**** Đọc các bài của Lm. Mễn:
1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71;
2. Vào Internet: Youtube, Google, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, Cha Mễn kể chuyện, hoặc linh mục Mễn
3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com
5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
Edison, sinh ngày 11/2/1847, tại Milan, Ohio (Mỹ), vốn bị coi là đứa trẻ "đần độn, rối trí" (tâm thần).
Vào khoảng năm 7 tuổi, một hôm cậu từ trường về nhà và nói với mẹ: "Mẹ, thầy giáo bảo con đưa cho mẹ cái này!".
Cẩn thận mở ra xem, bên trong kèm lá thư của giáo viên chủ nhiệm gửi phụ huynh em Edison, nước mắt bà Nancy Elliott giàn giụa.
Cậu bé đứng ngẩn người kinh ngạc, cậu hỏi mẹ rằng thầy giáo đã viết gì trong đó?.
Ngập ngừng một lát, bà Nancy đọc to lá thư cho con trai mình:
"Con trai của ông bà là một thiên tài! Nhưng ngôi trường này quá nhỏ, các giáo viên của chúng tôi không có đủ năng lực để dạy dỗ cậu bé. Bởi vậy, xin ông bà hãy tự kèm cặp con trai mình".
Kể từ đó, Edison được mẹ, cũng từng là giáo viên ở Canada kèm cặp, dạy dỗ mà không đến trường thêm lần nào nữa.
Nhiều năm sau đó, mẹ của Edison đã qua đời, còn con trai bà thì trở thành một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất thế kỷ 20, người được mệnh danh là "Thầy phù thủy ở Menlo Park" nhờ những sáng chế thiên tài cống hiến cho nhân loại.
Một ngày, khi xem lại những kỷ vật của gia đình, Edison vô tình nhìn thấy một tờ giấy gập nhỏ được cất trong ngăn kéo bàn. Tò mò mở ra đọc, trước mắt cậu chính là lá thư của thầy giáo năm nào. Trong thư, có đoạn: "Con trai ông bà là đứa trẻ rối trí. Chúng tôi không thể chấp nhận cho trò ấy đến trường được nữa".
Edison đã khóc hàng giờ, sau khi đọc lá thư năm nào.
Thiên tài viết trong nhật ký rằng:
"Thomas Alva Edison là một đứa trẻ rối trí, vậy mà, nhờ có một người mẹ tuyệt vời, cậu đã trở thành thiên tài của thế kỷ".
Ngày Mai sinh bé thứ hai, nhà chồng không ai đến bệnh viện. Cũng chẳng có ai hỏi han. Họ chỉ nhắn vỏn vẹn một câu lạnh tanh qua điện thoại:
– Lại là con gái nữa à? Đúng là cái số mạt.
Mai ôm con trên tay, không dám khóc thành tiếng. Đứa lớn mới lên hai, giờ thêm bé út, chồng cô thì đã dọn về nhà mẹ đẻ, từ lúc biết giới tính thai nhi. Còn mẹ chồng thì nói thẳng:
– Đàn bà, mà không đẻ được con trai, thì khác gì rác trong nhà!
Ba ngày sau, khi xuất viện, Mai bồng con về căn chòi lá dựng tạm ven sông – mảnh đất, mà cha ruột cô để lại, trước khi mất. Không điện, không nước, không một bàn tay giúp đỡ. Cô một mình vừa làm mẹ, vừa làm cha, vừa đi làm thuê, vừa chăm con mọn.
Có lần cô đi làm phụ hồ, nắng chang chang, bụi bám đầy mặt. Người ta chỉ trỏ:
– Con nhỏ đó đó, đẻ toàn vịt trời, nên bị chồng bỏ rồi.
Rồi cô làm giúp việc, đi rửa bát thuê quán ăn, gánh từng thùng nước thuê, để đổi lấy từng lon gạo.
Hai con gái lớn lên bằng sữa loãng và cơm chan nước mắm. Nhưng chưa lần nào cô oán trách con. Mỗi tối, khi chúng đã ngủ, Mai vuốt tóc con thì thầm:
– Không sao đâu, sau này lớn lên, các con chỉ cần sống tử tế. Vậy là mẹ vui rồi.
Năm các con vào lớp 10, cô xin làm lao công ở sân bay. Dù là người quét rác, cô luôn chỉ tay lên bầu trời, mỗi khi máy bay cất cánh, nói với con:
– Nhìn kìa, mai mốt hai đứa cũng sẽ được bay như thế, mẹ tin.
Con gái Mai học giỏi, thông minh và đặc biệt ngoan ngoãn.
Một ngày, đứa lớn nói:
– Mẹ ơi, con muốn thi vào hãng hàng không quốc tế. Mẹ có tin con không?
Mai chỉ ôm con vào lòng:
– Mẹ không chỉ tin. Mẹ biết chắc.
Năm các con 27 tuổi, người ta gọi tên họ trên truyền hình quốc tế:
Hai chị em người Việt trở thành tiếp viên hàng không cao cấp nhất của Qatar Airways, nhận lương hơn 10.000 USD/tháng, được trao huân chương danh giá vì thái độ phục vụ và ngoại ngữ đỉnh cao.
Họ mua tặng mẹ một căn biệt thự ven biển, đưa mẹ đi khắp thế giới – nơi mà ngày xưa, bà từng chỉ biết qua tranh lịch treo tường. Từ Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Úc đến Iceland… Mai đều được con dẫn đi, đội mũ len, khoác áo lông, ăn bánh mì nướng giữa tuyết rơi.
Đêm nọ, ngồi giữa một khách sạn 5 sao ở Dubai, bà rưng rưng:
– Mẹ tự hào vì hai con quá… Mẹ không cần gì hơn nữa.
Cho đến một ngày, người bố – người từng bỏ rơi ba mẹ con, từng lạnh lùng cắt đứt mọi liên hệ – xuất hiện.
Ông ta ăn mặc tươm tất, đứng trước cổng biệt thự, miệng nói ngọt:
– Cha là cha tụi con mà… giờ cha già rồi… cha cần một ít tiền để dưỡng già.
Cô con gái lớn im lặng.
Cô con gái út cười nhạt:
– Cha nhớ tụi con là con gái rồi sao?
Người đàn ông lúng túng, nhưng rồi thốt lên:
– Dù gì thì cũng là máu mủ. Các con không lẽ để cha sống khổ?
Mai từ trong bước ra, tay cầm một xấp tiền. Bà đưa cho ông:
– Đây là số tiền tôi dành dụm khi còn rửa bát thuê. Không phải tiền của con gái tôi. Cầm lấy và đi đi. Chúng không nợ ông gì cả.
Ông ta cúi đầu, lặng lẽ quay đi.
Còn bà, quay sang hai con, rưng rưng:
– Mẹ không hận. Nhưng mẹ muốn các con nhớ:
Đừng bao giờ thương hại ai từng nhẫn tâm bỏ rơi mình.
Càng không nên để lòng tốt bị lợi dụng, bởi kẻ đã từng coi thường sự tồn tại của các con.
Hai cô gái ôm mẹ. Ở bên bà, họ không cần là tiếp viên danh giá, không cần những dải lụa xanh đỏ hay hào quang thành tích.
Chỉ cần là con gái của người mẹ từng dám sống, dám hi sinh và dám tin.
Ông vua xe hơi, Henry Ford sau khi chết được đưa lên Thiên Đàng.
Tại cổng Thiên Đàng có Thánh Phêrô đang chờ sẵn để đón Ford.
Vừa gặp Ford, Thánh Phêrô cho biết: Ford hồi còn sống ngươi đã làm nhiều việc công ích cho xã hội, như sáng chế phương pháp làm việc dây chuyền cho kỹ nghệ xe hơi, làm thay đổi cả thế giới.
Với thành quả như vậy, ngươi sẽ được một ân huệ là có thể chuyện trò với bất cứ ai trên Thiên Đường này.
Suy nghĩ vài giây, Ford xin được gặp Thượng Đế.
Thánh Phêrô dẫn Ford đi gặp Thượng Đế.
Vừa gặp Thượng Đế, Ford liền hỏi ngay:
- Thưa ngài, lúc ngài chế tạo ra đàn bà, ngài đã suy nghĩ gì?
Thượng Đế nghe xong bèn hỏi lại:
- Ngươi hỏi như vậy là ý gì?
Ford liền trả lời:
Trong sáng chế của ngài, có quá nhiều sai sót:
- Phía trước thì phồng lên, phía sau thì bị nhô ra. - Máy thường kêu to khi chạy nhanh. - Tiền bảo trì và nuôi dưỡng quá cao. - Thường xuyên đòi hỏi nước sơn mới. - Cứ đi 28 ngày là lại bị chảy nhớt và không làm việc được. - Chỗ bơm xăng và ống xả thì lại quá gần nhau. - Đèn trước thì quá nhỏ. - Tiêu thụ nhiên liệu thì nhiều khủng khiếp.....
Thượng Đế nghe qua liền bảo:
- Ngươi hãy đợi một lát để ta xem lại bản thiết kế.
Ngài bèn cho gọi toàn bộ kỹ sư thiết kế và cơ khí trên Thiên Đàng lại, để xem lại quá trình.
Sau một thời gian, họ trình thượng đế bản báo cáo.
Xem xong, ngài bèn phán rằng:
- Những lời ngươi vừa nói hoàn toàn đúng. Sáng chế của ta quả thật có nhiều sai sót.
Nhưng nếu tính trên phương diện kinh tế, thì hiệu quả lại rất cao:
Có gần 98% đàn ông trên thế giới xài sản phẩm do ta chế tạo.
Trong khi chưa đầy 10% đàn ông xài sản phẩm của ngươi.
Bà Nhàn – 79 tuổi – sống cùng đại gia đình 3 thế hệ trong căn biệt thự mới xây, phần lớn do tiền tiết kiệm cả đời của bà mà có.
Nhưng từ ngày nhà cửa khang trang xây dựng xong, thì con cháu không còn ai thực sự cần bà nữa.
– Mẹ già rồi, đi lại chậm chạp. – Cơm thì ăn riêng, phòng thì ẩm mốc, càm ràm, lẩm cẩm cả ngày!.....
Có lần, cháu trai còn nói trống không:
– Bà lên ở một thời gian thôi, chứ đâu có ký tên trong sổ đỏ? Nhà này, giờ là của ba má con!
Một hôm, sau nhiều lần bị “vô tình” cho ăn cơm nguội, chăn gối ẩm mốc, TV thì thường xuyên bị giấu điều khiển.....
Có lần bà Nhàn bỗng nghe con gái út nhẹ giọng dỗ dành:
– Mẹ ơi, đêm qua con mơ thấy ông ngoại báo mộng. Ổng nói… bàn thờ tổ ở quê lâu quá không ai hương khói. Mẹ về đó trông coi đi. Ở trên này… chật chội, với lại mẹ không hợp phong thủy nhà mới…
Bà Nhàn khựng người. Không nói gì. Chỉ lặng lẽ gật đầu.
Sáng sớm hôm sau, bà xếp đồ vào túi vải cũ, mang theo chỉ một tấm ảnh gia đình và lọ dầu gió, bắt chuyến xe về quê.
Con cháu thở phào.
– Đỡ chật nhà. – Bà già tưởng mình còn quan trọng. – Mấy bữa nữa, bà nhờ hàng xóm đến nấu cơm cho bả là được!.....
Ba tháng sau.
Cả nhà náo loạn, khi nhận được giấy mời họp mặt họ hàng gia tộc – do chính bà Nhàn triệu tập, tại nhà thờ tổ ở quê.
Bà chính thức tuyên bố:
– Từ nay, toàn bộ 5 mảnh đất ruộng còn sổ đỏ mang tên tôi, căn nhà cổ 3 gian giữa làng, và sổ tiết kiệm gần 900 triệu, tôi không để lại cho bất kỳ đứa con, đứa cháu nào đang sống trên phố.
Toàn bộ, tôi xin để lại cho
- Quỹ xây nhà từ đường họ Nguyễn, - cùng nhóm thiện nguyện đang chăm sóc người già neo đơn tại quê tôi.
Con trai cả giãy nảy:
– Mẹ! Sao mẹ lại làm vậy?
– Con cháu ruột của mẹ mà, mẹ nỡ lòng nào…?
Bà chỉ cười. Ánh mắt thâm trầm, giọng chậm rãi nhưng rắn rỏi:
– Chính tụi bây báo mộng cho tao mà. Tao chỉ về quê theo “điềm trời”, tiện thể trông coi lại lòng người.
– Lũ bây xây biệt thự, nhưng quên xây chữ hiếu.
– Tao nghèo vật chất, chứ chưa bao giờ nghèo tỉnh táo.
Cả họ bàng hoàng.
Từ đó, bàn thờ tổ sáng tối nhan khói đều đặn mỗi ngày — nhưng là do người dân làng thắp, chứ không phải là con cháu của bà cụ Nhàn.
2. Mỗi Thánh Lễ đáng giá như cuộc hiến tế sự sống, sự đau khổ và sự chết của Chúa chúng ta.
3. Thánh Lễ là sự đền tội lỗi của chúng ta mạnh mẽ nhất.
4. Trong giờ chết, những Thánh Lễ mà chúng ta đã dự sẽ là sự an ủi lớn nhất của chúng ta.
5. Mỗi Thánh Lễ sẽ theo chúng ta tới tòa phán xét và xin xá tội cho chúng ta.
6. Tuỳ theo lòng sốt mến, Thánh Lễ có thể làm giãm nhiều hay ít hình phạt tạm do những tội lỗi của chúng ta.
7. Khi tham dự Thánh Lễ với hết tâm tình, chúng ta mang lại cho nhân loại của Chúa một của Dâng cao nhất.
8. Ngài sẽ bù đáp cho chúng ta những gì chúng ta sơ suất và thiếu xót.
9. Ngài sẽ tha thứ những tội nhẹ mà chúng ta chưa xưng. Quyền lực của Satan trên chúng ta sẽ được giãm thiểu.
10. Chúng ta có thể giúp giãi thoát cho các linh hồn nơi luyện ngục một cách hữu hiệu nhất.
11. Một Thánh Lễ chúng ta tham dự khi còn sống mang lại ơn ích nhiều lần hơn nhiều Thánh Lễ dâng cho chúng ta sau khi chết.
12. Chúng ta được bảo vệ khỏi những nguy hiểm và bất hạnh có thể xảy đến cho chúng ta. Chúng ta sẽ được giãm bớt thời gian nơi lữa luyện tội.
13. Mỗi Thánh Lễ nâng vị trí chúng ta lên cao hơn trên Thiên Ðàng.
14. Chúng ta nhận lãnh phúc lành của Chúa từ Thiên Ðàng thông ban qua vị linh mục.
15. Chúng ta quỳ giữa vô số thiên Thần tôn kính thờ lạy Hy Lễ.
16. Chúng ta được chúc lành về vật chất và công việc làm trong đời sống tại thế.
(Vì lợi ích cho đời sống vĩnh cửu, chúng ta nên nhận thức tuyệt đối rằng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày là việc rất nên đáng làm.)
*****
Tại sao ta phải đi dự Thánh Lễ mỗi ngày?
- ‘Thánh Lễ là một thể thức cầu nguyện tuyệt hảo nhất!’(Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI)
- Mỗi Thánh Lễ mà chúng ta tham dự với lòng sùng kính, Chúa sẽ ban cho chúng ta một vị Thánh để an ủi chúng ta trong giờ lâm tử. (Chúa Giêsu mặc khải với Thánh Gertrude Cả)
- Thánh Padre Pio, một linh mục được mang 5 dấu Thánh Chúa, nói rằng:
“Mỗi Thánh Lễ chúng ta tham dự với lòng sốt mến sẽ tạo trong linh hồn chúng ta những hiệu quả kỳ diệu, những ân sủng tâm linh và vật chất dư đầy, mà chúng ta không biết. Trái đất này có thể tồn tại dễ dàng, nếu không có mặt trời, hơn là không có Thánh Lễ.”
- Thánh Gioan Vianney nói, “nếu chúng ta biết được giá trị của Thánh Lễ chúng ta có thể chết vì sung sướng.”
- Một tiến sĩ Hội Thánh, Thánh Anselm, tuyên bố rằng: “Một Thánh Lễ dâng cho một người khi họ còn sống thì đáng giá hơn gấp ngàn lần Thánh Lễ cùng ý chỉ đó dâng cho họ sau khi họ qua đời.”
- Thánh Leonard của Port Maurice cũng đồng ý với câu đó đã nói rằng: “Một Thánh Lễ trước khi chết, thì sinh nhiều ơn ích hơn là nhiều Thánh Lễ dâng, sau khi chết.”
- “Thánh Lễ sẽ mang lại nhiều ơn ích nếu người ta dâng lên khi họ còn sống, hơn là Thánh Lễ dâng lên để cầu cho linh hồn họ khi họ đã qua đời.” (Ðức Giáo Hoàng Benedict XV)
- Một lần nọ, Thánhh Theresa được tràn đày ơn Chúa, đã hỏi Chúa, “Con phải làm gì để cảm tạ Ngài?” Chúa đáp: “Hãy tham dự một Thánh Lễ.”
- Có một lần Ðức Mẹ nói với Alain một tôi tớ đầy trung thành: “Ðấng Con của Mẹ rất yêu mến những ai tham dự Hy Tế trong Thánh Lễ, nếu cần Ngài sẽ chết cho họ thêm bấy nhiêu lần mà họ đi tham dự Thánh Lễ.” (trang 107, đoạn cuối của ‘explication Du Saint Sacrifice De La Messe’ parle R.P. Martin de Cochem Friere - Mineur Capuchin)
Lời Khuyên về Cách Cầu nguyện
- Lời cầu nguyện của bạn mạnh mẽ nhất là lúc truyền phép Thánh hóa bánh và rượu trong Thánh Lễ. (Nâng Bánh và Chén Thánh)
- Mỗi lần chúng ta nhìn ngắm Bí Tích Thánh Thể, thì địa vị của chúng ta trên Thiên Ðàng cũng được nâng lên mãi. (Chúa đã mặc khải cho Thánh Nữ Gertrude Cả)
Vào 1 buổi xế chiều, có 1 người khách là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần, đến chiếu cố 3 đứa trẻ chạy lại chào hàng.
Ông chủ tiệm nhìn vào 3 cặp mắt van xin khẩn khoản đó, nhưng không biết quyết định chọn đứa nào.
Cuối cùng ông ta nói: “Đứa nào cần tiền nhất, thì tôi cho nó đánh giầy và sẽ trả công 2 đồng.”
Công đánh 1 đôi giầy lúc bấy giở chỉ có 20 xu, nên 2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn. 3 cặp mắt đều sáng lên.
Một đứa nhỏ nói: “Từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả, nếu không kiếm được tiền hôm nay, cháu sẽ chết đói!”
Đứa khác nói: “Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh, cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn…”
Còn cậu Lula thì nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ tiệm, nghĩ ngợi 1 lúc, rồi nói:
“Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này, thì cháu sẽ chia cho 2 đứa đó mỗi đứa 1 đồng!”
Câu nói của Lula làm ông chủ tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất ngạc nhiên.
Cậu giải thích thêm: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi, còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng, nên có sức đánh giầy hơn chúng nó, Ông cứ để cháu đánh đi, chắc chắn ông sẽ hài lòng”.
Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ, ông chủ tiệm đã trả cho Lula 2 đồng bạc, sau khi được cậu bé đánh óng đôi giầy.
Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời, đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng.
Vài ngày sau, ông chủ tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, cứ sau buổi tan học là nhận chú bé đến xưởng của ông, để học nghề giặt nhuộm của ông ta và bao cả bữa cơm tối.
Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp, nhưng so với đánh giầy, thì khá hơn rất nhiều.
Thằng bé hiểu rằng: “Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn, nên mới được ông chủ thương cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời.”
Từ đó, miễn là có khả năng, chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình.
Sau, Lula nghỉ học, đi làm thợ trong 1 nhà máy. Để bênh vực cho quyền lợi của những người thợ, cậu ta tham gia vào công đoàn.
Năm 45 tuổi, Lula lập ra đảng Lao-Công. Năm 2002, trong cuộc ứng cử tổng thống, khẩu hiệu của Lula là: “Ba bữa cơm no cho tất cả những người trong quốc gia này”.
Ông đã đắc cử làm Tổng Thống xứ Brazil. Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2, cho 4 năm tới.
Trong 8 năm tại chức, ông đã thực hiện đúng lời mình đã hứa: 93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm.Thực hành đúng tâm niệm: giúp đời!
Và nước Ba-tây dưới sự lãnh đạo của Ông đã không còn là “con khủng long nhai cỏ”, mà đã trở nên “Con mãnh sư Mỹ Châu”. Và xây nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới.
Luiz Inácio Lula da Silva: đó là tên của vị tổng thống Brazil, giải nhiệm vào 31.12.2010
Một bé trai 15 tuổi bị bắt vì trộm từ một cửa hàng ở Mỹ.
Khi cố gắng để trốn thoát, cậu bé cũng đã làm hư một cái kệ. Người chủ cửa hàng đã bắt giữ được cậu bé và kiện ra tòa án và phán quyết của tòa án Mỹ đã làm nhiều người rơi lệ.
Sau khi thẩm phán nghe được vụ án, ông ấy hỏi cậu bé: “Cháu có thật sự ăn cắp gì không?”
- “Có ạ! Cháu đã ăn cắp bánh mì, phô mai và làm hư cái kệ.” Cậu bé xấu hổ, cúi đầu xuống, trả lời.
Thẩm phán lại hỏi: “Tại sao cháu lại ăn cắp?”
Đứa bé trả lời: “Vì nó cần thiết.”
Thẩm phán lại hỏi: “Sao Cháu không mua, mà ăn cắp nó.”
Cậu bé nói: “Cháu không có tiền.”
Thẩm phán nói: “Cháu có thể xin tiền Cha mẹ.”
Cậu bé nói: “Cháu chỉ có Mẹ, nhưng mẹ cháu đang bị bệnh và không đi làm việc được, nên cháu phải ăn cắp bánh phô mai để cho Mẹ ăn.”
Thẩm phán hỏi: “Cháu không làm gì à? Cháu không có việc làm sao?”
Cậu bé trả lời: “Cháu làm việc ở tiệm rửa xe. Cháu phải nghỉ để chăm sóc cho mẹ, nên đã bị đuổi việc.”
Thẩm phán nói: “Cháu không tìm kiếm việc gì khác để tiếp tục làm việc ở nơi khác sao?
– Dạ, mẹ cháu đang ốm nặng, mà không có người chăm sóc, nên cháu không thể đi làm được.
Thẩm phán cho người đi xác minh những gì cậu bé nói thì thấy tất cả đều là sự thật. Sau khi biết rõ ngọn ngành mọi chuyện. Thẩm phán ra tuyên bố phán quyết:
-“ Tội ăn cắp, đặc biệt lại là ăn cắp ổ bánh mì là MỘT TỘI ÁC thật đáng xấu hổ...!
Và ở đây, tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm cho tội ác này... cả phòng xử án đột ngột im lặng...
- “Tất cả mọi người trong phòng xử án hôm nay, trong đó có Tôi, đều phải chịu trách nhiệm cho tội ác này. Do đó, ai đang hiện diện tại đây đều phải bị phạt 10 Dollars, không ai được đi ra khỏi đây, mà không bị phạt 10 Dollars.”
Thẩm phán lấy tờ tiền 10 Dollars từ túi áo ông ấy, rồi lấy một cây bút và bắt đầu viết tên những người phải nộp phạt.
- “Ngoài ra, Tôi còn phạt 1.000 Dollars Chủ cửa hàng bánh mỳ, vì giao một đứa trẻ đói bụng cho Cảnh sát. Nếu không đóng phạt trong vòng một giờ, cửa hàng sẽ bị đóng cửa.”
- “Mọi người ở đây đều nên xin lỗi cậu bé và nộp phạt 10 Dollars, để cậu bé có tiền chăm sóc mẹ. Chúng ta đã ích kỷ và thiếu quan tâm đến những cảnh đời kém may mắn hơn mình.”
Sau những lời phán quyết của thẩm phán, cậu bé oà khóc và ôm lấy ông. Tất cả mọi người trong phòng xử án đều xúc động rơi nước mắt.
Tôi tự hỏi: Liệu xã hội, hệ thống Tòa án của nước Pháp chúng ta có thể đưa ra một phán quyết giống như toà án Mỹ như vậy không?
Thẩm phán nói thêm: “Nếu một người bị bắt quả tang ăn cắp bánh mì do bị đói, thì tất cả thành viên của Cộng đồng, của Xã hội và Đất nước này đều phải thấy xấu hổ.!”
Một vị linh mục trẻ vào bệnh viện đi thăm những bệnh nhân.
Khi ngài đang đi trong hành lang, thì có một nữ tu xin ngài dừng lại, chị nói:
“Cha ơi, làm ơn vào phòng này giúp con! Có một ông già đang hấp hối. Ổng nằm đây đã lâu rồi. Chúng con đã mời các linh mục đến ban các phép Bí Tích cuối cùng cho ông, nhưng ông đuổi các linh mục đi. Ổng không muốn ai nói về Chúa Giêsu. Nhưng ổng sắp chết rồi cha ơi. Xin cha vui lòng giúp ổng.”
Vị linh mục bèn vào phòng của ông lão và ngài tự giới thiệu minh.
Ông lão tức tối và bắt đầu chưởi rủa vị linh mục. Ông tỏ ra rất bực tức và giận dữ. Ông hét lên:
“Tôi không muốn gặp ông. Cút ra ngay!”
Vị linh mục trả lời: “Được, tôi sẽ ra ngay”. \ Rồi ngài bước ra khỏi phòng.
Khi đó vị nữ tu vẫn còn đứng ở đó. Chị năn nỉ cha:
- “Xin cha làm ơn vô phòng của ông già lần nữa giúp con.”
- “Nhưng ổng không nhận mọi sự mà tôi có thể làm cho ổng.”
Chị nữ tu lại năn nỉ vị linh mục thêm: “Cha làm ơn cho ổng một cơ hội nữa đi”.
Vậy là vị linh mục miễn cưỡng vào phòng của bệnh nhân lần nữa. Ngài dịu dàng nói:
“Ông ơi, tôi sẽ không hỏi xem liệu ông có muốn xưng tội không? Tôi cũng không hỏi xem ông có muốn rước lễ không? Nếu tôi chỉ ngồi bên cạnh ông và cầu nguyện chuỗi Kinh Lòng Chúa Thương Xót thì có được không?”
Ông cụ trả lời: “Tôi không cần. Ông muốn làm gì thì làm.”
Vị linh mục bèn ngồi xuống bên cạnh ông già. Ngài bắt đầu cầu nguyện nhẹ nhàng với lời kinh của chuỗi kinh Lòng Chúa Thương Xót:
“Vì cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới. Vì cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới”.
Bỗng dưng ông lão la lên: “Ngừng ngay lại!”
Vị linh mục giật mình, ngài nhìn ông già và hỏi: “Tại sao tôi lại phải ngừng chứ?”
- “Bởi vì không có lòng thương xót nào dành cho tôi cả.”
Vị linh mục ngạc nhiên hỏi: “Tại sao ông lại nghĩ rằng: Chúa không có lòng thương xót với ông chứ?”
- “Không quan trọng gì cả.”
Nhưng vị linh mục nài nỉ hỏi: “Tại sao ông lại nghĩ rằng: Chúa không thương xót ông chứ?”
Tôi sẽ kể cho ông nghe. Ông lão bắt đầu chậm rãi yếu ớt:
- “Vào 25 năm trước, tôi đang làm cho một sở hoả xa. Việc của tôi là chặn không cho xe cộ đi ngang qua, khi mà có một xe lửa đi đến gần.
Nhưng đêm hôm ấy, tôi đang say rượu, nên tôi không chặn xe cộ. Rồi có một cặp vợ chồng và 3 con nhỏ đã đi ngang qua đường, khi mà xe lửa đang tới. Thế là cả gia đình của họ bị chết thảm. Đó là vì lỗi của tôi. Vì thế, Chúa sẽ không bao giờ tha thứ cho tội lỗi của tôi. Tôi cảm thấy tội của mình quá nặng.”
Vị linh mục ngồi nghe, mà muốn ngất xỉu. Trong tay ngài vẫn nắm chặt chuỗi tràng hạt. Cuối cùng ngài hỏi ông lão:
- “Chuyện này xảy ra ở đâu?”
Ông lão nói rằng, đó là một thành phố ở nước Ba Lan.
Vị linh mục ngước nhìn lên và kể chuyện của gia đình ngài:
“Vào 25 năm trước đây, cha mẹ và 3 em của tôi đi chơi, nhưng tôi không thể đi với họ được. Khi ấy họ gặp một tai nạn, vì người có bổn phận đã không gạt cái cần để cấm xe cộ đi qua. Rồi xe lửa đã đụng vào xe của cha mẹ tôi và làm cho cả 5 người cùng chết. Đêm hôm ấy, cả gia đình tôi đều chết thảm khốc vì tai nạn.”
Rồi vị linh mục nhìn chăm chú vào mặt của ông lão. Ngài dịu dàng nói:
- “Này ông, Chúa tha thứ cho ông mà, và tôi cũng tha thứ cho ông nữa.”
Người đàn ông ứa nước mắt, vì ông ấy biết rằng Chúa vẫn còn thương xót ông ấy.
Vị linh mục lại hỏi: “Vậy bây giờ, ông có muốn xưng tội và rước lễ không?”
Ông lão liền sốt sắng xưng tội và rước Lễ.
Hai ngày sau đó, ông chết.
Lòng Thương Xót Chúa đã thắng!
Sau mọi việc, thì vị linh mục đi ra ngoài hành lang để tìm vị nữ tu, nhưng ngài không tìm ra chị ấy. Người phụ trách bệnh viện nói rằng: hiện không có một nữ tu nào làm việc ở bịnh viện này cả.
Vài năm sau,
Vị linh mục đi hành hương. Ngài đến thăm thành phố Vilnius, đó là nơi mà Thánh Faustina đã sống và tu tập.
Khi vào tu viện để dâng Thánh Lễ, ngài nhìn thấy một bức hình của Thánh Faustina. Ngài lẩm bẩm: “Cách đây vài năm tôi đã gặp vị nữ tu này rồi.”
Một trong số các nữ tu nói: “Thưa cha, không thể được vì Thánh Faustina đã chết từ năm 1938 !”
Lúc ấy vị linh mục mới hiểu rằng: Chính Thánh Faustina đã hiện ra và xin ngài vào phòng của bệnh nhân ấy, để giúp người hấp hối được nhận các Bí Tích sau cùng.
Tên trộm nhìn cánh cửa chống trộm màu xanh đậm có kẹp tờ giấy quảng cáo trước mặt, hắn rất tự tin mình sẽ mở được ổ khóa này trong vòng chưa đầy 10 giây. Quả nhiên, khi chỉ mới thầm đếm đến 8, hắn đã mở cửa bước vào cứ như nhà mình…
Hắn thỏa mãn nhìn quanh phòng khách: Đầy đủ đồ gia dụng, có cả những thứ hàng nhập khẩu từ nước ngoài, có vẻ như gia đình này khá là giàu có, chuyến này không phí công rồi.
Hắn khoái trá đi vào phòng ngủ, theo kinh nghiệm của hắn, thì người ta thường hay để những thứ quý giá ở đó.
- “David, David, con về rồi đó à?”.
Đột nhiên, có tiếng người phụ nữ phát ra từ phía trong phòng ngủ. Sau đó, một bà cụ run run bước ra ngoài, suýt chút nữa thì va phải hắn.
Hắn giật mình hoảng sợ. Suy nghĩ đầu tiên đó là phải chuồn ngay. Nhưng hắn đã bị bà cụ túm được, phải làm sao bây giờ?
Bà cụ sờ sờ mũi, miệng hắn, sau đó rất vui sướng nói: “David, đúng là con rồi, có phải là vì hôm nay nghỉ lễ, nên con về thăm mẹ không?”
Hắn giả vờ bình tĩnh, thì ra là một bà già mù, bà ta không nhìn thấy gì, đúng là ông trời giúp hắn rồi.
Hắn liếc qua tấm lịch trên tường: Thảo nào, hôm nay là Ngày của Mẹ, xem ra là bà ấy nhớ con trai mình lắm rồi.
Hắn dùng giọng mũi đáp: “Ừm… ừm”
- “David à, hai mẹ con ta nửa năm nay chẳng gặp được mấy lần, lần trước con về nhà là vào dịp Tết ấy nhỉ. Chẳng phải là do con bận hay sao.”
Hắn nhận ra là mình không cần phải giả giọng, bà cụ có vấn đề về tai, nên hoàn toàn không hề nhận ra giọng hắn. Hắn hỏi: “Sao mẹ không lấy tờ quảng cáo nhét ở cửa nhà mình, con còn tưởng là mẹ… không có ở nhà”.
- “Gần đây, chân mẹ đau nhiều, nên đã hai ngày nay không ra khỏi nhà.”
- “Bệnh xương khớp sao ạ, người cao tuổi thường dễ bị bệnh, mẹ cần phải đi lầu, hoạt động nhiều hơn. Tại sao mẹ không gọi cho con?”
- “Mẹ gọi rồi, nhưng vừa mới bắt máy, thì con nói là đang họp, nên gác máy luôn. Mẹ không trách con, mẹ biết là con bận, mẹ đoán hôm nay là Ngày của Mẹ, hẳn là con về thăm mẹ phải không?”
Bỗng hắn nhìn thấy một sợi tóc bạc của bà cụ từ trên rơi xuống đất, trái tim hắn có chút lay động, hắn nói: “Mẹ ngồi xuống đi, con xoa bóp cho mẹ”.
Bà cụ ngồi xuống sô pha. Hắn vừa xoa bóp bắp chân cho bà cụ, vừa nói động tác này gọi là thả lỏng gân.
Bà cụ vốn đang u uất bỗng vui hẳn lên. Có vẻ như bà đã cô đơn rất lâu rồi. Bà nói rất nhiều, nhiều nhất là về David. Hễ nói đến con trai, là bà giống hệt như một cái bóng đèn cũ được thắp sáng vậy.
Nhờ vậy hắn đã biết được tình trạng của David: Anh ta đi làm ở thành phố. Hiện đã là trưởng phòng. Cả ngày bận rộn giống như một chiếc xe chạy trên đường cao tốc vậy, rất khó dừng lại nghỉ ngơi.
Một lúc lâu sau, bà cụ vẫn còn đang nói, hắn cảm thấy hơi phiền, chuyện gì đây chứ, đi trộm đồ, kết quả lại “trộm” trúng một bà mẹ.
Bà cụ lo lắng hỏi: “Con phải quay về làm việc rồi sao?”
Hắn nói, trời sắp tối rồi. Nói xong, hắn nhớ ra là mắt bà cụ không nhìn thấy, bèn nắm lấy tay bà: “Mẹ thử giơ tay ra ngoài cửa sổ xem, trời về tối gió thu sẽ có cảm giác rét đấy.”
Bà cụ không nỡ xa con: “Khi nào thì con lại đến thăm mẹ?”
Hắn nói, khi nào có thời gian rỗi sẽ đến.
Trước khi đi, hắn nhìn quanh căn nhà, hắn cũng không thể ra về tay trắng được, hắn phải lấy được một thứ gì chứ, đó là quy tắc của kẻ trộm. Lúc này, chợt có người gõ cửa, hắn lo lắng liếc nhìn cánh cửa, bà cụ nói hắn mở cửa xem thử là ai.
Hắn làm theo, nhìn qua mắt mèo trên cửa, hắn thấy người giao hàng, nên liền yên tâm nói vọng vào nhà: “Mẹ ơi, giao hàng cho mẹ.”
Bà cụ nói hắn nhận giúp bà.
Người giao hàng đi rồi, hắn giúp bà cụ mở gói hàng ra, bên trong là một món quà, một xấp phiếu mua hàng và một tờ giấy.
Hắn để xấp phiếu mua hàng sang một bên, rồi đọc tờ giấy:
“Mẹ ơi, con thật sự bận quá, không thể về nhà đón lễ cùng mẹ được, con có gửi cho mẹ một xấp phiếu mua hàng, mẹ muốn mua gì thì mua. David gửi mẹ”.
Hắn ta chợt giật mình: Con trai của bà cụ gửi cho bà ấy một xấp phiếu mua hàng, chứng tỏ bà cụ này không hề bị mù, vậy thì tại sao bà ấy lại…???
Hắn quay lại nhìn bà cụ bằng ánh mắt nghi ngờ.
Bà cụ như thể vừa làm chuyện gì có lỗi với hắn, nên nói:
“Xin lỗi, ta không cố ý lừa con đâu. Ta thật sự quá buồn chán, rất muốn có một người để trò chuyện. Nếu ta không giả vờ bị mù, thì sao cháu chịu ở lại chứ? Cháu thấy rồi đấy…”
Nói xong, bà cụ nhét xấp phiếu mua hàng vào tay hắn rồi nói: “Đây xem như là quà cảm ơn vì ngày hôm nay. David bảo ta muốn mua gì thì mua, nhưng mà ta không thiếu gì cả, chỉ thiếu người ở bên trò chuyện thôi. Chàng trai trẻ, cảm ơn cháu, dù cháu là ai, ta chỉ biết là hôm nay cháu đã cùng ta trải qua một buổi chiều rất vui vẻ”.
Tên trộm trả xấp phiếu lại cho bà cụ, hắn nhìn bà, nghĩ đến mẹ mình ở quê, trong lòng cảm thấy rất rối ren, ngổn ngang cảm xúc.
Hẳn là mẹ cũng đang nhớ hắn, nếu biết bây giờ hắn là một tên trộm, chắc là mẹ sẽ rất đau lòng.
Chỉ là, trước khi đi cũng phải lấy một thứ mới được chứ.
Lúc này, hắn nhìn thấy tờ giấy quảng cáo ở khe cửa, bèn đưa tay lấy, rồi tạm biệt bà cụ: “Thưa bà, bà phải chăm sóc bản thân nhé, khi có thời gian, cháu sẽ trở lại trò chuyện cùng bà.”
Lần đầu tiên hắn cảm ơn cuộc gặp gỡ kỳ lạ trong lúc đi ăn trộm.
Lần đầu tiên hắn vui vẻ rời khỏi căn nhàm mà chủ nhà không có thứ gì bị mất.
Lần đầu tiên hắn mang theo tờ giấy quảng cáo “tuyển dụng”, bước vào cuộc sống mới.
Mọi năm, tôi cũng thường chia sẻ những điều tích cực về linh mục. Tuy nhiên năm nay, tôi chọn một thông điệp hơi chướng tai một chút:
“Xin đừng đi tu làm linh mục.”
Có lẽ bạn đang nghĩ là tôi có vấn đề gì chăng?
Hoặc cũng có thể bạn nghĩ tôi đang câu like một cách rẻ tiền. bằng một cái tựa đề giật gân?
Không, tôi nói rất thật và rất chân thành đấy. Mục đích của bài viết này, thực sự không phải là để khuyến khích, nhưng là để khuyên can, cảnh báo một số bạn trẻ đừng nên dấn thân vào đời sống tu trì.
Khi viết những dòng này, tôi nhớ lại một cha giáo đang trong giờ học, ngài dừng lại và nói với chúng tôi, những sinh viên thần học:
“Anh em thân mến, khi anh em chuẩn bị chịu chức Thánh, mà anh em không có một đời sống cầu nguyện mạnh mẽ, và nếu Đức Giê-su không phải là nền tảng của cuộc đời anh em, thì anh em hãy rời khỏi đời tu đi, vì chúng tôi không cần anh em đâu. Chúng tôi đã có quá đủ những linh mục không gương mẫu, họ bê trễ việc cầu nguyện, sống theo những giá trị của thế gian và dẫn người ta vào đường sai lạc.
Nếu anh em chẳng tha thiết trở nên con người của sự cầu nguyện, chúng tôi mong anh em hãy đi tìm một nghề nghiệp khác thì tốt hơn.”
Lời nói của cha giáo khi ấy khiến cả lớp chúng tôi sửng sốt và rùng mình bàng hoàng.
Ngài là một linh mục hiền lành, luôn nở nụ cười hiền tươi trên khuôn mặt, nhưng lại cho chúng tôi những lời chát đắng nhất, mà chúng tôi từng nghe trong đời tu: “Chúng tôi không cần anh em.”
Chính lời khuyên ấy đã khiến tôi thêm một lần thức tỉnh, nhận thức lại ơn gọi của mình và quyết tâm tiến tới trên đường nhân đức hơn nữa.
Tôi xin được mượn lời của cha giáo năm xưa, để thêm lời khuyên cho những bạn trẻ đang phân định ơn gọi đời mình.
Đời sống cầu nguyện nghèo nàn là một vấn đề, nhưng còn những nan đề khác hóc búa không kém.
Chẳng hạn:
- Nếu bạn nghĩ linh mục giống như một công chức hành chính, tắt mở điện thoại và phớt lờ những nhu cầu mục vụ của đàn chiên, chỉ vì đã hết giờ làm việc và chỉ vì nửa đêm là lúc không thuận tiện….., thì chúng tôi không cần bạn, vì chúng tôi đã có quá đủ những linh mục như thế.
- Thứ đến, chúng tôi cần là những người sống hết mình với sứ mạng của Đức Ki-tô, sống gắn bó với đàn chiên, coi đàn chiên của mình quan trọng chẳng khác chi bố mẹ và anh chị em ruột.
- Chúng tôi cần những linh mục là những người “Cha tinh thần” đúng nghĩa: Hy sinh cho đàn con, đáp ứng những nhu cầu của tha nhân, không phải vì bổn phận, nhưng bởi vì tình yêu thương.
- Cũng vậy, nếu bạn coi linh mục là dấu chỉ của ơn Chúa, là người giữ cửa và là người trông coi các bí tích, luôn tìm những thiếu sót của giáo dân và đặt lề luật qui định cao hơn lòng thương xót và ân sủng, chúng tôi không cần bạn đi tu, vì chúng tôi đã có quá đủ những linh mục như thế.
- Chúng tôi cần những người biết:
* rằng họ cũng là những tội nhân; * rằng họ cần ơn sủng của Thiên Chúa như mọi người khác.
- Chúng tôi cần những linh mục tự coi mình là những người hòa giải, chứ không phải là những ông quan tòa; những người biết từ bỏ ý riêng, để dẫn đưa người khác về với Thiên Chúa.
Nếu bạn nghĩ:
- Chỉ vì Hội Thánh đang thiếu linh mục và bạn đã dám dấn thân cho đời dâng hiến, nên bạn có vai trò rất quan trọng;
- Bạn sẽ cứu Giáo Hội và bạn đang làm ơn cho Giáo hội, thì chúng tôi không cần bạn, chúng tôi đã có quá đủ những linh mục như thế.
Chúng tôi cần những linh mục là những khí cụ tình yêu, chứ không cần những đấng cứu tinh, những tôi tớ hay kể cả là những ông vua.
Đức Ki-tô là Đấng cứu thế duy nhất của nhân loại và sự thật là Ngài có thể biến những hòn đá cuội trở nên “con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham.”
Giáo hội chẳng phải là của tôi hay của bạn, nhưng Giáo hội thuộc về Đức Ki-tô.
- Nếu bạn muốn đi tu làm linh mục, chỉ vì bạn mong muốn một nơi chốn bình yên để tìm sự an nhàn; chúng tôi không cần những người như bạn, chúng tôi đã có quả đủ những linh mục như vậy.
Chúng tôi cần những người biết yêu thương cuộc đời và muốn dùng những tài năng, ân huệ Chúa ban để cống hiến, xây dựng cuộc đời tốt đẹp hơn.
- Đi tu không phải là để trốn đời. Đời tu không phải là nơi chốn của những người ù lì, nhưng là một lối sống giúp người ta dấn thân vào đời trọn vẹn hơn.
- Cuối cùng, nếu bạn nghĩ bạn biết nhiều hơn giáo hoàng, hơn giám mục của bạn và hơn cả lịch sử 2000 năm khôn ngoan của Giáo hội, và tin rằng: Bạn có thể đặt ra những qui định cho riêng mình và sống theo tiêu chuẩn của cá nhân, mà chẳng có đức vâng lời; chúng tôi thực sự không cần bạn đâu, chúng tôi đã có quá nhiều linh mục như thế rồi.
- Chúng tôi cần những người biết suy nghĩ thấu đáo, sống theo lương tâm, nhưng luôn hiểu rõ: Họ đại diện cho một thực thể lớn hơn họ.
* Là linh mục nghĩa là phục vụ một cách khiêm nhu. * Linh mục không phải là những ông quan tòa hay những ông vua con. * Linh mục không chọn đối tượng, chọn thời gian, chọn địa điểm để phục vụ. * Linh mục cần bỏ lại những ham muốn cá nhân và chỉ ước ao thi hành ý Chúa, trở nên đôi tay và bàn chân của Đức Ki-tô nơi thế gian này.
- Nếu bạn chẳng hề dám trở nên những tôi tớ phục vụ người khác theo gương Thầy Giê-su, chẳng dám chịu gian khổ và chết đi cho dân Thiên Chúa, thì rõ ràng, Thiên chức linh mục không dành cho bạn.
Xin làm ơn, vì tình yêu Đức Ki-tô, vì lợi ích của dân Chúa, hãy tìm nghề nghiệp khác đi.
Nhưng, nếu thực sự bạn nhận ra ơn gọi dấn thân, hi sinh đời sống của mình cho người khác, dâng hiến trọn cuộc đời nơi dương thế này, để loan báo về Đức Ki-tô đến với mọi người, qua sự quảng đại, kiên nhẫn, yêu thương, hi vọng, và khiêm nhu, thì chắc chắn, bạn là người mà chúng tôi đang cần.
Thiên Chúa đã gửi lời kêu gọi, và chắc chắn ngài đang hỏi mỗi người trong chúng ta: “Con có yêu mến ta không?” Câu trả lời nằm ở chính bạn đó.
Tác giả: Augustine Mario Ninaji, MFV (Chuyển ngữ: Duc Trung Vu, CSsR)
Tôi đã chuyển nhầm tiền lương hưu của mình vào một tài khoản khác, và thế là tôi không còn một đồng nào để mua cái ăn.
Tôi vẫn không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tôi thề là mình đã chọn đúng tài khoản, nhưng cái điện thoại như trêu ngươi, và thế là tiền bay đi sai chỗ.
Ngay cả tiền để mua một ổ bánh mì cũng không còn.
Tôi ngồi một mình trong gian bếp trống rỗng, với tách trà nhạt đến mức trông như nước lã… và tôi bật khóc.
Khóc như chưa từng khóc, kể từ cái ngày con tôi bảo tôi không thể tiếp tục sống cùng với chúng được nữa.
- “Mẹ à, mẹ không thể ở đây nữa”, con gái tôi nói với tôi, cách đây vài tháng trước.
“Vì bọn trẻ… tụi con không muốn mẹ căng thẳng…”
Căng thẳng ư?
Chúng đưa tôi đến một căn phòng thuê lạnh lẽo, mùi ẩm mốc, bảo là để tôi được “nghỉ ngơi nhiều hơn”.
Chúng tiếp tục sống cuộc đời của chúng…
Còn tôi, bỗng dưng chỉ còn lại một mình.
Tủ lạnh trống rỗng. Nồi niêu lạnh ngắt. Và trái tim cũng trống hoác như thế.
Tôi quay lại với nghề may vá, như thuở còn trẻ.
Một người hàng xóm tốt bụng cho tôi mượn chiếc máy may cũ, tôi bắt đầu nhận vá áo, lên lai, làm bất cứ việc gì có thể.
Nhưng hôm đó… tôi chẳng còn chỉ, chẳng còn vải, chẳng còn sức…
Tôi ngửa mặt lên trần nhà, và nói khẽ với Chúa:
— “Lạy Chúa… có khó lắm không, xin Người giúp con.”
Đầu óc rối bời của tôi tôi lúc bấy giờ, chỉ có thể nói với Chúa bằng một lời nguyện mông lung, đơn sơ thế thôi.
Thế rồi, một lúc sau, cũng không lâu lắm, bỗng có một tiếng còi xe vang lên ở cổng nhà tôi, to, dài, dồn dập.
Tôi bước ra ngoài, nghĩ là hàng xóm đang nổi giận gì với mình.
Nhưng không.
Trước nhà là một chiếc ô tô đen bóng, cửa kính màu, một người đàn ông cao ráo, ăn mặc bảnh bao, sang trọng bước ra. Bộ vest ông ấy mặc, có lẽ còn đắt hơn toàn bộ đồ đạc trong phòng tôi.
- “Bà là Doña Teresa?”, ông hỏi.
- “Còn tùy ông là ai.”, tôi đáp, kiểu phòng thủ.
- “Tôi là Jorge Alvear. Sáng nay bà đã chuyển nhầm tiền lương hưu của mình vào tài khoản tôi.”
Tôi nghe, mà tim như rơi xuống chân.
- “Ôi Chúa ơi… tôi xin lỗi. Tôi không cố ý đâu. Tôi đã cố gọi ngân hàng, nhưng không ai giúp… tôi cũng chẳng có ai bên cạnh để nhờ…”
- “Bình tĩnh,” ông mỉm cười. “Tôi đến đây là để trả lại tiền. Và không chỉ có vậy đâu.”
Ông mở chiếc cặp da, lấy ra một phong bì dày cộm, đặt vào tay tôi.
- “Tất cả… là cho tôi?”, tôi lắp bắp.
- “Cả tiền lãi nữa. Tôi cũng đã tìm hiểu về bà. Tôi biết bà đã từng là thợ may nhiều năm, và mới quay lại nghề này, dù tuổi đã cao.”
Tôi cảm thấy xấu hổ, vì ông tã đã biết quá nhiều về tôi, mà tôi thì lại không hề biết tì gì về ông ta cả.
- “Sao ông biết được?”
- “Vì bà làm tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà ta cũng là một thợ may. Và tôi muốn đề nghị với bà điều này.”
Chưa kịp nói gì, ông đưa tôi lên xe.
Chúng tôi đến một xưởng may, nơi đầy ánh sáng, tiếng máy rộn ràng, mùi vải mới, và những người phụ nữ đang làm việc.
Tôi cứ tưởng mình đang mơ.
- “Tôi cần một người giám sát. Một người dày dạn kinh nghiệm, ánh mắt sắc sảo và trái tim cứng rắn. Bà là người hoàn hảo.”
- “Nhưng tôi không biết dùng máy tính, không biết tiếng Anh, cũng chẳng có bằng cấp…”
- “Tôi không cần những thứ đó. Điều duy nhất tôi cần… là chính bà.”
Tôi không trả lời nổi. Tôi chỉ bật khóc. Ông đặt tay lên vai tôi và nói:
- “Ở đây, bà sẽ có mức lương xứng đáng, bữa ăn nóng hổi, và nếu muốn… có cả chỗ ở. Bà xứng đáng với tất cả , vì sự lao động, sự kiên cường… và lòng trung thực của mình.”
Tôi không biết đó là phép màu, là định mệnh, hay là lời hồi đáp đến muộn từ Thiên Chúa… Nhưng tối hôm ấy, khi trở về căn phòng nhỏ… tôi không còn cảm thấy cô đơn nữa. Vì sau ngần ấy năm, lần đầu tiên… tôi có lại một ngày mai.
“Chúa không bao giờ đến trễ. Người chỉ đi đường vòng… chứ không bao giờ bỏ rơi ta.
Nhiều người không hiểu cứ nghĩ rằng, 1 Linh mục nào bị chuyển xứ, là do vị Linh mục đó có lỗi rất nặng, nên bị Đức Giám mục phạt, thuyên chuyển đi nơi khác. Rồi người thì ha hả, kẻ thì khóc hu hu. Điều đó chỉ đúng ở 1 số trường hợp.
Còn chuyển xứ là chuyện rất đỗi bình thường trong đời sống Giáo hội. Giáo hội luôn luôn chuyển mình, tươi trẻ và mới mẻ.
Thường thì các Linh mục khoảng 5 năm phải chuyển xứ 1 lần.
Có nhiều người nói vui rằng: Các Linh mục thường chỉ nhận của Đức Giám Mục “bài sai” chứ không phải “bài đúng”. Nhưng “bài sai” đa số lại là “bài đúng”.
Tại sao các Linh mục cần phải luân phiên chuyển xứ?
Để hiểu được vấn đề một cách rõ ràng thấu đáo, xin kính mời chúng ta hãy cùng nhau đọc kỹ và ngẫm sâu 3 câu chuyện sau đây:
Câu chuyện số 1:
Một cha xứ kia đang coi sóc một giáo xứ lớn ở vùng quê. Tuy giáo xứ đó rất nề nếp, đạo đức, nhưng lại rất nghèo.
Trong thời gian coi xứ, thì cha đã kêu gọi cộng đoàn dân Chúa quyết tâm xây dựng 1 ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy.
Ngài cùng Ban hành giáo vào Nam ra Bắc để kêu gọi ân nhân đóng góp cho công trình thế kỷ.
Công trình đã tiến hành được gần 5 năm, chỉ còn 1 tháng nữa là sẽ hoàn thành và ngày khánh thành cũng đã được định liệu.
Nhưng đùng một cái, Đức Giám mục giáo phận quyết định thuyên chuyển vị Linh mục đó đi xứ khác. Và việc thuyên chuyển sẽ được thực hiện ngay trong đầu tuần tới.
Vị Linh mục đó tuy mặt đượm buồn, nhưng vẫn vui vẻ xin vâng với Bài sai của Đức Cha Giáo phận.
Còn cộng đoàn giáo xứ thì thất vọng vô cùng. Họ cùng đông đảo giáo dân kéo nhau lên để khiếu nại với Đức Cha:
“Thưa Đức Cha, tại sao giáo xứ chúng con đang yên ổn, nề nếp, mọi sự đều tốt đẹp và chúng con đang bận rộn xây dựng công trình dở dang, mà không để cha xứ ở lại? Hoặc nếu có chuyển, thì cũng xin để cha ở lại cho đến khi khánh thành nhà thờ mới rồi đi đâu thì đi.”
Đức Cha trả lời:
Vậy tôi hỏi các ông bà nhé. Như các ông bà biết, tôi còn rất trẻ, lại đang coi sóc giáo phận rất quan trọng và bận rộn, nhưng nếu ngay bây giờ tòa thánh chuyển đi nơi khác hoặc Chúa gọi tôi về đời sau ngay lúc này, thì tôi có từ chối được không?
Hoặc nếu Chúa gọi các ông các bà về với Ngài ngay lúc này, rồi các ông các bà có nói với Chúa rằng, con còn bận việc này quan trọng, việc kia dở dang, rồi có từ chối Chúa được không?
Vừa rồi có 1 vị Linh mục đang khỏe mạnh bình thường, Ngài đang sốt sắng dâng Thánh Lễ, thì Chúa lại gọi Ngài về đời sau, ngay trên bàn Thánh.
Rồi có rất nhiều Linh mục và Giáo dân còn rất trẻ và làm việc rất hiệu quả, nhưng đã đột ngột được Chúa gọi ra đi về với Chúa trong thời gian vừa qua.
Vậy đó ! Thật ngỡ ngàng ! Nên phải luôn sẵn sàng !
Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Cứ Chúa gọi là ta lên đường. Chúa cứ sai ta đi đâu, ta vui vẻ sẵn sàng đi đấy. Ta không có quyền do dự, không có quyền tính toán, không có quyền chọn lựa, không có quyền chối từ.
Hơn nữa, cha xứ của bà con đã quá vất vả rồi. Công việc dang dở của ngài cần chấm dứt tại đây. Giờ là lúc ngài cần nghỉ ngơi để lấy lại sức.
Đừng quá lo lắng gì cả. Việc của Chúa, cứ để Chúa lo. Chúa định, rồi Chúa sẽ liệu cho mọi sự trở nên tốt đẹp.
Các Linh mục là những người luôn vâng lời theo tiếng Chúa gọi mọi lúc, mọi nơi, mọi thời, mọi hoàn cảnh.
Các Ngài được Chúa xức dầu tấn phong để đem Tin Mừng cho người nghèo khó, người đau khổ.
Trước khi thụ phong, các ngài đã thề hứa trước Chúa và cộng đoàn dân Chúa luôn tôn kính và vâng phục vô điều kiện Đức giám mục thay quyền Chúa ở trần gian.
*****
Câu chuyện số 2:
Một Linh mục kia còn rất trẻ, Ngài đang coi sóc 1 giáo xứ giàu có, ở vùng thành phố.
Ngài có đầy đủ tiện nghi vật chất, nào là nhà cao cửa rộng, nào là cung điện nguy nga tráng lệ, nào là vi tính tân thời, nào là laptop hàng xịn, nào là sơn hào hải vị, nào là thuốc lá hàng hiệu, nào là đam mê bóng đá, nào là ô tô sang đẹp, nào là tủ lạnh đời mới, nào là điện thoại thông minh, nào là du lịch đây đó, nào là đồ tân đồ cổ, nào là trên nhung dưới lụa, nào là chim thú cây cảnh, nào là động vật quý hiếm, nào là sơn thủy hữu tình, nào là thế rồng dáng phượng…
Đó là bề nổi. Còn bề chìm, thì chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đang diễn ra.
Ngài luôn quỵ lụy, khúm núm, trước các đại gia, nhưng lại thờ ơ, hững hờ với người nghèo khó.
Ngài rất chăm chỉ với những việc giải trí, nhưng lại nhếch nhác các việc đạo đức và kinh Lễ.
Ngài nhớ rất kỹ tỷ số của các trận bóng đá, nhưng lại không nhớ nổi các câu Kinh Thánh cơ bản.
Ngài có đời sống bề ngoài rất phong phú đa dạng, nhưng đời sống nội tâm rất nghèo nàn, trống rỗng.
Cuộc sống đang êm đềm yên ổn, xuôi chèo, mát mái, như 1 ông hoàng, như 1 đại gia, như 1 công tử bạc liêu…
Đùng 1 cái, Đức Cha giáo phận quyết định thuyên chuyển Ngài đến 1 giáo xứ vùng núi xa xôi, hẻo lánh, không điện, không tiện nghi, không internet…
Ngài mặt mũi buồn bã, tâm trí thẫn thờ lên gặp Đức Cha xin cho đi 1 giáo xứ khác của vùng thành phố, vì Ngài có nhiều thứ quá, mà vào vùng núi hẻo lánh lại không sử dụng được.
Nhưng Đức Cha không đồng ý, Ngài bảo Cha cứ đi. Ngài giải thích rằng, những thứ vật chất đó, chỉ là phương tiện để rao giảng Tin Mừng thôi. Mà đã là phương tiện thì có cũng tốt, mà không có cũng chẳng sao. Phương tiện vật chất không cứu rỗi các Linh hồn được.
Điều quan trọng nhất để rao giảng là cuốn Kinh Thánh làm kim chỉ nam, là hăng say cầu nguyện, là luôn có Chúa trong mình, có Chúa thì cái gì rồi cũng có.
Cha đó đã buộc phải vâng lời, nhưng trong lòng vẫn ấm ức, tâm can hậm hực.
Nhưng khi Ngài đến ở giáo xứ mới 1 thời gian, thì Ngài đã ngộ ra rằng, bấy lâu nay Ngài đã quá bám víu vào vật chất và của cải thế gian, nên Chúa đã không thực sự ở trong Ngài. Ngài đã quên mất sứ vụ đích thực của mình.
Rồi sau đó Ngài quyết tâm cầu nguyện, siêng năng chầu Thánh Thể, chăm chỉ lần hạt Mân Côi, hoàn toàn phó thác mọi sự cho Chúa.
Và Ngài đã phục sinh. Ngài đã thay đổi 180 độ thành con người tốt lành, tín thác, cậy trông, khiêm nhường, thánh thiện.
Điều quan trọng nhất là tâm hồn Ngài lại tràn đầy niềm vui, hạnh phúc viên mãn và Ngài lại hăng say hăm hở thao thức với sứ vụ như thuở ban đầu, thuở còn son.
Không điện, không tiện nghi, không Internet, thì lại có Chúa. Có điện, có tiện nghi, có Internet, thì lại không có Chúa.
Vậy cái nào hơn???
Thật là tuyệt vời!
Vậy là vị Linh mục đó từ việc quá đam mê của cải vật chất và bám víu vào phù vân hay hư nát, đã hoàn toàn chuyển ngay sang yêu mến Thiên Chúa và xót thương con người.
Vậy là bài sai của Đức Cha đã trở thành bài hoàn toàn đúng.
Vài tháng sau về tĩnh tâm, Linh mục đó đã niềm nở đến cám ơn và tâm phục khẩu phục Đức Cha về sự sắp xếp sáng suốt của Ngài.
Có Chúa là có tất cả. Giáo xứ nào mà chẳng có Chúa.
Những Linh mục do dự, không muốn chuyển xứ, thường là những Linh mục không thực sự có Chúa trong mình và là những Linh mục mê muội vật chất và của cải thế gian.
Khi con người ta sở hữu Chúa trong tâm hồn, thì những thứ vật chất lại trở nên không còn quan trọng và rất đỗi tầm thường.
Khi con người ta có Chúa trong mình, thì người ta sẽ không còn quá coi trọng hay bám víu vào danh dự và của cải thế gian.
Nhiều Linh mục càng giàu càng xa Chúa. Nhiều Linh mục càng sang càng xa Dân.
Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn Linh mục giàu có và đẳng cấp vào nước Thiên Đàng.
Có người đã nhận xét đáng động não rằng: Chủng viện chỉ dạy các Chủng sinh làm cha, chứ không dạy làm con. Cho nên đã có những Linh mục đáng buồn như vậy.
*****
Câu chuyện số 3:
Một giáo xứ kia có vị Linh mục xứ rất tốt lành thánh thiện, rất tài đức và khôn ngoan.
Ngài giảng rất đã tai mọi người. Ngài làm trước, giảng sau. Ai nấy đều trầm trồ khen ngợi và thán phục.
Một ngày đẹp trời nọ, Đức Cha giáo phận đã quyết định thuyên chuyển vị Linh mục đó đi xứ khác.
Giáo dân biết tin rất buồn bã và đau khổ. Họ đã kéo nhau đông đảo lên gặp Đức Giám mục và phàn nàn, khiếu nại, tại sao Ngài để linh mục đó ra đi.
Họ còn nói thêm, để gây áp lực, là nếu Đức cha không để linh mục đó ở lại, thì họ sẽ không thèm đi lễ và xây dựng Giáo xứ nữa. Họ chẳng còn tâm trí đâu mà đọc kinh cầu nguyện nữa.
Sau 1 hồi Đức Giám mục giải thích rất êm ái nhẹ nhàng là Linh mục đó chuyển đi vì lợi ích của Giáo phận. Nhưng họ vẫn không chịu nghe.
Đức cha liền hỏi 1 câu:
- Vậy bà con theo Chúa hay theo cha? - Nếu theo Chúa thì cha nào chả được?
Tôi sẽ bổ nhiệm 1 linh mục phù hợp với Giáo xứ của bà con.
Còn nếu theo cha, thì tôi sẵn sàng đóng cửa nhà thờ và không cần ông bà anh chị em đi lễ nữa. Vì bà con không theo đạo vì Chúa, mà vì cha.
Bấy giờ họ mới hiểu ra và vâng lời Đức giám mục để cha xứ ra đi.
Còn vị linh mục tài giỏi đó đã bớt tự hào kiêu hãnh về thành tích của mình và trở nên khiêm nhường thánh thiện hơn.
Chúng ta đừng chiều theo tình cảm tự nhiên. Mà hãy chiều theo tình cảm siêu nhiên.
Mỗi người Chúa ban cho ơn lành khác nhau. Mỗi linh mục Chúa ban cho tài năng khác nhau.
Giáo hội ngày càng phát triển và biến đổi.
Việc luân phiên chuyển xứ giúp các Linh mục luôn tỉnh thức, sẵn sàng, sống tinh thần xin vâng, phục vụ, khiêm nhường, nghèo khó, từ bỏ, luôn nhìn lại mình, sám hối, canh tân, sống phó thác, cậy trông, bám chặt vào Chúa…
Một linh mục ở 1 giáo xứ quá lâu, thì sẽ không tốt cho chính vị Linh mục và giáo xứ đó. Vì rất có thể linh mục đó sẽ trở nên kiêu ngạo và sai lầm.
Hơn nữa, giáo dân sẽ rất nhàm chán, vì không có món ăn lạ và luồng gió mới.
Cha xứ thì nhất thời, giáo dân mới vạn đại.
Nhiều người trong chúng ta cũng rất buồn, vì Linh mục xứ tốt lành thánh thiện của mình ra đi.
Nhưng mình cần linh mục đó 1, thì nơi khác cần linh mục đó 10. Nơi khác cũng là con của Chúa. Họ cũng là anh em của ta. Nên lọt sàng, thì xuống nia. Anh em mình chứ ai? Đi đâu mà thiệt?
Đã đến lúc đức tin của chúng ta cần trưởng thành. Chúng ta đừng quá dựa dẫm vào bất kỳ linh mục nào.
Linh mục chỉ là người hướng dẫn ta gặp gỡ Thiên Chúa. Tâm hồn ta phải mở thật rộng ra thì ta mới gặp được Ngài.
Hơn nữa, đời sống đạo của ta muốn trưởng thành, ta cần tự bản thân tìm hiểu và không nên dựa vào bất cứ ai, kể cả là Linh mục đạo đức thánh thiện.
Nếu ta đi lễ chỉ vì Linh mục giảng hay cho đã tai, mà những lời giảng đó không có sức mạnh biến đổi tâm hồn và đời sống của ta nên tốt lành hơn, thì sẽ trở nên hết sức vô nghĩa. Vị linh mục đó chỉ mang lại cho ta niềm vui giải trí, rồi ta trầm trồ khen ngợi, như một bộ phim hay mà thôi.
Linh mục giảng đã tai, chưa chắc đã nói lên chân lý. Linh mục giảng đã tai, rất có thể chỉ như chuyện vui cười.
- Vị linh mục giảng hay nhất không phải là 1 nhà hùng biện tài năng. mà vị linh mục giảng hay nhất phải là vị linh mục có lời giảng có sức làm biến đổi tâm hồn con người. nghĩa là từ kẻ bất lương, tội lỗi trở thành ngưởi bỏ đàng tội lỗi, hối cải để sống tốt lành, thánh thiện hơn.
- Vị linh mục giảng hay nhất không phải là vị linh mục vuốt ve, tâng bốc để lấy lòng giáo dân, bằng những câu từ mỹ miều, êm ái, ru ngủ, mà vị linh mục đó phải chân thành, thẳng thắn, chỉ mặt đặt tên, điểm mặt chỉ tên những sai lầm của giáo dân, để họ sửa chữa, hầu đẹp lòng Chúa.
- Vị linh mục tốt là vị linh mục dám can đảm làm đẹp lòng Chúa, hơn đẹp lòng giáo dân.
- Vị linh mục tốt là vị linh mụcc dám nói lời chân lý, dù bị chống đối.
Vị Linh mục đích thực và có Chúa trong mình là những Linh mục luôn sẵn sàng vui vẻ vâng lời vô điều kiện Đức giám mục đi bất kỳ giáo xứ nào, bất cứ thời gian nào, bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả vùng xâu vùng xa, kể cả là giáo xứ nghèo nàn lạc hậu, vùng ven hẻo lánh, vì linh mục đó xác tín rằng Chúa ở khắp mọi nơi, Giáo xứ nào cũng có Chúa. Mình đi đâu, thì đã có Chúa đi theo đó. Giáo xứ nào cũng được, vùng nào cũng chơi. Xá gì?
Cha xứ dù có tài giỏi đến đâu đi nữa, thì cũng không phải chỉ do bản thân cha xứ đó, mà tất cả là do hồng ân của Chúa.
*** Các Linh mục cần luôn ghi khắc trong tim Lời Tuyên Hứa, Khi Chịu Chức Linh Mục:
Đức Giám Mục: Con thân mến, trước mặt Chúa và cộng đoàn dân Chúa, con hãy suy nghĩ thật kỹ, rồi trả lời quyết tâm của con: Con có muốn luôn chu toàn nhiệm vụ của con là cộng tác viên trung tín của hàng Giám mục trong việc chăn dắt đoàn chiên Chúa, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần không?
Tiến chức: Thưa con muốn.
ĐGM: Con có muốn sốt sắng và trung thành cử hành các mầu nhiệm của Đức Kitô để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa giáo dân theo truyền thống của Hội Thánh không ?
Tiến chức: Thưa con muốn.
ĐGM: Con có muốn chu toàn một cách xứng đáng và khôn ngoan phận sự phục vụ Lời Chúa, là rao giảng Phúc Âm và trình bày Đức Tin Công Giáo không ?
Tiến chức: Thưa con muốn.
ĐGM: Con có muốn ngày càng liên kết mật thiết hơn với Đức Kitô Thượng Tế, Đấng tự hiến mình cho Đức Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì chúng ta, và con có muốn cùng Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài người không ?
Tiến chức: Thưa, nhờ ơn Chúa giúp con muốn.
ĐGM: Con có hứa tôn kính và vâng phục cha cùng các Đấng kế vị cha không?
Tiến chức: Con xin hứa.
*****
Có 1 câu chuyện ngụ ngôn trong “Cổ Học Tinh Hoa” đáng ta suy nghĩ như sau:
Con cú mèo gặp con chim gáy.
Chim gáy hỏi: “Bác sắp đi đâu đấy?”.
Cú mèo nói: “Tôi sắp sang ở bên phương đông”.
Chim gáy lại hỏi: “Tại làm sao lại phải đi thế?”
Cú mèo trả lời: “Ở đây người ta nghe tôi kêu, người ta ghét, cho nên tôi phải chuyển đến nơi khác”.
Chim gáy nói: “Bác phải đổi tiếng kêu đi mới được. Chứ không đổi, thì sang phương đông, người ta nghe tiếng kêu, cũng lại ghét bác mà thôi, vì nhân tình đâu mà chả thế”…
Thế nên các Linh mục cần phải luôn xem lại bản thân mình.
Xét xem mình đã giảng đúng Phúc Âm của Chúa và sống đúng tinh thần Tin Mừng Ngài yêu cầu chưa?
Nói phải, củ cải cũng nghe. Nói sai, ai mà nghe nổi ?
Vậy, xin đừng trách giáo dân, mà hãy tự trách mình.
Còn chúng ta hãy thần tượng Chúa, chứ không phải cha.
Thần tượng Chúa thì luôn bền vững và không bao giờ sai lầm.
Còn thần tượng cha thì có thể sai lầm nghiêm trọng, có thể không.
Nếu Thần tượng cha là ta đang thờ ngẫu tượng. Chúa sẽ phạt nặng.
Người ta có câu:
Gần cha, thì xa Chúa ! Hoặc nhìn thấy cha, thì nhận ra Chúa.
Điều đó tùy thuộc vào cảm nhận của mỗi người.
Các Linh mục có tài giỏi và đẳng cấp mấy đi nữa, thì các Ngài cũng chỉ xuất thân từ bụi đất, từ lòng mẹ và chỉ là tạo vật của Chúa mà thôi.
Có một vị Giám mục đáng kính đã nói:
“Đừng sợ thiếu linh mục. Chỉ sợ thiếu linh mục có phẩm chất”.
Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên những Linh mục của Ngài. (x Mt 3,9).
- Xin bà con theo chúa, chứ đừng theo cha. Chọn Chúa, chứ đừng chọn linh mục.
- Xin các linh mục chọn Chúa, chứ đừng chọn xứ. Chọn Chúa, chứ đừng chọn công việc của Chúa.
- Theo Chúa & chọn Chúa, Chúa sẽ hướng dẫn công việc cần làm.
Linh mục là 1 Đức Giêsu khác, ta hãy tha thiết khẩn cầu cho các Ngài đừng bao giờ khác Đức Giêsu. Amen.
Có một tỷ phú ở Dubai sống trong căn biệt thự xa hoa, phát hiện ra mình mắc bệnh hiểm nghèo.
Tới lúc cái chết cận kề, ông mới chợt nhận ra rằng: Tất cả danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư vô như mây khói.
Trong lúc bế tắc ông tìm đến một nhà hiền triết, để xin lời khuyên và hy vọng tìm thấy tia sáng cuối con đường.
Sau khi hiểu câu chuyện của tỷ phú này, nhà hiền triết mới nói:
“Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê 3 đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo".
1. Về nhà, vị tỷ phú lấy đơn thuốc đầu tiên ra và đọc:
- “Hãy đến một bãi biển và nằm ở đó khoảng 30 phút, làm liên tục như vậy trong 21 ngày".
Mặc dù trong lòng thấy khó hiểu, nhưng ông vẫn quyết định ra bờ biển, lang thang một vòng, rồi ngả lưng nằm trên bãi cát.
Bất chợt, một cảm giác nhẹ nhàng và khoan khoái vô cùng bao trọn lấy cơ thể ông.
Trước đây, vì công việc bận rộn, nên ông không có cơ hội nghỉ ngơi dành cho bản thân mình.
Nay ông có thể tĩnh tâm lại, để lắng nghe tiếng gió thổi vi vu, tiếng sóng biển rì rào, hòa lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi bầy… Trái tim bỗng thổn thức, chưa bao giờ ông có được cảm giác thoải mái như bây giờ.
2. Ngày thứ 22, ông mở đơn thứ 2, trong đó viết:
- “Hãy đi tìm những người nghèo khổ, hoàn cảnh khó khăn và hãy giúp đỡ họ trong 21 ngày ”.
Trong lòng ông một lần nữa đầy rẫy những băn khoăn, nhưng vẫn cặm cụi đi tìm rất nhiều người nghèo và giúp đỡ họ.
Ngắm nhìn từng gương mặt hạnh phúc của họ, trong lòng ông không nén nổi nỗi xúc động và hạnh phúc.
3. Ngày thứ 43, ông đọc đơn thuốc cuối:
- “Hãy tìm một cành cây và viết những điều khiến ông cảm thấy không hài lòng, đau khổ, dằn vặt trong lòng lên bãi cát”.
Nhưng khi ông vừa viết xong, thủy triều lại cuốn tất cả xuống biển.
Ông lại tiếp tục viết, sóng lại cuốn đi...
Ông bật khóc nức nở vì chợt hiểu ra tất cả….
Khi về nhà ông cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, tinh thần chưa bao giờ thoải mái và tự tại bình an đến thế, thậm chí ông cũng không còn sợ cái chết nữa.
Thì ra, con người ta chỉ cần hiểu được 3 điều, để có cuộc sống VUI VẺ, HẠNH PHÚC và BÌNH AN.
Thứ 1 : DÀNH THỜI GIAN CHO MÌNH. Thứ 2: CHO ĐI MÀ KHÔNG MONG NHẬN LẠI Thứ 3: BUÔNG BỎ
Nếu bạn cảm nhận được điều gì đó từ thông điệp này, hãy chia sẻ cho nhiều người biết nhé
01. Một tôn giáo có Thiên Chúa là khởi đầu và cũng là cùng đích.
02. Một tôn giáo luôn bị bách hại, ngay từ khi thành lập cho tới hôm nay, nhưng vẫn luôn luôn đứng vững và phát triển không ngừng.
03. Một tôn giáo bị bách hại dữ dội nhất từ xưa tới nay, cả những bách hại bằng vũ lực, lẫn bách hại tinh thần, với những cáo buộc và chỉ trích.
04. Một tôn giáo khởi đầu với một nhóm nhỏ, chỉ 13 người, mà nay đã trở thành tôn giáo có số tín hữu đông bậc nhất và tất cả đều hiệp nhất dưới sự lãnh đạo của vị giáo hoàng.
05. Một tôn giáo, mà vị sáng lập bị giết, và hàng loạt vị thủ lãnh tiếp theo cũng đều chết vì đạo (tử vì đạo), nhưng đạo không hề bị đứt đoạn, kể từ khi thành lập đến nay (đã 2.025 năm rồi) và không hề bị thất truyền. Vị thủ lãnh hiện tại (2025) là giáo hoàng Lê-ô 14 (gốc người Mỹ), là giáo hoàng thứ 266.
06. Một tôn giáo “thánh thiện” tự bản chất, dù bao gồm nhiều tội nhân.
07. Một tôn giáo vừa có biên giới (là Vatican), một quốc gia nhỏ bé nhất thế giới (Với diện tích chỉ 0,49 km2, dân số hơn 800 người, nhưng Vatican luôn được xem là một trong những quốc gia quyền lực nhất và ẩn chứa bên trong nhiều điều thú vị); vừa là vô biên giới, vì có mặt ở hầu hết mọi quốc gia và mọi vùng lãnh thổ.
08. Một tôn giáo, mà vị thủ lãnh (giáo hoàng) không có quyền lực chính trị, nhưng lại rất có ảnh hưởng, được yêu mến và chào đón nồng nhiết nhất ở bất cứ nơi đâu. Không một lãnh tụ quốc gia hay tôn giáo nào khác sánh bằng.
09. Một tôn giáo có số lượng sách nghiên cứu được xuất bản nhiều nhất thế giới, đặc biệt là cuốn Kinh Thánh được tái bản không ngừng, kể từ khi ra đời, với đủ thứ mọi ngôn ngữ.
10. Một tôn giáo khởi nguồn cho rất nhiều trào lưu văn chương, kiến trúc, giáo dục và khoa học, nhưng lại bị tố cáo và chỉ trích là kìm hãm khoa học và cổ hũ, cố chấp.
11. Một tôn giáo có vô số nhân tài, trong mọi lứa tuổi và trong mọi lãnh vực, nhưng lại bị chỉ trích là tôn giáo của người thất học và của các ông bà già.
12. Một tôn giáo lấy Thánh Giá (biểu tượng của đau khổ và sự chết) làm huy hiệu chính thức, với ý nghĩa vui mừng, hi vọng và sự sống.
13. Một tôn giáo “sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian” và luôn tự xem là “đoàn hành hương về Quê Trời”
14. Một tôn giáo dám “bơi ngược dòng” với mọi trào lưu sai lệch của thế gian, dẫu bị chê bai, bị chỉ trích, kể cả đủ mọi thứ bách hại.
15. Một tôn giáo xem ra yếu ớt, nhưng dám mạnh mẽ lên tiếng chống lại triết thuyết sai lạc của những thế lực mạnh mẽ nhất.
16. Một tôn giáo dám nhận sai và dám xin lỗi, vì những sai lầm trong quá khứ, cũng như tội lỗi của các thành viên hiện nay.
17. Một tôn giáo bao gồm những con người yếu đuối, nhưng mang một khao khát mạnh mẽ về sự sống đời đời.
18. Một tôn giáo luôn cầu nguyện cho thế giới và cho cả những người thù ghét, bách hại đạo.
19. Một tôn giáo luôn tự tin ngẩng cao đầu, đứng hướng về trời cao, dù bị khinh chê nhạo cười.
20. Một tôn giáo mang niềm hi vọng sống động và tìm kiếm những giá trị thiêng liêng, giữa một thế giới vật chất, với thế sự đảo điên.
21. Một tôn giáo duy nhất tự bản chất, nhưng phải mang nhiều vết thương của phân ly.
22. Một tôn giáo được bảo đảm đứng vững cho đến tận thế, và lửa Hoả Ngục sẽ không thắng được.
Ở một thị trấn nhỏ bang Iowa, Mỹ, có một người đàn ông giản dị tên là Dale Schroeder.
Ông không phải doanh nhân giàu có, không phải người nổi tiếng, càng không phải nhà từ thiện được truyền thông săn đón. Ông chỉ là một người thợ mộc bình thường, làm việc cho duy chỉ một công ty xây dựng trong suốt 67 năm.
Ông sống đơn giản, đến mức chỉ có hai bộ quần áo chỉnh tề và 2 cái quần Jean, một bộ để đi làm, và một bộ để đi lễ ở nhà thờ vào Chủ nhật.
Ông sống lặng lẽ một mình, không có vợ con, không có gia đình thân thích, và lái một chiếc xe cũ kỹ suốt bao năm qua.
Nhưng đến khi Dale qua đời vào năm 2005, thì cả thế giới mới ngỡ ngàng.
Trước lúc mất, Dale đến gặp luật sư của mình và nói:
“Tôi không có con cái. Tôi muốn giúp những đứa trẻ nghèo ở quê hương mình, những đứa trẻ thông minh, có ước mơ được học đại học, nhưng không đủ tiền.”
Luật sư hỏi lại ông:
– “Ông có bao nhiêu tiền để làm việc này?”
Ông trả lời một cách nhẹ nhàng:
– “À… khoảng 3 triệu đô la.”
Không ai hiểu Dale đã dành dụm bằng cách nào, mà một người thợ mộc, sống giản dị, không tiêu xài gì cho bản thân, âm thầm tiết kiệm suốt cả cuộc đời, và để lại một gia tài khổng lồ, chỉ với một mục đích duy nhất: Cho đi.
Số tiền ấy được sử dụng để lập một quỹ học bổng giúp sinh viên nghèo bang Iowa đi học đại học.
Hiện tại, tổng cộng đã có 33 sinh viên được thay đổi cuộc đời. Họ gọi nhau là “Những đứa con của Dale.”
Trong một buổi họp mặt để tưởng nhớ ông, một trong những người nhận học bổng xúc động nói:
“Nếu không có Dale, tôi không biết giờ mình đang ở đâu. Ông ấy chưa từng gặp tôi, chưa từng biết tôi là ai, nhưng ông đã tin tưởng và cho tôi cơ hội sống một cuộc đời khác.”
Ngày nay, trong số những “đứa con” của Dale, có bác sĩ, giáo viên, kỹ sư, nhà tâm lý học, y tá…
Họ không chỉ nhận được cơ hội học tập, mà còn truyền tiếp ngọn lửa nhân ái ấy.
Nhiều người trong số họ đã hứa sẽ giúp đỡ những người khác, như cách Dale đã giúp họ – không cần được biết ơn, không cần danh tiếng.
Ông không nổi tiếng khi sống, nhưng trở thành huyền thoại sau khi mất.
“Bạn không cần phải là người giàu để cho đi. Bạn chỉ cần có trái tim.”
Dale Schroeder, người đàn ông giản dị đã dạy cả thế giới bài học về lòng nhân ái.
Đức Tổng Giám mục Angelo Giuseppe Roncalli sinh năm 1881, người Ý, khi đang làm Đại diện Tòa Thánh Vatican tại Bungary từ năm 1925, thì một linh mục trong Tổng giáo phận đã bất bình với ngài, về cung cách, đường lối làm việc khác thường của ngài.
Vị linh mục đó đã viết thư thẳng thừng phê bình chỉ trích ngài nhiều điều rất nặng lời:
- Nào là thân với chính phủ độc tài, nào là nhu nhược, nào là ngây ngô, nào là sai trái, nào là dễ dãi, nào là làm hại Giáo hội, vân vân và vân vân...
Sau khi đọc bức thư chỉ trích đó, Đức Tổng Giám mục ngẫm nghĩ, mỉm cười và không nói gì cả.
Tuy bị chỉ trích, nhưng công việc phục vụ của ngài ngày càng thăng tiến.
Càng ngày, Giáo hội càng trao thêm những nhiệm vụ khó khăn cho ngài.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, Đức Tổng Giám mục Angelo Giuseppe Roncalli được phong làm Hồng Y vào năm 1953, rồi sau đó ngài bất ngờ được bầu làm Giáo hoàng vào năm 1958 khi đã 76 tuổi.
Đức Tổng Giám mục từng bị chỉ trích ngày nào, giờ lại được bầu làm Giáo hoàng. Đức Tổng Giám mục đó chính là Đức Giáo hoàng đương kim Gioan XXIII.
Vị Linh mục từng viết thư chỉ trích ngài đã rất ngạc nhiên, ngỡ ngàng.
Sau đó ít lâu, vị linh mục đó cùng với giáo dân trong xứ mình về Vatican, xin vào triều yết, chúc mừng vị cha chung ngày xưa và hôm nay của mình.
Khi triều yết, thi thoảng, Đức Tân Giáo hoàng hướng con mắt của ngài về vị Linh mục từng chỉ trích mình.
Vị Linh mục đã đó rất sợ, vì nghĩ rằng: Mình đã bị Đức Tân Giáo hoàng nhận ra "tội" của mình năm xưa. Sau buổi triều yết, ngài bất ngờ cho thư ký gọi vị linh mục đó vào phòng riêng để ngài nói chuyện.
Vị Linh mục đó càng run sợ hơn, vì nghĩ rằng Đức Giáo hoàng sẽ tính tội của mình năm xưa.
Bước vào phòng, sau khi cha con chào nhau, bắt tay nhau, thì Đức Tân Giáo hoàng mở sách kinh nguyện của ngài và lấy ra một tờ giấy cũ kỹ.
Tờ giấy đó chính là bức thư, mà vị Linh mục đã viết chỉ trích ngài năm xưa.
Thay vì trách móc la mắng, thì Đức Tân Giáo hoàng Gioan XXIII đã niềm nở nói lời cám ơn vị linh mục đó trong tâm tình khiêm nhượng:
“Cha rất cám ơn con, vì bức thư của con, mà cha đã biết lỗi, mà sửa mình hằng ngày cho nên người tốt.
Không những thế, Cha còn luôn kẹp bức thư của con trong sách nguyện, đọc nó hằng ngày, để xét mình và không quên cầu nguyện cho con.
Cha rất biết ơn sự can đảm đáng quý, chân thành, thẳng thắn của con.
Và như con biết đó, nhờ có tác động thẳng thắn mạnh mẽ của con, mà giờ đây cha đã được chọn làm Giáo hoàng, vị Giáo hoàng từng bị con chỉ trích".
Liền sau đó, Đức Tân Giáo hoàng Gioan XXIII đã ôm hôn vị linh mục đó trong tâm tình cha con rất ân cần thân ái.
Vị Linh mục đó đã rất ngạc nhiên, cảm động và nhớ mãi kỷ niệm lạ lùng đó.
Tưởng cũng nên nói thêm, khi còn làm Linh mục, Đức Gioan XXIII từng bị rất nhiều người theo dõi và chỉ trích.
Có lần ngài nói vui với các Linh mục và Giám mục rằng:
"Anh em thấy không, một linh mục bị theo dõi, chỉ trích, cũng làm được Giáo hoàng cơ đấy".
Đức Gioan XXIII được mệnh danh là vị Giáo hoàng giản dị, nghèo khó, cầu tiến, cởi mở, thân thiện, khôn ngoan và nhân hậu.
Hiện nay, Đức Gioan XXIII đã được phong Hiển Thánh.
Ngài được người ta gọi vui là "Vị Thánh từng bị chỉ trích".
Người ta còn nói vui, nhưng rất thực tế là, nếu Đức Tổng Giám mục Angelo Giuseppe Roncalli mà tự ái ngày nào, thì Giáo hội không thể có vị Thánh Giáo hoàng vĩ đại mang tên Gioan XXIII.
Lời bàn: Theo lẽ tự nhiên thông thường thì ai cũng thích được khen. Nhưng đôi khi chúng ta cũng nên thích bị chê. Có bị chê, thì ta mới biết mình là ai, và đang đi về đâu.
Có một vĩ nhân đã nói:
“Người chê ta, mà chê phải, là thầy của ta. Người khen ta mà khen phải, là bạn ta. Những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta lại chính là kẻ thù của ta vậy”
Chúng ta hãy học hỏi tinh thần cầu tiến hoàn thiện của Thánh Gioan XXIII, khi ai đó phê bình chỉ trích mình.
Chúng ta hãy mỉm cười cám ơn, chân thành lắng nghe và mạnh dạn đón nhận những lời chỉ trích đó.
Họ có chỉ trích chúng ta, thì cũng chỉ muốn ta hãy luôn nhìn lại mình, để khiêm nhường hơn, sáng suốt hơn, đúng đắn hơn và nên hoàn thiện hơn mỗi ngày mà thôi.
Biết đâu, nhờ những lời chỉ trích của người khác, mà một ngày nào đó, chúng ta cũng được phong Hiển Thánh như Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Biết đâu đó?
Người ghét bỏ, tức giận những lời phê bình chỉ trích đúng đắn, thì khó mà khiêm nhường, thánh thiện và sống đẹp lòng Chúa.
Giáo hội và Xã hội muốn phát triển toàn diện, thì cần lắm những lời phê bình, chỉ trích đúng chuẩn.
*** Giuse Kích (Dựa theo những mẩu chuyện thú vị về Thánh Giáo hoàng nhân hậu Gioan XXIII).
Một câu chuyện xảy ra trong đời thường, nhưng cũng đáng chúng ta suy nghĩ:
Bố vợ 85 tuổi sống cùng 20 năm không góp tiền ăn, ông vừa qua đời, thì con rể sốc nặng, khi luật sư tìm đến thông báo chuyện động trời…
Khi ông Hòa bước chân vào nhà con gái và con rể lần đầu tiên cách đây 20 năm, chẳng ai trong gia đình nghĩ rằng ông sẽ sống ở đó lâu đến thế.
Lúc ấy, ông vừa tròn 65 tuổi, gầy gò, tóc bạc, ánh mắt lúc nào cũng xa xăm, như người đã buông bỏ gần hết những vướng bận của trần thế.
Sau khi vợ mất, ông không còn nơi nào để nương tựa, ngoài cô con gái út – Hạnh – người duy nhất vẫn còn giữ liên lạc thường xuyên và dường như cũng là người con duy nhất còn yêu thương ông thật lòng.
Chồng Hạnh – anh Nam – vốn là người kín đáo, sống có trách nhiệm, nhưng cũng không dễ chịu gì với chuyện “nuôi bố vợ” dài hạn.
Anh chưa từng nói thẳng điều ấy ra, nhưng qua những ánh mắt, tiếng thở dài sau mỗi bữa ăn, những lần lén tính toán chi tiêu sau lưng vợ, Hạnh đều hiểu.
Dù vậy, cô vẫn luôn cố gắng giữ gìn mái ấm, và thuyết phục chồng bằng sự dịu dàng và một lòng tin rằng, làm phúc thì trời thương.
Ông Hòa không bao giờ đụng đến tiền bạc trong nhà: Không góp tiền ăn, không hỗ trợ chăm cháu, ông sống lặng lẽ trong căn phòng nhỏ cuối nhà, quanh quẩn với vài chậu bonsai cũ kỹ và vài quyển sách cũ.
Ban ngày, ông hay ra công viên gần nhà ngồi ngắm chim bay, lâu lâu mới trò chuyện vài câu với hàng xóm.
Buổi tối, ông ăn cơm xong là về phòng, chẳng mấy khi góp chuyện.
Nam từng khó chịu vì sự thờ ơ ấy: “Ông sống mà như không sống cùng gia đình,” anh từng nói với vợ. “Ăn không, ở không, chẳng giúp được gì, cũng chẳng buồn hỏi han ai.”
Nhưng Hạnh vẫn nhẹ nhàng: “Ông già rồi, em chỉ mong ông sống yên ổn những năm tháng cuối đời
Có lúc Nam muốn nói chuyện thẳng thắn với ông Hòa, nhưng rồi lại thôi. Không phải vì thương, mà vì thấy vô nghĩa.
Ông cụ như người đã sống xong đời, chẳng điều gì lay động được.
Vậy là anh cắn răng, sống cùng “một người xa lạ trong nhà” suốt 20 năm.
Thế rồi, một ngày đầu mùa hạ, ông Hòa trút hơi thở cuối cùng sau một cơn đột quỵ. Không kèn trống, không di chúc, không để lại lời nhắn. Căn phòng nhỏ ông ở chỉ còn lại vài cuốn sách, một bàn thờ vợ ông, và chiếc rương gỗ cũ kỹ khóa kín. Tang lễ diễn ra giản dị. Nam và Hạnh lo liệu tất cả như một nghĩa vụ sau cùng.
Sau khi an táng xong, Nam thấy nhẹ lòng – không phải vì thoát khỏi gánh nặng, mà vì cuối cùng, một mối quan hệ chẳng thể gọi tên đã kết thúc.
*****
Nhưng chưa đầy một tuần sau đó, một người đàn ông mặc vest lịch thiệp xuất hiện trước cửa nhà họ, với một phong bì dày. Anh ta là luật sư riêng của ông Hòa.
“Xin lỗi đã làm phiền anh chị, nhưng tôi được ông Hòa ủy quyền gửi đến một số giấy tờ, và một điều mà ông muốn hai người biết sau khi qua đời,” người luật sư nói.
Nam và Hạnh nhìn nhau, không khỏi ngạc nhiên. Cả hai chưa từng nghe ông Hòa nhắc đến bất kỳ tài sản hay kế hoạch gì.
Trong đầu Nam, ông chỉ là một ông già giàu lòng tự ái, nghèo kiết xác, sống nhờ vả con cháu.
Ông ấy để lại gì chứ?” Nam buột miệng, có phần mỉa mai.”
Luật sư không nói, chỉ mở chiếc cặp da, lấy ra một tập hồ sơ. Và khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra trước mắt, Nam thấy tim mình như ngừng đập…
Nam không thể tin vào mắt mình, khi đọc dòng tiêu đề trên tập tài liệu:
“Di chúc hợp pháp của ông Trần Văn Hòa – người để lại tài sản.”
Trong ánh mắt ngỡ ngàng của hai vợ chồng, người luật sư mở lời: Nam sững sờ. Anh luôn nghĩ ông Hòa không có nổi một đồng trong người, suốt đời sống phụ thuộc. Ngay cả đôi dép ông đi cũng là đồ cũ Nam mua tạm ở chợ. Vậy ông ấy lấy đâu ra tài sản?
Luật sư đưa ra các giấy tờ chứng minh: một căn nhà cho thuê ở tỉnh lẻ, sổ tiết kiệm trị giá gần 3 tỷ đồng, một tài khoản cổ phiếu trị giá khoảng 2.5 tỷ đồng, tất cả đều đứng tên ông Hòa.
Ngoài ra, còn có một khoản vàng được ông gửi trong két sắt ngân hàng – hơn 40 cây vàng.
Tổng tài sản gần 10 tỷ đồng.
Nam gần như không thở được.
Luật sư nói tiếp: “Trong di chúc, ông Hòa để lại toàn bộ tài sản cho vợ chồng anh chị. Không chia cho ai khác.”
Hạnh xúc động rơi nước mắt, còn Nam như bị xô vào khoảng trống. Bao nhiêu năm qua, anh nhìn ông Hòa bằng ánh mắt thiếu thiện cảm, cho rằng ông là gánh nặng, là người già sống mà không biết điều.
Nhưng hóa ra, ông cụ đã có sự lựa chọn của riêng mình – lựa chọn sống lặng lẽ, âm thầm quan sát.
Trong di chúc, ông viết tay một đoạn như sau:
“Tôi biết con rể tôi không thương tôi. Tôi cũng không trách. Tôi sống để quan sát, và để học cách buông bỏ. Tôi đã chọn ở lại ngôi nhà này, không phải vì không có nơi khác để đi, mà vì tôi tin Hạnh. Con gái tôi là người có lòng hiếu thảo.
Tôi không tiêu xài số tiền tôi dành dụm, vì tôi thấy niềm vui lớn nhất tuổi già là sự yên ổn. Căn nhà đó tôi mua từ thời còn làm giám đốc hợp tác xã, tiền tiết kiệm gửi từ hồi còn có lãi suất cao. Tôi chưa từng nói ra, vì tôi muốn nhìn xem, trong cảnh thiếu thốn, ai còn coi tôi là người thân.
Hôm nay tôi ra đi, chẳng còn gì để giữ. Mong vợ chồng con hãy dùng số tiền này lo cho con cháu, sống bình an, và đừng bao giờ đánh giá ai chỉ qua vẻ bề ngoài.”
Nam cầm lá thư run rẩy. Một cảm giác xấu hổ trào lên. Anh từng phàn nàn, từng dằn vặt vợ, vì một người cha già sống “ăn nhờ ở đậu”, mà không hề biết rằng, ông Hòa sống tiết kiệm không phải vì nghèo – mà vì ông chọn sống như vậy.
Suốt 20 năm, ông không đụng đến tiền, không chen vào việc gia đình, không oán thán. Ông sống như chiếc bóng – nhưng là chiếc bóng luôn lặng lẽ bao bọc ngôi nhà này. Không để lại phiền muộn, chỉ để lại những gì quý nhất – sự thấu hiểu và tha thứ.
Sau hôm đó, Nam thay đổi: Anh dọn lại căn phòng của ông Hòa, giữ nguyên bàn thờ cũ, và đặt di ảnh ông ở vị trí trang trọng nhất. Anh đưa con trai đến ngồi trước ảnh ông ngoại và kể về “một người ông vĩ đại – người đã sống âm thầm, nhưng để lại cả một trời nhân nghĩa.”
Hạnh sau đó dùng số tiền ông để lại lập một quỹ học bổng nhỏ mang tên ông Hòa cho trẻ em nghèo tại quê hương ông – ngôi làng, mà ngày xưa ông đã rời bỏ, để tìm kế sinh nhai.
Và kể từ đó, mỗi năm, vào ngày giỗ ông, Nam luôn đứng ra lo mọi thứ chu toàn – không vì nghĩa vụ, mà vì lòng biết ơn một người cha già đã dạy anh bài học lớn nhất cuộc đời:
“Có những giá trị không đo bằng tiền, mà bằng cách một người âm thầm sống tử tế đến phút cuối cùng.”
Cha Kinley Tshering, sinh ra trong một gia đình Phật tử Bhutan sùng đạo. Cha mẹ đã đưa cha đến chùa từ khi còn nhỏ và làm lễ xuất gia cho cha.
Tuy nhiên, cha được giáo dục trong trường học Công giáo.
Cha kể lại rằng: Khi cha còn nhỏ, đó là khoảng những năm 1960, rất ít trường học ở Bhutan. Vì vậy, gia đình đã gửi cha đến trường nội trú Công giáo, thuộc Dòng Tên, ở Darjeeling, Ấn Độ.
Vào một ngày năm 1985, khi cha Tshering trên chuyến bay đến Calcutta đã nhận ra: Bà lão gầy còm, thấp bé, đang đọc kinh Mân Côi bên cạnh cha, không ai khác chính là Mẹ Têrêxa Calcutta.
Cuối cùng, bà ngừng cầu nguyện để hỏi cha đến từ đâu.
Cuộc trò chuyện của họ diễn ra bằng tiếng Anh, không dài dòng hay lan man và chủ yếu xoay quanh sự do dự của cha về việc trở thành linh mục.
Cha nói: "Bà ấy cố gắng thuyết phục tôi hãy trở thành linh mục".
Mẹ cầm lấy tay cha và nói:
“Con có ơn thiên triệu, hãy quảng đại với Thiên Chúa, và Người sẽ quảng đại với con.”
Cha Tshering nhấn mạnh rằng: Việc cha gặp Mẹ Têrêxa không phải là một “cuộc gặp gỡ tình cờ”, mà là ý Chúa, một “cuộc gặp gỡ định mệnh" đã thay đổi toàn bộ cuộc đời cha.
Cha chia sẻ:
"Đôi mắt tôi đẫm lệ, và tôi đã khóc suốt trên đường đến Calcutta, vì tràn ngập niềm vui. Tôi chẳng còn gì phải nói, ngoài:
“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Người.”
*****
Một năm sau, cha gia nhập Dòng Tên với tư cách là một tập sinh tại Darjeeling, vào ngày 21 tháng 6 năm 1986.
Cha gặp lại Mẹ Têrêxa một lần nữa, trong chuyến thăm Calcutta, vào tháng 10 năm 1995, sau khi cha được thụ phong linh mục.
Cha kể:
“Mẹ rất vui mừng về điều đó và nói với tôi câu đầu tiên rằng: “Mẹ đã cầu nguyện cho con trong suốt mười năm qua.”
Cha Tshering đã dành tổng cộng 33 năm ở giáo phận Darjeeling, thuộc miền tây Ấn Độ. Nơi đây, cha giữ chức hiệu trưởng của một trường cao đẳng và hiệu trưởng của hai trường trung học, trước khi trở thành Giám tỉnh Dòng Tên ở Darjeeling.
Sau đó, cha trở về quê hương Bhutan để chăm sóc cộng đồng Công giáo nhỏ bé và cử hành thánh lễ cho họ vào các ngày Chủ nhật.
Cha không thấy có người Bhutan nào khác cải đạo sang Công giáo, nhưng cha nói rằng: Có một số ít người Công giáo Nepal ở Bhutan.
Hiện tại Kitô giáo không được Quốc vương Bhutan công nhận là tôn giáo hợp pháp.
Việc truyền đạo Kitô giáo cho công dân Bhutan đều bị ngăn cấm. Cha hy vọng điều này sẽ thay đổi trong tương lai.
Cha Tshering vẫn là linh mục Bhutan duy nhất.
Là công dân Bhutan, cha được tự do đi lại trong Bhutan và được cử hành Thánh lễ Giáng sinh, với lý do là sinh nhật của cha, vào ngày 24 tháng 12.
Cha nói rằng: Nhiều người dân Bhutan biết rằng có một linh mục Công giáo bản địa, nhưng chưa từng có ai đến gặp cha, để bày tỏ sự phản đối về vai trò đặc biệt của cha.
Và gia đình cha đều là Phật tử, mặc dù ban đầu họ có chút ngạc nhiên và phản đối, cuối cùng họ cũng chấp nhận ơn gọi của cha.
Phi hành gia người Mỹ Ron Garan, thuộc Cơ quan Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ, đã trải qua 178 ngày trên Trạm Vũ trụ Quốc tế. Và những gì ông tận mắt chứng kiến đã thay đổi hoàn toàn cách ông nhìn về Trái Đất.
Từ quỹ đạo, Ron Garan choáng ngợp trước Trái Đất:
- Sét lóe sáng như pháo hoa khổng lồ. - Cực quang nhảy múa như dải lụa ánh sáng. - Và điều khiến ông rùng mình: Bầu khí quyển, lớp “áo giáp” duy nhất của nhân loại, mỏng đến mức, nếu đặt cả Trái Đất vào trong vũ trụ bao la, thì lớp không khí ấy chẳng khác gì một làn sương mỏng phủ quanh hạt bụi nhỏ.
Từ quỹ đạo, các phi hành gia gọi nó là “đường xanh mỏng”, một dải sáng xanh lam mong manh, bao quanh hành tinh, rõ nhất khi nhìn Trái Đất ở đường chân trời. Chỉ lớp mỏng manh ấy đang che chở sự sống của hơn 8 tỷ người, giữa khoảng không vô tận của vũ trụ.
*Lợi nhuận ngắn hạn & hủy diệt dài lâu
Nhưng rồi ông nhận ra:
Chúng ta đang sống như thể tiền bạc quan trọng hơn sự sống.
- Chấp nhận không khí ô nhiễm, chỉ để có công nghiệp rẻ. - Đốn rừng lấy gỗ và đất, quên mất rừng, là lá phổi của Trái Đất. - Đổ rác ra biển, để tiết kiệm chi phí, trong khi đại dương nuôi dưỡng khí hậu và con người. - Đốt than, dầu, khí để tăng trưởng nhanh, dù đó là nguyên nhân chính gây biến đổi khí hậu. - Dùng nhựa một lần cho tiện lợi và lợi nhuận, nhưng để lại rác thải hàng trăm năm không phân hủy.….
Tất cả những điều ấy chẳng khác nào tự đốt dần Trái Đất, đang làm tổn thương ngôi nhà duy nhất của chúng ta, chỉ là để đổi lấy chút lợi ích trước mắt.
* Khi nhìn toàn cảnh, ta mới thấy sự mong manh
Tất cả chúng ta đều là thành viên phi hành đoàn trên “con tàu vũ trụ Trái Đất”.
Thứ tự ưu tiên đúng phải là:
- Hành tinh khỏe. - Con người khỏe. - Xã hội bền vững. - Kinh tế phát triển….
Trái Đất khỏe mạnh, chúng ta mới khỏe mạnh. Chúng ta khỏe mạnh, xã hội mới bền vững. Xã hội bền vững, kinh tế mới thịnh vượng.
Còn nếu ngược lại, tất cả sẽ sụp đổ từ gốc.
Đã đến lúc yêu thương và bảo vệ Trái Đất như chính mạng sống của mình, bởi chỉ khi nhìn Trái Đất từ ngoài vũ trụ, ta mới thấy: Hành tinh này mong manh đến mức nào.
Và nếu vẫn tiếp tục phá rừng, xả thải, đốt nhiên liệu như hiện tại, thì chẳng mấy chốc, con cháu chúng ta sẽ phải lớn lên trên một Trái Đất kiệt quệ, không còn đủ khả năng che chở sự sống.
Vì cuối cùng, đây là ngôi nhà duy nhất chúng ta có.
Và hơn hết, chúng ta biết rằng: Trái Đất này không phải ngẫu nhiên tồn tại, mà là
Món quà Đấng Tạo Hóa dịu dàng trao tặng cho nhân loại.
Món quà ấy xứng đáng được chúng ta trân trọng, chăm sóc bằng lòng biết ơn và yêu thương.
Cuối tháng 8, Giáo hội mừng kính lễ bà Thánh Mônica, một người mẹ gương mẫu.
Đây cũng là dịp mỗi Kitô hữu chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành - dưỡng dục, cũng như những hy sinh to lớn của mẹ mình.
Lễ thánh Mônica năm nay trùng ngày lễ Vu Lan báo hiếu.
Dù có nguồn gốc từ Phật giáo, nhưng những năm gần đây, đã có nhiều giáo xứ tổ chức các hoạt động nhằm tri ân cha mẹ, ông bà.
Đây là một nét đẹp và là cách hội nhập vào văn hóa bản địa khá thiết thực của người Công giáo Việt Nam ngày nay.
Tuy nhiên, cũng như một số sinh hoạt khác trong đạo, thường "chỉ dừng ngang mức lễ hội và mang tính tượng trưng".
*****
Người Cao Bằng chọn vịt cho lễ "Pây Tái"
Hai dân tộc Nùng và Tày ở miền sơn cước Tây Bắc rất chú trọng đến ngày rằm tháng bảy, được coi là thiêng liêng nhất trong các ngày lễ - tết của năm.
Họ gọi là tết “Pây Tái”, hay ngày “Nèn Bươn Chất”, với tập quán ai cũng phải tuân thủ, đó là trong ngày này, những người phụ nữ - do sau khi đi lấy chồng, quanh năm phải cùng chồng con chú tâm công việc làm ăn nơi quê mới, lo toan quán xuyến hương khói thờ phụng ông bà tổ tiên bên nhà chồng – nay phải trở về nhà cha mẹ ruột, tự tay nấu một bữa cơm ngon mời cha mẹ, làm một ít bánh và sửa soạn lễ cúng tạ ơn tiên tổ.
Các chàng rể cũng có một quy định bất thành văn:
Trong ngày Vu Lan, dù đang làm ăn xa hay gần, dù nghèo khó hay giàu sang, cũng phải mua cho được một cặp vịt đem qua nhà vợ, gọi là “tết bà ta”.
Anh ta sẽ một mình làm vịt, nấu nướng và trước khi ăn uống cùng gia tộc bên ngoại, phải mời bà mẹ vợ một dĩa thịt vịt mình chế biến, cùng một ly rượu trắng, pha mật vịt, như lời tạ ơn đấng đã sinh ra và nuôi dạy mẹ của những đứa con mình.
Nhiều người vẫn quan niệm anh em dân tộc thiểu số là kém phát triển, là không văn minh, nhưng ở cách làm rất đạo nghĩa và nhân văn này, có lẽ người Kinh chúng ta đã không chu đáo bằng và thiếu thực tế so với họ.
- Không cần những buổi văn nghệ hát về cha mẹ ồn ào. - Không có các nghi thức long trọng tặng hoa, chúc tuổi...
Họ về với cha, với mẹ trong tình nồng ấm gia đình, dành hẳn một ngày để chăm sóc hai đấng sinh thành, bằng chính thành quả lao động của mình, trong đôi bàn tay khéo léo đã được chính cha mẹ vun đắp cho từ thuở ấu thời.
*** Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link trên của sách vào thẻ nhớ, hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. (Chỉ khoảng 24 tờ A4).
*** Bạn cũng có thể đọc trực tiếp các bài này, trên Điện Thoại cảm ứng, khi bạn dùng ngón tay chạm vào đường link trên: https://...
*** Và bạn cũng có thể chép đường link trên: https://... gởi qua Zalo, Messenger, Line, Viber, Tango... làm quà tặng cho các bạn bè, nhiều người được đọc, sẽ có nhiều lợi ích.
---------------------------------
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (12 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/
1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1
2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2
3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
4. Chuyện gà mái ấp trứng đại bàng – Sách 4
5. Chuyện “Số Con Rệp” – Sách 5
6. Thiên Chúa là Đấng hay quên – Sách 6
7. Chuyện một người con chọn mẹ để sinh ra – Sách 7
8. Family, một định nghĩa hay về gia đình – Sách 8
9. Hộ Chiếu Nước Trời – Sách 9
10. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ, để đổi lấy danh tiếng – Sách 10
11. Những câu chuyện biến hình – Sách 11
12. Yêu thương không phải là chiếm đoạt, nhưng là trao ban – Sách 12
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (23 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/
1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1
2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2
3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3
4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4
5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
6. Phút thánh hoá gia đình đầu năm mới - Sách 6
7. Năm Mão nói chuyện con mèo - Sách 7
8. Một kiểu sống lại không vui - Sách 8
9. Chuyện con gà trống - Sách 9
10. Kinh cầu các thánh chẳng hề được phong - Sách 10
11. Làm phúc giúp các linh hồn nơi Luyện Ngục - Sách 11
12. Các linh hồn nơi Luyện Ngục sẽ không quên sự giúp đỡ của chúng ta - Sách 12
13. Tình Mẫu Tử trong dịp Lễ Giáng Sinh - Sách 13
14. Năm Thìn, nói chuyện con rồng - Sách 14
15. Nhật ký của một linh hồn sau khi chết - Sách 15
16. Những lời tâm sự của người cận kề cái chết - Sách 16
17. Tội nhân trở thành thánh nhân - Sách 17
18. Chuyện ông Panov gặp Chúa đêm Giáng Sinh - Sách 18
19. Cách hành xử của Chúa luôn là bất ngờ - Sách 19
20. Năm Thánh - Ất Tỵ 2025 - Sách 20
21. Đừng hành động đang khi nóng giận - Sách 21
22. Chuyện chưa từng kể về Giáo Hoàng Lê-ô XIV - Sách 22 23. Lòng Thương Xót Chúa đã thắng - Sách 23
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (33 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/
1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1
2. Đừng bỏ cuộc - sách 2
3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3
4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4
5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5
6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6
7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7
8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8
9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9
10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10
11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11
12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12
13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13
14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
15. Chuyện cô giáo năm xưa - Sách 15
16. Kinh nghiệm của những người trở về “Từ Cõi Chết” nói với ta - Sách 16
17. Quyển nhật ký của mẹ - Sách 17
18. Phép lạ từ việc sùng kính Đức Mẹ - Sách 18
19. Ngày của bố - Sách 19
20. Chuyện 2 cha con hoang đàng - Sách 20
21. Chuyện Kẻ “tự bắc thang lên trời” - Sách 21
22. Chuyện Quỷ Ám là có thật - Sách 22
23. Chuyện bán linh hồn cho ma quỉ - Sách 23
24. Thảm họa: Một Thiên Đường không có Thiên Chúa – Sách 24
25. Nếu Thiên Chúa không có, thì tại sao lại chống Ngài ? – Sách 25
26. Ông già Noel không mặc đồ đỏ – Sách 26
27. Tình yêu có sức mạnh biến đổi – Sách 27
28. Chuyện một mối tình thật đẹp – Sách 28
29. Một kinh ngiệm truyền giáo thật dễ thương – Sách 29
30. Tháng các đẳng linh hồn và những ước nguyện – Sách 30
31. Các Con đã Bỏ Quên Mẹ trong Luyện Ngục – Sách 31
32. Đừng lân la, đùa giỡn hay thách thức ma quỉ – Sách 32
33. Một đức tin đích thực, cần phải được tôi luyện trong đau khổ – Sách 33
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/
1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1
2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2
3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3
4. Căn hầm bí mật - Sách 4
5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5
6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6
7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7
8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (7 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/
1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1
2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2
3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3
4. Sách tháng các linh hồn – Sách 4
5. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần I) – Sách 5
6. 300 Chuyện ngắn giúp minh họa lời Chúa (Phần II)– Sách 6
7. Tinh hoa và những lời nói sau hết của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (Phần I)– Sách 7.