Suy Niệm Tin Mừng Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa 1/1 Bài 1-50: Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm trong lòng -------------------------------
Phúc Âm: Lc 2,16-21: "Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ. - Ðó là Lời Chúa ---------------------------- --------------------------------- Mục Lục:
Từ hồi còn nhỏ, chúng ta đã học trong sách giáo lý như sau: Hỏi : Có mấy mầu nhiệm chính trong đạo ? Thưa: Có ba mầu nhiệm: - Một là mầu nhiệm một Thiên Chúa ba Ngôi. - Hai là mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người. - Ba là mầu nhiệm Ngôi hai cứu chuộc. Với bàu khí phụng vụ của mùa Giáng sinh, Giáo hội đặt trước mắt chúng ta mầu nhiệm nhập thể, nghĩa là mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người, có hồn có xác như chúng ta nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Trong kinh tin kính, chúng ta vốn hằng tuyên xưng: - Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Lời tuyên xưng ngày đã gồm tóm tất cả nội dung đức tin của chúng ta. Thế nhưng, có lẽ vì quá quen thuộc, nên chúng ta chỉ đọc như một con vẹt, hay như một cái máy. Bởi đó, cần phải suy nghĩ để lời tuyên xưng ấy được thấm vào tâm hồn cũng như thấm vào cuộc sống chúng ta, để rồi chúng ta sẽ dâng lên Chúa những tâm tình cảm mến tri ân. Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy sau tất cả những sự việc kỳ diệu của đêm giáng sinh, từ tiếng hát của các thiên thần trên cánh đồng Bêlem, đến cuộc thăm viếng của các mục đồng tại máng cỏ, thánh Luca đã ghi nhận: - Còn Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu, đã ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy niệm trong lòng. Làm sao chúng ta có thể hiểu được tình thương mến bao lao của Mẹ được khơi dậy trong những khoảng khắc suy niệm thâm trầm như thế. Jean Guitton, một nhà văn Công giáo, trong cuốn La Vierge Marie, Đức Trinh nữ Maria, đã viết như sau: - Mẹ Maria hẵn không biết con mình được sinh ra như thế nào ? Là Đấng Cứu thế, mọi người nghĩ rằng Ngài phải được sinh ra trong huy hoàng lộng l”y của đền đài dinh thự, nhưng Ngài đã chọn cho mình sự ngèo túng của hang đá Bêlem. Phải chăng đó là dấu chỉ của sự khiêm nhường đáng cho chúng ta bắt chước ? Với sự kiện Chúa giáng sinh, trang sử cũ được đóng lại và trong sử mới được mở ra. Trang sử cũ là Cựu ước. Còn trang sử mới là Tân ước với Đức Kitô và Giáo hội mà Ngài sẽ thiết lập. Đức giám mục Bossuet còn diễn tả một cách thi vị hơn như sau: - Mẹ Maria đã coi Chúa Giêsu như là một bông hoa tuyệt vời, mọc lên từ cõi lòng thánh thiện của mình. Mẹ đã ấp ủ Chúa bằng những nụ hôn nồng ấm, còn nồng ấm gấp ngàn vạn lần những nụ hôn của các bà mẹ, bởi vì đó là những nụ hôn của một người mẹ trinh khiết. Chúng ta hãy trở lại tìm gặp các mục đồng mà Phúc âm đã nói đến. Sau khi đã tới viếng thăm và thờ lạy Hài nhi giêsu nơi máng cỏ Bêlem, Phúc âm đã ghi lại: - Trước những sự việc được chứng kiến, họ đã tin chắc mọi điều đã nói về Hài nhi. Họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa về tất cả những gì họ đã nghe và đã thấy. Rồi họ cũng đã loan truyền cho những người chung quanh vì Phúc âm có nói: - Tất cả những ai nghe đều ngạc nhiên về những điều các mục đồng đã kể lại. Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta đã được diễm phúc tin Chúa và yêu Chúa, thế nhưng chúng ta có biết suy niệm những điều đó trong lòng như Mẹ Maria hay không ? Chúng ta có biết chia sẻ Tin mừng Giáng sinh cho những người chung quanh như các mục đồng ngày xưa hay không ?
Nhiều khi chúng ta hình dung Mẹ Maria với vẻ huy hoàng vinh hiển mà quên đi cuộc sống chân thực của Mẹ. Vậy Mẹ đã sống như thế nào ? Mẹ đã làm nội trợ, những công việc âm thầm nhưng không kém phần vất vả như bất cứ người vợ và người mẹ nào. Ngón tay Mẹ đã từng xỏ những sợi chỉ, luồn những mũi kim…đã từng nhào bột để làm bánh, đã từng giặt giũ, rửa bát mà không sợ hỏng móng tay như nhiều cô gái thời nay. Mẹ đã cầu nguyện nhưng cũng đã khâu vá. Đã nhiều năm chăm sóc Chúa hài nhi từ cái ăn, cái uống cho đến cái mặc. Chiếc áo không đường chỉ may mà Phúc âm nói đến chắc chắn là cho chính bàn tay Mẹ dệt nên. Chính Mẹ cũng đã từng đặt Chúa hài nhi vào giường với nụ hôn âu yếm. Nhiều khi Mẹ cũng đã làm như bất cứ bà mẹ nào khác là hỏi: Giêsu, con có yêu mẹ không ? Yêu bằng nào ? Và Chúa hài nhi, cũng như các con trẻ lên hai hay lên ba, sẽ dang cánh tay bé bỏng của mình ra và quả quyết với một giọng ngây thơ dễ thương: bằng này nè… Cũng lúc ấy, bóng chiều đổ xuống trên đôi tay in hình thánh giá và cùng lúc đó vọng lại từ xưởng thợ của thánh Giuse tiếng búa chát chúa đóng trên đinh…Mẹ nhớ đến lời ông già Simêon: Con trẻ này sẽ nên như bia cho người ta chống đối, còn phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà. Chúng ta hãy nhìn lên máng cỏ nhưng hãy quên đi những bức tượng thạch cao được đặt bên chiếc nôi nhỏ bé, nhưng hãy nhìn vào con người thật của Mẹ Maria. Một cô gái trẻ, rất xinh, không có vẻ gì là mệt mỏi của một bà mẹ vừa mới sinh con. Rồi khi ngôi sao lặn xuống, tiếng hát của các thiên thần không còn nữa, bước chân các mục đồng rời xa…Chỉ còn lại một bà mẹtrẻ ẵm con vào lòng, đong đưa thờ lạy, hồn dâng lên một điệu nhạc tri ân. Vì Mẹ biết máu huyết của Con là máu huyết của mình, khuôn mặt rạng rỡ của Con là khuôn mặt của mình, cái nhìn của Con là cái nhìn của mình. Con đang áp đầu vàu ngực Mẹ chính là con mình, nhưng đồng thời cũng là Con Thiên Chúa. Và như thế, Mẹ chính là người được chọn giữa muôn vàn phụ nữ, là người đầy ơn phúc, là Mẹ Đấng Cứu thế, là Mẹ Thiên Chúa. Đó là niềm tin của Giáo hội được thể hiện trong ngày lễ hôm hay. Năm 431 Công đồng Ephêsô đã công bố: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, không phải là mẹ thiên tính của Đức Kitô mà từ đời đời Ngài đã tiếp nhận từ nơi Chúa Cha. Cũng như các bà mẹ khác không ban cho con cái trí khôn, bản lĩnh mà chính Thiên Chúa mới là Đấng ban cho chúng. Dầu vậy, các bà v”n là mẹ, mẹ không những vì đã ban xác thịt mà cả nhân vị của con mình nữa. Đức Maria cũng là mẹ của một ngôi vị, mà ngôi vị ấy chính là Thiên Chúa, nên đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa vậy.
Hôm nay, toàn thể nhân loại mừng năm mới và ước mong mọi sự tốt đẹp hơn. Trong bầu khí Giáng sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta tìm về máng cỏ và học lấy gương sống của các mục đồng và của Đức Maria trước mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Trước hết, với tất cả thành tâm thiện chí chúng ta hãy cùng với các mục đồng đến chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người sống giữa chúng ta. Người sinh ra bởi người mẹ đồng trinh, tuân hành luật lệ của một dân tộc, sống nếp sống bình thường của con người, lớn lên trong khung cảnh gia đình. Các mục đồng không hiểu gì về mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người vừa được loan báo cho họ, nhưng họ đã đón nhận lời loan báo và đã đến thờ lạy, suy phục trước mầu nhiệm. Để rồi sau khi đã gặp thấy Chúa, họ hân hoan ra về và không ngừng dâng lời chúc tụng Chúa. Mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đã được loan báo cho chúng ta, và chắc chắn trong thời gian qua, chúng ta đã cảm nghiệm được sự hiện diện và tác động của ân sủng trong cuộc đời. Mặc dù không hiểu nhiều về mầu nhiệm được tỏ bày, nhưng liệu chúng ta có tâm hồn vâng phục tôn kính đón nhận mầu nhiệm như các mục đồng ngày xưa không? Hiện diện trước mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, chúng ta còn có thể noi gương sống của Mẹ Maria. Như các mục đồng, Mẹ Maria đã không hiểu nhiều về mầu nhiệm mà chính Mẹ đã được Thiên Chúa mời gọi cộng tác, nhưng Mẹ không đóng kín tâm hồn, cũng không thách thức Thiên Chúa phải giải thích tường tận, trái lại Mẹ đã khiêm tốn đón nhận mầu nhiệm, Mẹ lưu giữ mọi sự và hằng suy niệm trong lòng. Tình thương, lòng khiêm tốn, thái độ sẵn sàng cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa, đó là điều chúng ta có thể học lấy nơi Mẹ trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa, khởi đầu một giai đoạn mới. Xin Mẹ giúp chúng ta nhận ra những kỳ công Thiên Chúa đã và đang thực hiện trong cuộc đời chúng ta, để không ngừng dâng lời cảm tạ tri ân.
Năm tháng trôi qua… thường thường là giống nhau cả. Nhưng đôi khi chúng cũng được đánh dấu bằng những biến cố có ảnh hưởng sâu xa đến cuộc đời chúng ta… Làm cho chúng ta vui mừng hoặc đau đớn. Tổ tiên chúng ta thích chúc nhau trong ngày đầu năm:”Năm mới hạnh phúc và thánh thiện!”. Chúng ta cũng v”n còn nói như vậy nữa. Chúng ta luôn luôn có lý do tốt nhất để nói điều như thế, chúc mỗi người một năm thánh thiện! Chúc mỗi người được ơn sống sung mãn! Đó là lời chúc của tôi. “Sống sung mãn” có nghĩa gì? Có nhiều nghĩa mà ta có thể tóm tắt vào hai ý: Trước hết ta phải nghiêm túc và bền bỉ nỗ lực để hiểu hơn nữa mầu nhiệm cứu độ, để thấy rõ hơn nữa sự phong phú của nó, để nắm bắt tất cả những hậu quả của nó đối với chúng ta và đối với toàn thể nhân loại. Danh từ Cứu độ nói lên một thực tại rất đẹp và rất sâu sắc nhưng hơi khó hiểu một chút. Để hiểu cách đơn giản cứu độ là gì, ta có thể tìm cảm hứng nơi bài trích thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Galat mà ta vừa nghe đọc. Xưa kia chúng ta không thuộc về gia đình của Thiên Chúa, chúng ta không thân mật với Thiên Chúa, chúng ta xa cách Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến để chuộc chúng ta và làm cho chúng ta trở thành con cái của Ngài. Ngài đã đặt nơi chúng ta thần khí của Con Một Ngài, nhờ thần khí ấy mà bây giờ chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là “Cha chúng con”. Ơn cứu độ làm cho chúng ta đi từ tình trạng này đến một tình trạng khác, một hoàn cảnh tiêu cực đến một hoàn cảnh tích cực. Xưa kia chúng ta là những kẻ tội lỗi, ơn cứu độ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Xưa kia chúng ta đã quị ngã, ơn cứu độ làm cho chúng ta chổi dậy. Xưa kia chúng ta giống như những người đã chết, ơn cứu độ làm cho chúng ta sống. Xưa kia chúng ta nghèo khổ vì sự sống của Thiên Chúa không ở trong lòng chúng ta, ơn cứu độ làm cho chúng ta được phong phú nhờ sự sống của Thiên Chúa. Xưa kia cửa thiên đàng bị đóng lại đối với chúng ta, ơn cứu độ mở ra cho chúng ta. Đó là điều kỳ diệu của ơn cứu độ! Ơn cứu độ làm cho chúng ta đi từ tội lỗi đến ân sủng, từ bóng tối đến ánh sáng, từ u buồn đến niềm vui, từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ sự chết đến sự sống. Ước gì trong năm mới này chúng ta có thể hiểu rõ hơn thế nào là cứu độ! Nhưng hiểu rõ thế nào là ơn cứu độ v”n chưa đủ. Cũng phải – và nhất là – tin và sống mầu nhiệm cứu độ nữa. Tin vào mầu nhiệm cứu độ, tức là cố gắng để giải thoát mình khỏi những gì làm mình xa cách Thiên Chúa, và gắn bó với những gì làm mình gần Ngài. Tức là để cho Thiên Chúa yêu thương mình, để cho Ngài gặp gỡ mình, và đáp trả tình yêu của Ngài bằng cách yêu mến Ngài. Tin vào mầu nhiệm cứu độ nghĩa là hoán cải hoặc, nói cách khác, tự biến đổi để cho cách nhìn và suy tư của mình am hợp hơn với cách nhìn của Thiên Chúa, để cho hành động của mình mỗi ngày am hợp hơn với giáo huấn của Chúa Giêsu được ghi lại trong Tin mừng. Tin vào mầu nhiệm cứu độ nghĩa là tìm cách trở thành môn đệ tốt lành hơn của Chúa Kitô. Môn đệ chân chính! Cũng tìm cách trở thành chứng nhân tốt hơn của Chúa Kitô nữa. Một chứng nhân chân chính! Tóm lại, để Thiên Chúa có được chỗ của Ngài trong đời tôi, dành cho Ngài chỗ mà Ngài có quyền có, sống vì Ngài chứ không phải chỉ vì tôi, trở về với Thiên Chúa nếu tôi đã xa Ngài, sống như Ngài mong muốn tôi sống, tìm cách tấn tới trên con đường thánh thiện mỗi ngày. Đó là tin vào mầu nhiệm cứu độ. Vậy ước gì năm mới này là một năm thánh thiện đối với mỗi người trong chúng ta, một năm thánh hóa chúng ta. Một năm trong đó sự thánh thiện của Thiên Chúa được thông ban đầy tràn cho chúng ta. Một năm trong đó chúng ta ý thức hơn bao giờ hết rằng chúng ta là những kẻ được cứu nhờ Chúa Giêsu đã chết và sống lại vì chúng ta.
Mẹ Maria là tạo vậy duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Thế nhưng, ngày nay cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học và kỹ thuật sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội nguyên tổ. Với khả năng vô tận của mình, con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ một đấng cứu thế nào cả. Tuy nhiên, lịch sử đã diễn ra không như con người thời nay mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đã d”n đến sự tự hủy. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự huỷ hoại của con người. Như vậy, sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi cho người thời nay qua các lần hiện ra trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đăt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Đức Giáo hoàng, hàng giáo phẩm và các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau. Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Đức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Đức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Đức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin lành. Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay nói đúng hơn Kinh thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh thánh. Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng v”n thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Đó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
Vào năm 1945, ba quốc gia gây chiến Đức, Italia, Nhật mang bộ mặt tan tác tả tơi của những nước bại trận. Đa số những thành phố lớn tại Đức, cũng như hai thành phố Hiroshima và Nagasaki tại Nhật chỉ còn là những đống gạch vụn, những thành phố chết. Hình ảnh của thế giới, nhất là tại các quốc gia bị chiến tranh tàn phá trong những năm "39-45" có lẽ không khác gì bộ mặt của trái đất sau trận lụt Đại Hồng Thủy, khi trận lụt vĩ đại gây ra do những trận mưa lũ kéo dài 40 ngày đêm đã giết hại mọi sinh vật, như tác giả sách Khởi Nguyên viết: "Mọi loài xác thịt động đậy trên đất đều tắt thở: chim chóc, thú vật, mãnh thú... tất cả các vật trên cạn đều bị xóa sạch trên mặt đất từ người cho đến xúc vật, côn trùng và chim trời...". Từ đống tro tàn của thế chiến thứ hai, một ý nghĩa đã được manh nha và Liên Hiệp Quốc đã thành hình với mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình. Vì như một chính trị gia đã phát biểu: "Nếu con người không hủy diệt chiến tranh, chiến tranh sẽ hủy diệt con người". Nhưng từ ngày tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập vào năm 1945 đến nay không biết bao nhiêu cuộc chiến song phương cũng như nội bộ đã xảy ra. Những bàn tay con người v”n được dùng để giơ gươm, để lảy cò, để bấm nút nhữntg khí giới giết người. Vì thế súng v”n nhả đạn và máu tươi v”n tuôn rơi, lòng đất mẹ v”n thấm máu con người. Ngày 24 tháng 10 hằng năm, bao nhiêu lá cờ của mọi quốc gia đã được trưng lên trong những buổi lễ kỷ niệm ngày Liên Hiệp Quốc được thành lập, bao nhiêu sinh hoạt đã được tổ chức để nhắc nhở con người, không phân biệt màu da, tiếng nói, không phân biệt tín ngưỡng hay quan niệm về thể chế chính trị, ý nghĩa của tổ chức mang mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình. Nhưng thiết nghĩ, hòa bình thế giới không thể được thiết lập nếu lòng người chưa đạt được sự an bình, vì nếu những tâm tình ganh ghét, ghen tuông, nghi kỵ, nếu những tư tưởng lợi dụng, đàn áp, bóc lột v”n còn âm ỉ cháy trong lòng chúng ta, thì ngọn lửa chiến tranh v”n còn có thể bùng cháy bất cứ lúc nào.
Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa: Đây là tín điều Công đồng Êphêsô đã tuyên bố ngay thời kỳ Giáo Hội sơ khai. 1- Ta phải hiểu chân lý này thế nào ? Đức Maria không phải là Mẹ sinh ra Thiên Chúa tự hữu hằng có đời đời, không phải là mẹ cá nhân kết hợp với Thiên Chúa, cũng không phải là mẹ bản tính loài người có hồn xác của Chúa Giêsu, mà chỉ là Mẹ thân xác Chúa Giêsu ; cũng như các bà mẹ khác chỉ sinh con về phần xác không sinh ra linh hồn đứa con. Văn hóa Đông phương cũng xác nhận điều này: cha mẹ sinh con trời sinh tính. Tính không phải là tính nết thường, nhưng có ý sâu sắc hơn, đó là bản tính, tính mệnh “Thiên mệnh chi vị tính” - Tính trời phú cho đó là linh hồn. Tuy các bà chỉ sinh thân xác đứa con, nhưng cũng thực là mẹ đứa con. Cũng vậy, Đức Mẹ, tuy chỉ sinh thân xác Chúa Giêsu, nhưng cũng thực là mẹ Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Năm 431 công đồng Ephesô đã long trọng tuyên bố: “Nếu ai chối Đức Giêsu là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh nữ Đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông”. Thật là vinh phúc cao trọng nhất cho Đức Mẹ, không ai trong loài người sánh ví được. Chính vì thế Giáo Hội đã mừng lễ này vào ngày thứ nhất trong năm, đứng đầu các lễ các thánh. 2- Hạnh phúc đó do đâu ? Hoàn toàn do Thiên Chúa ban “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta” Thiên Chúa không muốn dựng nên thân xác thần hiện nào khác, nhưng dùng chính thân xác từ trong loài người để cứu độ loài người. Ví như muốn cứu người ăn mày có hai cách: một là cho tiền, gạo để ăn chơi nhàn rỗi, hai là dạy cho họ có công ăn việc làm để họ dùng chính khả năng họ làm ăn. Cách thứ hai rất khó nhưng chắc chắn có giá trị lâu dài và giá trị tự do hưởng ứng của họ. Cũng thế, Thiên Chúa đã dùng chính khả năng con người trong Đức Mẹ hợp tác với Chúa để cứu loài người. Tới đây, chúng ta hiểu được một chút sự lạ lùng của Thiên Chúa cứu độ loài người với sự tham gia của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã trọn đời dâng hiến toàn thân cho Chúa, một thân xác đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội để Ngôi Hai xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta, một sự lạ lùng gấp bội phép lạ bánh hóa nhiều, và giống như Chúa đã dùng bánh và rượu để biến thành Mình và Máu Thánh Chúa. Lạy Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, xin cho cha mẹ chúng con hiểu biết thiên chức cao trọng làm cha mẹ, tuy chỉ sinh con phần xác ở đời này, nhưng lại được làm cha mẹ cả phần hồn, phần thiêng liêng đến muôn đời. Xin cho các ngài biết cố gắng giáo dục con cháu "ngày càng lớn lên, mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và được ân nghĩa cùng Thiên Chúa" như Chúa Giêsu con Mẹ. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ dâng lòng mến, dâng sự hy sinh hàng ngày lên Chúa nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ biến đổi con người chúng con nên con thảo của Mẹ, xứng đáng được ơn phúc cứu độ muôn đời của Chúa Giêsu Con Mẹ.
Chúng ta đang sống trong một thiên niên mới - thiên niên thứ ba. Chúng ta cùng nhau suy tư về cái gọi là thời gian sống còn của mỗi một chúng ta trên mặt đất này. Bắt đầu tạo dựng vũ trụ, "ngày thứ nhất" thành hình khi Đấng Tạo Hóa tạo thành "ánh sáng", được định bởi khoảng cách "một buổi chiều và một buổi sáng (KN. 1:4-5). Chắc hẳn thời bấy giờ chưa có lịch năm, tháng, ngày, giờ như chúng ta hiện nay. Ông Adong lớn hơn bà Eva mấy "tuổi" ? - Trưóc khi phạm tội, hai ông bà đã có mấy đứa con? - Hai ông bà được mấy "tuổi" thì phạm tội? Trước khi phạm tội, hai ông bà có "ra khỏi vườn địa đàng" du ngoạn không? Và nếu hai ông bà không phạm tội thì cả nhân loại sống đời đời - không già, không chết - nghĩa là không có thời gian để tính người này sống được mấy tuổi, người kia sống được mấy tuổi, v.v...? - Không ai giải đáp được những thắc mắc này. Có điều chắc chắn là sau khi phạm tội, hai ông bà bị buộc phải "di chuyển" (moved) ra khỏi vườn địa đàng - mang theo hành trang là án phạt "trở về cát bụi", nghĩa là phải chết - và hình như khái niệm về thời gian sống của một kiếp người ở mặt đất này bắt đầu thành hình. Không nói đến khía cạnh khoa học kỹ thuật, đã dùng thời gian như đơn vị đo lường chiều thứ tư = dài, rộng, cao và thời giờ - chúng ta có thể mường tượng "thời gian là một sự 'move on' không ngừng của mỗi kiếp người. Vấn đề là mỗi lần chúng ta "move", chúng ta mang theo hành trang gì? Sau khi loài người phạm tội, hầu như Đấng Tạo Hóa cũng không ra ngoài thông lệ "move on" để tiến hành thực hiện lời hứa cứu độ. Lắm lúc chúng ta tự hỏi, và không chừng trách móc Thiên Chúa: Người là Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng, "có thể biến những viên đá này trở thành con cái Abraham" (Mt. 3:8) vì "không có gì mà Thiên Chúa không làm được" (Lc. 1:37) thì xá gì chuyện tha thứ và cứu độ loài người? mà phải dùng chương trình này, kế hoạch nọ cho thêm rắc rối ??? Nhưng chúng ta quên rằng lắm lúc chính chúng ta đòi hỏi con em, bạn bè, người thân hoặc chính chúng ta phải bỏ công sức thu lượm kết quả mong muốn thì kết quả đó mới "có giá trị" = công sức càng nhiều, giá trị thu lượm càng cao. Của chùa, của nhả thờ - không phải không có giá trị của nó, nhưng là còn xa mới đạt đến giá trị tuyệt đối. Vì Thiên Chúa là tuyệt đối nên tất cả mọi mối tương giao với Người, "hợp đồng" với Người cũng phải có giá trị tuyệt đối. Vậy Thiên Chúa "move on" tiến hành thực hiện lời hứa. Việc đầu tiên: chọn giữa con cái loài người một người Mẹ xứng đáng cho Ngôi Lời mặc xác phàm. Khoảng thời gian bao lâu? - 1000 năm? 2000 năm? 1 triệu năm? hay lâu hơn nữa? Chúng ta còn nhớ, năm 1969, khi phi hành gia Arsmtrong bước xuống nguyệt xa, đến bậc cuối cùng, đã hướng nhìn vể trái đất và nói: "một bước nhỏ của tôi là một bước vĩ đại của nhân loại". Đối với loài người chúng ta, một bước nhỏ của Armstrong quả là vĩ đại: từ mặt đất lên tận mặt trăng đem theo hành trang là niềm hãnh diện của loài người trong sự chinh phục không gian... Đối với Thiên Chúa thì một "move" nhỏ của Người sẽ vĩ đại dường bao? "Ngàn năm Chúa kể là gì? - Tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!" (Ca Vịnh) và hành trang đem theo là "Bình An dưới thế cho người Chúa thương". Như trên đã nói, của chùa không thể nói là có giá trị tuyệt đối - chúng ta quá thừa biết với câu nói đầu môi chót lưỡi "no thing's free in America!" Chúng ta thử suy niệm câu đối đáp giữa thiên sứ và cô Maria: - "... cô sẽ thụ thai!" Cô gái nào đến tuổi cặp kê đều hiểu rõ ý nghĩa. Chấp nhận hay không tùy hoàn cảnh thực tế của mỗi người. Cô Maria từ chối. - "... Thần khí Thiên Chúa sẽ bao phủ lấy cô..." Tôi không tin rằng cô Maria hiểu hết ý nghĩa câu trình bày của thiên sứ, và ông Giuse sau này cũng vậy, không một ai giữa con cái loài người có thể hiểu được. Và chính đây là giá trị của sự thương lượng. Đối với Maria, tuy không hiểu nổi quyền năng cao vời của Thiên Chúa, nhưng chắc chắn thấy trước hậu quả và tai hại của hậu quả đối với Giuse, người chồng chưa cưới, và đối với dư luận trần thế. Tuy vậy, Maria v”n TUYỆT ĐỐI XIN VÂNG. Ông Giuse cũng một tâm trạng như Maria: tuy không hiểu gì nhưng v”n một mực TUYỆT ĐỐI LÀM THEO LỜI THIÊN SỨ TRUYỀN BẢO. Thiết nghĩ khi "move on" bước đầu chọn một người Mẹ và một Cha chăm sóc dưỡng dục xứng đáng cho Ngôi Lời mặc xác phàm,Thiên Chúa không đòi hỏi gì hơn là "tuyệt đối tin và tuân phục". Đức Maria và thánh cả Giuse đã toàn hảo trong việc mang hành trang "move on" với Thiên Chúa: đó là tâm tình TUYỆT ĐỐI TIN VÀ TUÂN PHỤC". Muốn có hành trang đó, chắc hẳn "túi hành trang" mình phải trống rỗng, nghĩa là chưa chứa đựng những tâm tư ước vọng trần tục của chính bản năng tự nhiên con người, để chỉ chứa đựng dồi dào ân sủng "Bình An dưới thế cho người Chúa thương". Cuộc sống của mỗi một chúng ta ở trần thế này - cũng như của Đức Maria, thánh cả Giuse, và Hài nhi Giêsu, là một chuỗi những sự "move on", mang lè kè những túi hành trang khi đầy khi vơi, khi trống rỗng ["hạt giống Lời Chúa gieo trên sỏi đá"], khi đầy những vật hư vô ["hạt giống Lời Chúa gieo trong lùm cỏ gai"]. Chúng ta đã chẳng từng "cuối năm ngồi tính lại sổ đời" đó sao ? Đã chẳng từng coi lại túi hành trang đời mình để chuẩn bị cho một năm mới, một nếp sống mới đó sao? Làm sao chúng ta có thể "move on" vào thiên niên kỷ thứ ba với những túi hành trang tràn đầy "Bình An dưới thế cho người Chúa thương" được nếu trong túi hành trang chúng ta còn chứa đựng những mưu toan cưỡng chiếm, áp bức bóc lột, thù hằn chia rẽ, đàn áp? Làm sao chúng ta có thể "move on" vào thiên niên kỷ thứ ba với những túi hành trang chứa chan tình người, tình anh chị em đồng loại được nếu trong túi hành trang của chúng ta còn nổi bật câu "muốn có hòa bình thì phải chuẩn bị chiến tranh"!!!!??? Hành trang Ngôi Lời Thiên Chúa đem đến trần gian là "Bình An". Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa, đã đón nhận cách trọn vẹn. Thánh cả Giuse, Cha chăm lo nuôi dưỡng Hài Nhi Giêsu, đã đón nhận cách trọn vẹn. Còn phấn chúng ta, có muốn đón nhận hay không hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta thôi. LẠY RẤT THÁNH ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI, XIN CẦU CHO CHÚNG CON ĐÁNG CHỊU LẤY NHỮNG SỰ CHÚA KITÔ ĐÃ HỨA!
"Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ con, Thiên Chúa tỏ hiện Nhan Thánh và thương xót con, Thiên Chúa ghé mắt nhìn và ban cho con Bình An" (sách Dân Số 9:23-26) An Vui - Hạnh Phúc - Hòa Bình - Bình An..., là tâm tình và khát vọng của mỗi một chúng ta - không những trong thâm tâm thầm kín, mà ngay trên môi trên miệng, trên giấy trắng mực đen: - đọc lại những thiệp chúc mừng / phân ưu / chia vui sẻ muộn... = thiệp Tết - thiệp No-en - thiệp cưới - thiệp mừng sinh nhật - thiệp cầu chúc mau lành bệnh - thiệp chúc mừng ra trường - thiệp mừng có "công chúa, hoàng tử", có job - thiệp chúc mừng tân gia, v.v... - thiệp chia sẻ sự thương đau vì tai biến, hoặc tang sự, v.v... - trong cuộc giao tế hằng ngày, khi coi như bị... tấn công - dù chỉ là đùa giỡn vui chơi, v.v... chúng ta thấy tâm tình cầu chúc Bình An, "xin cho tôi hai chữ bình an!", v.v... là tâm tư nguyện vọng chính mà mình muốn gởi đến hoặc cầu chúc cho người thân hoặc cho chính bản thân mình. Ước nguyện và cầu chúc là một lẽ, thực hiện được hay không lại là một điều khác! Trong tất cả mọi cuộc chiến nói chung, và cuộc chiến tại Việt Nam trong thập niên 60-70 nói riêng, chúng ta thấy rằng "nhân dịp Giáng Sinh" hoặc "nhân dịp Mừng Xuân Mới", cả hai đối thủ - ít nhất là các nhà lãnh đạo cuộc chiến, viện cớ dịp này lễ nọ để "hoãn chiến" xem ra như để cầu chúc bình an - hòa bình cho nhau, nhưng xét cho kỹ cả hai bên lâm chiến ít nhiều lợi dụng dịp hưu chiến này để tìm chiến thuật chiến lược hay hơn để "đánh nhau sát ván" hơn, và cũng là dịp tốt để đội binh hai bên dưỡng sức, tải súng đạn và lương thực đầy đủ hơn, trang bị tốt hơn... để đánh nhau "thoải mái" hơn!!! Từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ năm này qua năm khác, từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, từ thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác... đó là chuyện lắm lúc chúng ta cho là... tự nhiên của kiếp... người, xét trên bình diện của cái gọi là "xã hội loài người". Vậy thì "Bình An dưới thế [Chúa hứa] cho người Chúa thương" ở đâu ??? Trong cuộc tiếp xúc bàn chuyện với hai người "Témoins de Yaweh" tại Drancy-Pháp, người đàn bà hỏi tôi: - anh có nghĩ rằng "cầu nguyện, đọc kinh" xin Chúa ban hòa bình cho thế giới, cho nước này nước nọ đang đánh nhau chí chóe... có hiệu nghiệm được không? - ... - cầu nguyện cái gì? đọc kinh làm gì? chiến tranh là do loài người tạo ra cho chính mình - Chúa nào mà can thiệp??? [Tùy anh chị em suy tư và xét đoán. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng "làm sao mà có hòa bình - an vui hạnh phúc được khi trong túi hành trang của loài người còn nổi bật câu 'muốn có hòa bình thì phải chuẩn bị chiến tranh'?" - Mời anh chị em đọc lại bài suy niệm 1-1-2000] Thôi thì suy đi nghĩ lại làm gì cho ... nhức đầu! Có lẽ chúng ta nên giản đơn, khiêm tốn như thánh Phanxicô thành Assii: đem áp dụng trong đời sống cụ thể của mỗi một chúng ta tâm tư ước nguyện và lời cầu xin của thánh nhân trong kinh Hòa Bình: Chúa Giêsu ngự trị lòng ta! - Luôn luôn!
Lớp giáo lý khai tâm được khai mạc. Cô giáo lý viên tươi cười đón các em của lớp giáo lý đầu năm. Cô hỏi một em bé: - Bé tên gì? - Em bé đáp: Tên là Duyên. - Ừ nhưng mà Duyên gì chứ? - Thì Duyên Mẹ Cô giáo lý viên không giám hỏi tiếp em bé nữa, nhưng thực sự cô không hiểu em bé muốn nói gì. Thế nghĩa là gì? Tại sao em lại nói là «Duyên Mẹ»? Tại sao cái tên đó lại vọt ra từ miệng em một cách đơn sơ và đầy quả quyết: tên là Duyên Mẹ. Bởi vì đối với đứa bé, Mẹ, có nghĩa là tất cả, là cái gì vui mừng, trìu mến, tất cả cái gì là tình yêu, tất cả cái gì là hiện diện, là hy sinh… người mẹ nào cũng thương con, vì đó là kết quả của lòng mình. Một người mẹ đối với em bé, là hình ảnh của tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời này. Vậy Đức Maria cũng là hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta có thể nhận ra: Thiên Chúa không những là Cha, nhưng Ngài còn là hình ảnh đẹp nhất của các bà mẹ, vì chính Ngài đã lấy những sự trìu mến, yêu thương từ chính trái tim Ngài dựng nên các bà mẹ. Vậy Chúa còn là Mẹ hơn tất cả mọi người mẹ. Đức Maria, chính là Mẹ của Chúa Giê-su, chính là người Mẹ trọn hảo nhất trong các bà mẹ, đó là Mẹ của chúng ta, của tất cả chúng ta. Chúa đã ban tặng cho chúng ta Đức Maria để chúng ta học tập qua trái tim của Mẹ, và để khi kêu cầu lên Mẹ, từ đó chúng ta nhận ra Thiên Chúa là đấng trọn hảo, là hình ảnh của một người Mẹ đẹp nhất… Một binh sĩ Nga hồi đệ nhị Thế chiến đã tâm sự: «Lúc còn bên Liên sô, tôi chỉ là một binh sĩ. Hồi còn nhỏ tôi hằng mơ ước trở thành một sĩ quan. Nhưng tôi không bao giờ được thu nhận vào bất cứ trường sĩ quan nào… Chỉ còn cách là lập nhiều thành tích để được thăng cấp. Trong suốt mười hai năm, tôi và một số bạn bè đã lập được nhiều chiến công trong những cuộc hành quân nguy hiểm. Thế là chúng tôi được đề nghị thăng cấp. Hôm đó chúng tôi được tập họp để chờ viên chỉ huy đến trao huy trương và thăng cấp. Thế nhưng viên chỉ huy vừa đọc xong danh sách những người được phong thưởng, thì một người trong nhóm chúng tôi bước ra khỏi hàng ngũ đến trình diện ông chỉ huy và báo cáo về tôi như sau: - Thưa đồng chí, anh này không xứng đáng được phong cấp sĩ quan. Vì anh ta luôn đeo trong mình một tấm ảnh của bà Maria. Anh ta chỉ là một tên gián điệp, một kẻ phản bội. Viên sĩ quan nhìn tôi và hỏi: - Có thực sự anh mang trong mình ảnh của bà Maria không? Không một chút do dự, tôi trả lời: - Đúng thế, thưa đồng chí! Một trong những thông soái vĩ đại nhất của nước Nga là Chu-Bô-Rốp, người đã đánh bại Na-pô-lê-ông, cũng mang trong mình tấm ảnh của Đức Maria. Có điều gì không hợp lý chăng? Viên chỉ huy thét lên! - Đồng chí ra khỏi hàng ngũ tức khắc! Hoặc đồng chí mang trên mình quân hàm sĩ quan hoặc tấm ảnh ấy. Tôi tiến ra ba bước và khước từ cấp bậc sĩ quan mà tôi hằng mong ước từ thuở nhỏ! Liền sau đó tôi bị trả lại đơn vị và điều ra trận đánh nguy hiểm nhất. Tại đây tôi đã bị người Đức bắt làm tù binh và cho sát nhập vào tiểu đoàn những người Lô-Vác và được đưa tới Nam-Tư. Sau khi bị bắt làm tù binh, tôi được thăng cấp sĩ quan trong tiểu đoàn những người Lô-Vác. Tôi không biết có được trở về bên bờ sông Vôn-ga không? Trước khi lên đường nhập ngũ, mẹ tôi đã đeo vào cổ tôi bức ảnh Đức Maria. Tôi tin chắc rằng một ngày nào đó, với sự chở che của Mẹ Thiên Chúa, tôi sẽ được gặp lại mẹ tôi trong cõi vĩnh hằng."
Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy,và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa,vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng mẹ. A. Hạt giống... Bài Tin Mừng này trình bày 2 thái độ khác hẳn nhau: Thái độ của những người chăn chiên là tíu tít kể chuyện; Thái độ của Đức Maria là ghi nhớ mọi sự và suy niệm trong lòng. B.... nẩy mầm. 1. "Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa nhưng chung quanh Người chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này... Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân Con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn. Người chỉ muốn phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác. Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hòa khí trong tương quan với tha nhân" (Trích "Mỗi ngày một tin vui"). 2. Thánh Luca khám phá đặc điểm của Mẹ Thiên Chúa là "ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng". Tuy là mẹ của Chúa Giêsu nhưng ban đầu Đức Mẹ không hiểu hết về con mình. Tuy không hiểu nhưng nhờ "ghi nhớ và suy đi nghĩ lại" nên sau cùng Mẹ đã rất hiểu Ngài. Huống chi chúng ta: chúng ta là môn đệ Chúa, là con Chúa, chúng ta càng cần phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại những kỷ niệm về Chúa thì mới hiểu được Ngài. 3. Một bài hát kia có một tựa đề rất gợi ý, là "The sound of silent", tiếng của thinh lặng. Phải, thinh lặng nói với ta rất nhiều điều. Ta thử thinh lặng để "suy đi nghĩ lại" về những sự việc chung quanh việc Chúa Giáng sinh, để coi xem ta nghe được gì. 4. Một người da đỏ cùng đi với một người da trắng trên đường. Người da đỏ bỗng vỗ vai người da trắng, hỏi: - Anh có nghe gì không? Người da trắng hết sức lóng tai nghe, rồi đáp: - Tôi chẳng nghe gì cả. - Có mà, tôi nghe tiếng một con dế gáy. - Làm gì mà có con dế nào giữa đường phố nhộn nhịp như thế này? Mà cho dù có đi nữa thì làm sao anh nghe được tiếng nó giữa bao tiếng ồn ào của xe cộ và người qua kẻ lại? Người da đỏ không thèm trả lời. Anh đi đến một bức tường bên vệ đường. Bức tường đã cũ. Nhiều dây leo chằng chịt trên đó. Anh vạch đám dây leo sang một bên. Một lỗ trống hiện ra, trong đó rõ ràng có một con dế đang gáy. Người da trắng thán phục: - Dân da đỏ các anh có lỗ tai thính hơn dân da trắng chúng tôi nhiều. - Không phải thế đâu. Để tôi thử cái này cho anh xem. Người da đỏ lấy trong túi ra một đồng tiền kẽm, thảy xuống mặt đường. Tiếng đồng tiền lăn len ken khiến mọi người đi đường ngoái đầu nhìn lại. Liền đó người da đỏ giải thích: - Tiếng của đồng tiền kẽm nhỏ hơn tiếng dế kêu rất nhiều. Thế mà mọi người da trắng đều nghe được. Còn tiếng con dế lớn hơn nhưng chỉ có tôi nghe được. Không phải ai thính tai hơn ai cả. Sự thực chính là chúng ta chỉ nghe được tiếng của những thứ chúng ta thường quan tâm để ý (Willi Hoffsemmer). 5. "Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ" (Lc 2,16) Một buổi sáng Chúa nhật, ngày đẹp nhất trong tuần, tôi đến nhà thờ dự lễ và ngao ngán với một bài giảng quá dài, lại chẳng có gì hấp d”n? Chúa nhật sau, anh hẹn đưa tôi đi chơi. Tôi náo nức chờ đợi, đợi chờ từng phút giây, mong tới giờ hẹn. Và chúng tôi đã lên đường? bỏ lại đàng sau không buồn luyến tiếc: ngôi thánh đường và cả Chúa Giêsu nữa! Tôi là thế đó, chỉ muốn làm những gì mình thích và thích làm những điều thật vĩ đại. Còn Mẹ Maria thì chọn những gì Chúa muốn và để cho Ngài làm nên những điều cao cả. Nếu như Thiên Chúa cần một người mẹ cho Ngôi Lời nhập thể thì Mẹ đã cất tiếng xin vâng để trần gian được cứu độ. Và trong nữ giới, Mẹ thành người diễm phúc nhất. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Xin cho con hằng noi gương Mẹ mà gắn bó cùng Chúa trọn đời. (Epphata)
Nhân loại lại bước vào một năm mới: năm dương lịch 2003. Trái đất, thời tiết bốn mùa cứ như xoay chuyển vần xoay, cứ như thay đổi không ngừng. Năm 2003 được đánh dấu bằng việc thánh hóa các gia đình. Nên, dõi theo gương sáng ngời của gia đình Nagiarét là việc quan trọng và khẩn thiết của mọi gia đình công giáo. Hội Thánh trong ngày đầu năm mới dương lịch đã tôn dương tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. MỘT TƯỚC HIỆU TRỔI VƯỢT MỌI TƯỚC HIỆU Tước hiệu Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Đây là một xứng hợp hơn mọi tước hiệu khi nói về Đức Trinh Nữ Maria. Vào thế kỷ V, giáo chủ Nestôriô đã nổi lên chống đối tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria. Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột lớn lao đã xẩy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Hai nhập thể. Thế nên, vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập công đồng Ephêsô dưới sự chủ tọa của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cất chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng Ephêsô đã định tín Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-làm-người. Bắt đầu từ công đồng Ephêsô tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là tước hiệu trổi vượt trên mọi tước hiệu mà Giáo Hội đã ca tụng và tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Thánh công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh dã viết:" từ những thời xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Người trong mọi cơn gian nan khốn khó". Đức Giáo hoàng Piô XI đã viết khi lập thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày 11/10 nhân dịp kỷ niệm 1500 năm công đồng Ephêsô vào năm 1931:" Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa"( Lux Veritatis 1931). NHƯ MẸ MARIA… Tin mừng Lc 2, 16- 21 như muốn thúc giục nhân loại hãy hiện diện bên Chúa Giêsu Hài Đồng như các mục đồng xưa. Đây là dấu chỉ đích thực về sự có mặt của Chúa cứu thế đang ở giữa nhân loại theo sự loan báo của các thiên thần. Các mục đồng nhanh chân, bỡ ngỡ, hốt hoảng nhưng tiếp tục ra đi tìm Chúa Giêsu theo lời loan báo của các thiên thần và họ đã tìm ra Đấng cứu thế, đây là một dấu chỉ đối với họ. Còn Maria khi thấy các mục đồng có mặt cung chiêm Chúa Giêsu, Mẹ Maria cũng coi đây là một dấu chỉ quan trọng trong cuộc đời Mẹ. Việc đản sinh Con Thiên Chúa làm người đối với Mẹ v”n là một mầu nhiệm tàng ẩn, dù rằng hơn ai hết Mẹ là người hiểu thấu biến cố cứu độ, nhưng Tin Mừng Luca chỉ nói vỏn vẹn: "còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó và suy niệm trong lòng"( Lc 2, 19 ). Mẹ Maria trong đêm Giáng sinh với cảnh huy hoàng lộng l”y, với tiếng hát của muôn cơ binh thiên thần, v”n im lặng. Sự im lặng của một con người nói tiếng xin vâng tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Sự im lặng của một con người được tràn đầy hồng phúc. Mẹ luôn sống tâm tình của một nữ tỳ khiêm tốn và như thế mọi vinh quang trần thế, Mẹ luôn dành cho những người khác. Mẹ hiểu rõ khi các mục đồng tới hang đá cung chiêm Chúa Hài Đồng Giêsu con Mẹ, Mẹ hiểu thấu căn tính của con Mẹ, Mẹ được chúc phúc, nhưng Mẹ v”n chưa đọc ra lời chúc phúc của Thiên chúa dầu vậy Mẹ v”n luôn tin tưởng tuyệt đối vào việc trung tín của Thiên Chúa. Mẹ đã sống đơn sơ, khiêm nhường, tín thác vào Chúa Giêsu vì thế Mẹ xứng đáng lãnh nhận tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa. Như Maria, nhân loại đã được chúc phúc bởi vì nhân loại đã biết kính sợ Chúa:" Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Xion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con"( Tv 128,4-6 ) hoặc” Khách qua đường không ai chào hỏi chúng: Chúa ban phúc lành cho anh em. Chúng tôi chúc lành cho anh em nhân danh Chúa “( Tv 129, 8 ). Quả thực như một hồng ân cao quí vì nhân loại và mỗi người chúng ta đều được Chúa chúc lành. Mọi người trong năm mới này sẽ được hạnh phúc sống giây phút hồng ân là Chúa đang hiện diện trong cuộc sống của mỗi người để làm cho cuộc sống ấy nên viên mãn, nên hoàn thiện hơn. Hôm nay, Giáo Hội dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho thế giới hòa bình trùng vào ngày kính trọng thể Đức Maria Mẹ Thiên Chúa như lời Đức thánh cha Phaolô VI đã viết trong tông huấn Marialis Cultus, số 5b khi Người dời thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01/01 mỗi năm như sau:"... Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người ". Lạy Vua Hòa Bình mới sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, xin ban cho nhân loại và mỗi người chúng con sự Hòa Bình đích thực và ơn an bình trong mỗi tâm hồn. Xin Hài Đồng Giêsu thánh hóa các gia đình chúng con để mọi gia đình luôn sống sự thánh thiện và công chính của gia đình Nagiarét.
Ngày cuối tuần Bát Nhật Lễ Giáng Sinh, toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Thánh lễ được trang trọng bắt đầu bằng lời ca: "Lạy Thánh M”u, chúng con kính chào Mẹ là Đấng đã sinh ra Đức Vua cai trị trời đất muôn đời". Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay xem ra chú trọng đến Danh Thiên Chúa và Người Con của Đức Maria hơn là nói đến Đức Mẹ Maria: "Họ sẽ kêu cầu Danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng. (Ds 9,27). Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhấn mạnh đến việc giải phóng và cứu độ được hoàn thành do Chúa Kitô: "... Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người nữ..., để cứu chuộc những kẻ ở dưới quyền lệ luật, ngõ hầu chúng ta được nhận làm nghĩa tử" (Ga 4,4-5). Đồng thời thánh Phaolô cũng cho chúng ta thấy được sứ mệnh cao cả của Mẹ Maria biểu tượng trong câu "sinh hạ bởi người nữ". Nhờ Đức Mẹ Maria mà Con Thiên Chúa đã đến trong trần gian. Bài Phúc Âm kết thúc bằng sự chú ý tới tên Người Con: "Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ thì Hài Nhi được đặt tên là Giêsu, chính tên thiên thần đã gọi Ngài trước khi đầu thai lòng mẹ" (Lc 2,21). Đức Maria chỉ hiệp thông một cách âm thầm vào Mầu Nhiệm của Con mình sinh ra bởi Thiên Chúa. Tuy nhiên, việc chú trọng đến "Con" không làm suy giảm địa vị và sứ mệnh cao cả của người mẹ: Đức Maria thật là Mẹ hoàn hảo vì đã kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu Kitô và hiệp thông trọn vẹn vào công trình cứu độ; thế nên khi tôn vinh Mẹ thì Con càng được hiển vinh hơn. Mẹ Thiên Chúa - Mẹ Nhân Loại. Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa diễn tả sứ mệnh của Đức maria trong lịch sử Cứu Độ, và là nền tảng cho sự tôn sùng Đức Mẹ cả các tín hữu Kitô, vì Đức Mẹ đã không đón nhận hồng ân Thiên Chúa cho riêng mình, nhưng Mẹ đã nhận để đem cho nhân loại: "Khi Thiên Sứ truyền tin, Đức Nữ Trinh Maria đã nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn cùng thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian nên được công nhận là mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế". - Đức Mẹ Maria đã hiến dâng (ban) sự sống (nhân loại) cho con Thiên Chúa, Mẹ cũng tiếp tục thông ban cho nhân loại sự sống thần thiêng, như Công Đồng Vatican II dạy: "Đức Maria thật là mẹ các chi thể của Chúa Kitô. Vì đã cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Đầu (St. Augustinô, xem LG nr. 53). Bởi đó Ngài là Mẹ của mỗi người sinh ra do sự sống của Thiên Chúa. Sứ Điệp Hòa bình Phúc Âm Trong Đức Kitô, Mẹ Maria đã ban cho thế giới nguồn sống đổi mới mọi sự. Bởi chính tước hiệu Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ loài người, hôm nay đầu năm Dương Lịch toàn thế giới cử hành "Ngày Hòa Bình". Sự bình an mà Đức Maria đã tìm thấy được trong tình yêu vô tận của Thiên Chúa, bình an là chính Đức Giêsu Kitô, qua Mẹ Maria, đã đến với nhân loại: "Hôm nay sự sáng chiếu giải trên chúng ta, vì Chúa đã sinh ra cho chúng ta, thiên hạ sẽ gọi Ngươi là Chúa, là Vua Bình an" (xem Is 9,5; Lc 1,33). Bình an, vì qua Đức Maria, Đức Giêsu đã làm cho nhân loại được giao hòa với Chúa Cha. "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội", hôm nay con thành khấn dâng lên Mẹ với lòng tin tưởng vào sự cầu bầu đầy hiệu lực của Mẹ trước Nhan Thánh Chúa. Trong tiệc cưới thành Cana, Mẹ đã nói với Chúa Giêsu: "Nhà này hết rượu"; dù chưa tới giờ, Chúa Giêsu cũng đã làm theo lời Mẹ xin. Hôm nay xin mẹ thưa với Chúa: "Thế giới đang thiếu hòa bình!" Và xin cho chúng con biết mở rộng con tim để đón nhận Chúa Giêsu, ơn Bình an của Chúa Cha đã ban cho nhân loại. Lạy Mẹ Maria, xin luôn ấp ủ chúng con và toàn thể nhân loại trong cánh tay Hiền M”u của Mẹ.
Ngày lễ mừng vào một tuần sau Giáng Sinh trong quá khứ được gọi là Lễ Cắt Bì, khi mà Hài Nhi Giêsu được dâng hiến vào đền thờ theo nghi lễ tập truyền của Ịạo Do Thái. Danh Thánh Giêsu được chính thức đặt cho Hài Nhi. Ở đất Do Thái thời bấy giờ mỗi cái tên thường mang theo một ý nghĩa. Cái tên thường nói lên cái bản tính và nhân vị của mỗi người. Và thánh danh Giêsu có nghĩa là Ịấng Cứu Thế. Thánh Kinh hôm nay nhắc lại việc cắt bì của Hài Nhi Giêsu, nhưng cũng nhấn mạnh đến địa vị của Mẹ Maria trong việc sinh ra Ịấng Cứu Thế. Vì thế mà hôm nay Giáo Hội mừng lễ Ịức Maria Mẹ Thiên Chúa. Trong khi Mẹ Maria luôn được tôn kính trong ngày này vì địa vị của Mẹ trong việc sinh Chúa Cứu Thế cho nhân loại. Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay còn nhấn mạnh đến vai trò của Mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Làm sao Trinh Nữ Maria trở nên Mẹ Ịấng Cứu Thế? Làm sao một thụ tạo lại có thể làm mẹ Ịấng sáng tạo? Thánh Kinh thuật lại khi thời gian đã điểm, Thiên Chúa sai chính Con Một Người sinh ra bởi người Trinh Nữ, do quyền năng Chúa Thánh Thần để mang ơn cứu độ cho nhân loại. Ịấng sáng tạo được sinh ra bởi người thụ tạo là một màu nhiệm. Tuy nhiên theo lời thiên sứ Gabriel: “không gì mà Thiên Chúa không làm được” (Luc 1,37). Giáo hội xác nhận Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì nếu tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa, thì đương nhiên cũng phải tin Ịức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu Ịức Maria là Mẹ Thiên Chúa còn được ghi trong Thánh kinh theo lời Bà Isave: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi” (Luc 1,43). Câu hỏi thứ hai đến trong đầu óc ta là làm sao Ịức Maria trở thành Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của mọi người tín hữu? Thánh Kinh thuật lại: Trên Thánh giá, Chúa Giêsu trối Mẹ Người cho chúng ta qua Thánh Gioan “Ịây là Mẹ Con” (Ga 19:27) Thánh Gioan lúc đó đại diện cho tất cả các tín hữu, và nhân danh các tín hữu nhận Ịức Maria là Mẹ đưa về săn sóc. Sau khi Chúa Giêsu về Trời, Mẹ Maria đóng vai trò như Mẹ các tông đồ, an ủi các tông đồ, cầu nguyện với các tông đồ, để xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Phúc âm hôm nay ghi lại: “Mẹ ghi nhớ và suy niệm tất cả những sự việc đó trong lòng” (Luc 2,19). Mẹ ghi nhớ những gì? Trước hết Mẹ phải ghi nhớ cảnh truyền tin, ghi nhớ lời sứ thần truyền “Kính chào Ba Maria đầy ơn phúc” (Luc 1,26). Mẹ phải ghi nhớ cảnh con mình sinh ra nghèo khó nơi hang bò lừa, không nhà, không quán trọ. Rồi Mẹ phải ghi nhớ lời tiên tri Simêon tiên báo về con mình: “Còn Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Luc 2,35). Trên Thánh giá, Chúa Giêsu trối Mẹ Người cho Thánh Gioan. Ở đây Mẹ cũng phải ghi nhớ những gì đã xẩy ra cho con mình vào những ngày cuối đời: chịu bách hại, chịu tra tấn, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu chết trên thập giá. Hôm nay thế giới bắt đầu đi vào Năm Mới Dương lịch, ta nên dùng ít thời giờ yên lặng, để suy niệm như Mẹ Maria, nhìn lại quá khứ, xét lại mới liên hệ của mỗi người với Chúa, cảm tạ đội ơn Chúa về tất cả những hồng ân Chúa đã ban, đánh giá trị việc ta có mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và ý Chúa như thế nào? Trước thềm Năm Mới, xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ. Ta cũng không quên cảm tạ đội ơn Chúa về những ân huệ mà ta nhận được trong năm cũ. Nếu ta chỉ phàn nàn kêu trách về những rủi ro, bất hạnh thì mắt ta sẽ bị che đậy, không còn nhìn thấy những điều may mắn, cái chiếu sáng của cuộc đời. Do đó ta có thể nảy ra cái thái độ tiêu cực bất mãn. Mỗi người nên làm những quyết định sửa đổi trong năm mới, chẳng hạn quyết định chừa một nết xấu như bỏ rượu, bỏ thuốc, quyết định dành nhiều thời giờ hơn cho cha mẹ, vợ chồng, con cái. Có như vậy mỗi năm thêm tuổi mới, thêm được cái gì hữu ích cho bản thân về đời sống tinh thần và thiêng liêng. Ta cũng cần hướng về tương lai. Mặc dầu ta không biết chắc tương lai sẽ ra thế nào và đi về đâu. Tuy nhiên cũng như Mẹ Maria, ta có thể đặt tin tưởng và phó thác vào Chúa, vào chương trình quan phòng cứu độ của Chúa, để cũng như Mẹ Maria, ta có thể nói lên hai tiếng “Xin Vâng”. NS Dân Chúa Mỹ Châu Lm. Trần Bình Trọng USA
Đức Bà Maria âm thầm đi vào lịch sử Giáo Hội cũng như đã sống một cuộc đời thầm lặng bên cạnh Chúa Giêsu và Thánh Giuse. Nhưng chính vì thế mà Đức Mẹ được Thiên Chúa nâng lên địa vị cao cả trên tất cả thiên thần và mọi loài thọ tạo. Tại Công đồng Ephêsê năm 431, Đức Mẹ được tuyên xưng là Mẹ của Thiên Chúa. Đức Mẹ đã sống thầm lặng đến nổi được nhắc nhở rất ít trong các Tin Mừng, nhưng Ẫkhi thời gian đã tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình đến, được sinh ra bởi một người đàn bà, và sống dưới lề luật, để chuộc dân sống dưới lề luật.Ữ Khi thiên thần Gabriel đến truyền tin thì Đức Mẹ đã khiêm nhường xin vâng: ẪNày tôi là tôi tớ của Thiên Chúa xin làm theo như lời Ngài truyền.Ữ Những lời này bày tỏ sự vâng lời tuyệt đối và phú thác hoàn tòan nơi Thiên Chúa. Đức Bà Maria đã ưng thuận với tất cả lòng yêu mến đón nhận Đức Chúa Con xuống thế làm người. Thiên Chúa đã đến trong lòng người Trinh nữ để mở ra con đường sống mới cho nhân loại . Đức Mẹ đã đón nhận Đấng chí thánh trong đơn sơ, yêu thương và thầm lặng. Niềm vui của Đức Mẹ cũng như niềm vui của các thiếu nữ Sion được kết hợp với hôn thê của mình: ẪYa vê Thiên Chúa của ngươi đang ở giữa các ngươi.Ữ Lòng trông cậy đơn sơ, phú thác, chịu đựng mọi đau khổ để vâng theo thánh ý Thiên Chúa dược bày tỏ khi Đức Mẹ đứng lặng thinh dưới chân thánh giá và nhận làm mẹ thánh Gioan và đi theo thánh Gioan cho đến lúc về Trời. Khi Giáo hội suy niệm về tấm lòng của Đức Mẹ thì Giáo Hội tràn ngập Thánh Thần. Khi thiên thần truyền tin, và Đức Mẹ ưng thuận thì từ giờ phút đó Đức Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa vì Đức Giêsu là Thiên Chúa. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa vì Đức Mẹ đã cưu mang Chúa Giêsu và Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Trong chương trình cứu độ, Đức Mẹ đã đóng góp vai trò đặc biệt và to lớn. Thiên thần Gabiel đã thưa: Hãy vui mừng vì Thiên Chúa ở cùng Bà. Lời chào chứng tỏ Thiên Chúa đã chọn Đức Mẹ và chính Đức Mẹ, được Chúa Thánh Thần soi sáng khi Đức Mẹ thốt lên: ẪTừ nay có nhiều thế hệ gọi tôi là người có phước.Ữ Chúng ta cầu xin Đức Mẹ cầu bàu cùng Chúa Giêsu cho chúng ta. Chúng ta cầu xin Đức Mẹ như là Mẹ Thiên Chúa , Mẹ của Giáo Hội và cũng là Mẹ của chúng ta nữa. Đó là tước hiệu cao trọng nhất mà Thiên Chúa đã dành cho Đức Bà Maria. Thật là chính đáng để ca tụng Mẹ, là Mẹ Thiên Chúa, tinh tuyền và cao cả trên mọi thiên thần và mọi tạo vật. Mẹ đã cưu mang Thiên Chúa làm người, Mẹ thật là Mẹ Thiên Chúa, chúng con chúc tụng Mẹ cho đến muôn đời. Amen
Trong Anh ngữ, tháng một (January) là đặt theo tên của một vị thần La-Mã, vị thần này có hai mặt, một mặt nhìn về quá khứ và một mặt hướng đến tương lai. Thật vậy, đây là thời điểm để cho chúng ta nhìn lại một năm đã qua và hướng về một năm mới trước mặt. Một năm đã qua đi, tôi đã làm được những gì, và gặt hái được những gì? Tôi đã tận dụng thời gian ấy để thăng tiến trong những ước nguyện và mục tiêu trong cuộc sống của mình như thế nào? Tôi có dùng những thời gian qua để nâng cao mục đích của sự hiện hữu của tôi không? Tôi có thể làm tốt hơn năm ngoái theo cách sử dụng thời giờ cho những đòi hỏi của việc làm, của gia đình, của bạn bè, của xã hội, và sự đòi hỏi của đời sống tâm linh của riêng tôi? Tôi đã gặt hái được gì và điều gì đã không thành tựu trong năm qua? Làm thế nào để tôi củng cố được những thành tựu trong năm qua đồng thời đảo ngược những thất bại và mất mát trong năm mới? Qua sự kiểm điểm chính mình bằng những câu hỏi nêu trên, chúng ta nhận ra rằng sự kiểm điểm ấy sẽ đưa chúng ta tìm được mục đích và những quyết tâm cải hóa trong năm mới. Có người nói với chúng ta rằng: mình chẳng cần phải có quyết tâm cải đổi trong năm mới. Đừng tin họ! Chúng ta phải định mục tiêu cho chính chúng ta và đề ra những cải đổi cần thiết tóm gọn trong những điều chúng ta đã kiểm điểm. Chúng ta cần phải kiểm điểm đời sống của chúng ta hằng năm, vì như triết gia Socrates nói, cuộc đời không có kiểm điểm là cuộc đời không đáng sống. Báo chí ngày nay đầy rẫy những quyết tâm cải cách cho cá nhân hoặc tập thể. Hầu hết những điều ấy thường chỉ là những mong ước hơn là quyết tâm. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm như thế nào? Mong ước là nhận ra được mục đích người ta muốn đạt được, quyết tâm cải cách là định rõ từng bước người ta phải tiến hành để đạt được mục đích. Sự mong ước: đây là điểm tôi muốn đạt, còn quyết tâm thì nói: đây là lề lối tôi sẽ áp dụng, đây là những điều tôi sẽ làm để đạt được thành qủa. Người hay mong ước thì nói rằng: “Tôi muốn thi đậu trong năm nay” và người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành ra một tiếng đồng hồ mỗi ngày để học cho đậu cuộc thi này”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ có thêm sự an bình và thương yêu trong gia đình tôi” còn người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành nhiều thì giờ hơn nữa cho gia đình, nơi bàn ăn hơn là vội vã để xem truyền hình, để chúng tôi có dịp tìm hiểu và thông cảm nhau hơn”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ sống một đời sống kết hợp với Chúa” còn người có quyết tâm thì nói: “Hằng ngày, tôi sẽ dành ra thời gian này để cầu nguyện và nghe lời Chúa”. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm là: Chúng ta có chuẩn bị để làm những gì có thể làm được để tạo ước mơ thành sự thật chưa? Chúng ta có chuẩn bị để trả giá cho những điều mình sắp làm chưa? Đoạn phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy Đức Maria là gương mẫu của cuộc sống mới trong Chúa Kitô, cuộc sống mà tất cả chúng ta mong ước cho mình trong năm mới. Chúng ta thấy rằng Đức Maria đã được chuẩn bị để làm những công việc cho mục đích tạo cuộc sống mới này. Đức Maria đã làm gì? Chúng ta đọc thấy rằng khi các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, họ nói rằng các thiên thần đã báo tin cho họ biết. “Nhưng Đức Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Luca 2:19). Lại nữa, sau khi tìm được thiếu niên Giêsu trong đền thờ, chúng ta cũng được nghe rằng “Riêng Đức Mẹ thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Luca 2:51). Đức Maria là người đàn bà đã tôn kính lời Chúa, đã trân qúy lời Chúa và đã dành thời giờ để suy niệm Lời của Chúa. Thật ra, sự thánh thiện của Đức Maria đã thông phần với hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng không quên rằng: Đức Maria đã cần phải dành nhiều nỗ lực để được đồng cộng tác trong ân sủng của Thiên Chúa. Người đã suy niệm Lời Chúa để nhận biết những điều Chúa đã nói với mình trong từng giai đoạn của đời mình, cuộc đời được làm tôi tớ của Chúa. Hai thí dụ kể trên về Đức Maria đã suy niệm, cân nhắc lời Chúa, như sau khi các mục đồng đến thờ lạy Chúa Hài Đồng và sau khi tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, cho thấy rằng Đức Maria đã tìm ra lời Chúa trong sự mặc khải thiêng liêng (lời của thiên thần báo cho mục đồng) và trong kinh nghiệm của chính Người (khi gặp lại Con trong đền thờ). Tương tự như vậy, ngày nay Chúa nói với chúng ta qua sự mặc khải thiêng liêng (kinh thánh, các bài giảng, những điều giảng dậy của Hội Thánh) ngay cả qua những kinh nghiệm cá nhân, nếu chúng ta dành thì giờ để suy gẫm như Đức Maria đã làm. Cho dù chúng ta đang ở trong tình huống nào, một sự khốn khó, một điều bất như ý, trước một quyết định khó khăn – Chúa có phương thức giải quyết, Chúa có giải đáp đúng đắn cho chúng ta. Hãy kể những điều ấy cho Chúa nghe trong lời kinh nguyện, nhưng cũng lắng nghe những gì Chúa nói với chúng ta. Cầu nguyện là đối thoại với Chúa, nhưng đôi khi chúng ta chỉ muốn nhấc điện thoại đọc lên một chuỗi những khó khăn của mình cho Chúa nghe và cúp điện thoại để không nghe những gì Chúa muốn nói với chúng ta. Hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm lắng nghe tiếng Chúa, trân qúy và suy niệm trong lòng. Từ đấy chúng ta sẽ có thể nhận biết những cải hóa cần thiết cho cuộc sống mới kết hợp với Chuá.
Cách đây nhiều năm, Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa. Với tư cách một phóng viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai, kể cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu. Tại New York, vào một ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện như sau: “Mười phút nữa hay sớm hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này và lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì trong giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn nhất của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài thực sự có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi”. Vào giây phút đó, anh nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa. *** Việc Fulton Oursler tìm kiếm Thiên Chúa đã kết thúc tại một giáo đường. Đời sống tâm linh và cuộc sống mới của anh bắt đầu tại một nhà nguyện dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Thật là một nơi thích hợp cho sự việc đó. Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa. Ngài còn là Mẹ của toàn nhân loại về mặt tâm linh. Vì khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu, Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới. Thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm đó trong bài đọc II như sau: “Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, sinh làm con một người nữ, và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới chế độ lề luật đó, hầu chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa… và vì bạn là con của Thiên Chúa, nên Ngài sẽ cho bạn tất cả những gì Ngài dành cho con cái Ngài”. Bàn luận về mầu nhiệm cao cả này, Hiến Chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay của công đồng Vatican II nói: “Qua mầu nhiệm nhập thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người, Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa, và yêu thương bằng trái tim loài người, sinh từ lòng Đức Maria Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”. Thật vậy, khi Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới, vì thế Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà ngài còn là Mẹ tất cả mọi người chúng ta nữa. Vì Đức Mẹ là Mẹ chúng ta, nên ngài là một trạng sư bào chữa cho chúng ta rất hữu hiệu trên trời. Không biết Đức Maria là mẹ mình, chính là không biết đến món quà mà Thiên Chúa ban tặng chúng ta, tức tình mẫu tử của Đức Maria dành cho chúng ta. Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với hy vọng mới. Năm mới với cuộc đời mới. Năm mới là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại. Năm ngoái là quá khứ, đã qua rồi. Năm nay vừa mới sinh ra và ở trước mặt ta. Đó là món quà Thiên Chúa tặng chúng ta. Những gì chúng ta làm được với món quà ấy, chính là món quà mà chúng ta sẽ dâng lên Thiên Chúa. Thật là thích hợp khi Giáo hội chọn ngày đầu năm để mừng kính lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Vì điều đó nhắc nhở chúng ta rằng tình mẫu tử của Đức Maria mà bạn và tôi được Thiên Chúa ban cho một đời sống hoàn toàn mới, một niềm hy vọng mới, thứ hy vọng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Nếu chúng ta đang tìm một quyết định cho năm mới này thì không có một quyết định nào tốt đẹp hơn là tạo cho Đức Maria một vai trò quan trọng hơn trong đời sống chúng ta. Và một trong những cách để thực hiện quyết định đó là thực hiện bằng cầu nguyện. Chúng ta có thể xin Đức Maria bầu cử cho chúng ta như Ngài đã từng bầu cử cho biết bao những đứa con khác của Ngài trong lịch sử. Một cách đơn giản để thực hiện điều đó là cầu nguyện hằng ngày bằng bài kinh đặc biệt kính Đức Maria, tức kinh Kính Mừng. Một cách khác để làm điều đó là bắt chước cách cầu nguyện của chính Đức Maria. Trước hết, Ngài cầu nguyện bằng cách suy niệm về hoạt động của Thiên Chúa, không phải chỉ ở trong lịch sử loài người, mà ở ngay trong cuộc sống của Ngài nữa. Thánh Luca đã cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này vào cuối bài tường thuật của Ngài về việc Đức Giêsu sinh ra: “Maria ghi nhớ tất cả những chuyện ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19). Một cách cầu nguyện khác nữa của Đức Maria là nói với Thiên Chúa cách hồn nhiên những gì xuất phát từ trái tim Ngài. Thánh Luca cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này khi mô tả Đức Maria cầu nguyện trong cuộc viếng thăm bà Isave. Chúng ta hãy dùng lời kinh ấy để kết thúc bài giảng hôm nay. Xin mời anh chị em im lặng cùng cầu nguyện với tôi: “Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa, Thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi, Ngài đã đoái thương đến tôi, là tôi tớ thấp hèn của Ngài “Kể từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại. “Ngài đã giơ cánh tay thần lực nâng những người hèn mọn lên … “Ngài đã giữ lời đã phán hứa với các tổ phụ… “Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abrham và dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc 1: 46-55)
Có một linh mục được mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm thấy lá thư ấy. Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân biết thôi. Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò và con mở cửa bước vào. Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ ruột của mình”. Câu chuyện cảm động trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta mừng hôm nay. Lễ này nêu bật hai điểm về Đức Maria. Thứ nhất: Đức Maria là Mẹ chúng ta. Ngài không chỉ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng sống cách đây hơn 2000 năm. Ngài còn là Mẹ chúng ta nữa. Từ trời cao, Ngài vẫn mong muốn giúp đỡ chúng ta như một người Mẹ. Thứ đến, Đức Maria cũng là khuôn mẫu của chúng ta. Chúng ta phải tôn sùng và bắt chước ngài. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một nét đặc trưng nơi Đức Mẹ, đó là Mẹ tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa. Khi thiên sứ báo cho mẹ biết mẹ sẽ sinh con trai bởi phép Chúa Thánh Thần, thì Mẹ hiểu ngay rằng việc này có thể sẽ khiến Thánh Giuse cắt đứt quan hệ bạn đính hôn với Mẹ - và điều này chỉ chút xíu nữa là đã thực sự xảy ra - Thế nhưng Mẹ vẫn vững tin vào chúa. Khi nghe mục đồng kể lại lời các Thiên thần, Mẹ cũng không hiểu, nhưng lần nữa, Ngài vẫn tín thác vào Chúa, về sau, khi Mẹ và Thánh Giuse đem hài nhi Giêsu vào đền thờ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ: “Sầu khổ sẽ như một mũi gươm nhọn đâm thâu qua trái tim bà” (Lc 3: 35). Lần này, Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời trên nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Rồi khi lên mười hai tuổi, Đức Giêsu ở lại trong đền thờ. Lúc gặp lại Đức Giêsu, Mẹ Maria hỏi Ngài lý do tại sao, Ngài đáp lại: “Mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con sao? một lần nữa, Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ cẫn cứ tín thác vào Chúa. Ngày nay Mẹ Maria có thể giúp chúng ta biết tín thác vào Chúa. Xin hãy nhớ lại câu chuyện cô gái trong khoá tĩnh tâm nọ. Cô ta đã phải trải qua một Kinh nghiệm thời thơ ấu đầy kinh hãi khiến cô mất hẳn niềm tin. Cô muốn tin tưởng trở lại nhưng không thể được. Thế rồi, một ngày nọ, hoàn toàn do tình cờ, cô đã quì xuống dưới chân Mẹ Maria và quyết định cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy nhắc lại chính những lời của cô ta. “Con đã cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá tan đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng và phó thác được”. Đức Maria đã nhận lời cô cầu xin và cô đã tìm được niềm tin. Và Đức Maria cũng có thể giúp chúng ta tin tưởng phó thác giống như Ngài từng giúp cô gái nói trên. Chẳng hạn, chúng ta là bậc cha mẹ biết quan tâm đến con cái mình. Nhưng xảy ra là chúng chẳng còn chịu đi dâng lễ, hoặc chúng theo gương những bạn bè xấu cho dầu chúng ta đã cầu nguyện, đã làm gương sáng, đã giải thích cho chúng hiểu. Thế là chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Đức Maria sẽ gíup chúng ta làm điều này. Hoặc có thể chúng ta vẫn không chắc chắn về dự tính của mình và cũng có Chúa muốn chúng ta làm gì. Chúng ta đã bàn bạc với cha mẹ và những vị cố vấn, đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn, thế mà chúng ta vẫn còn tối tăm mờ mịt. Vậy thì chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cầu nguyện và phó thác vào Chúa. Đức Maria sẽ gíup chúng ta trong việc này. Hoặc chúng ta là một người đang suy tư về đức tin của mình. Chúng ta lo âu vì biết rằng đức tin mình vẫn còn yếu kém, chúng ta đã cầu xin Chúa giúp nhưng xem ra Ngài vẫn chưa nhậm lời, để rồi chúng ta bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa. Thế là chúng ta chả còn làm gì được ngoài việc tiếp tục cầu nguyện và phó thác cho Chúa. Mẹ Maria sẽ gíup chúng ta thực hiện điều này. Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ gíup. Ngài hằng ao ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta hãy kết thúc với kinh nguyện hằng ngày mà thánh Bernard vẫn thường dâng cho Đức Maria . “Lạy Trinh Nữ Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu gíup mà Mẹ chẳng nhậm lời…. Nhân vì niềm tin cậy ấy, chúng con hướng về Mẹ, ôi Mẹ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, chúng là những tội nhân khốn khổ xin đến trình diện trước Mẹ, Lạy Mẹ Ngôi Lời nhập thể xin đừng ngoảnh mặt đi mà hãy đoái thương lắng nghe và khấn nhậm lời chúng con. Amen.
Ngày 20 tháng giêng 1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng Thống thì Rose Kennedy trở thành Mẹ của Tổng Thống. Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng Thống. Bà không sinh ra một con người Tổng Thống. Nhưng thật sự và đúng là mẹ của một Tổng Thống. Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa. Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch. Tại sao chúng ta công khai tung hô Maria là Mẹ Thiên Chúa ngay sát lễ giáng sinh? Lý do rất tự nhiên khi chúng ta thăm một em bé mới sinh, dễ nhiệm chúng ta muốn biết sức khoẻ của em, Em nặng mấy ký và em giống ai. Thế rồi bao giờ chúng ta cũng muốn biết về sức khoẻ của người Mẹ. Cả tuần nay chúng ta ngắm nhìn Chúa Hài Đồng trong Máng cỏ. Hôm nay chúng ta có lý do hướng về Mẹ của Ngài. Một lý do khác nữa: trong ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau năm mới vui tươi, hạnh phúc. Nghĩa là chúng ta hy vọng và cầu xin cho bạn bè, những người thân yêu được một năm thánh thiện để họ biết Chúa Kitô nhiều hơn, yêu mến người nồng nàn hơn và phụng sự người trung thành hơn như Đức Mẹ đã làm. Để được như vậy không có gì giúp ta, hơn sự thúc đẩy và trợ giúp của Người Mẹ ấy, Chúa Giêsu và tôn kính mẹ, Người cũng muốn chúng ta yêu và Tôn kính Mẹ của Người. Chúng ta có thể gợi một so sánh nữa; John Kennedy đã tham dự Thánh lễ vào buổi sáng ông nhậm chức. Ông làm thế để cám ơn Mẹ ông. Bà đã dự Thánh lễ mỗi ngày từ khi bà kết hôn. Mẹ Tổng Thống Kennedy đã chứng kiến cái chết rùng rợn của con bà, cũng thế Mẹ Thiên Chúa cũng chứng kiến cảnh tượng đóng đinh ghê sợ của Con Mẹ. Cái chết của Chúa Kitô được tái diễn trên bàn thờ này mọi ngày. Chúng ta hãy làm cho Thánh lễ thêm quan trọng hơn trong ngày đầu năm này và bạn sẽ Thánh và hạnh phúc trọn một năm. Hãy xin Thiên Chúa, nhờ Thánh lễ này cho bạn và những người thân yêu của bạn sự phù giúp bạn cần, để làm cho năm nay hạnh phúc. Bạn đặc biệt để ý tới lời kinh nguyện Thánh Thể II “xin cho chúng con xứng đáng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa” sau Thánh lễ bạn hãy tìm tới máng cỏ và nhớ tới Mẹ Thiên Chúa. Mẹ sẽ thực hiện lời chúc mừng và cầu xin của tôi cho tất cả các bạn. Năm mới hạnh phúc cho mọi người. Amen.
Mỗi người đều có cha có mẹ. Đó là nguồn cội của con người. Chim có tổ. Nước có nguồn. Con người phải có tổ ấm, phải có gia đình. Chúa Giêsu khi tới trần gian này, cũng không muốn sống ngoài định luật của con người. Ngài cũng có mẹ, có cha. Đó là tính cách rất người của Chúa Giêsu. Chúa không muốn trở thành một vị tiên giáng trần hay một Phù Đổng Thiên vương vươn vai rồi lớn lên hay như một vị khác thường từ trời giáng thế. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người là có một gia đình để sinh ra. Tuy nhiên, Mẹ Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu đã được chọn lựa giữa muôn muôn người nữ. Mẹ đã khấn giữ mìh đồng trinh, nghĩa là không sinh con, nhưng điều gì con người không làm được đối với Thiên Chúa lại trái ngược. Mẹ Maria đã cưu mang Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần và như thế, ngay khi Mẹ được bà thánh Anna cưu mang, Mẹ đã được hiến thánh, dành riêng cho Thiên Chúa. Nên, Mẹ đã được Thiên Chúa ban cho nhiều đặc ân mà không người nào trên trần gian có thể có được. Mẹ đã được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa. MARIA, MẸ THIÊN CHÚA: Với muôn vàn tước hiệu Giáo Hội và nhân loại tặng ban cho Đức Mẹ, chắc chắn danh hiệu Maria, Mẹ Thiên Chúa là một đặc ân vô cùng cao quí không một ai trên thế gian này được diễm phúc như Mẹ. Vâng, lời bà Élisabét nói với Mẹ là một xác nhận rõ ràng Maria thật có phúc:" Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi". Diễm phúc ấy quả là một ân thưởng lớn lao, quí giá Thiên tặng ban cho Mẹ Maria:" Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Con Thiên Chúa". Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa vào thế kỷ thứ V đã gặp khó khăn khi giáo chủ Nestôriô chống đối, nhưng công đồng Êphêsô với quyền chủ toạ của thánh Cyrillô, tuyên bố cất chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của Ông. Công đồng Êphêsô đã tuyên xưng:" Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì Người cũng đã thực sự sinh ra Đấng-Thiên-Chúa-làm người". Maria được Thiên Chúa tuyển chọn cách hết sức đặc biệt, nên Mẹ được những ơn cao quí nhất mà nhân loại không ai có được. Mẹ xứng đáng mang tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã lắng nghe, chiêm ngưỡng Con Thiên Chúa trong biến cố giáng sinh và Mẹ đã suy đi nghĩ lại trong lòng. Mẹ đã hoàn toàn từ bỏ đễ chìm lắng tâm hồn trong sự cầu nguyện và trở nên hoàn toàn nghèo khó để chiêm ngưỡng Con Thiên Chúa trong sự tin tưởng và phó thác. MARIA, NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH: Ngàyhôm nay ngày đầu năm mới dương lịch, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chọn làm ngày hòa bình thế giới. Khi chọn lễ Mẹ Thiên Chúa làm ngày cầu hòa bình, Đức thánh Cha kêu gọi nhân loại hãy sống an bình, sự bình an của Chúa Hài Đồng ban tặng ngày Ngài đản sinh dưới thế mà các thiên thần loan báo:" Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm"(Lc 2, 14 ) là điều cần thiết nhất cho mỗi người, cho thế giới. Hòa bình trong tâm hồn là điều kiện tiên quyết để lãnh nhận Hài Đồng Giêsu. Hòa bình là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại:" Ta để lại bình an cho các con Ta ban bình an cho các con". Hòa bình bắt đầu từ bên trong tâm hồn. Con Thiên Chúa đến để ban cho nhân loại sự an bình đích thực. Mẹ Maria là Nữ Vương hòa bình,nên hòa bình của con người, của tâm hồn mỗi người nằm trong tay Mẹ. Mẹ sẽ ban phát sự an bình ấy cho nhân loại nếu con người biết mở lòng ra, cải thiện và sám hối làm hòa với Thiên Chúa và với anh em. Như Mẹ Maria, nhân loại sẽ có sự an bình nếu họ biết noi gương bắt chước Ngài mà lắng nghe, suy niệm và đem Lời ra thực hành trong đời sống. Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin cho nhân loại và mỗi người chúng con biết chạy đến với Mẹ xin Mẹ giúp hết thảy mọi người chuẩn bị tâm hồn quay về với Thiên Chúa, Đấng là nguồn Tình yêu, là nguồn Ân Sủng sung mãn để xứng đáng đón nhận hòa bình, đón nhận tình yêu mà Bí Tích Thánh Thể chứa đựng chính Chúa là Vua vũ trụ, Vua Hòa Bình.
Tổng Thống Ngô đình Diệm vị tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa, là vị tổng thống thứ nhất khai sáng lên nền Dân Chủ. Hiện diện trong buổi lễ nhận chức, có bà con họ hàng thân tộc cùng với cụ bà thân sinh ngồi trên hàng ghế danh dự. Khi giơ tay tuyên thệ nhận chức xong, cụ bà tức khắc trở thành mẹ Tổng Thống. Khi sinh hạ bé Ngô đình Diệm cụ chỉ sinh ra cho dân tộc một hài nhi, một người con bụ bẫm, có tính khí hơn người. Bà không sinh Ngô đình Diệm như một Tổng Thống, nhưng thực sự bà là mẹ của một Tổng Thống. Tương tự như vậy, chúng ta tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, là vì Đức Maria đã sinh hạ một người con là Đức Giêsu Kitô, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là nhân loại. Khi sinh hạ Đức Kitô, Mẹ chỉ sinh hạ phần xác, sinh ra một con người thụ tạo, mà không sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Maria được vinh dự cung cấp bản tính nhân loại cho Ngôi Lời Nhập Thể, để nhờ Mẹ Maria, Đức Kitô được trở nên Thiên Chúa, với hai bản tính: Bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Maria cũng trở nên Mẹ Thiên Chúa. Đó cũng là tín điều mà chúng ta mừng kính hôm nay: Mừng kính chức Mẹ Thiên Chúa, một chức cao trọng nhất, tuyệt vời nhất, đặc biệt nhất, danh dự nhất, mà Thiên Chúa có thể ban cho một thụ tạo như Đức Mẹ. Đức Mẹ là người duy nhất trong nhân loại, được Thiên Chúa tuyển chọn và cất nhắc lên địa vị cao trọng như thế. Đó thực là một đặc ân, và đặc ân này kéo theo tất cả các đặc ân khác mà Đức Mẹ đã được: Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được Thiên Chúa bảo toàn đức Khiết Trinh mà Mẹ đã khấn giữ. Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được thông phần với Chúa Kitô để cứu chuộc nhân loại. Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được Thiên Chúa rước Mẹ về trời cả hồn cả xác. Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được Thiên Chúa ban thưởng chức Nữ Vương thiên đàng và muôn ơn khác nữa. Theo thói quen, khi chúng ta đến chúc mừng em bé vừa hạ sinh, thì tiếp đến chúc mừng người mẹ. Chúng ta vừa chúc mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh, thì nay chúng ta mừng Mẹ Người. Ngày đầu năm mới, chúng ta chúc mừng nhau năm mới được đầy ơn Chúa, được hạnh phúc và bình an. Đức Mẹ cũng là người luôn mong ước cho chúng ta được hạnh phúc như vậy. Mà hạnh phúc thật chỉ tìm thấy trong thái độ biết tuân theo mọi sự do Chúa an bài gửi đến trong cuộc sống, trong việc tận tình yêu mến Chúa và phục vụ đồng loại, như chính Đức Mẹ đã thực hiện trong cuộc sống của Người. Lạy Mẹ Maria, Xin dạy chúng con biết cảm tạ Chúa, vì muôn ơn lành Chúa đã ban cho chúng con trong năm qua, và xin giúp chúng con biết yêu mến Chúa, và sốt sáng phụng sự Chúa như Mẹ, để chúng con được hạnh phúc trong năm mới và suốt cả cuộc đời chúng con. Amen.
Giáo hội chọn ngày đầu năm mừng kính Mẹ Thiên Chúa là để tôn vinh Mẹ là Nữ Vương Thời Gian - một thời gian mới của ân sủng. Qua Mẹ, Chúa đã đến khai mạc thời cứu rỗi theo lời đã hứa sau khi nguyên tổ phạm tội: ''Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi (con rắn) và người đàn bà...'' Và Mẹ đã cùng dân tộc Do thái của Mẹ ngày đêm cầu khẩn Đấng Cứu thế mau đến... Một sáng mùa xuân, sứ thần Chúa mang lời dạm hỏi... Tin vui ùa ngập cả hồn, Mẹ ưng thuận. Và nhân loại bắt đầu một trang sử mới. Chúa nhập thể trong cung lòng Mẹ, Chúa tái lập giao ước với con người. Cây Hằng sống giữa vườn Địa đàng năm xưa lại bắt đầu trổ hoa trái Trường sinh. Lòng người lại đơm bông Hạnh phúc. Mùa xuân lại trở về trên vùng đất cũ... Chúa lớn dần trong dạ Mẹ, giữa gia đình, dòng tộc, và quê hương Do thái. Nhưng trong thân xác và đời sống phàm trần của Giêsu lại chất chứa Thần tính của Thiên Chúa và mang trong mình sứ mạng cứu thế, do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Rồi Chúa bắt đầu đi rao giảng, làm phép lạ, chữa lành,... biểu lộ khuôn mặt nhân ái và quyền năng tha thứ của Thiên Chúa Cha. Cuối cùng Ngài chấp nhận cái chết trên thập giá vì tội loài người; và đã sống lại, ban Thần Khí, để ai tin và đón nhận thì được Thần Khí tái sinh, trở nên dưỡng tử của Cha Hằng Sống, được đồng thừa tự với Chúa Giêsu, được gọi Thiên Chúa bằng tiếng Cha thân mật. Con người không còn là nô lệ của lề luật, nhưng sống theo Thần Khí, để có thể bay về quê hương Hằng sống. Chúa đã không đơn độc trong sứ mạng cứu thế. Bên cạnh Chúa luôn có Mẹ đồng hành. Bởi đức tin và tình mẫu tử, tình yêu của Mẹ là sự kết hợp giữa tình huyết nhục và vượt lên trên tình huyết nhục. Mẹ đã gắn bó đời Mẹ vào đời Chúa và vào sứ mạng của Ngài. Mẹ trở nên đấng Đồng Công Cứu Chuộc với Con của Mẹ. Mẹ không những đã để Chúa lớn lên về thân xác trong dạ Mẹ, nhưng Mẹ còn để Lời Chúa, sự sống của Chúa lớn lên trong linh hồn Mẹ cho tới mức thành toàn, qua thái độ chiêm ngắm, ''suy đi nghĩ lại trong lòng'' tất cả những gì liên quan đến Chúa. Khi lòng đã đầy Chúa, Mẹ mang Chúa đến cho người khác... để họ cũng được chiêm ngắm và cưu mang Chúa trong lòng. Mẹ trở thành cầu nối giữa Chúa và con người. Mẹ dâng lên Chúa những nhu cầu của con người (nơi tiệc cưới Cana), Mẹ dạy con người sống theo ý Chúa, ''Ngài bảo gì anh hãy làm theo'', để nhận được ơn cứu rỗi. Trên đồi Can-ve Mẹ đã dâng hiến lễ Tình yêu cho Cha và cho nhân loại qua việc hiến dâng Máu Thịt do chính lòng Mẹ sinh ra. Thập giá của con Mẹ cũng chính là thập giá của Mẹ. Và Chúa đã chính thức trao cho Mẹ sứ mạng làm Mẹ Giáo hội, chi thể của Chúa, dưới chân thập giá: ''Này là Con bà...'' Sau đó Mẹ đã cùng Giáo hội non trẻ của Chúa ngày đêm cầu nguyện, trông đợi Chúa Thánh Thần ngự đến ... Mẹ đã chu toàn sứ mạng trần thế. Hồn xác Mẹ đã về Trời. Ngày nay trên Thiên quốc, Mẹ tiếp tục vai trò làm Mẹ chúng ta, phân phối ân huệ của Chúa Phục sinh cho tới khi ta được rỗi linh hồn. Nếu Chúa là suối, là mưa, thì Mẹ là mương, là máng, thông ơn cho ta. Nơi nào có Mẹ là có niềm vui, có ơn cứu rỗi, rượu ân sủng luôn tràn đầy. Vấn đề là ta có nhận Mẹ làm Mẹ của chúng ta không? Có năng chạy đến với Mẹ trong mọi lúc của cuộc sống không? Ta có coi Mẹ là gương mẫu và là niềm hy vọng cho chúng ta không? Hãy để Mẹ cùng đi với ta trong cuộc đời, và dạy dỗ, giúp đỡ ta cưu mang Chúa trong lòng cho tới khi ta được diện kiến tôn Nhan Chúa, cùng Mẹ hoà nhịp vào tiếng nhạc thiên thần và tiếng hát của các thánh mà ca tụng lòng lân ái vô biên của Chúa trong một mùa xuân bất tận nơi vương quốc Tình Yêu. Hãy để mùa xuân mới Chúa đã khởi sự cách nay hơn hai ngàn năm đi vào sự hoàn tất vĩnh cữu... Ngày đầu năm mới, hãy đến hái lộc ân sủng của Chúa, từ tấm lòng từ mẫu của Mẹ Thiên Chúa ... cho suốt cả năm và suốt cả đời ...
Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, được bà Isave là người phụ nữ đầu tiên đã thốt lên, xưng tụng Mẹ Maria: Bởi đâu mà tôi có diễm phúc được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi ? ( Lc 1: 43).
Từ đầu, giáo hội vẫn tin như vậy. Mãi đến năm 431, Công đồng Ephêsô mới công bố thành một tín điều để phản bác lại bè rối Nestorius phủ nhận vai trò Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria.
Năm 1932, để kỷ niệm 1500 năm ngày công bố tín điều nầy, Đức Giáo hoàng Piô thứ XI mới lập nên lễ Mẹ Thiên Chúa và được mừng kính vào ngày 11 tháng 10 hằng năm.
Công đồng Vaticanô II, sau khi canh tân lại Phụng vụ, lễ nầy được mừng kính vào ngày đầu năm dương lịch, trong tuần bát nhựt Giáng sinh như hiện nay.
Chắc có người không khỏi thắc mắc:
Thiên Chúa mà cũng có mẹ sao ?
Vậy Đức bà Maria lớn hơn Thiên Chúa à ?
Trước hết, ta nên cẩn trọng khi tuyên xưng Đức Maria Mẹ Thiên Chúa có nghĩa là Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa vì Ngôi Hai Thiên Chúa có hai bản tính: Bản tính ĐCT và bản tính loài người. Ngôi Hai Thiên Chúa, đồng bản tính với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh thần. Đức Giêsu cũng là người thật, được thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh thần, cưu mang chín tháng mười ngày trong lòng mẹ, mang huyết nhục người mẹ, được mẹ sinh ra, được mẹ đặt tên cho, được mẹ yêu thương, săn sóc và cũng chịu ảnh hương nhiều cá tính của mẹ. Đức Maria thực sự là mẹ Đức Giêsu, người là Ngôi Hai Thiên Chúa, gọi tắt là Mẹ Thiên Chúa.
Hôm nay, ngày đầu của một năm mới, giáo hội mừng lê Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với những bài đọc Phụng vụ rất đầy ý nghĩa.
Ngày đầu năm không gì bằng được Thiên Chúa chúc lành cho trong một công thức long trọng. Num 6: 22-27 (Bài đọc 1): Công thức chúc lành mà ĐGH, ĐGM hoặc LM chúc lành cho dân chúng trong những dịp lê đặc biệt:
Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh chị em.
Nguyện cho ánh sáng rạng ngời của Người chiếu toả trên anh chị em và dủ lòng thương anh chị em.
Nguyện xin Thiên Chúa đoái nhìn đến anh chị em và ban bình an cho anh chị em.
Không lời nào đẹp hơn được dùng khi chúc lành bằng những lời cực thánh của chính Thiên Chúa.
Chúng ta được chúc phúc qua trung gian của một người đàn bà đầy ơn phúc, Đức trinh nữ Maria, như lời Thiên thần Gabriel: Kính chào Maria đầy ơn phúc. Người đàn bà nầy đã chịu nhận làm mẹ Ngôi Lời nhập thể, nên chúng ta mới được phước làm nghĩa tử, làm người thừa kế, được gọi Thiên Chúa là Cha, Ap-ba, không phải làm thân nô lệ như xưa nữa.(Gal 4: 4-7) Bài đọc 2.
Ôi, diêm phúc nào hơn diễm phúc nầy, được làm con Thiên Chúa!
Trong bài Tin mừng, Phúc âm tường thật một phần câu chuyện Giáng sinh: Mục đồng đến thờ lạy Chúa và Chúa Giêsu chịu phép cắt bì.
Mục đồng là hạng người hèn trong xã hội Do thái thời bấy giờ, nghèo, không có tài sản, phải đi chăn thuê. Họ là những người đầu tiên được phúc xem thấy Chúa như lời Thiên thần đã chỉ, họ đã gặp Maria, Giuse và Hài nhi nằm trong máng cỏ. Luca tường trình ba nhân vật mà mục đồng đã gặp theo thứ tự, bắt đầu là Maria và cuối cùng là Hài nhi Giêsu cho chúng ta thấy vai trò trung gian của Đức Maria. Muốn đến cùng Chúa phải qua Đức Maria và cả thánh Giuse nữa.
Đức cha Fulton Sheen kể: Một buổi sáng nọ, Đức Giêsu đi bách bộ trên Thiên đàng gặp một đám người xấu xa bẩn thỉu, lẻ ra họ không đáng được ơ nơi nầy. Chúa giận, đến cửa thiên đàng gọi ông Phêrô mà quơ trách. Thánh tông đồ bào chữa: Lạy Chúa, khi bọn người bất xứng đó đến đây, con đã đuổi chúng đi, bảo chúng xuống hoả ngục mà ơ. Nhưng chúng đã lẻn ngỏ sau, gỏ cửa nhè nhẹ kêu mẹ ơi, mẹ ơi, và Mẹ của Chúa đã mơ cửa cho chúng vào. Chúa mỉm cười và hứa sẽ đi câu cá với ông Phêrô.
Đức Mẹ thương chúng ta lắm. Không những trong ngày đầu năm mà mỗi ngày suốt cả đời ta.
Chúng ta thật có phúc vì có một người mẹ đầy ơn phúc, Mẹ Thiên Chúa và cũng là mẹ của chúng ta. /.
Maria, người thiếu nữ làng Nazarét, đã đính hôn với Giuse, người thợ mộc cùng làng. Một ngày kia theo như Tin Mừng thuật lại thì Bà được thiên thần Gabriel hiện đến và chào mừng Bà như sau: “Kính chào Bà, Ðấng đầy ơn sủng, Ðức Chúa ở cùng Bà!”
Sau khi chờ cho Maria qua cơn sợ hãi, thiên thần báo tin là Bà sẽ thụ thai và sinh một con trai và đặt tên là Giêsu và Người sẽ được gọi là “Con của Ðấng Tối Cao”.
Nghe tin ấy Maria thật bối rối vì Bà chưa thành hôn, và như vậy thì Bà có thể bị kết tội là ngoại tình và có thể bị ném đá. Nhưng thiên thần nói là Bà sẽ thụ thai bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần: “Ðối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được. Và Maria đã trả lời với niềm tin chắc chắn: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời thiên thần truyền.”
Ngôi Lời đã đầu thai trong lòng Bà Maria nên Bà được xưng tụng là Mẹ của Chúa Giêsu, Mẹ của Hội Thánh Người và là Mẹ Thiên Chúa. Vì vậy trong quá khứ Bà Maria có một địa vị thật cao trọng trên mọi người nữ và có một thân phận đặt biệt ở trên nhân loại. Nhưng ngày nay thì Maria được nhìn với khía cạnh con người thì Bà cũng có những ưu tư như mọi người đàn bà và mọi người mẹ của nhân loại. Vai trò mầu nhiêm và cao cả của Ðức Bà Maria là đồng công cứu chuộc, nhưng trong xã hội thời bây giờ thì Maria làng Nazarét là một người đàn bà nghèo, gắn bó với đức tin và nổi cơ cực của dân mình, cũng bị những thử thách gian khổ giữa trần gian, thừa hưởng một niềm hy vọng dân tộc là mong được giải phóng và được cứu độ. Do đó Ðức Bà Maria được sùng kính về tính chất siêu nhiên cũng như đức tin tuyệt đối của Bà.
Hai câu chuyện trong Tin Mừng đã nêu cao điểm này. Một lần kia có người báo với Chúa Giêsu là “mẹ và anh em Ngài đang đi tìm kiếm Chúa. Rảo mắt nhìn những người ngồi chung quanh, Chúa đã trả lời: “Ai là mẹ và anh em Ta? Ðây là mẹ và anh em Ta, những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh chị em và mẹ của Ta.”
Một lần kháccó người trong đám đông kêu lên; “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Nhưng Chúa đã đáp lại: “Phúc thay cho kẻ lắng nghe và giữ lời của Thiên Chúa.”
Những câu chuyện trên không làng giảm đi lòng kính mến của Chúa Giêsu với mẹ mình, nhưng chứng tỏ không phải vì huyết thống mà trở nên môn đồ của Chúa, mà chứng tỏ Ðức Bà Maria là môn đồ đích thật: biết lắng nghe, vâng phục, kính mến lời và ý muốn của Thiên Chúa.
Sách Tin Mừng của thánh Gioan kể lại Ðức Bà đứng dưới chân thánh giá, bên cạnh người “tông đồ yêu dấu của Chúa”. Theo thánh Luca thì Ðức Bà đã ở cùng các tông đồ trên một phòng trên gác tại Jerusalem sau khi Chúa Giêsu đã lên trời. Thật vậy Ðức Bà là tông đồ tiên khởi và đích thật và Ðức Bà được tôn kính như một đấng thánh đầu tiên. Khi đức tin còn đang trong tăm tối thì Ðức Bà đã ưng thuận kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Trong ánh sáng của niềm tin Ðức Bà Maria đã đáp lại lời ngợi khen và cảm tạ tuyệt vời:
Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tôi
Từ nay cho hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc
Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn! …
Từ năm 153 v.Chr. (trước công nguyên) đã diễn ra cảnh thay đổi những chức vị hành chánh quốc gia ở thành Rô-ma vào những ngày đầu tháng Giêng. Trước đó mọi thay đổi đều diễn ra vào ngày 01.03.
Việc thay đổi này được công nhận đi liền với việc sửa đổi mới niên lịch thời hoàng đế Ce-sar vào năm 64 v.Chr. Vì thế mọi người ăn mừng ngày đầu năm 01.01. tưng bừng và trao đổi cho nhau qùa tặng cùng lời chúc mừng.
1. Ngày 01.01. và niềm tin đạo giáo.
Công đồng thànhTours (567) và công đồng Toledo(633) ấn định ba ngày đầu tháng Giêng hằng năm là ngày dành cho việc cầu nguyện ăn chay sám hối. Như thế có thể đoán được rằng, đã có lễ nghi kính thờ Thiên Chúa vào ngày đầu năm năm mới rồi. Một bản lễ nghi cổ xưa còn lưu lại với tựa đề: Xa tránh những lễ nghi thờ thần hoàng.
Cũng theo lễ nghi cổ xưa bên Tây-ban-nha, ngày đầu năm có thánh lễ tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa tể thời gian. Vào thời trước thế kỷ thứ bẩy ở Rô-ma, có thể do ảnh hưởng của lễ nghi By-dăng-tin ngày 01.01. là ngày lễ kính Đức Mẹ với tên "natale sanctae Mariae".
Ở vùng Tây-ban- nha và Pháp từ thế kỷ thứ sáu, ngày 01.01. là ngày lễ cắt bì Chúa Giêsu. Lễ này được hội thánh bên Roma từ thế kỷ thứ 13 sang 14 công nhận rồi được đặt tên là “ lễ cắt bì Chúa Giêsu và tuần bát nhật sau lễ Chúa giáng sinh”. Từ ngày đó trong toàn thể hội thánh Công giáo mừng kính ngày lễ đó, cho tới lần sửa đổi phụng vụ vừa qua.
Từ 1969 niên lịch phụng vụ được sửa đổi, lễ kính Đức Mẹ Maria ngày 01.01. được đưa vào thy thế lễ cắt bì và có tên " Đại lễ kính Đức Mẹ Maria là mẹ Thiên Chúa". Trong ngày lễ kính này, tên Chúa Giêsu cũng được nhắc nhớ đến. Như thế một lễ riêng kính tên Chúa Giêsu không còn nữa.
2. Ngày đầu năm và nếp sống con người.
Ngày đầu năm mới mở ra cánh cửa bước vào thời gian tương lai đang đến trong đất trời và cho con người. Năm Mới bắt đầu với tháng Giêng. Tháng Giêng theo chữ nghĩa tây phương Januar, Janvier, January... cũng diễn tả biểu tượng cho cửa.
Ngày xưa ngưòi Rô-ma kính thờ thần ia-nus (Janus) như Thần cánh Cửa. Vì thế vị Thần này thường được khắc vẽ trên cửa nhà với hai khuôn mặt: một ở phía ngoài, và một ở bên trong cánh cửa. Ông có nhiệm vụ trông coi canh chừng kẻ ra, người vào. Chính vì vậy Ông được phong là vị Thần canh giữ nhà. Và người ta đã lấy tên vị thần Janus đặt tên cho Tháng thứ nhất của năm: Januar, January, Janvier, Tháng Giêng.
Ở nhiều nơi trong các lâu đài cổ, hoặc nhà thờ cổ xưa, hay các nhà cổ người ta còn khắc hình đầu vị thần này trên cửa: Một đầu phía ngài và một phía trong cửa. Và với dòng chữ cầu chúc như sau: Bonus intra, melior exi - Ước gì khi vào mang điều may lành, và khi ra nhiều may mắn hơn!
Cuộc sống chúng ta có hai chiều: Mặt sáng tỏ và mặt với bóng tối, tốt và xấu. Đó là thực tại của đời sống. Mở cửa lòng ra để ánh sáng tràn vào, xóa đi mặt tối của đời sống và để chiếu tỏa niềm hy vọng, vui tươi cho người khác.
Đó là nhiệm vụ canh giữ cửa lòng mình trong Năm Mới.
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: "Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi." Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết. A. Hạt giống... Bài Tin Mừng này trình bày 2 thái độ khác hẳn nhau: a/ Thái độ của những người chăn chiên là tíu tít kể chuyện ; b/ Thái độ của Đức Maria là ghi nhớ mọi sự và suy niệm trong lòng. B.... nẩy mầm. 1. “Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa nhưng chung quanh Người chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này... Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân Con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn. Người chỉ muốn phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác. Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hòa khí trong tương quan với tha nhân” (Trích "Mỗi ngày một tin vui"). 2. Thánh Luca khám phá đặc điểm của Mẹ Thiên Chúa là “ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Tuy là mẹ của Chúa Giêsu nhưng ban đầu Đức Mẹ không hiểu hết về con mình. Tuy không hiểu nhưng nhờ “ghi nhớ và suy đi nghĩ lại” nên sau cùng Mẹ đã rất hiểu Ngài. Huống chi chúng ta: chúng ta là môn đệ Chúa, là con Chúa, chúng ta càng cần phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại những kỷ niệm về Chúa thì mới hiểu được Ngài. 3. Một bài hát kia có một tựa đề rất gợi ý, là “The sound of silent”, tiếng của thinh lặng. Phải, thinh lặng nói với ta rất nhiều điều. Ta thử thinh lặng để “suy đi nghĩ lại” về những sự việc chung quanh việc Chúa Giáng sinh, để coi xem ta nghe được gì. 4. Một người da đỏ cùng đi với một người da trắng trên đường. Người da đỏ bỗng vỗ vai người da trắng, hỏi - Anh có nghe gì không ? Người da trắng hết sức lóng tai nghe, rồi đáp - Tôi chẳng nghe gì cả. - Có mà, tôi nghe tiếng một con dế gáy. - Làm gì mà có con dế nào giữa đường phố nhộn nhịp như thế này ? Mà cho dù có đi nữa thì làm sao anh nghe được tiếng nó giữa bao tiếng ồn ào của xe cộ và người qua kẻ lại ? Người da đỏ không thèm trả lời. Anh đi đến một bức tường bên vệ đường. Bức tường đã cũ. Nhiều dây leo chằng chịt trên đó. Anh vạch đám dây leo sang một bên. Một lỗ trống hiện ra, trong đó rõ ràng có một con dế đang gáy. Người da trắng thán phục: - Dân da đỏ các anh có lỗ tai thính hơn dân da trắng chúng tôi nhiều. - Không phải thế đâu. Để tôi thử cái này cho anh xem. Người da đỏ lấy trong túi ra một đồng tiền kẽm, thảy xuống mặt đường. Tiếng đồng tiền lăn len ken khiến mọi người đi đường ngoái đầu nhìn lại. Liền đó người da đỏ giải thích: - Tiếng của đồng tiền kẽm nhỏ hơn tiếng dế kêu rất nhiều. Thế mà mọi người da trắng đều nghe được. Còn tiếng con dế lớn hơn nhưng chỉ có tôi nghe được. Không phải ai thính tai hơn ai cả. Sự thực chính là chúng ta chỉ nghe được tiếng của những thứ chúng ta thường quan tâm để ý (Willi Hoffsemmer). 5. “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16) Một buổi sáng Chúa nhật, ngày đẹp nhất trong tuần, tôi đến nhà thờ dự lễ và ngao ngán với một bài giảng quá dài, lại chẳng có gì hấp dẫn… Chúa nhật sau, anh hẹn đưa tôi đi chơi. Tôi náo nức chờ đợi, đợi cờ từng phút giây, mong tới giờ hẹn. Và chúng tôi đã lên đường… bỏ lại đàng sau không buồn luyến tiếc: ngôi thánh đường và cả Chúa Giêsu nữa ! Tôi là thế đó, chỉ muốn làm những gì mình thích và thích làm những điều thật vĩ đại. Còn Mẹ Maria thì chọn những gì Chúa muốn và để cho Ngài làm nên những điều cao cả. Nếu như Thiên Chúa cần một người mẹ cho Ngôi Lời nhập thể thì Mẹ đã cất tiếng xin vâng để trần gian được cứu độ. Và trong nữ giới, Mẹ thành người diễm phúc nhất. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Xin cho con hằng noi gương Mẹ mà gắn bó cùng Chúa trọn đời. (Epphata) 6. Mầm khác:
Đây là một thánh lễ có từ lâu đời, nên mang nhiều ý nghĩa: 1. Thánh lễ đầu năm dương lịch 2. Kính thánh Danh Chúa Giêsu 3. Cầu cho hòa bình thế giới 4. Kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. 1. Thánh lễ đầu năm dương lịch Hội Thánh mượn lời sách Dân số 6, 22-27 để xin Thiên Chúa chúc lành cho cả nhân loại trong năm mới: “Chúa phán cùng Môsê rằng: Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: các ngươi hãy chúc lành cho con cái Ít-ra-en ; hãy nói với chúng thế này: Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa cho con và thương xót con. Họ sẽ kêu cầu Danh Ta trên con cái Ít-ra-en, và ta sẽ chúc lành cho chúng. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con và ban bằng yên cho con.” “Xin Chúa tỏ Thánh Nhan”, có nghĩa là: - Xin Người tha thứ, đừng giận, đừng che mặt trước loài người, đừng để con người phải lẻ loi đương đầu với tất cả sự ác trên thế giới. - Xin người ban sự hiện diện của Người cho nhân loại, có nghĩa là con người xin được giao hoà, được sống dưới sự che chở, dưới lòng nhân từ của Thiên Chúa. - Xin Người ban cho nhân loại sự hiệp thông với Người trong cả cuộc sống. Đó là sự chúc lành cao cả nhất của Thiên Chúa ban cho nhân loại. 2. Lễ đặt tên Hôm nay cũng là bát nhật lễ Giáng sinh. Hội Thánh nhớ đến phong tục do thái: tám ngày sau khi được sinh ra, các bé trai do thái sẽ được cắt bì và đặt tên: “Khi Hài nhi được đủ 8 ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài nhi là Giêsu ; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài nhi thành thai trong lòng mẹ” (Lc 2,21) Danh Thánh Giêsu, theo nghĩa do thái là “Yavê là sự cứu độ”. Hài nhi được đặt tên Giêsu. Còn chúng ta, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, cũng được đóng ấn trong danh Đức Giêsu. Ngày đầu năm, Hội Thánh nói lên khát vọng của mình: không phải chỉ những tín hữu mới mang danh thánh Giêsu ; nhưng ước gì mọi người, cũng như muôn loài muôn vật cũng đều được đóng ấn trong Danh Thánh này. Lúc ấy ơn cứu độ mới được hoàn tất: “Người cho ta biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một Thủ Lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10) 3. Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giời “Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau rằng: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Họ liền hói hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài nhi này” (Lc 2,15-17) Hài nhi này là ai ? Là Cứu Chúa, là Vua Hòa bình. Chính vì Người sinh ra mà “có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,13-14) Vị Vua Hòa bình đã xuất hiện. Xin bình an của Người đổ tràn trên thế giới còn đầy dẫy chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, thất học, đầy bạo lực và bất công ; một thế giới đang nằm trên những kho vũ khí hạt nhân, bất cứ lúc nào cũng có thể huỷ diệt toàn thể nhân loại và trái đất này. 4. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và trở thành anh em của loài người. Trong Người, chúng ta được trở thành con của Thiên Chúa và là anh em của nhau. Trong bí tích Rửa tội, chúng ta nhận Thần Khí của Người Con chí ái và với niềm tin tưởng, chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha. Đó là mầu nhiệm giáng sinh cho nhân loại. Ngày hôm nay, với sự trìu mến, Hội Thánh ngắm nhìn Người Phụ Nữ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Nếu không có tiếng “Xin vâng” của người Trinh nữ này, sẽ không có mầu nhiệm Thập giá (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh) A. Hạt giống... Bài Tin Mừng này trình bày 2 thái độ khác hẳn nhau: a/ Thái độ của những người chăn chiên là tíu tít kể chuyện ; b/ Thái độ của Đức Maria là ghi nhớ mọi sự và suy niệm trong lòng. B.... nẩy mầm. 1. “Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng chung quanh Người chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này... Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân Con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn. Người chỉ muốn phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác. Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hòa khí trong tương quan với tha nhân” (Trích "Mỗi ngày một tin vui"). 2. Thánh Luca khám phá đặc điểm của Mẹ Thiên Chúa là “ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Tuy là mẹ của Chúa Giêsu nhưng ban đầu Đức Mẹ không hiểu hết về con mình. Tuy không hiểu nhưng nhờ “ghi nhớ và suy đi nghĩ lại” nên sau cùng Mẹ đã rất hiểu Ngài. Huống chi chúng ta: chúng ta là môn đệ Chúa, là con Chúa, chúng ta càng cần phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại những kỷ niệm về Chúa thì mới hiểu được Ngài. 3. Một bài hát kia có một tựa đề rất gợi ý, là “The sound of silent”, tiếng của thinh lặng. Phải, thinh lặng nói với ta rất nhiều điều. Ta thử thinh lặng để “suy đi nghĩ lại” về những sự việc chung quanh việc Chúa Giáng sinh, để coi xem ta nghe được gì. 4. Một người da đỏ cùng đi với một người da trắng trên đường. Người da đỏ bỗng vỗ vai người da trắng, hỏi - Anh có nghe gì không ? Người da trắng hết sức lóng tai nghe, rồi đáp - Tôi chẳng nghe gì cả. - Có mà, tôi nghe tiếng một con dế gáy. - Làm gì mà có con dế nào giữa đường phố nhộn nhịp như thế này ? Mà cho dù có đi nữa thì làm sao anh nghe được tiếng nó giữa bao tiếng ồn ào của xe cộ và người qua kẻ lại ? Người da đỏ không thèm trả lời. Anh đi đến một bức tường bên vệ đường. Bức tường đã cũ. Nhiều dây leo chằng chịt trên đó. Anh vạch đám dây leo sang một bên. Một lỗ trống hiện ra, trong đó rõ ràng có một con dế đang gáy. Người da trắng thán phục: - Dân da đỏ các anh có lỗ tai thính hơn dân da trắng chúng tôi nhiều. - Không phải thế đâu. Để tôi thử cái này cho anh xem. Người da đỏ lấy trong túi ra một đồng tiền kẽm, thảy xuống mặt đường. Tiếng đồng tiền lăn leng keng khiến mọi người đi đường ngoái đầu nhìn lại. Liền đó người da đỏ giải thích: - Tiếng của đồng tiền kẽm nhỏ hơn tiếng dế kêu rất nhiều. Thế mà mọi người da trắng đều nghe được. Còn tiếng con dế lớn hơn nhưng chỉ có tôi nghe được. Không phải ai thính tai hơn ai cả. Sự thực chính là chúng ta chỉ nghe được tiếng của những thứ chúng ta thường quan tâm để ý (Willi Hoffsemmer). 5. “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16) Một buổi sáng Chúa nhật, ngày đẹp nhất trong tuần, tôi đến nhà thờ dự lễ và ngao ngán với một bài giảng quá dài lại chẳng có gì hấp dẫn… Chúa nhật sau, anh hẹn đưa tôi đi chơi. Tôi náo nức chờ đợi từng phút giây, mong tới giờ hẹn. Và chúng ta đã lên đường… bỏ lại đàng sau không buồn luyến tiếc: ngôi thánh đường và cả Chúa Giêsu nữa ! Tôi là thế đó, chỉ muốn làm những gì mình thích và thích làm những điều thật vĩ đại. Còn Mẹ Maria thì chọn những gì Chúa muốn và để cho Ngài làm nên những điều cao cả. Nếu như Thiên Chúa cần một người mẹ cho Ngôi Lời nhập thể thì Mẹ đã cất tiếng xin vâng để trần gian được cứu độ. Và trong nữ giới, Mẹ thành người diễm phúc nhất. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Xin cho con hằng noi gương Mẹ mà gắn bó cùng Chúa trọn đời. (Epphata) 6. Mầm khác:
Tâm Tình Hòa Bình (Ds 6,22-27; Ga 4,4-7; Lc 2,16-21)
Phúc Âm: Lc 2, 16-21 “Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu”. Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
Suy Niệm: (Ngày 1 Tháng GIêng - Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa) (Ds 6,22-27; Ga 4,4-7; Lc 2,16-21)
Những bài Kinh Thánh chúng ta vừa nghe đọc cho thấy Lễ này có nhiều khía cạnh. Từ ngàn xưa khi mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, Dân Chúa vẫn chú tâm đến Đức Mẹ và không ngớt chiêm ngưỡng khuôn mặt của Người nơi máng cỏ. Có thể nói, Mùa Giáng sinh cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Nhưng riêng ngày 1 tháng Giêng hôm nay, Phụng vụ nhiều khi lúng tún: khi thì chú trọng đến việc cắt bì và đặt tên cho Hài Nhi, khi lại muốn tôn kính đặc biệt Đức Thánh Mẫu. Đức Phaolô VI lại thêm cho ngày này một ý nghĩa xã hội và đặt tên là Ngày Hòa Bình Thế Giới. Suy nghĩ của chúng ta có lẽ nên bao gồm cả ba khía cạnh đó để Ngày Lễ hôm nay được cử hành một cách phong phú. 1. Cắt Bì Và Đặt Tên Cho Hài Nhi Trong Thánh Lễ Nửa Đêm Giáng sinh, Phụng vụ đọc cho ta nghe bài Tin Mừng Luca. Tác giả thuật lại câu chuyện Chúa ra đời một cách chính xác khiến ta thấy rõ lịch sử tính của Tin Mừng. Nhưng Luca đã dùng một từ ngữ, mà những người có kiến thức đạo đức nông cạn đã không hiểu gì. Luca nói: Đức Maria đã sinh con đầu lòng, lấy khăn bọc lại rồi đặt vào máng cỏ. Có người đã nói: vì sao lại nói là “con đầu lòng”? Đức Maria có sinh người con nào khác nữa đâu! Tốt hơn và chính xác hơn nên nói là “Con Một”. Suy nghĩ như thế cũng đúng thôi, và khoa học đấy,nhưng lại không đạo đức như Luca là một tác giả Sách Thánh. Chữ “Con đầu lòng” dùng trong Tin Mừng gợi lên nhiều âm vang trong Cựu Ước, đặc biệt các đoạn sách liên quan tới việc Chúa đưa dân ra khỏi Aicập. Ngày ấy, thần sứ nhà Trời đã đi qua nước này và giết hết các con trai đầu lòng người Aicập và bỏ qua các con trai đầu lòng người Dothái. Từ đó, cả dân được cứu vớt được coi như con đầu lòng của Chúa và mọi con trai đầu lòng người Dothái phải được hiến thánh cho Ngài để trở thành của Ngài, đến nỗi gia đình phải dâng một đôi chim hay một con chiên nhỏ cho Đền Thờ để thế lại rồi mới được đem đứa con đầu lòng về lại gia đình. Vậy, khi dùng từ ngữ “con trai đầu lòng” để nói về Hài Nhi mà Đức Maria vừa sinh ra, Luca muốn cho chúng ta nhìn thấy ngay Hài Nhi về phương diện đạo đức. Đây là Hài Nhi thánh, Hài Nhi của dân thánh, Hài Nhi được hiến thánh, là Con của Thiên Chúa. Nhất là Luca đã viết trong bài Truyền tin rằng: Thánh Thần đến phủ bóng trên Đức Maria; nên Trẻ Người sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Thế nên Luca đã không dùng từ ngữ “Con Một” để nói về Hài Nhi Đức Maria vừa sinh ra; ông đã dùng từ ngữ “con đầu lòng” để bao trùm máng cỏ trong một bầu khí thánh thiện đạo đức. Và chúng ta cũng phải nhìn việc cắt bì và đặt Tên cho Hài Nhi trong bầu khí thánh thiện đạo đức ấy. Mọi ý nghĩa tò mò đều không xứng đáng. Người Dothái cử hành ngày thứ 8 này sau khi đứa trẻ sinh ra, một cách thánh thiện lạ lùng. Họ ý thức đâu là buổi lễ liên kết gia đình, dòng dõi họ vào Giao ước; họ được gắn liền với Thiên Chúa để Yavê là Chúa của họ và họ là dân và con của Ngài ở giữa mọi dân khác chỉ là dân ngoại. Gia đình Hài Nhi ở Bêlem còn cử hành ngày hôm nay đạo đức hơn nữa. Vì cả Yuse lẫn Maria sẽ phải đặt Tên cho Con Trẻ là Yêsu, như thiên thần đã dạy. Làm công việc này là vâng theo Ý Chúa, là thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Ngày hôm nay đáng dùng để suy nghĩ về các Ngài và đặc biệt về Đức Maria. 2. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa Còn tước hiệu nào hợp hơn để nói về Đức Maria trong hoàn cảnh này bằng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa? Dĩ nhiên những lạc giáo ở những thế kỷ III-IV đã khiến Phụng vụ nhấn mạnh đến khía cạnh này. Nhưng như vậy cũng chỉ đúng với sự thật thôi! Nhìn Đức Maria nơi máng cỏ, ai không thấy Người là Mẹ? Và sở dĩ máng cỏ được chúng ta chú ý và các thế hệ loài người nhìn ngắm, là vì Hài Nhi nằm đó không phải là một trẻ thường. Cả Luca, cả Yoan và cả Matthêô chỉ nói về Hài Nhi này như là một Trẻ Thánh. Luca dù tả chính xác câu chuyện Chúa sinh ra với những chi tiết thật cụ thể, vẫn gọi Hài Nhi là “con đầu lòng” như chúng ta đã nói ở trên và vẫn thêm cả một khúc trong bài tường thuật để làm nổi bật tính cách thần linh trong việc Giáng sinh này. Yoan thì rõ ràng xác định: Hài Nhi chính là Ngôi Lời trở thành nhục thể. Và chúng ta cử hành Phụng vụ Giáng sinh để cùng với các thiên thần trên trời thờ lạy người Con mà Chúa Cha vừa sinh ra ở đời. Vậy, Hài Nhi nơi máng cỏ đã là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa và là chính Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người, thì Đức Maria, mẹ Người, cũng thật là Thánh Mẫu và là Mẹ Thiên Chúa. Đừng sợ tước hiệu này xúc phạm đến Thiên Chúa Cao Cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở nên như chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; Ngài chấp nhận mọi luật lệ sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì tại sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của mọi người; và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi không muốn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Đấng đầy ơn phúc. Chúng ta cảm mến Mẹ và nhất là muốn theo gương Mẹ để có tâm hồn, tâm tình và thái độ đạo đức như Mẹ. 3. Tâm Tình Hòa Bình Trong bài Tin Mừng Luca hôm nay, Mẹ hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy đi nghĩ lại trong lòng. Chúng ta quen nhìn thái độ ấy một cách đạo đức và có lý để coi Mẹ như là gương mẫu về sự chiêm niệm và cầu nguyện. Nhưng chúng ta cũng đừng quên nhìn thái độ ấy một cách tự nhiên hơn, để thấy Đức Maria là một bà mẹ như hết mọi bà mẹ, ghi nhớ tất cả những điều gì về Con và gẫm suy những điều đó trong lòng. Quả thật, người mẹ nào không tự hỏi về tương lai của đứa con? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc các thiên thần hiện ra ban đêm? Và Người có thể nào không suy nghĩ về tiếng “Yêsu” mà từ nay theo lệnh sứ thần, Người sẽ dùng để gọi Con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi Truyền tin: “Bà sẽ gọi Con Trẻ là Yêsu. Người sẽ làm lớn và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vua Đavit cha Người và Người sẽ cai trị trong nhà Yacob đến muôn đời”. Những lời đó không đơn sơ dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú. Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại. Hôm nay các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ sẽ là Cứu Thế, nên các thiên thần đã xướng ca: Vinh quang Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Như vậy, Yêsu Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Người sẽ đem lại hòa bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Chúa Trời. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Và Đức Phaolô VI khuyên ta hằng năm hãy dùng Ngày Đầu Năm Dương lịch này để suy nghĩ về hòa bình thế giới. Chúng ta đã ra khỏi những năm chiến tranh. Chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ về hòa bình. Hòa bình không phải chỉ là hết chiến tranh. Hòa bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực là hết chiến tranh. Vả lại hết chiến tranh cũng phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Chúng ta còn có nhiệm vụ quốc tế và công giáo. Hòa bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới. Chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ hòa bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại. Người suy nghĩ về Danh “Yêsu”, có nghĩa là Cứu Thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, như bài sách Dân số nói, để phước lộc được đổ xuống trên các dân. Và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần yêu mến mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, như lời thư Galát nói, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì thấy mình là anh em với nhau. Nhưng làm sao có thể kêu cầu Danh Chúa Yêsu mang lại hòa bình như thế, khi không bắt chước Đức Maria mà kêu Danh ấy với tất cả lòng yêu mến dấn thân. Mỗi lần Đức Maria gọi tên Yêsu, Người muốn hiến thân để cùng cứu thế. Điều đó thật chắc chắn! Điều đó nhắc nhở ta là Kitô hữu phải hiến thân cứu đời, tức là quên mình để sống vì hạnh phúc của xã hội. Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bình bác ái; phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc; phải dứt khoát với mọi hình thức vinh thân phì gia, sống chết mặc bay miễn là cái tôi ích kỷ được thỏa mãn. Như vậy, hòa bình đòi phấn đấu và đấu tranh để tiêu diệt các xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người. Hết thảy chúng ta hãy tích cực để chúng ta không chỉ nói hòa bình nhưng muốn xây hòa bình. Chúng ta sẽ đáp lại nguyện vọng của Đức Phaolô VI khi đặt tên cho ngày hôm nay là Ngày Hòa Bình Thế Giới. Chúng ta sẽ bắt chước Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, hôm nay suy nghĩ về Danh Đức Yêsu, muốn hiến thân cùng cứu thế với Người. Chúng ta sẽ thể hiện ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Thể sắp cử hành, khi đem thân, đem máu mình ra để hủy diệt cái cũ, xây dựng cái mới cho muôn người được cứu độ.
Phụng vụ khởi đầu năm mới dương lịch bằng cách tôn vinh một con người dưới tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”. Đó là Đức Maria. Một mầu nhiệm khó hiểu Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã khó hiểu đối với lý trí con người, việc Đức Maria được gọi là Mẹ Thiên Chúa lại càng khó hiểu hơn. Là bởi vì con người sao lại có thể sinh ra Chúa ?. Chính vì vậy, trong quá khứ đã có không ít người phủ nhận tước hiệu này (Nestôriô, thế kỷ 5). Tiên tri Ysaia đã ví “xác phàm như cỏ rả” khi so với Thiên Chúa là Đấng ngàn năm bền vững, vạn đại trường tồn. Xét về phương diện con người, Đức Maria thật ra cũng chỉ là “cỏ rả”, làm sao sinh ra Thiên Chúa được ?. Một đường lối ngược đời Mà thật ra, ngẫm cho kỹ, hành động của Thiên Chúa xem ra bao giờ cũng ngược đời: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi” (Ys 55, 8). Để yêu thương, Thiên Chúa không thích biểu dương chính mình bằng một cách thế oai phong lẫm liệt, nhưng luôn tự xoá nhoà chính bản thân mình. Người đã “không giằng cho được địa vị ngang hàng cùng Thiên Chúa” thì Người còn muốn đề cao mình làm gì ?. Trong thơ gởi tín hữu Galata, bài đọc 2, Thánh Phaolô đã viết một câu thật đáng sợ: “Khi tới hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (4, 4-5). Suy cho cùng, Thiên Chúa đã hành động bằng cách đi ngược lại với con đường của Ađam ngày xưa. Chính vì kiêu ngạo và bất tuân mà tội đã nhập vào thế gian này và bởi đó có sự chết. Con đường Chúa muốn đi và muốn dạy kẻ khác cùng đi nếu muốn được sự sống đời đời chính là con đường nhỏ bé khiêm cung, con đường “tự huỷ”. Rồi đây, cả cuộc đời dương thế, Chúa chỉ đi theo con đường này mà thôi. Ma quỉ có cám dỗ Chúa thì cũng chỉ vì muốn Người ra khỏi con đường này mà thôi. Nội dung của những chước cám dỗ là bày ra một con đường đầy hương hoa cỏ la, điềụ mà thế gian yêu chuộng. Vì vậy, lễ Đức Maria, “Mẹ Thiên Chúa” trước hết muốn nói về Chúa Giêsu. Mầu nhiệm nhập thể của Người vẫn còn tiếp tục được trình bày dưới một hình thức kín đáo. Đức Maria, “Mẹ Thiên Chúa” Xét trên lý luận, con người không thể nào sinh ra Chúa được. Đức Maria quả thật đã không sinh ra Thiên Chúa. Tuy nhiên, Đức Giêsu Kitô là một chủ vị duy nhất, và vì Đức Maria đã sinh ra một vị “Thiên-Chúa-làm-người”, nên hoàn toàn hữu lý khi gọi ngài là Mẹ Thiên Chúa. Mà không phải hôm nay Giáo Hội mới tự đặt ra, chính bà Elisabet đã gọi Mẹ bằng tước hiệu đó: “Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy” (Lc 1, 43). Xem ra, cả Đức Maria cũng sững sờ trước hồng ân cao cả này.Trong khi các mục đồng “hối hả” đi đến Bêlem, rồi sau đó “kể lại điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi” thì thái độ trước sau của Đức Maria chỉ là “ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng” đi đôi với sự cung kính thờ lạy Đấng sinh ra bởi lòng mình. Tôn vinh con người Có những luồng tư tưởng triết học hiện sinh muốn hạ bệ Thiên Chúa để tôn vinh con người (như Nietszche: “Hoàng hôn của những thần tượng”). Thật ra, qua Đức Maria, Thiên Chúa muốn tôn vinh con người, cho dầu chẳng phải ai cũng được diễm phúc cưu mang và sinh hạ Chúa như Đức Maria. Chúa muốn dùng con người như những khí cụ hữu hiệu để Chúa luôn được sinh ra nơi lòng dạ con người mọi thời. Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, như vậy, đã cùng một lúc tôn vinh đường lối nhiệm lạ của Thiên Chúa, tôn vinh Đức Maria và dồng thời tôn vinh con người. 29-12-2003
Chúng ta đã bước sang một năm mới có lẽ nhiều âu lo hơn hy vọng như Đức thánh Cha trong Thông Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới đã nhân định "con người trên khắp thề giới cảm nhận một sự thương tổn trầm trọng và một nỗi lo sợ mới trước tương lai". Khát vọng bình an, "khát vọng cao thượng nhất trong tâm khảm con người" luôn luôn hiện thực và cấp bách. Ở mọi nơi, mọi góc độ, bình an đích thực luôn luôn là hoa trái của công lý, được nhìn nhận như một nhân đức, một cam kết "bảo đảm sự tôn trọng toàn vẹn các quyền lợi và trách nhiệm, và sự phân phối công bằng các lợi nhuận và gánh nặng". Lịch sử nhân loại, cũng như lịch sử từng quốc gia dân tộc, thậm chí lịch sử mỗi bộ tộc hay gia đình, một cách nào đó đều là lịch sử thiết đặt một nền công lý. Nhưng cũng chính lịch sử cho thấy "công lý của loài người luôn mỏng dòn và không hoàn thiện, bị những giới hạn và tính ích kỷ của cá nhân và phe nhóm chi phối". Vì thế, song song với những nỗ lực tìm kiếm công lý qua những thể chế chính trị, kinh tế và xã hội, con người, cách riêng những con người Á Châu, đã rất sớm đi tìm công lý trong những nỗ lực tôn giáo, vì tại Á Châu này, trong truyền thống của mỗi dân tộc, đều khẳng định chỉ có sự giải thoát trong tôn giáo, mới có khả năng thiết lập trật từ an bình trường tồn cho nhân loại. Nếu điều ấy chưa phải là cốt lõi của lịch sử các dân tộc Á Châu, thì đối với bộ tộc Israel nhỏ bé của Châu Lục này thì đó lại là tất cả ý nghĩa lịch sử dân tộc và quốc gia họ: Một dân được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ và trao ban "Hoàng Tử Bình An". Chính vì thế thánh Phaolô khi suy nghĩ về lịch sử Israel đã kết luận trong lời thư gởi tín hữu Galata "Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà..." Ngày Người Con được sinh ra, thánh Luca đã cho thấy viễn cảnh của trật tự mới: trật tự an bình. Nếu khi xưa các thiên thần được lệnh cầm gươm lửa trục xuất nhân loại ra khỏi địa đàng, thì đây, các Ngài được lệnh loan báo Tin Mừng bình an khắp thảo nguyên Belem. Nếu chiếu theo mọi lề luật, các người chăn chiên là những kẻ bị loại trừ khỏi xã hội, thì đây, họ được vinh dự trở về tôn vinh Thiên Chúa. Tất cả nhờ Người Con đã được trao tặng, Người là Vinh Quang của Thiên Chúa trên trời, và cũng là Bình An cho loài người dưới thế. Diễn biến của hòa bình đích thực được thánh Phaolô trình bày thật vắn gọn, nhưng rất cụ thể và sống động "Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên "Abba, Cha ơi". Điều ấy bao hàm một chân lý mà Đức Thánh Cha trong Thông Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới đã muốn triển khai "Không có công lý, nếu không có sự tha thứ". Đức Thánh Cha nhấn mạnh "Tác vụ phục vụ Tin Mừng của Cha buộc Cha, và đồng thời cho Cha sức mạnh để nhấn mạnh đến sự cần thiết của tha thứ", một sự tha thứ "bắt nguồn và có chuẩn mực từ nơi Thiên Chúa". Nguồn gốc và chuẩn mực hoàn thiện của tha thứ là sự tha thứ của Đức Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Ở đó các tin mừng đều cho thấy sự thông ban Thánh Thần tình yêu. Và về điều này Đức Maria là chứng nhân tuyệt hảo. Chính Thánh Thần đã bao phủ lòng dạ Mẹ để Mẹ thực sự trở nên Mẹ Thiên Chúa. Cũng chính Mẹ chứng kiến hoạt động hòa giải của Chúa Thánh Thần trong lòng trí Giuse, để ông đảm nhận vai trò Cha nuôi Đấng Cứu Thế, và Mẹ cũng thấy hoạt động của Thánh Thần thánh hiến Gioan Baotixita trong lòng dạ Elisabeth, Mẹ là chứng nhân hoạt động của Thánh Thần trong cuộc sinh hạ, lớn lên và hoạt động loan báo Tin Mừng, và nhất là Mẹ đã chứng kiến nước Thánh Thần từ cạnh sườn Con tuôn đổ ra để hòa giải nhân loại. Trong mọi biến cố vẫn là sự tha thứ của Thiên Chúa, nhờ Con và trong quyền năng Thánh Thần. Vì thế, như là lời trối trăn cho Hội Thánh non trẻ, Đức Maria đã đưa Hội Thánh của Con vào trong chính thái độ cốt lõi của sứ mạng: "Hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng". Đó là thái độ mà Đức Thánh Cha đã viết trong thông điệp ; "Cầu nguyện cho hòa bình là mở rộng trái tim con người cho quyền năng Thiên Chúa xâm nhập vào để canh tân mọi sự. Với ân sủng ban sự sống, Thiên Chúa có thể mở lối cho hòa bình nơi mà con người chỉ thấy hiển nhiên toàn những bế tắc và đóng kín...". Anh chị em rất thân yêu, Khát khao bình an cho năm mới vì vậy phải đi đôi với ước ao cầu nguyện cùng với Đức Maria. Không những vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hoàng Tử Bình An, mà còn vì Mẹ là Đấng có thể chia sẻ Kinh Nghiệm và Thực Tại Ân Sủng Bình An. Mẹ được kêu cầu dưới tước hiệu "Nữ Vương ban sự bình an". Trong năm 2002 này, ước gì giờ kinh tối trong mỗi gia đình là giờ kinh mà gia đình cùng cầu nguyện với Đức Maria, để mỗi ngày đều bùng nổ ngày Hiện Xuống mới: ngày của Ân Sủng ban sự sống.
Giáo Hội dâng kính ngày đầu Năm Mới để biệt kính Đức Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Mỗi năm Phụng Vụ, Giáo Hội dành 2 tháng để tôn vinh Đức Mẹ: Tháng Hoa và tháng Mân Côi. Hằng năm, Giáo Hội đã đặt riêng 18 Lễ Kính Đức Mẹ và nhiều nơi còn dành ngày thứ bảy đầu tháng để kính tôn Mẹ. Giáo Hội Công Giáo đã tuyên tín: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ Đồng Trinh Trọn Đời, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và Đức Mẹ Lên Trời Cả Hồn và Xác. Có Mẹ, đời chúng ta sẽ có hạnh phúc tuyệt vời. Năm ngoái khi tôi dâng lễ đầu năm kính Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa. Một việc xảy ra ngoài ý muốn nhưng rất có ý nghĩa và sự kiện trở thành đề tài cho tôi chia sẻ trong buổi lễ Tam Ngữ đông người. Trước lễ, các thừa tác viên đã được mời để thi hành phận vụ của mình. Người thì lo đón chào, kẻ thì lo bàn thánh, người khác lo đọc sách hay thừa tác viên Thánh Thể. Xảy ra là chị thừa tác viên đọc sách đã sẵn sàng nhưng gần tới lúc đọc sách, đứa con nhỏ khóc òa đòi mẹ bế. Chuyền tay người này qua người kia bế ẵm dỗ dành nhưng em bé vẫn cứ khóc. Người mẹ đành phải bế em bé và đi lên bục đọc sách. Chị ôm con khi đọc sách thánh và con nhỏ thì với tay nghịch microphone. Tôi nghĩ rằng chắc có nhiều người khó chịu và bị chia trí lắm, vì chưa từng xảy ra bất cứ ở nơi nhà thờ nào như thế. Tôi có một vài ý tưởng về tình mẫu tử lóe sáng khi nhìn hình ảnh người mẹ bế con trong khi đọc Lời Chúa. Tôi không cảm thấy bực bội chi cả nhưng lại thấy vui vui trong lòng. Hôm nay là ngày kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và là ngày đầu Năm Mới. Ngày đầu năm có mẹ bế ẵm và ấp ủ yêu thương, đây là một hình ảnh hạnh phúc tuyệt vời. Tôi suy nghĩ từ sự kiện này và chia sẻ với mọi người rằng chúng ta có Mẹ, người Mẹ không biên giới. Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, là Mẹ của Giáo Hội và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hiện diện đó ngay từ phút giây đầu tiên của một Năm Mới. Chúng ta tôn vinh và tạ ơn Mẹ đã cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Độ chúng ta. Mẹ đã mở ra một kỷ nguyên mới qua lời ‘Xin Vâng’. Con Thiên Chúa đã giáng trần mang Tin Mừng Cứu Độ cho nhân loại. Tôn Vinh Mẹ Khi chúng ta bước vào nhà thờ Công Giáo, hình như có vẻ gì ấm cúng hơn. Nhà thờ nào cũng có tòa kính Mẹ Maria và thường có nhiều người đến đốt nến cầu nguyện. Nhà thờ nơi tôi phụ giúp có một tòa Đức Mẹ với các hình ảnh Đức Mẹ khác nhau: Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành, Đức Mẹ Guadalupe, Đức Mẹ Phi Châu và Đức Mẹ La Vang. Đức Mẹ không của riêng ai. Chỉ có một Đức Mẹ với nhiều danh hiệu. Giáo Hội có khoảng trên 70 danh hiệu khác nhau để tôn vinh Đức Mẹ: Đức Mẹ Đầy Ân Sủng, Trái Tim Vẹn Sạch, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Ngôi Sao Sáng, Mẹ Đồng Công, Nữ Vương Các Thiên Thần, Nữ Vương Hòa Bình... Giáo Hội chính thức công nhận trên 40 địa danh Đức Mẹ đã hiện ra với con cái loài người như Fatima, Lộ Đức, Guadalupe, Lavang, Paris, Rome, La Salette, Banneux, Syracuse... Ngoài ra chúng ta còn có Kinh Cầu Đức Bà với nhiều tước hiệu đáng kính. Có Mẹ, chúng ta sẽ có tất cả. Có sự ấp ủ yêu thương. Có bầu khí êm ấm trong gia đình. Có cơm ngon canh ngọt. Có của ăn của để. Có các nhu cầu đầy đủ trong cuộc sống. Có tiếng cười, niềm vui và hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng có mẹ. Chúng ta chỉ biết cám ơn mẹ đã cho chúng ta vào đời. Mẹ đã sinh ra chúng ta, nuôi dưỡng và nâng niu như nâng trứng. Con là thịt máu của mẹ. Ngay từ tấm bé, mẹ chăm sóc chúng ta từng giây từng phút. Mẹ mất ăn mất ngủ lo lắng khi con đau yếu và khó chịu và trái gió trở trời. Yêu thương con như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Quan sát đàn gà đi kiếm mồi. Mẹ dẫn con, mẹ theo con, mẹ bảo vệ và tìm nguồn sống cho con. Tôi cảm động khi nghe câu truyện của một trẻ thơ mong chờ mẹ. Bé Francis mới có 10 tháng tuổi. Khi mẹ ra khỏi nhà thì em đã khóc đòi theo mẹ bế. Mẹ mở cửa đi ra, em không làm gì hơn được và đành phải chấp nhận xa mẹ. Thế rồi, ngồi trên xe đẩy và em chạy quanh vào phòng tìm kiếm. Một người chị ngồi quan sát thấy em chạy đi, chạy lại tìm phòng này qua phòng khác mà không thấy mẹ, em không khóc. Nhưng rồi, em lại đẩy xe ra gần cửa nơi mẹ đã ra khỏi nhà và em ngồi đó chờ đợi. Hình ảnh trẻ thơ đợi chờ thật dễ thương. Em mong có mẹ cạnh bên để ẵm bế và chăm sóc. Đối với Đức Mẹ Maria, chúng ta dù già hay trẻ cũng chỉ là trẻ thơ. Vì tính theo thời gian, Đức Mẹ đã có trên 2000 tuổi rồi. Chúng ta cũng hãy chạy đến cùng Mẹ Maria tìm nguồn ủi an và nâng đỡ. Ngày đầu Năm Mới, chúng ta dâng lời cảm tạ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng nhớ đến và cầu nguyện cho mẹ của chúng ta. Có những người mẹ còn trẻ còn khỏe mạnh có thể lo toan mọi công việc. Có những người mẹ già, lưng còng tóc bạc, chân yếu tay mềm và mù lòa bệnh tật. Nghĩ đến mẹ, cầu nguyện cho mẹ và đừng quên thăm hỏi, giúp đỡ và an ủi tuổi già. Hồng Ân January là tháng Một. Chữ January được đặt theo tên một vị thần ở Rôma gọi là Janus. Vị thần Janus được mô tả là có hai mặt: Một mặt nhìn tới và một mặt nhìn lui. Bộ mặt nhìn lui thì ra vẻ buồn phiền và nuối tiếc. Mặt nhìn tói thì hân hoan, hy vọng và tự tin. Con người chúng ta chỉ có một mặt nhưng chúng ta có thể nhìn lui hoặc nhìn tới. Khi nhìn về quá khứ, chúng ta phải thú nhận rằng chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để làm việc tốt và sống tốt. Đôi khi chúng ta còn gây phiền toái và thờ ơ trong cuộc sống. Một năm nữa lại qua. Chúng ta bước vào năm mới, năm 2011. Chúng ta biết mỗi giây phút chúng ta sống là giây phút hoàn toàn mới. Nhìn lại năm qua, mỗi người chúng ta đều sống trọn vẹn 12 tháng, 52 tuần lễ, 365 ngày, 8,700 giờ, 525,600 phút và 31,536,000 giây. Tất cả thời gian là hồng ân Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta chẳng làm gì để đáng được như thế. Giống như khí thở, chúng ta hít thở tự do. Có biết bao cảnh đẹp chung quanh mà chúng ta được thưởng ngắm hằng ngày. Hồng ân chan chứa đong đầy. Chúng ta đã lãnh nhận tất cả cách nhưng không. Thời gian tới rồi qua, chúng ta không thể thay đổi thời gian. Chúng ta có thể thay đổi chính mình qua thời gian. Dùng thời gian Chúa ban để sinh lợi, để làm việc và để mưu ích chung cho con người và xã hội. Phó Thác Chúng ta biết rằng quá khứ đã qua và qua đi mãi không bao giờ trở lại. Những ngày sắp tới, chúng ta có nhiều chương trình, ước mơ và dự tính. Hy vọng một ngày mai tươi đẹp hơn. Hy vọng tương lai cuộc sống sẽ an vui thịnh vượng và hạnh phúc hơn. Trong giây phút chúng ta đang sống đây là giây phút tuyệt vời nhất. Giây phút mà chúng ta có thể suy nghĩ tốt, làm việc tốt và hưởng phước lành. Sống giây phút hiện tại cho trọn vẹn, chúng ta sẽ hưởng nếm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta hãy xây dựng, chứ đừng phá đổ. Chúng ta hãy sống tích cực và lạc quan. Chúng ta hãy sống trong niềm vui và hạnh phúc. Hãy tha thứ để được thứ tha. Hãy yêu thương đi và sẽ được yêu thương lại. Ngước nhìn lên Mẹ Maria, hằng năm có không biết có bao nhiêu triệu người đã đến hành hương để tôn vinh và cầu khẩn cùng Đức Mẹ. Đặc biệt những nơi Đức Mẹ đã hiện ra với con cái loài người như Fatima, Lộ Đức, Lavang, TàPao… Có biết bao nhiêu người đã được ơn chữa lành cả hồn và xác. Lòng sùng kính Đức Mẹ được trổi vượt trên tất cả. Chúng ta hãy lắng nghe lời Mẹ khuyên nhủ: Năng lần hạt Mân Côi, cải thiện đời sống và sùng kính trái tim vẹn sạch Đức Mẹ. Qua Mẹ chúng ta dễ dàng đến với Chúa. Trong cuộc sống, chúng ta luôn luôn có cơ hội khởi đầu lại. Khởi đầu một ngày mới, tháng mới và năm mới. Khởi đầu một quyết định mới cho cuộc sống. Là tín hữu, chúng ta có Mẹ Maria dẫn dắt và chỉ lối đưa đường. Mẹ là ngôi sao dẫn đường. Chúng ta hãy đến với Mẹ và cầu xin Mẹ dẫn dắt chúng ta như Mẹ đã dưỡng nuôi và dẫn dắt Chúa Giêsu xưa kia. Chúng ta hãy phó dâng Năm Mới này lên Mẹ, xin Mẹ bảo vệ, chở che và phù trợ chúng ta trên mọi nẻo đường bình an.
Có một nhóm giáo dân trong một thành phố nhỏ quyết định làm một máng cỏ giáng sinh ở công trường. Họ đi xin những người hảo tâm giúp đỡ. Đứng đầu danh sách những người hảo tâm là ông chú bút một tờ tuần báo địa phương. Ông ta ủng hộ việc này cho tới lúc cha cha sở phát biểu. Nhiều người, nhất là trẻ em sẽ phấn khởi nhìn thấy Chúa Hài Nhi, Đức Mẹ, thánh Giuse và cả những con vật nữa, ở đây ngay tại trung tâm thành phố. Thế nhưng, ông chủ bút liền kêu to: - Không, phải bỏ Đức Mẹ đi, đừng có bày đặt lắm chuyện làm chi. Cha sở nghe vậy bèn nói với ông ta: - Ông bảo gì vậy? Ông thử nói cho tôi hay: Một người sinh ra mà lại không do người mẹ, thì tôi sẽ đồng ý bỏ Đức Mẹ. Đức Mẹ phải ở với Con mình trong công trường thành phố. Tại sao không? Đúng thế, Mẹ đã ở với Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài được dựng thai cho tới khi Ngài lên trời và Mẹ còn liên kết với Ngài trong suốt dòng lịch sử. Vì thế, chúng ta không thể tưởng nghĩ tới Chúa Giêsu mà không tưởng nghĩ Mẹ Ngài. Cũng như chúng ta không thể tưởng nghĩ đến một em bé mà không tưởng nghĩ đến người mẹ của em. Chúa Giêsu là người thật nhưng cũng là Thiên Chúa thật. Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa làm người, theo ý nghĩa là con trẻ Mẹ sinh ra có bản tính Thiên Chúa và bản tính con người. Ngày đầu năm dương lịch, Giáo hội muốn chúng ta tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không ai xứng đáng được gọi là mẹ sự sống cho bằng Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã ban sự sống nhân loại cho Chúa Giêsu, Đấng đã nói: Tôi đến cho người ta được sống và sống dồi dào. Một đời sống thể lý tốt đẹp hơn, một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Điều đó sẽ làm cho mọi người được hạnh phúc trong năm mới. Chúng ta phải chú trọng giá trị của sự sống. Những vụ tàn sát, những tai nạn xe cộ, những cuộc chiến và đói kém đã cướp đi hàng trăm ngàn cuộc sống. Sự sống đã trở thành rẻ mạt. Một cuộc nghiên cứu mới đây cho biết: trẻ em Hoa Kỳ ở vào tuổi 17 đã xem 18.000 vụ tàn sát qua truyền hình. Đồng thời trong năm mới này có biết bao nhiêu bà mẹ, thay vì cho con cái mình sự sống, thì đã giết chúng bằng những vụ phá thai. Vì thế, chúng ta cần đến một người mẹ cao siêu để chấm dứt sự tàn sát này. Bước sang năm mới, Mẹ Thiên Chúa làm người, sẵn sàng cứu giúp mọi bà mẹ để trao ban sự sống thay vì huỷ diệt nó đi. Mẹ cũng sẵn sàng xin được nơi người Con của mình một sự sống tinh thần mạnh mẽ hơn, một sự sống được tiếp tục ngay cả sau cái chết thể xác. Sự sống mà người Con của Mẹ đã ban cho chúng ta một cách dồi dào trong thánh lễ và trong các bí tích. Một sự sống ngập tràn hạnh phúc mà chúng ta sẽ cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Có một chàng thanh niên sống bê tha và tội lỗi. Anh cảm thấy chán nản và tuyệt vọng... Trong cơn khủng hoảng ấy, tình cờ anh đã bước vào một ngôi nhà thờ và đến ngồi trước tượng Đức Mẹ. Anh không thuộc một lời kinh nào để cầu nguyện và anh cũng chẳng biết Đức Mẹ là ai. Vì thế anh đã thốt lên: - Nếu Ngài quả thực hiện diện nơi đây, thì xin hãy làm cho con được tin. Bỗng dưng như có một làn gió mát thổi vào tâm hồn và anh cảm thấy được bình an và sau đó đã làm lại cuộc đời mình. Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ chúng ta. Khi sinh Đức Kitô, thì đồng thời, Mẹ cũng sinh ra một nhân loại mới, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống thế, sinh làm con một người nữ và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới luật đó, hầu chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Và Công đồng Vat. II đã diễn tả: qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người. Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa và yêu thương bằng trái tim loài người. Sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ Maria, Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta, hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Đức Maria là mẹ chúng ta, nên Mẹ luôn nâng đỡ bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa. Không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta. Điều này khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với niềm hy vọng mới, với cuộc đời mới, là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại. Năm cũ đã qua rồi, năm mới như trang giấy mở rộng trước mắt chúng ta. Thật là thích hợp khi Giáo Hội chọn ngày đầu năm để mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sự kiện này nhắc chúng ta nhớ đến tình mẫu tử của Me, nhớ đó chúng ta có được niềm hy vọng mới và cuộc đời mới. Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết thưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ chúng ta, ẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta vốn thường đọc: - Xưa nay chưa từng nghe nói có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời. Hay như thánh Bernado cũng đã bảo: - Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm được lạc lối. Bởi đó trong giây phút linh thiêng này, chúng ta hãy đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới. Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là môt thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình. Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa. Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau. Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước. Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình. Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình. Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái. Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen. KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG 1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác? 2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà? 3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau "năm tốt lành”, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4). Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa. Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. “Họ khám phá ra Maria". Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ. Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là “theotokos" "Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt". Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét, và Mẹ Người Đức Maria. Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta. Vâng, Giao ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt. Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể” trong cung lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Điều họ đã được loan báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng: Người là Đức Kitô và là Chúa!”. Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa. Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu Hài nhi Bêlem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao? Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ. Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình “trước khi Người được thụ thai trong lòng”. Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ! Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.
Một bà mẹ có người con trai bỏ mình trong chiến tranh. Bà không thể nào quên được người con đó. Nỗi sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn bà. Bà luôn cầu nguyện để được gặp lại con, dù chỉ trong năm phút. Một hôm, Chúa sai thiên thần báo cho bà chuẩn bị gặp lại con. Những giọt lệ bỗng biến thành niềm vui, bà thúc giục thiên thần cho bà gặp lại con ngay. Nhưng thiên thần bảo bà: - Bà hãy bình tĩnh. Con bà đã là một người trưởng thành. Con bà đã chết 30 năm nay, bà muốn gặp nó vào tuổi nào: như một người lính chiến ngoài mặt trận, hoặc như một đứa bé chạy nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà? Không do dự, bà muốn được gặp lại con như một đứa trẻ nhỏ đến xin lỗi bà vì đã không ngoan, một đứa bé yếu đuối, nước mắt chảy ràn rụa chạy đến và ngả vào lòng bà. Đó là hình ảnh mà bà không thể nào quên được về đứa con của bà. Anh chị em thân mến, Trong mùa Giáng Sinh, chúng ta có dịp chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Giêsu mà quên Đức Maria bên cạnh Ngài. Chào đời như một hài nhi, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài cần có một người mẹ để được cưu mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người. Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chủ đề của ngày Hoà Bình Thế Giới năm nay cũng đề cập đến vai trò của người phụ nữ, người mẹ: “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”. Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa nhập thể làm người, là con của Đức Maria. Trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt, vì Người được chọn làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng hữu, tự hữu, không ai sinh ra Thiên Chúa. Nhưng nay, Thiên Chúa đã sinh ra làm người. Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Ở những thế Kỷ III-V, có những lạc giáo phủ nhận tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, khiến phụng vụ nhấn mạnh hơn đến tước hiệu nầy. Chúng ta đừng sợ tước hiệu nầy xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở nên hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhân mọi luật lệ sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của mọi người, và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi không muốn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta: Mẹ Maria. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Đấng đầy ơn phúc: “Thánh Maria, Đức Mẹ chúa Trời”. Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi con trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít, Cha Ngài và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacóp đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản, dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú, Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng. Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà bình, và Vua Hoà Bình. Nhưng tại sao trên thế giới hiện nay vẫn còn chiến tranh, tranh chấp, xung đột? Vì vậy, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta hằng năm vào ngày đầu năm Dương lịch nầy hãy suy nghĩ và cầu nguyện cho hoà bình thế giới. “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”, đó là chủ đề được Đức Thánh Cha chọn cho ngày Hoà Bình Thế Giới năm 1995. Với chủ đề nầy, người ta muốn trước tiên công nhận vai trò không thể thiếu mà người phụ nữ có thể đóng góp cho hoà bình, như qua việc thường xuyên giáo dục giới trẻ, hay qua sự chống đối những hoàn cảnh bạo lực thường xảy ra. Qua chủ đề nầy, Đức Giáo Hoàng cũng ước ao vọng lên một lời mời cấp bách, thôi thúc các chị em phụ nữ này càng trở thành những người xây dựng không mệt mỏi trong khuôn khổ gia đình mình cũng như trong các tổ chức xã hội. Thưa anh chị em, Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới. Chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Người suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân (X.Bđ.1) và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau (X. Bđ.2), để sống hoà thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình. Yêu hoà nình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong này Thế Giới Hoà Bình hôm nay và là ngày lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta, cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho nền hòa bình thế giới, và chúng ta chính thức bước vào năm mới. Khởi đầu thế kỷ 21, chúng ta đã được chứng giám việc khủng bố chiếm máy bay và đâm vào tòa tháp đôi tại Nữu Ước. Rồi từ đó, chiến tranh bùng nổ tại Afghanistan, tại Irak, khủng bố dường như có mặt ở khắp nơi. Và gần đây những cuộc thử hạt nhân ở Iran và Triều Tiên, đã làm cho thế giới nóng lên vì hận thù, vì chiến tranh. Chính vì thế, trong tinh thần liên đới và ý thức rằng: Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Lời kinh này là của thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây: Vì đã đem hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Thế nhưng, ngài có tất cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới. Chúng ta cũng hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính Thiên Chúa lấp đầy. Như thế, người xây dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình thản đến với Chúa và với anh em. Hòa bình là một cuộc ra đi không ngừng và ra đi là để đến với Thiên Chúa và đến với người khác, bằng tha thứ, bằng yêu thương, bằng giúp đỡ. Bởi vì, như lời thiên thần đã hát vang trong đêm Giáng sinh: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Dù có những lời khẳng định trực tiếp về chân tính của Hài Nhi mới sinh, độc giả cần tiếp tục chiêm ngưỡng những gì Thiên Chúa đang thực hiện trong và qua các biến cố, để ngày càng hiểu sâu sắc hơn chương trình của Thiên Chúa. Lm. Px. Vũ Phan long, ofm I. NGỮ CẢNH Trong ch. 1–2 của TM Lc, tức phần mở của TM này, Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả được đặt song song thành hai cánh: 1) Cánh các cuộc loan báo (1,5-56): a) Loan báo về Gioan (1,5-25); b) Loan báo về Đức Giêsu (1,26-38); 2) Cánh các cuộc chào đời (1,58– 2,52): a) Gioan sinh ra (1,58-80); b) Đức Giêsu sinh ra (2,1-52).
Bản văn 2,1-20 là phần đầu trong khối bản văn nói đến việc Đức Giêsu chào đời. Bản văn chúng ta đọc hôm nay ở trong phần này. II. BỐ CỤC Bản văn có thể chia thành bốn phần: Các mục đồng viếng thăm Hài Nhi (2,16); Các mục đồng ra về (2,17-18); Phản ứng của những người trong cuộc: Maria và các mục đồng (2,19-20); Đức Giêsu chịu phép cắt bì (2,21). III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ (16): Tác giả không nói gì đến cách thức Hài Nhi (brephos) được cưu mang. - kể lại (17): Họ kể cho bà Maria và ông Giuse, và chắc chắn cho cả cư dân Bêlem nữa. Theo tác giả Lc, bà Maria đã biết con của mình là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc vua Đavít (1,32-35) và được nhìn nhận là “Đức Chúa” (1,43). Hẳn là các mục đồng thêm rằng Người cũng là “Đấng Cứu Độ” (2,11). Ở đây Hài Nhi được gọi là paidion.
- Nghe các người chăn chiên thuật chuyện (18): Những người nghe là dân Bêlem.
- ghi nhớ mọi kỷ niệm (19): dịch sát là “giữ các lời (hoặc các điều, rhêmata) ấy”. Động từ Hy Lạp được dịch ra là “ghi nhớ” là syntêrein, còn ở c. 51 là động từ diatêrein, “ghi nhớ [với sự yêu thương trìu mến]”. Trong Cựu Ước, diatêrein được dùng ở St 37,11 LXX; còn syntêrein được dùng ở Đn 4,28 LXX. Cả hai động từ này đều diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng bởi một điều vừa nghe biết, nên ghi giữ các điều nghe được ấy trong đáy lòng để cố gắng tìm ra ý nghĩa của chúng. Cả hai động từ này được dùng để phác ra dung mạo thiêng liêng của Đức Maria.
- suy đi nghĩ lại (19): Symballein dịch sát là “tung, ném”. IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối đoạn văn chúng ta đã đọc vào lễ đêm Giáng Sinh. * Các mục đồng viếng thăm Hài Nhi (16-20) Các mục đồng,những người bị xếp vào hạng ô uế và bị xã hội Do Thái khinh bỉ, đã đi theo sự hướng dẫn của dấu chỉ; họ thấy ông Giuse, bà Maria và Hài Nhi. Sau đó, họ truyền đạt lại sứ điệp. Tất cả những ai nghe biết đều ngạc nhiên (18). Ở 1,66, tác giả Lc ghi lại sự kinh ngạc về Gioan qua câu hỏi của hàng xóm láng giềng: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”. Vì tác giả đặt song đối Đức Giêsu với Gioan, ta có thể hiểu rằng ở đây ngài cũng thầm gợi ý rằng Đức Giêsu cũng được hỏi như thế.
Sự kinh ngạc là một khởi đầu tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại với sự kinh ngạc, người ta không đi xa được. Đến đây phản ứng của Đức Maria được nêu bật. Bà ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng mọi sự đã thấy và đã nghe: đây là một sự suy niệm kéo dài, bởi vì những gì bà thấy thì chưa rõ ràng; bà cần phải cố gắng tìm hiểu. Còn các mục đồng thì vừa đi về vừa ca ngợi Thiên Chúa về tất cả những gì đã xảy ra. Phản ứng này là một tiếng vọng của bài ca của các thiên thần (cc. 13-14).
Tác giả Lc thích nêu bật sự kinh ngạc và niềm vui của những người được liên kết vào kế hoạch của Thiên Chúa. Bà Êlisabét đã kêu lên: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó!” (1,25); cụ Simêôn và bà Anna ca tụng Thiên Chúa vì Người đã cho họ thấy ơn cứu độ được chuẩn bị cho muôn dân (2,28.38); ngay cả bà Maria và ông Giuse cũng ngạc nhiên (2,33.48).
Bà Maria “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (c. 19). Bà đã nhận ra Thiên Chúa trong tất cả những gì xảy ra cho bà. * Đức Giêsu chịu phép cắt bì (21) Ở c. 21, tác giả tường thuật việc cắt bì và đặt tên cho Đức Giêsu. Như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu giao ước (x. St 17,11) và tháp nhập vào dân tộc Israel (x. Gs 5,2-9). Người hoàn toàn quy phục Luật Môsê (x. Lv 12,3). Người được đặt cho cái tên mà sứ thần đã đặt là “Giêsu”: tác giả nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì. Chúng ta được đưa trở lại với câu truyện Truyền Tin, tức là được mời gọi tiếp tục quan tâm đến chương trình của Thiên Chúa. ] Kết luận Các mục đồng, và sau này bà Anna (2,38), trở thành những người loan báo Tin Mừng đầu tiên trong Tin Mừng Lc. Như thế, họ có một chức năng quan trọng trong bài tường thuật. Tuy nội dung lời chứng của họ không được ghi ra, chúng ta đã biết họ nói về những gì, bởi vì chúng ta đã biết sứ điệp sứ thần loan báo cho họ.
Câu trả lời được chờ đợi chính là sự ngạc nhiên trước những hiện tượng siêu nhiên (1,21.63-66; x. 2,33). Tác giả Lc sẽ tiếp tục nói với chúng ta như thế (x. 4,22; 8,25; 9,43; 11,14; 24,12.41). Phản ứng này chưa phải là đức tin, nên không bảo đảm là hiểu đúng sự kiện phi thường. Nơi Đức Maria thì không phải như thế; bà tiếp tục suy nghĩ để có thể khám phá ra trọn vẹn ý nghĩa của các biến cố. Như thế, dù có những lời khẳng định trực tiếp về chân tính của Hài Nhi mới sinh, độc giả cần tiếp tục chiêm ngưỡng những gì Thiên Chúa đang thực hiện trong và qua các biến cố, để ngày càng hiểu sâu sắc hơn chương trình của Thiên Chúa. V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Những người đầu tiên được mời đi tôn kính Hài Nhi trong máng cỏ là các mục đồng, những kẻ bị người đương thời khinh bỉ, do họ sống dễ dãi. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta cũng đang được mời tiến đến bên máng cỏ cùng với những người nghèo hèn ấy, bất kể chúng ta thế nào, nhiều công trạng hay nhiều tội lỗi. Đức Giêsu đã đến cho tất cả mọi người, và đặc biệt cho những người nghèo nhất và những người nhỏ bế nhất. Loài người xác tín rằng sự dữ chỉ có thể bị tiêu diệt bởi tiền bạc, bởi sự lừa dối hay bởi tham nhũng. Tin Mừng của lễ Giáng Sinh cho chúng ta thấy một vì Thiên Chúa chọn sự nghèo khó và yếu đuối, và dạy chúng ta loại trừ một kiểu suy nghĩ đựa trên quyền lực hoặc tiền bạc.
2. Chúng ta không còn nhìn các sự việc với cặp mắt của trẻ em nữa. Lần đầu tiên khi chúng ta nghe Tin Mừng, chúng ta làm gì? Chúng ta có tự hỏi xem mình phải làm gì chăng? Chúng ta nên làm những gì các mục đồng đã làm. Hãy vui mừng và chiêm ngưỡng những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Rồi sau này chúng ta có thể đáp trả tình yêu của Người. Lúc này, cứ hân hoan vui mừng đi đã!
3. Đức Maria không thụ động chấp nhận tất cả những gì xảy ra; bà tìm hiểu. Bà không tức khắc cung cấp lời giải thích biến cố, nhưng đào sâu biến cố cách kiên nhẫn và không áp đảo, ép buộc. Có một thứ bất bạo động thiêng liêng và tôn giáo, biết tránh việc lược đồ hóa ép uổng, và để cho các sự việc cứ như thế và chờ đợi được hiểu biết hơn. Bà phải cố gắng tiếp mà tìm hiểu. Chúng ta thường bị ngỡ ngàng hoang mang về những chuyện nhỏ. Đức Maria thì không bao giờ bị như thế. Bà ghi giữ mọi sự trong lòng và cân nhắc, rồi khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa trong những chuyện nhỏ đó.
4. Phải chăng ba chi tiết “bọc tã, đặt nằm trong máng cỏ, vì không có chỗ” đã hướng chúng ta tới cuộc táng xác Đức Giêsu sau này, với ba chi tiết “bọc trong tấm vải gai, đặt vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ”? Nếu thế, cuộc chào đời và cuộc an táng soi rọi lẫn nhau, đóng khung một cuộc đời nghèo khó cùng cực.
5. Chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong bài giảng ngày 01/01/2002, đã nói: “‘Xin kính chào Thánh Mẫu đã sinh hạ Quân Vương, Đấng điều khiển vũ trụ muôn thuở tới muôn đời’ (x. Ca Nhập Lễ). Với lời chào cổ kính này, hôm nay vào ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh và ngày đầu năm, Hội Thánh thưa với Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, khi khẩn cầu Mẹ như là Mẹ Thiên Chúa. Người Con vĩnh cửu của Chúa Cha đã nhận lấy xác thịt chúng ta trong Mẹ và, qua Mẹ, Người đã trở thành ‘con cháu vua Đavít và con cháu tổ phụ Abraham’ (Mt 1,1). Vậy Đức Maria là Mẹ đích thực của Người: là Theotokos, Mẹ Thiên Chúa ! Nếu Đức Giêsu là Sự Sống, Đức Maria là Mẹ của Sự Sống. Nếu Đức Giêsu là Niềm Hy Vọng, Đức Maria là Mẹ của Niềm Hy Vọng. Nếu Đức Giêsu là Sự Bình An, Đức Maria là Mẹ của Sự Bình An, Mẹ của Thái tử Hòa Bình. Khi bước vào năm mới, chúng ta xin Mẹ rất thánh chúc phúc cho chúng ta. Hãy xin Mẹ ban Đức Giêsu cho chúng ta, là sự chúc phúc viên mãn của chúng ta, nơi Người, Cha Cha đã chúc phúc cho lịch sử một lẫn vĩnh viễn, bằng cách làm cho lịch sử này trở thành một lịch sử cứu độ… Con Trẻ chào đời ở Bêlem là Lời vĩnh cửu của Chúa Cha đã trở nên người phàm để cứu độ chúng ta, Người là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta’, Người mang đến bí quyết của nền hòa bình chân thật. Người là Thái tử Hòa Bình (Is 7,14 ; 9,5)”.
Giáo Hội dâng kính ngày đầu năm mới để tôn vinh Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria được tràn đầy ân phúc và Thiên Chúa ở cùng. Trong giây phút linh thiêng nhiệm mầu, Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Thiên Chúa đã chọn và gìn giữ Mẹ Maria khỏi mọi vết nhơ của tội nguyên tổ ngay từ khi được thụ thai trong lòng mẹ, bà Anna. Maria là một thụ tạo tuyệt tác mà Thiên Chúa đã để mắt trông xem. Mẹ đã lãnh nhận tất cả các hồng ân tuyệt vời một cách nhưng không. Chúa đã yêu thương và Mẹ đã đáp lại tình yêu bằng cả tấm lòng. Thiên Chúa đã tác tạo vũ trụ từ hư không. Người đã tạo dựng muôn loài trên trời dưới đất qua Lời của Người. Các loài có sự sống đều bởi tay Người sáng tạo. Sự sống là một mầu nhiệm không ai có thể hiểu thấu. Riêng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng và ban cho thần khí sự sống có hồn và xác. Tất cả mọi loài thụ tạo trong vũ trụ đều được tác thành bởi Ngôi Lời. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành (Ga 1,3). Khoảng 700 năm trước khi Đấng Cứu Thế ra đời, tiên tri Isaia đã loan báo cho vua Ahaz rằng: Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel. Trong Kinh Thánh Cựu Ước có kể những câu truyện về các bà mẹ son sẻ được Thiên Chúa đoái thương nhìn đến. Những người con đặc biệt ưu tú này đã góp phần quan trọng trong chương trình cứu độ. Ông Abraham và bà Sara lớn tuổi mà hãy còn son sẻ, một hôm có ba vị khách lạ là các Thiên Thần Chúa đến viếng thăm. Một vị đã lên tiếng: Người nói: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai." Bà Xa-ra bấy giờ đang nghe ở cửa lều, phía sau (Stk. 18,10). Bà Sara đã sinh ra người con duy nhất là Isaac. Trong sách Samuel quyển thứ nhất kể câu truyện bà Anna vợ ông Encana, bà cảm thấy nhục nhã xấu hổ vì bị son sẻ không con. Bà đã cậy trông và đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Bà khấn hứa rằng: "Lạy Thiên Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Thiên Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó."(1Sam 1,11). Ông bà đã được Thiên Chúa nhận lời và cho sinh con. Ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuen, vì bà nói: "Tôi đã xin Thiên Chúa được nó."(1 Sam 1,20). Khi quân Philitinh quấy nhiễu và đánh phá Dân Do-thái, Thiên Chúa đã can thiệp nâng đỡ. Thiên Chúa sai Thiên Thần hiện ra với vợ ông Manuel và nói rằng: Ngươi son sẻ không con, nhưng sẽ được thu thai và sinh một con trai (Thủ Lãnh 13,3). Bà đã hạ sinh con trai và đặt tên là Samson. Samson đã trở thành một thủ lãnh dũng cảm chiến thắng quân thù. Để chuẩn bị dọn đường cho Chúa xuống trần, Thiên Chúa sai sứ thần đến với ông Zacaria. Ông Zacharia và bà Elizabeth tuổi đã già mà không có con. Một hôm, thầy cả Zacaria vào đền thờ dâng hương và Thiên Thần Chúa đã hiện ra cùng ông. Thiên Thần nói: Này ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: Elizabeth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan (Lc 1,13). Các bà là những người thật hạnh phúc được Thiên Chúa đoái thương và ban ơn. Và một người nữ được hạnh phúc hơn các người phụ nữ là Đức Maria. Khi Maria đến thăm Bà Elizabeth, bà đã thốt lên lời ca ngợi: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?(Lc 1,42-43). Sự kiện Đức Maria được tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa là một vinh dự cho cả loài người. Đức Maria đã đáp lời ‘xin vâng’ với thiên thần để công cuộc cứu rỗi trở thành hiện thực. Mẹ Maria đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng trinh nữ là Con Thiên Chúa từ đời đời. Emmanuel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đức Maria là mẹ ngay từ khi Chúa Giêsu được thụ thai trong cung lòng. Danh hiệu là Mẹ đã đi vào đời đời. Đức Maria là Evà mới. Maria được Thiên Chúa ở cùng và có phúc hơn mọi người nữ. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng mẹ. Ngôi Lời hiện hữu từ đời đời đã hóa thành nhục thể. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, Con Thiên Chúa đã đi vào thời gian và không gian để trở thành con người như mọi người. Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa (Lc 1, 35). Mẹ Maria mang thai Con Chúa trong cung lòng đủ ngày đủ tháng như các trẻ sơ sinh khác. Con Chúa chấp nhận thân phận người, khởi đi từ trong dạ mẹ và thân xác phát triển qua từng giai đoạn. Thân xác của Chúa cùng chia sẻ máu thịt của mẹ. Khi tới ngày mãn nguyệt khai hoa, Chúa Hài Nhi đã vào đời. Những tháng ngày mới giáng sinh còn non nớt, Chúa Con hoàn toàn cậy dựa vào sự bảo vệ chở che của mẹ và thánh Giuse. Mẹ đã ẵm bế và cho bú mớm. Thánh Giuse đã ôm ấp chở che. Đức Mẹ và thánh Giuse đã luôn yêu thương, trọng quý và hết sức mình để bảo vệ và dưỡng nuôi. Đức Mẹ đã đồng hành với con mình suốt dọc cuộc đời. Mẹ đã chia sẻ buồn vui, đắng cay và sầu muộn. Suốt ba mươi năm mẹ Maria, Chúa Giêsu và thánh Giuse đã chung sống những chuỗi ngày thật lặng lẽ và hạnh phúc bên nhau. Đức Maria tin nhận và thánh Giuse cũng nhận biết người Con Giêsu là Con Thiên Chúa. Khi mãn cuộc đời dưới thế, mẹ Maria được Thiên Chúa thưởng ban hạnh phúc thiên đàng cả hồn lẫn xác. Qua mọi thời, Giáo Hội hằng tôn kính Đức Maria như lời Mẹ đã ngợi khen Chúa: Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn (Lc 1,48-49). Giáo Hội cũng như các thánh Giáo Phụ đã dâng kính mẹ Maria những tước hiệu và danh xưng cao cả nhất. Chúng ta có thể nhận biết các danh hiệu trong Kinh Cầu Đức Bà. Mẹ là Nữ Vương trên trời dưới đất. Mẹ là Nữ Vương các Thiên Thần và các Thánh. Mẹ là Hòm Bia Thiên Chúa…. Giáo Hội đã tôn xưng Đức Mẹ với hơn 70 tước hiệu đáng kính. Giáo Hội còn tuyên xưng bốn tín điều: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (ĐGH Piô IX, 8/12/1854), Đức Mẹ Đồng Trinh Trọn Đời (Xác tín bởi các Giáo Phụ vào thế kỷ thứ 4 và 7 Công Đồng đầu tiên). Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Công Đồng Êphêsô 431) và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (ĐGH Piô XII, 1/11/1950). Đức Mẹ cũng đã hiện ra rất nhiều lần và nhiều nơi trên thế giới để mời gọi con dân quay về với Thiên Chúa. Chúng ta có Mẹ, đó là một hạnh phúc tuyệt vời. Mẹ của Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể mà chúng ta là chi thể. Vì thế, Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Chúng ta cùng tôn vinh danh Mẹ trong ngày đầu năm mới, xin Mẹ dẫn dắt chúng ta đến gần Chúa Giêsu. Xin Mẹ cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
Kính chúc tất cả qúi ông bà anh chị em một Năm Mới Hạnh Phúc. Tôi rất vui khi thấy đông đảo anh chị em tới đây hôm nay. Chúng ta cũng có nhiều người tham dự Thánh Lễ tối hôm qua, và nhiều người dự lễ lúc 8:30 sáng nay, và tôi tin là chiều hôm nay cũng sẽ có nhiều người tham dự Thánh Lễ. Điều đó nói lên rằng qúi vị là những người muốn đến nhà thờ. Nó không phải là vì sự bắt buộc, không phải vì các bạn phải đến, vấn đề thực tế là các bạn muốn đến để dâng Lễ tôn kính Đức Mẹ, và khởi đầu Năm Mới đi đúng bước. Do đó tôi chúc mừng qúi vị và xin Chúa ban cho qúi vì tình yêu thương của Ngài trong năm tới. Tôi ước mong nó sẽ là năm tốt đẹp nhất chưa từng có. Ảo Mộng Có lẽ hầu hết các bạn đã nghe biết đến Michael Jordan. Michael Jordan là một cầu thủ bóng rổ nổi tiếng. Ông rất nổi tiếng. Ông quảng cáo nhiều thứ. Ông đã quảng cáo cho hãng giầy Nike, nhờ đó giới trẻ đổ ra mua giầy Nike, nghĩ rằng chúng sẽ nên giống như Michael Jordan. Và dĩ nhiên nó không xẩy ra như vậy. Trong năm vừa qua, Jack Nicklaus, cầu thủ đánh golf đã được chọn là người đánh golf giỏi nhất của thế kỷ. Ông đã chấm điểm ủng hộ một số cần đánh golf và bóng golf, và tôi đã mua chúng thế mà tôi vẫn không quật đúng trái bóng. Do đó nó không phải là ở dụng cụ. Các bạn có thể xem xét một danh sách các lực sỹ, các tài tử xi-nê, các chính trị gia chấm điểm ủng hộ nhiều sản phẩm, và cái ảo mộng là nếu bạn mua những sản phẩm họ dùng, hoặc làm cái giống như họ làm, hoặc nói giống như họ, thì bạn trở nên nổi tiếng, nhưng điều đó không đúng. Để trở nên một lực sỹ nổi tiếng, bạn phải tập luyện và làm việc và dĩ nhiên là bạn phải có một số khả năng để bắt đầu. Điều đó đúng ở thế giới trần tục, nhưng trong thế giới siêu nhiên, bạn là tất cả cái bạn cần. Quân đội có khẩu hiệu “Hãy là tất cả cái bạn có thể.” Quyết Tâm Nên Thánh Hôm nay chúng ta mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, người phụ nữ nổi tiếng nhất trong nhân loại. Cùng với con của ngài là Đức Giêsu Kitô, Đức Mẹ kêu mời mỗi người chúng ta nên thánh. Nhưng bạn không cần phải có bất cứ dụng cụ đặc biệt nào cả. Thiên Chúa cho bạn mọi cái cần thiết. Thiên Chúa ban cho bạn ơn thánh là điều cần thiết; Ngài luôn tuôn đổ ơn thánh trên bạn để làm cho bạn có thể trở nên một vị thánh cách đơn giản bằng tiếng thưa “xin vâng” đối với Chúa giống như Đức Maria đã làm. Nếu bạn nhìn vào danh bộ các thánh, bạn thấy thánh Giêrônimô và thánh Vincente đệ Phao-lô và thánh Elizabeth An Seton, vị thánh đầu tiên của chúng ta sinh quán tại Hoa Kỳ. Các ngài đến từ những qúa trình khác nhau với cuộc sống khác biệt. Một số vị thánh là các vua chúa, một số là nông dân, một số nữa thì giống như bạn và tôi, những người bình thường. Thánh Gioan Vianney chỉ là một linh mục coi xứ bình dân, chẳng có gì đặc biệt, chẳng có biệt tài nào. Nói thật ra thì ngài đã gặp khó khăn để được truyền chức bởi vì ngài là người kém tài. Nhưng mỗi trong các vị thánh đó đã chấp nhận ơn thánh của Chúa. Khi bị cám dỗ, và chúng ta biết là cám dỗ xẩy ra trong đời sống của mọi người không lúc này thì lúc khác. Thiên Chúa ban cho họ đầy đủ ơn thánh để chống trả cám dỗ. Thánh Phao-lô đã xin Chúa cất đi một số khó khăn trăn trở trong đời sống của ngài và Thiên Chúa đã nói với ngài là, “Ơn của ta đủ cho ngươi.” Xin Vâng Tất cả cái phải làm là đón nhận ơn thánh. Bởi thế, tôi nghĩ nó là điều rất tốt trong ngày đầu năm để làm một quyết tâm, chỉ một quyết tâm, một quyết tâm quan trọng nhất bạn có thể nghĩ ra, quyết tâm bạn sẽ là một vị thánh. Bạn không cần bất cứ biệt tài nào, bạn không cần một dụng cụ gì. Tất cả cái bạn phải làm là thưa “xin vâng” đối với ơn thánh của Chúa. “Xin vâng” khi Chúa Kitô bảo bạn chống lại cám dỗ; “xin vâng” khi có cơ hội thi hành ý của Thiên Chúa; “xin vâng” bất cứ khi nào có cơ hội lãnh nhận các bí tích; “xin vâng” bất cứ khi nào có cơ hội đi tham dự Thánh Lễ. Đó là tất cả cái bạn phải làm, thưa “xin vâng” đối với Thiên Chúa. Khi Thiên Thần hiện đến với Đức Mẹ Maria, đức mẹ đã không hiểu điều gì sẽ xẩy ra, nhưng đức mẹ đã thưa “xin vâng”. Bởi vì tiếng xin vâng của Đức Mẹ, chúng ta được ơn cứu rỗi. Bởi ơn thánh Đức Mẹ được sinh ra và đã đón nhận từ Thiên Chúa, và Đức Mẹ đã thực hành ra trong đời sống mà chúng ta bây giờ có thể được cứu rỗi với ơn thánh của Đức Giêsu Kitô. Chúa hứa ban cho chúng ta ơn thánh đó cho đến ngày tận thế, bởi vậy tất cả cái chúng ta phải làm để nên cái chúng ta có thể, đó là đón nhận ơn thánh của Thiên Chúa. Một quyết tâm tôi muốn bạn làm là hãy nên một vị thánh. Thiên Chúa ban cho bạn dụng cụ; Thiên Chúa ban cho bạn ơn thánh; Thiên Chúa ban cho bạn khả năng. Tất cả cái bạn phải làm là đón nhận lấy. Tôi nguyện xin phúc lành của Chúa sẽ tuôn đổ trên các bạn suốt năm này và bằng giờ năm sau chúng ta có thể nhìn vào nhau và nói là chúng ta sẽ phong thánh cho nhiều người trong các bạn. Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Msgr. Edward Peter Browne Chuyển dịch: Lm. Gioan Trần Khả
Năm 2011 đã trôi qua. Ngày 01.01.2012 là thời gian khởi đầu một năm mới. Năm cũ kết thúc để lại dấu ấn 12 tháng đã trôi qua. Thời gian là một vòng tròn, tuần hoàn đều đặn trong đó, 60 phút trong một giờ, 24 giờ trong một ngày, 7 ngày trong một tuần... cứ lặp đi lặp lại. Nhưng thời gian là một đường thẳng gồm những sự kiện, phút, giờ, ngày, tháng, năm riêng biệt, mỗi đơn vị trôi qua trong một chuỗi nối tiếp nhau không bao giờ kết thúc. Thời gian đang xoay vần từ những ngày đông chí đến lập xuân, để bắt đầu một mùa xuân mới. Rõ ràng là thời gian đang qua đi, và thời gian không bao giờ trở lại. Thời gian luôn luôn mới, và thời gian không thể luân hồi. Nếu không gian là môi trường chứa đựng vạn vật thì thời gian là môi trường chứa đựng sự thay đổi của muôn loài. Một đóa hoa từ lúc nở đến lúc úa tàn cần một khoảng thời gian nào đó tùy loại.Một đời người từ lúc sinh ra cho đến lúc qua đời cũng cần một khoảng thời gian nào đó. Như vậy sự thay đổi của vạn vật trôi trên dòng thời gian lịch sử. Thời gian là chiều kích tự nhiên của đời người và người đời.Thời gian gắn liền với thân phận mỗi người. Sống trong thời gian là có một khởi đầu và sẽ có một kết thúc. Thánh Vịnh 90 nói đến cái mau qua của thời gian: “Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!” (câu 4) “Đời chúng con tàn tạ, kiếp sống thoảng qua, một tiếng thở dài.Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,mạnh giỏi chăng là được tám mươi,mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khó, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.” (câu 9-10). Quả thật, những nhăn nheo của làn da, những vết chân chim ở đuôi mắt, già nua của tuổi tác, bệnh tật của thân xác… là “dấu tàn phá của thời gian”. Nhìn thực tế chóng qua của dòng thời gian,Thánh Vịnh 90 mời gọi con người hãy biết hướng về Thiên Chúa là chủ của thời gian để cầu xin với một niềm tin tưởng lạc quan: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (câu 12). Mỗi sớm mai thức dậy cần nguyện xin: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (câu 14). Thời gian năm tháng năm cũ trôi qua và đi vào qúa khứ. Nhưng cuộc sống con người không vô tình xuôi chảy như dòng nước. Bởi lẽ, con người sống trong thời gian là để yêu thương nhau. Người ta vẫn thường nói thời giờ là tiền bạc. Đúng hơn, thời gian là tình yêu. Đơn giản là vì một trong những điều tốt nhất con người có thể dành cho nhau, đó là thời gian. Thời gian thật quí. Thời gian là hồng ân. Sống trong thời gian là yêu để sống. Ai đang yêu là người đang sống trong thời gian. Báo Tuổi trẻ Chúa nhật số 44/2000 có đăng câu chuyện thật ý nghĩa về tình yêu và thời gian. Ngày xưa các vị Thần Hạnh Phúc,Khổ Đau,Tình Yêu,Giàu Sang và nhiều vị khác nữa cùng sống chung với nhau trên một hoang đảo.Một hôm cơn đại hồng thuỷ tràn đến, hòn đảo xinh xắn sắp chìm trong biển nước.Tất cả các vị Thần đều chuẩn bị thuyền để vượt biển vào đất liền lánh nạn.Riêng Thần Tình Yêu vì quá nghèo nên không có nổi một chiếc thuyền để ra đi.Thần đành ngồi im lặng đợi chờ đến giây phút cuối cùng mới quyết định quá giang các vị Thần khác. Khi Thần Giáu Sang đi ngang qua,Thần Tình Yêu xin: Anh mang tôi đi cùng với. Không được đâu, tôi có biết bao vàng bạc quý giá phải mang theo sao còn chỗ cho bạn. Thần Đau Khổ đến gần. Thần Tình Yêu nài nỉ: Anh cho tôi đi với nhé. Tôi bất hạnh và buồn chán quá,tôi chỉ muốn ở một mình thôi. Thần Hạnh Phúc đi ngang qua cũng thế. Thần quá hạnh phúc cho đến nỗi không nghe được tiếng kêu cứu của Thần Tình Yêu. Bỗng nhiên có giọng nói của một cụ già: Này tình yêu, tôi sẽ đưa anh vào đất liền. Thần Tình Yêu nghe thế liền chạy nhanh đến thuyền của cụ già.Quá vui mừng vì thoát nạn,Thần Tình Yêu quên hỏi tên cụ già tốt bụng. Khi tất cả các vị thần đều đến được đất liền, cụ già lẳng lặng bỏ đi mất. Khi đó Thần Tình Yêu mới sực nhớ là đã quên cám ơn người đã giúp mình thoát nạn liền quay sang hỏi Thần Kiến Thức: Thưa ông, cụ già vừa giúp tôi khi nãy tên gì vậy? Thần Kiến Thức đáp: Đó là Thần Thời Gian Thần Thời Gian ư ? Nhưng vì sao ông ta lại giúp tôi ? Thần Kiến Thức mỉm cười: Vì chỉ có thời gian mới có thể hiểu được tình yêu vĩ đại như thế nào. Tình yêu và thời gian là hai phạm trù khác biệt nhưng lại có tương quan chặt chẽ.Thời gian nuôi dưỡng tình yêu. Thời gian đo lường tình yêu.Tình yêu lớn lên hay lụi tàn theo dòng chảy của thời gian.Sống trong thời gian là yêu để sống.Thời gian không có tình yêu sẽ cô đơn lạnh lùng buồn chán.Tình yêu ý nghĩa hoá và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó, kẻ đang yêu là người sống trong thời gian với đầy ắp niềm vui êm ả. Kẻ biết yêu là người biết nhìn thời gian như dòng ngọc bạc. Kinh Thánh định nghĩa: Thiên Chúa là Alpha và Omêga,là khởi nguyên và cùng tận (Is 44,6). Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian. Thánh Gioan xác định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8) Thiên Chúa là thời gian và là tình yêu. Như thế tình yêu và thời gian song hành là một. Sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Kẻ sống trong Thiên Chúa là người biết quý chuộng thời gian. Mỗi buổi sáng thức dậy, nhìn lên bầu trời trong xanh có ánh nắng ban mai ửng hồng, ngắm một chồi non vừa nhú còn ướt đẫm sương đêm... Mỗi một thực thể xinh đẹp ấy đều nhắc nhở cho ta biết là đời sống của ta đang tồn tại, và ta tự nhủ với mình sẽ không bỏ phí một phút giây nào được tồn tại trong cuộc sống nhiệm mầu này. Ta sẽ sống như thế nào để bản thân có được niềm vui hạnh phúc, và mang niềm vui, hạnh phúc đến cho mọi người quanh mình. Thời gian quý giá vẫn liên tục trôi qua không dừng nghỉ. Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng sông, một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó. Chỉ như thế chúng ta mới không bỏ phí đi giá trị của thời gian, và mới nhận ra được tình yêu đong đầy trong từng phút giây cuộc sống. Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình. Chúng ta còn được bao nhiêu thời gian trong cuộc sống? Đó là một câu hỏi không ai có thể trả lời được. Có thể là mười năm, hai mươi năm, có thể là một năm, có thể là vài ba tháng... nhưng cũng có thể chỉ là trong chốc lát nữa thôi. Thời gian cần phải được trân trọng trong từng khoảnh khắc. Khi ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là mình đang sống, chúng ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể. Đời sống của ta quý giá, và đời sống của mọi người quanh ta cũng quý giá không thể lấy gì đánh đổi được. Thánh Augustine từng nhận định rằng thời gian nếu xem như một hiện tượng chủ quan có thể rất khác so với thời gian nếu xem như một khái niệm trừu tượng. Nếu thời gian ở dạng trừu tượng, ta chẳng thể biết tương lai vì nó không ở đây, và cũng chẳng biết mặt mũi quá khứ là gì. Ta có thể có ký ức, có kỷ niệm, nhưng diễm xưa đã xa rồi còn đâu thấy nữa. Điều duy nhất hiện hữu là hiện tại, đó là con đường duy nhất về quá khứ và đến tương lai. Thánh Augustine viết: "Do đó, hiện tại có ba chiều: hiện tại của những chuyện quá khứ, hiện tại của những chuyện hiện tại và hiện tại của những chuyện tương lai". Con người không làm chủ được thời gian. Quá khứ đã qua rồi. Tương lai chưa tới. Chỉ còn hiện tại. Hiện tại là thời gian quý nhất mà con người có trong tay.Sự giàu có của chúng ta là giây phút hiện tại. Sống giây phút hiện tại bằng yêu thương chính là hạnh phúc.Thời gian là một cái gì đó rất chậm đối với kẻ đang chờ, rất nhanh đối với người đang sợ, rất dài đối với kẻ đang buồn, rất ngắn đối với người đang vui. Nhưng đối với kẻ đang yêu thì thời gian hình như không hiện hữu. Suy tư về thời gian, ĐGM Bùi Tuần viết: “Những ngày cuối năm thường vội vã. Những ngày đầu năm thường rộn ràng. Những vội vã và rộn ràng ấy thường gây nên nhiều cảm xúc. Tất cả đều mau qua. Nhưng đàng sau những gì mau qua ấy vẫn có một cái gì còn lại lâu dài. Sự còn lại đó là một hiện diện. Tôi nhận ra hiện diện đó chính là Chúa Giêsu.Chúa Giêsu hiện diện trong lịch sử và trong tôi một cách mầu nhiệm. Người gọi tôi hãy dấn thân vào lịch sử Năm Mới với cái nhìn của đức tin.”(x. Cái mới của Năm Mới 2012). Tình yêu cần thời gian để kiến tạo hạnh phúc. Như thế sống là để yêu và yêu là để sống. Tình yêu cho cuộc sống màu xanh. Thời gian luôn đong đầy hạnh phúc. Vì thế phải yêu cho thật tình đừng dối gian nhau. Yêu cho thật nhiều không hề toan tính. Chúa Giêsu đã tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy “ Đức Kitô đã chết vì chúng ta” ( Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình. Chúng ta cũng sẽ không phung phí thời gian để mơ mộng về tương lai hay nuối tiếc quá khứ. Từng giây phút ta đang sống trong bầu không khí trong lành quanh ta đều quý giá. Từng con người mà ta có may mắn được tiếp xúc cũng đều quý giá. "Thời gian là một cái gì đó rất chậm đối với kẻ đang chờ, rất nhanh đối với người đang sợ, rất dài đối với kẻ đang buồn, rất ngắn đối với người đang vui. Nhưng đối với kẻ đang yêu thì thời gian hình như không hiện hữu." Thời gian là Tình yêu. Sử dụng thời gian quý giá mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh. Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan. Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác. Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn. Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai. Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa. Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này. Lạy Chúa, “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”. Mỗi một ngày mới, xin cho chúng con luôn biết sống tâm tình: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca.”. Amen.
1. Những ngày cuối năm thường vội vã. Những ngày đầu năm thường rộn ràng. Những vội vã và rộn ràng ấy thường gây nên nhiều cảm xúc. Tất cả đều mau qua. Nhưng đàng sau những gì mau qua ấy vẫn có một cái gì còn lại lâu dài. Sự còn lại đó là một hiện diện. Tôi nhận ra hiện diện đó chính là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hiện diện trong lịch sử và trong tôi một cách mầu nhiệm. Người gọi tôi hãy dấn thân vào lịch sử Năm Mới với cái nhìn của đức tin. Cùng với lời gọi đó, Chúa cho tôi nhìn lịch sử bằng câu nói của tiên tri Isaia: “Hỡi Giêrusalem điêu tàn và hoang phế, hãy đồng thanh cất tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người và cứu chuộc Giêrusalem” (Is 52,9). 2. Chúa dạy tôi hãy áp dụng câu Kinh Thánh trên đây vào thế giới hiện nay nói chung và cho Việt Nam hôm nay nói riêng. Quả thực, khi nhìn sâu vào hiện tình, tôi thấy vô số cảnh hoang tàn đó đây rải rác. Hoang tàn do biến đổi khí hậu. Hoang tàn do thiên tai. Hoang tàn do chiến tranh. Hoang tàn do dịch bệnh. Hoang tàn do nạn đói. Bên cạnh những hoang tàn trong lãnh vực vật chất, còn có vô số loại hoang tàn trong lãnh vực tinh thần. Như: hiện tượng mất niềm tin. hiện tượng sa lầy tội ác. hiện tượng tự huỷ cuộc sống. hiện tượng sống không phương hướng trong trống rỗng thê thảm. Với cái nhìn Phúc Âm, tôi thấy bao cảnh bên ngoài thì giàu sang, nhưng bên trong thì đạo đức suy đồi. Cơ chế hoành tráng nhưng lòng người tan hoang. Ngay trong lãnh vực tôn giáo, xưa Chúa đã cảnh báo vô số những vỏ bề ngoài mang dáng vẻ đạo đức, nhưng bên trong chỉ là điêu tàn, hoang phế, thối tha, hư hỏng. Nay vẫn còn. 3. Tất cả mọi cảnh điêu tàn, hoang phế, hư hỏng, bất cứ trong lãnh vực nào đều rất đáng thương. Những cảnh thương tâm đó đang kêu gọi giải cứu. Tìm đường giải cứu, đó là một vấn đề cấp bách. Nhiều giải đáp đã và đang được thực thi. Nhưng tất cả đều mong manh. Chính trong tình hình như vậy, lời Chúa trong tiên tri Isaia đã vang lên: “Hãy cất tiếng đồng thanh reo mừng vì Đức Chúa an ủi dân Người và cứu chuộc Giêrusalem” (Is 52,9). Đó là điều mới rất đáng được quan tâm. Lời Chúa trên đây vang vọng trong tôi một cách nhẹ nhàng. Lời Chúa đến từ chính Chúa hiện diện trong lịch sử và trong tôi. Lời Chúa trên đây cũng đến từ sự hiện diện của Chúa trong những người môn đệ Chúa đang âm thầm rải rác khắp nơi, trên thế giới và tại Việt Nam. Ở đây tôi xin nhấn mạnh ở điểm chứng nhân. 4. Thực vậy, như Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu, những chứng nhân đó sống đơn sơ khiêm tốn, khó nghèo như cảnh hang đá Bêlem. Cách sống ấy sẽ được kết thúc ở thánh giá như cảnh đồi Gôngôtha. Lựa chọn đó là do tình yêu cứu độ. Như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu, họ sống gần gũi với mọi kẻ nghèo hèn, bé mọn, yếu đuối, bị bỏ rơi, bị loại trừ. Lựa chọn đó là dấu chỉ chắc chắn của tình yêu phục vụ vị tha. Như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu, họ khám phá thấy trong từng giây phút hiện tại niềm vui được sai đi làm chứng cho một Thiên Chúa tự nguyện trở nên bé mọn nghèo khó để được ở giữa những người khổ đau thiếu thốn. Lựa chọn đó là do tình yêu hiến dâng. Như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu, họ bước xuống những chỗ thấp hèn nhất, để ủi an, để chia sẻ, để đem lại hy vọng cho tất cả những ai chìm trong cảnh khổ. Lựa chọn đó là do tình yêu hy sinh. Như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu, họ gieo rắc tình yêu hy vọng một cách tế nhị. Nhưng những ai có thiện chí sẽ thấy được, nghe được. Họ cảm nhận ra là chính Chúa trong họ luôn là động lực dẫn dắt họ. Lựa chọn của họ là do tình yêu kết hợp với Chúa. 5. Họ kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu như cành nho với thân cây nho. Chúa Giêsu chia sẻ cho họ sự sống của Người, tâm tình của Người, ý muốn của Người. Họ đón nhận Chúa ở mọi lúc, ở mọi nơi. Đặc biệt qua phép bí tích Thánh Thể, sự cầu nguyện, suy gẫm và việc chu toàn bổn phận thường ngày. Sự biết đón nhận Chúa là rất cần thiết, không những để biết cùng với Chúa dấn thân vào việc phục vụ yêu thương, cứu độ loài người, mà còn để biết phân định. Bởi vì phân định là việc hết sức quan trọng trong thời thế hiện nay. Phải phân định điều gì là thực sự đẹp lòng Chúa, điều gì là thực sự do Chúa soi sáng thúc giục, điều gì là thực sự làm sáng danh Chúa. Việc phân định như thế không dễ chút nào. Người môn đệ nào của Chúa quen đi vào nội tâm mình, thích cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và khiêm tốn lắng nghe Chúa Thánh Thần, sẽ được ơn biết phân định. Phân định là một đặc ân, là một cảm nhận tế nhị. Nhất định đó không là kết quả của một lý luận theo kiểu trần thế. 6. Những người môn đệ bé nhỏ của Chúa sẽ gặp khó khăn không những do ma quỷ, do thế gian, mà nhiều khi cũng do nội bộ và do chính mình. Nhưng bất cứ trong hoàn cảnh nào, họ vẫn làm chứng Chúa Giêsu đang đến an ủi dân Chúa và cứu độ những người thiện chí. Qua đời sống của họ, họ làm chứng rằng: Chúa Giêsu là Đấng cứu thế. Đời sống chứng tá của họ bừng sáng ngọn lửa hy vọng hướng về Người. Hy vọng ấy vượt trên mọi ước muốn và mọi cố gắng của bất cứ ai và của bất cứ thế lực nào trên trần thế. Hy vọng ấy là một đợi chờ không mệt mỏi, dựa trên đức tin nơi Thiên Chúa giàu lòng thương xót và quyền năng vô cùng. Hy vọng ấy là một tỉnh thức. Tỉnh thức cả trong những đêm tối đầy thất vọng. Hy vọng, đợi chờ, tỉnh thức đều do Chúa. Thực sự, họ đã được gặp Chúa. Họ tin và cảm nhận mình được Chúa yêu thương, được Chúa cứu độ, được Chúa gọi, được Chúa sai đi. Hy vọng của họ là tin chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc viên mãn đời đời nơi Thiên Chúa là nguồn tình yêu vô biên vô tận. Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin kính chúc quý vị và anh chị em thân mến Năm Mới 2012 được nhiều ơn lành mới của Chúa giàu lòng thương xót.
Mẫu tử là mối tình gần gũi, bền vững, đầy hi sinh vô vị lợi nhất trong các mối tình loài người. Vì tác dụng đa cảm của người đàn bà mà trong gia đình, con cái thường cảm thấy gần gũi mẹ hơn bố. Mẹ thường không trách phạt, lại để ý săn sóc cho con hơn, nhất là khi con còn nhỏ dại. Dù con có bệnh hoạn tật nguyền, người mẹ vẫn thương yêu và săn sóc. Có những bà mẹ có thói quen lưu trữ những hình ảnh chụp về con vào dịp đặc biệt, hay ghi chép những mẩu chuyện về con từ khi sinh ra. Lại có những bà làm thành thói quen cầu nguyện cho con cái hằng ngày. Khi nhìn thấy con làm linh mục, thì bà vui mừng không kể siết mặc dầu có thể không biểu lộ ra bề ngoài như người Á đông. Tình mẫu tử của mẹ Maria đối với người Con của Mẹ cũng phải rất đặc biệt vì Mẹ biết Con mình được thụ thai cách lạ lùng và sứ mệnh Con mình thật là cao vời. Phúc âm hôm nay ghi lại: Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Vậy ta cần tìm hiểu xem Mẹ ghi nhớ những gì? Mẹ ghi nhớ làm sao? Và Mẹ suy gẫm thế nào? Trước hết Mẹ phải ghi nhớ cảnh truyền tin, suy gẫm ý nghĩa của lời sứ thần chào: Kính chào bà Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà (Lc 1:26). Khi sứ thần nói trinh nữ sẽ thụ thai Con Ðấng Tối Cao, Mẹ cũng đã phải suy gẫm và thưa với sứ thần rằng việc đó không thể xẩy ra vì không biết đến việc vợ chồng. Khi thiên thần bảo đảm việc thụ thai là do quyền phép Chúa Thánh thần thì Mẹ chấp nhận cưu mang Ðấng Tối Cao. Mẹ đã phải suy gẫm tại sao bà Êlisabét lại nói: Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy (Lc 1:43). Mẹ cũng phải suy gẫm tại sao hài nhi trong lòng bà Êlisabét lại nhảy mừng (Lc 1:44). Mẹ đã phải suy niệm lời Thánh kinh Cựu ước đã được tiên báo cả bảy trăm năm trước về người trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai (Is 7:14) là ám chỉ về Mẹ và về Con mình. Mẹ đã phải suy đi nghĩ lại và suy gẫm trong lòng nên mới có thể cất tiếng ca tụng Thiên Chúa về những hồng ân Chúa đã làm nơi Mẹ trong bài ca Ngợi Khen Magnificat như vậy (Lc 1:46-55). Và dĩ nhiên Mẹ phải ghi nhớ cảnh Con mình sinh ra nghèo khó nơi hang bò lừa, xa nhà, không được quán trọ chứa chấp, nhưng lại có thiên thần ca hát, chúc tụng và ba vị Ðạo sĩ đến thờ lạy. Khi dâng Con vào Ðền thờ, Mẹ cũng đã phải sửng sốt ghi nhớ lời ngôn sứ Simêon tiên báo về ơn cứu độ mà Con mình đem lại: Chính mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân (Lc 2:30-31). Mẹ phải kinh ngạc khi ông Simêon tiên báo: Còn bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà (Lc 2:35). Và Mẹ phải suy gẫm cả lời bà Anna, một nữ ngôn sứ độc nhất vô nhị trong Thánh kinh, nói về Con mình nữa (Lc 2: 38). Khi tìm thấy Con bị lạc trong đền thờ và được Con trả lời: Cha Mẹ không biết con phải thi hành thánh ý Chúa Cha sao? (Lc 2:49). Ở đây Thánh kinh cũng ghi lại: Mẹ Người ghi nhớ những sự việc đó trong lòng (Lc 2:51). Trong đời sống công khai của Con mình, Mẹ cũng phải suy gẫm những gì đã xẩy ra cho Con Mẹ: khi được người ta thán phục, ca tụng, khi bị người đời chống đối, tẩy chay. Dưới chân thánh giá, nghe Ðức Giêsu trối thánh Gioan cho Mẹ: Ðây là con của bà (Ga 19:26) và trối Mẹ cho thánh Gioan: Ðây là mẹ của con (Ga 19:27), Mẹ cũng phải ghi nhớ những gì đã xẩy ra vào những ngày cuối đời của Con Mẹ: chịu bách hại, chịu tra tấn, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai và chịu chết trên thập giá. Thực tế thì Mẹ đã suy gẫm những lời Thánh kinh tiên báo về Con trong chín tháng mười ngày cưu mang và trong suốt cả cuộc đời Mẹ. Mẹ ghi nhớ và suy gẫm xem những sự việc, những biến cố xẩy ra cho Con của Mẹ, không phải để cho lo âu, buồn khổ nằm bất động trong đầu óc và làm ứ đọng tâm hồn, nhưng để xem những sự việc xẩy ra ăn khớp với những lời tiên báo trong Thánh kinh như thế nào. Mẹ ghi nhớ và suy niệm với niềm tin chấp nhận để hoà nhịp vào những đau khổ, mà Con Mẹ phải chịu theo chương trình cứu độ, để được tới vinh quang phục sinh. Noi gương Mẹ, ta cũng suy gẫm lời Chúa trong Thánh kinh. Ta còn suy gẫm về những sự việc, những biến cố xẩy ra trong vũ trụ, và trên thế giới cũng như trong gia đình và chính cá nhân, để tìm ra ý nghĩa của mỗi sự việc và biến cố, hầu rút tỉa kinh nghiệm và học bài học, rồi làm lại cuộc đời. Ðể cho những sự việc và những biến cố xẩy ra trong đời ta và trên thế giới khỏi bị quên lãng, ta có thể ghi vào sổ nhật kí để tới ngày kỉ niệm ta ôn lại, rồi suy gẫm và cầu nguyện. Có những việc xẩy ra trong đời ta, ta coi là thiệt thòi, thất bại và đau khổ lúc đó. Rồi với thời gian trôi qua và suy gẫm lại, ta lại thấy có ích lợi cho ta trên đường dài về phương diện khác, nhất là về phương diện thiêng liêng chẳng hạn. Hôm nay ta cần tự hỏi xem có bao giờ ta suy tư về những hoạn nạn xẩy ra cho cá nhân hay cho gia đình như bệnh tật, chết chóc không? Có bao giờ ta suy nghĩ về những thiên tai xẩy ra trong vũ trụ như động đất, bão lụt, hoả hoạn, hoặc những tai nạn về đắm tầu, máy bay rớt hay xe cộ đụng nhau chăng? Có bao giờ ta suy nghĩ về những tai họa xẩy ra trên thế giới như chiến tranh, khủng bố, bạo động không? Hay là ta để cho những hoạn nạn, những thiên tai, những tai hoạ và tai nạn qua đi, rồi đi vào quên lãng? Hoặc giả ta có nhớ, nhưng lại để nằm bất động trong đầu óc chăng? Khi có mấy người đương thời kể cho Chúa về chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết chết, thì Chúa bảo, không phải những người Galilê đó tội lỗi hơn những người Galilê khác, nên mới bị giết. Chúa chỉ bảo họ cần sám hối để khỏi bị như vậy (Lc 13:2-3). Còn mười tám người bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, Chúa cũng bảo không phải họ mắc tội nặng hơn dân thành Giêrusalem. Chúa chỉ bảo họ phải sám hối để khỏi phải xẩy ra như vậy (Lc 13: 4-5). Như vậy thì hoạn nạn, thiên tai, tai nạn và tai họa có thể là những dấu chỉ Chúa muốn nói với ta điều gì đó chăng? Có phải Chúa bảo ta phải làm lại cuộc đời không? Lời cầu nguyện: xin cho được ơn làm con của Mẹ: Lạy Mẹ Maria! Dưới chân thánh giá, Thánh Tử đã trối Mẹ lại cho thánh Gioan. Từ nay con xin nhận Mẹ là Mẹ. Xin Mẹ cũng là Mẹ con, để con được đồng hành với Mẹ trên mọi nẻo đường đời. Xin dạy con biết ghi nhớ và suy gẫm lời Chúa, thứ đến những sự việc xẩy ra trong Giáo hội, trong vũ trụ, trên thế giới và trong đời con, để con biết tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống. Amen.
Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, Mẹ rất thánh của chúng ta, được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu này được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội hoàn vũ, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe hay lúc tản bộ. Dĩ nhiên, tôi cũng từng đọc cả trăm lần mỗi ngày lời Mẹ Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ. Và, do lòng sùng kính, hiếu thảo của một người con đối với Mẹ Thiên Chúa, tôi muốn tìm hiểu từ ngữ này trên hai phương diện: lịch sử và thần học, hầu hiểu biết được quan điểm của Giáo Hội Công Giáo đối với danh xưng này. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ Thánh danh Mẹ Thiên Chúa được dùng trong kinh nguyện của Giáo Hội từ lâu trước cuộc tranh luận giáo thuyết làm nên một giai đoạn thử thách đức tin Kitô hữu. Tuy nhiên, tước hiệu chính xác Mẹ Thiên Chúa đã được Đức Giám Mục Alexander thành Alexandria xưng tụng khoảng năm 281 - 300 A.D. Theo lịch sử Công Giáo, Nestôriô chủ trương rằng việc nhập thể bao gồm một sự biến đổi trọn vẹn của Ngôi Lời. Đối với ông, Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, nhưng là mẹ một con người thuần túy, một người có tên Giêsu, người mang Ngôi Lời. Để lên án học thuyết sai lầm về Thánh Mẫu Học và Kitô Học của bè rối Nestôriô, Công Đồng chung Êphêsô năm 431, dưới quyền điều khiển của Thánh Cyrilô thành Alexandria, đã tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và mầu nhiệm của đức tin Công Giáo chúng ta. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo. 1)- Trong Thánh Kinh: Mặc dù Thánh Kinh không chính thức dùng từ ngữ Mẹ Thiên Chúa, nhưng từ ngữ đó đã được hàm chứa một cách rõ rệt và minh bạch trong Thánh Kinh. Theo tiên tri Isaia, một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel (Is, 7:14; Mt, 1:23). Từ câu này, chúng ta có thể nói: Trinh Nữ đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri trên được thực hiện trong Phúc Âm Luca khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria: "Bà sẽ thụ thai, sinh con trai v sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu...; vì thế Trẻ Thánh sinh ra bởi Bà, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc, 1:31-35). Cũng vậy, Thánh Phaolô nói: Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật (Gal,4:14). Và từ dòng dõi họ Đức Kitô, theo huyết nhục, cũng từ họ mà ra, là Đấng vượt trên muôn loài, tức là Thiên Chúa, đáng ca tụng đời đời. (Rm, 9:5). Chúng ta cũng thấy, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2:1; 19:26), và Mẹ Chúa trong Luca, đoạn nói về việc Đức Mẹ đến thăm bà Elizabeth (1:43). Do đó, trong Thánh Kinh, ta thấy Thiên Chúa Cha mời gọi Đức Maria và do lời FIAT tự nguyện của Mẹ, trong quyền lực ơn sủng của Thánh Thần, Mẹ trở nên Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người; và như thế, Mẹ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. 2)- Qua Thánh Truyền: Các Kitô hữu thời sơ khai, được các Tông Đồ hướng dẫn, có một niềm tin vững chắc vào chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như: Kinh Tin Kính của các Tông Đồ: Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Con Một Thiên Chúa Cha, Đấng xuống thai bởi phép Chúa Thánh Thần, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria; công thức rửa tội ở thời kỳ đầu và những kinh nguyện phụng vụ. Thêm vào đó, tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được tin yêu và truyền dậy bởi các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô, Antiochia... Vào thời Thánh Athanasiô năm 373, chúng ta thấy có câu: Chúng tôi thú nhận rằng Con Thiên Chúa đã trở nên nhục thể qua việc nhận lấy thân xác từ một Trinh Nữ, Đấng Mẹ Thiên Chúa. Và Thánh Giêgoriô Nagianô tuyên bố: "Nếu người nào không nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì người đó không có Thiên Chúa làm Cha." Vì thế, qua Thánh truyền, chúng ta có thể xác quyết rằng Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, và như vậy Mẹ Rất Thánh của chúng ta thật là Mẹ Thiên Chúa. 3)- Qua Giáo Huấn của Giáo Hội: Trước tiên, Maria, Mẹ Thiên Chúa được tuyên bố để bênh vực Thiên Tính Chúa Giêsu, Con Mẹ, trong Công Đồng Chung thứ III tại ÊPhêsô năm 431 do Đức Giáo Hoàng Celestinô I. Thật ra, vào năm 428, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đã bị phản đối công khai tại Constantinople. Những Công Đồng kế tiếp như Chalcedonia năm 451 và Constantinople II năm 553 đã làm sáng tỏ hơn ý nghĩa tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Công Đồng Constantinople III (680-681) đã lên án phái Monothelites và nhắc lại một số công thức cổ truyền. Công Đồng xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô. Ngoài ra, chúng ta còn có những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng gần đây về Mẹ Thiên Chúa như Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp Mediator Dei để mừng kỷ niệm 1500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10. Đức Piô XII, trong thông điệp lịch sử của ngài, đã tuyên bố Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và chủ trương rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Sau cùng, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen gentium, chương VIII đã nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ trong Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang mồng 1 tháng 1. 4)- Trong Thánh Lễ: Thánh Lễ của chúng ta thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng ta. Vì tính chất phong phú đó, tôi xin trình bầy việc nhắc đi nhắc lại tước hiệu cao cả này mà ta thấy chứa đựng trong Thánh Lễ. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, vị linh mục đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc: Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa.v.v.... CÁI NHÌN THẦN HỌC Để hiểu hơn về chức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy nghiên cứu những học thuyết bàn về chức vị này, những học thuyết bao gồm cách thiết yếu việc nhiệm sinh từ đời đời của Đức Kitô bởi Thiên Chúa Cha liên quan tới việc Ngài được sinh ra trong thời gian bởi Đức Trinh Nữ Maria. Theo Thánh Cyrilô, chúng ta có thể nhận ra chức Mẹ Thiên Chúa của Mẹ Maria qua những quan điểm sau đây: a)- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hiện hữu với Thiên Chúa Cha từ đời đời, và là Ngôi Lời. b)- Trong Chúa Giêsu Kitô, thiên tính và nhân tính kết hợp một cách bất khả phân ly trong một ngôi. Công Đồng Nicea định nghĩa Chúa Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, Ngài có cùng một bản thể như Thiên Chúa Cha. Những Công Đồng khác cũng xác nhận đức tin này, như Công Đồng Chalcedonia năm 451, đã dạy rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người trong một ngôi vị. Vì Chúa Giêsu có 2 bản tính, nên chúng ta có thể hiểu sự nhiệm sinh của Ngài từ muôn đời bởi Thiên Chúa Cha và sự sinh ra trong thời gian của Ngài bởi Đức Trinh Nữ Maria. Bởi ngôi vị bất khả phân chia của Ngài, Con Thiên Chúa tuyệt đối đồng nhất với con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì thế, Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Hơn nữa, vào thế kỷ 13, Thánh Tôma đã đóng góp, bằng một đường lối đặc biệt, vào việc làm cho mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria thêm minh bạch và ý nghĩa. Ngài đã sáng tác và kéo dài việc bàn giải về Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa nơi phần viết về Kitô Học trong bộ Tổng Luận Thần Học. Qua những điều được trình bầy ở trên, chúng ta ý thức và xác nhận rằng Đức Maria thực sự là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa từ đời đời và là người thật. Vì thế, Đức Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa. Mẹ cũng là người đầu tiên chạm tới và làm sáng tỏ những mầu nhiệm cứu độ của tình thương Thiên Chúa. Thánh Kinh không những cho chúng ta biết phần nào sự kiện lịch sử trong quá khứ, điều chúng ta gọi là mạc khải. Thêm vào đó, bởi ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, các Nghị Phụ Công Đồng Vaticanô II đã để lại cho chúng ta một giáo huấn trọn hảo về Thánh Mẫu Học trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội ở Chương VIII. Nơi chương này, chúng ta có một khoa Thánh Mẫu Học phong phú mà các Giáo Phụ của Công Đồng đã mượn tư tưởng của Thánh Ambrôsiô dạy rằng: Mẹ Thiên Chúa là một mẫu gương của Giáo Hội về Đức Tin, đức ái và sự hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô. Các nghị phụ của Công Đồng Vaticanô II đã bày tỏ chính bản chất chân lý về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa một cách thỏa đáng, nên không cần bàn gì thêm về chân lý căn bản này trong đức tin của chúng ta nữa.
Con chim nó hót trên cao Nếu không có mẹ làm sao có mình ? Con chim nó hót trên cành Nếu không có mẹ thì mình làm sao ? (Ca dao) Câu đố nói lên một cách thống thiết con người cần phải có cha có mẹ vì “không ai ở chỗ nẻ chui lên”. Đó là nguồn cội của con người. Chim có tổ. Nước có nguồn. Con người phải có tổ ấm, phải có gia đình. Chúa Giêsu khi bước xuống trần gian này cũng không muốn sống ngoài định luật của con người. Ngài cũng có mẹ có cha. Đó là tính cách rất người của Chúa Giêsu. Chúa không muốn trở thành một vị tiên giáng trần hay một Phù Đổng Thiên Vương vươn vai rồi lớn lên hay như một vị khác thường từ trời giáng thế. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người là có một gia đình để sinh ra. Đức Maria chính là người đã sinh ra Chúa Giêsu. Kinh Thánh Tân ước đã chứng minh Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu trong nhiều trường hợp. Trong Tin Mừng thánh lễ hôm nay, thánh Luca đã viết:”Các mục đồng liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Đó là gia đình của Chúa Giêsu mà bà Maria là thân mẫu và ông Giuse là cha nuôi Ngài. Khi đến truyền tin, sứ thần Gabriel đã báo cho Đức Maria biết Ngài sẽ là Mẹ Thiên Chúa:”Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai, tên Ngài là Giêsu… Ngài sẽ là Con Đấng cao cả… và là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31,35-36). Trong dịp đi thăm viếng bà chị họ Elizabeth, Thiên Chúa lại công bố việc Ngài chọn Đức Maria làm Mẹ. Khi hai chị em gặp nhau, đột nhiên bà Elizabeth tự động nói một câu lạ tai, nếu không dám nói là bạo miệng:”Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi” (Lc 1,43). Chúng ta không thắc mắc về câu nói đó vì đã có thánh Luca giải thích:”Bà được đầy Thánh linh soi sáng” (Lc 1,41). Trong dịp đi lễ đền thờ Giêrusalem, hai ông bà lạc mất con, sau ba ngày trở lại đền thờ thấy Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy dạy, đàm đạo với họ. Đức Maria vừa vui mừng vừa mắng yêu con:”Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ con như vậy ? Con không thấy, cha con và mẹ đây đã phải cực nhọc tìm con”(Lc 2,48) ? Như vậy, sứ thần Gabriel – Thánh Linh – bà Elizabeth – Đức Mẹ nói rõ ra chưa đủ, Chúa Giêsu còn bổ khuyết:”Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao” (Lc 2,49) ? Cha của con ở đây là ai ? Dĩ nhiên không phải thánh Giuse, vì thánh Giuse đang đi tìm Chúa, nên phải hiểu “Cha của con” Chúa nói đây là Thiên Chúa Cha – Cha của Ngài. Do đó, việc Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa lại càng sáng tỏ hơn nữa. II. ĐỨC MARIA LÀ MẸ THIÊN CHÚA. Xưa nay mọi người vẫn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì chúng ta lý luận rằng: gọi là mẹ những người đàn bà đã thật sự sinh con. Bà Maria đã thực sự sinh con là Chúa Giêsu. Mà Chúa Giêsu theo các chứng đã nêu trên là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa thật “Cha Ta và Ta là một” (Ga 10,30; 17,11,22). Cho nên bà Maria là Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu “Đức Maria-Mẹ Thiên Chúa” là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Nhưng tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” không có trong bản văn Tân ước. Tước hiệu này được đề cập lần đầu tiên trong tài liệu của thánh Hippolytô (+235) ở Rôma. Sau đó thượng phụ giáo chủ Constantinople là Nestoriô (428) dựa trên quan điểm Kitô học riêng của mình đã phản đối việc xưng tụng Đức Maria dưới tước hiệu này. Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa, vì theo ông, Con Thiên Chúa là một hữu thể, con Đức Maria là một hữu thể khác vì ông cho rằng Chúa Kitô có hai ngôi vị, đó là ngôi vị Thiên Chúa (Ngôi Lời) và ngôi vị con người (Giêsu). Như thế, Đức Maria không thể được gọi là “Theotokos” (Mẹ Thiên Chúa) ít nhất là theo ý nghĩa thực của hành vi ngôi hiệp (hợp nhất bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại trong một ngôi vị duy nhất của Chúa Kitô). Thế nên, vào năm 431, Giáo hội đã triệu tập công đồng Êphêsô dưới sự chủ tọa của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cách chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng đã định tín Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Từ công đồng Êphêsô, tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức trinh Nữ Maria. Từ công đồng này, chúng ta có phần sau của kinh Kính Mừng:”Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen” Công đồng Vatican II cũng tái xác quyết địa vị Mẹ Thiên Chúa:”Đức trinh nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa (Lumen gentium, số 53). Truyện: Mẹ Tổng thống. Ngày 20/01/1961 John Kennedy Tổng thống thứ 35 của Hoa kỳ. Một người công giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng thống thì Rosa Kennedy trở thành mẹ của Tổng thống. Khi bà sinh John vào năm 1917, bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng thống. Bà không sinh ra một con người Tổng thống. Nhưng thực sự và đúng là mẹ của một Tổng thống. Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ Đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa, Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tín nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch (Arthur Tonne). Đức Maria là Mẹ Đức Giêsu vì đã sinh ra Ngài đúng nghĩa, chúng ta cũng là con cái Mẹ Maria theo nghĩa thiêng liêng và trở nên anh em với Chúa Giêsu. Chúng ta không còn phải mồ côi vì đã có người Mẹ yêu thương và săn sóc dìu dắt. Phúc cho những người con nào có mẹ. Thật hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta có thể mở miệng ra kêu: “Mẹ ơi” , như lời ca trong ca khúc “Bông hồng cài áo” của nhạc sĩ Phạm thế Mỹ:”Một bông hồng cho anh, một bông hồng cho em, một bông hồng cho những ai đang còn mẹ… Thì xin em hãy cùng tôi vui sướng lên, hãy cùng tôi vui sướng lên…”. Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết tưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị là mẹ chúng ta, Mẹ có đủ tình thương để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta hay thường đọc: Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời. Hay như thánh Bênađô đã bảo: Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ lầm đường lạc lối. III. ĐỨC MARIA, NỮ VƯƠNG HÒA BINH. Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại Hòa bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại Hòa bình, Ngài là Vua Hòa bình. Ý thức được quyền uy cao cả của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Giáo hội luôn kêu xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giêsu Hài đồng, Con Mẹ ban cho thế giới được bình an trong năm mới. Chính Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã đặt ngày 01/01 dương lịch hàng năm làm ngày cầu cho hòa binh thế giới. Ngài viết trong tong huấn Marialis Cultus như sau:”Khi canh tân mùa Giáng Sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01/01 đúng Phụng vụ Rôma từ xưa, nhằm tôn kính địa vị đặc biệt của Mẹ, Đấng tiếp nhận nguồn gốc là Đức Giêsu. Lễ này là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa bình mới sinh ra và nghe lại lời chúc hòa bình của các thiên sứ và cũng để cầu Chúa Hài nhi, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình ban cho chúng ta ơn cao cả nhất là ơn hòa bình” (Marialis Cultus, số 5). Hòa bình không những là khát vọng của mỗi người mà còn là ước vọng của cả nhân loại. Hòa bình là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa ban cho nhân loại:”Thầy để bình anh cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”(Ga 14,27). Hòa bình khởi đi trong tâm hồn. Con Thiên Chúa đã ban cho nhân loại sự bình an đích thực. Hòa bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hòa bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn giầu nhiều mặt hơn tiêu cực. Hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hòa bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới này. Chúng ta đóng góp được những gì ? Kể từ khi Đức Giáo hoàng Phaolô VI chọn ngày 01/01 làm ngày thế giới hòa bình lần đầu tiên trở đi, mỗi năm các Đức Giáo hoàng chọn cho ngày đó một chủ đề về hòa bình để mọi người suy niệm, học hỏi, thực hành, như năm 2008, Đức Bênêđictô XVI đã lấy đề tài:Bài trừ đói nghèo, xây dựng hòa bình. Đức Giáo hoàng kêu gọi phải chiến đấu chống lại sự nghèo đói. Cuộc chiến này phải được mọi người tiếp tay, phải được cả thế giới quyết tâm cao. Các nước giầu phải có bổn phận giúp đỡ nước nghèo. Người giầu có phải giúp đỡ người nghèo. Nhưng trong thực tế, người ta ích kỷ không muốn chia sẻ cho nhau. Chỉ khi con người biết yêu thương nhau, quảng đại chia sẻ giúp đỡ nhau, giảm bớt chi tiêu lãng phí để giúp đỡ kẻ khác thì mới bớt sự nghèo khó và mới có sự bình an trong cuộc sống. Chân phước Têrêsa Calcutta nói:”Chỉ khi con người biết chia sẻ cho nhau, thì mới hết cảnh đói nghèo”. Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hòa bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hòa bình, nhưng muốn xây dựng hòa bình. Trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa và cầu cho hòa bình thế giới hôm nay, chúng ta xin Đức Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình ban cho chúng ta , cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hòa bình của Chúa Kitô – Hòa bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho mọi người trong đêm Giáng sinh, để chúng ta biết sống hòa thuận thương yêu nhau, đoàn kết xây dựng hòa bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới hôm nay. Lạy Hoàng Tử Hòa Bình vừa hạ sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, xin ban cho nhân loại được hưởng niềm hòa bình viên mãn và tuôn tràn nguồn an bình đích thực xuống trong mỗi tâm hồn chúng con. Amen.
Giáo Hội qua Phụng Vụ hôm nay muốn cho chúng ta thấy sự liên kết giữa việc Chúa Giêsu chịu cắt bì theo lề luật Do Thái với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Theo lề luật Do Thái việc cắt bì và đặt tên cho đứa trẻ mới sinh có một tầm quan trọng lớn lao bởi vì với nghi thức tôn giáo này đứa trẻ sẽ thực sự được đưa vào gia nhập vào cộng đoàn Dân Chúa và được hưởng phúc lành lời hứa của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Ngôi Lời từ đời đời, nhưng đã hóa kiếp làm người, nhận lấy thân phận làm người để trở thành một con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu đã chấp nhận lệ thuộc lề luật vì Ngài muốn giải thoát nhân loại, giải thoát mọi người và giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ lề luật, đồng thời làm cho chúng ta trở thành Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu chấp nhận việc cắt bì, chịu đổ máu ra, Ngài đã cho chúng ta hiểu ngay từ giây phút đổ máu Ngài đã thi hành sứ vụ cứu thế của Ngài. Viêc Hài Nhi Giêsu chịu cắt bì nhắc nhớ mọi Kitô hữu rằng phải qua bí tích rửa tội người Kitô hữu được gia nhập cộng đồng Dân Israen mới. Thiên Chúa đã sai Con của Ngài xuống trần gian sinh bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nên, Chúa Giêsu cũng phải chấp nhận cách thông thường là có một người Mẹ. Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu xuống thế làm người. Mẹ là Mẹ của chính Thiên Chúa. Đây là tước hiệu thật cao sang. Tước hiệu vinh quang của Mẹ, vì ngoài Thiên Chúa Cha, không ai có quyền gọi Chúa Giêsu là Con như Người. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa nhưng đồng thời cũng là Mẹ chúng ta nữa. Đó là niềm hạnh phúc của mọi Kitô hữu bởi vì Mẹ yêu thương Chúa Giêsu thế nào, Mẹ cũng yêu thương chúng ta như vậy. Chúng ta hạnh phúc vì có một người Mẹ tuyệt vời, Mẹ là Mẹ ân sủng vì Mẹ đã kết hợp với Chúa Thánh Thần để sinh ra Đức Kitô, và mọi Kitô hữu trong ân sủng sự sống đời đời. Hôm nay là ngày đầu năm dương lịch. Ngày Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã chọn làm ngày hòa bình thế giới. Hòa bình hay nói cách khác sự an bình Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại qua lời tung hô của các thiên thần trong đêm Chúa Giáng Sinh:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Sự an bình này quả thực rất cần thiết bởi vì không có hòa bình trong tâm hồn, con người không thể nào có thể có hòa bình đối với người khác. Chúa Giêsu đến trần gian để ban bình an cho nhân loại:” Ta để lại bình an cho các con. Ta ban bình an của Ta cho các con “. Chúa đến ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta:” Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta “. Mẹ Maria đã sinh Đấng Cứu Thế để Ngài ban hòa bình cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Mẹ là Mẹ Vua Hòa Bình, là Nữ Vương Hòa Bình vì thế Hòa Bình của con người và Hòa Bình trên thế giới nằm trong tay của Người. Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, trao tặng cho mỗi người chúng ta món quà vô giá là Con yêu dấu của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ chan chứa nơi con yêu quí của Mẹ là Đức Kitô. Do đó, con người, loài người chỉ có thể có sự an bình được nếu mỗi người chúng ta biết làm mới con người, làm mới cuộc đời của mình để đón nhận sự an bình Thiên Chúa trao tặng qua Con Một Yêu Dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy ngước nhìn lên Mẹ, Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, chiêm ngắm Mẹ, noi gương bắt chước Mẹ vì Mẹ sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được sự an bình của Con Mẹ, sự bình an mà các thiên thần đã hát vang trên không trung xưa . Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con để chúng con luôn có sự an bình trong tâm hồn chúng con và luôn biết chiếu tỏa sự an bình cho mọi người đặc biệt năm mới 2012 này. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa có vai trò gì trong lịch sử cứu độ ? Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình có ý nghĩa gì ? Hòa Bình theo ý Chúa có nghĩa gì ? Phải làm sao để có sự Hòa Bình ?
Ngày đầu năm mới và cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực của nhân loại. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Maria đã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ. Tại sao một thiếu nữ nhỏ bé sống ở làng nghèo Nadaret lại trở thành Mẹ Thiên Chúa? Nhìn về mặt bề ngoài, Mẹ Maria không có gì nổi bật so với những người phụ nữ thời ấy. Tên Maria là một tên rất phổ biến, giống như tên Tuyết, Cúc, Đào…trong giới phụ nữ Việt Nam. Mẹ Maria người làng Nadaret (Lc 1,26), một làng rất tầm thường như sau này Nathanael nhận xét: “Từ Nadaret làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Để có câu trả lời, cần tìm về ý nghĩa của biến cố Truyền Tin. Thi sĩ Hàn Mặc Tử viết bài thơ ‘Ave Maria’ bất hủ từ câu chuyện này. Hỡi Sứ thần Thiên Chúa, Gabriel. Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ. Người có nghe xôn xao muôn tinh tú. Người có nghe náo động cả muôn trời. Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời. Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng. Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng. Một đêm xuân là rất đỗi anh linh. Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp. Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập. Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không. Lút linh hồn và ám ảnh hương lòng. Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước. Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước. Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm… Sứ thần Gabriel đến Nadaret chào thôn nữ Maria: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ba tiếng “Đầy-ân-sủng” gộp lại trở thành như là tên gọi riêng của Đức Maria. Mẹ được tràn đầy ân sủng. Mẹ luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng. Không có giây phút nào mà Mẹ không có Thiên Chúa với mình. Không có giây phút nào mà Mẹ không trọn vẹn thuộc về Chúa. Không có bất cứ dấu vết tội lỗi chen vào giữa Mẹ và Thiên Chúa (Lm Nguyễn Hồng Giáo). Tại sao Thiên thần nói với Maria: hãy vui lên?. Lời mời gọi này nhắc lại lời Ngôn sứ Xôphônia thế kỷ thứ VI báo tin ngày cứu độ cho Israel: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi…Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng” (Xp 3,14-17). Sứ thần Gabriel cũng mời gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần trình bày: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavit tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33). Là một tâm hồn luôn luôn nghiền ngẫm Kinh thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại Lời Chúa đã dùng Ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavit xưa. Nhưng điều mà Mẹ không bao giờ nghĩ tới là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện “không thể” được đầu tiên là làm sao mình sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Sau khi được Sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Maria khiêm nhường thưa lại: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa. Mẹ được Thiên Chúa sủng ái, và được trở nên cao trọng, vì Mẹ khiêm nhường. Đức khiêm nhường dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Trong bài Magnificat, chính Đức Mẹ đã nói về mình rằng: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa Thần trí tôi hớn hở vui mừng Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Chúa đoái thương nhìn tới. Chúa hạ bệ những ai quyền thế Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường Đức Mẹ thuộc truyền thống những người nghèo khó, hèn mọn được Thiên Chúa che chở cách riêng. CĐ Vaticanô II trong hiến chế tín lý về Giáo hội đã dạy: “Đức Maria đứng đầu trong hàng ngũ những người khiêm nhường và nghèo khó của Chúa vẫn mong đợi và lãnh nhận ơn cứu độ với lòng tin tưởng” (số 55). Từ biến cố Truyền tin, qua lời đáp xin vâng của Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng dạ Mẹ. Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Giáo hội đã tuyên bố Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, Người có ngôi vị duy nhất trong hai bản tính. Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Thiên Chúa làm người, nên là Mẹ của Thiên Chúa. Công đồng Êphêsô 431 đã minh định điều ấy khi tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria đã trở thành Mẹ của Chúa qua thái độ khiêm nhường và lời đáp xin vâng phát xuất từ lòng tin của Mẹ. Do đó, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không chỉ hiểu chức làm mẹ đó chỉ thuộc về thân xác mà thôi, nhưng nhìn nhận Đức Maria là Mẹ do hành vi tin hoàn toàn tự do của Ngài, như bà Êlisabet đã thốt lên: “Phúc cho em vì đã tin những lời Chúa phán”. Chúa Giêsu có lần đã tuyên bố: “Mẹ và anh em Ta là những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa” (Lc 8,21). Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và là mầu nhiệm của đức tin Công Giáo. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Tín điều Mẹ Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh. Tiên tri Isaia loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria: "Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu... Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1,31-35). Thánh Phaolô viết: ‘Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật” (Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1 ; 19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet (1,43). Các Kitô hữu thời sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ. Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô Antiochia, tin yêu và truyền dạy. Công Đồng Êphêsô năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Công Đồng Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10. Đức Piô XII, đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Công Đồng Vaticanô II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm. Thánh Lễ thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc: Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa... “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh... Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ. Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch,cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước trời qua Mẹ Maria. Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu độ nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Mẹ, gắn bó cùng Chúa trọn đời. Amen.
Khi nói đến tình yêu và sự hy sinh của một người mẹ, cha ông ta đã nói rằng: "Đố ai đếm được lá rừng, Đố ai đếm được mấy từng trời cao Đố ai đếm được những vì sao, Đố ai đếm được công lao mẫu từ". Thế nhưng, lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao. Người mẹ đã “mang nặng đẻ đau”, chịu nhiều hy sinh thiệt thòi cho con cái khôn lớn chẳng hạn như: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy: "Nhớ ơn chín chữ cù lao Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình". Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm nồng ấm, bình an: "Ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi, Con đi trường học mẹ đi trường đời". Vâng, tình yêu của mẹ là tình yêu cao vời trên chín tầng mây và mênh mông như biển cả thái bình. Có lẽ chẳng có bút mực nào có thể kể hết những công lao, những hy sinh người mẹ đã phải chịu từ khi cưu mang cho đến khi nuôi con khôn lớn: - Chim trời ai dễ đếm lông, Nuôi con ai nỡ kể công tháng ngày. - Lên non mới biết non cao, Nuôi con mới biết công ơn mẫu từ. Vì thế, trong đạo hiếu làm con, và những ai có lương tri đều hiểu rất rõ và sâu xa câu ca dao nói về tình mẹ: “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” – Để dù là ai đi chăng nữa, khi đã lớn khôn và thành gia thất họ đều cảm nghiệm rất rõ điều mà người ta nói về mẹ: “Con đi trọn kiếp con người Cũng không qua nổi những lời mẹ ru Mẹ Maria với vai trò của một người mẹ, Mẹ cũng nếm trải những gian truân qua từng giai đoạn lớn khôn của con của Mẹ. Mẹ đã sinh ra Chúa trong thiếu thốn tư bề. Mẹ cũng lo lắng cho sự an nguy của con khi bạo chúa tìm cách giết con Mẹ. Mẹ cũng “thức trọn năm canh” để lo cho con ngủ trong lúc giá rét mùa đông và trong khi chạy tị nạn bên Ai – Cập. Mẹ luôn sát cánh bên con không chỉ giai đoạn tuổi thơ mà cả khi khôn lớn. Mẹ luôn đồng hành với con yêu quý. Mẹ cũng từng bôn ba tìm con khi trẻ thơ bị lạc trong đền thờ. Mẹ đã đi sát bên Chúa qua đỉnh đồi Calve để cùng hiệp thông đau khổ cứu độ trần gian. Có lẽ, hiểu được tấm lòng của Mẹ và vai trò của Mẹ nên Chúa Giê-su trước khi kết thúc tháng ngày dương gian, Ngài đã trao ban Mẹ Maria cho nhân loại chúng ta. Qua Gioan, Chúa Giê-su muốn gởi gắm nhân loại qua bàn tay chăm sóc của Mẹ Maria. Từ nay Mẹ Maria nhận chúng sinh là con của Mẹ. Mẹ tiếp tục đồng hành với các con của Mẹ qua mọi thời đại. Mẹ sẽ lo liệu cho con cái của Mẹ luôn no đầy ân phúc bởi trời. Mẹ sẽ luôn cùng chúng sinh đi qua những đỉnh đồi của thương đau trong kiếp sống nhân trần. Điều này Mẹ đã thể hiện qua những lần Mẹ hiện ra trên khắp thế giới. Nơi nào có chiến tranh, ly tán. Mẹ hiện ra để hoà giải và quy tụ con cái trở về. Nơi nào có bách hại. Mẹ sẽ hiện đến để bảo vệ, chở che. Nơi nào có khóc lóc thở than. Mẹ sẽ hiện diện để ủi an nâng đỡ. Nơi nào thiếu thốn tư bề. Mẹ sẽ ngự trị ban cho cuộc sống phồn vinh. Có thể nói, người mẹ trần thế hay người Mẹ thiên quốc đều là bảo ngọc châu báu mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Không có Mẹ con cái sẽ không thể lớn nổi thành người. Không có mẹ con cái sẽ thiếu đi hơi ấm của tình thương. Vì thế, nếu trong đời sống thể lý khi con mất Mẹ là một mất mát vô cùng to lớn thì trong đời sống thiêng liêng cũng thật bất hạnh cho những ai lạc xa mất Mẹ. Hiểu được giá trị của Mẹ, nữ thi sĩ Xuân Tâm đã trải lòng mình qua bài thơ “Mất Mẹ” mà chính tác giả đã trải qua như sau: "Năm xưa tôi còn nhỏ, Mẹ tôi đã qua đời. Lần đầu tiên tôi hiểu, Thân phận kẻ mồ côi". "Quanh tôi ai cũng khóc, Im lặng tôi sầu thôi, Để dòng nước mắt chảy, Là bớt khổ đi rồi...". "Độ nhỏ tôi không tin, Người thân tôi sẽ mất Hôm ấy tôi sững sờ Và nghi ngờ trời đất". "Từ nay tôi hết thấy Trên trán mẹ hôn con Những khi con phải đòn Đau lòng mẹ la lẫy". "Kìa nhà ai sung sướng Mẹ con vỗ về nhau Tìm mẹ con không có Khi buồn biết trốn đâu". Hoàng hôn phủ trên mộ, Chuông chùa lạnh rơi rơi, Tôi thấy tôi mất mẹ, Mất cả một bầu trời!". Hôm nay lễ Mẹ Thiên Chúa, là dịp nhắc nhở chúng con có một người Mẹ trên thiên quốc. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa nhưng cũng được Chúa ban Mẹ cho chúng ta. Cuộc đời chúng ta không bao giờ vắng Mẹ. Vui buồn sướng khổ trong cuộc đời chúng ta luôn có Mẹ. Mẹ luôn theo sát chúng ta trong từng khó nguy dòng đời. Mẹ cùng chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Chúng ta hãy cám ơn Mẹ đã thương nhận chúng ta làm con của mẹ. Chúng ta cám ơn Mẹ đã luôn bảo vệ chở che cho từng người chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ để lạc mất Mẹ, nhưng luôn bám vào tà áo Mẹ để được nâng đỡi ủi an. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã từng bao bọc chở che cho Ngôi Hai Thiên Chúa. Xin Mẹ cũng đoái thương đến từng người chúng con. Xin Mẹ luôn bảo vệ và nâng đỡ chúng con. Xin cho chúng con luôn chạy đến cùng Mẹ, luôn kêu cầu Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen
Mỗi lần đọc Kinh Kính Mừng, ta xưng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”. Tước hiệu này tức khắc trở thành lời tuyên xưng căn bản nhất về Đức Mẹ trong đức tin Công Giáo của ta, và cũng là lời tuyên xưng thân thiết nhất trong lòng sùng kính Công Giáo. Thực vậy, nếu Đức Mẹ không phải là Mẹ Thiên Chúa, chắc chắn không một tước hiệu nào khác của Ngài có ý nghĩa chi hết; và vì Người là Mẹ Thiên Chúa, nên tước hiệu nào ta dành cho Ngài, người cao trọng nhất trong mọi loài thụ tạo, đều không sánh được với tước hiệu Mater Dei này. Học Lý Trong Kinh Tin Kính của các Thánh Tông Đồ, mà các điểm cốt lõi đã có từ thế kỷ thứ nhất, Giáo Hội tuyên xưng niềm tin của mình vào Con Thiên Chúa, sinh bởi Bà Maria Đồng Trinh. Vì là Mẹ Con duy nhất của Thiên Chúa, nên ngài là Mẹ của chính Thiên Chúa, vì Ngôi Hai Thiên Chúa Ba Ngôi chính là Thiên Chúa thật, cùng muôn thuở đời đời với Đức Chúa Cha, và cùng một bản thể với Đức Chúa Cha. Cho nên không lạ gì khi Kinh Tin Kính của các Thánh Tông Đồ tuyên xưng chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, vì mạc khải trước nhất về Đức Mẹ, tức mạc khải Ngài là Mẹ Đấng Được Xức Dầu, cũng đã khẳng định Mẹ là Mẹ Thiên Chúa rồi. Tiên tri Isaia tiên báo rằng một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con Trai, và tên của Người sẽ là Emmanuel. Xét theo chiểu tự, chữ này cũng đọc là Immanuel, nghĩa Hy Bá Lai là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Lời giải thích này chính Thánh Mátthêu đã đưa ra, khi ngài mô tả sứ điệp thiên thần nói với Thánh Giuse: đừng sợ nhận Maria làm vợ hợp pháp của mình, sau khi bà thấy mình có thai (Mt 1:23). Soạn giả Phúc Âm Luca cũng minh nhiên không kém. Khi Đức Mẹ hỏi làm thế nào Ngài có thể trở thành Mẹ Đấng Được Xức Dầu, thì thiên thần cho ngài hay: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà. Và do đó, Đấng Thánh từ bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35). Điều người học trò của ngài viết đã được chính Thánh Phaolô nhắc lại. Thực vậy, Thánh Phaolô nói với tín hữu Galát rằng: “Thiên Chúa sai Con một mình, sinh bởi một người đàn bà” (Gl 4:4). Đàng khác, khi Đức Mẹ đi viếng người chị em họ, những lời đầu tiên của bà Êlisabét là những lời thán phục. Con trẻ Gioan hân hoan nhẩy mừng trong bụng mẹ khiến Êlisabét thốt lên: “Làm sao tôi xứng đáng được mẹ Chúa tôi viếng thăm?” (Lc1:42). Các giáo phụ tiên khởi nhất trí tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Ai có thể sửa cho hay hơn được lời tuyên bố của Thánh Inhaxiô thành Antôkia khi ngài viết thư gửi tín hữu Êphêsô trong lúc đang trên đường chịu tử đạo ở Rôma? Ngài viết: “Thiên Chúa chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, được Đức Maria cưu mang trong lòng”. Theo Thánh Inhaxiô, quả thật Chúa Kitô “bởi dòng giống Đavít, nhưng do quyền lực Chúa Thánh Thần” (Gửi Tín Hữu Êphêsô, số 53). Không lạ gì, đến thế kỷ thứ ba, các giáo phụ Hy Lạp đã nghĩ ra danh hiệu Theotokos (Theos = Thiên Chúa, và tokos = mẹ) để mô tả Mẹ Chúa Giêsu. Và ngay cuối thế kỷ thứ tư, Thánh Grêgôriô Nazianzô đã mạnh dạn tuyên bố rằng “Ai không nhìn nhận Thánh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, người ấy xa lìa Thiên Chúa” (Thư 101, 4). Tuy nhiên, trong khi ấy, đã xuất hiện nhiều lạc giáo, tất cả đều nghi ngờ thần tính của Chúa Giêsu. Cerinthus và phái Ebionite thuộc các thế kỷ thứ nhất và thứ hai, phái nhất ngôi nhất thể (monarchism) trong các thế kỷ thứ hai và thứ ba, phái Ariô, phái Makêđôniô, và phái Apôlinariô trong thế kỷ thứ bốn, vì các khía cạnh và lý do khác nhau, đã bác bỏ chân lý Chúa Giêsu thành Nadarét là Thiên Chúa thật đã sinh ra làm người. Các lạc giáo ấy chuẩn bị sân khấu cho lạc giáo Nestôriô, giám mục và là thượng phụ Constantinople. Nestôriô trước đó vốn là một đan sĩ tại đan việc Antiôkia. Ông cũng là một nhà giảng thuyết danh tiếng đến độ hoàng đế phải ra lệnh để ông điền khuyết toà trống ngôi tại Constantinople. Sau khi lên làm giám mục không lâu, Nestôriô bất đồng ý kiến ngay với giáo dân của mình vì đã ủng hộ tuyên úy của mình chống lại việc sử dụng danh hiệu Theotokos để chỉ Đức Nữ Trinh Diễm Phúc Maria. Giáo dân trong giáo phận của ông tỏ ý bất mãn nên chẳng bao lâu chủ trương của ông bị phẫn nộ và chống đối khắp vùng Trung Đông. Các tín hữu giáo dân trong vùng khiếu nại lên các giám mục liên hệ của họ, lúc đó đang được Thánh Xirilô thành Alexandria lãnh đạo. Cuối cùng, cả Nestôriô lẫn các địch thủ khiếu nại lên Rôma. Ngày 7 tháng Mười Hai năm 430, Đức Thánh Giáo Hoàng Xêlestinô lên án giáo huấn của Nestôriô là lạc giáo và truyền cho Thánh Xirilô công bố án quyết truất phế Nestôriô, nếu ông ta không chịu tùng phục. Vốn có cảm tình với Nestôriô, nên không lạ gì hoàng đế đã triệu tập một công đồng chung để giải vạ cho vị thượng vụ này. Nhưng thay vì giải vạ, Công Đồng Êphêsô ngày 22 tháng Sáu năm 431 đã tái xác nhận việc lên án Nestôriô, khiến hoàng đế buộc phải theo quyết định của công đồng. Định nghĩa của Êphêsô vỏn vẹn chỉ có một câu ở thể phủ định: “Ai không tin Đấng Emmanuel (Chúa Kitô) thực sự là Thiên Chúa, và do đó, Đức Maria Thánh Thiện là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa), vì về phương diện thể xác chính Ngài đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, người ấy phải chịu vạ tuyệt thông”. Công đồng Êphêsô đặt căn bản giáo huấn của mình trên hai tiền đề sau đây của đức tin Công Giáo: Đức Maria là mẹ thật. Ngài đóng góp mọi sự cần thiết để hình thành ra bản tính nhân loại nơi Chúa Kitô, mà mọi người mẹ khác vốn đóng góp để hình thành ra đứa con do họ hạ sinh. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có ai lại nghĩ Đức Maria là mẹ sinh ra bản tính Thiên Chúa của Chúa Kitô. Là Thiên Chúa, từ thuở đời đời, Chúa Kitô đã đ ược Đức Chúa Cha sinh ra. Không giống các thần minh ngoại giáo, Thiên Chúa chân thực duy nhất không có nữ thần mẹ nào sinh ra Người cả. Do đó, Đức Mẹ quả là Mẹ Thiên Chúa thật. Tại sao? Vì Đức Mẹ cưu mang Ngôi Hai Thiên Chúa Ba Ngôi; dĩ nhiên không phải theo Bản Tính Thiên Chúa mà là theo bản tính nhân loại, một bản tính mà Con Thiên Chúa tự ý mang lấy ngõ hầu có thể dâng mình trên Thánh Giá để cứu chuộc ta. Lịch sử Chức Làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria Một trong những sự kiện ít được biết đến về Công đồng Êphêsô là không phải mọi giám mục đều chấp nhận việc định nghĩa của Công đồng này. Không ít các giám mục, nhất là ở Đông Phương, đã về phe với Nestôriô và do đó đã khước từ hợp nhất với Rôma và Giáo Hội Công Giáo. Thế là hạt giống chia rẽ được gieo vãi nơi các Kitô hữu, mà hoa trái sẽ thấy rõ trong các thế kỷ về sau. Hoa trái đắng đót không hẳn nhỏ chính là việc phát triển của Hồi Giáo vào hai trăm năm sau, khi Mohammad công bố tôn giáo mới vào năm 622 CN. Không phải là một trùng hợp, nhưng rõ ràng là một trong những nghịch lý bi thảm nhất của lịch sử, vì khi Mohammad xuất hiện trong tư cách một tiên tri, thì hình thức Kitô giáo trổi vượt được ông ta tiếp xúc chính là phái Nestôriô. Cho nên không lạ gì khi cho viết ra Kinh Kôrăng, dù rất kính trọng Miriam, mẹ Đức Isa (Giêsu), Mohammad chỉ nhìn nhận ngài là mẹ một phàm nhân; theo ông, Chúa Giêsu không phải là Thiên Chúa. Mohammad định nghĩa Kitô hữu là người lầm lẫn cho rằng Đức Giêsu không phải chỉ là Ibn Miriam, con trai bà Maria, mà thực ra là Ibn Allah, Con Thiên Chúa. Với hơn một tỉ người Hồi Giáo trên khắp thế giới ngày nay, người ta hẳn phải đặt nhiều chữ “nếu” cho lịch sử để mà suy đoán chuyện gì sẽ xẩy ra nếu mọi giám mục tại Êphêsô đều nhất loạt duy trì lòng trung thành với gia tài tông truyền của mình, và chấp nhận Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Đức Giêsu (như Mohammad), mà còn là Mẹ Đấng Tạo Ra Mình, Đấng đã tiếp nhận bản tính nhân loại từ Đức Maria, nhờ thế mà cứu chuộc được thiên hạ. Ta gần như có thể nói được rằng Công Đồng Êphêsô là một khúc phân rẽ các môn đệ của Chúa Kitô. Một lần nữa, cũng không phải là trùng hợp, và lần này có ý nghĩa hơn nhiều, trong 1,500 năm qua, những người thừa nhận Đức Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa duy nhất chân thật cũng là những người có lòng tin bền đỗ vào Chúa Giêsu Kitô, bất chấp các giông bão lớn lao do các giáo huấn sai lầm về con người Chúa Kitô đem lại. Ta cần hiểu rõ điều Giáo Hội dạy khi Giáo Hội tuyên bố rằng Đức Maria Vô Nhiễm chính là Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội muốn dạy rằng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì Con của ngài là Thiên Chúa ngay từ giây phút đầu tiên làm người trong lòng Đức Maria. Một lần nữa, vì Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nên bất cứ bóng dáng hoài nghi nào về chức Làm Mẹ Thiên Chúa của Ngài cũng trở thành một hoài nghi đối với Thần Tính của Con Ngài. Cho nên, trên thực tế, một dấu chỉ tính chính thống Công Giáo chính là mức độ sùng kình ta dành cho Đức Nữ Trinh Diễm Phúc Maria. Hệ luận Ta cần nhấn mạnh một lần nữa rằng để đáng được tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria không cần phải ban cho Con mình bản tính Thiên Chúa, giống như các bà mẹ khác đâu cần phải ban cho con mình cả hồn lẫn xác đâu. Vì linh hồn luôn được Chúa tạo nên nơi mỗi con người. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài là Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà trong Ngôi Vị Thiên Chúa duy nhất, bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa hợp nhất với nhau một cách không thể nào phân cách được. Nhưng Đức Maria có nhiều căn cứ để coi mình là Mẹ của Con mình hơn bất cứ người mẹ nào khác. Tại sao? Vì theo lẽ tự nhiên, các người mẹ khác phải chia sẻ quyền làm cha mẹ với chồng mình, trong khi Đức Maria hạ sinh Con mình mà không cần tới sự cộng tác của phàm nhân. Nhìn nhận Chức Làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ta sẽ không lấy làm lạ là Giáo Hội đã không còn tìm đâu ra đủ ngữ vựng trong ngôn ngữ loài người để mô tả địa vị cao cả này. Một cô gái nghèo hèn, yếu đuối lại trở nên Mẹ của Thiên Chúa vô biên, toàn năng và vĩnh cửu. Một con gái vô danh của Ađam lại trở thành hình ảnh thụ tạo hoàn hảo nhất của Chúa Cha, Mẹ Chúa Con, và hiền thê của Chúa Thánh Thần, nữ tỳ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ta hãy vắn tắt trích dẫn bốn vị thánh qua các lời tuyên bố bề ngoài xem ra quá trớn nhưng thực chất không quá trớn chút nào về địa vị trên của Đức Mẹ. Thánh Eusebius nói rằng để hiểu sự cao cả trong địa vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ta phải hiểu được sự cao cả của Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Thomas Aquinas nói rằng địa vị làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao cả đến nỗi Ngài dự phần vào cõi vô biên, một cái gì đó của chính Thiên Chúa. Thánh Bernard gọi Ngài là phép lạ của mọi phép lạ, kỳ công của Thiên Chúa toàn năng. Thánh Bonaventure nói rằng Thiên Chúa có thể tạo ra một thế giới đẹp đẽ hơn, vĩ đại hơn, kỳ diệu hơn là thế giới Người đã dựng nên. Song Người không thể tạo ra một người mẹ cao cả hơn Mẹ Thiên Chúa. Mừng Kính Trọng Thể Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa Sau Công Đồng Vatican II, khi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lấy ngày 1 tháng Giêng hàng năm làm ngày lễ trọng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ngài trình bầy các lý do của việc thay đổi đáng kể này. Ta biết trong nhiều thế kỷ, ngày 1 tháng Giêng từng là ngày lễ Chúa Giêsu chịu cắt bì, như Phúc Âm Thánh Luca tường thuật. “Và cuối ngày thứ tám, lúc cắt bì, Người được đặt tên là Giêsu, tên thiên thần vốn tặng cho Người trước khi Người được tượng thai trong lòng mẹ” (Lc 2:21). Một lý do khiến ngày 1 tháng Giêng trở thành ngày lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa là: theo nguồn gốc, Giáo Hội vốn cử hành Tuần Bát Nhật Giáng Sinh vào ngày này, và chỉ sau đó nó mới biến thành lễ Chúa Giêsu chịu Cắt Bì. Sau đây là lời giải thích của Đức Giáo Hoàng về việc thay đổi tước hiệu ngày lễ mồng 1 tháng Giêng. Trong việc sửa đổi, sắp xếp lại mùa Giáng Sinh, ta nên đồng tâm hướng về ngày lễ trọng vừa được tái lập mừng kính Mẹ Thiên Chúa. Lễ này được đưa vào ngày đầu hết của tháng Giêng trong lịch phụng vụ của thành Rôma. Mục đích việc cử hành này là để tôn kính vai trò của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu chuộc và đồng thời ca khen địa vị có một không hai của “Mẹ Thánh… qua Ngài chúng ta nhận được ơn phúc Tác Giả sự sống”. Lễ trọng này cũng cho ta cơ hội tuyệt vời để đổi mới lòng thờ kính cần phải bầy tỏ với Hoàng Tử Hòa Bình vừa mới sinh ra, khi một lần nữa, ta lại được nghe tin mừng hân hoan lớn lao và đầy cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa, qua sự bầu cử của Nữ Vương Hoà Bình, để được ơn bình an vô giá. Vì những xem sét ấy và vì sự kiện tuần bát nhật Giáng Sinh trùng với một ngày đầy hy vọng, tức Ngày Đầu Năm, Ta đã chỉ định ngày này làm ngày Hòa Bình Thế Giới (Phaolô VI, Marialis Cultus, tháng 2 năm 1974, số 5). Thành ra, Ngày Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa thực ra là ba lễ Đức Mẹ dồn một: Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Lễ Đức Mẹ là mẹ ơn thánh Chúa, Và Lễ Đức Mẹ là Nữ Vương Bình An. Mấy lời giải thích về mỗi vai trò trên sẽ giúp ta hiểu rõ ý nghĩa chức Làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ. Mẹ Thiên Chúa. Hình thức cầu nguyện cao nhất ta có thể dâng lên Đức Mẹ là lời tôn kính. Qua lời tôn kính này, ta ca ngợi và vinh danh Đức Mẹ, ta tỏ lòng kính trọng và tôn kính đối với Ngài, ta nhìn nhận sự cao cả và tán dương phẩm vị cao qúy của Ngài. Nhưng không có một tước hiệu nào cao hơn mà ta có thể dùng để tôn kính Đức Maria bằng xưng tụng Ngài là Mẹ Thiên Chúa. Mọi dấu chỉ tôn kính khác đều phụ thuộc vào tước hiệu này, vì mọi hình thức ưu tú khác nơi Đức Maria đều phát xuất từ sự kiện: dù là tạo vật của Thiên Chúa, nhờ các dự tính mầu nhiệm của Chúa, Ngài đã trở nên Mẹ Đấng Hóa Công. Mẹ Ơn Thánh Chúa. Ta đã quá quen đề cập đến việc Đức Mẹ là Mẹ ơn thánh Chúa đến độ không còn hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của nó nữa. Thực ra điều ấy có nghĩa gì? Nó muốn nói: Trừ Đức Mẹ ra, ta chẳng đáng tiếp nhận Chúa Kitô. Ngài là Tác Giả sự sống thiêng liêng của ta, nói cách khác, là Nguồn mọi ơn thánh mà nếu không có nó, không một ai trong chúng ta có thể hy vọng được lên thiên đàng. Thuật ngữ ấy có nghĩa là: Đức Maria sinh dưỡng Đấng vốn là Tác Giả mọi ơn thánh, không phải chỉ theo nghĩa thể lý qua việc thụ thai và hạ sinh Người, mà còn theo nghĩa thiêng liêng qua việc chăm sóc Người lúc còn sống trên thế gian, và theo nghĩa huyền nhiệm nữa sau khi Người về trời bằng cách chăm sóc Giáo Hội non nớt của Người. Dù sao, vẫn có hai hình thức sống mà ai trong chúng ta cũng có: sự sống tự nhiên ta tiếp nhận được lúc mẹ ta tượng thai và sinh hạ ra ta, và sự sống siêu nhiên ta tiếp nhận được lúc chịu Phép Rửa, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã được Đức Maria hạ sinh nơi trần gian. Nữ Vương Bình An. Sáng Ngày Giáng Sinh, các thiên thần hát rằng: “Sáng danh Chúa Cả trên trời, và bình an dưới thế cho người lòng ngay” (Lc 2:14). Phần các mục tử, họ kể lại cho Đức Mẹ các điều họ nghe các thiên thần nói, và nhờ thế, Đức Mẹ hiểu rõ Con Trai mình chính là Đấng được tên gọi Giêsu hàm nghĩa, tức Hoàng Tử Hoà Bình. Tại sao lại là Hoàng Tử Hòa Bình? Vì trong tư cách Cứu Chúa của nhân loại tội lỗi, Người đã lập lại nền hòa bình giữa Thiên Chúa bị xúc phạm và loài người phạm thượng. Vì, ngay về phương diện tự nhiên, con người cũng đã thù nghịch lẫn nhau vì tính vị kỷ của mình, nên nhờ ơn thánh của Chúa Kitô, họ đã vượt trên lòng vị kỷ kia mà sống bình an với nhau. Nhưng nếu Chúa Kitô là Hoàng Tử, nghĩa là Nguồn Suối của bình an, thì Đức Maria, Mẹ của Người, là Nữ Vương Bình An? Sao lại như thế được? Vì Ngài đã ban cho ta Đấng mà nếu không có Người, ta sẽ không có bình an: (a) giữa Thiên Chúa và con người nhờ ơn tha tội; (b) trong chính con người vì ý chí họ nay đã được kết hợp với ý Chúa; và (c) giữa con người với nhau, vì họ thực hành được đức công bằng và bác ái vô vị lợi. Đó cũng là điều Giacaria, thân phụ Gioan Tẩy Giả, đã tiên đoán vào ngày con ông sinh ra. Trong Kinh Benedictus, ông nói tiên tri rằng sẽ đến ngày, Con Trai Đức Maria sẽ “dẫn ta bước vào nẻo bình an” (Lc 1:79). Ngày nay, như 20 thế kỷ lịch sử đã dạy, sẽ không thể có bình an thực sự trên trái đất hay trong lòng người nếu không có niềm tin và niềm trông cậy vào Người Con của Đức Maria. Và cũng như Simeon từng nói với Đức Mẹ, ta cũng hy vọng có ngày được thưa với Chúa trước lúc lìa đời rằng: “Lạy Chúa, giờ đây xin để tôi tớ Chúa ra đi bình an…vì mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Ngài” (Lc 2:29-30).
Nguồn gốc Phụng Vụ có lễ này là để chống lạc giáo do Giám mục Nestorio chủ trương: Đức Ma-ri-a chỉ là Mẹ thân xác Đức Giê-su mà thôi. Công Đồng Ê-phê-sô ngày 22.06.431 đã tuyên bố: Đức Ma-ri-a là Mẹ thật của Thiên Chúa (cả thần tính lẫn nhân tính) vì Mầu nhiệm Ngôi hiệp. Thần tính và nhân tính trở thành một ngôi vị, cũng như linh hồn và thân xác con người trở thành một ngôi vị. Nếu bảo bà A là mẹ của B, thì phải hiểu bà A là mẹ cả hồn lẫn xác của B, mặc dầu nếu không bởi Thiên Chúa, thì A cũng chẳng thể sinh ra B. Để tỏ lòng kính mến Mẹ Thiên Chúa, lịch sử Phụng Vụ đã trải qua những thay đổi của ngày lễ: Bắt đầu chỉ có vua Giuse Emmanuel là vua nước Bồ Đào Nha xin Tòa Thánh đặc ân mừng lễ này. Sau này nhiều nước trên thế giới cũng bắt chước mừng theo. Đến ngày 22.01.1751, Thánh Bộ Nghi Lễ ký sắc lệnh cho phép kính Đức Mẹ Thiên Chúa trong toàn thể Giáo Hội và ấn định vào ngày Chúa nhật đầu tháng 5 (tháng hoa Đức Mẹ). Năm 1931, nhân kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Ê-phê-sô, Đức Piô XI, đã truyền kính trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 11.10. Sau Công Đồng Vat.II, Đức Phao-lô VI đã ấn định vào ngày 1.1, vì những lý do sau: Đức cố Giáo hoàng Gio-an 23 đã lấy ngày lễ kính Đức Mẹ Thiên Chúa 11-10-1962 để khai mạc Công Đồng Vat.II, và đã thành công rực rỡ như một lễ Hiện Xuống mới ; như một cuộc sáng tạo mới. Bởi đó, khi Đức Phao-lô VI đã đặt Lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng 1, thì ngài nói: “Nhằm tôn kính việc Đức Mẹ góp phần vào Mầu nhiệm cứu độ và tôn kính địa vị đặc biệt, khiến cho Mẹ Rất Thánh đáng tiếp nhận nguồn sống cho Hội Thánh.” (Phao-lô VI Marialis Cultus số 5) Vậy ta phải sống những điểm giáo lý của ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa mà Hội Thánh muốn dạy ta: Đặt lễ kính Đức Ma-ri-a vào cuối tuần Bát nhật Giáng Sinh để ca tụng Mẹ trong chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, đồng thời đề cao nhân đức của Mẹ: “Giữ kỹ Lời Chúa trong lòng và suy đi nghĩ lại ’’ (x Lc 2,19.51: Tin Mừng) rồi đem ra thực hành (x Lc 8,21). Cụ thể, Mẹ đã làm trọn ý nghĩa của Phụng Vụ “Cắt Bì” và “Đặt Tên”: “Giê-su QUẢ LÒNG BÀ đáng chúc tụng” (Lc 1,42: Bản dịch NTT), có nghĩa là bà Ma-ri-a (Eva mới) đưa “quả lòng Bà” là Chúa Giê-su cho chúng ta ăn, thì được sống dồi dào hạnh phúc muôn đời giống Thiên Chúa (x Ga 6,35-58 ; 10,10) ; khác hẳn xưa bà Eva đưa quả cấm cho A-đam ăn làm cho cả dòng giống phải tử vong (x St 3). Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa nên cũng là Mẹ thật của mỗi Ki-tô hữu, là Mẹ của Hội Thánh. Nghĩa là các Ki-tô hữu trở nên con đầu lòng của Thiên Chúa trong Giê-su Con của Mẹ, thì cuộc đời người Ki-tô hữu cũng phải thuộc về Thiên Chúa để tiếp tay với Chúa Giê-su cứu độ đồng loại. Sự trùng hợp ngày thứ 8 (cuối tuần Bát nhật) với ngày 1 tháng 1, ngày đầu niên lịch, ngày này được gọi là ngày lễ Mẹ Thiên Chúa, với những ý nghĩa đã được diễn tả trong ngày lễ Cắt Bì và Đặt Tên, thật xứng với ý nghĩa ngày Thế Giới Hòa Bình, mà Đức Phao-lô VI đã đặt cho nhờ “Qủa Lòng Bà”, vừa nuôi sống Israel mới, vừa đạp nát đầu con rắn, địch thù của nhân loại, đem lại nền hòa bình đích thực và vững chắc cho thế giới. Và giáo lý Công Giáo còn muốn khẳng định rằng: Loài người chỉ có bình an đích thực, khi cả loài người được trở thành con Thiên Chúa, con Mẹ Maria, nhờ được tái sinh bởi Chúa Giê-su (x Cv 2,38). Đặc biệt mỗi ngày qua Bí tích Thánh Thể ta tham dự, thì Chúa tiếp tục tái sinh ta, vì được trực tiếp gặp Chúa Giê-su (Tung Hô Tin Mừng). Bởi lẽ “Thiên Chúa chỉ chúc phúc cho dân Ngài dưới quyền bảo trợ của danh Chúa” (x Ds 6,22-27: Bài đọc I). Mỗi người Ki-tô hữu phải trở nên “Mẹ của Thiên Chúa”, một danh hiệu diễn tả ân lộc lớn lao của Thiên Chúa ban cho con người! Bởi vì con người mơ ước được bằng Thiên Chúa đã bị coi là kiêu ngạo, thế mà Chúa Giê-su còn muốn cho ai tin vào Ngài, họ được Ngài xác nhận: “Đây là Mẹ tôi” (x Lc 8,21 ; 11,28), thì qủa là một ơn vượt qúa trí hiểu loài người ! Vậy để thực hành Lời Chúa, noi gương Mẹ Maria, ta phải: Lắng nghe Lời Chúa trong lòng tin yêu, suy gẫm và đem ra thực hành (x Lc 2,19.51: Tin Mừng ; Lc 8,21). Đoán ý của người khác để phục vụ (x Lc 1,39t ; Ga 2,3). Loan báo Tin Mừng cho muôn dân, quy họ về làm con Thiên Chúa, làm con Mẹ Maria là lễ vật được Chúa ưa chuộng (x Rm 15,16). Để làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Mikha: “Đến thời đẻ sẽ sinh con” (Mk 5,2 – Bản dịch NTT). Đặt lễ này vào đầu niên lịch, cũng nhằm thánh hóa thời gian Chúa ban cho mỗi người. Thời gian chỉ có ý nghĩa khi nó được dùng vào việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x Mt 6,33), mong muốn đón nhận Lời bằng cả trái tim và đem ra thực hành. Hình ảnh ông Gio-an ngả đầu vào ngực Đức Giê-su trong bữa Tiệc Ly để nghe được tiếng Chúa trong con tim của Ngài, đó cũng là hình ảnh người Ki-tô hữu nghe Lời Chúa trong Phụng Vụ để được Chúa chỉ cho biết ai là kẻ nộp Ngài, chớ theo nó (x Ga 13,25), đặc biệt khi Đức Giê-su chấm dứt cuộc đời trên dương thế, Ngài đã trao Đức Ma-ri-a cho Tông Đồ Gio-an. Ta biết con người khôn hơn các sinh vật khác là bởi lý do từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành vào đời, được ở với người mẹ lâu nhất !Vì thế, ông Gio-an không phải chết đổ máu như các Tông Đồ khác, lại còn được sống thọ đến cuối thế kỷ thứ nhất. Nhờ thế mà Tin Mừng của ông viết rất sâu sắc, nghĩa là ông hiểu Chúa hơn Tin Mừng Nhất Lãm. Đó cũng là lý do mà Đức Giê-su nói với ông Phê-rô về Gioan: “Gỉa như Thầy muốn nó ở lại cho đến khi Thầy đến, thì việc gì đến anh (Phê-rô)’’. Lời này đồn đại trong các môn đệ là ông Gio-an không phải chết! (x Ga 21,22-23) Mỗi khi ta được rước lễ là rước Đức Giê-su Phục Sinh, còn là đón nhận lấy xương thịt của Đức Ma-ri-a đã được thần hóa. Con Thiên Chúa nếu không nhận lấy xương thịt của Đức Mẹ, và xương thịt của Đức Mẹ không trở thành xương thịt của Đức Giê-su, thì các Đấng không đem ơn cứu độ cho ai theo ý Cha trên trời ; Cũng thế, nếu xương thịt của ta không trở nên một xương thịt với Chúa Giê-su, cũng là xương thịt của Mẹ Maria, thì dù ta có sống tốt cỡ nào ta cũng không được ơn cứu độ, và chẳng giúp ai được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vì thế mà trong Thánh Lễ nào Linh mục cũng phải long trọng tuyên bố: “Chính nhờ Đức Ki-tô, cùng với Đức Ki-tô, và trong Đức Ki-tô, mọi chúc tụng và vinh quang quy về Thiên Chúa” (Rm 11,36). Vậy ai được sinh ra bởi Chúa Giê-su, thì cũng được sinh ra bởi bà Maria, mới được ơn giải phóng thoát án phạt của Lề Luật (x Gl 4,4-7: Bài đọc II). Đó “là dân được Chúa Trời dủ thương và chúc phúc’’ (Tv 67/66,2a: Đáp ca). Truyện kể: Cậu Ka-rôn Oát-ty-la (Karol Wojtyla) lên 7 tuổi, đứng bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói: “Con đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa, thì người Mẹ thật của con là Đức Ma-ri-a xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.” Từ ngày ấy, cậu Ka-rôn Oát-ty-la tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là lý do quan trọng mà ngày 18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng (Gio-an Phao-lô II), đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi lãnh vực. THUỘC LÒNG. Đức Ma-ri-a nói 6 lần, mà Tin Mừng có ghi lại: 5 lần Mẹ nói với Chúa, nói về Chúa (x Lc 1,34 ; 1,38 ; 1, 40t ; 2,48 và Ga 2,3). Chỉ có một lần Mẹ nói với loài người:“Chúa bảo gì, còn cứ làm theo !’’ (Ga 2,5)