vì thế khi nhìn những người tôi vừa nói lúc nãy sống ơn gọi của Đức Mẹ sầu bi, tôi nhìn họ cũng như là cha tôi, cũng như là mẹ tôi, cũng như là cha mẹ anh chị em của các linh mục chúng tôi.
Có được một thánh đường mới đẹp như thế này để dâng thánh lễ, đó là một điều rất đáng mừng. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu có được những của lễ như Đức Mẹ sầu bi sống động với lưỡi đòng và thánh giá trong trái tim đầy lửa mến, khiêm tốn, cầu nguyện, thì đó là một điều đáng mừng hơn. Chúa mong muốn cho chúng ta trở thành những của lễ đó. Hội Thánh bây giờ, Hội Thánh Việt Nam, giáo phận Long Xuyên đang rất cần những của lễ đó, những người trở nên giống Đức Mẹ sầu bi, trở nên những người mẹ thiêng liêng đầy can đảm, đầy lửa mến của các linh mục như Đức Mẹ sầu bi đã làm, Mẹ Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.
Trong thánh lễ này, đang khi chúng ta cầu nguyện cho linh hồn Matta, chúng ta cũng xin Đức Mẹ sầu bi giúp cho chúng ta biết sống ơn gọi của Đức Mẹ xưa, để cho chúng ta biết can đảm tham gia vào chương trình cứu độ Đức Kitô trong hoàn cảnh mình, trong khả năng của mình. Tôi tin rằng sức sống của Hội Thánh là ở những của lễ đó. Amen.
Khi nhìn giáo hạt Rạch Giá nói chung, và giáo xứ Rạch Giá nói riêng, tôi thấy đặc điểm này, đó Bùi-Tuần 2315
Khi nhìn giáo hạt Rạch Giá nói chung, và giáo xứ Rạch Giá nói riêng, tôi thấy đặc điểm này, đó là Hội Thánh tại đây phục vụ con người, phục vụ xã hội. Đây là một đường hướng sống đạo đúng đắn. Đường hướng sống đạo này đã được long trọng và chính thức công bố tại Công đồng Vatican II. Trong diễn văn bế mạc Công đồng, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã khẳng định: “Hội Thánh không chọn chính mình, làm mục đích cho chính mình, nhưng Hội Thánh phục vụ nhân loại”. Chúng ta đã thực hiện đúng đường hướng đó. Khi chúng ta phục vụ con người thì chúng ta cộng tác với Chúa Thánh Thần trong những việc Chúa Thánh Thần làm. Ngài làm trong xã hội, Ngài làm cho đồng bào chúng ta. Chúa Thánh Thần là Đấng đem mọi người đến chân lý toàn vẹn. Chúa Thánh Thần là Đấng giúp cho người ta yêu thương nhau, sống liên đới với nhau. Chúa Thánh Thần là Đấng giúp cho mọi người biết phát triển những tiềm năng tốt mà tạo hoá sắp đặt trong mỗi người, trong mỗi dân tộc, trong thiên nhiên, trong xã hội. Chúa Thánh Thần là Đấng giúp cho từng dân tộc biết đi từng bước để nâng cao cuộc sống của mình lên, theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Khi Chúa Thánh Thần làm như vậy thì Chúa Thánh Thần không phân biệt người lương, người giáo. Người làm cho tất cả mọi người, cho tất cả mọi dân tộc. Chúng ta đã cộng tác với Chúa Thánh Thần để phục vụ con người và xã hội theo hướng đo. Điều đó chứng tỏ Hội Thánh tại Việt Nam chúng ta nói chung, và Hội Thánh tại địa phương chúng ta nói riêng có một cái nhìn rất cởi mở. Cởi mở ở chỗ là chúng ta nhìn Chúa Thánh Thần không phải chỉ hoạt động trong ranh giới nội bộ Hội Thánh, mà Ngài cũng hoạt động rộng rãi trong lịch sử của nhân loại. Cái nhìn cởi mở của chúng ta là chúng ta nhìn nhận không phải chỉ những người công giáo chúng ta mới được Chúa Thánh Thần yêu thương và dẫn về ơn cứu độ, mà tất cả mọi người, tạo vật Thiên Chúa đã dựng nên đều được Chúa Thánh Thần yêu thương, giúp đỡ và tìm cách thích hợp nhất để họ có thể chia sẻ ơn cứu độ của Đức Kitô. Như vậy là chúng ta không bao giờ chấp nhận cái quan điểm cho rằng Hội Thánh chỉ hoạt động trong nội bộ của mình, chỉ tìm cái lợi riêng cho đạo của mình, chỉ lo những vấn đề trong khuôn khổ đạo Hội Thánh của mình. Trong cái nhìn cởi mở để phục vụ nhân loại, con người, xã hội cộng tác với Chúa Thánh Linh, trong quá khứ giáo hạt chúng ta, giáo xứ chúng ta đã khá thành công. Và điều đó càng thúc đẩy chúng ta phải đi xa hơn trong tương lai khi phục vụ con người và xã hội. Đi xa hơn, tôi muốn nói là chúng ta đòi có những phấn đấu mới. Phấn đấu mới ở đây, một đàng là tìm cách đẩy lùi những bóng tối tội lỗi, những bất công, những bất trung, những bất tín và những tệ nạn làm cho đồng bào ta, Hội thánh ta suy sụp về đạo đức. Và một đàng chúng ta cố gắng làm sao để phát huy những giá trị tốt đẹp nhất của gia đình, của họ đạo, của địa phương, của dân tộc Đất Nước chúng ta. Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng khi chúng ta phục vụ con người, Đất Nước với tất cả thiện chí, cố gắng của mình, chúng ta chỉ có thể đạt được những hậu quả tốt đẹp mà Chúa muốn, nếu chúng ta biết cầu nguyện, biết từ bỏ mình, biết có tinh thần cộng đoàn cao .Về điểm này, tôi nghĩ là sẽ không thừa, nếu tôi nhấn mạnh ở đây để xin anh chị em hãy có những phấn đấu mới, hãy đi sâu hơn vào tinh thần cầu nguyện, hãy đi sâu hơn vào tinh thần từ bỏ chính mình, hãy đi sâu hơn vào tinh thần cộng đoàn. Chỉ có cách đó chúng ta mới hy vọng góp phần vào việc nâng cao đồng bào chúng ta lên, sự sống của dân tộc chúng ta lên. Điều mà Chúa muốn hơn cả khi chúng ta phục vụ con người xã hội Việt Nam, là tất cả mọi người sẽ được cứu rỗi, tất cả mọi người sẽ được đi vào tình thương của Chúa Ba Ngôi, trở nên con cái Thiên Chúa. Mà được như vậy thì Chúa đòi chúng ta phải cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ, phải cầu nguyện nhiều để gắn bó với Đức Kitô, phải sẵn sàng vác thánh giá như Đức Kitô. Không có một ơn thánh giá rẻ, mà chỉ có những ơn thánh mắc tiền, mắc giá. Có nghĩa là, ơn thánh không phải là chúng ta muốn là có, mà ơn thánh phải được trả bằng hy sinh, bằng cầu nguyện, bằng nhiều từ bỏ mình, nhất là những ơn thánh có tính cách thánh hoá, có tính cách cứu độ, có tính cách truyền giáo.
Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin Chúa cùng giúp cho chúng ta đi sâu hơn vào tinh thần cầu nguyện, đi sâu hơn vào tinh thần hy sinh từ bỏ, đi sâu hơn vào tinh thần cộng đoàn, để nhờ Thánh Linh chúng ta có những ơn thánh dù những ơn thánh đó chúng ta phải trả bằng những đau đớn, bằng những hy sinh, bằng những vất vả, từ bỏ chính mình.
Tôi tin rằng chúng ta yếu đuối lắm, nhưng nếu chúng ta khiêm tốn cầu xin và sẵn sàng đón nhận ý Chúa thì Chúa sẽ giúp chúng ta. Và khi chúng ta đi vào đúng con đường của Chúa thì chúng ta sẽ thấy sự phục vụ của chúng ta dù bé nhỏ đến đâu cũng sẽ sinh được những hiệu quả lớn lao trước mặt Chúa về con đường cứu độ. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu phán: “Nếu các con là những kẻ gian ác còn biết cho Bùi-Tuần 2316
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu phán: “Nếu các con là những kẻ gian ác còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời. Vậy nếu các con xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các con, thì chắc chắn Chúa Cha sẽ ban Chúa Thánh Thần cho các con”. Khi đọc những lời trên đây, tôi đã tin và đã cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho tôi. Tôi đã cầu nguyện khá lâu, cầu nguyện nhiều lần, cầu nguyện tha thiết sáng hôm nay, và kết quả là tôi cảm nghiệm được tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài đến như một luồng sáng chiếu sâu vào tâm hồn, và đồng thời Chúa soi cho thấy: Ánh sáng Chúa Thánh Thần là nhắm vào sự thanh luyện nội tâm. Giờ đây tôi muốn chia sẻ vắn tắt với anh chị em sự Chúa Thánh Thần đến để thanh luyện nội tâm chúng ta.
Trước hết, khi Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta thì ánh sáng của Ngài nhắm vào sự thanh luyện các phán đoán của chúng ta. Trong mỗi ngày, chúng ta thường có nhiều phán đoán khác nhau, phán đoán về người nọ người kia, phán đoán về tình hình trong nước, về địa phương, phán đoán về Hội Thánh, tình hình bên này, tình hình bên kia, nhất là phán đoán về chính mình. Thông thường chúng ta cho rằng: Những phán đoán của chúng ta đều là đúng. Thế nhưng khi ánh sáng Chúa Thánh Thần chiếu vào chúng ta, thì chúng ta thấy rất nhiều phán đoán của chúng ta là sai lầm. Không những sai lầm mà còn nguy hại, mà còn gây hại cho người khác, cho chính mình. Xưa những người có đạo Do thái cứ tưởng rằng: Chỉ có mình mới được rỗi, còn ngoài dân Chúa ra thì không được rỗi. Với ơn Chúa Thánh Thần, Đức Kitô đã cho họ biết: Sau này những người ngoại từ bên Tây, bên Đông, Nam Bắc sẽ vào Nước Trời, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra. Với lời đó, Chúa Kitô cho thấy những phán đoán của chúng ta nhiều khi rất sai lầm. Rồi cũng hồi đó, những người biệt phái cứ tưởng rằng mình đạo đức hơn biết bao nhiêu người vì mình ăn chay, cầu nguyện, bố thí, giữ rất cẩn thận các luật phụng vụ. Nhưng với ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Đức Kitô cho họ biết, họ chỉ là đạo đức bề ngoài, giống như là những mồ mả sơn phết đẹp bề ngoài, nhưng bên trong thì thối rữa ra.
Ngoài ra, ánh sáng của Chúa Thánh Thần thanh luyện ta còn nhắm vào ý hướng, động lực của các việc ta làm. Khi chúng ta làm việc gì, thí dụ như khi chúng ta đến nhà thờ ngồi dự lễ hôm nay, thì chúng ta nhắm vào một ý hướng mà chúng ta làm do một động lực nào đó. Thí dụ như có người đến lễ hôm nay là để gặp Chúa, là để đón nhận ơn Chúa. Nhưng cũng có người có thể đến lễ hôm nay chỉ là một cái máy, chỉ là khoe khoang chẳng hạn. Xưa những người làm công việc đạo đức, như những người biệt phái cầu nguyện, bố thí, ăn chay, và họ tưởng như thế là có công trước mặt Chúa, rằng sẽ được Chúa thưởng lớn đời sau. Nhưng với ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Chúa cho họ biết họ đã được thưởng công rồi, bởi vì họ làm do động lực khoe khoang, do ý hướng nâng mình lên. Rồi chúng ta cũng nhớ trong Phúc Âm, hai người cầu nguyện trước bàn thờ, người thu thuế và người biệt phái, một người thì nâng mình lên, một người thì hạ mình xuống. Sau cùng, kết quả chúng ta biết, Chúa chấp nhận kẻ khiêm nhường.
Ngoài ra, khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài thanh luyện chúng ta Ngài nhắm vào thái độ đón nhận thánh ý Chúa. Nhiều khi chúng ta tưởng rằng chúng ta làm việc này, chọn việc kia, là vì sáng danh Chúa. Nhưng mà trước mặt Chúa, ý ta rất khác ý Chúa. Thánh Phêrô xưa can Đức Kitô: “Xin Thầy đừng đi chịu chết.” Ý đó có thể là tốt, nhưng với ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu mắng Phêrô: “Con là Satan, ý của con không phải là ý của Chúa Cha soi cho con mà là xác thịt thế gian”. Trong đời sống của chúng ta cũng nhiều khi là thế. Chúng ta gán cho Chúa ý nọ ý kia, nhưng không phải là ý Chúa. Khi Thánh Thần đến chiếu sâu vào tâm hồn, Ngài sẽ thanh luyện thái độ của chúng ta, để chúng ta biết đón nhận vô điều kiện thánh ý Chúa Cha.
Và sau cùng, khi Thánh Thần đến thanh luyện tâm hồn chúng ta, thì Ngài thanh luyện những ký ức, những kỷ niệm chúng ta. Nhất là những người lớn, hay nghĩ lại quá khứ của mình, rồi cho những kỷ niệm đó là công của mình để mà tự hào, để mà tự đắc, để mà xây danh dự mình. Các tông đồ xưa cũng có sai lầm đó khi các ông kể ra với Đức Kitô: “Thưa Thầy, tôi đã nhân danh Thầy mà trừ quỷ.” Đức Kitô với ánh sáng của Chúa Thánh Linh đã dạy, sau khi chúng ta đã làm xong các bổn phận, thì hãy tự nói với mình: “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô ích.” Đừng kiêu căng trên những kỷ niệm của mình.
Chúa Thánh Thần đến để thanh luyện tâm hồn chúng ta, để chúng ta giữ đạo theo chiều sâu, để chúng ta tìm vinh danh Chúa theo ý của Ngài. Và chính vì thế, sự thanh luyện này cần phải được thực hiện càng ngày càng sâu hơn.
Nhìn qua tình hình tôn giáo trong địa phận, tôi thấy có vẻ sốt sắng, lễ đi đông, các sinh hoạt giáo lý, từ thiện, có sầm uất. Nhưng tôi vẫn lo sợ nếu một ngày nào đó, Chúa Thánh Thần soi sâu vào chiều kích thiêng liêng của những việc chúng ta làm, chúng ta sẽ thấy, có lẽ chúng ta chưa làm theo ý Chúa. Ý hướng vẫn còn vẩn đục. Động lực vẫn còn sai lệch. Các phán đoán còn nhiều thiếu sót. Rồi những kỷ niệm quá khứ của ta, tất cả những cái còn cần phải được thanh luyện, nếu chúng ta không tự ý mình thanh luyện, cộng tác với Chúa Thánh Thần, thì tôi sợ đến một ngày nào đó lòng đạo sẽ suy sụp dần dần. Và nếu Chúa thương thì dùng những nơi ấy và ép buộc chúng ta phải đi vào thanh luyện. Trong hướng đó, ngay từ bây giờ, chúng ta thỉnh thoảng hãy xem xét lại lòng đạo của chúng ta. Và xin Chúa Thánh Thần đến thanh luyện tâm hồn chúng ta.
Từ sáng tới giờ tôi vẫn cầu xin Chúa Cha ban cho tôi Chúa Thánh Thần. Và khi Chúa Thánh Thần đến, như tôi vừa nói, như một luồng sáng chiếu vào chiều sâu tâm hồn, thì thấy rõ là mọi sự cần phải điều chỉnh lại, cần phải thanh luyện lại cho hợp. Và sau cùng khi nhìn thấy thực trạng của mình chỉ thầm nói với Chúa rằng, xin Chúa thương xót con, xin Chúa thương xót chúng con, để xin Chúa, vì lòng nhân từ và sức mạnh quyền năng của Ngài, đổi mới chúng ta hôm nay.
Hôm nay, nhân dịp này chúng ta xin Chúa Thánh Thần đến thanh luyện tâm hồn chúng ta, thanh luyện nếp sống của chúng ta, để chúng ta làm gương cho thế hệ con em bé nhỏ, để khi đối đầu với những thử thách mới trong một tương lai mà nền văn minh vật chất rất mạnh, con em chúng ta sẽ giữ đạo bền vững, sâu sắc như là Chúa mong muốn. Amen.
Lễ thêm sức tại xứ Tân Long, kênh 2a, ngày 8/10/1998
Quá trưa hôm qua, khi tôi tới giáo xứ Châu Long này, tôi thấy số người có mặt trong nhà thờ Bùi-Tuần 2317
Quá trưa hôm qua, khi tôi tới giáo xứ Châu Long này, tôi thấy số người có mặt trong nhà thờ lúc đó là khá đông. Sau đó mấy tiếng đồng hồ là thánh lễ chiều, tôi lại thấy số người hiện diện trong nhà thờ là rất đông. Và giờ đây thánh lễ Thêm sức, tôi thấy những người có mặt trong thánh lễ này cũng rất đông. Hiện tượng có đông anh chị em tới nhà thờ cầu nguyện, chầu Mình Thánh, tham dự thánh lễ là một điều đã gây nên trong tôi một ấn tượng đẹp về giáo xứ anh chị em. Ấn tượng này càng sâu đậm hơn khi tôi được biết rằng, hằng ngày anh chị em vẫn tới nhà thờ để dự những giờ chầu Thánh Thể sáng và chiều.
Đêm vừa qua, tôi thức dậy trước nửa đêm để đọc sách, tôi mở sách ra gặp một trang có đoạn thế này: “Nếu tôi biết cầu nguyện thực sự, thì chỉ 15 phút trước Mình Thánh tôi đã biết hoán cải đời tôi. Nhưng khốn nỗi, tôi còn rất xa kết quả đó, bởi vì tôi còn rất xa sự cầu nguyện đích thực, tôi còn rất xa sự thờ phượng Chúa trong phép Mình Thánh một cách đích thực trong tinh thần và trong chân lý”. Đoạn trên đây đã mở ra cho tôi thấy, mặc dầu nhiều khi chúng ta đọc kinh nhiều, dự lễ nhiều, chầu Mình Thánh nhiều, tuy là tốt, nhưng không thể vì thế mà kết luận những việc đạo đức trên đây đã sinh nhiều kết quả tốt thực sự trong tâm hồn của chúng ta. Lý do là vì chúng ta chưa biết cầu nguyện. Thực vậy, ai đã từng biết cầu nguyện như Đức Kitô đã dạy sẽ có những cảm nghiệm thiêng liêng có sức mạnh biến đổi đời mình, để mình sống tốt hơn trong giới luật yêu thương, liên đới trong tám mối phúc thật. Nếu chưa được điều đó, chính vì chúng ta chưa biết cầu nguyện. Ai đã biết cầu nguyện thì sẽ khám phá thấy ánh sáng mới, hương vị mới, sức mạnh mới, an ủi mới nơi Đức Kitô, để rồi có thể nói lên một cách xác tín như thánh Phaolô: “Sự sống của tôi là chính Đức Kitô. Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” Nếu chúng ta không nói được như vậy, chính vì chúng ta chưa biết cầu nguyện. Vì thế, ơn chúng ta cần cầu xin hơn hết, nhất là trong những giờ đến với Chúa, chính là ơn biết cầu nguyện.
Thú thực với anh chị em là tôi cho đến giờ này vẫn thường ngày xin ơn biết cầu nguyện. Và càng xin đi xin lại ơn đó, thì càng cảm thấy mình còn rất nhiều thiếu sót trong việc cầu nguyện, càng thấy mình khó khăn trong việc cầu nguyện, càng thấy mình như không có khả năng để cầu nguyện. Và càng cảm nghĩ như vậy thì cần cầu nguyện hơn nữa. Và càng cầu nguyện nữa, thì càng cảm thấy có những chuyển biến trong tâm hồn. Có nghĩa là sự cầu nguyện đòi hỏi rất nhiều điều kiện. Bài Phúc Âm hôm nay chỉ nói về một điều kiện mà thôi. Điều kiện đó rất quan trọng. Điều kiện đó là sự khiêm nhường. Để cầu nguyện một cách khiêm nhường, chúng ta có thể nhìn vào một số gương sau đây, rút ra từ Kinh Thánh.
Gương cầu nguyện khiêm nhường thứ nhất là người thu thuế nói trong bài Phúc Âm hôm nay, cầu nguyện với thái độ khiêm tốn, cầu nguyện với những lời khiêm tốn, cầu nguyện với tâm tình khiêm tốn.
Gương cầu nguyện khiêm tốn thứ hai là thái độ những người bệnh tật, những người phong cùi, những người mù trong Phúc Âm. Khi họ thấy Chúa Giêsu gần đến họ chỉ nói một lời mà thôi: “Lạy Thầy, xin thương xót chúng con”. Hết sức kiêm nhường, biết mình chẳng nói được cái gì cho xứng đáng, chỉ nói lên sự bất lực của mình.
Gương cầu nguyện khiêm nhường thứ ba là chính Đức Giêsu Kitô. Phúc Âm thánh Matthêu kể rằng, trong vườn Giệtsimani, Đức Giêsu Kitô đi xa đầy tơ, quỳ xuống đất, sấp mặt mình xuống đất rồi cầu nguyện với Chúa Cha: “Nếu có thể xin Cha cất đi chén đắng này, nhưng xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha mọi đàng.” Chính Đức Kitô sấp mặt xuống đất để cầu nguyện và xưng mình yếu đuối như vậy đó, và xin chấp nhận thánh ý Chúa Cha như vậy đó. Rất là khiêm tốn!
Rồi gương cầu nguyện khiêm tốn thứ tư là gương thánh Phêrô sau khi đã sai lỗi chối Thầy. Phêrô đã cầu nguyện bằng cái nhìn của mình. Phêrô chăm chú theo nhìn Đức Kitô, Đức Kitô nhìn Phêrô và hai cái nhìn đó gặp nhau. Phêrô khi nhìn thấy Đức Kitô nhìn mình, một cái nhìn đầy tình nghĩa, đầy tình thương, đầy tình nhân ái, thì Phêrô lập tức cam kết với Thầy mình trong lòng từ nay sẽ theo Thầy đến chết. Cầu nguyện bằng cái nhìn mà thôi, nhưng đầy khiêm tốn.
Và gương sau cùng cầu nguyện khiêm tốn là Đức Mẹ. Chúng ta nhớ lời Đức Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, vì Chúa đã đoái nhìn đến thân phận người đầy tớ này.” Đức Mẹ xưng mình là người đầy tớ.
Khi đọc Phúc Âm chúng ta thấy Đức Giêsu Kitô nhiều khi đã phải tránh đám đông, xa rời môn đệ đi vào những nơi thanh vắng, cầu nguyện một mình, cầu nguyện suốt đêm với Chúa Cha. Điều đó dạy cho chúng ta điều này là, mặc dầu chúng ta đến nhà thờ đông cầu nguyện chung, mặc dầu chúng ta đến nhà thờ đông dự chầu Mình Thánh, mặc dầu chúng ta đến nhà thờ đông cùng cộng đoàn tham dự thánh lễ, điều đó tốt, nhưng cũng nên đến nhà thờ một mình, đi vào thanh vắng nội tâm một mình, cầu nguyện một mình, từ sâu thẳm lòng mình, từ vực sâu lạy Chúa con cầu xin với Chúa vực sâu lòng mình, vực sâu thanh vắng. Cầu nguyện một mình với Chúa và không phải bằng kinh này kinh nọ, mà bằng tất cả tâm hồn đơn sơ phó thác, cậy trông, sám hối. Chúng ta sẽ thấy kết quả.
Trong tháng này, chúng ta tập xin Đức Mẹ cầu cho chúng ta, là kẻ có tội, được ơn biết cầu nguyện. Và thánh lễ hôm nay, chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần cầu cho chúng ta, là kẻ có tội, được ơn biết cầu nguyện. Ơn biết cầu nguyện là chìa khoá rất nhỏ, nhưng sẽ mở ra tất cả một kho tàng quý giá và mở ra tương lai đầy sáng lạn cho chúng ta, cho con em chúng ta. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Châu Long, kênh F1, ngày 25/10/1998
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe là một những bài thích hợp nhất đối với tôi. Thích hợp ở chỗ này Bùi-Tuần 2318
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe là một những bài thích hợp nhất đối với tôi. Thích hợp ở chỗ này, là nội dung gợi ý cho tôi nhận thức đúng về chính mình, mình là gì thực sự trước mặt Chúa. Nhìn cho đúng, phán đoán cho đúng, tôi thấy mình tôi cũng chỉ là thứ người phong cùi mà thôi. Mà nêu đúng như vậy, thì lời cầu xin thiết tha mà tôi cần nói với Chúa thường xuyên, cũng là lời của những người phong cùi trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Đức Kitô, xin thương xót con”.
Thiết tưởng cái nhìn của tôi về bản thân tôi, cũng sẽ là cái nhìn của anh chị em về bản thân mình. Và những cái nhìn đó là đúng sự thật, mình là người cần phải được cứu độ. Đấng cứu độ là Đức Kitô. Đó là những sự thực chúng ta cần kinh sâu, chúng ta cần ghi sâu, chúng ta cần đào sâu.
Sáng hôm qua, tôi đi thăm nghĩa trang các linh mục tại tu viện Phanxicô ở Cù-lao-giêng. Khi tôi đang cầu nguyện cho các linh hồn của các mồ mả đó, tôi đã xin các vị bên thế giới bên kia gởi lại cho tôi một lời nhắn nhủ. Trong thinh lặng, tôi nghe các linh hồn trong nghĩa trang nói với tôi: “Hãy thường xuyên chú ý đến ơn thánh cứu độ. Bởi vì, nếu không có ơn thánh cứu độ, chúng ta sẽ chẳng cứu được ai, và chúng ta sẽ chẳng cứu được bản thân mình”. Nhắc nhở đó, càng làm cho tôi xác tín rằng, thường xuyên, thường ngày, rất cần phải cầu xin ơn Chúa cứu độ, cho bản thân mình, cho những người thuộc về mình. Nhất là trong một thời đại có những khó khăn, thì càng cần phải cầu xin ơn cứu độ.
Hiện nay, chúng ta thấy họ đạo chúng ta, địa phận chúng ta, Hội Thánh chúng ta, và dân tộc chúng ta, đã có nhiều bước tiến về nhiều mặt. Nhưng xét về đức tin, chúng ta vẫn mang thân phận con người sa ngã, cần phải có ơn Chúa để cứu độ. Hãy thử nhìn thân phận con người sa ngã, theo Kinh Thánh, theo Thần học, theo triết học, chúng ta sẽ thấy, thân phận con người sa ngã là thân phận con người mang nặng những gánh tội lỗi trên mình, tội tổ tông, tội cá nhân, tội tập thể, tội cơ chế của Hội Thánh, tội của xã hội. Tất cả những gánh nặng đó chồng chất trên nhau, đè trên chúng ta. Rồi thân phận của con người sa ngã là con người bị xiềng xích, trói buộc. Xiềng xích ấy là những thói quen xấu, là những khuynh hướng xấu, là những nếp suy nghĩ xấu. Nó như những xiềng xích nối dài với nhau, và quấn chặt lấy thân phận con người của ta. Rồi thân phận con người sa ngã là con người bị bao trùm bỡi bóng tối dày đặc. Bóng tối đó là sự mù quáng của thân xác chúng ta, là sự phù du của thế gian, là sự giả trá của ma quy. Tất cả những cái đó che mất cái nhìn linh hồn của chúng ta. Chúng ta không nhìn rõ được cái gì là chính, cái gì là phụ, cái gì là đúng ý nghĩa đời ta. Rồi thân phận của con người sa ngã là bệnh tật linh hồn chúng ta, bệnh trong lý trí, bệnh trong tình cảm, nhất là bệnh trong ý muốn. Thánh Phaolô nói: “Tôi muốn sự lành, nhưng tôi lại làm sự dữ.” Bởi vì, trong tôi có sự dữ, nó trói buộc tôi, nó làm cho tôi chết đi. Thân phận sa ngã như vậy, không thể tự mình đứng lên được, không thể tự mình cứu được, cần phải có ơn cứu độ. Chúng ta cần cầu xin ơn đo, cho mình, cho gia đình mình, cho Hội Thánh chúng ta, cho dân tộc chúng ta. Chúa sẽ ban ơn cứu độ cách nào chúng ta không biết, nhưng chúng ta cứ đi tìm và kiên nhẫn đón nhận.
Tôi có quen một cô thiếu nữ ngoại quốc, cô ấy đẹp, nhưng bàn tay, cô vẫn đau buồn về sự cố bất thường đo, thuốc thang chữa chạy nhiều năm không khỏi. Sau cùng, cô và gia đình đến Lộ Đức để cầu xin được ơn khỏi bệnh. Sau ba ngày cầu nguyện, cô ra về tay không khỏi, nhưng cô rất vui và hân hoan khác thường. Hỏi tại sao tay không khỏi mà vui mừng như vậy. Thì cô trả lời: “Chúa đã chữa tôi, không phải chữa tay, mà chữa tâm hồn tôi khỏi mặc cảm. Hơn nữa, Chúa đã cho tôi cảm thức được rõ ràng Chúa yêu thương tôi. Và hơn nữa, tôi đã cảm được ơn Chúa gọi, để từ nay biết dấn thân cho những người đau khổ làm chứng về tình yêu Chúa, cho những người thất vọng”. Cho đến hôm nay, cô ấy vẫn sống ơn gọi một cách bình an, thanh thản, hạnh phúc.
Câu chuyện này cho tôi thấy là, chúng ta phải biết đón nhận ơn cứu độ, không phải là theo ý chúng ta, mà là theo thánh ý Chúa. Bởi vì Chúa biết cái gì có lợi cho phần rỗi chúng ta, chúng ta cần phải cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa. Cách đây không lâu, tôi gặp câu chuyện rắc rối có liên quan đến tình hình Hội Thánh. Tôi rất băn khoăn, tôi lo lắng nhiều, và nhất là cầu nguyện đêm ngày. Đến một chiều nọ, tôi thấy sửng sốt gặp một người bạn từ xa tới. Người ấy nói với tôi rằng, đêm qua lúc 2 giờ con nghe tiếng điện thoại reo lên, con cầm máy thì rõ ràng con nghe tiếng cha gọi con: “Hãy đến gấp”. Con biết là cha không rõ số điện thoại của con. Con cũng biết là cha không gọi con. Nhưng con nghe rõ tiếng cha trong điện thoại. Con tin Chúa gọi con đến với cha, vì cha có việc rất cần. Và đúng như vậy, tôi không hề biết số điện thoại người đó. Tôi không gọi điện thoại cho họ đêm đó. Nhưng Chúa đã sai họ đến với tôi, để họ cùng tôi cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Chúa. Câu chuyện nhỏ riêng tư đây cho tôi thấy rằng, Chúa ban ơn cứu độ cho chúng ta, nhưng Chúa cần chúng ta cộng tác vào, cộng tác theo ý của Chúa. Cho nên, trong đời sống của chúng ta, chúng ta cần phải quảng đại nghe theo tiếng gọi của Chúa cách này cách nọ, để cộng tác vào kế hoạch cứu độ Chúa dạy trong Hội Thánh chúng ta, cho họ đạo chúng ta.
Trong quá khứ, cộng đoàn giáo xứ chúng ta nói chung, và từng cá nhân chúng ta nói riêng, đã nhận được rất nhiều ơn Chúa cứu độ, cứu độ phần hồn, cứu độ phần xác. Những ơn đó rất là cao quý. Trong hiện tại, ngay chính hôm nay, ngay chính lúc này, chúng ta đang nhận được rất nhiều ơn Chúa cứu độ. Và những ơn này là rất đặc sắc. Nhớ điều này, ơn Chúa ban cho chúng ta không phải để làm ích riêng, cho một mình chúng ta, nhưng để chúng ta dùng cho lợi ích chung của Hội Thánh, cho thế hệ mai này của chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta biết quý trọng ơn cứu độ, biết tìm đến ơn cứu độ nơi Đức Kitô, biết đón nhận ơn cứu độ, biết cộng tác vào ơn cứu độ, và biết dùng ơn cứu độ theo chương trình của Chúa. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Hợp Châu, kênh 5b, ngày 10/11/1998
Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe có một câu rất đáng suy nghĩ, và thực sự đã lôi kéo suy Bùi-Tuần 2319
Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe có một câu rất đáng suy nghĩ, và thực sự đã lôi kéo suy nghĩ của tôi. Câu đó là: “Khi chúng con làm xong tất cả những gì chúng con phải làm thì hãy nói: chúng con chỉ là đầy tớ vô ích”.
Chúng ta tin lời Chúa là chân lý ban ơn cứu chuộc. Chúng ta tin lời Chúa là nguồn mạch ban sự sống đời đời. Chúng ta tin lời Chúa là ánh sáng soi đường chỉ lối. Vì thế chúng ta đón nhận lời Chúa phán dạy trên đây với tất cả niềm tin khiêm tốn và trân trọng. Khi chúng ta biết đón nhận như vậy và nội tâm hóa lời Chúa trong ta, thì lời Chúa được nội tâm hóa sẽ giúp cho chúng ta đọc Kinh Thánh, đọc lịch sử chung và riêng với một cái nhìn mới, với một khám phá mới, với một chân lý mới.
Thực vậy, khi đọc lại Kinh Thánh, tôi thấy những người được Chúa chọn cộng tác vào việc cứu dân Người bao giờ cũng là người nhận thức về mình là rất kém cỏi, là rất yếu đuối, là vô dụng, là vô ích. Các người nhận thức như vậy không phải chỉ do lý thuyết đức tin, mà cũng do cảm nghiệm sâu sắc về con người của mình, và cũng do những kinh nghiệm bề dày của đời mình. Abraham, Môisen, Êlia, Giêrêmia và các thánh trong Kinh Thánh đều là những người khi được gọi đều thấy mình bất xứng, và khi đã làm việc ơn gọi của mình, đều nhận thức mình chưa làm được gì, chỉ là đầy tớ vô dụng.
Khi đọc lại lịch sử dân Chúa, chúng ta thấy dân Israel trong suốt 40 năm đi về đất Hứa, hễ khi nào thấy đám mây mọc lên che phủ nhà Tạm, họ lên đường. Họ lên đường khi cảm thấy hoảng sợ, khi cảm thấy yếu đuối. Còn khi trời đẹp khi tình hình ổn định thì họ thích nghỉ ngơi, họ thích nghỉ chơi và không muốn đi lên, không muốn tiến bước. Chỉ khi nào có mây đen phủ kín họ mới lên đường.
Bây giờ nhìn về Giáo hội Việt Nam nói chung, và nhìn vào các cộng đoàn địa phương nói riêng, tôi thấy những cái sự thực tương tự như vậy cũng tái diễn ở những nơi nào, ở những thời điểm nào mà giáo dân và chủ chăn tự mình coi mình là có nhiều tài, nhiều đức, nhiều công, nhiều phúc. Và hơn nữa là tình hình ở nơi đó được ổn định, hưng phát thì dần dần tinh thần đạo suy giảm, người ta sẽ dần dần nguội lạnh, không còn tìm đến Chúa như trước, không còn bám vào Chúa như trước. Trái lại, ở những nơi nào, những thời nào mà giáo dân cùng với chủ chăn nhận thức mình rất yếu đuối, rất vất vả, không đức, không công, vô dụng, vô ích, và thêm vào đó tình hình trở nên bất ổn, có những đám mây mù mọc lên, thì lúc đó cộng đoàn từ giáo dân đến chủ chăn hoảng sợ, và bắt đầu tinh thần đạo tiến lên, đi tìm Chúa, nắm chặt tay Chúa. Trước một tình hình như vậy, chúng ta khám phá thấy một chân lý mới, đó là khi thành công bị lạm dụng vô tình hay hữu ý, thì những thành công đó có thể là nguyên do sinh ra nhiều thứ thất bại. Còn trái lại, có những thất bại, nếu biết lợi dụng về phía tốt, thì sẽ trổ sinh nên nguyên nhân đẻ ra những thành công lớn. Trong một tình hình như vậy thường xảy ra trong Hội Thánh, chúng ta cần phải làm gì? Thánh Phaolô dạy: Cần nhất là khi thành công cũng như khi thất bại, chúng ta phải có lương tâm trong sạch. Lương tâm trong sạch nói đây không phải là lương tâm luân lý, nghĩa là một lương tâm không có tội. Lương tâm trong sạch nói đây là lương tâm về đức tin, có nghĩa là dù thành công, dù thất bại, chúng ta luôn luôn ưu tiên chọn Chúa. Chúa là Tin Mừng của con, Chúa là gia nghiệp đời con, Chúa là hạnh phúc của con, ưu tiên chọn Chúa trong mọi trường hợp. Rồi lương tâm trong sạch là dù thất bại, dù thành công, luôn luôn chúng ta đi tìm Chúa. Những thành công hay thất bại chúng ta gặp ở đời chỉ là những bước đẩy chúng ta đi về với Chúa. Chúa mới là cùng đích của ta. Rồi lương tâm trong sạch có nghĩa là dù thất bại, dù thành công, chúng ta vẫn coi ân sủng và lòng thương xót Chúa rất cần thiết cho sự rỗi linh hồn chúng ta.
Khi chúng ta có một lương tâm trong sạch như vậy, thì lương tâm đó đòi chúng ta ba điều kiện này:
Điều kiện thứ nhất là hãy tỉnh thức. Tỉnh thức bằng sự siêng năng cầu nguyện, siêng năng suy gẫm lời Chúa, dùng lời Chúa làm tiêu chuẩn để phân định cái đúng, cái sai, cái chính, cái phụ. Và tỉnh thức trước những chủ quan nông nổi của bản thân mình. Tỉnh thức trước những cái phù du sai lệch của dư luận, của thế gian. Và tỉnh thức trước những cái giả trá của ma quỉ cám dỗ chúng ta.
Điều kiện thứ hai là phải phấn đấu, phải có một sự phấn đấu nội tâm. Phấn đấu nhất là bằng sự hy sinh, từ bỏ chính mình, hoà nhập vào thánh giá Chúa Kitô. Phấn đấu bằng lửa tình yêu nồng nàn của ta hoà nhập vào lửa mến hiến dâng của Chúa Kitô, phải rất phấn đấu.
Và điều kiện thứ ba là luôn luôn chúng ta phải biết chọn Chúa, phải đi về phiá trước.
Khi chúng ta có một lương tâm như vậy, và khi chúng ta thực hành những đòi hỏi của lương tâm đó, thì chúng ta có thể đoán được cái vẻ đẹp của người đầy tớ vô ích. Cái vẻ đẹp của người đầy tớ vô ích phải tìm ở trong cái tương quan. Tương quan của họ với Chúa, người đầy tớ vô ích luôn luôn sống nghèo khó đơn sơ như một đứa bé nhỏ không có công trạng gì. Rồi trong cái tương quan của họ đối với những người chung quanh, vẻ đẹp của người đầy tớ vô ích là tương quan khiêm tốn, là tương quan phục vụ, họ sống lời Chúa, không kết án ai, không xét đoán ai, để khỏi bị Chúa phán xét, kết án. “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và làm giá cứu chuộc cho nhiều người khác”. Khiêm tốn phục vụ và hy sinh cho những người khác. Trong tương quan của họ đối với Hội Thánh thì vẻ đẹp của người đầy tớ vô ích là thái độ yêu thương. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau”. Chỉ có thế thôi, để làm chứng mình thuộc về Thiên Chúa.
Tới đây, tôi tưởng rằng và tôi tin rằng họ đạo chúng ta nói chung, và tất cả mọi ngừơi chúng ta nói riêng, đều hiểu những gì chúng ta phải làm hôm nay. Nhớ lại, hãy nhớ lại quãng đường đã đi. Chúng ta có lương tâm vẻ đẹp của một người đầy tớ vô ích không? Chúng ta có thực thi những đòi hỏi của người đầy đớ vô ích không? Và trong suốt hành trình đức tin 25 năm, chúng ta có thực sự có một thái độ đức tin luôn bám vào Chúa không? Hãy nhớ lại quãng đường đã đi, kiểm điểm lại vẻ đẹp của người đầy tớ vô ích. Rồi hôm nay, hãy bắt đầu những cái bắt đầu mới, với quyết tâm mới, với những chặng đường mới. Tôi nghĩ là tương lai sẽ có nhiều bất ngờ rất khó chịu. Tôi nói là tương lai trước mắt chúng ta sẽ có nhiều bất ngờ rất khó chịu. Nhưng nếu chúng ta luôn luôn sống trong tu đức của người đầy tớ vô ích, thì chúng ta có quyền tin tưởng rằng: tương lai đó sẽ rất tốt đẹp, bởi vì người đầy tớ vô ích sẽ chẳng làm gì nếu không bám vào Thiên Chúa của ta, nếu không bám vào sự nương tựa vào nhau, nương tựa vào Hội Thánh, nương tựa vào những người tốt, nương tựa vào những gia đình tốt, nương tựa vào những người thiện chí tốt.
Đó là những suy nghĩ của tôi muốn chia sẻ. Và với những suy nghĩ này, tôi hợp ý với cha xứ, cộng đoàn, và tất cả mọi ngừơi để dâng lên Chúa những lời tạ ơn đầy khiêm tốn. Amen.
Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu dạy chúng ta một điều cần thiết. Điều cần Bùi-Tuần 2320
Trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu dạy chúng ta một điều cần thiết. Điều cần thiết đó là: hãy sống khôn ngoan.
Sự khôn ngoan mà Đức Kitô dạy hôm nay gồm hai thứ. Một là khôn ngoan tự nhiên của lý trí hai là khôn ngoan siêu nhiên của đức tin. Khi Chúa Giêsu nói: “Ai trung tín trong sự nhỏ, thì cũng sẽ trung tín trong việc lớn”. Lời đó là một sự thực, phản ánh sự khôn ngoan tự nhiên của lý trí. Một người có một trí khôn bình thường, lành mạnh, có suy nghĩ, thì sẽ thấy điều đó là đúng mà không cần ánh sáng đức tin. Rồi khi Chúa Giêsu nói: “Người đầy tớ không thể làm tôi hai chủ”, đó cũng là sự thực phản ánh sự khôn ngoan tự nhiên của lý trí. Nghĩa là một người có trí khôn biết suy tính, thì sẽ nhận ra điều Chúa Giêsu nói là đúng mà không cần phải có ánh sáng đức tin. Bên cạnh sự khôn ngoan tự nhiên của lý trí, Chúa Giêsu hôm nay khuyên chúng ta cần phải có một sự khôn ngoan khác. Đó là sự khôn ngoan của đức tin. Khi Đức Giêsu nói: chủ của chúng ta là Thiên Chúa. Chúa nhìn thấy thấu suốt mọi sự trong lòng ta. Những cái chúng ta cho là cao sang, công chính, thì trước mặt Thiên Chúa đều là ghê tởm. Lời Chúa Giêsu nói đó là một sự thực, nhưng mà phản ánh sự khôn ngoan của đức tin. Chỉ những người có đức tin, sống đức tin, và đức tin sâu thẳm thấm vào con người mình, thì mới nhìn thấy đó là sự thực, đó là khôn ngoan. Như vậy, nếu bây giờ chúng ta không là con người trên bình diện khôn ngoan, xem ai có sự khôn ngoan, xem ai không có sự khôn ngoan, còn nếu có sự khôn ngoan thì thuộc loại nào, chúng ta sẽ thấy có bốn loại sau đây.
Loại người thứ nhất là loại người có sự khôn ngoan tự nhiên của lý trí nhưng không có sự khôn ngoan của đức tin. Thí dụ như là trong Phúc Âm, Chúa nói về người phú hộ chuyên lo thu hấp tiền bạc, chuyên hưởng thụ, chuyên phô trương giàu sang mà không lo việc phần hồn, đó là sự khôn ngoan thế gian thiếu sự khôn ngoan đức tin.
Loại thứ hai là có sự khôn ngoan của đức tin nhưng thiếu sự khôn ngoan của lý trí. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy có một người bị quỉ ám Chúa Giêsu chữa lành, anh ta xin đi theo Chúa làm môn đệ, Chúa từ chối. Anh ta có một đức tin rất mạnh, một thiện chí rất cao, nhưng mà không có sự khôn ngoan của lý trí. Cái tồn tại của quá khứ bệnh tật còn đó, cái trình độ trí thức, phán đoán yếu kém, thì không thuận lợi cho chức năng làm môn đệ, đi theo Đức Kitô. Cho nên, khôn ngoan là anh hãy về sống đời thường để làm chứng cho Chúa, như thế là khôn ngoan.
Loại thứ ba là loại không có sự khôn ngoan lý trí, không có sự khôn ngoan của đức tin. Đó là loại Đức Kitô nói hôm nay về người biệt phái. Họ phô trương mình là người công chính. Ngay sự phô trương như vậy là trái với sự khôn ngoan tự nhiên của lý trí. Một người biết suy nghĩ sẽ thấy phô trương như vậy là lố bịch. Hơn nữa còn trái với sự khôn ngoan của đức tin, bởi vì như Đức Kitô dạy: Thiên Chúa nhìn thấu suốt mọi sự. Bề ngoài đạo đức, công chính, nhưng bên trong trống rỗng, đen tối, thì rõ ràng trái với sự khôn ngoan của đức tin.
Và sau cùng, loại người vừa có sự khôn ngoan của đức tin, vừa có sự khôn ngoan của lý trí. Tiêu biểu là Đức Mẹ Maria. Khi được truyền tin, Đức Maria đã hỏi thiên thần: “Tôi không biết người nam thì làm sao tôi có thể làm Mẹ Thiên Chúa được?”. Câu đó là một câu khôn ngoan của một trí khôn bình thường tự nhiên. Nhưng khi nghe thiên thần giải thích, Đức Mẹ xin vâng lời, đó là một sự khôn ngoan của đức tin.
Chúng ta vừa nghe bốn loại người khôn ngoan, không khôn ngoan. Chúng ta thử xét mình xem chúng ta thuộc loại khôn ngoan như Đức Mẹ không, vừa khôn ngoan của đức tin, vừa khôn ngoan của lý trí. Tôi nghĩ rằng, chúng ta muốn xét mình loại đó, đó là hướng tốt. Nhưng nếu thực sự chúng ta quả quyết chúng ta có hai sự khôn ngoan đó, thì tôi e sợ chúng ta là không khôn ngoan, bởi vì người khôn ngoan bao giờ cũng rất khiêm tốn. Và để sự khôn ngoan trở thành sự khôn ngoan Chúa chấp nhận, bao giờ cũng phải xuất phát từ sự khiêm tốn. Khiêm tốn tức là nhận biết mình chưa khôn, nhận biết mình còn lỗi lầm, vấp váp. Rồi khiêm tốn có nghĩa là biết kính sợ Thiên Chúa. Kinh Thánh nói rằng: đầu mối sự khôn ngoan là kính sợ Thiên Chúa, Đấng biết rõ tâm hồn của chúng ta, biết rõ những ý tưởng của chúng ta, tâm tình của chúng ta. Phải biết kính sợ Thiên Chúa.
Rồi khiêm nhường có nghĩa là biết nương tựa vào nhau. Mọi người cùng có những khuyết điểm, có những đặc điểm, biết nương tựa vào nhau thì mới khôn được, không loại trừ nhau.
Nhìn giáo xứ anh chị em, nhất là trong thời điểm này, tôi rất lo! Bởi vì tương lai trước mặt chúng ta sẽ có nhiều thử thách bất ngờ, cho nên điều mà tôi cầu xin tha thiết hôm nay, cho giáo xứ, cho anh chị em, là được ơn khôn ngoan. Tôi muốn rằng các cha ở đây phải là những người có sự khôn ngoan, khôn ngoan về lý trí, khôn ngoan về đức tin. Tôi mong các gia đình xứ đạo chúng ta, giáo họ chúng ta, tất cả những tông đồ giáo dân của chúng ta, hội đồng giáo xứ của chúng ta, và toàn thể tín hữu trong họ đạo này đều là những người có sự khôn ngoan, khôn ngoan như tôi vừa nói, khôn ngoan của đức tin cộng với sự khôn ngoan tự nhiên của lý trí. Khôn ngoan là trong lời nói cẩn thận. Khôn ngoan là biết lựa chọn chính đáng. Khôn ngoan là luôn luôn có một thái độ hiệp thông với Hội Thánh, với bề trên trong đạo, và sống hài hoà yêu thương với những người chung quanh.
Trong thánh lễ hôm nay, anh chị em đã hát bài xin ơn khôn ngoan và nhiều ơn khác của Chúa Thánh Linh. Và cộng với sự tôi gợi ý hôm nay, anh em hãy da diết xin ơn khôn ngoan cho xứ đạo chúng ta. Tôi thấy bây giờ là rất cần sự khôn ngoan. Nếu không khôn ngoan thì vỡ hết, tan nát hết. Mặc dầu chúng ta xây dựng bề ngoài bền vững, phải rất khôn ngoan. Sự khôn ngoan đó, phải cầu xin với Chúa Thánh Thần. Amen.
Lễ thêm sức tại nhà thờ Ngọc Thạch, ngày 14/11/1998
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về các tai hoạ. Những tai hoạ đó phần nào đã Bùi-Tuần 2321
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về các tai hoạ. Những tai hoạ đó phần nào đã tới. Chúng ta thấy có những nơi đang có cơn đói khát, có những nơi đang lụt lội, có những nơi đang chiến tranh, có những nơi đang dịch bệnh, có những nơi đang ức hiếp, có những nơi đang khủng hoảng về kinh tế và về xã hội. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Khi thấy những tai hoạ đó xảy ra, chúng con đừng tưởng đã tới ngày tận thế. Nhưng trước những hiện tượng tai hoạ xảy ra, chúng con hãy nhớ lo phần rỗi linh hồn.” Lo bằng cách nào? Chúa luôn đưa ra sự cảnh giác. Và hôm nay có một điều Chúa nhắn nhủ riêng để chúng ta lo phần rỗi. Điều nhắn nhủ riêng đó là: hãy bền đỗ. Sống bền đỗ có tinh thần bền đỗ. Chúa phán: Nếu các con bền đỗ thì chúng con sẽ giữ được linh hồn các con. Bền đỗ đó là bề ngoài. Tôi sẽ chia sẻ vắn tắt bây giờ với anh chị em.
Thưa anh chị em trong lãnh vực nào cũng cần bền đỗ. Học hành cũng phải bền đỗ. Làm ăn cũng phải bền đỗ. Nhưng một lãnh vực rất cần bền đỗ, đó là lãnh vực cầu nguyện, bởi vì bền đỗ trong cầu nguyện chính là chìa khoá mở kho tàng ơn thánh. Có bền đỗ trong cầu nguyện thì mới có thuốc chữa trị các thứ bệnh trong tâm hồn. Cầu nguyện không có nghĩa là đọc kinh, không nhất thiết phải đọc kinh, và nhất là không nhất thiết phải đọc kinh nhiều. Cầu nguyện chủ yếu là hướng tâm hồn ta lên với Chúa, là nhìn vào Chúa, là nói với Chúa tâm tình của ta rất đơn sơ, rất chân thành. Nếu cần đưa ra một mô hình cầu nguyện thì tôi xin đưa ra mô hình Đức Kitô cầu nguyện. Nhìn Đức Kitô cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy những chi tiết sau đây. Chúng ta nhớ để rồi thực hiện, bởi vì cái này rất cần cho phần rỗi.
Chi tiết thứ nhất của sự cầu nguyện nơi Đức Kitô là nhìn Chúa là Cha. “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha”. “Lạy Cha, Con xin phó mình trong tay Cha”. Đức Kitô khi cầu nguyện luôn nhìn về Chúa Cha, gọi Ngài bằng tiếng Cha. Chúng ta cũng vậy, khi chúng ta cầu nguyện chúng ta nhìn Thiên Chúa là Cha với niềm tin, với lòng mến, với hết tình cậy trông. Cha thì thương con. Hãy tin như vậy. Hãy nhìn Cha, nhìn dung mạo Người Cha mà đừng nhìn vào mình, đừng nghĩ đến chuyện người khác. Khi chúng ta tập cầu nguyện như vậy với Cha trên trời thì chúng ta sẽ gặp được cái nhìn của Cha đang gởi đến ta. Và cái nhìn đó sẽ xoa dịu tâm hồn ta sẽ làm lành vết thương của lòng ta tự nhiên như vậy dần dần như vậy và chúng ta sẽ cảm thấy ngọt ngào vì gặp được Chúa là Cha.
Chi tiết thứ hai của sự cầu nguyện nơi Đức Kitô là Chúa Giêsu năng tạ ơn Chúa. “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha”. Đức Kitô không những cảm tạ Chúa Cha vì những ơn đã ban cho Ngài, mà còn tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho kẻ khác. “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha, vì Cha đã mạc khải những điều bí nhiệm cho những kẻ bé mọn”. Chúa cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn ban cho kẻ khác. Trong cầu nguyện của chúng ta cũng hãy làm như vậy. Đừng chỉ nghĩ đến ơn mình đã nhận để mà tạ ơn, nhưng hãy nghĩ đến những ơn Chúa ban cho những người chung quanh, gia đình ta, họ đạo ta, Hội Thánh ta, Đất Nước ta, kể cả những ơn Chúa ban cho những người lương chung quanh ta, vì họ cũng có một người Cha là Chúa như ta.
Chi tiết thứ ba của sự cầu nguyện nơi Đức Kitô là Đức Kitô luôn cầu nguyện để thực thi thánh ý Chúa Cha. Trong vườn cây Dầu, Đức Kitô quỳ xuống giáp mặt xuống đất, và chỉ nói đi nói lại điều này: “Lạy Cha, nếu đẹp lòng Cha thì xin cho Con khỏi uống chén đắng này, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha mọi đàng”. Phúc Âm kể: Chúa Giêsu đi rồi lại quay lại quỳ xuống sấp mặt xuống đất mà cầu xin có một điều đó, để tỏ ra rằng mình yếu đuối không dám nhận chén đắng, nhưng sau cùng cũng chỉ xin theo ý Cha mà thôi. Khi cầu nguyện, chúng ta cũng hãy làm như vậy. Cứ nói cái thực tình của ta, con yếu đuối, con tội lỗi, con muốn cái này, con muốn cái khác, nhưng sau cùng con xin tuân phục theo thánh ý Cha. Quen đi rồi chúng ta sẽ thấy Chúa có chương trình của Chúa về ta, và ta sẽ thấy chương trình đó là rất khôn ngoan, lo cho ích lợi sau cùng tuyệt đối của ta.
Chi tiết thứ tư của sự cầu nguyện nơi Đức Kitô là cầu xin ơn tha thứ cho kẻ khác. “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ lầm không biết”. Đến gìơ phút ấy Chúa không căm giận. Chúa không thù hận những người đã bắt bớ mình mà còn cầu xin ơn tha thứ, và chính Người tha thứ. Chúng ta cũng vậy, điều này rất cần khi cầu nguyện. Chúng ta khiêm tốn nhận lỗi về mình và tha thứ những người chung quanh, xin ơn tha thứ cho tất cả mọi người.
Sau cùng chi tiết rất đáng kể trong sự cầu nguyện của Đức Kitô là Đức Kitô cầu nguyện dưới sự thúc đẩy soi sáng của Chúa Thánh Linh. Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Thánh Thần Chúa sai tôi đi. Thánh Thần Chúa ngự trong tôi. Và Đức Kitô cầu nguyện trong ý hướng của Chúa Thánh Thần. Và như vậy có sự hiệp nhất giữa Ngài, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Khi cầu nguyện cũng vậy, chúng ta nhớ là cầu nguyện dưới sự sai đi, soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Nếu chúng ta nhớ được những chi tiết trên đây, hoặc là nhớ tất cả, hoặc là nhớ từng phần, thì chúng ta có thể cầu nguyện bất cứ lúc nào, và bất cứ nơi nào, chỉ cần một giây thôi, chỉ cần một cái nhìn thôi. Đang đi đường, đang làm lụng, đang nói chuyện, đang ăn uống, cũng có thể cầu nguyện như vậy được. Và như vậy là cầu nguyện bền đỗ, cầu nguyện hằng ngày, mỗi ngày nhiều lần và nhiều lần đó ở nhiều nơi khác nhau. Dần dần tâm hồn của chúng ta sẽ toả ra hương thơm của sự cầu nguyện. Và bấy giờ chúng ta sẽ thấy Chúa làm việc trong chúng ta.
Từ hôm qua cho đến bây giờ, ở đây mưa. Và cũng từ hôm qua cho đến bây giờ, ở nhiều nơi đang bão. Tôi nghĩ nhiều tới xứ đạo của anh chị em. Nhưng tôi nghĩ nhiều hơn đến những kẻ hôm nay không có áo để mặc, không có nhà để trú, không có cơm để ăn, không có thuốc để uống. Và tôi càng nghĩ hơn đến những tâm hồn đang bị tàn phá về bác ái, về niềm tin, do những cơn bão vô hình nổi lên. Tôi cầu nguyện rất nhiều cho xứ đạo anh chị em, cho địa phận, cho những người tôi vừa nói. Và khi cầu nguyện như vậy, Chúa nhắn nhủ tôi là hãy nói lại với anh chị em: Không những hãy cầu nguyện cho mình, mà hãy cầu nguyện nhiều cho kẻ khác. Và không những cầu nguyện mà thôi, mà hãy biến cầu nguyện thành hành động để đem lại tình thương, đem lại sự nâng đỡ, đem lại sự cảm thương với những người mà Chúa là Cha vẫn yêu thương, vẫn nâng đỡ, vẫn thứ tha.
Lúc nãy, trong kinh Năm Thánh anh chị em xin là nền văn hoá của tình thương. Đó là việc Chúa Cha đang mong muốn. Đó là điều mà chúng ta phải xây dựng. Đó là thánh ý Chúa. Không phải chỉ là một nền văn minh của đức tin thuần tuý, mà là một nền văn minh của tình thương. Không phải tình thương chỉ trong lòng, mà là tình thương bằng những việc làm và thái độ.
Xin Chúa Thánh Thần, hôm nay nhân ngày lễ các thánh tử đạo Việt Nam, giúp cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha. Ngài là Tình Yêu, và giới răn giới can đảm nhất của Ngài là biết yêu thương. Hãy năng cầu nguyện với Cha của ta là như thế. Và hãy cố thực hiện điều Cha dạy chúng ta làm như vậy. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy. Chỉ Bùi-Tuần 2322
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy. Chỉ những ai can đảm và mạnh mẽ mới chiếm được Nước Trời”. Khi nghe lời giảng trên đây của Chúa Kitô, tôi đã tự hỏi chính mình, Chúa dạy Nước Trời phải chiếm bằng sức mạnh thì sức mạnh đó là sức mạnh nào? Và Chúa dạy chỉ có những ai mạnh mẽ, can đảm mới chiếm được Nước Trời thì những người can đảm, mạnh mẽ đó là ai?
Tôi suy nghĩ cầu nguyện và đọc lại những bài Phúc Âm mấy ngày hôm nay, sau cùng tôi đã hiểu cái sức mạnh chiếm được Nước Trời mà Chúa muốn nói chính là sức mạnh của đức bác ái. Và những người mạnh mẽ can đảm chiếm được Nước Trời chính là những người mạnh mẽ về đức bác ái, can đảm về đức ái. Thực vậy, Chúa Giêsu đã cho thấy sự thực ấy trong bài Phúc Âm ngày thứ hai vừa qua.
Bài Phúc Âm ngày thứ hai vừa qua kể lại việc Chúa Giêsu chữa lành người tàn tật, bất chấp phản đối của những người luật sĩ. Dám làm một việc như vậy, đó là can đảm. Mà can đảm đó là can đảm của đức ái mến Chúa yêu người. Rồi Chúa còn cho thấy sự thực ấy trong bài Phúc Âm thứ ba vừa qua. Bài Phúc Âm ấy cho thấy chủ trương của Đức Kitô là chủ trương một Chúa chiên lành dám bỏ chín mươi chín con chiên ở lại, đi tìm một con chiên lạc. Dám làm như vậy, đó là lựa chọn can đảm. Sự can đảm của đức ái hết lòng mến Chúa, hết sức thương người.
Rồi Chúa Giêsu còn cho thấy sự thực ấy trong bài Phúc Âm hôm qua. Bài Phúc Âm hôm qua cho thấy Đức Kitô kêu gọi mọi người khổ đau gánh nặng hãy đến với Ngài, Ngài sẽ bổ sức và làm nhẹ gánh tâm hồn cho họ. Dám kêu mời như vậy đó là việc can đảm, can đảm của lòng bác ái. Hãy đến với tôi, tôi sẽ bổ sức cho, tôi sẽ làm bớt gánh nặng cho, đó là can đảm do lửa tình thương đối với Chúa, đối với con người.
Và trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa tỏ cho thấy sự thực của Chúa. Chúa khen ngợi Gioan Tẩy Giả, một con người sống khắc khổ, nghèo túng, chiêm niệm, chuyên rao giảng sự thống hối. Một người sống như vậy, đó là lựa chọn can đảm, can đảm của đức ái chọn Thiên Chúa làm gia nghiệp. Chọn phần rỗi con người là sứ mạng ơn gọi, đó là sự can đảm của đức ái.
Tất cả những bài Phúc Âm trong tuần lễ này cho phép ta đưa tới kết luận: Thiên Chúa rất đề cao đức ái. Thiên Chúa rất coi trọng những người mạnh mẽ về đức ái, can đảm về đức ái. Kết luận trên đây đòi buộc chúng ta kiểm tra lại quan niệm sống đạo của chúng ta. Nhiều khi chúng ta quan niệm rằng sống đạo là giữ thói quen đọc kinh xem lễ và giữ những nghi thức bề ngoài, coi đó là yếu tố chính. Đang khi Đức Kitô, Ngài lại coi yếu tố chính là đức ái. Chúng ta đọc Phúc Âm thì thấy rất rõ Chúa tập trung lòng đạo vào đức ái. Luật trọng nhất trong đạo là luật mến Chúa hết lòng, hết tâm hồn mình, và luật yêu thương kẻ khác như chính mình. Cụ thể hơn nữa, Đức Kitô nói: “Thầy cho chúng con một điều răn mới, là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”. Như vậy, quan trọng của việc sống đạo là mến Chúa hết lòng, là yêu thương kẻ khác như Chúa đã yêu thương ta. Do đó, chúng ta phải cố gắng hơn trong việc sống can đảm, mạnh mẽ về đức ái. Không những là cố gắng thật nhiều, mà còn phải cầu nguyện xin lửa Thánh Thần cháy lên trong lòng ta.
Ít lâu nay tôi có cảm nghiệm và sợ cho Hội Thánh chúng ta, đó là lửa mến dần dần nguội đi. Chúng ta chỉ giữa đạo bề ngoài và tinh thần tục hoá xâm nhập vào mọi lãnh vực. Tục hoá trong phượng tự. Tục hoá trong đời tu. Tục hoá trong những nghi lễ với nhau. Lửa mến tàn dần, nguội dần, vì thế cần phải cầu nguyện rất nhiều với Chúa Thánh Linh. Xin Chúa Thánh Linh đến trong ta, đốt cháy lên ngọn lửa mến Chúa yêu người chân thực trong chúng ta, để rồi ở đâu, làm gì, chúng ta thấy lửa mến bừng bừng trong ta. Mà chỉ có lửa đó mới là thực giữ đạo.
Trong sự hiểu biết đó, giờ đây tôi xin anh chị em cầu xin Chúa Thánh Thần đem lửa mến đến trong lòng chúng ta, nhất là đốt nóng lên trong tâm hồn con em chúng ta còn thơ dại, để mai này con em chúng ta đi vào đời, lửa mến Chúa yêu người vẫn nóng, càng ngày càng nóng và lửa đó sẽ giúp cho chúng ta, con em chúng ta tìm thấy hạnh phúc là Thiên Chúa chúng ta. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ơn đặc biệt Chúa đã làm cho Gioan. Khi thấy đặc ân đó, gia Bùi-Tuần 2323
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ơn đặc biệt Chúa đã làm cho Gioan. Khi thấy đặc ân đó, gia đình Gioan đã bỡ ngỡ, ông thân sinh của Gioan đã ngợi khen Chúa và dân chúng chung quanh đã tự hỏi tương lai con trẻ sẽ ra sao?
Những phản ứng trên đây chính là những thái độ đạo đức trước một hồng ân Chúa ban. Những thái độ đạo đức này là những gợi ý hữu ích cho chúng ta dịp cuối năm.
Thực vậy, trong năm 1998 đang qua, chúng ta thấy Chúa đã ban cho chúng ta rất nhiều ơn, ơn riêng cho từng cá nhân, ơn chung cho từng gia đình, ơn cho họ đạo, ơn cho địa phận, cho Hội Thánh, cho Quê Hương. Riêng tôi, tôi để ý nhiều đến những đặc ân có liên hệ đến đời sống đức tin, đời sống đạo đức. Như là ơn biết sống khiêm nhường, ơn biết từ bỏ mình, ơn biết cầu nguyện, ơn biết chiêm niệm, ơn biết lắng nghe ý Chúa, ơn biết tìm ra ý Chúa qua những tín hiệu thời sự, ơn thống hối, ơn biết xây dựng những liên đới trong xã hội vv.. Những ơn đó Chúa đã ban cho chúng ta trong năm qua, nhiều người đã dùng ơn đó để trở thành những đền thờ sống động. Tôi coi đây là những phép lạ sống giữa đời và khi nhìn thấy những phép lạ sống giữa đời như vậy, tôi thấy Chúa gần gũi chúng ta. Tôi rất bỡ ngỡ vì những ơn đó. Thái độ bỡ ngỡ trước những sự lạ lùng, Chúa làm cho các linh hồn, thúc đẩy chúng ta hãy biết ca ngợi Chúa. Sự ca ngợi này phải như là một của lễ trong sáng dâng lên Thiên Chúa. Trong sáng ở chỗ nào? Trong sáng ở chỗ chúng ta ca ngợi Thiên Chúa với ý thức rằng chúng ta được ơn Chúa ban, không phải chúng ta có nhiều ơn trọng, không phải vì chúng ta xứng đáng, mà vì Chúa thương, mà vì Chúa giàu lòng thương xót. Ca ngợi một cách trong sáng có nghĩa là khi chúng ta ca ngợi Chúa, thì chúng ta nhận thức chúng ta dùng ơn Chúa ban để thực thi ý Chúa mà thôi, chớ không phải do vụ lợi, dùng ơn Chúa để kiếm lợi riêng cho mình. Lời ta ca ngợi Chúa phải rất trong sạch còn có nghĩa là tôi sẽ mãi mãi ca tụng Chúa, mặc dù trong tương lai có thể Chúa sẽ vắng mặt trong đời tôi một giai đoạn nào đó, hoặc là Chúa sẽ cất ơn Chúa đã ban đi để thử thách tôi, tôi vẫn một mực ca ngợi Chúa quyền năng giàu lòng thương xót.
Hãy ca ngợi Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta. Ca ngợi Chúa, biết bỡ ngỡ vì những ơn Chúa ban để rồi tự hỏi tương lai của ta sẽ ra sao? Tương lai gia đình ta, xứ họ chúng ta, Hội Thánh Quê Hương chúng ta sẽ ra sao? Mấy ngày nay tôi cũng đặt ra cho tôi câu hỏi đó, tương lai sẽ ra sao? Và câu trả lời tôi tìm được cũng là câu trả lời đã được gợi ý trong bài Phúc Âm hôm nay: Bàn tay Chúa ở với đứa trẻ. Tương lai của tôi là tôi mong mãi mãi tôi là người có Chúa ở cùng. Đơn sơ chỉ có thể thôi. Tương lai của chúng ta không phải là mong sẽ có nhiều thêm quyền lực, tiền bạc, chức tước, uy tín, thành công, mà tương lai của chúng ta trước đức tin chỉ là mãi mãi có Chúa ở cùng chúng ta, bởi vì Chúa là lẽ sống của ta, bởi vì Chúa là gia nghiệp đời ta, bởi vì Chúa là hạnh phúc của ta, chúng ta chỉ muốn có Chúa ở với mình. Và mãi mãi trong tương lai, chúng ta càng khám phá thấy những hương vị mới mẻ của sự được Chúa ở với ta, và luôn luôn tìm thấy những sáng kiến mới để rao truyền hạnh phúc được có Chúa ở cùng.
Sáng hôm qua tôi nhận được một cú điện thoại, người nói chuyện với tôi là một phật tử ở Sàigòn, họ quen tôi cũng đã lâu, cách đây hơn 10 năm không gặp lại nhau. Trong điện thoại, họ chỉ báo tin vắn tắt con đã tìm được hạnh phúc. Tôi hỏi hạnh phúc nào? Phật tử đó thưa, hôm nay con đã tìm được Chúa. Và người đó kể ra cả một lộ trình mười mấy năm đi tìm Chúa, bắt đầu là gặp Đức Kitô, sau đó gặp được Thánh Thần, và bây giờ gặp được Chúa Cha. Qua câu chuyện đó tôi cảm thấy người phật tử đó hôm nay, cuối năm 1998 này, đã được ơn Chúa ban, đã cảm thấy hạnh phúc, đã ngợi khen Chúa và vững tâm bước về tương lai.
Khi nghe câu chuyện đó, tôi tự hỏi mình và cũng hỏi anh chị em, một người phật tử đã khám phá được hạnh phúc, tìm được Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta hôm nay có thể nói được cụ thể năm vừa qua tôi đã gặp được Chúa Kitô không? Tôi đã gặp được Chúa Thánh Thần không? Tôi đã cảm được lòng thương xót của Chúa Cha không? Mình có một cảm nghiệm nào thiêng liêng như vậy không, để bỡ ngỡ, để tạ ơn, để nhìn về tương lai với một sự tự phụ, tự đắc thiêng liêng đầy thành thực đối với Chúa.
Trong thánh lễ hôm nay, dịp cuối năm và dịp Giáng sinh, tôi xin cầu nguyện cho anh em và xin tất cả mọi người cầu nguyện cho nhau, để sang năm tới này chúng ta luôn gặp được ơn Chúa, nhận ra ơn Chúa, để biết bỡ ngỡ những việc Chúa làm, và biết cảm tạ những sự Chúa làm, và luôn luôn chỉ muốn một điều căn bản này là: Đời ta có Chúa luôn ở cùng. Amen.
Đang có một phong trào khen và tự khen. Thí dụ: Giáo xứ này có nhiều phát triển bền vững. Giáo Bùi-Tuần 2324
Đang có một phong trào khen và tự khen. Thí dụ: Giáo xứ này có nhiều phát triển bền vững. Giáo phận kia có một sức sống trưởng thành vững mạnh. Giáo Hội Việt Nam chúng tôi có một quá khứ và hiện tại sốt sắng, hào hùng, hứa hẹn một tương lai rực rỡ.
Tôi đón nhận những lời khen và tự khen như thế với lòng cảm phục. Nhưng không dừng lại ở đó. Tôi tự hỏi: Những bền vững tốt đẹp ấy có dám tự khẳng định là sẽ không bao giờ bị chuyển biến đến chỗ sa sút không? Sự dè dặt và lo âu của tôi dựa trên lịch sử những Hội Thánh đó đây đã có một thời phồn thịnh.
1/ Một thoáng nhìn lịch sử
Hội Thánh xưa tại Israel và Palestin là nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, đã rao giảng, đã làm phép lạ, đã chịu chết và đã sống lại. Hội Thánh đó có một nền tảng vững, một nguồn ơn phong phú. Nhưng nay đã bị lu mờ, trước sự tái sinh của Do Thái giáo và sự lan tràn của Hồi giáo.
Hội Thánh xưa tại Tiểu Á là đất hoạt động của thánh tông đồ Phaolô. Tiếp đó là quê hương của nhiều vị thánh giáo phụ như Inhaxiô thành Antiokia, Irênê, Basiliô, Grêgôriô thành Nixê và Grêgôriô thành Nazianxê. Đồng thời, đó cũng là nơi đã tập hợp nhiều công đồng nổi tiếng, như Nicea, Êphêsô, Constantinôpoli, Calcèdonia. Miền đất công giáo phì nhiêu ấy nay đang là Hồi giáo, Công giáo chỉ là thiểu số khiêm tốn.
Hội Thánh xưa tại Ai Cập đã cung cấp cho Công giáo toàn cầu một nền thần học xuất sắc. Với các vị như Clêmentê, Ôrigênê, Athanasiô và Cyrillô. Huy hoàng đó này còn gì đâu!
Hội Thánh xưa tại Phi châu đã thấy mọc lên từng trăm Toà Giám mục, với từng trăm Giám mục sốt sắng, trong đó có thánh Augustinh và Cyprianô. Miền đất có thời là toàn tòng công giấy ấy nay chỉ là kỷ niệm đẹp, còn thực tế đang là nơi phát triển một Hồi giáo phồn vinh.
Hội Thánh xưa tại Âu châu đã có một thời Công giáo sầm uất sốt sắng, với số người đi lễ gần trăm phần trăm. Nhưng nay phong trào thế tục đã làm giảm số người giữ đạo xuống một cách thê thảm.
Tình hình trên đây có vẻ đúng như lời Chúa Giêsu đã phán xưa: "Khi Con Người trở lại, liệu Ngài còn tìm được đức tin trên trái đất này không?" (Lc 18,8).
2/ Nên áp dụng đúng
Một thoáng nhìn trên đây về lịch sử cho phép tôi nghĩ rằng: Lời Chúa hứa về sự trường tồn cho Hội Thánh phải luôn luôn đúng. Nhưng Chúa hứa cho Hội Thánh toàn cầu, chứ không hứa cho các hội thánh tại địa phương.
Các cửa hoả ngục chắc chắn không thể làm gì nổi Hội Thánh xây dựng trên nền tảng Phêrô (x. Mt 16,18). Lời hứa đó có giá trị đời đời cho Hội Thánh toàn cầu.
"Ta sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20).
Lời hứa đó là bảo đảm không hề lay chuyển. Nghĩa là Hội Thánh toàn cầu sẽ tồn tại như lời Chúa hứa. Nhưng, không được áp dụng lời hứa đó vào một giáo hội địa phương.
Sự dè dặt trên đây giúp chúng ta khiêm tốn và tỉnh thức. Hội Thánh Việt Nam ta, giáo phận ta, giáo xứ ta luôn phải bắm chặt vào ơn thánh Chúa. Đừng tự hào vịn vào những gì thế gian coi là hùng mạnh, vững bền. Đức tin cũng không theo cha truyền con nối.
Nhận mình là yếu, đâu có gì phải xấu hổ. Hãy nhớ lại lời thánh Phaolô: "Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yêu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,9-10).
Luôn có những cám dỗ xúi ta tự hào theo kiểu thế gian. Những thách đố đó được hình thành trong các trào lưu kinh tế, văn hoá, chính trị. Nhưng không phải cái gì đúng ở các lĩnh vực ấy, cũng được áp dụng trong lĩnh vực đạo đức của đức tin công giáo.
Phúc Âm kể lại: "Nhân mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: 'Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào'" (Lc 21,5-6).
Tôi suy gẫm lời Chúa phán trên, rồi tự nhiên liên tưởng tới những cơ sở và tổ chức hoành tráng của Hội Thánh Việt Nam, nơi này nơi nọ. Và tôi cầu nguyện trong niềm cậy trông phó thác với tinh thần tỉnh thức khiêm nhường, vâng phục thánh ý Chúa.
Những tồi tệ có thể còn xa. Nhưng xa không có nghĩa là sẽ không thể xảy ra. Chúng ta nên đi về tương lai với tinh thần sám hối cầu nguyện và đổi mới đời sống; vâng lời Chúa mà đi vào đàng hẹp một cách thong dong, không để áp lực xấu nào chi phối.
Được tin Toà soạn báo Công giáo và Dân tộc tổ chức bữa ăn nho nhỏ, để cùng nhau chia vui, dịp Bùi-Tuần 2325
Được tin Toà soạn báo Công giáo và Dân tộc tổ chức bữa ăn nho nhỏ, để cùng nhau chia vui, dịp Công giáo và Dân tộc thấy mình còn sống sót, sau nhiều năm vật lộn với sóng gió tư bề, tôi rất vui.
Tôi cũng là kẻ sống sót trên tờ Công giáo và Dân tộc. Sống sót trong tự do, với chủ trương đường lối Phúc Âm, đó là một niềm vui lành mạnh.
Tôi vui, mà cũng lo. Lo, sao cho tâm thức tôn giáo mọi đồng bào công giáo Việt Nam không những có ánh sáng, mà cũng có lửa thực sự mến Chúa yêu người, thực sự yêu Hội Thánh và Quê Hương Tổ Quốc.
Tôi già yếu lắm. Chúc Công giáo và Dân tộc luôn trẻ. Xin tha thiết chào thăm tất cả anh chị em hiện diện.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói tới con cái Nước Trời. Chúa nói: “Con cái Nước Bùi-Tuần 2326
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói tới con cái Nước Trời. Chúa nói: “Con cái Nước Trời giống như những hạt giống tốt”.
Khi nghe lời Chúa phán trên đây, tôi đã tự hỏi: Ai là con cái Nước Trời? Và tự nhiên, tôi muốn thưa rằng: Con cái Nước Trời chính là Con cái Hội Thánh. Nhưng rồi, tôi lại nghĩ tới một lời của thánh Augustinô xưa. Ngài nói: “Có nhiều kẻ thuộc về Hội Thánh, nhưng lại không thuộc về Nước Trời. Và trái lại, có những người thuộc về Nước Trời, lại không thuộc về Hội Thánh”. Vì thế, tôi không dám đồng hoá con cái Hội Thánh với con cái Nước Trời.
Vậy, con cái Nước Trời là ai?
Dựa theo Kinh Thánh và thần học, tôi xin thưa ngay: Con cái Nước Trời là những người có những phát triển tốt về công bình, về hoà bình, về bác ái liên đới, gây được những ảnh hưởng tốt nơi môi trường chung quanh, biến đổi môi trường chung quanh nên tốt hơn.
Với định nghĩa trên đây về con cái Nước Trời, chúng ta thấy: Bất cứ ai có đạo Công giáo hay không có đạo Công giáo, đều có khả năng trở nên con cái Nước Trời, miễn là biết phát triển những cái tốt, cái hay, cái đẹp. Và đặc biệt là phát triển tinh thần liên đới bác ái, tinh thần hoà bình, tinh thần công lý, và giúp cho môi trường chung quanh trở nên tốt hơn.
Thực tế cho chúng ta thấy đúng là như vậy. Nhiều người không thuộc về Công giáo, nhưng đã có những phát triển tốt về con người và xã hội, làm cho con người và xã hội có công bình hơn, có tinh thần bác ái hơn, có tinh thần hoà bình hơn. Họ chính là những con cái của Nước Trời.
Riêng những người Công giáo chúng ta, chúng ta đã được Chúa ban cho một số ơn, đặc biệt là những nguồn ơn để chúng ta phát triển tinh thần của con cái Nước Trời. Những nguồn ơn ấy là Đức Kitô, là Chúa Thánh Linh, là Hội Thánh chúng ta. Với những nguồn ơn này, biết bao gia đình, biết bao cộng đoàn đã phát triển tốt tinh thần công lý, tinh thần hoà bình, tinh thần bác ái liên đới, và đã ảnh hưởng được sang môi trường những người chung quanh, biến đổi họ nên trở tốt hơn.
Như vậy, cách chúng ta làm chứng về Thiên Chúa hôm nay, chính là chúng ta hãy trở nên con cái Nước Trời, bằng cách chúng ta phát triển nơi bản thân mình, nơi gia đình mình, nơi họ đạo chúng ta những tinh thần của con cái Nước Trời, là cố gắng sống hoà bình, công lý và bác ái, gây ảnh hưởng tốt, biến đổi môi trường chung quanh.
Khi tôi nói tới đây, tôi nghĩ tới xứ đạo Mong thọ của anh chị em. Tôi nghĩ là anh chị em đã có nhiều phát triển tốt về các mặt: Như xây dựng cơ sở, làm đẹp môi trường, tổ chức đời sống giáo đoàn cho có trật tự. Tất cả những phát triển đó là tốt.
Nhưng cái làm cho tôi mừng hơn để tạ ơn Chúa nhiều hơn, chính là sự phát triển tinh thần bác ái, tinh thần hoà bình, tinh thần công lý, giữa các gia đình họ đạo với nhau, giữa họ đạo với các tôn giáo bạn chung quanh, với chính quyền, với những người chúng ta chung sống, và với những người không phải là Công giáo.
Tôi vẫn nghĩ rằng: Nơi nào có tinh thần hoà bình, có tinh thần công lý, có tinh thần bác ái, thì ở đó có Nước Trời, và ở đó có Chúa ngự trị. Không phải nhà thờ đẹp mới có Chúa. Cũng không phải là môi trường đẹp mới có Chúa. Nhưng tâm hồn đẹp, gia đình đẹp, họ đạo đẹp chính là nhờ tinh thần bác ái cởi mở, nhờ tinh thần liên đới, giúp đỡ, kính trọng, thăng tiến người ta, và nhờ tinh thần công lý hoà bình trong các liên hệ. Nơi đó, mới là chính nơi Chúa chọn để mà thăm viếng, để mà ở lại, để xây dựng xã hội và Hội Thánh.
Chính vì thế, mỗi lần đi qua họ đạo Mong Thọ, tôi vẫn cảm tạ Chúa vì những công trình Chúa đã làm nơi đây. Không phải là những công trình bề ngoài mà thôi, mà là những công trình như tôi vừa nói về tinh thần.
Ở cuối nhà thờ, tôi thấy có một khẩu hiệu: “Lửa đức ái liên kết”. Đúng là như vậy. Đức tin thì chỉ liên kết những người có đạo chúng ta lại. Còn đức ái thì liên kết, không những chỉ những người có đạo lại với nhau, mà còn liên kết tất cả dân tộc chúng ta lại, liên kết tất cả nhân loại lại, để tất cả trở thành Nước Trời, dưới vương quyền của Thiên Chúa, một vương quyền có đặc điểm là tình yêu, là hoà bình, là sự thực, là công lý.
Tôi mong rằng: Anh chị em, dù khi gặp may mắn, cũng hãy cố gắng phát triển tinh thần con cái Nước Trời. Và dù khi gặp rủi ro khó khăn, cũng hãy giữ cho trọn vẹn tinh thần con cái Nước Trời, là giữ sự bình an trong tâm hồn. Đừng để cho bất cứ khó khăn nào xảy tới khuấy động tâm hồn mình, làm mất đi sự bình an. Rồi vô tình, chúng ta lại gieo rắc sự bất bình an, gieo rắc sự bất hoà sang những người chung quanh.
Hãy giữ sự bình an, gieo rắc sự bình an, và xây dựng bác ái, bằng cách kính trọng, thăng tiến con người, bất kỳ lương hay giáo, bất kỳ tín ngưỡng hay không tín ngưỡng. Và hãy cố giữ tinh thần công lý trong mọi trường hợp.
Hãy phát triển những cái đó, để rồi họ đạo chúng ta nói chung, và từng gia đình chúng ta nói riêng, cũng như từng cá nhân, sẽ trở nên khí cụ bình an của Chúa.
Tôi nghĩ, nếu sau này, chúng ta có chết đi, mà họ đạo chúng ta, gia đình chúng ta, cá nhân chúng ta, được gọi là khí cụ bình an của Chúa, thì chúng ta đã là hạnh phúc lắm rồi.
Đó là cách chúng ta tuyên xưng đức tin của chúng ta. Đó là cách chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu. Và đó là cách chúng ta phát triển Hội Thánh một cách êm thắm, nhẹ nhàng, và rất hiệu nghiệm.
Là con cái Nước Trời, chúng ta hãy trở nên khí cụ bình an, khí cụ bác ái, khí cụ công bình, để chúng ta là những hạt giống tốt, mà Chúa Giêu nói tới trong Phúc Âm hôm nay.
Xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta nói chung, và con em chúng ta nói riêng, được ơn nhìn rõ những đặc điểm của con cái Nước Trời, để rồi cố gắng đi vào hướng đó, nhất là trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam chúng ta đang bước vào một giai đoạn mới. Amen.
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy cuộc sống của tôi là một gánh nặng nề cả về thân xác lẫn Bùi-Tuần 2327
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy cuộc sống của tôi là một gánh nặng nề cả về thân xác lẫn về tâm hồn.
2. Tôi đem hiện tình đó thưa với Đức Mẹ. Bằng một cách tha thiết và nhẹ nhàng, Đức Mẹ dẫn tâm hồn tôi vào Lời Chúa sau đây:
3. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi. Vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi thì êm ái, và gánh tôi thì nhẹ nhàng.” (Mt 11,28-30)
4. Từ Lời Chúa trên đây, Đức Mẹ dạy tôi điều này, Chúa Giêsu sẽ cứu tôi bằng hiền lành và khiêm nhường của Người.
5. Nơi nào có hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, thì hãy dừng lại ở nơi đó, để cùng với Chúa Giêsu mà cứu mình và cứu những người khác.
6. Người nào có hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, thì hãy cùng với người đó mà cứu mình và cứu những người khác.
7. Khi được nhận ra hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu là yếu tố cứu độ, tôi mới thấy tôi cần tỉnh thức và cần cầu nguyện nhiều, để thực hiện điều Chúa dạy. Bởi vì hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giêsu là đức tính không dễ chút nào. Tôi nhận thấy tôi luôn luôn cần phải học hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu.
8. Riêng tôi, tôi cảm thấy mình càng già, càng cần phải học thêm về hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu.
9. Tôi vừa nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Tôi nghe Chúa nói: Con hãy hiền lành và khiêm nhường như thế này đây.
Tôi sám hối và xin Chúa tha tội cho tôi, bởi vì tôi vẫn còn quá xa đức tính hiền lành và khiêm nhường, mà Chúa dạy.
10. Cảm nghiệm trên đây là rất xót xa. Vì thế, tôi thường cầu nguyện cho tôi và cho các môn đệ Chúa được luôn coi hiền lành và khiêm nhường, là một trong những đức tính căn bản của người môn đệ Chúa.
11. Tình hình tại Việt Nam lúc này là rất nghiêm trọng. Tôi thấy nhiều môn đệ Chúa Giêsu đang sống ơn hiền lành và khiêm nhường một cách sâu xa, sâu thẳm và can đảm.
12. Họ đang dạy tôi.
Sống ơn hiền lành và khiêm nhường là một cuộc chiến cam go trong chính bản thân mình.
13. Luôn luôn phải biết có những khởi đầu mới.
14. Luôn luôn phải xin Chúa ban cho mình đức hiền lành và khiêm nhường như một thứ lương thực bồi dưỡng.
15. Những ai sống như vậy sẽ được ủi an. An ủi lớn nhất là gặp được Chúa và Đức Mẹ.
16. Từ chia sẻ trên đây, tôi tha thiết cầu xin cho Tổ quốc Việt Nam của tôi biết coi chiều kích tâm linh là yếu tố quan trọng trong những hoàn cảnh gian nan khốn khó.
17. Rất mừng là chính lúc này, bầu khí hiền lành và khiêm nhường đang phủ tràn khắp nơi. Người cho đi, kẻ đón nhận đều hiền lành và khiêm nhường.
18. Người cho đi không kiêu ngạo, kẻ đón nhận không bị tổn thương.
19. Nhiều trường hợp, chính người cho đi lại cảm ơn kẻ đón nhận.
20. Đúng là cách cho nhiều khi quan trọng hơn của cho. Đó là văn hóa. Đó là đạo đức.
21. Được như thế, chúng ta sẽ cảm nhận cuộc sống của chúng ta được bình an cao quý, mà Chúa dành cho những ai hiền lành và khiêm nhường như Chúa.
Từ mấy ngày nay, tình hình càng lúc càng thêm ảm đạm do đại dịch gây nên. Không ai không Bùi-Tuần 2328
1. Từ mấy ngày nay, tình hình càng lúc càng thêm ảm đạm do đại dịch gây nên. Không ai không khỏi lo âu, sợ hãi.
2. Chính trong bầu khí như vậy, tôi nghe có tiếng chuông nhà thờ. Đó là tiếng chuông từ tháp nhà thờ Chánh tòa Long Xuyên.
Tôi hiểu đây không là tiếng chuông kêu gọi quy tụ, mà là tiếng chuông kêu gọi cầu nguyện bằng yêu thương.
3. Trong những lúc gặp gian nan khốn khó, tôi khao khát được yêu thương. Nên khi nghe tiếng chuông nhà thờ, tôi cảm nhận thấy:
+ Chúa yêu thương tôi, + Hội Thánh yêu thương tôi, + Nhiều đồng bào yêu thương tôi.
4. Tôi nhớ tới những nhắn nhủ của thánh Gioan Tông đồ trong thư thứ nhất của ngài.
“Căn cứ vào điều này, mà chúng ta hiểu được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.
“Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?
“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” (1Ga 3,16-18)
5. Hãy yêu thương nhau, đó là tiếng gọi tôi đang nghe được từ nhiều ngỏ cuộc sống hiện giờ.
6. Tôi hiểu đây là tiếng Chúa đánh thức lương tâm tôi. Nên với tất cả tấm lòng chân thực, tôi nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, yếu đuối, rất dễ lỗi lầm trong yêu thương. Nên tôi coi sự trở về với yêu thương là việc tôi phải thực hiện từng ngày, từng giờ, từng phút.
7. Trở về với yêu thương, đó là điều Chúa Giêsu đã trối lại trong Bữa Tiệc Ly:
“Thầy cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.” (Ga 13,34)
8. Lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta hãy lắng nghe những tiếng chuông kêu gọi yêu thương. Nhiều dấu chỉ mang hình thức tiếng chuông. Nhạy bén và tế nhị, chúng ta mới hiểu.
9. Yêu thương như Chúa dạy sẽ làm chứng cho đức tin.
Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy mình mong manh, giữa dòng thời sự chuyên chở chết chóc Bùi-Tuần 2329
1. Lúc này hơn bao giờ hết, tôi cảm thấy mình mong manh, giữa dòng thời sự chuyên chở chết chóc, tang thương, sợ hãi.
Để tìm nơi nương tựa, tôi cầu nguyện rất nhiều.
2. Không phải đợi lâu, mà chỉ trong chốc lát, tôi thấy có hai luồng sức mạnh mời gọi tôi.
Một là luồng sức mạnh đề cao nói nhiều, làm ít. Hai là luồng sức mạnh đề cao làm nhiều, nói ít.
3. Tôi cầu nguyện, và Đức Mẹ dạy tôi hãy chọn luồng đề cao làm nhiều, nói ít.
4. Cùng với sự soi sáng của Đức Mẹ, còn có những người gần xa đã gọi cho tôi, để chia sẻ cho tôi sự họ đang lựa chọn, đó là chăm lo cho những người đau khổ bằng những việc âm thầm, kín đáo.
5. Tự nhiên, tôi nhớ tới lời thánh Gioan Tông Đồ đã nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi, những hãy yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” (1 Ga 3,18)
6. Từ những soi sáng trên đây, tôi cầu nguyện rất nhiều cho hướng sống đức tin của tôi lúc này, đó là.
Yêu thương bằng làm nhiều, nói ít.
7. Về việc nói, thì tôi nhớ các nhà chuyên Triết đã dạy tôi thế này: “Nếu chúng ta có bổn phận phải nói, thì hãy nói sao cho chừng mực, trong chân lý và với khiêm nhường.” Tôi hiểu tôi phải phấn đấu nhiều với chính mình.
8. Phải nói thực là lúc này, người dân ngao ngán với những ai nói nhiều làm ít. Họ càng mất niềm tin với chững người có làm, nhưng làm để phô trương chính mình.
9. Tới đây, tự nhiên tôi nhớ tới thánh Giuse xưa. Ngài là con người không nói, mà chỉ làm. Và làm của Ngài chỉ là yêu thương trong khiêm nhường và hy sinh. Suốt đời, Ngài sống lặng thầm phó thác.
10. Thời gian đại dịch sẽ kéo dài, với những chuyển biến khó lường, chúng ta hãy xin thánh Giuse giúp chúng ta biết theo gương Ngài.
11. Riêng tôi, tôi cầu nguyện rất nhiều, cả ngày lẫn đêm. Chúa thương cho tôi được gặp Chúa, tất nhiên vẫn trong đức tin. Tôi cảm nhận được hạnh phúc. Xin cảm tạ Chúa hết lòng.
Tóm ý những bài nói chuyện của Đức Cha Gioan B. BÙI-TUẦN với các thầy: Phêrô Lê Trọng Bùi-Tuần 2330
Tóm ý những bài nói chuyện của Đức Cha Gioan B. BÙI-TUẦN với các thầy: Phêrô Lê Trọng Hải, Giuse Ngô Quang Kiệt, Đaminh Đỗ Xuân Thiêm, Phêrô Mai Đức Vượng, dịp tĩnh tâm chuẩn bị lãnh chức phó tế, và linh mục, từ 12/05/1991 đến 22/05/1991 tại Long Xuyên.
Đây không phải là một bài thuyết trình, hay bài giảng.
Đây chỉ là những kinh nghiệm được chia sẻ, qua 38 năm linh mục của tôi. Nội dung của chúng bởi thế cũng không phải là những suy tư trên lý thuyết, nhưng là những gì đã được trải qua, được sống thực. Chúng không nhằm để công bố trước đám đông, nhưng để trao đổi chân thành giữa nhóm anh em đang chuẩn bị để lãnh các Tác vụ trong Hội Thánh.
Đó là:
1/ Những kinh nghiệm về đời sống linh mục. 2/ Những kinh nghiệm về hành trình hiểu biết trong đời linh mục. 3/ Những kinh nghiệm về hành trình đức ái trong đời linh mục. 4/ Những kinh nghiệm về Nước Trời. 5/ Những kinh nghiệm về các dấu chỉ thời đại. 6/ Những kinh nghiệm về sự phân biệt và chọn lựa trong đời linh mục. 7/ Những kinh nghiệm về đức nghèo.
I. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC: NỖI LO SỢ
Tôi không đến với chức linh mục trong tâm tình hăm hở, chờ đợi, nhưng trong trạng thái lo sợ. Nỗi lo sợ liên lỉ trong tôi, trước và sau ngày chịu chức linh mục, nhất là ngày hôm trước khi chịu chức, tôi đã có ý tưởng muốn rút lui. Nó vẫn còn theo tôi cho đến ngày hôm nay. Đây là những lý do:
1. Chức linh mục là một trách nhiệm thuộc chuyên môn rất nguy hiểm:
“Chuyên môn”, có nghĩa là không phải ai cũng làm được, mà còn phải có khả năng. Khả năng đó là “Cứu độ”. Cùng với Đức Kitô, tôi phải giới thiệu Thiên Chúa là Đấng Cứu độ. Cùng với Đức Kitô, tôi phải giới thiệu Giáo Hội là Bí Tích của ơn Cứu độ.
Tôi có khả năng làm được chuyện đó hay không?
Thay vì tôi giới thiệu Thiên Chúa là Đấng Cứu độ, tôi sợ có thể nhiều lần tôi đã chỉ cho thấy Thiên Chúa là một ông chủ khắc nghiệt. Thay vì giới thiệu Giáo Hội là Bí Tích của ơn Cứu độ, tôi sợ có thể nhiều lần tôi đã chỉ cho thấy Giáo Hội là một bạo chúa.
Là linh mục mà không có khả năng cứu độ, thay vì làm lợi, tôi sẽ chỉ làm hại cho Chúa, cho Giáo Hội và cho các linh hồn.
2. Trách vụ linh mục, cái đó có giúp tôi dễ giải quyết phần linh hồn của chính tôi hơn không?
Để được ngồi vào bàn tiệc Nước Trời, người ta phải có áo cưới Đức tin, và nhất là Đức ái, chứ không cần phải có chức linh mục.
Chức linh mục không cần để được thâu nhận vào Nước Trời. Nó không cao trọng bằng Đức ái.
Chức linh mục chỉ là một công tác, một dịch vụ để phục vụ cộng đoàn (như anh tài công phải phục vụ hành khách trên xe).
Chính Đức ái chứ không phải trách vụ linh mục sẽ đưa tôi đến Nước Trời. Chức linh mục sẽ làm cho phần linh hồn của chính tôi khó hay dễ hơn, là tuỳ như nó có gia tăng Đức ái nơi tôi hay không.
3. Đâu là điểm tựa cho tôi trong trách vụ linh mục?
Càng với tuổi đời, tôi càng thấy mình chẳng có gì đáng tin cậy, đáng là điểm tựa cho tôi trong đời linh mục. Học thức, đạo đức, tài năng... nơi tôi rất giới hạn, chúng chẳng phải là những điểm tựa vững chắc.
Nhìn quanh tôi, cũng chẳng thấy một điểm tựa nào nơi người khác. Tình cảm của họ, lòng tốt của họ, sự giúp đỡ của họ cũng là những gì rất giới hạn, chúng không phải là chỗ để tôi có thể dậy dựa.
4. Với trách vụ linh mục, tôi sẽ phải hội nhập vào giới linh mục:
Hội nhập vào giới linh mục, trong thực tế, là hội nhập vào một giai cấp, một thế giới mới, một xã hội mới. Nó có một bầu khí riêng, một cung cách ăn ở riêng. Tại Việt Nam, nó còn là một giai cấp được coi là quyền lực, vị vọng, trong đó có nhiều cái tốt, nhưng cũng không thiếu cái bị coi là xấu.
Trong giai cấp đó, tôi sẽ bị đồng hoá với những cái mà dư luận cho là xấu của nó, hay tôi phải giữ tư thế biệt lập, dửng dưng xa cách? Hoà nhập vào đó, tôi sẽ bị đưa đẩy tới đâu, đến bến bờ nào?
Vì những lý do trên, nên tôi sợ. Tôi sợ những chức vụ thánh. Tôi thích những chỗ âm thầm, bé nhỏ, vô danh. Tôi vẫn cầu xin cho sự “ra đi” của tôi (kể cả theo nghĩa là cái chết), nếu nó giúp cho phần rỗi các linh hồn và của chính tôi được tốt hơn.
Qua những kinh nghiệm vừa kể, tôi rút ra được những hệ luận sau:
1. Chức linh mục là hoàn toàn do ý Chúa:
Không phải chính tôi chạy chọt, tìm kiếm, nhưng chính Chúa đã chọn tôi, trong lúc tôi hầu như chạy trốn. Người vẫn chọn tôi, mặc dù biết tôi không tốt, và sẽ còn không tốt.
2. Khởi đầu của tu đức và mục vụ phải xuất phát từ sự nghèo khó thiêng liêng:
Biết mình tội lỗi, bất xứng và đầy âu lo, không thể nào và không có gì để tự mãn, tự đắc: Đó là ý thức nền tảng, phải theo tôi trong suốt đời Linh Mục. Ý thức đó phải chi phối mọi chi tiết của trách vụ linh mục của tôi: khi giảng, khi làm việc, khi tiếp xúc, khi ban các Bí Tích... nó sẽ giúp tôi tránh được thái độ cứng cỏi, bất khoan dung, lên án.
3. Hành trang linh mục của tôi là sự cậy trông:
Phải cậy trông Thiên Chúa, các Thánh, Giáo Hội và cộng đoàn. Tư thế nằm phủ phục trong nghi thức phong chức nói lên thái độ nội tâm ấy. Nó gồm hai vế:
a/ Ý thức sự bất xứng của mình.
b/ Tin vào lòng xót thương của Thiên Chúa.
Người đồng hành với tôi trong suốt đời linh mục chính là Đức Kitô. Người cùng đi bên tôi để cứu tôi, chữa tôi, tha thứ cho tôi, cầm tay tôi. Người là một “Đấng Kitô cứu chuộc”.
4. Đối với con người hôm nay, qua kinh nghiệm bản thân, tôi thấy, đề tài mục vụ quan trọng nhất là sự cậy trông:
Đời sống con người ngày nay có quá nhiều lo âu khắc khoải. Bởi thế, món quà có giá nhất tôi có thể trao tặng cho họ là niềm hy vọng. Đức Kitô chính là Tin Mừng, là niềm hy vọng cho con người. Làm sao để qua tôi, qua cách tôi làm mục vụ, mọi người thấy được một Đức Kitô hiền lành, quảng đại, nhân từ, đem lại cho họ niềm an ủi, nỗi vui mừng, sự đỡ nâng cho cuộc sống vốn đã quá đen tối.
5. Nhiệm vụ linh mục rất nặng nề, đòi phải được chu toàn cách thận trọng:
Vì liên hệ đến nhiều người, vì đụng chạm đến số phận đời đời, nên các công tác của linh mục (giảng dạy, ban Bí Tích, mục vụ...) đòi phải suy nghĩ nhiều, chuẩn bị nhiều. Không thể tuỳ tiện, tắc trách, cẩu thả. Phải biết “lo sợ” mà thi hành chức năng người chăn dắt các linh hồn.
Kinh Thánh nói: “Khởi đầu của sự khôn ngoan là sự lo sợ” (Huấn Ca 1,14).
Con người không biết lo sợ dễ hư hỏng. Biết lo sợ, đó là một ơn huệ của Thiên Chúa.
II. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ HÀNH TRÌNH HIỂU BIẾT TRONG ĐỜI LINH MỤC CỦA TÔI.
Vai trò dẫn dắt đòi buộc người linh mục phải trang bị cho mình những hiểu biết cần thiết. Những hiểu biết của linh mục thuộc một lãnh vực riêng: Lãnh vực Cứu độ. Nó gồm 4 loại:
* Loại 1: Những hiểu biết do Thần học:
Đó là những hiểu biết được hệ thống hoá, chúng có tính cách tổng quát. Chúng cần phải được nhấn mạnh vào một số “điểm nóng”, phù hợp với không gian và thời gian mục vụ riêng biệt. Đâu là những điểm nóng ấy? Thần học do Công Đồng Vatican II cho ta câu trả lời: nó làm thành 4 “bánh xe mục vụ” căn bản:
1. Giáo Hội phải tập trung vào Đức Kitô: Đức Kitô là trung tâm của đạo. Mọi sinh hoạt của Giáo Hội (Mục vụ, giáo lý, phụng vụ...) phải cho thấy vị trí trung tâm ấy của Người.
2. Giáo Hội phải coi truyền giáo là bản chất và công tác ưu tiên: Truyền giáo bằng lời rao giảng, truyền giáo bằng sự hiện diện tích cực, và bằng cuộc sống công bình bác ái.
3. Giáo Hội là một dân Thiên Chúa: Giáo Hội phải khiêm tốn hơn, thực tế hơn, thương xót hơn. Giáo Hôi phải kính trọng từng người giáo dân. Giáo Hội không phải là hàng giáo sĩ, bởi thế, hàng giáo sĩ không phải là tuyệt đối. Tất cả chúng ta - giáo sĩ và giáo dân - phải cùng đồng hành hướng về Đức Kitô. Chỉ có Người là tuyệt đối: “Chỉ có Người là Đấng thánh, chỉ có Người là Đấng Tối cao”.
4. Giáo Hội phải dấn thân vào việc phát triển những giá trị trần thế: Những giá trị trần thế có vị trí độc lập, nhưng không xa lạ với Nước Trời. Sứ mạng Phúc Âm hoá buộc Giáo Hội phải kính trọng những giá trị trần thế ấy và phát huy chúng.
* Loại 2: Những hiểu biết do Đức Tin:
Những hiểu biết này không thể tìm thấy trong sách vở, đó là thứ ánh sáng do Đức Tin cung cấp, để tôi đi vào cuộc sống từng ngày, va chạm vào những thực tế của đời thường, và đọc ra từ đó những dấu chỉ thời đại. Thí dụ, những dấu chỉ về tình liên đới, yêu thương, nhân ái.
* Loại 3: Những hiểu biết do ơn tiên tri:
Người dẫn đường là người phải “thấy trước”. Người mục tử là người phải thấy trước bước đường của đàn chiên: Những gì cần tránh, những gì cần chuẩn bị, những đồng cỏ suối nước cần đến.
Bài học của ơn tiên tri chính là lịch sử thánh. Lịch sử thánh là khuôn mẫu cho mọi lịch sử, nó chiếu dọi vào tương lai, tái diễn không ngừng nơi mọi cộng đoàn, và cung cấp những chỉ dẫn cần thiết.
Có cái nhìn tiên tri cũng là biết báo động, cảnh cáo, và kêu gọi sửa sai, khổ chế. Bởi thế, chức năng tiên tri thường bạc bẽo, hẩm hiu: phải chấp nhận như thế.
* Loại 4: Những hiểu biết do đặc sủng Thánh Linh:
Nó gần như một trực giác, để nhìn thấy qua bất cứ một thực tại nào, thấy ngay được thực chất, trọng lượng thật của nó. Người mục tử rất cần đến loại trực giác ấy.
Muốn thế cần phải:
1. Học nhiều và đọc nhiều: “Một linh mục tốt ngày nay, là người linh mục đọc Kinh Thánh hằng ngày và đọc báo hằng ngày”.
2. Suy nghĩ nhiều: Nhất là suy nghĩ trên những sự kiện xảy ra.
3. Cầu nguyện nhiều: Nghĩa là đặt mình trong tư thế đối thoại liên miên với Thiên Chúa.
III. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ HÀNH TRÌNH ĐỨC ÁI TRONG ĐỜI LINH MỤC CỦA TÔI
Đời linh mục nếu không có đức ái, chẳng khác gì một cây đã cạn hết nhựa sống. Một linh mục tốt là một linh mục phát triển về đức ái (1Cor 13).
Hành trình đức ái trong đời linh mục của tôi, đã trải qua những kinh nghiệm sau:
1. Càng ngày Chúa càng bắt tôi phải lu mờ đi, và vai trò của Chúa càng tỏ hiện hơn:
- Càng đi sâu vào đời linh mục, tôi thấy Chúa càng chủ động hơn trong đức ái. Chúa chủ động đến với tôi, hơn là tôi đến với Người. Tôi như một vực sâu, chính Chúa bước xuống vực sâu của đời tôi để cứu chữa, tha thứ, thánh hoá.
- Càng ngày tôi càng cảm thấy yêu Chúa là chia sẻ tâm tư tình yêu của Chúa, hơn là đòi Chúa phải chia sẻ tâm tư tình cảm của tôi. Yêu Chúa không phải là bắt Người phải thoả mãn những ước vọng của tôi, nhưng là lắng nghe tiếng nói của Chúa: Người bắt tôi phải yêu thương, phải hy sinh như Người.
- Càng ngày tôi càng hiểu ra yêu Chúa là bắt chước Chúa, sống như Chúa, bước theo Chúa. Mà con đường Chúa đã đi là con đường Canvê, mà cuộc sống Chúa đã sống là hy sinh hiến tế.
2. Càng đi sâu vào đời linh mục, Chúa càng làm cho tình yêu cảm xúc bớt đi, và tình yêu hiến tế lớn lên:
Yêu Chúa không phải là những cảm xúc, nhưng là hiến tế chính mình. Yêu Chúa không phải bằng thơ ca mơ mộng, nhưng là bằng máu, mồ hôi, những vất vả triền miên trong đời.
Như Đức Kitô, chính mình là tư tế, chính mình là của lễ, người linh mục cũng phải liên lỉ dâng lên Chúa Cha những đau khổ của mình, của nhân loại. Nếu cần phải xác định một identité cho người linh mục, thì đó là: hiến tế chính mình, hiến tế những khổ đau con người, hợp với của lễ của Đức Kitô.
3. Chúa không muốn tôi an nghỉ ở những nơi ấm cúng mặn nồng, Chúa muốn gửi tôi đến những địa chỉ mà tình yêu cứu độ của Người sai tôi đi:
Chúa không muốn tôi ở lại, nhưng phải lên đường, phải xuất hành đến những nơi khổ đau mà Đức Kitô đã chọn: Những người nghèo, những con chiên lạc, những tội nhân...
Chúa muốn tôi đem tình yêu cứu độ của Người đến những địa chỉ đó: Là Linh Mục có nghĩa là làm sứ giả của tình yêu cứu độ. Chúa Giêsu là Đấng Salvator, linh mục cũng phải là một alter Salvator. Linh mục không được chỉ biết kết tội, lên án, hăm doạ, nhưng phải biết xót thương và cứu chuộc.
4. Trong đời linh mục, tôi nhận ra rằng mình cho đi chẳng bao nhiêu, nhưng nhận vô cùng:
Đừng quan niệm linh mục là kẻ ban phát ơn huệ và đòi mọi người phải biết ơn, đáp nghĩa. Trái lại, kinh nghiệm cho tôi thấy linh mục là kẻ lãnh nhận vô cùng, và bởi thế phải là kẻ biết ơn vô cùng.
Tôi còn thấy mình lãnh nhận phần lớn là từ những kẻ bé nhỏ, hèn kém: những người nghèo, những người vô danh, những bệnh nhân, chứ không phải chỉ từ các bề trên, những bậc vị vọng, những ân nhân tên tuổi... Chính những bàn tay âm thầm nhỏ bé lấm lem có giá trị quyết định trong đời linh mục của tôi. Tắt một lời:
Suốt đời linh mục, chúng ta phải chăm sóc cây Bác Ái trong ta. Làm sao để nếu ta ra đi, thì ấn tượng để lại sẽ không phải là công trình này, cơ sở kia, nhưng là Đức Ái. Vậy, hãy chăm sóc trái tim chúng ta, hãy phát triển trái tim Bác Ái của ta.
IV. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ NƯỚC TRỜI
Đừng đồng hoá Giáo Hội với Nước Trời. Đừng đòi mọi người phải phục vụ Giáo Hội như phục vụ Nước Trời. Nước Trời lớn hơn Giáo Hội. Giáo Hội phải phục vụ Nước Trời.
1. Để xây dựng Nước Trời, tôi cần thực hiện 3 điểm này:
1/ Cứu con người khỏi sự dữ, như Đức Kitô đã cứu con người khỏi mọi sự dữ. Sự dữ dưới mọi hình thức nghèo đói, dốt nát, bệnh tật, bất công, tội ác...
2/ Xây dựng những tương quan đức ái ở khắp mọi nơi, giữa những con người, giữa các cộng đoàn, như Đức Kitô đã dạy.
3/ Loan báo Đức Kitô và Phúc Âm của Người: Bằng lời nói, hành động, cuộc sống... để mọi người trở về với Đức Kitô, với Phúc Âm.
2. Cần tìm ra những “cách” thích hợp để xây dựng Nước Trời:
Trong công trình xây dựng này, thiện chí thôi không đủ, lòng nhiệt thành thôi không đủ. Cần suy nghĩ, cần những phương pháp, cần có khoa học. Phải tìm tòi học hỏi nơi trường đời, nơi cuộc sống, nơi thời đại, để thấy được “cách” tốt nhất.
3. Chúa dùng rất nhiều người thợ khác nhau để xây dựng Nước Trời:
Chúa đang dùng cả những người thợ ngoài hàng giáo sĩ, ngoài cơ chế Giáo Hội để xây dựng Nước Trời. Chúng ta phải biết quí trọng những tay thợ đó, cho dù họ xuất thân từ đâu.
Như thế, chỗ đứng và vai trò người linh mục sẽ thu hẹp lại: Người linh mục phải khiêm tốn hơn.
Để đẩy lui bóng tối sự dữ, thời đại hôm nay đâu còn phải cái gì cũng cần tới Giáo Hội, tới linh mục nữa. Nó có những sinh hoạt, tổ chức độc lập. Vai trò của linh mục chỉ còn là hợp tác, chứ không phải là chủ nhân.
Trong hoàn cảnh ấy, linh mục cần phải sắc bén, bám chặt, và đi sâu vào cái chuyên môn của mình: đó là loan báo Đức Kitô, loan báo Phúc Âm, xây dựng đức ái.
4. Hãy khiêm tốn làm công việc của một người gieo:
Trong công việc xây dựng Nước Trời, đừng tham vọng nhiều. Đừng tự mãn cho là xong rồi, cũng đừng bực tức chán nản vì chưa thấy kết quả.
Cứ làm việc hết mình, kết quả để Chúa.
Ta cứ cố gắng gieo vào đời một chút gì đó tươi mát, hứa hẹn của Đức Kitô: Như thế thôi cũng là nhiều rồi.
5. Sẽ không tránh được trở ngại:
Hoặc do những quan điểm, những tâm lý khác nhau. Hoặc do những vụng về của chính mình. Hoặc do những hẹp hòi của lòng người.
Đừng nản lòng, vì đó là đương nhiên. Vì ngay Đức Kitô - Người đã khánh thành Nước Trời trên trần gian - cũng đã không tránh được trở ngại.
Gặp trở ngại, ta đừng chán nản rút lui, đừng có ngoan cố hút đầu vào, nhưng tốt hơn cả, hãy “im lặng” và tìm cách “lách” đường khác.
V. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ CÁC DẤU CHỈ THỜI ĐẠI
Một linh mục làm việc mục vụ phải có khả năng nắm bắt được những dấu chỉ thời đại:
1. Dấu chỉ lớn nhất của thời đại: sự lên ngôi của con người.
- Trước đây, người ta nói tới quốc gia, chủng tộc, nhân loại, Giáo Hội... Ngày nay, người ta chỉ nói đến con người: Phát triển con người, phục vụ con người, thăng tiến con người, quyền con người. Con người là trung tâm, là đối tượng số một. Mục vụ cần để ý đến việc phục vụ con người, phát triển con người toàn diện.
- Xã hội chúng ta hôm nay đang có nguy cơ phá sản con người: Trong mục vụ, chúng ta cần chú ý nâng cao con người, đề cao đạo làm người. Con người ở xã hội Việt Nam là con người đang xuống cấp, con người ích kỷ: mục vụ không cần phải quá cao xa bay bổng, hãy bắt đầu từ việc xây dựng nhân bản.
- Mục vụ hôm nay cũng phải là đồng hành với con người. Con người với những giá trị cao đẹp, cũng như những bóng tối của nó. Người linh mục phải biết đi vào những vấn đề của con người, của cuộc sống.
2. Dấu chỉ thứ hai: Đang chớm nở và lớn mạnh ý thức về dân tộc:
Ngày nay ý thức dân tộc đang phát triển mạnh mẽ trong mọi sinh hoạt của con người: văn hoá, nghệ thuật, kinh tế... Mục vụ phải quan tâm đến những thao thức của dân tộc. Người làm mục vụ phải biết đồng hành với dân tộc, phải tham dự vào những vui mừng và lo âu, những thăng trầm của dân tộc mình.
3. Dấu chỉ thứ 3: Tinh thần đại kết:
- Những ngày cầu nguyện cho hoà bình tại Assisi, cộng đoàn Taizé, những trường dạy Thần học chung cho Công Giáo, Tin Lành và Anh Giáo... đó là những dấu chỉ về sự khao khát muốn đối thoại giữa các tôn giáo, về ý thức đại kết.
- Ngày nay, người ta nhấn mạnh đến hoà giải và hoạt động từ thiện: Sau chiến tranh, xã hội đang cần hàn gắn lại những đổ vỡ bằng tinh thần hoà giải, con người cũng đang phải chịu nhiều vết thương cần phải được xoa dịu, chữa lành bằng những việc từ thiện bác ái. Mục vụ phải đáp ứng được nhu cầu đó.
4. Dấu chỉ thứ 4: Tinh thần khoa học:
Con người ngày nay đề cao tính khoa học. Đã qua rồi cái thời người ta ham thích những phép lạ. Đã qua rồi cái thời tổ chức công việc cách độc đoán, tuỳ tiện. Thời đại hôm nay đòi mọi sự phải rõ ràng, hợp pháp, trọng các nguyên tắc.
5. Dấu chỉ thứ 5: Đề cao vai trò người giáo dân và phụ nữ:
Chỗ đứng của hàng giáo phẩm ngày nay càng thu hẹp lại, nhường chỗ cho vai trò người giáo dân ngày càng chủ động hơn. Phải chấp nhận một thực tế: Chính giáo dân là tác phẩm gây nên những phong trào canh tân mạnh mẽ trong xã hội và Giáo Hội hôm nay.
Vai trò của phụ nữ cũng ngày càng đậm nét hơn trong xã hội và Giáo Hội. Một quốc gia, một chế độ, hay một cộng đồng nào càng đề cao sự đóng góp của phụ nữ, càng chứng tỏ tính nhân bản của mình.
VI. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ SỰ PHÂN BIỆT VÀ CHỌN LỰA TRONG ĐỜI LINH MỤC
Linh mục phải có khả năng phân biệt chính - phụ, phải biết chọn cái cần chọn.
1. Cái chính trong đời sống mục vụ:
Không nên ôm đồm, hỗn tạp, chỉ nên chọn vài điểm chính trong mục vụ, làm hướng đi cho đời linh mục của mình.
Ba chủ điểm cho mục vụ ngày nay là:
1/ Cứu con người khỏi mọi sự dữ, bất cứ sự dữ nào.
2/ Xây dựng khắp nơi tương quan đức ái.
3/ Rao giảng Đức Kitô và ơn Cứu độ của Người.
Từ lời giảng dạy, đến cách tổ chức, và mọi sinh hoạt trong Giáo Hội, phải làm nổi bật ba cái chính đó.
Khi thực hiện, tốt hơn cả nên làm những cái có qui mô nhỏ, trong tầm tay. Đừng tham lam làm qui mô lớn quá, dễ đưa đến ảo tưởng hoặc quá tải.
2. Biết phân biệt cái lỗi thời và hợp thời:
Thời đại chúng ta là thời biến chuyển nhanh chóng. Chúng ta cần xem xét trong công tác mục vụ chúng ta cái gì đã lỗi thời, không áp dụng, vô bổ, ngược đời... để loại bỏ.
Cái lỗi thời là cái không còn là “dấu chỉ” cho người thời đại hôm nay nữa. Có những biểu lộ đức tin, những việc đạo đức, những lối nhìn đã từng là “dấu chỉ” của một thời đại đã qua, nhưng nay không còn nói lên được cái gì nữa, ngoài tác dụng dễ gây ngộ nhận xúc phạm cần được phải đào thải.
Thí dụ: Quan niệm về chức linh mục: quan niệm xưa đã lỗi thời: là sự tham dự vào chức tư tế thánh thiện của Đức Kitô; quan niệm ngày nay: đề cao tính phục vụ, tính cứu độ như Chúa Giêsu. Quan niệm về Giáo Hội: quan niệm xưa đã lỗi thời: là giai cấp, phẩm trật; quan niệm ngày nay: Giáo Hội chính là dân Thiên Chúa. Quan niệm về sự thánh thiện: mô hình cũ đã lỗi thời: là tinh thần thánh hiến, pháo đài; mô hình ngày nay: là thái độ chan hoà, hoà giải (điển hình là Têrêxa Calcutta).
3. Phân biệt cái gì lợi thật cho đạo, cái gì lợi giả cho đạo:
Chúng ta phải phân biệt cho rõ điều gì làm sáng danh Chúa thật, điều gì có lợi cho Giáo Hội thật. Bởi vì có bao điều ta tưởng làm tôn vinh Chúa, và xây dựng Giáo Hội, mà thật ra chỉ làm ô danh Chúa và phá đạo. Những cái đó cần phải sáng suốt loại bỏ đi.
4. Phân biệt đâu là thánh ý Chúa, và đâu là ý mình, ý của phe nhóm mình:
Đó là điều không dễ gì thực hiện. Tốt hơn cả chúng ta phải dựa vào Phúc Âm, dựa vào giáo huấn Vatican II.
Chúng ta hãy qui hướng tất cả về Đức Kitô. Hãy tra hỏi Người, hãy phóng vấn Người: “Trong trường hợp này, Chúa xử trí như thế nào?”.
Một tiêu chuẩn khác để nhận ra ý Chúa, đó là ích lợi cho con người. Cái gì gây hạnh phúc cho con người là ý Chúa, là ích lợi của đạo. Chúng ta đừng để cơ chế, sự ổn định, tổ chức đè bẹp đức ái, đè bẹp con người. Chúa không muốn vậy.
Một điều cần cảnh giác, nhiều khi chính chúng ta lỗi thời, mà tưởng mình hợp thời, để rồi gây bao điều hại cho đạo, mà không ai dám nói ra, hoặc chẳng muốn nghe ai nói. Để tránh tai hoạ đó, người làm mục vụ phải theo dõi bước tiến của Thần học, xã hội, tâm lý ngày nay. Đồng thời cần khiêm tốn, cởi mở, đừng tự mãn cho mình biết hết, đúng hết.
VIII. NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ ĐỨC NGHÈO
1. Thách đố của thời đại hôm nay:
Con người của thời đại hôm nay nặng về óc thực nghiệm. Người ta không đánh giá một ý thức hệ, một tôn giáo, một cơ chế, ở chỗ đúng hay sai, nhưng tuỳ vào “Anh có thiện chí và khả năng làm cho con người bớt nghèo, bớt dốt, bớt bệnh tật hay không?”. Đó chính là tiêu chuẩn định đoạt. Nếu không đạt được tiêu chuẩn ấy, dù anh có nói hay đến mấy, sẽ chẳng ai tin anh.
Trong lúc đó, thế giới Công Giáo lại phần lớn là nghèo (Trung Mỹ, Nam Mỹ): đó là một xúc phạm lớn.
Tại Âu Châu: những nước phát triển cao là những nước Bắc Âu, thuộc Tin Lành, những nước nghèo phía nam (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...) thuộc Công Giáo.
Tại Á Châu, không kể Nhật, Triều Tiên, 4 con rồng nhỏ phát triển lại không phải là những nước Công Giáo, trong khi đó, tại Phi Luật Tân, một nước Công Giáo lại là quốc gia nghèo, xáo trộn, đầy bất công.
Làm sao để chứng minh cho con người ngày nay tin rằng Công Giáo là tôn giáo giải phóng, cứu chuộc con người?
2. Con người hôm nay phát triển về óc phê phán:
Con người hôm nay không còn là đứa trẻ mê muội, tối mặt, họ biết phê phán về các sự kiện. Nếu trong đời sống thực, người linh mục không làm điều mà mình giảng dạy. Nếu linh mục trưởng giả, ích kỷ, xa cách. Nếu họ thấy Giáo Hội không thương người, không quan tâm đến dân nghèo, không sống nghèo như Đức Kitô. Và nếu họ thấy Giáo Hội, các linh mục cũng tham tiền, thu vén, hưởng thụ... họ sẽ chẳng bao giờ tin những gì chúng ta nói.
3. Con người hôm nay có óc phân tích:
Họ biết lý luận, đặc vấn đề sâu sắc về Giáo Hội, về sống đạo, về các Linh Mục, tu sĩ. Trình độ ý thức của con người ngày nay không còn để người giáo dân trong trạng thái thụ động, vâng lời, ngoan ngoãn, dễ dạy như thuở nào nữa. Họ biết nhìn, biết phân tích, biết mổ xẻ.
Nếu không ý thức điều đó, người linh mục dễ có thái độ an tâm, tự mãn, dễ trở thành chai cứng, chỉ biết kết tội, thiếu thông cảm.
4. Con người hôm nay biết so sánh:
Con người thời nay biết để ý, quan sát và so sánh: So sánh mức sống của linh mục với mức sống của dân chúng, so sánh linh mục này với linh mục khác, so sánh điều linh mục giảng với điều linh mục làm...
Người giáo dân Việt Nam hôm nay, nói chung, còn kính trọng các linh mục. Họ chấp nhận linh mục có mức sống cao hơn họ, dễ dãi hơn họ. Nhưng cái cao hơn, dễ dãi hơn đó là để phục vụ, chứ không phải để hưởng thụ cho riêng mình. Người dân hôm nay rất nhạy bén, họ phát hiện ra ngày nào linh mục biết sống cho người khác, và linh mục nào chỉ lo cho bản thân mình.
Lời kết:
Chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của năm 2.000. Vào thời điểm ấy, chúng ta sẽ là nhân chứng của một thời hưng thịnh của Giáo Hội, hay một thời suy tàn của Giáo Hội, tuỳ ở Giáo Hội có biết đến với con người, với dân tộc hay không? Và nhất là có thực sự trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người không?
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Bùi-Tuần 2331
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Ðức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Ðức Mẹ làm Mẹ Ðấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Ðức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng ( Lc 1, 38 ).
Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa.
Lập tức sau lời "xin vâng" của Ðức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Ðức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó "xin vâng" đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.
Khi nói xin vâng được coi như một giao ước mới, tôi nhớ lại việc Ðức Mẹ vội vã lên đường đi thăm viếng bà Ê-li-da-bét ( Lc 1, 39 - 45 ). Ði thăm để chia sẻ, để phục vụ, để nâng đỡ khích lệ bà Ê-li-da-bét. Theo Ðức Mẹ, thì mình được Chúa thương, là để mình biết thương người khác. Mình được Chúa chọn cộng tác với Chúa trong việc cứu độ, thì mình phải quyết tâm dấn thân góp phần cứu độ người khác. Mình nhận ơn Chúa ban, thì mình sẽ cố gắng chia sẻ ơn đó cho người khác.
Thiết tưởng đó là một giao ước mới về bác ái liên đới phát sinh từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi như một bài ca mới, tôi nhớ lại tâm tình Ðức Mẹ trong kinh Tạ Ơn "Linh hồn tôi tung hô Chúa" ( Lc 1, 46 - 55 ). Tâm tình Ðức Mẹ là lời nói chân thành của người con bé nhỏ, đầy khiêm tốn, ngỡ ngàng biết ơn và phó thác đối với Chúa. Tâm tình Ðức Mẹ là khát vọng cứu độ tỏa ra sức nóng của tình yêu thương xót, nhưng lại khiêm nhường tế nhị đối với đồng bào, nhân loại. Tâm tình Ðức Mẹ là cái nhìn tiên tri sâu sắc của trái tim khiêm nhường về tương lai dành cho những kẻ khiêm tốn.
Thiết tưởng đó là một bài ca mới về khiêm tốn khởi đi từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Ðức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem ( Lc 2, 1 - 7 ). Ðang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu giá trị con người, thì Ðức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Ðức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Ðức Mẹ. Trên con đường đó, Ðức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Thiết tưởng đó là một con đường mới về sự nghèo khó được vạch ra từ lời xin vâng.
Con đường mới đó, bài ca mới đó, giao ước mới đó đều nói lên Ðức Mẹ là con người mới. Mới về nhiều phương diện, nhưng nhất là về phương diện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Ðức Mẹ, để đổi mới con người của Mẹ ( Lc 1, 35 ).
Qua việc Ngôi Hai xuống thai trong lòng Ðức Mẹ, Chúa Thánh Thần đã đưa tình yêu thương xót của Thiên Chúa vào nhân loại, đã mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, đã khai mở một nguồn mạch ơn thánh cứu độ vô cùng phong phú cho mọi người thiện chí.
Do đó, Ðức Mẹ là con người mới, là tác phẩm tuyệt vời của Chúa Thánh Linh. Với đặc điểm là Ðức Mẹ có một trái tim giống trái tim Chúa Giêsu, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, cháy rực lửa tình yêu thương xót.
Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào, để chuẩn bị mừng Lễ Truyền Tin một cách sống động sát với thời sự.
Thời sự hiện nay, nếu nhìn về góc độ xin vâng ý Chúa, thì đó là cả một vấn đề đáng phải lo ngại. Bởi vì có những người coi trọng ý Chúa và xin vâng ý Chúa. Cũng có những người coi thường ý Chúa và chống lại ý Chúa. Có những người hiểu sai ý Chúa, vô tình hoặc cố tình. Có những người gán cho ý Chúa những ý riêng của mình. Có những người muốn ý Chúa hợp theo ý riêng mình, cho dù ý riêng mình là quái gở.
Thời sự hôm nay là Ít-ra-en, quê hương của Ðức Mẹ, đang là mảnh đất diễn ra vòng xoáy hận thù và đổ máu. Vòng xoáy kinh hoàng này càng ngày càng mở rộng trên đất, đồng thời càng xoáy sâu vào lòng dân. Từ mảnh đất này hằng ngày truyền đi khắp năm châu những tin đau đớn, gây nên băn khoăn nặng nề cho hoà bình thế giới. Thời sự này làm cho rất nhiều người phải khóc, phương chi Ðức Mẹ.
Nhưng theo tôi, thời sự hiện nay quan trọng nhất chính là chuyện của bản thân ta. Ta có lắng nghe ý Chúa không ? Và ta có xin vâng ý Chúa thực không ? Ðoạn Phúc Âm sau đây sẽ gợi ý cho ta thấy rõ ý Chúa về ta trong thời sự hôm nay:
"Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Ðức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Ðức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao ? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy". "Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-e đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao ? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy" ( Lc 13, 1 - 5 ).
Suy gẫm đoạn Phúc Âm trên, tôi có cảm tưởng là Chúa muốn báo tin cho từng người chúng ta biết rõ ý Chúa. Ðó là đừng quá bận tâm xét đoán người khác, nhưng hãy ưu tiên lo phần rỗi của mình. Lo bằng cách sám hối ăn năn, đổi mới chính mình. Cách đó là cách tốt nhất để góp phần vào việc cứu độ người khác.
Chúa báo tin cho chúng ta ý Chúa là như thế đó. Rất rõ ràng. Ở Fatima Ðức Mẹ cũng báo cho chúng ta tin đó. Cũng rất rõ ràng. Chúng ta hãy đáp lại bằng lời xin vâng.
Xin vâng của chúng ta là một hành trình dài đi về với Chúa. Hãy bước đi với những bước nhỏ. Như hằng ngày cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng và chuỗi Mai Khôi. Như hằng ngày đến bên trái tim Ðức Mẹ, để xin trái tim Ðức Mẹ chia sẻ cho ta bầu khí thinh lặng, chiêm niệm, lửa bác ái nồng nàn và sức mạnh lạ lùng của khiêm nhường nghèo khó. Như hằng ngày thực hiện đôi ba việc bác ái, thương cảm liên đới với những người nghèo, bệnh tật, xa Tin Mừng, bị xã hội loại trừ. Như hằng ngày tập nói và làm những gì mang tính cách phục vụ hoà bình hiệp nhất trong yêu thương và tế nhị. Như hằng ngày dùng lòng tin mến biến những mệt mỏi khổ đau của mình thành của lễ đền tội tạ ơn, và xin ơn an bình cho gia đình quê hương và thế giới.
Nếu lời xin vâng của chúng ta được hiệp thông sâu sắc với lời xin vâng của Ðức Mẹ, thì đây sẽ là một hy vọng mới cho tương lai bản thân ta, cho Hội Thánh ta, cho quê hương Việt Nam chúng ta, và cho tất cả nhân loại.
Muốn đi từ Rạch Giá đến Sài Gòn, ta có thể dùng đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không. Nhưng Bùi-Tuần 2332
Muốn đi từ Rạch Giá đến Sài Gòn, ta có thể dùng đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không. Nhưng dù di chuyển bằng đường nào, ta cũng phải có phương tiện mới tới nơi được.
Đời sống ta cũng là một chuyến đi, một chuyến đi dài, một chuyến đi trắc trở, chuyến đi của con người tìm về nhà Chúa. Hiện giờ ta đang trên con đường đó. Mặc dù lúc này ngồi gần nhau đây, nhưng có thể rất xa nhau trên con đường này. Kẻ đã tới gần đích, kẻ vẫn còn xa, kẻ đang bị lầy lội, kẻ đang đi thênh thang... Nhưng chưa ai tới đích. Mà chưa tới đích thì chẳng ai dám chắc sẽ không gặp bất ngờ.
Mà đây là chuyện tối quan trọng, vì không tới được Chúa thì sẽ là mất hết. “Ô! Được mọi sự thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì?”.
Vì thế, trong mấy ngày này, chúng ta sẽ cùng nhau xem xét lại những phương tiện giúp ta đi lên Chúa. Những phương tiện ấy có nhiều. Nói hết sẽ dài lắm. Dịp này, chúng ta sẽ chỉ suy nghĩ về một số vấn đề tương đối cần thiết hơn mà thôi. Vấn đề thứ nhất tôi muốn bắt đầu là Biết Mình. Biết Mình, đó là đề tài chiều nay.
Anh chị em thân mến,
Người đau mà tưởng mình mạnh, người mạnh lại tưởng mình đau, cả hai người cùng nguy khốn cả, vì không biết mình. Người đi lạc mà tưởng mình đi đúng. Người đi đúng lại tưởng mình đi lạc: cả hai người cùng nguy khốn cả, vì không biết mình.
Trong mọi phạm vi, nhất là trong phạm vi đạo đức, sự không biết mình là một điều rất tệ hại. Không biết mình xấu, thì làm sao sửa mình nên tốt được. Không biết mình lâm nguy thì làm sao tránh được tai biến. Vì thế, biết mình là điều kiện trước tiên của mọi cải tiến. Muốn nên người, muốn nên thánh, thì trước tiên phải biết mình. Do đó, người ta cho sự biết mình là đầu mối khôn ngoan.
Tuy nhiên, ít người biết rõ mình. Vì biết mình là một điều không dễ. Đã hẳn rằng, không ai gần ta cho bằng ta, nhưng rất nhiều khi chính ta lại xa lạ với ta hơn hết. Nhưng tuy khó, ta vẫn có thể biết được mình.
Để biết mình, ta phải xét mình. Nhưng có nhiều cách xét mình ta phải coi chừng, vì nó không làm cho ta biết rõ mình đâu.
Cách xét mình thứ nhất phải coi chừng: là so sánh mình với người khác.
Phúc Âm kể chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người biệt phái và một người thu thuế. Giới biệt phái có tiếng đạo đức. Giới thu thuế có tiếng tham nhũng. Người biệt phái phải đứng gần bàn thờ, ngước mắt lên trời mà nói: Lạy Chúa, xin thương đến tôi. Vì tôi ăn ở đàng hoàng, không thối nát đàng điếm như người thu thuế đứng dưới kia. Hơn thế nữa, mỗi tuần tôi ăn chay hai lần, tôi làm phúc bố thí cho kẻ nghèo... Còn người thu thuế thì đứng mãi cuối nhà thờ, cúi mặt xuống đất, đấm ngực mà cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương đến con vì con tội lỗi đầy tràn...”. Rồi Chúa phán: Hai người cùng đi ra nhưng người thu thuế thì được khỏi tội, còn người biệt phái thì không.
Chuyện trên đây cho ta thấy: so sánh mình với kẻ khác, thường không phải là cách tốt để biết mình. Người biệt phái so sánh mình với người thu thuế thì thấy mình hơn người đó đủ mọi phương diện. Nhưng ông ta đâu có ngờ rằng, những cái ông ta so sánh đó chưa phải là tất cả. Còn nhiều điều quan trọng hơn. Người khác không thấy, và chính ông cũng không để ý. Mà đó mới là cái ăn thua.
Nhiều khi ta cũng lầm như người biệt phái đó. Ta thấy người khác khô khan, ít đi nhà thờ, đọc kinh dự lễ thua ta, thì ta tự cho mình là hạng người đạo đức. Hoặc khi ta thấy nhiều người khác cũng phạm tội, sống tầm thường như ta thì ta tự an ủi mình rằng: Có trăm ngàn người khác cũng thế. Họ có hơn gì mình đâu. Nên ít ra mình cũng chẳng xấu, chẳng tệ gì cho lắm.
So sánh kiểu đó là lầm. Muốn so sánh để biết mình tốt xấu, thì phải so sánh mình với Chúa, với các thánh, với những người gương mẫu. Cũng như muốn biết tấm vải dài vắn, thì có ai dại lại đo bằng thước hụt bao giờ?
Đàng khác, khi so sánh ta với người khác, ít khi đúng lắm. Vì ta thường ngặt với người, mà dễ với ta. Mình thiên tư mình là chuyện thường. Vì thế, xét mình bằng cách so sánh mình với người khác thường làm ta sai lạc trong việc Biết Mình.
Cách xét mình thứ hai phải coi chừng: là quá dựa vào dư luận.
Nhiều khi xét mình, ta tự tạo ra cho mình một cái hình ảnh tinh thần về ta được thêu dệt bằng những dư luận ta nghe người ta nói về ta. Rồi ta cho đó là tất cả sự thực về mình ta. Nhưng ta lại không nhớ rằng, dư luận thường chỉ là luận dư.
Trong lịch sử đạo Công giáo, lần đầu tiên dư luận, ý kiến đại chúng được phát biểu là về vấn đề có nên tha Giêsu hay Barabba. Và kết quà là đại đa số, nếu không nói được là tất cả đều đã xin tha Barabba. Tất cả đã chấp thuận sự dữ. Tất cả đã kết án người lành. Thực là mỉa mai. Và không vinh dự gì cho những ai chủ trương lấy dư luận và ý kiến đại chúng làm tiêu chuẩn để phân biệt lành dữ.
Dư luận đám đông xô bồ có thể có giá trị khi phán đoán về những cái đẹp xấu bề ngoài. Nhưng về những phán đoán các giá trị luân lý hay tinh thần thì ta nên dè dặt. Vì đám đông thường nói vô trách nhiệm, và không cân nhắc. Nói vì những lý do thầm kín, nguỵ tạo, hơn là vì mục đích hoàn toàn bác ái, mến Chúa yêu người. Nói với những thêm bớt vô tình hay tự ý hơn là với thực sự toàn vẹn.
Nói thế không có nghĩa là ta được phép coi rẻ những nhận xét của những người khôn ngoan đạo đức và có trách nhiệm đối với ta. Không, ở đây chỉ nói tới dư luận đám đông, tức là nói tới những thứ người vụ lợi, thiếu suy xét và dễ bị lôi cuốn.
Nếu ta đừng dựa vào dư luận đó, có lẽ ta sẽ thấy ta khác. Có lẽ xấu hơn, tệ hơn sự người ta nghĩ về ta. Ta sẽ nhìn thấy ta tật nguyền, tội lỗi, yếu hèn quá trị ta có thể tưởng tượng. Lúc đó chính ta sẽ kinh tởm ta, chứ không cần phải ai chê ta nữa.
Cách xét mình thứ ba phải coi chừng: là chỉ để ý xem mình có phạm điều tội gì nặng không.
Suy gẫm Phúc Âm, ta thấy rõ điều đó. Thời Chúa Giêsu những người thu thuế và đĩ điếm đều bị xã hội xếp vào loại tội lỗi công khai. Vì thế mà có lần Chúa Giêsu đã nói về họ rằng: Ta nói thực với các ngươi: Những người thu thuế và đĩ điếm sẽ vào nước thiên đàng trước các ngươi (Mt 21,31). Đang khi ấy, những người trưởng tế và biệt phái lại bị Chúa mắng là “loài rắn độc”. Họ rất bực tức khi nghe mắng như thế. Vì họ thấy mình có làm gì nặng nề như bọn thu thuế và đĩ điếm đâu. Hơn thế, họ còn là những người lãnh đạo tôn giáo đồng nghĩa với đạo đức. Sao lại bị Chúa coi là xấu và tệ hơn hạng người tham nhũng và đĩ điếm!
Họ không hiểu. Người ta khó thấy. Nhưng Chúa hiểu biết vô cùng, thấu suốt mọi lòng người. Chúa thấy hạng người đạo đức đó còn nguy hiểm hơn hạng người sa đoạ kia. Kẻ sa đoạ biết mình hèn, biết mình thiếu thốn nên dễ quay về tìm Chúa. Còn hạng được kia, chỉ căn cứ vào sự thấy mình không làm điều gì nặng, để rồi an lòng, thì dễ tự mãn, tự phụ. Mà tự mãn tự phụ là điều Chúa rất ghét.
Có khi chúng ta cũng xét mình theo kiểu mấy người lãnh đạo tôn giáo đó. Chỉ để ý tới những tội nặng thôi. Không thấy mình phạm gì nặng, thì đã cho là khá lắm.
Nhưng không thấy mình phạm gì nặng, còn tự mãn tự kiêu thì sao? Chính thái độ đó không phải là xấu sao? - Không thấy mình phạm gì nặng, còn sự nguội lạnh thì sao? Chúa bảo “Không nóng không lạnh, nên sẽ mửa mày ra khỏi Ta”. Lời đó, Chúa nói cho ai đó? - Mình không làm điều gì nặng, nhưng bỏ không làm việc lành thì sao? Chúa bảo “Khi Ta đói, bay không cho ăn, rách không cho mặc, bệnh không cho thuốc, tù không đến thăm. Vì thế bay hãy xuống hoả ngục dành cho bay và ma quỷ...”. Những lời đó Chúa nói cho ai đó? Họ đâu có giết người, dâm dục, nói láo, bất công, bất hiếu, có làm gì có vẻ nặng đâu. Họ chỉ xét có bấy nhiêu, nên họ không thấy. Nhưng Chúa xét tới cả những việc lành họ không chịu làm, và họ đã bị kết án về những việc không làm đó.
Vì thế ta phải coi chừng lối xét mình chỉ để ý xem mình có làm việc gì tội nặng nề hay không.
Cách xét mình thứ bốn phải coi chừng: là căn cứ vào nếp sống bề ngoài của mình.
Nhiều khi chúng ta muốn biết mình thì hay nhìn qua một lượt các việt ta thường làm từ sáng đến tối. Ta thấy sáng ta có đi lễ, trưa có đọc kinh sai thiên thần, tối có đi chầu phép lành lần chuỗi. Đi ngoài đường thì nghiêm trang, ở nhà thì không đụng chạm ai... Nhìn qua nếp sống đó, rồi ta tự cho mình là ta cũng dễ thương lắm.
Nhưng ta đừng quên, có lần Chúa đã nói: “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, còn lòng trí thì xa Ta”. Người ta thấy bề ngoài. Còn Chúa thấu suốt bên trong. Và vì thế, có lần Chúa đã gọi những người có nếp sống đạo đức bề ngoài đó là “những chiếc mồ mả, trông ngoài thì trắng, mà trong thì hôi thối”. Chắc là vì họ chỉ câu nệ vào những hình thức bề ngoài, còn trong tâm hồn thì đầy những ý tưởng ước mơ xấu: kiêu căng, ghen ghét, tham lam, ác ý..
Với nếp sống bề ngoài, ta chỉ là cái vỏ, chỉ là mặt nạ, chứ chưa phải là ta. Muốn biết rõ mình ta, ta đừng căn cứ vào cái vỏ bề ngoài đó.
Cách xét mình thứ năm phải coi chừng: là căn cứ vào sự thinh lặng của lương tâm.
Đã hẳn, lương tâm an ổn là một dấu tốt. Nhưng cũng có khi sự an ổn đó lại là một thứ yên tĩnh giả tạo.
Vua Herôđê, phạm tội cướp vợ của anh, phạm tội giết thánh Gioan Baotixita. Khi ông gặp Chúa Giêsu, ông vui mừng hỏi Chúa bao nhiêu điều. Nhưng Chúa làm thinh, không nói một tiếng. Tại sao Chúa không nói một tiếng để cảnh tỉnh ông. Ngài đã nói với đàn bà ngoại tình, với Philatô mà không nói với Hêrôđê? Thưa vì lương tâm của vua Hêrôđê đã chết rồi. Chúa không cảnh cáo ông nữa, vì lòng ông đã chai đá, trơ trơ, yên lặng. Và ông đã vui cười lại càng vui cười thêm.
Lương tâm chai đá là một thứ hình phạt nặng nhất Chúa dành cho người tội lỗi. Ấy thế mà có người lại lầm cho lương tâm không cắn rứt đó là một dấu tốt báo hiệu hồn mình chẳng có tội gì.
Anh chị em thân mến,
Nếu để đi lên với Chúa, chúng ta phải coi chừng:
- Đừng so sánh mình với người khác, - Đừng quá dựa vào dư luận, - Đừng chỉ xét có làm tội năng hay không - Đừng căn cứ vào nếp sống bề ngoài, - Đừng chỉ nghe lòng có cắn rứt hay không?
Vậy, phải làm thế nào để biết mình? Thưa, hãy bắt chước thánh Phaolô. Từ Đamas, ngài đi Giêrusalem để bắt bớ các tín hữu Chúa. Bỗng ngài bị một ánh sáng từ trời đánh ngã. Ngài hỏi Chúa muốn con làm gì? Rồi ngài mờ mắt. Ba ngày đêm không ăn uống. Chỉ suy nghĩ cầu nguyện. Trong cảnh cô tịch nội tâm đó, Ngài đã được Chúa cho biết rõ mình. Và từ đó ngài đã trở thành thánh, đã trở lại hoàn toàn.
Chúng ta cũng hãy làm như ngài. Hãy hỏi Chúa và hãy suy nghĩ trong cõi lòng thinh lặng. Trong những ngày tĩnh tâm này đã hẳn rằng dù muốn ta cũng không thể bỏ hết mọi việc để cầu nguyện và suy nghĩ. Tuy nhiên, chúng ta cũng vẫn có thể cầu nguyện hơn ngày thường, suy nghĩ hơn ngày thường, thanh vắng hơn ngày thường. Chỉ cần ta có thiện chí và cố gắng.
Trong những lúc đó, ta hãy tạm quên đi tất cả, đặt mình trước mặt Chúa, sống một mình với Người, đem những chi tiết đời mình ra hỏi Chúa, xem Chúa có bằng lòng từng điều với ta không. Những chi tiết đó là: những sự ta yêu ta ghét, ta ước mơ, ta xét đoán. Những việc ta làm, những lời ta nói, những thái độ của ta. Những liên lạc của ta với bạn bè, người dưng kẻ thương kẻ ghét ta, các việc ta đã bỏ chẳng làm, việc bổn phận của ta, vv...
Nếu muốn biết đại cương xem ta tốt hay xấu, thì có thể xét theo ba điều này sẽ biết liền: Ba điều này do Đức Cha F. Scheen dựa theo luật tâm lý:
1/ Có hay xét đoán, bàn tán, chỉ trích người khác không? 2/ Có hay chỉ trích việc đạo không? 3/ Có hay ích kỷ không?
Điều thứ 1 sẽ cho thấy là: hễ ta hay xét đoán, bàn tán, chỉ trích người khác về sự xấu nào, thì đó là dấu chính ta có khuynh hướng mạnh nghiêng chiều thầm kín về sự xấu đó.
Điều thứ 2 sẽ cho thấy là: hễ ta hay chỉ trích luật đạo là dấu ta không mấy giữ đạo.
Điều thứ 3 sẽ cho thấy là: hễ ta hay ích kỷ thì là dấu ta thường lỗi bác ái với tha nhân.
Lạy Chúa, con xin Chúa thương ban ơn cho con được biết mình, để đáng Chúa dắt con về với Chúa.
Từ đây sang bên kia sông, ta phải qua một chiếc cầu. Cầu là cái gì nối hai bờ sông lại. Sông càng Bùi-Tuần 2333
Từ đây sang bên kia sông, ta phải qua một chiếc cầu. Cầu là cái gì nối hai bờ sông lại. Sông càng lớn, cầu càng phải khoẻ và dài. Nếu bắc một chiếc cầu qua Vàm Cống, chắc sẽ phải phí tổn kinh khủng. Vì hai bờ quá xa nhau. Cũng vậy, giữa con người với Thiên Chúa cũng có một khoảng xa phân cách. Khoảng phân cách đó rộng hơn hai bờ bể xa hút ngàn trùng. Để đến với Chúa, con người cũng phải đi trên một chiếc cầu. Chiếc cầu đó, mỗi người có thể tự bắc lấy. Không tốn kém gì. Không phải là cầu sắt, cầu bê-tông. Nhưng là cầu nguyện: chiếc cầu làm bằng kinh nguyện.
Cầu nguyện, công việc đó không xa lạ gì đối với anh chị em. Nhưng vì quá quen thuộc, mà đôi khi cần xem xét lại, kẻo nó trở thành việc máy móc, hoặc khi làm khi bỏ. Vì thế, hôm nay tôi xin anh chị em chăm chú cùng tôi tìm hiểu 3 điểm này:
1/ Cầu nguyện là gì? 2/ Cần cầu nguyện không? 3/ Có thể cầu nguyện không?
Cầu nguyện là gì?
Dựa theo định nghĩa của thánh Damasceno và Augustinh, ta có thể nói: “Cầu nguyện là gặp gỡ thân mật với Chúa”. Gặp ai là đầu tiên phải thấy người đó. Gặp Chúa là nhìn thấy Chúa, không phải nhìn bằng mắt xác thịt, nhưng bằng mắt linh hồn, mắt đức tin. Nhìn thấy Chúa ở đâu? Ở khắp nơi, nhưng, cách riêng ở ba nơ này: Ở trên trời, ở phép Mình Thánh và ở trong ta. Nhìn lên trời để cầu nguyện, đó là cử chỉ rất quen thuộc của Chúa Giêsu. Như lần Ngài cầu nguyện trước khi làm phép lạ cho 5 cái bánh và 2 con cá nuôi 5000 người (Mc 6,41), lần chữa người vừa câm vừa điếc (Mc 7,34), và khi sắp lập phép Thánh Thể. Nhìn lên trời, đó là thái độ trút bỏ sự thế hướng lòng lên Thiên Chúa, đúng như nghĩa chữa Thiên là trời, Chúa là chủ: chủ bầu trời, vũ trụ.
Nhìn vào phép Thánh Thể để cầu nguyện, đó là cử chỉ của ta khi vào nhà thờ. Vì dưới hình bánh trên nhà tạm, có thực chính Chúa Giêsu.
Thu lòng trí trở về chín hồn ta, ta cũng sẽ tìm thấy Chúa, vì Chúa thích ngự đó hơn ở trong bình vàng để trong nhà tạm. Ngài pháp: “Ai mến Ta và giữ lời Ta, thì Cha Ta sẽ yêu nó và Chúng Ta sẽ đến ở trong nó” (Ga 14,23).
Chúa ở trên trời, Chúa ở nhà tạm, Chúa ở lòng ta, đâu đâu Chúa cũng nhìn ta, cũng đợi ta. Nhưng nếu ta không nhìn lại (không tiến lại gặp Chúa) thì không bao giờ có sự gặp gỡ giữa đôi bên. Nhưng nhìn mà thôi, chưa hẳn là gặp gỡ. Cần phải đi lại, tiến lại. Ta tiến lại Chúa bằng gì? Bằng sự nâng lòng lên Chúa, hướng lòng về Chúa với sự khao khát mong chờ. Và khi đã nhìn, đã hướng lòng về Chúa, thì đó là gặp gỡ.
Nhưng có nhiều thứ gặp gỡ. Trên đường từ nhà tới nhà thờ anh chị em đã gặp nhiều người. Người lính gác cầu, người dạ9p xe, người bán hàng, người quen, người không quen. Mỗi người ta gặp với một tâm hồn khác nhau. Hoặc dửng dưng, xã giao, hoặc thân mật. Cầu nguyện là sự gặp gỡ Chúa, một cuộc gặp gỡ không phải chỉ bề ngoài, nhưng là cuộc gặp gỡ thực sự và thân mật.
Tính cách thân mật đó không hệ ở lời nói, cử chỉ và bộ diện bề ngoài, nhưng chính cốt ở tại lòng trí ta: trí ta phải chăm chú, lòng ta phải đổ dồn hết tin yêu vào Chúa. Và đó là sự gặp gỡ thân mật.
Nhưng gặp gỡ thân mật đó để làm gì? Để nói chuyện với Chúa. Nói chuyện thì phải dùng lời; lời nói trên môi hay lời nói âm thầm trong lòng trí. Đối với Chúa, ta có thể dùng cả hai. Vì Chúa thấu suốt tận đáy tâm hồn. Nhưng ta sẽ nói gì với Chúa. Ta có gì, ta muốn gì, ta là ai, tâm hồn ta thế nào, thì ta hãy cứ nói với Chúa như vậy. Nói về dĩ vãng, nói về hiện tại, nói về tương lai. Nói về ta, nói về người khác, nói về Chúa. Bộc lộ cả những nỗi lo âu, những niềm vui, những cơn sầu muộn. Giãi bày lòng ta đối với Ngài. Tất cả hãy tâm sự với Chúa, tâm sự tất cả với tấm lòng trên môi. Nói như con nói với Cha, như kẻ thiếu thốn nói với kẻ giàu. Tâm sự như thế là một việc tin yêu: Tin ở sự (có mặt của) Chúa đang nhìn ta, nghe ta và sẵn lòng đón nhận ta; tin nhận sự yếu hèn tội lỗi của ta; tin ở quyền năng và tình thương bao la Chúa; tin ở sự khôn ngoan vô cùng Chúa luôn biết sự gì tốt cho ta.
Nhưng có cần phải cầu nguyện không?
Thưa anh chị em, nếu ta đầy đủ mọi sự, nếu ta chắc chắn rỗi linh hồn, nếu ta tự mình mà có, thì ta chẳng cần gì cầu nguyện, hay ít ra cũng chẳng cần cầu nguyện nhiều làm gì. Nhưng ta sống trên đời như trên biển lệ, cuộc sống bập bềnh giữa muôn ngàn nguy biến đau thương, ta sẽ xin ai giúp đỡ, ta cầu cứu nơi đâu? Thưa nơi Chúa. Chúa không cần ta. Nhưng ta cần Chúa. Vì thế mà ta phải năng cầu nguyện.
Trong một cuộc thi thăng cấp sĩ quan, ban Giám khảo hỏi một thí sinh thế này: “Toán quân của anh chẳng may lọt vào vòng vây địch mà quân số vừa đông vừa trang bị hùng hậu hơn. Trong tình trạng đó, anh sẽ làm gì?”. Không ngần ngại, thí sinh đó thưa: “Tôi cầu nguyện, và bảo binh sĩ cầu nguyện trước khi giao chiến”. Cả ban Giám khảo đều ngẩn người, vì câu trả lời không ngờ đó. Một viên Giám khảo đứng lên, vỗ vai anh và nói: “Tốt, mong anh giữ mãi được một thái độ, tâm hồn như thế. Có lẽ viên sĩ quan này cũng như thí sinh kia đã nghĩ tới cuộc giao tranh ác liệt giữa Israel và Amalec. Khi đó, ông Maisen trên núi cầu nguyện. Bao lâu ông còn giơ tay cầu nguyện, thì Israel còn thắng. Nhưng hễ ông Maisen hạ tay xuống, thì lập tức Israel chuyển thắng thành bại. Đời ta cũng là một cuộc giao tranh liên tiếp. Chống với những đòi hỏi mù quáng của xác thịt, chống với những phù hoa lôi cuốn của thế gian, chống với những cơn cám dỗ mãnh liệt của ma quỷ. Trong một cuộc chiến tranh gay go và trường kỳ như vậy, định một mình xoay xở lấy tức là đi vào thất bại và tự sát. Nếu cần trợ giúp thì không ai có thể giúp ta bằng Chúa. Xin Ngài trợ giúp ta đó là cầu nguyện. Cầu nguyện nhiều, cầu nguyện mãi vì cuộc chiến đấu cũng dài như cuộc sống.
Đã hẳn, Chúa muốn cho mọi người được rỗi, và Chúa cũng ban cho mỗi người trong ta vừa đủ ơn để có thể được rỗi. Nhưng với ơn vừa đủ đó, ta rất khó có thể được rỗi, mặc dầu gọi là có thể. Để chắc được rỗi, phải có ơn riêng. Ơn riêng này Chúa thường chỉ ban cho kẻ nào xin. Hoặc chính họ xin, hoặc người khác xin dùm. Không xin sẽ không được. Trong nhiều việc cũng vậy. Tôi thí dụ: Chúa định rằng, để tuần tĩnh tâm này được kết quả hoàn toàn, thì cần phải có 100 ơn Chúa. Đầu tuần (tức hôm qua), Chúa cho mỗi người 30 ơn đồng đều. Còn 70 ơn, Chúa giữ lại, định rằng: ai dùng nên 30 ơn đã cho và cầu nguyện, thì sẽ ban thêm dần. Ai không dùng nên, coi thường thì sẽ rút lại. Thành ra biết đâu chiều này có người trong anh chị em đã được 50 ơn, có người mới được 40 ơn, và khi kết thúc tuần đại phúc, có người sẽ được 100 ơn Chúa, đang khi có người sẽ chỉ được 50 hay là trở lại số không. Sự khác biệt đó tại sao? Tại có người đã dùng ơn nên và đã cầu nguyện, có người không.
Thưa anh chị em, cầu nguyện không những sinh ơn phần hồn, mà cũng làm ích cho phần xác nữa.
Cách đây ít năm, trên một nhật báo ở thủ đô có đăng một loại bài tranh luận giữa hai bác sĩ về cách chữa bệnh “buồn”. Tôi miễn phê bình giá trị những ý kiến hai ông đưa ra. Nhưng tôi xin mách một phương pháp khác, không mất tiền, ai ai cũng có thể làm được, để chữa bệnh buồn. Phương pháp này đã được bác sĩ Alexis Carrel bàn dài trong một tập sách của ông. Phương pháp đó là cầu nguyện. Cầu nguyện, ta sẽ thấy lòng lắng xuống, thần kinh bớt căng thẳng, tâm hồn trở nên thư thái nhẹ nhàng. Mà đúng thế, gặp Chúa là gặp nguồn an ủi, là gặp suối bình an, là gặp suối sức mạnh. Kết quả đó chỉ là 1 trong 100, 1000, mà những người cầu nguyện thấy rõ ràng hơn hết.
Gạt lý do thiếu thốn ra, ta vẫn còn thấy: cầu nguyện nhiều là một vấn đề cần thiết vì lẽ Chúa là Cha và ta là con. Con năng nói với Cha: đó là nghĩa vụ hiếu nghĩa, và một việc tất nhiên của tình con đối với tình Cha bao la...
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho ta về việc đó. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng như cả đời Chúa Giêsu là một kinh nguyện không ngừng. Ngài cầu nguyện trong đền thánh, trong gia đình, trong sa mạc, trên đường đi, trên thánh giá. Cầu nguyện ban ngày, cầu nguyện ban đêm, cầu nguyện trước và sau bữa ăn, trước và sau giảng và làm phép lạ. Chúa Giêsu là thế, còn chúng ta thì sao?
Có lẽ chắc, chúng ta cũng nhận rằng: Năng cầu nguyện là việc hay, việc cần thiết. Nhưng có người sẽ bảo: cầu nguyện là một chuyện, mà có thể cầu nguyện là một chuyện khác. Tôi không cầu nguyện được thì làm sao? Tôi xin giải đáp thắc mắc đó. Ta có thể cầu nguyện không?
Bảo không thể cầu nguyện được, thì vì sao? Phải chăng vì không có thời giờ? Được. Mỗi ngày 24 giờ, tức 1440 phút. Trong đó ta có giờ ngủ, giờ ăn, giờ làm việc, giờ giải trí, có giờ để nói với người trong nhà, trong sở, ngoài đường. Nhỏ vặt như việc xỉa răng cũng có thời giờ: sáng 2, trưa 2, tối 2 cộng là 6 phút. Chỉ có việc cầu nguyện, thì không có thời giờ. Như thế Chúa là một kẻ ăn xin sao? Như thế cầu nguyện là một việc bố thí cho Chúa. Dư giờ và tiện thì làm. Không thì làm ngơ. Thái độ đó có xứng đáng cho một người chịu ơn Chúa, gọi Chúa là Cha, là Chúa, do Chúa sinh ra và một ngày kia trở về với Chúa không? Không cần trả lời, anh chị em đã hiểu rõ hơn tôi.
Có người lại chữa mình rằng: không thể cầu nguyện vì không thể đi nhà thờ được, hay vì không thuộc kinh.
Những lý do đó không đứng vững, nếu người ta hiểu cầu nguyện là gì, như đã cắt nghĩa trên kia. Chúa ở trong nhà tạm, nhưng cũng ở trên trời và ở trong lòng ta, ở bên ta. Như thế, ở đâu cũng có thể cầu nguyện được.
Đàng khác, cầu nguyện không lệ thuộc vào kinh. Kinh in trong sách, kinh đọc nơi chung rất ích lợi để gợi ý gợi tình, giúp trí lòng ta dễ cầu nguyện. Tôi nói: chỉ giúp cầu nguyện mà thôi, chứ không làm nên sự cầu nguyện. Sự làm nên việc cầu nguyện phát xuất tự lòng ta. Gặp và nói chuyện với Chúa, đó là cầu nguyện. Nói như con với Cha, như kẻ khó nói với người giàu, như bạn thân nói với kẻ mình yêu thương tin tưởng. Dễ như thế thì ai không làm được?
Có người lại vịn lẽ: khô khan, lo ra quá nên không thể cầu nguyện được. Xin những người đó hãy an lòng, và đừng bỏ cầu nguyện. Tình ái con người có hai dòng chảy: một dòng gọi là tình cảm, một dòng gọi là lòng muốn. Tình cảm là dòng dưới. Lòng muốn là dòng trên. Hai dòng có lúc chảy song song và hoà trộn sang nhau, có lúc chảy ngược. Tình cảm tốt thường là một trợ lực hữu ích cho lòng muốn. Nhưng tình cảm tự nói không phải là yếu tố căn bản làm nên tội phúc. Tội phục ở tại lòng muốn. Sự lòng muốn chọn và ưng theo mới là sự đáng kể. Vì thế, nếu tình cảm khô lạt, và trí ta vô tình lo ra, nhưng lòng muốn ta vốn một mực cương quyết tin yêu, trung thành với Chúa và ra sức cầm trí lại thì sự cầu nguyện lúc đó sẽ có công phúc hơn lúc cầu nguyện có tình cảm sốt sắng.
Anh chị em thân mến,
Cầu nguyện là việc rất cần, nhưng cũng là việc rất dễ. Chớ chi đời ta sẽ biến thành một lời cầu nguyện liên lỉ, một cuộc sống thân mật với Chúa mỗi ngày mỗi thêm thắm đặm, để rồi nhờ đó, như chiếc cầu linh thiêng, ta sẽ vượt dương thế để về với Thiên Chúa là Cha, là Con và Thánh Thần. Amen.
Khi chữa bệnh, người ta phải tìm đến căn bệnh mà chữa mới trông kết quả lâu bền. Trong chiến tranh Bùi-Tuần 2334
Khi chữa bệnh, người ta phải tìm đến căn bệnh mà chữa mới trông kết quả lâu bền. Trong chiến tranh, người ta phải tìm chỗ xuất phát và kho tiếp liệu mà đánh mới trông thắng trận.
Cũng vậy, muốn cải thiện mình, ta cần phải tìm tới nguồn gốc phát sinh các nết xấu để tự liệu, mới dễ thành công. Nguồn gốc đó là gì? - Trên đường đi về với Chúa, ta phải tìm cái ngăn trở chính cản bước tiến của ta, mới trông tới đích được. Cản trở đó là gì?
Thưa, là cái đã làm cho Lucifer sa ngã, cái đã làm cho Adong Evà phạm tội, thưa là sự kiêu ngạo.
Anh chị em thân mến,
Nói tới kiêu ngạo, có lẽ chúng ta tự nói trong lòng rằng “Cái này thì có lẽ mình không có. Hay nếu có thì cũng chỉ sơ sơ chút ít vậy”. Tôi cũng mong đúng được như thế. Nhưng biết đâu, chính sự không nhận thấy mình kiêu ngạo lại là dấu mình kiêu ngạo.
Kiêu ngạo là yêu mình quá độ, thích coi mình hơn kẻ khác. Kiêu ngạo là phóng đại sự quan trọng cua mình, và coi mình như một thứ trung tâm muốn được kính nể và chú ý tới. Nguyên chất thì kiêu ngạo nó là như thế. Nhưng nó hay biến đổi dưới nhiều hình dạng khác nhau. Chẳng hạn: Xét đoán xấu cho người khác. Việc đó ta cho là lỗi công bình bác ái. Nhưng thực ra, đầu ngọn là kiêu ngạo. Vì xét đoán ai là đặt mình trên kẻ bị xét đoán, là tự coi mình hơn họ. Rồi chẳng hạn khinh dể, nói hành, bàn tán, rỉ tai, nói xấu kẻ khác. Việc đó ta cũng là cho lỗi công bình bác ái. Nhưng tựu trung cũng do kiêu ngạo. Vì khinh dể nói xấu ai là coi mình hơn họ, là muốn cho họ phải sút kém, là một cách gián tiếp khoe mình không xấu như họ. Rồi chẳng hạn khoe khoang. Tại sao? Thưa cũng vì kiêu ngạo, muốn cho mình là quan trọng. Rồi chẳng hạn không vâng lời, tại sao? Thưa cũng vì ta tự coi mình là có lý hơn người. Có thể nói là, hầu hết các tội và các nết xấu đều phát sinh do kiêu ngạo, hay là liên hiệp với kiêu ngạo.
Kiêu ngạo không những có một phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trong các tội, mà nó còn có một đặc điểm riêng mà chỉ nó mới có. Đó là nó dám lẻn vào được cả những việc lành ta làm. Đi nhà thờ, rước lễ, bố thí, vv... là những việc lành. Nhưng không coi chừng thì có thể là khi làm những việc đó, ta sẽ có một chút tư tưởng kiêu ngạo lẻn vào. Biết bao nhiêu việc ta làm có vẻ là lành thánh, là bác ái, là truyền giáo... đã bị hư đi, vì con sâu kiêu ngạo đó đã lẻn vào.
Do đó, muốn chừa một tội, và xây dựng nhân đức, thì bao giờ cũng phải để ý đến đầu ngọn là kiêu ngạo, đến nền móng là khiêm nhường.
Điều không hay thứ nhất là: Kiêu ngạo chỉ là một thứ lừa dối.
Tôi kiêu ngạo, thì bao giờ tôi cũng phải dựa vào cái gì để mà kiêu ngạo. Hoặc là dựa vào những giá trị vật chất, hoặc là dựa vào những giá trị tinh thần. Nhưng xét kỹ mà coi, con người có cái gì để đáng tự kiêu đâu.
Xét về phương diện vật chất, thì cái thân xác con người, chẳng đáng là bao. Chất sắt thì chỉ đủ làm được một cái đinh. Chất đường thì chỉ đủ làm được hai cục kẹo. Chất dầu thì chỉ đủ làm được bảy cục xà bông. Chất diêm sinh thì chỉ đủ làm được 10 hộp diêm. Tóm lại tất cả các chất khoa học trong con người chỉ đáng giá chừng hơn 1000 đồng.
Về phương diện tinh thần, thì xét ra cũng chẳng có gì lắm. Nếu nói về trí thức, thì dù có học tới đâu, vẫn chẳng thấm gì với những điều mình không biết. Ngay đến cả những sự fâ1t thông thường ta gọi là biết rõ, thực ra ta cũng chẳng hiểu được đến tận cùng. Thí dụ: con mắt ta có bao nhiêu mạch máu, con ta ăn có bao nhiêu chất, điện ta xài bởi đâu phát mình? Trăm ngàn các khác rất thường mà ta đâu có hiểu. Đấy là chưa nói tới những sự ta quen nói như: vật chất, tinh thần, bổn phận, quyền lời, những cái đó là gì, ta khó có hiểu. Và thế nào là hiểu, là biết, ta đâu co dễ cắt nghĩa. Vì thế, nếu ta tự kiêu cho mình là giỏi, là biết nhiều, thì chính sự tự kiêu đó lại tố cáo ngược lại: cái sự hiểu biết của ta còm kém quá. Vì không biết mình không biết mới thực là một sự dốt nát ngu dại đáng thương.
Nói về nhân đức cũng thế. Nếu tôi tự kiêu, cho tôi là có nhân đức, thì đó là dấu chắc tôi không có nhân đức. Vì người nhân đức không bao giờ kiêu, không bao giờ coi mình đã tới lý tưởng nhân đức, không bao giờ coi mình hơn kẻ khác. Trái lại, bao giờ họ cũng nghĩ rằng: người khác, dù bề ngoài có tệ mấy đi nữa, cũng rất có thể ẩn giấu bên trong những nhân đức và giá trị vượt trổi hơn mình nhiều. Còn nếu tự kiêu vì gia đình, tiền bạc, chức quyền, vv... thì tất cả những cái đó đều hoặc ở ngoài tôi hay lệ thuộc vào người khác. Nếu nhờ những cái đó mà tôi được giá trị, thì giá trị đó là một thứ giá trị vay mượn, phù du.
Chỉ có mô5t sự làm cho ta có giá trị, đó là hồn ta. Nó làm cho ta có giá trị hơn cả vũ trụ, như lời Chúa phán: “Được mọi sự mà mất linh hồn...”. Nhưng, hồn ta, nhân vị ta, sự sống ta, đâu có phải tại ta mà có. Tất cả đều do Chúa ban. Nếu không phải tại ta mà có, thì có lý do gì để mà tự kiêu? Vì thế, kiêu ngạo là một thứ lừa dối, gán cho mình những cái tốt mình không có, và đó là điều không hay.
Điều không hay thứ hai là: Kiêu ngạo làm cho người ta ghét.
Tôi thấy rằng: người ta có thể dễ thương người cờ bạc, dâm ô, rượu chè. Nhưng rất khó có thiện cảm với người kiêu ngạo. Không những không có thiện cảm mà thường lại dễ ác cảm với họ. Điều đó dễ hiểu.
- Kẻ kiêu ngạo thì bất cần ai. Nhưng sống trong xã hội mà bất cần ai, tức là bất cần cả những người mình phải cần đến, và đó là điều chẳng mấy ai ưa.
- Kẻ kiêu ngạo thích cho mình là hơn người, nên dễ khinh chê kẻ khác, dễ xét đoán xằng bậy, hay kèn cựa, dễ chỉ trích, nói xấu người khác để hạ người xuống và đề cao mình. Chửi người khác là tham nhùng, tức là gián tiếp tuyên bố mình trong sạch. Những việc làm như thế của kẻ kiêu ngạo làm sao không gây ác cảm được.
- Kẻ kiêu ngạo lại thường vô ơn, dễ quên người khác, mà chỉ nghĩ tới quyền lợi của mình. Nhưng vô ơn là một thói xấu chính kẻ kiêu ngạo cũng ghét, khi thấy nó nơi người khác.
- Kẻ kiêu ngạo lại có một cái tật này là: kiêu mà rất ít khi biết mình kiêu. Vì cho mình là hơn người, cho mình là khá đầy đủ, là hay là giỏi, nên không chịu truy vấn lòng mình. Nhưng trái lại, họ thường ưa truy vấn kẻ khác lắm. Chúa mắng bọn Pharisêu kiêu ngạo rằng: Cái xà ở mắt mình thì chẳng thấy, còn cái rác ở mắt người khác, thì soi bói kỹ lắm.
Thái độ như thế, thì làm sao mà người ta không ghét. Và đó là một điều không hay cho kẻ kiêu ngạo.
Điều không hay thứ ba là: Kiêu ngạo dễ làm Chúa bỏ.
Chúa là Chúa, là chủ mọi sự. Ngài không chịu cho ai tự coi mình là độc lập, là trung tâm, lá đích điểm vinh quang hay cắt xén vinh quang của Chúa về cho riêng mình. Vì thế, Chúa phán trong Kinh Thánh “Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo”, “Kẻ đưa mình lên sẽ bị hạ xuống”. Đức Mẹ trong kinh Tạ Ơn cũng có nói: “Chúa đánh phá kẻ kiêu căng”. Mà nếu Chúa đánh phá họ ở đời này thì cũng là một ơn lớn, để họ tỉnh ngộ. Chứ nếu Chúa cứ để họ kiêu ngạo một cách bình an, thì không còn hình phạt nào nặng bằng.
Thánh Gregorio nói: “Kiêu ngạo là một dấu rõ ràng nhất của kẻ Chúa đã loại bỏ”. Ngay cả đời này, kẻ kiêu ngạo cũng đã bị loại bỏ, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Con tạ ơn Cha, vì đã giấu những bí mật cho những người khôn ngoan thông thái mà chỉ tỏ ra cho những kẻ nhỏ bé”. Chúa loại ra những người cho mình là khôn ngoan thông thái, bởi vì họ kiêu ngạo.
Chúng ta thấy: muốn bỏ một cái gì vào túi, thì túi phải rỗng, phải có chỗ. Nếu đầy chặt rồi, thì còn bỏ cái gì vào được nữa. Cũng vậy, linh hồn muốn được ơn Chúa thì phải rỗng nghĩa là phải nhận mình nghèo nàn thiếu thốn. Còn như kiêu ngạo, tức là dồn vào mình đầy ứ những tự ái, tự mãn, thì còn chỗ nào ơn Chúa chảy vào được.
Vì thế, ai có một chút kinh nghiệm với những kẻ kiêu ngạo thì chắc đã đồng ý trong nhận xét này là: một người khôn khan mà kiêu ngạo, tự mãn thì khó trở lại hơn 100 người sa đoạ xác thịt (nếu Chúa bắt tôi phải chọn một trong hai điều kiện này để được cứu rỗi: một là phải cải thiện một người khô khan nhưng kiêu ngạo, hai là phải cải thiện 100 người sa ngã nặng vì yếu đuối, chắc tôi sẽ chọn điều kiện thứ hai). Là bởi vì người sa ngã nặng vì yếu đuối dễ nhận mình tồi tàn, trống vắng và do đó rất dễ khiêm nhường để chạy tìm Chúa và được Chúa yêu thương.
Chúa rất thương những người khiêm tốn, và chỉ chọn kẻ khiêm tốn. Nếu họ không khiêm tốn đủ, có khi Chúa sẽ để họ có dịp trở thành khiêm tốn, trước khi dùng họ làm công cụ của Chúa. Thánh Phêrô, sau một đêm chài lưới chẳng được con cá nào, Chúa mới cho một mẻ cá đầy thuyền. Đó là thất bại một đêm để khiêm tốn chuẩn bị cho thành công một giờ. Và cũng thánh Phêrô lần khác lại đã thất bại một giờ để khiêm tốn chuẩn bị cho thành công một đời. Đó là sự ngài đã phạm tội chối Chúa. Tội đó làm ngài khiêm tốn thực sâu xa. Nhờ đó Chúa đã chọn ngài làm nền móng Giáo Hội. Thực là mầu nhiệm! Kẻ nào coi mình là con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Đấng vô cùng. Còn kẻ nào cho mình là đầy đủ thì lại bị Chúa loại bỏ vào con số không. Chúa thương người khiêm tốn, vì người khiêm tốn nhận biết sự thực. Mà Chúa là sự thực, không thể chấp nhận sự lừa dối.
Anh chị em thân mến,
Vì kiêu ngạo là một thứ lừa dối, Vì kiêu ngạo làm người ta ghét, Vì kiêu ngạo dễ làm Chúa loại bỏ,
Nên chúng ta hãy quyết định sống khiêm nhường. Nhưng hãy ý tứ! Sự quyết định sống khiêm nhường cũng rất có thể bị tính kiêu ngạo lẻn vào. Nghĩa là nếu ta quyết định sống khiêm nhường để được người ta khen, hay là ta tự nghĩ mình sẽ có thể thực hiện được quyết định sống khiêm nhường, thì rõ ràng ta đã lại kiêu ngạo mất rồi. Mà dùng kiêu ngạo để xây khiêm nhường thì hỏng từ đầu rồi.
Vì thế, việc đầu tiên tôi sẽ làm là quyết định sống khiêm nhường đúng như sự thực về tôi, nghĩa là hợp với thân phận của một thụ tạo bất toàn nói chung và của một cá nhân yếu hèn nói riêng.
Tôi sẽ năng suy nghĩ về sự bô biên của Thiên Chúa, và giới hạn quá nhỏ hẹp của tôi.
Tôi sẽ năng nhìn ngắm đời sống Chúa Giêsu từ khi sinh ra tới lúc chết, chỉ toàn là gương khiêm nhường.
Nhất là tôi sẽ năng cầu nguyện, để xin Chúa ban cho tôi ơn khiêm nhường.
Ôi! Lạy Chúa, đời con là một lễ Misa dài hiến tế mình con hợp cùng Mình Máu Chúa. Và sự hiến tế này sẽ luôn luôn được bắt đầu lại mỗi ngày bằng sự thú nhận chân thành con là người yếu hèn tội lỗi.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền từ và khiêm nhường trong lòng, xin thương làm cho con nên giống Chúa. Amen.
Năm mươi năm nữa, những người sẽ làm nên họ - có lẽ chắc không còn phải là chúng ta - nhưng Bùi-Tuần 2335
Năm mươi năm nữa, những người sẽ làm nên họ - có lẽ chắc không còn phải là chúng ta - nhưng là những trẻ em hiện sống và sắp sinh ra. Năm mươi năm nữa, vận mệnh xứ sở quê hương sẽ chuyển sang tay lớp người mà bây giờ chúng ta còn đang kêu là trẻ nhỏ. Chính ở bọn trẻ nhỏ này mà dòng tộc, Giáo Hội, Quê Hương ta sẽ được vinh quang hay bị nhục nhã. Chúng là người làm nên tương lai. Nhưng ai là người làm nên chúng? Thưa là các cha mẹ.
Làm cha, làm mẹ: chức vị đó có phải chỉ hệ ở sự sinh con ra không? Có phải chỉ ở việc nuôi dưỡng con không? Có phải chỉ ở việc lo cho con học hành, tập nghề sinh sống không? Tất cả những công việc đó đều cần đều trọng. Nhưng nhiệm vụ cao trọng nhất và quan hệ nhất của cha mẹ là giáo huấn con cái.
Nhận thấy việc đó là một mối bận tâm không nhỏ của hầu hết anh chị em, những người đã hay sẽ có con có cháu, đồng thời cũng là một vấn đề có liên hệ lớn lao đến hạnh phúc không những của riêng con cái và anh chị em, mà cũng của cả xứ sở, quê hương nữa, nên chiều nay, tôi thử đem nó ra bàn, hy vọng sẽ giúp anh chị em xét lại bổn phận tối quan trọng của mình, đồng thời cũng giúp những người đang đi vào con đường hôn nhân được thấy trước cái trách nhiệm đang chờ đợi họ.
Có ba điểm sẽ được đặt ra:
1/ Mục đích mà việc giáo dục con cái phải nhằm tới là gì? 2/ Giáo dục con cái có phải một bổn phận cần không? 3/ Phải giáo dục bằng cách nào?
Anh chị em thân mến,
Mục đích mà việc giáo dục con cái phải nhằm đi tới là gì?
Các bậc cha mẹ, muốn biết xưa nay mình nhằm mục đích gì trong việc giáo dục con cái, thì hãy xét xem: ta thường muốn gì, đợi chờ gì ở con cái? Có phải muốn cho chúng nên giàu sang không? Có phải chờ đợi ở chúng một lợi lộc gì vật chất không? Không thiếu những cha mẹ nhắm cái đó khi giáo dục con cái. Những hy vọng không phải là xấu, nhưng chắc chắn không phải là chính mục đích mà cha mẹ phải nhắm để đưa con cái mình đi tới. Mục đích chính đó là gì?
Thưa, mục đích đó là giúp chúng nên người với tất cả ý nghĩa cao đẹp của nó. Mà thế nào là nên người? Thưa, trước hết là thực hiện đầy đủ ý nghĩa câu quen thuộc: “Con người đầu đội trời, chân đạp đất”.
Chân đạp đất, có nghĩa là: người ta một phần lệ thuộc vào vật chất, thuộc về đất mà đạp trên đất. Đạp trên đất: là một thái độ cai trị, một thái độ chinh phục. Như lời thứ nhất Chúa đã nói với nguyên tổ loài người: “Hãy sinh sản và cai trị trái đất”. Chân đạp đất là thái độ phải thắng dẹp những lôi cuốn tội lỗi thế tục, là đạp lên trên những gì đưa ta xuống đất, xuống địa nhục. Nếu chân đạp đất chỉ những sự phàm trần thì đầu đội trời chỉ những sự siêu phàm. Đầu đội trời chỉ thái độ vươn mình lên những gì cao thượng. Đầu đội trời chỉ sự cố gắng phóng mình tới lý tưởng xa vời. Đầu đội trời chỉ sự hướng tâm của con người về mục đích ở tận bên kia thế giới. Đầu đội trời chỉ nỗ lực bằng mình lên cao để tìm về quê hương trên trời.
Đầu đội trời, chân đạp đất: con người sống trên đất, nhưng để đi về trời. Đời người là phải như thế. Nếu mục đích con người là thế, thì giáo dục con người cũng phải theo mục đích đó. Mục đích đó được diễn tả rõ ràng hơn trong Kinh Thánh. Tôi nhớ lời thứ nhất Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm: tôi phải làm sự Cha tôi dạy. Và lời sau hết của Chúa là: Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha. Thế nghĩa là: đời sống con người là một vòng tròn: sinh bởi Chúa rồi lại trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, phải làm sự Chúa dạy: Chu toàn thánh ý Chúa ở đời này, để được vinh quang với Chúa đời sau, đó là chính mục đích đời sống cầu nguyện. Và như thế chính là nên người. Mục đích đó không gì có thể thay đổi được. Những cha mẹ nào hướng việc giáo dục con cái về mục đích khác là phản bội, là làm hại, là giết chính con cái mình.
Nhận định rõ mục đích giáo dục như thế rồi, các bậc làm cha làm mẹ sẽ dễ biết con đường ưu tiên phải dẫn dắt con cái đi vào tất nhiên sẽ phải là con đường nhân đức. Nhiệm vụ của họ lúc đó là dạy cho con cái hiểu biết và thực hành lề luật Chúa, huấn luyện lương tâm chúng để chúng biết làm lành lánh dữ.
Đã hẳn mục đích con cái phải đi tới là: chu toàn thánh ý Chúa ở đời này để được vinh quang với Chúa đời sau. Nhưng có thể có người sẽ nghĩ: mục đích đó, con cái có thể tự đi tới, nếu không thì gởi chúng vào nhà trường, nhà thờ, nhờ các thầy các cha, các bà dạy dỗ. Nhân đức đạo nghĩa đó là việc của nhà thờ. Những quan niệm buồn thảm trên đây cũng may chỉ có một số người chủ trương, nhưng trong thực tế, thì số người hành động theo đó không phải là ít. Tình trạng đó khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Việc giáo dục con cái có phải là một bổn phận cần thiết của cha mẹ không?
Giáo dục con cái có phải là bổn phận cần không?
Trong Sấm Truyền cũ có kể chuyện một thầy tư tế, tên là Hêli. Ông có hai đứa con trai nổi tiếng về tính hạnh hư hốt. Chúng cậy quyền bắt nạt dân lành, nhiều lần gian tham cả những đồ người ta đem dâng tiến Chúa. Điều tiếng cũng đã đến tai ông Hêli, nhưng ông không sửa dạy gì, cứ để mặc hai đứa con muốn làm gì thì làm. Chúa liền phạt tội đó. Người để cho dân Israel thua trận nhục nhã, hai đứa con ông bị giặc giết, và liền đó, chính ông Hêli bị té gẫy cổ chết tươi. Chuyện đó nói lên rằng: dạy con là một nhiệm vụ quan trọng của cha mẹ. Không chu toàn là có tội trước mặt Chúa.
Thực thế, hôn nhân nối kết hai người trong dây tình dái, để rồi tình ái ấy sẽ chính thức nâng hai người lên chức vụ cao sang làm cha mẹ cho những sự sống mà mình sẽ chia sẻ ra bởi chính máu thịt của mình. Đó là một vinh dự, vì được tham dự vào việc sáng tạo sự sống, một công cuộc thuộc quyền riêng của mình Thiên Chúa. Vinh dự ấy không thu hẹp ở duy một sự sinh dưỡng con cái, nhưng còn ở tại sự giáo dục cho nên người giống hình ảnh Thiên Chúa. Việc giáo dục đó là một nhiệm vụ hiểu ngầm trong giới răn thứ IV lề luật Thiên Chúa. Tôi nói: hiểu ngầm. Vì giới răn thứ IV chỉ thấy nói về bổn phận con cái đối với cha mẹ, không nói gì tới bổn phận cha mẹ đối với con cái. Mà, nói đến làm gì, khi mà việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái đã là một nhiệm vụ quá tự nhiên, quá rõ ràng của cha mẹ. Con chim, con gà, con sư tử, con rắn còn âu yếm nuôi con và dạy con, huống chi con người?
Nhiệm vụ giáo dục đó không ai có thể thay thế cha mẹ được. Trước hết, vì giáo dục con cái phải bắt đầu từ rất sớm. Có thể nói việc giáo dục phải bắt đầu từ nhiều năm trước khi sinh con. Rồi đang khi cưu mang, khi ẵm bế, khi tập nói, vv... Thế có nghĩa gì? Nghĩa là: vì nhân đức tuỳ thuộc một phần ở tính tình, mà tính tình lại tuỳ thuộc ở mái thịt, mà máu thịt con cái là máu thịt cha mẹ trồng cho, nên cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống đạo đức của con cái. Và vì đời sống tốt xấu của cha mẹ bắt đầu ảnh hưởng đến con cái từ rất sớm như thế, và còn sẽ ảnh hưởng hơn nữa trong những ngày thơ ấy, nên không ai có thể thay thế cha mẹ để giáo dục con cái được. Không một ai cả.
Đàng khác, vì có nhiệm vụ giáo dục, nên Thiên Chúa dành cho cha mẹ những tư cách, những tài năng riêng, mà người khác không có. Thí dụ: sự chịu thương chịu khó của tình mẹ, sự hy sinh của tình cha, sự quyến luyến thiết tha của con cái đối với cha mẹ. Những yếu tố đó tối hệ cho việc giáo dục không thể tìm được ở những người ngoài, dù rất thiện chí.
Đã hẳn, gia đình có thể trao phó việc huấn luyện con cái cho người khác. Nhưng phải nhớ rằng: chỉ nên trao phó việc đó cho người khác.
- Khi con đã tới ít là chừng 5, 6 tuổi.
- Người được trao phó phải là người đáng tín nhiệm. Việc trao phó đó ngày nay đã trở thành một vấn đề đáng lo ngại. Vì tại nhiều trường học mà các cha mẹ thường gởi con vào, khó tìm được những người có đầy đủ khả năng huấn luyện. Có nhiều nhà trí thức, nhưng không phải cứ trí thức là đạo đức. Có nhiều giáo sư, nhưng không phải mọi giáo sự đều là nhà giáo dục.
Mà cho rằng cha mẹ tìm được những nhà giáo dục lành nghề, thì cũng đừng quên rằng những nhà giáo dục đó chỉ làm một công việc bổ túc (còn chính nền móng chì cha mẹ phải dựng xây rồi), công việc chính vẫn còn là của cha mẹ. Các ngài phải xây nền móng, các ngài phải tiếp tục theo dõi, tiếp tục dạy bảo, đề phòng.
Thưa anh chị em, dạy con sống đạo đức, đó là nhiệm vụ rất quan trọng của những người làm cha làm mẹ. Nhưng phải dạy bằng cách nào?
Giáo dục con cái bằng cách nào?
Bằng nhiều cách: từ mến đến cứng, từ êm dịu đến hình phạt, từ lời nói đến việc làm. Đây, tôi chỉ xin phép nhấn mạnh đến một cách vừa quan trọng, vừa gồm tóm, vừa hiện hữu hơn cả. Cách đó là Gương Sáng. Gương sáng là tất cả bí quyết thành công trong nghề giáo dục. Trẻ em như một cây non. Cây lớn lên nhờ không khí, nước tưới, đất và chất bón thế nào thì tâm hồn trẻ cũng được lớn lên do những sự chúng xem, nghe và cảm thấy như vậy. Nếu hằng ngày con cái xem thấy cha mẹ cầu nguyện chiều hôm ban mai, nếu chúng không nghe thấy cha mẹ, nói lời tục tĩu, ghen ghét, hành tỏi, chê bai người khác. Nếu chúng thấy cha mẹ gớm ghét những chuyện đưa điều, xét đoán chê bai kẻ vắng mặt, nếu chúng thấy một bầu khí gia đình luôn thuận hoà, trong sạch, đầm ấm, thì tâm hồn chúng sẽ thấm nhập một tinh thần lành mạnh và đạo đức.
Con trẻ không biết lý luận. Chỉ họ bằng bắt chước. Ngay đến: tiếng nói, cách cầm đũa, điệu bộ đi đứng, tất cả chúng phải xem người khác làm trước rồi bắt chước làm sau. Huống chi nhân đức, chúng phải nhờ gương sáng mới có thể làm được. Lời nói hương bay, gương bày lôi kéo. Lời khuyên không gương sáng không khác gì tiếng kèn trên rừng hoang. Cha mẹ học cao, giỏi khoa tâm lý, nhưng không có đời sống gương mẫu, thì không thể giáo dục con cái nên chân chính được. Trái lại, một bà mẹ nhà quê, ít học, nhưng hiền đức, bà rất có thể luyện con nên người đức hạnh.
Nếu gương sáng cha mẹ là bí quyết thành công trong việc giáo dục, thì trái lại gương mù là lưỡi gươm nhiều cha mẹ đã giết con mình. Phải, cha mẹ giết con, không phải giết xác nhưng giết linh hồn. Giết xác đã là tội nặng, giết linh hồn còn nặng nề và gớm ghiếc hơn gấp bội. Có ba cách cha mẹ có thể làm gương mù:
- Là khinh suất - Là nhu nhược - Là bất hảo.
Khinh suất là để mặc con cái xem, nghe, đi lại, làm những sự không nên hay chưa nên. Nhu nhược là nuông chiều, không răn đe sửa trị con cái những khi chúng lỗi. Bất hảo là cha mẹ có đời sống lọ lem bê bối.
Ta nên nhớ rằng: Không gì làm giảm giá trị và uy tín cha mẹ trước mặt con cho bằng gương xấu của cha mẹ. Người ta đòi con cái phải giữ điều răn thứ IV, nhưng chính cha mẹ lại không giữ điều răn thứ III đối với Cha trên trời. Người ta bảo con cái rằng: Công bình, bác ái là tất cả đạo làm người, nhưng chính cha mẹ thì không ngày nào mà không nói chê kẻ nọ nói xấu người kia. Như thế thì làm sao mà dạy con công bình, bác ái được!
Thưa anh chị em, muốn thành công trong việc dạy con, phải bắt đầu bằng gương sáng. Gương sáng có thể thay thế được tất cả, nhưng không gì có thể thay thế được gương sáng.
Xin các ông các bà, các bậc làm cha làm mẹ, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với con cái, xem xưa rày có ăn hợp với ba điểm vừa nghe không. Ấy là:
- Có hướng việc giáo dục con cái mình về mục đích: giúp chúng nên người, để được vinh quang với Chúa đời sau không?
- Có coi việc đó là một việc rất cần thiết sẽ phải trả lời trước mặt Chúa không?
- Có chu toàn nhiệm vụ đó, nhất là bằng gương sáng không?
Hãy xét mình kỹ, và hãy dốc lòng. Hạnh phúc con cái lệ thuộc vào đó. Danh dự và phần rỗi các ông bà một phần cũng tuỳ ở đó. Tương lai họ đạo nói riêng, và tương lai Giáo Hội nói chung cũng chờ ở đó.
Lạy Chúa, con đang đi tìm Chúa, nhưng con sẽ không gặp được Chúa một mình con. Chúa sẽ chỉ cho con gặp được Chúa, nếu con kéo theo con những người Chúa đã trao phó cho con. Nên, lạy Chúa, xin ban cho con ơn khôn ngoan và can đảm để chu toàn bổn phận đó cho nên. Amen.
Mới rồi, một người tôi quen theo Phật giáo đã viết thư hỏi tôi: “Thưa Cha, vì lý do nào Cha đi Bùi-Tuần 2336
Mới rồi, một người tôi quen theo Phật giáo đã viết thư hỏi tôi: “Thưa Cha, vì lý do nào Cha đi tu?”. Trong thư trả lời tôi đã viết: “Tôi đi tu vì một lý do đơn giản là để tìm gặp Chúa một cách trọn vẹn. Có thế thôi”.
Tôi nghĩ tôi đã trả lời rất thành thực. Vì đã từ lâu lắm và cho tới phút này, tôi vẫn khát mong tìm gặp được Chúa một cách trọn vẹn. Tìm gặp Chúa một cách trọn vẹn đó là băn khoăn lớn nhất của đời tôi. Và tôi tưởng đó cũng là mối băn khoăn của mọi anh em đang ngồi đây. Tôi nói là “băn khoăn” vì ta tìm hoài, mà hình như không bao giờ được thoả mãn.
Chúng ta đi tu, hơn kém cũng trên 10 năm rồi, nhưng chúng ta đã thực sự tìm được Chúa chưa? Tìm được Chúa, không phải là một Chúa trừu tượng, nhưng là một Chúa sống động, một nhân vật hiền từ tốt lành làm ta vui, làm ta cậy, làm ta phấn khởi. Tìm được Chúa, không phải như một khái niệm, nhưng là một sự hiện diện hấp dẫn, với đôi tay quyền năng và khoan hậu, với các nhìn âu yếm xót thương. Tìm được Chúa, không phải là một Chúa xa vời, nhưng là một Chúa gần gũi, như một người cha, một người bạn, như một người tình, mà ta cảm thấy luôn ở bên ta, khi ta ở nhà nguyện, ở nhà học, ở nhà cơm, ở sân chơi, ở nhà ngủ.
Tóm lại, ta có gặp được Chúa như tình yêu, như một lẽ sống mà ta mê say, mà ta hy vọng không?
Tôi không biết anh em sẽ trả lời ra sao. Nhưng tôi có lý do để nghĩ rằng: một phần khá đông chúng ta chưa tìm được Chúa một cách trọn vẹn. Mà nói đúng ra, thì tất cả chúng ta đều là những người đang đi tìm Chúa. Nhưng tìm là một chuyện, mà gặp được lại là chuyện khác.
Vậy phải tìm cách nào để gặp được Chúa?
Để trả lời câu hỏi đó, tôi đã nghĩ tới những người đã đi tìm Chúa Giêsu ở Calvariô. Phân tách và suy nghĩ, tôi thấy rằng:
Hạng người thứ nhất trên núi Calvariô đã không gặp được Chúa, đó là những kẻ qua đường.
Kinh Thánh ghi rằng: Có những kẻ qua đường thấy Chúa bị đóng đinh thì cười chê và nói: Ông này có tiếng hay làm phép lạ. Ông bảo, ông dám phá đền thờ rồi nội 3 ngày ông sẽ làm lại y nguyên. Sao lúc này không cứu mình đi! (x. Mt 27,39-40).
Nghe thế, Chúa Giêsu làm thinh, không trả lời gì. Và những kẻ qua đường đó đã không nhận ra kẻ đang bị đóng đinh đó lá chính Thiên Chúa.
Tại sao vậy? Thưa, vì họ nhẫn tâm. Gặp một người đang đau khổ, bị đóng đinh, bị xỉ nhục, họ không an ủi được một lời thì chớ, họ còn vào hùa với bọn người quyền thế, với quần chúng cuồng tín và không suy nghĩ để chế nhạo, riếc róc. Cho rằng: họ không rõ người chịu đóng đinh đó là ai, có tội hay vô tội. Nhưng dù thế nào đi nữa, thì cũng phải có tối thiểu nhân đạo chứ! Chẳng bênh, thì ít là làm thinh đi! Chứ người ta đã khổ nhục, mình đi qua lại đổ thêm khổ nhục, thì thực là nhẫn tâm.
Thái độ nhẫn tâm đó của họ đã cản trở họ nhận ra Chúa. Họ chỉ gặp được một người có vẻ đáng khinh, chứ không gặp được Chúa.
Hạng người thứ hai trên núi Calvariô đã không gặp được Chúa, đó là những trưởng tế và luật sĩ.
Theo Phúc Âm thì các thầy tư tế và luật sĩ đã thách thức Chúa Giêsu rằng: Nếu ông là vua Israel, là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thánh giá đi. Rồi chúng tôi sẽ tin (x. Mt 27,42-43).
Nghe vậy, Chúa Giêsu làm thinh, không trả lời gì. Và các ông đó đã không nhận ra kẻ mình đang xỉ vả chính là Thiên Chúa.
Tại sao vậy? Thưa, vì họ ác tâm. Vì ghen ghét, chính bọn họ đã theo đuổi làm khổ Chúa. Họ đã gièm pha, đã nói xấu, đã bôi nhọ thanh danh Chúa. Chính họ đã bày mưu bắt Chúa, đã bỏ vạ cáo gian, đã xúi dân xin giết Chúa. Bây giờ Chúa đã như kẻ ra hàng, đã thua, đã nộp mình, đã kiệt lực, đã bị hành hạ đến cực độ. Thế mà họ vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn cứ muốn làm nhục thêm. Quả thực, họ quá ác tâm. Thái độ ác tâm đó đã cản trở họ nhận ra Chúa. Họ chỉ gặp một người có vẻ đáng khinh chứ không gặp được Chúa.
Hạng người thứ ba trên núi Calvariô đã không gặp được Chúa, đó là những người lính thi hành án lệnh giết Chúa.
Bài thương khó kể rằng: Mấy người lính đóng đinh Chúa đứng dưới thánh giá, ngẩng mặt lên nói với Chúa rằng: Ông xưng mình là vua Do Thái, có giỏi thì nhảy xuống thánh giá đi. Rồi bọn tôi sẽ tin (x. Lc 23,36-37; Mt 27,44).
Nghe vậy, Chúa Giêsu làm thinh, không trả lời gì. Và những người lính đó đã không nhận ra kẻ tử tội chính là Thiên Chúa.
Tại sao vậy? Thưa, vì họ dã tâm. Đành rằng, họ là những người phải vâng lệnh cấp trên. Họ là lính, thượng cấp bảo sao thì họ làm vậy. Nhiệm vụ này chẳng ăn nhằm gì tới họ. Tuy nhiên họ đã đi quá giới hạn nhiệm vụ của họ. Họ thấy các ông lớn và dân chúng có vẻ ghét Chúa, thì họ đánh đập Chúa nhiều hơn. Họ mị dân. Có ai buộc họ phải chế giễu Chúa đâu! Nhưng họ đã làm vì dã tâm. Thái độ dã tâm đó đã cản trở họ, không nhận ra Chúa. Họ chỉ gặp một tử tội, chứ không gặp được Chúa.
Hạng người thứ bốn trên núi Calvariô đã không gặp được Chúa, đó là kẻ trộm dữ.
Phúc Âm thuật lại: Một kẻ trộm bên tả quay sang nói khích Chúa rằng: Nếu ông là Đấng Cứu thế, thì hãy cứu mình và cứu tôi đi! (x. Lc 23,39).
Nghe vậy, Chúa Giêsu làm thinh, không trả lời gì. Và kẻ trộm đó đã không nhận ra kẻ đóng đinh với mình là chính Chúa Cứu thế.
Tại sao vậy? Thưa, vì hắn tiểu tâm. Hắn đã biết đau đớn khổ cực là thế nào, thì đáng lý ra hắn ta phải biết thông cảm với người cùng chung hoàn cảnh. Đàng này, hắn lại có vẻ chế giễu khích.
Mà dù hắn không có ý khích bác đi nữa, thì hắn cũng là con người ích kỷ. Hắn xin: Hãy cứu ông và cứu tôi với! Lạ chưa! Có 3 người cùng chịu đóng đinh như nhau, thế mà hắn chỉ xin: cứu ông và cứu tôi! Còn người thứ 3 thì hắn không nhớ tới. Hay có nhớ, nhưng vì thù ghét sao đó, nên không thèm lo cho hắn. Thực là ích kỷ.
Thái độ tiểu tâm đó đã cản trở hắn nhận ra Chúa. Hắn chỉ gặp một người đồng cảnh, chứ không gặp được Chúa.
Hạng người thứ năm trên núi Calvariô đã gặp được Chúa, đó là kẻ trộm lành.
Tại sao vậy? Thưa, vì ông có lòng thương người.
Ông không nhẫn tâm vào hùa với đám đông như những kẻ qua đường. Nhưng một mình ông dám lên tiếng nói Chúa là người vô tội.
Ông không ác tâm như các thầy cả và biệt phái, chủ tâm hạ Chúa xuống đất đen. Nhưng ông nói: “Khi nào lên nước thiên đàng, xin...”. Có nghĩa là ông là người lành, người thánh, ông sẽ lên trời.
Kẻ trộm lành cũng không dã tâm như bọn lính. Nhưng ông phân biệt ai đáng tội, ai không đáng tội. Ông nói: Hai đứa bọn tôi chịu tội thì đáng lắm. Còn ông này có làm gì nên tội.
Ông cũng không tiểu tâm như người trộm dữ. Nhưng thái độ bênh đỡ Chúa một cách mạnh mẽ và công khai của ông đã an ủi Đức Mẹ rất nhiều.
Tóm lại, cái bí quyết đã giúp kẻ trộm lành gặp được Chúa, chính là sự ông biết thương người. Ông thấy bên cạnh ông có một người chịu đóng đinh như ông và còn khổ hơn ông. Ông động tình thương. Ông để ý coi sự việc trước sau thì thấy người bị đóng đinh đó bị oan hoàn toàn. Nên ông lên tiếng bênh. Ông lên tiếng bênh, đang khi tất cả từng ngàn người đều đồng thanh kết án. Ông lên tiếng bênh, đang khi không có một ai, dù là môn đệ Chúa, dám hé môi nói nửa lời an ủi Chúa.
Thấy ông có lòng thương người thực sự, Chúa liền ban ơn cho ông nhận biết Chúa. Chúa quay sang nói với ông: Hôm nay, ông sẽ về nơi vui vẻ với tôi. Ông đã gặp Chúa.
Anh em thân yêu,
Kẻ tìm được Chúa là ké đã biết thương người. Ta là những người đang đi tìm Chúa. Muốn gặp được Ngài, ta hãy thương người. Tìm gặp Chúa bằng cách thương người: đó là đề tài chính của tuần tĩnh tâm này.
Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì những lý do sau đây:
1/ Thương người là đặc điểm trung thực của môn đệ Chúa. Dấu hiệu đích thực của người Công giáo không phải là theo thánh giá, dấu hiệu đích thực của người chủng sinh không phải là phù hiệu. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau” (Ga 13,35).
2/ Thương người là một nhân đức đang bị suy sụp trầm trọng ngoài đời cũng như trong đạo, nơi giáo sĩ cũng như nơi người tu.
3/ Thương người là điều dễ làm tăng uy tín môn đệ Chúa hơn mọi giá trị khác. Nó có thể thay thế được rất nhiều đức tính, nhưng không đức tính nào có thể thay thế được nó.
4/ Thương người là phương tiện hiện hữu bậc nhất để truyền giáo. Nhờ thương người, người ta sẽ dễ có cảm tình với ta, và nhờ đó có cảm tình với đạo.
5/ Thương người là khí cụ sắc bén nhất để đối phó với những chủ thuyết chính trị và văn hoá muốn đả kích, bôi nhọ và loại trừ đạo Công giáo.
Như thế, tóm lại, thương người là cách giúp ta và người ta gặp được Chúa.
Anh em thân yêu,
Đề tài “Thương người” rộng mênh mông. Nhưng tôi sẽ chỉ đề cập tới một số điểm xét ra cần thiết trong đời sống thực hành. Sẽ không có gì cao siêu mới lạ. Vì tình yêu đã cũ như trái đất và quên thuộc như con người. Mà thực ra, điều quan trọng nên tìm không phải là tư tưởng mới, vấn đề mới, nhưng la tâm hồn mới. Làm mới lại tâm hồn ta, đó là điều khát mong chính đáng nhất đặt ở tuần phòng. Mà làm mới lại tâm hồn nói đây, là việc của ơn thánh. Chính vì thế mà chúng ta phải tĩnh tâm với Chúa.
Sự tĩnh tâm với Chúa như vậy được thực hiện bằng bốn việc này:
Cầu nguyện: Trong ba ngày phòng, anh em hãy tâm sự với Chúa nhiều hơn.
Suy gẫm: Nhặt lấy những tư tưởng ưng ý để suy đi nghĩ lại. Coi những tư tưởng đó như do Chúa gởi cho riêng mình. Suy lâu, suy kỹ để tư tưởng trở thành xác tín, và để ơn Chúa biến cải linh hồn.
Xét mình: Xét mình là nhìn vào Chúa, để ánh sáng Chúa dọi vào hồn ta. Nhờ đó ta sẽ thấy rõ những gì không ổn. Và cũng nhờ đó ta sẽ thấy hối hận mà không ngã lòng, chán ngán tội lỗi mà không kiêu căng.
Dốc lòng: Dốc lòng là một trắc nghiệm để biết có cấm phòng nên hay không. Cấm phòng không có dốc lòng là cấm phòng hư. Cấm phòng với dốc lòng trống không là cấm phòng xoàng. Cấm phòng với dốc lòng rõ rệt là cấm phòng tốt.
Để kết, tôi nguyện xin điện dẫn đưa anh em qua 3 ngày phòng thư thái để tới những dốc lòng rõ rệt.
Trong Phúc Âm, Chúa có kể một ví dụ rất ý nghĩa về đức thương yêu. Một người bộ hành từ Bùi-Tuần 2337
Trong Phúc Âm, Chúa có kể một ví dụ rất ý nghĩa về đức thương yêu. Một người bộ hành từ Giêrusalem đến Giêricô chẳng may bị cướp chặn đánh, lấy hết đồ vật và bỏ nằm ngấp ngoái bên đường. Chợt có người biệt phái đi qua. Thấy nạn nhân, ông liếc nhìn, rồi đi thẳng. Lát sau, lại có một thầy cả đi qua. Thấy người bị nạn nằm vật vã trên vũng máu ông cũng chỉ im lặng nhìn, rồi đi. Cách mấy giờ, có một người Samaria đi qua. Thấy người bị nạn, ông liền xuống ngựa, ông vào quán trọ, băng bó săn sóc rất chu đáo. Rồi ông còn đưa tiền cho chủ quán, dặn dò họ lo cho người bị nạn thay ông. Mấy bữa ông trở lại va trả thêm tiền... Và Chúa kết luận: Trong ba kẻ qua đường, ai thương người thật? Thưa, chính là người Samaria.
Lúc nãy tôi nói: Ví dụ này rất ý nghĩa. Ý nghĩa được đượm mùi chua xót đắng cay. Vì với ví dụ này, Chúa đã vạch trần một sự thực phũ phàng: Vị thầy cả hay giảng đức thương người nhưng biết giảng mà không biết thực hành. Ông biệt phái là hạng quý chức trong đạo, cũng chỉ thuyên người bằng mồm, chứ đến việc thì lại trốn tránh. Còn người Samaria lả kẻ ngoại đạo, thì lại làm việc thương người thực sự.
Khi đưa ra gương mẫu bác ái, Chúa Giêsu đã không bảo: Hãy theo gương các thầy cả, hãy bắt chước ông quý chức nọ, bà đạo đức kia. Nhưng Chúa bảo: Hãy theo gương người ngoại đạo Samaria! Thực là nhục. Càng suy càng thấy đau và càng thấy đúng.
Nếu bây giờ Chúa xuống thế lại và đi giảng ở Việt Nam biết đâu Chúa cũng nói y nguyên dụ ngôn đó. Nhưng thôi, ở đây không phải là chỗ đem vấn đề đó ra bàn luận đúng hay sai. Điều chủ yếu ta phải tìm là xem Chúa muốn dạy ta sự gì trong dụ ngôn này.
Có thể nói: điều cốt yếu Chúa khuyến cáo trong dụ ngôn này gồm trong một câu vắn tắt: Yêu thương là cho đi.
Anh em thân yêu,
Thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng thương nhiều. Cho tất cả là dấu tình thương không bờ bến.
Nhưng cho gì?
Thưa là cho sự tốt, sự lành.
Sự tốt, sự lành là những gì giúp họ được hạnh phúc chân thực. Sự tốt sự lành là những gì tôi cho là quý, là trọng, là có giá trị.
Anh tôi có một đứa con 5 tuổi. Hôm bà ngoại nó chết, nó nghe người ta nói với nó là: Ngoại chết để về trời gặp Chúa. Nó tin lắm. Hôm nọ tôi về nhà, gặp nó, tôi hỏi: Nếu cháu chết thì cháu đi đâu? Nó thưa: Cháu chết thì cháu lên trời gặp Chúa. Tôi hỏi: Cháu gặp Chúa thì cháu cho Chúa cái gì? Nó nghĩ một chút rồi thưa: Cháu cho Chúa con dế! Câu thưa của nó thực là bất ngờ làm cho mọi người bật cười. “Cháu cho Chúa con dế”, tức là dấu nó thương Chúa lắm rồi đó. Vì đối với nó, con dế mà anh nó mới cho, là tất cả gia tài quý trọng nhất, là tất cả bảo vật nó yêu thích nhất.
Đứng thực, yêu thương là cho đi!
Nhưng sự cho đi được thực hiện thế nào?
Cách thứ nhất là bằng ý muốn.
Thí dụ: Tôi thương anh A, lòng tôi ước muốn cho anh được khoẻ mạnh, học giỏi và đạo đức. Khoẻ mạnh, học giỏi và đạo đức: đó là những sự tốt lành. Những cái đó, tôi cầu chúc cho anh. Mà cầu chúc sự lành cho anh, tức là lưu tâm hảo ý tới anh. Mà lưu tâm hảo ý tới anh tức là một cách cộng tác xây dựng hạnh phúc cho anh, và cộng tác xây dựng hạnh phúc cho anh, đó là một cách tôi đã cho anh phần nào chính bản thân tôi.
Tôi có thể không lưu tâm tới anh, nhưng tôi đã lưu tâm tới anh. Tôi có thể ước muốn điều xấu cho anh, nhưng tôi đã cầu mong cho anh sự lành. Những điều tôi cầu mong đó bây giờ chưa thành, và có thể sẽ chẳng bao giờ thành. Nhưng ít ra tôi cũng đã cho anh tấm lòng của tôi, tấm thịnh tình của tôi. Chính vì thế mà ước muốn sự lành cho ai là một cách thương yêu. Và mọi thương yêu đều phải có nó như một yếu tố tối thiểu để đáng gọi là thương yêu.
Cách thứ hai là bằng thái độ.
Thái độ là cách ăn ở bề ngoài, như cách đối xử, nét mặt, cách nhìn, cách đi đúng nói năng, nếp sống. Tắt là tất cả những gì hiện ra bề ngoài nơi ta, mà người ta có thể quan sát được.
Thái độ cũng là món quà có thể cho đi. Mới rồi, đọc một tờ báo tây, thấy có bài ký tên Mgr Gantin là bạn học cũ người Dahomey, tôi tò mò đọc, thì thấy bài đó là thư luân lưu của Ngài viết gởi giáo dân địa phận Ngài. Trong thư đó, có đoạn Ngài viết đại khái thế này:
Dân nước mình nghèo. Nhưng không vì nghèo mà cứ mãi mãi cam phận ăn xin và luôn luôn chỉ biết lãnh nhận. Thực là nhục khi ngoài đường phố, hễ thấy người ngoại quốc đi qua, là tẻ con người lới bu lại xoè tay xin tiền. Mình nghèo không có tiền cho người khác, nhưng mình có thể cho họ thái độ tự trọng và nếp sống trong sạch đứng đắn mà nhiều người giàu không có.
Thiết tưởng những lời khuyên trên đây của Đức Tổng Giám mục Gantin rất là thực tế và đàng khác cũng rát cần đối với chúng ta. Với cách cho bằng thái độ này, ta có thể cho đi rất nhiều và cho rất nhiều người. Dù sống ở chủng viện, dù ở nhà quê, dù ngoài được, dù trên xe, ở đâu lúc nào ta cũng có thể đem lại cho những người thấy ta những lợi ích an lành.
Hồi làm tuyên uý ở một bệnh viện bên Pháp, tôi có nghe các bệnh nhân khen một chị nữ tu y ta làm việc tại đó. Thường thường các bệnh nhân rất thích được nằm điều trị ở khu vực thuộc quyền chị nữ tu đó. Tôi tìm hiểu tại sao, thì được biết lý do. Là vì chị dòng đó có thái độ rất dịu dàng vui vẻ. Nét mặt dịu hiền, y phục sạch sẽ gọn gàng, nói năng có duyên. Chị đó chỉ cho bệnh nhân có từng ấy thôi. Thế mà họ thấy dễ chịu. Một bác sĩ của bệnh viện đó cũng có lần nói với tôi: Chúng tôi nhờ Cha và các nữ tu đó. Nhiều khi thái độ ân cần của đạo đức và dễ thương của Cha và các nữ tu trong bệnh viện còn công hiệu hơn là thuốc của chúng tôi.
Nhiều kinh nghiệm có thể làm chứng bí quyết thi ân của thái độ. Nói thêm sẽ quá dài. Xin sáng một cách cho khác.
Cách cho thứ ba là bằng việc làm.
Việc làm nói đây là sự giúp đỡ, bằng lời nói can thiệp, bằng tay chân hành động, bằng sức khoẻ, bằng thời giờ, bằng đời sống phục vụ.
Điều này đáng ta để tâm cách riêng vì nó rất cần và thường rất thiếu. Nó là một cách cho được coi là nổi bật nhất của tình thương. Ý muốn tốt mà ta cho đi thì vô hình, không kiểm chứng được. Cho đi bằng thái độ thì có thể bảo là giả tạo, bôi bác. Nhưng cho đi bằng sự tận tâm giúp đỡ, bằng sự chấp nhận những hy sinh và phiền toái của phục vụ, thì thường dễ gây được kết quả tốt. (...)
Cách cho thứ bốn là bằng của cải.
Hôm nọ, nghe đọc sách ở nhà cơm, tôi nhớ có một đấng tu hành đã nói: “tiền bạc của cải là giả trá”. Câu đó, ngài đã nói với mộ em bé nhà nghèo đang lo kiếm tiền về mua thuốc cho mẹ. Thú thực, thoạt nghe câu đó, tôi đã thầm nghĩ dại: Tiền bạc của cải là giả trá, thế mà đời cũng như đạo cứ hùng hục lo tìm kiếm nó. Kẻ khó đói van xin, mà có mấy người đạo đức chịu rộng tay bố thí cho những thứ giả trá đó đâu. Của cải giả trá hay con người giả trá? Phải chăng cũng giống như ông già ưa nhắm rượu với chân gà thì nói dối trẻ là trẻ ăn chân gà sẽ bị run tay!...
Nghĩ lại, thì tôi thấy phản ứng của tôi có phần nào vội vã, vì lời khuyên của vị tu hành đó chắc có một ý nghĩa thiêng liêng kèm theo nhiều điệu kiện, và vì thế không phải là sai. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận rằng: tiền bạc, của cải là những giá trị trần thế rất thực tế không thể chối cãi được. Nó là sự tốt lành tương đối cần thiết để xây dựng hạnh phúc cho con người thời đại. Vì thế, khi có thể và không vì lý do chính đáng mà chối từ cách cho thứ bốn này, thì tình thương vẫn còn là thiếu sót.
Thánh Gioan nói: “Kẻ nào có của đời này, khi thấy anh em mình túng thiếu, mà khoá lòng lại, thì làm sao có đức mến được” (1 Ga 3,17).
Anh em thân mến,
Yêu thương là cho đi. Nhưng chính vì cho đi mà nhiều khi yêu thương có thể gây nên nhiều mất mát. Mất tiền của, mất thời giờ, mất sức khoẻ. Những cái mất đó là tất nhiên, khỏi phải nói. Điều đáng nói là vì yêu thương mà nhiều khi mất quân bình tâm lý, có lúc mất ơn thánh, mất ơn kêu gọi, và có thể mất cả linh hồn mình.
Thí dụ, dấn thân bênh vực người nghèo mà có thể trở thành quá khích. Yêu thương kẻ yếu mà có thể thành nô lệ xác thịt. Yêu thương đoàn hội mà có thể trở thành bê bối. Lo tổ chức nọ kia mà có thể khô khan, bỏ thường xuyên suy gẫm xét mình.
Vậy phải làm sao để biết cho đi mà không mất mát? Nghĩa là làm sao để sự cho đi bao giờ cũng gây được lợi ích thực sự cho tha nhân, và không làm cho ta bị thiệt hại về phần hồn?
Thưa: một trong những cách hiện hữu nhất để giúp ta biết cho đi hoài mà không mất mát, đó là sống thân mật thường xuyên với Chúa.
Sống thân mật thường xuyên với Chúa thì ánh sáng Chúa sẽ giúp ta sáng suốt, biết nhìn đúng và phán đoán đúng qua những mây mù của tình cảm, của đam mê, của ảo tưởng.
Sống thân mật thường xuyên với Chúa thì sự ngọt ngào của tình Chúa sẽ không để ta đói khát những ngọt ngào của tình thương nhân loại.
Sống thân mật thường xuyên với Chúa, thì sự sống siêu vượt của Chúa sẽ cao thượng hoá mọi tình thương trong ta.
Và để giúp ta sống thân mật thường xuyên với Chúa, hầu có thể cho đi mà không mất mát, thì tôi xin phép đề nghị một việc cụ thể này là mỗi ngày ở chủng viện, cũng như ngoài chủng viện, hãy ráng sống một mình thực sự bên Chúa trước nhà tạm ít là nửa giờ. Giữ mỗi ngày và đừng bỏ bao giờ. Rồi anh em sẽ thấy đó là một bảo đảm khó có thể thay thế được.
Anh em thân mến,
Yêu thương là cho đi. Chúng ta không thể và không được phép chối từ và trốn tránh yêu thương. Giữa một mảnh đất đầy tang thương này, bên cạnh những cuộc sống nghèo khổ đầy lo âu khắc khoải của đám đông dân mình, chúng ta đừng lẩn trốn, và cũng đừng chui mình vào những lối bác ái và đạo đức giả tạo. Nhưng mỗi người chúng ta hãy là một bông hoa tình thương.
Hãy cho đi thực nhiều. Và cho đi thực sự. Do đó, đến nhà nào, gặp ai, ở đâu, ta nên tự hỏi mình: Tôi sẽ cho họ những gì? Tôi đã cho họ được những gì? Chứ đừng đòi hỏi.
Chớ gì cho đi sẽ trở thành lẽ sống của đời tu chúng ta. Và đừng bao giờ phản bội lẽ sống đó.
Qua những suy nghĩ buổi sáng nay, chúng ta đã thấy yêu thương không phải là cảm thấy bồi hồi Bùi-Tuần 2338
Qua những suy nghĩ buổi sáng nay, chúng ta đã thấy yêu thương không phải là cảm thấy bồi hồi xao xuyến, rạo rực, mê ly, đắm đuối rộn ràng. Tất cả những cảm tình rung động đó là dư vang của một tình thương mãnh liệt.
Nhưng không phải tình thương nào cũng có những tình cảm đó. Và cũng không phải hễ tình thương nào có những tình cảm đó sẽ là tình thương tốt.
Như vậy, đủ thấy rằng: những tình cảm đó chỉ là yếu tố phụ. Yếu tố chính của tình yêu là cho đi. Yêu thương ai là cho họ sự lành sự tốt. Cho bằng ý muốn, cho bằng thái độ, cho bằng việc làm, cho bằng của cải.
Nhưng phải cho ai? Nói cách khác, là phải yêu thương ai?
Phải yêu thương cha mẹ, gia đình bà con họ hàng và các người thân. Điều đó đã quá rõ và tự nhiên quá. Khỏi cần phải nói.
Phải yêu thương những người làm ơn cho mình, điều đó cũng quá rõ, khỏi cần phải nói.
Ở đây tôi muốn nói tới một thứ người tự nhiên khó thương nhưng rất cần được thương, một thứ người thường bị khinh nhưng rất cần được nâng đỡ, thứ người đó là ai? Thưa, là những người tội lỗi yếu đuối.
Tại sao cần yêu thương họ?
Và phải yêu thương họ bằng cách nào? Đó là hai chủ điểm bài giảng chiều nay.
Anh em thân mến,
Tại sao cần yêu thương người tội lỗi yếu đuối?
Lý do thứ nhất là vì Chúa đã yêu thương họ.
Chúa phán: “Ta đến không phải để gọi người công chính, nhưng là đeể gọi người tội lỗi” (Mt 9,13). Như thế, Chúa dành cho người tội lỗi một thứ tình yêu đặc biệt. Mà thực là thế. Vì yêu thương người tội lỗi mà Ngôi Hai đã giáng trần mặc xác con người giòn mỏng, đã sinh ra khó nghèo, đã sống lầm than, đã bị hấu hủi tủi nhục, đã bị giết một cách dã man.
Vì yêu thương người tội lỗi yếu hèn, Chúa đã lập các bí tích, để nâng đỡ, nuôi dưỡng và chăm sóc họ.
Tóm lại, suốt đời Chúa là cho kẻ tội lỗi. Chính cái tên Giêsu, nghĩa là Cứu Thế đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu có cần cứu. Mà cứu là phải cứu người có tội.
Nhiều lần suy nghĩ về tình thương bao la của Chúa đối với kẻ có tội, tôi thấy mình không biết có còn gì để đáng gọi là môn đệ của Chúa không. Môn đệ thì phải theo Thầy. Thầy đã sống, đã chết cho người tội lỗi. Nếu tôi sống cho tôi, chết cho tôi chứ không thực sự sống chết cho người tội lỗi thì tôi mang tên môn đệ Chúa làm gì cho thẹn với lương tâm và hổ với đời.
Lý do thứ hai giục ta yêu thương kẻ tội lỗi, là vì Chúa đã yêu ta.
Ta là ai? Thưa, ta là kẻ tội lỗi. Nếu ta là kẻ tội lỗi mà cũng được Chúa yêu thương thì tại sao ta lại không biết yêu thương kẻ tội lỗi khác, như Chúa đã thương ta? Nếu ta cho rằng họ xấu, thì tại sao ta không nhận thấy rằng chính ta cũng xấu. Nếu ta bảo rằng họ không đáng thương thì tại sao ta không nhận ra rằng chính ta cũng chẳng đáng thương.
Ở đây tôi liên tưởng tới một dụ ngôn. Chúa nói đại khái. Có một người mắc nợ với vua một triệu đồng. Hắn không có gì trả. Vua thương thì tha cho hắn, khỏi ngồi tù mà cũng khỏi trả nợ. Hắn mừng lắm, cám ơn vua và ra về. Nửa đàng, hắn gặp một người vay hắn 10.000đ. Hắn liền chạy lại túm cổ hỏi nợ. Người kia nghèo, năn nỉ cho khất một thời gian, để kịp lo chạy tiền. Chứ nhà túng quá, không làm sao kiểm đủ số trong một ngày. Nghe thế, hắn liền bạt tai, đấm đá người mắc nợ, và lôi vào bót xin nhà chức trách bỏ tù. Thấy vậy, có người đến trình với vua đầu đuôi sự việc. Vua giận lắm, liền truyền bắt anh kia lại mà mắng: Anh mắc nợ nhiều với vua mà đã được vua thương yêu, đối xử nhân hậu. Còn người ta mắc nợ với anh có là bao nhiêu đâu, sao anh lại nỡ xử tàn tệ với họ như thế! Đã thế, thì vua cũng sẽ xử với anh đúng như anh đã đối xử với người khác. Và lập tức, vua truyền tống giam anh đó.
Với dụ ngôn này, Chúa có ý bảo ta: Ta tội lỗi mà đã được Chúa yêu thương, thì ta cũng phải yêu thương kẻ tội lỗi như Chúa đã yêu thương ta. Bằng nếu ta chặc chẽ, ghét bỏ, khinh dể xử tệ với người tội lỗi, thì Chúa cũng sẽ theo cách đó mà xử lại với ta.
Chắc chúng ta không ai dại gì mà lại chủ trương phải khinh ghét người tội lỗi, để rồi chính mình lại bị Chúa ghét bỏ.
Nhưng, phải yêu thương họ cách nào?
Thưa, cách thứ nhất là bênh đỡ họ.
Suy gẫm đời Chúa Giêsu, tôi thấy luôn luôn Chúa đứng về phía kẻ yếu đuối để bênh đỡ họ. Có bao giờ thấy Chúa đứng về phía Pharisêu để kết án kẻ có tội bao giờ đâu. Bọn Pharisêu là cấp lớn trong cả đạo lẫn đời. Họ thường chặc chẽ, nghiêm khắc giữ luật theo hình thức, không chút gì xót thương đối với những người yếu đuối.
Một hôm họ giong một chị phụ nữ ngoại tình đến trước mặt Chúa và tố cáo rằng: Chị này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Cứ theo luật, thì chị này phải ném đá chết. Còn Thầy thì nghĩ sao?
Chúa Giêsu bình tĩnh trả lời: “Ai trong các ngài vô tội thì xin ném hòn đá thứ nhất”. Rồi Chúa cúi xuống, lấy ngón tay viết vu vơ trên nền nhà, không nhìn không nói với ai. Lúc ngẩng đầu lên, thì chỉ còn một mình chị phụ nữ đứng đó. Chúa bảo: “Không ai kết án chị sao? - Vậy, tôi cũng chẳng kết án chị. Chị về bình an và đừng phạm tội nữa” (x. Ga 8,1-11).
Thái độ của Chúa đã cảm hoá được chị ta. Chị ta ra về và tin ở Chúa. Thái độ của Chúa trong trường hợp này là một thái độ có tính cách bênh đỡ người có tội. Vì Chúa hiểu hoàn cảnh của chị ta. (Biết đâu vì chị ta quá nghèo? Biết đâu vì chồng chị ghét bỏ? Biết đâu vì chị ta quá yếu đuối?). Chúa hiểu biết tất cả, nên Chúa không nghiêm khắc lên án như người người đạo đức giả.
Rồi trên núi Sọ, ta thì ta thấy tội dân Do Thái rõ rành rành. Phải ta, thì ta xin trời trị nó một trận cho nó mở mắt ra. Nhưng Chúa Giêsu thì không. Trái lại, Ngài còn bênh đỡ, còn cắt nghĩa lành cho họ. “Họ lầm không biết”. Đó, ta thấy chưa? Cách Chúa bênh đỡ kẻ có tội là như thế đó. Thông cảm hoàn cảnh của họ, cắt nghĩa lành cho họ.
Theo gương Chúa, Giáo Hội cũng dạy ta hai nguyên tắc này:
- Không được coi ai là có tội, nếu không có bằng chứng xác thực.
- Chứng hồ nghi không có giá trị buộc tội.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thường bên đỡ kẻ có tội không? Tôi thấy thời nay cũng như thời Chúa Giêsu, người ta có cái thói xấu này là hay a dua với kẻ tố cáo. Hễ báo chí dư luận, tiếng đồn, rỉ rai, nói xấu hay tố cáo ai, là người ta dễ đứng ngay về phía tố cáo. Hoặc là tin ngay, hoặc là bán nghi bán tin, hoặc là mặc kệ, ít có ai đứng về phía kẻ bị cáo để mà bênh họ. Thái độ đó nơi người đời đã là xấu lắm. Phương chi nơi người tu!
Cách thứ hai để thực hiện lòng yêu thương đối với kẻ có tội là hãy đến và tiếp xúc với họ.
Chính Chúa Giêsu, đã dạy chúng ta cách đó. Ông Giakêu là nhân viên thuế vụ, có tiếng tham nhùng. Dân chúng thường xa tránh loại người đó. Nhưng Chúa đã tới thăm nhà ông. Mà ông có mời đâu! Chúa thấy ông ta đứng trên cây, nghển cổ ngó nhìn Chúa khi Chúa đi qua, thì Chúa ngoắt ông ta và bảo là: “Nè, tối nay tôi tới thăm ông đó”. Rồi Chúa đến. Chúa chuyện trò vui vẻ. Chúa còn dùng bữa với gia đình ông nữa. Sự xuề xoà hiền lành của Chúa đã cảm hoá ông. Ông đã trở lại, và xin đền hết những ai ông đã làm thiệt hại (x. Lc 19,1-10).
Chúng ta cũng còn nhớ cảnh thơ mộng gần giếng Giacóp. Một người đàn bà đang kéo nước từ dưới giếng sâu, Chúa Giêsu bước đến. Chính Chúa Giêsu bắt chuyện trước: “Bà làm ơn cho tôi xin chút nước uống”. Bà đó có vẻ không được dễ tính lắm, nên thưa lại là: “Ông là người Do Thái, sao lại xin tôi nước uống”. Chúa Giêsu đáp lại bằng một câu rất tâm lý: “Nếu bà biết người đang nói đây là ai”. Đàn bà vốn tính tò mò, nghe câu đó liền dịu giọng lại, và bắt đầu quan tâm tới Chúa... Và kết thúc câu chuyện đó thế nào, chúng ta đã biết. Bà Samaria đã trở lại, tin Chúa và trở nên người tông đồ giáo dân đầu tiên ở Samaria.
Hai chuyện trên đây là gương Chúa dạy ta: Hãy đến với kẻ có tội. Dụ ngôn người chủ chăn bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc cũng nêu lên ý nghĩa đó (x. Lc 15,1-7). Đã hẳn, nhiều khi chúng ta không nên gần gũi những kẻ làm gương xấu, làm dịp và lôi kéo chúng ta vào đàng tội. Nhưng ngoài trường hợp đó và những trường hợp có tính cách sửa phạt cảnh cáo khôn ngoan, chúng ta không nên xa tránh kẻ có tội. Xa tránh kẻ có tội không phải là cách gây thiện cảm với họ. Xa tránh họ không phải là cách khuyên dụ họ trở về đàng chính. Xa tránh họ không phải là cách truyền giáo hợp Phúc Âm, hợp Công đồng và hợp tâm lý. Chúa Giêsu đến với kẻ có tội, Công đồng dạy phải có thái độ cởi mở, tại sao chúng ta lại muốn làm khác.
Cách thứ ba để thực hiện lòng yêu thương đối với kẻ có tội là tìm cách mở lối cho họ tìm lại đời sống ân tình với Chúa.
Đã hẳn, sức mạnh cốt yếu mở lối chính là ơn thánh. Mà ơn thánh thì chỉ có thể xin nhờ cầu nguyện, hy sinh. Tuy nhiên ơn thánh không hành động đơn độc, nhưng đòi có sự cộng tác của tự nhiên. Vì thế, chúng ta không nên quên tìm những cách tự nhiên để mở lối.
Cách trước nhất, là tạo môi trường thuận lợi. Con người nên tốt do hoàn cảnh, và nên xấu cũng do hoàn cảnh. Điều đó không đúng trăm phần trăm, nhưng cũng không sai trăm phần trăm. Hoàn cảnh không quyết định, nhưng có giá trị ảnh hưởng. Điều đó đúng. Có những người ăn trộm ăn cắp vì gia đình quá nghèo. Có những người hành nghề bất lương vì gia đình quá túng. Nhiều người đâm ra khô khan, oán thù xã hội, tàn nhẫn với cuộc đời, cũng vì đã quá khổ. Nếu thương họ, muốn cải thiện họ, thì tất nhiên cũng phải nghĩ đến chuyện cải thiện môi trường vật chất và tâm lý của họ. Ngoài ra, tìm cách mở lối cho họ còn là khéo dùng tâm lý để lôi cuốn họ, để họ xác tín rằng: sống đạo đức là điều có thể, là điều ích lợi, là điều vui. Tôi vừa nói là: “Hãy khéo dùng tâm lý”, hãy dùng cách thích hợp với từng tính tình, và hoàn cảnh, để giúp họ biết lựa chọn. Đời tôi đã gặp không biết bao trường hợp: có những người lỡ lầm, gia đình, xã hội, b62 trên, bạn bè khinh khi mắng nhiếc. Do đó họ càng đi xa hơn. Trái lại, có những người tội lỗi không kém đã làm lại cuộc đời một cách êm thắm, vì đã được cộng đồng thông cảm, che chở, ủi an và thương yêu giúp đỡ tận tình.
Cách sau cùng để thực hiện lòng yêu thương đối với kẻ có tội là cầu nguyện, hy sinh cho họ và cố gắng sống đời đạo đức.
“ÔKhôngó cha chúng con không làm gì được”. Đó là chân lý nền tảng ta không được quên. Muốn cho đi thì phải có đã. Đã hẳn người cho đi không phải là ta, mà là Chúa, nhưng Chúa thường muốn dùng những dụng cụ tương đối xứng đáng để mà cho đi. Ta không cầu nguyện, hy sinh, không cố gắng sống đạo đức thì không thể là dụng cụ tương đối xứng đáng để cho đi được. Hơn nữa, người ta cũng sẽ cho ta là đạo đức giả, để chối từ tình thương của ta. Hoặc họ sẽ nhận, nhưng tình thương đó sẽ chẳng xây dựng được gì cho Nước Chúa.
Cách đây ít hôm, tôi nghe ca sĩ Khánh Ly hát một bài làm tôi suy nghĩ nhiều. Bài đó mang từ đề “Vì tôi là linh mục” của soạn giả Nguyễn Đức Quang. Mặc dầu lời ca có mấy chỗ đáng phê bình, và hình như kẻ viết lời ca không phải là Công giáo nhưng nó cũng nói lên một chủ đề xây dựng là: Linh mục không được thì sẽ gây khổ cho mình, và hại cho kẻ khác. Với điệu nhạc suy tư kiểu Trịnh Công Sơn, với lời ca trách phận ai oán của một linh mục chết trong tội lỗi, với giọng ca tất tưởi của Khánh Ly, bài “Vì tôi là linh mục” đã là một cái gì chua xót cho người có sứ mệnh phải thánh hoá mình và thánh hoá kẻ khác.
Anh em thân mến,
Kẻ có tội không phải là kẻ đáng khinh, đáng ghét nhưng là kẻ đáng thương. Kinh nghiệm bản thân của con người tội lỗi trong ta cũng đã nói với ta điều đó.
Kẻ có tội là người đã đánh mất tình thương. Ta hãy đem lại cho họ tình thương, một tình thương chân thành, vừa hợp tâm lý tự nhiên và cũng vừa siêu nhiên. Tình thương đó, ta hãy hun đúc ngay tự bây giờ.
Chắc anh em có nghe tên Từ Chung (Vũ Nhất Huy). Anh là Tổng thư ký sáng lập nhật báo Chính Bùi-Tuần 2339
Chắc anh em có nghe tên Từ Chung (Vũ Nhất Huy). Anh là Tổng thư ký sáng lập nhật báo Chính Luận, đã bị ám sát năm nao. Hồi còn học với nhau ở Thuỵ sĩ, tôi thấy trên bàn học của anh bao giờ cũng để tấm hình thẳng nhỏ Việt Nam gầy còm, áo rách vai; khoác chiếc nón lá, chân không, đứng bên con trâu. Có lần tôi hỏi anh: Để ảnh đó làm gì hoài vậy? Thì anh trả lời: “Đó là hình ảnh dân tộc Việt Nam mình. Tôi để đó để nuôi lý tưởng của tôi”. Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn nhớ. Và thiết tưởng, anh đã chọn khéo và đúng. Trẻ mà nghèo: đó là hai nét nổi bật của chân dung dân tộc Việt. Tuyên ngôn của Hội đồng Giám mục Á châu cũng như như thế khi tả bộ mặt Á châu là “bộ mặt đầy vết nghèo đó, thiếu ăn, thiếu sức khoẻ, bị chiến tranh và đau khổ dày xéo”.
Riêng về nét nghèo, thì quá đúng. Theo tiêu chuẩn quốc tế, lợi tức quốc gia một năm chia đều cho tổng số dân, nếu dưới 25, thì nước đó kể vào loại kém mở mang. Thế mà nước mình năm ngoái chia ra, thì mỗi người dân được 24!
Dân mình nghèo, không phải tất cả nhưng đại đa số. Mà nghèo và khổ thường là hai bạn chung tình. Và nghèo khổ lại sinh ra bao nhiêu khốn khó cùng cực.
Nghèo khổ là một sự kiện xã hội quá rõ rệt. Và sự kiện quá rõ rệt đó đã trở thành một vấn đề cấp bách.
Vấn đề này có đặt ra cho chúng ta không? Và chúng ta giải quyết thế nào? Đó là hai chủ điểm của bài “Tình thương đối với người nghèo khổ” hôm nay.
Vấn đề “người nghèo khổ” có đặt ra cho chúng ta không?
Xin thưa ngay là Có. Ta mắc vào vấn đề đó theo nhiều tư cách: tư cách đồng loại, tư cách đồng bào, tư cách người Công giáo, tư cách người tông đồ Chúa. Nghĩa là vấn đề được đặt trên vai ta với mộ đòi hỏi nặng nề, với nhiều lý do thúc bách. Thúc bách đầu tiên là về phía Chúa Giêsu. Nếu ngài là gương mẫu đời ta, thì hãy xem cách Ngài chia sẻ sự nghèo khổ của đám đông dân chúng. Chia sẻ bằng cách chọn cuộc sống nghèo. Từ mới sinh cho tới lúc tắt thở, không quãng đời nào của Ngài dù vắn vỏi, có thể gọi được là giàu, là sang. Rồi, hãy xem những phép lạ Ngài làm. Phúc Âm kể 30 phép lạ,
---------- (Theo M. Cl. Fillion, Les Miracles de NSJC. Paris 1909. + Theo T.W. Wright thì có 41 việc được kể như phép lạ trong Phúc Âm do Chúa Giêsu. Hastings Dictionnary lf Christ and the Gospels, Londres, 1908). ----------
thì có 3 phép lạ hồi sinh kẻ chết, 3 phép lạ trừ quỷ, 20 phép lạ chữa tật, 2 phép lạ tạo dựng: cho bánh nên nhiều, nước thành rượu, 3 phép lạ trên vật vô tri: đi trên nước, mẻ lưới đầy cá và sóng gió lặng im, còn bao nhiêu là chữa bệnh cả. Có thể nói là hầu tất cả, hay tất cả từng ấy phép lạ đều liên hệ trực tiếp đến phần xác con người, đều có tính cách cứu giúp người nghèo khổ.
Chúng ta cũng hãy để ý cách Ngài bênh đỡ kính trọng kẻ túng cực nghèo hèn. Không bao giờ thấy Ngài đứng về phía kẻ giàu sang quyền thế để khinh kẻ nghèo. Trái lại, bao giờ cũng thấy Ngài đứng về phía người bần cùng, người bị khinh chê. Quả đúng như vậy trong dụ ngôn người triệu phú và người hành khất tên Lazarô (x. Lc 16,19-31), trong bài giảng tám mối phúc mở đầu bằng câu: “Phúc cho kẻ nghèo...”, trong việc Chúa bênh đỡ mấy người đàn bà trong Phúc Âm bị mang tiếng xấu, trong lời Chúa khen bà goá nghè dâng chỉ có 2 đồng bạc vào đền thờ (x. Lc 21,1-6).
Chúa Giêsu không lý thuyết suông, không cắt nghĩa vòng vo, nhưng Ngài thực sự đã dấn thân, đã lo cho phần xác con người, vì hơn ai hết, Chúa quá biết điều kiện thể xác cần thế nào cho linh hồn.
Theo gương Chúa, Giáo Hội cũng thúc bách chúng ta lưu tâm đến người nghèo khổ. Từ nhỏ, Giáo Hội đã dạy ta kinh “Thương người có 14 mối, thương xác 7 mối, thứ nhất cho kẻ đói ăn...”. Công đồng Vatican II cũng đã kêu gọi giúp đỡ người nghèo. Hiến chế Gaudium et Spes và sắc lệnh Proesbyterorum Ordinis có những đoạn về vấn đề này thực là dứt khoát. Hội đồng Giám mục Việt Nam trong thông cáo ngày 10/01/1971 cũng nhấn mạnh: “Giáo Hội chú tâm đến người nghèo và cho người nghèo”.
Nếu bây giờ quay về phía giáo dân, chúng ta cũng thấy một thúc bách rất là thảm thiết. Một họ đạo có thể chia giáo dân thành 3 lớp, lớp giàu dư tiền của, lớp phải đi vay mượn và lớp không phải vay mượn nhưng ăn không đủ sức, nhà không đủ ở, đồ không đủ dùng, bệnh không đủ thuốc, học không đủ tiền. Lớp người thứ nhất không được là bao nhiêu, có nhiều họ đạo vắng hẳn lớp người đó. Lớp thứ hai thì họ nào cũng có. Lớp thứ ba thì chiếm đa số, có nơi tới 9/10. Sống giữa họ, mới thấy cái kiếp nghèo khổ nó hành hạ thân xác và tinh thần họ thế nào.
Thế rồi, đồng bào đông đảo của ta, ngoài Công giáo, cũng nghèo khổ không kém. Chúng ta không có quyền ân tâm nhìn họ kéo lê mãi cuộc đời lầm than (...) Và tôi tưởng, theo hướng đi của lịch sử, dân chúng Việt Nam cũng sẽ buộc chúng ta giải quyết vấn đề đối với người nghèo khổ. Mà lúc đó, sự ta cho đi sẽ không còn được kể là ân nghĩa nữa, mà chỉ được coi như một sự trả đền bắt buộc.
Như thế, nhìn trên, nhìn dưới, nhìn trước nhìn sau, đâu cũng đặt vấn đề với ta, đâu cũng thúc bách ta giải quyết.
Vậy chúng ta giải quyết thế nào?
Trong bản tuyên ngôn của Hội đồng Giám mục Á châu, các Giám mục đã khiêm tốn nhìn nhận những thiếu sót trong quá khứ. Các ngài nói: “Đáng lẽ chúng tôi phải tỏ ra cảm thương và lo lắng hơn cho người nghèo, và phải lên tiếng một cách mạnh mẽ hơn cho công bình và cho công cuộc bảo vệ nhân quyền. Nhưng chúng tôi đã chỉ bảo vệ quyền lợi hẹp hòi và riêng tư”.
Sau đó, các Đức Giám Mục đã đưa ra một số các điều quyết nghị cụ thể để thực hiện khẩu hiệu “Giáo Hội của người nghèo, và cho người nghèo”. Phân tách thì có thể lấy ra 5 việc này:
1/ Chia sẻ phần nào sự nghèo khổ của dân nghèo bằng chính đời sống cụ thể của chúng ta.
2/ Đời tư của ta phải làm chứng tinh thần khó nghèo Phúc Âm.
3/ Phải làm sao để người nghèo nhất cũng có thể dễ dàng lui tới với ta mà không ngại, và nhận thấy ta là người anh em của họ.
4/ Can đảm lên tiếng bênh vực quyền lợi của những người bị thiệt thòi.
5/ Cương quyết không chịu bó tay bằng cách thoả hiệp và cấu kết với những người giàu có và thế lực.
Với 5 điểm trên đây, vấn đề “Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo” xem ra đã được giải quyết một cách đẹp đẽ.
Nhưng, đó mới chỉ là lý thuyết, còn trong thực tế thì sao?
Ở đây, chúng ta không phê bình một ai, dù là cá nhân, dù là tập thể, dù là giám mục, dù là linh mục. Chúng ta chỉ tự xét chúng ta, và những hoàn cảnh mà chúng ta có liên đới trách nhiệm trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai. Trước hết, Tuyên ngôn hứa: “Sẽ chia sẻ phần nào sự nghèo khổ của dân nghèo bằng chính đời sống cụ thể của chúng ta”. Nhưng cho tới bây giờ, sự chia sẻ đó đã được thực hiện thế nào? Điểm phải căn cứ mà xét là: “Chia sẻ bằng đời sống cụ thể của chúng ta”, đúng nguyên văn quyết nghị, chứ không phải chia sẻ bằng lời xuông, bằng thông cảm trong lòng, dù rất thành thực.
Chia sẻ nói đây phải là biết lo cái lo của người nghèo, buồn cái buồn của họ, tủi cái tủi của họ. Nghĩa là phải sống phần nào với người nghèo và phần nào như người nghèo. Có thực sự sống phần nào với người nghèo và như người nghèo, ta mới thực sự hiểu được một cách sống động thân phận người nghèo: những lo âu dằn vặt, những mặc cảm bị khinh, những phiền muộn chán nản, những khó khăn để cậy trông vào Chúa, những uất ức trước cảnh bất công xã hội, những đau xót tủi nhục trước đời sống xa hoa của kẻ có tiền. Kẻ luôn sống trong tháp ngà đâu có hiểu được những tâm trạng đó.
Một hôm, đám sinh viên Á Phi của chúng tôi ghé thăm một nhà dòng danh tiếng Âu châu. Các cha dòng vui vẻ dẫn chúng tôi đi thăm khắp nơi trong nhà. Nhà dòng rộng mênh mông và giàu sang không tưởng tượng được. Hè, cầu thang, các phòng đều trải thảm nhung, bàn ghế lộng lẫy như những gia đình quý tộc, bàn ăn đầy của ngon... Chúng tôi thấy chỗ nào cũng sang, cũng vượt bực cả. Xem xong, mấy anh em Á Phi - hầu hết là ngoài Công giáo - đã nói nhỏ với nhau: “Đi tu mà không ngờ giàu sang quá”. Câu đó chắc không phải là một lời khen. Dân mình thời nay hình như cũng có phần nào một nhận định như thế về ta. Cách đây ít năm, có một câu phong dao thời đại nói lên điều đó: “Nhất điếm, nhì sư, tam cha, tứ tướng”. Đó là 4 loại người được coi là giàu nhất trong xã hội. Mà họ xếp cha cùng một dọc với điếm, với tướng, là những người bị coi là làm giàu bằng lối tắt thì thực là mỉa mai.
Đã hẳn, lời nói đó chỉ ám chỉ một ý nghĩa nào đó thôi. Nhưng dù sao, chúng ta cũng thấy rằng: Dư luận vốn kể chúng ta là những người giàu, căn cứ vào nhà ở, đồ dùng, tiền tiêu, thức ăn uống và phương tiện học hành. Trong nếp sống này, ta sẽ chia sẻ cảnh nghèo khổ của dân nghèo thế nào? Tôi dành phần trả lời cho mỗi người tự tìm lấy, và xin sang việc thứ 2 của quyết nghị Hội đồng Giám mục Á châu:
“ÔĐờiống tư của ta phải làm chứng tinh thần nghèo khó Phúc Âm”.
Tinh thần nghèo khó là không ham thích của cải, không đòi hỏi sang trọng, không tôn thờ tiền bạc, không dính bén nếp sống tiện nghi. Tinh thần khó nghèo hệ tại ở thái độ dứt lìa. Nếu hiểu như thế thì dễ gì đời tu chúng ta đã làm được tinh thần khó nghèo. Làm chứng cái gì, khi chúng ta vẫn đòi hỏi tiện nghi? Khi chúng ta vẫn hãnh diện khoe khoang những sự sang trọng giàu có của ta? Khi những câu chuyện về tiền bạc của cải vẫn hấp dẫn đối với ta hơn những chuyện đạo đức? Chúng ta đừng lừa dối lòng mình, bằng những lối cắt nghĩa, biện minh giả tạo. Chúng ta nên thẳng thắn với mình thì hơn.
Đề cập tới điều ba: “Phải làm sao để người nghèo khó nhất cũng có thể dễ dàng lui tới với ta mà không ngại, và nhận thấy ta là người anh em của họ”.
Quyết nghị Hội đồng Giám mục Á châu không đưa ra chi tiết. Nhưng tôi nghĩ, để được thế, thì cần sống đơn giản, dễ dàng và thân thiện.
Các thầy còn trẻ, chắc dễ có những đức tính đó. Nhưng nếu không để ý giữ gìn, thì biết đâu anh em cũng sẽ đi dần vào một nếp sống trưởng giả, quan liêu. Nếp sống đó sẽ là bánh xe tập quán cuốn anh em vào một giai cấp trên dân và xa dân.
Về điểm bốn: “Can đảm lên tiếng bênh vực quyền lợi của những người bị thiệt thòi”.
Chúng ta nên lưu ý tới hai tiếng can đảm. Quyết nhị đã vừa dạy, và vừa nói lên một kinh nghiệm. Phải can đảm mới dám lên tiếng. Vì đã gọi là bênh vực, thì thế nào cũng phải bênh cái gì và chống lại cái gì. Và tất nhiên là khó tránh đụng chạm. Thói thường thì người ta ưa đứng về phía chắc ăn và có lợi cho mình. Còn bên yếu, bên nghèo, ai muốn bênh thì phải can đảm lắm. Một đàng, thành công thì không chắc, bởi chưng phía nghèo làm gì đủ phương tiện tranh đấu. Một đàng sự can thiệp của mình tất nhiên sẽ đụng bên giàu sang, thế lực. Họ sẽ có dư cách phá lại mình. Đàng khác, dù có thành công, thì mình cũng chẳng được gì về vật chất. Khác hẳn trường hợp đứng về phía người giàu. Chính vì thế mà phải can đảm.
Sự can đảm đó có nhiều trong tuổi trẻ. Nhưng nó có thể tan dần, nếu bây giờ không biết nuôi dưỡng nó bằng những suy tư, bằng những khắc khoải cho thân phận kẻ nghèo.
Về điểm năm: “Cương quyết không chịu bó tay bằng cách thoả hiệp và cấu kết với những người giàu và có thế lực”.
Ta thấy đây cũng là điều có thể đem ra truy vấn lòng mình. Cấu kết và thoả hiệp với người giàu sang, thế lực, thì không biết chúng ta có không. Mà nếu không có, thì có phải vì mình không muốn, hay là vì chưa có dịp.
Chứ còn cái tính hay vồn vã vớ kẻ giàu sang, ham lui tới với họ hơn kẻ nghèo, thì xem ra không hiếm hoi nơi ta. Dân chúng có quan niệm chúng ta là người giàu, hay đứng về phía giàu. Trên nhật báo Xây dựng cách đây hơn 2 tuần, ký giả Thiên Hổ có cho đăng một lá thư của một độc giả đạo Phật nói về việc Đức Tổng Giám mục Sài Gòn bênh vực hãng Pin Con Ó. Trong thư có một câu làm tôi suy nghĩ: “Tôi không ngờ được rằng hàng Giáo phẩm Việt Nam lại có được một thái độ can đảm như thế”. Thực là khen mà cũng là chê. Chê ở chỗ họ coi việc mình bênh vực kẻ nghèo như là một việc hoạ hiếm! Họ cho việc mình không đứng về phía người giàu và thế lực là chuyện khác thường xưa nay ít có.
Anh em thân mến,
Trước mắt chúng ta, có vô số hình thức biệt đãi thiểu số người giàu, và bạc đãi đại đa số người nghèo. Những hình thức đó có thể là chính trị, kinh tế, viện trợ, giáo dục, và cũng có thể là văn hoá nữa. Anh em là những Linh mục tương lai, những nhà lãnh đạo sau này, anh em nên nhìn rõ những bất công đó, để biết hun đúc cho mình một lòng thương nhiệt thành đối với những người nghèo, và một lòng can đảm biến dấn thân cho người nghèo. Lớp trẻ các anh em không làm, thì ai sẽ làm? Công việc có thể sẽ bạc bèo, nhưng nếu làm theo tinh thần Phúc Âm, đúng đường lối Công đồng, hợp ý hàng Giáo phẩm, thì sự bạc bèo đó chính lại là chứng tích đích thực của những người mang Chúa Cứu thế, một Chúa nghèo sống giữa người nghèo và cho người nghèo.
Có một tình thương, không cần khơi lên, cũng thường đủ mạnh, không hay nói ra, nhưng hãy nghĩ Bùi-Tuần 2340
Có một tình thương, không cần khơi lên, cũng thường đủ mạnh, không hay nói ra, nhưng hãy nghĩ tới, một tình thương rất tự nhiên nhưng cũng nhiều rắc rối. Đó là tình thương đối với người nữ.
Đối với tình thương này thì người ta, nhất là người tu, thường có hai thái độ. Một là thái độ quá dè dặt. Nói đến đàn bà con gái thì sợ sệt, gặp họ thì rụt rè, thấy họ thì trốn tránh như một dịp tội, nghe nói tình nam nữ thì cho ngay là thứ tình tội lỗi xấu xa.
Thái độ thứ hai là quá trơ trẽn đói khát. Quen được một cô là coi đó như một vinh hạnh. Gặp dịp là nhòm ngó, bàn tán nhỏ to, nghe đọc tới truyện trai gái chàng màng là vui cười hí hởn.
Thiết tưởng cả hai thái độ trên đây đều mang mặc cảm. Thái độ đứng đắn là thái độ của người quân bình. Quân bình ở chỗ không khinh miệt, không sợ hãi, mà cũng không quá chú trọng thèm khát.
Người con trai lớn lên hướng về người con gái, đó là một xu hướng tự nhiên, quân bình. Mọi vẻ đẹp, dù là của bông hoa dù là của con người, đều mang một giá trị thiêng liêng phản ảnh sự đẹp Thiên Chúa. Mọi vẻ dịu dàng, dù thuộc vật lý, dù thuộc tâm lý, đều có thể trở thành phương tiện giúp con người thăng tiến.
Đàng khác, luật thương yêu đâu có loại trừ phụ nữ!
Nghĩa là họ cũng phải được yêu thương.
Đó là những thực tế tâm lý và pháp lý ta phải nhìn nhận. Đừng vì một thứ đạo đức giả tạo hay những quan niệm quá khắt khe mà gây thành mặc cảm.
Nhưng, chúng ta đừng quên những thực tế khác không kém quan trọng, là chúng ta mang trong mình một bản tính đã bị hư bởi tội Tổ Tông, đang khi chúng ta lại tình nguyện buộc mình giữ độc thân.
Vì thế, tình thương yêu đối với người nữ đã trở thành một vấn đề phức tạp và tế nhị. Không nhiều thì ít, ai cũng đã có phần nào kinh nghiệm.
Vì tính cách phức tạp và tế nhị của vấn đề, nên hôm nay đem nó ra suy nghĩ, tôi chỉ nêu lên một câu hỏi duy nhất này là: “Trong tương quan giữa ta và phụ nữ, ta nên chú ý những điểm nào?”.
Anh em thân mến,
Điểm thứ nhất là kính trọng họ.
Trong Phúc Âm, ta thấy tỉnh thoảng Chúa có mắng người ta. Lần thì mắng Pharisêu, gọi họ là bọn giả hình, là mồ chôn xác thối. Lần thì mắng các Tông đồ. Có lúc gọi ông Simon là Satan. Nhưng không hề thấy Chúa mắng một người đàn bà nào bao giờ.
Trái lại, Chúa đã tỏ một thái độ kính trọng nữ giới. Ngược hẳn phong tục thời đó khinh miệt đàn bà. Lần Chúa chữa một bà còng lưng (x. Lc 13,17), ông chủ Hội đường đã mắng bà đó tại sao xin chữa bệnh ngày lễ, thì Chúa liền bênh bà đó và nói: “Người con gái ông Abraham đây đã bị Satan trói buộc 18 năm nay rồi, mà Ta không cứu bà, mặc dầu là ngày lễ sao?”. Với danh từ “con gái ông Abraham” để gọi bà ta, và với lời lẽ bênh vực rõ rệt, Chúa Giêsu đã tỏ ra một thái độ kính nể bao dung. Lần khác, các môn đệ thấy Chúa nói chuyện với một người đàn bà thì lấy làm ngạc nhiên, xem ra các ngài cho là việc bất xứng. Nhưng các ngài sẽ càng ngạc nhiên hơn, khi thấy Chúa đã dạy dỗ bà nhiều chân lý mà mấy ông cũng chưa biết.
Hơn nữa, cả đến những phụ nữ tội lỗi công khai, Chúa cũng chẳng tỏ dấu khinh chút nào. Ngài lại còn đối xử hiền lành nhẹ nhàng, tế nhị. Có lần, ngài dám nói thế này: “Những người đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông đó”. (x. Mt 21,31).
Thái độ kính trọng của Chúa Giêsu đối với phụ nữ là gương để ta bắt chước. Kính trọng bằng cách cư xử đứng đắn, tế nhị và rộng lượng. Không đòi hỏi, nhưng giúp họ thăng tiến. Không tìm chiếm đoạt, nhưng luôn coi họ như những tấm bánh lễ, ta phải kính cẩn truyền phép để trở thành Mình Chúa Giêsu. Không bao giờ khinh khi, dù họ hèn nghèo, dù họ quê mùa, dù họ tội lỗi, nhưng hãy kính trọng họ.
Điểm thứ hai là hiểu họ.
Hiểu người đã là chuyện khó. Hiểu người đàn bà lại càng khó hơn. Tuy nhiên, ta cũng có thể hiểu họ về một số nét chính.
Trước hết, hãy hiểu họ là những người dám liều lĩnh cho tình yêu. Như những bà đứng dưới chân thánh giá Chúa, bất chấp liên luỵ, bất chấp dư luận, bất chấp chính quyền và giáo quyền. Hay như bà mẹ hai ông Gioan và Giacôbê đến xin chỗ cho con, mà không sợ mắc cỡ. Hay như Madalena đến ôm chân Chúa vừa hôn vừa khóc, bất chấp bao nhiêu con mắt lườm khinh soi bói.
Ngoài ra, hãy hiểu họ là những người hay hướng về con người, khác với lý trí đàn ông hay hướng về sự vật. Như Chúa Giêsu khi sống lại, hiện ra, gặp Madalena đang khóc, Ngài hỏi: “Con khóc ai?”, mà không hỏi: “Con khóc gì?”. Câu hỏi của Chúa rất đúng tâm lý. Người nữ hướng về con người, vì thế mà họ hay để ý và hay nói về người khác, đang khi đàn ông hay nghĩ và nói chuyện về sự vật, như chuyện kinh tế, máy móc, chính trị, văn hoá, vv...
Rồi, hãy hiểu họ là những người hay nhận định bằng trực giác và suy luận bằng tình cảm. Madalena từ mồ Chúa chạy về hớt hả bảo các tông đồ rằng: “Bọn họ lấy mất xác Thầy rồi”. Bọn họ là ai? Theo ý Madalena, thì bọn họ là những người ghét Chúa. Madalena suy đoán như thế một cách tự nhiên bằng trực giác và trái tim. Nhưng đã lầm. Chúa sống lại, chứ chẳng ai lấy mất xác. Giả sử Chúa không sớm hiện ra, thì thế nào Madalena cũng đổ riết cho mấy người Do Thái! Nhiều phụ nữ cũng dễ sai lầm do cách nhận định và suy luận như thế.
Rồi, hãy hiểu họ là những người muốn được chú ý. Như khi Martha đang lu bu làm bếp, đã quay lên nhắc nhẹ Chúa Giêsu: “Xin Thầy bảo em con nó tiếp con một chút đi”. Cũng vì thế mà người phụ nữ hay có những sáng kiến để kéo chú ý người khác.
Rồi, hãy hiểu họ là những tâm hồn tận tâm. Như bà mẹ vợ ông Phêrô vừa được khỏi bệnh là vội vào bếp làm cơm đãi Chúa. Hay như hai chị em Martha và Madalena đã săn sóc Chúa những khi Ngài ghé lại nhà. Nhưng cũng chính vì tận tâm quá, mà nhiều khi thành ra muốn độc quyền phục vụ, và do đó sinh ra phân bì ganh ghét.
Hiểu những điều trên đây, ta nên chú ý tới điểm ba là:
Hãy dè dặt.
Trước hết là phải dè dặt với chính họ. Như đã thấy, nhiều khi họ yêu thương mà không tính toán, nên ta là người phải tính toán cho họ.
Nếu bản năng họ hướng về con người, mà lại hay nhận định bằng trực giác và trái tim, thì ta đừng vội cho là phải những điều họ phê bình, nhận định và mưu tính về người khác, nhất là khi những người này được họ thương hay bị họ ghét.
Nếu tính họ muốn được chú ý, thì ta không nên quá tin vào những sự khoe khoang.
Nếu tính họ thường muốn dành độc quyền phục vụ, thì khi nhưng một người đàn bà nói xấu kẻ vắng mặt, ta phải khôn ngoan tìm ra những độc lực bí hiểm, để có thể ước lượng sự họ nói có được bao nhiêu phần trăm sự thực.
Tâm trạng phụ nữ là một thách đố. Và tương quan của họ với tha nhân nhiều khi là một mặt trận tài tình. Về điểm này, những tiểu thuyết gia và những kịch gia có thể dạy ta nhiều kinh nghiệm. Hôm nọ, xem xong vở kịch “Tình yêu không suy tư” chiếu trên tivi, tôi có ý nghĩ là: nếu các linh mục và các chủng sinh lớn biết học ở trường đời những lắt léo của tâm lý con người trong các vai vở kịch này, thì sẽ tránh được những phán đoán ngây thơ vụng về bất xứng với địa vị hướng dẫn và lãnh đạo.
Ngoài ra, ta hãy dè dặt với chính mình ta. Hãy dè dặt, là đừng tự đắc cho mình là luôn khách quan. Thấy một người tốt đẹp đạo hạnh, ta tự nhiên không khỏi cảm mến. Nhưng lòng cảm mến đó dễ gây nhiều ảo ảnh. Nhất là vì chúng ta sống độc thân kiêng cữ. Ăn chay thì đói. Đói thì hay thèm. Thèm thì hay tạo ảo ảnh. Để rồi, nhận xét của ta, phần thực thì ít mà tưởng tượng thì nhiều. Rốt cuộc, tư tưởng của ta trở thành chủ quan sai lạc, và có thể đưa tới những lựa chọn dại dột.
Hãy dè dặt với chính mình ta, là cũng đừng tự tin cho mình là luôn đứng vững. Tương quan của ta với người khác phái là một thực tại khó phân tách. Có khi xem ra chỉ là tương quan tinh thần trong trẻo. Có lúc lại thấy có sự tham dự của tình cảm giác tính. Và tình cảm này nhiều khi khó quyết được là không nhuốm màu dục tính, mặc dầu mới chỉ ngầm trong tiềm thức. Phải làm sao để tương quan đa âm đó trở thành một hoà ca. Bản hoà ca này sẽ hay hay dở là do sự nhịp nhàng trật tự giữ được giữa những yếu tố thiêng liêng, yếu tố tâm lý và yếu tố sinh lý, tuỳ theo bậc sống. Đối với bậc hôn nhân, giữ được sự nhịp nhàng trật đó còn không phải dễ. Phương chi đối với bậc tu trì sống đời độc thân. Do đó, ai dám tự phụ cho mình là đủ sức tự chủ trong phạm vi này thì quả là không khôn.
Cũng vì thế mà ta phải dè dặt với mình thêm nữa, là trong vấn đề này ta đừng cho ý kiến mình là phải hơn các nhà đạo đức. Đừng coi thường lời khuyên của các bậc thánh, nhất là của Giáo Hội, của Chúa Giêsu. Hãy khiêm tốn, tỉnh thức và cầu nguyện. Hãy cầu nguyện và ăn chay hãm mình.
Tình thương vốn đẹp. Tự nó không phải là cạm bẫy. Nhưng vì tính cách đa diện đa năng của nó cũng như của ta, mà ta có thể bị thiệt thòi vì nó. Cũng như lửa, cũng như dao có thể sinh ích mà cũng có thể gây hại. Cũng do tại con người biết hay không biết sử dụng nó.
Điểm sau hết ta nên chú ý trong mối tương quan với phụ nữ là:
Hãy tận dụng thời giờ để tận lực làm việc phận sự.
Tại sao thế? Thưa vì, nếu ta luôn bận tâm làm việc bổn phận không ngừng, thì sẽ chặn được những con đường dẫn tới nguy hiểm. Bận tâm làm việc bổn phận không ngừng thì trí óc không còn dễ mơ mộng vẩn vơ, không còn bị cái gì ám ảnh. Bận tâm làm việc bổn phận không ngừng, thì tâm hồn sẽ tìm được những khoái vui thanh cao, những mê say lành mạnh. Do đó ta sẽ đầu tư tình cảm vào những công cuộc hữu ích, và tâm lý sẽ được quân bình. Bận tâm làm việc bổn phận không ngừng, thì con người của ta sẽ tập quen chí khí, tránh uỷ mị, trở thành con người tự chủ.
Anh em thân mến,
Để kết luận, tôi xin kể một câu chuyện.
Dịp Noel 1960, tôi được một thầy đại chủng sinh mời về nhà nghỉ. Quê thầy ở Schwarzwald, một miền du lịch mùa đông Tây Đức. Cha mẹ thầy chỉ có 2 con: thầy và một em gái. Năm đó, thầy 4 chức. Cô em học Đại học. Bà đứng đầu một tiệm buôn, ông đứng chủ một khách sạn.
Tối hôm đó, tôi vào phòng thầy chơi, vô tình tôi thấy trên bàn giấy của thầy có một cái đầu tưởng nhỏ đẹp, bằng cây. Xem thì đúng là đầu một người con gái. Tôi tò mò hỏi: Mua cái này ở đâu thế? Thầy trả lời: Người ta cho, chứ không phải mua. Tôi nói: Họ làm khéo quá! Thầy nói: Tôi thích kỷ niệm đó lắm, cha ạ. Không phải vì giá trị nghệ thuật cho bằng vì một giá trị khác. Tôi hỏi: Giá trị nào? Với một nét mặt thực sự cảm xúc, thầy trả lời: Vì đó là một kỷ niệm tình cảm và lý tưởng. Tôi xin nói thiệt với cha, tượng này là tượng yêu người cũ của tôi. Tôi bỡ ngỡ, nhưng không nói ra, và cũng không hỏi thêm gì.
Sau đó, thầy đã tâm sự với tôi về đời sống của thầy. Đại khái thầy nói: Thầy đi tu hồi 24 tuổi, đang lúc học năm thứ bốn Đại học. Trong thời gian theo Đại học, thầy có quan một người bạn gái. Rồi hai người thương nhau, và định sẽ sống chết cho nhau. Hè năm đó, thầy đi du lịch Phi châu, thầy gặp nhiều cảnh thương tâm: đâu là người nghèo, đâu là trẻ em không người dạy dỗ. Cảnh đó làm thầy xúc động. Thầy suy nghĩ rất nhiều. Thầy nói với cha mẹ ý muốn đi tu, nhưng cha mẹ hết sức can ngăn. Thầy nói chuyện đó với người tình, thì cô ta đau buồn quá ngã bệnh. Thầy không nản lòng, cố tìm cách thuyết phục cô ta. Sau cùng, cô ta bằng lòng chấp nhận hy sinh. Và cô ta bỏ nước Đức, sang ngoại quốc làm việc cho một cơ sở xã hội. Còn cha mẹ thì vẫn không bằng lòng. Nhưng thầy vẫn cương quyết. Thế rồi, thầy xin vô chủng viện. Ngày chịu 4 chức, cha mẹ không ai tới, chỉ gởi một bức thư bảo thầy trở về lấy vợ. Ngày chịu 6 chức, tôi có dự, tôi thấy thầy cố gắng lắm để khỏi khóc khi bước chân vào phòng khách. Vì bà con bạn bè thì đông, nhưng gia đình chỉ có một người em gái. Còn cha mẹ vẫn không chịu thầy đi tu. Có lần tôi hỏi thầy: Thầy có đau khổ nhiều không? Thầy thưa: Con lớn rồi, con đã ý thức thế nào là tình yêu. Nhưng dù đau khổ nhiều lắm, con tin rằng tình yêu Chúa đã gọi con sẽ giúp con, để không những riêng con gặp được Chúa mà nhiều người khác cũng sẽ gặp được Chúa như con. Và bây giờ thầy đã là một linh mục sốt sắng.
Tôi ước mong rằng: Gương can đảm của thầy biết hy sinh cho Nước Trời sẽ là một khích lệ cho chúng ta.
Người ta xếp các Đức Giám mục và Linh mục vào hai loại: Loại cấp tiến và loại bảo thủ. Cấp Bùi-Tuần 2341
Người ta xếp các Đức Giám mục và Linh mục vào hai loại: Loại cấp tiến và loại bảo thủ. Cấp tiến thường bị coi là những người hay đả phá, hay phá phách, nguy hiểm có khuynh hướng tự do. Bảo thủ thì bị coi là những người cù lần, thiển cận, không sáng kiến, bo bo ôm chặt quá khứ chạy ngược chiều lịch sử. Hai loại cùng lọ lem cả, thì mình không biết phải đứng vào loại nào đây?
Những suy nghĩ tương tự như thế đưa tôi tới một nhận xét này là: thời nay, người ta nhận định tha nhân quá dễ dàng, có thể nói là một cách bừa bãi. Nhận định bừa bãi là vì xét đoán bừa bãi. Mà kỳ lắm: Được xét đoán tốt thì ít, mà bị kết án xấu thì nhiều vô kể.
Xét đoán xấu cho kẻ khác, đó là hành vi nghịch đức ái, mà Chúa Giêsu đã có lần nặng lời nghiêm cấm. “Các con đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán. Chúng con đừng kết án, để khỏi bị kết án” (Mt 7,1).
Tại sao Chúa cấm ta xét đoán và kết án? Thiết tưởng vì việc ta xét đoán xấu và kết án người khác thường phát xuất bởi nguyên do xấu và dẫn tới kết quả xấu.
Nguyên do xấu là những gì?
Thưa, nguyên do thứ nhất là thiếu lòng mến Chúa.
Ai thực sự đạo đức, ai thực sự giàu lòng mến Chúa thì tâm hồn đơn sơ không chú ý tới việc xét nét người khác. Họ chỉ lo biết Chúa và biết mình mà thôi. Họ không dám nghi xấu cho sai, nếu không có bằng chứng rõ rệt và chắc chắn. Thánh Giuse thấy Đức Mẹ có thai, nhưng Ngài đâu có dám nghi bậy cho vợ mình. Thánh Têrêsa khi thấy chị nào lỗi, thì thường tự bảo mình rằng: Chị đó chẳng may lỗi một điều, nhưng biết đâu lại chẳng đã làm được 100 điều lành mà tôi không thấy. Biết đâu lỗi lầm của chị chỉ là cái màn Chúa dùng để che nhân đức sâu xa của chị... Các thánh không nghĩ xấu cho ai, vì các Ngài giàu tình mến Chúa. Do đó, ngược lại, hay nghĩ xấu cho kẻ khác là dấu thiếu lòng mến Chúa.
Nguyên do thứ hai là lòng xấu.
Ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết. Lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng. Lòng tôi nếu có khuynh hướng mạnh về sắc dục, thì mắt tôi hay tìm, trí tôi hay tưởng, và rồi tôi đoán người khác cũng giống như tôi và hơi chút là tôi đoán về đàng đó liền. Chính vì thế mà Đức Cha F. Scheen đã đưa ra một nhận xét rất tâm lý: Người nào hay đoán nét xấu cho ai tội gì, thì là dấu chính người đó có khuynh hướng ngầm nghiêng ngả rất mạnh về tội đó. Thực là một trắc nghiệm tâm lý rất đúng.
Nguyên do thứ ba là kiêu ngạo.
Khi ta xét đoán và kết án ai, thì ta đặt mình lên làm quan toà xét xử người đó. Mà có ai đặt ta lên chức vụ đó đâu. Chính mình ta tự đặt ta lên. Có phải vì lý do yêu thương gì đâu. Nhưng vì kiêu ngạo, muốn hạ người khác xuống và nâng mình lên.
Ngoài ra, còn nguyên do thứ bốn, đó là thiếu khôn ngoan.
Khôn ngoan thì ưa dè dặt, không hấp tấp vội vàng, Khôn ngoan thì ưa chính xác, không quy nạp bừa bãi, không diễn dịch ngây thơ. Khôn ngoan thì ưa phê bình cân nhắc, không lý luận theo định kiến và tình cảm.
Rất tiếc là nhiều khi người đời lại biết khôn ngoan hơn chúng ta trong việc xét đoán. Họ không lược giản người nọ kẻ kia quá dễ dàng vào một vài nét, căn cứ theo một vài chứng cớ.
Nếu thực sự những xét đoán xấu và kết án bậy đã phát sinh bởi 4 nguyên do xấu như vừa nói, thì không thể nào sinh kết quả tốt được. Trái lại, sinh bởi nguyên do xấu tất nhiên những xét đoán và kết án kia phải gây những kết quả xấu. Nhưng kết quả xấu đó là gì?
Kết quả thứ nhất là sẽ bị Chúa xét xử.
Chúa nói: Ai dùng cân nào mà cân cho người ta, thì Chúa cũng sẽ dùng cân đó mà cân cho kẻ ấy. Ta hãy xét đoán kẻ khác, thì Chúa cũng sẽ hay xét đoán ta. Trong một dụ ngôn, Chúa kể: Có một ông chủ trao cho người giúp việc một món tiền, bảo phải sinh lời, rồi ông chủ đi xa. Sau mấy năm, ông chủ về, gọi người giúp việc lên, bảo hoàn lại cho ông cả vốn lẫn lời. Người đó thưa: Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, ông đòi sự ông không cho, ông gặt sự ông không gieo trồng. Nên tôi đã đào lỗ chôn những số bạc ông trao. Và đây xin hoàn lại ông đầy đủ. Ông chủ nghe thế, nổi giận và mắng: Chính anh lên án cho anh. Anh bảo tôi là người hà khắc, không gieo mà lại đòi gặt. Anh biết thế, sao anh lại không làm thế. Và ông chủ truyền bắt người giúp việc đó bỏ tù.
Bài học của dụ ngôn trên đây là phải biết dùng ơn Chúa, nhưng cũng hiểu được về một điều khác Chúa dạy, đó là: Ai xét đoán cho người khác thế nào, thì Chúa cũng sẽ xét đoán họ lại như vậy. Người làm công đã xét đoán ông chủ là hà khắc thì ông chủ lại lấy chính sự xét đoán đó mà kết án lại anh ta. Thiết tưởng, nếu anh ta nói: Thưa ông chủ, cháu vốn tính nhút nhát, lo sợ mà lại dốt nát. Cháu không biết xoay sở thế nào để sinh lời, nên cháu đem tiền chôn đi, để sau nạp cho ông chủ y nguyên. Cháu biết làm thế là không vừa ý ông chủ, nhưng cháu tin rằng lòng thương xót bao dung của ông chủ sẽ tha thứ sự vụng về của cháu... Nếu người giúp đó biết nói như vậy, đã biết xét đoán tốt cho ông chủ, đã coi ông chủ là một người có lòng tốt, thì chắc ông chủ đã tha cho hắn như lòng hắn tin.
Ở đây, ta cũng có thể dẫn chứng thêm rằng dụ ngôn ông vua và người mắc nợ. Khi vua nghe kẻ đã được vua tha nợ tù lại xử tệ với người mắc nợ chút ít với hắn, thì lập tức vua liền áp dụng ngay đối với hắn chính cái cách mà hắn đã xử với con nợ của hắn.
Tóm lại, ta kết án người khác cách nào thì Chúa cũng kết án ta cách đó.
Kết quả thứ hai là dễ sai lầm.
Chúng ta đâu dễ biết được đầy đủ việc người khác. Ngay như tội ta phạm, mà nhiều khi ta phải xét đi xét lại mãi mới rõ phần nào. Phương chi tội kẻ khác.
Hơn nữa, con người ta rất phức tạp. Tốt xấu tuỳ ở bao nhiêu yếu tố. Đâu là ý hướng, đâu là việc làm, đâu là hoàn cảnh. Chúa Giêsu đi ăn tiệc ở nhà ông Simon và Giakêu, thì người ta chê là hay đi ăn nhậu và ưa đi lại với người tội lỗi. Nhưng sự thực có thế đâu. Đêm đó, một người bị cướp giết chết. Người ta thấy một bóng đen chạy vào nhà cha sở. Cảnh sát khám nhà cha sở thì bắt được áo dài đen của cha còn vấy máu. Bằng chứng rành rành. Cha bị kết án khổ sai. Mọi người mỉa mai cha. Hai mươi năm sau, kẻ cướp sát nhân trong vụ đó mới ra mặt nhận tội. Cha được giải oan! Đâu có ngờ sự thực nó phức tạp đến thế. Toà án làm việc với tất cả mọi phương pháp khoa học một cách thận trọng và vô tư, mà vẫn có thể lầm, phương chi chúng ta.
Ngoài ra, có một yếu tố nữa thường làm ta hay sai lầm, trong việc xét đoán người khác, đó là thiên kiến và ảnh hưởng của dư luận. Chắc anh em còn nhớ vụ chim cút năm ngoái. Cả một nước mười mấy triệu dân xôn xao về Cút, đổ xô đi mua Cút. Người ta khen Cút, phong thần cho Cút. Từ Tổng trưởng, Nghị sĩ đến người dân đen đều lo mua Cút, dù với giá mấy chục ngàn một đôi. Người nọ nghe người kia nói: “Cút bổ, cút lời” là tin, không suy tính, không kiểm chứng. Cả nước như lên cơn sốt vì phong trào cút. Thế rồi khi một tờ báo bắt đầu phân tích cái giá trị giả tạo của Cút, thì cả triệu người lại nhao nhao bán vội, bán tháo... Phong trào Cút năm rồi là một hiện tượng tâm lý rất hay về ảnh hưởng của dư luận trong việc phán đoán.
Kết quả thứ ba là làm tổn thương sự bình an cho tâm hồn mình và cho tâm hồn người khác.
Tại sao lại làm tổn thương sự bình an cho tâm hồn mình? Thưa là vì thí dụ: khi tôi xét đoán sự xấu cho ai, thì tất nhiên tôi sẽ cho họ là không tốt. Mà đã cho họ là không tốt thì tự nhiên thế nào cũng nảy sinh một tình cảm bớt kính trọng và bớt tín nhiệm đối với họ. Lòng tôi dễ dè dặt đối với họ, tự nhiên xa họ. Có một sự gì phân chia tôi và họ. Thế rồi, khi tôi gặp họ, một là tôi sẽ tỏ một thứ thái độ bề ngoài giống như thái độ bên trong của tôi, hoặc là tôi sẽ che giấu bằng một cách đối xử xã giao giả tạo. Cả hai cách đều làm cho tôi khổ. Nếu phải giả tạo thì còn gì là vui. Nếu tránh họ ra mặt, thì đâu có sướng gì cho cả họ cả tôi. Còn tại sao sự xét đoán xấu lại làm tổn thương sự bình an cho tâm hồn kẻ khác, thì là vì khi ta xét đoán xấu cho ai, thì ta khó che giấu được. Sự tiết lộ qua lời nói hay thái độ của ta sẽ gây nên cho người gặp ta những nghĩ ngợi, những suy đoán, những bất mãn, những thái độ thế thủ và xa cách.
Kết quả thứ bốn là làm cho mình không biết rõ sự thực về mình.
Biết mình là điều kiện thứ nhất của người muốn nên khôn, muốn nên thông minh, muốn nên thánh. Nhưng muốn biết rõ mình thì cần phải vô tư, thận trọng, khiêm tốn và đạo đức. Thế mà người hay xét đoán xấu cho kẻ khác thì đâu có những đức tính đó. Họ có lòng xấu, thiếu tình mến Chúa, thì làm sao có đạo đức. Họ đặt mình làm người phán xét kẻ khác thì đâu có khiêm tốn. Họ không hay cân nhắc thì đâu có thận trọng. Họ hay theo thiên kiến, thì làm sao có vô tư.
Do đó, người hay đoán xét xấu cho người ta thường lại biết rất lơ mơ về mình. Biết lơ mơ, biết sai. Và sự không biết mình như thế là nguồn mạch vô số điều tai hại.
Anh em thân mến,
Phán đoán là một dấu để xét ơn kêu gọi, và là một điều rất cần cho chức vụ hướng dẫn và lãnh đạo của anh em sau này.
Thế nhưng ít khi ta đã tìm cách giáo dục ta trong phạm vi này. Có bao giờ ta ngồi lại lâu lâu, để một mình đem ra xét lại một cách nghiêm chỉnh những phán đoán của ta về Đức Giám mục, về Cha Bề trên, và cha này thầy nọ, về cộng đồng kia, về tập đoàn nọ không? Nếu xét kỹ, ta sẽ thấy vô số những phán đoán của ta chỉ là những cái bao tiền chế ta đã tự tiện nhét người ta vào. Tiền chế do định kiến, do dư luận cho không do người chung quanh bán rẻ cho ta bằng một sự tò mò, nhẹ dạ. Nếu xét kỹ, ta sẽ thấy vô số người không xấu như ta tưởng, không đáng ghét như ta nghĩ. Chính ta mới xấu, chính ta mới đáng kết án. Ước mong rằng thời giờ tĩnh tâm cũng là thời giờ thuận tiện để ta xét lại những phán đoán đó trước mặt Chúa.
Ở Việt Nam tôi thấy hiện nay có một thói quen rất nguy hiểm đang lan tràn khắp nơi: Đó là Bùi-Tuần 2342
Ở Việt Nam tôi thấy hiện nay có một thói quen rất nguy hiểm đang lan tràn khắp nơi: Đó là thói quen nói hành nói xâ1u. Anh em chắc nhận thấy điều đó tại gia đình, tại các cuộc hội họp, các cuộc chuyện trò gặp gỡ. (Không phải chỉ nơi người lương, mà người công giáo mình cũng nói hành rất dữ. Không phải chỉ giáo dân, mà đi tu cả nam lẫn nữ cũng không kém thường hay nói hành nói ấu ngon lành mạnh mẽ như ai). Đó là một hiện tượng không lành báo hiệu một sự suy sụp trầm trọng của nhân đức nền tảng của đạo Công giáo: Đức Bái ái. Có lẽ tội đó chẳng may cũng đã và đang có trong ta.
Để giúp chúng ta có một cái nhìn xác thực về tội nói xấu và gây nên phong trào bài trừ thói hư tội lỗi đó, sáng nay, chúng ta sẽ suy nghĩ về hai chủ điểm:
1/ Nói xấu hèn thế nào? 2/ Nói xấu hại thế nào?
Nói hành xấu thế nào?
Hồi xưa, ở Ba Lan có thói quen phạt rất nặng người nói hành bỏ vạ. Bắt được ai phạm tội đó thì người ta bắt nó phải bò bằng hai tay và đầu gối qua các đường phố rồi dẫn vào quán cơm bắt nhặt cơm rơi và đồ ăn người ta vứt xuống đất chẳng khác một con chó. Vì người ta cho người nói hành là hèn như con vật. Mà thực sự, kẻ nói hành đã làm cho mình nên hèn.
Họ hèn, trước hết vì họ đã làm một việc trộm vụng.
Nói hành bao giờ mà chẳng nói về người vắng mặt. Có mặt người ta thì nếu chẳng khen, ít ra cũng chẳng chê, chẳng nói xấu. Mà nếu có nói lỗi lầm của họ, thì cũng không nói hết. Nhưng lúc vắng họ, thì lại nói xấu họ. Người nói hành là người mài kiếm trong đêm, bắn tên độc trong bóng tối.
Người nói hành là người hèn, vì họ thường không ngay thẳng.
Không ngay thẳng ở chỗ lời nói hành thường được che giấu nguỵ trang dưới những hình thức đạo đức và vô tội. Chẳng hạn: nói là có câu chuyện kín muốn nói với anh, vó cô để trao đổ kinh nghiệm. Trao đổi kinh nghiệm: đó là một thứ nguỵ trang. Hay là: nói để cầu nguyện cho người đó. Cầu nguyện cho người bị nói xấu thường cũng là một thứ nguỵ trang. Hay là: để tìm cách giữ mình, để hỏi ý kiến, vv... Tất cả những lý do đó, nhiều khi chỉ là các thứ nguỵ trang để lừa lương tâm mình và lương tâm người nghe. Lý do thực sự không phải thế đâu.
Người nói hành lại thường không ngay thẳng vì khi nói hành sự xấu người khác cho một người nào, thì có khi lại nói kiểu nọ kiểu kia để người đó nghĩ rằng: chỉ nói riêng chuyện đó cho một mình họ, chứ không nói cho ai hết. Nhưng rồi trước đó và sau đó họ đã và sẽ còn nói cho nhiều người khác.
Đường lối không ngay thẳng như thế bao giờ cũng là một đường lối hèn hạ, thấp kém và tiểu nhân.
Người nói hành lại hèn, vì họ thường dùng cách nói xấu người để gián tiếp khoe mình.
Khi ta nói xấu ai thì trực tiếp ta chê người đó, mà gián tiếp là ta khoe ta. Nếu tôi rỉ tai nói: anh B mới rồi đi ăn trộm. Khi tôi chê anh ta, tức là hiểu ngầm rằng tôi không có xấu như anh ta. Chê người khác vì tội gì thì bao giờ cũng là một cách tuyên bố tôi không có tội đó.
Hơn nữa, khi ta nói xấu với ai về một người vắng mặt, thì thường bao giờ cũng ngầm khoe mình là người biết nhiều chuyện bí mật, là người có nhiều nguồn tin, là người được nhiều người tín nhiệm cho biết các tin kín. Suy thế thì thấy rõ, người nói hành là người hay khoe mình. Giả sự khoe mình vì có đức tính tốt, có khả năng hay thì cũng đã đáng phê bình rồi. Phương chị lại dùng cách nói xấu người khác để khoe mình thì thực là tệ, là hèn. Dùng cách hại người để cho mình được chú ý, thì thực là tiểu tâm, đê tiện và hèn hạ.
Người nói xấu lại là người hèn vì hay dùng cách xấu này như một món quà tặng người khác. Về điểm này tôi thấy rất rõ. Nhiều khi người ta gặp nhau, không có gì cho nhau thì làm quà cho nhau một vài chuyện xấu của người khác. Nói ra để tỏ rằng mình tín nhiệm, dám nói những chuyện không dám nói với người khác. Nói ra để tỏ rằng mình tâm sự, biết gì thì nói hết. Nhưng thực ra, có tâm sự gì đâu. Chuyện về họ thì đều tốt hết, còn chuyện xấu thì là của thiên hạ. Họ cùng cách nói xấu người khác để nuôi dưỡng và phát huy tình bạn. Họ dùng cách nói xấu người vắng mặt để gây tín nhiệm nơi người nghe. Làm quà kiểu đó thì thực là hèn. Và chứng tỏ mình quá nghèo nàn và đểu rá, quá bần tiện và lưu manh.
Người nói xấu lại hèn vì hay dùng cách nói xấu để giải toả lòng ghen ghét, hay kiêu ngạo.
Đã hẳn, những người ghen ghét thường là những người hay nói xấu, nhưng những người hay nói xấu không nhất thiết luôn luôn là những người hay ganh ghét. Điều đó đúng. Nhưng dù trong trường hợp nào, hễ nói xấu người khác, thì thường cũng ngầm ý hạ người đó xuống. Và chủ ý hạ người khác xuống là một đặc điểm của ghen của ghét và của kiêu ngạo. Mình muốn hơn người nhưng không đủ lực để hơn người, nên dùng cách hạ người khác xuống để được hơn. Cũng như mình không đẹp, mà lại muốn đẹp hơn người, không có cách chính đáng thì lấy mực bôi vào mặt người đứng bên để họ xấu đi và nhờ đó mình trở nên đẹp hơn họ. Hay như hai người bơi lội thi, mình thấy anh bên cạnh bơi lội hay quá, mình muốn hơn ảnh, nhưng không có sức, bèn tìm cách ghim anh ta xuống bùn, để anh ta sặc mà về chậm, nhờ thế mình sẽ về trước. Những cách như thế là hèn hạ, xấu xa và vô liêm sỉ.
Hơn nữa, người nói ấu lại hèn vì không dám chịu trách nhiệm.
Nếu người có thẩm quyền hỏi tới, hay khi phải đối chất về những điều mình đã nói xấu nói hành, thì thường họ chối. Chối hết, như không hề nói gì. Hoặc có nhận thì cũng chỉ nhận phần nào với những lời đã được sửa lại để trở nên vô tội và giảm khinh.
Lại nữa, rất nhiều người nói xấu lại hèn nhát núp dưới danh từ “người ta” mà nói. À, nào là tôi thấy “người ta” nói thế này thế nọ. Nào là: cái chuyện này không phải tôi kể đâu, mà là do “người ta” kể cho tôi nghe. Và nhiều thứ do “người ta, người ta”... lắm. Nhưng toàn là những cách trốn trách nhiệm một cách hèn nhát. Người ta là ai? Thưa, thường chính là họ, hoặc họ là người nói trước tiên, hoặc họ là người đã vui và thoả thuận trong việc nghe và truyền lại những chuyện xấu đó. Chứ không bao giờ họ chỉ là trung lập và vô tư khi kể lại chuyện xấu của người khác cả. Nếu chuyện xấu đó là của người thân yêu của họ, hay là của họ, thì họ đâu có bao giờ đem ra mà kể. Như thế thì thủ biết.
Anh em thân mến,
Nói hành xấu như thế và hèn như thế đó. Bộ mặt xấu xí và hèn hạ của sự nói hành trên đây chắc làm ta phải tởm gớm nó. Nhưng chưa hết đâu, chúng ta sẽ còn phải kinh hãi nó như loài rắn độc, nếu chúng ta xem qua những thiệt hại nó gây ra.
Thiệt hại thứ nhất nó gây ra cho chính người nói xấu là làm cho người ta khinh, và mất tín nhiệm. Không biết người khác thế nào chứ đối với tôi, thì đúng như thế. Hễ ai đến với tôi, mà hay đem chuyện người khác ra mà nói xấu, thì tôi có cảm tưởng không thuận lợi không phải về người bị nói xấu mà về người nói xấu. Mà thực sự, ai biết suy nghĩ một chút, tất cũng có cảm tưởng như thế. Người nói hành là người xấu, là người hèn như đã minh chứng vừa nãy. Đàng khác, ai khôn tức nhiên cũng sẽ tự nghĩ rằng: người này hay nói xấu người khác với mình, thì cũng dễ nói xấu mình với kẻ khác. Một người không biết kính trọng kẻ vắng mặt, thì đâu có trừ ta khi ta không có mặt! Và thường không sai đâu, nên kẻ hay nói xấu là người không được mấy người ưa, và không đáng tin tưởng.
Thiệt hại thứ hai người nói hành gây ra cho chính mình là phạm tội lỗi đức công bình và bác ái. Đâm chém, đánh đập người ta là một tội thê thảm. Nói xấu cũng là một cách hành hung còn thê thảm hơn nhiều. Người bị nói xấu phải chịu bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu mặc cảm, bao nhiêu tủi nhục. Báo chí thiếu gì những chuyện cô này anh nọ, bà nọ ông kia đã tự tử vì quá đau khổ do những lời người ta nói xấu mình.
Tiền bạc là quý, nhưng danh dự còn quý hơn tiền bạc nhiều. Ta làm cho ai mất danh dự, thì ta phạm tội lỗi đức công bình, đối với họ. Dù lời ta nói xấu họ không tới tai họ, thì cũng không vì thế mà ta bớt tội. Vì kết quả lời nói xấu vẫn còn nguyên vẹn. Nghĩa là thanh danh bị tổn thương. Và ảnh hưởng của sự mất tiếng đó có thể còn đi xa vào sự nghiệp, vào đời sống xã hội, vào các liên hệ với bạn bè.
Thiệt hại thứ ba người nói hành gây ra cho chính mình là khó đền trả những hậu quả bất công mình đã làm cho người khác.
Một người tức giận nhà bên cạnh lấy lửa đốt nhà họ, lửa lan sang nhà hàng xóm, và cứ thế lửa đã thiêu huỷ cả 100 nóc nhà. Ra toà, tất cả những thiệt hại 100 gia đình bị cháy nhà đều đổ trên đầu người đã đốt chiếc nhà đầu tiên. Thiệt hại vật chất thì còn kiểm được, nhưng thiệt hại tinh thần thì làm sao kiểm điểm được. Ngọn lửa lan tới đâu thì còn thấy được chứ lời nói xấu lan tới đâu thì làm sao biết được. Mà mọi thiệt hại gây nên cho người ta, dù vật chất, dù tinh thần, đều phải đền trả. Không phải cứ đi xưng tội là khỏi đền đâu. Mà nếu không dền được ở đời này thì phải đền ở đời sau. Mà cách đền nào cũng rắc rối, cũng phiền hà, cũng khổ nhục lắm. Nói hành nói xấu kẻ khác để rồi chính mình bị khổ nhục thì đó có phải là thiệt hại không?
Anh em thân mến,
Những thiệt hại của sự nói hành nói xấu, chắc đã đủ để giúp chúng ta quyết định: sẽ không bao giờ nói xấu ai.
Nhưng khi gặp trường hợp người ta nói xấu kẻ khác với ta thì sao? Tôi nhớ một ít thái độ của những vị đạo đức đối với những trường hợp đó:
- Có một bà đến thăm cha Matthêô. Đang nói chuyện vui vẻ thì bà bắt đầu đem chuyện xấu của một người vắng mặt ra nói. Cha Matthêô tỏ mặt rầu, rút xâu chuỗi ra và nói: Thôi, xin bà cùng ta đọc 50 chục kinh cho người đó. Đọc xong, bà kia lại tiếp tục kể chuyện xấu về người kia. Cha Matthêô không nói gì, lại thở dài rút xâu chuỗi ra và nói: Thôi, chúng ta đọc 50 kinh cho người đó đi. Đọc xong, bà kia lại nóng lòng sốt sắng kể tiếp chuyện xấu người kia. Một lần nữa, cha Matthêô càng tỏ vẻ buồn rầu, lại cầm lấy xâu chuỗi, và nói với bà khách: chúng ta cầu nguyện cho họ thì có ích hơn là bàn chuyện xấu của họ. Đọc xong kinh thì bà kia hiểu, và không bao giờ dám nói xấu ai nữa.
- Một cha khác, khi đi đường thấy người bên cạnh bắt đầu đem chuyện xấu của người khác. Ngài liền nhìn các nhà và cây cối bên đường và nói: Ông nè, cái nhà kia họ làm ngộ thiệt. Cái cây kia bông đỏ chói, thứ gì mà trổ bông mùa này... Nghĩa là thỉnh thoảng ngài lại ngắt chuyện chêm vào những câu đâu đâu, còn mắt thì nhìn chắm chú những cái gì chung quanh không một chút chú ý đến người đang nói. Người nói xấu sẽ hết hứng và thôi nói.
- Một người khác ngồi trên xe, nghe người bên cạnh nói xấu kẻ vắng mặt thì làm bộ ngủ gục... Và người nói không còn hứng thú gì kể tiếp nữa.
- Một người khác khi nghe ai nói hành thì liền hay nói: Chúa mà không giữ ta thì ta còn xấu hơn họ nhiều. Mà biết đâu đó chỉ là chuyện bày đặt, đoán xét bậy bạ. Thời buổi này nếu mình dễ tin bậy về kẻ khác, thì kẻ khác cũng sẽ dễ tin bậy bạ về mình.
Với những cánh phản ứng đó, ta sẽ dễ tránh được những chuyện không hay cho người vắng mặt, cho người nói hành và cho chính ta.
Anh em thân mến,
Thánh Bonaventua khi nói tới tội nói hành có chỉ điểm 4 cách người ta thường dùng để nói hành bôi lọ hạ giá người khác:
1/ Khi người ta có sự tốt lành còn kín, thì mình tìm cách nói thế nào để giấu nhẹm đi, kẻo người khác biết mà khen.
2/ Khi người ta có sự tốt lành đã trống, thì mình cắt nghĩa sao cho giảm giá trị đi.
3/ Khi người ta có sự xấu còn kín, thì mình tìm cách bới ra cho người khác biết để họ chê.
4/ Khi người ta có sự xấu đã trống, thì mình tìm cách phổ biến rộng ra cho càng rộng thêm, để người ta càng chê.
Dù cách nào trong 4 cách này thì cũng là xấu, cũng mắc tội và cũng gây nên thiệt hại cho người ta. Ta không muốn ai nói xấu hại ta, thì ta cũng đừng nói xấu hại người khác. Trong sách Tobia Chúa dạy ta rằng: “Sự gì con không muốn người khác làm cho con, thì con đừng làm cho kẻ khác” (Tb 4,16). Để được thế, ta hãy trị lưỡi.
Sống trên đời là sống với người khác. Những người khác đó, hoặc ở gần ta hoặc ở xa ta; hoặc Bùi-Tuần 2343
Sống trên đời là sống với người khác. Những người khác đó, hoặc ở gần ta hoặc ở xa ta; hoặc biết ta, hoặc không biết ta. Họ có thể là niềm vui cho ta, và cũng có thể gây cho ta nhiều buồn khổ. Vô tình hay hữu ý, có người đã đối xử không tốt với ta trong lời nói, trong thái độ và trong việc làm.
Con người có trí nhớ. Nhờ trí nhớ ta mới có được một cuộc đời liên tục. Trí nhớ là kho tàng chất chứa mọi sự ta đã nghe, đã xem, đã nghĩ, đã cảm, đã đi qua đời ta. Những hoài niệm giúp ta trong việc xây dựng hiện tại và tuyên 0lai. Có những hoài niệm làm ta vui, ta thương, ta nhớ. Và cũng có những hoàn niệm làm ta buồn, ta tức, ta giận, ta hận, ta thù. Những hoài niệm này tất nhiên có liên quan tới người khác. Nên khi ta tức, buồn bực, giận ghét và oán thù, thì không phải là tức giận, oán thù, buồn bực những người đã gây nên những hoài niệm đó. Nhưng người đó là những người bây giờ vắng mặt, nhưng cũng có thể là những người đang có mặt bên ta. Có thể họ là thầy ta, là bạn học với ta. Có thể họ là bà con với ta, cùng xóm ngõ, có thể họ chỉ là những người ta quen biết, và có khi chẳng quen biết gì cả, nhưng vì một lý do nào đó đã hại ta, đã làm khổ ta. Đối với tất cả những người này, ta phải ăn ở sao đây?
Theo tính tự nhiên, thì oán phải trả oán. Kẻ đã làm hại ta là những kẻ -phải loại trừ. Kẻ ghét ta là kẻ ta phải ghét. Kẻ chống ta là kẻ ta phải chống lại. Thói thường người ta xử sự như vậy. Và người ta cho là hợp lý và khôn.
Nhưng Chúa là chính sự khôn ngoan đã dạy ta một sự khôn ngoan cao hơn sự khôn ngoan thế gian. Người đã dạy ta một sự hợp lý còn cao hơn sự hợp lý loài người. Sự khôn ngoan và hợp lý Chúa dạy đó là: Hãy tha thứ cho kẻ làm mất lòng ta, và hãy biết quên đi những hoài niệm đau buồn.
Tại sao Chúa dạy ta điều đó?
Thưa, vì điều đó sinh lợi ích to lớn cho ta. Sau đây chúng ta sẽ suy nghĩ về những ích lợi đó.
Ích lợi thứ nhất là thứ tha thì sẽ được tha thứ, được Chúa tha tội cho mình.
Ai trong ta dám cho mình sạch tội. Không nhiều thì ít chúng ta hết thảy đều là những kẻ có tội. Mà có tội là mắc tội với Chúa. Chỉ có Chúa mới tha cho ta được. Việc tha thứ đó, ta đã lãnh nhận không biết bao nhiêu trăm ngàn lần rồi. Nếu ta được Chúa xử rộng rãi như thế, mà chính ta lại xử ngặt với người lỗi phạm với ta, thì hỏi rằng ta có còn đáng Chúa tiếp tục xử rộng mãi với ta không?
Chúa đã tha tội cho người ta một cách hết sức dễ dàng. Có thể nói Chúa tha tội cho người ta trước khi người xin lỗi Chúa. Chúa tha tội cho ta, và chỉ cần ta nhận lãnh sự tha thứ đó bằng cách đến gặp Chúa và quyết sống hoà hợp với Chúa trong đời sống ân tình. Chúa công bằng và cao sang vô cùng mà còn xử đối với kẻ có tội như thế, tại sao ta lại muốn công bình và hợp lý hơn Chúa.
Đàng khác, Chúa đã coi sự tha thứ như là điều kiện để được thứ tha: “Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Ra điều kiện đó là làm lợi cho ta đó thôi, chứ suy nghĩ sơ sơ thì cũng thấy: Ta xúc phạm Chúa thì nặng thế nào, còn người ta xúc phạm tới ta thì nặng thế nào. So sánh hai bên, tất nhiên tội xúc phạm Chúa nặng bội phần hơn tội xúc phạm ta. Một bên nặng, một bên nhẹ. Tha nợ nặng thì tất nhiên khó hơn và quý hơn tha nợ nhẹ. Thế mà Chúa chịu đưa cái nhẹ ra làm điều kiện để tha nợ nặng cho ta. Thì cũng như thế Chúa bảo nếu ta tha món nợ 100 đồng cho người khác, thì Chúa sẽ tha cho ta khỏi món nợ 1 triệu đồng. Như thế thực là một cách Chúa thương ta biết mấy. Mà nếu ta không chịu điều kiện đó, nghĩa là không tha cho kẻ khác, thì ta dại biết bao nhiêu. Chúa sẽ bảo: Ta không ta tội cho con vì con đã không tha cho kẻ khác. Không những Chúa không tha tội cho ta, mà Chúa cũng chẳng nhậm lời cầu, lễ dân của ta. Chính Chúa bảo rõ điều đó mà. “Khi con đi dâng của lễ, mà nhớ mình còn có chuyện bất hoà với anh em, thì hãy bỏ của lễ đó mà về làm hoà với người anh em đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ sau” (Mt 5,23). Đó, thấy chưa, Chúa coi việc tha thứ cho anh em là một việc quan trọng đến thế nào.
Ích lợi thứ hai của việc tha thứ là làm sự lành cho người gây khổ cho ta và cho những người xung quanh. Sự tha thứ của ta đem lại cho người gây khổ cho ta những gì? Trước hết là sự an ổn không phải lo sợ ta báo thù, chống phá, không phải lo đối phó với ta. Đời họ sẽ nhờ sự tha thứ đó của ta mà bớt được gánh nặng.
Hơn nữa, sự tha thứ của ta sẽ làm cho cuộc sống chung được nhẹ nhàng dễ chịu. Ta cứ tưởng tượng ta giận một người ngồi cùng bàn, cùng lớp hay cùng nhà thì thấy. Cả bàn, cả nhà, cả lớp sẽ bị bao phủ bởi một bầu khí nặng nề. Anh em cùng bàn, cùng lớp, cùng nhà sẽ không còn vui vẻ tự nhiên với nhau. Xem như có cái gì ngượng nghịu, dè dặt, căng thẳng giữa mọi người biết chuyện. Nhưng trái lại, khi có sự tha thứ, thì tất cả những đám mây mù đó sẽ tan đi. Đời sống chung lại tươi vui nhẹ nhàng. Ảnh hưởng đến như thế đâu có phải là nhỏ. Ta không quan tâm đến ảnh hưởng đó, là ta ích kỷ. Và ngược lại, là một việc quảng đại hữu ích.
Ngoài ra, sự tha thứ có thể cảm hoá được người đã làm khổ ta. Câu chuyện tôi sắp kể là câu chuyện chứng mình điều đó. Ở một làng nhỏ miền quê, có một người đàn ông công giáo khoẻ mạnh, một vợ 5 con: 3 trai, 2 gái. Tên ông là Wang. Ông rất giỏi võ, có nhiều người tới họ võ với ông. Trong các mông sinh có một chàng tên T.. T. Nghèo, nên ông nuôi và thương như con đẻ. Trưa ông cho ăn, tối ông dẫn về nhà. T. Học võ rất giỏi, nhưng càng giỏi càng kiêu. Đùng một bữa, có cuộc biến. Ong Wang bỏ nhà trốn đi. Tên T. Nhập bọn phiến loạn. Có một hôm, hắn ta xách dao tới nhà ông thầy cũ của hắn. Mấy đứa con của ông Wang vẫn tưởng T. Là bạn, nên không nghi ngờ gì. T. Gọi từng đứa ra hỏi: Mày có đạo Thiên Chúa không? Mấy đứa thưa: Phải. Lập tức T. Chém đứt đầu tất cả 5 đứa. Bà vợ thấy vậy chạy trốn. T. Liền đốt lửa thiêu rụi căn nhà ông Wang.
Khi an ninh vãn hồi. Ông Wang trở về làng. Được người lối xóm kể lại đầu cuối sự việc, ông tức giận vô cùng. Bà vợ thì sầu khổ quá nên ngã bệnh chết. T. Thì sợ ông Wang trả thù nên cũng trốn đi. Cha sở hết lòng thương ông Wang, an ủi ông và xin ông tha cho T. Ông không chịu. Hơn nữa, ông nhất quyết sẽ đi tìm giết T. Để trả thù. Cả làng ai cũng lo sẽ xảy ra một cuộc trả thù đẫm máu. Mấy tháng như thế trôi qua. Hôm đó là tuần thánh, cha sở nhờ dịp cấm phòng nên tới an ủi khuyên lơn ông Wang. Đại khái cha nói: Chúa Giêsu bị kẻ dữ giết đau đớn thế kia. Ngài có dư sức để phạt chúng. Nhưng Ngài không phạt. Ngài đã tha tội cho chúng. Con hãy theo gương Chúa mà tha tội cho Ta. Ngần ngữ mãi, sau cùng ông Wang bằng lòng để cha cho người đi kêu thằng T. Tới. Tối hôm đó, cả họ đang đọc kinh, thì cha sở dẫn thằng T. Ra. Thấy nó, ông Wang đứng lên chỉ vào mặt nó mà nói lớn: Mày đã được tao nuôi dưỡng đối xử như con. Thế mà mày giết hại 5 con tao, đã đốt nhà tao. Tội mày đáng chết... Rồi ông ta bước lại... Ai nấy đều hồi hợp lo sợ. Và thằng T. Thì xanh mặt lại... ông Wang bước lại, ông ta ôm lấy nó, và nói lớn: Tao định giết mày, nhưng vì Chúa Giêsu, tao tha cho mày... Cả hội trường đều hoan hỉ thở phào. Ít ngày sau, người ta thấy T. Chịu phép Rửa, và ông Wang là bõ đỡ đầu cho hắn. Sau T. Trở nên một chiến sĩ truyền giáo rất hăng say, lôi cuốn được từng trăm người trở lại.
Đó, ta xem công hiệu của một sự tha thứ.
Tôi cũng mới nghe một câu chuyện. Một sở cha ở một quận thuộc một tỉnh gần Sàigòn. Ông quận ở đó không biết vì bị ai xúi bẩy hay vì lý do gì thường hay phá cha đủ thứ. Cái cú ông đánh cha đau nhất là ông xúi dân đi thưa cha nơi Đức Cha, và hô hào dân chúng biểu tình đả đảo cha. Cha biết tất cả, nhưng không một phản ứng thù hằn. Mấy thắng sau, ông quận đó được thăng cấp. Ông ta rất bỡ ngỡ vì sự thăng cấp bất ngờ đó. Ông chắc một người bạn cấp trên nào đó đã vận động cho ông. Ông dò hỏi trung ương, thì họ trả lời: Ô! Ông không biết sao? Chính cha sở họ đạo đã xin thăng cấp cho ông đó. Và Ngài còn đang vận động cho ông lên làm tỉnh tưởng tỉnh của Ngài nữa đó. Nghe thế, ông quận bỡ ngỡ quá sức. Ông ta liền đến cha sở hết lời xin lỗi Ngài, và cả gia đình ông đã xin theo đạo Công giáo, vì thương cha không những không hận thù mà còn làm ơn trả oán.
Tôi cũng biết có một Đức Giám mục ở Việt Nam khi Ngài còn sống đã bị một người có tên tuổi chống phá, nói xấu nói hành đủ thứ. Khi Đức Giám mục chết, người ta mở chúc thư ra thì thấy cái người đầu tiên và là người được Đức Cha trối nhiều của nhất chính là ông đã chống phá đả đảo, nói xấu và làm khổ Đức Cha nhiều nhất. Khi được biết cử chỉ bác ái cao thượng đó, ông tên tuổi kia đã khóc lăn khóc lóc thương mến Đức Cha và hối hận vô cùng.
Có lẽ nếu không có những sự tha thứ anh hùng kia, thì chắc chẳng bao giời ông đó sẽ chịu nghĩ lại và ăn năn sửa mình. Và như vậy, sự tha thứ đã làm những phép lạ kỳ diệu trong các linh hồn.
Ích lợi thứ ba là sự an ủi trong linh hồn của chính người tha thứ.
An ủi vì được Chúa thứ tha tội lỗi. An ủi vì thấy mình làm được cái gì hay cho kẻ khác. An vui vì không phải bận tâm với những tư tưởng hận thù, những hoài niệm đối nghịch, những mơ ước hại người. Tính cách quảng đại và cao thượng của sự tha thứ làm cho tâm hồn ta mở rộng và thư thái. Tâm hồn sẽ không bị gò bó trói buộc vào những chuyện đen tối chật hẹp, nhưng sẽ được tự do thong thả nhởn nhơ trong một cõi lòng trong sáng.
Nhưng phải làm sao để dễ tha thứ và quên đi những hoài niệm hận thù?
Kinh nghiệm đã cho thấy: có những cái ta muốn nhớ mà lại cứ quên. Trái lại, có những cái ta muốn quên mà lái cứ nhớ. Vui thì dễ quên. Mà đau khổ tức giận thì khó quên lắm.
Đúng như vậy. Tuy nhiên, nếu sự nhớ chẳng lợi ích gì mà lại sinh hại thì ta cũng phải cố gắng để mà quên đi.
Để giúp quên đi, thì có những phương thế này:
1/ Khi chợt nghĩ tới những hoàn niệm gây hận thù, thì ta hãy bỏ qua mà nghĩ sang một hình ảnh khác, một vấn đề khác. Và phải chuyển đối tượng như thế một cách dứt khoát và mau lẹ. Phải đổi hướng một cách cương quyết. Thí dụ: Anh B. Đã chơi xấu tôi, nghĩ tới là tôi tức sôi máu lên. Vậy, mỗi khi chợt nghĩ tới chuyện xấu đó, lập tức tôi nghĩ sang bài báo tôi đang viết giở. Và tôi tự bảo mình: chuyện này còn quan trọng hơn nhiều. Cứ làm kiểu đó, là dần dần tôi quên được hoài niệm cũ hoặc nếu có nhớ, thì cũng không cho là quan trọng nữa, vì đã quen coi thường nó và vì thế nó không gây được xúc động gì.
2/ Năng nghĩ tới những điểm tốt của người làm ta tức giận hận thù. Ai cũng có những đức tính tốt. Chỉ tại tâm hồn con người dễ nhận thấy vết đen hơn vết trắng. Giống như máy ảnh vết càng đen thì càng ăn ảnh, vết càng trắng càng sáng thì lại khó thu vào hình. Tại sao thế? Thưa vì máy ảnh thuộc về vật chất. Cũng vậy, tâm hồn ta, nếu không biết vượt lên khỏi vật chất, thì cũng sẽ như máy ảnh vật chất, chỉ nhận rõ vết đen của người, còn nét trắng thì không rõ. Ta phải bình tĩnh nhìn nhận những điểm tốt của người ta, để cái hình ảnh nội tâm của họ trong hồn ta không còn phải là một hình ảnh dễ ghét và xấu xí, nhưng là một hình ảnh cũng có những điểm đáng ta kính phục và mến yêu.
3/ Cầu nguyện cho người đã gây khổ cho ta. Thỉnh thoảng, tìm cách khen kín đáo người đã làm khổ ta khi họ vắng mặt.
Anh em thân mến, Trong đời sống chủng viện không thiếu những chuyện làm tức bực, buồn giận, khó chịu, không thiếu những người làm ta phải khổ. Sau này, trong đời linh mục, anh em cũng sẽ gặp những trường hợp đó. Và nếu Chúa định anh em sống bậc giáo dân ngoài đời, anh em cũng sẽ gặp nhiều hơn những chuyện đó. Tắt là chúng ta sẽ không tránh được những chuyện gây sự với ta, ta không thể tìm được chỗ nào toàn những người hợp ý, hợp tánh với ta. Ta phải chấp nhận thực tế. Và ta sẽ đối phó với thực tế đó, không phải bằng cách nuôi hờn giữ oán. Nhưng là bằng cách thứ tha, và biết quên đi.
Một chủng sinh đã có lần tâm sự với tôi: “Đau khổ lớn nhất của con trong chủng viện là đau Bùi-Tuần 2344
Một chủng sinh đã có lần tâm sự với tôi: “Đau khổ lớn nhất của con trong chủng viện là đau khổ do chính anh em lớp gây nên cho con”. Câu tâm sự đó cũng giống lời một linh mục đã nói với tôi. Ngài nói: “Sau những giai đoạn tôi bị thử thách nặng nề về tâm hồn và thể xác, tôi có cảm thưởng như thất vọng hoàn toàn về tình huynh đệ linh mục”. Những lời than phiền trên đây lại làm tôi liên tưởng đến lời Đức Cha Charrière trong bài Ngài bói chuyện ở đại học Fribourg. Ngài nói: “Có lúc tôi đã kêu với Chúa rằng: Lạy Chúa, con không xin Chúa cứu con khỏi kẻ thù của con. Nhưng xin cứu con khỏi bạn hữu con, vì chính họ làm khổ con nhiều hơn kẻ thù”.
Thì ra, linh mục cũng như chủng sinh cũng như giám mục đều đã có những kinh nghiệm chua xót về tương quan đồng liêu, đồng nghiệp. Về điểm này, tôi đã được nghe không biết bao nhiêu lời than phiền xuất xứ từ đủ mọi chức bậc. Có lẽ mỗi người chúng ta cũng đã từng nghe và biết đâu đã ừng nghiệm. Và cho là đúng phần nào.
Tôi nói đúng phần nào, nghĩa là không phải giữa anh em nhà tu chúng ta không có sự thương yêu, trái lại chúng ta đã tìm được nơi anh em cùng chung sống nhiều tình thương chân tình. Nhưng, sống giữa anh em mà biết đâu có lúc ta vẫn cảm thấy đơn độc, có lúc thấy nặng nề, có lúc còn cảm thấy như muốn thoát lìa vì không tìm được tin tưởng.
Tương quan giữa anh em chúng ta có lúc thăng trầm là như thế. Thực tế, đó là một băn khoăn không nhỏ cho chúng ta. Vì, ngoài tình yêu Chúa ra, thì mình còn trông cậy vào ai hơn anh em gia đình thiêng liêng mình. Mình đi tu, đã xa lìa gia đình máu mủ, đã từ chối tình yêu phu phụ, đã chọn những người cùng lý tưởng làm bạn đường. Nếu không tìm được nơi những anh em đó một tình thương xây dựng, thì thực là chua xót, thực là mỉa mai.
Để tránh cho người khác khỏi phải nếm những chua xót thất vọng như thế, ta nên để ý những gì trong tương quan giữa anh em chúng ta?
Ở đây tôi chỉ xin lưu ý vắn tắt đến 3 điểm này:
1/ Nâng đỡ. 2/ Tế nhị. 3/ Chân thành.
Nâng đỡ
Chúa Giêsu trong cơn đau đớn ở vườn cây Dầu đã đi tìm an ủi nơi các môn đệ. Ngài cũng đã được thiên thần Đức Chúa Cha gởi tới để khích lệ Ngài. Ngài đã cảm thấy sự bị bỏ rơi khổ sở thế nào, nên Ngài đã thốt ra một lời than đầy phiền nào trên thánh giá “Chúa tôi ơi, Chúa tôi ơi! Sao nỡ bỏ tôi?”.
Thân phận con người, dù siêu thoát nơi Ngôi Hai, cũng vẫn là một thân phận cần yêu và cần được yêu, cũng vẫn là một thân phận biết buồn biết khổ. Phương chi thân phận con người nơi chúng ta còn mang nặng vấn vương và nhiều yếu đuối.
Chính những yếu đuối đò đòi sự nâng đỡ của người khác. Nâng đỡ nói đây trước hết hiểu là sự nâng đỡ thường xuyên. Bằng những cách cho đi mà ta đã phân tách chung ở ngày đầu. Nhưng nhất là hãy nâng đỡ nhau trong những khi thành công và đặc biệt là những khi thất bại.
Khi thành công thì cần gì nâng đỡ? Ta dễ nghĩ vậy. Nhưng thực tế thì không đơn giản. Con người trong ta cũng có đủ mọi nết xấu như ai. Sự thành công của anh em có thể gợi trong ta sự ganh tỵ, phen bì. Ít người được như thánh Gioan Tiền Hô, thực tâm vui vẻ nói: “Tôi cần phải kém đi, và Người cần được nâng lên”. Nếu không muốn người khác hơn ta, thì ta sẽ dễ pha trộn cay đắng vào thành công của họ. Vì thế, nâng đỡ sự thành công của anh em là tiên vàn hãy tôn trọng sự thành công đó.
Hơn nữa, không những chỉ tôn trọng, mà cũng còn nên khuyến khích, để anh em đã thành công càng thành công hơn. Tôi thiết tưởng mỗi anh em chúng ta là một nguồn khả năng độc đáo. Với nguồn khả năng đó, họ có thể làm được nhiều việc mà chính ta không làm bằng họ. Họ có thể đổi mới được cả một họ đạo, tổ chức được những cơ cấu vững bền to lớn, xông pha ở những địa điểm truyền giáo xa lạ. Nhưng bao nhiêu thiện chí và khả năng đó đã lụi tàn dần, chỉ vì không được khuyến khích, hay tệ hơn nữa, đã bị đập cho tan nát tơi bời!
Càng ngày tôi càng thấy đúng lời cha Faber nói: “Bao nhiêu tâm hồn cao thượng đã ngã quỵ dưới sức nặng của đau phiền do sự thiếu nâng đỡ. Bao nhiêu chương trình tốt đẹp cho vinh danh Chúa đã không hề được thực hiện chỉ vì thiếu một nụ cười, một cái nhìn khuyến khích”.
Sự nâng đỡ càng trở thành cần thiết cho anh em, trong trường hợp anh em gặp thất bại. Thất bại đó có thể rủi ro do thiếu khả năng, do yếu đuối, do ác ý người chung quanh hay đôi khi do quá nhiều thiện chí. Nhưng dù bởi đâu tới, thất bại vẫn gây đau buồn. Đau buồn bao giờ cũng kéo con người trở lại với lòng mình, và vì thế tạo nên một sự cô đơn xa cách. Trong tâm lý cô đơn đó, nếu kẻ đau buồn không được nâng đỡ sẽ dễ rơi vào chán nản và mặc cảm hay đi tìm những an ủi khác.
Mỗi lần tôi nhớ lại đoạn nhật ký một linh mục bạn tôi là tôi lại cảm thấy buồn. Ngài viết: “Ở ngoài đời, trong hoàn cảnh này, người ta có cha mẹ, vợ con, họ hàng, anh em khuyến khích và giúp đỡ đàng này đàng nọ. Còn như tôi bây giờ thì hoàn toàn cô độc. Buồn một mình. Khổ một mình. Khóc một mình. Người ta bảo nhà tu là gia đình. Nhưng thực tế thì còn xa lý thuyết lắm. Lúc này tôi thấy chỉ có một vật có thiện cảm chân thành với tôi, đó là con chó của tôi. Chỉ có thế mà thôi”.
Chúng ta đừng trách kẻ đau buồn. Dù họ chủ quan, dù họ khách quan, dù họ có lý hay không có lý, thì đau buồn cũng vốn là một thực tại xót xa. Và hậu quả nhiều khi khó có thể tưởng tượng được. Ít người đã tự tử vì không chịu nổi đau đớn phần xác. Nhưng hầu hết các người tự tử đều bởi không chịu nổi đau khổ tâm hồn. Và có những người trong anh em chúng ta trong lúc buồn nản đã không tự tử phần xác, nhưng đã tự tử phần hồn.
Cha Courtois khi đề cập tới vấn đề tình giữa anh em tu sĩ và giáo sĩ, đã viết: “Kẻ từ chối một chút thiện cảm và nâng đỡ với một anh em đang buồn chán, nên biết là mình có thể làm nguyên do cho người anh em đó sa ngã trầm trọng”. Tôi thấy đúng. Một linh mục sau khi bỏ áo dòng ra đi đã có lần nói với tôi: “Người ta đã đẩy tôi vào chân tường. Sự xa cách nghi kỵ và lên án của anh em linh mục đối với tôi đã làm tôi càng ngày càng thất vọng, và đã đẩy tôi vào quyết định phải ra đi”. Một cha bạn của linh mục xuất đó cũng một lần đã xác nhận với tôi là: “Cộng đồng linh mục phải chịu một phần trách nhiệm về sự ra đi của cha đó...”. Tôi mong rằng những điều mà tôi vừa nói không làm cho anh em bi quan theo nghĩa xấu, nhưng sẽ làm cho chúng ta để ý nâng đỡ anh em hơn, cũng như chúng ta muốn được anh em nâng đỡ.
Tế nhị
Tế nhị là khéo biết người khác thích và không thích gì, kháo làm vui lòng người, và khéo tránh những gì làm phiền lòng người ta. Nếu muốn tìm một gương tế nhị, thì ta có thể tìm ở Phúc Âm nơi Đức Mẹ khi Người dự tiệc cưới. Ta thấy Đức Mẹ thực là tế nhị. Cái tế nhị thứ nhất là khéo đoán biết cảnh bối rối của gia đình nhà đám. Cái tế nhị thứ hai là Đức Mẹ đã làm ơn cho họ một cách kín đáo. Cái tế nhị thứ ba là lời Đức Mẹ nói với Chúa Giêsu: Nhà này hết rượu. Không nài ép, không dài dòng. Cái tế nhị thứ bốn là lời Đức Mẹ bảo các người giúp: Con tôi bảo sao, các bác cứ làm thế nhé. Đức Mẹ đã tỏ ra nhã nhặn và kín đáo.
Gương tế nhị nơi Đức Mẹ phải là một bài học cho chúng ta. Thời này người ta hay kêu thanh niên là thiếu tế nhị. Thanh niên ngoài đời và cả thanh niên trong nhà tu đều hay bị mang tiếng đó. Và người thanh niên lại hay chữa mình rằng: Chúng tôi thiếu tế nhị, có lẽ vì chúng tôi không ưa giả tạo, không thích hình thức bôi bác bề ngoài, chúng tôi muốn cởi mở, muốn trung thực... Phải, những sự người thanh niên chúng ta không thích và thích đó đều đúng. Nhưng cũng cần phải nhận điều này là đúng: tế nhị không phải là một hình thức giả tạo, nhưng là một lịch sự, một đức tính, một khía cạnh của bái ái, một nghệ thuật để cho đi. Mà nếu “cách cho còn quý hơn của cho” là đúng thì đừng coi thường điểm tế nhị trong tương quan giữa anh em.
Chân thành
Chân thành dịch sang Latin là sincerus, a, rum. Lịch sử tiếng đó thế này: Xưa, người Lamã thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có lỗ sứt mẻ, thì lấy sáp ong nhét vào những lỗi đó, và đánh cho thực trơn láng. Cũng như kiểu đàn bà lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết nhăn. Những cột cẩm thạch nào không có sáp, thì là dấu tuyền vẹn, và gọi là Sine Cera. Sine: không cera: sáp ong. Qua các thời đại, hai tiếng này dính lại thành một là “sincera”, và có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng thành thực, chân thành.
Tình thương giữa chúng ta cũng cần phải sine cera: là không bôi sáp, không giả tạo, nhưng chân thành. Còn gì thất vọng cho bằng khi thấy những cử chỉ, thái độ, lời nói có vẻ lịch sự, bác ái đối với mình chỉ là một thứ xã giao miễn cưỡng, một thứ nguỵ tạo giả hình. Trước mặt mình thì niềm nở, nhưng sau lưng thì phá ngầm, nói hành nói xấu, gièm pha.
Kinh nghiệm cho ta thấy là một khi ta đã có nhiều bằng chứng để nghi ai không chân thành với ta, thì ta khó tín nhiệm người đó. Cũng thế, người khác cũng sẽ không tín nhiệm ta nếu ta thiếu chân thành với họ. Và một khi hết tin, thì sự hiện diện của ta đối với họ sẽ mang một ý nghĩa khả nghi, bắt họ phải dè dặt.
Và như thế, tình thương giữa anh em sẽ đi về đâu?
Anh em thân mến,
Đời mỗi người đã là một thánh giá. Nếu ta chẳng làm nhẹ được cho ai, thì đừng làm cho thêm nặng. Hơn nữa, ta nên cố gắng làm cho đời ta có nhiều ý nghĩa xây dựng đối với anh em và hết mọi người.
Thánh Gioan tông đồ giảng cho giáo dân, chỉ nhắc đi nhắc lại hoài: “Anh em hãy thương yêu nhau”. Gần chết, Ngài cũng còn nhắc lại câu đó: “Anh em hãy thương yêu nhau”.
Cần nhắc lại điều đó, vì nó là giới răn căn bản, như Chúa Giêsu phán: “Thầy cho chúng con một điều truyền mới là chúng con hãy thương yêu nhau”.
Cần nhắc lại điều đó, vì nó là đặc điểm của môn đệ Chúa: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau”.
Cần nhắc lại điều đó, vì “Đức ái là dây buộc sự trọn lành. Ai yêu người là đã giữ trọn lề luật” như thánh Gioan đã nói.
Và cũng đúng như ý tưởng của thánh Augustin: “Ama et fac quod vis”. “ÔAmat fac quod vis”. Đó cũng là tóm kết những sự tôi đã nói và muốn nói trong suốt tuần tĩnh tâm này.
Sám hối và tin vào Tin Mừng”. Lời thánh Gioan Tiền Hô vừa nói đó đã gắn sám hối và niềm tin Bùi-Tuần 2345
“Sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Lời thánh Gioan Tiền Hô vừa nói đó đã gắn sám hối và niềm tin thành một tác động trở về của người hồi quy gia phụ.
Nhưng trong sám hối phải có tình yêu. Cũng như niềm tin bao giờ cũng gọi đến ân tình. Vì thế, có thể nói: Sám hối là nước mắt của tình yêu khóc một niềm tin; là sự hối hận của một niềm tin khóc một tình yêu. Tin và yêu là hai giòng lệ của tâm hồn thống hối.
Tin và yêu này phải luôn luôn có mặt khi ta sám hối. Tin Chúa và yêu Chúa.
Tin Chúa thứ tha và yêu Chúa trên hết mọi sự.
Tin Chúa sẽ ban đủ ơn giúp ta trung tín. Và yêu Chúa với lòng dốc quyết, thương trung trước sau như một.
Tin Chúa thương ta vô cùng, và yêu Chúa với lòng khao khát được làm vui lòng Chúa trong bất cứ sự gì.
Niềm tin và tình yêu trong thống hối là một cái nhìn vào Chúa. Và như thế, sám hối là nhìn vào Chúa hơn nhìn vào mình. Có thể ví tin và yêu như hai con mắt của ý thức tội lỗi nhìn vào Chúa.
Mà cần nhìn lâu như vậy vào Chúa, để ta hối hận mà khỏi ngã lòng, để biết lo buồn mà vẫn phấn khởi.
Phải dùng con mắt tin và con mắt yêu, nhìn lâu vào Chúa để tâm hồn thống hối nhắm được một hướng đi chắc chắn cho hành trình đời mình. Để từ nay, mình sẽ sống cho Chúa, làm việc cho Chúa mà thôi.
Dùng đôi mắt tin và yêu đó để nhìn lâu vào Chúa, ta sẽ khám phá ra rằng đời ta là một mysterium fidei. Vì không yếu đuối như ta, mà lại được chọn như ta, không ai bội bạc như ta, mà lại được yêu như ta.
Mysterium fidei!
Vậy, với niềm tin và niềm yêu như hai giòng lệ, như hai con mắt, ta hãy âm thầm nhìn vào Chúa trong những phút thống hối này.
Biết mình Cầu nguyện Khiêm nhường Thương người sẽ gặp được Chúa Yêu thương là cho đi Yêu thương người tội lỗi yếu đuối Yêu thương người nghèo khổ Tình thương đối với nữ giới Đừng xét đoán bậy Đừng nói hành Hãy quên đi và tha thứ Tình thương giữa anh em Sám hối Phúc Âm
Không dịp nào tôi nghĩ tới người khác cho bằng dịp Tết. Tôi dọn dẹp trang trí nhà cửa, để làm Bùi-Tuần 2346
Không dịp nào tôi nghĩ tới người khác cho bằng dịp Tết.
Tôi dọn dẹp trang trí nhà cửa, để làm vui lòng người khác hơn là cho tôi.
Tôi ăn mặc gọn gàng sạch sẽ để kính trọng người khác, chứ không phải để khoe tôi.
Tôi sắm đồ ăn thức uống để đãi người khác hơn là để tôi dùng.
Tôi đi thăm, viết thư, gởi thiệp, tặng quà, để mừng chúc người khác, chứ đâu phải để nhắc họ nhớ tới tôi.
Đúng thực, ngày Tết là ngày nghĩ tới người khác.
Người khác là ai?
Tất nhiên là những người tôi có liên hệ. Hoặc do tình cốt nhục, hoặc do ân nghĩa, hoặc do quen thuộc, hoặc do những bổn phận khác của công bằng, bác ái. Tôi biết họ. Và cũng có thể tôi không biết họ. Dây liên lạc nối kết họ và tôi trở thành một nhịp cầu. Dù hai chiều dù một chiều, nhịp cầu ấy đã đưa tôi sang đời họ và đưa họ qua đời tôi.
Họ là những người đã có phần xây dựng đời tôi.
Họ là những người đã dành cho tôi cái hân hạnh cao quý được tham gia vào đời họ.
Họ là những ai đang chờ đợi trong cảnh cô đơn túng nghèo. Nghèo của, nghèo tình, nghèo bạn, nghèo sức khỏe, nghèo khả năng, nghèo ơn nghĩa Chúa.
Họ là những ai không có mùa xuân, không có tiếng nói, không có chỗ đứng trong cộng đồng xã hội.
Tóm lại người khác “của tôi” đây là những ai tôi đã chọn hoặc Chúa đã chọn cho tôi. Tất cả đều là anh em tôi. Tôi yêu thương họ.
Chính vì thế mà tôi nghĩ tới họ. Tôi nghĩ tới họ thường lắm. Nhưng dịp tết, tôi nghĩ tới họ cách đặc biệt hơn.
Nghĩ tới họ cách đặc biệt trong dịp Tết là nghĩ tới cách làm cho họ được hạnh phúc. Vì hạnh phúc là khát vọng lớn nhất của họ. Và hạnh phúc của họ cũng là điều chúc nguyện tha thiết nhất của tôi.
Làm cách nào để họ luôn khỏe mạnh, để họ khỏi nghèo, để họ đạo đức, để họ an vui? Tôi tìm hoài, nhưng không thấy.
Tìm nơi tôi, thì thấy chính tôi cũng nghèo, cũng khổ, cũng yếu đuối. Những cách chắc chắn có thể làm cho họ được hạnh phúc đều quá tầm tay của tôi.
Tìm nơi người khác, thì thấy chẳng ai đủ quyền năng và đủ tình thương để thực hiện nổi tất cả những nguyện vọng chính đáng.
Chờ mong ở tình cờ may rủi sao? Nhưng tình cờ đâu có bảo đảm được gì. Nếu tình cờ có thể đem lại được may mắn thì vấn đề hạnh phúc con người đã được giải quyết từ lâu, khỏi tốn công tính toán và nỗ lực.
Nhìn chung quanh, tôi không thấy cách nào gọi được là chắc chắn.
Do đó, tôi mới nhận ra rằng, muốn xây dựng hạnh phúc cho bất cứ ai, tôi cần phải liên lạc thẳng với Đấng chính là hạnh phúc. Đấng ấy là Thiên Chúa.
Ngài là “đường đi, là sự thực và là sự sống”.
Ngài là đường chắc chắn đưa tới hạnh phúc chân chính, vì Ngài là tình yêu quyền phép vô biên.
Ngài là sự thực soi dẫn đâu là hạnh phúc chân chính, vì Ngài là thước đo mọi chân lý.
Ngài là nguồn sống chứa đựng hạnh phúc toàn diện, vì Ngài sáng tạo mọi loài.
Ngài vô hình, nhưng ở bên tôi. Tôi liên lạc với Ngài bằng lòng trí, bằng tâm tình, bằng lời nguyện. Tôi tin ở Ngài. Tôi đặt hy vọng nơi Ngài.
Như thế, mọi lời chúc tết của tôi sẽ đều kèm theo lời cầu nguyện. Nghĩ tới ai, là sẽ nghĩ tới Chúa. Để gởi gấm họ, để cầu xin cho họ.
Hy vọng nhờ đó lời chúc Tết của tôi sẽ rất chân thành và hữu hiệu.
Lạy Chúa, con tin Chúa yêu con. “Chúa là hạnh phúc của con. Chúa ơi, Chúa là hoan lạc đời con”.
Con xin Chúa ban phép lành cho tất cả những người mà con có liên hệ gần xa. Xin cho họ gặp được Chúa là chính hạnh phúc tràn đầy và trường cửu đời đời.
(NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 2)
+ (*** NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 1 xem Bùi Tuần 1.267)
Thánh Giuse là người đồng trinh, nhưng đã không ở một mình. Ngài đã sống chung với trinh nữ Bùi-Tuần 2347
Thánh Giuse là người đồng trinh, nhưng đã không ở một mình. Ngài đã sống chung với trinh nữ Maria và Chúa Giêsu. Ngài sống trong gia đình và làm chủ một gia đình.
Chúa Giêsu xưa cũng không ở một mình, Ngài đã xuống thế trong khung cảnh một gia đình. Suốt 30 năm, Ngài đã sống trong gia đình với mẹ ruột và cha nuôi. Trong ba năm truyền giáo, Ngài cũng đã sống chung với gia đình thiêng liêng gồm các môn đệ của Ngài.
Chính Thiên Chúa cũng không ở một mình. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã ở chung. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã là một thứ gia đình có Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần.
Các Đấng cực thánh đó đã chọn đời sống gia đình, đó là dấu đời sống gia đình rất tốt.
Tại sao?
Phải chăng gia đình là tổ ấm tình yêu? Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm. Nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống.
Một đứa trẻ mồ côi trong cô nhi viện, cho dù được nuôi dưỡng đàng hoàng, vẫn là một đứa trẻ bơ vơ. Một cụ già không con cháu trong viện dưỡng lão, cho dù được ăn no mặc ấm vẫn cảm thấy băng giá tâm hồn. Sống đầy đủ mọi sự, nhưng thiếu tình thương, vẫn là sống khổ.
Tình yêu làm nên hạnh phúc. Chính Thiên Chúa là Đấng hạnh phúc vô cùng, cũng có tên gọi là Tình Yêu.
Đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình. Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất.
Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác.
Một người có tình thương nồng nàn đối với cha với mẹ của mình, khi họ nói với Chúa: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, hay khi họ nói với Đức Mẹ: “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành”, họ sẽ hiểu một cách sống động ý nghĩa sâu đậm của những danh xưng đó, bởi vì bản thân họ đã có kinh nghiệm sống động một cách tự nhiên về những tình yêu ấy. Con đường thánh thiện của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu dựa trên tình cha con đối với Chúa phải chăng đã mô phỏng mối tình của thánh nữ đối với chính cha ruột của mình.
Một người cha một người mẹ đã quen thương yêu, chăm sóc, lo lắng, dành dụm cho con mình sẽ dễ hiểu sự quan phòng của Cha trên trời đối với chính họ. Bởi vì họ cũng đã là cha, là mẹ dầu trong một phạm vi nhỏ hẹp.
Một người đã có kinh nghiệm về trách nhiệm và tình cảm của một người cha, người mẹ, người anh, người chị, người em vv... sẽ biết phải đối xử thế nào cho đúng nghĩa khi họ gọi một người nào bằng một trong những tiếng đó.
Nhưng tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ.
Cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh được những chuyện làm buồn lòng nhau.
Đức Mẹ có thai bởi phép Chúa Thánh Thần, nhưng đã không tỏ lộ chuyện đó với chồng, làm thánh Giuse đau khổ biết bao đêm ngày.
Chúa Giêsu 12 tuổi đi lễ, rồi ở lại đền thờ mà không nói trước, làm cha mẹ đau xót đi tìm con mấy buổi.
Trong Thánh gia còn có những chuyện làm buồn lòng nhau, phương chi các gia đình khác. Đó chỉ là chuyện hy sinh thông thường. Còn biết bao nhiêu hy sinh khác do những vất vả lo lắng, chịu đựng thường ngày gây nên.
Điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả vui buồn để dắt nhau về cõi phúc.
Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế thì gia đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng vừa là lò luyện hy sinh. Lạy thánh Giuse là gia trưởng gương mẫu xin giúp con thấu hiểu giá trị cao quý của đời sống gia đình, nhất là xin giúp cho gia đình mà con đang sống, được luôn luôn là tổ ấm tình yêu, nơi rèn luyện tâm hồn hy sinh và chuẩn bị cho con tiến tới những tình yêu cần thiết khác.
Tôi còn trẻ, hay tôi đã già? Có thể cả hai. Có những người còn trẻ khi đã 60, nhưng lại có những Bùi-Tuần 2348
Tôi còn trẻ, hay tôi đã già? Có thể cả hai.
Có những người còn trẻ khi đã 60, nhưng lại có những kẻ đã già khi mới 20.
Có những thanh niên đã đánh mất tuổi trẻ, và cũng có những người suốt đời chưa bao giờ có tuổi trẻ để mà đánh mất.
Trẻ vì mặt tươi non. Trẻ vì sức hăng hái. Trẻ vì tuổi ít oi. Trẻ vì tính vô lo bồng bột...
Đúng hết. Còn một đặc điểm khác để biết mình già hay trẻ, đó là mong ước. Tuổi trẻ là tuổi ước mơ. Những gì mơ ước đều chưa tới. Nên sống trẻ cũng là sống đợi chờ. Trẻ nhìn về tương lai, xây mộng đẹp cho cuộc đời chật hẹp. Nên sống trẻ cũng là sống trong hy vọng.
Đừng coi mọi mong ước đều là vô ích. Thực tại quá nghèo. Chỉ có ước mơ là to lớn. Nhờ nó con người mới đi tìm được từ tiến bộ này sang tiến bộ khác. Mọi văn minh và mọi công trình đều thoát thai từ mộng ước của những trí khôn phong phú.
Trăm năm về trước, Jules Verne đã kể một câu chuyện tưởng tượng lên cung trăng. Câu chuyện mơ mộng đó đã gợi ý cho việc thực hiện những chuyến đi hiện nay lên nguyệt cầu.
Đinh Bộ Lĩnh lúc còn nhỏ đã nuôi dưỡng bằng những trò đánh trận cờ lau. Mộng nhỏ trở thành mộng lớn, và đời ông đã biến nên một cuộc thực hiện anh hùng cho giấc mộng vĩ đại của lịch sử đất nước.
Thánh Têrêsa thành Lisieux đã có những mơ ước táo bạo. Chị ước mến Chúa như chưa hề có ai mến bằng. Chị mong đi giảng tình yêu Chúa cho mọi người khắp nơi, từ tạo thiên lập địa tới ngày tận thế. Chị mơ ước làm linh mục để giảng về lòng thương Đức Mẹ. Thế rồi chị chết hồi mới 24 tuổi. Chị không thực hiện được mọi mộng ước. Nhưng Chúa kể mọi mộng ước của chị như những thiện chí quảng đại. Chị đã nên thánh. Bao bậc vĩ nhân, bao người giàu sang cùng thời với chị cũng đã chết. Sự nghiệp của họ đã chết theo. Nhưng tinh thần Têrêsa còn sống mãi trong hàng triệu linh hồn.
Có những mơ ước của một số người đã được hậu thế tiếp nhận hoan hỉ và truyền lại mãi mãi, vì nó đẹp và xứng đáng là những lý tưởng.
Cái làm cho một ước mơ nên đẹp, không phải vì nó xây dựng hạnh phúc cho người mơ ước mà chính vì nó mưu tìm hạnh phúc cho kẻ khác. Cái đẹp của ước mơ không ở chỗ thu vào, mà là ở chỗ cho đi.
Cho đi là mở sang kẻ khác. Lòng người cho đi trở nên rộng và cao hẳn lên, để dễ đón gặp Thiên Chúa. Chúa bao la và cao cả vô cùng. Chỉ những tâm hồn quảng đại cao thượng mới gặp được Ngài. Và gặp được Ngài là gặp được hạnh phúc.
Ai nuôi những ước mơ ích kỷ, sẽ thắt buộc tâm hồn trở nên nhỏ bé, thấp hèn không sao đón nhận được Thiên Chúa.
Tình cho đi là tình tăng lên. Tình vị tha là hướng đi của con người. Nếu bản tính con người là mơ tìm hạnh phúc vô biên, thì Chúa là hạnh phúc đó. Ngài ở cuối đường phục vụ tha nhân.
Có cho đi mới tìm lại được là thế. Những gì thu vén cho mình sẽ mất đi, nhưng những gì cho đi sẽ còn mãi.
Nếu tôi sống một cách ý nghĩa, thì mơ ước của tôi phải theo chiều hướng vị tha đó. Từ những ước mơ nhỏ, như làm nở được nụ cười, lau được một giọt lệ, cho đến những ước mơ lớn như được hao mòn và chết đi cho kẻ khác, tôi phải luôn luôn quên mình trong mọi lựa chọn, mọi tìm kiếm, mọi hành vi.
Như thế có nghĩa là một ước mơ tốt không những có giá trị ở chỗ vị tha, mà còn ở chỗ cố gắng thực hiện.
Nếu ước mơ để mà mơ ước, để rồi tin vào mơ ước, thì cuộc đời chỉ là một giấc ngủ dài.
Phải coi mơ ước tốt như tiếng gọi đi đến thực hành. Điều quan trọng không phải là thành công, nhưng là cố gắng. Cố gắng làm việc, cố gắng hy sinh, cố gắng chấp nhận cả đến thất bại, để rồi vươn lên. Cố gắng là đừng bao giờ nói: “Tôi không thể được, tôi đã đủ rồi”.
Nếu một mơ ước được thành sự thực một cách quá dễ, thì đâu là giá trị. Bước đi với chiếc gai đâm dưới bàn chân, và cứ thế dám bước hoài qua cả những chặng đường gập ghềnh sỏi đá, để tìm hạnh phúc cho người khác, đó là hình ảnh đáng kính của những giấc mơ đáng kính.
Chúa Giêsu đã sống và chết cho kẻ khác. Mơ ước của Ngài từ thuở đời đời là thế. Ngài đã thực hiện. Và Ngài đã sống lại vinh quang trong một tuổi trẻ ngàn đời.
Lạy Chúa, xin nuôi trong con những ước mơ vị tha hào hùng, xin kéo dài tuổi trẻ trong con bằng những ước mơ lành thánh. Xin hướng tuổi mơ về nẻo cao thượng, dấn thân và can đảm. Ôi lạy Chúa là Đấng làm vui sướng tuổi xuân con!
(NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 4)
*** (NÓI VỚI CHÍNH MÌNH Bài 5 – X. Bùi Tuần 19)
Đàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy dựng nên cho y một người giúp đỡ tương hợp với y Bùi-Tuần 2349
Đàn ông ở một mình không tốt. Ta hãy dựng nên cho y một người giúp đỡ tương hợp với y (x. St 2,18). Chúa phán như thế thuở trái đất mới chỉ có một người. Người đó là đàn ông.
Lời Chúa phán trên đã đưa tới việc dựng nên một người thứ hai. Người đó là đàn bà.
Bà được dựng nên bởi xương sườn của ông. Nên ông hướng về bà, bà hướng về ông. Như hai mà một. Như một mà hai. Đôi người thương nhau làm nên vợ chồng. Đó là hôn nhân đầu tiên.
Rồi từ đó đến bây giờ, hôn nhân đã không ngừng tiếp diễn. Hôn nhân này sinh ra hôn nhân khác. Mỗi hôn nhân là một chuyến đi về định mệnh, là một cuộc mạo hiểm đi tìm hạnh phúc, là một cuộc đổi đời mặc nhiều hy vọng và ảo vọng.
Những ngày liền trước hôn nhân là cả một mùa xuân. Những ngày mới thành hôn là mùa xuân thu. Những ngày lâu sau thành hôn là những ngày xuân thu chen giữa những tháng dài đông hạ.
Trong bao hôn nhân, tổ ấm đã trở thành tổ lo. Những tiếng thở dài làm nhoà những nụ cười biếng nhác và tuổi trẻ đã vội già hẳn đi, khi chiếc áo cưới vẫn chưa
nhạt màu.
Đã hẳn trong hôn nhân đã có tình yêu. Mà phải có tình yêu để nâng đỡ. Nhưng tình yêu không giữ mãi màu hồng. Nhất là những tình hôn nhân nặng tính cách đam mê buổi đầu. Đam mê là những trận bão cuồng say cuốn lên từ những ảo ảnh và khát vọng mạnh. Nhưng không lâu, thế nào rồi ảo ảnh cũng tan, thèm khát cũng lắng, bão cũng tàn. Cuộc sống bắt buộc con người phải đụng đầu với những thực tế không đẹp, không vui, không hay, không dễ như mình tưởng.
Lúc đó mới thấy rõ tình yêu phức tạp. Vì lý do sống còn, nó gọi đến tinh thần trách nhiệm một cách khẩn thiết hơn, cấp bách hơn. Tinh thần trách nhiệm phải đứng đó nhận lãnh can đảm mọi bổn phận của tình yêu. Nếu không tình yêu sẽ trở thành lừa đảo và hôn nhân sẽ biến nên ngục tù, trong đó người này là tù nhân của người kia.
Yêu nhau là phải thăng tiến không ngừng, là xây dựng hạnh phúc cho người mình yêu. Vì thế, tình yêu phải đi đôi với kính trọng và hy sinh như những bổn phận cần thiết.
Yêu mà không kính sẽ dễ coi người yêu như con mồi. Yêu mà không hy sinh sẽ dễ coi người yêu như đồ vật.
Đừng lạm dụng tình yêu cho những mục đích hoàn toàn ích kỷ.
Đừng khoác danh nghĩa tình yêu cho những yêu sách thiếu tính cách kính trọng đối với người yêu.
Đừng tìm giải quyết tình yêu bằng những phương tiện hoàn toàn vật chất có thể thỏa mãn một thời gian đòi hỏi, nhưng cũng rất có thể để lại những tai hại nặng nề về sinh lý và tâm lý.
Đã hẳn yếu tố sinh lý và tâm lý rất cần trong tình yêu hôn nhân, nhưng nếu chỉ dừng lại đó, thì tình yêu sẽ dễ lụi tàn, và mở đường cho những bất trung.
Tình yêu như ngọn đèn. Lấy áo bọc kín đèn, đèn
sẽ tắt.
Tình yêu như bông hoa. Áp hoa mãi vào ngực hoa
sẽ tàn.
Tình yêu như dòng suối. Xây đập chặn nước lại, suối sẽ cạn.
Chỉ vì đã có quá nhiều ích kỷ trong tình yêu.
Hôn nhân chỉ thành công, khi ích kỷ được vượt qua, để mỗi bên biết quên mình sống cho người khác. Một tình yêu ý thức được trách nhiệm, biết quên mình, can đảm lãnh bổn phận chính là bí quyết hạnh phúc cho bạn trăm năm, cho con cái và cho chính mình.
Hy sinh không luôn dễ. Quên mình không luôn vui. Trách nhiệm không luôn nhẹ. Tuy nhiên, mọi sự đều có thể thành tựu được, nhờ Đấng tạo thành nên mọi tình yêu.
Hãy năng nhìn lên Chúa là tình yêu của mọi tình yêu, để cảm tạ, xin ơn soi sáng, sức mạnh và an ủi. Tình yêu hôn nhân đẹp lắm. Nếu biết nuôi dưỡng nó trong tình yêu Thiên Chúa thì nó sẽ cao vượt, thông dự vào mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa và của Chúa Kitô với Hội Thánh Người. Có Chúa, cuộc đời hôn nhân tuy không phải là những ngày lễ vui, nhưng sẽ là một cuộc hành trình đầy tin tưởng đi về hạnh phúc bất diệt đợi ở cuối đường.
Mùa Chay là mùa màu tím. Không phải tím ở chân trời, hay tím ở bông hoa, nhưng tím ở lòng người Bùi-Tuần 2350
Mùa Chay là mùa màu tím. Không phải tím ở chân trời, hay tím ở bông hoa, nhưng tím ở lòng người. Vì mùa chay kêu gọi thống hối. Vì mùa chay thôi thúc trở về. Trở về đâu?
Không phải trở về với lề luật, với giáo điều, với nhiệm vụ, nhưng đúng ra là trở về với một Người.
Người biết tôi, trước khi tôi biết Người. Người yêu tôi, trước khi tôi yêu Người.
Tình yêu Người đã sinh ra tôi. Và chỉ yêu Người tôi mới hạnh phúc toàn vẹn. Lề luật Người chỉ có mục đích bảo vệ đường về hạnh phúc đó. Và đạo Người là sợi giây nối kết tình tôi lại với tình Người.
Vì thế, phạm luật và lỗi đạo là xa lìa tình Chúa, và thống hối là trở về với Đấng yêu tôi.
Trở về với ai, chứ trở về một tình yêu thì thực là
đơn giản.
Tôi có thể trở về như ông Giakêu. Ông là một nhân viên thuế vụ tham nhũng. Nghe Chúa đi qua, ông leo lên cây tò mò nhìn coi. Bất ngờ Chúa quay lại bảo ông: Tôi sẽ ghé thăm ông. Ông vội chạy về lo tiếp rước Chúa với sự niềm nở chân thành. Từ giờ phút đó ông trở nên người mới. Sự trở về của ông đã bắt đầu sự vui lòng tiếp nhận Chúa tới viếng thăm.
Tôi có thể trở về như người thiếu phụ ngoại tình. Bà bị điệu tới Chúa. Mọi người đều lên án. Còn Chúa thì làm thinh. Sau cùng Chúa bảo bà: Thôi con về đừng phạm tội nữa. Bà chưa xin lỗi thì đã lãnh nhận được ơn tha thứ.
Bà đã trở về khi phó thác mình cho một Chúa bao dung nhân ái.
Tôi có thể trở về như thánh Phêrô. Ngài đã chối Chúa ba lần. Tưởng rằng tình nghĩa đã tàn phai. Nhưng lúc đi ra Ngài quay lại bắt gặp đôi mắt hiền từ Chúa nhìn theo. Thánh Phêrô xúc động, khóc lóc, ăn năn thảm thiết.
Ngài đã trở về khi chịu nhìn vào Chúa.
Tôi có thể trở về như Mađalena. Cô mang cả một đời tội lỗi công khai đến với Chúa. Gặp Chúa, cô chỉ biết khóc. Cô đã được tha và làm lại cuộc đời.
Sự trở về của cô là hết lòng tin Chúa.
Tôi có thể trở về như kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa. Ông nói với Chúa: khi nào về nước thiên đàng, xin nhớ tôi với. Ông đã được tha thứ ngay, tha hết và được hưởng hạnh phúc với Chúa ngay ngày hôm đó.
Sự trở về của ông là khiêm tốn tin tưởng vào Chúa.
Như thế, trở về chính là gặp Chúa để tiếp nhận sự tha thứ của Người với lòng tin yêu.
Tôi nghĩ rằng: Chúa yêu tôi hơn những người yêu tôi nhất, nên chắc chắn Người tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người. Những ơn tha thứ đó tôi cần phải tiếp nhận. Mà muốn tiếp nhận thì phải gặp Chúa với ý muốn ở lại mãi trong đời sống ân tình.
Do đó, sự trở về bao giờ cũng khơi động lòng tin yêu của niềm sám hối. Có thể nói: Sám hối là nước mắt của tình yêu khóc một niềm tin, là sự hối hận của niềm tin khóc một tình yêu.
Tin và yêu là hai dòng lệ thống hối của kẻ trở về.
Tin và yêu là hai con mắt của kẻ trở về nhìn vào Chúa. Nhìn vào Chúa hơn nhìn vào mình.
Tôi nhìn vào Chúa tôi và tin Người tôi yêu.
Tôi nhìn Chúa và tôi yêu Người trên hết mọi sự.
Tôi nhìn Chúa và tôi phó thác nơi Người tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai của tôi.
Sự trở về như thế là việc tôi phải làm mỗi ngày. Vì có ngày nào tôi hết là người tội lỗi đâu?
Lạy Chúa, giờ đây con đến với Chúa. Con im lặng nhìn Chúa. Con không biết nói gì. Con phó thác thân phận yếu hèn con nơi lòng Chúa xót thương. Tình Chúa là nhà, lòng nhân hậu Chúa là quê hương. Hôm nay con trở về đó với tất cả lòng tin yêu phó thác. Xin gìn giữ con Chúa ơi!