FICHES DOMINICALES CHÚA NHẬT NĂM B Dịch từ Fiches dominicales Bulletin de liaison et d'animation des équipes liturgiques du diocesè Saint - Brieuc et Tréguier.
1. Trong ánh sáng ngày Con Người trở lại. Người ta chờ đợi phụng vụ năm B sẽ mở đầu bằng những trang đầu của Tin Mừng theo thánh Mác-cô là một điều hợp lý. Thế nhưng, không như người ta tưởng, phụng vụ hôm nay lại trích dẫn một đoạn trong phần gần cuối của Tin Mừng Mác-cô nói về “ngày Tận Thế” để giúp soi sáng thêm ý nghĩa của Mùa Vọng ta đang bước vào. Sở dĩ Đức Giêsu nói về ngày Tận Thế là vì các môn đệ đã lo lắng hỏi Người khi nghe Người loan báo đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá. Khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói với các môn đệ về ngày Tận Thế, thánh Mác-cô muốn các độc giả của Ngài hiểu rằng lời Chúa xưa nói với các môn đệ cũng là lời Người nói với họ hôm nay: - Với những độc giả của Tin Mừng Mác-cô, là những người đã biết hay sẽ biết những năm tháng bi đát (năm 64 Nêrôn bắt bớ, năm 66 cuộc nổi dậy ở Palestin, năm 70 đạo binh của Titus chiếm đóng và phá hủy đền thờ), thì phải học biết rằng ngày Chúa trở lại mà họ tin là sắp dến còn lâu mới xảy ra. - Còn với độc giả hôm nay và mọi thời cho đến ngày Đức Giêsu trở lại, lời Chúa loan báo soi sáng cho họ biết tầm quan trọng của thời họ đang sống: lịch sử đang tiến đến viên mãn và Đấng sẽ đến gặp gỡ chúng ta ở thời sau cúng này là Đức Giêsu cũng là “Con Người”.
2. Mạc khải những thách thức thời hiện đại. Thật ra khi né tránh câu hỏi KHI NÀO – bí mật của Chúa Cha – và NHƯ THẾ NÀO, Đức Giêsu có ý khuyến khích các môn đệ mình sống giây phút hiện tại trong sự dấn thân khiêm tốn và tin tưởng cùng với sự tỉnh thức nhạy bén. Người nói với các ông: “Anh em phải coi chừng ( tiếng Hy lạp: hãy mở mắt), phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.” Những lời đó được minh hoạ tức khắc bằng dụ ngôn ngắn gọn cuối cùng: dụ ngôn một người trẩy đi phương xa, chắc là xa lắm, và trao tất cả quyền hành cho các đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc, và dặn người gác cửa tỉnh thức. Chúa nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày giờ sẽ đến (người ta không biết khi nào thời ấy sẽ đến: c. 33, người ta phải chờ đợi việc Chúa trở lại cách thình lình, không báo trước: c. 33,35,36) có mục đích duy nhất như một lệnh truyền hãy tỉnh thức. Cách chỉ giờ giấc nối tiếp nhau của trình thuật rất có ý nghĩa, chứ không chỉ có tính cách kể chuyện, vừa thể theo cách người Rôma chia đêm thành bốn canh, vừa gợi nhớ bốn giai đoạn của cuộc thương khó, vừa đề ra bốn giai đoạn mà các môn đệ phải tỉnh thức, nghĩa là không những phải chống trả với sự buồn ngủ về thể lý, nhưng còn phải sẵn sàng đối đầu với sự việc sắp đến cách bất ngờ. - “Buổi chiều”: Giờ mà Đức Giêsu đoán trước sự phản bội của Giuđa và sự từ chối của chính Phêrô (14,13-31). - “Nửa đêm”: Giờ Chúa hấp hối trong vườn Giếtsêmani, mời gọi các môn đệ tỉnh thức, và ba lần “Người thấy họ ngủ”. Người nói: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (14,32-42). - “Lúc gà gáy”: Giờ Phêrô chối thầy trong sân Thượng tế (14,66-72). - “Sáng sớm”: Giờ các môn đệ bỏ trốn, Đức Giêsu bị Hội đồng trao nộp cho Philatô (15,1...). Một lần nữa khi nhấn mạnh lệnh truyền của Thầy “Hãy tỉnh thức” trước cuộc tử nạn, thánh sử Mác-cô muốn khuyến khích anh chị em ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai đừng để cho lòng mình ra nặng nề, rối loạn, thất vọng. Nhưng luôn vững tâm tỉnh thức đón tiếp Đấng vẫn đến cho những ai luôn biết hiện diện với Người, và một ngày kia, Người sẽ đến trong vinh quang. Bởi lẽ chính ngay bây giờ, chính trong thực tại khiêm tốn diễn ra hằng ngày, mầu nhiệm cuộc gặp gỡ được thể hiện. Sau hết, hình như điều quan trọng Đức Giêsu muốn nói với chúng ta không nằm trong chữ KHI NÀO hay BẰNG CÁCH NÀO vào thời sau hết mà nằm trong chữ AI: phải gặp gỡ AI trong cuộc gặp gỡ sau cùng, cũng như nằm trong sự tỉnh thức tích cực giữa những lo toan của cuộc sống hằng ngày. Đó chính là điều Con Người mời gọi mời gọi các tín hữu khi Người đến.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. Ơn gọi của các môn đệ: trở nên người canh thức cho thế giới (Mgr. L. Daloz, trong “Vậy Ngài là ai?”, Desclée de Brouwer, tr. 83-84). Chương này dựng cảnh trí cho Đức Giêsu nói đến bi kịch của thế giới sẽ diễn ra: viễn ảnh của ngày tận thế. Sự chết và sống lại của Đức Giêsu làm cho lịch sử nhân loại có ý nghĩa. Tại núi Câu Dầu, đối diện với Đền thờ, Đức Giêsu tâm sự với bốn môn đệ mà Người kêu gọi trước hết là “Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê...”. Qua các ông, Người mạc khải cho chúng ta ý nghĩa của thời kỳ ta đang sống: đó là thời kỳ chờ đợi, người môn đệ phải là người canh thức, ngóng chờ chủ trở về. Đó là thời kỳ đầy mơ hồ cần sự phân định, và chúng ta được mời gọi phải canh phòng cẩn mật, đừng để bị phỉnh gạt chạy theo những đấng Mêsia giả hiệu. Đó là thời kỳ phấn đấu và chịu bách hại, thời kỳ chuyển bụng của một thế giới đang đau đớn trước khi sinh con. Đó là thời kỳ được ban cho các nhân chứng để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân mọi nước. Đó là thời kỳ của Thần Khí, Đấng hướng dẫn miệng lưỡi các vị tử đạo... Sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của những biến cố xoay vần bất tận. Xuyên qua ngay cả những bất an và những cùng khổ, từ nay lịch sử quy hướng về Con Người đang đến. Khi mọi chỗ nương tựa chắc chắn hữu hình và cả đến “trời và đất” đều sụp đổ, Người để lại cho các môn đệ Người một chỗ nương tựa vững chắc, đó là những lời Người không thể qua đi. Họ có bổn phận phải kiên trì quan sát những cành cây vả, để nhận ra và loan báo rằng, cây sắp đâm chồi nẩy lộc, và sau mùa đông rét buốt thì mùa hạ đang đến gần. Họ có bổn phận phải lắng tai để nghe hồi chuông báo hiệu giờ quyết định, mà không ai ngoài Chúa Cha được biết, và phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm ngày mới, tỏa ánh vinh quang của Con Người. Từ nay ơn gọi của người môn đệ cho đến ngày tận cùng thời gian là làm người canh thức cho thế giới... “Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!”.
2. “Đợi chờ rạng đông” (H.Vulliez, trong “Thiên Chúa rất gần” năm B, Desclée de Brouwer, tr. 9-10). Đức Giêsu luôn đến với ta cách đột ngột. Ngài loan báo những ngày thống khổ, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sẽ không còn chiếu sáng, đồng thời Ngài gợi lên “sự trở lại của Con Người”, sự trở lại của chính Ngài, “trong uy quyền và vinh quang” viên mãn. Tất cả là để nói lên: “Hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức”. “Hãy tỉnh thức”, đó là lời mời gọi khẩn cấp vang lên trong khung cảnh của ngày sau hết trong lúc xuất hiện một thế giới mới. Trong bài đọc ngày hôm nay, lời mời gọi này được lặp lại bốn lần! Khi nói như thế, không phải Đức Giêsu muốn tung ra một lời đe doạ ghê gớm của ngày chung thẩm, hay muốn tạo cho người nghe cảm giác nổi gai ốc về tai hoạ sắp xảy đến. Nhưng ở đây, qua dụ ngôn nén bạc chẳng hạn, không phải là chuyện tính sổ, mà trước hết là đừng ngủ mê, phải tỉnh thức sẵn sàng để đón tiếp, vì bất cứ lúc nào Thầy cũng có thể đến một cách bất ngờ. Làm sao các môn đệ hiểu được những lời này khi Đức Giêsu nói với các ông? Phải đợi đến sáng sớm Phục sinh, bừng lên trong ánh sáng mờ ảo của bình minh, dụ ngôn ngắn ngủi nay mới rõ nghĩa. Một chi tiết của bài đọc làm ta ngạc nhiên: Thầy sẽ đến ban đêm, vào bất cứ giờ nào: buổi tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay lúc rạng đông? Không ai biết cả. Từ muôn thuở, từ lúc Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, ngày và đêm chiến đấu với nhau và sẽ như thế mãi cho tới khi Chúa đến chiến thắng vĩnh viễn cho ánh sáng. Chiến thắng trên những quyền lực sự dữ của bóng tối. Thời gian ở đời này là thời gian chiến đấu. Đức Giêsu thúc giục bạn hữu mình và các môn đệ của Ngài hãy tỉnh thức, không như những người lính gác hay người lính tuần đêm, nhưng như người đợi chờ ánh bình minh, mong ngày tới để hưởng niềm vui và loan báo cho mọi người. Người cũng muốn các ông luôn phải sẵn sàng đón Người, vì Chúa đến bất cứ lúc nào, chứ không chỉ vào “giờ chết” hay “ngày tận thế” mà thôi đâu. Trong mọi giây phút tăm tối của cuộc đời, ánh sáng soi dẫn của Chúa luôn bên ta. Nhiều người mời gọi người ta ăn năn trở lại bằng cách loan báo những tai hoạ khủng khiếp: “Hãy run sợ, hãy chuẩn bị”. Còn Đức Giêsu kêu mời một cách thanh thản, thực tế. Thanh thản như bầu trời lúc bình minh đầy ánh sáng. Thực tế như trái đất sống nhờ ánh sáng. Cái nhìn thanh thản và thực tế này tạo nơi chúng ta niềm cậy trông bởi vì nó đưa chúng ta vượt qua cái chết, vượt qua trần thế này. Cái nhìn ấy cũng hướng về ánh sáng luôn đến gần bên ta. Chúng ta có phải là những người đang mong chờ ánh bình minh không? Bước vào ngưỡng cửa Mùa Vọng này, chúng ta có sẵn sàng nhìn ngắm và đi theo ngôi sao dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người không?
LỜI TỰA Tin Mừng Máccô:
Từ Gioan Tẩy giả đến Đức Giêsu
(Mc 1, 1-13)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Một lịch sử mới bắt đầu Tin Mừng thánh Mác-cô hôm nay bất đầu bằng một câu không có động từ, gồm một ít tiếng được chọn lọc kỹ càng, mỗi chữ đều rất nặng nghĩa: tác giả đã cho thấy rõ trọng tâm sứ điệp của Đức Kitô và phác hoạ cho độc giả con đường đức tin. - Đó là sự “Khởi đầu”, J.Hervieux lưu ý: “Trong Kinh Thánh, sách Sáng Thế và nhiều sách khác đã bắt đầu như thế. Chắc hẳn thánh sử muốn gợi lên rằng Đức Giêsu sẽ mở đầu một lịch sử thánh mới, một tạo dựng mới” (“Tin Mừng thánh Mác-cô”, Centurion, tr. 15). - Đó là sự khởi đầu của “Tin Mừng” (tiếng Hy Lạp: Evangile). Điều mà tiên tri Isaia đã loan báo (bài đọc 1 của Chúa nhật này) – tức “Tin Mừng” do sáng kiến của Thiên Chúa vì lợi ích cho dân Ngài - đã hoàn tất, mặc lấy xác phàm trong lịch sử loài người. - Đó là khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Đấng đã giảng dạy Tin Mừng này trước khi trở thành đối tượng của Tin Mừng sau khi Ngài sống lại. Hơn là một cuốn sách, hơn là một sứ điệp mừng vui, Tin Mừng này chính là Đức Giêsu. - Thánh sử Mác-cô đã mặc khải về Đức Giêsu bằng hai danh hiệu đầy ý nghĩa: “Kitô”, “Con Thiên Chúa”. + “Kito”, là từ mà ngày nay chúng ta không còn hiểu hết ý nghĩa nguyên thủy của nó. M.E. Boismard lưu ý: “ Lẽ ra phải đặt một dấu phẩy giữa hai từ GIÊSU và KITÔ, để nhấn mạnh từ thứ hai là một danh hiệu đặt cho Đức Giêsu, đó là một danh hiệu hoàng tộc. Từ “Kitô” chuyển âm từ “Christos” của tiếng Hy Lạp . “Christos” dùng để dịch động từ “meshiah” của tiếng Do thái có nghĩa là “xức dầu". Động từ Do thái này cũng biến thành “messias” trong tiếng Hy lạp. Bởi vậy, “Kitô” có nghĩa tương tự như “Mêsia” để chỉ người được Thiên Chúa xức dầu ... bằng dầu đã được hiến thánh... Do đó, trong số những người được thánh hiến bằng dầu thánh, các vì vua mà Thiên Chúa chọn dẫn dắt dân Người chiếm một vị trí chính yếu và sau này người được xức dầu thánh chỉ còn dùng để chỉ các vì vua mà thôi. Như vậy, nghĩa đầu tiên của từ “Kitô” có ý nói Đức Giêsu là Đấng được Thiên Chúa xức dầu để làm vua dân Người. Đàng khác, chúng ta sẽ thấy cảnh Đức Giêsu chịu phép rửa (1,9-11), được Mác-cô trình bày như là một sự đăng quang làm vua vậy.” (“Giêsu, người Na-gia-rét”, Cerf, 1996, tr.14-16). + “Con Thiên Chúa”, vào thời Đức Giêsu, danh hiệu này được gán cho Đấng Mêsia. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa che chở cách riêng Đấng Người nhận làm con, và giữa họ có mối dây liên hệ đặc biệt. Nhưng đối với các môn đệ, họ cần thời gian để nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong mối tương quan có một không hai; trong Người, chính Thiên Chúa đến với nhân loại. Các ông chỉ có thể nhận ra điều này sau ngày Chúa phục sinh nhờ Thánh Linh ban ơn trong ngày lễ Ngũ Tuần. KITÔ, CON THIÊN CHÚA, hai danh hiệu trả lời trước cho câu hỏi luôn vang lên trong suốt 8 chương đầu của Tin Mừng thứ hai: “Người này là ai?”. Hai danh hiệu đã phân chia hai phần lớn của Tin Mừng này: - Phần đầu dẫn chúng ta đến lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Ngài là Đấng Kitô” (8,29...). - Phần thứ hai dẫn ta đến sự hiệp thông với niềm tin của viên sĩ quan Rôma được chứng kiến cái chết của Chúa, đã tuyên xưng: “Người này thật là Con Thiên Chúa” (15,39). - Benoit Standaert kết luận: “Phúc Âm hay Tin Mừng, chính là Đức Giêsu và với Ngài, thời đại mới bắt đầu, màn trời xé ra, Thánh Thần ngự xuống, và quyền năng Thiên Chúa chiến thắng quyền lực sự dữ... Ngay những từ đầu tiên của Mác-cô đã là sự khai mở, từ đó xuất hiện một danh hiệu mới, một sự hiên diện mới: Đức Giêsu, Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Mác-cô đã nói quá đủ! Ngài chẳng còn gì để nói với chúng ta nữa.” (“Tin Mừng theo thánh Mác-cô, chú giải”, Cerf, tr.41).
2. “Khúc dạo đầu” cho một màn kịch khác. Ngay sau danh xưng đầy ý nghĩa trên về Đức Kitô, không một lời chuyển tiếp, thánh sử cho Gioan Tẩy Giả xuất hiện: “Và Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong hoang địa”. Ở ngay phần đầu, đã có những trích dẫn Thánh Kinh (Xuất Hành 23,20; Mal. 3,1 và 23; Is 40,3); điều đó hàm ý ghi tên Gioan Tẩy Giả vào truyền thống ngôn sứ và giới thiệu ông như “sứ giả” được Thiên Chúa sai đến “để dọn đường”, như người sẽ mở đường cho Thiên Chúa đến, qua đấng Mêsia của Ngài. - Nơi Gioan Tẩy giả thi hành sứ mệnh là “hoang địa”, là nơi của Xuất hành, là nơi vừa để chịu thử thách vừa để được mặc khải tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa, đồng thời là nơi tượng trưng cho mọi khởi đầu. Và chính vì thế, Gioan “Kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.” bên giòng nước sông “Gióc-đa-nô” nơi dân Chúa đã băng qua để vào đất hứa, - Lời ông vang dội “khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem”. Một cách nói của thánh sử để cho ta hay là tiếng gọi của con người sa mạc nay gởi đến tất cả mọi người. - Y phục ông làm ta ngạc nhiên. Y phục ấy mang ý nghĩa tượng trưng vì đó cũng là y phục của ngôn sứ Êlia. Sách Các Vua viết: “Ngài mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da” (IR 17,1-6; 19,5-8). Đó là cách thánh sử trình bày Gioan Tẩy Giả như một ngôn sứ Êlia, đấng mà thời Đức Giêsu người ta tin là phải đến trước Đấng Mêsia. - Cách sống của ông rất khắc khổ, trái hẳn với cách sống của Đức Giêsu. J.Hervieux nhận xét: “Người không ăn bận khác thường, không ăn chay, Người uống rượu và ăn thịt. Thay vì ở trong hoang địa như Gioan, Người sống trong đời thường, giữa quần chúng” (sách đã dẫn, tr.19). - Công việc của Gioan là mở đầu thời đại mới: “Khởi đầu Tin Mừng”, và chỉ cho thấy Đấng mà ngài có bổn phận loan báo rằng: Người đến, rồi tức khắc Gioan rút lui. “Đấng đến sau tôi - ông tuyên bố cách ngược đời, - bởi lẽ đi đằng sau ai, điều đó có nghĩa là môn đệ của người ấy - Người quyền phép hơn tôi, tôi không xứng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Chẳng những Gioan tuyên bố không xứng làm môn đệ của Đấng đến sau ông, mà còn cho mình không xứng làm tôi tớ của Người. Ông khẳng định rõ ràng: phép rửa của Đức Giêsu vượt trên phép rửa của ông: “Tôi đã làm phép rửa cho anh em trong nước, phần Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”. J.Hervieux kết luận: “Sứ điệp rất rõ ràng: Gioan tự giới thiệu như là kẻ đến trước Đức Giêsu. Ông đi trước “Đấng quyền năng” hơn ông. Ông ý thức về sự thấp kém của mình. Ông phải tự hạ trước Đức Giêsu như tôi tớ trước chủ, đến nỗi không xứng cởi dây giày cho Chúa! Sau cùng và nhất là sự khác biệt chính được công nhận giữa phép rửa của Gioan và phép rửa của Đức Giêsu. Gioan đã làm phép rửa trong nước. Đức Giêsu thì làm phép rửa trong Thánh Thần. Cái độc đáo của Đấng Mêsia khi so sánh với vị tiền hô của Người, là Người nắm giữ Thần Khí (xem 1,10). Với ơn Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi phục sinh, Đức Giêsu đem đến ơn tha tội một cách dứt khoát (Cv 2,38). Vì thế ngay từ trang đầu của Tin Mừng, Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy Giả, sứ mệnh và phép rửa của ông vào đúng chỗ của nó. Tất cả chỉ là để loan báo và để dọn đường cho Đấng Mêsia đến (...). Phần sau sẽ soi sáng mối liên hệ họ hàng mật thiết giữa Gioan và Đức Giêsu, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa hai con người này” (Sách đã dẫn, tr. 19)
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. Đáp lại lời mời gọi của Gioan, chúng ta hãy chuẩn bị đón nhận Đức Giêsu (Mgr. L. Daloz trong: “Ngài là ai”, Declée de Brouwer, tr. 10). “Lời công bố của Gioan Tẩy giả như khúc dạo đầu mở màn cho Đức Giêsu, Đấng Mêsia xuất hiện. Đức Giêsu có mặt giữa những người đáp lại lời mời gọi của Gioan nơi hoang địa. Nhưng ý nghĩa của việc Chúa đến được giải thích bằng những lời của tiên tri Isaia: “Hãy dọn đường cho Chúa...”. Trước khi Đức Giêsu xuất hiện, một sứ giả đã đưọc phái đến để loan báo dọn đường cho Người. Người ta không thể đón nhận Đức Giêsu nếu không có chuẩn bị trước.Người đến với những ai chấp nhận đi vào con đường hoán cải bằng cách xưng thú tội mình, chấp nhận sự đổi mới của phép rửa thống hối. Nhờ the, chúng ta biết thêm sự cao trọng của Đấng sẽ đến. Ngài là “Đấng quyền năng hơn…”, và sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Đây là một thái độ đón nhận, chú tâm, một thái độ hoán cải cần có để chuẩn bị gặp gỡ Đức Kitô. Ngài là người đơn sơ và nghèo khó, người anh em của chúng ta. Nhưng đằng sau dáng vẻ bề ngoài ấy, chúng ta được mời gọi tìm hiểu mầu nhiệm của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa.
2. “Đức tin, sức mạnh đổi mới” (Mgr. Cl. Dagens trong: “Trình bày đức tin trong xã hội hôm nay”, Cerf, tr. 39-41). Đánh giá những biến đổi đang diễn ra trong cách sống đạo của những cộng đoàn kitô giáo không phải nhằm làm một bản tổng kết, nhưng là để nhìn nhận sức mạnh đổi mới do Chúa ban và được thể hiện nhờ việc chúng ta sống đức tin. - Chúng ta có thể bắt đầu từ sự kiện mới mẻ sau đây: đó là sự đón tiếp và tháp tùng những tân tòng trưởng thành hay những trẻ em chưa được rửa tội dến học các lớp giáo lý do những bạn bè có đạo dẫn dắt. Con số những người theo học giáo lý như vậy gia tăng không ngừng. Tại sao đức tin nơi những tín hữu đạo gốc lại được đổi mới nhờ những cuộc gặp gỡ này? Thưa bởi vì họ thường đồng hóa Tin Mừng với cách nhìn đời của họ, và vì họ thường có thói quen chỉ giữ lại những gì trong Tin Mừng củng cố lý tưởng nhân loại của mình. Chỉ khi va chạm với những người không thuộc nền “văn hóa công giáo”, họ mới thẩm định lại sự mới mẻ nơi Mạc khải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và sức đổi thay của Tin Mừng. Cũng nhờ đó, họ phát hiện lại sự phong phú của truyền thống phụng vụ và tâm linh trong Kitô giáo, cũng như niềm vui được thuộc về Giáo Hội như một gia đình mới. Gia đình này không tuân theo những luật lệ của xác thịt nhưng tuân theo lời mời gọi của Thánh Thần. Đó là cách chúng ta phải suy gẫm về những gì đã xảy ra bởi vì Lời Chúa mà các tân tòng khám phá cũng chính là Lời mà chúng ta phải đón nhận và loan báo. Chúng ta không thể phủ nhận cú sốc về niềm tin do hiện tượng trở lại này. Vả lại, cần phải tìm hiểu sâu xa hơn để nhận ra rằng sự kiện tân tòng trở lại, một hiện tượng mới mẻ, biểu lộ sự tìm kiếm đời sống tâm linh của rất nhiều người đương thời. Trong bối cảnh này, trình bày đức tin Kitô giáo không thể là một việc duy ý chí, nhưng chúng ta phải dấn thân vào công cuộc tìm kiếm này, hiểu biết nó, phân định những lời mời gọi, những cám dỗ và cả những ảo tưởng của nó nữa. Bằng những phương tiện của mình, chúng ta cũng cần khắc ghi vào đấy Mạc Khải về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói với mọi người: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.” -Tương tự như vậy, chúng ta cũng nên nói đến mục vụ cho trẻ em và thanh thiếu niên. Cần phải có những thái độ sư phạm phù hợp và xác định đâu là vai trò và thẩm quyền của chứng nhân trong việc truyền giảng đức tin trong bối cảnh có sự “đứt đoạn với các truyền thống” hiện nay. Ngay cả ở đây nữa, điều chúng ta cần thực hiện không chỉ là so sánh những ý kiến khác nhau về mục vụ hay giáo dục, nhưng là hiểu biết sự phong phú của niềm tin vào Đức Kitô trong việc khai tâm đức tin cho những thế hệ trẻ. - Chúng ta cũng có thể đề cập đến những phương tiện mục vụ đang được cải tiến trong Giáo hội Pháp. - Sau cùng, chúng ta có thể chứng tỏ niềm tin vào Đức Kitô đã gợi lên và cổ xúy cuộc đấu tranh cho quyền con người thế nào, và nói rõ hơn, niềm tin ấy làm thế nào đã giúp hòa hợp được giữa đấu tranh và chiêm niệm, giữa đời sống tâm linh và dấn thân trong xã hội. Ở đây, những tương quan mâu thuẫn giữa những người bề ngoài như xa cách nhau có thể nói không còn tồn tại: chiến sĩ công giáo tiến hành, linh mục thợ, thành viên của những cộng đoàn mới, hoặc đan sĩ nam nữ. Dĩ nhiên, nói vậy không có nghĩa là xóa bỏ những khác biệt có thực trong những hình thức dấn thân. Nhưng xét đến động cơ sâu xa của sự dấn thân, chúng ta sẽ nhận ra những đòi hỏi như nhau: không thể sống với Đức Kitô trong thân phận tôi tớ của Người mà không sống với những anh em bị xã hội loại trừ; cũng vậy, không thể sống dài lâu với những anh em bị xã hội loại trừ mà không tìm kiếm gặp gỡ Đức Kitô trong chiêm niệm. Nỗi đam mê phục vụ nhân loại hiện rõ đằng sau sự khác biệt về cách sống đức tin. Do đó, chúng ta có thể trình bày đức tin Kitô giáo như một sức mạnh hoán cải và biến đổi thực sự cho cá nhân cũng như cho xã hội. Bởi vì, trong thực hành của Giáo hội, tin và sống đức tin giúp luôn có những sáng kiến và những đổi mới trong vô số lãnh vực.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Ngài chỉ là chứng nhân của sự sáng. Bài đọc cho Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay lấy trong Tin Mừng của thánh Gioan. Trong lúc lời mở đầu được viết như một thánh thi: “Từ đầu đã có Ngôi Lời...”, thì bỗng nhiên cung giọng trên như bị ngắt ngang (6-8), tác giả làm xuất hiện “một người” tên là Gioan. - Khi khẳng định Gioan được “Thiên Chúa phái đến”, thánh sử đã xếp ông vào hàng những ngôn sứ lớn. - Ngài được sai đến như “một chứng nhân” để làm chứng cho “Ánh Sáng”, bởi vì chính ngài không phải là ánh sáng.
2. Ngài chỉ là đấng mặc khải sự hiện diện huyền nhiệm. Từ câu 19 đến câu 28, chúng ta thấy Gioan thực hiện điều mà đoạn mở đầu đã loan báo về ngài. - Bị thúc bách bởi người Do Thái (phải hiểu là giáo quyền của phái Giuđa) muốn biết rõ ngài có phải là Đấng Mêsia họ đang mong đợi hay không, thì ba lần Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng cách phủ nhận: . Không, ngài không phải Đấng Mêsia cho dù hành động làm phép rửa của ngài gợi lên thời kỳ đã mãn đang đến, và có thể làm cho người ta tin như thế. . Không, ngài không phải là “Êlia”, đấng sẽ đến trước Đấng Mêsia như người ta khẳng định từ khi ông được cất lên trời trong cỗ xe bằng lửa (xem Mal. 3,23: “Này đây Ta sẽ sai Êlia, vị ngôn sứ trước khi ngày của Yavê đến” ). . Không, ngài không phải là “vị tiên tri vĩ đại” nhân vật mà Môsê đã loan báo sẽ đến (trong Đệ Nhị Luật 18,15-18). - Trước sự gạn hỏi của đối phương: “Nếu ông không phải là Đấng Messia, là Êlia hay vị ngôn sứ vĩ đại, tại sao ông lại làm phép rửa?” Gioan Tẩy Giả xác định vị trí của mình đối với Đấng ngài loan báo, ngài có hai vai trò: . Trước hết ngài là “tiếng kêu” mở đường cho Đấng mà họ không biết. Ngài thực hiện lời tiên tri trong Isaia 40 nơi bản thân và trong sứ mạng của ngài: “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: hãy san bằng đường của Chúa như ngôn sứ Isaia đã loan báo” (bài đọc thứ nhất Chúa nhật II Mùa Vọng). X.Léon Dufour dẫn giải: “Tự giới thiệu mình là “tiếng kêu”, Gioan đảm nhận phẩm cách cao trọng của Kinh Thánh. Nếu tự ngài không có gì cả cho riêng mình, ngài nhận lấy Lời Hứa trong chính bản thân ngài. Nếu thánh sử không diễn tả những nét đặc biệt của Gioan Tẩy giả, là vì muốn mặc cho ngài khuôn mặt của Cựu Ước, để qua nhân chứng này, chính Thánh Kinh của Israel nhận ra và chỉ rõ Đức Kitô là Đấng Mêsia. Từ lúc mở đầu cuốn sách, cái nhìn này là chủ yếu trong suốt cuốn Tin Mừng của Gioan.” (Sđd., Tr. 161). . Sau đó, ngài là đấng làm phép rửa “trong nước”, phép rửa khai tâm để hướng về phép rửa “trong Thánh Thần”. A. Marchadour viết: “Đối với Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu phải được tiếp nhận như một ân huệ nhiệm mầu của Thiên Chúa, Đấng mà không ai biết nguồn gốc. Chính ông cũng không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, một việc chỉ do hàng tôi tớ làm mà thôi. Điều đó nói lên sự cách biệt giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy giả” (“Tin Mừng thánh Gioan”, Centurion, tr. 43). Sự hiện diện của Đấng Mêsia sẽ hoàn tất lời Chúa hứa với Israel. Điều cần thiết là biết được đấng sẽ đến là ai. Ít lâu sau, Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho thấy Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (Tin Mừng Chúa nhật II, năm B).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Đáp lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy sẵn sàng để đón rước Con Thiên Chúa làm người” (Sintas trong: “Lời Chúa để suy gẫm và dọn bài giảng năm B”, Mediaspaul, tr. 14-15). “... Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ trong cả cuộc sống của ngài... lời dạy của ngài là một lời kêu mời sám hối và đền tội. Đến nỗi giáo quyền Giêrusalem lo lắng và sai người đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Đằng sau câu hỏi này, còn có một câu hỏi khác: ngài có phải là Đấng Mêsia mà tất cả truyền thống Do Thái chờ đợi không? - Gioan khẳng định ông không phải là Đấng “Mêsia”, đồng thời ông loan báo một điều lạ lùng: Đấng Mêsia đã ở giữa họ mà họ không biết. Họ hãy mau chuẩn bị. Nếu muốn nhận ra Người thì hãy đọc lại lời tiên tri Isaia. Lời đó sẽ nói cho hay cứ dấu nào họ sẽ nhận biết Người. Isaia đã hứa những gì? Chúng ta vừa nghe ông nói. Đấng Mêsia không tỏ mình ra trong sự huy hoàng mà loài người thường gán cho thần thánh. Ngài đến với người nghèo để loan báo Tin Mừng cho họ. Ngài đến với người tàn tật để loan báo họ sẽ được lành. Ngài đến với tù nhân để loan báo họ sẽ được tự do. Để gặp được Đấng Thiên Chúa sai đến, điều quan trọng là chúng ta nhận ra mình đứng về phía những người mà Người được sai đến. Nếu chúng ta không muốn sống nghèo giữa người nghèo, chúng ta sẽ không gặp được Đấng Cứu thế. Nếu chúng ta không nhận ra mình là người bệnh hoạn, và trái tim tan nát hay bị tù đày, Giáng sinh đích thực sẽ không phải là của chúng ta. Tự nhận và muốn mình là người nghèo của Thiên Chúa, đó là thống hối, đó là phép rửa mà chúng ta được Gioan mời gọi, nếu chúng ta muốn dọn mình để mừng Con Chúa làm người. Lẽ tất nhiên sự hoán cải này là bổn phận thiêng liêng và thuộc nội tâm. Nhưng nếu sự tiến triển bên trong không được diễn tả ra bên ngoài bằng việc làm và một đời sống cụ thể thì không có gì là thật. Bởi thế, Mùa Vọng mời gọi chúng ta đến gặp những anh em nghèo vật chất hay tinh thần, bệnh hoạn và tù nhân. Không phải với một thái độ trịch thượng, thương hại. Ta phải đến với họ như đến vời người anh em, bởi lẽ những gì biểu hiện ra trong thân xác, trong cuộc sống của họ, là dấu chỉ những gì xảy ra trong thâm tâm ta. Chúng ta thuộc về họ và họ thuộc về chúng ta. Có lúc do nghề nghiệp mà chúng ta đến gặp họ. Nếu không, chúng ta cũng có thể tình nguyện đến gặp họ. Lẽ tất nhiên, trước vô vàn những khốn khổ, chúng ta cũng không làm được bao nhiêu. Nhưng ít ra nó cũng gợi lên trong ta niềm hy vọng đích thực mà đôi khi chúng ta cũng cần có. Niềm hy vọng ấy giúp ta quay trở về với Thiên Chúa để ước ao Ngài ban cho ta một Đấng Cứu độ, Đấng có thể hoàn tất mỹ mãn những gì mà lòng quảng đại của chúng ta chỉ mới bắt đầu. Niềm hy vọng ấy cũng sẽ cho ta thấy giá trị của những việc chúng ta định làm và đã bắt đầu, dù cho là thật nhỏ bé.
Đức Maria đã đón nhận quyền năng Thánh Thần
VÀ NHỜ LỜI XIN VÂNG CỦA MẸ, LỜI HỨA VỚI DAVID XƯA KIA
NAY ĐÃ MẶC LẤY XÁC PHÀM,
MỘT BIẾN CỐ VƯỢT XA MỌI TRÔNG ĐỢI THƯỜNG TÌNH. (Lc 1,26-38)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Trong gian nhà khiêm tốn ở Nadarét. So sánh giữa việc truyền tin cho Dacaria và cho Đức Maria, ta thấy rõ địa vị của Đức Giêsu cao trọng hơn Gioan Tẩy giả rất nhiều. Phải, sự việc không diễn ra trong sự huy hoàng của Đền thờ Giêrusalem, nơi sứ thần Gabriel hiện ra với Dacaria, nhưng một cách khiêm tốn “trong một thành xứ Galilê”, trong một gian nhà khiêm tốn ở Nadarét, “Khung cảnh tuyệt vời, trong đó mầu nhiệm cao siêu nhất lại sát cánh với sự nghèo khó trần trụi nhất” (J.Potin: “Đức Giêsu, chuyện có thật”, Centurion, tr. 92). Sứ thần Thiên Chúa Gabriel dời gót đến gặp Đức Maria và “vào trong nhà Mẹ”. Trái với tôn ti thứ bậc thời đó, Đức Maria được nêu tên đầu tiên như người nhận sứ điệp của Thiên Chúa. Thánh sử đã hai lần nhấn mạnh người thiếu nữ này là “một trinh nữ”. Còn Giuse, người đã đính hôn với Maria, được nói đến tên vì Đức Maria và được đề cập đến vì là “một người thuộc dòng tộc Đavid”. Chính nhờ ngài, Đức Giêsu mới thuộc dòng tộc Đavid một cách hợp pháp. Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Maria bắt đầu với lời mời gọi hãy vui lên, một tên mới và một lời chào. - Lời mời gọi hãy vui lên: “Hãy vui lên”, chứ không phải “Kính chào bà” theo cách dịch trước đây. Ngày xưa, các ngôn sứ đã hô vang lời kêu gọi đó ở Giêrusalem (Soph.3,14; Joel 2,21; Zach. 9,9), mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đến hay vì Người hiện diện: “Hãy vui lên, hỡi con gái Sion vì Chúa ở với ngươi!”. Tương lai loan báo cho Giêrusalem trở nên hiện tại cho Maria: chúa ở “cùng bà” để ở cùng dân bà. - Một tên mới: trong Kinh Thánh, những người lãnh nhận một sứ vụ thường được Chúa ban cho một tên mới. Danh hiệu này là: “Đấng đầy ơn sủng”, “ Đấng đẹp lòng Thiên Chúa”; tất cả có nghĩa là Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu đối với Đức Maria. - Một lời chào: “Chúa ở cùng bà”. Trong Kinh Thánh, lời chào này không chỉ được thốt lên ở đây, nhưng sứ điệp đi liền theo sẽ đem đến cho lời chào của sứ thần một ý nghĩa độc đáo. Đức Maria rất “bối rối” trước lời chào này, và Mẹ tự hỏi lời đó có nghĩa gì. Vì thế sứ thần tiếp tục nói rõ hơn điều ẩn ý trong câu đầu tiên.
2. Đấng “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” hoàn tất lời đã hứa. Tiếp sau đó là sứ điệp về con trẻ sắp sinh gồm hai phần tách biệt nhau bởi câu hỏi của Đức Maria. - Phần một lấy trong Cựu Ước nói về Đấng Mêsia nhà Đavid, phần này mạc khải chức năng của Đấng Mêsia: “Ngài sẽ nên cao trọng... Ngài sẽ cai trị...”. Việc Ngài sinh ra làm trọn hai lời tiên tri quan trọng: . Lời thứ nhất của Isaia 7,14 “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và ngài sẽ đặt tên cho con trẻ là Emmanuel”. H.Cousin lưu ý: “Câu này trong văn bản bằng tiếng Do thái hàm ý chính người mẹ đặt tên cho con trẻ là: “Giêsu”(“Tin Mừng Luca”, Centurion tr. 28). . Lời thứ hai là sấm ngôn của Nathan (bài đọc I), Thiên Chúa tuyên bố cùng Đavid: “Đối với Ta, nó sẽ là Con... ngai vàng nó sẽ bền vững mãi mãi”. Sứ thần báo cho Đức Maria biết con trẻ sắp sinh ra vừa là con vua Đavid (“Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavid tổ phụ Ngài”), vừa là “Con Đấng Tối cao”. - Câu hỏi của Đức Maria: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”. Câu hỏi này sẽ đưa đến câu trả lời, tâm điểm của sứ điệp. - Phần hai làm rõ việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh, chứng tỏ một nền Kitô học sâu xa hơn là những gì đã diễn giải cho đến bây giờ. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà": một cách nói thường được dùng trong Cựu Ước, để chỉ ý nghĩa sự khởi xướng của Thiên Chúa, và Luca lập lại trong Công vụ tông đồ để loan báo lễ “Ngũ Tuần” (Cv 1,8: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em” ). . “Quyền năng Đấng Tối cao sẽ bao trùm bà”: Lời này chỉ về Thánh Thần, Đấng sáng tạo bay là trên mặt nước để ban sự sống lúc khởi đầu của vũ trụ (Gn 1,2). Những gì Thánh Linh, Hơi Thở sáng tạo làm từ lúc khởi đầu vũ trụ, Ngài sẽ lại làm trong lòng Đức Maria: đó là sự thụ thai mà vẫn còn đồng trinh. . “Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. H.Cousin diễn giải: “Đức Giêsu không chỉ là Con Đấng Tối cao, Đấng ban cho Người vương triều Đavid, Người được tuyên bố là Con Thiên Chúa, vì Người được tạo dựng bởi quyền năng vô cùng của Thiên Chúa trong hành động của Thánh Thần. Ngài là thánh, được Thiên Chúa chọn riêng. Nền Kitô học này thiết lập một sự khác biệt căn bản giữa hai người con được thụ thai lạ lùng: Gioan, vị tiền hô và Đức Giêsu, Đấng Messia thuộc dòng Đavid. Hơn nữa, khi Thánh Thần ngự xuống trên Gioan biến ông thành ngôn sứ ngay từ lòng mẹ, một ngôn sứ đặc biệt nhất trong các ngôn sứ, cũng chính Thánh Thần ấy đã làm cho Đức Giêsu trở thành một hữu thể hoàn toàn mới nhờ dây liên kết giữa Người và Thiên Chúa” (Sđd). Cuộc đối thoại kết thúc bằng lời “xin vâng” của Đức Maria, đấng luôn sẵn sàng vâng lời sứ thần dạy. Cha Benoit kết luận: “Chính Đức Maria là người đầu tiên đã hiểu lời tiên tri xưa, nay được thể hiện cách cụ thể và lạ lùng trong lòng ngài. Từ Đức Mẹ mà cộng đoàn tiên khởi, tức Hội Thánh đã nhận được mầu nhiệm này, rồi Hội Thánh đã truyền lại cho các tín hữu...”. Bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này (2 Sam 7,1-16) cho thấy Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavid đã muốn xây dựng cho Ngài, nhưng trái lại đã hứa cho ông một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavid. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Maria, đấng trở nên “hòm bia Thiên Chúa”, “đền vàng”, tại đây, Con Thiên Chúa đến ở với loài người. Phải chăng đó là mạc khải của mầu nhiệm “được giữ kín từ muôn thuở nhưng nay được bày tỏ ra” mà bài đọc 2 hôm nay đã đề cập đến (Rm 16, 25-27)? (Xem “Assemblée du Seigneur”, số 8, trang 49-50).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Đức Giêsu là ân huệ nhưng không đặc biệt của Thiên Chúa” (L.Monloubou trong: “Tin Mừng Luca”, Salvator trang 57-58). Người ta không được nhìn bài Tin Mừng này như một bài suy gẫm về “Đức nữ trinh mang tên Maria”. Chỗ đứng của thân mẫu Đức Giêsu tuy cao sang, nhưng là phụ thuộc. Thực ra trang Tin Mừng này nói về chuyện khác. Nó dẫn ta đến chiêm ngưỡng Mầu nhiệm Thiên Chúa: Thiên Chúa hiện diện như là người bạn đồng hành: Người “ở với” Maria như một người đối thoại thân tình. Người “sai sứ giả Người... Người nói”. Đức Maria ngạc nhiên: “Làm sao chuyện ấy... Sứ giả trả lời... Khi ấy Đức Maria nói... Lời Người...”. Người là Thiên Chúa bình an: đừng sợ”. Thiên Chúa của ân huệ nhưng không: “ngài đẹp lòng... ơn cứu rỗi... đầy ơn sủng”. Đây là một mạc khải cao trọng về mầu nhiệm Thiên Chúa mà sứ thần có sứ mạng loan báo. Bởi vậy, trang Tin Mừng này quảng diễn những suy tư của thánh sử về Thiên Chúa qua việc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Chính thánh sử nói lên đức tin của ngài qua việc tuyên xưng này: tin vào Thiên Chúa là Chúa, Chúa Trời, Đấng quyền năng...; tin vào Người Con là Đức Giêsu, Đấng vĩ đại, Con Đấng Tối Cao, Con vua Đavid, Con Thiên Chúa...; tin vào Thánh Linh: Chúa Thánh Linh, Quyền năng của Đấng Tối cao… Trọng tâm chính là Đấng đóng vai trò then chốt trong tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại. Bởi vì Người là “Con vua Đavid” : do mẹ Người “đã đính hôn với một người thuộc nhà Đavid” nên “Người được Đức Maria đặt tên là Giêsu”; nhưng cũng chính Người còn được gọi là “Con Đấng Tối cao”, thậm chí là “Con Thiên Chúa”. Hai cách xưng hô sau làm mọi người kinh ngạc, nhất là khi so sánh với những cách xưng hô trước. Những xưng hô ấy có ý nghĩa gì? Chúng nói lên sự hiện diện: Thiên Chúa đang ở đây, Thần Khí Ngài “đến”, phủ rợp “bóng” trên Maria, “bóng” nhắc lại bóng mây trong Cựu Ước chỉ sự hiện diện đầy uy quyền của Thiên Chúa giữa dân Người (Xh 40,34-38, 1R 8,10). Chúng cũng nói lên một hồng ân cao cả vượt hơn hẳn những hồng ân xưa nay Thiên Chúa vẫn ban (...). Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại cách nhưng không. Hồng ân mà họ không hề mơ tới, đừng nói chi là ao ước.
2. “Ngày nay trình bày đức tin là đón nhận Đấng “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mgr. Cl. Dagens trong: “Trình bày đức tin trong xã hội hiện tại”, Kỳ họp HĐGM Pháp tại Lộ Đức 1994, Cerf, tr. 45-46). Trước hết, tin vào Đức Giêsu Kitô không phải là sự hiểu biết cao siêu dành riêng cho tầng lớp ưu tú những người đã được khai tâm. Niềm tin này được trình bày cho tất cả mọi người, cách riêng những người nghèo hèn, nhỏ bé. Thực sự, những người nghèo hèn, nhỏ bé, những người đau ốm hoặc những người bị loại trừ là những người có thể sống như Đức Kitô một cách sâu xa bằng lời cầu nguyện và bằng của lễ là chính bản thân họ. Đàng khác, kinh nghiệm đức tin này không nhằm vươn tới Thiên Chúa để chiếm hữu hay điều khiển Ngài. Hành vi đầu tiên của đức tin là đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa và Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mặc xác phàm và ở giữa chúng ta. Thái độ cởi mở chính yếu này đối với Mạc khải và ân sủng Chúa đánh dấu hành trình thiêng liêng thâm sâu của Kitô hữu. Là giáo dân hay tu sĩ cũng vậy, các tín hữu đều muốn nói lên điều này, đó là làm thế nào đức tin đã giúp họ có thái độ cởi mở với Thiên Chúa nhờ cầu nguyện hay lắng nghe Lời Chúa. Và ngày nay, những anh chị em nào đã trải qua thử thách về sự cô độc và cuộc sống bất định cũng thích nói đến tự do của con cái Thiên Chúa, tự do chúng ta luôn có thể đạt được một khi đã vượt qua sa mạc. Hình ảnh của kinh nghiệm thiêng liêng trong đức tin Kitô giáo là: tiến vào giao ước, vào cuộc đối thoại, và vào mối tương quan mà chính Thiên Chúa là người khởi xướng.
Đức Giêsu sinh ra ở Bêlem
và thiên thần báo tin cho các mục đồng. (Lc 2,1-14)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Bóng tối của một sự ra đời... Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ. - Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với “sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.” J. Potin suy diễn thêm: “Ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số, điều này tương hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến.Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra” (“Đức Giêsu, lịch sử có thật”, Centurion tr. 93). - Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu: . Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem “thành của Đavid” để “khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dõi Đavid”. . Chính tại Bêlem “Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: “Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ” (cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong “phòng tập thể” (sau này chúng ta sẽ gặp lại phòng tập thể” trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
2. “Sẽ soi sáng mọi đêm tối”. Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây “trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau. Những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: “các mục đồng”, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: “Ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý : “Dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại”. Những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ “hèn hạ” (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4,18...). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ” (15,2) (“Tin Mừng thánh Luca”, Centurion tr. 38-39). - Sứ điệp mà “các thiên thần của Chúa” mang đến cho họ là một “Tin Mừng” (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho “toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: “Đấng cứu độ”, “Đấng Mêsia”, “Chúa” đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. “Đấng cứu độ”, “Đấng Mêsia” (Kitô), “Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và của Phaolô (Cv 13,33...). - “Dấu chỉ” cho các mục tử vùng Bêlem: “Một trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ”, để nói với những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như Người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu” (“Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học”, Cerf, tr. 36). - Lời tạ ơn “đột nhiên” vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: “Với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sánh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương": Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu. Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự “bình an” mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền “hoà bình Rô-ma” mà con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống mà chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để “xem sự việc đã xảy ra”. “Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ”. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Từ Bêlem đến Phục sinh” (A.George, trong “Assemblées du Seigneur”, số 10, tr. 66-67). “Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sử cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này. Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời. Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người Giêsu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch ký này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón... bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời. Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dẫy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng sinh và Phục sinh, “chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan” (2Cr 12,9).
2. “Đã 2000 năm” (Mgr. F.Favreau trong “Mùa Vọng năm 2000”, Documents épiscopat, số 14, tháng 10, 1996). (Tạm dịch) Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời. Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đà thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sứ giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Am.
1. Lời Tựa là một Thánh Thi. Matthêu mở đầu Tin Mừng bằng “Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Ápraham”. Luca thì bắt đầu “trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta” (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”. Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh. Alain Marchadour giải thích: “Để mở đầu cho Tin Mừng của mình, Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng; và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Người là Ngôi Lời, hưởng tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng Người là Thiên Chúa. Vai trò của Người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Ánh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gỡ định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giữa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, “Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”.” (“L'Evangile de Jean”, Centurion 1992, trang 31). 2. Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một. - Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo: + Hai từ đầu tiên “Khởi đầu” liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu “như điểm hòan tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người” (A.Marchadour, Sđd, trang 34). + Trước hết, thánh thi nói đến “Ngôi Lời Thiên Chúa” (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân Ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha, và thiên tính của Người: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: “Nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống. - Ngôi Lời của Thiên Chúa, Ánh Sáng và Sự Sống loài người. Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống” và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Ánh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người. - Chứng tá của Gioan Tẩy Giả. Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong những câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: “Có một người...”. Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Ánh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Ánh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: “Ông không phải là Ánh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. - Ánh Sáng đã đến trong thế gian. + Nhưng khi Ánh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Ánh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. Còn trớ trêu hơn nữa, là “gia nhân của Người”, dân của Lời Hứa, dân của Giao Ước, “đã không đón nhận Người”. + “Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay dân ngoại - thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”. - Ngôi Lời đã trở nên người phàm. + Gioan đã viết “người phàm”, theo đúng chữ là “trở nên xác thịt”, từ “xác thịt” ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát. + “Người cư ngụ giữa chúng ta” (theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến “nơi ở” của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: “Chúa nói về Đền thờ thân xác Người”). + “Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của Người” trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa. - Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình. “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”. Jean Perron nhận xét: “Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng “Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: “Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa” (Ga 13,3). Nhưng trong tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết ("Không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê"), Người muốn đem ta đi cùng: “Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (14,23)” (“Lire de Bible”, số 52, trang 34-35).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. Một câu không có “động từ” thì không có nghĩa (“Bible du Dimanche” trang 511-512). (Trong tiếng Pháp, “verbe” vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.) “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được? Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của từ ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm. Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: “Không ai đã được thấy Thiên Chúa”. Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bóng và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói “lời cuối cùng” của Người. Chỉ có Lời (“động từ”) này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc. Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Ánh Sáng. Tuy nhiên, chỉ có Ánh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trở nên hiển nhiên trước mắt chúng ta”.
2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại (L.Sintas trong “Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie - Năm C”, Médiaspaul, trang 20-21). Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi tiếng nhất trong truyền thống bình dân của Hội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bằng bản văn này. Trong các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ là do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại. - Khởi đầu là xác quyết long trong về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. “Nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Ánh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị. Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. “Ngôi Lời là sự sáng thật... Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không thể vượt qua nếu con người không đồng ý. - Con Thiên Chúa “đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất. Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. “Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”. Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lại sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ dành cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ”.
3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem ra trái ngược (“Célébrer” số 264, trang 41-42). Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, “nhờ Người”. Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại. Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau cùng cư ngụ ở Israel. Vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa... - Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng “chúng tôi” để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thơ I Gioan, chương 1: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...”. Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cụ thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể – đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao Ước tạo lập nên một dân tộc – tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con”.
LÒNG TIN KHÔNG ĐẮN ĐO CỦA ĐỨC MARIA VÀ THÁNH GIUSE
Trung thành với Luật Môsê,
các ngài dâng hiến Hài Nhi cho Thiên Chúa và cùng Đức Giêsu dấn thân lên đường. (Lc 2,22-40).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI 1. Chúa GIêsu tỏ mình ra trong Đền Thờ... Đây là lần Chúa tỏ mình ra trong Đền thờ, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Cũng trong tư cách là Đấng cứu thế, việc tỏ mình này có liên hệ chặt chẽ với việc tỏ mình ra cho các mục đồng vùng Bêlem. - Luca làm cho các độc giả của mình liên tưởng ngay đến “Luật Môsê” ấn định một thời hạn là bốn mươi ngày kể từ ngày sinh con cho đến khi làm lễ thanh tẩy cho người mẹ trẻ. H.Cousin nhận xét: Như vậy là “Bảy mươi tuần đã trôi qua kể từ ngày thiên thần Gabrien loan báo Gioan Tẩy Giả chào đời” : công cuộc giải phóng Giêrusalem được loan báo trong Isaia (Is 40-55) nay trở thành hiện thực, như lời ông Simêon rồi đây sẽ hát lên (“L'Evangile de Luc”, Centurion, trang 42). - Việc xảy ra tại thánh đô “Giêrusalem”, nơi khi lên mười hai tuổi, Đức Giêsu sẽ đi hành hương lần thứ nhất (2,42); nơi sẽ diễn ra cuộc “Xuất hành” của Người (khổ nạn, chết, sống lại, lên trời) vào những ngày chót của cuộc hành hương long trọng cuối đời. Đây là điểm quan trọng, vì đối với Luca, Giêrusalem sẽ là trung tâm của biến cố Phục sinh và khởi điểm của công cuộc truyền bá Kitô giáo. - Bối cảnh của sự việc là “Đền thờ”, nơi đây Luca đã khởi đầu Tin Mừng bằng việc truyền tin cho ông Dacaria (1,5,25); nơi đây Tin Mừng Luca sẽ kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu “Hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (24,25). - “Cha mẹ Đức Giêsu” đem con lên Giêrusalem, “để tiến dâng cho Chúa”. Luca đặt vào đây hai nghi lễ riêng biệt: + Một đàng theo sách Lêvi 12,8, lễ “thanh tẩy” cho người mẹ trẻ, 40 ngày sau khi sanh con, nếu là con trai, kèm theo của lễ là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” đối với gia đình nghèo. + Đàng khác, theo sách Xuất Hành 13,12 và để kỷ niệm ngày tổ phụ Abraham sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa người con trai duy nhất của ông là Isaac (bài đọc hai), còn có việc thánh hiến và chuộc “con trai đầu lòng”. Có tới ba lần Luca nhấn mạnh đến ý muốn của Giuse và Maria là trung thành làm xong mọi việc “như Luật Chúa truyền”. Ngay cả những việc không tiên liệu nữa, bởi lẽ các ngài đích thân dâng tiến con trai đầu lòng theo gương bà Anna đến Nhà Chúa dâng bé Samuen vậy (1Sam 1,22-24).
2. ... Ứng nghiệm những lời hứa, loan báo sứ mệnh của Đức Giêsu. Hai nhân vật bất ngờ xuất hiện, một nam một nữ tiêu biểu cho niềm mong đợi Đấng Cứu Thế từ bao đời nay của Israel. Không hẹn, mà cả hai cùng đến gặp Maria và Giuse: “Và này đây, tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon... cũng có một nữ ngôn sứ là Anna”. Hai khuôn mặt đẹp gợi nhớ lại những vị thánh nam nữ trong Thánh Kinh kể từ Abraham và Sara. Hai bậc cao niên mà vì họ Hài nhi được Thánh Thần tác động, sẽ đến vén lên bức màn bao trùm biến cố để lộ ra ý nghĩa thực: nơi hài nhi ấy các lời hứa đã được ứng nghiệm, hài nhi ấy loan báo việc sắp xảy ra. - Trước tiên phải nói đến ông Simêon. Ông không phải là người có trách nhiệm phục vụ Đền Thờ vì ông không phải là tư tế, cũng chẳng phải là Lêvi hay Kinh sư. Ông chỉ là “người công chính” (nghĩa là người hoàn toàn “khớp” với ý muốn của Thiên Chúa) “và sùng đạo” (nghĩa là người được lòng tin và niềm hy vọng của Israel hun đúc). + Trong Bài ca “an bình ra đi” của ông, ông chào mừng cuộc giáng lâm của Đấng cứu độ và tỏ ra mãn nguyện thấy lời Chúa hứa nay được thể hiện nơi Đức Giêsu. . Hài Nhi này đến làm cho lòng mong đợi của riêng ông và dân tộc ông được mãn nguyện; ông lên tiếng ngợi ca ơn lạ lùng Chúa đã ban cho chính ông, người trông đợi cuối cùng của Giao Ước cũ, là được “bồng bế trên tay mình” hài nhi trưởng tử của một thế giới mới mà ông đã hình dung ra. . Rồi ngỏ lời trực tiếp với hài nhi, ông chào mừng con trẻ là “Đấng Mêsia” là “ơn cứu độ” của Thiên Chúa, một ơn cứu độ vượt khỏi biên giới Israel và có liên can tới mọi dân tộc, bởi lẽ hài nhi Giêsu này “là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. . Ông kết thúc bài ca khi loan báo rằng nhiệm vụ trông đợi của ông đã đến hồi kết thúc: “Giờ đây ông có thể ra đi an bình”. . Những lời tiên tri của ông Simêon khiến cho cha mẹ Hài Nhi “ngạc nhiên”, đồng thời cũng gây cho ông bà những thắc mắc đi đôi với sự hài lòng (xem dưới). + Thế rồi, sau khi chúc phúc cho cha mẹ Hài nhi, ông nói với Maria một lời tiên tri đau buồn, tương phản với niềm vui được bày tỏ trong Bài Ca: “Này, người con của bà đây...”. Ông loan báo cảnh “chia rẽ”, sẽ có sự chia lìa vì Đức Giêsu: những kẻ ủng hộ Người thì Người sẽ là sức mạnh vực họ “chỗi dậy”; những ai chống đối Người, thì Người khiến họ phải “vấp ngã”. Bởi lẽ, R.Meynet chú giải “Chúa không áp đặt ơn cứu độ của Người cho ai cả; Người chỉ đưa ra, chỉ “dành sẵn cho muôn dân”, cho mọi dân tộc cũng như cho Israel. Người chỉ kêu mời người ta đón nhận trong tự do. Nhưng mọi người đều sẽ phải quyết định. Đức Giêsu không phải là một chứng cứ không thể phi bác. Người là một dấu chỉ trước niềm tin và tự do của con người. Nhiều người trong Israel sẽ từ chối Người, nhưng những người khác sẽ chấp nhận đi theo Người. Nơi các dân tộc cũng thế thôi. Mọi người sẽ bị phân rẽ, ngay cả giữa cha mẹ mình, ngay cả Đức Maria cũng sẽ phải chịu thử thách ấy. Sự ngạc nhiên của cha mẹ Người là sự ngạc nhiên của lòng tin trộn lẫn với những thắc mắc và sự hài lòng trước những biến cố bất ngờ này. Trước xì-căng-đan của thập giá, lòng tin của Đức Maria cũng như của tất cả các môn đệ đều sẽ phải trải qua cơn xâu xé dày vò” (“L'Evangile selon saint Luc - Analyse rhétorique”, Cerf, trang 40). - Và này đây một nhân vật khác, bà Anna, mà Luca gọi là “nữ ngôn sứ”. J.Potin viết: ““Bà cũng là hình ảnh người phụ nữ thánh thiện của Kinh Thánh. Bà kết hôn từ thuở niên thiếu, nhưng có lẽ chịu phận son sẻ, giống như bà mẹ của Samuen đã một thời hiếm muộn; bà ở goá để tưởng nhớ chồng, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Qua bà, cả một đoàn lũ đông đảo các phụ nữ thánh thiện Israel đang dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì từ nay Người khởi sự thực hiện việc giải thoát dân Người” ("Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 95). Phần cuối câu truyện không quên nhắc lại việc cha mẹ Đức Giêsu trung thành tuân thủ Lề Luật. Rồi bằng ít lời vắn gọn, Luca tóm kết tất cả cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu ở Nadarét như sau: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa”. Ơn khôn ngoan mà Hài Nhi được tràn đầy, chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy biểu lộ trong trình thuật tìm gặp lại con trong Đền thờ(Lc 2,46-47).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Một khởi đầu mới mong manh” (L. Sintas, trong “Parole du Dieu pour la méditation et l'homélie. Năm B”, Médiaspaul, trang 22-23). Để ghi nhớ việc tổ phụ Abraham hiến tế con đầu lòng cho Thiên Chúa, Luật truyền cho mọi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Chúa (...). Maria và Giuse tuân thủ Luật Chúa truyền. Vì hai ông bà nghèo, nên dâng một cặp bồ câu non làm của lễ. Hôm nay nghi lễ hiến dâng này có một tầm mức thật là độc đáo. Nếu đúng là mọi hài nhì ra đời đều là ơn huệ của Thiên Chúa mà mọi cha mẹ phải nhìn nhận và vui mừng, thì điều đó càng đúng biết bao đối với trường hợp của hài nhi Giêsu. Không ai trong số những người được trông thấy Maria và Giuse tiến vào Đền thờ hôm ấy, hiểu được điều ấy. Các môn đệ, các thánh sử thực ra chỉ hiểu rõ điều này sau khi Chúa phục sinh. Chỉ tới lúc ấy, các ông mới nhận ra sự cao cả lạ lùng của Đức Giêsu, Đấng các ông đã sống kề cận trong ba năm qua. Sự cao cả lạ lùng đó Đức Giêsu đã có từ lúc Đức Maria mang thai và sinh ra Người, dầu rằng lúc đó còn bị che giấu. Chỉ sau biến cố phục sinh, các ông mới có thể viết Tin Mừng về thời thơ ấu của Đức Giêsu và làm nổi bật được tính cách độc nhất vô nhị của Người. Nơi bản thân ông Simêon, Luca như đọc được một bản tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm ấy. Simêon là một con người được nhào nặn trong lòng tin của Israel. Nếu ông được coi là một người công chính, thì điều đó có nghĩa là nơi ông, người ta gặp được sự thánh thiện của những chính nhân đầy lòng tin. Ông giữ một vị trí chính đáng trước mặt Thiên Chúa, trước lề luật của Thiên Chúa, cũng như trước mặt mọi người. Bởi được viết sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, nên Luca có thể gọi đích danh nhiệt tình thúc đẩy ông Simêon lên Đền Thờ, là sức mạnh dun dủi của Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được giới thiệu ở đây như là sức mạnh duy nhất kiến tạo nên dân Chúa, dẫn dắt dân trong lòng tin (...). Sự hiệp nhất sống động giữa Cựu Ước và Tân Ước được biểu lộ ra bằng một biến cố. Một ông già mà cả đời đã được nuôi dưỡng trong lòng tin của tổ phụ Abraham giờ đây tiến đến trước Đấng Mêsia của lời hứa và được khao khát từ bao đời. Ông già ấy giờ đây ẵm bế trên tay mình Đấng Mêsia kia và hát lên lời ca chúc tụng và tri ân Thiên Chúa: Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này
được an bình ra đi (...). Ông già ấy có thể qua đi. Vậy thì ngọn lửa thiêng kia phải được trao lại cho ai? Trao cho một hài nhi bé bỏng. Điều này muốn nói lên rằng giai đoạn đầu mới lạ này quả là mong manh bé nhỏ. Nước Thiên Chúa giống như một hạt giống dù là loại hạt nhỏ nhất, nhưng vẫn hứa hẹn sẽ trở nên một cây to lớn. Nó cũng nói lên tầm quan trọng của Thánh Gia trong vai trò được trao phó và gìn giữ hạt giống mỏng manh kia. Quả là mong mang bé nhỏ khi toàn bộ thế lực sự ác sẽ ập đến tấn công hạt giống ấy. Và ông Simêon cũng nói cho Maria hay một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà. Cuộc khổ nạn đã có mặt ngay từ đây rồi. Phải, người ta sẽ chia rẽ vì hài nhi này. Trẻ ấy sẽ làm cho nhiều người phải vấp ngã. Thực tế cho thấy hận thù ghen thét dường như toàn thắng. Những thù địch của Đức Giêsu sẽ thắng được Người. Họ sẽ kết tội và đóng đinh Người. Tuy nhiên, cũng chính GIêsu ấy sẽ làm cho nhiều người được chỗi dậy. Phục sinh đã được loan báo và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đem đến một cuộc phục hồi lớn lao vô cùng. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó chính là lý do khiến nữ ngôn sứ Anna, lúc ấy cũng tới nơi để cùng hát lên những lời tán tụng Thiên Chúa với ông Simêon.
2. “Trung tín với Thần Khí” (Đức Cha L.Daloz, trong “Dieu a visité son peuple”; Desclée de Brouwer, trang 21-22). “Để chu toàn các điều Luật truyền, cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Đền Thờ dâng tiến cho Thiên Chúa, và dâng của lễ nghèo hèn là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” dành cho việc thanh tẩy Đức Maria. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon lên Đền Thờ gặp hai ông bà. “Ông Simêon là người đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa”. Hoạt động của Thần Khí là sợi dây nối kết mọi hoàn cảnh xảy ra khi Đức Giêsu giáng sinh. Công trình Thần Khí thực hiện thì sung mãn, phong phú và hưng phấn. Câu truyện trong hai chương đầu của Tin Mừng Luca mang dấu ấn rõ rệt về hoạt động của Thần Khí. Những biến cố luôn hàm ý về tương lai, và người ta đã linh cảm được sứ mệnh phổ quát của Đức Giêsu. Những nhân vật như Maria, Dacaria, Êlisabét, Simêon và nữ ngôn sứ Anna đều là những người loan báo ơn giải thoát mà hạt giống đã được chôn vùi trong thế giới chúng ta. Các ngài đều làm chứng rằng ơn cứu độ đã tới và hết sức vui mừng. Thần Khí hoạt động dựa trên các ngôn sứ, Thần Khí ấy của Thiên Chúa tràn đầy vũ trụ, đến thực hiện các lời hứa và ban ơn thông hiểu. Qua miệng ông Simêon, Thần Khí tỏ cho thấy ánh sáng đang đi vào thế giới và Người Con của Đức Maria nắm giữ vai trò quyết định. Người con ấy sẽ là dấu hiệu cho người ta chống đối, khi phanh phui ra những tranh cãi của nhiều tâm hồn. Chúng ta hết thảy đều liên can tới điều mạc khải này vì nó cũng phanh phui những tranh chấp trong lòng ta. Cũng Thần Khí ấy của Thiên Chúa còn thâm nhập vào nơi sâu thẳm của bản thân ta và thúc đẩy ta, phải nhận biết Đấng ban ơn cứu độ. “Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. ... Chỉ mình Thần Khí mới có thể mở mắt ta đón nhận ánh sáng này. Như ông già Simêon, như nữ ngôn sứ Anna, tâm hồn ta phải biết lắng nghe và nhạy bén với làn gió âm thầm của Thần Khí. Như vậy, chúng ta mới có thể đón nhận Đức Kitô - Ánh sáng.
BỊ DÂN NGƯỜI TỪ CHỐI NGAY KHI MỚI SINH RA,
ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC DÂN NGOẠI TIN NHẬN LÀ VUA
KHẮP THIÊN HẠ. (Mt 2,1-12)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh... Luca đã thuật lại việc các mục đồng đến viếng thăm hang đá, bài tường thuật ấy ăn nhịp với quan điểm lựa chọn người nghèo của ông. Về phần Matthêu, ông này kể lại chuyến thăm viếng của các vị Đạo sĩ, bởi ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, họ đại diện cho những vùng đất xa xôi mà Đấng Phục Sinh sẽ sai các môn đệ đến, trong lần gặp gỡ cuối cùng ở Galilê: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ...” (Mt 28,19). Bên dưới cái bề ngoài có vẻ ngây ngô trẻ con kia, đoạn Tin Mừng về các vị Đạo sĩ rất quen thuộc này thực ra đã được hình thành một cách tài tình, bằng một thứ nghệ thuật ngôn ngữ biểu tượng hoàn hảo, và chứa đầy những ẩn dụ của Cựu Ước mà nó hoàn tất: dưới ánh sáng của Phục sinh, tác giả Tin Mừng đã tìm về nguồn gốc lai lịch của Đức Giêsu, cho chúng ta khám phá thấy dưới dạng còn mới tiềm ẩn, những gì rồi đây sẽ hiện tỏ trọn vẹn trong cuộc đời và biến cố vượt qua của Người. A.Marchadour lưu ý chúng ta: “Tác giả Kinh Thánh, không có bận tâm về tính xác thực lịch sử như chúng ta ngày nay, là những kẻ đầu óc mang nặng chủ nghĩa thực nghiệm. Nên nhớ tất cả những trình thuật về thời thơ ấu của Chúa đều được biên soạn từ các dữ kiện xảy ra về sau, được đưa vào muộn màng sau này. Phải đọc lại quá khứ dưới ánh sáng của hiện tại, tầm quan trọng của Kinh Thánh như là những “lời tiên tri”, vẻ huy hoàng của biến cố vượt qua, tất cả đều tỏ cho thấy căn tính đích thực của Đức Giêsu. Tất cả cho phép chúng ta hiểu rằng các trình thuật thơ ấu đều đã được viết lại, và tính xác thực lịch sử không phải là bận tâm hàng đầu của tác giả Kinh Thánh” (“Les dossiers de la Bible”, số 44, tr. 5).
2. ... Một tường thuật sử dụng ý nghĩa biểu tượng của những đối lập: Người đọc dễ dàng nhận ra được ngay hai phía đối lập nhau: 1. Phía thứ nhất có khung cảnh là đền thờ Giêrusalem, nơi triều đình của Hêrôđê. - Các Đạo sĩ - có thể là những nhà chiêm tinh xứ Babylon, chuyên tìm đọc những bí ẩn của những vì sao - đã lên đường đi Giêrusalem, trái tim của thế giới Do Thái, để đến bái lạy “Đức Vua dân Do Thái”, bởi thấy sao của Người xuất hiện loan báo (c.1 và 2). - Tuy nhiên, để gặp được Đấng họ tìm kiếm, ngôi sao lạ kia không đủ. Các ông cần đến sự trợ giúp của dân Do Thái và Kinh Thánh của họ. Khi được các vị đạo sĩ đến hỏi, Hêrôđê và thành phần lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem quay sang tra cứu các lời sấm liên can đến Đấng Mêsia (c.3 và 6). - Để trả lời cho các vị khách phương xa này, nhóm cầm quyền Do Thái đã chú giải một cách chính xác lời các Ngôn Sứ, nhưng vẫn ở lại trong thành Giêrusalem (c.7 và 8). 2. Phía thứ hai ở tại Bêlem, nơi Đức Vua Giêsu đang chờ đón các vị đạo sĩ. - Được Kinh Thánh chỉ dẫn lại, các vị đạo sĩ tìm thấy lại ngôi sao lạ. Lần này, nó đưa các ông đến với Đấng Mêsia ở Bêlem (c.9 và 10). - Đến nơi họ gặp được Chúa Giêsu và sấp mình bái lạy Người, rồi dâng tiến Người những bảo vật quý giá nhất của xứ sở mình, đó là “vàng, nhũ hương và mộc dược” (c.11). - Hêrôđê thì chỉ nuôi những ý đồ giết người, nhưng không thành do sự can thiệp của Thiên Chúa: “được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên các vị đạo sĩ đã đi lối khác mà về xứ mình” (c.12). Nếu phân tích kỹ hơn, người ta sẽ phát hiện thấy một bộ ba những cặp đối lập nhau - một lời báo trước về khổ nạn - làm thành cái khung của câu chuyện: 1. Giêrusalem, trung tâm chính trị và tôn giáo, đã khước từ Đấng đến để hoàn tất những lời hứa, đối chọi với Bêlem, nơi hạ sinh của Con Vua Đavid các ngôn sứ từng loan báo. 2. Các đầu mục dân Israel (các thượng tế và kinh sư hợp thành Thượng Hội Đồng, cơ quan thẩm quyền đại diện cho Do Thái giáo) là những kẻ tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh, nhưng lại tỏ ra bất lực không thể ra đi, rời bỏ khỏi nơi ở của mình là Giêrusalem, họ đối chọi với các vị đạo sĩ ngoại giáo đã biết tìm kiếm, lên đường và sau cùng đã tìm thấy. Trong lúc phía bên kia “bối rối, xôn xao” thì phía bên này “mừng rỡ vô cùng”. 3. Hêrôđê, kẻ được tác giả gọi là “vua”, và là kẻ chỉ nơm nớp lo sợ cho ngai báu của mình, đối chọi với Hài Nhi Bêlem, Đấng thật sự là vua: - Nơi Người đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia 60 (bài đọc I), loan báo ngày mà dân ngoại lũ lượt tiến về Giêrusalem, mang theo vô vàn châu báu để triều cống. - Nơi Người đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Mica 5,1, nói đến Bêlem như là nơi sinh của Đấng Mêsia: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa. Chính tự nơi ngươi sẽ xuất hiện cho Ta, Vị có mệnh thống lĩnh Israel”. - Nơi Người đã ứng nghiệm lời tiên tri của Balaam, một người ngoại giáo, trong sách Dân Số 24, báo trước sẽ có một ngày xuất hiện “một ngôi sao mọc lên từ Giacob”. Như thế, qua nét tinh tế của bố cục và lối viết của mình, câu chuyện đã công bố cho thấy căn tính nhiệm mầu của Đức Giêsu, loan báo sứ mạng của Người, báo trước việc Người sẽ bị những đầu mục của dân Người chối từ, cũng như sự kiện dân ngoại sẽ tìm đến với Hội Thánh. Tắt một lời, nói theo kiểu của Claude Tassin, chúng ta đang có ở đây một thứ “Tin Mừng ở dạng thu nhỏ”. Được đặt lại trong toàn bộ Tin Mừng của Matthêu, ý nghĩa của đoạn văn sẽ trở nên sáng tỏ. Francois Brossier tóm tắt như sau: “Những kẻ đáng ra phải đón nhận Đấng Mêsia do Thiên Chúa gởi đến, lại không nhận biết Người, bởi đầu óc chúng đã ra cằn cỗi. Đang khi đó, chính những dân ngoại lại đón nhận và tôn thờ Người. Sự chối từ nơi phần lớn dân Israel và thái độ đón nhận nơi dân ngoại, một chủ đề sẽ bàng bạc trong khắp cả Tin Mừng, đó là điều đang được minh nhiên công bố ở đây” (“Le Monde de La Bible”, số 85, trang 18).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Chúng ta có để mình được Phúc Âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo?” (L.Sintas, trong “Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie”, Médiaspaul, tr. 27). “Nơi chúng ta, là Giáo Hội, hôm nay, được ký thác một ánh sáng có khả năng soi dẫn đường đi nước bước cho tất cả những ai đi tìm Đức Giêsu. Điều đó chẳng do bởi nhân đức thánh thiện của chúng ta, cũng chẳng do bởi đời sống tốt lành hay đức tin cá nhân của chúng ta. Tất cả chỉ vì đó là sứ mạng chúng ta đã nhận lãnh từ nơi Đức Kitô. Những gì chúng ta phải loan báo không có cơ sở chân lý từ chính bản thân chúng ta, nhưng duy nhất từ Đấng đã giao phó sứ mạng ấy cho chúng ta. Sức mạnh của việc phúc âm hoá đến từ Thiên Chúa. Đừng chờ đến khi nào nên thánh rồi mới thi hành nhiệm vụ. Một cách đơn sơ, khiêm tốn, chúng ta hãy để mình được phúc âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo”.
2. Bạn có biết rõ câu chuyện về Balaam và con lừa của ông ta chưa? (H.Denis, trong “100 mots pour dire la foi”, Desclée de Brouwer, tr. 71-72). “Không có hang đá nào mà lại không có ngôi sao. Chẳng có lễ Hiễn Linh nào mà lại thiếu vằng vì sao lạ ấy... Nhưng sự thực mà nói, bạn có biết rõ hay không câu chuyện về Balaam? Người ta không biết đích xác nó xảy ra khi nào (sách Dân Số, ch. 22-24), nếu không phải là vào khoảng giai đoạn cuối cuộc xâm nhập của Israel vào Đất Hứa, không xa thành Giêricô bao nhiêu. Những người dân xứ Moab kinh hoàng trước sức tiến của Israel. Họ tìm đến với một người tên Balaam nào đó, có lẽ là một thầy bói, để nhờ ông ta trù ẻo cho Israel (vào thời đó, người ta còn tin vào hiệu năng hầu như ma thuật của những lời trù ẻo). Được Thiên Chúa can ngăn trong giấc mộng, lúc đầu Balaam từ chối, rồi sau đó lại quyết định lên đường và cưỡi con lừa cái của mình. Thiên Chúa liền nổi giận và hiện ra cho con lừa dưới dạng một Thần sứ với gươm tuốt trần cầm tay. Con lừa tránh sang một bên đường và phóng xuống ruộng. Balaam đánh đập và hành tội con vật. Nó lại chui vào một khúc đường trũng và hẹp, vô phương tới lui hay nhúc nhích bên này bên kia. Con lừa đáng thương quỵ xuống dưới làn roi tới tấp. Lúc ấy, Thiên Chúa cho nó mở miệng nói: nó trách móc Balaam đã đối xử với nó sao quá tàn nhẫn. Phút chốc, Balaam nhìn ra được vị thần sứ với lưỡi gươm trần, ông quì xuống sấp mặt bái lạy. Sau đó, ông được tiếp tục ra đi, nhưng với một điều kiện: chỉ được phép nói trước mặt các thù địch của Israel điều Thần sứ bảo nói! Thế là cái ông Balaam của chúng ta xổ ra một tràng những lời chúc phúc cho Israel: “Làm sao tôi sẽ trù ẻo kẻ Thiên Chúa không cho trù ẻo? Ai nào đếm được số đông của Giacob và Israel? Một ngôi sao mọc lên từ Giacob và một vương trượng xuất từ Israel sẽ đập tan Moab lẫn Eđom”. Câu chuyện là như thế, trong đó có nói đến một con lừa biết nói, y như trong chuyện ngụ ngôn của La Fontaine. Đó cũng còn là lời loan báo trong trời đất về ánh huy hoàng của Đấng Mêsia: “Một ngôi sao mọc lên từ Giacob”. Rồi đây chẳng bao lâu, các nhà đạo sĩ sẽ công bố cái âm hưởng vang vọng khắp địa cầu của cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu. Từ nay, trong Người, toàn thể nhân loại, đã được chúc phúc. Tôi muốn nghĩ rằng ngôi sao của Noel bắt đầu từ chuyện một con lừa cái bị kiệt sức và quỵ ngã, là kẻ đầu tiên nhận thức được tầm mức lớn lao của biến cố. Đúng thế, nhân loại vừa được sinh ra dưới một ngôi sao tốt, ngôi sao của Đức Giêsu.
ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA Ở SÔNG GIÓC-ĐA-NÔ VÀ
CUỘC TỎ HIỆN CỦA THIÊN CHÚA (Mc 1,7-11)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh... Dưới ánh sáng Phục sinh, tác giả Tin Mừng ngược dòng thời gian trở về tới biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa. Cùng với sứ vụ của Vị Tiền Hô, biến cố này làm thành phần “khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (1,1). Ở đây, tác giả cho chúng ta khám phá trong một lúc sự hoàn tất những lời đã hứa cho Israel, cuộc mạc khải về mầu nhiệm bản thân Đức Kitô, khởi đầu và lời loan báo về sứ vụ của Người. D. Jacquemin viết: “Được các thánh sử Tin Mừng kể lại ngay trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ, bài tường thuật cho thấy từ nay phải hiểu toàn bộ cuộc đời công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng đó (nó chiếu rọi trước hào quang của Phục sinh). Và rồi, trong lần hiển hiện đầu tiên của Thánh Thần này, trong cuộc xuất đầu lộ diện của Con Thiên Chúa đến hiện diện giữa loài người này, người ta được chứng kiến thời buổi cánh chung đã khởi đầu, triều đại Nước Trời đã khai mở” ("Assemblées du Seigneur, số 12, trang 66).
2. ... Một biến cố hoàn tất những lời hứa xưa. . Bài đọc Tin Mừng của ngày lễ Chúa chịu phép rửa hôm nay, được bắt đầu bằng một màn “ra mắt” nhân vật Giêsu: + Hoạt động của Người được thuật lại bằng một công thức xem ra xa lạ nơi Máccô, được vay mượn từ Cựu Ước. Nó có thể lấy từ đoạn ra mắt của Môsê, ở đầu sách Xuất Hành: “Xảy ra là, vào những ngày ấy, Môsê lớn rồi, thì...” (Xh 2,11). Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã được giới thiệu như là Môsê mới. + Điều trớ trêu, Đức Giêsu đã không đến từ miền Giuđêa hay từ thành thánh Giêrusalem, nhưng lại “từ Nazareth, miền Galilê”, một làng quê hẻo lánh thuộc một vùng vốn bị thiên hạ coi rẻ. Bởi đó mới có câu: “Từ Nazareth, làm sao có cái gì hay được” (x. Ga 1,46). Và Người đến như bao kẻ khác, để chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả trên sông Giođan. . Máccô bỏ qua không nói đến cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và vị Tẩy Giả, cũng như chi tiết việc Chúa dìm mình xuống sông Giođan. Bù lại, nhờ khả năng vận dụng khéo léo và làm khơi lên phong phú những hình ảnh Kinh Thánh, ông đã minh hoạ được điều mà cộng đoàn Kitô hữu sau này, dưới ánh sáng Phục sinh, xem là đặc thù nơi biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. + Cuộc tỏ hiện của Thiên Chúa xảy ra, tác giả Tin Mừng xác định rõ, “khi Đức Giêsu vừa lên khỏi nước”. Nhận xét này, một lần nữa, có ý trình bày Đức Giêsu như là Môsê mới. Quả thực, theo J.Hervieux giải thích: “Người ta tìm thấy nơi sách ngôn sứ Isaia một lời cầu tha thiết xin Thiên Chúa tái diễn lại những hành động cứu thoát như thời Xuất Hành. Máccô được gợi hứng từ một đoạn trong sách đó có câu: “Đâu rồi Đấng (Thiên Chúa) đã từng làm cho bước lên khỏi nước biển vị mục tử (= Môsê) chăn dắt đàn chiên của Người?”. Bởi đó chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả Tin Mừng nói rằng chính lúc “vừa lên khỏi nước”, Đức Giêsu đã được nhận lấy Thánh Thần. Đối với Máccô, Đức Giêsu chính là Môsê mới. Phép rửa Người chịu là một cuộc vượtqua mới khỏi Biển Đỏ” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, 1991, trang 20). + Khác với Tin Mừng Matthêu, cuộc tỏ hiện ở đây xảy ra nhằm chính Đức Giêsu. Nó gồm hiện tượng: các tầng trời xé ra, Thần Khí ngự xuống, và tiếng từ trời phán.
1. “Đức Giêsu liền thấy các tầng trời xé ra”. Theo truyền thống Do Thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời, nơi Thiên Chúa ngự, đã khép lại rồi. Ngôn sứ không còn nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng đã bị cắt đứt. Bởi thế đến hôm nay, khi Người đáp lại tiếng van nài của vị Ngôn sứ trong cảnh lưu đày khốn khổ: “A! Ước gì Ngài xé trời và ngự xuống”, thì đúng là một thời mới đã mở màn, mối liên lạc đã được tái lập giữa Thiên Chúa và loài người. Kiểu nói “xé ra” sau này chỉ trở lại dưới ngòi bút của Máccô vào giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá: “Bức màn trướng trong đền thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới” (15,38). Điều đã được khai mở hôm nay trên dòng sông Giođan rồi đây sẽ được hoàn tất mỹ mãn trên đồi Canvê: Đức Giêsu đã mở ra một lối đi cho hết mọi người được tự do đến với Thiên Chúa.
2. “... Và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình”. Trước khi Đức Giêsu đến, Thần Khí đã như bị dập tắt: Người không còn ngự xuống để tác động thêm những ngôn sứ mới. Ở đây, Đức Giêsu vừa lên khỏi nước sông Giođan liền thấy Thần Khí ngự xuống trên mình, chỉ định Người làm vị Ngôn sứ của thời đại mới.
3. “... Lại có tiếng từ Trời phán rằng: Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Thiên Chúa (trong thế giới Do Thái, Trời là một cách để gọi Thiên Chúa mà tránh đụng đến Người) chứng thực cho sứ mạng của Đức Giêsu: Người không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác, bởi ở đây Thiên Chúa đã nói với Người những lời mà ngoài Người ra chưa từng nói với ai. Những lời này có tầm mức vô cùng quan trọng, chúng hoạ lại và đồng thời làm sáng tỏ ý nghĩa hoàn tất của một số câu nói trong Cựu Ước: - Hoạ lại một câu trong Thánh vịnh 2: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (c.7), mà truyền thống Do Thái vốn đọc lên như lời sấm về Đấng Mêsia. Ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, Đức Giêsu đã được tuyên phong là Vua Cứu Thế thuộc dòng tộc Đavid, là Đấng Kitô của Thiên Chúa. - Hoạ lại câu nói được nhắc đi nhắc lại đến 3 lần trong Sách Sáng Thế 22, lúc Ápraham vì vâng lệnh truyền của Thiên Chúa, toan hạ tay sát tế Isaac, đứa con của lời hứa, “đứa con yêu dấu” của ông. Đức Giêsu được xem như một Isaac mới, khác chăng là Người đã không thoát khỏi cái chết. - Sau cùng, hoạ lại nhiều từ trong Isaia 42,1, Đức Chúa phán bảo cùng Người Tôi Tớ: “Này đây Tôi Tớ của Ta, kẻ Ta nâng đỡ, Người Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ”. Giống như Người Tôi Tớ đó, Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa hằng một niềm dấu ái và Thần Khí ngự xuống dư đầy, nay được sai đi thi hành sứ mạng là trở nên “ánh sáng các nước”, “mở những mắt mù loà”, “đưa tù nhân ra khỏi nhà lao, khỏi ngục thất dân cư bóng tối” (Is 42,6-7). Và cũng cùng một thân phận với Người Tôi Tớ được vị ngôn sứ loan báo trên, Chúa sẽ phải thực hiện sứ mạng ấy qua con đường tự hạ, và khổ đau.
3. ... Và mở ra sứ mạng sẽ tới: Như vậy, ngay từ trang đầu tiên của Tin Mừng Máccô, tất cả đã cho thấy một tấn kịch đang được mở màn. Tuy nhiên, mọi sự chỉ mới ở mức độ nói xa nói gần, nói dè dặt, gần như còn cần phải giữ kín đáo, để vạch ra một cái hướng cho những gì cần phải được khám phá trong suốt bản văn. Jacques Hervieux kết luận: “điều hiển nhiên là, đối với Máccô, phép rửa Đức Giêsu chịu không phải nhằm tẩy sạch những tội lỗi mà Người không hề phạm. Đó chính là tín hiệu khởi hành, là trái giao banh cho sứ mạng mà Thiên Chúa ký thác cho Đấng được gọi là “Mêsia”, và là “Con Thiên Chúa” (theo nghĩa mạnh của niềm tin Phục sinh). Đức Giêsu quả là Sứ Giả đặc biệt của Thiên Chúa để thiết lập Vương Quốc của Người. Từ giây phút này, Người đã có thể vào cuộc để thực hiện sứ mạng ấy”.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. Đức Giêsu, Người Con Chí Ái của Chúa Cha. (Mgr. Daloz, trong “Qui donc est-il?”, Desclée de Brouwer, tr. 11). “Đức Giêsu, kẻ xuất thân từ làng Nazareth ấy, là Con Thiên Chúa, đó không chỉ là một định nghĩa hay một danh xưng mà thôi đâu. Đó là một liên hệ tình yêu, một mối dây “gia đình”. Tiếng Chúa Cha đã vang lên trìu mến: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Đúng là một khẳng định của tình yêu Đức Giêsu vừa là con người xuất thân từ Nazareth, vừa đồng thời là Đấng sống mật thiết với Chúa Cha trên trời: Các tầng trời xé ra, và Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người. Đây mới thực là “mầu nhiệm của Đức Giêsu”, mà người ta chẳng bao giờ khám phá cho cạn, suy cho thấu. Mầu nhiệm của một đời người hoàn toàn cho tình yêu, tràn đầy Thần Khí. Cuộc đời của Đức Giêsu ngay từ ban đầu đã được xác định qua tương quan với Chúa Cha và với Thần Khí. Đó chính là mấu chốt thâm sâu nhất của bản thân Người. Đức Giêsu được giới thiệu cho chúng ta qua lời xác nhận yêu thương của Chúa Cha. Đây là danh thiếp của Người: “Con Chí Ái của Cha”.
2. “Hội Thánh và những anh chị em tân tòng hôm nay” (Guy Cordonnier, trong “Pastorale sacramentelle. Points de repères”, Cerf, trang 138-139). “Kitô giáo, xét như là một hiện tượng xã hội học, ngày nay đang trên đường bị xoá sổ. Trào lưu ngoại giáo cổ lại như đang tìm cách trở lại với khoa chiêm tinh, các giáo phái, ma thuật, bói toán, các thầu gu-ru vv... Không còn những khuôn mẫu, mọi cơ chế bị đặt lại vấn đề, nỗi thèm khát để có nhiều, biết nhiều, xu hướng ngày càng nghiêng về những cảm nghiệm tức thời và hời hợt... đó là những dấu đậm nét trên thời đại của chúng ta hôm nay, và người Kitô hữu đôi khi không biết làm sao để tìm thấy lại được chân tính của mình trước nền văn minh hiện đại. Giữa lòng một xã hội như thế, những tín hữu Kitô chúng ta có bổn phận phải làm chứng về các giá trị Tin Mừng. Họ được mời gọi đừng co cụm lại trong thế giới của mình, nhưng hãy tham gia vào số phận chung của nhân loại và khám phá những dấu chỉ của Nước Trời khắp nơi. Những dấu chỉ đó vượt xa biên giới hữu hình của Hội Thánh: Nước Thiên Chúa phải chăng hôm nay đang hiện diện ở bất cứ nơi nào có tình yêu bày tỏ, có công lý ngự trị, có sự quan tâm thương mến những người nghèo? Thời buổi hiện đại hôm nay là một thời cơ tốt cho Hội Thánh, đang chịu thách đố để trả lời cho những vấn nạn và khát vọng mới. Những người trưởng thành mới chịu phép Rửa Tội, trong lúc gắn bó với môi trường sinh sống của mình, trở nên một thứ nhịp cầu nối liền môi trường ấy với Hội Thánh. Họ đã am hiểu những gì ở trong thế giới chưa-có-đức-tin, nên họ nói với chúng ta: “Xin quí vị đừng bỏ quên những người chưa được rửa tội, những người đã bỏ đạo, những người ở vị trí vòng ngoài của Hội Thánh. Làm sao để loan báo Tin Mừng cho họ bây giờ?”. Những câu hỏi như thế phải giúp chúng ta trở về với điều được xem là hiển nhiên nơi các hiểu biết và thực hành của chúng ta trong Hội Thánh. Chúng hoà hợp những điều đó nơi các anh chị em “mới trở lại”, tức là những người quay về lại với Hội Thánh sau một thời gian đoạn tuyệt ít nhiều lâu dài, với nơi một số đông các Kitô hữu nhạy bén với thế giới hôm nay: làm sao đễ hội nhập đầy đủ vào trong Hội Thánh như hiện nay? Làm sao chất vấn, thậm chí thúc đẩy Hội Thánh đáp ứng được nhiều hơn sứ mạng của mình? Những anh chị em tân tòng chỉ là số nhỏ, nhưng sự hiện diện của họ mang nặng ý nghĩa. Việc tiếp nhận họ có liên can đến mức độ phong phú thiêng liêng của Hội Thánh. Các giáo đoàn của chúng ta có ý thức đầy đủ điều đó? Sự kiện những người đã lớn ngoài Kitô giáo tìm đến với Đức Tin còn là một hiện tượng quá mới mẻ để chúng ta có được một mục vụ đặc biệt cho họ. Đây đó đã có vài sáng kiến trong một số giáo phận, nhưng người ta vẫn còn trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm”.
- TỪ LỜI CHỨNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ
ĐẾN CUỘC GẶP GỠ VỚI ĐỨC GIÊSU.
- TỪ CUỘC GẶP GỠ VỚI ĐỨC GIÊSU
ĐẾN LỜI CHỨNG CỦA NHỮNG MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN (Ga 1,35-42)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ lời chứng của Gioan đến cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu: - Người đọc có thể nhận ra ngay những điểm dị biệt so với bài tường thuật về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên nơi các Tin Mừng Nhất lãm. . Theo sự trình bày của Gioan, các môn đệ đầu tiên, những con người sẽ tập hợp thành cái nhân ban đầu, của nhòm Mười hai, quả là dân gốc gác xứ Galilê. Nhưng câu chuyện họ được Chúa gọi ở đây lại không xảy ra ở ngay tại Galilê, bên bờ hồ nào đó thuộc miền ấy, mà lại ở bờ sông Giođan nơi họ từng theo làm môn đệ của Gioan Tẩy Giả. . Cũng vậy, trong lúc nơi các Tin Mừng Nhất lãm, lời kêu gọi của Chúa mặc hình thức một lệnh truyền: “Các anh hãy theo tôi”, thì ở đây, hai môn đệ đầu tiên, là Anrê và chắc là Gioan, con ông Giêbêđê, lại được khởi động bởi lời chứng của Gioan Tẩy Giả: “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, tác giả Tin Mừng viết, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời chứng xác nhận các điều đã hứa xưa, nay đã được thực hiện nơi Đức Giêsu. Rồi thánh sử Gioan tiếp ngay: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” ("đi theo”, trong ngôn ngữ Kinh Thánh có nghĩa là: làm môn đệ). - Tuy nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của lời chứng ông Gioan trong quá trình gặp gỡ Đức Giêsu, tác giả Tin Mừng thứ tư cũng quan tâm không kém đến tư cách chủ động của Chúa trong suốt bài tường thuật. . Chính việc Đức Giêsu “đi ngang qua” đó là cơ hội để Gioan Tẩy Giả làm chứng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. . Chính Người đã “quay lại”, thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình, mới hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Câu hỏi này là lời nói đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan. Cũng một câu hỏi tương tự như thế sẽ là lời đầu tiên Đấng Phục Sinh sau này nói với Maria Mácđala: “Bà tìm ai?”. Câu hỏi đó đã gợi lên cho hai người môn đệ ý thức rõ điều thực sự họ đang tìm kiếm, và đồng thời mời gọi chính chúng ta là những độc giả Tin Mừng hôm nay, biết đặt mình trước mặt Chúa, để làm sáng tỏ ý nghĩa sau cùng của cuộc hành trình nội tâm của chúng ta. Anrê và người bạn kia đáp lại bằng cách hỏi Chúa: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi vượt xa chuyện đơn giản chỉ liên can đến nơi ăn chốn ở của Chúa, nó đã hướng tới đời sống thân mật của Đức Giêsu với Chúa Cha. . Và chính Đức Giêsu mời gọi các ông: “Đến mà xem”. Lời mời không chỉ là đến tham quan cho biết chỗ Người chọn làm nhà ở, mà là đi vào một cuộc gặp gỡ thiết thân với Người, là biết Người một cách thâm sâu hơn, là “kiểm nghiệm bằng mắt thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đức tin” (x: P.E Jacquemin, “Assemblées du Seigneur”, số 33, trang 57). Chúng ta đọc thấy nơi 1Ga 1,1-3: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến... Chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi”.
2. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đến lời chứng của các môn đệ: - Thế là có một cuộc gặp gỡ: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, thánh sử viết tiếp, và ở lại với Người ngày hôm ấy”. . A.Marchadour ghi nhận: “Cuộc gặp gỡ được bao trùm trong một bức màn kín đáo, đem đến cho bài tường thuật một chiều kích vừa mầu nhiệm vừa sáng tỏ: từng người tín hữu chúng ta, đều được mời gọi thực hiện cùng một bước đi ấy” (“L'Evangile de Jean”, Centurion, trang 48). . Việc láy đi láy lại động từ “ở (lại)” (“demeurer”) lôi kéo chú ý của người đọc đến một yếu tố cốt thiết. A. Marchadour nhận xét thêm: ““Ở (lại)” trong Tin Mừng của Gioan, vẫn theo tác giả trên, là một thuật ngữ thần học chỉ sự hoàn tất trong Đức Tin, sự gắnbó trọn vẹn vào Đức Giêsu... Đó là những bước đi đúc kết nên Đức Tin: đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ Người ở, ở lại với Người” (Sđd, trang 47). - Đàng khác, tác giả Tin Mừng dừng lại lâu để mô tả cái phản ứng dây chuyền phát sinh từ cuộc gặp gỡ ấy với Đức Giêsu. . Anrê gặp em mình là Simon, và dẫn ông này đến gặp Đức Giêsu, người mà ông xưng là “Đấng Mêsia”. Và rồi Đức Giêsu đặt cho ông em này một tên mới, mang ý nghĩa tượng trưng, cái tên công bố và biểu lộ ơn gọi rất riêng của ông ta, giữa hàng ngũ các môn đệ: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha(tức là Phêrô)”. Theo truyền thống Nhất Lãm, Anrê và Simon cả hai được Đức Giêsu kêu gọi cùng một lần. Theo Gioan, Simon đến gặp Đức Giêsu qua trung gian giới thiệu của anh mình; một cách nào đó ông là “kẻ đến sau”. Tuy nhiên điều đó không phủ nhận chút nào vị thế hàng đầu của Simon trong nhóm các môn đệ, bởi chính ông này, theo tường thuật của Tin Mừng thứ tư, là người được vinh dự Đức Giêsu ngỏ lời riêng đầu tiên. . Sau đó, Đức Giêsu gặp Philípphê và nói: “Anh hãy theo tôi” (Philípphê là người Bétxaiđa, đồng hương với Anrê và Phêrô). Và Philípphê lại tiết lộ với Nathanaen: “Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth” (c.45). Cứ như thế, theo lối diễn tả của X.Léon-Dufour, “ngọn lửa loan tin được chuyền đi, từ người này sang người khác” (“Lecture de l'Evangile selon Jean”, tập 1, Seuil, trang 185). Phải chăng cũng chính nhờ lời chứng của các môn đệ đầu tiên đó mà biết bao tín hữu khác, đến lượt mình, cũng đã gặp gỡ được Đức Giêsu, là Đức Kitô? Làm sao Anrê và người bạn kia của ông đã phát hiện được Đấng Mêsia, nếu không nhờ Gioan Tẩy Giả? Simon Phêrô cũng thế, nếu không có anh mình là Anrê? Và cả Nathanaen, nếu không có Philípphê? Đến lượt chúng ta cũng vậy, chúng ta sẽ chẳng bao giờ lãnh nhận được Đức Tin nếu không nhờ sợi dây chuyền vĩ đại móc nối chúng ta với những môn đệ đầu tiên ấy.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Những cuộc gặp gỡ đầu tiên” (Mgr. L.Daloz, “Nous avous vu sa gloire”, Desclée de Brouwer, trang 28-30). “Tin Mừng thứ tư không hề mô tả cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Gioan Tẩy Giả. Không một lời trao đổi nào giữa hai vị được thuật lại. Gioan nhìn thấy Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu, nói về Đức Giêsu. Ông là nhân chứng, là bạn, là tiếng nói. Điều ông phải nói, ông đã học được từ Đấng sai ông. Ông không phải là môn đệ của Đức Giêsu. Ông là vị tiền hô. Sau ông, sau Đức Giêsu, là một thời mới đã khởi đầu. Sau phép rửa trong nước, là phép rửa trong Thánh Thần. Gioan vừa là kẻ được chiêm ngưỡng cái thực tại mới mẻ, như ông Môsê được từ xa nhìn thấy Đất Hứa, vừa đồng thời là người hướng mọi người về đó, bằng cách giới thiệu Đức Giêsu: “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời nói của Gioan tác động ngay trên các môn đệ: Các ông đi theo Đức Giêsu. Gioan phải có được một sức mạnh từ bỏ lớn như thế nào để có thể sẵn sàng gởi chính những môn đệ của mình đến với Đức Giêsu. Ông không chỉ đã dọn đường cho Chúa, mà còn đã dọn lòng những con người, để họ biết Chúa và theo Chúa. Ngay khi vừa tiếp nhận những môn đệ của Gioan, Đức Giêsu khai trương sứ mạng của Người. Mẩu đối thoại thật ngắn gọn, dứt khoát: “Các anh tìm gì thế? - Thưa Rápbi, Thầy ở đâu? - Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Tác giả xác định giờ giấc của cuộc gặp gỡ ban đầu ấy: Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Như vậy, bước thứ nhất của những kẻ sau này sẽ là tông đồ và nhân chứng của Đức Giêsu là nhận biết Người, đi theo Người, ở lại với Người. Vấn đề trước hết không phải là đi đâu và làm gì. Điều này vẫn luôn luôn đúng cho chúng ta. Đức Giêsu là Đấng đến để hoàn tất công việc mà Chúa Cha đã giao phó cho: Người loan báo Nước Trời, Người chết cho mọi người, Người cứu chuộc qua mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Trước tiên, chúng ta cần phải bước vào Nước ấy, phải nhận biết Đức Giêsu, phải làm môn đệ của Người. Rồi sau đó chúng ta mới sẽ là nhân chứng của Người. Nếu chúng ta tưởng rằng chính chúng ta sẽ ra đi cứu độ thế gian thì coi chừng lầm to. Chỉ có một Đấng Cứu độ là Đức Giêsu. Không ai có thể làm chứng nhân nếu trước hết không là môn đệ. Dù sao, cuộc gặp gỡ ban đầu này đã mau chóng dẫn đến hành động làm chứng đầu tiên: Anrê đi gặp em mình trước hết: Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia. Câu nói nghe thấy đơn giản làm sao! Chúng ta không còn được nghe thấy âm thanh cảm xúc có thể đã dâng trào trong cõi lòng người thanh niên Do Thái dám thốt lên lời đó. Đấng Mêsia, niềm khát vọng của Israel... Thánh sử Gioan cho phép chúng ta cảm thấy điều lạ lùng trong việc Đấng Messia đọc được điều thầm kín trong lòng con người, và ngay từ giây phút đầu đã ghi dấu đậm đà trên cuộc đời những kẻ Người gọi. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha tức là Phêrô”. Đức Giêsu luôn biến đổi những ai đến với Người. Người đặt cho họ một tên mới. Người trang bị cho họ đủ khả năng để nhận lãnh sứ vụ mà Người sẽ sai thực hiện. Cả ba người môn đệ đầu tiên đều đến với Đức Giêsu nhờ sự dẫn dắt của một người khác. Điều đó có thường xảy ra cho chúng ta? Có được bao nhiêu người trên đường đời đã giúp chúng ta nhận ra Đức Giêsu...?”.
2. “Khởi đầu của một cuộc phiêu lưu lạ lùng” (F.Deleclos, trong “Prends et mange la Parole”, Centurion-Duculot, trang 131-132). Có những phút giây hay những lần gặp gỡ mà người ta không bao giờ quên được. Đó là những khoảng khắc của ánh sáng hay của sự đồng cảm sâu xa sẽ mãi mãi ghi dấu và định hướng cuộc đời con người. “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười...”. Năm mươi năm về sau, Gioan còn nhớ chính xác cái ngày hôm đó, khi cùng với ông bạn Anrê, ông đã được nghe tiếng người anh em bà con với Thầy mình đặt câu hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Đó chính là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu lạ lùng. Cuộc đời của các ông từ đây sẽ rẽ sang một khúc quanh mới, một hướng đi mới (...). Bắt gặp một cái nhìn qua đó biểu lộ cả một con người. Cảm nghiệm được nhìn nhận, được tôn trọng và được kêu gọi. Cảm thấy được trở thành chính mình và trở nên khác, được lớn lên và tiếp tục vươn lên thêm mãi. “Thầy ở đâu? Đến mà xem”. Họ đi theo và đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Tất cả chỉ đơn giản thế thôi và gây ngỡ ngàng biết bao. “Các anh tìm gì thế?”. Câu hỏi hệ trọng ấy không chỉ đặt ra cho những “hiện tượng hiếm hoi” trong trời đất, hay cho những nhân vật xuất chúng. Nó được dành cho tất cả chúng ta. Nó không chỉ khai sinh ra các bậc ngôn sứ và các vị thánh được tôn phong, nhưng chủ yếu mọi người tín hữu. Ngày hôm nay, trên khắp mọi nẻo đường trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi Người đi ngang qua giữa chúng ta, như xưa Người đã “đi ngang qua” giữa các môn đệ bên bờ sông Giođan. Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. Người chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê hoặc dụ dỗ người nào. Người ta vẫn có thể đi sát một bên Người mà không hay không biết, vẫn có thể thấy Người mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Tuy nhiên chỉ có những người nào biết tìm kiếm và khao khát chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt, mới có thể lay động và lắng nghe. Ngoài ra còn phải có thái độ sẵn sàng để đi theo Người và đến mà xem. Đức Tin chớm nở từ lời hỏi đáp: “Thầy ở đâu?”. Thế là bắt đầu cuộc trao đổi với Chúa. Con người còn cần phải đi theo Người, đồng hành với Vị Thầy và ở lại với Người để hiểu biết thêm”.
ĐỨC GIÊSU KHỞI ĐẦU SỨ VỤ Ở GALILÊ
VÀ KÊU GỌI NHỮNG MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN (Mc 1,14-20)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Vừa bắt đầu sứ vụ ở Galilê + Ngay sau khi thuật lại biến cố Chúa chịu phép rửa trên sông Giođan (Mc 1,4-11), Chúa chịu cám dỗ trong hoang địa (Mc 1,12-13: Chúa nhật I Mùa Chay), tác giả Tin Mừng Máccô đề cập đến việc Đức Giêsu khai trương sứ vụ của Người ở Galilê. Hai câu 14 và 15 tuy ngắn ngủi, nhưng có nội dung hết sức cô đọng: xác định thời gian và nơi chốn của biến cố, đồng thời cho thấy ý nghĩa quan trọng của nó, đó là khoảng khắc bản lề trong chương trình thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa. - Câu chuyện diễn ra “sau khi ông Gioan bị nộp”. Tác giả có ý nêu bật mối dây liên tục giữa sứ vụ của Đức Giêsu và sứ vụ của Gioan, và hé mở cho thấy số phận mà thiên hạ dành cho Đức Giêsu cũng chẳng khác gì số phận của vị Tiền Hô. - Câu chuyện xảy ra “tại Galilê”. Một vùng đất ở bên lề, mà nội tên gọi cũng có nghĩa như thế: “Miền đất của dân ngoại”, “Ngã tư đường của lương dân”, nghĩa là một tỉnh biên giới, một khu vực xôi đậu giữa Do Thái và dân ngoại. Được nhắc tới 12 lần trong Tin Mừng thứ hai này, địa danh Galilê đóng vai trò biểu tượng: chính nơi đây Đức Giêsu sẽ xây dựng nên “trung tâm truyền giáo” của Người. Chính từ xứ sở này, vốn bị người ở Galilê và Giêrusalem miệt thị, mà Chúa sẽ chọn làm địa bàn hoạt động ưu tiên của Người, đúng như lời sấm nơi Isaia 8,23 đến 9,1: “Dân đi trong tăm tối đã thấy một ánh sáng lớn. Trên những kẻ ở xứ âm u, một ánh sáng đã rạng ngời”. - Ở đây, thánh sử Máccô viết, Đức Giêsu rao giảng “Tin Mừng của Thiên Chúa”; Nói cách khác, Người loan báo ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, đó chính là “Tin Mừng” mà các tông đồ đến lượt mình sau này, khi Chúa đã sống lại, sẽ nhận lãnh sứ mạng phải rao giảng (x: 1Tx 2,8). . “Thời kỳ đã mãn”, tác giả viết tiếp, kế hoạch của Thiên Chúa đã được nên trọn vẹn nơi Đức Giêsu: Người là Đấng Mêsia sẽ hướng dẫn lịch sử tới cùng đích của nó. . “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần”: Niềm hy vọng của Israel nay đã được toại nguyện quá mức mong đợi. Với Người, Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân hành động, Triều Đại của Người đang kề bên: Thực sự, theo lối nói tuyệt vời của Origêne, nào Đức Giêsu chẳng phải là “Triều-Đại-Thiên-Chúa-bằng-xương-bằng-thịt?”. Sứ điệp của Chúa kết thúc bằng một lời tha thiết kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận niềm hạnh phúc trong đức tin: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Vào giai đoạn khởi đầu sứ vụ ở Galilê này, Đức Giêsu là Đấng loan báo Tin Mừng. Nhưng rồi đây, qua cuộc đời, cái chết và cuộc Phục sinh của Người, Người sẽ lại chính là đối tượng loan báo của Tin Mừng ấy.
2. Đức Giêsu đã kêu gọi các môn đệ đi theo Người: Ở đây có một sự khác biệt rõ rệt với cảnh Chúa kêu gọi các môn đệ đầu tiên được mô tả dưới ngòi bút của thánh sử Gioan, trong bài Tin Mừng Chúa nhật vừa qua; khác biệt nơi khung cảnh, khác biệt ở giọng văn lẫn nội dung. J.Potin đưa ra giả thuyết, và P.E. Boismard trong “Jésus, un homme de Nazareth” (Cerf, 1996) cũng cùng quan điểm: “Chúng ta đã thấy, theo Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu đã có lần gặp gỡ với các ông Phêrô, Anrê và Gioan ở bờ sông Giođan. Dường như cảnh xảy ra bên bờ hồ này trình bày lần kêu gọi dứt khoát cho vài người được tuyển chọn đích danh. Các ông không đứng lên đi theo một kẻ chưa quen đâu, nhưng là một Đấng mà họ đã bắt đầu đón nhận sứ điệp” (“Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 241). Chỉ với bốn câu viết, Máccô trình bày ở đây việc kêu gọi những môn đệ đầu tiên dưới hình thức hai mẩu chuyện được đặt song song với nhau, rập một khuôn như nhau, cùng lấy lại lược đồ truyền thống của những câu chuyện Kinh Thánh về ơn gọi, đặc biệt câu chuyện ông Êlisa được ngôn sứ Êlia kêu gọi, trong I Các Vua 19,19-21. Ở đây, Máccô nhấn mạnh hai điểm, một mặt là vai trò chủ động từ phía Đức Giêsu trong ơn gọi; mặt khác, tính chất triệt để nơi lời đáp trả ơn gọi. - Đức Giêsu “đi dọc theo biển hồ Galilê”. Người đang trên đường đi, bởi sứ mạng luôn thôi thúc. - Người để mắt chú ý hai ngư phủ trên biển, “ông Simon và người anh là ông Anrê đang quăng lưới xuống biển”. “Các anh hãy theo tôi, Người bảo họ, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. . “Đi đằng sau Thầy”, “theo Thầy”, đó chính là ý nghĩa của từ “môn đệ”. Làm môn đệ Đức Giêsu là dấn thân đi theo Người, dù tới đâu thì tới. Theo gương Simon, kẻ được gọi là đầu tiên ở đây, và người anh là Anrê, cũng như Giacôbê và người em là Gioan, là những người chỉ thực sự theo Đức Giêsu khi các ông loan truyền Tin Mừng đến cho lương dân và lúc các ông hy sinh mạng sống vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng. . Về phần câu “lưới người như lưới cá”, đó là một lối nói chơi chữ, xem ra lạ tai đối với người tây phương, cũng chẳng kém giàu ý nghĩa. Cần phải hiểu rằng, đối với người Do Thái, biển sâu chính là nơi qui tụ những mãnh lực của sự dữ và sự chết. Đức Giêsu ở đây được khẳng định như là Đấng đến để lôi kéo loài người anh em của Người thoát khỏi những mãnh lực của sự dữ và sự chết ấy. Và nếu Người “có ý tuyển chọn các ngư phủ làm những môn đệ đầu tiên, P.E. Boismard giải thích, là bởi vì Người thấy được mối liên hệ biểu tượng giữa nghề nghiệp hiện nay của họ và sứ mạng mà Người sẽ giao cho họ sau này: đó là “đánh bắt” những con người để đem họ vào trong Nước Thiên Chúa mà Người đã đến để thiếp lập nên” (Sđd, trang 37), để dẫn đưa họ từ cõi chết sang cõi sống. . Thái độ đáp trả phải mau mắn và vô điều kiện: “Lập tức, các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người”. Từ nay, theo Tin Mừng Máccô, ngoại trừ giờ Khổ Nạn, Đức Giêsu không còn cô độc một mình, nhưng luôn luôn “có các môn đệ cùng đi theo” (Mc 1,21; 1,29), những kẻ sau này sẽ là nhân chứng về việc Người đã làm. Đây quả là một bài tường thuật đầy tính linh hoạt, nó cho chúng ta cảm tưởng như những sự kiện cứ dồn dập xảy tới. Nó có vẻ giống như “khúc mở đầu” của một bộ phim sẽ diễn ra qua suốt cuốn Tin Mừng. Đức Giêsu là Đấng đã đi bước trước, và lời Người kêu gọi đã hoàn toàn lay chuyển được các môn đệ, khiến các ông một lòng đi theo Người. Các ông sẽ là hạt nhân nảy sinh Hội Thánh và trở nên một thứ đội quân tiên phong của một dân tộc mới, mà theo lời của Đức Giêsu, sẽ nổi lên giữa một “Galilê của dân ngoại”, Galilê xưa cũng như Galilê nay.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Thiên Chúa cần đến con người” (L.Monloubou, trong “Evangile de Marc”, Salvator, tr. 29-30). Cựu Ước là giai đoạn của lời hứa. Hiện thực của hành động Thiên Chúa, mặc dù cũng đã được kinh nghiệm qua những dấu lạ phi thường, nhưng là cái gì thuộc về ngày mai nhiều hơn. Với Tin Mừng, tương lai vẫn không ngừng là điểm nhắm tối hậu của cái nhìn người tín hữu. Tuy nhiên, cũng thế và hơn thế, chính hiện tại mới là điều đáng nói. Từ nay, Thiên Chúa đã ra tay hành động; “Thời kỳ (của lời hứa) đã mãn.... Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần” (thì của các động từ ở đây cho thấy kết quả thực sự của một hành động đã xảy ra rồi). Bổn phận những ai nghe lời của Người là tin vào điều đó, và tin có nghĩa là không để mình nao núng bởi những cái bề ngoài có vẻ ngược lại. Bởi vì nếu Thiên Chúa hành động, thì chắc chắn là Người sẽ làm theo kiểu của Người, mà loài người không dễ dàng gì chấp nhận được, hiểu được. Tuy nhiên, nếu “Tin Mừng của Thiên Chúa” (c.14) cũng được gọi là “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (c.1), là do bởi nơi Đức Giêsu cũng sẽ hiện lên cái đường lối kiểu cách hành động của Thiên Chúa và sẽ sáng tỏ cho thấy nó đúng đắn như thế nào. Toàn bộ sách Tin Mừng của Máccô sẽ nhằm để phác hoạ cho chúng ta những đường nét, giúp chúng ta hiểu ý nghĩa, dạy chúng ta biết đón nhận những yêu sách của hành động Thiên Chúa, như được minh hoạ ra nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Thiên Chúa hành động, nhưng không thể thiếu vắng con người. Điều đó cũng có nghĩa là con người phải hoà mình vào với hành động mà Thiên Chúa thực hiện giữa nhân loại, qua việc thiết lập cho họ Triều Đại của Người. Đó chính là ý nghĩa của việc hoán cải và thay đổi đời sống được đòi hỏi nơi họ. Phần tiếp theo của Tin Mừng sẽ trình bày cho thấy một vài thí dụ về các khía cạnh cụ thể bao hàm nơi sự hoán cải cần thiết phải làm đó. Tuy nhiên, nên biết rằng, khác với Luca, và càng khác với Matthêu, Máccô không có những diễn từ “huấn đức” dài dòng, đề cập đến những phương diện khác nhau của lối sống đạo đức người môn đệ phải có. Không bỏ quên khía cạnh đó, Máccô quan tâm nhiều hơn đến sự chọn lựa tiên quyết đòi buộc nơi mọi người, đó là: đón nhận, qua Đức Tin, Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và quyết tâm thay đổi toàn bộ đời sống mà ta gọi là: hoán cải. Hiển nhiên là tác giả nhìn thấy nơi thái độ của những môn đệ đầu tiên, một thí dụ điển hình về sự hoán cải và đức tin phải có. Không để ý cho lắm đến những tình tiết lịch sử, chắc là cũng khá ly kỳ phức tạp, của các lần gặp gỡ giữa Đức Giêsu và bốn người ấy, mà sau đó là cả một cuộc đời gắn bó hoàn toàn với sứ mạng và với con người Đức Giêsu, Máccô, chỉ giữ lại cái chính yếu. Vốn là dân gốc Galilê, làm nghề đánh cá như bao người đồng hương, là thành phần lao động giữa nhóm bạn đồng nghiệp và thân thuộc, các ông đã được Đức Giêsu, Đấng rao giảng Triều Đại Thiên Chúa, mời gọi đi theo. Bên tai các ông đã vang vọng lời công bố, được gởi gắm đến từng người, về hành động của Thiên Chúa, đòi hỏi nơi các ông một sự hợp tác chặt chẽ. “Lập tức”, các ông đáp lại tiếng kêu gọi mình, phát ra từ chính Đức Giêsu, và các ông gắn bó ngay với Người: “họ đi theo Người”. Sự kiện được kể lại để làm gương. Nhưng chắc chắn là tác giả Tin Mừng, dù ngưỡng mộ tư cách của bốn ngư dân xứ Galilê ấy như là mẫu mực của sự hoán cải mà Đức Giêsu đòi hỏi, vẫn trước tiên nhắm đến một cái gì khác nơi việc làm của các ông. ông nhắm đến hành động của Thiên Chúa đang sinh hiệu quả. Đúng hơn, ông nhận thấy Triều Đại của Thiên Chúa đang được xây dựng qua sự hình thành một nhóm nhỏ khiêm tốn những con người rồi đây sẽ trở thành, và đang thực sự là cái mầm nảy sinh ra Triều Đại ấy”.
2. “Những kẻ lưới người” (G.Bessière, trong “Dieu si proche: Année B”, Desclée de Brouwer, trang 87-88). “Có hai bài “tường thuật ơn gọi” đi liền nhau trong đoạn Tin Mừng này: ơn gọi của Simon và Anrê, và ơn gọi của Giacôbê và Gioan. Cấu trúc của cả hai giống nhau: Đức Giêsu đi ngang, các ông đang làm việc, Chúa kêu gọi, các ông từ bỏ công việc (và những người thân, trong bài tường thuật ơn gọi thứ hai), các ông đi theo Đức Giêsu. Mỗi bài tường thuật đều giản dị và sinh động: nó cho thấy hiệu năng của lời Chúa Giêsu, khiến cho những con người kia lên đường, đi theo Chúa. Người ta thường áp dụng lời kêu gọi của Chúa Giêsu cho những ai có “ơn gọi” làm linh mục hay tu sĩ, thực ra, nó được gởi đến mọi môn đệ của Chúa. Tất cả đều được yêu cầu phải dành ưu tiên tuyệt đối cho Đức Giêsu. Kiểu nói: “những kẻ lưới người” muốn nhắn gởi cho bốn người được gọi đó nhớ rằng họ vẫn không bị bó buộc phải bỏ nghề của mình, để rồi trở thành những kẻ ăn không ngồi rồi: trong sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa, họ cũng phải tỏ ra thành thạo như trong lúc hành nghề của mình. Vấn đề là phải loan báo cho mọi người biết một “tin” sẽ thay đổi tất cả. “Thời kỳ” đã đến hồi viên mãn. Một cuộc tạo dựng mới khởi đầu. Nước Thiên Chúa đang có đó. Phải sám hối, nghĩa là phải thay đổi tâm trí, phải thực hiện một sự cải tạo toàn diện, phải làm lại thế giới. Với Đức Giêsu”.[1]
- TỪ HỘI ĐƯỜNG CA-PHÁC-NA-UM
ĐẾN KHẮP MIỀN GALILÊ.
- LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU
NGAY GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ (Mc 1,29-39).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ âm thầm trong “nhà...”. Lễ Dâng Chúa trong Đền Thờ khiến chúng ta không được đọc bài Tin Mừng của Chúa nhật vừa qua, nói về những sự việc đầu tiên trong ngày ra mắt công chúng của Đức Giêsu tại hội đường Caphácnaum (1,21-28). Chúng ta tiếp tục chỗ bị gián đoạn trong Tin Mừng Máccô, từ lúc Đức Giêsu ra khỏi hội đường, nơi Người vừa vào tham dự một buổi nghi lễ ngày Sabát; Ở đó, Người đã giảng dạy như một Đấng có “thẩm quyền”, đã dùng quyền năng để giải thoát “một người bị thần ô uế nhập”, khiến khơi lên dư luận bàn tán và người ta thắc mắc về Người: “Thế nghĩa là gì?”. Sau đó là ba câu chuyện nhỏ xảy ra liên tiếp trong bài Tin Mừng Chúa nhật thứ V hôm nay. Cả ba tương phản nhau như được tượng trưng qua những địa điểm chúng xảy ra: bắt đầu từ một chỗ âm thầm trong “nhà của ông Simon” (Phêrô); rồi đến “ngoài cửa”, nơi “cả thành xúm lại”; sau cùng là “một nơi hoang vắng”, ở đó, trong lúc Chúa đang cầu nguyện, vang lên lời Người gọi mời phải mở rộng cánh đồng truyền giáo. - Đức Giêsu, có các môn đệ đầu tiên “cùng đi theo”, ra khỏi hội đường Caphácnaum, đến “nhà hai ông Simon và Anrê”. Luật Do Thái có qui định nghiêm ngặt, trong ngày Sabát như ngày hôm đó, người ta được phép đi lại bao xa. Kết quả những công trình đào xới khảo cổ học gần đây cho thấy, quãng đường phải đi từ hội đường đến “căn nhà” mà Đức Giêsu và các ông định đến, quả thực rất gần. Căn nhà này hình như là địa điểm họp mặt, đồng thời là cứ điểm truyền giáo của Đức Giêsu. Nó đóng một vị trí quan trọng trong Tin Mừng thứ hai này. - Máccô thuật tiếp: “Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt”. Để hiểu được ý nghĩa câu chuyện, cần phải nhớ rằng vào thời đó, bệnh sốt được xem như là một trong những hình phạt mà Thiên Chúa doạ sẽ giáng xuống trừng phạt dân tộc bất trung: “Nếu các ngươi khinh thường các luật điều của Ta, và hồn các ngươi ớn ghét các phán quyết của Ta, không làm theo tất cả các lệnh truyền của Ta, đến thủ tiêu giao ước của Ta, thì chính Ta, Ta sẽ làm điều này cho các ngươi: Ta sẽ giáng xuống trên các ngươi kinh hoàng, tiêu hao, cảm sốt làm cho mắt đờ, hơi kiệt” (Lv 26,15-16a). J.Potin chú thích thêm: “Người bị bệnh sốt, là kẻ bị tình nghi phạm một tội nào đó, khiến tuỳ mức nặng nhẹ của cơn sốt mà không được tham dự, hoặc tất cả hoặc một phần; vào sinh hoạt chung tôn giáo và xã hội” (“Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 162). Câu chuyện được tiếp tục kể, giọng điệu mau lẹ, ngắn gọn, không thấy một lời nói nào. . Trước tiên là sự thỉnh cầu của các thân nhân người bệnh: “Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà”. . Tiếp đó là cử chỉ chữa lành: “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy”. Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này của Đức Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng đối với Máccô và cộng đoàn Kitô hữu của ông. J.Hervieux lưu ý chúng ta: “Đó là điều được ám chỉ một cách kín đáo, , qua việc sử dụng một kiểu nói đặc biệt. Trong tiếng Hy Lạp, động từ “đỡ dậy” cũng là động từ Máccô dùng để nói về Đức Giêsu: “Người đã chỗi dậy rồi” (16,6). Chúng ta cần phải đặt mình trong khung cảnh những Kitô hữu tiên khởi khi đọc trang Tin Mừng này. Đối với họ, Đức Giêsu không chỉ là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai đoạn đầu của sứ vụ. Với cuộc Phục sinh, Người được suy tôn là “Đức Chúa và Đấng Kitô” (Cv 2,36), nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi, tiếp tục giải thoát họ khỏi sự chết” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 33). . Người bệnh bỗng phút chốc được lành bệnh, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn, bằng chứng là sau đó bà bắt đầu phục vụ Đức Giêsu và các người đi theo Chúa. Đó cũng là hình ảnh người Kitô hữu đã từng bị nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là tội lỗi. Nhưng Đức Kitô đã đến “cầm lấy tay mà đỡ dậy”, nhờ đức tin và phép Rửa tội, để một khi đã được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và anh em mình: “Cơn sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”. J. Hervieux tiếp tục: “Khi trình bày cho thấy, người đàn bà đã được chữa khỏi, bắt đầu phục vụ các vị khách của mình, Máccô chắc chắn nghĩ đến việc “phục vụ” Đức Kitô mà mọi Kitô hữu được mời gọi phải làm. Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu của Người khỏi sự dữ để họ bắt tay vào công việc phục vụ đó” (Sđd).
2. ... Rồi đến “trước cửa” có “cả thành xúm lại": Khi mặt trời lặn, đối với người Do Thái, đó là lúc kết thúc ngày Sabát, và bắt đầu một ngày mới. - Hết bị ràng buộc bởi những khoản cấm đoán liên can đến ngày hưu lễ, mọi người từ lúc này ai nấy trở lại với sinh hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Giêsu “mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám”. Chẳng mấy chốc, theo lời của Máccô, “cả thành xúm lại trước cửa”. Phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra âm thầm giữa một nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho niềm khát mong của bao kẻ bên ngoài: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ”. - Người ra lệnh cho chúng không được nói gì cả, lần này cũng nghiêm khắc không kém gì lúc ở trong hội đường (c.25): “Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”. M.E.Boismard đặt câu hỏi: “Tại sao lại có lệnh cấm đoán đó, ở đây cũng như chỗ khác, trong ch.1 câu 25, khi Đức Giêsu bắt thần ô uế phải im tiếng mà xuất ra khỏi nạn nhân?... Vào thời đó, cũng chính ông trả lời, đất nước Palestin đã bị mất chủ quyền, và rơi vào ách đô hộ của người Lamã. Do vậy, dân tộc Do Thái ngày đêm mong mỏi một vị anh hùng giải phóng đến để “khôi phục lại vương quốc Israel” (Cv 1,6; Lc 1,68-73). Nhưng Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến không phải thực hiện công cuộc khôi phục có màu sắc chính trị đó. Chính Đức Kitô rồi đây sẽ giải thích thực chất vương quyền của Người là gì, khi triển khai giáohuấn của Người bằng những dụ ngôn (Mc 4,1 và tiếp theo). Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự sai biệt giữa vị vua mà dân Do Thái mong đợi và vị vua mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Chính vì muốn tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giêsu đã không cho phép quỷ xưng Người là ai, cũng như sau này Người chỉ thị cho những kẻ được chữa lành phải thinh lặng. Đó là lý do của cái quen gọi là “bí mật Mêsia” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, trang 46-47). Danh hiệu “Đấng Kitô” và “Con Thiên Chúa” chỉ được giải nghĩa chính xác sau ngày dưới ánh sáng của Khổ Nạn và Phục Sinh. Phải giữ thinh lặng cho đến khi thật sự sáng tỏ rằng Đấng Messia chỉ đến cứu loài người qua con đường hy sinh chịu chết.
3. ... Và “những nơi khác” phải đến để rao giảng: Các câu từ 35 đến 39 đóng vai trò chuyển tiếp giữa sứ vụ của Đức Giêsu được khai trương ở Caphácnaum và mở rộng ra khắp miền Galilê. Trái ngược hoàn toàn với công việc bề bộn của Người để phục vụ đám đông ở Caphácnaum, giờ đây Đức Giêsu chỉ có một mình “trong một nơi thanh vắng”. - Chúng ta đang ở vào lúc “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt”, hôm sau ngày Sabát, ngày thứ nhất trong tuần, sau này sẽ là Chúa nhật của người Kitô hữu, “ngày của Chúa”. Đức Giêsu cầu nguyện, như Người từng làm như thế vào mỗi khoảng khắc quan trọng của sứ vụ (x. Mc 6,46 và 14,35-39). Chắc chắn trước sự ồn ào nô nức của đám đông vây quanh mình, Người cảm thấy nhu cầu được đắm chìm lại trong sự thân mật với Chúa Cha, cũng như xác định lại vị trí của mình trên con đường sứ vụ. P.E. Boismard chú giải, “Trong nơi hoang vắng, tất cả đều im tiếng, chỉ có sự tĩnh lặng tràn ngập ánh sáng, chỉ có con người và Thiên Chúa. Bởi vì mọi sự đều lặng thinh nên con người mới nghe được tiếng Thiên Chúa” (Sđd, trang 49). - Các môn đệ thì chạy đi tìm Chúa, mong mời cho được Người trở về Caphácnaum, ở đó “mọi người đang tìm Thầy”. Nhưng Đức Giêsu cương quyết nhắc cho họ biết cái cốt lõi trong sứ vụ của Người là: loan báo Tin Mừng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quang, Người trả lời họ, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. - Từ đó, “Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”. Đoạn Tin Mừng chấm dứt ở giai đoạn mở màn của sứ mạng truyền giáo ấy. “Vài câu Tin Mừng ở trên có những nét đặc trưng của Máccô: Đức Giêsu ra đi trước, một mình, cầu nguyện. Lúc đó là đêm thứ bảy bước sang ngày Chúa nhật, quãng thời gian của sáng sớm ngày Phục Sinh (x.16,1-8). Các môn đệ ra đi sau, tìm Chúa để cố lôi kéo Người lại. Thế nhưng trong Tin Mừng Máccô, không bao gì có điểm dừng, người ta luôn luôn được gởi đi đến một nơi khác: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quang, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Các phụ nữ đi viếng mộ Chúa sau này cũng được gởi đi đến một “nơi khác” như thế ("Người không còn đây nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông"). Bài tường thuật ngắn ngủi này có thể được dùng làm tấm gương soi cho cộng đoàn Kitô hữu đang họp nhau trong đêm thứ bảy vọng sáng Chúa nhật, để cầu nguyện và tìm Chúa. Họ cũng sẽ được gởi đi đến một nơi các: “Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc” (13,10)” (“L'Evangile selon saint Marc”, Cerf, trang 37).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Cầu nguyện và truyền giáo” (Mgr. L.Daloz, trong “Qui donc est-il?”, Desclée de Brouwer, trang 17). “Cuộc đời của Đức Giêsu luôn xáo động. Người thường không được ở yên. Thế nên Người phải ra đi để cầu nguyện, giữa đêm tối, ở một nơi hoang vắng. Simon và các bạn chạy đi tìm Chúa và quấy rầy Người: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Trong cuộc sống luôn bị xáo trộn như thế, Đức Giêsu tận dụng thời gian để cầu nguyện. Người cầu nguyện cách kín đáo, thường là một mình. Người lắng nghe Chúa Cha, trong thinh lặng, và nói với Chúa Cha. “Thầy phải lo việc của Cha Thầy”. Người là Người Con Chí Ái, hằng yêu mến Cha, và luôn sống thân mật với Cha. Khi đi rao giảng cũng là lúc Người lo việc của Cha. Mọi người tìm Người, đợi Người. Nhưng Người đi “nơi khác”, “đến các làng xã chung quanh”, theo tiếng gọi của sứ vụ truyền giáo của Người: “vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Mối tương quan thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha ảnh hưởng trực tiếp đến sứ vụ, lời rao giảng của Người. Người làm điều Cha muốn và tìm kiếm thời gian để ở với Cha. Đó cũng là điều kiện phải có của mọi sứ vụ. Nó đòi hỏi phải có sự gặp gỡ thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện, và lắng nghe ý Người”.
2. “Một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa nhật” (F.Deleclos, trong: “Prends et mange La Parole, “Centurion - Duculot, trang 137-138). “Đoạn Tin Mừng kể về phép lạ chữa lành bà mẹ vợ của ông Phêrô không chỉ đơn giản là “chuyện nhỏ”, nó xứng đáng được xem như “một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa nhật”. Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được qui tụ bởi đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng cuộc sống đích thực. Chúng ta bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không chịu lắng nghe tiếng Chúa và chăm chú thực hành những điều răn của Người (Tl 28,15 và 22). Đức Giêsu đến làm cho chúng ta được bình phục, đủ sức khoẻ để phục vụ bàn tiệc Thánh Thể và dấn thân vào cuộc chiến chống lại mọi hình thức của đau khổ”.
2. “Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại” (H. Denis, trong “100 mots pour dire Jésus”, Desclée de Brouwer, trang 183). “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh”. Câu kinh đọc trước Rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa bệnh. Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có mặt hầu như ở từng trang Tin Mừng. Đằng khác, nếu không chữa bệnh, làm sao Đức Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêsia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay. Nhưng Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không, đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để cứu độ. Người không bảo: “Đức Tin đã chữa lành con”, nhưng: “Đức Tin đã cứu con”. Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khoẻ mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú giải hiện nay đã có một nhận định, mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao giờ đọc một bài Tin Mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú!), nhưng chỉ để công bố sự Phục sinh của Chúa”.
I.VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Sống dưới ánh mắt Chúa Cha... Bằng năm luận đề tương phản liên tiếp, Đức Giêsu trình bày đời sống công chính mới, đối lại lối sống công chính của các kinh sư và biệt phái. Trong bài đọc I lễ Tro, Đức Giêsu nói đến 3 trụ cột, làm nên khung sườn đời sống đạo của người Do Thái, và người ta còn thấy ở mọi tôn giáo, đó là: bố thí (ngày nay người ta dùng từ chia sẻ), cầu nguyện và chay tịnh. Chúa không khinh thường những việc đó, Người muốn nêu bật phải có tinh thần thế nào khi thực hành những việc ấy: “Nếu anh em muốn sống như người công chính, anh em phải coi chừng chớ có phô trương những việc ấy trước mặt thiên hạ, để người ta thấy”. Sự công chính “đích thực” hệ tại thích nghi với ý Thiên Chúa, Đấng độc nhất có thể biết những gì thầm kín trong tim con người.
2. Chia sẻ. Claude de Tassin giải thích: “Bố thí là một cơ chí quan trọng Do Thái, giống như dịch vụ từ thiện của xã hội thời nay, nhằm tỏ tình huynh đệ do Giao ước đòi buộc: cứu giúp người nghèo khó có sức xoá sạch tội lỗi (Tob 12,9) và có giá trị ngang với lễ hy tế (Si 4,6; 7,10)” (“L'Evangle de Matthieu”, Centurion, 1991, trang 72). Đức Giêsu không chối bỏ tinh thần tu đức này, nhưng Người tố giác cách làm phô trương. Bố thí không phải để “được sự vinh vang do người ta”, cũng không để đề cao mình cho người ta thấy (từ hypocrite có nghĩa phô trương mình), nhưng trong nơi kín nhiệm, phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa để một mình Người đánh giá nghĩa cử đó: để “Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”. Nguy cơ mà Đức Giêsu kêu gọi phải coi chừng, là để cái bề ngoài, cái nhìn thấy được chiếm ưu thế... Nó không phải là một nguy cơ tưởng tượng đâu, ngay cả đối với thời đại ngày nay, tuy dưới những hình thức tân tiến. Tính vô vị lợi và tính khiêm nhu cũng không dễ hơn cho các cộng đồng hội thánh hơn là cho các cộng đoàn thế tục. Nào chúng ta, những thành viên, những người phụ trách hoặc người tổ chức không thường bị cám dỗ nhận là của mình những dịch vụ hoặc công việc mà ta cống hiến công sức; khoe khoang công trạng và quyền lợi của ta trước mặt mọi người đấy sao! Đức Giêsu đã tuyên bố: “Thật tôi bảo thật anh em, họ đã được phần thưởng rồi”. Điều mà ta không gởi lại cho mình, thì Thiên Chúa đón nhận. Cả đến lòng quảng đại cũng vậy. Cử chỉ chia sẻ được đầy đủ ý nghĩa khi vì yêu mà tặng không. Chỉ có Thiên Chúa có thể ghi sổ tình yêu, bởi vì kích thước của tình yêu là vô tận.
3. Cầu nguyện. Cả việc cầu nguyện cũng không được thi hành “để biểu diễn” “để tỏ cho người ta thấy”, nhưng để nói với Cha, Đấng ngự nơi bí ẩn: “Cha ngươi Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho ngươi”. Đức cha Daloz nói: “Đức Giêsu đã không ngừng mời gọi người ta sống chân thành với lương tâm, sống hướng nội. Cầnphải chủ động tìm phương thế để đừng quấy rầy cuộc gặp gỡ thân mật, cá nhân với Chúa Cha. Khi bàn đến một hành động quan trọng như việc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đức Giêsu dạy ta phải gạt bỏ mọi nguy cơ, khiến cho người ta lấy cái nhìn của người trần, thế chỗ cho cái nhìn của Cha trên trời. Cầu nguyện để cho người ta nhìn, thay vì cầu nguyện Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, tức là bôi nhọ việc cầu nguyện, là nhắm sai mục đích, là một dạng thờ ngẫu tượng, vì nó hướng lời cầu nguyện, thay vì vào Đấng mà lời nguyện nhắm tới, thì hướng về lợi lộc của người giả bộ cầu nguyện.” (Sđd, trang 66).
4. Chay tịnh. Chay tịnh tự căn bản là một dấu hiệu của tang chế. Claude Tassin quảng giải: “Kỷ niệm ngày đền thờ bị phá huỷ, người ta ăn chay. Nhưng một người Do Thái đạo đức còn biết một nguyên nhân tang tóc to lớn hơn cả việc phá huỷ đền thờ, đó là tội lỗi, sự chết thật sự đối với mối liên hệ sống động với Thiên Chúa. Những nhóm tôn giáo thích gia tăng việc ăn chay đền tội; thí dụ nhóm Pharisêu ăn chay 2 lần mỗi tuần; họ còn thêm những dấu hiệu tang tóc thích hợp, như không tắm rửa, không xức thuốc thơm” (Sđd trang 77). Đức Giêsu không công kích giá trị của việc ăn chay. Nhưng Người muốn bảo môn đệ hãy coi chừng cách làm phô trương. Không được ăn chay để kéo sự trầm trồ khen ngợi của người ta, để tỏ cho người ta thấy là mình ăn chay, nhưng phải đặt dưới cái nhìn của Chúa Cha và phó thác hoàn toàn cho Người: “Và Cha của anh Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh”. Khi thuật lại những lời này của Đức Giêsu, một lần nữa Mátthêu muốn can ngăn những Kitô hữu, còn muốn trung thành với việc ăn chay (ông không phản đối việc này), đừng nên tìm danh giá thay vì chỉ cần Thiên Chúa chứng giám. Đức cha Daloz còn quả quyết: “Nguy cơ giả hình, về vấn đề chay tịnh này, không còn đe doạ chúng ta. Cần có một loại nhận định khác cần thiết cho giới tín hữu trẻ để giữ cho việc chay tịnh ý nghĩa đích thực của nó. Trong một thế giới pha trộn các tôn giáo và phong trào tục hoá đang nở rộ, thái độ của niềm tin chân thật đòi hỏi người tín hữu phải hiểu đúng ý nghĩa của chay tịnh. Để được điều đó chỉ cần trở về với những lời của Đức Giêsu. Chay tịnh mà Chúa đề cập ở đây không nhằm thanh tẩy hay giải thoát bản thân, cũng không phải là một cố gắng, hay một khổ chế để làm chủ bản thân hơn. Nó cũng không chỉ là một cuộc giải phóng tâm hồn qua sự khổ chế thể xác, để ta có thể chiêm ngắm những chân lý thần linh tốt hơn. Đức Giêsu cũng không đề cập chay tịnh như một phương thế tỏ tình liên đới với những người đói rách, hoặc như một tự chế để chia sẻ cho tha nhân. Những ý đó đều tốt và bổ ích, và Hội Thánh, phụng vụ và các tác giả tu đức đều khuyên dạy... Chay tịnh chân thật “xô” chúng ta rời cái “lỗi” bản thân, lột trần chúng ta trước Thiên Chúa. Không phải là một cuộc biểu diễn tâm linh... Nhưng là một phương tiện giúp ta sống nghèo trước Thiên Chúa, là một của lễ hiến dâng bản thân ta nhờ sức mạnh khổ chế, trong ân huệ mà Thiên Chúa ban chính mình cho ta nếu ta tự đặt mình dưới con mắt Thiên Chúa trong bóng tối và trong lột bỏ, mà không ham đạt kết quả, chỉ hoàn toàn vì tình yêu và với lòng tin... Giống như cầu nguyện, giống như bố thí, chay tịnh mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ thực thi, phải thi hành trong bí ẩn của tình nghĩa với Cha, bí ẩn của đức tin” (Sđd, trang 82).
II. BÀI ĐỌC THÊM. Hãy lột bỏ mặt nạ!(Claude Tassin, trong cuốn “L'Evangile de Matthieu”, Centurion, trang 72). “Từ giả hình (hypocrite) chỉ xuất hiện 1 lần trong Tin Mừng Máccô, 3 lần trong Tin Mừng Luca, ngoài ra, không chỗ nào trong Tân Ước có từ đó, ngoại trừ trong Tin Mừng Mátthêu, từ đó xuất hiện tới 14 lần, như một trong những từ tán thán ưa dùng để chỉ giới kinh sư và biệt phái. Theo nghĩa hiện tại, thái độ giả hình là “che giấu con người thật mà phô trương những phẩm chất tốt mà mình không có” (Tự điển Petit Larousse). Mátthêu chỉ chịu trách nhiệm gián tiếp trong việc từ đó tuột dốc về hướng xấu. Đối với Mátthêu, từ đó còn giữ ý nghĩa theo ngôn ngữ Hy Lạp thực tế: hypocrite nghĩa là “diễn viên”, là người đóng một vai cho khán giả xem, - “cho phòng trưng bày” - không nên quên rằng ở tuồng cổ xưa diễn viên mang mặt nạ. Theo nghĩa xưa, từ “hypocrite” không mang ngụ ý xấu (là đánh lừa khán giả) nếu hoàn cảnh chung quanh không chỉ rõ ý đó. Sự dụng từ của Mátthêu khiến ta chú ý 2 điều: 1. Tự căn bản, giới kinh sư và biệt phái muốn nêu gương một lòng trung thành tuyệt đối với Lề Luật cho một dân tộc nhỏ bé thường bị mất phương hướng. Mátthêu cho thái độ này như là nhằm phô trương trưng bày, và do đó ông gieo rắc sự nghi ngờ trên ý hướng nội tâm của những kẻ muốn đặt mình làm mẫu gương. Nhưng linh đạo Pharisêu cũng phi bác thái độ đạo đức phô trương. 2. Sẽ không tốt cho cuộc tranh luận nếu vịn vào những người biệt phái đã được ngòi bút Matthêu tô vẽ, coi như họ là chứng cớ chắc chắn. Thường thì trong những cuộc tranh luận người ta hay cường độ nhân chứng, chính Matthêu muốn cho người tín hữu tránh rơi vào lỗi này, như vậy mục tiêu chính mà ông nhắm là họ trước tiên qua chân dung méo mó này.
SAU KHI CHỊU THỬ THÁCH VÀ CHIẾN THẮNG,
ĐỨC GIÊSU KHỞI ĐẦU SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO Ở GALILÊ. (Mc 1,12-15).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Mỗi năm cứ đến Chúa nhật thứ I Mùa Chay chúng ta lại đọc tường thuật về cuộc Cám dỗ của Đức Giêsu. Matthêu và Luca trình bày giai thoại này như một cuộc đọ sức mà hai bên dùng lời Cựu Ước để tranh thắng bại, giữa Đức Giêsu và Tên Cám Dỗ. Còn về phần Máccô, ông đã khôn khéo tóm lược trong hai câu, vừa ngắn gọn lại vừa đầy đủ. Đức Giêsu vừa đến xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa ở sông Giođan. Ở đó Người đã được thánh hiến để làm Đấng Mêsia - Vua và làm người Tôi Tớ của Thiên Chúa. “Đây là Con Ta yêu dấu”, tiếng từ đám mây đã tuyên phán như vậy, “trong Người, Ta được hài lòng”. Là Môsê mới, Người đã băng qua nước thuộc về một cuộc Xuất hành mới, Người được giao trọng trách tụ họp một dân mới để dẫn họ về đất hứa; Người đã nhận lãnh Thần Khí là quyền năng của Thiên Chúa để chu toàn trọng trách đã nhận. Máccô viết tiếp: Chính Thánh Thần liền đẩy Người vào hoang địa. + “Liền”: Còn cách nào nhấn mạnh mối tương quan giữa phép rửa và cuộc thử thách hơn thế? Nào ta có thể cảnh báo những ai đã chịu thanh tẩy hoặc những dự tòng đang chuẩn bị để lãnh bí tích này một cách rõ ràng hơn, rằng họ đừng ngạc nhiên khi họ phải đương đầu với thử thách? + “Thần Khí đẩy Người vào hoang địa”, nếu dịch nguyên văn thì phải viết: “ném Người vào hoang địa”, giống như dân Israel thuở xưa, khi được lôi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đã bị ném ra ngoài, bị xua đuổi đi (Xh 6,1; 11,1; 12,33). Tại sao lại vào “sa mạc” ? - Thưa bởi vì theo truyền thống Kinh Thánh, hoang địa nơi thử thách cũng là nơi con tim Thiên Chúa và lòng tin con người được bộc lộ, nơi khởi đầu mọi sự; nơi thiết lập Giao Ước. J.Potin viết: “Đối với người Do Thái thì hoang địa là nơi thử thách ròng rã 40 năm dài. Dân Israel lâm vào một cuộc chiến không ngừng là chọn giữa Thiên Chúa thật, Đấng vừa cứu họ khỏi ách nô lệ và tự mạc khải ở núi Sinai, với bên kia là những tà thần, nào là của Ai Cập, nào là của những dân ở Canaan, những thần mà lúc nào họ cũng muốn chạy theo. Đức Giêsu không thoát khỏi cuộc thử thách này. Thử thách bắt buộc Người, Vị được chọn của Thiên Chúa, phải lựa chọn một lần dứt khoát, cái lựa chọn sẽ dẫn Người đến con đường thảm kịch. Trong hoang địa, cái đói cái khát làm nổi lên trước mắt những vùng sáng chói ngời, đó có thể là những ảo ảnh, mà cũng có thể là Đất Hứa. Không ai có thể chọn trải qua cuộc chiến như thế, nếu không là kẻ tự phụ. Người ta bị Thần Khí đẩy vào, như Máccô đã viết, Thần Khí sức mạnh của Thiên Chúa từ nay được che giấu sâu kín trong ý chí và trong con tim” (“Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 114).
2. Đức Giêsu đối đầu và toàn thắng thử thách. “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ”, Máccô viết tiếp. - “Bốn mươi”: đối với người am hiểu Kinh Thánh đây là một con số mang nặng ý nghĩa: con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất suốt 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thiên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong 40 ngày và 40 đêm, ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận Lề Luật của Giao Ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, dân Israel được Thiên Chúa gỡ cho khỏi ách nô lệ Ai Cập đã dong duổi hành trình trong hoang địa trước khi vào được Đất Hứa. Cũng trong 40 ngày và 40 đêm, ngôn sứ Êlia đã đi bộ về núi Horép, núi của Thiên Chúa, để ở đó lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước. Ở đây thánh ký Máccô tỏ cho ta thấy rằng một khởi đầu mới đã khai mào. Đức Giêsu đã muốn làm lại cuộc hành trình do chính bản thân, cuộc hành trình thiêng liêng của dân Người; Người chiến thắng những cám dỗ mà xưa kia dân Israel đã bị thất bại trong hoang địa, với vai trò Môsê mới, Người đi đầu dẫn dắt dân mới về Đất Hứa. - Trong Tin Mừng của ông, Máccô cũng không quên nhấn mạnh cám dỗ, mà Đức Giêsu phải liên lỉ đương đầu, là dùng quyền năng thần thiêng để áp đặt vương quốc Thiên Chúa. Ông tuy chỉ nhắc đến bằng một câu hết sức sơ sài; ông viết: “Người chịu Satan cám dỗ”. - Rồi bằng một câu ngắn, ông công bố cuộc khải hoàn của Đức Giêsu trên quyền lực của sự dữ: - “Người sống giữa loài dã thú”. Đó là một cách tuyên bố rằng Đức Giêsu khánh thành thời đại cứu thế, mà ngôn sứ Isaia đã nói đến: “Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng” (Is 11,6). + “Và có các thiên sứ hầu hạ Người”. Một kiểu nói của Máccô ám chỉ sự trợ giúp thần thiêng dành cho người mà trong gian nan thử thách đã đặt hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Ở trong Cựu Ước - Matthêu và Luca trong tường thuật song hành đã trích dẫn rõ ràng Thánh vịnh 90: “Người truyền cho thiên sứ và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. J.Hervieux kết luận: “Đấng Mêsia xuất hiện như một Con người mới, sống hoà hợp tuyệt vời với trời cao cũng như đất thấp. Câu kết của đoạn Dẫn Nhập này nói lên rất nhiều điều. Ở nơi mà dân Israel đã tỏ ra bất trung với Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, vị Chủ chăn của dân mới, đã tỏ ra thái độ trung thành tuyệt hảo” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 25).
3. Khai mạc sứ mạng của Người ở Galilê. Thế giới mới mà Đức Giêsu vừa khai mở do toàn thắng Satan trong cuộc thử thách nơi hoang địa, bây giờ Người công bố bằng lời nói và bằng hành động. - Máccô nêu rõ, Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của người “Sau khi ông Gioan bị nộp” để nói lên sự liên tục của sứ mạng Người với sứ mạng của Gioan. - “Người đến miền Galilê”, là quận của dân ngoại, là miền đất cư ngụ người Do Thái pha trộn người dân ngoại, là tỉnh bị Giêrusalem coi khinh. - Người công bố khai mạc thời đại mà những loan báo của các tiên tri được thực hiện. Giờ đây Thiên Chúa bắt đầu hoạt động ra tay, Vương quốc của Người đã đến gần: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Người ta cần phải thống hối ngay để đón nhận biến cố hồng phúc này trong đức tin: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
II. BÀI ĐỌC THÊM. Một cuộc lật ngược ngoạn mục, chỉ bằng 1 câu văn (H.Vulliez, trong cuốn “Dieu si proche, Năm B” Desclée de Brouwer, trang 34). Thánh ký Máccô chỉ dùng một câu văn mà trình bày được một cuộc lật ngược ngoạn mục: một Đức Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa, trở thành một Đức Giêsu sáng ngời trong một vũ trụ hoà hợp và xinh đẹp. Đó là tạo thành mà Thiên Chúa yêu quý. Một Đức Giêsu toàn thắng sự dữ, trong một thế giới được hoà giải với chính mình và với Thiên Chúa. Ở đó ta tìm thấy toàn bộ Kinh Thánh, toàn bộ lịch sử nhân loại, chỉ trong vài hàng chữ đầy kỷ niệm, ta thấy nổi lên nguồn hy vọng vượt khỏi tầm mức con người. Đức Giêsu ở trong hoang địa 40 ngày chịu Satan cám dỗ. Thế rồi, báo trước buổi bình minh vượt qua, Người sống an hoà với mãnh thú, và các thiên sứ từ trời xuống hầu hạ Người. Hoang địa, một vùng đất mênh mông đầy thế lực thù nghịch. Cuộc sống luôn bị thần chết đe doạ. Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người đến để lật ngược tình thế: là trả lại cho Thiên Chúa và cho vũ trụ đã ra méo mó, dung mạo của Thiên Chúa. Thần Khí bay lượn trên miền khô ráo và kìa Đấng Hằng Sống chỗi dậy trong một khu vườn xanh tươi và nở đầy bông. Bức phù điêu khắc hình Ađam đã lật sang mặt kia có hình Đức Kitô. Địa đàng đã không bị đánh mất phía sau mình. Mà nó đang ở phía trước, người ta phải tìm kiếm thì mới tìm thấy, nhờ cộng tác với Đức Giêsu và nhận lấy Thần Khí. Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, 40 ngày sa mạc để được quyến rũ và lôi kéo bởi niềm hy vọng mãnh liệt, hy vọng rằng mọi vật trong vũ trụ sống hoà hợp trong Đức Kitô, tuy chưa hoàn tất, nhưng đang hoạt động rồi.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn. Đáp lại câu hỏi thúc ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố “Thầy là Đấng Messia”. Đức Giêsu liền dẫn các môn đệ vào con đường khổ nạn và chết mà Người sẽ phải đi để hoàn thành sứ mạng của Người. Máccô viết: “Rồi Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”. Viễn tượng kinh hoàng như thế đi ngược với tư tưởng người thời đó về Đấng Cứu thế. Nghĩ rằng Đấng Cứu thế mà cũng phải trãi qua đau khổ và sự chết là điều không ai dám nghĩ, cả những người Do Thái thời đó cũng như các môn đệ của Đức Giêsu. Bởi đó Phêrô tức tốc phản ứng, “ông liền kéo riêng người ra và bắt đầu trách Người”. Cử chỉ đó đã làm cho Phêrô bị một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: “Satan, lui ra đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Con đường mà Con Người đi cũng là con đường bắt buộc đối với các môn đệ Người.
2. Cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên núi. Máccô đã đặt tường thuật hiển dung của Chúa trong tương quan với việc công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn, việc này đã vấp phải sự không hiểu nơi các môn đệ và khiến bọn họ kinh hoàng. Giống như Matthêu và Luca, tác giả Tin Mừng thứ hai diễn tả bằng một lối văn tượng trưng, mượn những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (cuộc Thiên Chúa tỏ mình) ở núi Sinai (“Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 330). Ngày xưa, trong cuộc xuất hành qua hoang địa, Môsê đã công bố cho con cái Israel rằng: “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, sẽ cho nổi lên giữa các ngươi một vị ngôn sứ giống như Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Hôm nay Máccô đã bật mí: vị ấy đã đến rồi, đây là thời gian hoàn tất, một kỷ nguyên mới đã khai sinh. - Máccô viết: “Sáu ngày sau” mà lại không chỉ rõ sau cái gì, nhưng rất có thể là ông muốn nói về biến cố Xuất Hành. + Hoặc là nói về sáu ngày mà sau đó, theo Xh 24,16, “Thiên Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây trên núi Sinai”. Nếu thế, theo Máccô, đó là một cách giới thiệu biến cố hiển dung như một Sinai mới và đồng thời giới thiệu Đức Giêsu như một Môsê mới. + Hoặc là nói về sáu ngày chuẩn bị cho đại lễ Lều Trại, lễ đó người ta dựng lều bằng cành cây (như người Do Thái còn làm ngày nay) để tưởng nhớ cuộc Xuất Hành, với hy vọng vào thời đại cứu thế mà Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ mãi mãi ở giữa dân Người. Nếu thế, theo Máccô, đó là một cách công bố thời đại mới đã khởi đầu. - Cũng như ngày xưa Môsê lên núi Sinai, thì Đức Giêsu cũng dẫn các bạn hữu của Người lên một ngọn núi cao. Nhưng ngọn núi nào? Từ ngữ này mang ý nghĩa thần học nhiều hơn là địa lý: núi ở trong Kinh Thánh là địa điểm đặc tuyển cho việc mặc khải thần linh. Ở đây nói về một Sinai mới, một cuộc mặc khải quyết định của Thiên Chúa. - Cũng như Môsê, lúc lên núi nhận giao ước, chỉ đem theo Giosuê, Đức Giêsu chỉ gọi riêng đi theo Người có “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Cũng ba người đó, những người bạn thân thiết nhất được theo Chúa vào phòng bé gái chết mà được Người làm cho sống (5,37-43); ba người đã chứng kiến cuộc hấp hối của Người trong vườn cây dầu: Đức Giêsu đã liên kết họ với Người trong những thời điểm mạnh của mặc khải, để họ trở nên những trụ cột của Hội Thánh Người. - Cũng như da mặt của Môsê ngời sáng, vì ông đã đàm đạo với Thiên Chúa và cũng như dân Israel xem thấy mặt ông chiếu sáng (Xh 34,29-35), Đức Giêsu “hiển dung” trước các môn đệ, vinh quang Thiên Chúa, cái vinh quang mà Đức Giêsu chiếu toả vào buổi sáng Phục sinh, lúc này đang xâm chiếm bao phủ Người. Vào lúc đó, ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đó là hai vị có thần thế trong Cựu Ước. Cả hại vị đều đã trèo lên núi: Môsê lên để lập giao ước, Êlia lên để nhận sứ mạng cải tổ giao ước. Hai vị tượng trưng cho toàn bộ Cựu Ước: Lề Luật (Môsê) và các Ngôn sứ (Êlia) giờ đây được thực hiện: thời đại cứu thế đã khởi đầu. Phêrô đề nghị “Chúng ta hãy làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Thực ra, ông không biết mình nói gì do quá kinh hoàng, Máccô giải thích. Phêrô đã lầm lẫn vì nghĩ rằng đã đến giờ mà Thiên Chúa cư ngụ vĩnh viễn ở giữa dân Người và họ có thể ở đó miên trường. - Sau cùng, cũng giống như khi lập giao ước ở núi Sinai, một đám mây, dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện Thiên Chúa, đã bao phủ ngọn núi, thì ở đây một đám mây che phủ các ông. Rồi cũng giống như ở Sinai, có tiếng nói phát ra từ đám mây. Những lời này gần giống như tiếng vang của những lời đã phán lúc chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng, lúc xưa tiếng đó nói với Đức Giêsu: “Con là Con Ta yêu dấu, Cha hài lòng về Con” (1,11), còn ngày nay tiếng đó nói với ba môn đệ: Tiếng đó soi sáng các môn đệ cho biết căn tính của Đấng mà Phêrô mới đây đã tuyên xưng là Đấng Thiên Sai (Mêsia): “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Tiếng đó xác nhận giáo huấn của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn - phục sinh của Con Người: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. - J.Hervieux quảng giải: “Giờ đây, dường như qua tia chớp loè sáng, họ đã thoáng thấy Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa”, và vượt qua khỏi sự chết, Người được Thiên Chúa dành cho một cuộc sống vinh quang. Lẽ nào họ không giữ niềm hy vọng và không tiếp tục theo Thầy trên con đường thập giá?” (“L'Evangile de Marc”, Centurion trang 125). - Bỗng chốc, Máccô kết luận: “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Ở trên núi xuống Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại”. Chúng ta lại thấy ở đây một lần nữa “bí mật thiên sai”, mà Máccô rất quí trọng: điều mà ba môn đệ vừa thấy vượt quá sức tưởng tượng quá đỗi, nó làm xáo trộn tận cùng hình ảnh Đấng Thiên Sai của các ông, nên tốt hơn các ông nên giữ im lặng ít lâu. Sau này, dưới ánh sáng của Phục Sinh, các ông sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Lúc đó, các ông sẽ có thể làm chứng.
II. BÀI ĐỌC THÊM 1. “Mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới” (“Célébrer”, tạp chí C.N.P.L. số 266, trang 26). Cuộc hành trình này kêu mời chúng ta từ bỏ một số hình ảnh Thiên Chúa. Ông Ápraham đã khám phá dung mạo của một Thiên Chúa, không chấp nhận máu của tế vật và không đòi hy lễ nào khác ngoài sự vâng phục toàn tâm con người. Người Kitô hữu còn có thể khám phá một Thiên Chúa không đòi hỏi hy sinh “vượt sức người” (siêu phàm), mà chỉ đòi tin tưởng và phó thác. Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả các ông cũng vậy, phải loại bỏ một thứ hình ảnh Thiên Chúa, để khám phá ra một hình ảnh khác nơi Đức Giêsu Kitô. Loại bỏ thứ quan hệ dựa trên sự sợ hãi, họ phải cảm nghiệm được một Thiên Chúa, Đấng đã không dung tha con ruột mình, và chấp nhận sự mạc khải đau đớn một Đấng Thiên Sai chịu khổ nạn, Đấng ấy sẽ lôi kéo họ đi theo Người. Và còn hơn nữa, Người còn đề nghi ta khám phá rằng nhân loại là con đường tới Thiên Chúa. Mà không phải một Thiên Chúa không có thân xác, nhưng một Thiên Chúa trong xác thịt hẳn hòi. Một thân xác được mời gọi để biến đổi hình dạng. Đó là con đường do Đức Giêsu vạch ra. Người Do Thái trông đợi sự biến dạng sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Khi trình bày điều đó đã thực hiện nơi Đức Giêsu, Máccô muốn tuyên báo rằng ngày tận thế đã khai mào. Thực vậy, mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới: Một hy vọng đáng nể cho tất cả những gì đang rên xiết “chuyển dạ sinh ra”.
2. “Điều kinh ngạc là trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình rất phàm nhân” (Thơ gởi các người công giáo Pháp, Cerf, trang 49-50). “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Cả cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc sinh ra cho tới ngày chịu chết và sống lại, luôn tỏ ra quy hướng về Chúa Cha; Người lãnh nhận tất cả mọi sự từ Chúa Cha, và dấn thân hoàn toàn vào công trình cứu độ theo mệnh lệnh của Chúa Cha. Nhưng điều kinh ngạc không phải chỉ là việc nhập thể của Chúa Con, Đấng đến cư ngụ ở giữa chúng ta để bày tỏ tình thương của Chúa Cha. Điều kinh ngạc còn là trong Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra quá phàm nhân. Trước hết, người phàm vì Người tỏ mình phàm hơn chính người trần: Chúa đi đến với những người lạc mất trong số người trần, kẻ bé nhỏ và kẻ bị loại trừ, kẻ đau yếu và kẻ tội lỗi. Người phàm, bởi vì Người chia sẻ hết mọi sự của bản tính nhân loại, đau khổ và bạo lực, bất công và chết chóc, chết trên cây thập tự. Hoàn toàn người phàm, đến độ ban tặng cho ta được thông công sự sống của Người. “Lạy Cha, Con muốn rằng, con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con” (Ga 17,24). Lòng tin vào Đức Giêsu, Chúa Con, bao gồm sự bạo dạn dám đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa vào sự sống người phàm của ta. Nếu chúng ta trình bày Lời Chúa và các Bí tích cho người khác, ta làm cũng vì mục đích đó: là để chúng ta biết được niềm vui sống và yêu mến như con thảo của Thiên Chúa, theo bước chân của Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
ĐỨC GIÊSU XUA ĐUỔI NGƯỜI BUÔN BÁN
RA KHỎI ĐỀN THỜ (Ga 2,13-25)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ đền thờ bằng đá, nơi Đức Giêsu đuổi quân buôn bán... Nếu Tin Mừng của hai Chúa nhật trước trích từ Máccô, thì Tin Mừng của ba Chúa nhật cuối cùng Mùa Chay này trích từ Gioan. Các thánh sử khác đã đặt câu chuyện này vào cuối thời gian rao giảng của Chúa (Mt 21,12-17; Mc 11,15-17; Lc 19,45-46). Còn Gioan chủ ý đặt biến cố này vào đầu đời công khai của Chúa. Để như vậy, nêu rõ sự đoạn tuyệt với đạo Do Thái chính thống, lúc đó đang là hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội, đồng thời khôn khéo nối kết Kinh Thánh, các sự kiện và cử chỉ của Đức Giêsu bằng cái nhìn sau phục sinh. Câu chuyện này xảy ra trong hoàn cảnh Đức Giêsu lên Giêrusalem “bởi vì lễ Vượt qua đã đến gần”, Gioan nhắc lại công thức này 4 lần trong Tin Mừng (Ga 6,4;11,55) để chuẩn bị cho độc giả thấy lễ Phục sinh của Kitô giáo trùng hợp với lễ Vượt qua của Israel (X.Léon-Dufour, “Lecture de L'Evangile selon Jean” cuốn I, Seuil, trang 253). Đức Giêsu thấy “trong đền thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền”. Danh từ “Đền thờ” nhắc đến ở đây không phải khu vực thánh của ngôi đền, cung thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người. Những người đổi tiền ở đó, là cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma không được dùng trong phượng tự, và buộc phải đổi sang một đồng tiền không dơ. Còn bọn bán chiên, bò, chim bồ câu ở đó để bán những vật cần cho việc hy tế. Chính trong khung cảnh này mà Gioan đặt cuộc can thiệp của Đức Giêsu, một cuộc can thiệp gồm hành động và lời quở trách. + Cử chỉ của Đức Giêsu giống với cử chỉ của các ngôn sứ thời xưa, khi thông báo sứ điệp của các ông. Gioan đã tả hết sức tỉ mỉ với những chi tiết mà không thấy nơi các tác giả nhất lãm: “Đức Giêsu cầm lấy một dây thừng dùng làm roi, Người đuổi những lái buôn chiên, bò, Người lật đổ bàn của người đổi tiền bạc; Người xua đuổi bọn bán chim bồ câu”. + Lời giải thích rất ý nghĩa: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. - Lời này gợi nhớ ngôn sứ Giacaria 14,21 loan báo việc tẩy uế Đền thờ được tiên báo vào cuối đời, lúc này đã khởi sự rồi (A.Marchadour, “L'Evangile de Jean”, Centurion, trang 60). - Lời này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa. Khi nói về Đền thờ, Người đã không dùng từ “nhà của Chúa”, mà Người nói “nhà của Cha tôi”. Những người chứng kiến liền phản ứng tức khắc. Mọi người đều biết lời tiên báo về việc tẩy uế đền thờ. Họ hiểu ngay rằng: Đức Giêsu không những đến như một người cải tổ, chỉ tố cáo những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn như một vị đến để làm cho lời tiên tri thực hiện. Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”. Bởi vì dưới con mắt họ, quyền thiên sai mà Đức Giêsu tự nhận, cũng như những gì thuộc Đền thờ phải được chuẩn nhận bằng một dấu lạ.
2. ... Đến Đền Thờ mới là Thân Thể của Chúa. Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá Đền Thờ này đi (Đền Thờ này “nos"), nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (từ “dựng lại” là từ mà thánh ký sau này, câu 22 dùng để chỉ “sống lại”). X.Léon-Dufour quảng giải: “Trong câu nói long trọng mà chúng ta đang đọc Đức Giêsu đối chiếu đền thờ sẽ bị phá huỷ với đền thờ mà Người sẽ là kẻ xây dựng lại” (“Lecture de L'Evangile selon Jean”, cuốn I, Seuil, trang 261). Những kẻ đối thoại với Chúa càng tỏ ra bực bội và ngạc nhiên. Sự không hiểu nhau về vấn đề Đền Thờ - đây là lần đầu trong một loạt những không hiểu dẫn Người đến núi Canvê - như vậy là hết cứu chữa. Và cuối cùng, cộng đoàn Kitô hữu đã làm gì khi đọc lại những lời này dưới ánh sáng của Đức Giêsu Phục sinh: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói”. + Nhớ lại cử chỉ của Chúa, cộng đoàn Kitô hữu khám phá ra rằng lời Thánh vịnh 69 đã thực hiện, lời mà họ đặt ở tương lai: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Họ hiểu ra rằng, câu chuyện Đền Thờ này, mọi tiến trình đã bắt đầu để dẫn Đức Giêsu đến cái chết; rằng Đức Giêsu đã trả giá bằng chính mạng sống Người, để thực hiện lời tiên tri về việc tẩy uế Đền Thờ mà Giacaria đã loan báo. + Nhớ lại những lời của Chúa về Cung Thánh Đền Thờ: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, họ hiểu rằng Người nói về thân thể Người, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người; nơi mở cửa cho hết thảy mọi người, nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người; là Đền thờ của Giao ước mới. Và X.Léon-Dufour kết luận: “Có thể nghĩ rằng, đoạn văn đã được biên tập sau năm 70, tức là sau khi đền thờ Giêrusalem thực sự bị phá huỷ, đền thờ mà Israel coi là nơi có sự hiện diện Thiên Chúa. Bởi đó sau khi đền thờ bị phá huỷ, câu hỏi hóc búa được đặt ra là: cung thánh đã tan tành, vậy từ nay Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Theo thúc đẩy của đức tin, người Do Thái thời đó tin rằng: nơi mà họ gặp Thiên Chúa là Lề Luật. Còn đối với những Kitô hữu, những người còn chăm chỉ lên đền thờ cầu nguyện, câu trả lời sẽ là: Chúa Kitô sống lại hiện diện ở giữa họ khi họ tụ họp để cử hành lễ tưởng niệm Người” (Sđd, trang 266-267).
II. BÀI ĐỌC THÊM 1. Ơn gọi của chúng ta: làm dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người (Đức cha Daloz, trong cuốn “Nous avons vu Sa gloire”, Desclée de Brouwer, trang 38-39). “Ngay từ chững chương đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã nói cho chúng ta biết về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Chính trong dịp này, ngài đề cập đến việc tẩy uế Đền thờ, trong khi những thánh sử khác thuật lại việc này sau khi Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem lần cuối. Cử chỉ của Đức Giêsu là cử chỉ của một tiên tri. Người xua đuổi những kẻ mua bán chiên bò để cúng tế và những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ở đây, hành vi đầy bạo lực của Đức Giêsu là hành vi của một tiên tri, chính các môn đệ của Người cũng hiểu như vậy. Họ nhớ tới lời Thánh vịnh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Người Do thái cũng hiểu rõ ý nghĩa của cử chỉ này. Họ đòi Đức Giêsu phải làm một dấu lạ để biện minh cho hành động của mình: “Ông lấy dấu lạ nào để chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giêsu trả lời họ bằng một câu bí ẩn, mầu nhiệm: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Chúa có ý nói đến tính cách tạm thời của những hy lễ trong đền thờ của giao ước cũ. Chúa nói về một đền thờ khác, đền thờ mà ở đó sẽ ký kết giao ước mới. “Nhưng đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”. Chính nơi Đức Giêsu mà từ nay Thiên Chúa bày tỏ sự hiện diện của Người. Cần chờ đến biến cố phục sinh, các môn đệ mới nhớ lại và tin vào Kinh Thánh và những lời Chúa đã nói. Chính đền thờ mới, thân thể Đức Kitô và nhà của Chúa Cha, mà ta ngày nay cần phải gìn giữ, đừng biến nó thành nơi buôn bán. Ta cần phải hết sức cung kính đối với lễ vật của giao ước mới, đã thay thế cho lễ vật hy sinh của đền thờ ngày xưa. Ta cần phải hết lòng tôn trọng đối với thân thể mầu nhiệm, mà Đức Giêsu là đầu, thân thể có ơn gọi làm dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại”.
2. Một đền thờ mới xây dựng bằng những viên đá sống (H.Denis, trong cuốn “100 mots pour dire la foi”, Desclée de Brouwer, trang 39-40). Đức Giêsu làm một cuộc cách mạng, lật đổ cấu trúc tôn giáo. Không những Người muốn cho người ta hiểu rằng những ngôi đền thờ vật chất trở nên vô dụng, mà Người còn muốn tỏ cho biết một ngôi đền thờ mới, đích thực là thân thể Người, đã chết đi và sống lại. Đền thờ mới là chính Người, trong Người tình yêu của Thiên Chúa và của con người chuyển thông nhau trong một cuộc hiệp thông duy nhất. Thật là một giao hoán lạ lùng. Nhưng chưa hết. Tân Ước còn thêm rằng ngôi đền thờ này mà Đức Giêsu là viên đá góc, được xây dựng bằng những viên đá sống là các Kitô hữu, và nói rộng ra là toàn thể nhân loại. Là đền thánh, bởi vì nó không được làm bằng đá, gạch hay bất cứ vật liệu cao quí nào, nhưng bằng những con người, con người được kêu gọi để thương yêu nhau, để hiến mạng sống cho nhau, nhờ đó lưu thông tình yêu vô hạn của Đức Giêsu.
2. Thánh lễ Chúa nhật: lúc dân mới kết hợp nên một thân thể hữu hình (Thơ mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp “Lettre aux catholiques de France”, Cerf, 93-94). Trong tiệc Thánh Thể, các cộng đoàn ý thức hơn về tầm quan trọng của mình trong đời sống của Giáo Hội. Nhưng điều tuyệt đối cần thiết là phải canh tân rộng khắp ý nghĩa của việc cử hành ngày Chúa nhật, hiểu như thời điểm mà dân mới, gồm những người đã được rửa tội, làm nên thân thể hữu hình, để đáp lại lời Đức Kitô mời gọi các môn đệ, kêu gọi họ dâng hiến sự sống kết hiệp với của lễ Đức Giêsu Kitô để thế giới được sống. Chúng ta hết thảy đều có lần cảm nghiệm những lần cử hành cởi mở, đầm ấm, khiến ta dường như cảm nhận được ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng, nhờ đó, ta được bồi dưỡng sức lực để tiếp tục lên đường. Điều đó không chỉ là một lý tưởng viễn vông đối với các cộng đoàn, nhất là nếu những cảm nhận và những truyền thống tu đức biết hoà hợp những đòi hỏi mà đôi khi người ta lầm tưởng là đối nghịch nhau, như tôn trọng truyền thống phụng vụ, kêu gọi mọi thành phần tham gia tích cực, và sự góp phần của thẩm mỹ và mỹ thuật vào phụng vụ. Như vậy, việc thực hiện lễ tạ ơn không thể tách rời khỏi ý thức về thừa tác vụ được uỷ thác để ban sự sống và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội.
THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU THẾ GIAN ĐẾN NỖI ĐÃ BAN
CON MỘT, ĐỂ AI TIN VÀO CON CỦA NGƯỜI... (Ga 3,14-21).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa… Trong khi bầu khí căng thẳng do việc Chúa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ gây ra chưa lắng dịu, thì ông Nicôđêmô, một kỳ mục trong dân tìm gặp Đức Giêsu. Ông đến vào lúc đêm tối, nhằm giữ kín sự việc, nhưng dưới ngòi bút của Gioan nó mang một ý nghĩa tượng trưng: phải chăng Nicôđêmô đang ở trong bóng tối tìm đến ánh sáng? Cuộc đối thoại mở đầu với đề tài phải tái sinh. Đức Giêsu tuyên bố: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (3,5). Rồi từ câu 11 trở đi, cuộc đối thoại biến thành độc thoại. Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy bằng cách kể lại những biến cố trong lịch sử dân Israel. Người nhắc đến biến cố bí ẩn trong sách Xuất Hành: con rắn đồng được treo lên làm dấu hiệu, chẳng những được hoàn tất, mà còn bị vượt lên trên trong biến cố khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa của Người. + Ngày xưa, thời xuất hành trong hoang địa, con cái Israel vì kêu trách và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, nên đã bị rắn độc tràn ra cắn chết nhiều người. Sách Dân Số thuật lại (21,4-9): bấy giờ ông Môsê treo một con rắn đồng lên cao: hễ ai nhìn lên con rắn đồng với lòng tin thì được thoát chết. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): “Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu độ của mọi người” (Kn 16,7). + Dấu chỉ giờ đây nhường chỗ cho thực tại mà nó ám chỉ, đó là sự hiện diện của Đức Giêsu, Môsê mới, là Lời hằng sống ban sự sống của Thiên Chúa. “Bị treo lên”, Đức Giêsu cũng sẽ bị treo lên bởi những kẻ đóng đinh Người vào thập giá; Người sẽ được nâng lên bởi Chúa Cha, Đấng đón nhận Người vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa (8,28-30). Và cũng như xưa, hễ ai nhìn lên con rắn đồng thì được sống, ngày nay hễ ai nhìn lên “Con Người” bị đóng đinh và phục sinh thì được Người ban cho sự sống đời đời. - Nguồn gốc của hành vi cứu độ này không cần tìm đâu xa, nó ở ngay trong tình thương điên dại của Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô đối với thế gian. X.Léon-Dufour diễn tả: “Ở trọng tâm của tất cả mọi sự, và đặc biệt của vai trò Con Người và của con đường đi đến thập giá, ta thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian (...) Lời xác quyết nêu bật Thiên Chúa và tình thương của Người như thực tại tuyệt đối (...) Tình thương đi trước mọi sự, cũng như trong Lời Mở Đầu, ánh sáng thần linh của Ngôi Lời soi chiếu mọi người trong bóng tối. Thiên Chúa thương yêu chỉ có một ý định là ban ơn cứu độ và sự sống” (“Lecture de L'Evangile selon Jean”, cuốn I, Seuil, trang 305-306). Như thế, ở đây, thập giá được trình bày như địa điểm mạc khải tình thương của Thiên Chúa, một biểu lộ tối hậu là nguồn mạch sự sống.
2. …Mời gọi ta đáp trả. Đến đây coi như Nicôđêmô biến mất. Đức Giêsu xem như đối thoại với một nhóm thính giả, chính là chúng ta ngày nay: Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Giêsu Con Ngài, luôn kêu mời sự đáp lại của con người có tự do. Và nó đòi một lời đáp ngay lúc này, đối diện với Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, Đấng mặc khải tình yêu của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ngay bây giờ, cuộc xét xử đang được thực hiện: - Hoặc từ khước Thiên Chúa, đóng cửa không đón tiếp, mù quáng không muốn nhận ánh sáng, chìm đắm trong tối tăm và bị luận phạt. - Hoặc cởi mở đón nhận ánh sáng, đón nhận sự cứu độ của Thiên Chúa, và như thế tất cả đều thay đổi, vì mọi hoạt động của ta sẽ được nhìn nhận như những hoạt động của Thiên Chúa, và trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Người. X. Léon Dufour giải thích thêm: “Trong những câu chúng ta vừa đọc, thái độ lựa chọn hay từ chối đều thể hiện trong lời đáp trả của con người trước Đấng Thiên Chúa sai đến. Một đặc điểm quan trọng khác là: sự sống vĩnh cửu và luận phạt đời đời không chỉ được thi hành vào ngày thế mạt, nó được thực hiện ngay trong giây phút hiện tại, ngay khi gặp gỡ Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu, lập tức được sống, trái lại, từ khước tin Chúa, con người tự ý chọn lựa cái chết (vĩnh viễn), mà Thánh Kinh thường ám chỉ bằng câu “bị xét xử”.” (Sđd, trang 308-309).
II. BÀI ĐỌC THÊM 1. “Cái nhìn cứu sống” (G.Bessière, trong “Dieu si proche” năm B”, DDB, trang 42-43). Đem câu chuyện con rắn đồng so sánh với Đức Giêsu, kể cũng hơi lạ thường! Câu chuyện lạ thường này có ý nghĩa gì đây? Truyền thống Thánh Kinh có thuật rằng, trong cuộc Xuất hành, khi dân Do thái bị đói, bị khát đã kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Họ đã phải chịu hình phạt: những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc cho dân. Nhưng rồi Thiên Chúa đã xót thương. Người truyền cho ông Môsê treo con rắn bằng đồng lên cột cao: “Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống” (Ds 21,8). Ở đây, sự so sánh nằm ở từ “treo lên”. Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ “sống”. Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tìm kiến “sự sống vĩnh cửu” sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu, nếu kẻ ấy “tin”. Đức Giêsu ban sự sống, và Ngài ban cách sung mãn. Không phải sự sống nhân tính, mà “sự sống vĩnh cửu”. Bởi đâu có ân huệ vô biên thoả mãn mọi ước muốn như vậy? “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Người đã ban chính Con duy nhất của Người”. Nguồn gốc không thể diễn tả đó, chính là Tình thương phát xuất từ mầu nhiệm cao siêu mãnh liệt đối với muôn loài muôn vật. Viễn tượng thật hết sức lạc quan. Có người chủ trương rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến tiêu diệt những kẻ ô nhơ, tội lỗi. Đức Giêsu lại bày tỏ thái độ chống lại chủ trương tàn bạo này. Thiên Chúa không sai Con của Người đến để phán xét, nhưng “để nhờ Người mà thế gian được cứu sống”. Nếu có ai cố tình giam hãm mình trong sự dữ, hay trong bóng tối, thì không phải Chúa luận phạt, mà chính họ đã chọn bóng tối cho mình. Phải chăng, như vậy là nói rằng những người ngoài Kitô giáo, nghĩa là không gắn bó với Đức Giêsu, đều bị mất phần rỗi? Thánh Gioan nhìn nhận rằng sự gặp gỡ Thiên Chúa còn sâu xa hơn; nó được thể hiện trong sự thành tâm, trong giá trị của các hành động và trong sự mở rộng tâm hồn ra với người khác. Thánh sử đề cập cuộc tranh luận này khi viết: “Phàm ai thực thi chân lý, thì đến với ánh sáng...”.
2. Một cuộc sống được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện (Thư mục vụ của Hội Đống Giám Mục Pháp “Thư gởi những người công giáo Pháp”, Cerf, trang 55-56). Sau hết, tin vào ơn cứu độ của Thiên Chúa làm thay đổi cách thế hoạch định cả cuộc sống trần thế, và khiến ta hiểu khác đi lịch sử của ta trong thế giới này, và cả cách hoàn tất lịch sử đó nữa. Bởi vì “cho dầu sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). Mặc dầu chúng ta chia sẻ những ưu tư của thế giới này, chúng ta vẫn tin rằng cuộc sống con người như được nâng niu và bao bọc bằng một tình thương vô điều kiện, mà không gì làm thay đổi được, và rằng ân sủng của Thiên Chúa hằng theo dõi và sẽ còn theo dõi trong mọi hoàn cảnh của lịch sử chúng ta. Và chúng ta cũng hy vọng rằng cái chết, đôi khi là cái chết tàn bạo, không chấm dứt số phận chúng ta, bởi vì Chúa hứa cho ta sống lại và sống vĩnh cửu. Đứng trước những nỗi sợ hãi của thời đại chúng ta, chúng ta không thể im lặng về kết cục của số phận con người, dưới ánh sáng của Tình Thương. Giao ước của Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong thế giới mới, thế giới đã được biến đổi, mà chúng ta mong đợi. Niềm hy vọng này luôn nâng đỡ những người (nam cũng như nữ) đang đấu tranh chống lại sự chết và những quyền lực của sự chết, những người dám hiến dâng sự sống mình vì tình yêu Đức Giêsu Kitô.
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
SINH NHIỀU HOA TRÁI TỐT ĐẸP... (Ga 12,20-33).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Dân ngoại tiến đến. Bài Phúc Âm chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản lề nối hai chủ đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề “Những dấu chỉ” (từ phép lạ Cana cho đến phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề “Giờ của Chúa” (tức là cuộc khổ nạn, chết và sống lại). Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thánh đô Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng Cha Người. Trong khuôn viên Đền thờ, “có mấy người Hy lạp” muốn tìm gặp Chúa. Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy lạp, nhưng là dân ngoại có cảm tình với Do Thái giáo. “Họ lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp lễ Vượt qua”. Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ báo trước sự lên đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với ĐK sau này, là dấu chỉ loan báo GIƠ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã điểm. - Họ tìm “gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy Người mà thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy. - Họ “lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với cái tên Hy lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy lạp có thể giúp làm môi giới cho họ được. - “Ông Philipphê đi nói với ông Anrê” cùng sinh trưởng như ở ông Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông. - “Và hai ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như ở 1,35-51 (Phúc Âm Chủ nhật 2 thường niên) Gioan một lần nữa nêu bật tầm quan trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
2. ... Dấu chỉ loan báo Giờ của Chúa. Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: “Đã đến Giờ Con Người được tôn vinh”. Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo hiệu những người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống lại của Đức Giêsu sẽ mở ra cho mọi người
ơn cứu độ. Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú đem lại muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật, Thầy bảo thật anh em” cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn hạt lúa mì với hai ý đối chọi nhau “trơ trọi một mình” và “sinh được nhiều hạt”. Để có thể sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải chết đi: đó là quy luật của sự sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của Người là quá trình bắt buộc để Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội Thánh được sinh ra nhân lên gấp bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi thường mạng đống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. X. Léon-Dufour quảng giải thêm: “Cuộc sống có thể được coi như là “của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ bằng mọi giá ấy, cái tàn sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như giòng nước đang chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không chế ngự được dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm lại, thì này đây sự “chết” ấy không có gì khác hơn là một sự “xuất thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế “thì sẽ giữ lại được như lời Chúa nói, cho sự sống đời đời”. Như ta biết, theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự hiệp thông với chính Thiên Chúa vậy” (“Lecture de l'Evangile selon Jean”, quyển II, Seuil, trang 464).
3. ...Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên. Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với giờ vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử dụng theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong Phúc Âm nhát lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vườn Giệtsêmani, và bên kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê. - Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ choán hết. Thế nên lời “Thầy xao xuyến” cũng như lời nguyện cùng Cha “Lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này” được tiếp theo ngay bằng tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Cha của Người: “Nhưng không, chính vì Giờ này mà Con đã đến! Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A. Marchadour nhận xét: “Vang lên như một bản tóm lược “kinh Lạy Cha” vậy (kinh này không có trong Tin MừngGioan). Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha” (O.C. trang 169). - Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện, Chúa Hiển Dung, nhưng ở đây ngài nhắc đến “có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người chứng kiến giải thích khác nhau: Người thì cho rằng “đó là tiếng sấm”, người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó tuyên bố cho mọi người biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến mạng sống Người đã được Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái. Tác giả kết luận: “Bởi tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm ở cuối phần thứ nhất của sách Tin Mừng, nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu được Cha người long trọng xác nhận là Con và là Đấng được sai đi. Đó là một sự phê chuẩn có tính tôn vinh một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai. Cuộc khổ nạn đối với Đức Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy” (idem). Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ Người rằng: “Giờ con chưa đến”; thế mà Người cũng “đã tỏ vinh quang” Người cho các môn đệ. Giờ đây, “Giờ đã đến” lúc vinh quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế giới. “Khi làm những dấu lạ đầu tiên” ở Cana, các môn đệ “đã tin vào Người”. Từ nay “khi được giương cao lên khỏi đất” (một kiểu nói ám chỉ cùng một trật “Người sẽ phải chết cách nào” và được Chúa Cha đem lên vinh quang), Đức Giêsu sẽ “kéo mọi người lên theo với Người” và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha. X. Léon Dufour hỏi để kết luận “Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng mong đợi của những người Hy lạp muốn “gặp” Người không? Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng bài diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng-bị-đóng-đinh-Được-tôn-vinh (...). Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết rằng người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mọi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống”. Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài Diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi” (O.C. trang 478).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Người thời nay mải mê với những vấn đề căn bản” (Các Giám mục pháp, trong “Trình bày đức tin trong xã hội hiện nay.Thư gởi các tín hữu Pháp”. Cerf, trang 40-41). “Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không đang đi tìm tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn bản, như: Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa của hiện hữu con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của nhân vị con người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối tượng là nhân vị con người. Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta không phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào để trao đổi với người ta? Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin trong xã hội hiện nay. Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà chỉ muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng. Trong những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng gia sản mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những “người đề nghị” đức tin. Để đạt mục đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ của ân huệ Thiên Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chứng tỏ tính thời sự của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng Tin Mừng bằng cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa mình: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tót đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
2. Phục vụ đời sống con người theo cách thế của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ: (idem trang 95-96). Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu chỉ quan tâm đến hành vi phượng tự.. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong Đức Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một mối tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con người, vì không gì mong manh và bị đe doạ hơn đời sống ấy. Ta không thể phục vụ và yêu mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện diện trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt nhắc nhở ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ con người. Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo và người bị loại trừ được coi như “bí tích của Đức Kitô”. Sự quan tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân cũng như cộng đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác tín rằng họ đang chu toàn ơn gọi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách phục vụ con người như thế. Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi những thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh trách nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên đới và sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong trào, đặc biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các thành viên của mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải chăm lo cho đời sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng tập thể trên nếp sống của con người. - Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của riêng mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công giáo trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức Cứu trợ Công giáo (secours Catholique) hoặc C.C.F.D (tổ chức chống đói và giúp phát triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào giáo dục và tự thiện nữa.
3. “Sức năng động của Lời Chúa” (Kỷ yếu của C.C.F.D). Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận thấy LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người. . Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và thế nào hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án - đèn pha làm thí dụ). . Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường mới (cứ nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không phải không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia. . Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá nghèo và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm (...). Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát triển kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế gian này đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng ban sự sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về Mầu nhiệm Thập giá. Hiệp cùng với các anh em dự tòng, những người đã nhận ra Đấng đang lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài vào đáy lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài, chúng ta hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng mở. Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người. Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người, ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số 3).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI: 1. Một trình thuật có sự liên kết rất chặt chẽ. Trình thuật Cuộc Khổ Nạn chiếm một khoảng lớn trong Tin Mừng Máccô, bởi vì nó chiếm đến hai chương, gồm một đoạn nhập đề và hai phần, tất cả đều liên kết với nhau rất chặt chẽ. - Nhập đề (14,1-11) mở đầu trình thuật bằng ba phối cảnh, hướng dẫn độc giả vào cuộc, đó là: + Âm mưu chống Đức Giêsu, nguồn gốc của tấn thảm kịch (14,1-2). + Xức dầu tại Bêtania (14,3-9), cử chỉ có tính tiên tri báo trước việc táng xác. + Giuđa phản bội (14,10-11) khai mào thảm kịch. - Phần thứ nhất (14,12-52) của trình thuật xoay quanh bữa tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu với các môn đệ. + Chuẩn bị bữa Tiệc ly (14,12-16). + Thông báo việc Giuđa phản bội (14,17-21). + Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (14,22-26). + Tiên báo việc Phêrô chối Người (14,27-31). + Lời cầu nguyện trong vườn Ghetsêmani (14,32-42). + Đức Giêsu bị bắt (14,43-52). - Phần thứ hai dẫn chúng ta vào giữa tấn thảm kịch, qua việc Xét Xử và Lên Án Tử cho Đức Giêsu (14,53-15,47). + Vụ Xét Xử diễn tiến trong hai giai đoạn: . Toà án Do Thái, trước Thượng Hội Đồng (14,53-65) . Toà án Rôma, trước tổng trấn Philatô (15,1-15). Trong hai giai đoạn này, có kèm hai sự cố. . Phêrô chối Thầy (14,66-72) . Quân lính nhạo cười Chúa (15,16-20) + Thi hành án tử cho Đức Giêsu (15,21-47). . Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá (15,21-32) . Đức Giêsu chết trên thập giá (15,33-41): trọng tâm của trình thuật. . Sau cùng, Đức Giêsu được mai táng.
2. Chóp đỉnh của trình thuật: một người ngoại giáo tuyên xưng đức tin. Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi không thể quảng giải từng chi tiết của trình thuật, chỉ xin nhấn mạnh một vài điểm tiêu biểu mà thôi. - Những biến cố được thuật lại cách hờ hững, làm chúng ta bực bội. Như thế, cùng với Máccô và các môn đệ, ta có thể nhận thức được rằng: việc thực thi kế hoạch của Thiên Chúa làm cho con người cảm thấy thật hụt hẫng. Thập giá đúng là cớ vấp phạm. Vậy mà chính ở đó mầu nhiệm Con Thiên Chúa được mạc khải! (E.Charpentier, trong “Lire ba Bible” số 55, trang 113). - Sự Thinh Lặng của Đức Giêsu thật đáng kinh ngạc. E.Charpentier, giải thích: “Đức Giêsu biết rằng mầu nhiệm của Người vượt quá tầm hiểu biết của loài người. Người biết rằng: chúng ta bị “tắc nghẽn”. Bởi vậy, trong cuộc đời công khai, Người đã từ chối nói ra Người là ai. Trong cuộc thương khó, Người chịu vén mở một chút bức màn thinh lặng bởi vì Người đã bị kết án tử và không còn nguy cơ diễn dịch danh hiệu của Người theo nghĩa ham muốn quyền lực,” (Sđd). Mặc dù bị thúc bách bởi những câu thẩm vấn, Người chỉ mở miệng ba lần sau khi bị bắt: + Khi vị thượng tế hỏi Người có phải là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa không, Người đáp: Phải, chính thế. Rồi Người giới thiệu mình là “Con Người”, Đấng mà ngôn sứ Đaniel đã loan báo sẽ đến vào ngày tận thế, để phán xét chung. + Khi Philatô hỏi với ẩn ý chính trị rằng Ngài có phải “Vua dân Do Thái” không, Đức Giêsu xác nhận lời ông: “Chính như ngài nói đó”. Nhưng rồi Ngài thinh lặng (“Đức Giêsu không trả lời gì nữa”) ngay cả khi liên quan đến số phận Ngài; điều đó nhắc ta nhớ “Người Tôi Tớ đau khổ” trong sách Ngôn sứ Isaia: “Bị ngược đãi, Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông” (Is 53,7). + Sau cùng, trên thập giá, Người mượn lời kêu than của người vô tội bị bách hại trong TV 21: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” để nói lên tiếng than van trong cơn nguy khốn và kết thúc bằng lời ca hy vọng tuyệt vời. - Sự Cô Đơn nghiệt ngã của Đức Giêsu nổi rõ trong Tin Mừng Máccô: Bị mọi người bỏ rơi, Người bước đi thui thủi một mình trong đêm tối thập giá. - Chính trong giờ phút Đức Giêsu chết, bị mọi người bỏ rơi, trong khi gánh mọi đau khổ, mọi tang tóc của nhân thế, chúng ta nghe vang lên Lời Tuyên Xưng Đức Tin của viên sĩ quan Rôma, chóp đỉnh của Tin Mừng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”. J.Hervieux nhận xét: “Máccô đã tô đậm sự cố này. Trong nhân vật sĩ quan Rôma, (người đứng trông coi việc thi hành án tử), ông nhìn thấy các dân ngoại đang ăn năn trở lại. Ngay lập tức, người ngoại này đã tặng Đức Giêsu danh hiệu cao cả trên mọi danh hiệu. Người không những là Đấng Mêsia dân Do Thái trông đợi, mà còn là “Con Thiên Chúa”. Tác giả đặt vào danh hiệu này ý nghĩa mạnh mẽ nhất để chứng tỏ nét độc đáo trong đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu Kitô. Người ta nhận ra cảnh trái ngược trong trình thuật: trong khi người Do Thái (đám đông qua lại, các lãnh đạo dẫn đầu) chỉ biết cười nhạo, báng bổ Đấng Mêsia bị đóng đinh, thì một người dân ngoại lại nói lên lời biểu lộ một đức tin tinh tuyền nhất (...). Đồng thời Máccô dẫn độc giả tới chóp đỉnh của Tin Mừng. Ngay từ đầu sách, ta còn nhớ câu hỏi về Đức Giêsu: “Ông này là ai”. Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện cho nhóm Mười Hai, ngưỡng cửa thứ nhất đã được bước qua: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia (8,29). Nhưng đức tin mới chớm nở còn cần phải đào sâu. Cuộc Khổ nạn và Cái Chết của Đức Giêsu đã tạo điều kiện cho việc đó. Với việc viên sĩ quan tuyên xưng đức tin, bước quyết định đã hoàn tất: Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa”, điều mà tiếngChúa Cha đã công bố khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (1,11). Và, theo nguyện ước của Đức Giêsu khi xảy ra biến cố tẩy uế Đền Thờ, giờ đây mọi dân tộc có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa (11,17). Đã hẳn, nhờ ánh sáng của Chúa Phục Sinh và việc dân ngoại gia nhập Giáo Hội sơ khai, tư tưởng cao siêu này mới được hình thành. Hơn nữa, nó còn là kết quả của một cuộc suy tư dài lâu nơi cộng đoàn Kitô hữu (gần 40 năm). Chúng takhông nên coithường vấn đề thời gian” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 230). - Sau cùng, địa vị của PHỤ NỮ, tuy rất âm thầm kín đáo, cũng rất có ý nghĩa. Họ đi theo Chúa - việc hi hữu đối với một rabbi Do Thái - trong sứ vụ ở Galilê, họ đi lên Giêrusalem, họ can đảm theo Chúa cho đến núi Sọ, trong khi các môn đệ bỏ trốn hết. Họ được thánh sử nhắc đến ở đây, trong tư thế “nhân chứng” duy nhất: “họ đứng nhìn”, “đứng xa xa”, bởi vì họ là phụ nữ, nên không được phép lại gần người thụ hình. Họ làm nên dây liên kết ba biến cố diễn tiến liền sau: cái chết của Đức Giêsu, việc táng xác trong mồ, và nhất là vào buổi sáng Phục Sinh, việc khám phá rằng “Đức Giêsu Nagiarét”, Đấng bị đóng đinh, đã chỗi dậy (16,6).
II. BÀI ĐỌC THÊM: Bí mật rồi cũng được mạc khải (“La Bible du dimanche” trang 403-404). Xuyên suốt Tin Mừng, Máccô đã bảo vệ phẩm cách thiên sai của Đức Giêsu, bằng cách bao trùm lên Người vẻ bí mật và thinh lặng, mỗi khi Người chạm trán với sự chậm tin hoặc sự mù quáng của dân chúng. Trong suốt cuộc khổ nạn, vẻ bí mật và thinh lặng này đã trở thành nỗi cô đơn của Đức Giêsu vì Người xác tín mình là Đấng Mêsia. Người đã đánh mất cử toạ là quần chúng và người thân cận, khi mà những biến cố đầu tiên của cuộc Thương Khó làm cho các tông đồ lìa bỏ Ngài. Trong vườn Ghetsêmani, những môn đệ lẽ ra phải thức với Người thì đã thiếp ngủ (Mc 14,37-40), họ đã chạy trốn lúc Chúa bị bắt (14,50), dù phải chạy trần truồng vì hoàn cảnh bắt buộc (15,51-52). Trong cuộc tra vấn, khi Phêrô bộc lộ tính nhát đảm (14,62-71)và hai nhân chứng dối trá tố cáo Người (14,56-60), thì chỉ còn một nhân chứng dám hai lần phát biểu ủng hộ Người, đó là con gà trống đáng thương. Nỗi cô đơn quả là khủng khiếp: người ta nhạo cười Đức Giêsu khi Người tự nhận mình là Đấng Cứu The; Người là vua, nhưng là vua giấy trong căn phòng của đám lính gác; Ngài được giới thiệu cho quần chúng, nhưng họ lại là một đám đông la ó xin xử tử Ngài. Trên thập giá, khi mà các môn đệ đứng xa xa đề tránh bị lộ (15,40), Đức Kitô cảm thấy cô đơn đến độ dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người luôn (15,34-35). Đức Giêsu chịu đựng nỗi cô đơn càng lúc càng dữ dội, trong thinh lặng tuyệt đối (Mc 14,61; 15,3-4). Trái với các thánh sử khác, Máccô chỉ ghi lại một lời ngắn gọn duy nhất của Chúa trên thập giá. Sự thinh lặng này đánh dấu sự cách biệt giữa quan niệm mà Đức Giêsu hiểu về sứ mạng của mình với quan niệm của những thù nghịch nghĩ về Ngài. Nó chứng tỏ rằng Đức Giêsu luôn trung tín với chính mình giữa những cơn thử thách. Nhưng vừa khi cái chết đóng dấu ấn vào nỗi cô đơn, thì Đức Kitô liền được tung hô là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa (Mc 15,39), và một nhóm môn đệ lại hình thành quanh Người (Mc 15,40-43). Đức Giêsu không còn cô độc; Giáo Hội được thiết lập và những người ngoại giáo cũng thuộc về Hội Thánh ấy.”
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI: 1. Một cử chỉ gây kinh ngạc. Khác với các Tin Mừng Nhất Lãm, Tin Mừng Gioan không thuật lại việc lập Bí tích Thánh Thể, nhưng lại là sách duy nhất tường thuật một cử chỉ khác của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly: đó là việc rửa chân cho các môn đệ. - Nhập đề của chương 13 này mang một vẻ long trọng đặc biệt. Nó làm nổi bật ý thức rất sâu xa nơi Đức Giêsu; nó bày tỏ ý nghĩa của những gì sẽ xảy ra, đó là: sự bộc lộ một tình yêu được thúc đẩy đến cùng độ, phát xuất từ Chúa Cha và từ Đức Giêsu, Con của Người. “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. - Sự việc càng như đập vào mắt khi tác giả miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết, như cảnh phim quay chậm: “Đức Giêsu đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ”. Dĩ nhiên, cử chỉ này gây kinh ngạc bỡ ngỡ vì hai lý do: + Đức Giêsu rửa chân “trong bữa ăn”, trong khi luật hiếu khách quy định phải làm trước bữa ăn. + Cử chỉ đó là do chính Đức Giêsu làm mà Người là Thầy và là Chúa, trong khi theo tục lệ Israel, việc làm này thường được dành cho nô lệ ngoại giáo.
2. Một cử chỉ dạy dỗ nhiều điều. Trái với thói quen của con người duy lý ngày nay muốn giải thích trước khi làm một cử chỉ, Đức Giêsu lại thực hiện cử chỉ tượng trưng trước, một cử chỉ mang nhiều bài học, rồi mới giải thích sau. Theo tiến trình Gioan quen dùng, lợi dụng sự hiểu lầm về việc “thanh tẩy”, qua đối thoại, Đức Giêsu dẫn ta (cũng như dẫn Phêrô) từ cách hiểu hoàn toàn “luân lý” (một cử chỉ khiêm nhường), sang cách hiểu “thần hướng”: một cử chỉ muốn nói rằng Thiên Chúa tỏ mình nơi Đức Giêsu Kitô; và qua cử chỉ này, Đức Giêsu muốn biểu lộ trước việc Người vui lòng nhận lấy cái chết như một dấu hiệu yêu thương đối với loài người và lòng trung thành với Chúa Cha (A.Marchadour, trong “L'Evangile de Jean”, Centurion 1992, trang 184). Để “được dự phần” với Đức Giêsu, Phêrô sẽ phải theo Người đến cùng, phải toàn tâm toàn ý gắn bó với chương trình cứu thế của Người, dù phải làm chứng bằng cái chết. - Cách hiểu này còn được củng cố thêm do những động từ mà Gioan dùng để diễn tả hành động của Đức Giêsu: “Người cởi áo ngoài” ra, rồi sau đó “lại mặc vào”. Cũng chính những động từ “cởi ra”, “mặc vào” đã được Đức Giêsu sử dụng, trong chương 10, để nói Người sẽ hy sinh và lấy lại mạng sống. “Cởi bỏ”, “mặc lại” là hai động từ mà tác giả dùng để chỉ cái chết mà Đức Giêsu tự nguyện nhận lấy, và sự sống lại của Người. X.Léon Dufour giải thích thêm: “Câu chuyện rửa chân là cách diễn tả tượng trưng cho cái chết tự nguyện của Đức Giêsu: Người không đánh mất chức vị Đức Chúa, chức vị Ngài có do địa vị là Con Thiên Chúa, dù Người coi mình là Đấng đến để phục vụ” (“Lecture de l'Evangile selon St Jean”, cuốn III, Seuil 1993 trang 34). Đức Giêsu đồng hoá mình với “người tôi tớ của Thiên Chúa” trong sách Isaia, Đấng làm cho muôn người nên công chính nhờ những đau khổ của mình.
3. Một cử chỉ cần noi theo để nhớ đến Người. Cử chỉ duy nhất Người đã thực hiện tối hôm đó để tượng trưng cho cái chết Người tự ý chấp nhận vì yêu thương và cũng để tượng trưng cho sự sống lại của Người, thì đồng thời cử chỉ đó cũng là một “tấm gương” nêu lên cách sống mà các môn đệ phải học để đối xử với nhau. “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”. Nếu Người “là Chúa và là Thầy” đã đến để phục vụ, chớ không để được phục vụ, thì các môn đệ Người cũng phải đi theo con đường tận hiến để phục vụ anh em theo gương Người. Léon Dufour kết luận: “Nếu Gioan đã nhắc đến phép Thánh Thể ở chương 6, thì ở đây ông lại trình bày truyền thống giao ước bằng hình ảnh Đức Giêsu thi hành việc phục vụ cao trọng nhất, chính bởi vì truyền thống giao ước ấy làm sáng tỏ “thực tại” mà bí tích Thánh Thể phải tăng cường nơi các tín hữu: thực tại đó là tình thương huynh đệ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Việc rửa chân cho nhau không chỉ là việc làm thêm tùy ý, mà là việc cần thiết để chứng tỏ rằng phụng tự tự nó chưa đủ, rằng phụng tự chỉ có giá trị khi thi hành tình yêu thương cụ thể, nếu không nó chỉ là hão huyền. Nếu Thánh Thể làm nên Hội Thánh, thì việc rửa chân cho nhau là hành động tác tạo, nhờ đó Hội Thánh được thành hình” (Sđd, trang 57).
II. BÀI ĐỌC THÊM: 1. Đây chính là sự khó nghèo của Thiên Chúa (Jean Perron, trong “Lire la Bible”, số 54, trang 85-86). Như vậy, trong việc rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu không chỉ để lại cho ta gương mẫu về đức khiêm nhượng, giống như một tôn sư luân lý dạy cho đệ tử của mình mà qua cử chỉ biểu trưng này, Người còn tỏ cho ta chính cả cuộc sống, cả sứ mạng, sự chết và sự phục sinh của Người nữa. Hơn thế nữa, bởi vì mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của Người đều mạc khải Thiên Chúa cho ta, nên việc rửa chân cho các môn đệ khiến ta thoáng thấy điều bí ẩn của Thiên Chúa, điều bí ẩn có thể làm đảo lộn tất cả. Cha Varillon quen nói: “Trong Thiên Chúa luôn có việc rửa chân muôn đời”. Thiên Chúa là Tình Yêu, nhưng không phải một Tình Yêu từ trên ngó xuống hay thống trị hoặc có vẻ coi thường. “Cúi xuống trên” là hình ảnh mà Cựu Ước thường dùng để tả lòng tốt, sự âu yếm của Chúa: thí dụ Thánh vịnh nổi tiếng Miserere (TV 51) bắt đầu bằng câu: “Ôi lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu cúi xuống trên con”. Vị Thiên Chúa “cúi xuống trên”, ngày nay chúng ta biết được rằng tình thương đã dẫn Người tới đâu: một đầy tớ quỳ gối trước môn đệ mình, cúi xuống sâu đến tận chân của họ, đến nỗi để trả lời cho Phêrô Người buộc phải ngẩng đầu lên; một Đấng tạo thành cúi đầu sâu trước tạo vật của mình, đến độ phải ngước mặt nhìn lên họ. Tất cả những gì là hạ cố, là cha chú, là xa cách, là trịch thượng mà hình ảnh Kinh Thánh có thể còn diễn tả, bỗng chốc bị phá huỷ, khi chúng ta được chiêm ngưỡng một Thiên Chúa đang ngước mắt nhìn lên con người. Chính đây mới là sự nghèo khó của Thiên Chúa”.
2. Bổ túc thiết yếu cho Bí tích Thánh Thể (Claude Ducheneau, trong “Célébrer” tạp chí CNPL, số 267, trang 23). Điều hết sức ngạc nhiên là trình thuật về việc lập Bí tích Thánh Thể không có trong Tin Mừng thánh Gioan. Tuy vậy, Giáo Hội không quên trình thuật về việc lập Bí Tích Thánh Thể. Nhưng thay vì chọn một trình thuật cho bài đọc Tin Mừng trong thánh lễ, Giáo Hội lại chọn đoạn trích Thơ thứ nhất của thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô, đoạn duy nhất không trích từ Tin Mừng, làm bài đọc thứ hai. Làm như vậy, là để có thể đọc đoạn Tin Mừng tả việc rửa chân cho các môn đệ. Thật đáng kinh ngạc khi cử chỉ bổ túc thiết yếu cho Bí Tích Thánh Thể này bị một số linh mục và nhóm phụng vụ coi là lỗi thời. Những người chối bỏ cử chỉ này không hiểu rằng họ đang từ chối chuyển đi một sứ điệp Tin Mừng rất quan trọng đó sao? “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy” và là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy và là Chúa. Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”. Chỉ một lần trong cả năm, vị linh mục đứng đầu cộng đoàn, quỳ trước mặt những người mà thường ngày ngài là người chỉ huy. Cũng chính vì ngài là vị chủ toạ thường xuyên, nên để theo chân Đức Kitô, hôm đó ngài trở thành đầy tớ (ministre: thừa tác viên) cho mọi người, như chính Đấng là Thầy và là Chúa đã làm và đòi hỏi các môn đệ làm theo. Không nên thay thế cử chỉ rửa chân này bằng một bài suy gẫm đơn giản, kể cả bằng một cử chỉ bày tỏ tình liên đới dù đó là một cử chỉ nên làm, nhưng dầu sao vẫn không đúng lúc.”
CUỘC THƯƠNG KHÓ
ĐỨC GIÊSU KITÔ THEO THÁNH GIOAN. (Ga 18,1-19,42).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Một cấu trúc có tính mạc khải. Nếu khung kể chuyện của Gioan có điểm chung với các Tin Mừng Nhất lãm, thì bài tường thuật cuộc thương khó Đức Giêsu theo ngài không khác bao nhiêu với những bản song song. Mạc khải ý nghĩa của các biến cố và bộc lộ chân tính đích thực của Đức Giêsu Nadarét, Đấng Kitô và Đức Chúa, là ưu tư của tác giả. Điều này có thể được thấy rõ ngay trong cấu trúc toàn bộ cũng như trong cách phân chia từng đoạn. Trong cấu trúc toàn bộ, điểm khởi đầu là một khu vườn, vườn hấp hối để rồi kết thúc trong một khu vườn khác, vườn chôn cất, với vụ-xử-án trước toà tổng trấn Philatô làm tâm điểm; còn trong cách phân chia phần đoạn, thì bài tường thuật gồm ba phần, với động từ then chốt là “trao nộp”: - Phần 1: Đức Giêsu nộp mình cho người Do thái (18,1-27). - Phần 2: Người Do thái trao nộp Đức Giêsu cho kẻ ngoại (18,28-19,22). - Phần 3: Bị trao cho đem đi đóng đinh, Đức Giêsu phó mình cho Đức Chúa Cha.
2. Một bài tường thuật về sự ứng nghiệm. - Giống như ba Tin Mừng nhất lãm, tác giả Gioan chỉ có ý chứng tỏ rằng, trong cuộc Thương Khó của Đức Giêsu, những lời tiên tri về biến cố này đều được ứng nghiệm. Còn khi minh chứng rằng khổ hình thập giá đã được báo trước trong Thánh Kinh bằng lời nói và bằng hình ảnh thì không phải là để biện minh cho xì-căng-đan của thập giá, nhưng, X. Léon-Dufour giải thích, để “gợi lòng trí người ta tưởng nhớ công ơn cứu chuộc do việc Đức Giêsu bị “giương lên cao”. Gioan thích sử dụng dữ liệu Thánh Kinh nhằm giúp độc giả có cái nhìn vượt qua Khổ Nạn để hướng tới ơn giải thoát và sự sống sẽ đem đến cho Đức Giêsu và những ai có lòng tin, hơn là trưng dẫn lại những lời tiên tri nói về đau khổ Chúa đang phải chịu” (“Lecture de l'Evangile selon Jean”, quyển IV, Seuil, trang 18). - Trong cuộc Khổ nạn của Đức Giêsu, cũng ứng nghiệm những điều mà chính Người đã báo trước: “như, vẫn X. Léon chú giải, việc Phêrô chối Thầy (“và ngay lúc ấy gà liền gáy”: 18,27; xem 13,38); rồi rõ ràng hơn, việc Chúa bị bắt giữ và khi bị điệu ra toà. Trong Diễn từ giã biệt, Chúa đã báo trước việc các môn đệ bỏ Người...; trong Vườn cây dầu, lời ứng nghiệm là chính lời của Đức Giêsu: “Những người Cha đã ban cho Con, Con không để mất một ai” (18,9). Trong 18,32, thánh sử còn nói rõ: “Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào: độc giả được đưa trở lại lời báo trước ở 12,32: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (O.C., trang 21).
3. Những điều bỏ qua không nói đến, cũng lên tiếng hùng hồn. Vì muốn chứng tỏ rằng đối với Đức Giêsu, thập giá không phải là một sự hạ xuống tột cùng, mà là một sự “giương cao lên”, và vì nỗi trăn trở muốn làm nổi bật lên vẻ oai nghiêm vương giả của Đức Giêsu cũng như quyền tự do tối cao của Người, thánh sử Gioan đành phải loại bỏ đi ít nhiều sự việc, mà chính những điều bỏ qua ấy lại đầy ý nghĩa mạc khải, cũng lên tiếng hùng hồn. Vì thế ngài không nói gì đến cơn hấp hối trong vườn Giệtsêmani (chỉ như dư âm thoáng qua ở chỗ khác 12,20-36), cái hôn phản bội của Giuđa, hay vụ xử án trước toà Caipha và Thượng hội đồng (những đối đáp gay go ở các chương 7 và 10 đã thay thế) cũng chẳng nói chi đến những cảnh lăng nhục, và chế nhạo, hay thập giá của hai tên tội phạm (chỉ có một thập giá ĐK là được nói tới). Và lời sau cùng của Đức Giêsu trên thập giá mà Gioan thuật lại không phải là lời thánh vịnh 21: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”, nhưng lại là lời: “Mọi sự đã hoàn tất”.
4. Những đoạn thêm vào cũng mang nhiều ý nghĩa. Những tình tiết riêng của Gioan thêm vào cũng không kém phần mạc khải hùng hồn. - Thế nên trong cảnh bắt giữ ở vườn cây Dầu, Đức Giêsu chỉ cần nói “Ta đây” (đó là danh xưng của Thiên Chúa trong Thánh Kinh) là bọn người đến bắt Người đều phải té ngửa hết. Thay vì là món đồ chơi trong tay bọn họ, Đức Giêsu lại là người điều khiển các sự việc. - Cũng như ở đoạn mô tả tỉ mỉ vụ xử án trước toà tổng trấn Philatô, đoạn văn chiếm hơn 1/4 trình thuật về khổ nạn (29 câu trên 112 câu), M.Autané giải thích: “Gioan muốn cho thấy, vận mệnh hiện tại và tương lai của Đức Giêsu là ở chỗ đó. Từ nay trở đi, Đức Giêsu là Vua toàn năng, là quan toà xét xử muôn dân. Khi Philatô cho đặt Chúa ngồi vào toà của ông, điều đó có ý chỉquyền thống trị này (19,13). Chính ngay giữa màn xử án đầy kịch tính này, mà Đức Giêsu được đội triều thiên bằng gai và được tôn vương, nhưng vẫn còn là một vua bị lăng nhục. Phải đợi tới Phục Sinh vương quyền này mới sẽ tỏ hiện, mới thực sự là một “giương lên cao”, một “cuộc đăng quang” (20,17) vậy.” (“Les dossiers de la Bible”, số 57, trang 3-4) - Hay như lời sau cùng Đức Giêsu nói với Thân Mẫu của Người (mà Người gọi là “Thưa Bà”, giống như ở Cana) thì chính là “lúc Chúa thiết lập cách tượng trưng một gia đình mới, gia đình những người thân tín của mình” (X. Léon-Dufour, O.C., trang 148). - Cũng thế, sau khi Đức Giêsu chết máu và nước chảy ra từ cạnh sườn mở ra của Người. A. Marchdour viết: “Trong thực tế, cái chết của Đức Giêsu mở ra mầu nhiệm ơn cứu độ đã loan báo ở 7,38: “Như Thánh Kinh đã viết, từ trái tim Người sẽ chảy ra, những giòng sông mang nước hằng sống”. Trong cái chết của Đức Giêsu, giờ Người được tôn vinh đã điểm. Thần Khí được ban cho các kẻ tin (7,39). Độc giả Kitô giáo khi lãnh nhận hai bí tích Rửa tội và Thánh Thể với lòng tin, là thực sự đón nhận chính sự sống do Chúa thông ban vậy.” (“L’Evangile de Jean”, Centurion, trang 238).
ĐỨC GIÊSU NADARÉT
BỊ ĐÓNG ĐINH, NGƯỜI ĐÃ CHỖI DẬY RỒI... (Mc 16,1-8)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Bên kia bóng tối, ánh sáng ngày mới đang bừng lên: Ánh sao mai xuất hiện đã đánh dấu ngày Sabát, ngày lễ nghỉ thánh, chính thức chấm dứt. Cuộc sống đã sớm trở lại với nhịp sống bình thường, các tiệm buôn đã mở cửa. Bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê - ba bà này “đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilê” (15,41), đã có mặt khi Đức Giêsu bị đóng đinh (15,40), và khi Người được chôn cất - đã có thể đi mua dầu thơm “để ướp xác Đức Giêsu”, mà chắc không phải là theo cách thức người Ai cập, nhưng theo tục lệ của người Do thái: ướp xác bằng dầu thơm. “Các bà ra mộ”, đến chỗ hẹn của cái chết. Nhưng bằng những hình ảnh biểu tượng khác nhau: “Sáng tinh sương”, “lúc mặt trời hé mọc” trình thuật đã báo trước một cuộc tạo dựng mới rồi. Bóng tối của sự chết sắp bị đẩy lui nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới, cho một khởi sự mới của vũ trụ; đó là “ngày đầu tuần” của một công trình tạo dựng mới, ngày ấy chẳng bao lâu nữa sẽ được gọi là “Chúa nhật”, tiếng latinh là “dies dominica”, Ngày Chúa phục sinh. Dọc đường đến mộ, khi nghĩ đến tảng đá lớn chắn cửa mồ, các bà cảm thấy lo âu. Nỗi lo âu ấy là chuyện rất bình thường, vả chăng còn là khá muộn màng: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?”, bởi vì các bà biết rằng “tảng đá ấy lớn lắm” chỉ với sức lực của hai hoặc ba người đàn ông mới có thể lăn nổi tảng đá ấy. Tảng đá càng lớn, thì càng gây ngạc nhiên lớn hơn cho các bà sau này. - Các bà ngạc nhiên trước hết vì “thấy tảng đá đã lăn ra một bên rồi”, điều không thể nào làm được đối với các bà. Các nhà chú giải muốn lưu ý ta về một chi tiết có tính khá soi sáng là: nguyên bản bằng tiếng Hy lạp dùng câu này ở thể thụ động (tảng đá đã được lăn ra một bên) nhằm “ám chỉ đó là hành động của Thiên Chúa mà không cần phải nói ra”, còn sách bài đọc, thì rất tiếc là đã dịch câu đó ở thể bất định: người ta đã lăn tảng đá rồi” (J.Hervieux, “L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 233). - Rồi tiếp đến là một ngạc nhiên khác: “vào trong mồ, các bà thấy một người thanh niên (tiếng Hy lạp là “neaniskos”) ngồi bên phải, mặc áo trắng”. Người ta nghĩ ngay đến “người thanh niên” (neanikos) được mô tả trong cảnh Chúa bị bắt; người thanh niên ấy chỉ khoác vỏn vẹn một “tấm vải gai” (tiếng Hy lạp là “sindona” có nghĩa là tấm vải liệm). Khi họ túm lấy anh, anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng. Đây là cách dùng biểu tượng để diễn tả việc Đức Giêsu phục sinh thoát khỏi tay những kẻ thù tưởng là đã bắt được Người và giam hãm Người trong cái chết (Máccô 14,50, J.Hervieux, O.C., trang 216-217). + “Người thanh niên” trong trình thuật “ngồi bên phải”: đó là địa vị danh dự mà các Kitô hữu vốn dành cho Đức Kitô vinh hiển: “Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha”. + Người thanh niên ấy “mặc áo trắng”, giống như Đức Giêsu biến hình sáng láng trên núi, ít lâu sau khi loan báo cuộc thương khó và phục sinh lần thứ nhất (9,3). J.Hervieux nêu ý trước, rồi P.E Boismard cũng đồng tình: “Tất cả gần như khơi gợi một sự “xuất hiện” của Đức Giêsu. Còn tác giả Máccô thì không nói ra điều này.” (O.C., trang 234).
2. Bên kia nỗi sợ hãi là hướng mở ra với sứ mạng: Theo cách diễn tả sinh động của trình thuật, người thanh niên ấy không phải ở đó để làm gì. Nhưng là để nói lên một lời, để loan báo một Tin Vui, một Tin Mừng: “Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh, chứ gì? người thanh niên ấy nói với ba phụ nữ. Người đã chỗi dậy rồi”. Sứ điệp phục sinh chứa đựng trong mấy lời sau đây: “Đức Giêsu Nadarét mà các bà đã đi theo trong thời gian Người rao giảng ở Galilê, và đã thấy Người chết tất tưởi trên thập giá, Đấng ấy nay đã sống lại: Người là Đấng-hằng-sống! Cũng chính sứ điệp ấy mà các tông đồ sẽ loan báo cho muôn dân sau này.” (cf. Cv 2,22-36; 3,12-20; vv...). Trước đây, ở phần đầu sách Tin Mừng Máccô (Phúc Âm Chúa nhật V thường niên) ta được biết: sau một ngày bận rộn ở Caphácnaum, Đức Giêsu thức dậy sớm, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Các môn đệ kéo nhau đi tìm Chúa. Khi gặp Người, các ông được bảo đi đến một “nơi khác”: “Thôi, chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa”. Còn ở đây, ở phần kết của sách Tin Mừng Máccô, khi ngày mới đang lên, các môn đệ cũng lại nhận được sứ điệp, qua trung gian các phụ nữ, để đi đến một nơi hác: “Người không còn ở đây nữa... Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông”. Nơi hẹn gặp này, nơi Người sẽ “đến trước” các ông ấy chính là miền Galilê, nơi tiêu biểu cho sự chung sống lẫn lộn giữa người Do thái và dân ngoại. Đức Giêsu đã chọn Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng của mình (1,14-15), nên nơi đây, trở thành biểu tượng cho việc khai mở sứ mạng phổ quát vậy. J. Hervieux kết luận: “Các môn đệ được mời gọi tập họp lại đàng sau Đức Giêsu phục sinh, để khởi sự một cuộc lên đường mới ra đi truyền giáo.” (O.C., trang 234). - Được mời gọi đem tin này đến cho “các môn đệ Người và Phêrô”, khi vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, “run lẩy bẩy”. “Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá”. Trình thuật về biến cố Phục sinh kết thúc với những lời trên, và sách Tin Mừng Máccô cũng kết thúc một cách chân chất như vậy. Tại sao có sự sợ hãi như vậy? Tại sao lại yên lặng chẳng nói gì như thế? Chắc hẳn là do sự xúc động mãnh liệt và bất ngờ trước lời loan báo quá lạ lùng về việc phục sinh của Đấng bị đóng đinh. Nhưng nỗi sợ hãi không thốt lên lời này không thể ngăn cản các bà ra đi truyền lại sứ điệp, cũng như không thể ngăn cản các tông đồ rao truyền sứ điệp ấy cho đến tận cùng trái đất. Theo P.E Boismard gợi ý, thì “Máccô coi các độc giả Tin Mừng của ngài là những người có đủ trí thông minh để hiểu, vậy thì ngài muốn truyền lại cho họ sứ điệp nào? Trong phần đầusách Tin Mừng của ngài, thánh Máccô đã không ngần ngại mà còn lấy làm hứng thú nhấn mạnh đến sự ngớ ngẩn của các môn đệ vì các ông không sao hiểu biết được chân tính đích thực của Đức Giêsu. Ngay cả trường hợp ông Phêrô bất thình lình tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống cũng vậy. Đó chỉ là do Chúa tỏ cho ông biết mà thôi (...). Trong phần thứ hai của Tin Mừng cũng vậy. Hết thảy các môn đệ không trừ một ai, kể cả ba người phụ nữ được coi như trung tín nhất, đều hoảng sợ và bỏ trốn cả (...). Thế nhưng các độc giả Tin Mừng của Máccô hẳn phải nhận thấy điều này, là sứ điệp của Đức Kitô được truyền lại cách trung thực “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8) do chính những con người yếu đuối và khiếp nhược kia. Chính quyền năng của Thiên Chúa (hay của Đức Kitô phục sinh) đã phải tràn ngập tâm hồn các môn đệ để thông ban cho họ ơn can đảm và hiểu biết mà trước đây họ khiếm khuyết một cách thảm hại. Đó chính là sự lạ của Hội Thánh lúc mới khai sinh mà thánh Luca sẽ thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ. Còn Máccô thì để cho độc giả của mình tự hiểu, giống như ngài đã để cho độc giả tự hiểu rằng, nếu thánh Phêrô đã có thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Kitô thì chính là nhờ một sự can thiệp của Thiên Chúa vậy.” (Xem “Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 176).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ ngôi mộ “trống”. Sau ngày Sabát, đó là “ngày thứ nhất trong tuần”; kiểu nói đó gợi ý rằng thế giới đã khởi sự bước vào một thời điểm mới. Maria Mácđala, người phụ nữ đã đứng dưới chân thập giá Đức GIêsu, “đi đến mộ từ sáng sớm”. Chỉ có một mình bà đi tới mộ chứ không phải là ba bà như được kể lại trong Tin Mừng Máccô (Tin Mừng lễ Vọng phục sinh). Bà tới đó không phải vì ý muốn xức dầu thi hài, bởi lẽ việc chôn cất “theo tục lệ của người Do Thái” (19,40) đã hoàn tất, nhưng theo X. Léon-Dufour, có lẽ “chỉ vì con tim thúc đẩy thôi” (“Đọc Tin Mừng Gioan”, quyển IV, Seuil, trang 203). Vừa nhận thấy “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà vội chạy về báo tin cho các môn đệ: từ ngôi mộ mở toang, bà kết luận là thi hài Chúa đã được đưa đi; từ “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà kết luận là “người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”. Bóng tối bao trùm bà Mácđala đã được gợi ý ngay từ đầu trình thuật: “lúc trời còn tối”.
2. ... đến dấu chỉ của ngôi mộ trống. Phêrô là người được thánh sử nêu tên trước, nên dù chạy chậm hơn môn đệ kia, ông vẫn là người thứ nhất bước vào trong mộ và “nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”. Như vậy là giả thuyết Maria Mácđala đưa ra không vững nữa, vì “kẻ trộm sẽ chẳng tội gì mà lấy băng vải, cuốn lại rồi đặt riêng ra một nơi” (Thánh Gioan Kim Khẩu). Nhưng ngoài nhận xét trên đây, người ta không thấy tác giả Gioan nói gì về phản ứng của Phêrô. Còn Luca thì viết: “Ông rất đỗi ngạc nhiên” (24,12). Trái lại, “Người Môn đệ kia, người được Đức Giêsu thương mến”, tuy chạy tới mộ trước Phêrô, và vội cúi xuống để nhìn vào trong, nhưng lại nhường cho Phêrô tiến vào trước, chính người môn đệ ấy bằng trực giác của tình yêu, lại đang nhìn thấy trong cảnh mồ trống và cảnh các khăn vải sắp xếp ngăn nắp kia dấu chỉ của một Thực Tại Khác mà chỉ lòng tin mới cảm nhận được: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Theo ông, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu; mà chính là quyền lực của sự sống dứt khoát tước hết quyền của sự chết. X. Léon tự hỏi: “Người Môn đệ kia đã thấy gì? Hẳn không phải là ông đã nhìn thấy Đấng-Phục-Sinh. Về phương diện này, ông cũng giống như người có lòng tin được cho là có phúc vì đã không thấy mà tin (20,29). Người có lòng tin thì chỉ dựa vào chứng từ của các môn đệ đầu tiên, còn Người-Môn-Đệ ấy thì tin khi nhìn thấy những dấu vết để lại trong mồ. Dù rằng chưa gặp gỡ tiếp xúc với Đấng-Phục-Sinh, ông đã có khả năng vượt qua vực thẳm ngăn cách: tuy không thấy xác ở đó, nhưng vải liệm đã là dấu chỉ giá trị đối với ông. Trước hết, việc các khăn vải được xếp đặt ngăn nắp đã loại bỏ giả thuyết cho rằng người ta đã lấy cắp thi hài, điều mà có lẽ Phêrô đã kết luận. Sau nữa, tình yêu vốn đầy ắp con tim đã giúp cho người môn đệ ấy có được ánh sáng. Đối với ông, theo J.P.Duplantier nhận định, “ngôi mộ không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở thành một ngôn ngữ”. Nhờ chú tâm lắng nghe ngôn ngữ ấy, người Môn đệ kia hiểu rằng Đức Kitô đã chiến thắng điều mà không ai tránh khỏi, nói cách khác: Đức Giêsu đã toàn thắng sự chết” (Sđd, trang 212). Phần Giáo Hội sơ khai, sau khi đã có kinh nghiệm về Đấng Phục Sinh, sẽ còn phải đọc lại Thánh Kinh để soi sáng và nung đúc lòng tin cho mình. Vì “quả thực, cho tới lúc ấy - bản trình thuậtkết luận - các môn đệ vẫn chưa hiểu rằng: theo Kinh thánh, thì Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết”.
II. BÀI ĐỌC THÊM. “Hiện diện của tình yêu” (H.Vulliez, trong “Dieu si proche. Năm B”, Desclée de Brouwer trang 51). “... Maria Mácđala chạy tới mồ và thấy mộ trống. Chỉ có băng vài và khăn liệm là lên tiếng nói rằng: xác đã để ở đó. Bây giờ thì không còn nữa! Chỉ có những điểm mốc cho biết là trước đây đã có một hiện diện - Maria Mácđala đứng trước một khoảng trống mênh mông. Những gì bà nhìn thấy lúc này thật khủng khiếp. Điều gì đã xảy ra? Còn đâu những lời hứa Người sẽ sống lại? Lễ Phục sinh khởi đầu trước ngôi mộ trống. Ta không thể tin rằng Người-đang-sống, sống một cách khác, nếu không trải qua khoảng trống này: đoạn tuyệt với sai lầm, từ bỏ mình hoàn toàn, vượt qua khoảng cách thăm thẳm do những sự đời này tạo nên, và cái chết. Phải vượt qua khoảng trống chóng mặt này, phải cảm thấy khao khát một Hiện-diện tuyệt đối, mới có thể nói cho lòng mình, và cho người khác rằng: Đức Giêsu, Người-bị-đóng-đinh vẫn đang sống. Thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi được nhìn thấy bình minh sự sống mới ló dạng sau lúc vượt qua cái không trống rỗng này, và cũng thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi băng qua vực thẳm tối tăm của cái chết người ta lại thấy mình sống trong ánh sáng chan hoà của đời sống phục sinh. Đức Giêsu vắng mặt về thể lý là điều cần thiết để ta gặp gỡ Người Hiện Diện cách khác. Nhờ Người, đời sống thần linh lại được khơi con người. Sự Hiện Diện của Tình yêu là men làm dậy lên một nhân loại mới.
TỪ CHÚA NHẬT NÀY TỚI CHÚA NHẬT KIA,
TỪ NHẬN THỨC ĐẾN TRUYỀN GIÁO. (Ga 20,19-31).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ ngày đầu tuần... Phần đầu của Phúc Âm Chúa nhật này đưa ta đến “sau cái chết của Đức Giêsu, vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần”, ngày quy tụ phụng vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn mà Người quy tụ lại để chia sẻ Lời và Bánh, và để sai họ đi vào thế giới. Các môn đệ quy tụ lại ở cùng một nơi: một kiểu nói mà thánh sử dùng để báo trước tính giáo hội của việc Chúa hiện ra mà ngài sắp tường thuật. Các cửa đều “đóng kín” vì “sợ người Do thái”. Nỗi sự hãi cho đến lúc này vốn bao trùm những người Israel, đến nỗi họ không dám tuyên bố ủng hộ Đức Giêsu, thì từ nay còn là phận của các môn đệ thân tín của Chúa: các ông đang cảm nhận một tâm trạng lo âu sợ hãi mà lát nữa đây ơn bình an sẽ đối nghịch lại và khoả lấp hết. Người ta dễ dàng nhận ra ba tiến trình đặc biệt của những lần gặp gỡ sau phục sinh: Đức Giêsu có sáng kiến (1), Người tự tỏ mình ra cho các môn đệ (2) Người uỷ thác cho các ông một sứ mạng (3). - Sáng kiến của Đức Giêsu: + Đức Giêsu “đến” như vậy là Người thể hiện lời đã hứa với các môn đệ trong bài diễn từ giã biệt: “Thầy sẽ đến cùng anh em” (14,18-28). + Người “đứng giữa các ông”: dịch sát nghĩa là “Người đứng dậy”, chuyển từ trạng thái đang nằm, ý nói là chết sang tư thế thẳng đứng của Đấng phục sinh. + “Chúc anh em được bình an”: đó là những lời đầu tiên Đấng-Hằng-Sống gởi cho các môn đệ của Người đang tu họp. Đây không phải chỉ là lời chào hỏi thông thường “Shalom” của những người Do thái khi gặp nhau. Càng không phải là lời cầu chúc suông, nhưng là ơn huệ mang hiệu quả thực sự của Bình an, đúng như lời Chúa hứa: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy; Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (14,27). - Các môn đệ nhận biết Chúa. Đức Giêsu cho họ xem “tay và cạnh sườn Người” (đối chiếu với ngọn giáo của Gioan (19,34)). Chắc chắn từ nay đã qua rồi thời gian Người hiện diện thể lý, nhưng Đấng đang đứng giữa họ lúc này vẫn là Đức Giêsu, nghĩa là cũng vẫn là Đấng mà họ đã thấy chết và được mai táng, nhưng từ nay đã biến hình đổi dạng nhờ mầu nhiệm Phục sinh. Và trong cái “nhìn thấy” do lòng tin ban cho, các môn đệ “tràn đầy niêm vui” niềm vui bất tận và Chúa đã báo trước cho các ông: “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (16,22). - Trao phó sứ mạng: Việc các môn đệ được gặp Đấng-đang-sống, cùng nhận ra Đấng đã trải qua và chiến thắng vẻ vang cơn thử thách của cái chết trên thập giá, không phải là đã hoàn tất. Cuộc gặp gỡ ấy giờ đây khai mở một sứ mệnh. + Sau khi đã làm mới lại ơn bình an: “Chúc anh em được bình an!”, + Đức Giêsu “thổi hơi vào các ông”, làm lại cử chỉ ban đầu khi tạo dựng con người, giống như trong Sáng thế ký 2,7: ở đây hành động này càng ám chỉ rõ nét là hành động sáng tạo của Chúa, nhất nữa vì đây là lần duy nhất Tân Ước sử dụng cách diễn tả của bản văn Sáng thế ký. Đúng là một cuộc tạo dựng mới. Đức Giêsu vinh hiển thông ban Thần Khí tái sinh cho con người. Khi cho họ được chia sẻ sự hiệp thông với Chúa. “Như (chữ “Như” ở đây không phải chỉ là một so sánh, nhưng ám chỉ một nền tảng, một liên hệ sâu xa) Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”. + Và nếu các môn đệ được sai đi, chính là để loan báo cho “mọi người” tin mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa. X. Léon-Dufour giải thích: “Tha/cầm giữ” là lối văn chương Do thái dùng một cặp từ trái nghĩa nhau để diễn tả một sự trọn vẹn. Ở đây cách diễn tả ấy có nghĩa là trọn vẹn quyền thương xót được Đấng Phục sinh trao ban cho các môn đệ. Thể văn thụ động diễn tảhiệu quảđạt được, đều ngụ ý rằng chính Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn tha thứ; cách dùng thì (động từ) ở quá khứ hoàn thành có nghĩa là ơn tha thứ của Chúa là yếu tố quyết định. Người ta sẽ có thể giải thích một cách rộng rãi là khi cộng đoàn tha thứ, thì chính Thiên Chúa tha thứ vậy” (“Lecture de l'Evangile selon Jean”, quyển IV, Seuil, tháng 11/1996, trang 241).
2. ... đến buổi tụ họp “tám ngày sau”. Lần hiện ra thứ hai đã được tác giả đặt vào “tám ngày sau”, tức Ngày Chúa nhật tiếp đó, ngày mà các Kitô hữu của Gioan quy tụ lại để cử hành Thánh Thể, để chia sẻ Bánh và Lời như chúng tôi đã viết ở trên. Ngày đó trong sách Khải Huyền, cũng được gọi là “Ngày của Chúa”. Đó là ngày tưởng niệm mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô. Ông Tôma, được tác giả báo trước, “không có mặt khi Đức Giêsu đến”. Độc giả của Phúc Âm thứ tư đồng hoá mình ngay với Tôma, bởi lẽ chính người ấy cũng được mời gọi chỉ dựa vào nguyên chứng từ của các Tông Đồ mà có được niềm tin phục sinh: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”. Ngay lập tức, Tôma từ chối nhận chứng từ của cộng đoàn; ông đòi xem tận mắt, sờ tận tay, tự mình xác minh thì mới tin: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Thế là diễn ra lần hiện ra thứ hai của Đức Giêsu được mô tả cùng một kiểu cách như lần trước. Đức Giêsu lại hiện đến, mặc dầu các cửa đều “đóng kín”. Một lần nữa Người nói lời cầu chúc bình an cho các môn đệ, lời mang ơn cứu độ của phục sinh: “Chúc anh em được bình an!”. Người cho Tôma xem tay và cạnh sườn như để nhấn mạnh cho ông hiểu rằng Đấng bị đóng đinh xưa với Đấng nay được vinh hiển cũng là một. Giữa hai tình trạng đó vẫn có sự nối kết và liên tục. Rồi Người bảo ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng tin nữa, những hãy tin”. Tác giả chẳng cần nói đến chuyện người môn đệ kia không còn nghĩ đến việc đưa bàn tay ra để sờ và đặt vào cạnh sườn Chúa nữa. Ông kể lại phản ứng tức thời của Tôma là thay đổi hẳn thái độ; con người ấy một khi đã vấp phải chướng ngại là cái chết, thì giờ đây công khai tuyên xưng niềm tin tuyệt đối: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”, trong tư cách là người phát ngôn của cộng đoàn Kitô hữu. Độc giả nào tự cho mình có thái độ như thái độ đầu tiên của Tôma đều được mời gọi thực hiện một sự trở lại tương tự.
3. ... Cho tới Chúa nhật hôm nay, ngày chúng ta tụ họp. Câu chuyện Đức Giêsu hiện ra kết thúc bằng một mối phúc hứa ban cho tất cả. Những ai đang sống vào thời không còn sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô, cũng hứa ban cho chính chúng ta, những con người hôm nay đang tụ họp nhân danh Người: “Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc”. X. Léon Dufour kết luận: “Lời hứa này không còn liên quan tới Tôma nữa, nhưng là nhắm đến các môn đệ tương lai (...). Cộng đoàn Kitô hữu hôm nay không có gì phải nuối tiếc về khoảng cách và sự khác biệt về hoàn cảnh sống của mình. Nếu cách thức cộng đoàn tiếp cận niềm tin không giống như các tông đồ trước đây, thì những ai đang và sau này “không thấy” mà tin, chính họ là người “có phúc” vậy. Kinh nghiệm mà những chứng nhân tận mắt được hưởng là kinh nghiệm làm nền và không thể được tái diễn: kinh nghiệm ấy được ban cho họ không chỉ vì họ mà thôi, nhưng còn vì những thế hệ tương lai mà lòng tin sẽ dựa vào lời chứng được truyền lại cùng với sức mạnh của Thánh Thần, chứ không dựa vào những dấu chỉ cụ thể về sự Chúa hiện diện (...). Xuyên qua các môn đệ đang đứng trước mặt Người lúc đó, Đức Giêsu hướng chú ý của Người tới tất cả những ai sẽ nối tiếp các ngài sau này, tới tất cả con cái Thiên Chúa mà Người đã đến quy tụ lại nên một; vào buổi chiều lễ Vượt qua, Đức Giêsu há đã chẳng nói với các môn đệ của Người rằng sứ mạng của các ông từ nay sẽ diễn tả và nối dài sứ mạng của Người đó sao? Giờ đây lòng trí Người hẳn đang nghĩ tới những ai sẽ là thành quả của sứ mạng được sai đi rao giảng và làm chứng này. Cuộc gặp gỡ của Đấng-đang-sống với các môn đệ của Người không kết thúc bằng sự nghỉ ngơi (...). Cuộc gặp gỡ ấy vẫn luôn là một khai mở hướng về một tương lai vô tận trong niềm hân hoan tồn tại dù khi các chứng nhân tận mắt không còn nữa. Đó là điều đã được diễn tả khéo léo trong thư thánh Phêrô: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt, mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả” (1Pr 1,8-9)”. (O.C., trang 251-252).
II. BÀI ĐỌC THÊM. Từ những lần Đức Kitô hiện ra đến việc Người loan báo (G.Bessière, trong “Thiên Chúa rất gần, Năm A”, Desclée de Brouwer, trang 53-54). “Lời Chúa nói với Tôma: “Vì anh đã thấy Thầy, nên anh mới tin. Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc” không đặt Tôma vào vị trí đối lập với các tông đồ khác. Lời đó phân biệt ra hai lớp người tin: thế hệ các chứng nhân trực tiếp về đời sống Đức Giêsu và đông đảo các tín hữu sau này không được biết trực tiếp Đức Giêsu. Chế độ thông thường của đức tin sẽ là như vậy. Câu chuyện kể về ông Tôma đánh dấu sự chuyển đổi từ những lần Đức Kitô “hiện ra” đến việc Người “loan báo”. Từ nay chứng từ phải khơi gợi nên sự gắn bó với “con đường” là chính Đức Giêsu. Ta sẽ gặp lại Người đang khi cùng với các anh em bước theo Người trên con đường ấy, và đang khi sống chan hoà tình cảm tạ, tình huynh đệ, tình hoà hảo, là những dấu chỉ thâm sâu của Chúa Thánh Thần. Nhiều người vẫn muốn tìm kiếm những biến cố lạ thường, những dấu hiệu giật gân thuộc loại được Chúa hiện ra hoặc được thị kiến mà chẳng mấy khi quan tâm đến Phúc Âm của Đức Giêsu, hay đời sống của các Kitô hữu, cùng tất cả những gì Chúa làm trong cuộc sống đời thường của con người. “Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc”: Tin là ngày qua ngày đi theo Đức Kitô phục sinh đồng thời đón nhận ơn Người thúc đẩy biến đổi đời mình theo lòng mong ước của Chúa Cha vậy”. CHÚA NHẬT III PHỤC SINH
ĐỨC GIÊSU HOÀN TẤT LỜI KINH THÁNH (Lc 24,35-48).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ kinh ngạc, sợ hãi đến niềm vui. Cũng như Chúa nhật I và II Phục sinh, theo thông lệ hằng năm, Tin Mừng Chúa nhật thứ III này tường thuật Đấng Phục sinh hiện ra. Câu chuyện bắt đầu từ sau chuyến hai môn đệ Emmau trở về. Họ vừa kể “cho 11 Tông đồ và cho các môn đệ những gì đã xảy ra trên đường và họ đã nhận ra Người thế nào khi Người bẻ bánh”, thì Đức Giêsu lại một lần nữa hiện đến với các môn đệ. Ở đây ta gặp lại 3 phần tiêu biểu của các cuộc hiện ra sau Phục sinh: 1- Đức Giêsu có sáng kiến; 2- Người tự tỏ mình ra; 3- Người uỷ thác cho họ một sứ mệnh. Tin Mừng kể: “Khi ông còn đang nói thì Người đã đến giữa họ”. Người ban cho họ ơn bình an, một ơn của triều đại Cứu Thế. “Bình an cho các con”. Cuộc hiện ra bất ngờ và lời chào của Người khiến ho “kinh ngạc và sợ hãi, vì họ tưởng là thấy ma hiện hình”. Họ đã phải sóng giây phút khó khăn của cuộc quá độ từ bất tín đến chân nhận. 2. Từ khổ đau đến cuộc sống mới của Đức Mêsia Thoạt tiên Đức Giêsu mở lời. Kèm theo lại là một cử chỉ. Rồi Người ăn trước mặt họ. Sau đó Người khai lòng mở trí để họ am hiểu Thánh Kinh. - Trước hết, Người cho họ xem “tay”, “chân” và nói: “Tại sao các con sợ hãi?... Hãy chạm vào Thầy: ma đâu có xương thịt như Thầy”. Họ hoàn toàn không phải là nạn nhân của một ảo tưởng tập thể. Cũng vẫn là người ấy, Đấng chịu đóng đinh, nhưng đến gặp họ trong một điều kiện khác, điều kiện của Đấng Phục sinh: “Chính là Thầy đây!”. Roland Meynet chú giải: “Đấng hiện ra với các môn đệ không phải là một xác chết hiện hình, cũng không phải là hồn ma bóng quế. Đó chính là Đức Giêsu, Người đã từng ăn uống với họ, tay Người đã từng đụng chạm đến họ trước khi chịu khổ hình... Hoàn toàn không phải là một ảo ảnh... họ có thể thấy Người, đụng chạm đến Người cơ mà. Đúng là người. Nhưng cơ thể Đức Giêsu không còn là cơ thể trước ngày vào cuộc khổ nạn. Người có cho họ xem tay, chân cũng chỉ vì tay chân còn hằn dấu đinh. Dấu hiệu ấy cốt để họ xác minh mà vững lòng tin tưởng. Phục sinh không xoá hết dấu vết khổ nạn. Đức Kitô mãi mãi vẫn là Đấng Mêsia chịu đóng đinh” (“Tin Mừng thánh Luca”, Phân tích từ ngữ, chú giải, Cerf, trang 238). - Vì các môn đệ “trong niềm vui tột đỉnh, vẫn chưa dám tin, vẫn còn sững người kinh ngạc”, Đức Giêsu bèn hỏi xin họ “cho ăn”. Người ăn “một miếng cá nướng”. Người không ăn với họ, nhưng trước mặt họ. Theo phong tục Đông phương, người khách được trọng vọng sẽ ăn một mình trước mặt những kẻ cung nghinh hầu cận. Khi đưa ra chi tiết Đức Giêsu ăn trước mặt môn đệ, tác giả Tin Mừng muốn minh hoạ thực tại của biến cố Phục sinh. Tuy nhiên, sáng kiến này của Đức Giêsu dường như không “ép phê” bằng lần trước: các môn đệ chỉ đáp lại bằng sự im lặng. - Sau cùng, Đức Giêsu giúp các môn đệ đang hội họp ở đó đọc lại Cuộc Khổ Nạn-Phục Sinh của Người dưới ánh sáng Thánh Kinh, như Người đã làm với hai môn đệ trên đường đi Emmau: “Cần phải ứng nghiệm tất cả những gì đã chép về Thầy trong sách Lề Luật của Môsê; các sách Ngôn Sứ và Thánh vịnh. Và Người soi lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh”. R.Meynet bình giải: “Kinh Thánh, trọn bộ Kinh Thánh, đều nói về Đức Giêsu. Kinh Thánh loan báo những việc Người sẽ làm và những việc các môn đệ sẽ làm nhân danh Người. Đức Giêsu chẳng nói gì ngoài những điều Kinh Thánh đã nói, nhưng Người không chỉ lặp lại và chú giải Kinh Thánh như các Luật sĩ thường làm. Người hành xử Kinh Thánh. Người thực hiện Kinh Thánh. Người hoàn tất Kinh Thánh. Chính vì Người hoàn tất Kinh Thánh mà Người có thể giải thích Kinh Thánh cho người ta hiểu. Rồi đến phiên các môn đệ, họ sẽ phải công bố rằng Đức Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh Thánh. Các môn đệ công bố điều này khi chính bản thân các ông hoàn tất lời Kinh Thánh và khi các ông làm cho Kinh Thánh được hoàn tất nơi những người mà các ông được sai đến, cho đến tận cùng trái đất” (Sđd, trang 238).
3. Từ chân nhận đến sứ mệnh phổ quát: Một lần nữa, cuộc gặp gỡ không kết thúc ở thái độ chân nhận, nhưng vươn tới một sứ mệnh. Sứ mệnh mà Đức Giêsu ký thác cho các môn đệ, trước khi chuẩn bị họ (câu 51), sứ mệnh mà nhờ đó họ được ban một “sức mạnh từ trên cao” (câu 49), tóm kết trong câu nói sẽ trở thành cốt lõi cho lời rao giảng của Giáo Hội sơ khai (xem bài giảng của Phêrô trong Công Vụ các tông đồ: đặc biệt bài đọc 1 ngày lễ Phục sinh và Chúa nhật 3 Phục sinh): “Đúng như lời Kinh Thánh đã loan báo về: + Những đau khổ của Đức Mêsia, việc Người phục sinh từ trong cõi chết, vào ngày thứ 3. + Công bố sự hoàn cải nhân danh Người để được tha thứ tội lỗi cho mọi dân tộc, khởi đi từ Giêrusalem. + Chính các con là chứng nhân cho những điều đó”. Như thế việc Đức Giêsu phục sinh đã kết thúc bằng mặc khải mầu nhiệm của Người: Người là Đức Kitô được các ngôn sứ loan báo, được tôn vinh trên cái chết, từ nay hiện diện trong Giáo Hội nơi Người hứa ban ơn tha tội cho mọi người. Lời rao giảng ơn hoán cải và sự tha thứ tội khiên đã được Gioan Tẩy Giả bắt đầu cho nhà Israel, từ nay lan toả đến “mọi dân tộc”. Sứ mệnh phổ quát ấy, sự hoàn thành ý định cứu độ của Thiên Chúa ấy, nay được ký thác cho cộng đoàn các môn đệ.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Những kinh nghiệm đầu tiên giúp các Kitô hữu hiểu những kinh nghiệm họ phải sống hôm nay” (L.Monloubou, trong “Tin Mừng theo thánh Luca”, Salvator, trang 286-287). Câu đầu tiên (35) nhắc ta nhớ chính vào lúc “bẻ bánh” mà các lữ khách làng Emmau “nhận ra Đức Giêsu”: chắc hẳn trong tâm tưởng, thánh Luca muốn qui chiếu việc bẻ bánh về bí tích Thánh Thể, nơi các Kitô hữu “nhận ra” Đức Giêsu phục sinh và hằng sống. Xa hơn nữa, bản văn nói về việc “khai mở lòng trí” mà Đức Giêsu thông truyền cho các môn đệ. Người cũng trình bày cho họ một lối “hiểu Kinh Thánh” mới. Ta thấy rất rõ cuộc khám phá mà cộng đoàn thực hiện tỷ lệ thuận với việc đào sâu niềm tin phục sinh: cộng đoàn đạt tới một mức độ thấu hiểu sự vật, khiến sự vật hiện ra trong một chuỗi những liên kết rất mạch lạc, hiển nhiên; thoạt tiên Kinh Thánh hiện ra dưới một nhãn quan khác: Lề Luật của Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh xem ra chứa đựng một ý nghĩa mà từ trước đến giờ chưa được hiểu cho thấu đáo. Ý nghĩa ấy nối kết Kinh Thánh thành một chuỗi mạch lạc khiến đức tin tìm được điểm tựa. Sau cùng bản văn kết thúc bằng cách đề ra một kinh nghiệm truyền giáo: nhân danh Đức Giêsu phục sinh, hằng sống, phải rao giảng cho “mọi dân tộc, bắt đầu từ Giêrusalem”, “sự ăn năn thống hối để được thứ tha tội lỗi”. Ba điểm: kinh nghiệm Thánh Thể, giải thích Kinh Thánh mang mầu sắc Kitô học và sự rao giảng phổ quát, được trình bày ở đây như những nối tiếp khẩn thiết của cảm nghiệm phục sinh. Đối với các bạn đồng hành của Luca, đó là những thực tại đã được ghi nhận cách sâu sắc, đã được sống và đã cảm nghiệm. Sự kiện này quan trọng; nó cho biết nơi chốn các Kitô hữu nói về cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Không phải trong một khoá học về lịch sử Đức Giêsu, dù lịch sử là nền tảng của suy tư; nhưng là trong lúc suy niệm về đời sống hiện tại của Giáo Hội. Giáo Hội ấy quây quần đọc Kinh Thánh: Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh, để tưởng nhớ những lời nói của Đức Giêsu: “đó là những lời mà Thầy đã nói với anh em”, để cử hành “việc bẻ bánh”; và để đảm nhận những nhiệm vụ truyền giáo, Giáo Hội ấy đã ý thức về việc sống một kinh nghiệm: Đức Giêsu “đích thân đứng giữa họ” Người đang sống. Cộng đoàn ấy vẫn còn có nghi ngờ, nhưng đức tin của cộng đoàn là sâu sắc. Cảm nghiệm đó là gì mà đem đến cho mọi người niềm vui khôn tả như thế? Đó là cảm nghiệm về Đấng Phục sinh mà các môn đệ là những người đầu tiên đã cảm. Bản thân các ngài đã tham dự vào lời bữa ăn của Đức Giêsu, đã thiết lập được mối liên hệ giữa Kinh Thánh với “những gì đã xảy ra tại Giêrusalem... những gì đã xảy đến với Đức Giêsu, người Nagiarét”, và các ngài đã khám phá ra tầm mức phổ quát của sự Phục Sinh mà các ngài phải loan báo cho thế giới. Chính các ngài, đoàn Mười Một đã trải qua những kinh nghiệm đầu tiên, nhờ đó các Kitô hữu thấu hiểu kinh nghiệm mà họ phải sống hôm nay”.
2. Người khai mở lòng trí cho họ am hiểu Kinh Thánh (H.Vulliez, trong “Thiên Chúa đã gần đến”. Năm B, DDB trang 57-58). Bạn có chú ý không? Trong cả 3 trình thuật của thánh Luca về việc Đức Kitô Phục sinh hiện ra, thì hai bài, bài các môn đệ Emmau và bài hôm nay đều kết thúc bằng việc đọc Kinh Thánh mà Đức Giêsu chú giải. Dường như, trong cả hai trường hợp, cuộc hiện hình không đủ đưa đến đức tin. Dường như tác giả muốn tránh nguy cơ chỉ dừng lại và chỉ gắn bó vào những gì lạ thường. Dường như chỉ có thể tin vào Đức Giêsu vẫn đang sống sau khi chết nhờ đặt Người ra ngoài vòng lịch sử nhân loại. Ta có tin rằng sự hiểu biết Kinh Thánh cách nghiêm túc là rất cần thiết để tin, không phải vào một Đức Giêsu ta tưởng tượng ra, nhưng vào Đấng mà Tin Mừng mặc khải cho ta, Đấng mà Chúa Cha đã sai đến với con người để trở thành người - Chúa với họ vĩnh viễn không?”.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Giữa cuộc luận chiến về căn tính. Chúng ta đang trong bối cảnh lễ Lều, với 2 nghi lễ độc đáo: thắp sáng Đền Thờ và rước đuốc ban đêm; đoàn rước các tư tế tới múc nước ở giếng Siloê về đổ trên bàn thờ trong Đền Thờ. Chính trong khung cảnh lễ này mà Đức Giêsu đã chọc giận các đối thủ đang tìm bắt Người, khi tự giới thiệu là Người được Thiên Chúa sai đến thực hiện nơi bản thân điều mà nghi lễ loan báo: Khi lễ Lều kết thúc, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai khát hãy đến cùng Ta và hãy uống” (7,37-38). Kế đó, Người nói với người Do Thái: “Ta là ánh sáng trần gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ được ánh sáng cho cuộc đời” (8,12). Ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu gặp trên đường một người mù từ mới sinh. Người truyền cho anh: “Hãy đi rửa ở suối Siloê”. Người mù đi rửa và anh đã nhìn thấy. Bị những người Biệt phái làm khó dễ, nguyền rủa, sau cùng, bị trục xuất khỏi Hội đường, người mù đã sáng lại gặp Đức Giêsu, anh nhận ra Người là “Con Người: “Lạy Thầy, tôi tin”. Anh quỳ xuống trước mặt Người mà tuyên xưng. Anh giống như con chiên đầu tiên của đoàn chiên mới được vị Mục Tử Tốt Lành qui tụ lại (9,35-38).
2. Đức Giêsu tự giới thiệu là vị Mục Tử cứu thế. Đức Giêsu vẫn đang nói với người Biệt phái. Người đã đối chiếu bọn “trộm cướp”, chúng “theo ngã khác leo vào” chuồng chiên với vị mục tử đích thực “theo cửa chính mà vào, gọi tên từng con và cho chúng ra ngoài” (10,1-6). Đối với các thính giả tìm lương thực nơi Kinh Thánh, hình ảnh về người mục tử cứu thế được Thiên Chúa sai đến, dẫn đầu đoàn chiên trong cuộc Xuất hành mới thật là dễ hiểu. Trước sự chậm hiểu của những người Biệt phái, Đức Giêsu tự nhận là “cửa chuồng chiên” (10,7-10) trước khi tuyên bố công khai: “Ta là mục tử tốt lành (người chăn chiên đích thực)”; không phải theo nghĩa nhẹ nhàng bóng bẩy, mà theo nghĩa trọn vẹn của chức năng, thể hiện trọn vẹn sứ mệnh mục vụ. - Người “chăn thuê”, chẳng khi nào chịu liều mình cho đoàn chiên vì chiên đâu phải của họ: vừa có biến là họ đào tẩu bỏ mặc đàn chiên không ai bảo vệ. Đức Giêsu, “vị mục tử tốt lành”, cũng giống như chàng mục tử Đavid nhỏ nhắn ngày xưa dám cống hiến cả mạng sống để bảo vệ đàn chiên của cha già Jessê (1Sam 17,31), không sợ “nguy nan” hay “thiệt mạng”. - Khác với người “chăn thuê”, coi “chiên chẳng ra gì”, Đức Giêsu, vị “mục tử tốt lành”, “biết chiên và chiên biết Người, như Cha biết Người và Người biết Cha”. Người gắn bó với họ bằng sợi dây yêu thương theo khuôn mẫu và khơi nguồn từ tình yêu trao đổi giữa Chúa Cha và Chúa Con.
3. Đến qui tụ đoàn chiên vượt qua mọi biên giới. - Bỗng chốc chân trời mở rộng vượt khỏi những giới hạn chật hẹp của “chuồng chiên” Do Thái, vươn tới những “con chiên khác” mà Đức Giêsu phải dẫn đưa về, để chỉ còn “một đàn chiên và một chủ chiên”. A.Marchadour chú giải: “Lời Đức Giêsu phá vỡ hoàn cảnh lịch sử, bao gồm cả những tín hữu đến từ thế giới dân ngoại, nhờ các tông đồ mà tin nhận Người (17,20). Thời sau hết, mọi tín hữu sẽ qui tụ chung quanh Đức Giêsu và lời Người. Sự hiệp nhất đáng mong ước này được trao ban trong cuộc Tử Nạn của Đức Giêsu (11,52); Sự hiệp nhất ấy có nguồn gốc nơi sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đó là một cuộc chinh phục đầy gian nan mà Đức Giêsu đã quan tâm cầu khẩn trước khi Người về cùng Cha (17,21)” (Tin Mừng theo thánh Gioan, Centurion, trang 144). - Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng một câu nói lên sự viên mãn đến lạ lùng, qua đó, dưới ánh sáng của mối thân tình giữa Người và Chúa Cha, Đức Giêsu bộc lộ ý nghĩa của đời sống và cái chết của Người. Khi trao ban mạng sống của Người, đúng hơn “phó thác mạng sống” trong một hành vi vừa tự do tuyệt đối (“Mạng sống Ta... không ai lấy được: chính Ta tự trao ban”) vừa hoàn toàn vâng phục Chúa Cha (“Đây là lệnh truyền Ta đã nhận từ Cha”), Đức Giêsu, Chúa Con, bày tỏ ở mức hoàn hảo nhất tình yêu của Chúa Cha muốn cứu độ toàn thể nhân loại. A.Marchadour nhận xét: “Được đặt ở khởi đầu và kết thúc, Chúa Cha xuất hiện như nguồn mạch và cùng đích cho mọi hoạt động của Đức Giêsu. Tất cả đến từ Người: lệnh truyền chẳng gì khác hơn là sự bày tỏ tình yêu. Cái chết, dưới ngòi bút sống động của Gioan, được trình bày như một hành vi tuyệt đối tự do trong đó Đức Giêsu hoàn tất lệnh truyền yêu thương của Chúa Cha. Ngay cả trong cái chết, giờ phút mà con người thường bị truấtquyền làm chủ mạng sống, Đức Giêsu vẫn làm chủ, vì Người hoàn tất điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu, muốn để đem sự sống đến cho con người” (Sđd, trang 144-145).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. Dung mạo đích thực của Giáo Hội (L.Sintas, trong “Lời Chúa để suy niệm và giảng. Năm B”, Médiaspaul, trang 55). “Ta còn những chiên khác chưa thuộc đàn này”. Đó là dung mạo đích thực của Giáo Hội. Giáo Hội là truyền giáo. Nếu không Giáo Hội sẽ chẳng còn là Giáo Hội nữa. Hoặc sẽ là Giáo Hội của những Người được sai đi (Tông đồ) hoặc sẽ chẳng còn là Kitô hữu nữa. Chúng ta, bạn và tôi, hôm nay, phải thi hành điều mà các Tông đồ đã làm vào thời các ngài. Các ngài đã để Mầu nhiệm phục sinh biến đổi mình. Các ngài đã hiểu rằng, nhờ Bí tích Thánh Thể và qua các ngài, nhân tính Chúa lại hiện diện nhiều hơn nữa. Các ngài đã hiểu rằng Người muốn nhờ các ngài đem đến cùng tận địa cầu, cũng như nhờ chúng ta đem đến tận cùng thời gian, ơn cứu độ mà trong 33 năm, Người đã đem tới cho những người sống cùng thời với Người. Từ nay, chính nhờ đôi mắt ta mà Đức Kitô có thể nhìn thấy những khổ đau của nhân loại, chính nhờ đôi chân ta mà Đức Kitô có thể đi đến gặp gỡ con người trong đau thương hay trong lầm lạc, chính nhờ trái tim ta mà Người có thể yêu thương thế giới hiện đại. Chính qua bản thân ta mà Đức Giêsu Cứu Thế muốn trao ban sự sống của Người, sự sống của ta. Như thế, trở về chuồng chiên không còn là cứ giữ nguyên lốt chiên, nhưng là trở nên, qua ơn gọi, chính Vị Mục Tử Tốt Lành đi tìm con chiên lạc đàn. Nói về ơn gọi là nói về cuộc chuyển hoán, cuộc đổi đời quyết liệt của tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Ơn gọi này đòi buộc ta phải giã từ thân phận của những kẻ tiêu thụ thuần tuý, chỉ biết đòi hỏi trong Giáo Hội. Ta phải trở nên thân thể Đức Kitô. Ta phải là bóng hình của Người. Mỗi người ở địa vị mình, đều được kêu gọi vào những công việc khác nhau, để thực sự trở thành những Mục tử Tốt lành cho con người thời nay”.
2. “Tình yêu, con đường duy nhất để đến với thế giới bất tín” (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu dành cho ngày Ơn thiên triệu). “... Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấn thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại, mà con người đã khước từ Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu, mọi linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu. (...) Thánh Phanxicô đệ Salê đã nói: “Tất cả đều dành cho tình yêu, đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu, và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo Hội”. Nhưng cái chân lý cao cả ấy hầu như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chặn. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hôn thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính chị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phu. “Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”, thế là đã rõ, một xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thấy kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (...). Thánh nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Công Đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc “Giáo Hội thời Công Đồng đã làm gì?”. Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14/9/1965: “Giáo Hội yêu. Giáo Hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đại kết, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người, kể cả những người bắt bớ Giáo Hội”. Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: “Giáo Hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu”. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương. Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm linh mục trên khắp thế giới. Những linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo Hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiêm niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các linh mục, đặc biệt là những linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo Hội (...). Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo. Trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Người yêu ta (...). Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa: “Chị nói gì với Đức Giêsu?”. Chị thánh trả lời: “Em không nói gì hết, em yêu Người”. Chỉ tình yêu là quan trọng.
3. “Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu” (Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Uỷ ban quốc gia về ơn thiên triệu.) “... Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ... tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy... Đức Ái đã cho con chìa khoá ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu Giáo Hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là TRÁI TIM, và TRÁI TIM đó cháy đỏ TÌNH YÊU. Con hiểu rằng chỉ có Tình Yêu mới làm cho các chi thể của Giáo Hội hoạt động, và nếu Tình Yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin Mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu... Con hiểu rằng TÌNH YÊU phủ trùm lên mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả, bao gồm mọi không gian và mọi thời gian... Tắt một lời, Tình Yêu là vĩnh cửu!. Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên: “Ôi Giêsu, Tình Yêu của con... ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là TÌNH YÊU!... Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo Hội. Chỗ ấy, ôi lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con... trong Trái Tim Giáo Hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình Yêu... như thế con sẽ là tất cả... như thế giấc mơ của con đã thành hiện thực!!!...”.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ Israel, một dân đã không sinh hoa kết quả như mong đợi... Với nông dân vùng Palestine thời đó, cây nho là tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier cảnh giác: “Để có một ý niệm về cây nho ở Israel và trong những vùng phụ cận nắng cháy, chiêm ngắm những vườn nho vùng Bourgogne hay Bordeaux chẳng ích lợi gì. Những gốc nho ôn đới chẳng có gì giống với gốc nho vùng Palestine vốn lớn như cổ thụ xum xuê cành lá chứ không phải là những thân nho được cắt tỉa kỹ lưỡng và nhỏ xíu. Phải biết rằng cả một thang lầu trong đền thờ thần Diana ở Êphêsô tạc từ một gốc nho duy nhất mang về từ đảo Chypre. Nếu không nhớ đến vẻoai nghi hùng tráng đó, sẽ không tài nào hiểu nổi một thành ngữ rất thông dụng trong Thánh Kinh “nghỉ dưới gốc nho” (1V 4,25; Mk 4,4; vv)” (“Đức Giêsu ở giữa dân Người” (“Đọc Thánh Kinh” số 78, trang 54). Chẳng lạ gì cây nho, đã trở thành biểu tượng của sự phú túc và sự hào phóng của Thiên Chúa, rất thường được Kinh Thánh dùng như hình ảnh để chỉ Dân Thiên Chúa đã chọn và đã kết dệt những mối liên hệ yêu thương và âu yếm. O-sê đã chẳng miêu tả Israel như một “cây nho xum xuê nặng trĩu quả” đó sao? (Hs 10,1). Thánh vịnh 79 đã chẳng nài van Chúa cho cây nho mà Chúa đã bứng từ Ai Cập và trồng trên thửa đất đã cày cuốc cẩn thận, “để nó làm đẹp cho xứ sở và vươn cành ra đến tận biển khơi” đó sao? (Tv 79,10-12). Riêng Israel, trong bài ca cây nho thời danh được Thiên Chúa yêu thương dành cho mọi ưu đãi, đã chẳng tuyên xưng: “Tôi sẽ hát cho bạn nghe bài ca của người yêu dấu với cây nho của mình...” (Is 5,1) đó sao?
2. ... Đến Đức Giêsu, “cây nho thật”. Nếu một lần nữa, Đức Giêsu trở về với biểu tượng cây nho, đó là để thực hiện một chuyển vị táo bạo: Người tuyên bố: “Thầy là cây nho thật, các con là cành nho”. - Khi xưng mình là “cây nho thật”, Đức Giêsu tự giới thiệu mình là người đến để đáp lại sự mong đợi của Thiên Chúa, người mà vì yêu đã tự nguyện hiến ban sự sống của mình, nên đã sinh hoa trái “làm tôn vinh Chúa Cha”. - Những chăm nom săn sóc của “Chúa Cha chủ vườn nho” đối với cây nho cho thấy sáng kiến của Chúa Cha, tình yêu ưu ái Người dành cho Đức Giêsu, những mối dây duy nhất nối kết Chúa Cha với Chúa Con. - Còn về những “cành nho-môn đệ”, phát xuất từ thân nho, chỉ có thể được nuôi dưỡng bằng dòng nhựa chảy ra từ thân nho, chỉ có thể được sinh động nhờ sự sống của thân cây, để sinh hoa kết quả làm tôn vinh Chúa Cha, nếu chúng “ở lại” trong Người. “Ở lại trong Người”: thực vậy, đó là điều kiện không thể thiếu đối với sự sống của các môn đệ-cành nho, Người quả quyết: “vì ngoài Thầy, các con không làm gì được”, “ở lại trong Người” là kết hiệp với Người bằng những mối dây tình yêu và sự sống, là nhờ Người mà được dẫn đến kết hiệp với Chúa Cha (xem Ga 6,56 và 14,23). Tách mình khỏi thân Nho thật, xa lìa Đức Giêsu, là dấn thân vào chỗ chết: “Nếu ai không ở trong Thầy, người ấy sẽ giống như cành nho bị ném ra ngoài và chúng khô héo đi. người ta sẽ lượm những cành khô và liệng vào lửa và chúng sẽ cháy”. Sự gắn bó với Đức Kitô, nếu đúng, nếu thực, sẽ được phiên dịch ra thành những sử sự cụ thể. Sự gắn bó ấy được kiểm chứng nơi những hoa trái phát sinh: “Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái”. Thử thách, bắt bớ sẽ là những trắc nghiệm về lòng son sắt và bảo đảm cho hoa trái dồi dào. Như thế, vinh quang của Chúa Cha, đã biểu lộ ra nơi Đức Giêsu, cũng sẽ biểu lộ ra nơi những ai trổ sinh hoa trái bác ái nhờ kết hiệp, gắn bó với Đức Giêsu: “Điều làm vinh danh Cha Thầy, là các con sinh nhiều hoa trái: như thế, các con sẽ là môn đệ của Thầy”. Nên, X.Léon-Dufour đã cảm nhận: “Môn đệ không chỉ là người thụ hưởng hoạt động của Chúa Con, nhưng còn tham dự vào hoạt động đó, là đồng tác giả của những kết quả đó. Kết quả đó chưa có, sẽ có, nếu các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Giêsu. Kết quả đó sẽ làm vinh danh Chúa Cha”. (Sđd, trang 168). Việc đưa hình ảnh Cây Nho vào diễn từ sau bữa Tiệc ly củng cố thêm âm hưởng phụng vụ và thánh thể của nó. Cần phải liên hệ hình ảnh này với lời Đức Giêsu ở Ga 12,24: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó mục nát đi, nó mới sinh nhiều bông hạt”. Chỉ có 2 đoạn Tin Mừng Ga (12,24 và 15,5) nói rõ: “Sinh nhiều hoa trái”. Như thế chủ đề cây nho và chủ đề hạt lúa bổ túc cho nhau và là nền tảng của những yếu tố chính yếu trong bữa tiệc thánh thể: rượu và bánh. Phải chăng Gioan đã chủ ý tìm kiếm hiệu quả này? Dù sao, hình ảnh cây Nho, được tuyên xưng trong những buổi qui tụ có tính cách phụng vụ thời những thế kỷ đầu tiên cũng như trong các buổi qui tụ ngày nay, vẫn mời gọi các Kitô hữu thấu hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm mà họ đang sống khi cử hành bí tích Thánh Thể.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Hoa trái xum xuê” (Mgr. L. Daloz, trong “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”, DDB, trang 192). Nếu ta gắn bó với Người, Đức Giêsu sẽ cho ta hoa trái xum xuê như Người đã hứa: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh hoa trái xum xuê”. Đời ta có thể nên phong phú nhờ sự phong phú của Thiên Chúa. Ta nên những môn đệ đích thực và ta làm vinh danh Chúa Cha. Lời cầu của ta cũng tương tự lời cầu của Đức Giêsu, Người biết Chúa Cha luôn nhận lời Người: “Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con các con hãy xin điều các con muốn và các con sẽ được như ý”. Ta có thể xin gì khác hơn thánh ý Chúa Cha? Người môn đệ đích thực của Đức Giêsu không đơn thuần là kẻ đi theo Người. Trong anh ta, chính Đức Giêsu ngự đến sống đời sống của anh, biến đổi đời sống ấy và làm cho nên phong phú. Thánh Phaolô sẽ nói: “Không phải tôi sống, chính Đức Kitô sống trong tôi”. Môn đệ là người “mang Đức Kitô”. Nếu môn đệ trung tín với lời Người, anh sẽ nối dài sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu trên trần gian. Tim anh sẽ đập cũng một tình yêu đó, đời anh sẽ dâng lên Chúa Cha cũng niềm vinh danh đó, lời anh sẽ loan báo cũng Tin Mừng đó, cử chỉ anh sẽ phiên dịch cũng ơn cứu độ đó. Bây không phải là bắt chước: nhưng là một chuyển biến sâu xa. Chính Thiên Chúa sinh hoa kết quả xuyên qua hoạt động của anh. Chẳng đời nào ta dám tưởng tượng ra một sự thân thiết thâm sâu dường ấy! Nên Đức Giêsu đã phải nhấn mạnh, nhắc đi nhắc lại để hiểu hơn: “Ngoài Thầy, các con không làm được gì”. Ta rất dễ bị cám dỗ chiếm hữu lời Người, dùng lời Người để tự mình hướng dẫn đời sống mình, để tự ta thấy trước những hoa trái ta muốn có... Thực ra, nếu ta là những môn đệ đích thực, thì chính Lời Đức Giêsu sẽ nắm lấy ta, sẽ cắt tỉa ta. Khi ấy, cuộc đời ta sẽ biến đổi, nhựa sống của cây nho thật sẽ căng phồng lên ở các cành nho của ta và sản sinh trong ta hoa trái xum xuê”.
2. “Thánh Thể, bí tích gắn bó ta với cây nho của Chúa” (“Sách lễ Emmaus các ngày Chúa nhật”, trang 546-547). Qua việc rước lễ mùa Phục sinh, Giáo Hội mời gọi ta đóng ấn sự ta gắn bó với cộng đoàn Giáo Hội. Cách chung, đó là ý nghĩa sự hiệp thông. Nhưng khi tham dự tiệc Thánh Thể, ta có thực sự tiếp nhận được nhựa sống, tên gọi khác của ân sủng mà Chúa Giêsu muốn dùng để làm cho ta được sống không? Ta có thực sự để Thiên Chúa “cắt tỉa” đời ta không? Vậy mà đó là điều kiện để cho chính bản thân ta trở nên Thánh Thể, tạ ơn Chúa”.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. "Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em...”. Bài Tin Mừng trích trong chương 15 của thánh Gioan nối tiếp đoạn Tin Mừng tuần trước. Như bức tranh in chìm trong giấy, biểu tượng Cây Nho chỉ tái hiện vào cuối đoạn Tin Mừng. Nó nhường chỗ cho điều làm nền tảng cho nó: Tình yêu phát nguồn từ Chúa Cha, tình yêu làm nền tảng cho tình yêu của Đức Giêsu đối với nhân loại. Chuyển động vòng tròn của việc độc thoại về đời sống cộng đoàn các môn đệ sau khi Người “về” cùng Cha, vốn là tiêu biểu của tư tưởng của thánh Gioan. Một tình yêu duy nhất, nhưng không ngừng trào tràn: - từ Chúa Cha qua Chúa Con (“Như Cha đã yêu Thầy”) - từ Chúa Con qua các môn đệ (”... Thầy cũng yêu anh em...”). - rồi giữa các môn đệ với nhau (”... Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em...”) như thế là “trung tín với giới răn của Người” và “ở lại trong tình yêu của Người”; như thế họ sẽ được “tràn đầy niềm vui”. Từ ngữ chìa khoá của chuyển động vòng tròn này là “tình yêu” (tiếng Hy lạp: “agape”), được sử dụng 12 lần trong bản văn này, dưới những hình thức khác nhau. A.Marchadour đưa ra một nhận xét lý thú: “Trong trường hợp này, hoàn trả và tặng đáp lễ, luật của tình yêu, luôn hướng về một đối tượng khác với người đã trao tặng. Sự đáp trả của Đức Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha lại hướng về các môn đệ. Cũng thế sự đáp trả của các môn đệ đối với tình yêu của Đức Giêsu dành cho mình lại hướng về anh em.” (“Tin Mừng theo thánh Gioan”, Centurion, trang 202).
2. “Như Thầy đã thương anh em, anh em hãy thương nhau”. Vừa khẳng định: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”, Đức Giêsu nói tiếp ngay: “Giới răn của Thầy là: Anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương anh em”... Hai từ “như” nói lên mầu nhiệm sâu xa nhất của mặc khải. A.Marchadour lưu ý ta: “Đó không phải là một lối so sánh, nhưng là một đào sâu, một thiết lập nền tảng... ở đây Gioan nói về tình yêu mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con, đã biểu lộ trên thập giá (3,16), là kiểu mẫu phải qui chiếu, tình yêu đó là nền tảngcủacộng đoàn mới: “Phần chúng ta, chúng ta yêu thương vì Người đã yêu thương ta trước” (1Ga 4,19)” (Sđd, trang 202). Chính do cách thực hiện lời Người truyền: yêu nhau, mà Đức Giêsu nhận ra họ là môn đệ Người, mà Người trở nên “bạn hữu” của họ khi Người chia sẻ cho họ điều thiết thân nhất: sự hiểu biết Chúa Cha. “Từ bao đời, sự gần gũi với Thiên Chúa là ước mơ của con Người. Trong Cựu Ước, vài người bạn của Thiên Chúa như Abraham, đã gặp gỡ Thiên Chúa như gặp một người thân. Môsê cũng đã sống cái kinh nghiệm thần bí ấy, “Yahvê đã chuyện trò với Môsê diện đối diện, như người ta chuyện vãn với bạn bè” (Xh 33,11). Đó là đặc quyền Đức Giêsu dành cho những ai chấp thuận làm môn đệ Người. Thực ra, tình yêu này không phải do người tín hữu chọn mà được: chính Đức Giêsu chọn lựa bạn hữu của Người(6,70; 13,18). Đó là một ân ban nhưng không để con người không thể tự mãn” (Sđd, trang 202).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Con đường tình yêu” (Đức Cha L.Daloz, trong “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”, DDB, trang 194). Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ Người một giới răn mới (13,34). Người nhắc đi nhắc lại 2 lần: “Điều răn của Thầy là: anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương anh em... Điều Thầy truyền cho anh em là: anh em hãy thương nhau”. Người dạy ta một cách yêu thương mới. Tình yêu tự nhiên bộc phát phải chăng là mối tình có lợi cho ta, giúp ta phát triển? Một tình yêu dựa trên sự hấp dẫn, cảm tình; một tình yêu không những trong đó ta vẫn là ta, mà ta còn cảm thấy mình được đánh giá cao, có cảm giác mình lớn lên khi cho và nhận. Thứ tình yêu bè bạn, tình yêu hôn phối như thế đúng là một lý tưởng giúp ta triển nở. Tự nhiên ta dễ cảm xúc trước một tình yêu như vậy. Chính Đức Giêsu cũng đã biết đến thứ tình bạn rất nhân loại ấy, Người yêu thương Mátta, em gái bà và Ladarô (11,5). Nhưng Người muốn ta tiến xa hơn trong tình yêu. Người muốn đưa ta lên đến tận ngọn nguồn tình yêu: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương các con: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Điều Đức Giêsu mong đợi, mời gọi các môn đệ, đó là hãy tháp nhập vào tình yêu phát xuất từ Chúa Cha, để yêu như Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa hoàn toàn nhưng không. Đó thật là một quà tặng. Tình Yêu Thiên Chúa thì phổ quát Người cho mặt trời mọc lên soi người lành cũng như kẻ dữ, cho người công chính cũng như kẻ bất lương! Trái tim Thiên Chúa vui rộn ràng khi thấy kẻ tội lỗi ăn năn hối cải, Người không ngừng kêu gọi, Người sẵn sàng tha thứ cho bất cứ ai trở về với Người. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến nỗi đã ban Con Một mình! Tin Mừng có gì khác hơn là một mặc khải về tình yêu vô biên của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã biểu lộ khi Người yêu ta đến cùng? Thiên Chúa là tình yêu. Làm sao ta có thể yêu như Thiên Chúa được? Đức Giêsu vạch cho ta một con đường. Nếu muốn học yêu như Chúa, ta hãy để Người chỉ dạy. Ta đâu phải là người mở ra con đường tình yêu. Chính Lời Chúa chỉ cho ta. Ta phải nghe và trung thành tuân giữ Lời Chúa. Như thế là ta thực tập yêu theo đường lối của Thiên Chúa: “Nếu anh em tuân giữ điều răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy tuân giữ điều răn của Cha nên Thầy ở trong tình yêu của Cha”. Đó không phải chỉ là cảm tính. Đó là sự hoà hợp giữa ý muốn của ta với ý muốn của Chúa. Đó là sự hoà hợp giữa đời sống của ta với đời sống của Đức Giêsu. “Không ai có tình yêu lớn hơn người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu”. Đức Giêsu, người mục tử tốt lành, đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Người kêu mời ta: hãy làm đầy tớ phục vụ anh em, hãy hiến mạng sống vì anh em. Người mời gọi ta yêu đến cùng như Người: “Như Thầy đã yêu anh em”. Lời mời gọi này quả là một thách đố bất khả kham nếu chỉ nhắm vào sức riêng của ta (...). Tình yêu trong ta không phải là kết quả của năng lực riêng của ta. Nếu Đức Giêsu trao phó cho ta sứ mệnh yêu như Người, thì chính Người làm trổ sinh trong ta những hoa trái của một tình yêu như thế: “Chính Thầy đã tuyển chọn và cắt đặt anh em để anh em ra đi và sinh nhiều hoa trái và để hoa trái của anh em tồn tại”. Vì thế chỉ có ta mới có thể loan báo tình yêu đến cùng và làm chứng về tình yêu ấy bằng chính đời sóng của ta. Biết được nguồn mạch phát sinh tình yêu ấy rồi, ta sẽ tin tưởng trở về với Đấng duy nhất có thể khơi nguồn tình yêu ấy trong ta. “Tất cả những gì các con xin Chúa Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”.
2. “Như”! từ ngữ chìa khoá nhưng thường bị cố ý bỏ qua và rất thường bị quên lãng (F.Deleclos, trong “Hãy cầm lấy mà ăn Lời”, Centurion-Duculot, trang 124). Hãy yêu thương nhau... Lời trích dẫn thiếu sót ấy có thể chẳng đi đến đâu nếu ta không qui chiếu về khuôn mẫu, không vượt qua được những khía cạnh cảm tính, hời hợt và chiếm hữu của tình yêu. Để hiểu biết thực tại, phải ngụp lặn trong dòng sông huyền nhiệm mà Tin Mừng thánh Gioan trình bày cho ta. ... Không mơ mộng đâu, nhưng đó là lời tâm huyết của “Con Người”. Một xâm chiếm khu vườn bí ẩn của Thiên Chúa nhập thể, một tuyên ngôn tình yêu, thú nhận một tâm tình dịu dàng vô biên: “Như Cha đã thương Thầy, Thầy cũng thương anh em”. Khó tin, nhưng có thật! Người nói với cả tôi nữa đấy. Người nài nỉ: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy... để niềm vui của Thầy ở trong anh em và anh em được tràn đầy niềm vui”. Nhưng tình yêu có qui luật ở lại trong ta để trái tim ta có thể đập nhịp đập của trái tim Người... để tâm tư, hành động của ta rập khuôn theo tâm tư và hành động của Người: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.“Như”, từ chìa khoá nhưng thường bị cố ý bỏ qua và rất thường bị lãng quên.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI 1. Trọng tâm lời nguyện của Đức Giêsu... Hằng năm, Tin Mừng Chúa nhật thứ VII Phục sinh đều trích từ chương 17 của thánh Gioan, lời nguyện long trọng của Đức Giêsu. - Đó là một lời nguyện kết thúc diễn từ giã biệt của Người, y hệt lời chúc phúc cho 12 bộ lạc Israel kết thúc diễn từ giã biệt của Môsê trong sách Thứ Luật vậy. Là Môsê mới, Đức Giêsu đưa tất cả lịch sử tới hồi viên mãn giữa lòng đời sống Chúa Ba Ngôi. - Đó là một lời nguyện “dâng lên Cha Người”, không phải là không có tương quan với “kinh Lạy Cha”: “Lạy Cha... xin cho danh Cha hiển thánh... Nhưng xin cứu chúng con khỏi Ác thần”. - Đó là một lời nguyện “đọc lớn tiếng” khi Đức Giêsu bày tỏ tình thân mật với Chúa Cha trước mặt các môn đệ: một tình thân mật mà Người sẽ chia sẻ với họ.
2. ... Cho những kẻ Người sai vào trần gian. Trước hết Đức Giêsu cầu nguyện cho chính mình (câu 1-5): “Xin hãy tôn vinh Con, để Con cũng tôn vinh Cha. Để Con sẽ ban sự sống đời đời cho những kẻ Cha đã ban cho Con”. Rồi, Người cầu nguyện cho các môn đệ. Đến giờ Người trở về cùng Cha nơi Người đã xuất phát ra đi, Người trao phó cho Cha tất cả những kẻ mà Người để lại trên trần gian; trần gian là vùng đất sứ mệnh của họ cũng như đã từng là vùng đất sứ mệnh của Người, trần gian không miễn cho họ sự thù nghịch mà trần gian đã bày tỏ với Người. - Là môn đệ của một Đấng chịu đóng đinh đã tự nguyện đổ máu mình vì tình yêu, các ngài cũng phải noi gót Người, nhờ Người, với Người và trong Người, vì yêu mà tự hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa và cho anh em. Bách hại của trần gian đã hành hạ Đức Giêsu cho đến chết, rồi sẽ giáng trên các ngài, vì cuộc đời các ngài tiếp tục, cũng như cuộc đời Đức Giêsu, bày tỏ tình yêu của Chúa Cha: “Lạy Cha, xin hãy gìn giữ các môn đệ của con trung thành với danh Cha mà Cha đã ban cho con...”. - Qui tụ chung quanh Đức Giêsu vào giây phút quyết định này, các ngài vẫn liên kết với Người và với nhau sau khi Người đã ra đi để làm chứng cho sự liên kết giữa Chúa Cha và Chúa Con: “Xin cho chúng nên một, như Cha và Con là một”. Một lời nài xin sẽ được khai triển trong những câu 21-23 sau này. - Được sai vào “trong thế giới” như Người, các ngài sẽ nhờ ơn trên hỗ trợ mà chiến đấu chống lại ảnh hưởng xấu xa của thế gian, sự quyến rũ của Ác thần: “Con không xin Cha kéo chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ chúng khỏi Ác thần”. J.Radermakers giải thích: “Giữ gìn không có nghĩa là miễn trừ, che giấu: Đức Giêsu không xin Chúa Cha “đóng hộp” các môn đệ, nhưng xin Người củng cố họ, ban cho họ biết như Người, cùng Người đương đầu với thế gian” (“Assemblées du Seigneur” số 29, trang 71).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (H.Vulliez “Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDB, trang 71-72). Lời nguyện này của Đức Giêsu, như Tin Mừng thánh Gioan tường thuật, gây xúc động vì sự tha thiết và khẩn khoản. Cũng một động tác, mà mâu thuẫn thay, vừa nhận ta chìm vào thế giới loài người, vừa lôi kéo ta đến thế giới Thiên Chúa. “Thế gian” là một trong các từ ngữ quan trọng của bản văn, được sử dụng với hai ý nghĩa khác nhau. Trước hết “thế gian” ám chỉ thế giới nơi con người sinh sống. Ngày nay, ta gọi là “xã hội” với tất cả mọi phức tạp của nó, đó là nơi làm việc: xí nghiệp, văn phòng, trường học vv... Hoặc một nơi chốn khác hẳn: giải trí, hiệp hội, công đoàn, đảng phái, gia đình... Đức Giêsu nói không còn thuộc về thế gian này, có nghĩa là cách Người hiện diện nơi thế gian không giống như cách của các môn đệ, Người có sự hiện diện đã phục sinh. Kế đó, từ ngữ “thế gian” chỉ những ai chối bỏ lời Chúa. Để cho ta dễ hiểu tính cách khốc liệt của cuộc chiến giữa Thiện và Ác, Gioan đã làm như tranh biếm hoạ, xếp người ta thành 2 loại. Những người tiếp nhận Tin Mừng thì ở trong thế gian (xã hội) nhưng không thuộc về thế gian (thế gian tội lỗi). Và những người chối bỏ lời chúa một cách ý thức thì ở trong thế gian (xã hội) đồng thời cũng thuộc về thế gian (thế gian tội lỗi, từ khước). Cái cách phân loại con người quá giản đơn ấy có lẽ là do thời thế: vào lúc Gioan viết Tin Mừng, thời thế rất khó khăn. Các Kitô hữu bị chống đối quyết liệt. Họ phải chịu bắt bớ nữa. Cả hai ý nghĩa giao thoa nhau suốt dọc bản văn, lúc đầu có làm ta bị rối, nhưng nếu ta lưu ý sẽ thấy các câu văn sáng lên mãnh liệt và chuyển động của chúng thúc đẩy ta ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Ở trên mặt đất đã là ở trong thế giới của Thiên Chúa.
2. “Kinh nguyện của Kitô hữu, kinh nguyện của Đức Kitô” (Mgr. P.Coffy, “Một Giáo Hội cử hành và cầu nguyện”, khoá họp HĐGM Pháp, Lộ Đức 1973, Le Centurion, trang 42-43). Nét độc đáo của kinh nguyện Kitô hữu trước hết và trên hết đó là kinh nguyện của Đức Kitô đã biến thành của ta. Kinh nguyện ấy có trước ta và một cách nào đó, không cần ta. Đó là kinh nguyện mà Đức Kitô không ngừng dâng lên Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Vậy ta đâu cần sáng tác kinh nguyện, chỉ cần đón nhận kinh nguyện của Đức Kitô, Người “luôn hiện diện để chuyển cầu cho ta” (Dt 7,25), đón nhận, nghĩa là biến thành của mình. Cầu nguyện là tham dự vào kinh nguyện của Đức Kitô, Đấng cầu nguyện duy nhất được Chúa Cha nhận lời. Vậy, mọi kinh nguyện Kitô hữu đều là kinh nguyện “nhân danh Đức Kitô”. Thành ngữ ấy không có nghĩa là “thay thế cho... cũng không có nghĩa là “uỷ quyền cho”, nhưng là “trong Đức Kitô, với Đức Kitô”. Đó là ý nghĩa của các lời Đức Kitô trong thánh Gioan (16,23,24): “Thật vậy, Thầy bảo các con, điều gì các con xin Chúa Cha, Người sẽ ban cho các con nhân danh Thầy. Cho tới nay, các con chưa xin gì nhân danh Thầy: hãy xin, các con sẽ nhận được, và để niềm vui của các con được trọn vẹn...”. Một kinh nguyện như thế không thể là lời lẽ tỏ bày với một Thần Linh không tên tuổi, một Thiên Chúa vô ngôi vị, hờ hững, xa xôi. Kinh nguyện ấy luôn luôn là lời của người con ngỏ với Cha tự tỏ mình ra trong Đức Giêsu Kitô. Một lần, Đức Giêsu đã thốt lên “Abba” nghĩa là “Ba ơi”. Việc khảo sát toàn thể nền văn chương cầu nguyện cao cả và phong phú của người Do Thái cho thấy rằng chưa có ai, ở đâu dám gọi Thiên Chúa là “Abba”. Điều đó có nghĩa gì? ... “Abba”, “Imma” là những từ đầu tiên khi một đứa trẻ bập bẹ tập nói. Abba là tiếng trẻ thơ dùng thường ngày: chẳng ai dám sử dụng từ ngữ ấy để gọi Thiên Chúa, trừ Đức Giêsu. Người luôn gọi Thiên Chúa “Abba” trong tất cả mọi kinh nguyện của Người, trừ tiếng kêu trên thập giá... Vậy Đức Giêsu đã nói với Thiên Chúa như một em bé nói với cha mình, với sự đơn sơ thân mật, với niềm tin tưởng phó thác... Gọi Thiên Chúa thân mật như một em bé gọi cha, đó là đặc quyền dành cho Người vì Người đã nhận từ nơi Cha trọn vẹn sự hiểu biết về Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng cho phép ta được nhờ Người, với Người gọi Thiên Chúa là “Abba”. Mục đích của việc Người xuống trần gian, mục đích của việc nhập thể cứu thế là đưa nhân loại trở lại giao ước nghĩa là vào tương quan với Chúa Cha để mỗi người có thể nói lên trong chân lý: “Abba”. Kinh nguyện truyền thống cao cả, đặc biệt diễn tả trong kinh nguyện Thánh Thể, là lời kinh của Chúa Con ngỏ với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, luôn luôn bắt đầu bằng lời thân thưa “Lạy Cha”. Trong tập De oratione Origênê nói rằng Chúa Con và Chúa Thánh Thần cầu nguyện trong ta. Thậm chí Origênê còn nói ta không phải khẩn cầu Chúa Con và Chúa Thánh Thần vì khi cầu nguyện, các Ngài đứng về phía ta. Vậy kinh nguyện Kitô hữu là hoa trái của Chúa Thánh Thần trong ta. Kinh nguyện là lời ngỏ với Chúa Cha, là lời Đức Kitô không ngừng ngỏ với Cha Người, là lời Chúa Thánh Thần ban cho ta sức mạnh thưa lên. “Chính Thánh Thần hiệp với tâm trí ta để chứng nhận ta là con cái Thiên Chúa... Chính Thánh Thần khẩn cầu cho ta bằng những tiếng than khôn tả” (Rm 8,14-17 và 26-27). Mỗi khi ta cầu nguyện, chính Đức Kitô không ngừng nói trong ta và nhờ ta tiếng “Abba” mà xưa kia Người đã nói trước mặt các tông đồ để họ nhắc lại với Người và trong Người. Nhưng gọi Thiên Chúa là “Abba” đòi hỏi ta phải trở nên những đứa con bé nhỏ. Để vào Nước Trời, nơi chỉ dành cho những trẻ nhỏ, ta phải tìm thấy niềm tin tưởng phó thác mà từ ngữ “Abba” diễn tả.
ĐỨC GIÊSU HIỆN RA LẦN CUỐI VÀ SAI CÁC MÔN ĐỆ ĐI (Mc 16,15-20).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Trong đoạn kết thứ hai của Tin Mừng Máccô... Đoạn kết của Tin Mừng Máccô, dùng trong lễ Thăng thiên năm B này, thực ra là đoạn kết thứ hai của Tin Mừng này. Thực vậy, thoạt tiên - như các bản chép tay cho thấy - Tin Mừng Máccô kết thúc ở đoạn các phụ nữ đi viếng mộ Chúa và các bà im lặng vì sợ hãi: “Các bà không hé cho ai biết điều gì, vì các bà sợ” (xem bài Tin Mừng lễ Vọng Phục Sinh). Hiển hiện những hàng trên đã có từ rất lâu (đã được thánh Irênê, Giám mục Lyon vào cuối thế kỷ thứ hai công nhận thuộc về Tin Mừng thánh Máccô) và đã được Giáo Hội nhận vào Quy Điển, nghĩa là thuộc về Kinh Thánh được linh ứng.
2. ... Việc sai đi trong một sứ mệnh phổ quát... Đoạn kết này cắt ngang những truyền thống mà ta thấy ở nơi khác, trong các Tin Mừng khác. Đức Giêsu hiện ra với 11 tông đồ “khi họ đang ăn”. Sau khi đã khiển trách “những kẻ đã thấy Người sống lại” mà vẫn không tin (14), Người sai họ lên đường sứ mạng. - Đó là một sứ mạng phổ quát: “Hãy đi khắp thế giới. hãy rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”. J.Hervieux nhận xét: “Ta có thể lường được ý thức của Giáo Hội sơ khai. Giáo Hội sơ khai biết mình được kêu gọi đem Tin Mừng cho hết mọi người, hết mọi tạo vật” (“Tin Mừng theo thánh Máccô”, Centurion, trang 238). - Đó là một sứ mạng có “các dấu lạ đi kèm”. Những dấu lạ đó, đoạn kết thứ hai của Máccô kể ra và ta thấy minh hoạ trong sách Công vụ các Tông đồ: trừ quỉ nhân danh Đức Giêsu (Cv 5,12-16; 8,9; 16,16-18); nói tiếng lạ (một đoàn sủng đôi khi đi với ơn Chúa Thánh Thần (Cv 2,4-13; 10,44-46); đặt tay chữa bệnh (Cv 4,30; 9,10-17); cầm rắn mà không sợ nguy hiểm (Cv 28,3-6). Đối với một vài người thì những dấu chỉ cổ điển ấy muốn diễn tả uy quyền tất định của Đấng Phục Sinh thắng những thế lực sự Ác và sự Chết. L.Monloubou viết: “Xuyên qua bảng liệt kê bằng thứ ngôn ngữ kỳ diệu của thời ấy, ta thấy xuất hiện niềm xác tín rằng sự phục sinh của Đức Giêsu đem đến một chất men làm đổi mới con người: một “tạo dựng mới” đã “bắt đầu” nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Mới, vì mọi tấm màn che dấu chân lý về Thiên Chúa đã bị xé rách. Mới, vì mọi rào cản chia cách con người đã bị loại bỏ. Và mới, vì mọi sự ác dày vò con người trong quá khứ nay đã bị khuất phục. Sự thể hiện chiến thắng này không toàn vẹn; trần gian luôn phô bày bộ mặt của một thế giới trần trụi, nhưng đã có những dấu chỉ cho thấy cuộc chiến thắng sẽ hoàn tất” (“Tin Mừng theo thánh Máccô”, Salvator, trang 166). Những dấu chỉ ấy có thể thay đổi, tuỳ theo khung cảnh văn hoá, nhưng điều cốt lõi vẫn luôn luôn, như trong mọi dấu chỉ Đức Giêsu đã thực hiện, là mặc khải một chút về tình yêu của Chúa Cha mà sứ điệp đã loan báo.
3. ... Và loan báo sự hiện diện huyền nhiệm của Đấng Phục Sinh: - Bức tranh Chúa thăng thiên chỉ được chấm phá bằng vài nét. Như kết thúc cuộc mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu. Người được “cất lên trời” giống như Êlia trong sách Các Vua 2,11; Người ngự “bên hữu Chúa Cha”, Người được tôn phong là Kitô và là Chúa, ứng nghiệm lời Thánh vịnh 110,1 nói về Người: “Đức Chúa đã nói với Chúa tôi: “Hãy ngồi bên hữu Ta”. - Nhưng việc thăng thiên không mở ra một giai đoạn vắng mặt của Đức Giêsu, mà đánh dấu một “khởi điểm”, khởi đầu một hiện diện mới cho các môn đệ, một hiện diện tích cực đem lại vô vàn hiệu quả cho hoạt động truyền giáo của họ. Đoạn kết thứ hai của Máccô kết luận: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” (G.Bessière, trong “Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDB, tr. 68-69). Bản văn không đề cao hiện tượng kỳ diệu của việc lên trời, nhưng nhấn mạnh sứ mệnh của các tông đồ. Các ngài mang đi một tin bất ngờ, một tin mừng cho “mọi tạo vật”. Đó là ơn cứu độ, ơn giải phóng, ơn chữa lành, đương đầu với mọi nguy cơ để đổi thay thế giới, cho nhân loại mới ấy, nhân loại ngồi bên hữu Thiên Chúa ấy được hiện hữu và lớn mạnh. Lịch sử đâu có thể nhờ một chiếc đũa thần mà biến đổi trong tích tắc mà phải qua hằng bao thế kỷ, hằng bao thiên niên kỷ, như một nạm men âm thầm nhưng phải luôn luôn khơi dậy tin mừng này, để Thánh Linh Thiên Chúa tái tạo bộ mặt địa cầu. Suốt dòng thời gian, các môn đệ sẽ là những “chứng nhân hăng say”, “cho đến tận cùng trái đất”, nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu ra đi, nhưng Người không vắng mặt, trái lại dường như cuộc ra đi này còn làm cho Người hiện diện nhiều hơn qua tất cả những người tiếp tục đón tiếp, sáng tạo và mưu tìm một thế giới mới. Họ cũng sẽ là những kẻ làm phiền vì tin rằng nhân loại có thể tiến xa hơn trên con đường công bình, tha thứ và yêu thương. Những con người mơ về một nhân loại thần linh này (humanité divine) sẽ luôn luôn phản kháng những gì là hỗn loạn, tồi tệ và chai lì trong đời sống cá nhân cũng như tập thể. Họ cũng sẽ trở thành mục tiêu tấn công của những chủ nhân ông sống một đời sống trì trệ, những tay quản lý ù lỳ và phó mặc cho số phận, những kẻ tôn thờ tiền bạc. Nhưng ngay cả trong cơn bắt bớ, những con người thân cận với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ấy, những người ban phép rửa tội trong tương tai ấy, sẽ nghe thấy trong bản thân một tiếng nói bí ẩn thầm thì: “Thầy ở với các con cho đến ngày tận thế”.
2. “Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh” (Đức Cha L.Daloz, trong “Vậy Người là ai?”, DDB, tr. 109-110). Đức Giêsu chứng minh sự hiện diện phục sinh của Người. Đoạn kết của Tin Mừng Máccô kể lại tóm tắt một vài tình huống chứng minh cho việc này. Đó là 3 tình huống khác nhau: Đức Giêsu “xuất hiện”, “tỏ mình ra” cho Maria Madalena, cho hai môn đệ, cho mười một Tông đồ. Những chứng nhân ấy sẽ đi loan truyền điều họ đã thấy. Người ta không tin các ngài; trong lần sai đi cuối cùng này cũng thấy nói đến “ai tin” và “ai không tin”. Đức Giêsu phải “áp đặt” sự hiện diện của Người vì biến cố phục sinh quả thực là bất ngờ! “Người khiển trách sự chậm tin và sự cứng lòng của họ, không tin lời những người đã thấy Người sống lại”. Đoạn kết Tin Mừng này thật ngắn ngủi, vắn tắt như một bài điểm sách. Biến cố Phục sinh đâu cần chi đến những lời lẽ dao to búa lớn, những bài diễn văn dài dòng. Biến cố có đó để mời gọi đức tin. Biến cố tự nó đã có sức thuyết phục, có tính cách quyết định và đòi hỏi một quyết tâm. Biến cố quá mãnh liệt đã mở ra một tương lai và một chân trời bao la cho: “toàn thế giới” và “mọi tạo vật”. Tin Mừng đầy ắp một sức mạnh phục sinh, có khả năng xuyên thấu bề dày tăm tối của thế giới, đem đến cho nó một chất men mới. Đó là ý nghĩa của những dấu chỉ này. Sức mạnh của Tin Mừng được biểu lộ qua con số không nhỏ những dấu chỉ này và tính cách phi thường của chúng. Sức mạnh đó không chỉ là những lời nói suông, nhưng còn là chất men biến đổi cuộc sống. Các môn đệ có thể lên đường rao giảng. Đối với các ông, dù “đã được cất lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, Chúa vẫn tiếp tục hoạt động và xác nhận Lời. Ngày nay, đến lượt chúng ta, chúng ta cũng được sai đến tận cùng thế giới để làm chứng nhân cho Tin Mừng, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Phục Sinh...”.
ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH
BAN THÁNH THẦN CHO CÁC MÔN ĐỆ (Ga 20,19-23)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. (Xem Chúa nhật II Phục sinh).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. Trái Tim Chúa Cha, nguồn mạch sứ vụ truyền giáo (Đức Cha L.Daloz, trong “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”, DDB, trang 251-252). Gioan đã xác định thời điểm cuộc gặp gỡ giữa Chúa phục sinh với các môn đệ là chiều ngày thứ nhất. Ngày phục sinh, ngày tạo dựng mới, ngày “Chúa nhật” thứ nhất của các Kitô hữu... Đức Giêsu lướt qua những cánh cửa khoá chặt vì sợ hãi, - Người “đến” như đã hẹn và biến đổi sợ hãi thành vui mừng: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con” (14,18). Thế là niềm tin đã trào tuôn trong trái tim hai tông đồ chạy đến mộ. Thế là Maria Madalena đã loan báo sứ điệp nhận được trong vườn. Và bây giờ chính Đức Giêsu, sau cơn đau đớn, đem đến bình an, thứ bình an mà không ai còn có thể mong ước gì hơn: “Bình an cho các con!”. Những vết thương của Đấng chịu đóng đinh trở thành những dấu chỉ để nhận biết Đấng Phục sinh: “Người cho họ xem tay và cạnh sườn Người”. Các lời hứa được ứng nghiệm. Sau cái chết đau thương, giờ đây là tràn đầy niềm vui: “Thầy nói điều ấy với các con để niềm vui của Thầy ở trong các con và để niềm vui của các con được trọn vẹn” (15,11). Niềm vui của Tin Mừng này cần phải toả lan khắp vũ trụ. Phải mở tung khoá cửa, ra đi khắp thế giới. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Gioan khơi nguồn sứ mệnh truyền giáo nơi mặc khải của Đức Giêsu phục sinh. Thánh sử lội ngược lên tận ngọn nguồn, đến trái tim Chúa Cha, Đấng muốn bày tỏ tình thương của Người cho mọi người: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Các môn đệ tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu. Vì giờ đây Người đã được tôn vinh, Chúa Thánh Thần có thể châu lưu trong họ như những dòng sông mang nước sự sống, như hơi thở sáng tạo bắt đầu hoạt động để từ những bộ xương khô xuất hiện một dân tộc mới: “Người thổi hơi trên các ông và bảo: hãy nhận lãnh Thánh Thần”. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, trong quyền năng Phục sinh, các môn đệ tụ tập được cắt đặt đi phục vu ơn cứu độ cho anh em mình. Khi loan báo Tin Mừng, Người đặt mỗi người trước trách nhiệm của mình, và trao cho họ quyền giải phóng: “Các con tha tội cho ai, kẻ ấy được tha, các con cầm buộc ai, người ấy bị cầm buộc”. Buổi chiều phục sinh ấy là bước ngoặt lịch sử: đó đã là lễ Ngũ Tuần, và Giáo Hội khai sinh! Cùng với Đức Giêsu, cả thế giới bước vào bình minh của sự sống lại...
2. “Bổn phận của tín hữu” (“Thư các Đức Giám mục gởi người Công giáo Pháp”, Cerf, trang 25). Dù là Kitô hữu và có lời giải đáp chân lý và sự sống, ta vẫn chia sẻ số phận chung của những con người ở xã hội ta. Chính vì thế sứ mạng và trách nhiệm trao cho ta trong thế giới này không thể cho ta niềm tự mãn, càng không cho ta phương tiện nhìn thế giới từ trên cao làm như thể ta vượt trên thế giới. Như thế, ta được mời gọi rà soát lại tính chất mới mẻ của ân ban Thiên Chúa, của chiều sâu nội tâm đức tin của ta khi sống trong cái xã hội đầy biến động này. Như thế, ta được mời gọi tự mình đi kín múc nơi nguồn suối đức tin lòng can đảm và niềm hy vọng thiết yếu để đảm nhận những trách nhiệm mà không sợ hãi, không e dè. Như thế, ta được mời gọi rao truyền Tin Mừng không như một chương trình đi ngược lại văn hoá, xã hội, nhưng như một tiềm năng đổi mới mời gọi con người, tất cả mọi người đi lên tới nguồn sự sống. Nói cách khác, đòi hỏi phúc âm hoá là một lời mời gọi mà ta có bổn phận phải lắng nghe vì ta phải tìm và phải thấy trong Tin Mừng và trong nhân cách Đức Kitô, hiệp thông với Giáo Hội, những điểm tựa và những điểm qui chiếu có mặt vừa trong hiện hữu của ta, vừa trong những bất ổn của xã hội.
3. Tin vào Chúa Thánh Thần, trước những thách đố mà Giáo Hội phải đương đầu trong thế giới ngày nay. (“Célébrer”, tạp chí của Uỷ ban quốc gia về Phụng vụ, số 268, trang 18). Ba bài đọc đã thống nhất nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, tại sao không đề nghị với cộng đoàn một hành vi đức tin vào Chúa Thánh Thần, trước những thách độ mà Giáo Hội phải đương đầu trong thế giới hôm nay? Ba trong các thách đố nên lưu ý: - Sự năng động truyền giáo trong một Giáo Hội cần tập trung lực lượng vào mục vụ. - Sự độc đáo của một đời sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trong một xã hội mà sự phân định các giá trị chân thực ngày càng tăm tối hơn. Ta sẽ chú ý rằng sự tiến bộ thiêng liêng trước hết không hệ tại nhìn ngắm chính mình, nhưng do ở phó thác cho Chúa Thánh Thần. Sự ngoan ngoãn đối với Thánh Thần chân lý, nhân tố tự do và tiến bộ, trong một thế giới mà những phong trào bảo thủ tôn giáo và những phong trào chính thống quá khích khác nhau đang gào thét.
HÃY RỬA TỘI CHO HỌ NHÂN DANH CHÚA CHA,
VÀ CHÚA CON, VÀ CHÚA THÁNH THẦN (Mt 28.16-20)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đoạn mở đầu: Bài Tin Mừng lễ Chúa Ba Ngôi năm B trùng hợp với bài Tin Mừng lễ Thăng Thiên 1996. Nên ta sẽ nhắc lại những điểm chú giải của lễ ấy. Đó là đoạn kết thúc Tin Mừng Matthêu: một kết thúc dưới dạng mở ra. - Thực vậy, trong “Tin Mừng về thời thơ ấu”, Matthêu mời ta chiêm ngắm trong cuộc hạ sinh của Đức Giêsu tại Bêlem, thành của Đavid, sự ứng nghiệm lời tiên tri về “Emmanuel”; “Thiên Chúa ở với ta” (Is 7) và miêu tả trong các vị đạo sĩ đến từ Phương Đông hình ảnh của những người dân ngoại tiên phong đã tin vào Đức Kitô... và họ “sấp mình thờ lạy Người”. - Trong đoạn kết thúc, rõ ràng Tin Mừng nhắc lại nguyên văn những kiểu nói trên để thuật lại cuộc gặp gỡ cuối cùng tại Galilê của Đấng Phục sinh với các môn đệ: “Khi họ thấy Người, họ sấp mình thờ lạy”. Đức Giêsu liền sai họ đi truyền giáo cho “tất cả các dân tộc”, và Người long trọng tuyên bố với họ: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. J.Radermakers chú giải: “Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đoạn mở đầu; đó là một bao hàm vĩ đại, con người Đức Giêsu mở ra một chiều kích phổ quát trên toàn thể lịch sử nhân loại, mà vẫn không quên nguồn gốc xác thân của Người đâm rễ trong thời gian và không gian” (“Au fil de l'évangile selon saint Matthieu”, Institut d'Etudes Théologiques, Bruxelles, 1974, trang 362).
2. Một đoạn kết dưới hình thức mở ra. Sau phục sinh, Đức Giêsu đã chọn điểm hẹn với các môn đệ, không phải ở Giêrusalem, thủ đô, thành thánh, như trong Tin Mừng Luca, nhưng là “Galilê” bị khinh miệt, “nơi qui tụ các dân” (Mt 4,12-23), biểu tượng của thế giới dân ngoại. “Cũng thế, Giáo Hội phải rời Giêrusalem, hồi đó vẫn được coi là trung tâm địa lý của đức tin, để lên đường đi tới “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa là “Giáo Hội cho trần gian": đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội như Đức Giêsu sẽ định rõ sau này” (“Cahiers-Evangile” số 9, trang 6). Nơi mà Đức Giêsu truyền họ đi tới, đó là “ngọn núi”, nơi dành riêng cho các mạc khải thần linh. Hơn nữa, ở đây cũng như dọc dài suốt Tin Mừng của Ngài, thánh Matthêu luôn trình bày Đức Giêsu như Môsê mới ban Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa. Claude Tassin chú thích: “Như những hình ảnh trong phim nối tiếp nhau, ta thấy lại ngọn núi nơi ma quỉ chỉ cho Đức Giêsu các vương quốc trần gian, ngọn núi Tám mối phúc nơi vị Tôn sư công bố hiến chương Nước Trời và ngọn núi biến hình nơi vinh quang Con người được hiển lộ, và sừng sững uy nghi phủ trên tất cả là bóng ngọn Nêbô cao vời (Tl 34) nơi Môsê nói lời giã từ khi dân chúng tiến về Đất Hứa” (“Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Centurion, trang 303). - Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ “sấp mình thờ lạy”. Đó là một cử chỉ tỏ lòng kính trọng mang màu sắc tôn giáo và phụng vụ, như khi các đạo sĩ thấy con trẻ và Maria, mẹ Người (2,2-8.11), như khi các môn đệ ở trên thuyền, lúc sóng gió nổi lên (14,33); như người đàn bà xứ Canaan (15,25). Tuy thờ lạy nhưng họ vẫn còn “hoài nghi”, niềm hoài nghi, theo Jean Radermakers, “là bạn đồng hành bất khả phân ly với niềm tin biến động”. - Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ (“Đức Giêsu đến gần họ”) và các môn đệ sấp mình thờ lạy chính là Đức Chúa vinh hiển. Được tôn vinh, được trao quyền tối thượng xét xử toàn thế giới (“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho ta”), từ đó Người có thể sai các môn đệ đi khắp thế giới làm cho uy quyền này trở thành hiện thực. Những lời Người nói với họ ghi dấu sự mở ra một giai đoạn mới trong sứ mệnh của Người; một sứ mệnh từ nay Người tiếp tục nhờ Giáo Hội. + “Hãy đi...! Làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Thầy”. Trong suốt thời hoạt động công khai, Đức Giêsu đã giới hạn các hoạt động vào các “chiên lạc nhà Israel”. Từ nay, Người phá huỷ mọi biên cương phân chia không gian và thời gian: Đức Giêsu đã có thể hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh người Tôi Tớ Thiên Chúa như Matthêu loan báo khi nhắc lại lời sấm của Isaia (42,1-4): “Dân ngoại sẽ đặt niềm hy vọng vào danh Người” (Mt 12,18-21). Dân ngoại, đã hiện diện ngay ở những trang đầu của sách Tin Mừng trong hình ảnh các vị đạo sĩ, lại thấy xuất hiện ở đoạn kết Tin Mừng như đối tượng mà Tin Mừng nhắm tới. Và Đức Giêsu trao phó sứ mệnh phổ quát ấy cho Giáo Hội của Người. Claude Tassin nhận xét: “Điều quan trọng không phải là “đi” cũng không phải là một sứ mệnh chinh phục đất đai, nhưng là một sự cởi mở đón nhận mọi nhóm người, không phân biệt. Vì Đức Giêsu có “mọi quyền năng”, nên mọi người được mời gọi đặt hiện hữu cuộc đời dưới uy quyền của Người. Sứ mệnh, theo Mátthêu, là gì? Các môn đệ hãy chiêu mộ thêm các môn đệ khác; những ai cảm thấy giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi cuộc đời mình, hãy chia sẻ kinh nghiệm ấy với người khác, “dạy cho họ tuân giữ mọi giới răn” của Đức Giêsu gồm tóm trong luật duy nhất: tình yêu” (O.C., trang 304). + “Hãy rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Sứ mệnh không phải là quảng bá một ý thức hệ, dù rất cao siêu; sứ mệnh không ngừng đề nghị thiết lập một cộng đoàn: cộng đoàn những người, nhờ bí tích Rửa tội, muốn những mối liên hệ hỗ tương của họ đâm rễ sâu vào một gắn bó chung “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Tạp chí “Célébrer” số 269 nói: “Công thức nhân danh Ba Ngôi này chỉ có trong Tân Ước. Những bản văn khác nói về phép rửa “nhân danh Đức Giêsu” hoặc phép rửa “nhờ Chúa Thánh Thần”. Tuy không có ngay từ buổi ban đầu, nhưng công thức này không xuất hiện quá trễ. Có lẽ công thức ấy được vay mượn từ truyền thống phụng vụ của cộng đoàn nơi thánh Matthêu phụ trách... Công thức rửa tội ấy diễn tả mối kết hiệp chặt chẽ giữa người lãnh bí tích Rửa tội với Ba Ngôi Thiên Chúa”. + “Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều răn Thầy đã truyền cho anh em”. Đừng giản lược sứ mệnh truyền giáo vào việc cải đạo không có tương lai. Giáo Hội phải giúp những người đã lãnh bí tích Rửa tội sống mỗi ngày mỗi phù hợp với nếp sống mới mà họ đã bước vào. J. Radermakers nhận xét: “Như thế toàn thể Tin Mừng khi trở nên lời giáo huấn bằng đời sống cho các môn đệ, về phương diện bí tích sẽ rất có ý nghĩa trong bí tích Rửa tội và về phương diện nhân loại sẽ trương rộng ra trong đời sống hằng ngày; trong cộng đoàn Kitô hữu, đời sống luân lý chẳng gì khác hơn là Tin Mừng biến thành hành động” (Sđd, trang 365). + “Và Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đó là chóp đỉnh của lời Đức Giêsu tuyên bố: bảo đảm một hiện diện tích cực, hiệu quả, không giới hạn. Ở đoạn kết Tin Mừng, Matthêu đã công bố rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Tên Người là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta”. J. Potel kết luận: “Đức Giêsu không lìa xa Giáo Hội của Người. Dù Người vô hình, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi Giáo Hội có mặt, cho đến tận cùng thời gian. Theo thánh Matthêu, Người không biến mất trên trời cao. Trái lại, lời cuối cùng của Người cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng đã hứa: “Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Chính Người đã nói: “Khi có hai ba người tụ họp nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa họ” (Mt 18,20). Đấng Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê. Người đồng hành với các môn đệ trên mọi nẻo đường trần gian” (“Đức Giêsu, lịch sử đích thực”, Centurion, 1994, trang 516).
II. BÀI ĐỌC THÊM 1. Ba khía cạnh trong sứ mệnh của Giáo Hội (Mgr. L.Daloz, “Nước Thiên Chúa đã đến gần”, Centurion-Duculot, tr. 385). Hình thức của sứ mệnh đã được chỉ dẫn rõ ràng: “Hãy làm cho mọi dân tộc nên môn đệ của Thầy, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ta thấy có ba khía cạnh: Loan báo Tin Mừng là động lực thôi thúc các môn đệ; tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua nhờ bí tích Rửa tội và các bí tích; cuộc sống mới thực hành những lời Đức Giêsu đã truyền dạy. Tất cả những điều đó làm thành sứ mệnh của Giáo Hội. Không có ba yếu tố đó, sứ mệnh không hoàn hảo, và không có yếu tố nào trong ba có thể tự mình thực hiện được sứ mệnh truyền giáo. Điều quan trọng là tất cả các dân nước được thừa hưởng cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, là họ đón nhận Đức Giêsu để được đổi mới. Như thế, họ đi vào mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa: “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Qua sứ mệnh của các Tông đồ, Đức Giêsu tiếp tục nhiệm vụ mà Người đã khởi đầu trong lễ Vượt Qua: “Còn Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ta còn sợ gì nếu Đức Giêsu phục sinh luôn ở với ta”.
2. Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cho ta biết Người ở “với ta” (Báo Fêtes et Saisons số 496, “Ba Ngôi Thánh”, trang 31). Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, tự đầy đủ ở nơi chính mình, nhưng Người đã cởi mở đón nhận một tạo vật do tay Người sáng tạo, hay đúng hơn - từ ngữ loài người giới hạn khó mà diễn tả được một mầu nhiệm như thế - Chúa Cha, nguồn cội và sự duy nhất của Ba Ngôi, đã đưa dẫn thế giới mà Người tạo dựng vào hiệp thông với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi gợi lại sự Nhập Thể của Chúa Con và Ân Ban của Chúa Thánh Thần, ta khẳng định Thiên Chúa Hoàn Toàn Khác đã trở nên Hoàn Toàn Gần Gũi. Thực vậy, trong viễn tượng Ba Ngôi, nói cho đúng chính Thiên Chúa đã đem ta lại gần Người vì, thực ra, Người đã tác tạo nên ta trong Người. Sự gần gũi thân mật lạ lùng của Thiên Chúa là thế. Nhưng để xúc động sâu xa về điều đó lại cần phải linh cảm được Thiên Chúa vô vàn khác biệt và siêu việt dường nào. Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa tỏ cho ta biết Người ở “với ta”. Nhờ Chúa Thánh Thần, Người là Thiên Chúa ở trong ta, nhưng chính là để ta được ở với Người và trong Người. Ở đây không có ý nói rằng, để yêu mến Thiên Chúa, con người phải xa lìa trần gian. Như cuộc đời Đức Kitô là bằng chứng, cuộc hiệp thông với Thiên Chúa thực hiện trong trần gian và với anh em ta; Chính ngay từ cõi đời trần tục này, bên cạnh và cùng với những người anh em này mà Thiên Chúa gọi ta đến với Người.
3. Được mời gọi đến khám phá Thiên Chúa hằng sống và chân thật(“Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp”, Cerf, trang 50-52). Niềm tin vào Đức Giêsu bao gồm lòng can đảm chấp nhận chính sự sống của Thiên Chúa trong cuộc sống nhân loại chúng ta. Nếu ta có đặt Lời Chúa và các bí tích, đức tin đối nghịch với con người, cũng chỉ nhằm mục đích hiểu biết niềm vui được sống và được yêu như những người con của Thiên Chúa, theo gương Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Chính qua ân ban của Chúa Thánh Thần từ biến cố Hiện Xuống mà Chúa Cha nối kết con người vào đời sống của Người Con riêng của Người. Như thế mầu nhiệm phục sinh mà Đức Giêsu đã trải qua ghi đậm dấu ấn vào cuộc sống chúng ta: mầu nhiệm ấy được thông ban cho ta để ta sống sự sống và cái chết của ta trong tinh thần năng động của ân ban mà Chúa Thánh Thần đã khơi lên và linh hoạt. Về sự năng động mới phải lan toả ra toàn thể lịch sử và tạo vật “còn đang rên la trong cơn đau sinh con” (Rm 8,22), nhưng vẫn “giữ vững niềm hy vọng sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ sự hư nát” (Rm 8,20-21). Chúa Thánh Thần đến từ Cha trên trời, qua Đức Giêsu, được gởi đến để hoán cải tâm hồn ta theo Tình Yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhưng cũng để giữa lòng nhân loại phát sinh một tạo vật mới, được giải thoát khỏi sự dữ và sự chết (x. Rm 8,22-23). Ta đừng phân cách hai hoạt động ấy của Chúa Thánh Thần. Người muốn tạo ra một sự hạ sinh mới vừa trong thâm sâu các tâm hồn và các lương tâm, vừa trong sự phức tạp của thế giới và của lịch sử. Cảm nghiệm của người Kitô hữu về Chúa Thánh Thần luôn có hai chiều kích: cá nhân và lịch sử, sâu xa trong tâm hồn con người và trong dòng toàn bộ lịch sử cứu độ. Đứng trước mạc khải về chiều sâu của Ba Ngôi và của nhân tính Thiên Chúa, hiển nhiên ta cần một cuộc khai tâm thường xuyên. Chỉ dạy cho các tân tòng và các thanh niên xin được rửa tội và thêm sức những yếu tố cơ bản của kinh “Credo” là không đủ. Tất cả chúng ta đều được mời gọi đi đến khám phá Thiên Chúa hằng sống và chân thật, tìm kiếm Người, nhận biết Người và cầu khẩn Người như Người đã tỏ mình ra qua Đức Kitô. Dấu chỉ đó cho thấy tất cả chúng ta đều cần đến Giáo Hội như cần nơi để được chăm lo bú mớm, nơi cảm nghiệm đức tin bén rễ. Thực vậy, Giáo Hội không ở ngoài mầu nhiệm mà Giáo Hội loan báo. Giáo Hội không chỉ là một nhóm các “bạn hữu Đức Kitô” hoặc hiệp hội những người tưởng nhớ đến Người. Theo Công đồng Vatican II, Giáo Hội là “bí tích trong Đức Kitô, nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương tiện giúp kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại” (Lumen Gentium 1). Chính trong và nhờ Giáo Hội mà nhân tính của Thiên Chúa, hôm nay và cho đến ngày tận thế, có thể được trao ban để được nhận biết trong thế giới. Giáo Hội, thân thể Đức Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần, phải làm vang vọng lên nơi nhân loại lời mời gọi mà Thiên Chúa muốn ngỏ với họ.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Bữa tiệc Vượt Qua “của Người”... Các câu từ 12 đến 16, làm thành phần thứ nhất của bài Tin Mừng hôm nay, tập trung vào việc chuẩn bị lễ Vượt Qua của Đức Giêsu, lễ Vượt Qua “của Người”. Những miêu tả rất chi tiết không phải để thoả mãn óc hiếu kỳ của ta, nhưng để dẫn ta vào ý nghĩa sâu xa của những biến cố sắp diễn ra. - Cũng như Matthêu và Luca, Máccô biến bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ thành một bữa tiệc Vượt Qua, bữa tiệc Vượt Qua “của Người”: “Ngày thứ nhất trong tuần lễ bánh không men, lúc người ta sát tế chiên vượt qua, các môn đệ Đức Giêsu hỏi Người: Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua của Thầy ở đâu?”. Chắc chắn lối ghi chép tuần tự theo dòng thời gian của Gioan đúng hơn (xem chương trình “Corpus Christi” phát hình trên kênh “Arte” suốt Tuần Thánh 1997), nhưng dù sao, tác giả Tin Mừng muốn độc giả chú ý đến ý nghĩa của bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu: bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, tưởng niệm biến cố lập quốc của dân Israel, phát triển thành một lễ Vượt Qua mới, cái chết / sự sống lại của Đức Giêsu, từ đó phát sinh một dân tộc mới. Trong bài tường thuật về bữa tiệc của Đức Giêsu với các môn đệ, không thấy có chỗ nào nhắc đến con chiên Vượt Qua, vì, theo đức tin Kitô hữu, như thánh Phaolô đã viết: “Đức Kitô là chiên Vượt Qua đã bị sát tế” (1Cor 5,7). - Nếu bài Tin Mừng mở đầu bằng cuộc vận động của các môn đệ, đoạn kế tiếp lại nhấn mạnh đến sáng kiến của Đức Giêsu. Cũng như ngày Người long trọng vào thành Giêrusalem như Đấng Cứu Thế, Người đã sai hai môn đệ dắt về một con lừa non (Mc 11,1-6), Đức Giêsu cử hai môn đệ đi chuẩn bị lễ Vượt Qua: + Không những Người đã thấy trước “căn phòng”. + Mà Người còn đưa ra một dấu hiệu để nhận ra ông chủ nhà: “một người đàn ông mang vò nước”, cử chỉ rất khác lạ ở miền Trung Đông nơi phụ nữ phải làm công việc múc nước. + Thậm chí cả đến một mật hiệu: “Thầy chúng tôi hỏi ông: Căn phòng Thầy ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?”. Cũng như trong đoạn trước, Đức Giêsu “hành xử như một tiên tri, có khả năng biết những sự việc ẩn giấu” (M.E.Boismard, trong “Đức Giêsu, một người Nadarét”, Cerf, 1996, trang 150).
2. ... Bữa tiệc Vượt Qua mới cho một dân tộc mới. Bỏ qua các câu 17-21 loan báo việc Giuđa phản bội, bản văn dùng trong lễ hôm nay kể ngay đến việc lập phép Thánh Thể. J.Hervieux nói trước: “Truyện kể vắn tắt, sắp xếp gọn gàng. Hiển nhiên đó là một bản văn phụng vụ đã thành hình. Trong những từ ngữ ít ỏi, rất cô đọng, bản văn chỉ nhắm làm sáng lên ý nghĩa của các động tác và các lời nói của Đức Giêsu trong Bữa Dạ Tiệc (Cena tiếng latinh có nghĩa là “bữa ăn tối")” (“Tin Mừng Máccô”, Centurion, 1991, trang 208). - Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã lặp lại hai cử chỉ theo nghi thức nơi người Do Thái để mở đầu và kết thúc bữa tiệc: “chúc phúc” trên bánh mì; “chúc phúc” trên rượu. + Đầu bữa ăn, vị chủ toạ cầm bánh dâng lời chúc tụng Thiên Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúc tụng Chúa, Vua vũ trụ, Chúa đã tạo ra bánh từ ruộng đất!”. Rồi ông bẻ bánh, chia cho mỗi người đồng bàn một miếng; khi ăn bánh, mọi người đều nhận biết đó là một quà tặng của Thiên Chúa. + Cuối bữa ăn, người ta mang tới cho vị chủ toạ một ly rượu có pha nước. Ông cầm ly rượu trong tay, nâng lên, rồi, trong một lời đối thoại theo nghi thức, ông mời gọi các khách tham dự cũng tạ ơn Chúa: “Nào ta hãy tạ ơn Chúa, Người đã nuôi dưỡng ta no thoả!”. Mọi người đáp lời: “Chúc tụng Đấng đã dùng sự phú túc nuôi dưỡng ta và dùng lòng nhân hậu làm cho ta được sống!”. Rồi ông xướng kinh “chúc tụng”: tạ ơn vì sự sáng tạo, vì Giao Ước và vì quà tặng Đất hứa, đồng thời cầu nguyện cho hiện tại và tương lai của Giêrusalem. Sau đó ông chuyển ly rượu cho mọi người tham dự. + Khi làm lại những cử chỉ nghi thức của dân Người: chiều hôm ấy, Đức Giêsu đã ban cho những cử chỉ ấy một ý nghĩa tuyệt đối mới mẻ, đặt chúng trong tương quan với mầu nhiệm phục sinh của Người. + “Này là Mình Ta”, Người nói khi trao bánh đã bẻ ra cho các môn đệ. Như thế, Người xác định, theo nhân chủng học Do Thái, không có tách biệt giữa xác và hồn, nhưng toàn bộ con người của Người: “Này là chính Ta (tự hiến). Phải hiểu như thế. M.Autané bình luận: “Đối với một người Do Thái như Đức Giêsu, chẳng có phân biệt giữa “nhục thể” (Sarx) và “xác thân” (Sôma) như đối với người Hy Lạp. Xác thân hay nhục thể cũng là trọn vẹn con người. Khi nói: “Này là Mình Ta” Đức Giêsu chỉ có ý nói “Đây là tất cả bản thân, sự sống của tôi”. Như người chủ gia đình, trong bữa ăn Vượt qua, cắt nghĩa rằng bánh không men là “bánh nhục nhằn” (Tl 16,3), Đức Giêsu giải thích bánh của bữa tiệc vượt qua mới bằng cách đồng hoá bánh với chính bản thân Người. Người trao cho các môn đệ không chỉ có bánh để ăn, nhưng là chính bản thân Người” (“Hồ sơ Kinh Thánh” số 14). + Cũng vậy, sau khi đã chuyền ly rượu đầy, Người tuyên bố: “Này là Máu Thầy, máu Giao ước, đổ ra cho mọi người” (nghĩa là “cho toàn thể nhân loại”), để công bố ý nghĩa của cái chết của Người. M.Autané nói tiếp: “Máu “giao ước” gọi nhớ đến Xuất hành 24,3-8, khi Môsê ký giao ước với Thiên Chúa bằng rảy máu con vật tế hiến lên bàn thờ rồi trên dân chúng. Giao ước mới ra đời nhờ chính mạng sống của Đức Giêsu, sự sống được tượng trưng bằng máu đổ ra để cứu chuộc số đông, nhân loại. Đức Giêsu, khi sắp bị địch thù tuyên án tử, đã để lại cho cộng đoàn của Người Thánh Thể như một lễ Vượt Qua mới. Như thế, trong bữa ăn này, các môn đệ vừa cảm nghiệm được sự giải phóng - không phải giải phóng khỏi tay người Ai Cập, nhưng khỏi những lực lượng sự chết - và nếm trước bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, khi thời gian chấm dứt. Ta chẳng bao giờ biết được lời lẽ chính xác của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ta biết chắc rằng các môn đệ đã lưu giữ, dạy dỗ, và lưu truyền những gì các ngài cho là chính yếu: sự trao tặng của Đức Giêsu, sự trao tặng chính mạng sống của Người vì tình yêu. Và điều họ phải ghi nhớ đó là sự hiện diện mới của Đức Giêsu: Đấng Phục sinh đã đảo lộn đời họ và Người còn tiếp tục biến đổi thế giới qua Giáo Hội” (Sđd, trang 19).
II. BÀI ĐỌC THÊM 1. Vĩnh viễn ta chỉ bập bẹ nói về bí tích Thánh Thể (Đức Cha L.Daloz, trong “Vậy Người là ai?”, DDB, trang 90-91). Chỉ bằng một cử chỉ đơn sơ và duy nhất, Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ kho tàng Mình và Máu Người. Bằng những lời lẽ vắn tắt và long trọng Người tuyên đọc di chúc của Người. Đó sẽ là trung tâm của các cộng đoàn Kitô hữu, và sẽ thẩm định các cộng đoàn dọc dài suốt lịch sử, cho tới ngày các môn đệ Người sẽ uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu truyền lại cho các môn đệ những cử chỉ và những lời lẽ của phép Thánh Thể, dấu chỉ của thân thể và máu giao ước. Người nộp mình vào tay chúng ta. Vào thời điểm Người sắp bước vào cuộc khổ nạn và hoàn tất thời hiện diện hữu hình, Người có ý tiếp tục bằng sự hiện diện vô hình và tầm vóc phổ quát của hiến tế đời Người. “Chén mà ta sắp uống, các ngươi sẽ uống”, Đức Giêsu đã loan báo như thế (11,39). Người lên tiếng, cầm lấy chén và trao cho ta. Nhờ bánh và rượu này, ta thực sự dấn bước theo Người trên con đường khổ nạn và phục sinh của Người. Ta không chỉ dừng lại ở việc gợi lại lịch sử và thử bắt chước Người. Chúng ta bị kéo vào cuộc phiêu lưu của Người và thành những kẻ tham dự vào số phận của Người. Lời lẽ bất ngờ chưa từng thấy: “Hãy cầm lấy, này là Mình Thầy...” “Này là Máu Thầy...”. Thật ra, người này là ai mà dám nói những lời như thế? Người đã khai mở lỗ hổng nào nơi nhân tính chúng ta để cho giáo ước có thể đi vào, thấm nhập vào đến tận thâm tâm của mỗi người? Ta có thể làm gì khác hơn là linh cảm được điều đó trước khi uống chất rượu mới của Nước Trời? Vĩnh viễn ta chỉ biết bập bẹ nói về phép Thánh Thể.
2. Những bài tường thuật nền tảng về việc cử hành Thánh Thể (M.Scouarnec, trong “Hồ sơ Thánh Kinh” số 41, “Phép Thánh Thể”, trang 24). Giáo Hội coi những bài tường thuật bữa Ăn Tối là nền tảng của việc cử hành Thánh Thể. Luca (cũng như Phaolô) tường thuật lệnh truyền của Chúa: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Lệnh truyền mới tương quan với giao ước mới. Dẫu việc soạn thảo bản văn có những khác biệt, vẫn thấy xuất hiện những nét chính yếu: (1). Bài ca tiếp liên trọng tâm của phép Thánh Thể: . Đức Giêsu cầm lấy bánh, rồi cầm ly rượu.
. Người tạ ơn, hoặc dâng lời chúc tụng. . Người bẻ bánh.
. Người trao cho các môn đệ. Bốn động từ, 4 hành động diễn ra trong nghi thức của phép Thánh Thể: chuẩn bị và trình bày những quà tặng, kinh nguyện tạ ơn long trọng, cử chỉ bẻ bánh và rước lễ. (2). Trong cử chỉ cuối cùng, cử chỉ trao ban, Đức Giêsu đã nói những lời này: “Này là Mình Thầy”... Như vậy, đó là chìa khoá để hiểu toàn bộ hành động. Đức Giêsu ban tặng mình và máu Người, mạng sống của Người, chính bản thân Người. Cái chết của Người, hy tế của người, là một quà tặng cụ thể chính bản thân Người: một hành vi tạ ơn dâng trước cho Chúa Cha và một quà tặng bản thân Người cho anh em. (3). Một khung cảnh Vượt qua. Dù có những mâu thuẫn giữa Gioan và các Tin Mừng nhất lãm về ngày giờ chính xác của bữa Tiệc ly, ta vẫn thấy ý định của các tác giả Tin Mừng nhất lãm là ghi lại bài tường thuật về việc lập phép Thánh Thể trong khung cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái và của Giao Ước, và cho biến cố một nội dung Vượt qua: Đức Kitô vượt qua từ sự chết đến sự sống, thực hiện công cuộc giải phóng mới khỏi tội lỗi nhờ Đức Kitô - Tôi Tớ, cho mọi người chứ không riêng cho dân Israel. (3). Cử hành ngày Chúa nhật: ngày dân Chúa làm nên một thân thể hữu hình (Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp, Cerf, 1996, trang 93-94). Còn về phép Thánh Thể, các cộng đoàn đã tiến bộ trong nhận thức tầm quan trọng của bí tích ấy đối với đời sống Giáo Hội. Nhưng vẫn phải luôn luôn đổi mới ý nghĩa việc cử hành ngày Chúa nhật như thời gian dân đã được Rửa tội kết thành thân thể hữu hình, khi đáp lại lời mời gọi mà Đức Kitô ngỏ với các môn đệ với mục đích cho họ tham dự vào việc tặng bản thân của Người cho sự sống của thế giới. Tất cả chúng ta đã có kinh nghiệm về những buổi cử hành đầy tinh thần đón tiếp nồng ấm khiến cho ta như cảm được ơn cứu độ Thiên Chúa ban tặng, đến phục hồi sức lực cho ta giúp ta tiếp tục rong duổi đường dài. Đó không phải là một lý tưởng không đạt tới được đối với các cộng đoàn của ta, nhất là nếu tất cả những ý thức và những truyền thống thiêng liêng chấp nhận điều tiết những đòi hỏi sau đây mà đôi khi người ta chống báng vì sai lầm: sự tôn trọng truyền thống phụng vụ, lời kêu gọi mọi người tích cực tham dự, sự đóng góp của những diễn tả khác nhau về thẩm mỹ và nghệ thuật. Một thực hành Thánh Thể như thế không thể tách rời khỏi ý thức về những tác vụ được loan truyền vì sự sống và vì sự xây dựng Thân Thể Giáo Hội.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ căn nhà chia rẽ chống lại chính mình. Trên núi, Đức Giêsu thiết lập nhóm “mười hai để họ ở với Người và để sai họ đi rao giảng với quyền xua đuổi ma quỷ”. Giờ đây, Người “vào một ngôi nhà” nơi đám đông tụ tập. Họ khao khát nghe lời Người đến nỗi Người “không có thời giờ ăn uống”. Chính trong khung cảnh ấy Máccô tường thuật lại hai cuộc chống đối Đức Giêsu. Sự chống đối của “gia đình Người”. Thân nhân của Người nói: “Người đã mất trí” và họ đến “bắt Người về” (kiểu nói “bắt” được nhắc lại 4 lần trong bài Thương Khó để chỉ việc bắt giam Đức Giêsu). Sự chống đối của các “Luật sĩ đến từ Giêrusalem”, uy quyền tôn giáo ở Israel: Họ tố cáo Người bị quỷ “Bê-en-dê-bun ám” và Người xua đuổi ma quỉ vì Người là “tướng quỉ”. Đức Giêsu đã trả lời họ tức khắc bằng hai dụ ngôn ngắn: - Dụ ngôn thứ nhất về “vương quốc” hoặc về “gia đình” chia rẽ. Đức Giêsu viện dẫn lương tri: làm sao Satan có thể xua đuổi Satan (hoặc quân quốc của Satan?). Đó là dấu hiệu “hắn tự chống lại mình”, “tự chia rẽ”, như thế “đâu thể đứng vững; quả hắn đã đến ngày tàn”. - Dụ ngôn thứ hai về “người mạnh” khi xua tuổi ma quỉ, Đức Giêsu chứng tỏ Người mạnh hơn Satan, có thể “trói gô” hắn lại. Đối với các Luật sĩ, những kẻ hiểm ác đến độ qui về Satan cả những hoạt động của Thánh Linh, Đức Giêsu tràn đầy Thánh Thần Thiên Chúa đã cho họ biết rằng Người đến truất phế Satan khỏi vương quốc của hắn và Người sẽ trị vì thay hắn.
2. ... đến căn nhà qui tụ các anh em Đức Giêsu. Thân nhân của Đức Giêsu tới để “bắt Người”. Họ, những kẻ “đòi hỏi Người” hiện nay đang “ở ngoài” theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; ở bên ngoài căn nhà, họ đụng phải dòng người vây quanh Thầy để lắng nghe. Đức Giêsu đảo mắt nhìn những người tụ tập quanh Người (theo Máccô, cái nhìn chăm chú ấy luôn mang một ý nghĩa quan trọng) và đưa ra một lời tuyên bố long trọng: gia đình thực sự của Người không phải là gia đình theo xác thịt, nhưng là những người lắng nghe lời Người và thực hành thánh ý Thiên Chúa: “Ai thi hành thánh ý Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta”. J. Hervieux giải thích: “Đối với Máccô, đó là một cách diễn tả Giáo Hội vừa rõ ràng vừa đơn sơ cho các Kitô hữu thời ấy. Cơn bách hại của người Rôma đã đẩy bao gia đình vào thảm cảnh chia lìa đớn đau. Những người trở lại đạo luôn bị bắt buộc phải lựa chọn hoặc dây liên hệ gia đình, hoặc gắn bó với cộng đoàn Kitô hữu. Tác giả Tin Mừng chỉ cho họ thấy rõ chính Đức Giêsu cũng đã bị bắt buộc phải cắt đứt hoàn toàn mối dây liên hệ với thân nhân” (“Tin Mừng Marco”, Centurion, trang 63).
II. BÀI ĐỌC THÊM 1. Một gia đình khác, mạnh hơn gia đình thuộc huyết tộc, đang thành hình (G. Bessière, trong “Thiên Chúa rất gần. Năm B”, DDB, trang 107-108). Dư luận xì xầm. Làng xóm bàn tán. Gia đình mở cuộc họp. Đó là mối nhục của gia tộc. Và ta không thể gả chồng cho các cô gái nữa. Chỉ cần thốt ra tên một người, tức khắc mọi người sẽ tránh xa. Hội đồng gia tộc đã quyết định: “Người ta bảo ông ta khùng rồi” trong khi đám đông vây xúm xít quanh Đức Giêsu, “gia đình Người tới để bắt Người, vì họ cho rằng: Người đã mất trí”. Những ông cậu, những ông anh bà con lực lưỡng cũng biết rằng một uỷ ban luật pháp - các luật sĩ - đã được phái tới từ Giêrusalem để điều tra. Kết luận của họ nguy hiểm cho Người và cho danh giá của cả gia tộc: “Người bị tướng quỷ Bê-en-dê-bun ám; Chính nhờ uy quyền của tướng quỷ Người mới trừ được lũ quỷ con”. Tốt hơn nên nói rằng: Người đã “mất trí”. Người đã làm gì để đến nỗi bị coi là điên khùng hay một người ủng hộ Satan? Người loan báo rằng Thiên Chúa đã đến gần, giải thoát những người bị quỷ ám, chữa lành các bệnh nhân, gần gũi những người cùi, thậm chí còn dám đụng chạm để chữa lành họ, Người còn đi đến mức tha thứ cho người tội lỗi, ăn uống tại nhà những người tội lỗi công khai. Người tự do trong việc giữ luật ngày Sabát. Người có lập trường riêng chẳng hề dựa trên truyền thống. Người nói phải chứa rượu mới trong bầu da mới! Tóm lại là đảo lộn tất cả, và còn tự xưng là... Thiên Chúa!. Chẳng có cách nào băng qua những vòng người ngồi chung quanh để tóm lấy Người. Gia đình Người đành ở lại bên ngoài và cho đòi Người. Người ta nhắn vào: “Mẹ Thầy và anh em Thầy ở ngoài kia tìm Thầy”. Nhưng Người trả lời: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?”. Rồi đưa mắt nhìn mọi người đang ngồi thành vòng tròn chung quanh, Người bảo: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Ai thực hành thánh ý Thiên Chúa, người ấy là anh em, chị em, và mẹ Ta”. Ở một thời buổi và giữa một dân tộc coi gia đình là thánh thiêng, Đức Giêsu đã có một thái độ thoát ly táo bạo. Một gia đình khác chào đời, mạnh hơn gia đình theo huyết tộc, mở rộng đón nhận cả nhân loại, gia đình của Cha Đấng ngự trên trời. Ai đo lường được mức độ mới mẻ gây tranh cãi mà đứa con lạc loài của Nadarét mang lại?
2. Cuộc hành hương đức tin của Maria (G.Garde trong “Các cộng đoàn của Chúa” số 41, trang 51). Máccô buộc ta phải hiểu đức tin của Đức Maria là một đức tin lớn mạnh tiệm tiến. Chẳng phải ngay lúc nhập thể, Đức Maria đã hiểu biết con trai mình là Thiên Chúa. Luca không nói khác, vì theo ông, Mẹ không hiểu câu trả lời của Đức Giêsu ở Đền Thờ năm Người lên 12 tuổi (Lc 2,50). Cũng vậy, hôm nay Mẹ tin rằng phải dùng quyền làm mẹ, để đưa Đức Giêsu trở lại cuộc sống đơn sơ ở Nazareth, nhất là khi giáo quyền của đạo Do Thái xem ra chống lại con Mẹ. Dần dà, nhờ “lắng nghe Lời Chúa” và nhờ thực hành thánh ý mà Đức Maria đã lớn lên trong đức tin, một đức tin càng ngày càng sáng tỏ. Quyền làm mẹ đã tìm thấy một chiều kích mới, để trở nên Mẹ Giáo Hội.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Hạt giống tự mọc lên. Tiếp theo trình thuật về ai là thân nhân thực của Đức Giêsu (Tin Mừng Chúa nhật trước), Máccô đã long trọng đưa vào một chương mới, phải nói là quan trọng. Lúc ấy Đức Giêsu đang ở “ven Biển Hồ” Galilê. “Một đám người rất đông” tụ họp chung quanh Người. Nên Người phải “xuống thuyền mà ngồi dưới biển để giảng dạy đám đông đang ở trên bờ” (4,1-2). Đây là lần đầu tiên Người giảng dạy “bằng dụ ngôn” (4,2). J. Hervieux giải thích: “Dụ ngôn là một câu chuyện rút ra từ thiên nhiên hay trong đời sống thường nhật. Nhờ hình thức rất đơn giản và tính cách lạ thường, dụ ngôn dễ làm cho người nghe chú ý và khiến họ phải suy nghĩ đến điều mà dụ ngôn có ý nhắm tới thông qua những hình ảnh” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 65). Bỏ qua các dụ ngôn người gieo giống (1-9, 13-20) dụ ngôn cái đèn (21-23) cái đấu (24-25), là những dụ ngôn ta đã suy niệm trong năm A-Matthêu, bài đọc năm B này chỉ giữ lại hai dụ ngôn cuối cùng: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải. Mở đầu Tin Mừng Chúa nhật XI thường niên này là dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên. + Tiên vàn trình thuật vắn tắt gợi lại thời gieo vãi: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất”. + Rồi kết thúc cũng một cách vắn gọn, nói về “thời gặt lúa”: “Lúc vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt”. Kiểu nói sau này là mượn lời của ngôn sứ Joel 4,13 loan báo ngày phán xét của Chúa tương tự như mùa gặt: “Ta sẽ ngự tòa phán xét muôn dân - Hãy đem liềm hái ra, vì đã đến mùa gặt rồi”. + Khoảng giữa hai thời kỳ là việc nảy mầm và phát triển của hạt giống diễn ra trong âm thầm và chậm chạp, được tác giả Tin Mừng gợi ra bằng những giai đoạn lần lượt nối tiếp nhau: “cây lúa”, “trổ đòng” rồi “bông lúa nặng trĩu hạt”. Đối lại với sự hoạt động của hai thời kỳ gieo và gặt, là tính vô lo rõ ràng của người gieo trong giai đoạn trung gian này. Thật vậy, bác nhà nông của chúng ta đã trở lại nhịp sống thường ngày. Bác lo toan những công việc khác mà chẳng phải bận tâm đến đồng ruộng nữa. Vậy mà đang lúc ấy, “đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức”, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, “bằng cách nào”, thì người ấy không biết. Một dụ ngôn trả lời cho tâm trạng thiếu kiên nhẫn hoặc thất vọng của đám thính giả vốn dựa vào lời giáo huấn của Gioan Tẩy Giả nên đang trông đợi ngày Chúa phán xét và trừng trị những quân gian ác, cùng với sự xuất hiện của Nước Chúa. Về phần Đức Giêsu, Người muốn cho họ hiểu rằng Người sẽ thi hành quyền xét xử đó vào ngày tận thế, tức là vào thời kỳ gặt lúa. Còn sứ vụ hiện nay của Người là thời gian để hạt giống nẩy mầm và lớn lên; đó là thời trung gian cần thiết để Lời được gieo vãi vào lòng đất, hoạt động không ngừng trong lòng mọi người hầu chuẩn bị cho Ngày Thu Hoạch. Khi lấy lại những lời này của Đức Giêsu để gởi đến cho các độc giả của mình, Máccô muốn đoan chắc với họ rằng dù họ đang phải sống những giờ phút gian nan thử thách thế mà Thiên Chúa lại có vẻ như vắng bóng, nhưng kỳ thực Người vẫn đang lèo lái công trình của Người bằng một hoạt động lặng lẽ và âm thầm, nhưng miệt mài và có kết quả.
2. Hạt nhỏ nhất lại trở thành cây lớn. Dụ ngôn thứ năm và cũng là dụ ngôn cuối cùng của chương 4 Tin Mừng Máccô, cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ. Thật chẳng tương xứng chút nào! “Hạt cải... là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ”. Ngỏ lời với đám thính giả đang đánh giá sứ vụ của mình theo những tiêu chuẩn phàm trần, và với những ai đang thất vọng khi thấy vẻ khiêm tốn lúc ban đầu của mình, Đức Giêsu báo trước cho họ biết rằng, dù thế nào, họ cũng vẫn là những người được chứng kiến công cuộc khai trương Nước Thiên Chúa. Nơi bản thân Đức Giêsu, dù bằng cách kín đáo thế nào chăng nữa, thì Nước Thiên Chúa cũng đã xuất hiện rồi. Một ngày nào đó, nhân loại sẽ phải ngỡ ngàng chứng kiến sức mạnh vô địch và vẻ phong phú lạ lùng của Nước ấy. Cái gì mắt người được nhìn thấy hiện nay không cho ai đoán trước được nó sẽ như thế nào ở giai đoạn chót của mức phát triển. Tường thuật lại cho các độc giả của mình những lời này của Đức Giêsu, Máccô muốn trấn an họ rằng hoạt động của Đức Giêsu khi còn tại thế dù khiêm tốn, nhỏ bé, và cộng đoàn các môn đệ của Người là Giáo Hội, dù có yếu đuối thế nào, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống mà khi tới giai đoạn chót của mức phát triển, phải đạt được chiều kích toàn cầu” (J.Hervieux).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước Trời” (L.Sintas, trong “Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie, năm B”, Médiaspaul, trang 90-91). Đức Giêsu kể tiếp một dụ ngôn khác liên kết với dụ ngôn nói về sự phát triển từ những cái nhỏ bé. Dụ ngôn này đem lại rất nhiều sức nâng đỡ, ủi an, nếu ta biết sống đúng chân lý của dụ ngôn ấy. Thật vậy, nhiều khi vì lòng nhiệt thành mà ta lại phải chuốc lấy lo âu phiền muộn. Khi ta mệt mỏi phần nào vì trông cho Nước Chúa trị đến, nên có lẽ vì sự mệt mỏi đó, mà ta đòi hỏi phải có ngay và thấy được sự thành tựu. Đó cũng là điều tự nhiên thôi. Thế nhưng thái độ đó thật nguy hiểm. Vì rốt cuộc nó sẽ làm cho ta ngờ rằng chính ta là những tác giả, là những người thợ kiến tạo Nước Trời. Mà thực ra chỉ mình Thiên Chúa và chính Thiên Chúa mới là tác giả của Nước ấy. Về phần ta, chỉ phải coi mình là những dụng cụ bé mọn mà tay Chúa dùng. Hãy nhìn hạt giống đã gieo vãi xuống đất. Đêm hay ngày, người gieo có ngủ hay thức, lo âu hay thanh thản, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên. Không ai có thể thúc bách cho hạt giống mọc vội, mọc nhanh. Bởi lẽ chính Chúa mới là Kẻ Kiến Tạo Nước Trời. Trong những thời kỳ khủng hoảng chúng ta đang trải qua trong Giáo Hội, thiết tưởng ta nên coi trọng dụ ngôn này. Những xao xuyến, bồn chồn, cuồng nhiệt của ta sẽ chẳng thêm gì hơn cho Nước Chúa. Nước Chúa chỉ cần ta góp phần vào một việc là người gieo hãy làm công việc của mình cách trung thực. Đành rằng công việc gieo vãi này, ta phải chu toàn. Nhưng hãy ở đúng vị trí của mình, chứ đừng bao giờ lấn sang chỗ không phải là của ta. Hạt giống mọc lên không tùy thuộc ở ta mà hoàn toàn tùy thuộc ở Chúa. Nếu tình hình hiện nay của Giáo Hội cho phép ta hiểu biết khá hơn chân lý này, thiết tưởng cũng là điều hữu ích vậy.
2. “Chỉ trong vài dòng mà đã nói lên tất cả hành trình cuộc đời của Đức Giêsu, và tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời” (G.Bessière, trong “Dieu si proche, năm B”, Desclée de Brouwer, trang 111-112). Quả thực, chuyện Nước Thiên Chúa cũng giống như chuyện của hạt giống vậy. Được gieo vãi vào lòng đất, hạt giống sẽ nẩy mầm, mọc lên và phát triển, không cần đến bày tay can thiệp của người gieo, không cần biết hạt giống mọc lên như thế nào. Nước ấy sẽ tỏ hiện vào mùa gặt, nghĩa là vào ngày “chung thẩm”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, liềm hái và mùa gặt gợi ra hình ảnh “ngày tận thế”. Từ khi gieo vãi cho đến mùa gặt, là thời gian đất hoạt động âm thầm: mầu nhiệm sự chết và sự sống. Khi kể dụ ngôn này, Đức Giêsu có vẻ đặc biệt nhấn mạnh đến giai đoạn phát triển của hạt giống. Trọn hành trình cuộc đời của Đức Giêsu được nói lên ở đây, vắn gọn trong một vài dòng - Và đó cũng là tất cả bước đường phiêu lưu của Nước Trời. Lời Chúa đã mang mầm mống nhân loại: “và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Giờ đây Người đang ở trong cánh đồng nhân loại để gieo vãi. Rồi sẽ tới ngày là mùa gặt. Hiện giờ là phải sống tin tưởng và hy vọng vì là lúc hạt giống đang nẩy mầm và lớn lên. Dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh đến tính cách nhỏ bé của hạt và tầm vóc lớn lao của cây. Thật lạ lùng! Hãy nhìn coi, vật nhỏ bé nhất của trần gian, mà phát triển như vậy đó! Nước Trời ở khắp mọi nơi. Ở đâu người ta đón nhận Lời Chúa, ở đó Lời Chúa trở nên hữu hình. Hạt giống của Lời nẩy mầm và lớn lên trong âm thầm của những cõi lòng, trong huyền nhiệm của những cuộc đời vậy.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Một trình thuật giống kiểu trừ tà. Đức Giêsu rời bỏ ven Biển Hồ Galilê, nơi Người đã dùng dụ ngôn mà giảng dạy cho dân chúng (x. Tin Mừng Chúa nhật trước) để phiêu lưu sang “bờ bên kia”, nơi có đông dân cư là người ngoại. Trình thuật Máccô ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh đó. Đọc trích đoạn trên, người đọc chỉ có thể thấy cái hời hợt bên ngoài, nếu không biết gió và biển trong Kinh Thánh có ý nghĩa biểu tượng gì, và nếu không để giờ đối chiếu đoạn văn này với câu chuyện Chúa gặp người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum. - Thực vậy, “gió” và “biển” đối với người am tường Kinh Thánh, mang rất nhiều ý nghĩa. M.E.Boismard giải thích: “Trong ngôn ngữ Do Thái, cùng một tiếng “gió” cũng có nghĩa là “Thần Trí”. Ngoài ra trong Kinh Thánh, biển thường là biểu tượng những thế lực gian tà mà Thiên Chúa phải đánh gục để kế hoạch của Người toàn thắng. Ở đây, biển động dữ dội do ảnh hưởng của cuồng phong. Ta phải hiểu là có một “thần trí” xấu (Satan chăng?) đang tung những ma lực dưới quyền để ùa đến tấn công con thuyền, tức là tấn công các môn đệ” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 78). Quả là một trở ngại lớn lao cho việc loan báo Tin Mừng trên miền đất dân ngoại! - Còn nếu đối chiếu với phép lạ giải thoát người bị quỷ ám ở hội đường Capharnaum (Mc 1,23-27) ý nghĩa lại càng rõ. + Nơi Mc 1,25, Đức Giêsu đã quát mắng “thần ô uế”: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Còn ở đây, sau khi được các bạn đồng hành đánh thức dậy, vì Người đang ngủ ở đàng lái, Đức Giêsu ngăm đe gió và truyền cho biển: “Im đi, câm đi”. + Nơi Mc 1,26, thần ô uế, sau khi đã lay mạnh người ấy, thì thét lên một tiếng và xuất khỏi anh ta. Còn ở đây, gió và biển đều tuân phục Đức Giêsu: “Gió liền tắt và biển lặng như tờ”. + Nơi Mc 1,27: cảnh kết thúc với lời bàn tán của những người chứng kiến: “Mọi người đều kinh ngạc và bàn tán: Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”. Còn ở đây, các môn đệ cũng bàn tán: “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”. Thế nên, trong chuyện kể về bão táp được dẹp yên, không chỉ đơn thuần là việc Đức Giêsu biểu dương quyền lực đối với thiên nhiên mà chính là vấn đề trừ quỷ đích thực: Đức Giêsu có quyền trấn áp Satan và những thế lực của sự ác đang hoạt động song hành với Người. Còn về lời bàn tán của các môn đệ “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh”, thì rõ ràng là lời mạc khải. J.Potin chú giải: “theo cách nhìn của Kinh Thánh, bão táp là biểu hiện của những ma lực tiềm ẩn trong biển cả (...). Chỉ mình Thiên Chúa hoặc kẻ được Chúa ban quyền mới có thể chế ngự được những thế lực ấy (...). Ở đây các môn đệ được mời gọi khám phá ra chân lý tiềm ẩn đàng sau cảnh dẹp yên sóng gió là: Đức Giêsu được Thiên Chúa trao ban quyền lực để thu hồi mọi lực lượng về phục tùng Thiên Chúa. Nhờ thế lực của Đức Giêsu mà các môn đệ đã khắc phục được hiểm nguy lớn lao. Việc hồi tưởng lại một biến cố rõ rệt đã trải qua, sự hộ phù che chở của Chúa trong chuyến vượt biển nguy hiểm ấy, đều là biểu tượng ơn nâng đỡ Người sẽ ban cho các ông trong lúc con thuyền Giáo Hội lâm cảnh lênh đênh sóng gió” (“Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, 1994, trang 256-257).
2. Khi đọc lại câu chuyện dưới ánh sáng phục sinh. Một sự đối chiếu khác không kém phần lý thú và chứa đựng nhiều giáo huấn. Đó là cảnh khởi đầu của sách Giona mà trích đoạn Tin Mừng này coi như đã sao họa lại. - Trong cả hai trường hợp, câu chuyện đều cùng mở đầu bằng việc hành khách xuống thuyền (Gio 1,3; Mc 4,35-36). + Nếu Giona xuống thuyền để đi Taxê là vì ông nghĩ mình có thể trốn lánh mặt Chúa, Người đã lệnh cho ông phải đi tới Ninivê, một thành phố lớn của dân ngoại để kêu gọi dân thành ở đây trở lại. + Còn Đức Giêsu xuống thuyền là để tới ven bờ bên kia của Biển Hồ, miền đất thuộc dân ngoại, cũng là để rao giảng Tin Mừng ở đây. Đây là một khúc quanh quan trọng trong sứ vụ của Người. - Trong cả hai trường hợp đều có một trận cuồng phong nổi lên khiến biển động dữ dội. - Trong khi đó, Giona và Đức Giêsu đều cùng ngủ mệt: Giona ngủ vùi dưới lòng tàu, còn Đức Giêsu thì dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ ở đàng lái, chỗ thường dành cho người thủy thủ cầm lái (T.O.B). - Tất cả đều “cùng sợ hãi”: các thủy thủ trong Giona 1,5, các môn đệ Đức Giêsu trong Mc 4,40. - Cùng xoay sở và cùng buông lời trách móc. Nói với Giona: “Ông làm nghề gì? Sao ngủ mê mệt như vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Người sẽ đoái đến chúng ta, và chúng ta khỏi chết chăng?”. Nói với Đức Giêsu trong Mc 4: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi. Thầy chẳng lo gì sao?”. - Cùng cảnh êm ả trở lại. + Ở Giona 1: Sau khi các thủy thủ đã kêu cầu Chúa, trước khi ném Giona xuống biển theo yêu cầu của ông. + Nơi Mc 4: Theo lệnh truyền của chính Đức Giêsu. - Cùng một phản ứng từ phía những người chứng kiến sự việc: + Nơi Giona 1: “Mọi người đều rất kính sợ Chúa; họ làm lễ tế dâng lên Chúa cùng với lời khấn hứa”. + Nơi Mc 4: “Các ông hoảng sợ và nói với nhau: Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Ở đây, “dấu chỉ Giona” há chẳng phải là một lối ám chỉ và là một biểu tượng loan báo cuộc đối đầu quyết liệt của Ngày Thứ Sáu Thánh (nhất nữa, giấc ngủ theo Kinh Thánh thường là biểu tượng của sự chết và động từ “chỗi dậy” được trình thuật sử dụng vốn là một trong những động từ thế hệ Kitô giáo ban đầu dùng để chỉ sự phục sinh) ? J.Hervieux đưa ra nhận xét: “Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió không chỉ đơn giản là một tường thuật về một phép lạ. Câu chuyện đó được coi như một biểu tượng nói lên một cách cô đọng số phận nghiệt ngã của Đức Giêsu. Nếu Người có đưa các môn đệ vào trận cuồng phong, thì cũng không phải do ngẫu nhiên! Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc chiến cam go với những thế lực của sự Ác. Người phải tiến lên đối đầu với một cuộc chạm trán khốc liệt nhất: đối đầu với chính cái chết của mình. Việc Người ngủ - chẳng ai lại ngủ giữa lúc phong ba bão táp - lại là điều rất có ý nghĩa. Trong Kinh Thánh, giấc ngủ vẫn thường là biểu tượng sự chết. Ở đây cuộc khổ nạn của Đức Giêsu như được diễn trước bằng kịch câm. Đức Giêsu thiếp ngủ đi như chết giữa cảnh xôn xao náo động của hỏa ngục được gợi hình bằng những đợt sóng lồng lộng điên cuồng. Trong một tình huống như vậy, mà Thầy vẫn ngủ, thì chuyện các môn đệ hoảng sợ cũng là điều dễ hiểu. Trước cảnh tượng của thập giá sau này, cũng như ở đây lúc này, các ông sẽ mất lòng tin là điều hiển nhiên” (“Evangile de Marc”, Centurion, trang 75). Cũng tác giả J.Hervieux kết luận: “Khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Máccô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo Hội thời ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi sợ hãi, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Người “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè, sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập? Cuối cùng ta đừng quên, bão táp xảy đến trong lúc Đức Giêsu đã quyết định đem các bạn hữu theo mình đi truyền giáo ở phía bên kia Biển Hồ, nơi các dân ngoại. Người ta có thể nghĩ bụng phải chăng các tín hữu đầu tiên ở Rôma không linh cảm việc loan báo Tin Mừng cho những người đương thời của họ là một công việc đáng dễ sợ sao?” (Sđd)
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Vậy người này là ai” (Đức Cha L.Daloz trong “Qui donc est-it?”, Desclée de Brouwer, trang 33). “Có một thứ mâu thuẫn trong cách phản ứng của các môn đệ: khi sợ hãi trong lúc gặp sóng gió, các ông liền lên tiếng kêu cứu Chúa, đánh thức Người dậy: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Thế nhưng khi Chúa truyền cho gió yên bể lặng rồi, thì các ông lại kinh ngạc: “Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh” ? Đức Giêsu biết rõ lòng trí các ông còn lẫn lộn bán tín bán nghi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Lắm lúc chúng ta cũng mang một tâm trạng như vậy. Ta cậy dựa vào Chúa, biết rõ mình có thể kêu cầu Chúa, chẳng cần phải đánh thức Người dậy! Cùng lúc ấy, tâm trí ta lại vương nỗi do dự này: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, mà Thầy chẳng lo gì sao?”. Chúa liền ra tay để củng cố lòng tin cho ta. Tin như vậy là tiếng kêu gọi thiết tha, là niềm cậy trông còn nhỏ bé và mong manh thúc đẩy ta chạy đến với Chúa. Rồi lòng tin ấy trở nên tâm tình cảm phục, vững tin khi Chúa cho ta biết Người là ai, Người có thể làm gì cho những ai dám đến cùng Người. “Vậy người này là ai...?”. Lời đó phải vừa là câu hỏi, vừa là tiếng kêu bày tỏ lòng suy tôn vậy”.
2. “Từ sợ hãi đến tin tưởng” (F.Deleclos, trong “Prends et mange la Parole”, Centurion- Duculot, trang 148-149). “Hãy xem ông Gióp, bị điêu đứng vì những thứ thách trăm bề, về mặt vật chất cũng như tinh thần, mặt đạo đức cũng như thiêng liêng. Một người chính trực như ông mà đã phải gánh chịu bao bất công, phải chao đảo vì những tai ương dồn dập, và vì sự thinh lặng của chúa. Ông tố cáo Chúa, Chúa sẽ chẳng đưa ra lời giải thích nào, và sẽ chẳng vén lên bức màn bao trùm mầu nhiệm khôn dò về sự Ác. Thế nhưng chỉ giữa lúc phong ba bão táp thì Chúa mới nhắc nhở cho ông biết rằng Người là chúa tể của bão, Người có quyền đặt ranh giới và ngăn chặn những đợt sóng kiêu hùng của bão. Thế là ông Gióp nghiêng mình bái phục Chúa với lòng tin, đồng thời thú nhận sự ngu muội của mình. Máccô dùng cũng thứ ngôn ngữ ấy để nói với các tín hữu của giáo đoàn Rôma đang hốt hoảng và bị chấn thương vì cơn bách hại. Ngài để lại cho họ một kinh nghiệm bản thân: chính các tông đồ cũng đã từng biết đến một Đức Giêsu ấy nằm ngủ và tỉnh bơ trước thảm cảnh của những bạn đồng hành, hoảng hốt thấy mình sắp “đi đời” rồi, dù họ là những tay ngư phủ dày dạn. Thực tế là các ông đã chỉ thiếu lòng tin mà thôi, hay nói cách khác là lòng tin tưởng và yêu mến, vì theo kiểu nói của thánh Phaolô, họ đã chỉ biết Đức Kitô theo quan điểm loài người (Bài đọc 2). Đường lối sư phạm của Chúa vẫn trước sau như một. Những lớp sóng vẫn liên lỉ và ồ ạt vập vào thuyền khiến thuyền đầy nước... Vậy mà Đức Kitô luôn có mặt ở đó, vẫn cứ ngủ. Giống như thời ông Gióp, ta cũng thường tra hỏi, chất vẫn, sửng sốt, đòi hỏi Chúa phải giải thích và trình bày. Tại sao vẫn xảy ra những vụ tàn sát những người vô tội, những cảnh anh em chém giết nhau không nương tay, những cuộc bách hại đẫm máu, những trận dịch kinh hoàng, những bất công chỉ biết kêu trời báo oán, những cảnh chết đói khiến phải đào mồ chôn tập thể. Ta đừng chờ đợi phép lạ, có chăng chính là phép lạ của lòng tin, cậy, mến. Thực ra “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và ngày mai” cũng vẫn là một. Hằng ngày ta vẫn còn thấy Người thực hiện những điều kỳ diệu khi làm nẩy sinh những tạo vật mới, khi tạo dựng một thế giới mới. Đó là mỗi lần mà tha thứ thay thế cho hận thù, ích kỷ nhường chỗ cho quảng đại và lòng can đảm quét sạch đi những hèn nhát. Còn một câu hỏi và nỗi sợ hãi khác từ phía những tín hữu vốn khư khư với những tập quán, quan niệm hẹp hòi, với những chương trình và kế hoạch tương lai cho Giáo Hội do họ suy luận ra, nên họ la ó lên rằng: “Hỏng hết cả rồi” khi họ nhìn thấy những bảng thống kê sụt giảm, những cơ cấu rạn nứt, những hình thức đổi thay và những cánh cửa canh tân mở toang. Câu trả lời của Chúa vẫn không thay đổi: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Há các bạn không nhìn thấy trong “cơn gió chướng mạnh” Thần Khí vẫn đang thổi hơi, làm nổi lên cho mãi tới những gốc cây cổ thụ đang chết một giải đất bao la đầy những chồi non đang vươn lên ngợi ca sự sống và hy vọng. Bởi lẽ “cái cũ đã biến mất, và cái mới đã có đây rồi” (Bài đọc 2)”. [2]
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Dân làng Nagiarét ngạc nhiên mà không tin. Trong thời gian rao giảng Tin Mừng ở Galilê, Đức Giêsu hẳn đã có nhiều dịp trở về Nagiarét. Thế nhưng Tin Mừng nhất lãm (Mt 13,54-58; Lc 4,16 và tiếp theo; Mc 6,1-6) đã chỉ ghi lại có một lần viếng thăm này mà thôi, bởi lẽ đối với các ngài, thái độ rẻ rúng của dân làng Nagiarét đối với Đức Giêsu trong lần viếng thăm ấy, đã mang ý nghĩa tiêu biểu cho thái độ chối từ của dân Do Thái mà Người đã phải hứng chịu. Phần đầu của buổi viếng thăm này rất giống với những gì Máccô kể ra ở 1,21: thiên hạ đều sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu. Nhưng phần kết thúc của hai bài tường thuật lại khác nhau hoàn toàn. Ở đây, “nơi quê quán” của Người, những người nghe mà cảm phục, rồi lại mau chóng thay lòng đổi dạ, không tin Chúa, tiên vàn họ đều là những người cùng làng xóm với Người. M.E. Boismard tự hỏi: Làm sao giải thích sự thay đổi tình hình như vậy? Ông gợi ý: “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến như sau: Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Try-phon, thánh Giút-ti-nô (khoảng năm 150) sẽ làm vang vọng lại niềm tin này khi kể lại ý kiến sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêsia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay Ngài là Đấng Mêsia" (Dial. 110,1). Đó đúng là luận điệu của những người làng Nagiarét (...). Mà cũng là luận điệu của cư dân Giêrusalem được Tin MừngGioan tường thuật: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi, còn Đấng Kitô khi Người đến, thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả”, nghĩa là không ai biết rõ nguồn gốc của Người (Ga 7,27). Đối với những dân làng Nagiarét cũng vậy, Đức Giêsu không thể là Đấng Mêsia được, vì người ta biết rõ Người, biết cả tông chi họ hàng của Người nữa” (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 84). - Cụ thể là họ biết rõ nghề nghiệp của Người: “Ông ta không phải là bác thợ mộc sao?” (thời ấy nghề thợ mộc không chỉ chuyên lo về mộc, mà cũng còn lo cả việc xây cất nhà cửa nữa). - Họ biết rõ bà thân mẫu của Người: “Ông ta không phải là con bà Maria sao?”. - Họ biết bà con họ hàng của Người: “Ông ta không phải là anh em của các ông Giacôbê, Doxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Thế nên, làm sao mà họ nhận biết được Người là vị ngôn sứ, Đấng được Thiên Chúa sai đến để nói nhân danh Chúa? Họ “hoàn toàn vấp ngã”(sát nghĩa là bị sì-căng-đan) vì Người”. Đức Giêsu, người đồng hương của họ, mà trước đây họ lấy làm vui sướng đón tiếp, thì giờ đây lại trở nên một chướng ngại vật khiến họ vấp ngã.
2. Đức Giêsu “ngạc nhiên” vì họ cứng lòng tin và đành bó tay. - Con người mà, các môn đệ đã từng thấy truyền lệnh cho sóng yên bể lặng (Tin Mừng Chúa nhật 12), xua đuổi quỷ dữ (phép lạ chữa người bị quỷ ám ở Ghêrasa, 5,1-20) cho người đàn bà mang bệnh bất trị được khỏi và đem cô gái con ông Giairô ra khỏi giấc ngủ ngàn thu, thì nay bỗng trở thành kẻ bất lực, vô phương, “ngạc nhiên” vì những người đồng hương của mình cứng lòng tin. Máccô chẳng e ngại khi phải viết lời này: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó”. Không phải là vấn đề thiếu yếu tố tâm lý cần thiết cho sự lành bệnh, mà chính là tại thiếu lòng tin, vì có tin thì “phép lạ” mới có được ý nghĩa đích thực. Nên Đức Giêsu đành phải mượn ý câu ngạn ngữ “Bụt nhà không thiêng” mà kết luận rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. - Nhưng không gì có thể ngăn chặn được tính năng động của Lời. Thái độ chối từ của người làng Nagiarét, cũng như sự ngạc nhiên mà thúc thủ của Đức Giêsu, đều đã loan báo tấn bi kịch về cuộc khổ nạn và sự thất bại tỏ tường của Thập giá; còn việc Đức Giêsu khai trương đi rao giảng cho “các làng chung quanh” lại báo trước chiến thắng phục sinh và công việc truyền giáo cho các dân ngoại. - Đây là đoạn bản lề phân chia Tin Mừng Máccô thành hai phần rõ rệt. + Một giai đoạn đang hoàn thành. Trong suốt giai đoạn này vấn đề chân tính của Đức Giêsu không ngừng được vang lên như một điệp khúc: “Vậy người này là ai?”. - Về phía các môn đệ, vấn đề luôn mở ra: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Các môn đệ đã khởi sự đi vào gia đình đích thực của Đức Giêsu, gia đình của những người thực hành ý muốn của Thiên Chúa (3,31-35). Rồi đây sau cơn hốt hoảng của Ngày Thứ Sáu Thánh, các ông sẽ có thể tuyên xưng Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, chết, sống lại là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma nơi Máccô 15,39). - Về phía dân làng Nagiarét, vấn đề được khép lại: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?”. Câu hỏi đó đã là điềm báo trước con đường bi thảm của hiện tượng này: thái độ chối từ Chúa. + Một giai đoạn mới đang mở ra. Giai đoạn đó sẽ đưa ta đi từ việc tham gia công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai (Tin Mừng Chúa nhật tới) để rồi cùng tuyên xưng lòng tin với Phêrô (8,26).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Đức Giêsu đối mặt với thái độ không tin” (“Cahiers-Evangile”, số 1/2 trang 53). Câu chuyện Đức Giêsu đến Nagiarét (6,1-6) xoay quanh vấn đề không tin và tạo nên bức tranh tương phản với chuyện xảy ra trước đây. “Đức Giêsu lấy làm lạ vì họ không tin” (6,6). Một sự kiện thật là tương phản với loạt phép lạ xảy ra trước đây, và chứng tỏ rằng để nhận ra được Đức Giêsu có quyền làm cho kẻ chết sống lại, người ta phải có một lòng tin đến thế nào. Tới Nagiarét, nơi quê quán của Người lúc này Đức Giêsu phải đối mặt với thái độ không tin của con người. “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay trên vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Việc Người không thể làm được phép lạ ở đây có liên quan tới thái độ không tin của những người trong cuộc, chứ không phải do yếu tố tâm lý nơi người bệnh vốn cũng là điều kiện cho người ấy được khỏi. Không có bối cảnh của lòng tin, phép lạ chẳng còn ý nghĩa gì, và sẽ không thể nói đến phép lạ. Đức Giêsu đã phải sửng sốt vì thái độ không tin này. Ta hãy xem Người đã tỏ thái độ thế nào với các môn đệ khi gặp bão táp: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” (4,40). Người ta không có lòng tin là điều Chúa không hiểu nổi, thì ngược lại, “khi thấy một lòng tin mạnh như thế, ngoài Israel”, Người tỏ ra rất ngạc nhiên như Matthêu và Luca sẽ ghi nhận (Mt 8,10; Lc 7,9). Còn trong trường hợp này, Đức Giêsu đang ở quê nhà, giữa đám bà con họ hàng. Người đã nói với họ rằng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mình mà thôi” (6,4). Chỉ có mình Máccô nhấn mạnh và xác định rõ là “giữa đám bà con thân thuộc”. Tại Nagiarét, người ta lại thấy có sự phân biệt trong liên hệ “ai là mẹ tôi” đã diễn tả trước đây (3,20-35). Ở đây sự thu hẹp (về liên hệ) còn rõ nét hơn. Bởi lẽ có lần Chúa đã xác định gia đình mới của Người là những ai nghe Lời Chúa, những kẻ mà trong một buổi gặp gỡ trước đây được mô tả là ngồi chung quanh Chúa. Lúc này Đức Giêsu và các môn đệ Người lại giữ khoảng cách với những người đứng ở ngoài, những người không thuận với Người. Trước đây có lời chép rằng: “Ai nghe Lời Chúa, người ấy là bà con thân thuộc với tôi” (3,35). Còn ở đây, Người muốn tỏ cho thấy rằng ai tin, người ấy là bà con thân thuộc của Người. Nghe lời Chúa và tin vào Người là hai mặt luôn kết hợp hài hòa và bổ túc lẫn nhau.
2. “Ta biết người ấy quá mà” (Đức Cha L.Daloz trong “Qui donc est-it?”, Desclée de Brouwer, trang 37-38). “Nếu lòng tin tạo khả năng đón nhận ơn cứu độ Chúa mang đến, thì sự thiếu lòng tin dựng lên hàng rào ngăn cản. Ở Nagiarét, Đức Giêsu không thể làm được một phép lạ nào, dù là đang ở tại quê nhà, giữa đám bà con thân thuộc của mình... Ở giữa đám bà con, mà Người phải “lấy làm lạ vì họ không tin”. Đức Giêsu lấy làm lạ, Còn họ khi được nghe lời Người giảng dạy ở hội đường thì “rất đỗi ngạc nhiên”. Đôi bên ngạc nhiên nhau, một thứ không hiểu nhau. Ở đây sự gần gũi với Đức Giêsu lại nên như bức màn che giấu mầu nhiệm về bản thân Người. Người đang có mặt ở đây, rõ ràng là người đồng hương của ta. Người ta biết Người rành rọt: biết nghề nghiệp của Người, biết bà mẹ và các anh chị em của Người. Họ biết tất cả, mà cái cốt yếu thì lại không biết. Bác thợ mộc Giêsu, người Nagiarét đã phải kín đáo lắm, bình dị lắm, phải y hệt như mọi người, “chẳng có dấu hiệu gì đặc biệt”: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?”... Như vậy, Đức Giêsu đã tỏ ra hoàn toàn là người, hoàn toàn là một người Nagiarét, nên ở quê hương mình, người ta không thể công nhận được rằng ngoài những điều mà tới nay ai nấy vốn đã có thể biết, Người còn có gì hơn nữa. Từ bé đến nay, việc ta quen lui tới với Chúa, với nhiều cách thế để được nghe nói về Người phải chăng đôi khi cũng là bức màn che giấu đi cái cốt yếu? Người môn đệ đích thực của Chúa lúc nào cũng phải mới để có khả năng đón nhận. Người ấy biết rằng Đức Giêsu không chỉ như mình hiểu biết. Người ta không thể đóng khung hạn định được Người. Người luôn vượt khỏi tầm tay của ta và vượt xa điều ta hiểu biết về Người. Ta có hiểu biết Người ở đời này, thì cũng như biết qua tấm gương mù mờ thôi. Khi nói về Đức Giêsu, phải chăng ta hay đưa ra những thông tin về Người, những thông tin có thể tạo ảo tưởng là ta biết đủ rồi mà không mời gọi ta tiến thêm lên, hay là ta cố gắng đi sâu vào sự gặp gỡ với chính bản thân và huyền nhiệm của Người?”
3. “Chỉ có tin với tin” (G.Bessière, trong “Dieu si proche. Năm B”, DDB, trang 120-121). Thật cũng lạ: Đức Giêsu lấy làm lạ vì những đồng hương của Người lại thiếu lòng tin. Vậy mà những người đồng hương của Người thảy đều là kẻ tin Thiên Chúa, một Thiên Chúa cứng rắn, thảy đều đã từng hội họp với nhau ở hội đường. Họ đều là những kẻ có lòng tin từ đầu đến chân, như tục ngữ nói. Lòng trí họ không một dấu vết do dự hay ngờ vực nào. Họ tôn thờ Chúa là Đấng tạo dựng vạn vật và điều khiển dòng lịch sử. Thời đó, đâu đã có những người vô thần hay những kẻ không tin như ngày nay!... Họ có lòng tin không? Tất nhiên có. Nhưng lòng tin Đức Giêsu đòi hỏi người ta ở đây, không phải chỉ là lòng tin vào Thiên Chúa, theo kiểu cha truyền con nối, mà chính là tin vào Người bác thợ mộc của làng. Liệu một bác thợ mộc mà người ta biết rõ cha mẹ và tất cả bà con của ông, lại có thể đòi hỏi người ta phải tin vào mình như tin vào Thiên Chúa chăng? Nè, còn hơn thế nữa kìa, lòng tin mà con người ấy muốn, không phải là một mớ những điều phải tin, nhưng là sự đảo lộn cuộc sống: “Ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy...”. Người còn nói: phải đi theo Người, phải cho đi và hiến thân, phải yêu mến cả kẻ thù, phải vác thập giá mình... Nào, chúng ta hãy lật ngửa các con bài (quyết định). Chúng ta đây là những kẻ tin, chúng ta đây “có” (than ôi!) lòng tin, mà có thật là ta đang vạch đường đời ta đi trong niềm tin như Đức Giêsu đã đề ra không? Xin đừng trả lời quá gấp”.
CHÚA KÊU GỌI VÀ SAI CÁC ÔNG ĐI TRUYỀN GIÁO (Mc 6,7-13)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai. Ngay từ những trang đầu Tin Mừng của mình, Máccô đã muốn kể lại việc Chúa kêu gọi Simon và anh của ông là Anrê, cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan khi Người đang đi dọc theo Biển Hồ Galilê (1,16-20); Người nói với các ông ấy: “... Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Máccô cũng cho ta thấy khi tới Capharnaum vào một ngày Sabát, Đức Giêsu “cùng với các môn đệ đi vào thành” (1,21). Sau đó thánh sử còn cho ta thấy Đức Giêsu “lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (3,14-15). Con số Mười Hai ám chỉ mười hai chi tộc Israel là dấu chỉ Chúa muốn khai sinh một dân Thiên Chúa mới nơi bản thân các ông. Giờ đây Máccô gợi nhớ lại buổi truyền giáo ban đầu của Nhóm Mười Hai mà ngài lại đặt vào trong một nghịch cảnh là sau chuyến viếng thăm thất bại của Đức Giêsu khi trở về quê hương Nagiarét. Máccô viết: “Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi”. Hai động từ “Gọi/Sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các ông. Các ông sẽ là những “Tông đồ” của Đức Giêsu, nghĩa là những người được Chúa “sai đi”, như Tin Mừng thứ hai sẽ nói đến, khi các ông đi truyền giáo về (6,30). Những lời tiếp theo là chỉ thị Đức Giêsu ban bố cho các tông đồ trước khi lên đường truyền giáo. M.Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo” (“Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103). - Đức Giêsu sai các ông đi: “từng hai người một”. J.Potin giải thích: “Đó là tập tục các kinh sư vẫn thi hành đối với các môn sinh của họ. Hai người có chứng từ phù hợp nhau chứng tỏ rằng họ cùng được sai đi từ một người. Thực vậy, sứ điệp họ mang đi không phả là của riêng các ông, mà là của Đức Giêsu” (‘Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 266-267). Nhóm Mười Hai không được “tính toán cho mình”: sứ mệnh của các ông bắt nguồn từ Đức Giêsu; đây là công việc của nhóm, là hành động mang tính cộng đoàn. Và thực tế như vậy, trong Công vụ Tông đồ, chúng ta sẽ thấy các nhà truyền giáo ấy thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22). - Đức Giêsu ra chỉ thị cho các kẻ Người gọi và sai đi như vậy, phải có tinh thần khó nghèo và từ bỏ: + Khó nghèo xét về hành trang đi đường: “Một cây gậy, một đôi dép” là những gì Người cho phép. Người cũng không đồng ý cho “mang hai áo”. Những kẻ được Chúa sai đi sẽ là những con người thanh thoát, không cồng kềnh, mà rong ruổi như Người và luôn sẵn sàng lên đường đi loan báo Tin Mừng. + Khó nghèo xét về những phương tiện sinh sống: “Không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng”. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tùy thuộc. Họ sẽ nhận lương thực và tiền túi từ tay những ai sẽ tiếp rước họ. - Đức Giêsu không giấu giếm ho: con đường truyền giáo là con đường gian khổ. Cũng như Người họ phải đón nhận rủi ro bị chối từ hay xua đuổi; Các ông phải đi theo Người đến độ phải bị chống đối, phải hy sinh thân mình.
2. ... Một sứ mệnh nối tiếp sứ mệnh của Đức Giêsu. Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai không phải là của riêng các ông, đó chính là sứ mệnh của Đức Giêsu nối tiếp nơi bản thân các ông: các ông rao giảng cùng một sứ điệp như Đức Giêsu là “Sám hối”("Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” Mc 1,14-15); các ông thực hiện cùng những dấu chỉ như Đức Giêsu là “trừ quỷ” và nếu Máccô ghi nhận rằng nhờ việc “xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” thì hẳn là để ám chỉ rằng các ông hành động nhờ quyền năng của một ai khác là Đức Giêsu vậy. Là những người được kêu gọi và sai đi, Nhóm Mười Hai không được giới thiệu ở đây như là những chuyên viên có ít nhiều chuyên môn hay là những người chuyên trách rao giảng Tin Mừng. J. Delorme kết luận: “Máccô mang lại cho sứ mệnh của Nhóm Mười Hai một chiều kích rộng lớn hơn cả: không phủ nhận một sự thật là bất cứ tác vụ nào trong Hội Thánh đều có thể tìm thấy nền tảng nơi sứ mệnh của Nhóm Mười Hai, trình thuật này của thánh Máccô có thể nhắc cho mọi tín hữu nhớ rằng họ thuộc về một Hội Thánh được sai đến với mọi người và họ phải là nhân chứng của Đức Giêsu trước mặt người đời”.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai,một cột mốc quan trọng và mang nhiều ý nghĩa” (J.Delorme, “Assemblées du Seigneur” số 46, trang 49). Không những mang giá trị lịch sử, bài trình thuật về sứ mệnh của Nhóm Mười Hai ở Galilê, trong Tin Mừng Máccô còn hoàn thành một chức năng cao hơn. Trình thuật ấy ghi một cột mốc quan trọng, có ý nghĩa, ở buổi ban đầu của Hội Thánh cũng như trong sự triển khai một công trình vẫn được theo đuổi trong Hội Thánh và thế giới. Khi đọc trình thuật này Hội Thánh được mời gọi nhận ra ơn gọi của mình. Ơn gọi này bao hàm một sứ mệnh không cho phép Hội Thánh được tự kết cấu thành xã hội khép kín đối với chính mình hoặc đối với bất kỳ mô hình văn hóa-xã hội nào. Trong trình thuật của Máccô, khi sai Nhóm Mười Hai ra đi, không kèm theo một xác định rõ ràng nào về địa điểm, nơi chốn phải tới để hạn định các ông (so sánh với Mt 10,5-6 và Lc 9,6; 10,1). Mà theo sau đó là cả một bài tập nghề khó khăn đối với các môn đệ, khiến Đức Giêsu phải gia tăng các phép lạ và những lời cảnh giác rút vào ngay trong Do Thái giáo (7,8-13) (...). Theo cái nhìn của Hội Thánh, Nhóm Mười Hai chính là những bảo chứng cho phần vụ mà Hội Thánh phải gánh vác là giới thiệu Tin Mừng cho tất cả mọi người.
2. “Được liên kết với sứ mệnh của Chúa” (Đức Cha L.Daloz, trong “Qui donc est-it?”, Desclée de Brouwer, trang 39). “Đức Giêsu cho con người liên kết với công việc chính Người đang thực hiện. Người mở rộng công việc rao giảng, rời bỏ làng mạc cùng gia đình, đi đến các làng chung quanh mà giảng dạy. Người gọi Nhóm Mười Hai để ở bên Người rồi sai họ đi. Các ông sẽ phải lao vào cùng một cuộc chiến như Chúa, nên Người ban cho các ông “quyền trừ quỷ”. Thế là các ông ra đi từng hai người một, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, trừ được nhiều quỷ, chữa nhiều người đau ốm khỏi bệnh. Rồi đây cuộc đời của các Tông đồ sau khi Chúa sống lại và ban Thánh Thần, sẽ như thế nào, thì lúc này đã được khởi sự như một bước thí nghiệm vậy. Bởi đấy người môn đệ của Đức Giêsu chia sẻ sứ mệnh của Người. Người môn đệ ấy loan báo và truyền đạt ơn cứu độ, ơn chữa lành, ơn giải thoát. Đức Giêsu làm cho người môn đệ ấy trở thành cộng tác viên của Người. Người môn đệ mang cùng một tâm tư, có chung cùng hoạt động và những bận tâm như Thầy mình. Từ nay, những “ưu tư” của người môn đệ trở nên đơn giản vì “Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng...”. Đi theo Đức Giêsu, không phải là sống cách biệt với sứ mệnh. Nhưng là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ”.
3. “Từ di sản đến cử chỉ đề nghị” (“Thư gởi người Công giáo Pháp”, Cerf, trang 36-37). Cái thời mà Hội Thánh thực sự hoá thân với đại bộ phận xã hội, dầu gặp phải nhiều chống đối và thách đố, công việc truyền bá đức tin đều được tiến hành gần như tự động, nhờ vào những bộ phận chuyên lo việc truyền bá này còn có mặt ở cả những cơ quan điều hành thông thường của xã hội nữa. Do đó mà kiểm chứng được câu ngạn ngữ cho rằng người ta không sinh ra làm người tín hữu, nhưng cứ thành người tín hữu (có đạo theo kiểu cha truyền con nối). Dần dà với thời gian, chúng ta phải nhìn nhận rằng hoàn cảnh xa xưa này có những điều bất tiện, bởi lẽ khi việc loan báo đức tin ít nhiều bị thu gọn vào công việc thi hành những thủ tục gần như tự động để truyền đạt, người ta khó mà nhận thấy được những lệch lạc có thể xảy ra. Có những lệch lạc thực sự đã dẫn đến một thứ tục hóa đức tin chừng nào đạo Công giáo nhắm trở thành một phận vụ của xã hội và Hội Thánh thì được coi như một dịch vụ bình thường của xã hội. Hoàn cảnh hiện nay lại có những khó khăn mới. Thực vậy, việc truyền bá đức tin ngày nay đang bị thỏa hiệp, hoặc rất khó thực hiện trong những khu vực rộng lớn của xã hội Pháp. Điều có vẻ nghịch lý là hoàn cảnh này đòi buộc chúng ta phải đón nhận chiều kích mới mẻ của đức tin và kinh nghiệm sống đức tin ấy. Chúng ta không còn có thể chỉ hài lòng với một di sản đã thừa hưởng dù nó có phong phú đến đâu. Mà phải mở lòng đón nhận ân huệ Chúa ban trong những điều kiện mới mẻ và đồng thời tìm lại được cử chỉ ban đầu của việc phúc âm hóa đó là thái độ đề nghị đơn sơ mà cả quyết của Tin Mừng Đức Kitô (Giáo Hội chỉ rao giảng Tin Mừng như một đề nghị để mỗi người tự ý quyết định lựa chọn).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ đám đông như bầy chiên không người chăn dắt... Sự thể bắt đầu gần giống như một trò chơi ú tim, khác một điều là ở đây người chơi không có cách để ẩn mình! Thầy trò Đức Giêsu muốn trốn khỏi đám đông, thì rốt cuộc lại phải chăm lo cho đám đông. Trình thuật nhìn bề ngoài có vẻ như một cảnh “chụp vội”, nhưng xét kỹ mới thấy là rất công phu. Trình thuật cốt ý làm một nhịp cầu nối hai sự kiện lại với nhau là công việc truyền giáo vừa hoàn thành của Nhóm Mười Hai và việc hóa bánh sắp diễn ra bằng cách đặt Đức Giêsu trước mặt đám đông mà Người không thể lánh khỏi được. Đúng là có một vài chi tiết không thích hợp, theo như nhận xét của M.E. Boismard: “Việc mô tả đám đông tụ tập lại thật là kỳ lạ, và người ta có cảm tưởng là Máccô phối hợp hai tư liệu khác nhau. Theo tư liệu thứ nhất, có một đám đông đã ở bên cạnh các ngài trước khi các ngài lên đường ra đi (c.31). Họ thấy thầy trò Đức Giêsu bỏ đi (c.33a) nên họ đi bộ (c.33c) đến nơi trước các ngài (c.33e). Còn theo tư liệu thứ hai, thì có nhiều người ở quanh vùng khi nghe tin Chúa đến (c.33b) họ liền từ khắp các thành thị chung quanh đó tuốn đến nơi các ngài đang có mặt (c.33d)”. (“Jésus, un homme de Nazareth”, Cerf, 1996, trang 89). Ở đây, Nhóm Mười Hai lần đầu tiên được gọi là “các Tông đồ” (nghĩa là “những Người-được-sai-đi”) đã đi truyền giáo về. Đây là giờ các ông báo cáo về công việc truyền giáo ấy: “Các ông kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy”. Đầy vẻ ân cần chăm lo cho các cộng sự viên của mình, Đức Giêsu bảo các ông tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi và trốn khỏi những chuyện rầy rà vốn làm cho các ông “cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”. Người bảo các ông: “anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Nơi đây hoàn toàn hoang vắng! Vậy mà người ta “đã theo đường bộ chạy đến nơi” trước cả các ngài ở phía bờ bên kia Biển Hồ. Khi các vị vừa ra khỏi thuyền thì đã thấy đám đông trước mặt mình.
2. ... đến dân tộc được lời Chúa quy tụ: Thánh sử ghi: “Người chạnh lòng thương họ”. Dịch là chạnh lòng thực ra không lột được hết ý nghĩa rất mạnh của kiểu nói trong Kinh Thánh: “ruột gan bồn chồn”. Giống như trường hợp Thiên Chúa tỏ ra với dân Người, trong sách ngôn sứ Ôxê (11,8); như ông chủ trong dụ ngôn tha món nợ khổng lồ cho người đầy tớ van xin ông (Mt 18,27); như người Cha thấy đứa con trai đã mất nay trở về (Lc 15,20); như người Samaria trước cảnh người đàn ông bị cướp đánh nhừ tử nằm lây lất bên đường (Lc 10,33); như Đức Giêsu trước cảnh hai người mù lòa van xin khi Người vừa ra khỏi Giêricô (Mt 20,34); hoặc như lần khác, trước những giọt nước mắt đầm đìa của bà quả phụ Naim trên đường đi chôn đứa con duy nhất của bà (Lc 7,13). Từng ấy nơi lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người được cử hành, được biểu lộ ra nơi con người Đức Giêsu Kitô. Như vậy là trong trích đoạn Tin Mừng Chúa nhật 16 này, qua thái độ Đức Giêsu “chạnh lòng” thương đám dân chúng, đáp lại nỗi khốn khổ của họ, chính là lòng thương xót của Chúa được mặc khải, tình thương yêu của Người được biểu lộ ra; chính là lời Thiên Chúa hứa được thực hiện, như phần tiếp theo của trình thuật sẽ cho thấy. “... vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Biểu tượng của đoàn chiên và người Mục tử là những chủ đề quen thuộc trong Cựu Ước. Cựu Ước thường dùng những hình ảnh ấy để gợi nghĩ đến tình cảnh đáng thương của dân Chúa bị bỏ rơi, vất vưởng, không người chăn dắt như Êgiêkien 34 hoặc Giêrêmia được trích đọc trong bài đọc I hôm nay. Cựu Ước cũng dùng biểu tượng ấy để tán tụng sáng kiến của Chúa và Người lãnh đạo đoàn chiên của Người, như còn thấy trong Giêrêmia 23, hoặc Thánh vịnh 22 được dùng làm đáp ca của Chúa nhật này và là Thánh vịnh tạo hậu cảnh cho trình thuật của Máccô. Nhưng lời Tin Mừng hay dùng, đặc biệt gợi nhớ lại lời Môsê cầu nguyện cùng Chúa trước khi chết; ông xin Chúa ban cho dân Người một vị lãnh đạo “để cộng đoàn dân Chúa không rơi vào tình trạng bầy chiên không người chăn dắt” (Ds 27,17). Vậy giờ đây, Máccô mời gọi chúng ta cùng ngài hướng nhìn về Đức Giêsu như vị Mục Tử Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo; như Môsê mới của một Xuất hành mới; như Đấng Chúa sai đến để quy tụ một dân mới và dưỡng nuôi họ bằng Lời và Lương thực của Người. - Máccô kết luận: “Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Việc đầu tiên Người đáp ứng những nhu cầu của dân chúng là dạy dỗ, dùng lời có khả năng quy tụ, tập họp, sau đó là săn sóc và cung cấp lương thực cho dân. J.Hervieux nhận xét: “Thánh sử đã hai lần ghi nhận tầm quan trọng của lời Thầy dạy dỗ (1,22; 4,1-2) không lần nao Máccô ghi rõ ràng nội dung lời dạy dỗ. Cả ở đây cũng vậy. Nhưng sự việc diễn ra lại mang nhiều ý nghĩa. Trước khi phân phát lương thực thì tiên vàn Đức Giêsu đã dùng lời mà quy tụ người ta lại. Trình thuật về hóa bánh xảy ra sau đó không được tách biệt với việc xảy ra lúc trước. Chính nhờ “Lời” mà Đức Giêsu quy tụ được đám đông thành một dân mới của Thiên Chúa. Hội Thánh lúc ban đầu đã ghi nhớ rõ ràng và cẩn thận duy trì việc này. Trong cử hành nghi lễ bẻ bánh, Hội Thánh luôn đặt “hai bàn” nối tiếp nhau: đầu tiên là bàn để Lời, rồi mới đến bàn để bánh” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 95).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Từ một đám đông không người chăn dắt, Đức Giêsu khai sinh một dân tộc” (G.Bessière, trong “Dieu si proche, năm B), Desclée de Brouwer, trang 125-126). “Kìa họ đang trở về, những con người mà Đức Giêsu đã sai đi trên mọi nẻo đường. Không mang theo lương thực, tiền bạc, bao bị. Họ chỉ được mang theo một cái áo và cây gậy đi đường. Các ông ra đi nhẹ nhàng như gió Thánh Linh. Nhưng các ông có quyền trừ quỷ, chữa người đau ốm khỏi bệnh. Các ông kêu gọi người ta ăn năn sám hối, dứt khoát trở lại với Đấng hoán cải lòng người và có thể biến đổi toàn bộ xã hội. Kìa họ đang trở về, những con người tay mang gậy. Các ông phải trở về báo cáo về chuyến đi của mình! Các ông quây quần bên Đức Giêsu “và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy”. Các ông đã không chỉ nói suông mà còn hành động, như Đức Giêsu đã làm gương. Tin Mừng không chỉ ở trong những lời nói suông mà là bằng những việc làm: một cuộc sống chứng từ. Chúa nói với các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Nhóm nhỏ đó cần tìm lại được những giây phút thân tình với Chúa, và được Người bồi dưỡng cho tâm hồn. Tiên vàn Chúa đã chọn các ông để các ông “ở với Người” (Mc 3,14) rồi mới sai các ông đi rao giảng. Ngày mai đây các ông sẽ lại phải ra đi, có mang gậy hay không nhưng hiện giờ thì còn cần phải được thưởng thức thêm hương vị của tình nghĩa rạng ngời, phải nói cho Người biết rằng hạt giống gieo đã mọc lên, phải nhận định cho rõ ràng hơn cái gì đã làm và cái gì còn phải làm. Phải ra đi, rồi phải biết lui về nơi yên tĩnh hoặc trong thanh vắng của tâm hồn, thiết tưởng luôn luôn là vấn đề sinh tử. Đức Giêsu đã kéo các môn đệ của Người ra khỏi vòng xoáy của cơn lốc đám đông. Những kẻ lui người tới, những cuộc chuyện trò, những lúc gặp gỡ không để cho các ông có thời giờ ăn uống nữa. Đức Giêsu vẫn là trọng tâm của phong trào quần chúng này. Người cố gắng “đồng hội, đồng thuyền” với các tông đồ. Khi thuyền các ngài cập nơi được kể là hoang vắng, “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông”. Người đã - theo đúng chữ - “bồn chồn ruột gan”, như Người cũng đã cảm thấy khi đứng trước những người ốm đau hay tật nguyền. Bởi lẽ họ “như bầy chiên không người chăn dắt”, nghĩa là một quần chúng lạc đường đang trông mong một vị Thiên Sai nào đó. Cả một quần chúng bệnh hoạn... Trong đám quần chúng này, Đức Giêsu sẽ khai sinh ra một dân tộc. Người bắt đầu “dạy dỗ” họ, bởi lẽ “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Dnl 8,3). Sau đó, Người sẽ hóa bánh ra nhiều là Manna mới để làm giao ước mới cho một dân tộc đang trên đường xuất hành. Cả một tương lai bao la được cô đọng trong cảnh quá mạnh này.
2. “Thách thức lớn lao nhất cho việc chỉnh đốn mục vụ hiện hành...” (J.Rigal trong “Fêtes et Saisons”, số 483: “Để chuẩn bị tương lai Giáo Hội”, trang 11-12). Thiết tưởng Hội Thánh sẽ đi lầm đường nếu vì nghĩ đến tương lai mình, mà chỉ lo lắng trước tiên cho sự sống còn của mình. Thiết tưởng Hội Thánh sẽ không tìm, được đường đi cho mình khi chỉ con đường trong sự thu mình vào nội bộ và cậy dựa vào việc củng cố hàng ngũ của mình. Thách đố lớn lao nhất cho việc chỉnh đốn mục vụ hiện hành, tất nhiên không phải là thách đố về số người điều hành, hay là về nguồn tài chánh, cho dù những vấn đề này có tầm quan trọng thế nào đi nữa. Đúng hơn chính là thách đố về nhiệt tình truyền giáo và sống tình huynh đệ, yêu thương đối với thế giới chung quanh ta. Người ta cũng có thể nói được là Hội Thánh đánh mất đi lẽ sống của mình và tự tan rã, nếu chỉ quan tâm đến chính mình hơn là lo cho những con người nam nữ mà Hội Thánh được sai đến. Trái lại Hội Thánh được biến đổi, tìm được nhuệ khí mới, khi nỗ lực đối chiếu sứ điệp Tin Mừng với nếp sống duy thực của những con người thời nay, và với những thách đố của lịch sử. Cần nhắc lại rằng truyền giáo không nhằm bành trướng Hội Thánh mà nhắm mở rộng Nước Trời. Mọi lựa chọn liên quan tới tương lai của Hội Thánh đều phải quy hướng trước nhất về mục tiêu truyền giáo. Điều này sẽ không bao giờ nói đủ. Được Chúa triệu vời, cộng đoàn Kitô hữu quy tụ để cầu nguyện, đón nhận Lời Chúa, liên hệ Lời Chúa với những khát mong của con người thời nay. Bởi lẽ việc quy tụ luôn được bố trí để hướng tới sự ra đi, gần gũi, chia sẻ. Đáp lại tiếng Chúa kêu mời tụ họp, tốt rồi, nhưng còn để hòa mình hơn vào cuộc sống thường ngày của mọi người, hầu làm chứng Tin Mừng Phúc Âm cho họ. Công đồng Vatican II mở đầu Hiến chế Mục vụ “Gaudium et Spes” bằng những lời thấm thía sau đây: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay... cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô”. Khi phác họa bản đồ mục vụ của địa phận, thiết tưởng phải tự hỏi xem làm thế nào để hiện thực hóa những lời kêu gọi này của Công đồng Vaticanô II trên một quy mô thật rộng rãi.
ĐỨC GIÊSU HÓA BÁNH VÀ CÁ RA NHIỀU
CHO ĐÁM ĐÔNG ĂN (Ga 6,1-15)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI 1. Bánh hóa nhiều dư dật... Tạm rời bỏ Tin Mừng Máccô, sách Bài đọc năm B hôm nay lấy ở Tin Mừng Gioan câu chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều, rồi tiếp liền đó là “diễn từ về Bánh trường sinh” được phân chia để đọc liền trong bốn Chúa nhận tiếp theo. Chỉ có phép lạ hóa bánh là được cả bốn Tin Mừng cùng tường thuật (Máccô còn tường thuật tới 2 lần ở 6,35-44 và 8,1-9). Khi tường thuật việc Hóa bánh, tác giả Tin Mừng bốn đã tập trung vào Đức Giêsu như con người lèo lái hành động từ đầu đến cuối. - “Sang bên kia Biển Hồ Galilê”, Đức Giêsu “lên núi” và “ngồi” đó với các môn đệ. - Người “ngước mắt lên” và nhìn “thấy đông đảo dân chúng” đến với mình. - Hoàn toàn biết mình sắp làm gì rồi, Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”. Câu hỏi thật lấp lửng: “Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. - Dù chẳng có sự tương xứng (5 cái bánh và 2 con cá thì thấm vào đâu với đám đông chừng 5000 người), Người vẫn nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. - Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát thật sự bánh đã hóa ra rất nhiều. - Người bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa. - Sau cùng biết được ý đồ và sự hồ hởi của dân chúng sau khi đã được ăn no, Người lại lánh mặt đi lên núi một mình.
2. Manna mới trên đường Xuất hành mới... Trình thuật này tập trung vào Đức Giêsu, lại mang âm hưởng sâu xa của thời dĩ vãng xa xưa trong Cựu Ước mà nay đang ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; trình thuật cũng loan báo bí tích Thánh Thể. Chuyện kể lấy hậu cảnh là Thánh Kinh (Cựu Ước) nên cần được khai thông để có thể thấu triệt được tất cả ý nghĩa phong phú của câu chuyện. + Tác giả trình thuật lấy hứng từ việc hóa bánh xảy ra trong thời ngôn sứ Êlisê. - Cùng không có sự cân xứng . 20 bánh lúa mạch cho 100 người, trong trường hợp của ngôn sứ Êlisê; . 5 cái bánh và 2 con cá cho chừng 5000 người đàn ông, trong Tin Mừng. - Các người chứng kiến cùng tỏ vẻ lo lắng: - “Làm sao mà đủ cho 100 người được?” người đầy tớ của ngôn sứ Êlisê hỏi. - “Thưa, có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ...”, ông Philípphê trả lời. - Cùng ra lệnh bảo làm: . “Cứ cho hết mọi người ăn”, ngôn sứ Êlisê nhấn mạnh. . “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Đức Giêsu bảo. - Bánh ăn rồi đều cùng có dư thừa: . “Họ ăn rồi mà còn dư lại...”, trình thuật của sách Các Vua quyền hai. . “Họ chất đầy được mười hai thúng miếng bánh vụn”, Tin Mừng Gioan viết. Như vậy, thánh Gioan muốn cho thấy rằng việc làm của Đức Giêsu vượt trội hơn hình ảnh mờ nhạt của Cựu Ước tiên báo về thời của Đấng Thiên Sai nhiều. Và nếu bánh thừa nhiều vô vàn hơn thời kỳ ngôn sứ Êlixê còn thừa, thì chính là để ngụ ý rằng hôm đó Đức Giêsu không những bẻ bánh cho đám đông ăn, mà còn cho hết thảy mọi người nữa. + Trình thuật của Gioan cũng ám chỉ nhiều đến những biến cố của thời Xuất hành. . Đức Giêsu đã lên “núi”, núi Sinai mới nơi đó Người là Môsê mới, sẽ ban Lời Chúa và Manna mới cho dân Người. . Tác giả xếp đặt cho cảnh xảy ra vào “ít ngày trước Lễ Vượt qua”, đặt biến cố vào bối cảnh cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập có ngụ ý đây chính là một cuộc Xuất Hành mới đang mở màn, một cuộc Vượt qua mới được loan báo, lễ vượt qua của Đức Giêsu (cf. Ga 2,13-20; 11,55-57). . Còn về câu Chúa hỏi Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” chính là tiếng vang vọng lại lời của Môsê hỏi Thiên Chúa khi dân Do thái lẩm bẩm kêu trách ông trong hoang mạc: “Con sẽ kiếm đâu ra thịt mà cho dân này đây?”. (Ds 11,13). Nhưng X.Léon-Dufour nhận xét thêm: “Khác với Môsê có vẻ lo lắng, Đức Giêsu “đã biết Người sắp làm gì rồi”... Việc Đức Giêsu sắp “làm” đây sẽ không chỉ là một việc lạ lùng sắp diễn ra mà còn bao gồm luôn chính thực tại mà phép lạ ấy là dấu chỉ nữa: để cho muôn người được sống, Đức Giêsu sẽ ban không chỉ những lời nghe được từ Cha, mà cả chính bản thân Người qua cái chết nữa. Điều này còn quí trọng hơn cả những tấm bánh hóa nhiều lạ lùng hôm nay.” (“Lecture de l'Evangile selon saint Jean”, cuốn II, Seuil, trang 107). Nếu Gioan thêm câu “Người nói thế là để thử ông”, thì cũng là để ám chỉ những thử thách dân Do Thái đã trải qua xưa trong cuộc hành trình qua hoang mạc vậy. Ngần ấy hình ảnh ám chỉ như vậy, khiến tấm bánh hóa nhiều chính là Manna mới dành để dưỡng nuôi một dân mới do Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo. - Nhưng nếu trình thuật này mang âm hưởng sâu xa của thời Cựu Ước xa xưa, thì đồng thời cũng báo trước Bí tích Thánh Thể. A.Marchadour nhận xét: “Lời lẽ của trình thuật, “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” (c.11) chính là những lời cộng đoàn Gioan vẫn thường nghe trong những buổi cử hành Thánh Thể... Như ta được biết, trong bữa ăn tối trước khi chia tay, chính Đức Giêsu làm cử chỉ phân phát, (chứ không phải các môn đệ đã làm việc này theo như tường thuật của ba Tin Mừng nhất lãm). “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí” (c.12) lời nhận xét này ngụ ý diễn tả thời điểm lịch sử của Đức Giêsu là trổi vượt, rất đáng trân trọng, nên đừng để uổng phí. Người ban dư đầy ân huệ, để chính Giáo Hội cũng được thụ hưởng dồi dào. Đức Giêsu đến “cho người ta được sống và sống dồi dào” (10,10). Phải dồi dào đủ cho hết thảy các thế hệ Kitô giáo” (“L'Evangile de Jean”, Centurion, trang 101).
3. Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo cuộc Xuất hành mới. Đây là trường hợp hi hữu trong Tin Mừng Gioan: Đấng làm phép lạ ấy được dân chúng hoan hô, vì họ nhận thấy Người còn hơn là vị ngôn sứ; Người là nhân vật Thiên Chúa hứa trong Nhị Luật 18,15 giống như Môsê; dân chúng nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”. Nhưng thay vì lấy lòng tin để mở lòng ra đón nhận Đấng mà phép lạ ấy nói cho biết, thì dân chúng lại chỉ nghĩ đến cơm bánh mà họ đã được no nê. Họ còn ra sức giam hãm Đức Giêsu trong quan niệm quá phàm trần họ vốn có về Đấng Mêsia: “Họ sắp đến bắt Người đem đi mà tôn làm vua”. Vì thế Đức Giêsu lánh mặt đi “lên núi một mình”. Người không phải là “vị ngôn sứ” đúng như họ mong muốn khi trông đợi một Đấng Mêsia trần tục. A.Marchadour kết luận: “Thánh Gioan đã khéo léo lồng vào câu chuyện này ba thời điểm khác nhau: thời Xuất hành lúc dân Israel đã bắt đầu rong ruổi trong sa mạc, thời gặp gỡ lịch sử với Đức Giêsu làm khung cho câu chuyện, và thời của Giáo Hội.Điềuđó phải muốn nói lên rằng qua ba hoàn cảnh lịch sử khác nhau này, vẫn một câu hỏi căn bản còn phải được đặt ra là: Làm thế nào để sống tin tưởng vào Chúa khi ở trong sa mạc (manna)? trong lúc Chúa nhập thể ở giữa con người (Đức Giêsu)? và trong Giáo Hội (Thánh Thể)? Trong tư tưởng của Gioan, Đức Giêsu không nhắm mục tiêu tỏ bày lòng thương xót của Người đối với đám đông đang đói cho bằng muốn mạc khải nhân tính đích thực của mình; vì thế Gioan đã đẩy các môn đệ lui vào hậu cảnh, để tất cả câu chuyện tập trung vào con người toàn năng là Đức Giêsu, Đấng lèo lái các biến cố và làm cho các biến cố có ý nghĩa. Trình thuật kết thúc bằng một thất bại, nhưng phần sau câu chuyện lại sẽ cố gắng làm cho mạc khải được sáng tỏ khi đào sâu ý nghĩa biểu tượng của bánh vốn đã có ngay trong dấu chỉ rồi. Người ta sẽ nhận ra ngay được rằng Đấng ban lương thực, thì chính Người cũng là lương thực nuôi sống mọi người.” (O.C. trang 101).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Một dấu chỉ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết” (F.Deleclos, trong “Prends et mange la Parole de Dieu”, Centurion-Duculot, trang 156-157). Trong tâm tưởng của Đức Giêsu Nagiarét, đây chính là một kiểu chia sẻ lương thực mới lạ... Một dấu lạ gây được niềm hồ hởi, những sẽ bị ngộ nhận. Một dấu lạ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới tiếp cận được. Một Bánh Trường sinh cần khám phá. Nhưng Bánh nào và sự sống nào? Chắc hẳn chúng ta đều bị lôi cuốn muốn đọc những biến cố này một cách quá ư duy vật khi chỉ cho đó là phép lạ. Nên không đòi hỏi nhiều đức tin. Trái lại điều “người môn đệ Chúa yêu” trình bày, là thuộc lãnh vực thiêng liêng. Nên coi như phải đòi hỏi nhiều đến đức tin, bởi lẽ, đàng sau hình ảnh hay dấu chỉ là chân lý sâu xa phải đạt tới, là giáo lý Chúa dạy, là kho tàng phong phú Chúa ban cho. Dân chúng thích được ăn “bánh ngọt” mà không quan tâm đến Đấng muốn nhân đấy tỏ mình ra là Đấng Mêsia mà đức tin cho biết là Đấng ban tặng lương thực và là chính lương thực. “Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26). Manna trong sa mạc xưa đã nên như biểu tượng nói lên tính cách chân thật của Lề Luật vì rằng khi Thiên Chúa thử thách dân Người và thực hiện vô số những dấu lạ, thì Người muốn dạy cho họ biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (NL 8,3b). Lương thực của kẻ nghèo và vài con cá nhỏ cũng đã được coi như một Manna mới. Nhưng đàng sau những thực tại khiêm tốn của con người, đức tin sẽ phải dần dần tìm thấy ở đấy là nghi lễ “Bẻ Bánh” tên ban đầu được dùng để chỉ cử hành Thánh Thể. Đức Giêsu là Lời và Bánh, ban mình làm lương thực cho dân mới mà Người đã qui tụ lại để khai trương và xây dựng một vương quốc sung túc mọi bề. Giờ đây hẳn chúng ta cũng đang ở trước “một phép lạ lịch sử” gây ngỡ ngàng cảm phục, khiến chúng sẽ phải vỗ tay ca ngợi Đấng làm phép lạ và gợi cho lòng ta ước muốn tôn Người làm vua - cứu tinh vậy”.
2. “Từ Mười Hai Thúng, chúng ta nhận lấy Bánh Thánh Thể” (Mgr. L. Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”, DDB, trang 130). Những kiểu nói này dùng trong kinh nguyện Thánh Thể ngày nay: Cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho, hẳn phải làm ta nghĩ ngay đến mối liên hệ giữa bữa ăn đột xuất ngoài trời khi xưa và Bữa Tiệc Ly. Chính Đức Giêsu trao bánh cho mọi người; một cử chỉ hoàn toàn khó tin, bởi lẽ làm sao mà chính Người có thể phân phát bánh cho cả năm ngàn Người? Điều đó cũng khiến ta phải nghĩ rằng tấm bánh hóa nhiều đó là dấu chỉ của Thánh Thể. Sau cùng, còn lại mười hai thúng đầy, số mười hai chỉ mười hai chi tộc Israel có nghĩa là ân huệ Chúa ban sẽ luôn dư dật cho Israel mới. Mười hai thúng cũng nói lên sự dồi dào phong phú của Chúa! Chính trong mười hai thúng này mà chúng ta được múc lấy tình yêu vô tận, không bao giờ cạn kiệt, được nhận lấy bánh thánh từ bàn tiệc Thánh Thể, bánh đem lại phúc trường sinh.
3. “Phải vừa là người của lương thực hằng ngày, vừa là người của Thánh Thể” (H.Vulliez, trong “Dieu si proche. Năm B”, Desclée de Brouwer, tr.76-77). Dấu lạ Đức Giêsu làm diễn ra thật vĩ đại. Nên sau đó những kẻ mục kích nhìn nhận Người là vị ngôn sứ phải đến và muốn tôn Người làm vua, âu cũng là điều dễ hiểu! Nhưng rõ ràng cũng chính bởi tại đó nên mới xảy ra đổ vỡ. Đức Giêsu phải lánh ra và rút lui. Khi gặp lại họ ở phía bên kia Biển Hồ, Người phải giải thích nhiều để họ hiểu rằng sự sống Người đến để ban cho họ không phải là chuyện ăn uống sinh sống ở đời này. Đó là sự sống đời đời. Bánh Người chia cho ăn hôm ấy chỉ là thứ đồ ăn mau hư nát. Thực ra, đó chính là dấu chỉ của một lương thực khác, thứ lương thực “trường tồn đem lại phúc trường sinh” (6,27). Phải có được sự tỉnh táo của Đức Giêsu thì những dấu lạ Người làm cho con người mới không bị thu hẹp vào chỉ một vấn đề tìm thỏa mãn những nhu cầu trần thế mà thôi. Phải được Người gắn bó ta với sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Người. Chúng ta cũng sẽ gặp phải cơn cám dỗ này, mối nguy hiểm này là khuynh hướng thích thu hẹp lại. Những nhu cầu cấp bách vốn dằn vặt con người khiến chúng ta phải trăn trở. Chúng ta đành phải dấn thân như Đức Giêsu để đối phó với những nhu cầu của họ. Thái độ dấn thân này, đối với lòng tin của ta, là dấu chỉ tình yêu của Chúa muốn cho con cái Người được hạnh phúc. Chúng ta không thể vô tình trước các nỗi bệnh tật, đói khát, bất công. Ta phải không ngừng mở rộng con tim và bàn tay, không ngừng bắt tay vào việc chia sẻ và xây dựng một thế giới công bằng và có tình liên đới. Việc làm ấy tham dự vào sứ mệnh của ta. Đồng thời ta phải tỉnh thức để không chỉ thu hẹp tầm nhìn vào những nhu cầu vật chất mà thôi, không say sưa vì khao khát cho công việc thành tựu, hoặc ngây ngất trước vẻ cao cả lớn lao của công trình đang thực hiện. Ta phải mở mắt nhìn vào một nhu cầu khác kín đáo hơn, vì sâu xa hơn: đó chính là sự sống đời đời, chỉ sự sống đó mới làm cho con người được phỉ chí toại nguyện. Ăn uống no nê, con người chưa lấy làm đủ. Đây là một thế quân bình khó giữ. Chúng ta vừa phải là những con người đem lại cơm no áo ấm, vừa phải là những con người đem đến Thánh Thể”.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ lương thực “mau hư nát”... đến lương thực “trường tồn": Sau phép lạ hóa bánh, Đức Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ Người xuống thuyền đi sang “bên kia Biển Hồ”, còn Đức Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển Hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Mọi người sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều: vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là bánh trường sinh. - Trước tiên Chúa cảnh giác đánh thính giả của Người về mong muốn lệch lạc của họ. Họ có sự hiểu lầm về lương thực (xem sự hiểu lầm của phụ nữ Samari về nước uống): “Các ông đi tìm tôi, Chúa nói với họ, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. X.Léon-Dufour nhận xét: “Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vị của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực thường tồn ban phúc trường sinh mà Con Người sẽ ban cho” (“Lecture de l'Evangile de Jean”, cuốn II, Seuil, trang 132). Chính thứ lương thực này mà con người phải khao khát được ăn; chính vì lương thực ấy mà con người phải “làm việc” để kiếm tìm. - Ngộ nhận mới do những từ ngữ “làm”, “những việc” gợi nên. Dân chúng hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Theo họ nghĩ, đó là những việc bên ngoài mà Chúa đòi hỏi nơi những kẻ thờ phượng Người, như những nghi lễ và một số những việc khác. Lập tức Đức Giêsu bắt họ bỏ qua “những việc” (số nhiều) để nghĩ đến “Việc Thiên Chúa” (số ít); bởi lẽ “việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”.
2. Từ “bánh bởi trời”... đến chính Đấng là “bánh trường sinh" Những người đàm đạo với Chúa xem ra sẵn lòng tin nhận Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, nhưng dẫu sao cũng có điều kiện: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?”. Dân chúng vừa mới được thấy dấu lạ là bánh hóa nhiều, thế mà họ còn đòi xem một dấu lạ khác, thì kể cũng là lạ thường. Nhưng ta đừng quên câu chuyện mới xảy ra gần đây, khi những người miền Galilê này đã coi Đức Giêsu như Vị Ngôn sứ, đó là: theo truyền thống tiên tri, một dấu lạ được chứng thực là đúng thì phải được người thực hiện nó loan báo trước. X. Léon-Dufour còn nhấn mạnh: “Thực ra người ta không đòi hỏi Chúa thực hiện ngay dấu lạ, mà chỉ cần nói cho biết Người sẽ làm dấu lạ nào” (O.C., trang 134). Giống như phụ nữ Samari nại đến tổ phụ Giacóp (4,12), những người Do Thái nại đến tổ phụ Ápraham, thì đám đông người miền Galilê nại đến Môsê, người đã bầu cử với Chúa ban cho có manna: “Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc”. - Đức Giêsu đã bài bác lối giải thích của họ, dựa vào lời họ trưng dẫn trong sách Xuất hành mà làm bằng cứ: + Người ban manna, “bánh bởi trời” không phải là Môsê, như ý họ muốn nói, nhưng là Đấng mà Người gọi là “Cha” của Người. + Điều cải chính trên về ai là kẻ ban phát manna không chỉ nói về thời dĩ vãng xa xưa của cha ông họ khi Xuất Hành, mà còn liên quan tới thời buổi này đối với những kẻ đang nghe Chúa nói. Ân huệ manna đó được ban cho chính họ ngay lúc này, ơn huệ đó là đích thực. Lương thực Chúa Cha ban cho hôm nay làm cho hình ảnh manna tiên báo và những lời hứa của Luật được ứng nghiệm. X.Léon-Dufour viết tiếp: “Giữa quá khứ và tương lai thì đây là “hiện tại” của Thiên Chúa. Từ việc nhớ lại “manna trong sa mạc” (hồi ức) và khao khát “được ăn mãi thứ bánh ấy” (trông mong) người ta đạt tới thực tại mang tính bản thể” (O.C., trang 137). + Sau cùng “Bánh Thiên Chúa ban, bánh từ trời xuống” không chỉ dành riêng cho một mình dân Israel thôi. “Bánh đem lại sự sống cho thế gian” ấy, hết mọi dân tộc trên trái đất đều có quyền được hưởng. - “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy”, dân chúng liền nói, giống như phụ nữ Samari đã nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp: “Thưa Ngài, xin Ngài cho tôi thứ nước ấy” (4,15). - Với lời lẽ trang trọng Chúa nói với họ “chính tôi đây là bánh trường sinh”, bánh các ông ao ước ăn đó, là chính tôi đây. “Đức Giêsu làm ứng nghiệm nơi Người hình ảnh manna mang tính cánh chung vậy” (X.Léon-Dufour, Sđd, trang 136). Bởi vậy, điều kiện duy nhất để được ăn bánh đó là “đến” với Người và “tin” vào Người. Vì tự coi mình là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Kn 9,1: bài đọc I Chúa nhật 20), là Nguồn sống đáp ứng được sự đói, khát của con người, Đức Giêsu trân trọng mời gọi anh em Người tới dùng bữa: “Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”.
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ biểu thị” (R.Josse trong “Célébrer” tạp chí của CNPL, số 240, trang 41). Câu hỏi tỏ vẻ quan tâm ghi ở đầu trình thuật này ("Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy") cho thấy đám đông có phần nào bị lạc hướng. Họ đã tìm kiếm Đức Giêsu, nhưng không phải để hiểu biết Người: dấu lạ đã chỉ khơi dậy nơi lòng họ ước muốn có bánh ăn, chứ không phải niềm khao khát được ánh sáng soi rọi giúp hiểu biết về con người Đức Giêsu. Họ chẳng hiểu được ám chỉ về quyền năng của Con Người. Theo kiểu đối thoại, Tin Mừng Gioan lần lượt trình bày cho biết sự ngộ nhận do họ không hiểu biết. Họ ỷ mình đã từng được biết câu chuyện manna ghi trong sách thánh. Đức Giêsu vịn vào lý lẽ của họ và hướng người nghe chú tâm đến Thiên Chúa: Môsê xưa đã cho các ngươi ăn bánh bởi trời, nhưng không phải là bánh bởi trời đích thực, mà chỉ là bánh nếm thôi. Trong Xuất Hành, manna nói lên ân huệ cụ thể thật cần thiết, là lương thực được cung cấp sáng chiều: người ta hầu như nghĩ tưởng đến trình thuật về sáng tạo, lực sáng tạo của Chúa hoạt động một cách vô cùng rộng rãi. Nhưng ân huệ ấy vì là dấu chỉ thôi thúc lòng tin, nên phải nhắc nhở (con người thụ hưởng) nhớ đến Đấng ban phát ơn tuy mắt không thấy, nhưng Ngài vẫn hiện diện và hoạt động, vẫn lèo lái con đường giải thoát. Bánh Chúa ban, lúc này đây, là chính Đấng từ trời xuống, Đấng đem lại sự sống cho thế gian. Cuộc đối thoại sẽ còn dẫn đến một ngộ nhận mới cũng giống như ngộ nhận của phụ nữ Samari nơi Ga 4,15: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó!”. Nay Chúa không lấy một cái gì đó mà cho người ta, Chúa cho chính mình Người. Từ quan tâm đến việc Chúa làm, người ta chuyển quan tâm đến Người là ai. nghĩa là phải từ bánh được ban tới Người ban bánh, từ dấu lạ tới Đấng mà dấu lạ ấy biểu thị. Lòng tin vào Đức Kitô đòi phải có một chuyển biến sâu xa tự thâm căn con người vậy.
2. “Lương thực đích thực” (Đức Cha L.Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”, Desclée de Brouwer, trang 81-82). “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến”. Lời khẳng định mạnh mẽ này phơi bày điều thầm kín từ đáy lòng họ. Họ đã biết đôi chút về Đức Giêsu. Họ đã muốn tôn Người làm vua, sau khi được thấy dấu lạ hóa bánh. Điều Chúa yêu cầu họ lúc này có tính cách bó buộc. Họ phải tin vào Người, phải từ bỏ những tính toán riêng tư để đem lòng tin cậy Người. Đó cũng chính là vấn đề quyết liệt được đặt ra cho tất cả những ai gặp gỡ Đức Giêsu, cho cả chính chúng ta nữa. Ta có nhận là không nhờ Người để rà xem những ý tưởng riêng tư của ta đúng hay sai, để thực hiện những chương trình của ta, mà trái lại ta biết nhờ Người giúp đi vào chương trình Người hoạch định, đi theo Người đến nơi Người muốn đưa ta đến? Những người đàm đạo với Chúa khi ấy lẫn tránh không muốn sự lựa chọn quyết liệt này. Họ muốn được kiểm chứng, họ cần phải có được một cuộc “giám định lại”, một dấu lạ khác... Họ không muốn dấn thân: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây?”. Tuy họ đã được thấy dấu lạ về bánh, nhưng họ chưa lấy làm đủ. Nhân danh Sách Thánh họ từ khước Người: tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc. Cần phải có cái gì hơn thế mới có thể lay chuyển được họ, những con người được liệt vào bậc thầy về Kinh Thánh. Đối với người không tin Đức Giêsu, luôn luôn có cách tìm thoái thác. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn tiếp tục cuộc đối thoại. Người đi cho tới cùng mặc khải Người đã bắt đầu. Người biện bác khởi đi từ chính vấn để họ đặt ra: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu. Ơn manna khi ấy chỉ là một ân huệ tạm thời, chỉ là một loan báo mà giờ đây mới có ý nghĩa đích thực. Chính việc hóa bánh ra nhiều cũng chỉ là một dấu chỉ. Chính Đức Giêsu mới là bánh đích thực, từ trời xuống để cho thế gian được sống: Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI 1. Bỏ qua “những lời xầm xì phản đối”... Hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu bài “diễn từ về Bánh hằng sống” đã khởi sự được đọc từ Chúa nhật trước. Đức Giêsu vừa long trọng khẳng định: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Manna là của ăn tạm bợ, mau hư nát phải gợi lên cho con cái Israel một cơn đói khác: đói Lời Chúa, một thứ lương thực duy nhất có khả năng làm cho lòng người được no đầy phỉ chí. Còn trổi vượt hơn manna kỳ diệu, Đức Giêsu tự xưng là “Bánh Trường Sinh”, là Mạc khải quyết định, nên nghe Người là được mời dùng bữa, hấp thụ lời Người trở thành lương thực đem lại kết quả là sự sống. Chúa nói tiếp: “Ai đến với tôi không hề phải đói, ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Lời tuyên bố này vì có tính cách thúc ép họ phải xác định lập trường đối vớí Đức Giêsu, nên khiến cho quan hệ đôi bên trở nên tồi tệ: từ ngộ nhận này đến ngộ nhận khác đánh dấu hồi đầu của cuộc đối thoại, người ta đi tới thái độ không hiểu và chống đối. Những điềm báo trước sự đổ vỡ này được Tin Mừng Gioan mô tả trong ba nét sau: - Trước tiên đã có sự thay đổi từ vựng. Trước đây, thánh sử đã dùng những từ “đám đông” hoặc “dân chúng” để chỉ đám người nghe Chúa nói. Từ nay, Ngài sẽ nói là “những người Do Thái”, kiểu nói này trong Tin Mừng Gioan không có ý chỉ dân Do Thái chút nào, mà được hiểu là những chức sắc tôn giáo ở Giêrusalem, họ là những người đã có lập trường chống đối Đức Giêsu. Kiểu nói đó, hiểu rộng ra cũng ám chỉ tất cả những kẻ đã từ chối tiếp nhận Chúa. - Thứ đến là việc lặp đi lặp lại hai động từ “xầm xì phản đối” để nêu bật những phản ứng tiêu cực trong bụng dạ họ thay cho những thỉnh cầu tỏ tường và trực tiếp lúc ban đầu. Những động từ này rõ ràng mang âm hưởng Kinh Thánh vì gợi cho người ta nhớ đến thái độ phản loạn của con cái Israel trong hành trình ở sa mạc. X.Léon-Dufour giải thích: “Trung thành với câu chuyện về manna trong sa mạc được làm nền cho cả chương sách, thánh sử coi những thính giả của Đức Giêsu lúc này như thế hệ của những người trong sa mạc xưa: “họ xì xầm, phản đối”, chẳng khác nào cha ông họ xưa tỏ ra cứng đầu cứng cổ, bị cơn đói dày vò, đã buông lời kêu trách ông Môsê vì đã dẫn đưa họ ra khỏi đất Ai Cập. Mối liên hệ giữa hai bản văn là sự thiếu lòng tin (...) Trong sa mạc khi những người Do Thái xì xầm phản đối ông Môsê, ông đã trả lời rằng không phải họ đã phản đối ông, mà chính là đã phản đối Đức Giavê vậy” (...) Có thể là Gioan thích dùng động từ “xì xầm phản đối” hơn bất cứ động từ nào khác, vì từ ấy thích hợp hơn để gợi ý rằng từ chối tin vào Đức Giêsu chính là từ chối đi theo chương trình của chính Thiên Chúa vậy. Ở 6,35-40, Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến việc Người được Chúa Cha sai đến và Người hoàn toàn làm trọn ý Cha Người” (“Lecture de l'Evangile selon Jean”, cuốn II, trang 152). - Sau cùng có vấn nạn gay gắt họ đưa ra: “Ông này chẳng phải là Ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống”? Họ nghĩ bụng: “Quả thực, có thể nhìn nhận cái gốc gác thần linh ông ta đòi, nơi một kẻ mà người ta còn biết rõ cả gia đình, nghề nghiệp và địa vị xã hội được chăng?”.
2. ... Tiến đến lòng tin vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến Không những không nhẹ giọng, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ quả quyết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến, rằng chỉ mình Người đã thấy Chúa Cha. Tin Đức Kitô là tuyên xưng Người có nguồn gốc từ trời, không căn cứ vào những vẻ bề ngoài, không nệ vào những gì ta biết được về liên hệ gia đình và xã hội của Người. Tin chính là khởi đi từ dấu chỉ để học cho biết nhận ra và hết lòng tin cậy vào Đấng Chúa Cha sai đến... Và đó hẳn không phải là chuyện con người một mình tiến hành; chỉ những ai được Chúa Cha lôi kéo mới đến được với Đức Kitô thôi: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu không được Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, lôi kéo người ấy...”. Dựa vào những lời hứa và hình ảnh tiên báo của Cựu Ước, Đức Giêsu liền tuyên bố rằng những lời hứa và hình ảnh ấy nay đang ứng nghiệm nơi bản thân Người: - Vị ngôn sứ xưa đã loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho toàn thể dân Người: “Mọi người sẽ được chính Thiên Chúa dạy dỗ” (Is 54,13 và 11,8 hoặc Giê 31,34). Chính bây giờ là lúc - Đức Giêsu khẳng định - lời hứa ấy được ứng nghiệm. Người còn nói với họ: Chính bây giờ là lúc Chúa Cha kêu gọi các ông và lôi kéo các ông đấy, bởi lẽ lời dạy dỗ của tôi là lời dạy dỗ của Chúa Cha; người mà các ông chỉ muốn coi là “con ông Giuse” chính là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa đã được các ngôn sứ loan báo trước. Manna, lương thực lạ lùng đấy, nhưng tạm bợ, đã không thể giữ cho lớp người ở sa mạc khỏi phải chết. Còn Đức Giêsu, vì Người bởi Thiên Chúa mà đến, mới thực là “bánh hằng sống”, bánh đem lại phúc trường sinh: “Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Ở câu 51: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống”, Đức Giêsu loan báo cái chết của Người là một ân huệ, một ân huệ nguồn sống. Đây là câu chuyển tiếp sang phần hai của “Diễn từ về Bánh hằng sống” chúng ta sẽ đọc vào Chúa nhật tới. A.Marchadour muốn lưu ý ta rằng: “Trong bối cảnh lịch sử ấy, rõ ràng là bài diễn từ về bánh hằng sống này không thể trực tiếp ngụ ý nói về bí tích Thánh Thể, càng không thể hiểu được là bữa ăn sau hết, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Vậy ta nên coi đây là mặc khải về chính bản thân con người Đức Giêsu. Nhưng vì được viết sau Phục sinh, cùng với những từ ngữ mang âm sắc mạnh mẽ của việc cử hành Thánh Thể, thì rõ ràng là toàn bộ chương 6 là một bài diễn từ gợi lại cùng một lúc lòng tin và bí tích Thánh Thể với một tỉ lệ đảo ngược: từ câu 51-52 trở đi, nốt chủ âm là bí tích Thánh Thể (51/71), còn từ đầu chương cho đến câu 51, thì lòng tin vào Đức Giêsu Đấng Mạc Khải chính là nốt chủ âm thứ nhất (1/51) vậy. (Sđd, trang 107)
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. “Sâu thẳm của lòng tin” (Đức Cha L.Daloz, Trong “Nous avons vu sa Gloire”, Desclée de Brouwer, trang 85-86). Những lời Chúa nói gây nên trong đám đông một cuộc tranh luận sôi nổi. Như Cộng đồng Israel trong sa mạc, vì sợ chết đói, nên đã xầm xì phản đối hai ông Môsê và Aaron thế nào, thì những người Do Thái, như Tin Mừng cho biết, cũng bắt đầu xầm xì phản đối Đức Giêsu như vậy. Lời quả quyết của Người có vẻ lố bịch: Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả. Vấn đề chân tính của Đức Giêsu được họ đặt ra rất gay gắt. Con người này, người ta biết rõ gia đình của ông, thế mà ông ấy lại quả quyết mình từ trời xuống! Đó là cái nút thắt của mầu nhiệm mà sau này các Công đồng và các nhà thần học sẽ cố gắng tập trung nghiên cứu, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Con vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Vào thời điểm Tin Mừng Gioan được viết ra, các tín hữu đã suy niệm mầu nhiệm này rồi, nên không lạ gì mầu nhiệm ấy đã được trình bày cho chúng ta một cách khá rõ ràng. Đây là một vấn đề luôn có tính thời sự. Cả chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm này nữa, nếu ta muốn tiếp nhận Đức Giêsu đúng như chân tính của Người: vừa gần gũi vừa khiến ta ngỡ ngàng, vừa dễ hiểu vừa nhiệm mầu. Để được như vậy, thì ta cần phải để cho Chúa Cha lôi kéo, để Người nói với con tim ta: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi không lôi kéo người ấy”. Đức Giêsu vừa rất gần gũi, rất người, mà cũng xa cách biết bao. Để nhận biết Người cho đúng, ta phải “đến với Người”. Trong con người Giêsu ấy mà ta tưởng là đã nắm được lý lịch, ta sẽ khám phá ra Đấng đã thấy Chúa Cha, Đấng có quyền cho mọi người sống lại trong ngày sau hết. Đức tin ngay từ bây giờ đưa ta đi vào cuộc sống đời đời: “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời”. Đây chính là một giai đoạn mà ta phải quyết định. Đằng sau vẻ ồ ạt bên ngoài của đám đông theo Đức Giêsu vì Người đã thỏa mãn nhu cầu cơm bánh của họ, đằng sau ngay cả vẻ tán đồng của các môn đệ vì đã nhìn thấy qua các dấu chỉ của Người, vinh quang Chúa tỏ hiện, thì bước sau cùng tiến đến lòng tin vẫn là ngoan ngoãn để Chúa Cha lôi kéo. Những con mắt thịt của ta chỉ có thể trông thấy những cái bên ngoài; còn trực giác của ta chỉ có thể làm cho ta cảm nghiệm được mầu nhiệm. Việc tuyên xưng niềm tin chỉ nảy ra trong lòng và tràn trên môi miệng ta nếu Thiên Chúa rọi sáng cho con mắt tâm hồn của ta và ta được ánh sáng hướng dẫn. Ta có lòng tin sâu thẳm khi trong mật thiết sâu xa và huyền nhiệm Chúa đến gần gũi ta và ta tự do dâng hiến toàn thân và dấn thân cho Người.
2. “Chúng ta có tránh khỏi xầm xì không” (H.Vulliez, trong “Dieu si proche, Năm B”, Desclée de Brouwer, tr. 137). Khi những tiếng xầm xì, nhỏ to nổi lên từ một đám đông, thật đáng buồn. Những lời xầm xì nham hiểm, tệ hơn những lời phản đối mạnh mẽ! Không có gì đáng sợ và có sức phá hoại hơn thái độ khinh thị ngạo mạn này. Khi lang thang trong sa mạc, dân Do Thái đã luyến tiếc “những củ hành và miếng thịt” của Ai Cập mà quên đi kiếp nô lệ phũ phàng đã phải chịu. Họ bắt đầu xầm xì phản đối ông Môsê và Aaron. Thực ra chính là họ đứng lên chống lại chính Thiên Chúa. Trong cả bộ Kinh Thánh, từ “xầm xì phản đối” đều có một ý nghĩa đạo đức nhất định. Đó sẽ là sự biểu lộ thái độ ngoan cố chối từ kế hoạch Chúa muốn cho con người. Như ta thấy biểu lộ trong phần đầu chương 6, Tin Mừng Gioan: những người lãnh đạo Do Thái giáo chối từ “bánh hằng sống”. Xa hơn (Ga 6,61) ta thấy thái độ chối từ của chính các môn đệ. Những lời xầm xì thường là thái độ chối từ chưa dám đem niêm yết công khai vậy. Liệu chúng ta có tránh khỏi thái độ xầm xì không?
1. Một lời huyền nhiệm mới: Chúa nhật trước, chúng ta đã kết thúc phần thứ nhất “diễn từ bánh trường sinh” ; theo thánh Gioan, Chúa nói những lời này ở hội đường Capharnaum, tiếp theo sau phép lạ bánh hóa nhiều. Lúc ấy, Đức Giêsu tự giới thiệu Ngài là “Bánh từ trời xuống”, cao trọng vô cùng so với manna của cuộc Vượt Qua thứ nhất. Điều này đã gây ra sự chống đối nơi nguời Do Thái : “Người này không phải là Giêsu, con của ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết rõ, sao bây giờ ông ta lại nói : “Tôi từ trời xuống ?” Trước sự chống đối này, Đức Giêsu cho họ biết một mạc khải mới về mầu nhiệm con người và sứ vụ của Ngài : “Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.” Câu nói này còn gây ra một chống đối khác, và để trả lời cho sự chống đối lần thứ hai này, lại có thêm một mạc khải mới nữa về mầu nhiệm Đức Giêsu, lời huyền nhiệm mới của Ngài ở câu 51 (câu kết bài Phúc âm chúa nhật trước) mở đầu cho phần thứ hai của diễn từ. Lời này chủ yếu nói đến Thánh Thể : “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
Đức Giêsu không những chỉ rõ mình là “bánh trường sinh” mà còn là “bánh trường sinh từ trời xuống”.
Động từ “ban” (“Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” ) chủ từ của nó không phải là Cha, nhưng chính là Đức Giêsu. Ngài là người ban tặng, nhân danh Chúa Cha.
Bánh này đồng nhất với “thịt “ của Đức Giêsu. Từ này không chỉ bản chất của cơ thể con người, nhưng chỉ chính Đức Giêsu trong thân phận con người phải chết. Tại sao tác giả Tin Mừng thích dùng từ này hơn từ “thân mình” mà truyền thống đã quen khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói ở bữa tiệc ly ? Cha X. LéonDufour trả lời : “Có thể do từ “thịt” đã nêu lên cách hiện diện của Ngôi Lời giữa chúng ta trong Lời Tựa của phúc âm thánh Gioan (1,14 : “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt ) ; như vậy, ở đây, tác giả phúc âm muốn giữ lại ý tưởng về mầu nhiệm nhập thể mà diễn từ muốn làm nổi bật khi nói đến vấn đề từ trời xuống.” (‘Lecture de l’Evangile selon Jean’, tập 2, Seuil, tr. 160). Ngôi lời đã trở nên xác thịt (1,14). Và thịt đã trở nên bánh (6,51).
Còn công thức : “Ban để cho thế gian được sống” nói rõ mục đích của việc Đức Giêsu dâng hiến mạng sống mình làm quà tặng.” (sách đã dẫn, tr.161)
2. Một phản đối mới: Điều khẳng định mới mẻ về cái chết của Ngài là mạch suối hằng sống cho thế gian đã gây ra một phản đối mới : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?” Mới đó, Đức Giêsu đã gây xung đột khi xưng mình có nguồn gốc từ trời, giờ lại thêm một xung đột khác. Nếu đúng thực là người Thiên Chúa sai đến, là Đấng Thiên sai như đã tự phụ thì làm sao Thiên Chúa có thể để Ngài phải trải qua cái chết vì Ngài quả quyết : “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” Làm sao Thiên Chúa có thể không cứu Ngài thoát khỏi quân thù và bảo đảm cho Ngài chiến thắng ? L.M. Chauvet cảnh báo : “Nếu khó khăn thứ nhất về căn tính Đức Giêsu đã khó có thể tiêu hóa nổi thì khó khăn thứ hai về cách thực hiện sứ mạng của Ngài càng không thể nuốt trôi : vì như vậy, Thiên Chúa có lẽ sẽ không còn là Thiên Chúa nữa.” (“Symbole et sacrement”, Cerf, tr.229-230) Chính xung đột thứ hai là hậu cảnh cho “diễn từ về bánh trường sinh”, chứ không phải việc bánh trở nên thịt Ngài được gọi là sự « biến đổi bản thể ». Chính niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng từ Thiên Chúa mà đến và lại trở về với Thiên Chúa sau khi trải qua cái chết để ban sự sống cho thế gian mới là trung tâm của tất cả diễn từ. “Như thế, chúng ta mới nói hết được tầm quan trọng của vấn nạn ở câu 52 (“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?”): Thiên Chúa có còn là Thiên Chúa nữa không một khi Người để cho kẻ Người sai đi phải chết ?” (L.M. Chauvet, Sđd, tr.230).
3. Mạc khải mới của Đức Giêsu về chính mình : Thay vì hạ giọng làm cho người nghe khỏi bị vấp phạm, Đức Giêsu còn lên tiếng mạnh mẽ, quả quyết hơn: “Thật, tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con người, các ông không có sự sống nơi mình.”
Không chỉ có vấn đề “thịt “, mà còn phải “ăn” (nghĩa đen là “nhai”, như chúng ta “nhai” bữa ăn phục sinh ; chúng ta gặp động từ này 8 lần trong những câu này), và phải uống « máu » Ngài.
Để “ở” với Ngài ngay từ bây giờ, để sống sự sống Ngài đã nhận từ Cha, chúng ta phải nhờ đức tin đón nhận mầu nhiệm sự chết là quà tặng Ngài ban cho ta.
Khi đọc bản văn này, một bản văn rất tương hợp với bài tường thuật về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể, người kitô hữu không thể không nhận biết đó là lời loan báo về Thánh Thể. Tài liệu thần học chuẩn bị cho Đại hội thánh thể quốc tế tại Lộ đức viết rằng : “Khi ăn mình mầu nhiệm Chúa, các kitô hữu «nghiền ngẫm» (nhai lại) biến cố gây vấp phạm là việc Đấng Thiên sai bị đóng đinh vì muốn ban sự sống cho thế gian (xem Gioan 6,51), và nên một với Người nơi chính thân thể mình, hầu đời sống hằng ngày được biến đổi nên giống Người.” (“Jésus Christ, pain rompu pour un monde nouveau”, Centurion, 1980, tr.64)
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “ Ngôi lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh” (A. Marchadour, trong “Les dossiers de la Bible”, số 41, 1992, tr.13-14). “Khi giảng dạy tại Capharnaum, Đức Giêsu không thể tuyên bố trực tiếp về Thánh Thể vì trước bữa tiệc ly, cũng như trước khi Ngài chết và sống lại, điều đó còn rất khó hiểu. Trước hết, thành ngữ “Bánh trường sinh” là cách để chỉ Đức Giêsu là Đấng mạc khải từ trời đến, và lời Ngài là của ăn và của uống giống như sự Khôn ngoan của Thiên Chúa được trình bày cụ thể bằng bánh và rượu (“Hãy đến, hãy ăn bánh và hãy uống rượu ta đã dọn cho các ngươi”, Prov. 9,5). Toàn bộ diễn từ nhằm gợi lên niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng Mạc khải ; ngoài ra, việc cử hành bí tích Thánh Thể cũng được biểu lộ rõ ràng trong những kiểu nói: “ăn, uống, có sự sống”. Hơn nữa, phần cuối (câu 51-58) của diễn từ còn trực tiếp nói đến Thánh Thể. Chúng ta hãy xem xét phần này. Quả thật, từ câu 51, Đức Giêsu nói đến cái chết của Ngài như nguồn mạch sự sống : “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Từ thịt làm chúng ta nghĩ đến Lời Tựa : “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (1,14). Ở đây, rõ ràng, mầu nhiệm nhập thể được diễn tả ở điểm chót là cái chết của Đức Giêsu. Ngôi lời đã trở thành xác thịt. Xác thịt đã trở nên bánh. Có sự liên tục giữa nhập thể, cái chết trên thập giá và Thánh Thể. Ngày nay, Đức Giêsu vắng mặt về thể xác, nhưng điều Ngài mạc khải còn đó và Thánh Thể vẫn là điểm hẹn để con người có thể gặp gỡ hoặc từ chối Người như những người đương thời với Đức Giêsu vậy : “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi ?” (6,60) Trong các câu 53-56, thay vì động từ “ăn”, Gioan dùng một động từ có nghĩa mạnh hơn : “nhai”, “nhai rau ráu”. Điều này có thể nhằm nhấn mạnh đến thực tại của Thánh Thể vì có một số kitô hữu theo thuyết ngộ đạo bác bỏ sự trung gian của vật chất trong việc kết hợp với Đức Giêsu qua các bí tích, và không nhận Ngài cũng là người như chúng ta: đến trong xác thịt (1 Gioan 4,2). Tuy nhiên, sử dụng vật chất làm trung gian trong các bí tích, không có nghĩa là chúng ta sử dụng ma thuật : Chính Thần Khí mới làm cho sống, còn xác thịt chẳng ích chi (6,63). Thánh Thể, xác và máu, thông truyền cho tín hữu hai quà tặng mà những người thời Đức Giêsu tìm kiếm : đời sống vĩnh cửu ngay từ bây giờ và sự luôn « ở » với Đức Giêsu. Ngày nay cũng vậy, kitô hữu nào thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin thì ở trong Ngài và được sự sống đời đời.
2. “Hai bàn tiệc” ( Cl. Duchesneau, trong “Petit traité d’animation liturgique”, Atelier, 1997, tr. 52-53). “ “Thánh lễ gồm hai phần : phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể ; cả hai liên kết chặt chẽ để làm nên một hành động phượng tự duy nhất. Thật vậy, thánh lễ vừa là bàn tiệc Lời Chúa vừa là bàn tiệc Thân Thể Chúa nhờ đó các tín hữu được giáo huấn và được bồi dưỡng” (PGMR 8) Bản văn này sáng sủa rõ ràng nên không cần phải giải thích thêm. Nó nói đến tính cách đặc biệt của mỗi phần trong thánh lễ : có hai bàn tiệc nên có hai của ăn, nhưng cũng nói đến sự duy nhất làm cho hai bàn nên một hành động phượng tự duy nhất. Chúng ta đi từ Lời đến Thánh Thể, hay, dựa trên câu nổi tiếng của phúc âm thánh Gioan : “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” (1,14), để nói rằng chúng ta không thể đi tới xác thịt (thân thể) mà không qua Ngôi Lời (lời), và cả hai đều chỉ là duy nhất một Chúa; có nghĩa là để gặp Chúa, đến với Chúa, phải nhờ Lời của Người. Chúng ta cũng biết rằng từ thế kỷ XVI, anh em tin lành nhấn mạnh hơn đến tầm quan trọng của bàn tiệc thứ nhất và người công giáo chú trọng đến bàn tiệc thứ hai, nhưng từ công đồng Vaticanô II, phụng vụ có được sự cân đối hài hòa giữa hai bàn tiệc này. Đàng khác, Công đồng không canh tân mà chỉ trở về nguồn là nền thần học của các Giáo phụ nổi tiếng như Origênê, Ambrôsiô, Hiêrônimô, Gioan Kim Khẩu và Xê-da thành Ác”.
1. Khi mọi người đã bỏ đi, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi hết sức quyết liệt…
Ở Capharnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai. Sau « người Do Thái » là những người đầu tiên bỏ đi, đến lượt « nhiều môn đệ » của Đức Giêsu xầm xì và đả kích Ngài giống như con cái Israel trong thời kỳ băng qua sa mạc (vào đất hứa). Họ nói : « Lời này chướng tai quá, ai mà tiếp tục nghe nổi ? »
Không làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, Đức Giêsu còn đặt ra cho những người nghe mình một câu khó trả lời. Sau khi đã loan báo cái chết của mình là nguồn mạch sự sống cho thế gian, bây giờ Ngài đề cập đến việc Ngài trở về với Cha. Ngài nói với họ : “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ? Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ?”
Lần này thì quá lắm rồi ! Tác giả Tin Mừng viết tiếp : «Từ lúc đó, rất nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa.»
Chính lúc đó, lúc mà hầu như mọi người bỏ rơi mình, Đức Giêsu quay sang «nhóm mười hai » (hạt nhân của một dân mới) là tên mà Tin Mừng thứ bốn gọi lần đầu tiên. Ngài nói với họ, thúc ép họ phải có một chọn lựa dứt khoát : hoặc bỏ đi hoặc ở lại và theo Ngài cho tới Lễ Vượt Qua của Ngài, như Ngài đã hỏi họ tại miền Cêsarê Philipphê (Mt 16,15 ; Mc 6,1415 ; Luc 9,7-8) : « Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao ? »
2.... Và lời tuyên xưng đức tin của Simon-Phêrô : - Simon-Phêrô nhân danh «nhóm mười hai » (ông xưng hô ở ngôi nhất số nhiều) tuyên bố sự gắn bó của các ông với Đức Giêsu : « Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa. » + Thánh Phêrô bắt đầu : « Chúng con biết đi với ai ? ». Tác giả Tin Mừng đặt trên môi Phêrô động từ « đi » là động từ đã được dùng trước đó để chỉ sự « rất nhiều môn đệ » bỏ rơi Thầy. Rõ ràng, ngược lại với đám đông môn đệ đó, «nhóm mười hai » đã dấn thân theo Thầy. + Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự ; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng với con người Đức Giêsu : « Thầy có… Thầy là… ». X. Léon-Dufour chú giải : Lời tuyên xưng đức tin của « Phêrô vọng lại điều Đức Giêsu vừa mạc khải : lời Ngài là « sự sống đời đời ». Phêrô mặc nhiên hoàn toàn chấp nhận tất cả nội dung của diễn từ mà các môn đệ khác xét là không thể chấp nhận được. Chắc chắn, theo tình hình câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng, ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất, đó là sứ điệp của Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời. » (“Lecture de l’Evangile selon Jean”, tập 2, Seuil, tr. 188) Và trong lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có : « Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa », nghĩa là Đấng mang trong chính mình một cái gì thánh thiện của chính Thiên Chúa. X. Léon-Dufour đặt câu hỏi : « Đấng Thánh của Thiên Chúa nói lên điều gì ? Đây là một tên gọi hãn nữu, khó giải thích. Phêrô không dùng lại một tên nào mà Đức Giêsu đã sử dụng trong diễn từ để chỉ chính Ngài (Con, Bánh trường sinh, Đấng Thiên sai, Con Người) ; thậm chí ông cũng không dùng một danh hiệu truyền thống nào về sự mong đợi Đấng Cứu Thế trong đạo Do thái… Điều đặc biệt ở đây là Phêrô đã diễn tả Đức Giêsu là ai theo cách của riêng ông. Phải chăng ông lập lại danh hiệu này theo Thánh vịnh 16, trong đó có nói đến danh hiệu « Đấng Thánh của Ngài », theo bản dịch Bảy mươi ? (xem Tông đồ công vụ 2,27) Thánh vịnh này ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện ; phải chăng Phêrô cũng muốn nói đến tình thân mật sâu xa giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa ? Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha (5,19-30), sau đó, Ngài còn loan báo mình đã được « Thiên Chúa thánh hiến » (10,6 ; 17,19). Danh hiệu « Đấng Thánh Của Thiên Chúa » cao vượt hơn danh hiệu «Thiên Sai » rất nhiều và thích hợp với danh hiệu « Con Thiên Chúa » mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Mát-Thêu 16,16. » (Sách đã dẫn, tr. 189) - Trong cơn khủng hoảng Giáo hội hiện phải đương đầu, các kitô hữu ngày nay cũng đang đứng trước câu hỏi cốt yếu xưa kia Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ Ngài : câu hỏi về căn tính con người của Ngài, về sứ vụ của Ngài và về sứ vụ của Giáo Hội. Dựa trên đức tin của Simon-Phêrô và nhóm Mười Hai, chúng ta có cương quyết chọn đi theo Đức Giêsu để trở nên nhân chứng cho Tin Mừng mà thế giới đang mong đợi không ?
« Cuộc khủng hoảng rất trầm trọng. Nó lan tới cả những người thân cận với Đức Giêsu. Đây là một khủng hoảng về niềm tin đưa đến mọi đổ vỡ. “Diễn từ bánh trường sinh”, một trong những đỉnh cao của sứ điệp, mang dáng dấp một thất bại thảm não. Đủ rồi ! không hiểu biết, thất vọng, bối rối vọng lên từ những tiếng xầm xì… Trước đám người lạc hướng hoặc thù nghịch này, sao Đức Giêsu không bớt giọng một chút ? Ngài có thể nắm họ trong tay nếu làm họ cảm động. Nhưng không thế ! Không có một nhượng bộ nào ! Không có một dễ dãi nào để người ta dễ tin vào chân lý hơn. Đức Giêsu thậm chí đã sẵn sàng để nhìn cảnh các tông đồ bỏ đi. Đối với Ngài, trung tín với Chúa Cha, với Lời, nguồn mạch của tất cả hiện hữu, là trên hết. Chính Ngài là Ngôi Lời trở thành xác thể ; là Lời Thiên Chúa hiện thân trong xác phàm. Rõ ràng chính đó mới là điều không thể chấp nhận được. « Còn anh em, anh em có muốn bỏ đi không ? » Bỏ đi, không ở lại là một tình huống rất có thể xảy ra, ngay cả đối với những người bạn thân nhất. Ngài còn đưa ra câu hỏi lấp lửng như để chất vấn thính giả của mình : « Thế thì khi anh em thấy Con Người lên nơi ở trước kia thì sao ? » Nicôđêmô đã không còn chỗ bám víu để rồi cuối cùng hiểu được ông phải « sinh lại » cách nào. Ông đã tin. Chỉ có Đức tin mới soi sáng cho chúng ta hiểu xa hơn những gì từ ngữ nói lên, những gì chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu, những gì chúng ta tưởng tượng, kể cả những gì chúng ta tin rằng mình đã tin. Xa hơn ? Người ta ngừng bước… hãy đi xa hơn. Người ta ngừng bước khi không còn lắng tai nghe… hãy vượt xa hơn. Người ta bám lấy những ý kiến riêng, kể cả những thành kiến riêng. Người ta từ chối không chịu nhúc nhích, không chịu để mình bị thúc ép. (…) Tin, chính là nhận ra ánh sáng le lói bên kia những từ ngữ, bên kia những nghi lễ. Tin cũng còn là “ăn” Lời và được nuôi dưỡng bằng Lời.”
« Giữa sự tuyên xưng đức tin tại Capharnaum và tại Cêsarê có những điểm giống nhau lạ lùng, tuy nhiên giống về hoàn cảnh và nội dung hơn là ngôn từ (…) Đó là lúc khủng hoảng, là giây phút chọn lựa (…) Chịu ảnh hưởng của Mác-cô nên ngay khi bắt đầu câu chuyện, các tác giả Tin Mừng nhất lãm đã cho thấy một câu hỏi nổi cộm về nhân vật Giêsu. Đứng trước uy thế phát xuất từ lời Người nói, sức mạnh từ các phép lạ Người làm, và nhất là lời Người khẳng định mình là Bánh Hằng Sống, mọi người thắc mắc hỏi nhau: Đức Giêsu là ai? Câu hỏi này có liên quan trực tiếp đến số phận của dân Do thái và số phận của chính Đức Giêsu, bởi vì sự chúc phúc mà Abraham lãnh nhận đã gắn liền số phận của Israel với số phận của tất cả mọi dân tộc. Đó là vấn đề phần rỗi của cả nhân loại. Trung tâm của vấn đề trọng đại và lớn rộng này là nhân vật Giêsu và sự đón tiếp Người. Đây cũng là vấn đề đức tin : dưới ánh sáng của Thiên Chúa, các tác giả Tin Mừng nhất lãm trình bày làm thế nào Phêrô là người đầu tiên đã biết trả lời cho Đức Giêsu, và nhờ đó dẫn Giáo Hội vào con đường cứu rỗi. Nơi Gioan, với cách trình bày khác, câu trả lời của Phêrô chứa đựng cùng một nội dung và phát xuất từ cùng một niềm tin : Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Thầy từ Thiên Chúa mà đến, Thầy thuộc về một thế giới mà loài thụ tạo không thể tiếp cận được, thế giới của mọi ước vọng, thế giới của Thiên Chúa Cực Thánh. Tất cả mọi hình thức đức tin đều giống nhau về điểm này. Nhưng theo cách riêng của mình, Tin Mừng Gioan đã đem đến cho lời tuyên xưng đức tin này một tầm mức hết sức quan trọng. Lời tuyên xưng đó được đặt vào một bối cảnh hết sức rộng lớn. Bối cảnh đó là số phận dân Israel và lịch sử của họ. Suốt chương VI, rất nhiều chi tiết cho thấy những diễn tiến từ lúc Đức Giêsu sang bờ bên kia biển hồ Galilê (6,1) cho đến lúc Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu khen ông đều diễn ra song hành với những biến cố lớn của sách Xuất hành diễn tả sự ra đời của dân tộc Israel. (…) Những điểm tương cận đó (…) mang một ý định rõ rệt. Đàng sau những trùng hợp này (…), Gioan lưu ý đến mối liên hệ sâu xa giữa biến cố Xuất Hành, giải phóng dân riêng, vượt biển Đỏ, băng qua sa mạc, và kinh nghiệm mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Người trải qua. Theo Môisê ngày xưa và theo Đức Giêsu hôm nay, tự căn bản, tiến trình cũng là một. Giữa những đồng bào thù nghịch và trong một tương lai đen tối, vấn đề là nhận ra, nơi con người mà bề ngoài như bất lực kia, sự hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng Người, cũng như nhận ra sự đảm bảo một tương lai hạnh phúc. Vấn đề cũng là bước theo Người, và sống niềm tin như Abraham xưa kia và Đức Giêsu Kitô ngày nay.
“Vào cuối thế kỷ XX này, người công giáo Pháp ý thức rằng mình đang phải đối đầu với một tình thế nghiêm trọng. Triệu chứng của tình thế này thì nhiều và đôi khi đáng ngại. Dĩ nhiên, không được quá thổi phồng cơn khủng hoảng hiện nay : báo cáo của Hội đồng giám mục về « trình bày đức tin cho thế giới hôm nay » cho thấy ngay giữa những khó khăn, nhiều tín hữu đã đương đầu với thử thách đức tin. Họ là những người đã tìm thấy nơi Giáo hội những lý do để tin, để đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống, và để dấn thân lãnh nhận trách nhiệm trong đời sống xã hội. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta bưng bít những dấu hiệu đáng lo, đó là số người đi lễ nhà thờ giảm sút, ký ức Kitô giáo phần nào mất đi, và sự phục hồi khó khăn. Ngày nay, trong xã hội chúng ta, chính chỗ đứng và tương lai của đức tin bị đặt thành vấn đề (…) Chính trong bối cảnh xã hội này, từ Tin Mừng, chúng ta có thể chọn lựa những gì phù hợp để giúp thế giới phát triển, nhưng cũng không quên Tin Mừng có thể phản bác lại trật tự của thế giới và xã hội khi trật tự này trở nên vô nhân. Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng thời buổi hiện tại không bất lợi cho việc loan báo Tin Mừng hơn những thời kỳ trước đây. Trái lại, tình thế nghiêm trọng hiện nay càng thúc đẩy chúng ta trở về nguồn của đức tin cũng như thúc đẩy chúng ta trở nên những môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô một cách cương quyết hơn và dứt khoát hơn ».
1. Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch của tâm hồn : Máccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong «phần nói về bánh », giữa hai lần bánh hóa nhiều : lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với những người biệt phái cùng ký lục về « sạch » và « ô uế», và, sâu xa hơn, về thái độ kỳ thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì « ô uế », do đó không được đi lại với những người này.
Tranh luận bắt đầu từ một phản ứng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra « xì căng đan » do các môn đệ Đức Giêsu gây ra : vài người trong các ông « dùng bữa (nghĩa đen : ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa ».
Và Máccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm những tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như tôn giáo. J. Potin viết : « Nhờ cả một mạng lưới chằng chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên của dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những lễ nghi rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều nhằm tìm lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì những “sinh hoạt” của cuộc sống hằng ngày như: sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với xác chết hoặc với người ngoại, người cùi, … Theo cách nói của các rabbi (thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ. » (Xem « Đức Giêsu, lịch sử đích thực », Centurion, tr.192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi phải có : « lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không được chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị. » (sách đã dẫn, tr. 193-194).
Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
+ Chẳng những không tìm cách xin lỗi cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là « những kẻ giả hình », khi dùng những lời tiên tri Isaia để nói về họ : « Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích ; và giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân. » (Is. 7,6-7 và 29,13) Kế đó, để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những « truyền thống » do cha ông truyền lại (những «truyền thống » của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một ví dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính giả dối của những kẻ hay soi mói: « Hãy thờ cha kính mẹ », đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen ; tuy nhiên, người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa !) J. Potin giải thích : « Đó rõ ràng là cách thay thế giới luật nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh hiến tiền bạc giả danh tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những người Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính điểm căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa. » (sách đã dẫn, tr. 194) + Rồi Đức Giêsu quay sang nói với « đám đông ». Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch/ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi quyết định của con người : đó là « lòng » họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định theo điều dữ : «chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con người ra ô uế ».
M. Quesnel khẳng định : «Chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này : không có gì ở ngoài con người có thể làm họ trở nên dơ. Về điều này, Máccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông ; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch/ô uế nữa : đụng một xác chết hay một người cùi, ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với người Do thái, tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi, nhưng đối với người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào để tách rời họ khỏi Thiên Chúa. » (« Đọc Tin Mừng Thánh Máccôthế nào ?», Seuil, p.125)
+ Nhưng điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ «trong nhà ». Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luận : « Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm con người ra ô uế. »
2. Từ phân biệt… đến cởi mở và thông hiệp : Chính Máccô giải thích : « Như vậy Đức Giêsu tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch ».
Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: « Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối : người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người « sạch », tức người biệt phái (nghĩa từ này là « những người được tách biệt ra ») và bên kia là những người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mở. Phần Thiên Chúa, Người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái « những người sạch và khắc nghiệt », tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, « những kẻ bị loại trừ » (người thu thuế, đĩ điếm, lính rôma, v.v.) Chính điều mới mẻ này sẽ xô đổ những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu. » (J. Hervieux, “Tin Mừng thánh Máccô”, Centurion, tr. 103)
Một lời nói rõ ràng và có sức giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng Máccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và Dân ngoại. J. Potin nhận xét thêm : « Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách tông đồ công vụ đã chứng minh : Phêrô đã phản đối : « Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế », khi trông thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý. » (Sách đã dẫn, tr.195196) Qua việc công bố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.
Một cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó khăn trong đời sống cụ thể trước những luật lệ phải bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ thời Cựu ước và trong đạo Do thái người ta mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những tập tục và giới luật để được an tâm. Cũng không phải chỉ ở thời đại chúng ta Kitô giáo mới biết đến những cám dỗ như thế. Chính Giáo hội sơ khai cũng đã phải trải qua những cám dỗ này. Thánh Phaolô chứng minh cho chúng ta thấy những luật lệ Do thái và sự trong sạch nệ luật gây ra những thái độ cần phải chỉnh đốn. Sách tông đồ công vụ, thư gởi tín hữu Galata, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thư gởi tín hữu Rôma đều lần lượt ám chỉ đến vấn đề này. Thư gởi tín hữu Galata cho chúng ta thấy chính Phêrô cũng do dự trước tình hình nghiêm trọng do phản ứng mạnh của một số người. Ông dùng bữa chung với người ngoại giáo, nhưng khi một số người thân cận của Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông lẩn tránh và không dám tiếp xúc với người ngoại giáo nữa vì sợ những người đã cắt bì. Thấy vậy, một số người Do thái khác cũng bắt chước ông. Thánh Phaolô đã kịch liệt đả kích thái độ « ỡm ờ» này.(Galata 2,11-14) Chương 10 trong Tông đồ công vụ thuật lại : trong lúc Phêrô phải đương đầu với những khó khăn này thì một thị kiến đã dạy ông thái độ cần có và ông đã vào nhà viên bách quan dù theo luật như chính ông đã biết : người Do thái bị cấm vào nhà người ngoại giáo. Một vấn đề khác, đó là việc cắt bì. Một số muốn dân ngoại khi trở lại phải chịu cắt bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ lãnh của Giáo hội, cũng cảm thấy khó mà quyết định về những vấn đề này ; ông đã can đảm giải quyết nó nhưng không phải là không phân vân. Thánh Phaolô cảm thấy cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng thứ yếu của những tập tục về thức ăn, nên ông viết : « Thức ăn dành cho bụng và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái kia. » (1 Cor. 6,13) Trong thư gởi tín hữu Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra một phán đoán rất quân bình : « Nước Thiên Chúa không phải chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. » (14,17) Tuy nhiên, bằng cách khích lệ là cần phải làm đúng lúc vì « những người yếu đuối », Phaolô nói tiếp : « Đừng vì một thức ăn mà phá hủy công trình của Thiên Chúa. » (14,20) Tất nhiên mọi thức ăn đều sạch, nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với người ăn chúng mà gây gương mù. Những sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của thánh Máccô dành cho các tín hữu của ông. »
2. Truyền thống là gì ? (H. Vulliez, trong « Thiên Chúa rất gần. Năm B », Desclée de Brouwer, tr. 146)
« Những người biệt phái trách các môn đệ Đức Giêsu «không rửa tay trước khi ăn », nghĩa là không trung thành với truyền thống. Nhưng truyền thống là gì ? Trong đạo Do thái, luật bắt buộc các tư tế phải rửa tay trước khi cử hành phụng vụ (Xuất hành 30,17-21). Các Rabbi biến luật này thành phức tạp hơn khi thêm vào đó những chi tiết và những giải thích cho rõ ràng hơn. Đàng khác, họ áp đặt lễ nghi này cho mọi người Do thái trước khi họ dùng bữa, « lấy cớ là tất cả các bữa ăn đều là một hành vi tôn giáo và toàn thể Dân Israel là dân tư tế ». Rồi, dựa vào một tiến trình mà ai cũng biết để biện minh cho những luật lệ này, họ nói rằng chúng có nguồn gốc từ thời ông Môisen, người đã giải phóng dân tộc. Nên đó là « Truyền thống ». Nhằm phá vỡ tính máy móc của sự khép kín này, cũng như nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ truyền thống, khởi đi từ sự đối lập giữa sạch và ô uế, cái bên trong và cái bên ngoài, Đức Giêsu lập luận : «Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được ; nhưng chính cái từ con người xuất ra mới là cái làm con người ra ô uế ». Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội tâm, luật lệ lấn át tinh thần ; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc : « Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra ngoài ». Chỉ có một truyền thống đích thực, đó là dòng chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng chảy lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng mịn màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy ».
« Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật ; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mời gọi chúng ta đi đến tận « tâm điểm », tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình, với cái « tâm » của mình, vừa phải đối diện với « giới luật của Thiên Chúa ». Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài… »
CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC
TẠI VÙNG ĐẤT DÂN NGOẠI (Mc 7, 31-37)
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI 1. Tại vùng đất dân ngoại... Sau khi tranh luận với những người biệt phái và các ký lục về « sạch » và « ô uế », Đức Giêsu vào vùng dân ngoại, một cử chỉ cho thấy lời nói và việc làm của Ngài luôn đi đôi với nhau. Khi đi ngang qua miền Tyrô và Siđôn (hiện nay thuộc Libăng), nhận lời cầu xin của một phụ nữ Syrô-phênêxi, Ngài đã đuổi quỉ ám ra khỏi con gái bà (7, 24-30 : Sách bài đọc năm B không trích câu chuyện này). Giờ thì Ngài đã ở trong miền Thập Tỉnh (Đêcapôli) : Nơi chốn Máccô xác định ở đây có tính cách thần học hơn là địa lý, vì người Do Thái coi miền có mười thành phố này, ở phía Đông sông Gióc-đa-nô, như vùng đất ngoại giáo và ngoại quốc. Theo Marcô, câu chuyện đã xảy ra chính tại miền này, và chỉ trong Tin Mừng của Ngài mới có : « Người ta đem một người vừa điếc vừa câm đến với Đức Giêsu, và xin Ngài đặt tay trên anh ».
2. Nguời câm điếc được chữa lành cách lạ lùng... Lúc chúng ta chờ đợi Đức Giêsu chữa lành người câm điếc bằng một cử chỉ và lời nói đầy quyền năng của Ngài, thì Máccô làm chúng ta kinh ngạc khi ông thuật lại Đức Giêsu đã chữa lành theo cách các thầy lang ngoại giáo và Do thái thời đó thường làm.
Để tránh những con mắt tò mò, Ngài kéo riêng người câm điếc : « xa khỏi đám đông » .
Ngài : « đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh ». Chúng ta thấy Đức Giêsu cũng dùng nước miếng để chữa người mù ở Bét-sai-đa trong Máccô 8, 23, và chữa người mù từ mới sinh trong Gioan 9,6.
J. Potin xác nhận : « Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo» (« Đức Giêsu, Lịch sử đích thực », Centurion, tr. 172). Ở đây phải chăng cũng cần nhắc là trước thời canh tân phụng vụ, trong lễ nghi Rửa tội, có cử chỉ vừa lấy nước miếng sức vào lỗ tai và miệng của đứa trẻ vừa đọc lại lời của Đức Giêsu ?
Ngài ngước mắt lên trời, một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của Đức Giêsu từ đâu mà có.
Ngài rên lên một tiếng. Đây không phải là tiếng kêu cảm thương đối với người bệnh cho bằng một lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền lực sự dữ.
Ngài phán một lời mầu nhiệm mà Máccô đã có ý thuật lại bằng tiếng araméen, ngôn ngữ Đức Giêsu dùng, mặc dù ông viết Tin Mừng bằng tiếng hy lạp, đó là « Effata », nghĩa là « hãy mở ra ».
Lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu có hiệu lực ngay tức thì : đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng ; và, như trong những câu chuyện khác về phép lạ, việc Chúa chữa lành làm dấy lên sự phấn khởi nơi đám đông chứng kiến phép lạ, dù Đức Giêsu đã khuyên họ giữ kín.
3. . . .dấu chỉ thời đại Đấng Thiên Sai, … Lời tung hô Máccô trích dẫn để kết luận câu chuyện cho chúng ta thấy chìa khóa của bài đọc : « Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả : ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được. »
Phần thứ nhất của lời tung hô qui chiếu về sách Sáng tạo : « Thiên Chúa thấy tất cả những gì Ngài đã làm đều tốt đẹp. » (Sáng thế 1, 31). Như vậy, nó ám chỉ việc Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là những dấu chỉ về sự sáng tạo mới mọi người chờ đợi trong thời buổi cuối cùng.
Phần thứ hai hiển nhiên ám chỉ đến những sấm ngôn của Isaia, nhất là sấm ngôn trong sách bài đọc của chúa nhật thứ 23 này : « Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra…và miệng người câm sẽ reo hò mừng rỡ. » Điều này có nghĩa là tất cả những gì các ngôn sứ loan báo đều được hoàn tất nơi Đức Giêsu. Nó cũng chào đón sự mở đầu của thời đại Đấng Thiên Sai.
4…. Loan báo sự chữa lành khác : sự chữa lành thiêng liêng :
Việc Chúa chữa người câm điếc ở miền Thập Tỉnh được kết thúc bằng lời tung hô chào đón những dấu chỉ Ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nó chuẩn bị cho việc chữa người mù ở Bét-sai-đa trong 8, 22-26 (sách bài đọc năm B không có). Việc chữa lành này sẽ mở đường cho các môn đệ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Như vậy, theo Máccô, phép lạ này cho chúng ta thấy ý nghĩa tượng trưng của việc chữa lành thiêng liêng mà các môn đệ Đức Giêsu đang cần. Trong câu chuyện, các môn đệ không được chỉ đích danh. Các ông hình như vắng mặt. Nhưng lời mời gọi đầy rung cảm : « Hãy mở ra » nhằm đến các ông trước tiên vì các ông vẫn còn câm điếc một cách bướng bỉnh trước sứ điệp của Thầy mình. Chính các ông có tai mà vẫn không nghe, nên tai các ông cần phải mở ra để có thể nghe lời Thầy mình và lưỡi các ông cũng cần được tháo cởi để có thể lấy đức tin đáp trả lời mời gọi ấy. Chính các ông có mắt mà không thấy (8,18), nên mắt các ông cần được mở ra và soi sáng để có thể tuyên xưng cùng với lòng tin tưởng: « Thầy là Đấng Thiên Sai » (3,29).
Sau cùng, Máccô có chủ ý để phép lạ này xảy ra trong phần đất dân ngoại và đặt nó trong « đoạn về bánh trường sinh » là đoạn hoàn toàn nói đến việc dân ngoại được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể ; ông cũng có chủ ý khi đặt trên môi những người ngoại giáo lời tung hô : « Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả : ông làm cho kẻ điếc nghe được và kẻ câm nói được ». là muốn công bố và báo trước lời tuyên xưng đức tin của các cộng đoàn Kitô hữu đã sinh ra và sẽ sinh ra từ việc truyền giáo cho dân ngoại. Như vậy, những độc giả xuất thân từ ngoại giáo trước kia cũng như ngày nay có thể dễ dàng lắng nghe đoạn Tin Mừng này, đồng hóa mình với người câm điếc được chữa khỏi cũng như với đám đông nhân chứng. Họ cũng được mời gọi « cởi mở đón nhận Lời và Hành động của Đấng Cứu Thế », và « đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới » (Xem J. Hervieux, « Tin Mừng Máccô », Centurion, tr. 107)
II. BÀI ĐỌC THÊM 1. « Hãy mở ra ! » (H. Vulliez, « Thiên Chúa rất gần. Năm B », DDB, tr. 147-148). « Phải chăng Đức Giêsu là người chuyên làm phép lạ để lòe bịp dân chúng, lôi cuốn họ theo mình và làm cho họ sống sảng khoái mê li trong một thế giới hư ảo ? Khi thuật lại cho chúng ta trình tự chi tiết về việc chữa lành người câm điếc, Máccô, tác giả Tin Mừng, hướng dẫn chúng ta nhìn xa hơn, nhằm giúp hiểu Đức Giêsu cách sâu sắc hơn. Khi chữa người khuyết tật để anh có thể nghe và nói được, Đức Giêsu mạc khải Ngài là ai : hơn hẳn một người có phép thần thông, Ngài chính là Đấng Thiên Sai. Thực vậy, Isaia đã loan báo điều ấy. Lúc Đấng Thiên Sai đến giải thoát dân Ngài, « thì mắt người mù sẽ mở ra và tai người điếc nghe được ». Đối với sự điếc lác, mù tối, câm nín và tê liệt, Ngài là dấu chấm hết. Ngài sẽ tạo nên những con người mới. Và giờ đây, nhờ Đức Giêsu, người mù xem thấy, người điếc nghe được, người câm lên tiếng và người tê liệt bước đi. « Mọi sự Ngài làm đều mới lạ… và tất cả những gì Ngài thực hiện đều đáng ca ngợi ». Thời kỳ Đấng Thiên Sai được thể hiện mỗi khi con người đi từ tháp Babel nơi không ai hiểu ai đến Lễ Ngũ Tuần là lúc mọi người đều nghe và hiểu nhau nói gì, dù rất khác biệt về ngôn ngữ, chủng tộc và văn hóa ; mỗi khi lời người khác không bị phớt lờ và giải thích một chiều ; mỗi khi lời nói của những người đã từng không thể phát biểu trong những cuộc họp, những đại hội, trước micro và máy quay phim, nay được vang lên khắp nơi, không còn bị cấm đoán nữa ; mỗi khi những kẻ xấu không còn dám khẳng định mình làm « việc nhân đạo » bằng cách chiếm đoạt quyền ăn nói của những người « thấp cổ bé miệng » trong xã hội vì sau cùng, ai cũng có quyền lên tiếng ; mỗi khi ai nấy đều chăm chú lắng nghe những khát vọng cao đẹp nhất của tâm hồn và những cảm hứng đúng đắn nhất của tinh thần nơi bản thân mình cũng như nơi người khác. Thời kỳ đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi chúng ta phá tung được bức tường giam hãm mỗi người. Bức tường hình thành bởi tính tình và sự giáo dục đã nhận, hoặc bởi sức ép của xã hội và chính trị ; mỗi khi thay đổi được điều kiện làm việc ở xưởng thợ, trong dịch vụ, nơi văn phòng, điều kiện làm việc khiến con người khó hoặc không thể giao tiếp với nhau. Thời kỳ đấng Thiên Sai cũng được thể hiện mỗi khi con người cùng nhau tạo lập được thế quân bình chính đáng giữa lời phải nói và sự im lặng để lắng nghe ; mỗi khi trong gia đình, trong nhóm, trong các đám đông, mối dây giao tiếp trở thành mối dây hiệp thông ; mỗi khi các tín hữu phân định được tiếng Chúa trong những điều con người nói với nhau ; mỗi khi những bạn hữu của Đức Giêsu không còn ấp úng trong việc loan báo Tin Mừng và ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa.
2. Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể ! (N. Quesson, trong « Những cuộc đàm đạo ngày chúa nhật. Năm B », Droguet et Ardent, tr. 187-188) « Sự chữa lành hay sự giải thoát Đức Giêsu muốn thực hiện nơi chúng ta đến với chúng ta bằng cách nào ? Các giáo phụ trả lời : « Bằng nhân tính thánh thiện của Đức Giêsu ». Đúng vậy, Đức Giêsu chữa lành chúng ta bằng Thân Thể Ngài và bằng cách tiếp xúc với thân thể chúng ta ! Marcô nhấn mạnh rất nhiều đến khía cạnh này của dấu chỉ : « Ngài đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên lên một tiếng… » Tòan bộ hành vi cứu độ của Đức Giêsu Cứu Thế được giải thích qua những cử chỉ thân xác. Chúng ta thường có khuynh hướng xóa bỏ những hình ảnh đầy cảm tính của Đức Giêsu dù chúng « rất người ». Nhưng chúng ta sẽ không thể gạt bỏ điều này, đó là Đức Kitô cứu độ chúng ta không phải bằng lời nói mà bằng những cử chỉ biết nói : bữa Tiệc ly, máu đổ ra từ Thập giá, hòn đá được lăn ra khỏi ngôi mộ trống. Chính những cử chỉ cụ thể này đã nói lên điều muốn nói ! Kỳ diệu thay những cử chỉ của Đấng Nhập Thể ! Do đó, đương nhiên, các bí tích cũng nằm trong chiều hướng chung của việc Nhập Thể : một mình gặp gỡ Thiên Chúa không qua những cử chỉ cứu độ của Đức Giêsu… là một giấc mơ hão huyền mau qua và sẽ kết thúc mau lẹ bằng việc không còn sống-với-Thiên-Chúa nữa, nhưng là sống theo bản tính tự nhiên : con-ngưòi-khép-kín-trong-chính-mình, con người điếc, câm, mù tối trước những thực tại cao cả. Chúng ta chỉ gặp gỡ Thiên Chúa thực sự nhờ đôi tai, cái lưỡi và đôi mắt. Sự gặp gỡ với Đức Giêsu chỉ có sức mạnh biến đổi thực sự nhờ những dấu chỉ bí tích, những dấu chỉ thuộc thân xác và trong Giáo hội là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta có thái độ nào đối với những cử chỉ Đức Kitô muốn thực hiện trên chúng ta ? Chúng ta sẽ đến gần Đức Giêsu để Ngài biến đổi chúng ta thành con người mới, con người được chữa khỏi câm điếc hay không ? Con người từ nay trở đi hoàn toàn rộng mở ! [3]
- “TRÊN ĐƯỜNG”, MỘT LỜI LOAN BÁO LÀM HOANG MANG.
- “Ở NHÀ”, MỘT LỜI DẠY GÂY KINH NGẠC (Mc 9,30-37).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. “Trên đường”, một lời loan báo làm hoang mang. Ngay sau khi Phêrô tuyên tín ở miền Xê-sa-rê Phi-lip-phê, Lần đầu tiên, Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó và sống lại của Người (Mc 8,27-31). Sau cuộc hiển dung trên núi cao (9,2-8), Chúa đang băng qua miền Galilê cùng môn đệ. “Người không muốn cho ai biết”, thánh sử ghi rõ, bởi vì từ này Người muốn dùng thời gian để huấn luyện các môn đệ. Người cố gắng hướng dẫn các ông chấp nhận cái viễn tượng đảo lộn hướng tư duy là: một Đấng Mêsia bị chính dân Người ruồng bỏ. “Trên đường” (câu 33), địa điểm tượng trưng cho cuộc hành trình về Giêrusalem, Người giáo huấn họ bằng cách nhắc lại lời loan báo lần trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”. Từ ngữ Chúa dùng hầu như giống hệt lần trước. - Cũng như ở câu 8,31, Đức Giêsu nói về chính mình bằng cụm từ “Con Người”, một nhân vật bí nhiệm và uy quyền, mà ngày tận thế sẽ đến trên đám mây để phán xét loài người (Đn 7,13-14). - Nhưng khác lần trước, lần đó, Chúa loan báo Người sẽ phải “chịu đau khổ nhiều”“bị các kỳ mục, thượng tệ cùng kinh sư loại bỏ”, còn ở đây, Người chỉ nói “bị nộp vào tay người đời”, giống những vị tử đạo trong Cựu Ước bị nộp vào tay quân bách hại (Gr 26,24; Tv 71,4; Tv 140; Đn 7,22). Khi áp dụng cách nói này cho chính mình, Đức Giêsu coi cuộc khổ nạn của Người giống với cuộc bách hại các ngôn sứ và các người công chính trong Cựu Ước phải chịu; và Người cũng dấn bước trên con đường trung tín với Thiên Chúa đến tận cái chết. - “Bị nộp”: Đức Giêsu quả thật đã bị Giuđa nộp cho các thượng tế (14,10); bị các thượng tế nộp cho Philatô (15,10) và sau cùng bị Philatô giao nộp cho lý hình (15,15). - Một chi tiết đáng ngạc nhiên: Đức Giêsu nói về cuộc khổ nạn của Người ở thì hiện tại: “Con Người bị nộp vào tay người đời...”. Chắc chẳn thánh sử muốn chỉ một tương lai gần, khi dùng thì hiện tại. Nhưng cũng có thể ông muốn nói rằng kế hoạch cứu độ của Chúa Cha đã bắt đầu được thực hiện, tuy không thấy nhưng cũng không thể đảo ngược. Các môn đệ vẫn một mực nghe mà không hiểu. H.Hervieux giải thích: “Vẫn là vấn đề “không hiểu” của các môn đệ trước những cố gắng của Đức Giêsu, khi Người muốn đưa các ông vào mầu nhiệm cuộc đời Người. Như ta đã thấy, Phêrô đã tỏ thái độ phản loạn đích thực khi nghe loan báo về cái chết của Chúa (8,32). Còn lần nầy, tâm trí kín mít của các môn đệ được tỏ rõ bằng cách các ông không dám hỏi Thầy, không dám bàn tiếp về những thử thách đang chờ đợi Thầy. Qua đó, chúng ta thấy rằng trực diện với cái chết khó chừng nào!” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 133).
2.”Ở nhà”, một lời dạy gây kinh ngạc. Giờ đây chúng ta “ở Ca-phác-na-um” tức là “ở nhà”, địa điểm tượng trưng cho những cuộc trò chuyện kín đáo, chủ ý dạy dỗ các môn đệ. - Với cương vị một tôn sư dầy dạn kinh nghiệm, Người hỏi các môn đệ về đề tài mà trên đường các ông đã tranh luận sôi nổi, những cuộc tranh luận mà người ta thường coi là quan trọng trong quá trình huấn luyện của các vị tôn sư. Các ông không dám nói sự thật nên ngậm miệng làm thinh. Bởi vì trong khi thầy mình loan báo về con đường khổ nạn sắp tới, thì các ông chỉ tranh luận về ngôi thứ, về vinh dự: “các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”. - Rồi, Đức Giêsu ngồi xuống gọi “Mười Hai ông lại”. “Mười Hai ông” một danh xưng hiếm thấy nơi Máccô (3,14;6,7), điều đó nghĩa là giáo huấn mà Chúa sắp nói đây nhằm nhóm các Tông đồ, những người nắm giữ trọng trách trong Giáo Hội tương lai. GIáo huấn này đảo lộn ngôi thứ thường tình trong phẩm trật nhân loại: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. J.Hervieux giải thích: “Chúa lấy người rốt hết đối chọi với ngừơi đứng đầu, lấy “người đầy tớ mọi người đối chọi với người cai quản. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi ngừơi” (Sđd, trang 135). - Và để biết chắc mọi môn đệ đều hiểu, Chúa đã soi sáng lời nói bằng một cử chỉ đầy ý nghĩa. Thời đó người ta coi trẻ nhỏ là “đồ bỏ”, vậy mà Đức Giêsu đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. J.Hervieux giải thích tiếp: “Cử chỉ này có một tầm quan trọng không ngờ. Đem một em nhỏ đặt vào giữa nhóm môn đệ và ôm hôn nó: các cử chỉ này đều đi ngược phong tục hồi đó. Xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Trái lại, thay vì đối xử với chúng như những người sẽ lớn, người ta coi chúng như “vô giá trị”, như đồ bỏ. Tục lệ còn dạy người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo vì chúng không hiểu biết Lề Luật” (Sđd, trang 135-136). Như vậy, đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ, em nhỏ ở đây tượng trưng cho những người nghèo, những người bị loại trừ, Đức Giêsu đã trả lời rõ ràng cho vấn đề các ông tranh cãi lúc đi đường: “Ai là người lớn nhất?” - “Tìm kiếm vinh dự là điều trơ trẽn nơi những người theo Đức Giêsu, lúc Người đang bước vào con đường khổ nhục của cái chết. Làm “đầy tớ” mọi Người, mở cửa pháo đài Hội Thánh cho những người hèn kém nhất, những người nghèo đói nhất, đó là “dịch vụ” mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải thi hành. Để thêm trọng lượng cho giáo huấn này, Đức Giêsu kết luận bằng từ “đón nhận”. Người là Đấng Chúa Cha sai đến. Đón nhận Người qua những ai nhỏ bé là đón nhận chính Thiên Chúa. Thiên Chúa mặc hình dáng một trẻ nhỏ, đó là một sứ điệp bất ngờ, rất độc đáo của trang Tin Mừng đẹp đẽ hôm nay” (Sđd, trang 136).
II. BÀI ĐỌC THÊM 1. Thang giá trị mới (Đức Cha L.Daloz trong “Qui donc est-il?”, DDB, trang 55-56). Đây là lần thứ hai Đức Giêsu loan báo cho môn đệ điều sẽ xảy đến cho Người. Người biết mình sẽ đi về đâu và Người nói không úp mở về cái chết gần kề và sự sống lại của Người. Phải chăng Người đã phải chịu nỗi lo âu về cuộc khổ nạn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này?”. Người còn lo lắng hơn, e rằng cuộc thử thách này bỗng nhiên ập xuống trên các môn đệ, những kẻ đã theo Người cho đến lúc này. Nhưng họ lại không hiểu gì và họ sợ không dám hỏi Người. Phải chăng họ cũng tiên cảm được mối nguy đang rình chờ? Chúng ta đôi khi cũng không hiểu Đức Giêsu nói gì. Có lẽ vì ta sợ phải hiểu chăng? Qua im lặng, các môn đệ bình thản ở lại trong sai lầm: Nước Trời mà họ mơ tưởng là nước mà ở đó họ đóng vai ông lớn, là nơi mà họ tranh cãi xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất. Khi Đức Giêsu hỏi họ: “Lúc đi đường các anh đã tranh luận gì thế?”, họ làm thinh. May thay, Đức Giêsu dịu dàng và kiên nhẫn loại bỏ sự im lặng và suy nghĩ sai lầm của họ. Vương quốc của Chúa là vương quốc của người phục vụ, là nơi người trước hết trở nên rốt hết, người nhỏ bé nhất trở nên người lớn nhất. Đức Giêsu hiểu rất rõ bản tính con người. Người không cho phép các môn đệ giam mình trong sự thinh lặng để che giấu nỗi sợ hãi và tham vọng. Người đi bước đầu, loan báo, chất vấn, giải thích. Rồi Người đặt một em bé ở giữa các ông, để tỏ cho các ông thang giá trị mới, nó bắt nguồn từ tình yêu đối với Chúa Cha”.
2. “Ai là người lớn nhất?” (Noel Quesson, trong “Les entretiens du Dimanche. Année B”, Droguet & Ardant, trang 194-195).
“Trong xã hội loài người, tự nhiên ai cũng muốn chiếm được vị trí quan trọng. Đó cũng là luật lệ của thế giới loài vật, một thế giới rất có phẩm trật: luật rừng xanh, nơi kẻ mạnh đè bẹp kẻ yếu, nơi người lớn thống trị người bé. Nhưng Đức Giêsu đến đảo ngược lô-gic đó: “Ai muốn làm đầu thì hãy làm người rốt hết... Ai muốn làm người lớn thì hãy làm đầy tớ mọi người”. Những câu nói khiêu khích, cách mạng này không do các tông đồ sáng chế ra đâu, vì chính họ là người mong chiếm được địa vị cao. Nhưng chính Đức Giêsu đã đảo ngược khuynh hướng tự nhiên của con người. Nếu chỉ đổi chủ mà thôi thì không hơn gì: nếu người bị thống trị lại trở thành người thống trị, nào có thay đổi gì. Vậy mà lịch sử loài người lại đầy dẫy những cuộc nguỵ cách mạng, những người hò hét “đả đảo quân bóc lột” lại trở thành nỗi kinh hoàng cho những người thấp cổ bé miệng. Đức Giêsu đề nghị một giải pháp khác: ông chủ tự nguyện làm đầy tớ mọi người. Đây là một cuộc cách mạng diễn ra trong nội tâm con người: một cuộc đổi mới tâm hồn, một sự từ bỏ quyền thống trị người khác. Để làm điều đó Đức Giêsu nêu ra một minh hoạ: đứa bé. Trẻ em là một sinh vật nhỏ bé, không được trọng vọng ngoài xã hội, không có khả năng tự vệ, lại dễ bị người ta loại bỏ, kể cả bằng cách phạm pháp, như giết nó ngay khi còn trong bào thai, nghĩa là vào lúc nó không có một chút khả năng nào để tự vệ. Đứa bé là một kẻ nghèo hèn đúng nghĩa nhất vì nó chẳng có quyền gì. Lúc nào và ở đâu, người ta cũng có thể trao nó vào tay những kẻ mạnh, kẻ có quyền lực. Vào những ngày này, khi bắt đầu các hoạt động, chúng ta tự hỏi xem mình sẽ phục vụ ở đâu?”.
“Ở NHÀ”, VÀI LỜI NHẮN NHỦ
ĐỨC GIÊSU GỞI ĐẾN CỘNG ĐOÀN CÁC MÔN ĐỆ (Mc 9,38-48).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Đi theo Con Người. Chúng ta vẫn “ở nhà” tức tại Ca-phác-na-um, nơi đây mang một ý nghĩa tượng trưng, nghĩa là nơi Đức Giêsu dạy dỗ riêng cho các môn đệ. Đức Giêsu dừng chân ở đây trên đường lên Giêrusalem. Người sẽ chịu cuộc tử nạn mà trước đây Người loan báo hai lần tại thành này. - Đặt trong bối cảnh trên đường lên Giêrusalem, chúng ta sẽ rất dễ hiểu những lời Đức Giêsu. Trong “Tin Mừng theo thánh Máccô”, B. Standaert nhận xét như sau: “Việc Máccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ. Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích dẫn luật lệ trong Kinh Thánh này nọ, ông không nhìn nhận nền tảng đời sống luân lý Kitô giáo nào khác ngoài việc noi gương bắt chước Đức Kitô. Những trình thuật lớn loan báo số phận của Con Người thật ra không phải là những lời khuyến khích, nhưng khởi đi từ thân phận Đức Kitô, ta có thể hiểu ra những việc làm cần thiết mà người Kitô hữu phải tuân giữ. Ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống thực hành này là quyết liệt, không khoan nhượng (...). Thập giá hiện diện không những trong việc đảo lộn thân phận, làm chongười lớn nhất trở nên kẻ phục vụ mọi người, mà còn trong khả năng dám chặt tay, chặt chân, móc mắt bỏ đi, nếu những chi thể này làm cớ sa ngã”. (Cerf, tr. 78-79) Những lời Chúa nói được Máccô thuật lại còn vượt ra ngoài phạm vi các môn đệ, để nhắm đến các cộng đoàn Kitô hữu. Điều này có thể làm cho óc suy luận kiểu Tây phương của ta kinh ngạc và lạc hướng. Điều quan trọng trong các những lời Đức Giêsu nói, không phải là những đề tài, mà là những từ đặt trong ngoặc kép, như: “nhân danh” Đức Giêsu, trong phần đầu đoạn Tin Mừng này, “kẻ bé mọn” và “làm cớ sa ngã” trong phần cuối.
2. Dẹp bỏ tinh thần bè phái. Giáo huấn đầu tiên của Đức Giêsu phát xuất từ phản ứng bè phái của Gioan, con ông Giêbêđê, có biệt danh là “con của sấm sét” (3,17). “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Đức Giêsu không đồng ý, Người cảnh giác các môn đệ về nguy cơ muốn chiếm độc quyền về đức tin và Thánh Linh. J.Hervieux cắt nghĩa: “Đức Giêsu không chấp thuận cho Hội Thánh của Người có “tinh thần kín cổng cao tường” “tinh thần pháo đài”. Lệnh của Chúa là phải mở rộng vòng tay đón tiếp hết thảy những ai không tỏ ra thù nghịch với mình. “Ai không chống lại chúng ta, là ủng hộ chúng ta”. Chắc hẳn những lời này rất quan trọng đối với một Hội Thánh như cộng đoàn của Máccô, vì lúc đó cuộc bách hại thúc đẩy họ co cụm lại, sống kín cổng cao tường” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 137-138). - Chúa còn đẩy ý tưởng đó đi xa hơn, nên nêu thí dụ “ly nước lã”. Một cử chỉ nhỏ bé nhất được thi hành giúp các môn đệ của Người “vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô” có giá trị trước mặt Thiên Chúa: “người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
3. Dám liều chọn lựa hy sinh. Giọng điệu còn trở nên nghiêm trọng hơn với một chuỗi dài những câu được liên kết bằng “từ mấu chốt”: “làm cớ sa ngã”. - Trước hết, một lời cảnh cáo nghiêm khắc cho những người dựng lên chướng ngại vật, làm cho những “kẻ bé mọn” (tức là những tín hữu mà đức tin còn non yếu) bị vấp ngã. Ta còn nhờ thánh Phaolô đã cống hiến một phần lớn thư của Người bàn về nguy cơ làm cớ sa ngã. Khi giải thích cho những Kitô hữu đang hoang mang ở Côrintô rằng họ đã được giải phóng khỏi những luật lệ Do thái giáo, thánh tông đồ liền dặn thêm: “Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã... Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc” (1Cor 8,9-12). Hôm nay từ miệng Đức Giêsu, chúng ta cũng đón nhận giáo huấn đó. Vào lúc, Đấng Mêsia-Tôi Tớ, đi lên Giêrusalem để trao nộp mạng sống vì yêu thương, Người long trọng tuyên bố: trong cộng đoàn các môn đệ, phải hết sức tôn trọng người nhỏ bé nhất trong số các anh em của Người. - Kế đó là ba lời cảnh giác đối với ba chi thể của ta, vì chúng có thể lôi kéo người môn đệ sa ngã: “Nếu tay anh... Nếu chân anh... Nếu mắt anh...”. M.Quesnel tự hỏi: “Sao chỉ có 3 chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là: trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu...” (Mc 7,21-22). Ngoài ra, tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đến người nghe. Thật ra cách nói khoa trương cũng không phải là không có trong những câu có hình thức mâu thuẫn này. Hội Thánh không bao giờ giải thích theo nghĩa đen; ngôn ngữ thì đầy hình ảnh vàcó tác dụng là nhờ những câu đối lập nhau. Géhenne là thung lũng sâu khó xuống được, nằm ở phía dưới thành Giêrusalem, là nơi người ta đốt những rác rưởi, đồ phế thải, nên ở đó luôn xông lên những mùi nồng nặc kinh khủng, như vậy, Géhenne đối lập với sự sống hay Nước Thiên Chúa. Mọi người cần tránh xa nó, vì đó là nơi tiêu huỷ tận diệt... Trái lại, sự sống và Nước Thiên Chúa là một thách thức đáng cho ta tận dụng mọi nỗ lực để đạt tới. Tất cả những gì làm ta tách xa sự sống và Nước Thiên Chúa đều xấu xa. Sự sống và Nước Thiên Chúa ấy đáng cho ta quyết tâm lựa chọn, dù có phải thiệt mất một phần thân thể.” (“Comment lire un évangile? Marc”, Seuil, trang 170).
II. BÀI ĐỌC THÊM.
1. Rừng cấm! (F.Deleclos trong “Prends et mange la Parole” Centurion - Duculot, trang 169-171).
Mọi câu lạc bộ ưu tuyển, dòng tộc, giáo phái hoặc ghet-tô, dù chúng thuộc dòng tu hay triều, thường gây ra và nuôi dưỡng những cơn ganh tị. Mọi cộng đoàn hoặc nhóm khép kín, co cụm, đều ra sức bám víu vào những đặc quyền, đặc lợi đã có (...). Sách Dân số cung cấp cho ta một thí dụ điển hình. Khi Giosuê ganh tị, bực tức thấy có hai người nói tiên tri, mặc dầu họ không được uỷ quyền, cũng không được “thụ phong”. Họ là những tay săn trộm trong rừng cấm. Đây cũng là một cơn ghen thực sự mà Gioan, đại diện cho nhóm Mười Hai, mắc phải. Hãnh diện vì thuộc về nhóm tông đồ được tuyển chọn và được quyền “xua trừ các thần dữ” nhân danh Đức Giêsu, các ông thấy đặc quyền của mình bị đe dọa bởi “một người không đi theo (Đức Giêsu)” mà làm được các phép lạ... Các ông giận dữ, chống đối, tố cáo, đòi lên án. Khốn cho tên cạnh tranh bất lương! Phản ứng và câu trả lời của Môsê cũng như của Đức GIêsu, tuy rất vắn gọn, nhưng mang cùng một ý nghĩa và một giáo huấn trong sáng có thể đưa đến những kết quả khôn lường. Các anh la lối, tức giận vì thấy một điều thiện, một điều tốt được thực hiện bởi một người không công khai, chính thức thuộc về nhóm “ưu tuyển”, hoặc thuộc về cộng đoàn của Đức Kitô sao? Trái lại, nào các anh không nên vui mừng vì thấy Thần Khí Chúa tỏ mình, và thấy thần dữ bị xua trừ sao? Các anh lấy quyền gì để hạn chế Thiên Chúa can thiệp; tự mình đặt ra những biên giới, những điều kiện bắt Thiên Chúa phải tuân theo? Các anh nghĩ rằng Thiên Chúa của Ápraham, của Isaac, của Giacóp và của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, là tư hữu độc quyền của một dân tộc, một Giáo Hội, một đường lối tu đức, hoặc một đường lối mục vụ sao? (...). Trong lúc họp nhau cử hành Thánh Thể, ta ý tứ đừng tạo ra một “nhóm người sạch”, và hãy áp dụng cho ta lời thánh vịnh: “Ai có thể nhận ra những lầm lỗi của mình? Lạy Chúa, xin thanh tẩy con khỏi những tội con không hay biết. Xin gìn giữ tôi tớ Người khỏi tính kiêu căng: xin cho nó đừng bao giờ chiếm giữ lòng con”.
2. Cạm bẫy của ngôn từ “xin” và “cho” (“Points de repère en pastorale sacramentelle”, Document - Episcopat, số 10-11, juin 94, introduction, trang 2-3). Chúng ta thường bị mắc kẹt bởi cách dùng ngôn từ: cho và xin. Ta tự nghĩ mình, và chỉ có mình, là những người cho, vì mình có các bí tích, như thể chúng ta tạo ra và phân phát các ơn lành do bí tích ban. Nhưng phải nhìn nhận rằng cả chúng ta cũng chỉ là những người xin khi lãnh nhận hoặc ban các bí tích. Vì lý do thần học, có một điều ta không dám nêu lên trong lãnh vực mục vụ bí tích, đó là Chúa Thánh Linh đã hoạt động trong tâm hồn con người trước chúng ta, và rằng Nước Thiên Chúa luôn vượt ra ngoài ranh giới của Giáo Hội hữu hình. Nhờ hoạt động của mình, Thánh Linh thực hiện tác vụ ngôn sứ nơi những người nhận lãnh, để mạc khải cho ta công trình Thiên Chúa thực hiện nơi họ. (...) Nói cách khác, chúng ta cần học hỏi nơi những người đến với ta hoặc ta đến gặp họ: đó là học để biết nhìn họ với con mắt khác, để tìm ra một điểm gặp gỡ khác, chứ không chỉ qua các bí tích. Phải chấp nhận để Thánh Linh được tự do nói với ta qua họ, về Thiên Chúa và về cách khám phá ra Người. Vì những lý do này, mục vụ bí tích không chỉ là mục vụ đức tin hoặc khai mở đức tín. Nó còn là mục vụ tình thương vô vị lợi, biết đón tiếp và biết lắng nghe. Chúng ta có thể cải hoá bản thân mình nhờ điều mà những người này nói với ta về cuộc sống của họ, hoặc nhờ những câu họ hỏi về Thiên Chúa, về Hội Thánh, nhất là khi lòng họ bị tổn thương, oán giận hoặc những ước muốn mơ hồ. Đón tiếp luôn đi đôi với cố gắng để nhận định những mong muốn thầm kín thường được che giấu bởi một đòi hỏi trực tiếp.
3. Tự do của Thiên Chúa (Các Giám mục Pháp, trong “Lettre aux catholiques de France”, Cerf, trang 76-77).
Kinh nghiệm về việc Phúc Âm hoá ngày nay giúp ta có nhận xét sơ khởi này: ngày nay trong xã hội chúng ta, có một số người đang mong đợi điều gì đó từ Hội Thánh, và họ có thể bày tỏ sự mong đợi đó khi tiếp xúc với Hội Thánh bằng cách này hay cách khác: hoặc đến xin lãnh bí tích rửa tội, hôn phối; hoặc vào lúc, những biến cố vui mừng hay thử thách xảy ra trong đời họ; hoặc do tình cờ họ gặp một cộng đoàn Kitô hữu, một nhóm nào đó, hoặc cũng có thể họ gặp một phong trào có tổ chức, giới thiệu cho họ con đường khai tâm dẫn tới Tin Mừng, tuỳ theo hoàn cảnh sinh sống của họ. Ta không công nhận rằng: những gặp gỡ như vậy thường chất vấn ta và đẩy lùi kiểu lô-gíc truyền giáo đã in sâu trong tâm trí ta đó sao? Bởi vì theo lô-gíc thương mại, hoặc lô-gíc chức năng, chúng ta tưởng rằng muốn truyền giáo, Giáo Hội cần phải giữ một thứ luật cung cầu, nghĩa là Giáo Hội ở phía người cung, còn những kẻ khác, những người mong đợi, ở phía người cầu. Trong hoàn cảnh thực tế cũng như trong kinh nghiệm thực tiễn mà Giáo Hội có qua sự gặp gỡ những người này, điều gì đã thực sự xảy ra và con đường dẫn tới đức tin đã diễn tiến như thế nào? Không được phép coi những người mong đợi này như những khách hàng của Giáo Hội luôn sẵn sàng tiêu thụ điều mà chúng ta bày ra, theo kiểu lô-gíc thương mại. Trước hết, ta nên nhớ, họ là những người nam hoặc nữ, do lòng mong đợi và sự tìm kiếm, họ làm chứng cho sự tự do của Thiên Chúa và công việc của Chúa Thánh Linh, Đấng có thể khơi dậy nơi mọi người ước muốn vượt lên trên những gì họ đang sống. Bằng cách thế, đôi khi gây sửng sốt, họ nhắc nhở ta rằng địa chỉ hàng đầu cho Phúc Âm hoá chính là cuộc sống con người, rằng sẽ không có Phúc Âm hoá nếu không có đối mặt thực sự giữa Tin Mừng Đức Kitô, mạc khải của Thiên Chúa và sự mong đợi thẳm sâu nơi mỗi người. Nhưng đối lại, khi hiểu được mong đợi của con người và đáp lại lòng mong đợi ấy, Giáo Hội có trách nhiệm phải bày tỏ cho thấy, Giáo Hội không chỉ muốn đáp lại những mong đợi tức thời của họ, mà còn có sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu, sứ mạng đó là trình bày và mở đường dẫn họ đến với Người. Trong nhiều cộng đoàn và các nhóm khác nhau, Giáo Hội được mời gọi không những phải đón tiếp rộng rãi và vô vị lợi mà còn phải tỉnh thức tích cực, để nhận ra những dấu chỉ bất ngờ của Thiên Chúa qua vô số những đòi hỏi của con người thời nay, đồng thời cũng hiểu rằng những đòi hỏi này kêu gọi có một cuộc khai tâm kéo dài dẫn đến mầu nhiệm Đức Kitô, Lời Người, các bí tích và sự sống mới mà Người là nguồn mạch”.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ cuộc tranh luận “khi đi đường”... Đã hai lần (và sẽ còn một lần thứ ba nữa) Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, Người tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. B.Standaert nhận xét như sau: “Việc Máccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ. Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích luật này luật nọ trong Kinh Thánh, ông nhìn nhận chỉ có một nền tảng duy nhất cho đời sống luân lý Kitô giáo là việc noi gương Đức Kitô. Những trình thuật quan trọng loan báo số phận của Con Người thật ra không có gì là khích lệ, nhưng chính từ định mệnh Đức Kitô, ta sẽ hiểu được những đòi hỏi thực tế của Kitô giáo. Do đó, ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống đó có những đòi hỏi quyết liệt, không khoan nhượng.” Ông nhận xét tiếp: “Theo Máccô trình bày, noi gương Đức Kitô là chìa khoá của tất cả đời sống luân ly. Sự tương cận giữa đời sống Đức Giêsu và đời sống người Kitô hữu mà Máccô đề ra vẫn là gương mẫu cho nỗ lực tìm hiểu đời sống Kitô giáo. Máccô mời gọi ta suy nghĩ lại tất cả những thực hành, hoạt động, bi kịch và ước vọng của ta dưới ánh sáng duy nhất của tấn thảm kịch mà Đức Giêsu đã trải qua: “bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại” (9,31)” (“L'Evangile selon Marc”, Cerf, trang 78-79 và 81). - Có lẽ ở Giuđê, nơi dân cư là người Do thái sống chung quanh thủ đô Giêrusalem, Đức Giêsu chạm trán với nhóm Pharisêu. Nhóm này muốn thử thách Người nên đặt vấn nạn về vấn đề ly hôn: “Chồng có được phép rẫy vợ không?” Vào thời đó, việc chồng rẫy vợ trên nguyên tắc được mọi người chấp thuận. Sách Đệ Nhị luật 24,1 có viết: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nang không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”. Người ta chỉ bất đồng ý kiến về lý do mà người đàn ông viện ra để rẫy bỏ vợ mình. + Phái bảo thủ, muốn bênh vực quyền lợi cho người đàn bà trong xã hội do đàn ông thống trị, (môn phái Shammai) chỉ nhận duy nhất một lý do là hợp pháp: đó là thói lăng loàn bất trị của người vợ, hoặc một hành động khiến có thể nghi ngờ lòng chung thuỷ của nàng. + Phái tự do (môn phái Hillel) cho phép rẫy bỏ vợ bất cứ vì lý do nào, thí dụ như vô sinh, hiếm muộn, gặp được người đàn bà khác mình thích hơn, hoặc chỉ vì nấu ăn dở. Nhóm Pharisêu tự hỏi xem Đức Giêsu sẽ gia nhập phái nào? Nhưng họ cũng biết quá rõ, cho dầu chọn môn phái nào, Người cũng bị sập bẫy. Vì người ta sẽ chụp mũ Người là “cứngcỏi” hoặc là “buông thả” đối với Lề Luật thánh, và như vậy, không ai còn tin giáo huấn của Người. - Nhưng Đức Giêsu không rơi vào cạm bẫy của họ. Người trả lời bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?”. Khi dùng từ truyền dạy, Người buộc những người chất vấn phải nhìn nhận công khai, đó không phải “một lệnh truyền” của Môsê, mà chỉ là một “nhân nhượng” vì lý do nhân đạo. Họ thú nhận: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Bấy giờ, Đức Giêsu nại đến một quyền lực cao trọng hơn quyền lực của Môsê trong việc cắt nghĩa Lề Luật. Như những lần tranh luận về ngày sabát, ở đây, Đức Giêsu cũng nại đến ý Thiên Chúa từ thuở ban đầu: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Việc rẫy vợ, dù rằng có trao tờ ly hôn chỉ là một nhân nhượng, nó không huỷ bó ý muốn ban đầu của Thiên Chúa, và tính cách vĩnh viễn của hôn ước. “Vì thế họ sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. J.Hervieux giải thích: “Ra đời trước sách Đệ nhị luật rất lâu, sách Sáng thế mà Chúa trích dẫn, đã trình bày sự phối hợp người nam người nữ như nền tảng vững chắc, trên đó nhân loại được xây dựng, chớ không bị hủy diệt. Con người được tạo dựng có nam có nữ, nên cả hai phái tính: đàn ông và phụ nữ đều là “hình ảnh của Thiên Chúa”. Sự cao quí của việc kết hợp nam nữ là ở đó. Đức Giêsu rút ra kết luận mà Đấng Tạo Dựng mong muốn: “Vì lý do đó, cả hai thành một xương một thịt”... Lời lẽ thật hết sức rõ rệt. Đàn ông và phụ nữ được ơn gọi làm nên một tế bào gia đình tự lập. Đôi uyên ương họ tạo lập trở nên một đơn vị nền tảng, phát xuất do mối tương quan tình yêu và giới tính. Cái đơn vịhàng đầu này, được tạo lập do ý định của Thiên Chúa, là một thực thể cần được bảo vệ bằng mọi giá. Đức Giêsu cương quyết nhắc nhủ điều đó: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 141-142).
2. ... đến cuộc chuyện vãn thân mật “ở nhà”. Thay vì bị mắc vào âm mưu của các luật sĩ, Đức Giêsu cương quyết tái xác định ý nghĩa sự phối hợp hôn nhân do Thiên Chúa sắp đặt tự nguyên thuỷ; Người không làm luật, Người chỉ đề nghị một thái độ đạo đức cơ bản: đó là đặt mình vào kế hoạch của Đấng tạo thành. Người mở ra con đường khắt khe hơn quan điểm thường tình của người phàm. Cũng thế, vừa khi trở về nhà (nơi biểu trưng cho những giáo huấn mà Đức Giêsu dạy dỗ riêng các môn đệ) các môn đệ thay thế cho nhóm Pharisêu đặt câu hỏi: Và Đức Giêsu trả lời họ: “ai rẫy vợ mà cưới vợ khác, là phạm tội ngoại tình, đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác cũng phạm tội ngoại tình”. Ta thấy, khi chuyển lời Chúa đến địa chỉ mới là những Kitô hữu gốc ngoại giáo, thuộc thế giới Hy-La, nơi mà luật pháp cho phép phụ nữ cũng như đàn ông được quyền tự ý ly dị, Máccô cũng để ý đến hoàn cảnh đặc biệt này. Ông lần lượt nêu ra trường hợp người chồng, rồi người vợ, lìa bỏ người bạn đời của mình; dù cho phía nào gây ra cuộc phân ly cũng sẽ có “ngoại tình” nếu đi lấy người khác, nghĩa là nếu kéo theo cuộc phối hợp khác. J.Hervieux nhận xét: “Ý kiến cứng rắn của Đức Giêsu về vấn đề ly dị được áp dụng cho Giáo Hội sơ khai trong bối cảnh mới mẻ. Đem áp dụng cho Giáo Hội hôm nay cũng không là điều đáng ngạc nhiên. Giáo Hội luôn phải đối mặt với những trường kết hợp vợ chồng bị đổ vỡ rồi tái tạo. Dù sao đi nữa, ta phải luôn nhớ rằng ý kiến của Đức Giêsu không dựa trên quan điểm “duy luật” và Người luôn dang rộng tay đón tiếp những người bị khai trừ và những kẻ tội lỗi” (Sđd, trang 142). - Tiếp ngay sau giáo huấn này, là việc một số cha mẹ dẫn con họ đến với Đức Giêsu để “Người đặt tay trên chúng” và họ chạm phải phản ứng thô bạo của các môn đệ: các ông thẳng tay xua đuổi chúng. Ta dễ hiểu phản ứng của các môn đệ, nếu ta nhớ rằng vào thời Đức Giêsu, trẻ nhỏ thường bị người lớn khinh thường (...). Tất cả những chú nhóc chen chúc nhau trong cộng đồng do thái đều mù tịt về luật Môsê (...) chúng bị liệt vào hạng “bị khai trừ”, như bệnh nhân, phụ nữ và nô lệ. Bực tức trước thái độ như thế, Đức Giêsu lợi dụng cơ hội này để dạy về thái độ tinh thần mà người môn đệ của Nước Trời phải có: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”. “Nếu Vị Tôn sư nêu trẻ nhỏ ra làm gương mẫu cho người lớn bắt chước, chính là, theo quan niệm của thời đó, vì chúng nhỏ bé, nghèo khó, bị khai trừ. Như đã nói, vào thời Đức Giêsu, trẻ nhỏ là “người nghèo”: nghĩa là một sinh vật hoàn toàn lệ thuộc vào người khác. Nhưng trẻ nhỏ cũng là dấu chỉ sống động cho khả năng biết lắng nghe và biết tin tưởng. Chính khả năng dễ hoà nhập của trẻ nhỏ là một tấm gương cho các tín hữu. Đức Giêsu long trọng quả quyết điều đó (câu 15). Bởi vậy, ta nhận ra rằng Đức Giêsu luôn lo lắng để uốn nắn cái nhìn của các môn đệ, mà Người đang đào tạo để trở nên những người lãnh trách nhiệm trong Hội Thánh. Họ cần phải dẹp bỏ tính tự cao tự đại (9,33-34), phải trở nên nhỏ bé để đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn khiêm nhượng và rộng mơ.” (Sđd trang 142).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. Do bản tính yếu đuối của con người (H.Vuillez, trong “Dieu si proche. Année B”, DDB, trang 158-159). “Do bản tính yếu đuối của con người” đó là câu nói cửa miệng để biện minh cho luật lệ và quy chế. Không có nó, con người sẽ đi về đâu? Có lẽ xã hội sẽ do những người mạnh nhất, hoặc những kẻ xấu nhất thống trị. Luật lệ là điều cần thiết dù ở thời đại nào, hay trong nền văn minh nào cũng vậy. Đó là lời thú nhận về những giới hạn của thân phận con người (...). Trả lời cho nhóm Pharisêu có ý gây hấn và đầy ác tâm, Đức Giêsu vạch một luống cày để gieo hạt giống cho sự sống vĩnh cửu. “Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà Môsê đã ban hành luật như thế, kể cả luật hôn nhân, để các ông khỏi chìm xuống sâu hơn, đúng hơn để các ông giữ được độ cao và biết đâu, các ông có thể sẽ muốn vươn lên cao hơn”. Một cái nhìn đầy tin tưởng đối với nhân loại! Người không lợi dụng điểm yếu của họ. Người khơi dậy điều tốt nhất nơi họ, điều làm cho một tạo vật nên giống hình ảnh của Đấng Sáng Tạo, tức lương tri và trí tuệ mở rộng vô biên đến tận cõi trời vĩnh phúc. Như vậy, Đức Giêsu dẫn đối thủ của Ngài về với ý định đầu tiên mà cũng là cuối cùng của Thiên Chúa, đó là con người sống hoà hợp với nhau và với vũ trụ. Thiên đường tại thế và Nước Trời. Giữa hai thế giới ấy, những yếu đuối của con người được coi là “sự cứng cỏi của con tim”, là trái tim từ chối đập theo nhịp của Thiên Chúa. Là từ chối hoạt động cho sự hòa hợp trong vũ trụ theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo”.
Để xem xét mục vụ về bí tích Hôn nhân, chúng ta phải thực sự quan tâm đến những điều kiện thực tế hiện nay của đời sống lứa đôi: cuộc sống tạm bợ, bấp bênh về tương lai, bất ổn về đời sống lứa đôi không ngừng gia tăng, đổi thay của thân phận phụ nữ, những vấn đề do việc điều hoà sinh sản đặt ra. Khi để ý đến những điều kiện này, ta có thể trình bày những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân như một đường lối khả thi để xây dựng đời sống lứa đôi và gia đình. Một đường lối khả thi, nghĩa là đi theo nó, đôi vợ chồng không bị bỏ rơi, nhưng, nhờ sự nâng đỡ của một nhóm hay một cộng đoàn Kitô hữu, chính họ được mời gọi để hiểu rằng Lời Đức Kitô dạy về tình yêu nhân loại đáp ứng được điều sâu thẩm nhất, mà cũng mỏng giòn nhất nơi con người”.
ĐỨC GIÊSU GẶP NGƯỜI THANH NIÊN GIÀU CÓ.
Nguy hiểm của sự giàu sang (Mc 10,17-30).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ ánh mắt Đức Giêsu nhìn người thanh niên giàu có... Bối cảnh của đoạn Tin Mừng này cũng giống như Chúa nhật trước, đó là cuộc hành trình lên Giêrusalem, đây là dịp hai lần, và còn lần thứ ba nữa, Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Khi Đức Giêsu vừa lên đường, có một người chạy đến trước mặt Người. B.Standaert nhận xét: “Cuộc gặp gỡ với người thanh niên giàu có nêu lên một đề tài quan trọng trong giáo huấn đầu tiên của Kitô giáo: vấn đề giàu có. Thánh sử đạo diễn tấn kịch này hết sức cẩn thận. Từng nấc một, ông đã đưa người ta tiến dần đến điểm giới hạn tột cùng: “Như vậy thì ai có thể được cứu”, Có thể nói sự giàu có là một vách đá vững chắc mà mỗi khi vỗ vào, các đợt sóng cố gắng của con người đành phải vỡ vụn, cho đến khi Thiên Chúa can thiệp: “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (10,27)” (“L'Evangile selon Marc”, Cerf, trang 80). - Từ lúc đầu của cuộc gặp gỡ, mọi sự báo trước một kết thúc may mắn: + Dáng vội vã của người thanh niên “chạy đến” và “quỳ xuống” trước mặt Đức Giêsu, một cử chỉ trong nghi thức phụng vụ. + Thái độ sẵn sàng nội tâm ta có thể cảm nhận được qua câu hỏi anh đặt ra: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Trong câu trả lời của Đức Giêsu, Nguời đã tự xóa nhòa trước Thiên Chúa duy nhất, khi nói rằng chỉ mình Thiên Chúa mới “nhân lành”, và dành ưu tiên cho mối tương quan với tha nhân, khi Người hướng dẫn người thanh niên về Lề Luật Thiên Chúa: “Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thảo kính cha mẹ”. + Lòng ngay thẳng và trung thực của anh được bộc lộ qua câu anh trả lời Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. J.Potin nhận xét: “Đức Giêsu biết mình gặp được một người Do thái sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và luôn cố gắng tôn trọng tha nhân trong mọi hoàn cảnh. Hẳn người này thuộc hạng người có phẩm chất tốt hơn những người giàu có khác mà Chúa thường gặp” (“Jésus, l'histoire vraie”, Centurion, trang 233). - Bấy giờ Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh (lưu ý là trong vài câu thôi mà Máccô đã nói tới ba lần về điểm này) và Người mời gọi anh. Lời mời gọi này là chóp đỉnh và khúc ngoặc quyết định của cuộc gặp gỡ này. + Đức GIêsu “đưa mắt nhìn anh ta” và “đem lòng yêu mến”. + Một ánh mắt đầy âu yếm và quí trọng, được diễn tả ngay thành một lời mời gọi tha thiết: “Anh chỉ còn thiếu có 1 điều là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. . Đức Giêsu đề nghị dẫn anh đi xa hơn nữa trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa, con đường tuy gồ ghề, nhưng chỉ là nối tiếp con đường anh đã đi từ thuở nhỏ để được sự sống đời đời làm gia nghiệp; đó là: từ bỏ của cải để cho người nghèo. . Nhưng điều hoàn toàn mới nằm trong lời mời gọi ở câu kết: “Rồi hãy đến theo tôi”. Đức Giêsu mời gọi người Do thái trung thực này vượt lên khỏi đức tin của cha ông để gắn bó với Người, là trở nên môn đệ của Người. - “Nghe lời đó”, cuộc gặp gỡ từ đầu đến đây đã diễn tiến đầy hứa hẹn, bỗng đột ngột chấm dứt: “Người thanh niên sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi”, thánh sử cho ta biết, bởi vì “anh ta có nhiều của cải”. “Trên đường đi theo Đức Giêsu, người thanh niên giàu có này vấp phải một chướng ngại, đó là lòng gắn bó với gia tài sản nghiệp. Của cải như tấm kính mờ đã che lấp ánh sáng, lúc ánh sáng muốn thâm nhập vào lòng anh. “Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi”. Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến anh. Nếu niềm hy vọng có một con đường dẫn thẳng tới Thiên Chúa đã khơi dậy niềm vui to lớn thế nào thì giờ đây, thay vào đó, là một nỗi buồn sâu xa không kém.” (Sđd, trang 234).
2. ... đến ánh mắt Chúa nhìn các môn đệ. - Người thanh niên giàu có vừa đi khỏi, Đức Giêsu liền đưa mắt nhìn các môn đệ đang “ở chung quanh Người”. + Người tuyên bố: “Những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”. Người còn làm cho các môn đệ sững sờ hơn khi nhấn mạnh theo kiểu phương Đông: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. + J.Potin giải thích: “Các môn đệ càng cảm thấy sửng sốt hơn nữa vì theo cách giữ đạo thời đó, thì càng giàu càng có nhiều thuận lợi. Có tiền thì người giàu có thể dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo Luật buộc để được xá tội, có thể dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo... Dường như có một thoả thuận ngầm giữa Thiên Chúa và những người giàu. Như vậy, giàu có của cải không phải là dấu chỉ của người đẹp lòng Thiên Chúa đó sao?” (Sđd, trang 234). Bởi đó mới có câu hỏi: Thế thì ai có thể được cứu rỗi? “Nếu người giàu không được cứu rỗi, thì còn ai có thể được?”. J.Potin giải thích tiếp: “Nếu họ theo sát lối tư duy của đạo truyền thống, họ là những người không thể có đủ tiền mua những lễ vật dồi dào, cũng không mua được những bộ chén dĩa cần thiết để giữ luật lệ về sạch sẽ. Còn người giàu, họ có thể mà!” (Sđd, trang 235). + Nhìn các môn đệ một lần nữa, Đức Giêsu nói thêm: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. , Đây là lời tuyên xưng niềm tin-cậy đã ghi một dấu ấn quan trọng trong lịch sử kitô giáo ngay từ buổi đầu. Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Ápraham về việc Sara sẽ làm mẹ, dù bà hiếm muộn và đã già: “Có phép lạ nào mà Chúa không thể thực hiện được?”. Và Thiên thần đã chẳng tuyên bố với Đức Maria về việc bà Êliasbét sắp sinh con trong lúc tuổi già: “Bởi vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được” đấy sao? Chúng ta không được cứu độ bằng việc thực thi các lề luật, hoặc nhờ những của lễ sang trọng quí giá, hay nhờ việc từ bỏ, hy sinh anh hùng; ơn cứu độ là ân huệ cần phải đón nhận, chính Thiên Chúa đưa ta vào Nước Trời, ân sủng cao cả của Người có thể làm nên những việc lạ lùng. Câu nói trên của Đức Giêsu là một lời cổ vũ làm cho cái khó của sứ điệp trước giảm nhẹ đi.
Câu chuyện kết thúc khi Phêrô hỏi: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Đức Giêsu hé mở cho thấy niềm vui “gấp trăm lần”, những gì đã từ bỏ, niềm vui ấy bất cứ ai đã bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng sẽ cảm nghiệm được “ở đời này” và “đời sau”. Nhưng Người cũng không che giấu những cuộc “bách hại” đang chờ họ. J.Potin kết luận: “Người môn đệ phải tham gia vào việc rao giảng Tin Mừng với Đức Giêsu... Nhưng cũng như Người, giữa niềm vui về những điều thiện hảo của Nước Chúa, họ phải chuẩn bị để chịu đựng những cuộc bách hại. Ngay từ buổi đầu, Đức Giêsu đã đào tạo họ theo chiều hướng này! Phạm trù để phân xử đều bị đảo lộn. Người giàu mà ta trông thấy đang ở chỗ nhất trong Nước Trời, nay bị đưa xuống chỗ rốt hết. Còn môn đệ và người nghèo được mời lên ngồi vào chỗ nhất, Sau khi đã cùng Thầy mình trải qua thử thách của sự bách hại.” (Sđd, trang 235).
II. BÀI ĐỌC THÊM. 1. Con đường khó đi. (Mgr. Daloz, trong “Qui donc est-il?”, DDB, trang 62-63) Đức Giêsu lên đường. Ta sẽ biết con đường ấy dẫn đến đâu: “Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp...”. Ngay lúc ấy, có một người đến tìm Người. Anh ta đi tìm sự sống, sự sống đời đời. Anh ta đã nghiêm túc tìm kiếm bằng con đường tuân giữ các giới răn: “Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Anh ta cảm thấy cần phải tiến xa hơn, nên đến hỏi Chúa: “Tôi phải làm gì?...”. Và Đức Giêsu đem lòng yêu mến anh. Người yêu mến sự tìm kiếm và lòng quảng đại của anh. Người chỉ đường cho anh: “Anh chỉ còn thiếu một điều: hãy đi bán những gì anh có...”. Nhưng con đường này làm người thanh niên khiếp sợ “bởi vì anh ta có nhiều của cải”. Con đường này cũng khiến các môn đệ khiếp sợ vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.. “Như vậy thì ai có thể được cứu”. Bấy giờ, Đức Giêsu mời gọi nhìn vào cái vô hình. Người bảo đảm với người thanh niên: “Anh sẽ được kho tàng ở trên trời”. Nói với Phêrô, Người hứa ban “gấp trăm lần” và mai sau được sống đời đời. Như Đức Giêsu, số phận của các môn đệ được sắp đặt trên nền tảng của sự vĩnh cửu. Vật đặt cược chính là sự sống đời đời. Và cái khó ở đây là phải ưu tiên cho cái vô hình trước cái hữu hình ta đang có. “Đối với loài người thì khôngthể được.” Đây là một cuộc vượt qua có tính quyết định giống cuộc Vượt qua của Đức Giêsu. Đức GIêsu sắp hy sinh mạng sống. Người mời gọi ta theo Người, từ bỏ mọi sự vì Người và vì Tin Mừng. Hy sinh mạng sống vì những điều này cũng đáng lắm chứ. Nhưng thực hiện cuộc vượt qua này trong đức tin và không để cái hữu hình lôi cuốn mình là điều không phải dễ. Chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới có thể thực hiện điều đó nơi ta: “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. Nhưng còn cần ta để cho Người thực hiện...”.
2. Bước vào con đường khôn ngoan đích thực, Khôn Ngoan của Thiên Chúa. (L.Sintas, “Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie”, tr. 124-125). Đức Kitô là Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa nhập thể. Ai đặt tin tưởng vào Đức Kitô, thì từ nay sẽ không theo sự khôn ngoan nào khác ngoài Lời của Đức Kitô. Thư gởi tín hữu Do Thái dạy ta điều này rất rõ. Đối với người Kitô hữu, Đức Kitô, Lời chân thật của Thiên Chúa trở nên một tiêu chuẩn tối hậu để nhận biết sự khôn ngoan đích thực. Bởi vậy, lời của Đức Giêsu tuy có vẻ điên rồ theo cách suy luận của ta, nhưng vẫn là lời khôn ngoan hơn bất cứ danh ngôn phàm trần nào. Chính điều đó đã thể hiện trong truyện người thanh niên giàu có theo Tin Mừng Máccô. Anh chạy đến Đức Giêsu. Anh đi tìm sự khôn ngoan. Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời? Đức Giêsu nói theo lương tâm đạo đức ngay thẳng của người thời đó, Người nhắc nhủ anh về những giới răn của Luật Môsê. Nhưng tất cả các giới răn đó anh đã giữ cặn kẽ từ nhỏ. Nếu anh đến tìm Chúa, là vì anh khao khát điều gì khác, điều mà việc tuân giữ các giới răn đã không thoả mãn được. Đức Giêsu chăm chú nhìn anh. Trước khát vọng của anh, Người ban cho anh một Lời mới mẻ. Người mở ra trước mắt anh một con đường, mà dù có trung thành cặn kẽ mấy đi nữa, anh cũng không nghĩ ra. Người đề nghị với anh một điều có vẻ điên rồ trước mắt người đời: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, rồi hãy đến theo tôi. Ta chỉ hiểu những lời này qua hệ luỵ chúng gây ra trong cuộc sống của ta thôi. Nào là bỏ tất cả, mất tất cả, bán tất cả, cho tất cả. Nhưng điều quan trọng không ở đó. Điều quan trọng nằm ở phần thứ hai của câu nói: Rồi hãy đến theo tôi! Theo Đức Giêsu là theo Lời Thiên Chúa, là theo Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa. Theo Đức Giêsu là muốn Sự Khôn Ngoan Thiên Chúa hơn tất cả mọi sự. Chỉ có lòng yêu mến như vậy, tuy không thấy, không nắm bắt được, mới biện minh cho hành vi từ bỏ tất cả mọi sự được. Khốn nỗi, việc mất đi mọi sự che lấp chân trời rộng mở, cản trở ta cảm nghiệm được Sự Khôn Ngoan đích thực của Thiên Chúa. Theo Đức Giêsu là dám liều mất tất cả. Và đó là điều Chúa đòi hỏi. Bạn có đủ tin tưởng vào Tôi để nghe theo lời tôi khuyên nhủ không? Thực sự, bạn chỉ cảm nghiệm được giá trị của nó sau này thôi! Còn lúc này, bạn có thể tin tôi không, khi tôi nói rằng bạn sẽ được thoả lòng? Thật ra, Đức Giêsu đặt người thanh niên vào đúng vị trí của ông Ápraham, Cha của Người trong đức tin. Người đề nghị với anh hãy tin và hãy tín nhiệm vào Lời vừa đòi hỏi vừa hứa hẹn. Tin Mừng thuật rằng: người thanh niên bỏ ra về, bởi vì anh có nhiều của cải. Và Tin Mừng cũng nói rõ thêm: Anh sa sầm nét mặt. Niềm vui đã tan biến. Khát vọng chân thật mà người thanh niên bộc lộ lúc ban đầu gặp Chúa, bây giờ tàn lụi, tắt ngấm. Nó không còn có thể làm nẩy sinh niềm vui đến từ lòng khát vọng sống động. Trình thuật này được viết ra không phải để chúng ta buồn lòng về trường hợp người thanh niên ấy, nhưng để Lời Chúa đánh động tâm hồn ta. Lời Chúa cũng muốn vươn tới khát vọng chân thật của ta, cũng muốn khơi dậy đức tin chân thật nơi ta, cũng muốn đưa ta vào con đường khôn ngoan chân thật, đó là Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
CON NGƯỜI ĐẾN KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC PHỤC VỤ,
NHƯNG ĐỂ PHỤC VỤ. (Mc 10,35-45).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba... Trên đường lên Giêrusalem, lúc này đã gần tới nơi, bầu không khí càng lúc càng thêm bi thảm. “Người dẫn đầu các ông”, những người đi theo “kinh hoàng” và “sợ hãi”, tiến trên đường dẫn đến cái chết. Đây là lần thứ ba Chúa loan báo cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Người. Loan báo mà Đức Giêsu gởi tới nhóm Mười Hai, là tế bào đầu tiên và cũng là những người phụ trách cộng đoàn các môn đệ của Người. Một lời loan báo rõ rệt hơn hai lần trước (8,31-33 và 9,32-33), vì đã phác họa trước những gì sẽ xảy ra: bị nhà cầm quyền Do thái kết án (xem 14,64), trao nộp cho quan Philatô, kẻ “ngoại giáo” (xem 15,1), bị phỉ báng và chịu cực hình: “chúng sẽ nhạo báng Người” (xem 15,30-31) “chúng sẽ khạc nhổ vào Người” (xem 14,65 và 15,19), “chúng sẽ đánh đòn Người” (xem 15,15) “chúng sẽ giết Người” (xem 15,37) “và ba ngày sau Người sẽ sống lại”. Cũng như các lần loan báo trước, lần loan báo thứ ba này gây ra những phản ứng chứng tỏ các môn đệ không hiểu, nên Đức Giêsu phải giải thích cho họ.
2. ... Thái độ không hiểu tái diễn nơi các môn đệ... Rõ ràng lời xin xỏ của Giacôbê và Gioan chẳng thích đáng chút nào trong bối cảnh đó (Đức Giêsu vừa mới loan báo về cuộc khổ nạn của Người). Hai ông đã từng là những người được gọi ngay thời kỳ đầu sứ vụ rao giảng (1,19-20), lúc Chúa hồi sinh con gái ông Giairô, hai ông đã có thể xác minh quyền năng của Người trên sự chết (5,37); hai ông đã cùng với Phêrô là những người duy nhất được chứng kiến Chúa hiển dung trên núi (9,28); và sau này cũng cùng với Phêrô chứng kiến Chúa hấp hối trong vườn Ghêtsêmani (14,33). Khi Đức Giêsu vừa mới loan báo cuộc khổ nạn lần thứ ba, thì hai ông nóng lòng muốn bảo đảm chiếm cho được chỗ tốt, được một tương lai sáng lạn trong vương quốc. Các ông tiến lại thưa Chúa: “Xin cho hai anh em chúng con được ngồi một người bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Số phận mỉa mai thật! khi sau này Chúa hấp hối trên thập giá, hai người được đặt ở bên tả bên hữu Chúa là hai người trộm cướp (15,37) đang cùng chia sẻ cực hình với Người! - Đức Giêsu cố gắng tỏ cho hai ông biết: đặc ân họ xin là quá lớn và họ thật quá vô tâm, nhưng vô ích. “Các anh không biết các anh xin gì”. Rồi dùng hình ảnh mạnh mẽ, như “chén phải uống”, “phép rửa phải chịu” để đưa các ông đến trước mặt những gì sắp xảy ra: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. + Trong Cựu Ước, “Chén” đôi khi người ta nói chén chúc tụng, nhưng thường là nói về chén đắng để diễn tả những đau đớn trước lúc chết. Lúc hấp hối, Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cất chén đắng cho Người, nhưng cũng nói tiếp: “Nhưng đừng theo ý Con, chỉ xin theo ý Cha mà thôi” (14,36). + Trong “Bí tích rửa tội”, toàn thân được dìm xuống nước, tượng trưng cho việc “chìm đắm” trong cái chết trước khi “chỗi dậy” trong đời sống mới. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu sẽ trải qua một phép rửa thật sự, Người sẽ bị dìm xuống làn nước chết, trước khi chỗi dậy vào ngày thứ ba. Xin được vinh dự bên cạnh Chúa trong Nước Người, tức là dấn thân theo cùng một con đường Người đã đi. Hai môn đệ có dám theo Chúa tới đó không? “Thưa được” hai ông đáp không hề do dự, không đếm xỉa gì đến những điều Chúa đã cảnh báo. - Mười ông kia đã nghe rõ câu chuyện. Nếu họ “tức tối” thì chắc hẳn không phải vì chê trách mưu đồ của Giacôbê và Gioan, mà vì sợ hai anh em ông này dành được chỗ nhất.
3. ... Giáo huấn mới của Đức Giêsu: sự đảo nghịch của Tin Mừng. Đức Giêsu qui tụ nhóm Mười Hai lại và long trọng giảng giải cho các tông đồ về sự đảo nghịch của Phúc Âm. Khi nói với các tông đồ, cũng như với những người chịu trách nhiệm về các cộng đoàn kitô hữu có mặt lúc đó hay trong tương lai, Đức Giêsu nêu lên một luật đối trọng với cách thế mà các xã hội dân sự chủ trương về quyền hành: “Những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai trị dân”. Điều luật này chống lại lòng ham muốn thống trị và lòng khao khát quyền lực ta mang trong mình, như Giacôbê và Gioan và mười tông đồ còn lại. Điều luật này không chỉ là một điều luật bình thường, mà Đức Giêsu coi nó là Hiến chế cho các cộng đồng môn đệ Người: mỗi người là đầy tớ mọi người (J.Delorme). Đây là một đảo lộn tận gốc, một lý thuyết cách mạng bắt đầu cho một mối tương quan mới giữa người với người: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (người phục vụ, tiếng Hylạp là diakonos, còn có nghĩa là thầy phó tế). Lý do và gương mẫu cho nguyên lý cách mạng này chính là cách đối xử của Đức Giêsu, Người kết luận: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Câu này nhắc lại lời ngôn sứ nói về Người Tôi Tớ đau khổ (Bài đọc I), nhờ lời này soi sáng, Đức Giêsu nhận biết số phận của Đấng Mêsia-Tôi Tớ; Lời đó còn nói lên ý nghĩa sự sống và cái chết của Người và loan báo lời mà Chúa sẽ tuyên bố về “chén” vào thứ năm, trước khi Người bị bắt: “Này là máu Thầy, máu Giao ước sẽ đổ ra cho nhiều người”. Để có thể sống như một Kitô hữu chân chính, cộng đoàn môn đệ, hôm nay, hôm qua cũng như ngày mai, cần phải xét xem lối hoạt động của mình có hợp với ý và gương mẫu của Đấng Sáng lập, Đấng đã đưa tinh thần phục vụ đến tột đỉnh không.
Cuộc chuyện trò cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ (10,38-43) là cuộc thảo luận lần nữa về ngôi thứ trong cộng đoàn, như vậy, nó nối kết với ý tưởng của phần đầu chương này. Lời xin của hai anh em Giacôbê và Gioan đưa đến cuộc chuyện trò này, đồng thời cũng biểu lộ ước muốn chỗ cao nhất: ngồi bên tả bên hữu Chúa trong vinh quang. Diễn tiến của ước muốn này mang dấu ấn của Máccô. Trước hết, khi hai tông đồ vừa tỏ lộ ước muốn của mình, Đức Giêsu hỏi ngay: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Đức Giêsu thăm dò, tìm hiểu hết mọi khát vọng của ta, đôi khi những ước muốn mà chính ta cũng không hiểu rõ ("Các anh không biết các anh xin gì"). Con đường mà ước muốn phải đi qua để tới đích không gì khác hơn là thập giá, ở đây được diễn tả bằng hai hình ảnh: chén và phép rửa. Cách nói lặp lại nhiều lần (ở đây lặp lại bốn lần) là đặc điểm của Máccô. Đối với ông, điều không thể tránh được trong cuộc sống Kitô hữu chính là thập giá. Còn vinh quang là một ơn hoàn toàn nhưng không, ta không thể biết trước, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi. “Cho những người mà Thiên Chúa đã chuẩn bị”. Đối với những người xin nhiều, xin cả đến vinh quang Thiên Chúa, thì Máccô đề nghị họ sống theo tấm gương của Con Người, một tấm gương đi ngược lại với cách sống của người đời: đến để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (10,45). Sống theo gương Đức Giêsu là đề tài rất phổ biến, nhất là từ khi cuốn sách “Gương Chúa Giêsu” xuất bản ở thời Trung cổ, trở thành nền tảng cho toàn bộ “luân lý”, và chính thánh sử Máccô đã trình bày cho chúng ta điều đó. Ngài đã nói lên mối quan hệ gần gũi giữa đời sống của Đức Giêsu (nhất là cuộc khổ nạn của Người) và đời sống của người Kitô hữu. Mối quan hệ gần gũi đó luôn là ví dụ điển hình cho mọi nỗ lực tìm hiểu cuộc sống người Kitô hữu. Máccô mời gọi ta suy nghĩ lại những thói quen giữ đạo, những hoạt động, bi kịch, và khát vọng của ta dưới ánh sáng của tấn thảm kịch duy nhất của Đức Giêsu “Bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau sẽ sống lại” (9,31).
Chức quyền cũng như tiền bạc, tự nó không xấu. Bất cứ nhóm nào cũng cần có một người phụ trách. Nhưng theo ý Chúa, phụ trách trước hết không phải một địa vị thống trị, hưởng lợi, hưởng uy thế, mà là một địa vị để phục vụ nhiều hơn. Trong Hội Thánh nói riêng, người cầm quyền là những thừa tác viên: trong tiếng Latinh từ này có nghĩa là “đầy tớ” - Bản Hylạp của Tin Mừng Máccô dùng hai từ diakonos = đầy tớ và doulos = nô lệ. Điều đáng buồn là ngày nay đôi khi còn có những người tranh giành quyền lực trong Hội Thánh. Đức Giáo Hoàng cũng tự xưng mình là “Tôi tớ các tôi tớ” của Thiên Chúa. Thật vậy, cần phải đạt tới cách sống như thế. Người lãnh đạo giỏi là người biết làm cho người dưới cùng chịu trách nhiệm. Giáo sư giỏi là người biết khơi dậy sáng kiến của môn sinh. Chủ doanh nghiệp giỏi là người biết hỏi ý kiến của công nhân và cán bộ của mình. Cha mẹ tốt là người biết nghệ thuật làm triển nở con cái một cách tích cực. Những giáo xứ mạnh là nơi mà các tín hữu biết tham gia cộng tác ở mọi tầng lớp và trong mọi việc. Có lẽ người ta đã quên rằng từ “quyền thế” trong tiếng Latin: “auctoritas” bởi gốc “augere” = làm cho lớn lên, thêm lên. Đối với Đức Giêsu, chính là như vậy: quyền hành là sự phục vụ trong một nhóm, nhằm giúp các thành viên lớn lên, dám tự mình chịu trách nhiệm. Người lãnh đạo chân chính là người biết nghe, hiểu, đánh giá, tôn trọng người khác, chứ không phải là người thống trị, hạ nhục, lợi dụng người khác, và để người khác thụ động vô trách nhiệm”.
BÁC-TI-MÊ,NGƯỜI MÙ
THÀNH GIÊRICÔ ĐƯỢC CHỮA LÀNH (Mc 10,46-52).
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Từ tình trạng bất động của người bị loại trừ... Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc khổ nạn của Người, như Người đã báo trước tới ba lần. Lúc này Người đang đi ngang qua Giêrico. Bất cứ ai đi từ miền bên kia sông Gioan vào Israel đều phải đi qua thành này. Có các môn đệ và “đám đông dân chúng” đi theo Đức Giêsu. Tinh thần các môn đệ vẫn còn mù tối. Đúng lúc ra khỏi thành, Người gặp anh mù. A. Paul nhận xét: “Diễn tiến của phép lạ chữa lành người mù Giêricô giống với phép lạ chữa lành người mù ở Bétsaiđa (8,22-26). Phép lạ ở Bétsaiđa diễn ra liền trước lúc Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê và tiếp liền sau lời tuyên xưng này, là lời loan báo về cuộc khổ nạn (8,27-30). Cũng vậy, tiếp sau phép lạ ở Giêricô là lời ca ngợi Đấng Cứu Thế khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem, và sau đó là trình thuật về cuộc khổ nạn (...) Trong viễn tượng thần học này, phép lạ làm cho đôi mắt người mù mở ra có giá trị như một dấu chỉ.” (“Assemblée du Seigneur”, số 61, trang 45). Để làm nổi bật ý nghĩa phong phú của phép lạ, thánh sử tường thuật rất rõ ràng sự việc đã xảy ra: - Ông nêu tên người mù là “Bác-ti-mê”, nhưng sợ rằng độc giả nói tiếng Hylạp không hiểu tiếng a-ra-mê, nên ông ghi chú thêm “con của Timê”. - Ông diễn tả người này như một người tàn tật, mà tật khiếm thị đã buộc anh phải ăn xin, và vĩnh viễn không đi lại được, bị liệt vào loại người bị loại trừ. “Anh ngồi ở vệ đường”, vệ đường có ý chỉ tình trạng bị loại trừ.
2. ... Đến cú đứng phắt dậy khi Đức Giêsu gọi. Thật ngược đời: ở giữa đám đông những người sáng mắt rầm rộ đi theo Đức Giêsu, anh mù là người duy nhất tỏ ra nhìn rõ, anh có thể nhận ra Đấng đang đi qua là “Con vua Đavít”, Đấng Mêsia mọi người hằng trông đợi, và anh đã lớn tiếng hô lên. Người ta nạt nộ bảo anh im đi - vì họ nghĩ rằng để cho anh mù quấy rầy Đức Giêsu trên đường là điều không nên - nhưng anh càng kêu lớn hơn: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Cho đến khi Đức Giêsu dừng lại và bảo người ta: “Gọi anh ta lại đây”, thì người ta mới để ý đến người tàn tật khốn khổ đang la lối này. Sứ điệp được chuyền đi ngay lập tức: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy”. Đức Giêsu giúp anh lột bỏ được tình trạng bất động của người chết. Tiếng gọi của Chúa có kết quả liền: “người mù liền vất bỏ áo choàng lại (áo choàng mà anh dùng để đựng đồ xin được) đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu”. J.Hervieux giải thích: “Những chi tiết này thật là lạ lùng. Mọi sự xảy đến dường như Bác-ti-mê không còn mù nữa. Khi vất bỏ áo choàng, anh cũng vất bỏ luôn tình trạng bị loại trừ (...). Cái áo choàng là vật duy nhất mà người nghèo sở hữu. Vất bỏ nó, Bác-ti-mê đã thực hiện điều mà Đức Giêsu đã không làm được với chàng giàu có: anh đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đi theo cách nào? Anh nhảy lên, đứng phắt dậy. Cú nhảy trong đêm tối là cú nhảy đức tin vì mắt anh vẫn còn mù.” (“L'Evangile de Marc”, Centurion, trang 156). “Rab-bô-ni”, thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được!”. Anh mù đã đáp lại câu hỏi của Chúa, cũng là câu mà Chúa đã hỏi hai người con ông Giêbêđê: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Đàng sau khát vọng được nhìn thấy, Đức Giêsu đã nhận ra nơi anh đức tin, khát vọng được biết nhiều hơn về Đấng Mêsia, được nhìn thấy thực tại tối hậu ẩn sau dáng vẻ bên ngoài. Người ăn xin tàn tật không những được chữa lành, mà còn được “cứu” nhờ đức tin. “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Từ này, anh nhìn thấy, không chỉ bằng con mắt xác thịt, mà còn bằng ánh mắt đức tin. Đó là tấm gương cho các môn đệ, đó là tấm gương cho người đã được thánh tẩy, được soi sáng nhờ gặp gỡ Đức Giêsu Kitô. Anh đi theo Người trên con đường Người đi. Con đường lên Giêrusalem. Con đường dẫn đến thập giá. J.Hervieux kết luận: “Ở đây, nghệ thuật kể chuyện của Máccô đạt đến đỉnh hoàn thiện. Hai hình ảnh thật trái ngược nhau: hoàn cảnh ban đầu của Bác-ti-mê (ngồi ở vệ đường, mù loà, ăn xin) và hoàn cảnh kết thúc (đứng, đi trên đường, nhìn thấy và đem Tin Mừng đi). Không còn nghi ngờ gì, tác giả đặt trình thuật này vào lúc Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, dẫn theo bạn bè và đám đông tiến về “ánh sáng” soi rõ hơn thân thế và sứ mạng của Người. Câu chuyện này là một minh họa cho thấy nhờ đâu, người ta mới trở nên “người môn đệ đích thực”. Người môn đệ cần phải để Thầy mình dẫn đến sự giác ngộ đức tin. Phép lạ chữa người mù ở Bétsaiđa đã thúc đẩy các môn đệ Đức Giêsu khám phá Người là Đấng Mêsia. Giờ đây, Đức Giêsu lại mời gọi họ - những kẻ muốn đi theo Người - hãy mở rộng đôi mắt tâm hồn để đón nhận Đấng Mêsia đau khổ và khải hoàn trong đức tin,. Máccô đã không thể đặt trình thuật này vào lúc nào tốt hơn là lúc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem: người ta có nhận ra Người vì thân thế của Người, và vì những gì Người đã làm không? Đấng đến cứu loài người theo đuổi hai mục đích: vừa trả lại cho họ quyền lợi trong xã hội họ đang sống, vừa giúp họ hội nhập vào cộng đoàn yêu thương mà Người sáng lập.” (Sđd, trang 157).
Đây là người mù Bác-ti-mê đang kêu cầu Đức Giêsu. Anh nói lên khát vọng được chữa lành, nhưng cũng biểu lộ đức tin của anh “Lạy Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Khi người ta nạt nộ bảo anh phải im đi, thì anh lại càng la to hơn. Bấy giờ Chúa dừng lại và gọi anh. Những người “trung gian” vừa lúc trước mới nạt nộ anh, giờ đây đổi giọng: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”. Chỉ cần chúng ta có can đảm la lên, mặc dầu mọi người bảo ta phải im đi. Đức Giêsu sẽ không giả điếc làm ngơ đâu... Còn chúng ta, chúng ta thuộc loại “trung gian” nào đây? Chúng ta thường không nghe ai, lại còn bắt người ta im đi nữa. Còn Đức Giêsu, Người nghe, Người luôn để tai nghe. Người nghe tiếng kêu của những người van xin Người dủ lòng thương xót, van xin Người cho họ được nhìn thấy, được đứng dậy. Nếu ta nhận biết Chúa quan tâm đến tiếng kêu xin của con người, chắc ta sẽ trở thành những “trung gian” tốt, để nói với họ: “Hãy an tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy”.
2. Sáng mắt hay mù? (F.Deleclos, trong “Prends et mange la Parole”, Centurion- Duculot, trang 176). “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”. Cùng một câu hỏi mà Đức Giêsu đã hỏi Giacôbê và Gioan. Câu hỏi là một, nhưng câu trả lời trái ngược hẳn. Hai anh em thì xin quyền thế và vinh quang, còn người mù thì chỉ xin ánh sáng. Các môn đệ muốn áp đặt tham vọng của mình, còn người ăn xin thì chỉ xin được nhìn thấy. Vậy ở đây có hai người mù và một kẻ sáng mắt. Với Bác-ti-mê, Đức Giêsu không nói gì về tật nguyền của anh, không nói đến con mắt mù loà, cũng không nói rằng sẽ chữa lành. Người chỉ nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Nhờ sự tín nhiệm và đức tin, người bị gạt ra bên lề xã hội đã được nâng lên hàng môn đệ. Một đức tin cứu độ đến nỗi người này bắt đầu nhìn thấy và đi theo Đức Giêsu, không chỉ theo trong tinh thần, mà còn bước đi trên đường. Một cuộc tuyển mộ tuyệt hảo. Đức Giêsu thường được vây quanh bởi những môn đệ mù tối, còn lề đường thì lại đầy những người mù sáng mắt. Nhóm trước bị khép kín trong những bảo đảm vĩnh viễn, bị ràng buộc bởi những tham vọng và vướng mắc nhỏ nhen. Nhóm sau thì có lòng khiêm nhường và tin tưởng, có đức khôn ngoan để biết nghe và luôn học hỏi, sẵn sàng đón nhận những bất ngờ của Thánh Linh và những từ bỏ có sức giải thoát. Để được chữa lành tật mù loà, cần phải tuyên xưng đức tin, “vất bỏ áo choàng” và đi theo Chúa Kitô mọi nơi Người dẫn đi, và không buộc Chúa phải theo lộ trình do những tham vọng trần tục của ta vẽ ra. Đường lối của Chúa không giống đường lối của ta”.[4]
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI 1. Từ những hình ảnh Khải huyền Chương 13 của Tin Mừng Máccô đã được trích đọc vào Chúa nhật I Mùa Vọng để khai mạc năm phụng vụ B, mà cũng được trích đọc hôm nay để kết thúc năm phụng vụ này. Vào lúc Đức Giêsu ra khỏi đền thờ để rồi không bao giờ trở lại đây nữa, một trong số các môn đệ của Ngài mong muốn Thầy chia sẻ lòng thán phục của mình: “Này Thầy nhìn kia, những phiến đá rực rỡ biết bao, tòa kiến trúc lộng lẫy chừng nào!” Ngôi đền thờ thật ra có những gì đáng thán phục. J.Potin giải thích: “Đền thờ do Hêrôđê xây lên đã là một trong những công trình đẹp nhất thế giới. Ngay cả đến Roma cũng không có được ngôi đền thờ tôn giáo nào hùng vĩ như vậy. Tính bạo tàn của người xây lên nó cũng giám bớt hung hãn trước vẻ tráng lệ của nó; nó còn vượt xa đền thờ vinh hiển của vua Salomon. Nền móng vững chắc của nó bảo đảm nó có thể đứng vững nhiều thế kỷ, vẻ sáng ngời của cẩm thạch và vàng bạc trang trí ngời lên đức tin độc thần lan đi khắp cả hành tinh” (“Jésus, lhistoire vraie”, Centurion, trang 396). Câu trả lời của Đức Giêsu làm người môn đệ cụt hứng: “Sẽ không còn phiến đá nào chồng trên phiến đá nào” (13,1-2). Nào đền thờ không biểu trưng cho Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người đấy ư? Phải chăng lời loan báo về đền thờ sẽ bị tiêu hủy là mào đầu cho một thiên tai to lớn hơn: đó là ngày tận cùng cả thế giới hoặc ngày tận cùng của một dân tộc? Vì vậy, ngay khi Đức Giêsu vừa ngồi ở sườn núi Cây Dầu mà từ đây người ta có một cái nhìn toàn cảnh cả thành thánh và đền thờ, thì Phêrô, Giacôbê, Gioan, Anrê, những môn đệ được Chúa gọi đầu tiên, xin Chúa trả lời những câu hỏi đầy lo lắng của họ: “Xin Thầy nói cho biết khi nào các sự việc ấy xảy ra và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?” (13,3). Lời thỉnh cầu của bốn môn đệ này là cơ hội để Đức Giêsu nói lên diễn từ dài nhất trong Tin Mừng thánh Máccô: trong diễn từ đó, cái nhìn hướng về sự tiêu hủy của đền thờ pha trộn với cái nhìn hướng về ngày thế mạt. Lối văn dùng nhiều kiểu nói của những sách Khải huyền, mang niềm hy vọng đến cho những người sống trong cơn khủng hoảng trầm trọng. Những hình tượng màu mè, tuy hoàn toàn truyền thống, không chủ ý gieo rắc nỗi lo sợ kinh hoàng, nhưng muốn làm nổi bật cuộc xáo trộn do sự can thiệp của Thiên Chúa gây nên. J.Hervieux trong cuốn “L'Evangile de Marc”, (Centurion, tr. 192) cảnh báo rằng: “Người đọc mà hiểu theo mặt chữ thì cách hiểu của họ và của người Do thái thế kỷ I xa nhau hàng trăm dặm”. Mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các vì sao từ trời rơi xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển... chỉ là loan báo cuộc hiển thắng cuối cùng của Chúa vào ngày tận cùng của lịch sử.
2. Đến Tin Mừng mà những hình ảnh ấy loan báo. Trong bối cảnh một vũ trụ được đổi mới tận căn này, Đức Giêsu đã loan báo Tin Mừng về Vương quốc công chính và hòa bình của Người được biểu lộ vào lúc tận cùng thời gian. Người tự đồng hóa với Con Người của sách ngôn sứ Đaniel (Bài đọc I Chúa nhật tới), Đấng ngự trong đám mây mà đến, sẽ sai các thiên sứ đi tập họp những kẻ được Người tuyển chọn - tức là những người đã luôn trung thành qua các cuộc thử thách - từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. Ngày Chúa trở lại sẽ là ngày tuyệt vời, ngày mà tình thương và sự sống chiến thắng quyền lực sự ác và sự chết. J.Hervieux gợi ý: “Các môn đệ nêu lên câu hỏi về sự cố hủy diệt đền thờ: bao giờ việc ấy xảy ra? Câu đáp của Chúa đưa các ông vượt qua biến cố đó một quãng xa. Không nên chỉ nhìn Đền thờ như một địa điểm tụ họp. Nó sẽ điêu tàn và cả những gì thuộc về nó cũng vậy. Cần phải ngước mắt nhìn lên Đấng, còn cao hơn Đền thờ, sẽ là Đấng tập họp toàn thể nhân loại đã được giải thoát khỏi Thần Ác. Đó là Đức Kitô hiển vinh, Đấng Phục sinh” (Sđd, trang 195). Thật là đầy ý nghĩa, Máccô trước khi bước sang chương 14 tường thuật cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, đã muốn “vén bức màn” (đó là nghĩa của từ Apocalypse = mạc khải), để hé mở cho ta nhìn thấy ánh sáng chói ngời của ngày Người trở lại trong vinh quang, ngày khiến lịch sử cuộc đời ta có ý nghĩa.
3. Và đen thái độ mà những hình ảnh ấy khơi dậy: tỉnh thức. Cây vả, loại cây có trái trễ, rất quen thuộc đối với các thính giả, cung cấp cho Đức Giêsu tư liệu của một dụ ngôn minh họa cho sứ điệp của Người. Nó rụng hết lá vào mùa đông, và khi bước sang mùa xuân ngắn ngủi của vùng Palestin, thấy xuất hiện chồi non và rồi đến lá non, báo hiệu mùa hạ, mà trong mùa đó trái vả ngọt ngào sẽ chín mùi. Vâng, cũng như bất cứ người nông dân biết quan sát nào cũng có khả năng đoán biết mùa hạ sẽ đến sớm hay đến trễ, thì các môn đệ Chúa cũng phải học cách đọc các dấu chỉ thời đại để nhận ra ở giữa lòng lịch sử thời đại mình có “Đấng đã đến gần”, có “Đấng đang đứng ở cửa”. Đó là Con Người. Đức Giêsu còn nói tiếp: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra”. Một câu nói gây nhiều rắc rối cho các nhà chú giải Kinh Thánh, và họ cắt nghĩa mỗi người một cách. Ta chỉ nên lưu ý rằng kiểu nói này khá mơ hồ và khái quát, nên không chỉ ám chỉ những độc giả của Máccô (là những Kitô hữu đang phải đương đầu với những xáo trộn và với cuộc bách hại), nhưng còn chỉ bất cứ thế hệ tiếp theo nào của lịch sử: như thế hệ chúng ta ngày nay, thế hệ sắp bước sang thiên niên kỷ thứ ba. Đức Giêsu kết luận: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được... ngay cả Con Người cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”. Sự không biết của Chúa Con này có thể khiến ta kinh ngạc. Dù sao, nó nhấn mạnh đặc biệt nhân tính của Đức Giêsu. Và Máccô cho rằng đó là thêm một lý do để chấm dứt những suy diễn và tò mò có hại về ngày giờ xảy ra tận thế, vì đó là bí nhiệm tuyệt đối của Chúa Cha, và là lý do để kêu gọi mọi tín hữu sống giây phút hiện tại trong tinh thần chờ đợi Đấng sẽ đến.
Chương này dựng cảnh trí cho Đức Giêsu nói đến bi kịch của thế giới sẽ diễn ra: viễn ảnh của ngày tận thế. Sự chết và sống lại của Đức Giêsu làm cho lịch sử nhân loại có ý nghĩa. Tại núi Câu Dầu, đối diện với Đền thờ, Đức Giêsu tâm sự với bốn môn đệ mà Người kêu gọi trước hết là “Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê...”. Qua các ông, Người mặc khải cho chúng ta ý nghĩa của thời kỳ ta đang sống: đó là thời kỳ chờ đợi, người môn đệ phải là người canh thức, ngóng chờ chủ trở về. Đó là thời kỳ đầy mơ hồ cần sự phân định, và chúng ta được mời gọi phải canh phòng cẩn mật, đừng để bị phỉnh gạt chạy theo những đấng Mêsia giả hiệu. Đó là thời kỳ phấn đấu và chịu bách hại, thời kỳ chuyển bụng của một thế giới đang đau đớn trước khi sinh con. Đó là thời kỳ được ban cho các nhân chứng để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân mọi nước. Đó là thời kỳ của Thần Khí, Đấng hướng dẫn miệng lưỡi các vị tử đạo... Sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của những biến cố xoay vần bất tận. Xuyên qua ngay cả những bất an và những cùng khổ, từ nay lịch sử quy hướng về Con Người đang đến. Ngay khi mọi chỗ nương tựa chắc chắn hữu hình và cả đến “trời và đất” đều sụp đổ, Người để lại cho các môn đệ Người một chỗ nương tựa vững chắc, đó là những lời Người không thể qua đi. Họ có bổn phận phải kiên trì quan sát những cành cây vả, để nhận ra và loan báo rằng, cây sắp đâm chồi nẩy lộc, và sau mùa đông rét buốt thì mùa hạ đang đến gần. Họ có bổn phận phải lắng tai để nghe hồi chuông báo hiệu giờ quyết định, mà không ai ngoài Chúa Cha được biết, và phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm ngày mới, tỏa ánh vinh quang của Con Người. Từ nay ơn gọi của người môn đệ cho đến ngày tận cùng thời gian là làm người canh thức cho thế giới... “Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!”.
Sự sống mới sẽ bừng lên vào ngày Chúa đến, việc ta phải làm là thánh hóa mọi điều mới mẻ do Thiên Chúa để cho xảy ra hằng ngày. Sự sống bí ẩn, không thể sờ mó, không thể nắm bắt, vọt lên từ thẳm sâu con người, là điều mới mẻ vĩnh hằng. Con Người (đó là danh xưng mà Đức Giêsu thường dùng để chỉ chính mình) đang ở gần bên. Người ở ngay ngoài cửa, cửa của lương tâm bạn. Người là sự mới mẻ của đời sống; Người là cuộc sống phục sinh. Mỗi người cần phải mở tâm hồn để đón nhận sự mới mẻ của Thiên Chúa và sống khác đi. Đừng trì hoãn nữa! Đừng để lỡ cuộc hẹn này. Nếu không, bạn sẽ liều mình lỡ cuộc hẹn chót đấy. Bạn hãy nghe Chúa dạy bảo. Bạn thấy chưa? Cây vả mà bạn đã tưởng rằng chết queo, vậy mà giờ đây cành của nó trở nên mềm mại và nẩy lộc, loan báo mùa hạ tươi sáng ấm áp. Ít ngày trước cuộc trò chuyện về ngày tận thế này, một môn đệ đã mời Đức Giêsu chiêm ngưỡng đền thờ: “Thầy nhìn kìa. Những phiến đá đẹp đẽ biết bao! Công trình kiến trúc huy hoàng lộng lẫy chừng nào!”. Và không sợ làm cụt hứng những bạn thân nhất, cũng là những tông đồ trung thành nhất của mình, Đức Giêsu đã trả lời: “Tất cả đều sẽ bị phá hủy. Sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Còn với bọn biệt phái chuyên tìm cớ gây tranh cãi thì Người thách thức họ: “Các ông cứ phả hủy đền thờ này đi. Và các ông sẽ thấy, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Lời nói khó hiểu, ngay cả đối với những bạn bè thân nhất của Đức Giêsu. Thánh sử Gioan cố gắng soi sáng cho các độc giả nên đã viết: “Người nói về chính mình Người”. Và chúng ta có thể nói thêm: “Người nói về cuộc sống lại của Người”. Như vậy, Chúa bảo không nên tin tưởng vào những phiến đá quý hoặc vào đền đài nguy nga, nhưng vào sự sống. Thánh Phaolô đã viết cho giáo đoàn Côrintô: “Thế giới cũ đã qua đi, và một thế giới mới đã sinh ra”. Thế giới cũ qua đi và thế giới mới sinh ra mọi giây phút, mỗi khi có thêm tình thương, tình liên đới và sự công bình. Chính những cái đó là những phiến đá sống vậy”.
Vâng, chỉ ít ngày trước khi chịu chết, trong bài giảng cuối cùng - “bài giảng cánh chung”, nghĩa là “bài giảng về thời tận thế” - Đức Giêsu giữ một vẻ bình tĩnh lạ kỳ, vẻ lạc quan khó có thể tưởng tượng. Trong khi nói lên nhận định buồn thảm về sự chuyển biến của lịch sử, và về số phận của chính bản thân, là cuộc sống bị đứt đoạn vào tuổi thanh xuân lúc 30 tuổi đời, Đức Giêsu tuyên bố: “Khi anh em xem thấy những tai ương đó xảy ra... thì anh em hãy biết rằng “mùa hạ” đã đến gần. Mùa hạ là mùa đẹp trời được báo hiệu khi cây vả đâm chồi và nẩy lộc non vào mùa xuân” (Mc 13,28). Không nhìn những tai ương trong vũ trụ và lịch sử như những điềm báo rằng vũ trụ này bị hủy diệt hoàn toàn, Đức Giêsu lại coi nó như điềm báo một niềm hy vọng vĩ đại: “Anh em hãy biết rằng Con Người đã đến gần, đang ở ngay ngoài cửa nhà anh em”. Đang khi tất cả xem ra như sụp đổ chung quanh Người, khi mà cái chết đã gần kề, Đức Giêsu quả quyết rằng “mùa hạ” đang đến. Đó là đoạn kết chung cục của lịch sử: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Lời tuyên bố quá ngạo mạn, nếu người ta chỉ nhìn Đức Giêsu như một người ở Nagiarét. Nhưng không, con người nghèo khổ yếu đuối này, biết mình sẽ chịu chết ít ngày nữa đây, không thể tóm gọn vào trong chiều kích khố khổ phàm trần: Người nhìn xa, Người nhìn rộng, xem như bỗng chốc Người chiếm địa vị Thiên Chúa... Người coi mình như vị thẩm phán chung cục của mọi thời đại, nói theo sách ngôn sứ Đaniel (7,13-14). Người loan báo kế hoạch toàn cầu của Thiên Chúa thành công: những người được tuyển chọn, những người được Thiên Chúa yêu thương sẽ tập họp để hưởng hạnh phúc toàn vẹn và bền vững. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đúng là một cá tính vượt trên người phàm. Tính lạc quan bất khuất.
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI. 1. Đức Giêsu Vua, nhưng khác với vua trần thế. Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu trước toàn án Rôma, tại Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô. Ông làm tổng trấn xứ Giuđê từ năm 26 đến 36. Ngay lúc đầu cuộc thẩm vấn do Philatô đứng xét hỏi, phía thù nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại Đức Giêsu, tìm cách chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của họ, là lên án tử hình cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. X. Léon-Dufour giải thích: “Cần lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Rôma cai trị, dân Do Thái thường xen lẫn ý nghĩ chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do Đấng Mêsia thiết lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ bốn, ta thấy hai giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông dân chúng Galilê đã muốn bắt lấy “vị Ngôn sứ” để tôn lên làm vua; bấy giờ Đức Giêsu phải trốn lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau khi Chúacải tửhoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với Đức Giêsu biểu lộ bằng việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng trận, đi đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là “Vua Israel”, vì họ coi Ngài như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằngcách chọn một con lừa nhỏ để cỡi.” (“Lecture de l’Evangile selon Jean”, tập IV, Seuil, 1996, tr. 82). Một lần nữa Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm. - Trước hết, Chúa dùng một câu hỏi, truy tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: “Ngài tự ý nói điều đó, hay những người khác đã nói với Ngài về tôi?”. Philatô nhìn nhận đó là cuộc tranh luận nội bộ của người Do Thái, nên trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”.