Ngày 29/06 thánh Phêrô & Phaolô Bài 101-150 Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời

Thứ ba - 02/07/2019 05:05
Ngày 29/06 thánh Phêrô & Phaolô Bài 101-150 Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời
Ngày 29/06 thánh Phêrô & Phaolô Bài 101-150 Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời
Ngày 29/06 thánh Phêrô & Phaolô Bài 101-150 Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Phúc âm Lễ Vọng: Ga 21, 15-19. 2
Phúc Âm Chính ngày: Mt 16, 13-19. 3

29/6-101: Phê-rô và Phao-lô: Chết Cho Đức Tin. 3
29/6-102: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 4
29/6-103: Lễ Hai Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ. 5
29/6-104: Phụng Vụ Chư Thánh. 9
29/6-105: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô. 10
29/6-106: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 11
29/6-107: Chúa Giêsu là ai đối với tôi?. 14
29/6-108: Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. 17
29/6-109: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 18
29/6-110: Câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?”. 21
29/6-111: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 24
29/6-112: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 27
29/6-113: Chìa Khóa Nước Trời 29
29/6-114: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 31
29/6-115: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 34
29/6-116: Hai đá tảng và trụ cột của Giáo hội 36
29/6-117: Xây dựng Giáo Hội 39
29/6-118: Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. 41
29/6-119: Thánh Phêrô. 45
29/6-120: Khúc rẽ quyết định. 46
29/6-121: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 48
29/6-122: Gà gáy và ngã ngựa. 50
29/6-123: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 54
29/6-124: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 58
29/6-125: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 62
29/6-126: Lễ Thánh Phêrô và Phaolô. 63
29/6-127: Khuôn mặt lãnh đạo. 67
29/6-128: Trung thành tuân giữ. 69
29/6-129: Cảm nhận một tình yêu. 71
29/6-130: Lễ Thánh Phêrô và Phaolô. 72
29/6-131: Lễ Thánh Phêrô và Phaolô. 74
29/6-132: Giáo hội bền vững. 78
29/6-133: Thánh Phêrô Và Thánh Phaolô. 82
29/6-134: Hai tên gọi một lý tưởng. 84
29/6-135: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ. 86
29/6-136: Thí mạng vì Thầy. 88
29/6-137: Lòng yêu mến. 90
29/6-138: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ. 92
29/6-139: Khuôn mặt Đức Kitô. 96
29/6-140: Thánh Phêrô. 99
29/6-141: Thánh Phêrô. 102
29/6-142: Đào tạo. 104
29/6-143: Câu trả lời 106
29/6-144: Đích thực. 107
29/6-145: Viên đá. 109
29/6-146: Thầy là ai?. 110
29/6-147: Con Người là ai?. 112
29/6-148: Biết và Yêu Chúa. 113
29/6-149: Thầy là ai?. 114
29/6-150: Đức Kitô. 115

---------------------------------

 

Phúc âm Lễ Vọng: Ga 21, 15-19


“Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý; nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”. Đó là lời Chúa.

---------------------------------

 

Phúc Âm Chính ngày: Mt 16, 13-19


“Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Ðó là lời Chúa.

---------------------------------

 

29/6-101: Phê-rô và Phao-lô: Chết Cho Đức Tin

 

Giáo Hội công bố cái chết tử đạo của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô. Và qua việc tưởng 29/6-101


Giáo Hội công bố cái chết tử đạo của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô. Và qua việc tưởng niệm cái chết của các ngài, chúng ta cử hành chính cuộc sống của các ngài. Thật vậy, cái chết không phải là kết cục của cuộc sống. Cái chết tựa như dấu ấn cuối cùng mà Thiên Chúa đóng trên toàn bộ cuộc hiện hữu trần thế của con người.

Do đó, cái chết của hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô cũng đồng thời trình bày lịch sử đời sống của các ngài. Cuộc sống của mỗi vị càng có ý nghĩa phi thường do bởi mối quan hệ của các ngài với Đức Kitô, Đấng đã gọi các ngài đi theo Người. Đức Kitô đã gọi Simon, con của Giôna, một ngư phủ ở Galilê, và đặt tên cho ông là Phê-rô – nghĩa là “đá”. Người cũng đã gọi Sao-lô thành Tarsus, vốn là một kẻ bách hại các Kitôhữu, và biến ông thành Phao-lô: vị Tông Đồ của các dân ngoại, “một khí cụ do Ta tuyển chọn” (Cv 9,15).

Đời sống của các ngài thật rất phi thường – nhờ ở quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã giúp các ngài làm chứng cho Đức Kitô chịu đóng đanh và phục sinh: “Người sẽ làm chứng về Thầy; cả anh em nữa, cũng làm chứng về Thầy…” (Ga 15,26-27).

Cái chết thảm khốc mà cả Phê-rô và Phao-lô đã trải qua ở Rôma vào thời Nê-ron chính là tiếng nói cuối cùng của chứng tá ấy. Cái chết của các ngài – cái chết đổ máu vì đức tin – là sự hoàn thành trọn vẹn sứ mạng làm chứng của các ngài. Chính vì cái chết tử đạo ấy mà các ngài vẫn còn sống mãi một cách đặc biệt trong sự tưởng niệm của Giáo Hội. Trước hết, các ngài vẫn tiếp tục sống trong Thiên Chúa, Đấng “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của người sống” (Mt 22,32). Các ngài vẫn sống trong Thiên Chúa cũng như tất cả chúng ta hiện đang sống trong Thiên Chúa.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

---------------------------------

 

29/6-102: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ


Cv 12, 1-11; 2Tm 4, 6-8. 16b. 17-18; Mt 16, 13-19.

Lời Suy niệm: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời; dưới đất anh cầm buộc điều gi, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.”

 

Với lời tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c.16). Chúa 29/6-102


Với lời tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (c.16). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”  (c.17) Và Chúa đã thiết lập Giáo Hội của Chúa tại trần gian và trao ban chìa khóa Nước Trời cho Tông Đồ Phêrô.

          Lạy Chúa Giêsu. Tông đồ Phêrô đã khám phá ra Chúa là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, nhờ ơn của Chúa Cha mạc khải. Xin cho chúng con cũng nhận được ơn đức tin từ Chúa Cha với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần và tình yêu cứu rỗi của Chúa, để mỗi người chúng con trở nên  những viên gạch xây dựng Nước Chúa ở trần gian này. Amen

Mạnh Phương

---------------------------------

 

29/6-103: Lễ Hai Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ


 – Ngày 29 tháng 6

Bài đọc: Acts 12:1-11; 2 Tim 4:6-8, 17-18; Mt 16:13-19.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng.

 

Hội Thánh được xây dựng vững chắc trên hai cột trụ; vì nếu chỉ xây trên một cột trụ, sẽ không 29/6-103


Hội Thánh được xây dựng vững chắc trên hai cột trụ; vì nếu chỉ xây trên một cột trụ, sẽ không đứng vững, giống như người chỉ có một chân. Phêrô rao giảng cho dân Do-thái, Phaolô rao giảng cho Dân Ngoại. Phêrô lo tổ chức và bảo vệ Hội Thánh, Phaolô lo phát triển và bành trướng Hội Thánh.

Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự lựa chọn, bảo vệ, và ban ơn của Thiên Chúa dành cho hai ông. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật việc thiên sứ giải thoát Phêrô khỏi ngục tù. Trong Bài Đọc II, Phaolô xác quyết nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, ông đã chiến đấu một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường, và đã trung thành giữ vững đức tin. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô được Thiên Chúa soi sáng để nhận ra và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, Ngài đã chính thức thiết lập Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô; và Ngài hứa sẽ bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền lực của thế gian và ma quỉ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ông Phêrô được thiên sứ giải thoát khỏi ngục tù.

1.1/ Giáo Hội bị bách hại: Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông-đồ: “Tôi tớ không trọng hơn chủ và môn đệ không hơn Thầy. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” Sau khi Chúa Giêsu về trời, Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội, bắt đầu bằng cuộc tử đạo tiên khởi của phó tế Stephanô. Trình thuật hôm nay liệt kê cuộc bắt bớ của vua Herode: “Thời kỳ ấy, vua Herode ra tay ngược đãi một số người trong Giáo Hội. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng.”

Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Họ sẽ giết chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác.” Phêrô, Giacôbê, và Gioan được coi như những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu; giờ đây Giacôbê đã bị giết, Phêrô bị cầm tù. Vì thế, Giáo Hội không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.

1.2/ Thiên sứ giải thoát Phêrô: Đức Kitô biết đau khổ do bắt bớ và tù đày cần thiết để tôi luyện niềm tin của các tông-đồ và để bành trướng đức tin; nên Ngài để cuộc bách hại xảy ra. Nhưng Ngài cũng biết Giáo Hội của Ngài cần sự lãnh đạo của Phêrô, nên Ngài sai một thiên sứ tới để giải thoát ông khỏi ngục tù, như Ngài sẽ làm tương tự với Phaolô sau này.

– Xiềng xích và lính canh trở nên vô hiệu trước quyền lực của Thiên Chúa: Trình thuật kể: “Trong đêm trước ngày bị vua Herode đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: “Đứng dậy mau đi!” Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông.”

– Phêrô làm theo lệnh thiên sứ một cách vô thức: “Thiên sứ nói tiếp: “Thắt lưng lại và xỏ dép vào!” Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: “Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!” Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi.” Tất cả những việc này xảy ra khi lính vẫn canh và cửa tù vẫn khóa.

– Phêrô ý thức mình đã được cứu thoát: “Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Herode, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu.”” Khi Thiên Chúa muốn, Ngài vô hiệu hóa mọi quyền lực thế gian.

2/ Bài đọc II: Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.

2.1/ Chiến đấu cho chính nghĩa: Giống như Chúa Giêsu khi sắp rời bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa, Ngài dành thời gian để kiểm điểm những gì Ngài đã làm, những gì sắp xảy đến, và vinh quang Ngài sẽ được hưởng trong tương lai; Phaolô cũng thế.

(1) Nhìn lại quá khứ: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin.”

+ Cuộc thi đấu cao đẹp: Thế gian là một bãi chiến trường để Thiên Chúa thử luyện đức tin của con người. Nhìn lại quá khứ, Phaolô biết mình đã cố gắng hết sức vượt qua các gian khổ để chu toàn sứ vụ Đức Kitô đã trao phó cho ngài.

+ Đã chạy hết chặng đường: Cuộc đời con người có thể ví như một cuộc chạy Marathon, có nguồn gốc từ quốc gia Hy-lạp. Đây là một cuộc chạy đường dài rất gian khổ, đòi người chạy phải có sức khỏe dẻo dai để chịu đựng. Nhiều người ghi danh, không nhằm chạy nhanh để đạt đích trước, nhưng chỉ cần thử xem mình có thể dẻo dai để về tới đích hay không. Nhiều người không chịu nổi phải bỏ cuộc dọc đường.

+ Đã giữ vững niềm tin: Đây là điều tối quan trọng để lãnh phần thưởng từ Đức Kitô. Nếu ai chạy đến đích mà đánh mất niềm tin ở dọc đường, người ấy sẽ không được lãnh nhận phần thưởng từ Đức Kitô.

(2) Kiểm điểm hiện tại: “Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi.” Thánh Phaolô được Đức Kitô hiện ra cho biết trước: ông sẽ bị bắt ở Jerusalem để làm chứng cho Ngài; không những thế, ông sẽ còn làm chứng cho Đức Kitô tại Rôma nữa. Nhiều tín hữu khóc thương ngăn cản; nhưng ông vẫn quyết chí lên Jerusalem để chịu bắt bớ như Đức Kitô đã từng trải qua.

(3) Hy vọng tương lai: Con người chiến đấu là cho một mục đích. Giống như lực sĩ thắng giải được khoác vòng hoa chiến thắng, Phaolô biết rõ mình cũng sẽ được Đức Kitô đeo vòng hoa chiến thắng cho như vậy. Ngài nói: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy.”Phaolô dùng kinh nghiệm cá nhân để động viên tinh thần các môn đệ: “Và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.” Nếu Timothy, Titô, hay bất cứ một tín hữu nào trung thành giao chiến tới cùng, họ cũng sẽ lãnh nhận phần thưởng của các chứng nhân từ Đức Kitô.

2.2/ Phaolô chiến thắng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: Ông biết rõ con người yếu đuối của mình, nhất là qua biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus; nhưng ông cũng biết sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động để nâng đỡ các yếu đuối của ông. Ông xác tín niềm tin này nhiều lần, và trong trình thuật hôm nay: “Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. “

3/ Phúc Âm: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

3.1/ Người môn đệ phải biết Thầy của mình là ai:

(1) Kiến thức về Đức Kitô: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ.” Vua Herode đã từng nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết. Elijah là một tiên tri làm nhiều phép lạ như Chúa Giêsu; truyền thống tin ông sẽ trở lại trước thời Đấng Thiên Sai, vì ông chưa chết. Jeremiah là tiên tri rất khí khái dám nói và làm chứng cho sự thật, mà không lui bước trước bất cứ quyền lực nào của vua chúa. Tất cả các nhận định này chỉ nói lên một khía cạnh của Đức Kitô, nhưng chưa nói lên được căn tính của Ngài.

(2) Mối liên hệ của người môn đệ với Đức Kitô: Chúa Giêsu không chỉ bằng lòng với những gì các môn đệ biết về Ngài qua người khác; nhưng Ngài muốn các ông nghĩ sao về Ngài, nên Ngài hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phêrô, đại diện cho các tông đồ, tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn nghe: Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã nói tới; đồng thời, Ngài cũng là Người Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Chỉ khi nghe được lời tuyên xưng này từ miệng các môn đệ, Chúa Giêsu mới hoàn thành sứ mệnh mặc khải của Ngài.

3.2/ Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là Phêrô: Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Này anh Simon, con ông Jonas, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ ràng điều này hơn: Không ai tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần soi sáng. Thánh Thần được gởi tới cho các tông-đồ là do sự can thiệp của Chúa Giêsu với Chúa Cha.

Nhận ra niềm tin xác thực của Phêrô, Chúa Giêsu thành lập Giáo Hội khi Ngài nói với Phêrô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” Trong Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai, Ngài tin tưởng và trao sứ vụ cho người ấy. Ví dụ, Abraham từ Abram, Phaolô từ Saul, và Phêrô từ Simon … Chúa Giêsu muốn trao quyền điều khiển Giáo Hội vào tay Phêrô và các người kế vị ông. Tảng Đá đây không phải là con người yếu đuối của Phêrô với ba lần chối Thầy; nhưng là đức tin của ông vào Đức Kitô sau nhiều lần sa ngã và chịu gian khổ.

Đức tin của Giáo Hội được đặt trên niềm tin nền tảng của các tông-đồ. Đức tin này được ví như “đá,” có nghĩa vững chắc và không thay đổi với thời gian. Nhiều người chỉ trích Giáo Hội cổ hủ, cứng nhắc, không chịu theo thời … nhưng cũng chính vì điều này mà Giáo Hội được thiết lập. Nếu Giáo Hội cũng thay đổi để được con người chấp nhận, hòa giải nhượng bộ trước áp lực của ma quỉ và thế gian, Giáo Hội sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay.

Chúa Giêsu trao chìa khóa Nước Trời để nói lên quyền cầm buộc và tháo cởi: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Công dụng của chìa khóa là để mở ra và đóng lại, cho phép vào và từ chối không cho vào. Giáo Hội dùng quyền này để tha thứ hay cầm buộc hối nhân nơi tòa cáo giải.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đức Kitô cần cả Phêrô lẫn Phaolô. Ngài muốn hai ông hợp tác để củng cố, bảo vệ, và phát triển Giáo Hội. Chúng ta cũng phải biết cộng tác với nhau trong việc mở mang Nước Chúa.

– Để có thể làm việc cho Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội, chúng ta không chỉ cần biết về Đức Kitô, nhưng phải sống mối liên hệ với Ngài.

– Giáo Hội không phải chỉ là Đức Thánh Cha và hàng Giáo Phẩm; nhưng là tất cả các tín hữu ở khắp nơi. Tất cả đều có bổn phận trong việc mở mang Nước Thiên Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

---------------------------------

 

29/6-104: Phụng Vụ Chư Thánh


  - Châu Kiên Long

 

Cả hai thánh đều chịu tử đạo tại Rôma. ThánhPhêrô năm 64 và Phaolô năm 67. Giáo Hội Rôma 29/6-104


Cả hai thánh đều chịu tử đạo tại Rôma. ThánhPhêrô năm 64 và Phaolô năm 67.

Giáo Hội Rôma đã chọn ngày 29-6 đề kính trọng thề hai đấng. Tuy nhiên ngày hôm nay phải là ngày lễ của toàn tề Giáo Hội đã được nầy sinh do dòng máu oai hùng cúa các Ngài.

Một ngày vui mừng và hân hoan, vì cả hai thánh với những ơn huệ nhận lãnh, đã ra sức quy tụ thành một gia đình Chúa Giêsu, và giờ đây, ca hai cùng kết hợp trong vinh quang và đáng được ca ngợi.

Ngày hôm nay, chúng ta tôn kính hai khuôn mặt tiêu biều cho Giáo Hội sơ khai, mặc dù khác biệt nhưng bổ túc lẫn cho nhau.

Thánh Phêrô và Phaolô đã hǎng hái rao giảng PhúcÂm, nhờ đó chúng ta đón nhận được lời loan truyền đầu tiên của đức tin.

Vì thế ngày hôm nay, chúng ta cũng mừng kính mầu nhiệm Giáo Hôi đặt nền tảng trên các Ngài.

Nhờ lời bầu cử cúa các Ngài, chúng ta hãy cầu xin đề trung thành với lời giáo huấn cúa cácNgài, sống một đời bác ái như những Kitô hữu đầutiên và bén rễ sâu trong tình thương dạt dào.

---------------------------------

 

29/6-105: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô

 

Thánh Phêrô và thánh Phaolô là hai trong số những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Giáo 29/6-105


Thánh Phêrô và thánh Phaolô là hai trong số những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Giáo hội sơ khai.

Thánh Phêrô hay còn được gọi là Simon. Ngài là một ngư phủ, sống tại thị trấn Bếtsaiđa ở vùng biển Galilê. Ngài là một trong 12 Tông đồ được Chúa Giêsu chọn. Theo Kinh thánh, Chúa Giêsu đã chọn gọi và đổi tên Simon thành là Kêpha, theo nghĩa Do Thái là Tảng Đá (dịch sang từ ngữ Latinh Petrus là Phêrô). Tên mới này nói lên sứ vụ trong tương lai của ông (Mt 16:13-20). Chúa Giêsu cũng nói trên Tảng Đá này Chúa sẽ xây Giáo hội của Người.

Nói về thánh Phêrô, chúng ta cũng không thể quên câu chuyện chối Chúa của Ngài. Nhưng câu chuyện đó lại đưa đến cho chúng ta rất nhiều bài học về tình thương của Chúa và sự hoán cải của thánh Phêrô. Hơn nữa, chúng ta cũng nhìn thấy nơi thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục, nhất là một đức tin chân thành với Chúa: "Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời”.

Thánh Phêrô được coi là vị Giám mục đầu tiên của Rôma và là cũng Giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội. Ngài đã thực hiện nhiều phép lạ và rao giảng Lời Chúa cho cả người Do Thái và dân ngoại. Ngài đã cải đạo nhiều người sang Kitô giáo.

Thánh Phaolô còn được gọi là Saolô. Ngài là một người Pharisiêu, đến từ thành phố Tátsê, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.

Đầu tiên, chúng ta phải nói tới, ngài là một người bắt đạo của Giáo hội sơ khai cho tới biến cố trở lại trên đường đi Đamát. Sau đó, ngài trở thành một trong những Tông đồ quan trọng nhất của Giáo hội sơ khai. Ngài đã nhiệt tâm rao giảng Lời Chúa ở khắp khu vực phía đông Địa Trung Hải. Ngài đã rao giảng cho cả người Do Thái và dân ngoại, và những lời giảng dạy của ngài cung cấp cái nhìn sâu sắc về đức tin và những thực hành của các cộng đoàn Kitô giáo sơ khai.

Không giống như thánh Phêrô, Phaolô chưa bao giờ đến thăm và rao giảng ở Rôma, nhưng ngài đã bị bắt và bị giam cầm ở đó dưới thời Hoàng đế Nêrô. Ngài đã tử vì đạo ở Rôma và được chôn cất trong thành phố này và có thể mộ của ngài cũng nằm trong cùng một ngôi mộ với thánh Phêrô mà tương truyền thánh Phêrô đã bị đóng đinh ngược.

Cả thánh Phêrô và Phaolô đều được Giáo hội Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo tôn kính là những vị tử đạo, và ngày lễ kính của các ngài được cử hành vào ngày 29 tháng 06 hàng năm. Các ngài thường được miêu tả cùng nhau trong nghệ thuật và được coi là hai trụ cột chính của Giáo hội Công giáo.

Sỹ Đoàn, C.P.

---------------------------------

 

29/6-106: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy niệm:

 

Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay diễn ra bên bờ hồ, một cái hồ mang nhiều tên gọi: hồ 29/6-106


Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay diễn ra bên bờ hồ, một cái hồ mang nhiều tên gọi: hồ Galilê, hồ Hennêxarét, hồ Tibêriát.

Cái hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm giữa Thầy và trò. Nơi đây tiếng gọi đầu tiên của Thầy Giêsu đã vang lên:

Hãy theo Thầy. Tiếng ấy đã khiến họ từ bỏ nghề sông nước để lên bờ, đi theo ông thợ mộc làng Nazareth.

Bao lần Thầy trò đi qua cái hồ rộng như biển này. Sóng gió họ cũng đã gặp, vui buồn họ cũng đã từng.

Sáng sớm hôm nay, trên hồ này họ đánh được mẻ cá lớn, nhờ một người lạ đứng trên bờ mà họ từ từ nhận ra là Thầy của mình.

Bữa ăn sáng do Thầy chuẩn bị thật chu đáo. Có bánh và cá, có cả đống than hồng hong ấm tình Thầy trò.

Ngọn lửa này gợi nhớ đến đống than hồng ở dinh Thượng tế, nơi Phêrô đã đứng sưởi và đã chối Thầy. (Ga 18, 18. 25)

Bây giờ, cũng bên đống than hồng, Thầy Giêsu cho Phêrô có cơ hội công khai bày tỏ tình yêu của mình.

“Anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần Thầy Giêsu hỏi Phêrô như thế. “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”

Ba lần Phêrô trả lời như thế. Ba lần chối Thầy như được xóa đi bởi ba lần tuyên xưng tình yêu.

Nhưng bây giờ Phêrô khiêm tốn, biết tình yêu của mình mong manh, dễ vỡ. “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”

Ba lần Thầy Giêsu đã nói như thế. Tình yêu dẫn đến sứ mạng chăn dắt đoàn chiên mà Thầy quý chuộng.

Phải yêu Thầy thì mới yêu chiên của Thầy. Yêu Thầy là điều kiện để được Thầy trao sứ mạng mục tử.

Làm mục tử là tiếp nối công việc của Thầy Giêsu, Mục tử nhân hậu,

nên cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Thầy, (cc. 18-19) chết cho đoàn chiên, chết để tôn vinh Thiên Chúa. (c. 19)

“Hãy theo Thầy!” lời mời năm xưa cũng là lời mời được lặp lại bây giờ.
“Hãy theo Thầy!” sau những vấp ngã, yếu đuối và chối Thầy.
“Hãy theo Thầy!” sau khi những giấc mơ trần tục bị tan vỡ bởi biến cố Núi Sọ.
“Hãy theo Thầy!” sau những hăng hái nồng nhiệt thuở ban đầu.
“Hãy theo Thầy!” để giang tay ra và đến nơi mình không muốn đến.
“Hãy theo Thầy!” để củng cố anh em và chăn dắt chiên của Thầy. (Lc 22, 31-32)

Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh cũng hỏi từng Kitô hữu: “Con có mến Thầy không?”

Và Ngài chờ một câu trả lời trước khi trao sứ mạng, vì ai trong chúng ta cũng có sứ mạng chăm sóc một nhóm người nào đó.

Xin ơn yêu Giêsu bằng tình yêu thiết thân riêng tư. Xin ơn theo Ngài vì nghe thấy lời mời gọi vang lên mỗi ngày: “Hãy theo Thầy.”

Và xin ơn dám sống hết mình cho những người được Chúa trao phó.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới, nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.

Chúng con phải đối diện với bao thách đố của cuộc sống, của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình, của nghề nghiệp chuyên môn.

Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của vật chất và quyền lực, nhưng cho chúng con giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu, lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con sống thực tế, nhưng không thực dụng; biết xoay xở nhưng không mưu mô; lo cho tương lai cá nhân, nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.

Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc, giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,

xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng, để múc lấy ánh sáng và sức mạnh, để mình được thật là mình trước mặt Chúa.

Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân, làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh, và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.

---------------------------------

 

29/6-107: Chúa Giêsu là ai đối với tôi?

 

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các Kitô hữu noi gương hai thánh Tông đồ trong việc đi theo 29/6-107


Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các Kitô hữu noi gương hai thánh Tông đồ trong việc đi theo Chúa Kitô và loan báo Tin Mừng khắp mọi nơi. Đó là cách trả lời tốt nhất cho câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”

Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô:

Thánh Phêrô và Phaolô, hai vị Tông đồ đầy lòng yêu mến Chúa, hai trụ cột đức tin của Giáo hội. Khi chúng ta chiêm ngắm cuộc đời của các ngài, hôm nay Tin Mừng chất vấn chúng ta với câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình: “Phần các con, các con nói gì? Đối với các con, Thầy là ai?” (Mt 16, 15). Đó là câu hỏi căn bản, quan trọng nhất: Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi? Chúng ta hãy xem hai Tông đồ đã trả lời thế nào.

Câu trả lời của thánh Phêrô có thể được tóm tắt trong một từ: theo. Phêrô đã sống theo Chúa. Hôm đó, tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ. Phêrô đã trả lời bằng một lời tuyên xưng đức tin thật đẹp: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16); một câu trả lời không chê vào đâu được, rõ ràng, chính xác, có thể nói là một câu trả lời “giáo lý” hoàn hảo. Nhưng câu trả lời này là kết quả của một cuộc hành trình: chỉ sau khi đã sống cuộc mạo hiểm thú vị bước theo Chúa, sau khi đã bước đi với Người và theo sau Người trong một thời gian dài, mà Phêrô mới đạt tới sự trưởng thành thiêng liêng này, vốn dẫn ngài, nhờ ân sủng, nhờ ân sủng thuần túy, đến một lời tuyên xưng đức tin rõ ràng như thế.

Quả thế, thánh sử Mátthêu cho chúng ta biết rằng mọi sự bắt đầu trên bờ biển Galilê, khi Chúa Giêsu đi ngang qua và đã gọi ngài, cùng với Anrê, anh của ngài; và “lập tức bỏ lưới, các ông đi theo Người” (Mt 4, 20). Phêrô đã bỏ tất cả để theo Chúa. Và Tin Mừng nhấn mạnh “lập tức”. Phêrô không nói với Chúa Giêsu rằng mình phải suy nghĩ về điều đó, ngài không tính toán xem điều đó có phù hợp với mình không, ngài không tìm cớ để trì hoãn quyết định; ngài đã bỏ lưới mà đi theo Người, không đòi hỏi bất kỳ an toàn nào trước. Ngài phải khám phá mọi sự từng ngày sau đó, bằng cách đi theo Chúa Giêsu và bước theo sau Người. Và không phải ngẫu nhiên mà những lời cuối cùng, được thuật lại trong các Tin Mừng, mà Chúa Giêsu nói với ngài là “Con hãy theo Thầy” (Ga 21, 22), nghĩa là đi theo Người.

Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng đối với câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”, trả lời bằng một công thức giáo thuyết không thể chê vào đâu được thì chưa đủ, thậm chí không phải bằng một ý tưởng mà chúng ta đưa ra cho mình một lần cho tất cả. Không. Chính bằng cách đi theo Chúa mà chúng ta học biết Người mỗi ngày. Chính bằng cách trở thành môn đệ của Người và đón nhận Lời Người mà chúng ta trở nên bạn hữu của Người và cảm nghiệm được tình yêu của Người biến đổi chúng ta. Đối với chúng ta cũng vậy, điều “lập tức” này vang vọng lại. Nếu chúng ta có thể trì hoãn nhiều điều trong cuộc sống, thì việc đi theo Chúa Giêsu không thể được trì hoãn; đối với điều này, chúng ta không thể do dự, chúng ta không thể tìm lý do thoái thác. Chúng ta hãy lưu ý vì một số lý do thoái thác được khoác lên mình tấm áo thiêng liêng, như khi chúng ta nói “Tôi không xứng đáng”, “Tôi không có khả năng”, “tôi, tôi có thể làm gì được?” Đó là mánh khóe của ma quỷ vốn cướp đi niềm tin của chúng ta vào ân sủng của Thiên Chúa, bằng cách làm cho chúng ta tin rằng mọi sự sẽ tùy thuộc vào khả năng của chúng ta.

Tách mình ra khỏi những thứ an toàn của chúng ta – những thứ an toàn trần thế -, ngay lập tức, và đi theo Chúa Giêsu mỗi ngày: đó là chỉ dẫn mà Phêrô đưa ra cho chúng ta hôm nay bằng cách mời gọi chúng ta trở thành một Giáo-hội-đi-theo. Một Giáo-hội-đi-theo. Một Giáo hội muốn trở thành môn đệ của Chúa và thành người tôi tớ khiêm nhường của Tin Mừng. Chỉ bằng cách này, Giáo hội mới có thể đối thoại với mọi người, và trở thành một nơi đồng hành, gần gũi và hy vọng cho những người nữ người nam của thời đại chúng ta. Chỉ bằng cách này, ngay cả người ở xa nhất, thường đang nhìn chúng ta cách nghi ngờ hay dửng dưng, cuối cùng sẽ có thể nhận ra cùng với Đức Giáo hoàng Bênêđíctô: “Giáo hội là nơi gặp gỡ với Con Thiên Chúa hằng sống và, như thế, Giáo hội là nơi gặp gỡ giữa chúng ta” (Bài giảng Chúa Nhật II Mùa Vọng, ngày 10/12/2006).

Và bây giờ, chúng ta hãy đến với vị Tông đồ của các dân tộc. Nếu câu trả lời của Phêrô hệ tại ở việc đi theo, thì câu trả lời của Phaolô hệ tại ở việc loan báo, loan báo Tin Mừng. Đối với ngài cũng thế, mọi sự bắt đầu bằng ân sủng, theo sáng kiến của Chúa. Trên đường đi Damas, khi ngài đang kiêu hãnh bách hại các Kitô hữu, bị rào cản bởi xác tín tôn giáo của mình, thì Chúa Giêsu phục sinh đến gặp ngài và làm ngài mù lòa bằng ánh sáng của Người. Đúng hơn, nhờ ánh sáng này, Saolô nhận ra mình bị mù như thế nào. Bị nhốt kín trong sự kiêu ngạo về việc giữ luật cứng nhắc của mình, ngài khám phá ra nơi Chúa Giêsu sự hoàn thành mầu nhiệm cứu độ.

Giờ đây, ngài coi tất cả những an toàn của về mặt con người và tôn giáo của mình là “rác rưởi” so với sự cao cả là biết được Chúa Kitô (x. Pl 3, 7-8). Như thế, Phaolô đã cống hiến đời mình để khi khắp đất liền và biển khơi, các thành phố và làng mạc, không quản ngại khó khăn và bách hại, để loan báo Chúa Giêsu-Kitô. Nhìn vào câu chuyện của ngài, dường như càng loan báo Tin Mừng, ngài càng hiểu biết Chúa Giêsu. Việc loan báo Lời Chúa cho người khác cho phép ngài thấm nhập vào chiều sâu của mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã viết “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!” (1Cr 9, 16); Đấng mà ngài tuyên xưng: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô”.

Do đó, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng đối với câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”, chúng ta không trả lời bằng lòng sùng đạo sâu kín riêng tư để mặc chúng ta yên thân, mà không rung động bởi mối quan tâm mang Tin Mừng đến cho người khác. Thánh Tông đồ dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng lớn lên trong đức tin và trong sự hiểu biết mầu nhiệm Chúa Kitô hơn nữa khi chúng ta loan báo và làm chứng cho Người. Và điều đó luôn xảy ra: khi chúng ta loan báo Tin Mừng, chúng ta được loan báo Tin Mừng. Đó là một kinh nghiệm hằng ngày: khi chúng ta loan báo Tin Mừng, chúng ta được loan báo Tin Mừng. Lời Chúa mà chúng ta mang đến cho người khác sẽ trở lại với chúng ta bởi vì, chúng ta cho đi bao nhiêu, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn bấy nhiêu (x. Lc 6, 38). Và điều đó cũng cần thiết cho Giáo hội ngày nay: đặt việc loan báo ở trung tâm. Trở thành một Giáo hội không bao giờ mệt mỏi lặp đi lặp lại với chính mình: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô” và “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Một Giáo hội cần loan báo Tin Mừng như cần dưỡng khí để thở; một Giáo hội không thể sống mà không thông truyền vòng tay yêu thương của Thiên Chúa và niềm vui của Tin Mừng.

Thưa anh chị em, chúng ta hãy mừng thánh Phêrô và Phaolô. Các ngài đã trả lời câu hỏi căn bản của cuộc sống – Chúa Giêsu là ai đối với tôi? – bằng cách đi theo Chúa Kitô và loan báo Tin Mừng. Thật đẹp khi lớn lên như một Giáo hội đi theo, như một Giáo hội khiêm tốn không bao giờ coi là đã thủ đắc được việc tìm kiếm Chúa. Thật đẹp khi trở thành một Giáo hội hướng ra bên ngoài, không tìm thấy niềm vui của mình nơi những thứ của thế gian nhưng trong việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, để gieo vào lòng mọi người câu hỏi về Thiên Chúa. Mang Chúa Giêsu đến khắp mọi nơi, với lòng khiêm tốn và niềm vui: trong thành Rôma của chúng ta, trong các gia đình của chúng ta, trong các mối tương quan và các khu phố, trong xã hội dân, trong Giáo hội, trong chính trị, trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những nơi có nghèo đói, suy thoái, sự gạt ra bên lề xã hội.

Và, hôm nay, khi một số anh em Tổng Giám mục của chúng ta lãnh nhận dây Pallium, một dấu hiệu của sự hiệp thông với Giáo hội Rôma, tôi muốn nói với họ: anh em hãy trở thành những tông đồ như thánh Phêrô và Phaolô. Anh em hãy trở thành những người môn đệ đi theo và những tông đồ loan báo, hãy mang lại vẻ đẹp của Tin Mừng đến mọi nơi, cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Và cuối cùng, tôi muốn gởi lời chào thân ái đến Phái đoàn của Tòa Thượng phụ Đại kết, được gởi đến bởi người Anh rất yêu quý là Đức Bartôlômêô. Xin cảm ơn sự hiện diện của quý vị, xin cảm ơn: chúng ta hãy cùng nhau tiến bước trong việc đi theo và loan báo Lời Chúa, bằng cách lớn lên trong tình huynh đệ. Xin thánh Phêrô và Phaolô đồng hành và cầu bầu cho tất cả chúng ta.

---------------------------------

 

29/6-108: Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô

 

Hôm nay, lễ trọng kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, trong Tin Mừng Chúa Giêsu nói với 29/6-108


Hôm nay, lễ trọng kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, trong Tin Mừng Chúa Giêsu nói với ông Simon, mà Người đặt tên là Phêrô: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời” (Mt 16,19). Đây là lý do tại sao chúng ta thường thấy Thánh Phêrô được trình bày với hai chiếc chìa khóa lớn trong tay, như bức tượng ở Quảng trường này. Những chiếc chìa khóa đó tượng trưng cho thừa tác vụ thẩm quyền mà Chúa Giêsu đã giao phó cho ngài để phục vụ toàn thể Giáo hội. Bởi vì thẩm quyền là một việc phục vụ, thẩm quyền không phải là để được phục vụ, không phải độc tài.

Tuy nhiên, chúng ta hãy cẩn thận để hiểu rõ ý nghĩa của tất cả những điều này. Thật vậy, chìa khóa của Phêrô là chìa khóa Nước Trời, mà Chúa Giêsu không ví như một két sắt hay một căn phòng bọc thép, nhưng bằng những hình ảnh khác: một hạt giống nhỏ, một viên ngọc quý, một kho báu giấu kín, một nắm men (xem Mt 13,1-33), nghĩa là, như một điều gì đó quý giá và giàu sang, nhưng đồng thời lại nhỏ bé và kín đáo. Vì thế, để đạt được điều đó, điều cần thiết không phải là kích hoạt các cơ chế và ổ khóa bảo mật nhưng là trau dồi những đức tính như kiên nhẫn, để tâm, kiên trì, khiêm tốn và phục vụ.

Vì vậy, sứ mạng mà Chúa Giêsu giao phó cho Phêrô không phải là chặn cửa nhà, chỉ cho phép một số ít khách được chọn vào nhà, nhưng là giúp mọi người tìm được lối vào, trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu. Tất cả, tất cả đều có thể vào.

Và Phêrô sẽ làm như vậy trong suốt cuộc đời của mình, một cách trung thành, cho đến khi tử đạo, sau khi chính mình kinh nghiệm được, dù với những khó khăn và nhiều lần sa ngã, niềm vui và sự tự do nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa. Trước tiên, để mở cửa cho Chúa Giêsu, ông phải hoán cải, và hiểu rằng thẩm quyền là một sự phục vụ, và điều đó không hề dễ dàng đối với ông. Chúng ta hãy nghĩ đến câu chuyện: ngay sau khi ông nói với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô”, thì Thầy đã phải quở trách ông vì ông không chịu chấp nhận lời tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Người trên thập giá (xem Mt 16,21-23).

Phêrô nhận được chìa khóa Nước Trời không phải vì ông là người hoàn hảo, không, là một tội nhân; nhưng vì ông khiêm nhường và trung thực, và Chúa Cha đã ban cho ông một đức tin chân thực (x. Mt 16:17). Vì vậy, khi phó thác bản thân cho lòng thương xót của Thiên Chúa, Phêrô đã có thể nâng đỡ và củng cố anh em mình, như ông đã được yêu cầu (xem Lc 22,32).

Hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: tôi có nuôi dưỡng, với ân sủng của Thiên Chúa, ước muốn bước vào Nước của Người, trở thành người bảo vệ chào đón người khác không? Và để làm được điều này, tôi có để mình được “mài dũa”, làm mềm mại, được uốn nắn bởi Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người, Đấng sống trong chúng ta, mỗi người chúng ta không?

Xin Mẹ Maria, Nữ vương các Tông đồ, và các Thánh Phêrô và Phaolô, qua lời cầu bầu của các ngài, giúp chúng ta trở thành người hướng dẫn và nâng đỡ lẫn nhau đến gặp gỡ Chúa Giêsu.

---------------------------------

 

29/6-109: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ


(Trích từ: Làm nụ hoa trắng - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
)
PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ HAI VỊ THÁNH CỦA TINH THẦN HIỆP NHẤT

 

Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm, nhưng một khi đã được biến đổi bởi niềm tin Phục sinh và 29/6-109


Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm, nhưng một khi đã được biến đổi bởi niềm tin Phục sinh và nguồn ơn Thánh Thần, hai vị đã trở nên những con người mới, những phần tử hàng đầu xây dựng hiệp thông Giáo hội. Mừng lễ chung hai vị cũng là lúc thể hiện lòng yêu mến và phó thác. Xin hai vị luôn nâng đỡ Giáo hội hiệp thông.

***

Có lần đến mừng bổn mạng một vị Linh mục trọng tuổi. Ngài nói đùa rằng: “Tội nghiệp hai Thánh Phêrô và Phaolô quá! Những ông thánh bà thánh khác nhỏ hơn, thế mà lại được đứng tên một mình độc lập tự do hạnh phúc trong một ngày lễ. Đàng này Phêrô và Phaolô tiếng là hai thánh lớn của cả Giáo hội, thế mà lại phải chen vai đứng chung với nhau chặt chội trong một ngày lễ, dẫu đó là ngày lễ lớn. Ngài cười và phát biểu tiếp: Thà làm lớn trong một ngày lễ nhỏ còn hơn là Phêrô và Phaolô lại chịu làm nhỏ trong một ngày lễ lớn”.

Dĩ nhiên linh mục ấy chỉ nói đùa thôi. Nhưng trong cái tưởng như đùa cợt mua vui giữa các linh mục với nhau biết đâu lại chẳng ẩn chứa một chút nghiêm túc, một thoáng lắng sâu gợi mở cho suy tư về ngày lễ, để rồi khi nhìn vào chân dung của Phêrô và Phaolô bỗng chợt nhận ra dụng ý của Giáo hội; mừng hai Thánh Phêrô và Phaolô chung trong cùng một lễ là muốn nói lên tinh thần hiệp nhất, một tinh thần đã làm nên sự sống và mãi còn là sức sống của Giáo hội.

1. Phêrô và Phaolô: hai vị thánh có nhiều khác biệt.

Nói đến hiệp nhất là nói đến một tinh thần gặp gỡ khởi đi từ những cái khác biệt. Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm.

Về thành phần bản thân: Phêrô là dân chài lưới chuyên nghiệp, cuộc sống chỉ diễn ra quanh quẩn nơi biển hồ Tibêria. Tác phong ngài bình dân, tính tình ngài bộc trực, có sao nói vậy, thậm chí đến độ thô thiển mộc mạc. Mặc dù có bề dày kinh nghiệm tuổi tác và ngành nghề, nhưng kiến thức về đời sống của ngài có chăng cũng không lớn hơn diện tích biển hồ. Còn Phaolô, ngược lại, là con nhà trí thức được ăn học đàng hoàng, đã từng có dịp đi lại đó đây. Kiến thức rộng, gốc gác Biệt phái nhiệt thành với truyền thống cha ông, đầy năng lực, tuổi trẻ tài cao và cũng không thiếu tham vọng cho tương lai, nên Phaolô mới nổi máu anh hùng “vấy máu ăn phần” trong việc bách hại các Kitô hữu thuở ban đầu.

Về ơn gọi theo Chúa Giêsu: Phêrô thuộc hệ chính quy, là một trong những tên tuổi mau mắn đáp lời theo Chúa Giêsu từ những ngày đầu sứ vụ công khai của Người. Nhanh nhẩu, mau mắn, hăng hái, ông thường thay mặt cho anh em để lên tiếng phát biểu. Được đặt làm đầu Nhóm Mười Hai đặc tuyển tức là Thủ quân đội tuyển Tông đồ với một bề dầy thành tích đáng gờm. Trong khi đó, Phaolô chỉ là đàn em, đã chẳng được theo trực tiếp Chúa Giêsu lại còn khét tiếng phản động đến nỗi trên đường đi Đamas để bố ráp tín hữu, tiếng từ trời đã phải can ngăn “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ “. Nhưng đó cũng là khởi đầu của ơn gọi để Phaolô nghĩ lại sám hối mà đầu quân phục vụ Giáo hội. Chính Phaolô đã có lần thú nhận chẳng giấu giếm chi “Tôi là dân sinh sau đẻ muộn”. Không mặc cảm.

Về truyền giáo: Nếu Tông đồ là kẻ được sai đi truyền giáo, thì tuỳ theo khả năng cá nhân, mỗi người lại phục vụ theo cung cách của mình. Phêrô chủ trương “đánh bắt tại chỗ’, phục vụ Kitô hữu đa phần gốc Do Thái trở lại, nên thiết lập toà Antiôkia để dễ dàng điều hành quy tụ là chuyện bình thường. Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên trong lịch sử Công giáo, các tín hữu nhận lấy danh xưng: ‘Kitô hữu’. Còn Phaolô lại theo chủ trương “ đánh bắt ngoài khơi”, ra khơi để truyền giáo với những chuyến hải trình không mệt mỏi. Trẻ trung, khỏe mạnh, học rộng, biết nhiều đã trở thành lợi thế cho ngài hành trình về phía trước Dân ngoại.

Chủ trương khác nhau nên có lúc không tránh hết được những va chạm. Đã có to tiếng về vấn đề cắt bì hay không cắt bì cho những người ngoại giáo gia nhập Kitô giáo. Đã có hiểu lầm ấm ức khi đối mặt giữa một bên là cầm cương nẩy mực đạo giáo và một bên là quan tâm đến những nhu cầu mục vụ chính đáng của tín hữu gốc lương tâm. Tuy nhiên khi hiểu ra, hai đấng đã tay bắt mặt mừng trong một tinh thần hiệp nhất lạ lùng!

2. Phêrô và Phaolô: tượng đài hiệp nhất.

Khởi đầu sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, nếu hai vị đã hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng thì cũng hiệp nhất trong cùng một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin trung thành minh chứng.

Cùng chết tại Rôma. Cùng chịu tử đạo dù hình thức khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Cùng trở thành nền đắp xây tòa nhà Hội thánh. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công giáo, để rồi hằng năm cứ vào ngày 29 tháng 6 lại cùng được mừng chung trong một ngày lễ. Chừng đó chữ “cùng” cũng đủ đề Phêrô gần gũi Phaolô và để Phaolô đứng chung với Phêrô như hình với bóng. Mình mới ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Mãi mãi Phêrô và Phaolô là tượng đài bất khuất và là bài ca không quên của tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội. Tinh thần ấy hôm nay chỉ ra rằng.

Hiệp nhất không phải là đồng nhất theo kiểu đồng bộ nhất loạt ai cũng phải như ai, giống đồng phục của một hội đoàn hay như trong sản xuất hàng hoá đồng loạt. Nếu máy cùng một đời thì cũng cùng kiều dáng và chất lương như nhau. Hiệp nhất là khởi đi từ những cái khác nhau, những cái dị biệt, để hiểu biết tôn trọng và gắn bó hợp tác chung xây. Như thế mới phong phú đa chiều đa diện đa dạng, như những thành phần khác nhau làm nên một tổng hợp duy nhất hài hoà, như những chi thể khác nhau kết nên một thân mình, như những nốt nhạc cung bậc khác nhau làm thành một hoà âm tròn đầy.

Hiệp nhất cũng không phải là cầu toàn mười phân vẹn mười gọt giũa kỹ càng theo một hình mẫu, làm như tuỳ thuộc hoàn toàn vào ý chí con người mà không cần biết đến những biến số mang tính quyết định khác. Xây dựng một công trình vật thể như nhà cửa phòng ốc không ưng ý, người ta có thể đập bỏ để làm lại một cái mới vừa ý hơn, nhưng xây dựng một công trình phi vật thể nhất là lại liên quan đến yếu tố nhân sự thì không thể một sớm một chiều mà phá huỷ hoặc làm lại được. Nếu “duy ý chí “ đã là một lực cản đáng buồn cho sự tiến bộ, thì ở đây xem ra lại còn đáng buồn và đáng ngại hơn.

Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự dẫn dắt linh động của ơn thánh và chí bền khát khao của mọi thế hệ. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Nhưng đa dạng cũng đi liền với đa đoan. Không thể có hiệp nhất mà không vất vả. Hiệp mà không nhất chỉ là khiên cưỡng ép duyên bất hạnh ngục tù. Nhất mà không hiệp sẽ cứng cỏi lạnh lùng tự đủ thờ ơ. Hiệp để trở nên nhất và nhất mà vẫn luôn cần chất keo tinh thần của hiệp, đó mới là giá trị làm nên nét đẹp Kitô giáo. Nếu trong tình yêu hôn phối, những điều giống nhau là để hiểu nhau, còn những điểm khác nhau mới để yêu nhau, thì trong hiệp nhất Giáo hội cũng vậy, những điều giống nhau là nền tảng gặp gỡ, còn những điểm khác biệt lại là điều kiện tự nhiên để trở thành đa dạng, cho dẫu nhiều khi vì quá chú tâm đến những khác biệt người ta đã phải gạt lệ nhìn nhau xa cách. Hai cực nam châm giống nhau sẽ đẩy nhau, nhưng hai cực khác nhau mới thu hút gắn bó với nhau.

Tóm lại, Phêrô và Phaolô khác nhau nhiều lắm, nhưng một khi đã được biến đổi bởi niềm tin Phục sinh và nguồn ơn Thánh Thần, hai vị đã trở nên những con người mới, những phần tử hàng đầu xây dựng hiệp thông Giáo hội. Mừng lễ chung hai vị cũng là lúc thể hiện lòng yêu mến và phó thác. Xin hai vị luôn nâng đỡ Giáo hội hiệp thông.

---------------------------------

 

29/6-110: Câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?”


(Trích từ: HẠT NẮNG VÔ TƯ - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)

 

Không phải vô tình mà trang Tin Mừng hôm nay được chọn đọc trong dịp lễ hai thánh Tông đồ 29/6-110


Không phải vô tình mà trang Tin Mừng hôm nay được chọn đọc trong dịp lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô dẫu chỉ đề cập đến một mình Phêrô. Cũng không phải vô tình mà câu trả lời của Phêrô lại được đánh giá cao với điểm tối ưu kèm theo huy chương vàng là chiếc chìa khoá đóng mở Cửa Trời.

Vâng, không phải vô tình, mà là hữu ý muốn tập chú vào một câu hỏi lớn cũng là cốt lõi của mạc khải Kitô giáo. Câu hỏi ấy là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Thế nên, mãi mãi còn là một bận tâm của toàn Giáo Hội và của từng tín hữu. Câu hỏi ấy là “Đức Giêsu là ai?”

Trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô hôm nay, ta thử nhận diện đôi nét về câu hỏi quan trọng này.

1. Đó là câu hỏi cần đến lời tuyên xưng đột phá.

Trích đoạn Tin Mừng chính là câu trả lời mang tính tuyên xưng của Phêrô. Trong khi các Tông đồ khác còn mải mê tìm kiếm tư liệu trong những khuôn mặt nổi tiếng và tên tuổi quen thuộc của dư luận, thì một mình Phêrô bằng kỹ thuật cá nhân đã đột phá bứt lên để tuyên xưng “Đức Giêsu là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).

Quả là một ý kiến chẳng giống ai, nhưng lại là lời tuyên xưng đắt giá có một không hai. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người” có một Giêsu “Thiên Chúa”, ông nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của Đức Giêsu có một thần tính cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Chả thế mà ông đã được Đức Giêsu khen tặng hạnh phúc và tín nhiệm gửi trao chìa khoá Nước Trời.

Còn Phaolô trên đường đi Đamas, khi gặp ánh sáng lạ từ trời đã hốt hoảng kêu lên “Ngài là ai?” để nhận lấy lời đáp bất ngờ “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5).

Dẫu được đặt ra bằng một cách khác với phêrô nhưng vẫn là câu hỏi muôn thuở “Đức Giêsu là ai?” để Phaolô bằng cõi lòng tin nhận đột phá bỗng hiểu ra rằng: À thì ra, Giêsu ánh sáng rạng ngời làm ông ngã ngựa cũng chính là Giêsu đồng hoá với các tín hữu ông đang truy lùng bắt bớ. Có nghĩa là trong Giêsu thần tính có một Giêsu đã mang lấy bộ mặt nhân tính của cả Giáo Hội lữ hành. Thảo nào, ông đã bỏ lại sau lưng tất cả dĩ vãng sự nghiệp công danh, để dấn bước phiêu lưu đi theo Đấng mang tên Giêsu lạ đời ấy.

Khám phá ra thần tính trong nhân tính như Phêrô, hay ngược lại, khám phá ra nhân tính trong thần tính như Phaolô đều là những cách tuyên xưng đột phá cho câu hỏi “Đức Giêsu là ai?”

2. Đó cũng là câu hỏi mở sang đời gắn bó nhiệt thành.

Đức Giêsu thật lạ lùng. Không biết Người thì thôi, chứ đã biết Người thì không thể dửng dưng thờ ơ lạnh nhạt được nữa, nhất là khi biết Người bằng lời tuyên xưng đột phá mang tính bản thân như Phêrô và Phaolô thì còn quyết liệt hơn. Không chỉ đáp lại bằng mặt bằng lòng, mà còn bằng cả đời sống lòng thòng về sau. Đấy chính là ngã rẽ niềm tin.

Phêrô sau lời tuyên xưng không còn sống như Simon lúc trước được nữa. Ông đã được biến đổi. Ông đã vượt lên chính mình kinh qua những thử thách, cho dẫu đã có lúc dường như quên Chúa xa Chúa thậm chí chối Chúa, nhưng vẫn là một Phêrô khiêm nhường và kiên cường trong ơn sám hối, để gắn bó đầy trách nhiệm vào Đức Giêsu mà ông không ngừng rao giảng.

Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Đổi mới tất cả và trọn vẹn bằng suy tư giáo lý, bằng gặp gỡ mục vụ, bằng hành trình truyền giáo, và bằng xây dựng Hội Thánh không mỏi mệt. Đã có những khó khăn như bị hiểu lầm nghi kị, chịu nghịch cảnh cầm tù… nhưng chính lúc ấy lại hiên ngang một phaolô trong dáng đứng kiên cường gắn bó đầy nhiệt thành với Đức Giêsu mà ông cảm thấy luôn bị thôi thúc phải loan truyền.

Như thế đó, Phêrô và Phaolô đã trả lời cho câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” bằng cả đời sống của mình.

3. Đó còn là câu hỏi dẫn tới đỉnh cao dâng hiến.

Đó là câu hỏi trí mạng, để trả lời đến cùng người ta phải đánh cá cuộc đời, phải dám liều mạng sống để mà minh chứng. Hình như đây là một quy luật: chính Đức Giêsu đã lấy mạng mình để minh chứng tình yêu lớn nhất Người dành cho con người, thì con người cũng cần hiến thân một cách nào đó mà tuyên xưng Người là Thiên Chúa hằng sống.

Và đây cũng chính là điều gặp gỡ rõ rệt nhất, hào hùng nhất, bất khuất nhất giữa Phêrô và Phaolô. Chẳng ai bảo ai, mỗi người một ngả, nhưng cuối đời cả hai đã tới Rôma, và giữa những cơn bách hại khốc liệt dưới triều Nêron, Phêrô vào năm 64 và Phaolô năm 67, cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi, đó là đức tin của Hội Thánh, và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.

Truyện kể rằng: Phêrô bị đóng đinh ngược đầu xụống đất, cho mắt ngài thuận chiều hướng đến trời cao mãi mãi chiêm ngưỡng thần tính của Đức Giêsu, Đấng mà ngài đã từng hân hạnh đụng chạm đến. Và truyện cũng kể rằng: Phaolô bị xử trảm giữa lúc nghe thì thầm bên tai lời quen thuộc của Đấng năm nào ngài đã gặp trên đường Đamas: “Ta là Giêsu mà vì Ta, ngươi chịu bắt bớ. Nhưng can đảm lên, ơn Ta đủ cho ngươi”.

Tóm lại, “Đức Giêsu là ai?” Câu hỏi ấy Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng, bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng, để ở thượng nguồn đức tin Kitô giáo, các ngài trở nên “người mẫu” cho các tín hữu mọi thời, và trên Thiên quốc, các ngài là những “nhà bảo trợ” cho toàn thể Hội Thánh.

“Đức Giêsu là ai?” Đó cũng là câu hỏi đặt ra cho ta hôm nay để ta lặp lại niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô. Người là Thiên Chúa để ta tôn thờ kính yêu thao thức kiếm tìm gặp gỡ gắn bó. Người ở trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, THánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Người hiện diện nơi người đồng loại đồng bào đồng đạo đồng hương đồng thời đồng giáo xứ, đồng khu phố…để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên đới trách nhiệm. Người có mặt trong Giáo Hội, nơi lòng xã hội. Người có đó, trong đạo và giữa đời. Người có đó, trong anh chị em, trong tôi và chúng ta. Người hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.

Trả lời cho câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” như lời “Kinh Tin Kính” đẹp thôi, nhưng trả lời bằng cuộc đời dám sống và dám chết tưởng không dễ nói dễ làm dễ ưa dễ chịu. Nhưng như thế mới là hạnh phúc, thứ hạnh phúc chỉ được trao ở cuối đường trung thành sống đạo, như chiếc chìa khoá vàng và thanh gươm vàng mà hai tiền đạo anh dũng Phêrô và Phaolô đã nhận được ở cuối đường sự sống giữa sân cỏ cuộc đời.

Xin Phêrô và Phaolô giúp ta sống câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” một cách cụ thể, để vượt lên chính mình, ta sẽ có ngày gặp được hạnh phúc của những kẻ tin, và dẫu tương lai vẫn còn đó nhiều bất ngờ bất ổn bất trắc, nhưng đã ánh lên niềm hy vọng, vì ta vẫn có đó hai nhà bảo trợ sẵn sàng dẫn đường đi tới bến bờ bình an. Lạy hai thánh Tông đồ phêrô và Phaolô, xin cầu cho chúng con.

---------------------------------

 

29/6-111: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ


PHÊRÔ & PHAOLÔ: HAI VỊ THÁNH CỦA LÒNG SÁM HỐI

(Trích từ: HẠT NẮNG VÔ TƯ - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)

 

Hôm nay Giáo Hội mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Đó là hai khuôn mặt vĩ đại 29/6-111


Hôm nay Giáo Hội mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Đó là hai khuôn mặt vĩ đại ở thượng nguồn niềm tin Kitô giáo, những chứng nhân tiên khởi và sáng giá của Đức Kitô Phục Sinh. Đó cũng là hai cột trụ vững chắc nâng đỡ Giáo Hội trải qua biết bao thăng trầm dọc dài lịch sử hai mươi thế kỉ nay. Đó còn là hai vị thánh “cả” (thánh lớn, thánh vĩ đại) đối với mắt nhìn và lòng sùng kính của mọi tín hữu.

Chỉ nhìn những nét cao cả, người ta có thể nghĩ rằng các ngài ở quá xa trong thời gian, ở quá cao trong cương vị, và có nguy cơ ở bên lề nhịp sống Giáo Hội; trong khi đời sống và ơn gọi của hai Đấng xem ra lại rất gần với đời kẻ tin. Trong Thánh lễ vọng mừng kính hôm nay, xin được nhìn Phêrô và Phaolô như hai vị thánh của lòng sám hối.

1. Vì Phêrô và Phaolô đã trải qua những năm tháng tội luỵ.

Phêrô qua trang Tin Mừng hôm nay xuất hiện ở đỉnh cao yêu mến đến nỗi đã được Chúa Giêsu tín nhiệm gửi trao đoàn chiên Giáo Hội. Nhưng đời sống của ngài đã có những bóng tối tội lỗi phủ trùm. Chỉ sau phút tuyên xưng đức tin để đời, ngài đã bị Chúa Giêsu quở trách là “Satan hãy xéo đi” khi có ý ngăn cản Người lên Giêrusalem để chịu nạn. Rồi khi đang ung dung bước trên ngọn sóng đến với Chúa Giêsu, thì vì hụt hẫng lòng tin, ngài đã bị nhấn chìm trong làn nước.

Nhất là trong thảm kịch của Đấng Cứu Thế, Phêrô xuất hiện trong một dáng dấp khó thương hơn bất cứ Tông đồ nào. Ngủ vùi trong vườn Cây Dầu lúc Chúa hấp hối, đó là tội quên Chúa. Rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ vị thượng tế, đó là tội không vâng theo ý Cha. Sợ quá bỏ ra khi thấy Chúa bị bắt, đó là tội lìa xa Chúa. Và chối Chúa ba lần trước mặt người tớ gái, đó là tội phản bội. Rõ ràng Phêrô là người đã biết đến tội.

Phaolô cũng thế, trước khi là vị Tông đồ nổi tiếng, ông đã là một người khét tiếng trong dư luận tín hữu thời sơ khai đến nỗi nghe đến tên ông người ta phải trốn chạy như chạy tà. Ông là kẻ bách hại đạo Công Giáo trước bất cứ ai. Tuổi trẻ ông săn lùng các tín hữu. Thế giá ông đe doạ họ. Bàn tay ông đã từng vấy máu các Thánh Tử Đạo tiên khởi. Ông ghét đạo đã đành, lại còn tự nguyện xin lệnh đi ruồng đi bố ráp những người theo đạo nữa. Quả thật, Phaolô là kẻ đã có kinh nghiệm về tội.

2. Vì Phêrô và Phaolô đã quyết chí tìm về và hết mình sống cho sứ mạng được trao phó.

Nhưng điều quan trọng không phải là kể tội các ngài cho nhiều, mà là khởi đi từ tình trạng tội luỵ ấy để nhận ra, một khi đã được Chúa đánh động, Phêrô và Phaolô đã quyết chí tìm về và hết mình sống cho sứ mạng được trao phó.

Phêrô sau biến cố Phục Sinh đã là một Phêrô khác hẳn. Được hoàn toàn biến đổi: nên mới nên mạnh, nên lành nên trong, nên thông nên sáng, làm tiền đề để nên rạng ngời thánh đức hơn. Ngài đã thể hiện vai trò Tông đồ trưởng với tầm cao tương xứng của tinh thần trách nhiệm, và đã chu toàn sứ mạng thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo với nét đẹp của dạ can trường. Để rồi cuối cùng chịu án đóng đinh tại Rôma làm sáng lên hình ảnh bất khuất của một niềm tin vào Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa hằng sống. Nhờ sám hối, Phêrô đã nên thánh.

Còn Phaolô thì sau biến cố trên đường Đamas, nơi ông không còn giữ lại điều gì cũ nữa, mà tất cả đã được biến đổi. Nếu trước đây nhiệt tình cộng với ngu dốt về đạo đã trở thành phá hoại và gây khó khăn không ít cho Giáo Hội, thì sau này chính lòng nhiệt thành ấy cộng với ơn thánh và óc cầu tiến, Phaolô đã trở nên mẫu người không ai theo kịp về việc xây dựng Giáo Hội.

Nhiệt thành yêu Chúa Kitô, nhiệt thành yêu mến Tin Mừng và nhiệt thành đến ngổ ngáo trong việc truyền giáo. Tung hoành ngang dọc trên những cánh đồng Dân ngoại, để mỗi ngày đem về cho Chúa nhiều tâm hồn hoán cải. Cuối cùng, cũng chính tại Rôma, Phaolô đã bị xử trảm để mãi còn âm vang tiếng nói cao rao lòng nhiệt thành đến độ sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì Tin Mừng cứu độ. Nhờ sám hối, Phaolô cũng trở nên đại thánh.

3. Cho niềm tin hôm nay.

Nghiêng mình trước hai vị thánh đáng kính trong Phụng Vụ Thánh lễ hôm nay, tín hữu bỗng hiểu ra rằng: nét cao cả hai Đấng có được không phải là điều đương nhiên hay do tính tự nhiên, nhưng đã được đánh đổi bằng cả cuộc đời sám hối và không ngừng kêu gọi người ta sám hối.
Nếu trong thư của Phêrô, có lần chép: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhu” (1 Pr 5,5), thì đó là vì ngài đã từng kinh nghiệm trong vai trò của nhà lãnh đạo sám hối tự nhìn vào mình, và chắc chắn đó là rút ruột tâm sự của một đời tay hòm chìa khoá Nước Trời, luôn tỉnh táo vật lộn với chính mình để vươn lên trong ơn thánh Chúa.

Và nếu trong thư của Phaolô đã nhiều lần kêu gọi: “Hãy giũ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới” (Ep 4,24), thì đó chẳng phải là lời khuyến thiện bờ môi chót lưỡi, mà chính là khởi đi từ một chuyện lòng rất riêng của một con người đã kinh qua chặng đường gạn đục khơi trong từ bỏ cái cũ kỹ tội lỗi để bước sang cái mới mẻ trẻ trung tuyệt vời.

Thì ra cái cao cả là cái phải trả giá bằng dò tìm trong hoán cải, là cái phải khổ công thắng vượt mà vươn lên, là cái phải kiểm tra xây dựng cân chỉnh không ngừng. Không biết có nên phát biể rằng: hôm nay Phêrô và Phaolô cao cả bao nhiêu là vì hôm qua đã sám hối bấy nhiêu. Giống như những ngôi nhà cao tầng đứng vững là vì có móng nền được chôn sâu trong lòng đất.

Tạ ơn Chúa đã không gọi một vị thánh lý lịch trong sạch hoàn toàn để đứng đầu Giáo Hội và một vị thánh chưa kinh nghiệm hoán cải để rao giảng Tin Mừng, mà đã thương chọn gọi hai vị sám hối để hôm nay nên Thánh cả rạng ngời. Ý nghĩ và tâm tình ấy đã nên nguồn cổ vũ cho đời sống tín hữu.

Để thêm tin tưởng: tại sao tôi phạm tội hoài? Tại sao trong Giáo Hội thánh thiện vẫn còn đó nhưng tội nhân? Bởi vì bản chất Giáo Hội là thánh, nhưng trong cuộc lữ hành vẫn cưu mang những kẻ có tội cần ơn sám hối. Điều quan trọng là biết trỗi dậy vươn lên kìa. Không phải vì mạnh mẽ mà người ta trỗi dậy được, nhưng vì trỗi dậy được người ta trở nên mạnh mẽ.

Để thêm hy vọng: tội lỗi quá làm sao nên thánh? Đừng lo. Bằng dạn dày kinh nghiệm, Phêrô và Phaolô đã là “đầu xuôi” để ta hôm nay nếu biết sám hối cũng trở nên “đuôi lọt” như các ngài, và nhờ lời chuyển cầu của hai vị cột trụ Hội Thánh, ta được thêm chí bền mà thắng lướt. Không thánh nhân nào không có quá khứ, chẳng tội nhân nào không có tương lai.

Để thêm yêu mến: Phêrô và Phaolô, hai gương mặt cao cả, nhưng không ở cao ở xa ở ngoài để lạnh lùng nhìn đời bằng nửa con mắt. Trái lại, mãi mãi các ngài vẫn ở trong Giáo Hội để ân cần gần gũi với mọi tâm hồn và sẵn sàng đỡ nâng dìu về đường ngay nẻo chính. Thanh gươm Phaolô chiến đấu giúp ta lìa xa tội lỗi, và chìa khoá Phêrô nhẹ nhàng mở ra cho ta cánh cửa Nước Trời.

---------------------------------

 

29/6-112: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

 

Nhờ hồng ân Thiên Chúa, ngày 29 tháng 6 hằng năm, cả Giáo hội vũ hoàn kính nhớ đặc biệt và 29/6-112


Nhờ hồng ân Thiên Chúa, ngày 29 tháng 6 hằng năm, cả Giáo hội vũ hoàn kính nhớ đặc biệt và mừng trọng thể cùng lúc lễ hai thánh tử đạo Phêrô và Phaolô, những cột trụ của Giáo hội phổ quát Chúa Kitô. Theo truyền thống, Giáo hội không bao giờ mừng vị này mà bỏ vị kia, nhưng luôn mừng kính với lòng biết ơn hai chứng nhân vĩ đại của Chúa Kitô, và đồng thời tuyên xưng long trọng về một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền.

Phêrô có tên gốc là Simon, người Galilê làm nghề chài lưới, sống ở Capharnaum bên hồ Tibêria. Phaolô có tên là Saolê, người Do thái lưu vong, sinh tại Tarsô miền Tiểu Á bởi cha mẹ là người thế giá, có quyền công dân Rôma. Cuộc đời của hai ông bị đảo lộn từ khi gặp Đức Kitô.

Thánh Phêrô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Kitô, đã xứng đáng nghe lời này: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 18). Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô lấy từ “tảng đá, chứ không phải tảng đá lấy từ Phêrô. Phêrô, ngư phủ miền Galilêa, ít học, đã lập gia đình, theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ, là người sau khi đã vượt qua những ngày đen tối của cuộc Thương Khó của Chúa Kitô, sẽ có trách nhiệm củng cố anh em trong đức tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa (x. Mt 16, 13-19). Còn thánh Phaolô, người Pharisêu sốt sắng, có nhiều điều để tự hào, về gia thế, học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu tại thế, ông bách hại những người tin Chúa Kitô. Nhưng khi gặp Đức Kitô Phục Sinh với biến cố ngã ngựa trên đường Damas, ông trở nên tông đồ của ơn cứu rỗi đến từ đức tin, là “dụng cụ ưu tuyển” để mang Tin Mừng đến cho các dân tộc (x. Cv 9, 1-22).

Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi, Phêrô được gọi lúc ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được chính Đức Giêsu Phục sinh gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamas, đang làm tông đồ không biết mỏi mệt của dân ngoại (x. Cv 9, 1-22). Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.

Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong phút giây quá tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng. Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai mờ. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới. Phaolô là chiếc bình được tuyển chọn, Phêrô giữ chìa khóa Nước Trời; cho dù người này là ngư phủ, người kia là kẻ bách hại. Phaolô đã bị đánh cho mù, cuối cùng thấy rõ hơn; Phêrô đã chối Chúa, sau tin vững vàng. Phaolô đã chọn tin vào Chúa Kitô sau khi phục sinh. Phêrô vị dân chài thay vì thả lưới bắt cá, nay trở thành kẻ lưới người ta.

Chương trình mầu nhiệm của Chúa Quan Phòng dẫn đưa Phêrô tới Roma, nơi đây ngài đổ máu như chứng tá sau cùng và cao cả nhất của đức tin và của lòng mến đối với Thầy chí Thánh “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy» (Mt 16, 17). Như vậy ngài đã chu toàn sứ mệnh trở nên dấu hiệu của lòng trung thành với Chúa Kitô và của sự hiệp nhất tất cả Dân Chúa.

Phần Phaolô, trong hành trình truyền giáo, không ngừng rao giảng Chúa Kitô bị đóng đanh và lôi kéo nhiều nhóm người Á Châu và Âu Châu trở về với Chúa. Sau khi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, ngài đến Roma. Và chính ở đây, ngài được phúc tử đạo để làm chứng cho Chúa Kitô. Chính ngài đã nói lên trong bài đọc thứ hai Thánh lễ hôm nay rằng: “Chúa đã gần gũi tôi và ban sức mạnh cho tôi, để qua tôi, việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng được thực hiện và để các dân ngoại được nghe biết đến”. (2Tm 4, 17-18)

Phêrô và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách mãnh liệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Người yêu mến. “Này anh Simon, anh có mến Thầy không? Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,16). Cả Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống, vì Người là “Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: “Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô” ( Rm 8, 35.39)

Cả hai vị Tông Đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40), còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28); “Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu” (Gl 6, 1-7).

Cả hai hạnh phúc trong việc giữ gìn giáo lý tinh tuyền, nhưng cái phúc tử đạo còn hạnh phúc hơn. Nơi dương gian, vinh quang chỉ là ước muốn; chốn thiên đàng mọi sự thật nhãn tiền. Tiếng các ngài đã vang đến tận cùng trái đất, và thông điệp loan đi tới chân trời góc bể. Khắp nơi vang tiếng ngợi khen các ngài; các tín hữu nhẩm đi nhắc lại chiến thắng khải hoàn của các đấng.

Thật là hữu ích khi nhắc lại cho chúng ta vinh quang tử đạo của các hai đấng. Phaolô bị chặt đầu, Phêrô bị đóng đinh cắm đầu xuống đất. Hình thức tử đạo thật mầu nhiệm. Phêrô không dám chịu đóng đinh giống Thầy mình. Đó không phải là ông từ chối tử đạo, nhưng ông sợ nhận lấy cái chết giống Đấng Cứu Thế. Cả hai vị đã chết như Thầy, đã lấy máu mình mà làm chứng: thánh Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18), chịu đóng đinh chết; thánh Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, bị chém đầu; đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6). Thánh Phêrô được chôn cất ở chân đồi Vaticano; thánh Phaolô được an táng bên đường Ostiense.

Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo, dám yêu, dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá. Với lòng ngưỡng mộ biết ơn các ngài, chúng ta quyết một lòng trung thành với đức tin đã lãnh nhận.

Lạy Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, cầu cho chúng con.

Thánh Phêrô và thánh Phaolô, cầu cho chúng con. Amen.

---------------------------------

 

29/6-113: Chìa Khóa Nước Trời


(Nguồn: https://mycatholic.life/books/catholic-daily-reflections-series/ordinary-time-weeks-18-34/week-eighteen/ Biên dịch: Nhóm Bạn Đường Linh Thao)

 

Chúa Giêsu nói, “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất 29/6-113


Chúa Giêsu nói, “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Đây là món quà không hề nhỏ bé chút nào. Chúng ta nên hiểu điều này như một cam kết theo đúng nghĩa đen của Chúa Giêsu với thánh Phê-rô. Thế nên, khi Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh, khi Ngài “thổi hơi” vào các Tông Đồ, Ngài cũng ban tặng món quà là quyền tối cao trong Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô, đó là quyền cầm buộc và thảo cởi.

Chắc chắn rằng lúc ấy Phê-rô không hoàn toàn hiểu hết được món quà độc nhất này. Tuy nhiên, trong những năm đầu tiên khi Giáo Hội mới bắt đầu, có lẽ những tông đồ khác đã được Chúa Thánh Thần nhắc nhở, hoặc cũng có lẽ chính Phê-rô trong sự khiêm tốn của mình đã được Chúa Thánh Thần nhắc nhở rằng Chúa Giê su đã trao cho ông món quà này. Sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 15, 1- 41) cho biết tại Công Đồng Giêrusalem, có nhiều tranh luận và sự bất đồng về vấn đề cắt bì. Sau một thời gian tranh luận, không đi đến kết quả chung, thánh Phê-rô đã sử dụng thẩm quyền của mình lần đầu tiên một cách rõ ràng, Ngài đứng lên và công bố với uy quyền của mình. “Thưa anh em, anh em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo.” (Cv 15, 7)… Sau đó, những vấn đề tranh luận được giải quyết và các tông đồ đã ra một bức thư chung cho vấn đề cắt bì.

Sau đó, các tông tiếp tục thi hành quyền giảng dạy, chăn dắt và thánh hóa dân Chúa. Thánh Phê-rô đã đến Ro-ma, giảng dạy và trở thành giám mục đầu tiên ở thành này. Ngài đã chết ở đây và sau đó, đấng kế vị ngày, tiếp tục thi hành món quà là quyền tối cao này trong Giáo Hội. Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý định món quà này chỉ kéo dài trong thời đại của thánh Phê-rô, nhưng thẩm quyền này được truyền lại cho những người kế vị thánh Phê-rô là các giám mục Rô-ma.

Vượt qua hàng thế kỷ, chúng ta đã hiểu hơn về món quà độc nhất của thẩm quyền tối cao này và cũng đã định nghĩa nó một cách rõ ràng. Vì Chúa thiết lập nên thánh Phê-rô, và tất cả các vị kế nhiệm của ngài, có quyền trọn vẹn, trực tiếp, tối cao và phổ quát trên Hội Thánh để dạy các vấn đề liên quan đến đức tin hoặc luân lý và để cai quản, dẫn dắt cộng đoàn dân Chúa theo ý muốn của Chúa Kitô. Vì vậy, trong lĩnh vực đức tin và luân lý, nếu Đức Giáo Hoàng nói điều gì là đúng thì đó là đúng, và mọi tín hữu đều phải gắn bó với giáo huấn này trong sự vâng phục của đức tin. Và, vì là đại diện Đức Ki-tô, nếu ngài đưa ra quyết định nào về việc cai quản Giáo Hội thì đó là điều mà Chúa muốn. Chỉ đơn giản như vậy!

Hôm nay, Giáo Hội mừng kính thánh Phê-rô và Phao-lô, hai vị Tông Đồ Cả, đồng thời cũng là sát ngày cuối cùng của tháng Sáu, tháng mà Giáo Hội mời gọi cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta. Ước gì chúng ta biết yêu mến và không ngừng cầu nguyện cho các ngài, để các ngài được kiên vững và trung thành trong sứ vụ cùng đời dâng hiến, trở nên một Giêsu khác cho mọi người với tấm lòng quảng đại, bao dung và xót thương của Chúa.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì món quà của Giáo Hội Công Giáo đầy vinh quang Chúa! Xin cho con được luôn trung thành với tất cả những gì Ngài tỏ bày qua Giáo Hội. Và xin cho tất cả những vị lãnh đạo Giáo Hội, đặc biệt là Đức Giáo Hoàng, luôn tìm kiếm Chúa để lớn lên mỗi ngày trong đời sống thánh thiện. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.

---------------------------------

 

29/6-114: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ

 

Thánh Phêrô và Phaolô là hai khuôn mặt quan trọng đối với Giáo Hội, là rường cột của Giáo Hội 29/6-114


Thánh Phêrô và Phaolô là hai khuôn mặt quan trọng đối với Giáo Hội, là rường cột của Giáo Hội. Đối với chúng ta, các ngài mãi mãi là những tấm gương sáng ngời mà chúng ta không thôi nhìn ngắm và bước theo.

Các ngài là tôi trung của Chúa Giêsu, trung thành qua những yếu đuối nhưng cũng qua gian khổ. Chúng ta hãy nhìn những khuôn mặt anh hùng đó để can đảm bước theo Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.

Hai khuôn mặt quen thuộc thường được nhắc đến. Càng quen thuộc, chúng ta càng cảm thấy gần gũi, dễ thương.

Thánh Phêrô đã được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Ngài được xem như môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu, được Ngài đổi tên là Phêrô, nghĩa là tảng đá và chính Chúa Giêsu đã nói: “Anh là Đá, trên Tảng Đá nầy Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và quyền lực hỏa ngục không thể chuyển lay”.

Nhưng Phêrô là ai?

Là một người chài lưới, một người sống với một nghề nặng nhọc vất vả. Trình độ văn hóa có lẽ không qua cấp hai.

Nhưng sao Chúa lại chọn ông ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên, đổi tên ông và như thế xem ông như đệ tử “ruột” của mình?

Các thánh sử trình bày hình ảnh Phêrô không mấy gì tốt đẹp. Lúc thì hăng hái, nhưng tự phụ: “Con sẵn sàng chết cho Thầy!” Lúc lại yếu đuối: “Tôi không biết ông ấy!”

Nhưng lại anh hùng: một mình dám tuốt gươm chống lại cả một toán lính để bênh vực Thầy.

Tại sao Chúa lại chọn một người như thế để làm nền tảng cho Giáo Hội Ngài?

Đây chính là mầu nhiệm. Chúa không chê bỏ một ai. Ngài sử dụng tất cả mọi người miễn là họ thành thật và biết sửa sai.

Ngài uốn nắn nhưng con người cứng cỏi và sử dụng họ đúng theo khả năng của họ. Quyền phép Chúa được tỏ hiện nơi nhưng con người bé nhỏ, yếu hèn và bất toàn.

Phêrô là con người đạo đức và khiêm tốn. Đứng trước mẻ cá lạ lùng, ông ý thức được nhân cách của người đã bảo ông ra khơi đánh cá. Ông đã quì gối xuống: “Lạy Thầy, xin Thầy xa con vì con là người tội lỗi”.

Khi được hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô, đại diện cho anh em tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Niềm tin của Phêrô đã biến ông thành một con người vững chắc và Chúa Giêsu đã tin tưởng nơi ông: “Anh là Đá…”

Trong Hội đường Caphacnaum, sau diễn từ về Bánh Hằng sống, mọi người đều bỏ Thầy, Chúa Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em cũng bỏ Thầy nữa sao?” Phêrô, đại diện cho anh em, đáp lại: “Bỏ Thầy chúng con đi với ai? Chỉ có Thầy có nhưng lời ban sự sống đời đời”.

Đây cũng là một lời tuyên xưng đức tin tuyệt đối: chỉ có Thầy mà thôi. Không ai khác.

Phêrô gắn bó với Thầy với tất cả niềm tin của mình. Ông cũng kinh nghiệm sự yếu đuối của mình khi chối Thầy, nhưng Chúa Giêsu vẫn tin vào ông: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?”

“Thưa Thầy, Thầy biết rõ, con yêu mến Thầy”.

Và Chúa Giêsu đã trao cho ông đoàn chiên của Chúa và cả chìa khóa Nước Trời.

Còn Phaolô, người Pharisêu cuồng tín, Chúa Giêsu cũng sử dụng như dụng cụ của tình yêu Ngài, một dụng cụ sắc bén và hữu hiệu.

Phaolô không biết Chúa lúc sinh thời mà chỉ nghe nói. Và Phaolô đã xem Ngài như một tên lộng thánh, đã bị đóng đinh vào thập giá… một mối nguy cho Đạo Thánh. Là giòng giống Pharisêu, ông không thể quan niệm về ông Giêsu khác với nhóm của ông được. Đối với ông, Thiên Chúa của cha ông là Thiên Chúa duy nhất, không có ai khác.

Đức tin của Phaolô là một đức tin vẹn toàn, vững chắc. Vì thế, ông không thể chấp nhận được một người nào có thể thay thế Thiên Chúa hay xưng mình là Con Thiên Chúa, và cũng vì thế ông hăng say tiêu diệt bọn người lạc đạo theo ông Giêsu, con người đã dám tự xưng là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai.

Chúa Giêsu chờ đợi ông trên con đường Đamát, nơi đó ông đã gặp được Đấng ông đang truy lùng bắt bớ. Saolô đã đầu hàng khuất phục. Giờ đây ông biết mình đã lầm đường và trở về với Đấng đã kêu gọi ông.

“Chúa muốn con làm gì?”

Từ đó. Phaolô thuộc trọn về Chúa Giêsu, Đấng ông ra tay bách hại, giờ đây là Chúa của ông, là lẽ sống của ông.

Chúa đã sử dụng con người cuồng tìn và biến ông thành khí cụ của tình yêu cứu độ.

Phaolô đã được ”dành riêng” cho Chúa để mang Danh Chúa cho các dân ngoại, “những người ở xa”.

Phaolô vẫn ý thức mình là con người bé nhỏ: “Một đứa bé sinh non”. Ngài tự coi mình như một tông đồ hạng chót”: “Tôi đã bách hại Giáo Hội Chúa”.

Sự hăng say bách hại đã trở thành sự hăng say rao giảng: “Đối với tôi, việc rao giảng Tin Mừng không phải là một lý do để tự hào mà là một sự cần thiết, bắt vuộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”

Hận thù đã trở thành tình yêu thắm thiết: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Giêsu trong tôi”.

Chúa Giêsu đã tìm được người Ngài muốn. Phaolô đã sống chết cho một mình Chúa thôi: “Tôi coi mọi sự như rơm rác, trừ việc hiểu biêt Chúa Giêsu Kitô”.

Chúa không cần ai, nhưng Chúa muốn mọi người tham dự vào sứ mệnh cứu độ của Ngài.

Phêrô Phaolô là hai thái cực nhưng lại bổ túc cho nhau để cùng xây dựng Giáo Hội.
Phêrô, một người chài lưới dốt nát; Phaolô, một người trí thức uyên thâm.

Phêrô bộc trực, chân thành. Phaolô đắn đo suy nghĩ. Hai người chỉ có một mục tiêu duy nhất: Chúa Giêsu Nadaret.

Phêrô: “Bỏ Thầy con đi với ai? Chỉ có Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.

Phaolô: “Ai có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô?…”

Hai người cùng chết cho Chúa Giêsu.

Nhìn khuôn mặt hai vị thánh, chúng ta nghĩ sao? Tại sao tôi không như các ngài? Sống hoàn toàn cho Chúa? Chúa không chê ai, dù người đó có hèn nhát thế nào, nếu tin vào Ngài, Ngài sẽ có thể sử dụng người đó cho sáng danh Cha trên trời. Chỉ cần cởi bỏ con người cũ với tất cả những gì là đam mê trần gian, tự ái, kiêu căng, mặc lấy con người mới được tái tạo trong Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta không ai trọn lành cả. Hai thánh cả cũng không trọn lành, nhưng các ngài dám từ bỏ tất cả để sống cho Chúa. Chúng ta cũng có thể, không phải với sức riêng của chúng ta, nhưng với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được nhiều và rất nhiều việc cho sáng danh Chúa. Chỉ cần trao trọn cuộc sống cho Chúa.

Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta. Ngài không những mời gọi mà chính Ngài đến với chúng ta trong tấm bánh nhỏ mà chúng ta vẫn thường ăn lấy. Có Ngài chúng ta ra khơi. Có Ngài chúng ta dám can đảm “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”, như thánh Phaolô đã dạy.

---------------------------------

 

29/6-115: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ


(Bài viết của Enzo Lodi)

1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ

 

Theo Lịch giỗ các thánh tử đạo (Depositio martirum) năm 354 người ta đã cử hành trọng thể lễ 29/6-115


Theo Lịch giỗ các thánh tử đạo (Depositio martirum) năm 354 người ta đã cử hành trọng thể lễ hai thánh Tông Đồ Rôma vào ngày 29 tháng 6 này: Mừng thánh Phaolô tại chính ngôi mộ của người trên đường Ostia và mừng thánh Phêrô tại hang toại đạo đường Appia. Tại Rôma vào thế kỷ VII, lễ này được mừng hai ngày: phần kính nhớ thánh Phaolô quả thật được dời vào hôm sau, ngày 30 tháng 6, tuy vẫn được đính kèm trong các Thánh lễ ngày 29 tháng 6. Do đó, ngày lễ hai thánh này đã được phổ biến ở Đông Phương lẫn Tây Phương. Ngày nay, Thánh lễ vọng vào ban chiều chuẩn bị cho việc cử hành lễ mừng duy nhất, kết hợp hai vị thánh Tông Đồ.

Phêrô, quê ở Bếtsaiđa, trên bờ hồ Ghênêsarét. Tên Do Thái của người là Siméon hay Simon, với biệt danh là Képhas, có nghĩa là “đá”. Tên gọi này nói lên sứ vụ Đức Giêsu giao phó cho Simon: đó là trở thành nền tảng cho Hội thánh. Theo Tertullien (thế kỷ II), thánh nhân chết vì bị đóng đinh vào thập giá và theo Origène, đầu ngài bị quay ngược trở xuống theo tập tục người Rôma khi đóng đinh các nô lệ. Các khai quật mới đây dưới vương cung thánh đường Vaticano xác nhậc các chứng cứ được lưu truyền về cuộc tử đạo của Phêrô tại Rôma (xem Clément de Rome, thư gửi các tín hữu thành Côrintô V,1-4), trên đồi Vatican khoảng năm 67; về sau, nơi đây người ta xây dựng vương cung thánh đường Constantin.

Thánh Phaolô, quê tại Tarsus, ở Cilicie, ngoài tên Do Thái là Saul, ngài còn mang tên La Tinh là Phaolô. Tuy là biệt phái, xét theo lề luật, nhưng ngài đã trở lại đạo khoảng 33/35. Sau khi bị cầm tù lần thứ hai tại Rôma, có lẽ ngài đã bị chém đầu khoảng năm 67 (cũng chính Tertullien cho chúng ta biết điều này, theo lưu truyền từ xưa) tại Aquas Salvias, độ 5km về hướng nam Rôma và được mai táng trên đường Ostia, nơi đây, người ta xây vương cung thánh đường thánh Phaolô-ngoại thành.

2. Thông điệp và tính thời sự

Sách lễ đưa ra hình ảnh hai vị thánh Tông Đồ “được qui tụ để cùng chia sẻ một niềm vinh quang” và “cùng được tôn kính như nhau” (kinh Tiền Tụng).

Lời nguyện Thánh lễ vọng trích lại một câu trong sách bí tích của Vêron (số 1219): “Chính nhờ các ngài mà Hội thánh Chúa đã đón nhận các lợi ích do ân sủng Chúa đem lại, nghĩa là nhờ lời giảng dạy của các ngài. Cũng thế, lời nguyện hiệp lễ lại nhắc lại điều này: “Lạy Chúa, Chúa đã dùng các lời giảng dạy của các thánh Tông Đồ mà soi sáng lòng tin của các tín hữu.” Chủ đề này được lặp lại trong lời nguyện chính lễ, ghi nhận rằng “Chính nhờ các ngài mà Hội thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin”. Đức tin do các Tông Đồ giảng dạy được bày tỏ qua các nét độc đáo nơi cộng đoàn tiên khởi của Giáo Hội Giêrusalem, ở đó các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng (Cv 2,42). Kinh Tiền tụng thực hiện một tổng hợp thần học về tính tông truyền này, khi nêu bật các khía cạnh bổ túc lẫn nhau nơi hai vị thánh Tông Đồ. Các ngài đã xây dựng Hội thánh duy nhất bằng các đoàn sủng khác nhau. “Bởi lẽ Cha cho chúng con vui mừng trong ngày lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Cha đã sắp đặt để thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin; Thánh Phêrô thiết lập Hội thánh tiên khởi cho người Ítraen, thánh Phaolô là thầy giảng dạy cho muôn dân biết Tin Mừng cứu độ.”

Cuộc tử đạo của thánh Phêrô và thánh Phaolô vẫn luôn là dấu chỉ hợp nhất của Hội thánh ở mọi thời, như thánh Augustinô ghi nhận qua Bài đọc – Kinh sách: “Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ. Nhưng hai vị xưa kia chỉ là một. Thánh Phêrô đi trước, rồi thánh Phaolô theo sau. Đối với chúng ta, ngày lễ chúng ta cử hành hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ. Chúng ta hãy quí chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của ngài, quí chuộng những lời các ngài tuyên xưng, những điều các ngài rao giảng.”.

---------------------------------

 

29/6-116: Hai đá tảng và trụ cột của Giáo hội


(Suy niệm của Lm. Nguyễn Vinh Sơn, SCJ.)

 

Thánh Phêrô lúc đầu có tên là Simon, làm nghề đánh cá và đã có gia đình. Ngài được Chúa Giêsu 29/6-116


Thánh Phêrô lúc đầu có tên là Simon, làm nghề đánh cá và đã có gia đình. Ngài được Chúa Giêsu gọi đi theo Người trong một lần đánh cá ở trên biển. Ngài đã đại diện các môn đệ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 16, 16) được Chúa đặt đứng đầu nhóm Mười Hai. Ngài là một trong bốn môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu (x. Mt 4, 18-22) được tham dự hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa... Trong những lúc khó khăn nguy khốn, vì yếu lòng tin ngài đã chối Chúa ba lần nhưng đã quay trở lại và làm cho đức tin của Giáo hội phát triển mạnh tại Giêrusalem, sau khi Chúa về trời. Ngài tử đạo khoảng năm 64-67.

Thánh Phaolô, trước đây là một biệt phái, sau khi bị Chúa làm cho ngã ngựa và làm mù lòa trên đường Đamas khi đang bách hại đạo Chúa. Ngài đã được Chúa chọn làm tông đồ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngài thành lập nhiều cộng đoàn cũng như viết thư thăm hỏi, giải quyết những vấn đề của cộng đoàn mà ngài không thể tới được. Ngài tử đạo năm 67 tại Rôma.

Noi gương hai thánh tông đồ, chúng ta gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô để kín múc nơi Người nguồn sức mạnh tình yêu, hầu chia sẻ cho mọi người và sống chứng nhân Tin Mừng.

Câu chuyện

Trong mọi công trình xây dựng, các chuyên gia đều chú trọng đến nền móng và trụ cột nâng đỡ toàn bộ kiến trúc của công trình.

Trong ngôi nhà Giáo hội cũng vậy, chúng ta là những viên gạch để xây dựng lên và đã được Thiên Chúa kiến thiết với nền móng vững chắc từ “đá tảng niềm tin Phêrô và cột trụ bền vững nhiệt thành Phaolô”. Hai vị được nhìn nhận như là nền móng và trụ cột của công trình Giáo hội Chúa giữa trần gian. Trong kinh tiền tụng lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, Giáo hội đã long trọng tuyên bố: ”Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân”.

Suy niệm

Phêrô và Phaolô hai tính khí, hai nhân cách khác nhau: Một người xuất thân từ dân chài, thật thà chất phác nhưng đôi phần nóng nảy. Một người xuất thân là một trí thức trẻ học rộng tài cao thuộc đẳng cấp biệt phái và là công dân của Rôma. Cả hai có kinh nghiệm sống và gặp gỡ Thiên Chúa theo lịch sử riêng của mỗi người và được Thiên Chúa chiếm hữu biến đổi để trở nên đá tảng và trụ cột của Giáo hội.

Phêrô: Quá khứ là dân chài lưới với chiếc thuyền nhỏ rong ruổi khắp hồ Tibériat đã trở nên kẻ chài lưới người theo ý muốn của Thiên Chúa, hôm nay là hoa tiêu trên chiếc tàu Giáo hội xuôi ngược đại dương trần gian. Phêrô đã được Chúa Giêsu biến đổi từ một con người tầm thường có lịch sử với những đặc điểm bình thường như bao người khác. Đó là Phêrô của sự tính toán: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19, 27). Sự tính toán của con người ấy đã khiến ông ngăn cản bước đi cứu chuộc nhân loại của Đức Kitô và bị Ngài quở mắng: “Satan, hãy lui ra sau Ta! Anh cản lối Ta. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23b); Phêrô của nóng nảy, của yếu đuối, của phản bội: Chối Thầy ba lần (x. Lc 22, 54-62). Kinh nghiệm được tha thứ khiến ông trở nên biết chia sẻ lòng thương xót của Chúa với anh em như Chúa Giêsu đã nói: “Phần con, hỡi Phêrô, sau khi đã trở lại, con hãy củng cố các anh em của con” (Lc 22, 32). Nhưng cũng Phêrô đầy ơn Chúa xác tín tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Trước niềm tin sắt son này, Phêrô được Chúa đặt làm nền tảng Giáo hội: “Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy, và cửa hỏa ngục sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18); Phêrô tín thác hoàn toàn vào Đức Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Phêrô gắn bó với tình yêu của Thầy trên hết: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21, 15.16.17); Phêrô của sự cương quyết thuộc về Thiên Chúa và chỉ vâng lời và làm chứng về Ngài: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta... về những sự kiện đó (Đức Kitô đã sống lại), chúng tôi xin làm chứng…”. (Cv 5, 29.32). Ngài đã làm chứng cho đến chết bằng cái chết bị đóng đinh ngược trên đồi Vaticăn.

Phaolô hôm qua còn ghét và truy bắt “tà đạo Kitô”, Phaolô, một tay bách hại đạo khét tiếng như chính ông đã nhìn nhận (Gl 1, 13), và là người tuân giữ nghiêm ngặt luật Do Thái (Gl 1, 14). Phaolô còn liên quan trực tiếp đến vụ án ném đá đến chết của Stêphanô, phó tế tử đạo tiên khởi (Cv 7, 59). Phaolô của ngày hôm nay lại càng nổi tiếng hơn bao giờ hết vì là người nhiệt thành yêu mến và truyền bá Đức Kitô và sẵn sàng chết cho niềm tin đó. Thánh Phaolô xác tín niềm tin của mình vào Đức Kitô: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12), tin và loan báo Đức Kitô là lẽ sống của Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin mừng” (1Cr 9, 16) và chính ông để tình yêu Đức Kitô chiếm hữu “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5, 14), Phaolô chỉ sống vì Đức Kitô và trở nên một với Đức Kitô: “Không còn là tôi sống nữa, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Trong Ngài, Phaolô gắn bó với tình yêu Thiên Chúa không gì có thể chia ly: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8, 39). Những bước chân của Phaolô là bước chân gieo hạt giống Tin Mừng cho anh em dân ngoại như là ơn gọi đặc biệt của ông (Gl 1, 16). Phaolô chứng nhân Tin Mừng Chúa Kitô cho đến khi đầu ông rơi, máu ông đổ vì Tin Mừng ở ngoài thành Rôma.

Phêrô và Phaolô, hai người hai tính khí, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội theo thánh ‎ý quan phòng của Thiên Chúa. Thanh gươm ngày nào của Phaolô giơ cao bách hại đạo Chúa nay thế bằng Tin Mừng cứu độ giương cao để không ngừng khai quang truyền giáo cho Đức Kitô. Giọt nước mắt thống hối chân thành vì đã phản bội Thầy của Phêrô xưa và chìa khóa nước Trời được Chúa trao cho ông luôn hiện diện và mở toang nước Trời cho những ai chân thành sám hối.

Noi gương như Phêrô, người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sự sám hối sau khi phản bội Thầy; như Phaolô nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài..., và chỉ một lần ngã ngựa đớn đau, ông đã gặp gỡ Ngài và đời ông biến đổi theo thánh ý Thiên Chúa và trở nên mạnh mẽ trong đức tin.

Ý lực sống:
“… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12, 10).

---------------------------------

 

29/6-117: Xây dựng Giáo Hội

 

Cứ năm năm một lần, mỗi Giám Mục Công Giáo trên thế giới đều phải về Rôma trong một chuyến 29/6-117


Cứ năm năm một lần, mỗi Giám Mục Công Giáo trên thế giới đều phải về Rôma trong một chuyến đi chính thức được gọi là Ad limina.

Đó có thể là chuyến đi công vụ để gặp gỡ và trình bày công việc giáo phận với những cơ quan liên hệ. Đó cũng có thể là chuyến đi để tĩnh tâm và bồi dưỡng sau những năm làm việc bận rộn tại địa phương. Nhưng bao giờ cũng là chuyến đi để kính viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô, để tìm lại sức sống mới cho những ngày tháng sắp tới.

Đối với các tín hữu, thì mỗi năm một lần, lễ thánh Phêrô và Phaolô cũng là dịp thực hiện một chuyến đi thiêng liêng, ôn lại niềm tin hôm qua của hai cột trụ Giáo Hội để củng cố niếm tin cho mình ngày nay.

Phêrô và Phaolô là hai vị tông đồ rất khác nhau về nhiều phương diện. Khi đến với Chúa, Phêrô là một ngư dân, còn Phaolô là một người trí thức. Bước vào ơn gọi, Phêrô được đào tạo chính qui, còn Phaolô chỉ là đứa con đẻ non. Và trong đường lối phục vụ Giáo hội, nếu Phêrô là người bám trụ gắn bó với những tín hữu gốc Do thái, thì Phaolô là người đi tiên phong đem Tin Mừng đến với các dân tộc.

Thế nhưng giữa hai vị luôn có những điểm gặp gỡ. Giờ đây chúng ta hãy nhìn vào những điểm gặp gỡ ấy qua góc độ của niềm tin.

Trước hết, đó là một niền tin tuyên xưng.

Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta thấy Phêrô tuyên xưng cho mình cũng như cho nhóm mười hai:

- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống.

Còn Phaolô, sau biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamas, thì một bước ngoặt mới đã mở ra. Đấng mà trước kia Phaolô bắt bớ thì nay lại trở thành Đấng cứu độ, và không ai có thể tách Phaolô ra khỏi lòng mến của ngài.

Tiếp đến, đó là một niềm tin rao giảng.

Thực vậy, cuộc đời Phêrô là một tổng hợp kỳ lạ giữa đỉnh cao và vực thẳm trong niềm tin. Vừa được khen tặng là đá tảng xây dựng Hội Thánh, thì liền bị quở trách là Satan hãy xéo đi. Phút trước ung dung đi trên sóng nước, phút sau đã bị sa chìm vì nghi hoặc. Vừa mới thề sống thề chết với Thầy, nhưng một giờ sau đã chối bỏ Thầy.

Thế nhưng, sau biến cố Phục Sinh, nơi Phêrô chỉ còn đỉnh cao của một niềm tin chân thành. Thay vì những nhút nhát là một dạ can trường. Thay vì những chao đảo là một lòng xác tín rao giảng Tin Mừng. Thay vì những co cụm là những bước chân lên đường xây dựng Hội Thánh. Ngài đã trở nên là cột trụ củng cố niềm tin cho anh em mình.

Cuộc đời của Phaolô cũng vậy, nếu trước kia là một người biệt phái nhiệt thành với truyền thống của cha ông đến nổi tự nguyện đi lùng bắt các tín hữu, thì sau biến cố Đamas, cuộc đời ấy đã thay đổi hẳn. Với lòng nhiệt thành ngài đã từng nói:

- Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng phúc âm.

Sau cùng đó là một niềm tin chứng tá.

Thực vậy, nếu dám sống và dám chết cho niềm tin là một chứng tá mạnh nhất thì đây cũng là điểm gặp gỡ giữa hai vị tông đồ cột trụ. Không hẹn mà gặp nhau tại Rôma, không phải để phô trương thanh thế, nhưng là để chứng tỏ lòng trung thành bất khuất của niềm tin giữa lòng một Giáo Hội đang bị bách hại dồn dập. Qua tù ngục và cực hình, các ngài càng thêm kiên quyết hơn trong niềm tin.

Và cuối cùng bằng cái chết: Phêrô bị đóng đinh ngược đầu xuống đất, còn Phaolô bị xử trảm, các ngài đã gặp nhau trong tình yêu cao cả là đã hy sinh mạng sống vì nguời mình yêu, để rồi mãi mãi liên kết với nhau trong cùng một triều thiên tử đạo.

Ôn lại niềm tin của Phêrô và Phaolô, như chúng ta đã nói, đó là một chuyến đi thiêng liêng vừa củng cố niềm tin, vừa xây dựng tinh thần hiệp nhất cho mọi tín hữu.
Trước hết là để củng cố niềm tin.
Thực vậy, nơi hai vị chúng ta thấy cũng có những điểm yếu, có những sa ngã, có những phản bội, thế nhưng Chúa đã không kêu gọi những người trong trắng tốt lành, nhưng đã gọi Phêrô, một kẻ đã chối bỏi Ngài làm đầu Giáo Hội. Và Phaolô, một kẻ đã từng bắt bớ cấm cách Giáo Hội làm sứ giả tin mừng cho muôn dân.

Từ đó chúng ta hãy yên tâm vững dạ bước theo Chúa. Bởi vì sa ngã vấp phạm chỉ là chuyện thường tình của số kiếp con người, miễn là chúng ta biết sám hối ăn năn. Mỗi lần xám hối là một lần tìm lại niềm tin của mình một cách chân thành với ước vọng sẽ được vững mạnh hơn và trung thành hơn.

Tiếp đến là xây dựng tinh thần hiệp nhất.

Hai vị tông đồ, mặc dù có những khác biệt, nhưng đã gặp gỡ nhau trong một niềm tin. Chính sự gặp gỡ nhau trong một niềm tin đã dẫn các ngài tới tinh thần hiệp nhất mà mọi người chúng ta phải noi theo.

Thế nhưng, chúng ta đã thực sự hoà giải với Chúa, và với anh em hay chưa? Phêrô và Phaolô, mặc dù mãi mãi vẫn là hai, nhưng chỉ có một nỗi lo là loan truyền Phúc Âm và xây dựng Giáo Hội.

Nhân ngày lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết gặp nhau trong niềm tin, để rồi từ đó, nỗ lực xây dựng tinh thần hợp nhất trong lòng Giáo Hội.

---------------------------------

 

29/6-118: Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô


(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

 

Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ trọng thể kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. I. Trước 29/6-118


Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ trọng thể kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.

I. Trước hết là Thánh Phêrô

Chẳng cần phải nói dài anh chị em cũng có thể thấy được rằng Phêrô là một trong ba môn đệ, nói đúng hơn trong ba Tông đồ được Chúa ưu ái một cách đặc biệt hơn những tông đồ khác. Ông được Chúa cho tham dự vào hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa.

Tính tình ông nóng bỏng, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh.

Nói về ông, người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của Ông. Đó là việc ông đã chối Chúa. Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: “Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến 'dzụ' ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt”. Lý do, ông viết tiếp: “Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột”Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.

Tuy nhiên bên cạnh những cái không tố đó chúng ta lại thấy nơi Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ông để rồi qua đó ông đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa khi Chúa đã đặt ông làm nền tảng Giáo Hội.

Đầu tiên chúng ta phải nói về lòng quảng đại. Tin Mừng ghi thật rõ, vừa khi được Chúa gọi ông nhanh nhẹn bỏ điều mà sau này ông 'kể công' với Chúa là tất cả mọi sự.

Bên cạnh lòng quảng đại chúng ta còn thấy ở nơi Ông một đức tin chân thành.

Đàng khác trên con đường theo Chúa ông còn có một đức tính hiếm hoi này mà những người khác ít ai có được đó là lòng gắn bó keo sơn với Chúa. Sau Phép lạ bánh hóa nhiều, Chúa có giảng một bài giảng về bánh hằng sống. Bài giảng đó đã đánh dấu một khúc quặt mới trong cuộc đời công khai của Chúa.

“Lạy thầy, bỏ thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.”

Nhưng đức tính mà tôi cảm phục nhất trong cuộc đời của Ông đó là lòng khiêm nhường. Sách Tu đức gọi đức Khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức. Đôi khi người ta cũng còn gọi đức khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Đọc trong Kinh Thánh tôi thấy ít nhất có ba lần ông đã biểu lộ sự khiêm nhường rất cụ thể như thế này.

Lần thứ nhất đá là khi Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ. Trong khi các môn đệ khác chỉ có thái độ cầm chừng thì Phêrô đã đến quì trước mặt Chúa và thưa vó Người: “Lạy Thầy, xin tránh xa con ra vì con là một người tội lỗi”Ông ý thức được cái thân phận yếu đuối của mình trước sự hiện diên của Chúa.

Lần thứ hai là khi Chúa quở mắng ông một cách thật nặng lời nhưng ông không một chút sĩ diện. Ông đón nhận tất cả như một bài học để ông sửa mình.

Lần thứ ba được ghi ở trong sách Tông đồ công vụ. Giữa Phêrô và Phaolô có sự bất đồng về việc những người Dothái trở lại. Phêrô đã cố gắng nhịn nhục để giữ được bầu khí hoà dịu giữa hai người.

2. Còn Phaolô

Tin Mừng không nói một câu nào về Ông.

Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.

Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều điểm hơn hẳn Phêrô.

Ông là một con người có học thức - Là học trò của Giáo sư Kinh Thánh nổi tiếng Gamaliel.

Gia đình ông thuộc loại khác giả.

Đặc biệt ông là người có tước Công dân La mã

Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn nhưng là một tông đồ đặc biệt.

Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu.

Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất đột xuất làm cho nhiều người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.

Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.

Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.

II. Bài học

1. Uy quyền của Chúa.

- Chúa muốn làm gì làm.

+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.

+ Phaolô cũng thế: Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.

2. Bài học về lòng yêu mến Chúa

+ Câu truyện tại bờ biển Galilêa sau khi Chúa sống lại. Phêrô đã tuyên xưng không phải đức tin, nhưng là lòng yêu mến của Ông.

+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”(Xem 2 Tm 4, 6-8 Rm 8, 18-19.32.33.38.39)

3. Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.

+ Nhìn lại cuộc đời theo Chúa của Phêrô chúng ta thấy ông đã sẵn sàng để cho Chúa uốn nắn, mài dũa ông như thế nào. Rất nhiều lần Chúa đã trách mắng ông, thậm chí có lần Chúa đã gọi ông là “Đồ Satan”, thế nhưng Phêrô vẫn luôn một lòng một dạ trung thành để rồi sau này ông có thể viết cho đoàn chiên Chúa trao cho Ông như thế này: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em”(1Pr 1, 15) - Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. (1Pr 2, 9)

+ Còn đối với Phaolô thì chúng ta khỏi cần phải nói: Sau khi được Chúa kêu gọi trên con đường ông đi Damas, ông đã vào ẩn mình trong hoang địa. Ở đó Chúa đã tôi luyện ông để ông trở nên giống Chúa đến nỗi Ngài có thể tự hào: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. Và Ngài khuyên những ai tin Chúa: “Anh em đã nhận Đức Ki-tô Giê-su làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người”. Vào cuối đời ông đã để lại những lời này cho người môn đệ yêu quí của ông: “Còn cha, cah sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã đến giờ cha phải ra đi. Cha đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây cha chỉ còn đợi trông vòng hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho cha trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”

---------------------------------

 

29/6-119: Thánh Phêrô


CÁC BẠN NÓI CHÚA GIÊSU LÀ AI?

 

Khi vị tổng thống Hoa kỳ làm một cuộc họp báo, các phóng viên sẽ đưa ra một số lớn câu hỏi 29/6-119


Khi vị tổng thống Hoa kỳ làm một cuộc họp báo, các phóng viên sẽ đưa ra một số lớn câu hỏi. Hầu như mọi điều do Tổng thống nói đều là những tin tức đáng giá không phải vì lời của Tổng thống sâu xa hay sẽ thay đổi các biến cố trên thế giới nhưng đơn giản chỉ vì ông ta là tổng thống. Ngay sau khi ông xuống khỏi chức vụ, ông sẽ chẳng còn hấp dẫn mấy với những phương tiện truyền thông đại chúng nữa.

Một con người là ai sẽ làm cho mọi chuyện ra khác lắm. Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đặt câu hỏi về chính mình khi Người hỏi các môn đệ, phần các con bảo Thầy là ai? Phêrô hành động như một vị phát ngôn cho tất cả các tông đồ, ông không mắc phải sai lầm như những người khác nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri nào khác đã trở lại trái đất này. Phêrô đã tuyên bố cách trang trọng: “Thầy là Đấng Mêsia, con Thiên Chúa hằng sống”.

Tuyên bố của thánh Phêrô có hai phần: trước hết, ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Câu trả lời này là sự xác tín của các môn đệ. Niềm hy vọng một Đấng Mêsia đã trở nên nồng cháy và rõ ràng trong suốt thời cai trị của vua Đavít, đặc biệt là qua tiên tri Nathan vào thế kỷ thứ X trước công nguyên. Niềm hy vọng này đã lớn lên cách mạnh mẽ vào thời Chúa Giêsu, một số người đã trông đợi Đấng Mêsia xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Bây giờ các tông đồ đặt trọng tâm niềm hy vọng của mình vào Chúa Giêsu.

Nhưng phần hai lời tuyên bố của thánh Phêrô đã làm kinh ngạc mọi người có mặt ở đấy. Thánh Phêrô tuyên bố rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không phải bằng cảm giác mà người ta có thể xác định được đức tin của một người nào, nhưng chỉ có một cách duy nhất người ta có thể áp dụng vào một mình Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhấn mạnh không phải do con người đã tỏ lộ cho Phêrô biết điều này, nhưng Người không bằng lòng với cách nói đơn giản: “Thiên Chúa đã mạc khải điều đó”. Người tuyên bố cách rõ ràng: “Chính Cha Thầy ở trên trời đã mạc khải điều này”.

Kiểu ngôn ngữ này làm cho các tông đồ kinh ngạc, Chúa Giêsu đặt nền tảng cho sự thật đáng sợ Thiên Chúa là Cha của Người, rằng Người thật sự là Con Thiên Chúa, không thể mơ hồ hay phân tích cách nào khác nhưng chỉ có một ý nghĩa được chuyển trao cho trí hiểu của cả nhân loại.

Trong việc đáp lại sự diễn tả đức tin của Phêrô, Chúa Giêsu đã nói những lời nổi tiếng này: “Con là Đá trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Sự nối kết giữa chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và Giáo hội được đặt nền tảng trên đá thì không có gì làm thay đổi được. Đúng hơn nó trở thành một sứ vụ chắc chắn của Giáo hội để làm rõ ràng, để dạy dỗ và sống theo chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Ý nghĩa này đã được các công đồng sơ khai của Giáo hội (mà Công đồng Vaticano II là Công đồng thứ 21) đã xác định cách rõ ràng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua những thế kỷ, Giáo hội vẫn tiếp tục giảng dạy cho mỗi thế hệ người công giáo mới, để làm cho lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô trở nên chính họ, như chúng ta cũng phải làm cho lời tuyên xưng ấy trở nên chính chúng ta vậy. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia đại diện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu thật sự là Người Con duy nhất của Thiên Chúa, ngang với Đức Chúa Cha trong mọi sự. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu là những gì làm cho những lời của Người trở nên quý giá cho chúng ta và những hành động của Người thì vô giá. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu cũng là những gì làm cho mọi sự Người đã làm, làm đẹp lòng Cha người và mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Mọi sự nơi Chúa Giêsu tuôn trào từ sự đồng nhất thật sự này. Ôi, sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa sâu xa biết bao, đã mạc khải cho chúng ta sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Đây là chân lý được củng cố trên thế gian và còn tiếp tục trên thiên đàng cho đến đời đời.

---------------------------------

 

29/6-120: Khúc rẽ quyết định

 

Xa khỏi mọi người, dưới chân núi Hermon, một mình trong thanh vắng bên sông Gio-đan-nô 29/6-120


Xa khỏi mọi người, dưới chân núi Hermon, một mình trong thanh vắng bên sông Gio-đan-nô, Đức Kitô nêu lên cho các Môn đệ một vấn nạn quan trọng: “Các con nói thầy là ai? Nói chung những người khác không nhận biết Ngài, và bây giờ, các Môn đệ phải phát biểu ý kiến về Ngài.

1.- Vấn nạn.

Đức Kitô không hỏi: Các con tin gì? Các con coi điều gì là phải? Nhưng Ngài hỏi cách trực tiếp: “Các con nói Thầy là ai? Đức tin Công giáo trước hết không phải là một vấn đề lý thuyết, một tổng số chân lý siêu hình, hay chỉ là một tín điều. Đối tượng của đức tin Công giáo, là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài là hành động quyết định, là biến cố chủ yếu. Con người chỉ có thể có một thái độ duy nhất là nhận biết hay không nhận biết Ngài. Lập trường đối với Chúa Giêsu là yếu tố quyết định để phân biệt ai là Công giáo, ai là lương dân. Vậy luân lý không phải là yếu tố cốt yếu nhưng chính là đức tin. Nếu có người nhờ đức tin hiểu được Chúa Giêsu là ai, tự nhiên họ sẽ lãnh nhận lời Ngài, và nhất thiết đáp ứng những đòi hỏi của Ngài. Đức tin vào Đức Giêsu Kitô là tất cả! Kitô giáo là thái độ chấp nhận Đức Kitô.

2. Lời đáp trả.

“Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng ấy của Thánh Phêrô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cao trọng biết bao trong chức vụ của Ngài. Ngài là tiên tri được Chúa thánh hiến. Ngài là vua, là chánh tế. Ngài còn hơn tất cả những tước hiệu ấy, vì Ngài là chính con Thiên Chúa hằng sống. Vậy phải biết vượt qua các tước hiệu bên ngoài để tìm tới chính Ngôi vị thâm sâu của Đức Kitô. Đó là tất cả ý nghĩ cao xa của đức tin: Đức tin là cuộc gặp gỡ trực tiếp với Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô dựa trên hai lý do vững chắc. Trước hết, nhờ suy tư và tác động đức tin của Phêrô: Người là kẻ từng chứng kiến lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Tất cả những gì xẩy ra trước kia nay đều đem lại hậu quả mong muốn nơi Ngài: Nào những lần được thấy Chúa chữa bệnh, hai lần hoá bánh ra nhiều, nào những lần chứng kiến Chúa đi trên mặt biển và trở giúp Phêrô bị lao đao trên sóng nước. Phêrô đã hiểu các dấu hiệu, rồi từ đó đạt tới tác nhân của các dấu hiệu. Ngoài ra để tuyên xưng Đức Kitô là con Thiên Chúa hằng sống, người còn được thêm ánh sáng Chúa Thánh Thần soi dẫn bên trong “Không phải huyết nhục cho con biết điều ấy, nhưng chính Cha ta ở trên trời đã tỏ lộ cho con!” Đức tin quả thật đã hợp nhất hai yếu tố tự nhiên và siêu nhiên.

3.- Kết quả:

Câu trả lời này đã hình thành một thái độ chọn lựa quyết liệt, đưa tới một khúc rẽ lớn lao trong toàn thể lịch sử: đó là bước tiến từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Do Thái xác thịt sang Do Thái thiêng liêng, từ giảng đường đến Giáo hội, từ việc tuyển chọn một dân tộc đến tiếng gọi gửi đến muôn dân. Vì thế, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Kitô hứa xây dựng Giáo hội. Đây là sự chọn lựa vĩnh viễn. Không gì có thể chiến thắng Giáo hội kể cả quyền lực ma quỷ. Còn một lối chú giải khác về câu “Cửa Hoả Ngục không thể nổi lên chống lại”, theo lối chú giải đó, thì câu này có nghĩa là Giáo hội có quyền mở cả cửa Thiên đàng và hoả ngục, cả hai lối chú giải trên đều làm sáng tỏ một ý nghĩa sâu xa, nhằm mô tả tính chất vĩ đại siêu nhiên và thần linh của Giáo hội.

Tính chất vĩ đại ấy dựa trên hai cột trụ: tinh thần và định chế. Tinh thần chính là đức tin vì nhờ đức tin Phêrô được khen ngợi là diễm phúc. Do đó, chỉ có ai tin mới thuộc về Giáo hội này. Đức tin là nền tảng và là cội rễ. Cột trụ thứ hai là định chế. Vị tông đồ đầu tiên khi tuyên xưng đức tin, đã được Đức Kitô trao cho chức vụ thủ lãnh: “Ta trao cho con chìa khoá nước trời, và tất cả những gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng sẽ cầm buộc, những gì con tha dưới đất, trên trời cũng sẽ tha”. Simon con Giona được nâng lên cao khỏi chính bản thân hèn yếu của mình, được con Thiên Chúa trao phó sứ mệnh, lãnh nhận quyền cai trị tối cao, tượng trưng bằng chìa khoá rồi nhờ danh Chúa, Người thực hiện quyền cầm buộc và tha thứ.

Một Giáo hội hoàn toàn thiêng liêng không phải là Giáo hội Đức Kitô, Giáo hội Chúa cũng không phải là hoàn toàn chế định. Giáo hội Đức Kitô chỉ hiện diện trong sự hoà hợp thâm sâu giữa tinh thần và chế định, giữa đức tin và uy quyền.

Tất cả đoạn văn thánh này đã thoát ra niềm hân hoan của Chúa Giêsu. Từ nay, những lời giảng và phép lạ của Ngài đã làm chứng. Như thế, đoạn văn này vừa cho thấy một tính chất khởi thuỷ, lại vừa biểu lộ một trạng thái đạt đích: đoạn văn có phác hoạ một khúc rẽ trung thực, một thái độ đoạn tuyệt và chấp nhận: được lời Chúa khai mào, các phép lạ hỗ trợ, con người đi tới chỗ lãnh nhận đức tin. Vậy chính ngôn ngữ và hành động thần linh đã đặt nền móng Giáo hội.

---------------------------------

 

29/6-121: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ


(Suy niệm của Lm. Vinhsơn Trần Minh Hòa)

SỐNG ĐỨC TIN THEO GƯƠNG HAI THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ

1. Hai chứng nhân sống động về đời sống đức tin.

 

Trong kinh tiền tụng lễ thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, Hội thánh dạy rằng: Thánh Phêrô là người 29/6-121


Trong kinh tiền tụng lễ thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, Hội thánh dạy rằng: Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin. Thánh Phêrô thiết lập Hội thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân.

Thực vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay đã làm sáng tỏ đức tin của hai chứng nhân tông đồ này. Trước hết, Sách Công vụ ghi lại thời kỳ Hội thánh sơ khai bị bách hại. Thánh Giacôbê là anh của Gioan bị chém đầu và thánh Phêrô bị bắt bỏ tù (x. Cv 12.1-2). Dầu bị thử thách như thế, thánh Phêrô vẫn không lung lạc đức tin. Thánh nhân một mực tin tưởng vào Chúa. Niềm cậy trông và tin tưởng ấy của thánh Phêrô đã đạt được kết quả bất ngờ. Thánh nhân đã được Chúa giải thoát khoải lao tù một cách hết sức nhiệm mầu. Chính biến cố được giải thoát ấy làm cho thánh Phêrô thêm niềm tin vào Chúa và ngài đã thốt lên rằng: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hê-rô-đê, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu”(Cv 12, 11).

Kế đến, tại vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, thánh Phêrô còn biểu lộ một đức tin mạnh mẽ và cá vị. Trong khi các tông đồ khác lúng túng chưa trả lời Chúa Giêsu là ngôn sứ hay là Êlia, thánh Phêrô đã mạnh mẽ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống (x. Mt 16, 16). Danh xưng Con Thiên Chúa là chân lý được thiên thần Gápriel tuyên báo trong ngày truyền tin cho Đức Maria (x. Lc 1, 35) và Chúa Giêsu đã mạc khải trong những lần rao giảng. Trong thời gian Chúa Giêsu rao giảng và làm phép lạ, có một số người tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 14, 33, Lc 8, 28, Ga 11, 27, Mt 27, 54) nhưng chưa minh nhiên xác quyết. Ngược lại, rất nhiều người không chấp nhận và xem danh xưng đó là lời phạm thượng (x. Ga 10, 36, Ga 19, 7). Vì thế, lời tuyên xưng của thánh Phêrô về căn tính của Chúa Giêsu là tuyên xưng đức tin đầu tiên và lời tuyên xưng đó góp phần củng cố đức tin cho các tông đồ khác. Thánh Phêrô thật có phúc khi tuyên xưng chân lý ấy cách chính xác, bởi ngài đã được Chúa Cha mạc khải (x. Mt 16, 17).

Với thánh Phaolô, lời tuyên xưng đức tin của ngài là những lời loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu phục sinh và một đời sống trung tín với Chúa Giêsu đến cùng. Thánh nhân đã tin vào Chúa Giêsu đến độ chọn Chúa Giêsu là lẽ sống cho cho đời của ngài: “Tôi coi tất cả mọi sư là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô (Pl 3, 8). Thánh nhân đã sống chết cho Chúa Giêsu (x. Pl 1, 21) và không ai, không thử thách nào có thể tách ngài ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, dù cho đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo (x.Rm 8, 35). Tình yêu Đức Kitô đã thúc bách thánh Phaolô loan báo Tin Mừng và thánh nhân đã sống một đời chứng nhân để tuyên xưng đức tin. Những lời tâm sự cuối cùng với Thimôthê đã cho thấy thánh Phaolô đã sống hết mình cho đức tin của mình: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin”(2Tm 4, 6).

2. Sống đức tin theo gương hai thánh Phêrô và Phaolô

Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô đã trở nên những cột trụ đức tin trong Hội thánh. Gương sáng của hai ngài mời gọi các tín hữu sống đức tin trong cuộc sống hôm nay. Với những lo toan cơm áo gạo tiền, các tín hữu được mời gọi dành cho Chúa một chỗ trong đời sống của mình. Không vì những của cải chóng qua mà họ quên đi hạnh phúc vĩnh cửu trên trời, không vì lợi ích quá nhỏ ở trần thế này mà họ quên đi mối lợi tuyệt vời là Đức Kitô.

Bằng những giờ kinh tối đều đặn và sốt sắng, bằng hành vi thờ phượng khi lãnh nhận các các bí tích, và tham dự các thánh lễ chúa nhật cách sinh động và trang nghiêm, các gia đình Công giáo đang loan báo cho người khác rằng họ tin vào Thiên Chúa và Đấng Ngài sai đến là Đức Kitô. Chính sức mạnh của Chúa tác động, các tín hữu sống chứng nhân giữa đời.

Trong khi nhiều gia đình khác bất hòa, ly dị, các gia đình người Công giáo vẫn luôn trung thành trung thủy với nhau đến cùng và không có một thử thách nào có thể tách mối dây hôn phối của các gia đình Công giáo. Tình yêu vợ chồng trong các gia đình rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô và Hội thánh. Vợ chồng luôn biết hy sinh những sở thích riêng để giúp nhau được hạnh phúc. Chính khi vợ chồng vợ chồng Công giáo sống yêu thương nhau theo mẫu gương của Đức Kitô yêu thương Hội thánh, họ đang họa lại cách sinh động tình yêu của Đức Kitô và Hội thánh. Trong khi sự gian dối xảy ra nhiều nơi, trong nhiều môi trường, các cha mẹ Công giáo luôn dạy cho con cái sống trung thực và thực hành sự trung thực ấy trong gia đình, trường học, công sở…

Có thế, từng người trong các gia đình Công giáo đang trở nên những chứng nhân sống động cho Chúa Kitô và minh chứng đức tin của mình. Nhờ lời chuyển cầu của hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ hôm nay, ước mong mỗi tín hữu trở nên những chứng nhân đức tin trong gia đình, trong trường học và mọi môi trường của cuộc sống.

---------------------------------

 

29/6-122: Gà gáy và ngã ngựa


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Gà gáy và ngã ngựa là hai sự kiện nổi bật trong cuộc đời hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Tiếng gà 29/6-122


Gà gáy và ngã ngựa là hai sự kiện nổi bật trong cuộc đời hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Tiếng gà gáy để phản tỉnh. Cú ngã ngựa để hết tự mãn. Phêrô và Phaolô, trước khi là thánh, hai vị cũng là người tội lỗi, yếu đuối, chập choạng trên con đường đức tin. Các ngài có một quá khứ lầm lỗi. Phêrô có lần bị Chúa quở là satan; ông đã ba lần chối Thầy. Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh Kitô hữu; ông đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Cả hai đều hăng say năng nổ, muốn dùng sức lực của mình và phương tiện thế gian để bảo vệ Chúa mình tôn thờ, và muốn tiêu diệt những kẻ không theo đạo giống mình. Chúa Giêsu đã cứu cả hai, mỗi người được cứu một cách. Tiếng gà gáy và cú ngã ngựa là hai dấu ấn không phai trên hành trình nên thánh.

1. Tiếng gà gáy phản tỉnh

Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: Phêrô, sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vấn hay sao? Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya, nhắc nhở lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: “Trước khi gà gáy, con đã chối Ta ba lần.” Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, cõi lòng xốn xang, mình chỉ là cát bụi, phận yếu hèn và quá dễ sa ngã! Phêrô thổn thức. Mới hôm nào ông còn tuyên bố: “Dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ.” Thế mà, giờ đây ông lại nhát gan khi đối diện nguy nan nên đã chối Thầy đến ba lần. Và đêm hôm ấy, tiếng gà gáy đã thức tỉnh tâm hồn Phêrô. Xuất thân là ngư phủ với bản tính chất phác, chân thật, có sao nói vậy, nên khi lầm lỗi ngài chân thành sám hối và òa khóc như một đứa trẻ. Đó là hành trình của phàm nhân, những con người luôn mỏng dòn và yếu đuối, nhưng luôn được Thiên Chúa hải hà thương xót, thứ tha và thánh hóa. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại.

Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài. Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa. Thánh Phêrô có lòng quảng đại. Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa. Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.” Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường. Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì ngài cũng không giận Chúa. Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa. Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.

2. Cú ngã ngựa để hết tự mãn

Saolô ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái-Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Là biệt phái nhiệt thành nên Saolô đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và trên đường Đamat truy lùng các Kitô hữu. Oai phong trên yên ngựa đang phi nước đại, thình lình, một luồng ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông, Saolô té nhào từ yên ngựa. Nằm sóng soài dưới chân ngựa, Saolô nghe được tiếng gọi trong luồng ánh sáng phát ra từ trời: “Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?” Saolô hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng từ trời đáp: “Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ.” Không thể tin vào chính mình nữa, không ngờ ông Giêsu Nadarét, người đã bị đóng đinh vào thập giá như một tên tội phạm, lại chính là Thiên Chúa quyền năng đã quật ngã mình và đã tự đồng hóa với những Kitô hữu mà mình đang lùng bắt. Dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh, đôi mắt của Saolô bị mù loà, nhờ đó ngài biết rằng trước đây mình thật là mù quáng. Nhưng sau đó, qua trung gian của Khanania, đại diện của Giáo Hội, ngài đã được sáng mắt về phần xác và cả phần hồn để nhìn thấy con đường mình được mời gọi bước vào.

Hoàn toàn phó thác, ngài đã thưa với tất cả tâm tình phục thiện: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Con đường đức tin của Saolô đã hoàn toàn thay đổi kể từ lần gặp gỡ hi hữu ngoài sức tưởng tượng ấy. Sự sống của Chúa Phục Sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Được ơn trở lại từ cú ngã ngựa nhớ đời, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại. Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu”(Pl 3,7-9). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra toà, tù tội, vất vả trăm đường.

Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân. Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2Cor 12,9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”(2Cor 4,8-9). Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”(Gal 2,20). Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ. Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-39).

3. Là người tội lỗi được Chúa nhìn đến

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ cùng chung một ngày. Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đưa hai ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng. Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha. Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Chúa đã dùng hai sự kiện gà gáy và ngã ngựa để thanh tẩy các ngài. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả,” đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất. Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo. Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến.” Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu! Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào.”

Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa, luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa. Amen!

---------------------------------

 

29/6-123: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ


(Chú giải của Noel Quesson)

Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê...

 

Các miền phụ cận thành Tia và Xi-đôn, trên bờ biển Li-băng... Mát-thêu được Đức Giêsu và các môn 29/6-123


Các miền phụ cận thành Tia và Xi-đôn, trên bờ biển Li-băng... Mát-thêu được Đức Giêsu và các môn đệ Người đi bộ từ núi Héc-man với những đỉnh núi có tuyết bao quát vùng hồ Ga-li-lê. Gần vùng thượng lưu sông Gio-đan, trong một vùng phong cảnh lôi cuốn, khí hậu mát mẻ, chim hót líu lo giữa những tiếng rì rào của cây cỏ. Gần hang động của thần Pan (ngày nay là Banian). Hê-rô-đê Phi-líp II đã cho xây dựng thành phố nghỉ mát của nhà vua vào năm 2 trước Công nguyên. Để tôn kính ông chủ Đế quốc La Mã, ông ta đã cho thành phố này một cái tên hoàn toàn mới Xê-da-rê!

Ngày nay thành phố này không còn lại gì... ngoại trừ dòng suối tiếp tục phun nước từ "tảng đá" dưới chân núi.

Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?"

Xa khỏi các đám đông, để tránh khỏi mọi nguy cơ khuấy động vi Đấng Mê-si-a, một cách rất rõ ràng Đức Giêsu đặt câu hỏi về "căn tính" của Người.

Đối với mỗi người, dù đàn ông hay đàn bà mà chúng ta sống gần, than ôi chúng ta chỉ có thể biết được mặt ngoài của nhân cách người ấy. Trong mỗi con người, có một thứ bí mật, giấu kín đằng sau những thứ mặt nạ mà người chỉ khám phá được với thời gian.

Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cũng cắm sâu trong điều không thể nói được: Người là ai?

Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ".

Dư luận quần chúng được thuật lại trong từng chi tiết nhưng về cơ bản đều đồng thanh cho rằng Đức Giêsu không phải là một con người bình thường...

Ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân cách tôn giáo đặc biệt. Người ta kể ra những vị ngôn sứ nổi danh của quá khứ khi nói về Người...

NGÀY NAY cũng thế, phần lớn nhân loại đều thừa nhận trong Đức Giêsu một nhân cách siêu phàm: Người đã đánh dấu lịch sử hoàn vũ như rất ít người tiếng tăm đã có thể làm.

Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo thầy là ai?

Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý tưởng thông thường chưa đủ. Phải có lập trường của bản thân mình.
Anh chị nói gì về Đức Giêsu? Đối với anh chị Đức Giêsu là ai?

Ông Simon Phêrô thưa: 'Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".

Tất cả các nhà chú giải đều lưu ý sức mạnh của cách diễn tả mà Mát-thêu nhấn mạnh bằng thác nước của bốn danh từ: "Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống".

Dĩ nhiên là vào ngày hôm đó trong đầu của Phêrô không chắc đã có mọi xác quyết về thần học mà những từ ấy chuyên chở sau khi Đức Giêsu sống lại và sau một thời kỳ suy gẫm lâu dài bằng trí tuệ của các Công đồng ba thế kỷ đầu tiên. Tuy nhiên, người ta không có quyền "thu hẹp" lời "tuyên xưng đức tin" của Phêrô theo nghĩa thông thường có trong cách diễn tả "con của Thiên Chúa" "ben Elohim". Thật vậy, trong Cựu ước, danh hiệu này được áp dụng cho Đấng Mê-si-a, nhưng cũng áp dụng cho mọi "con trai của ít-ra-en" (Xuất hành 4;22; Đệ nhị luật 14,1; Khôn Ngoan 2,16-18,13; Giê-rê-mi-a 31,20; Sa-mu-en 7,14; Thánh Vịnh 2,7- 89,27). Đối với Phê-rô, rõ ràng là Đức Giêsu không chỉ là một "con trai của Thiên Chúa", như mọi người khác: Mà nói như thế thì không nói được điều gì. Phê-rô đã nhìn thấy Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác, một người được sai đến như bao người khác được Thiên Chúa sai đến... nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mê-si-a, Chúa Con... trong một ý nghĩa chỉ thuộc về Người.

Đức Giêsu nói với ông: "Này anh Simon, con ông Giô-na anh thật là người có Phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.."

"Phàm nhân" hay "huyết nhục"... cách diễn tả rất lâu đời trong Kinh Thánh để chỉ tính chất xác thực của lời nói... một công thức rất đẹp gợi hình để nhắc đến sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ được soi sáng bằng những ánh sáng của trí tuệ. Trong ngôn ngữ thông thường của ngày nay, chúng ta sẽ nói rằng: "không phải óc phán đoán nhỏ bé của anh, cho anh nói được điều đó!" Vâng, để đạt đến những thực tại thánh thiêng, cần phải có một "mạc khải". Trí thông minh của con người tuyệt đối không thể định nghĩa được Thiên Chúa, bên trên mọi sự như lời ca ngợi của Thánh Grê-gô-ri Na-di trong một bài thánh ca rất hay: "ôi, lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, đó chẳng phải là tất cả những gì Người ta có thể ca ngợi Chúa đó sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói với Chúa? Không một từ nào có thể diễn tả được Chúa. Trí tuệ sẽ bám víu vào đâu? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Duy chỉ Chúa không thể diễn tả được; bởi vì mọi sự vật được diễn tả đều xuất phát từ Chúa. Duy chỉ Chúa không thể nhận biết được, bởi vì mọi sự được suy nghĩ đều xuất phát từ Chúa... Chúa là cùng đích của mọi sự vật. Chúa là tất cả mọi sự vật, và không phải là sự vật nào cả. Chúa có tất cả mọi tên và con sẽ gọi tên Chúa như thế nào đây? Duy chỉ Chúa là người ta không thể gọi tên. Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, đó chẳng phải là tất cả những gì người ta có thể ca ngợi Chúa đó sao?"

Phải, với sự đơn giản táo bạo, khó mà chống chế, Đức Giêsu khẳng định rằng không một ai có thể biết căn tính của Người nếu không có sự mạc khải của Thiên Chúa. "Không ai biết rõ người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho" (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về Thiên Chúa "Đấng đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người... Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên" (Ga-lát 1,15-16) "Nhưng Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời... " Hai từ nhỏ bé "Cha Thầy" cho chúng ta thoáng thấy vực thẳm vô tận mà Đức Giêsu đã ý thức, trong bản thân Người. Và Đức Giêsu tuyên bố là "có phúc" tất cả những ai thấy được điều bí mật của bản thân Người (thêm một mối phúc thật mới).

Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết; anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy..."

Máccô (8,27.30) và Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Mát-thêu kéo dài thêm với lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Kiểu chơi chữ với từ Phêrô của Đức Giêsu rất xác thực bởi vì Người sử dụng ngôn ngữ Sê mít, và tất nhiên gần ngôn ngữ Ara-men hơn ngôn ngữ Hy-lạp, thật vậy từ "Đá" ngôn ngữ Ara-men là Kê-pha thuộc về giống đực)... Quả thực, câu nói sẽ không chỉnh lắm trong tiếng Hy-lạp và trong tiếng Pháp: "Anh là Phêrô (Pétros: giống đực) và trên tảng đá này ("pétra": giống cái Thầy sẽ xây. Vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời "tuyên bố" của Đức Giêsu với Phêrô. Có năm hình ảnh, theo rất sát ngôn ngữ Sê-mít, cấu tạo thành lời hứa đó.

Tảng đá: biểu tượng cho sự vững chắc, biểu tượng cho Thiên Chúa.

Giáo Hội: có nghĩa là cuộc "hội họp" do Thiên Chúa triệu tập.

Cửa: biểu tượng cho quyền lực của một thành trì kiên cố thời cổ đại.

Chìa khóa: biểu tượng cho "quyền bính".

Cầm buộc và tháo cởi: biểu tượng cho toàn thể thống nhất các mối mâu thuẫn...

Có nhiều đoạn trích dẫn Kinh Thánh để khẳng định Thiên Chúa là Tảng đá. Chúng ta chỉ cần trích dẫn một trường hợp "Chúa là tảng đá của tôi, thành trì của tôi ( Tv 71,3) Chúng ta thấy trước mắt mình những hình ảnh của các pháo đài hay các ngôi làng có tường thành vững chắc trên mọi núi đá. Như thế, Đức Giêsu có ý định xây dựng một công trình, thật vững chắc!

Từ "Giáo Hội" dịch một từ tiếng A-ra-men "Qahal" có nghĩa là "Cuộc hội họp, hội chúng". Vậy điều Đức Giêsu muốn xây dựng là một "cộng đoàn" gồm đàn ông và đàn bà có những điểm chung, quy tụ lại để cùng nhau làm một số việc. Công đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa. Không thể là một Kitô hữu "đơn độc". Bi kịch của người Kitô hữu không hành đạo, tức là không tham dự thánh lễ ngày chủ nhật để thờ phụng Thiên Chúa chính là đức tin của người ấy teo lại dần và chết.

"Và quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi..."

Bản văn dịch sát cho thấy một hình ảnh: "Những cánh cửa hỏa ngục (Hadès) không đủ sức để chống lại". Nếu chúng ta hiểu công thức này trong mọi sức mạnh của nó, vấn đề không phải chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội để phòng thủ hiệu quả trước những cuộc tấn công của sự chết... nhưng là khả năng tấn công "ngục tù của sự chết" để giải thoát những người bị giam cầm ở đó.Tranh thánh của phương Đông về sự sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu chiến thắng đứng trên hai cánh cửa của âm phủ bị phá vỡ thành hình thập giá và cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng sự chết của Người. Đó là mục tiêu của Giáo Hội: Cứu độ! Đức Giêsu đã thật sự nhắm đến điều đó: một "đoàn thể" của những người được sống lại với Người?

"Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời..."

Đây cũng là một hình ảnh rất lâu đời, dấu chỉ sự chính thống (I-sai-a 22,22). Ai giữ chìa khóa căn nhà có mọi quyền bính trên căn nhà ấy.

"Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy".

Ngày nay, người ta thấy nhiều người sẵn sàng nói: "Đức Giêsu, được... Giáo Hội, không...". Sau một thời kỳ tập quyền thái quá các Giáo Hội cũng như các quốc gia khắp nơi cảm thấy muốn vỡ tung: người ta xem ra chỉ bằng lòng với "những cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành mà không cần đến những cơ chế to lớn... Người ta tương đối hóa những quy phạm của học thuyết không cần đến những điểm quy chiếu khách quan... Tác vụ của Thánh Phêrô mà Đức Giêsu mong muốn nhắc chúng ta rằng đức tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta và chúng ta không thể nghĩ ra một cách tùy tiện: Đức Kitô thật sự đã ban cho Phêrô các "quyền bính". Phải lắng nghe Phêrô.

---------------------------------

 

29/6-124: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ


Lịch sử của ngày lễ:

 

Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đều tử đạo tại Rôma: Phêrô tử đạo dưới thời hoàng đế Nêrô khoảng 29/6-124


Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đều tử đạo tại Rôma: Phêrô tử đạo dưới thời hoàng đế Nêrô khoảng năm 64-67; Phaolô tử đạo vào năm 67.

Lễ hôm nay không phải là người ngày tử đạo của thánh Phêrô và thánh Phaolô, nhưng có thể là ngày di chuyển hài cốt của hai vị vào hang toại đạo trên đường vua Appia, gần nhà thờ San Sê-bát-ti-a-nô ngày hôm nay.

Hội Thánh tôn kính mộ các ngài và mừng lễ kính hai vị cùng ngày. Vì thế Hội Thánh đã dành ngày 29/6 hằng năm để mừng trọng thể lễ kính hai vị. Xưa Hội Thánh lấy ngày 30/6, sau ngày kính trọng thể Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, để kính nhớ đặc biệt thánh Phaolô, nhưng lịch mới năm 1970 không còn nữa, ngược lại Hội Thánh nâng lễ kính thánh Phaolô trở lại ngày 25/01 lên bậc lễ kính.

Suy niệm các bài đọc trong Thánh Lễ:

a) Thánh lễ vọng:

Cv 3,1-10:

Hai vị Tông Đồ không có tiền, nhưng các ngài lãnh nhận được sức lực của thánh thần để làm chứng bằng lời nói và bằng hành động rằng: Đức Giêsu vẫn đang sống (cv 1,8;2,43;5,12). Nhờ danh của Chúa Giêsu thành Nadarét, thánh phêrô đã chữa lành người bại liệt. Đây không phải ảo thuật hay phù thuỷ nhưng là sự tin tưởng vào Chúa Giêsu: niềm tin vào sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa mà đã nâng lên "Làm Chúa và làm Đấng Kitô" (Cv 2,36).

Chúng ta hãy tập làm mọi việc vì danh Chúa để biến mọi việc thành lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa.

Gl 1,11-20:

Phaolô xác tín về sứ vụ và giáo lý của mình: tất cả bắt nguồn từ Chúa Giêsu và cuối cùng thì tất cả nằm trong ý định muôn thuở của Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã gọi ngài từ muôn thuở và xác định ngài làm Tông Đồ dân ngoại.

Tin tưởng vào ơn gọi và ý định của Thiên Chúa, chúng ta nỗ lực hết mình chu toàn bổn phận trong giây phút hiện tại để làm vinh danh Thiên Chúa.

Ga 21,15-19:

Chúa Giêsu xác nhận địa vị ưu tiên của phêrô, nhưng lại hướng dẫn ông về những điều kiện căn bản mà người giữ chức vụ mục tử phải có: đó là lòng trung tín và tình yêu mến.

Khi nhận lãnh sứ mệnh Chúa ban, chúng ta ta cần trung thành trong công việc và trung tín với Chúa, đồng thời tỏ ra nhiệt tình sốt sắng với mọi công việc và keo sơn gắn bó với Chúa bằng tình yêu mến để hiệp thông và vâng phục.

b) Lễ chính kính thánh Phêrô và Phaolô

Cv 12,1-11:

Đoạn sách công vụ Tông Đồ này ghi lại việc bắt giam và giải thoát phêrô để trình bày về ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì giải thoát phêrô là công việc hoàn toàn của Thiên Chúa.

Những công việc con người không làm được thì Thiên Chúa làm được. Vì thế chúng ta tin tưởng và hết lòng trông cậy vào Chúa trong khi cầu nguyện.

2 Tm 2,6-8.17-18:

Bài này ghi lại lời thánh Phaolô giải thích cho Timôthê về ý nghĩa các đau khổ của người Tông Đồ. Ví như "người nông dân làm việc vất vả, thì phải là người đầu tiên được hưởng phần hoa lợi", cũng vậy mỗi người Tông Đồ "cùng chết với Đức Kitô thì cũng cùng sống lại với người". ý nghĩa này dựa trên chân lý: "Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết".

Điều này gợi lên cho chúng ta: có làm mới có ăn; có khó mới có công; có chiến đấu mới có chiến thắng và vinh quang. Vì vậy chúng ta cần chịu khó trong mọi việc, nỗ lực trong mọi công tác, kiên trì và bền đỗ trong mọi gian lao, thử thách và vất vả vì lòng mến Chúa và tuân phục ý Chúa.

Mt 16,13-19:

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu chuyện Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu: "Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" để trình bày cho chúng ta rằng người Tông Đồ không những cần phải hiểu giáo lý của Chúa, mà còn phải có những cái nhìn chính xác về con người của Chúa nữa. Chính những câu hỏi của Chúa Giêsu buộc các Tông Đồ phải xác định rõ ràng về con người của Người.

Muốn làm Tông Đồ cho Chúa, thì không chỉ biết thông thạo về giáo lý của Chúa mà còn phải học hỏi, tìm hiểu và suy niệm về Chúa để xác tín về Chúa cách rõ ràng, hầu có thể truyền đạt về Chúa cách vững chắc. Thánh Phê-rô và Thánh Phaolô là mẫu gương cho chúng ta về điều đó.

Nhận thức và áp dụng:

Mừng kính Thánh Phê-rô và Phaolô Tông Đồ hôm nay, chúng ta có thể nhận thức rằng:

- Thánh Phê-rô và Thánh Phaolô: tuy khác nhau về tính tình, về trình độ, về khuynh hướng nhưng hai ông đã gặp nhau:

Trong một ơn gọi: Tông Đồ.

Do một Đấng kêu gọi: Đức Giêsu.

Để cùng chia sẻ một bận tâm: đó là xây dựng Hội Thánh trần thế.

Điều này nêu gương cho chúng ta khi thi hành sứ mệnh Tông Đồ, cần phải biết: thống nhất giữa những cái đa dạng và hiệp nhất giữa những cái khác biệt để xây dựng Hội Thánh.

- Nhìn vào những yếu đuối của Phêrô cũng như Phaolô mà được Chúa trao sứ mệnh cao cả trong Giáo Hội, chúng ta nhận ra rằng:

Các Tông Đồ ngày xưa, cũng như các Đấng Bậc trong Hội Thánh ngày nay: các ngài đâu có tự mình đảm trách công cuộc cứu rỗi trần gian, mà chỉ làm công việc thừa nghĩa là Chúa sai họ, với lời hứa yểm trợ họ trong công tác và đảm bảo giá trị sau cùng, chứ không hứa siêu đẳng họ, để mọi người biết rằng chỉ có một vị Thầy đích thực là Đức Kitô. Họ chỉ là quản lý các mầu nhiệm (1Cr 4,1) chứ không phải phát sinh các mầu nhiệm ấy. Họ thi hành nhân danh Đấng chọn họ và sai họ, chỉ có Đấng đó mới hoàn hảo, mới thông suốt mọi bí ẩn, mới là bảo đảm cuối cùng giá trị của các việc họ làm.

Đó chưa kể khía cạnh yếu đuối của họ giúp họ dễ cảm thông với những yếu đuối loài người, của anh em, như chính Đức Kitô đã nêu gương (Do Thái 4,15).

Trong quá trình làm việc thừa sai, thay vì phục vụ, các Tông Đồ có thể thiên về hưởng thụ, họ để cho tư lợi, những ý riêng cho phối hướng dẫn họ … những thứ khiếm khuyết ấy lẽ ra theo thói thường là đưa Giáo Hội đến chỗ suy vong, sụp đổ … nhưng Hội Thánh vẫn tồn tại: như vậy càng chứng tỏ cách hiển nhiên cho thấy Thiên Chúa mới là người trách nhiệm cuối cùng của Hội Thánh Người.

Nếu trong số những người hướng dẫn chúng ta trong Hội Thánh có những gương xấu trì trệ như Simon hoặc có gốc bách hại như Sao-lô hay bất cứ một khiếm khuyết bất toàn nào đi nữa, chúng ta cũng vẫn yên tâm và tin chắc rằng Hội Thánh là của Chúa và Chúa có thể làm mọi sự vì "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".

Mừng lễ thánh Phêrô và thánh Phaolô hôm nay, chúng ta thiết tha nguyện xin Chúa qua lời bầu cử và gương mẫu của hai vị thánh Cả vĩ đại, ban cho mọi thành phần trong Hội Thánh, cách riêng mỗi người chúng ta:

- Biết tích cực góp phần mình vào công cuộc xây dựng Hội Thánh trần gian và xây dựng nước Chúa.

- Đồng thời xin ơn thêm lòng yêu mến Chúa Phục Sinh, yêu mến gắn bó với Hội Thánh của Chúa phục sinh và ơn trung thành để hoàn tất ơn gọi của Chúa đến cùng.

---------------------------------

 

29/6-125: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ


SUY NIỆM

 

Phêrô và Phaolô hai tính khí, hai nhân cách khác nhau: một người xuất thân từ dân chài, thật thà 29/6-125


Phêrô và Phaolô hai tính khí, hai nhân cách khác nhau: một người xuất thân từ dân chài, thật thà chất phác nhưng đôi phần nóng nảy. Một người xuất thân là một trí trức trẻ học rộng tài cao thuộc đẳng cấp biệt phái và là công dân của Rôma. Cả hai có kinh nghiệm sống và gặp gỡ Thiên Chúa theo lịch sử riêng của mỗn người và được Thiên Chúa chiếm hữu biến đổi để trở nên đá tảng và cột trụ của Giáo hội.

Phêrô: Quá khứ là dân chài lưới với chiếc thuyền nhỏ rong ruổi khắp hồ Tibêriat đã trở nên kẻ chài lưới người theo ý muốn của Thiên Chúa, hôm nay là hoa tiêu trên chiếc tàu Giáo hội xuôi ngược đại dương trần gian. Phêrô đã được Chúa Giêsu biến đổi từ một con người tầm thường có lịch sử với những đặc điểm bình thường như bao người khác. Đó là Phêrô của sự tính toán: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27). Sự tính toán của con người ấy đã khiến ông ngăn cản bước đi cứu chuộc nhân loại của Đức Kitô và bị Ngài quở mắng: “Satan, hãy lui ra sau Thầy! Anh cản lối Thầy. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23b); Phêrô của nóng nảy, của yếu đuối, của phản bội: chối Thầy ba lần (x. Lc 22,54-62). Kinh nghiệm được tha thứ khiến ông trở nên biết chia sẻ lòng thương xót của Chúa với anh em như Chúa Giêsu đã nói: “Phần con, hỡi Phêrô, sau khi đã trở lại, con hãy củng cố các anh em của con” (Lc 22,32). Nhưng cũng Phêrô đầy ơn Chúa xác tín tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Trước niềm tin sắt son này, Phêrô được Chúa đặt làm nền tảng Giáo hội: “Con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy, và cử địa ngục sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18); Phêrô tín thác hoàn toàn vào Đức Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Phêrô gắn bó với tình yêu của Thầy trên hết: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15.16.17); Phêrô của sự cương quyết thuộc về Thiên Chúa và chỉ vâng lời và làm chứng về Ngài: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta … về những sự kiện đó (Đức Kitô đã sống lại), chúng tôi xin làm chứng …”(Cv 5,29.32). Ngài đã làm chứng cho đến chết bằng cái chết bị đóng đinh ngược trên đỉnh đồi Vaticăn.

Phaolô: hôm qua còn ghét và truy bắt “tà đạo Kitô”, một tay bách hại đạo khét tiếng như chính ông đã nhìn nhận (Gl 1,13), và là người tuân giữ nghiêm ngặt luật Do thái (Gl 1,14). Phaolô còn liên quan trực tiếp đến vụ ném đá đến chết Stêphanô – Phó tế tử đạo tiên khởi (Cv 7,59). Phaolô của ngày hôm nay lại càng nổi tiếng hơn bao giờ hết vì là người nhiệt thành yêu mến và truyền bá Đức Kitô và sẵn sàng chết cho niềm tin đó. Phaolô xác tín niềm tin của mình vào Đức Kitô: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1,12), tin và loan báo Đức Kitô là lẽ sống của Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin mừng” (1Cr 9,16) và chính ông để tình yêu Đức Kitô chiếm hữu “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), Phaolô chỉ sống vì Đức Kitô và trở nên một với Đức Kitô: “Không còn là tôi sống nữa, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Trong Ngài, Phaolô gắn bó với tình yêu Thiên Chúa không gì có thể chia ly: không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,39). Những bước chân của Phaolô là bước chân gieo hạt giống Tin mừng cho anh em dân ngoại như là ơn gọi đặc biệt của ông (Gl 1,16). Phaolô chứng nhân Tin mừng Chúa Kitô cho đến khi đầu ông rơi, máu ông đổ vì Tin mừng ở ngoài thành Rôma.

Phêrô và Phaolô, hai người hai tính khí, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội theo thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Thanh gươm ngày nào của Phaolô giơ cao bách hại đạo Chúa nay thế bằng Tin mừng cứu độ giương cao để không ngừng khai quang truyền giáo cho Đức Kitô. Giọt nước mắt thống hối chân thành vì đã phản bội Thầy của Phêrô xưa và chìa khóa Nước Trời được Chúa trao cho ông luôn hiện diện và mở toang Nước Trời cho những ai chân thành sám hối.

Noi gương như Phêrô – người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sự sám hối sau khi phản bội Thầy; như Phaolô nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài …, và chỉ một lần ngã ngựa đớn đau, ông đã gặp gỡ Ngài và đời ông biến đổi theo thánh ý Thiên Chúa và trở nên mạnh mẽ trong đức tin. Amen.

---------------------------------

 

29/6-126: Lễ Thánh Phêrô và Phaolô


(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

 

Hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Xin được nêu lên 29/6-126


Hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Xin được nêu lên mấy điểm sau đây để chúng ta cùng nhau suy niệm:

1. Phê-rô được chọn làm Tông đồ trưởng

Phê-rô tên thật là Si-mon, là một ngư phủ miền Galilêa, là một trong những môn đệ đầu tiên được Đức Giêsu mời gọi bước theo Ngài. Trong thời gian đi theo Đức Giêsu, Phê-rô luôn tỏ ra là người nhiệt thành, lanh lợi, phản ứng đầu tiên và trả lời nhanh nhất. Vì bản tính bộc trực, cộng với sự yếu đuối của con người nên Ông đã không tránh khỏi những lầm lỗi: như khi can ngăn Thầy mình bước vào cuộc khổ nạn, khi chối Thầy một cách hèn nhát. Nhưng đồng thời Phê-rô cũng luôn tỏ ra là người trung thành và yêu mến Thầy mình, sẵn sàng lắng nghe và chấp nhận sửa lỗi. Chính Đức Giêsu đã thấy được sự chân thành của ông. Vì thế, khi quyết định thiết lập Giáo Hội, Ngài đã trao chức vụ làm tông đồ trưởng cho Phê-rô. Trước khi trao nhiệm vụ đó, Đức Giêsu đòi Phê-rô phải xác tín về tình yêu đối với Ngài. Ngài hỏi Phê-rô ba lần rằng: “Con có yêu mến Thầy không”. Phê-rô đã không ngần ngại trả lời ba lần rằng “có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Ba lần hỏi, ba lần thưa là thể hiện sự chắc chắn về một vấn đề. Ngay sau khi nghe lời xác tín về lòng mến của Phê-rô, Đức Giêsu trao cho Ông nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài (x. Ga 21,15-19). Cũng trong tinh thần đó, sau khi Phê-rô tuyên tín: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giêsu đã trao cho ông chìa khóa nước trời với quyền cầm buộc và tháo cởi. Đồng thời, Ngài cũng khẳng định với Phê-rô rằng: “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được” (x. Mt 16,13-19).

Từ khi nhận nhiệm vụ “chăn dắt đoàn chiên”, từ khi lãnh nhận “chìa khóa nước trời”, Phê-rô đã làm hết khả năng để chu toàn bổn phận mà Thầy trao phó. Cụ thể, sau ngày lễ Ngũ Tuần, Phê-rô đã công khai rao giảng Tin mừng, làm chứng về sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Bài giảng đầu tiên của Ngài đã thu hút trên 3000 người trở lại. Khi bị cấm không được rao giảng về Danh Đức Giêsu, Ngài đã thẳng thắn nói rằng: “Thà vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời”(Cv 5,29). Chính vì trung thành với việc rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu mà Phê-rô đã nhiều lần bị bắt, bị bỏ tù và cuối cùng bị giết chết. Bài đọc I hôm nay cho chúng ta biết: “Phêrô cũng bị bắt và bị tống ngục” (x. Cv 12,1-11). Nhưng Phê-rô đã được cứu thoát một cách lạ kỳ. Sau khi giam Phê-rô trong ngục, họ cho người canh gác Ngài một cách cẩn thận. Nhưng rồi, nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Phê-rô đã được cứu thoát một cách ngoạn mục. Chính Thiên thần đã mở hết xiềng xích và dẫn Phê-rô ra ngoài. Phê-rô khẳng định việc đó là do Chúa làm. Ngài nói: “Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái”. Được thả ra, Phê-rô lại tiếp tục sứ vụ của mình. Tiếp tục sứ vụ tức là tiếp tục chấp nhận bắt bớ, tù tội.Phê-rô cùng các Tông đồ khác đi khắp nơi loan báo Tin mừng và làm chứng cho Chúa. Cuối cùng, đến thời hoàng đế Nê-rô, năm 64, Phê-rô bị giết chết bằng hình khổ thập giá. Ngài xin được đóng đinh ngược lại vì Ngài cho rằng mình không xứng đáng giống như Thầy Giêsu.

2. Phao-lô được chọn làm Tông đồ dân ngoại

Trước khi trở lại, Phao-lô là một người theo đạo Do Thái, mang tên là Sao-lô, rất trung thành với truyền thống của cha ông. Vì vậy, Phao-lô rất ghét những người kitô hữu. Ông đã tham gia các cuộc truy quét, bắt bớ, giết hại các kitô hữu. Ông đã tán thành việc ném đá ông Têphanô. Một hôm, trên đường đi bắt bớ các kitô hữu tại Đa-mát, Phaolô đã bị Đức Giêsu chinh phục. Chính Phaolô đã tường thuật lại biến cố đó trong sách Công Vụ Tông đồ: Ngài bị một luồng ánh sáng chan hòa từ trời bao phủ. Rồi Ngài bị ngã ngựa. Trong lúc đó, Đức Giêsu cho Phao-lô biết, bắt bớ các kitô hữu là bắt bớ Giêsu Nazaret. Rồi Phao-lô được chỉ dẫn đi vào Đa-mát gặp ông Anania để lãnh nhận Phép Rửa(x. Cv 22, 3-16). Từ đó, Phao-lô trở thành vị tông đồ cho dân ngoại. Nhưng khi mới trở thành kitô hữu, Ngài đã gặp rất nhiều khó khăn: người Do thái thì phận nộ, các kitô hữu và tông đồ cũng chưa thực sự tin nơi Phao-lô (x. Cv 9,26; Gal 1, 22-23).

Dầu vậy, Phao-lô vẫn kiên trì vượt qua khó khăn, dùng đời sống của mình để thuyết phục các kitô hữu và các Tông đồ. Đồng thời, Ngài quyết tâm dùng hết tài năng và sức lực của mình để rao giảng Tin mừng cho dân ngoại. Trong thời gian 30 năm, Ngài đã thực hiện ba cuộc hành trình truyền giáo lớn (Hành trình thứ nhất khoảng từ năm 45 – 49; hành trình thứ hai khoảng từ năm 50 – 52; hành trình thứ ba khoảng từ năm 53 – 58; năm 60, Ngài bị giải về Rôma và chịu tử đạo), đã thành lập nhiều cộng đoàn kitô hữu như: Antiokia, Cilicia, Athens, Corintô, Galata, Thessalonica, Roma… Ngài kể lại hành trình truyền giáo đầy gian nan trong thư 2Cr như sau: “Bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!”(x. 2Cr 11, 23-28).

Những khó khăn mà Ngài đã vượt qua, những thành quả mà Ngài đạt được chính là nhờ niềm tin và sự gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Ngài nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(x. Gal 2,20). Tình yêu của Ngài đối với Đức Kitô bền chặt đến nỗi như Ngài thốt lên: “không có gì có thể tách ra được” (x. Rm 8, 35-39).

Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phao-lô còn cho Ông Timôthê biết: Thiên Chúa đã giúp Ngài để Ngài giảng đạo cho dân ngoại. Nhờ Chúa mà Ngài thoát được miệng sư tử. Ngài đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa. Ngài đã chạy đến cùng và giữ vững đức tin. Giờ đây, Ngài đang chờ đợi triều thiên của Thiên Chúa ban cho Ngài (x. 2Tm 4, 6-8. 17-18). Vào năm 67, Thánh Phao-lô đã lãnh nhận triều thiên tử đạo, Ngài bị chặt đầu bởi hoàng đế Nerô ở Rôma.

3. Sứ điệp ngày lễ hôm nay

Qua cuộc đời và sự nghiệp của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô mời gọi chúng ta:

Thứ nhất, chúng ta cảm tạ Chúa đã lập nên Giáo Hội và không ngừng gìn giữ Giáo Hội vượt qua mọi sóng gió của dòng đời. Suốt hơn 2000 năm qua, Giáo Hội luôn bị bách hại bằng nhiều cách khác nhau. Nhưng Giáo Hội vẫn tồn tại và phát triển đúng như lời Đức Giêsu nói với Phê-rô: “Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được.”

Thứ hai, chúng ta hãy biết ơn Giáo Hội. Vì Giáo Hội là mẹ sinh ra chúng ta qua Bí tích Rửa tội, thánh hóa chúng ta qua Bí tích Giao Hòa, nuôi dưỡng chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, liên kết chúng ta qua Bí tích Hôn phối và Truyền chức, dẫn dắt chúng ta về Thiên đàng qua Bí tích Xức Dầu…Vì thế, chúng ta phải luôn luôn biết ơn Giáo Hội.

Thứ ba, chúng ta tin tưởng và cộng tác với ơn Chúa để được biến đổi mỗi ngày. Vì nhờ ơn Chúa mà Phê-rô từ một người dân chài dốt nát, một người chối Thầy…Phê-rô đã được biến đối thành vị Tông đồ trưởng. Nhờ ơn Chúa mà Phao-lô từ một người bắt bớ Giáo Hội đã được biến đổi thành vị Tông đồ dân ngoại. Cho nên, mỗi khi chúng ta yếu đuối, sai lỗi, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Chúa và để Chúa biến đổi chúng ta thành người tốt để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi chúng ta.

Thứ tư, chúng ta hãy noi gương hai Thánh Tông đồ biết dùng khả năng, trí tuệ, sức khỏe và thời giờ của mình để làm vinh danh Chúa và phục vụ Giáo Hội. Đặc biệt, mỗi người hãy trở nên sứ giả loan báo Tin mừng cho những người xung quanh.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn các tông đồ và các đấng kế vị theo ý Chúa để tiếp tục sứ mạng loan báo Tin mừng. Nhờ lời chuyển cầu của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô, xin cho mỗi chúng con luôn biết vâng phục giáo huấn của các ngài, đồng thời biết cộng tác với các ngài để làm cho Nước Chúa lan rộng khắp nơi. Amen.

---------------------------------

 

29/6-127: Khuôn mặt lãnh đạo


(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)

 

Xưa nay có những người đã qua đời hằng bao nhiêu năm, hằng bao thế kỷ, mà những công việc 29/6-127


Xưa nay có những người đã qua đời hằng bao nhiêu năm, hằng bao thế kỷ, mà những công việc xưa kia họ đã thực hiện vẫn còn thời sự, có gía trị gây ảnh hưởng nơi con người. Họ là những vị anh hùng, những khuôn mặt lãnh đạo.

Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô thuộc vào những người như thế trong Hội Thánh Công Giáo.

Thánh Phêrô theo Kinh Thánh thuật kể lại là khuôn mặt lãnh đạo do thiên nhiên phú bẩm. Chúa Giêsu khi đi rao giảng nước Thiên Chúa đã tuyển chọn và cắt cử Ông làm người thủ lãnh nhóm 12 Tông đồ đầu tiên của Chúa ngay khi còn sinh thời. Ông đã đại diện anh em tông đồ Chúa Giêsu tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Và Kinh Thánh cũng tường thuật những yếu điểm của Phêrô.

Chúa Giêsu báo trước chính ngài sẽ phải chịu đau khổ. Theo tính con người, Phêrô can ngăn Thầy mình tìm cách tránh xa con đường đó cho khỏi phải đau khổ. Nhưng Chúa Giêsu lớn tiếng mắng Ông nặng lời cho đó là mưu chước của qủy dữ satan.

Nơi sân đường xử án nhà Thầy cả thượng phẩm, Phêrô đã chối thầy mình, Chúa Giêsu: tôi không biết người đó là ai, tới ba lần. Nhưng Chúa Giêsu không vì thế bỏ rơi Phêrô, và Phêrô cũng không bỏ Thầy mình.

Trái lại, sau khi sống lại, bên bờ hồ Genezareth Chúa Giêsu đã trao năng quyền thiêng liêng cho Phêrô: Con hãy chăn dắt đoàn chiên của Thầy. Hãy củng cố đức tin anh em con!, vì lòng gắn bó của Ông với Chúa Giêsu: Thầy biết con yêu mến Thầy.

Đức tin tràn đầy lòng yêu mến hàm chứa sức mạnh cao vời tựa như sóng thần giúp Phêrô ra đi làm chứng rao giảng về Thầy mình là Chúa Giêsu bất chấp những nguy hiểm tù tội, vượt biển sóng gió, lẩn trốn. Phêrô đã củng cố đức tin của anh em mình, của các tín hữu Hội Thánh Chúa thuở ban đầu bằng cách sống đi trước, sống chấp nhận gian khổ tù tội..

Khi bị lên án hành quyết đóng đinh vào thập tự ở Roma, nơi Thánh nhân tụ tập lập cộng đoàn Hội Thánh Chúa, theo truyền thuyết thuật lại, Phêrô đã xin cho được đóng đinh ngược đầu xuống đất, để không bị lẫn lộn với Chúa Giêsu cũng đã bị đóng đinh vào thập gía.

Chắc chắn, khi bị tử hình, Phêrô đã không biết được rồi sẽ ra sao với con đường đời sống Hội Thánh Chúa ở trần gian. Vì Hội Thánh chỉ mới trong giai đoạn tiên khởi chưa có chân đứng vững chắc trong xã hội.

Nhưng Phêrô có niềm tin tưởng: Người quyết định không phải là mình, nhưng chính là Chúa Giêsu!

Thánh tông đồ Phaolô cũng có đời sống đức tin của một khuôn mặt lãnh đạo như Phêrô. Kinh Thánh thuật lại Phaolô đến với Cộng đoàn Hội Thánh Chúa Giêsu trễ muộn sau này, khi Chúa Giêsu đã về trời, qua con đường vòng nguy hiểm.

Phaolô là người có học thức cao sâu rộng trong xã hội thời đó. Ông là người thuộc hệ phái Phariseo trong đạo Do Thái. Ông thuộc vào những người cực đoan, cương quyết ra tay truy lùng bách hại những ai tin vào Chúa Giêsu, tìm cách phá hoại Hội Thánh Chúa ở vùng Gierusalem sang các vùng nước lân cận.

Trên đường đi phá hoại Hội Thánh Chúa, Chúa Giêsu đã hiện ra với Ông. Ánh sáng chói lòa từ trời cao chiếu xuống khiến ông bị ngã ngựa, trở thành mù lòa. Qua đó Chúa Giêsu đã gặp gỡ Phaolô.

Phaolô đã nghe tiếng Chúa Giêsu nói với Ông. Từ đó ông được mặc khải về đức tin vào Chúa mà Phêrô và các Tông Đồ khác rao giảng. Và từ đó Ông trở lại thành hăng say nồng nhiệt bênh vực cho Chúa Giêsu

Phêrô và các Tông đồ khác rất do dự nghi ngại khi thấy Phaolô đến trình diện gia nhập đoàn tông đồ Chúa Giêsu, để rao giảng làm chứng về Chúa Giêsu. Phaolô hiểu nhận ra điều này. Ông cảm nhận thấy mình được Chúa kêu gọi ra đi ngoài biên giới nước Do Thái để rao giảng làm chứng cho Chúa Giêsu.

Vì thế, Phaolô bất chấp những gian nan thử thách đầy nguy hiểm cho mạng sống, vì vượt biển đường dài xa nguy hiểm, bị đói khát, bị bắt bớ tù tội lên án, vẫn một lòng dấn thẩn cho Chúa Giêsu và Hội Thánh của người.

Nhờ có kiến thức học cao sâu rộng và tài hùng biện, Phaolô không sợ khi phải tranh luận biện hộ cho đức tin vào Chúa nơi công đường, nơi dân chúng khắp vùng Tiều Á từ nước Do Thái sang tận vùng Balkan bên Âu Châu. Khi đến Roma, Phaolô đã can đảm mạnh dạn trình bày giáo lý của Chúa Giêsu nơi tòa án tối cao của nhà vua.

Thánh Phaolô vì đức tin vào Chúa, bị lên án hành quyết chém đầu. Trong tin tưởng phó thác vào Chúa Ông đã sẵn sàng đặt đầu mình nghiêng ngả trên trụ chịu chém với tâm tình: Sự gì Chúa đã bắt đầu, ngài sẽ tiếp tục thực hiện. Tôi cũng không biết được sẽ như thế nào. Chúa luôn luôn là người quyết định thi hành!

Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, nhất là Thánh Phaolô đã viết để lai cho Hội Thánh Chúa, cho nhân loại từ hai ngàn năm nay kho tàng qúy báu những bức thư mục vụ giáo lý về Đức tin vào Chúa.

Hai Thánh nhân là hai hình ảnh nổi bật nhất, cùng để lại những dấu ấn khắc ghi trong lịch sử xây dựng Hội Thánh Chúa ở trần gian.

Thánh Phêrô được Chúa Giêsu trao cho năng quyền đứng đầu Hội Thánh qua hình ảnh chiếc chìa khóa tháo cởi và khóa lại.

Thánh Phaolô được Chúa hiện ra sai đi là Tông đồ cho mọi dân nước trên thế giới qua đời sống và giáo lý Ông viết để lại.

Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông đồ Chúa Giêsu là những khuôn mặt lãnh đạo đạo tinh thần trong Hội Thánh đầy lòng tin tưởng phó thác vào Chúa với tầm nhìn suy nghĩ chiến lược sâu rộng cho hôm nay và ngày mai.

---------------------------------

 

29/6-128: Trung thành tuân giữ


(Suy niệm của Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.)

 

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Phêrô và Phaolô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý 29/6-128


Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Phêrô và Phaolô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban cho chúng ta được vui mừng hoan hỷ, nhân ngày đại lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Chính nhờ các ngài, mà Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, thì xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Thánh Phêrô và thánh Phaolô không giống nhau về tính khí, cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phaolô quả là có một không hai trong Kitô giáo. Tuy nhiên, hai vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức Kitô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô, tại Rôma: có lẽ thánh Phêrô năm 64 và thánh Phaolô năm 67.

Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, bởi vì, các ngài được Chúa tuyển chọn cách đặc biệt, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô nói: Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, bởi vì, các ngài đã dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho những gì các ngài giảng dạy, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Một khi các ngài đã đi theo đường công chính, vì tuyên xưng và chết cho chân lý, thì giờ đây, các vị tử đạo này được thấy: thể hiện điều các ngài đã rao giảng. Một ngày kính chung cuộc tử đạo của hai vị Tông Đồ: Thánh Phêrô đi trước, rồi thánh Phaolô theo sau, hôm nay là một ngày thánh, vì đã được ghi bằng máu của các Tông Đồ.

Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, cho dẫu, bị bắt bớ, bị bách hại, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy: Các Tông Đồ bị tống ngục, nhưng, Chúa đã giải thoát họ, như lời thánh Phêrô nói: Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Dothái mong muốn tôi phải chịu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 33, vịnh gia cũng cho thấy: Chúa đã giải thoát tôi khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy, ắt sẽ được Chúa ban thưởng xứng đáng, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô nói: Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói với thánh Phêrô: Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội Thánh, nên thánh Phêrô xứng đáng được nghe Chúa nói: Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã lãnh nhận chìa khóa này. Do đó, địa vị nổi bật của thánh Phêrô được đề cao, vì chính ngài tiêu biểu cho đặc tính phổ quát, và duy nhất của Hội Thánh. Ước gì khi mừng lễ hai thánh Tông Đồ, chúng ta biết quý chuộng đức tin, đời sống, công lao khó nhọc và những khổ hình của các ngài, biết quý chuộng những lời các ngài tuyên xưng, và những điều các ngài rao giảng, hầu chúng ta có thể trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

29/6-129: Cảm nhận một tình yêu

 

Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là hai cột trụ của Giáo hội, hai khuôn mặt sáng giá nhất và 29/6-129


Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là hai cột trụ của Giáo hội, hai khuôn mặt sáng giá nhất và là những chứng nhân đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh. Cả hai vị đều đã được vực dậy tư một quá khứ đầy yếu đuối, lầm lỗi và sau khi được biến đổi, các ngài đã sống hoàn toàn cho Chúa và tha nhân. Hai vị đã hoạt động rất đắc lực cho chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Các Ngài đã trở nên biểu tượng hiệp nhất trong giáo hội dù rằng hai vị có rất nhiều điểm khác nhau: tính khí, môi trường giáo dục, trình độ học vấn, đường hướng hoạt động … nhưng các Ngài đã gặp nhau trong việc cảm nhận tình yêu của Đức Ki tô. Tình yêu Đức Ki tô chính là cửa ngõ để tâm hồn các Ngài gặp được Đức Ki tô và là động lực cho mọi suy tư và hành động của các Ngài.

Thực vậy, Kinh Thánh cho chúng ta thấy tông đồ trưởng Phêrô đã từng đi đến tận cùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba lần trong cùng một đêm. Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình, Chúa nhìn xuống Phêrô, Phê-rô chột dạ, nhớ lại lời Thầy: "Nội trong đêm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần". Tức thì, Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng. Lòng khiêm nhường thẳm sâu và sám hối chân thành đã cho ông kinh nghiệm tuyệt vời về sự yếu hèn của ông và tình yêu vô biên Thiên Chúa đã dành cho ông. Còn Phaolô, một Pharisêu nhiệt thành đã từng hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa; đã đồng loã với những người quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stêphanô. Thế nhưng, sau khi ngã ngựa đớn đau trên đường Đa mát, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Nhưng thật ra, tâm hồn ông lại sáng. Chúa Giêsu Phục Sinh đã đi sâu vào nội tâm ông làm cho ông thấy và thấy rất rõ: Đức Giêsu, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là sự thật mà ông phải chấp nhận. Một sự thật mà từ nay ông phải làm chứng bằng chính mạng sống của mình. Biến cố Đa mát đích thực là một dấu ấn ân thánh làm cho Phao lô được tái sinh trong đức tin, trong tình yêu của Đức Ki tô Phục Sinh.

Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của Phê rô và Phao lô. Chúa đã dung muôn ngàn cách để biến đổi cuộc đời các Ngài. Chúa đã cho các Ngài những cơ hội để làm lại cuộc đời: “Một khi đã trở lại, hãy củng cố đức tin cho anh em con”. Tình yêu ấy đã trở thành động lực của mọi hoạt động, thành tiêu chí để lượng giá mọi sự và là mục đích của cuộc đời các Ngài: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô...", "Không có gì tách tôi khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô". Chính tình yêu ấy đã biến các Ngài thành đầy tớ và la tông đồ của Đức Ki tô: "Vâng lời Thầy con xin thả lưới", "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".

Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô hôm nay cho chúng ta một niềm xác tín: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trong sự yếu hèn thiếu sót của chúng ta. Tình yêu đó không đòi chúng ta chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta, trái lại Chúa muốn sử dụng tất cả những yếu đuối của chúng ta để làm nổi bật lên sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài. Điều quan trọng là như hai cột trụ của giáo hội, chúng ta cần ý thức thân phận yếu đuối bất toàn của mình để thành tâm sám hối, tin tưởng cậy dựa vào sức mạnh của ân sủng hầu được biến đổi mỗi ngày. Đặc biệt xin cho chúng ta cũng có được kinh nghiệm về sự yếu đuối của mình và về tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa để chúng ta cũng có thể quảng đại, nhẫn nại với những yếu đuối lầm lỗi của nhau, cảm thông tha thứ và đón nhận nhau, cho nhau những cơ hội để làm lại cuộc đời và cùng nhau làm chứng về tình yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa cho thế giới hôm nay.

--------------------------------- 

 

29/6-130: Lễ Thánh Phêrô và Phaolô


(Suy niệm của Lm. J.P.)

SUY NIỆM

 

Ngày hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội hân hoan mừng kính trọng thể lễ hai thánh Tông đồ 29/6-130


Ngày hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội hân hoan mừng kính trọng thể lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Mừng lễ hôm nay, chúng ta cùng tìm hiểu cuộc đời của các Ngài để thêm lòng yêu mến các Ngài và để có thể bắt chước mẫu gương loan báo Tin Mừng của các Ngài.

Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu về thánh Phêrô. Thánh Phêrô là người xuất thân từ nghề đánh cá, ít học, tính khí nóng nảy thẳng thắn và nhiệt thành. Một đặc điểm nổi bật của Thánh Phêrô là luôn sống chân thật. Chỉ có Thánh Phêrô dám nói thẳng ra những gì ngài suy nghĩ trong lòng. Chính vì thế trong Tin Mừng chúng ta thấy có những lời phát biểu đơn sơ của ngài. Chỉ có Thánh nhân mới dám nói lên ý định cản ngăn không cho Chúa Giêsu lên Giêrusalem chịu chết. Và lời nói tệ nhất trong cuộc đời thánh nhân là lời phủ nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Tại dinh thượng tế Caipha, khi Chúa Giêsu bị xét xử, một đầy tớ gái của Caipha nói Phêrô thuộc nhóm Chúa Giêsu thì Phêrô đã chối công khai tới ba lần. Có thể nói Thánh Phêrô là người có nhiều nhất những sai phạm về lời nói so với các tông đồ khác, thậm chí những lỗi lầm đó rất nặng đến độ đáng phải bị trừng phạt. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn yêu thương ngài. Chúa Giêsu vẫn tin tưởng và yêu mến Phêrô và đặt thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh vì Chúa Giêsu tin tưởng vào khả năng lãnh đạo, lòng trung thành và yêu mến của thánh Phêrô.

Ðiều đó cho thấy Thiên Chúa trước sau như một, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng vì con người, ngay cả với những người tội lỗi, Thiên Chúa hằng ngày đợi chờ những người tội lỗi, ăn năn sám hối trở về với ngài. Ðối với Thiên Chúa, dù có lỗi nặng hay lỗi nhẹ, nhiều hay ít không quan trọng, điều quan trọng là phải có một tấm lòng ăn năn sám hối chân thành và biết sửa đổi đời sống thì chắc chắn Thiên Chúa tha thứ, xóa bỏ mọi lầm lỗi.

Khi Chúa Giêsu trao cho thánh Phêrô vị trí đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu đã hết lòng tin tưởng ở ngài. Còn về phía thánh nhân, sau khi khóc lóc sám hối thảm thiết vì mình đã chối Chúa Giêsu ba lần, thánh nhân đã thay đổi hoàn toàn đời sống. Phêrô cảm nhận được tình thương tha thứ của Chúa Giêsu, thánh nhân luôn hết lòng tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa. Và với lòng yêu mến Chúa Giêsu, thánh nhân đã can đảm lên đường loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh và đã đón nhận hồng phúc tử đạo tại Rôma năm 64 khi chịu chết trên cây thập giá như Thầy Chí Thánh của mình. Thế nhưng vì thấy mình không xứng đáng với Thầy Giêsu của mình, Phêrô đã xin lý hình cho mình được đóng đinh ngược đầu xuống đất.

Tiếp theo, chúng ta cùng tìm hiểu về thánh Phaolô. Cuộc đời thánh Phaolô cũng được tình thương Chúa chở che. Chúa Giêsu đã yêu thương và kêu gọi thánh Phaolô làm tông đồ dân ngoại vì Chúa muốn dùng tài năng của Phaolô vào việc loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô là một người tài năng, có trí thông minh, có vốn liếng kiến thức uyên bác về Kinh Thánh vì được học hành đàng hoàng tử tế. Ngài có khả năng giảng dạy giáo lý một cách mạch lạc và dễ hiểu đối với mọi người. Kể từ biến cố "té ngựa" trên đường đi Ða-mát, cuộc đời của Phaolô đã thay đổi hoàn toàn. Từ một người bắt bớ các Kitô hữu ngài đã trở thành người loan báoTin Mừng cứu độ. Ngài sẵn sàng quên mình để đi đến với những người ngoài Do-thái giáo và tiếp xúc với họ. Dù được biết Chúa Giêsu muộn hơn nhưng những đóng góp của ngài cho Giáo Hội thì không thua kém ai. Quả thật, lòng yêu mến Chúa chân thành là động lực thúc đẩy ngài đi đến với dân ngoại. Thánh nhân đã ý thức được sự hoạt động của Chúa khi ngài nói: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi". Giáo Hội mà ngài xây dựng là cộng đoàn gồm nhiều người thuộc nhiều quốc gia, chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá khác nhau, thế nhưng họ có chung một niềm tin và lòng yêu mến vào Chúa Kitô. Cuối cùng, ngài đã đón nhận hồng phúc tử đạo tại Rôma năm 67 để nói lên lòng trung thành và yêu mến Chúa Giêsu của mình.

Mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô hôm nay, chúng ta cùng cảm phục Thiên Chúa đã thực hiện một sự kết hợp kỳ diệu giữa hai con người có nhiều khác biệt, đó là Phêrô và Phaolô. Thiên Chúa lập nên Giáo Hội từ những con người có sự khác biệt để họ có thể hợp tác và bổ túc cho nhau.

Quả thật, mỗi người trong Giáo Hội dù khác nhau về trình độ, giai cấp, tính tình nhưng luôn có chung một tấm lòng. Ðó là tấm lòng yêu mến Chúa và yêu mến Giáo Hội. Khởi đi từ nền tảng lòng yêu mến Chúa và yêu mến Giáo Hội, mọi người trong Giáo Hội có thể đồng tâm hiệp lực với nhau để làm việc và sẽ có thể vượt qua được mọi khó khăn gian khổ và sẽ có thể làm được những điều kỳ diệu vượt quá sức tưởng tượng.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, ngày hôm nay chúng con mừng lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết noi gương các Ngài khi cùng cộng tác với Chúa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng để chúng con có thể đón nhận phần thưởng là hạnh phúc Nước Trời. Chúng con có thể thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng khi tham gia vào những sinh hoạt tông đồ của cộng đoàn giáo xứ. Xin Chúa gia tăng lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo Hội nơi mỗi người chúng con để chúng con có thể cộng tác với nhau xây dựng cộng đoàn giáo xứ trở thành cộng đoàn truyền giáo, hiệp nhất và yêu thương. Amen.

---------------------------------

 

29/6-131: Lễ Thánh Phêrô và Phaolô


(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

NỀN TẢNG VÀ CỘT TRỤ XÂY TÒA NHÀ GIÁO HỘI

 

Ngày 29-06 hằng năm được chọn là ngày lễ kính trọng thể hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai 29/6-131


Ngày 29-06 hằng năm được chọn là ngày lễ kính trọng thể hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai vị Tông đồ được mừng chung một ngày. Đây là điều đặc biệt. Tuy nhiên, cuộc đời, ơn gọi và sứ vụ của hai vị hoàn toàn khác nhau. Các ngài được Giáo Hội tôn vinh như là nền tảng và cột trụ của Giáo Hội.

Bởi vì, Phêrô được đặt làm người lãnh đạo Giáo Hội. Phaolô là người bảo vệ Giáo Hội bằng khả năng nghiên cứu và lời rao giảng.

Tuy đường lối và tính tình khác nhau, nhưng các ngài đã cùng nhau vươn tới mục đích, đó là xây dựng sự hiệp nhất và loan báo ơn cứu chuộc cho mọi người.
Vì thế, mỗi khi mừng lễ hai vị thánh đặc biệt này, chúng ta lại có dịp tìm hiểu nhiều hơn về thân thế, con người và sự nghiệp của các ngài để noi gương và bắt chước.

1. Hai con người, hai khởi điểm

Trước tiên, chúng ta cùng nhau khám phá con người và ơn gọi cũng như sứ vụ của Phêrô:

Nói đến Phêrô, chúng ta nghĩ ngay đến sự kiện Đức Giêsu đi dọc bờ Biển Galilê và gọi bốn môn đệ đầu tiên, Phêrô là một trong 4 môn đệ đó.

Chỉ một lời mời gọi: “Hãy theo Thầy”, ông đã để lại đằng sau mọi sự để đi theo Ngài. Vì làm nghề chài lưới, nên Phêrô được biết đến như là một người bình dân học vụ. Chính từ việc xuất thân rất bình thường này đã hé mở cho chúng ta biết tính cách của ông. Ông là một người bộc trực, nóng nảy và hay thay đổi. Ông cũng là một con người thiếu lập trường, và nhát đảm. Điều này dễ hiểu, vì: xuất thân từ nghề ngư phủ, nên ông phải thăm dò và nương theo mực nước biển lên xuống để hành nghề, nên nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách của ông.

Từ khi được chọn làm môn đệ, ông được Thầy Giêsu rất ưu ái. Vì thế, ông được nằm trong số 3 môn đệ thân tín với Đức Giêsu và được diễm phúc chứng kiến những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế.

Ngoài ra, Phêrô còn được biết đến qua những biến cố như: dám cả gan ngăn cản Thầy lên Giêrusalem để chịu chết. Ông cũng là người duy nhất can đảm đứng lên đại diện anh em tuyên tín Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống. Phêrô cũng rất anh hùng khi dám vung gươm chém đứt tai tên đầy tớ vị thượng tế đến bắt Đức Giêsu trong Vườn Cây Dầu.

Đỉnh điểm, đó là vụ “scandal” trối Thầy tới 3 lần vì sợ bị liên lụy. Cuối cùng, chính là việc Đức Giêsu đã tin tưởng Phêrô và đã trao cho ông sứ vụ lãnh đạo là đứng đầu Giáo Hội.

Kết thúc hành trình tại thế, Phêrô đã dùng chính cái chết qua việc bị đóng đinh ngược để bảo về chân lý Tin Mừng và niềm tin vào Thầy Giêsu.

Thứ đến, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về cuộc đời, ơn gọi và sứ vụ của Phaolô:

Ngược lại với Phêrô, toàn bộ Tin Mừng không nói gì về Phaolô. Nhưng sách Công Vụ Tông Đồ thì gần như nói về ngài và các cuộc hành trình truyền giáo của ngài nhiều nhất.

Cũng như Phêrô, nếu người ta biết đến vị lãnh đạo Giáo Hội với cái vụ “scandal” là trối Chúa, thì Phaolô được biết đến với sự hung ác đến tàn bạo khi sẵn sàng ra tay giết hại các Kitô hữu.

Sự kiện làm cho Phaolô biến đổi không phải là hành động nhẹ nhàng qua ánh mắt của Chúa như với Phêrô, mà là một cú ngã ngựa đau điếng dẫn đến việc bị mù.

Mặt khác, Phaolô không được diễm phúc sống cùng thời với Đức Giêsu và được ngài dạy dỗ như nhóm 12. Tuy nhiên, Phaolô lại được đặc ân là gặp gỡ trực tiếp với Đấng Phục Sinh là chính Đức Giêsu Kitô.

Trước khi được biến đổi, Phaolô được biết đến là một con người trổi trang về thế giá. Ngài xuất thân từ một gia đình thượng lưu, nên ngay từ nhỏ, đã được cho ăn học đàng hoàng, vì thế, khi lớn, Phaolô là một người học thức sâu rộng. Kiến thức Kinh Thánh của Phaolô rất uyên thâm vì được học cùng bậc thầy Kinh Thánh nổi tiếng là Gamaliel.

Trước khi được Chúa hoán cải, ông là một người đối đầu với các Tông đồ, với những người tin Chúa. Nói chung, ông ghét cay ghét đắng danh Giêsu và cả những ai tin Ngài.

Biến cố ghi dấu trong cuộc đời của Phaolô, chính là việc ngã ngựa lịch sử. Chính nhờ sự kiện này mà Phaolô được tẩy rửa thói kiêu căng để nhường chỗ cho sự khiêm nhường.

Sau này Phaolô đã trở thành nhà truyền giáo lừng danh cho dân ngoại.

Cuối cùng, để minh chứng hùng hồn về những gì đã rao giảng, ngài đã chấp nhận chết để bảo vệ chân lý và danh Đức Giêsu.

Điểm qua cuộc đời của hai vị thánh lớn trong Giáo Hội mà hôm nay chúng ta mừng kính để thấy được rằng: lòng thương xót của Thiên Chúa đã rợp bóng trên các ngài và chính bản thân các ngài đã cảm nghiệm được tình thương kỳ diệu của Thiên Chúa, nên đã ra đi loan truyền lòng thương xót ấy cho người khác.

2. Cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa để xót thương

Nhờ tình yêu của Đức Giêsu đặc biệt trên cuộc đời của các ngài, nên cuộc đời của Phêrô và Phaolô đã được khép lại đã khép lại quá khứ với đầy điển tích tội lỗi và ngu muội để thay vào đó là Ánh Sáng Tin Mừng của Đức Giêsu. Chính từ đây, hai Tông đồ đã trở thành những người tiên phong trong việc loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa cho nhân loại.

Thật vậy, chính do tình thương, mà Thiên Chúa đã biến đổi:

Từ một Phêrô đã từng bị gọi là Satan. Một Phêrô đã từng phản bội. Một Phêrô hèn nhát, nay trở thành người củng cố đức tin cho anh em, trở thành người lãnh đạo Giáo Hội và điểm quy chiếu để hội tụ mọi thành phần dân Chúa.

Một Phaolô hiểu Kinh Thánh cách phiến diện. Một Phaolô với tính khí hung ác tàn bạo, sẵn sàng vung những nhát gươm sáng nhoáng để giáng xuống trên đầu những người tin vào Giêsu, thì nay, một Phaolô hiền lành, nhân hậu và xót thương đến hết mọi người. Nhờ ơn Chúa, ngài đã trở thành cột trụ của Giáo Hội ngang qua những kiến thức sắc bén bênh vực Giáo Hội.

Có thể nói: cuộc đời của hai vị không thiếu những màn đêm tội lỗi nặng nề. Các ngài đã phạm vào những tội tầy trời như trối Chúa và bách hại đạo. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa đã hoán cải khiến các ông được đổi mới và trở thành những chứng nhân của Tin Mừng.

3. Sứ điệp và bài học của ngày lễ

Mừng lễ hai thánh Tông đồ hôm nay, chúng ta học được những bài học giá trị như sau:

Trước tiên là niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, vì: “Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.

Thứ đến, là lòng yêu mến Chúa tha thiết. Chính thánh Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”, còn với Phaolô: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô” (x. 2 Tm 4,6-8).

Cuối cùng là bài học về sự trung thành với Chúa. Cả hai đấng đều trung thành với Chúa cách tuyệt đối khi sẵn sàng chấp nhận bị bắt bớ, đòn vọt và chấp nhận ngay cả cái chết để bảo vệ niềm tin của mình vào Chúa và Tin Mừng của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con lòng yêu mến Giáo Hội, biết cộng tác với những người lãnh đạo chúng con để cùng nhau xây dựng Giáo Hội của Chúa nơi trần gian như gương của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô khi xưa. Amen.

---------------------------------

 

29/6-132: Giáo hội bền vững


(Suy niệm của Viện phụ Hiền Lâm, O.Cist)

GỢI Ý SUY NIỆM (Lễ Vọng. Ga 21,15-19)

 

Chúng ta vẫn thường nói với nhau rằng, sở dĩ Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô “con có yêu mến Thầy 29/6-132


không?” tới 3 lần là vì trước đó thánh nhân đã chối Chúa tới 3 lần. Điều này không sai, nhưng có lẽ không chỉnh lắm, vì việc chối Chúa là điều nghịch với đức tin, trong khi ở đây Chúa Giêsu đang hỏi thánh Phêrô về đức mến.

Tuy nhiên, ở đây chúng ta không nhằm bàn chuyện 3 lần chối tương đương 3 lần yêu, mà điều quan trọng là Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: điều kiện đứng đầu trong các điều kiện của vai trò mục tử là lòng yêu mến Chúa.

Khi thiết lập người đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng 3 lần chối Chúa. Nếu xét theo cách nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô từng lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho ngài. Thiên Chúa đi tìm con chiên lạc thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lạc lối, nhưng điều quan trọng là: “này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.

Khi đặt Phêrô làm mục tử chăn dắt Giáo Hội hoàn vũ, Chúa Giêsu chắc chắn không dựa trên tiêu chuẩn: thông minh, tài giỏi, oai phong, lợi khẩu… mà là lòng yêu mến. Chúa Giêsu chọn Phêrô vì thánh nhân đã yêu mến nhiều. Phêrô yêu mến nhiều là vì “ngài đã được tha thứ nhiều” (x.La 7,47).

Và vì yêu mến là tiêu chuẩn Chúa chọn mục tử, thì đòi hỏi mục tử cũng phải biết chăn dắt chiên bằng lòng yêu mến, chứ không phải bằng sự độc tài, quyền thế và chiếm hữu.

Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì yêu mến đoàn chiên, thì đến lượt mục tử Phêrô cũng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên như Thầy: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,18-19).

Mục tử có thể thiếu thiếu những tiêu chuẩn khác như thông minh hay lợi khẩu, nhưng mục tử không thể thiếu lòng yêu mến; có làm được mọi sự phi thường, nhưng không có lòng mến thì vô ích. Cảm nghiệm được điều này, thánh Phaolô đã nói: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1Cr 13,1-3).

Người Do-thái không dùng thể so sánh tuyệt đối, nhưng dùng sự lặp lại 3 lần để chỉ điều tuyệt đối. Vì thế, khi lặp lại 3 lần sự tuyên xưng yêu mến thì có nghĩa là mức độ yêu mến của mục tử là trên hết và là điều kiện quan trọng nhất trong mọi điều kiện. Cuộc đối thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và thánh Phêrô nói rõ cho biết làm Kitô hữu có nghĩa là gì. Mỗi ngày, Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta có yêu mến Người một các đặc biệt và ‘trên hết mọi sự’ hay không: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Cũng như thánh Phêrô, chúng ta trả lời “có”, mặc dù chúng ta đầy những yếu đuối; và Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta bước theo Người vì tình yêu (x.Ga 19), và cùng với Người gánh vác Dân Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn thánh Phêrô làm người chăn dắt Giáo Hội vì thánh nhân đã yêu mến Chúa. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng, tất cả mọi quyền bính trong Giáo Hội đều khởi đi từ lòng yêu mến, và đức mến là đồng phục của mọi Kitô hữu, để chúng con giữ trọn điều răn Chúa là: “Trước yêu mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy” Amen.

*******

GỢI Ý SUY NIỆM (Lễ chính ngày. Mt 16,13-20)

Hôm nay chúng ta mừng kính hai vị đại thánh là cột trụ của Giáo Hội Công Giáo: Một vị được chọn khi Chúa Giê-su còn sống trên trần gian, vị kia được kêu gọi khi Chúa đã về trời. Vị này là Tông Đồ thuộc Nhóm Mười Hai, vị kia mang danh Tông Đồ dân ngoại. Vị này rao giảng về những gì đã nghe và cảm nhận được khi cùng sống và cùng ăn cùng uống với Chúa Giê-su, vị kia rao giảng những gì được Chúa dạy dỗ và cảm nhận trong thời gian sa mạc. Vị này có một quá khứ đã từng chối Chúa, vị kia từng truy tìm bắt bớ các môn đệ của Chúa. Vị này xuất thân từ làng nghèo chài lưới, vị kia có quyền công dân của Rô-ma và được học hành chu đáo bởi Galmaliel. Nhưng rồi, cả hai cùng rao giảng một Chúa Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh. Cả hai đã cũng đem Tin Mừng đến Rô-ma và đã cùng đổ máu đào để làm chứng cho đức tin vào hai thời điểm khác nhau: Phê-rô chịu đóng đinh và Phao-lô chịu chém đầu. Từ đó Rô-ma thắm máu của hai Đấng và Giáo Hội được xây nên bởi hai cột trụ Phê-rô và Phao-lô cách bền vững cho đến ngày hôm nay.

Bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu trao quyền mục tử tối cao cho thánh Phêrô để chăn dắt đoàn chiên – lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ – sau khi nghe lời tuyên xưng thật đúng đắn của thánh nhân. Điều này cho thấy chỉ có ở nơi Giáo Hội mới có lời tuyên xưng đúng đắn nhất về thiên tính của Đức Giêsu Kitô, vì Giáo Hội đã sống với Người và được mặc khải từ Thiên Chúa.

* Lời tuyên xưng đức tin đúng đắn.

Tin Mừng thuật lại những ghi nhận của những người Do-thái về Chúa Giêsu thật ra không phải là sai, nhưng chưa đủ, mà chỉ nói lên được một khía cạnh trong sự tròn đầy của khuôn mặt Đức Giêsu là Chúa:

* Là Êlia (một ngôn sứ quyền năng, làm phép lạ…)
* Là Giêrêmia (một ngôn sứ bị bắt bớ và đầy đau khổ)
* Là Gioan Tẩy Giả (rao giảng sự sám hối và sống khắc khổ)
* Là một ngôn sứ nào đó (đời sống chứng nhân và rao giảng).

Riêng thánh Phêrô, dù lúc này ngài chưa hiểu hoàn toàn về con người và sứ vụ của Chúa Giêsu, nhưng do mặc khải của Chúa Cha mà thánh Phêrô đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Vâng, “Con Thiên Chúa” này bao gồm trọn vẹn mọi hình ảnh trên, là một Đức Giê-su Ki-tô Tử Nạn và Phục Sinh để cứu độ con người.
Tuyên xưng vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống là tuyên xưng một Đức Giêsu là Chúa, nghĩa là Đức Giêsu quyền phép chữa lành bệnh tật và uy thế trước thế quyền (Êlia), một Chúa Giêsu đau khổ nơi người bất hạnh (Giêrêmia), một Đức Giêsu rao giảng ơn sám hối (Gioan Tiền Hô), một Đức Giêsu chứng nhân và rao giảng (các ngôn sứ)…

Như vậy, tính “Tông Truyền” của mọi sự tông truyền chính là Giáo Hội phải tuyên xưng và sống điều mà thánh Phê-rô đã tuyên xưng vào một Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống đã tử nạn và phục sinh. Chỉ như vậy, Giáo Hội mới tồn tại và bền vững.

* Giáo Hội bền vững.

“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).

Theo truyền thống Cựu Ước, khi Thiên Chúa đặt tên cho ai là để chuẩn bị cho họ một sứ vụ, thì đây, Chúa Giêsu ngay từ đầu đã đổi tên Simon thành Phêrô, nghĩa là đá. Đá ở đây không phải vô tri vô giác, nhưng nói lên một kết cấu nguyên khối và bền vững. Để rồi, trên tảng đá Phêrô, Chúa Giêsu xây Giáo Hội của Người một cách duy nhất và kiên vững, hầu quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.

Chúa Giêsu đã từng ví dụ về sự khôn ngoan hay khờ dại giống như người xây nhà mình trên đá hay trên cát. Nhà xây trên đá thì dù mưa sa nước chảy, gió thổi bão lay cũng không sao. Đó là hình ảnh Giáo Hội Chúa Kitô trải qua bao thế kỷ, gặp bao nhiêu thử thách, yếu đuối, bách hại và phải đương đầu với bao thể chế, lý thuyết, ý thức hệ, ly lạc giáo, sự tục hoá… thì trên nền đá Phêrô, Giáo Hội vẫn kiên cường bảo vệ đức tin và chuẩn mực đạo lý Kitô giáo cho mọi dân tộc.

* Năng quyền Giáo Hội.

“Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời” (Mt 16,19).

Chìa khóa, theo Thánh Kinh, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền, và trách nhiệm. Chúa đã tin tưởng thánh Phêrô, trao cho người quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.”. Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do-thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết đức tin và luân lý.

Việc Chúa Giêsu trao chìa khoá Nước Trời cho thánh Phêrô cũng được hiểu như là biểu tượng Giáo Hội gìn giữ kho tàng ơn thánh và ơn cứu độ được đem đến qua Giáo Hội. Quyền này chỉ có nơi Chúa Giêsu, nhưng Người đã ban lại cho Giáo Hội qua quyền bính của vị đại diện Người. Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô qua Giáo Hội của Người, bởi chỉ có Giáo Hội mới được mặc khải tròn đầy của Chúa Cha về Chúa Kitô (x.Mt 16,17), và chỉ có Giáo Hội mới nhận biết đúng đắn nhất về Chúa Kitô: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).

Theo nghĩa rộng, chìa khóa Nước Trời còn là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí Tích Rửa Tội giúp mọi Kitô hữu mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các bí tích. Sự đóng hay mở phụ thuộc vào việc bác ái hay khép kín của lòng người.
Từ cổ đến kim, nhiều lạc giáo đã tìm cách chối bỏ năng quyền này của Giáo Hội và bất phục với các đấng kế vị thánh Phê-rô, nghĩa là họ chối bỏ lời Chúa Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay. Quá khứ bao nhiêu lạc giáo đã tự suy tàn, nhưng hiện tại đang manh nha có nhiều thứ lạc giáo mới, chung quy lại cũng đều truyền bá việc bất phục Đức Thánh Cha và các mục tử trong Giáo Hội, chúng đã lập ra những website và group facebook để lôi kéo các thành viên. Điều đáng tiếc là nhiều thành viên Công Giáo đã bị chúng mê hoặc. Chính vì thế, nhân lễ thánh Phê-rô và Phao-lô hôm nay, chúng ta cùng ý thức mình và cầu nguyện cho những ai lầm lạc biết hoán cải.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xây dựng Giáo Hội trên nền đá là thánh Phêrô, Chúa cũng trao cho các đấng kế vị thánh Phêrô quyền bảo vệ đức tin, mối dây hiệp nhất và hướng dẫn đoàn chiên Chúa. Xin cho mọi người chúng con luôn biết quy phục Đức Thánh Cha, nhiệt thành xây dựng và làm phát triển Giáo Hội bằng đời sống chứng nhân theo phận vụ của mình, để Nước Chúa ngày một lan rộng khắp nơi. Amen.

---------------------------------

 

29/6-133: Thánh Phêrô Và Thánh Phaolô

 

Đại lễ kính thánh Phêrô và Phaolô hôm nay nhắc chúng ta nhớ tới hai cột trụ của Giáo Hội Rôma 29/6-133


Đại lễ kính thánh Phêrô và Phaolô hôm nay nhắc chúng ta nhớ tới hai cột trụ của Giáo Hội Rôma, Giáo Hội đặc biệt tôn kính hai gương mặt nầy. Giáo hội đã mở năm thánh Phaolô từ 28.6.2008 đến 29.6.2009, kỷ niệm 2.000 năm sinh nhật của thánh Phaolô, vị Tông Đồ Dân Ngọai, một gương mặt vượt trội của Giáo Hội ban sơ. Chúng ta suy niệm hai gương mặt sáng chói nầy.

Thánh Phaolô thuộc gia đình Do thái, gia nhập phái Pharisêu, sinh trưởng tại Tạc-xô, đất nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Ngài còn có tên là Saolô, tên gọi trước khi trở thành tông đồ của Đức Giêsu. Chính xác thì không rõ ngài sinh năm nào, có lẽ ngài trẻ hơn Đức Giêsu mươi tuổi. Ngài đã có mặt trong cuộc hành quyết phó tế Têphanô (Cv 7, 58), giữ áo choàng cho những người ném đá Têphanô.

Là người thông minh có văn hóa Hy-La, lớn lên tại Giêrusalem theo học với sư phụ Gamalien, rất nhiệt thành với Do thái giáo, giữ luật lệ nghiêm nhặt, nhiệt thành đến cuồng tín, cho nên khi nghe một tôn giáo mới ra đời, ngài là người hăng say đi bắt bớ các Kitô hữu, cho rằng Kitô giáo là một lạc giáo nguy hiểm cần tiêu diệt để bảo vệ tôn giáo độc thần của người Do thái.

Trên đường đi đến thành Đamát, thi hành lệnh bắt bớ các Kitô hữu, ngài đã bị quật ngã (Cv 9). Cuộc gặp gỡ kỳ lạ nầy đã biến con sói hung dữ thành chiên con ngoan hiền, không những thế ngài đã trở nên vị Tông Đồ Dân Ngọai không ai sánh kịp. Bốn cuộc hành trình truyền giáo của ngài, cũng như các Thư Mục Vụ của ngài minh chứng vị thế vô song trong truyền giáo thời Giáo Hội tiên khởi.

Bốn sách Tin Mừng ghi lại các lời Đức Giêsu nói và các việc Đức Giêsu làm để mặc khải mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, còn Sách Công Vụ Tông Đồ là lời các tông nói và việc các tông đồ làm để rao giảng Tin Mừng cứu độ. Thật vậy Sách Công Vụ được chia làm hai phần: phần đầu là Tin Mừng trong thế giới Do Thái, mà khuôn mặt chói sáng là Phêrô, thì phần thứ hai được gọi là Tin Mừng trong thế giới Dân Ngoại, khuôn mặt vượt trội là Phaolô.

Về Thánh Phaolô. Sau buổi đầu bị các Kitô hữu nghi ngời về tư cách trung thực của Saolô, lý do là Saolô đột ngột tin theo Đức Giêsu, và tức thì ngay sau đó bắt đầu rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu, ngài làm việc gần như độc lập mà không được bản quyền tại Giêrusalem sai phái. Nhờ sự giới thiệu rất uy tín của thánh Banaba, các tông đồ tại Giêrusalem chấp nhận và đón tiếp thánh Phaolô, từ đó ngài được Giáo Hội tin tưởng.

Ngài đã có uy tín và lập trường rõ rệt trong Công Đồng Giêrusalem họp vào năm 49-50 để giải quyết việc không cắt bì cho anh em lương dân trở lại đạo Kitô, việc nầy tách biệt Kitô giáo ra khỏi Do thái giáo. Ngài đã được Đức Giêsu Kitô phục sinh kêu gọi và đặt làm Tông Đồ Dân Ngọai: “Hãy tách riêng Banaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm” (Cv 13, 2). Từ đó công việc truyền giáo gần như độc lập của ngài quay sang dân ngọai. Bốn hành trình truyền giáo của thánh Phaolô được ghi lại từ chương 13 sách Công Vụ Tông Đồ trở về sau.

Về Thánh Phêrô. Trong Bài Tin Mừng (Mt 16,13-19) Đức Giêsu đã phỏng vấn các môn đệ để biết thiên hạ nghĩ gì về mình và môn đệ nghĩ gì về Thầy của họ. “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Thánh Phêrô đã phát biểu thay cho anh em: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (câu 16), trên niềm tin đó Đức Giêsu thiết lập Hội Thánh của Người. Thánh Phêrô có gia đình, làm nghề thuyền chài, được gọi đầu tiên trong các tông đồ, được giao quyền chìa khóa tức là quyền cầm buộc, được diện kiến Đức Giêsu trong cuộc hiển dung, có mặt trong vườn Dầu, hăng hái và nhiệt thành, nhưng có lúc nông nỗi, đã chối Thầy 3 lần. Sau khi sống lại Đức Giêsu đã ba lần hỏi Phêrô con có yêu mến Thầy không, như cho Phêrô cơ hội tuyên xưng và xác tín lòng yêu mến của mình.

Theo truyền thuyết trong cuộc bách hại đạo của vua Nêron vào đầu thế kỷ thứ nhất, ngài đã muốn bỏ trốn khỏi thành Rôma, nhưng vừa đi tới cổng thành, ngài gặp Đức Giêsu vác thập giá đi vào thành. Ngài hỏi Chúa “Quo Va Dis?”, (Thầy đi đâu?), Đức Giêsu trả lời: Thầy vào thành để chết thay cho con một lần nữa. Tức thì Phêrô quay lại đi vào thành Rôma và chấp nhận chịu đóng đinh làm chứng cho Thầy. “Quo va Dis” là tựa đề một cuốn phim danh tiếng vể thời bắt đạo tại Rôma.

Còn thánh Phaolô trả lời câu hỏi của Thầy bằng chính cuộc sống của mình: “Đối với tôi sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi. Tôi không biết gì khác ngoài Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2, 2). Cả hai vị khác nhau trong hành trình ơn gọi, trong văn hóa, trong cách giảng dạy, trong chức vụ … Nhưng đã gặp nhau trong hết mình rao giảng Tin Mừng, trong chịu đựng gian khổ, lấy máu đào làm chứng đức tin.

 Thân lạy hai thánh Phêrô và Phaolô, xin cho con biết tuyên xưng bằng lời và bằng cuộc sống làm chứng cho Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu chuộc nhân lọai. Amen.

---------------------------------

 

29/6-134: Hai tên gọi một lý tưởng


(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương, ĐCV. Vinh Thanh - Nghệ An)

 

Mừng lễ trọng hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô là dịp chúng ta suy ngắm hai khuôn mặt trổi 29/6-134


Mừng lễ trọng hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô là dịp chúng ta suy ngắm hai khuôn mặt trổi vượt và quan trọng này trong Hội Thánh.

Tôi thấy trong mỗi vị đều có hai danh xưng khác nhau, đó là Simon - Phêrô; Saolô – Phaolô. Nếu tên gọi Simon và Saolô nói lên con người cũ, con người chưa được biến đổi, thì Phêrô và Phaolô là con người mới, con người đã được biến đổi bởi Đức Kitô.

1- Từ Simon đến Phêrô

Trước khi gặp Chúa Giêsu, chưa theo Chúa, Phêrô được gọi là Simon, con ông Giona, là một ngư phủ lành nghề nhưng quê mùa, chất phác và bộc trực. Ông đã có gia đình, có vợ con đề huề.

Trong Tin Mừng, Phêrô thể hiện rất rõ cá tính của mình: một Simon yếu đuối, nhẹ dạ, nhất thời, bồng bột và dễ thay đổi, phản bội trong những lúc gặp khó khăn thử thách (x. Mt 14,22; 16,23). Nhưng trong ông, cũng có một Phêrô khiêm tốn, chất phác và rất hăng hái, biết sám hối và nhận lỗi của mình (x. Mt 26,69); một Phêrô mạnh mẽ và vững vàng trong Đức tin, lòng mến, cũng như trong sứ vụ: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai” (Ga 6,68); “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16).

Sau khi gặp Chúa Giêsu, được Chúa mời gọi, ông đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Chúa đặt cho ông một danh xưng mới: đó là “Phêrô, nghĩa là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18). Với danh xưng này, Phêrô trở thành Tông Đồ của Chúa, và được chọn làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai. Phêrô đã sống và gắn bó với Chúa Giêsu trong suốt ba năm trên mọi nẻo đường rao giảng. Sau khi Chúa về trời, Phêrô cùng với các Tông Đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Phêrô đã đến giảng đạo tại Rôma, rồi bị bắt và bị đóng đinh trên đồi Gianicolo. Theo truyền thống kể lại, khi nghe tin sẽ bị bắt, Phêrô hoảng sợ tìm đường trốn khỏi Rôma để về quê, trên đường đi, ngài đã gặp Chúa Giêsu đang vác thánh giá vào thành Rôma, Phêrô hỏi Chúa: “Quo vadis - Thầy đi đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy vào thành Rôma để chịu tử nạn lần thứ hai.” Hiểu ra ý Chúa nên Phêrô đã trở lại với đoàn chiên của ngài và chấp nhận án tử hình trên thập giá. Đang khi chịu đóng đinh, Phêrô xin lính La Mã đóng đinh đầu ngược, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được đóng đinh giống như Chúa Giêsu.

Một điều rất rõ mà chúng ta thấy trong cuộc đời của thánh Phêrô là khi nào ông càng cậy dựa vào sức mình, vào khả năng mình thì ông càng thất bại và tỏ ra yếu đuối. Nhưng khi nào ông càng bám lấy Chúa, tin vào Chúa, Phêrô càng thành công, càng trở nên vững vàng và rất cao cả!

2- Từ Saolô đến Phaolô

Cũng thế, nơi thánh Phaolô, có một Saolô trước khi gặp Đấng Phục Sinh, Saolô ấy không phải là một chàng trai ăn chơi lêu lổng, nhưng là một người nhiệt thành với truyền thống đạo Do Thái. Là con của một gia đình khá giả, Saolô được học hành chu đáo. Vì lòng trung thành với truyền thống cha ông, Saolô hăng hái đi bắt bớ các Kitô hữu đầu tiên vốn thuộc về một tôn giáo mới đang đe dọa sự tồn tại của đạo Do Thái.

Cú té ngựa trên đường Đamát đã làm cho Saolô thay đổi hoàn toàn. Saolô gặp Đấng Phục Sinh, và được Người đặt cho một tên mới đó là Phaolô, vị Tông Đồ của dân ngoại. Sau cuộc trở lại này, Phaolô hăng say rao giảng Đức Kitô. Ông đã sang Hy Lạp và La Mã nhiều lần để rao giảng Tin Mừng, rồi chịu tử đạo chặt đầu vì Tin Mừng ở ngoài thành Rôma.

3- Hai tên gọi, một lý tưởng

Hai danh xưng ấy nói lên hai khuôn mặt, hai con người đã được biến đổi bởi Đức Kitô. Hai con người ấy trở thành hai ngôi sao sáng, hai cột trụ chính của Giáo Hội. Cả hai đều có cùng một lý tưởng là Tông Đồ của Đức Kitô. Cả hai đã mang hạt giống Tin Mừng sang Châu Âu và đã biến Châu Âu thành một lục địa và là trung tâm của Kitô giáo. Cả hai đã đổ máu đào để làm chứng cho Đức tin và tình yêu vào Đức Kitô.

Cũng như Phêrô và Phaolô, những ai gặp Chúa, tìm kiếm Chúa, thì sẽ được Chúa biến đổi. Và những ai được Chúa biến đổi thì một cách tự nhiên, người đó cũng muốn giới thiệu Chúa cho người khác, muốn là Tông Đồ của Chúa cho thế giới hôm nay.

Trước những khó khăn và những lối rẽ khác mời mọc, cùng với Phêrô, chúng ta hãy xác tín thêm một lần nữa: “Bỏ Thầy, con biết theo ai” (Mt 16,16). Cùng với Phaolô, chúng ta tuyên xưng rằng: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,36-37). Amen!

---------------------------------

 

29/6-135: Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ


CON LÀ ĐÁ. THẦY SẼ TRAO CHO CHÌA KHÓA NƯỚC TRỜI

(Suy niệm của Lm. Micae Võ Thành Nhân)

 

Toàn thể Giáo Hội khắp nơi trên thế giới mừng kính trọng thể lễ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ 29/6-135


Toàn thể Giáo Hội khắp nơi trên thế giới mừng kính trọng thể lễ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ hôm nay, chúng ta chiêm ngắm hai vị thánh tông đồ nổi tiếng của Giáo Hội để cùng với các ngài, chúng ta tạ ơn Chúa và học nơi các ngài bài học là hết lòng cộng tác với Chúa để làm phát triển Giáo Hội Chúa nơi gian trần chúng ta đang sống.

Trước hết chúng ta chiêm ngắm thánh Phệrô: Ngài là em của thánh Anrê, là một ngư phủ, ít học, có lúc ngài bị Chúa la rầy: “Hỡi sa tan, hãy lui ra đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23), có lúc ngài được Chúa khen: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc...” (Mt 16, 17), có lúc ngài yếu đuối phạm tội như chối Chúa ba lần (Mt 26, 69 – 75)…. Nhưng hôm nay, Chúa lại trao chìa khóa Nước Trời cho thánh nhân, nghĩa là Chúa trao quyền bính và rồi đặt làm thủ lãnh Giáo Hội: “Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16, 18-19).

Tiếp đến, chúng ta chiêm ngắm thánh Phaolô, theo sách Tông Đồ Công Vụ, ngài là một biệt phái lừng danh về tri thức, uyên bác về đạo cũng như đời, nhiệt thành với giao ước cũ, cho nên đã tự nguyện xung phong đi lùng bắt bớ các Kitô hữu đem về Giêrusalem để xứ án, và rồi sau biến cố té ngựa trên đường đi Đamát, ngài đã nhận ra Chúa và bước theo Chúa, trở thành tông đồ dân ngoại của Chúa.

Thoáng qua một chút tiểu sử các ngài, chúng ta thấy: Thánh Phêrô là thủ lãnh Giáo Hội, nắm quyền hành trong tay nhưng ít học. Còn thánh Phaolô, tông đồ, sinh sau đẻ muộn, nhưng là đỉnh cao tri thức, dưới quyền của thánh Phêrô. Thế mà các ngài làm việc với nhau để xây dựng Giáo Hội của Chúa rất thành công, không có chuyện tranh giành, cãi cọ, hơn thua nhau trong sứ mạng Chúa trao phó. Lý do là vì các ngài đặt Chúa lên trên mọi sự, lấy đức mến làm đầu, say mê các linh hồn, phục vụ Chúa trong hân hoan. Các ngài có những cách thức, sáng kiến khác nhau nhưng chung một phương hướng là để đưa con người chúng ta đến với Chúa. Bởi vậy các ngài tôn trọng nhau, nâng đỡ nhau, cầu nguyện cho nhau để chu toàn sứ mạng Chúa trao phó.

Đàng khác, Chúa chọn các ngài làm tông đồ, Chúa không dựa vào khả năng của các ngài, Chúa chỉ căn cứ trên tình yêu của các ngài đối với Chúa mà thôi: “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này không…” (x. Ga 21, 15-19). Chính vì thế mà các ngài đã biết ơn Chúa rất nhiều. Vì những người khác có tài cán, có năng lựcmà Chúa không chọn làm tông đồ, đang khi đó Chúa lại chọn các ngài, các ngài chỉ là những người chân lấm tay bùn, khố rách áo ôm, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, lênh đênh ngày đêm trên sông nước, biển cả để kiếm ăn, một chữ cắn đôi cũng không biết. Và bởi vì biết ơn Chúa, lại còn ơn Chúa ban thêm nữa, cho nên khi Chúa về trời rồi, các ngài rất nổ lực, rất hăng say thực hiện lệnh Chúa truyền: “Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19), để rồi ra đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, mở mang nước Chúa đến mọi tâm hồn của con người nhân thế qua mọi thời đại.

Lạy Chúa, thánh Phêrô và thánh Phaolô trở thành tông đồ là do tình yêu của Chúa. Các ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa sứ mạng xây dựng Giáo Hội của Chúa ở trần gian này. Các ngài đã đem hết khả năng để chu toàn sứ mạng Chúa trao, dù phải hy sinh mạng sống. Xin cho chúng con biết nối tiếp công việc của các ngài, chúng con cộng tác với Chúa để làm cho Giáo Hội Chúa lang rộng đến mọi nơi, mọi tâm hồn bằng đời sống cầu nguyện, yêu thương, phục vụ, giúp đỡ mọi người.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phê-rô và thánh Phao-lô. Chính nhờ các ngài Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, xin cho Hội Thánh cũng luôn trung thành tuân giữ lời các ngài giảng dạy. Amen.

---------------------------------

 

29/6-136: Thí mạng vì Thầy


(Suy niệm của Logos)

 

Vào đầu thế kỷ thứ tư, hoàng đế Constantinô cho xây sáu vương cung thánh đường đầu tiên tại 29/6-136


Vào đầu thế kỷ thứ tư, hoàng đế Constantinô cho xây sáu vương cung thánh đường đầu tiên tại Rôma. Nếu có năm thánh đường cùng quay mặt về hướng Đông theo như kiểu các đền thờ lúc bấy giờ, thì riêng đền Thánh Phaolô ngoài bờ tường phía Đông thành phố lại xoay về hướng Tây, đối diện với Đền thánh Phêrô. Đây rõ ràng là một chủ ý trong kiến trúc, như muốn để cho ánh mắt của hai vị Tông đồ bao trùm toàn thể kinh thành của Giáo Hội, đồng thời muốn làm nổi bật ý nghĩa cuộc đời của hai vị thánh đã cùng chung tay dựng xây Giáo Hội, cùng chung lời làm chứng cho Đức Kitô, và giờ đây chắc chắn vẫn chung lời cầu bầu cho toàn thế giới.

Trong lòng Giáo Hội: đá tảng và cột trụ

Ngày Simon được đổi tên thành Phêrô chính là ngày Chúa Giêsu chính thức đặt viên đá đầu tiên xây dựng Giáo Hội. Không còn tên riêng quen thuộc của người ngư phủ, nhưng đã có một tên mới hàm chứa vai trò phải đảm trách cho cả một công trình. Việc xây dựng đã bắt đầu, nhưng diễn biến không hề đơn giản, khối đá còn quá “non”, còn đầy dấu vết của con người (x. Mt 16, 21-23), còn chưa đủ sức đương đầu với gió bão (Mt 14, 30), và thật không ngờ, đã có lần viên đá tảng đó như bị xê dịch khỏi vị trí (Ga 18, 26), và đích thân Đức Kitô phục sinh đã phải ba lần nhấc khối đá lên để đưa trở về đúng chỗ. Đó là chưa kể lần Phêrô phải hỏi Đấng đang vác Thánh giá đi ngược chiều với mình: “Quo vadis?”Cuối cùng, vì vẫn giữ được độ bền của lòng mến, nên “tảng đá”ù đã làm cho người kỹ sư trưởng yên tâm (x. Ga 21, 15-17). Phêrô đã không mất lòng tin, và khi trở lại đã làm cho các anh em nên vững mạnh (x. Lc 22, 31).

Nhưng công việc có quá nhiều đòi hỏi, nên không chỉ một mình Phêrô, cũng không chỉ nhóm Mười Hai đáp ứng được tất cả nhu cầu của công trình đồ sộ mà Đức Kitô muốn thiết lập. Trên nền móng Đức Tin, Giáo Hội còn cần đến những cây cột trụ vững chắc cho giáo lý Tin Mừng luôn phải được loan báo. Trên đường Đamas, Đấng đã tìm thấy Tảng Đá, nay như mới phát hiện một khối cẩm thạch vừa ý. Một cú đập khá mạnh tay rõ ràng là cần thiết để tách Saulô ra khỏi khối núi Lề Luật mà ông đã gắn bó từ lâu, một ánh chớp phải lóe lên để đưa người đồ đệ của Biệt phái ra khỏi bóng mây Cựu ước để có thể nhận ra ánh sáng mới, một câu hỏi được gửi tới để bắt con người nhiệt tình này phải suy nghĩ về điều ông đang làm, và ẩn trong tất cả những gì vừa xảy ra, đó là tiếng gọi của chính Đấng mà ông đang truy bắt. Khi đứng dậy, con người Saulô đã chuyển sang hướng khác.

Trong ngày lễ hôm nay, hai thánh Phêrô và Phaolô nhắc cho chúng ta một điều quan trọng trong đời, đó là dành cho Chúa quyền sử dụng cuộc đời của chúng ta. Phần chúng ta, hãy thưa “vâng”khi nghe tiếng Chúa gọi mời và nhiệt thành cộng tác vào công trình dựng xây Giáo Hội, mỗi người theo ơn gọi riêng của mình. Hãy dùng tình yêu để biến chính mình thành hạt cát, viên sỏi, hòn gạch để góp phần vào công trình cứu thế.

Giữa lòng thế giới: nhà truyền giáo và người qui tụ

Ước vọng của vị kiến trúc sư là thiết kế một Giáo Hội cho mọi người mọi nơi mọi thời, nên công trường không chỉ là Giêrusalem hay Rôma nhưng là cả thế giới ngút ngàn của cánh đồng truyền giáo. Để xây dựng Giáo Hội, Đức Kitô cần đến cả Phêrô lẫn Phaolô. Một Phêrô như dấu chỉ của Giáo Hội tông truyền và thánh thiện, một Phaolô như thừa tác viên của Hội Thánh duy nhất nhưng công giáo trong mọi dị biệt từ muôn dân.

Trong khi Phêrô dựng xây các cộng đoàn cho người Do thái, thì Phaolô xoay bước về phía dân ngoại (x.Cv 13, 46). (Có thể đó cũng là lý do để tên gọi Saulô bằng tiếng aram quá cá biệt đã được thay bằng tên Phaolô hy lạp dễ hội nhập hơn với thế giới đang cần gặp gỡ). Nếu như Phaolô là nhà truyền giáo ra đi không ngưng nghỉ để Tin Mừng cứu độ được loan xa đến tận cùng thế giới, thì Phêrô là hình ảnh của một đoàn Dân có cùng một đức Tin, một phép Rửa và một niềm hy vọng.

Trong cùng một tình yêu của Đấng đã kêu gọi và “thúc bách”các Tông đồ, chúng ta cũng muốn, cùng với Phêrô, “tiến lại gần Đức Kitô”, để trở nên “những viên đá sống động xây nên ngôi Đền thờ thiêng liêng”(1P 2, 4.5), cùng với Phaolô, bước thật gần bên Chúa vì “không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến của Đức Kitô”(Rm 8, 35) và đi thật xa để qui tụ muôn loài về cho Thiên Chúa.

Trước mặt muôn dân: hai con người nói chung một lời chứng

Theo truyền thuyết, hai thánh Phêrô và Phaolô, trước ngày tử đạo, đã có dịp gặp lại nói lời từ giã nhau trong một nhà ngục gần Đền Thánh Phaolô ngoại thành hiện nay. Sống không cùng một nơi và làm việc không cùng một trách vụ nhưng cả hai đều biết mình chỉ là “tôi tớ và tông đồ”của cùng một Ông Chủ (x. 2P 1, 1 và Rm 1, 1). Rao giảng không cùng một cách thế, nhưng cả hai đều biết mình chỉ nói về một Người (x. 2P 3, 15). Chết không cùng một ngày, không chịu cùng một hình khổ, nhưng cả hai chỉ có chung một lời chứng, lời chứng rực sáng của những ngọn đuốc soi giữa lòng thế giới, lời chứng trung thành của những người thuộc về Đức Kitô, lời chứng kiên cường của những người môn đệ muốn theo Thầy đến bất cứ nơi nào Thầy đã đi, lời chứng cao cả nhất của những cái chết vì người mình yêu mến. Ở Rôma, người ta vẫn tin rằng, khi Phaolô bị chém, đầu của Ngài đã nẩy lên ba lần trên mặt đất, khơi chảy ba dòng suối (Tre Fontane) như muốn giữ mãi kỷ niệm cái chết của người mang ba quốc tịch: Do thái, Rôma và Nước Trời.

Khi bắt Phêrô treo vào cây thập tự dựng trên sườn đồi Vatican, khi ra lệnh chém đầu Phaolô bên ngoài tường thành Rôma, hẳn hoàng đế Nêron chỉ nghĩ là mình vừa giết được hai thủ lãnh của nhóm kitô hữu bất trị. Chắc chắn những kẻ hành hình không ngờ rằng mình vừa giúp hai vị Tông đồ hoàn tất cử chỉ cuối cùng của cuộc đời dành cho Thiên Chúa và Giáo Hội.

Tôn vinh người cầm chìa khóa Nước Trời và người luôn mang theo những lá thư chất chứa Tình Yêu, Ân sủng và Hiệp thông, chúng ta xin cho được một cõi lòng rộng mở trước lời gọi của trời cao. Cử hành ngày lễ mang màu đỏ hồng của dòng máu tông đồ tử đạo, chúng ta xin cho biết yêu mến điều các ngài tuyên xưng và sống điều các ngài giảng dạy. Mừng kính nền Đá và Trụ cột của Giáo Hội, chúng ta muốn cảm nếm hạnh phúc của những kẻ tí hon đang được ở trên vai những người khổng lồ trong cuộc hành trình từ trần gian về đến quê trời.

---------------------------------

 

29/6-137: Lòng yêu mến

 

Nhìn vào cuộc đời của hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng ta thấy có nhiều điểm rất giống 29/6-137


Nhìn vào cuộc đời của hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, chúng ta thấy có nhiều điểm rất giống nhau. Tuy nhiên, điểm giống nhau chúng ta cùng chia sẻ trong một vài phút ngắn ngủi này, đó là lòng yêu mến Chúa. Thực vậy, Thánh Giacôbê Tông Đồ đã viết: Đức tin không có việc làm thì chỉ là một đức tin đã chết. Và theo tôi nghĩ: lòng yêu mến chính là sự triển nở, hay nói cách khác, chính là hoa trái của đức tin. Người có một đức tin sâu xa và kiên vững phải sống thích hợp với đức tin ấy bằng một cuộc sống ngập tràn tình yêu mến đối với Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Phaolô, hai vị Tông Đồ chúng ta mừng kính hôm nay, đã có một đức tin sát đá và sáng chói, thì chắc chắn các ngài cũng phải có một lòng mến dạt dào và nồng thắm.

Trước hết là thánh Phêrô.

Như chúng ta đã biết: Sau lời mời gọi của Chúa Giêsu, Phêrô đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Khi Chúa Giêsu loan báo cuộc hành trình tiến về Giêrusalem, ở đó Người sẽ phải đau khổ và bị giết chết, thì Phêrô đã phản đối, vì thánh nhân không muốn Đấng mình yêu mến phải đón nhận một số phận hẩm hưu như thế và Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Xin Thiên Chúa gìn giữ Thầy để điều đó không xảy ra. Tình yêu, một khi bị chi phối bởi những lý do trần tục, sẽ làm cho chúng ta dễ dàng lầm đường lạc lối như vậy.

Phêrô luôn mang trong mình một trái tim nóng cháy tình yêu. Thực vậy, trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, thánh nhân đã mạnh mẽ và dứt khoát thề thốt với Ngài: Cho dù mọi người có phản bội Thầy, nhưng con sẽ không bao giờ. Cho dù có phải chết cung Thầy, con cũng xin vâng. Mặc dù chúng ta biết Phêrô đã chối Chúa ba lần trong sân nhà thầy cả Thượng phẩm, nhưng thánh nhân vẫn được Chúa chọn và đặt làm đầu Hội Thánh vì Phêrô đã biết ăn năn sám hối và đã quyết tâm trở về với lòng yêu mến đối với Chúa. Thực vậy, sau khi sống lại Chúa Giêsu đã hiện ra bên bờ hồ Tibêriade và ba lần Người đã hỏi Phêrô: Con có yêu mến Thầy hơn những người này không? Và cũng ba lần, Phêrô đã xác quyết tình yêu của mình đối với Người: Lạy Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Và thánh Augustinô đã diễn giải cho chúng ta hiểu thêm như sau: Thánh Gioan có thể đã yêu mến Chúa bằng một tình yêu đậm đà và nồng nàn hơn, nhưng chính thánh Phêrô mới yêu mến Chúa bằng một tình yêu hăng say và quảng đại hơn.

Tiếp đến là thánh Phaolô.

Trong các thánh Tông Đồ, chúng ta tìm đâu cho ra một trái tim bừng cháy lửa yêu mến, nếu không phải là trái tim của thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại. Thực vậy, thánh Phaolô đã có lý khi kêu lên: Ai có thể dứt bỏ chúng tôi ra khỏi tình yêu Đức Kitô? Phải chăng là bắt bớ, đau khổ, lao tù và chết chóc sao? Và thánh nhân đã kết luận: Không có gì khả dĩ dứt bỏ chúng tôi ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Nơi khác, thánh Phaolô còn xác quyết mạnh mẽ hơn: Dù tôi có nói được tiếng nói của các thiên thần và loài người, mà không có tình mến, thì tôi chỉ là như tiếng não bạt ầm vang. Dù tôi có ơn nói tiên tri hay biết được những màu nhiệm của khoa học, dù tôi có được một đức tin chuyển núi dời sông, mà không có tình mến, thì cũng chẳng ích lợi gì cho tôi. Dù tôi có bố thí mọi của cải, chịu mọi đớn đau cực hình, mà không có tình mến, thì cũng chỉ là uổng công vô ích mà thôi. Không phải chỉ nói trên môi trên miệng, mà hơn thế nữa, thánh nhân còn thực hiện trong đời sống của mình: Thánh nhân đã phải chịu đựng mọi khổ đau và thiếu thốn, mọi đòn vọt và tù ngục, để rao giàng Tin Mừng và chứng tỏ lòng yêu mến mình dành cho Chúa. Đối với thánh nhân, cái chết chính là mũ triều thiên của những người đã trung thành yêu mến Chúa.

Cũng chính tình yêu mến này đã thúc đẩy hai thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ hy sinh mạng sống để trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng. Thánh Phêrô đã bị đóng đanh vào thập giá dưới thời bạo vương Nêrôn. Còn thánh Phaolô, sau nhiều ngày bị giam cầm, đã bị chém đâu trên đường Ostia, gần Rôma.

Dưới một góc độ nào đó, chúng ta có thể nói: Thánh Phêrô và thánh Phaolô, cả hai đều là những người cha của chúng ta trong đức tin, đều là những người thầy của chúng ta trong đức ái, vì thế, hãy noi gương bắt chước các ngài, yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn, bởi vì với lòng yêu mến, thì mỗi ngày trong đời sống sẽ là một bước chúng ta tiến đến gần Chúa hơn trên quê hương Nước Trời.

---------------------------------

 

29/6-138: Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ

 

Bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đã được nghe đọc trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và 29/6-138


Bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đã được nghe đọc trong ngày lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Nó có hai phần rõ rệt: những câu đầu tuyên xưng Đức Yêsu là Kitô; còn những câu sau tuyên bố Phêrô được đặt làm nền tảng xây lên Hội Thánh. Hai phần có thể tách rời nhau, vì quả thật Marcô và Luca đã không đính phần sau vào phần trước. Nhưng Matthêô đã có ý gom hai phần lại để nhấn mạnh sự liên hệ giữa việc Phêrô tuyên xưng đức tin và việc ông được chọn để xây lên Hội Thánh, cũng như giữa đức Kitô và con người được chọn để thay quyền Người dưới đất. Chúng ta hôm nay còn đọc lại cả bài Tin Mừng này cùng với hai bài đọc trên để hiểu rõ Hội Thánh và cảm tạ Thiên Chúa về Hội Thánh nhiều hơn.
A. Hội Thánh Là Mầu Nhiêm Đã Đuợc Tiền Định Từ Đời Đời

Sách Isaia đã thuật lại một câu truyện trong lịch sử Dân Chúa. Nhưng đó lại là câu truyện có tính cách tiên tri, loan báo kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa. Và vì thế rất có hệ đến chúng ta.

Vua Israel bấy giờ dùng một vị đại thần hầu như là Nhiếp chính, mặc dầu cấp bậc chính thức chỉ là giám hộ hay chủ hộ. Mọi việc trong triều đều do ông ta định đoạt. Nhưng ông lại là kẻ thuộc hạng "mới làm ăn lên", tài cán không biết thế nào, nhưng chắc chắn rất tham lam và ích kỷ. Chúa sai Isaia đến nói cho ông biết, Người sẽ truất phế và cất chức ông. Và sau đó, Người sẽ đặt Êlyaqim lên thế vị.

Điều đáng để ý trong câu truyện này là những lời sấm về Êlyaqim. Đó là những lời tiên tri rất long trọng, kể ngay từ những chữ đầu tiên. Chúa phán: “Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là Elyaqim”. Vì hễ lần nào muốn tuyên sấm về một biến cố trọng đại trong tương lai, Người cũng bắt đầu bằng hai chữ: "Ngày ấy". Nên những gì sẽ xảy ra trong ngày ấy cũng đều có ý nghĩa tiên tri, tức là nằm trong kế hoạch cứu chuộc mầu nhiệm của Chúa. Ở đây Chúa lại còn gọi Êlyaqim là tôi tớ, danh xưng mà Người chỉ dành cho những kẻ được chọn một cách đặc biệt như Abraham, Môsê và Đavít, trước khi áp dụng một cách tuyệt đối và vĩnh viễn cho Đấng Cứu Thế.

Chúng ta thật phải lấy làm la vì thấy Chúa săn sóc đến Êlyaqim một cách khác thường. Chính tay Người sẽ mặc áo dài cho ông, thắt lưng cho ông và đặt quyền bính vào tay ông. Chúa ban áo dài cho ai là muốn người đó được lãnh chức tư tế; và khi Người thắt lưng cho họ là muốn cho quyền bính của người đó được chặt chẽ và vững vàng. Người còn đặt chìa khóa nhà Đavít trên vai Êlyaqim. Cử chỉ này chúng ta chỉ hiểu được khi nhớ tới thời phong kiến và xa xưa hơn nữa. Mọi thị trấn và thành phố đều có tường thành kiên cố vây quanh và các cửa ra vào đều hết sức quan trọng. Các cánh cửa thành do đó đều chắc chắn, nặng nề và khóa bằng các then gỗ lớn, không thể cầm bằng tay mà phải vác trên vai. Và vì thế khi đã đóng mở rồi thì chẳng ai ra vào trái lệnh được nữa.

Sau cùng Chúa con hứa cắm Êlyaqim xuống như một cái đanh nơi đất cứng, để giống như một lều vải đã được cột chặt vào đất không ai nhổ lên được nữa... Triều đại của Elyaqim không những sẽ vững bền mà còn vẻ vang và được lòng dân (câu 21 và 23).

Nhưng lịch sử cho thấy sự thật không được như vậy. Elyaqim được lên chức giám hộ thật: nhưng rồi cái đanh ấy cũng đã bị nhổ đi. Dân Chúa suy nghĩ lại về những lời sấm long trọng kia. Người ta nhận ra rằng Êlyaqim chỉ là hình ảnh và là cớ để Chúa mạc khải kế hoạch cứu độ sâu xa của Người. Đấng mà Người nhắm kêu gọi và tuyển chọn sẽ không là ai khác chính Đức Yêsu Kitô; và cũng không phải chỉ là Đức Kitô lịch sử sinh sống ở Do thái mà là Chúa Yêsu Kitô viên mãn hằng ở cùng Hội Thánh. Đức Yêsu đang cai trị Hội Thánh. Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và về Hội Thánh trong kế hoạch ấy. Chúng ta hãy xem Hội Thánh đã được xây lên như thế nào để đáp ứng lời tiên tri trên.

B. Phêrô Là Đá Xây Lên Hội Thánh

Hôm ấy Đức Yêsu đi cùng môn đệ đến địa hạt Caisaria. Chi tiết nơi chốn này cũng đáng để ý hầu chúng ta thấy rằng Hội Thánh của Chúa sẽ vượt ra khỏi ranh giới Do thái ngày xưa và bao gồm tất cả dân ngoại.

Đức Yêsu hỏi môn đồ: dư luận người ta nghĩ Người là ai? Người muốn biết tâm tư của mọi người sau một thời gian giảng đạo để chuyển sang một giai đoạn mới.

Môn đồ trả lời: kẻ bảo là Yoan Tẩy giả; kẻ bảo là Êlya; kẻ khác lại nghĩ là Yêrêmya hay một tiên tri nào khác. Thực ra môn đồ đã bắt đầu nói đến ý kiến của Hêrôđê vì ông này có mặc cảm đã giết Yoan Tẩy giả nên thấy Đức Yêsu dường như là hiện thân của vị tiền hô. Rồi họ đã kể đến dư luận chung hơn, nghĩ Đấng Thiên sai sẽ là Êlya trở lại. Một mình Matthêô đưa ra ý kiến Đức Yêsu là Yêrêmya vì có dư luận cho rằng Đấng Thiên sai cũng sẽ là nhà tiên tri bị bắt bớ. Nhưng nếu chẳng ý kiến nào trên đây được ưu thế, thì đây là ý kiến chắc không thể sai được: Đức Yêsu là một trong các vị tiên tri thời danh kia. Đó là dư luận chính thức của Do thái giáo thời bấy giờ. Giới tư tế cho rằng thời tiên tri đã mãn. Vậy nếu Đấng Thiên sai sẽ đến là tiên tri, thì Người chỉ có thể là một trong các tiên tri "lớn" trước đây trở lại.

Dù sao cách trả lời của môn đồ cũng cho thấy mọi người đã công nhận uy thế của Đức Yêsu. Người ta chưa biết đúng Người là ai, nhưng họ đã tin Người là Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn để làm một công việc rất lớn lao nào đây. Nếu dùng lại danh xưng trong bài đọc 1 nói về Êlyaqim, ta có thể bảo thiên hạ bấy giờ đều đã coi Đức Yêsu là người tôi tớ của Thiên Chúa rồi.

Còn tâm tư của chính các môn đồ thì sao?

Phêrô "lên tiếng", tức là đã nói thay cho cả đoàn rằng: "Thầy là Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Có thật Phêrô đã nói như thế không? Vì trong Marcô và Luca, ông chỉ thưa: Thầy là Kitô. Còn những chữ "Con Thiên Chúa hằng sống" là của riêng sách Tin Mừng Matthêô và dường như là thành ngữ tuyên xưng đức tin của Hội Thánh sau ngày Đức Yêsu hiển vinh. Nếu thực sự như vậy thì càng chứng tỏ trong đoạn Tin Mừng này, Phêrô được coi như gắn liền với Hội Thánh. Lời tuyên xưng của ông trở thành đức tin đã được ban cho Hội Thánh. Hội Thánh đang nằm ở trong con người ông. Nói đúng hơn, Hội Thánh đang được xây lên từ ông.

Quả vậy, ông vừa dứt lời thì Đức Yêsu đã mừng rỡ tuyên bố như đứng trước một mạc khải mới: "Con có phúc, hỡi Simon con Yôna, vì không phải thịt máu mạc khải cho con biết điều ấy nhưng là Cha Ta đấng ngự trên trời”. Nếu không phải “những yếu tố” loài người nói lên điều tuyên xưng kia, thì Simon đã trở thành dụng của Cha trên trời rồi.

Chúa Cha muốn dùng Simon vào việc nào đây? Đức Yêsu sắp ra đi chịu chết cứu chuộc nhân loại, thì hẳn Simon được thiên định hợp tác trong công cuộc này, một công cuộc còn phải nối dài trong mọi thế hệ. Và như vậy lời tiên tri về Êlyaqim, như đã nói ở trên, cũng phải được thực hiện nơi Simon qua Đức Yêsu.

Thế nên Đức Yêsu đã phán tiếp: Simon, từ nay con sẽ gọi là Phêrô, là Thạch, là Đá; con sẽ có một định mệnh mới là trở nên Đá kiên cố để Ta xây Hội Thánh của Ta trên Đá này. Cửa hỏa ngục, tức là sức mạnh của tử thần và tà thần muốn công phá cũng không làm gì được. Vì như trên đã nói "Cửa thành" là nơi tung sức trong thành ra và cũng là ngõ để kẻ thù tấn công vào. Nói cho đúng, Phêrô không phải là cửa thành vì chính Đức Yêsu mới là cửa vào dàn chiên; nhưng Hội Thánh xây trên Đá Phêrô sẽ phải chịu sức tấn công của cửa hỏa ngục. Và khi nói như vậy chúng ta không được hình dung Hội Thánh luôn luôn ở thế thủ. Chúa không nói Hội Thánh chịu tấn công. Người khẳng định: cửa hỏa ngục không làm gì được Hội Thánh. Vì khi làm việc rao giảng Phúc âm và làm các Bí tích, Hội Thánh đâu có ở thế thủ. Nhưng hỏa ngục vẫn không làm gì được. Người ta vẫn tin theo lời giảng dạy của Hội Thánh và đi vào Nước Trời.

Như vậy Hội Thánh đã thực hiện lời tiên tri về Êlyaqim: đó là cái đanh Chúa đã cắm xuống đất cứng không thể nhổ lên được nữa. Và như Êlyaqim đã được trao chìa khóa thành, thì Phêrô đã được trao chìa khóa Nước Trời. Mà chìa khóa ở đây như trên kia đã nói không nhỏ bé nhẹ nhàng đâu, nhưng là then gỗ thật lớn phải vác; và khi đã đóng mở thì chẳng ai làm ngược lại được nữa. Ở đây Đức Yêsu còn đi xa hơn, coi công việc của Phêrô là chính công việc của Thiên Chúa; Phêrô và Hội Thánh làm thế nào ở dưới đất, trên trời cũng quyết định như vậy.

Thật ra để chỉ công việc của Phêrô, Đức Yêsu không nói là đóng mở, mà là trói mở. Nhưng trói mở là cột lại và tháo ra, là cho vào và cấm vào; và như vậy cũng là đóng mở cửa Nước Trời. Và nếu phải xác định rõ hơn công việc này, có lẽ chúng ta có thể dừng đại ý tưởng của đức Kitô khi nói về Biệt phái. Người trách họ đã không để cho người ta vào Nước Trời, vì "giáo lý" của họ. Như vậy, quyền đóng mở cửa Nước Trời của Phêrô trước tiên nên được hiểu là quyền giáo huấn, dạy dỗ đức tin để người ta được sống đời đời.

Do đó, chúng ta thấy lời tiên tri về Êlyaqim trở nên lu mờ trước Lời Chúa phán với Phêrô, chứng tỏ Cựu ước chỉ là hình ảnh báo trước thực tại Tân ước; và khi thực tại đến, hình ảnh không còn giá trị như trước nữa. Vậy nếu Dân chúa đã mừng rờ hân hoan đón nhận lời tiên tri về Êlyaqim như là lời cứu độ thì chúng ta ngày nay càng phải hân hoan mừng rỡ hơn nữa khi đọc Lời Hứa về Phêrô và Hội Thánh. Đó là tâm tình mà bài Thánh thư hôm nay muốn gợi lên.

C. Tạ Ơn Thiên Chúa Về Mầu Nhiệm Hội Thánh

Phaolô muốn kết thúc những chương suy nghĩ về số phận dân ngoại và nhất là số phận Israel. Người thấy đó là kế hoạch Thiên Chúa đã trù liệu cho Hội Thánh. Cả dân ngoại, cả Israel đã lầm lạc và lầm than trong tội bất vâng phục, để làm nổi bật tình thương nhưng không và vô biên chan chứa trong Hội Thánh. Thế nên Thánh nhân kêu lên: “Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan và thượng trí của Thiên Chúa”.

Đó là tiếng nói của tâm hồn dạt dào tình cảm mến, nhưng cũng là những tư tưởng thật đắn đo. Lịch sử dân ngoại và lịch sử dân Israel là gì nếu chẳng phải là lịch sử cứu độ, lịch sử Chúa trải tình thương vô biên quảng đại trên loài người tội lỗi? Dĩ nhiên ơn cứu độ của Người nằm trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhưng mầu nhiệm này không phải là một sự kiện xảy ra trong một lúc. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi như thế. Mầu nhiệm Chúa Kitô đã chan chứa suốt thời Cựu ước chi phối cả lời tiên tri về Êlyaqim; mầu nhiệm ấy đang lan rộng trong Hội Thánh cho đến ngày nào đạt tới tầm mức tuyệt vời của Thân thể Đức Kitô.

Đó là kế hoạch sâu thẳm chỉ Thánh Thần mới dò được. Mọi sự giàu có phong phú đang chảy ra trong kế hoạch này. Thật là kế hoạch khôn ngoan mà thượng trí Thiên Chúa đã nghĩ ra để chúng ta được mọi ơn thiêng trong Đức Kitô và nơi Hội Thánh. Và tất cả như vậy là vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, đã tự ý ban Đức Kitô cho chúng ta, đã chọn Phêrô một cách nhưng không để xây nên Hội Thánh. Mọi sự đều do Người, nhờ Người và vì Người.

Do đó chúng ta phải tạ ơn Người. Và biết ơn cụ thể nhất là đi vào trong kế hoạch thâm sâu của Người, tức là vào sống trong mầu nhiệm Đức Kitô và mầu nhiệm Hội Thánh.
Chính những mầu nhiệm ấy sắp được cử hành trên bàn thờ bây giờ để khi tham dự, chúng ta được kết hợp với Đức Kitô là người tôi tớ mà Thiên Chúa đã sủng mộ và tuyển chọn một cách đặc biệt để đưa chúng ta, tức là cả dân ngoại và Israel vào Hội Thánh xây trên Đá Phêrô.

---------------------------------

 

29/6-139: Khuôn mặt Đức Kitô

 

Chúng ta vừa mới nghe thánh Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai tuyên xưng: - Thày là Đức 29/6-139


Chúng ta vừa mới nghe thánh Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai tuyên xưng:

- Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.

Đây là lần đầu tiên các ông đã làm được một hành động tuyên xưng đức tin của mình. Tuy nhiên, để làm được như vậy, các ông đã phải trải qua nhiều tháng chung sống với Ngài, chứng kiến những việc kỳ diệu Ngài đã làm và lắng nghe những lời giảng dạy đầy khôn ngoan của Ngài. Đức tin của các ông đã được phát triển dần dần qua nhiều giai đoạn khác nhau.

Sự kiện thứ nhất đập vào mắt các ông, đó là những phép lạ Chúa Giêsu đã làm, qua đó các ông nhận thấy nơi Ngài có một quyền năng tuyệt đối, quyền năng của một vị Thiên Chúa.

Thực vậy, sau khi Chúa Giêsu đã chuyển cho sóng yên biển lặng, các ông đã thắc mắc về Ngài:

- Ngài là ai mà sóng gió cũng phải vâng phục.

Đây không phải là một phép lạ duy nhất, mà còn biết bao nhiêu phép lạ khác nữa. Mỗi lần chứng kiến một phép lạ là một lần các ông ngạc nhiên. Và từ chỗ ngạc nhiên ấy mà niềm tin mỗi ngày một trở nên kiên vững. Ngay cả dân chúng cũng đã từng đặt vấn đề:

- Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?

- Phải chăng Ngài chính là vị tiên tri sẽ đến trong thế gian?

Sự kiện thứ hai khiến các ông phải lưu ý đó là những lời Ngài giảng dạy.

Thực vậy, Ngài giảng dạy như một Đấng có quyền, chứ không như bọn biệt phái và luật sĩ.

Đọc lại chương năm Phúc âm theo thánh Matthêu, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó:

- Các ngươi đã nghe người xưa dạy rằng…Còn Ta, Ta bảo các ngươi…

Ngài đã xách định vai trò của Ngài là làm cho hoàn hảo lề luật của Maisen và các tiên tri bằng chính giới luật yêu thương của mình:

- Các ngươi đã nghe người xưa dạy rằng: hãy yêu thương anh em và ghét bỏ kẻ thù. Còn Ta, Ta bả các ngươi: hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ các ngươi.

Sự kiện thứ ba các ông đã quan tâm, đó là quyền tha tội.

Thực vậy, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã nói với các bệnh nhân:

- Tội con đã được tha.

Lời nói này đã làm cho bọn biệt phái và luật sĩ tức tối. Họ đã kết án Ngài:

- Ông ta lộng ngôn phạm thượng, bởi vì ngoài Thiên Chúa, không ai có quyền tha tội cả.

Mặc dầu vậy, Ngài vẫn một mực làm sáng tỏ vấn đề. Ngài nói:

- Để cho các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất, Ngài phán với người bất toại: con hãy chổi dậy, vác chõng mà về.

Lập tức người bất toại được khỏi.

Sau cùng, sự kiện thứ tư đã đánh động các ông, đó là tình thương bao la Ngài đã dánh cho đám đông.

Thực vậy, Ngài đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành, không những đã chăm sóc từng con chiên, mà hơn thế nữa, còn sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để lên đường tìm kiếm những con chiên lạc và nhất là đã chịu chết trên thập giá để đàn chiên được sống, như lời Ngài xác quyết:

- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.

Tất cả những sự việc ấy đã đem lại cho các môn đệ một niền tin kiên vững, một xác tín sâu xa. Thế nhưng, chúng ta vẫn có thể tự hỏi:

- Đâu là yếu tố căn bản của đức tin?

Bởi vì biết bao nhiêu người đương thời cũng đã nhìn thấy những việc Chúa làm, cũng đã lắng nghe những lời Chúa giảng, nhưng họ vẫn không nhận biết Ngài. Tại sao thế?

Tôi xin thưa:

- Ngoài việc tìm tòi và suy luận, chúng ta còn cần phải có một yếu tố căn bản khác nữa, đó là ơn Chúa, bởi vì chính Thiên Chúa mới là Đấng mở mắt cho Phêrô để ông tuyên xưng: Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Đây cũng là điều chính Chúa Giêsu đã hé mở cho chúng ta được biết:

- Không phải xác thịt hay máu huyết nhưng là Cha Thày ở trên trời đã tỏ cho con biết.

Trong thinh lặng và cầu nguyện, Chúa Giêsu sẽ tỏ cho chúng ta biết Ngài là ai.

---------------------------------

 

29/6-140: Thánh Phêrô


(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)

 

Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, (1978-1998) người 29/6-140


Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, (1978-1998) người ta đã thống kê được những con số chính xác sau đây. Ngài đã thực hiện:

- 84 chuyến công du và hành hương ngoại quốc.
- 134 chuyến viếng thăm mục vụ trong nước Ý.
- 3.078 bài nói chuyện và bài giảng.
- 700 chuyến đi thăm nhà tù, dòng tu, chủng viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, giáo xứ.

Người đã viết:

- 13 Thông điệp.
- 36 Tông thư.
- 15 Thư cho các nhân vật và các nhóm đặc biệt.
- 9 Tông thư tổng kết sau Thượng Hội Đồng.

Ngài đã đọc diễn văn cho:

- 600 chuyến “Đi viếng Mộ Thánh Phêrô” của các Giám mục.
- Hàng 1000 diễn văn khác.

Ngài đã công bố:

- Giáo Luật Mới và sách Giáo lý Công giáo ( Giáo luật cũ đã công bố cách đây 400 năm )

ngài đã tôn phong:

- 798 chân phước.
- 280 thánh mới (trong đó có 117 vị thánh Tử đạo Việt Nam 19/6/1988).
- Chưa kể 233 vị thánh Tử Đạo tại Tây Ban Nha.
- Tổng cộng 145 buổi lễ phong thánh.

Ngài đã chọn:

- 2650 Giám mục trong số 4200 Giám mục trong Hội thánh.
- 159 Tân Hồng Y.
- Thiết lập quan hệ ngoại giao với 64 nước, phục hồi quan hệ ngoại giao với 6 nước khác, nâng tổng số các quốc gia có liên hệ với Tòa Thánh là 168 nước.

Đó là những con số biết nói trong 20 năm phục vụ Chúa và Giáo Hội của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị Giáo hoàng thứ 264 kế vị thánh Phêrô tông đồ, giáo hoàng tiên khởi, đã được Chúa trao cho quyền tối thượng. Tin mừng hôm nay nhắc lại sự kiện quan trọng ấy.

Khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ về thân thế của Người, lập tức Phêrô được Chúa Cha mạc khải đã mạnh dạn thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Người liền khen ông là người có phúc và trao cho ông quyền trên Giáo Hội: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy, dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.

 Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Giêsu đã tuyển chọn và tấn phong Phêrô làm thủ lãnh của Giáo Hội. Người đã đổi tên Simon của ông Thành Phêrô, tiếng Aram là Kêpha, nghĩa là Tảng Đá, tượng trưng cho sự vững chắc trường tồn mà Thánh Kinh chỉ dành cho một mình Thiên Chúa: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi”. Người đã xây Hội Thánh của Người trên tảng đá Phêrô và hứa bảo vệ Hội Thánh khỏi mọi tấn công của tử thần. Người còn trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với tối thượng quyền này, Phêrô sẽ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên đã được trao phó.

Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh Giáo Hội vì Phêrô đã mau mắn tuyên xưng Đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Vì chỉ ít phút sau đó, Đức Giêsu đã phải nặng lời với ông: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy”.

 Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm đầu Hội Thánh vì Phêrô đã quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đay cũng chẳng bao giờ vấp phải chết, không ai ra tay tra khảo, chỉ có mấy người đây tớ thượng tế gặng hỏi, ông đã thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi không biết người ấy”.

Thế là đã rõ, Đức Giêsu đã không chọn một vị thánh để dẫn dắt Hội Thánh của Người, mà đã chọn mọi dân chài, ít học, nóng nảy, bộc trực, sa ngã, và … phản bội. Vượt lên những khuyết điểm, sai lầm và yếu đuối của Phêrô, hẳn Đức Giêsu đã nhiền thấu suốt tâm can của Phêrô một tâm tình khiêm tốn thẳm sâu và một lòng sám hối chân thành.

Phêrô, một con người khiêm tốn:

Sau khi Đức Giêsu giảng bên bờ hồ Ghennêxanét, Người bảo Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Simon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Kinh nghiệm chài lưới của ông đã quá rõ, đánh cá ban ngày chẳng hy vọng gì, nhưng ông không cãi, ông khiêm tốn vâng lời. Khi kéo lên một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi muốn rách lưới, ông không hả hê vui mừng, cũng chẳng kinh ngạc trước phép lạ cả thể, mà nghĩ ngay đến thân phận bất xứng của mình. Ông chạy đến sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Trước sự khiêm tốn thẳm sau của Simon, Đức Giêsu không do dự, quyết định tuyển chọn ông: “Đừng sợ, từ nay sẽ là người cứu sống người ta”.

Phêrô, một con người sám hối:

Sau khi nghe Đức Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn và cái chết của Người, thì phêrô nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”. Nhưng Đức Giêsu đã mắng ông thậm tệ, còn gọi ông là Satan. Thực tình ông chưa hiểu sứ mạng thiên sai của Người, ông tưởng làm thế là thương Thầy, nhưng thật ra là ông đang nối giáo cho giặc. Ông chẳng hiểu gì cả, nhưng ông biết mình sai, ông im lặng, không cãi lại, âm thầm ăn năn.

Ông tưởng mình sẽ không bao giờ sai phạm nữa, chẳng bao giờ sa ngã nữa. suốt ba năm theo Thầy, chắc ông sẽ mạnh mẽ hơn trong Đức tin, sẽ trung kiên với Thầy cho đến cùng. Thế nên, khi nghe Đức Giêsu tâm sự trong bữa tiệc ly: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy”, thì Phêrô không thể nào tin được. Người còn nói đích danh Phêrô sẽ chối Thầy ba lần. Ông càng bực tức và quả quyết hơn: “Dẫu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Nhưng chuyện gì đã xảy ra đêm hôm ấy, chúng ta đều biết rõ. Thánh sử Luca ghi lại: “Ông Phêrô trả lời cho tên đầy tớ vị thượng tế: “Này anh, tôi không biết anh nói gì!” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn Phêrô…”. Hai ánh mắt gặp nhau. Chúa biết hết rồi. Phêrô xấu hổ quá đỗi, nước mắt tuôn trào, ông lầm lũi ra khỏi pháp đình, tan nát cõi lòng, bước chân nặng trĩu.

 Đêm hôm đó, một đêm dài nhất trong đời, ông không thể nào ngủ được, ông gặm nhấm tội lỗi của mình, tại sao mình có thể phản bội Thầy Được. Hóa ra mình chỉ là cát bụi chứ đâu là Tảng Đá, là tội nhân chứ đâu phải là thánh nhân. Ông khóc òa lên, khóc mãi, khóc mãi, cho đến khi ông nhớ lại lời của Thầy: “Thầy không bảo là (phải tha) đến 7 lần mà là 70 lần 7”. Và ông biết mình đã được Thầy tha thứ, ông biết mình đã được tha ngay từ cái nhì của Thầy trên dinh thượng tế. Ông quên đi quá khứ tội lỗi để hướng đến tương lại của ơn thánh: Cảm nghiệm sâu xa của lòng Chúa khoan dung tha thứ. Sau này Phêrô đã khuyên bảo các tín hữu của mình: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em”.

---------------------------------

 

29/6-141: Thánh Phêrô

 

Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút 29/6-141


Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút này dường như Chúa Giêsu Kitô hiện diện giữa chúng ta, Ngài cũng đặt câu hỏi với từng người, trước hết là câu: “Người ta và những kẻ khác, theo quan niệm trần tục của con người thì họ nghĩ Thầy là ai?”.

Chúa Giêsu Kitô là một thực tại, một con người lịch sự đã sống thật trên mặt đất này tại vùng Palestine cách đây hơn 2000 năm. Đây là một thực tại đầy mầu nhiệm, những việc lạ Chúa đã thực hiện, trước đó là phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, nhưng họ không thể nhìn nhận ra thực tại Thần Linh của Chúa là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Họ nhìn vào Chúa Giêsu như một tiên tri, một Elia, một Gioan Tẩy Giả, một người chuẩn bị nhân loại cho Thiên Chúa, nhưng chưa phải là Thiên Chúa. Những kẻ khác thời Chúa Giêsu, trên quan điểm trần tục không được Thiên Chúa soi sáng, như Phêrô đã không nhận ra Chúa Giêsu Kitô là ai? Và các Tông đồ đã kể lại cho Chúa nghe về các nhận xét của dân chúng xung quanh. Nhưng những kẻ khác, những kẻ ngoại chưa tin Chúa, không nhận ra Chúa, điều đó cũng chưa quan trọng đối với Ngài cho bằng chính những người mang tên là người đồ đệ của Chúa, là người Kitô mà lại không nhận ra Ngài.

Câu hỏi thứ nhất: “Người ta nghĩ Thầy là ai”, chỉ là một câu hỏi phụ, câu hỏi nhập đề để gợi ý thức nơi các đồ đệ. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Một người phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của mình đối với Chúa, điều Chúa muốn không phải là một câu trả lời suông ngoài môi miệng như một học trò trả bài giáo lý cho thầy giáo trong lớp: “Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế muôn dân”. Câu trả lời suông ngoài môi miệng như câu trả lời thuộc lòng bài giáo lý thì tương đối dễ, nhưng điều Chúa nhắm đến là lòng xác tín bên trong. Đức tin chân thật như là hồng ân từ Thiên Chúa Cha trao ban cho, ví như câu trả lời được ơn Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn Phêrô đã mạnh mẽ trả lời với sự linh ứng của Thiên Chúa Cha: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Chúa Giêsu xác nhận không phải xác thịt nhưng là Cha trên trời đã ban cho con, đã soi sáng cho con. Chính thái độ xác tín đức tin này là điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Thái độ xác tín đức tin đó là hồn ân của Chúa Cha ban cho: “Nếu ai không đến được với Thầy, nếu không được ơn Thiên Chúa Cha soi sáng và lôi kéo họ đến”. Chính thái độ xác tín đức tin này là khởi đầu và nền tảng của mọi sứ mạng Kitô. Thánh Phêrô đã nhận được sứ mạng: “Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, con là đá trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”. Phêrô đã nhận được sứ mạng đó sau khi đã tuân phục ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha và mạnh mẽ tuyên xưng: “Thầy là Con Thiên Chúa”.

Mỗi người chúng ta cần có niềm xác tín này để có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa đã trao phó cho, là làm chứng cho Chúa trên trần gian này giữa anh chị em xung quanh. Sứ mạng đã khó nhưng niềm tin xác tín nơi mỗi người lại khó hơn hết, vì nơi mỗi người cũng có thể nói là có hai con người, một con người trần tục và một con người mới. Con người mới này được ân sủng thánh hóa, soi sáng hướng dẫn. Con người cũ có những thói hư tật xấu, suy tưởng theo những lý luận trần tục, xa rời chương trình của Thiên Chúa, khó mà tuyên xưng đức tin vào Chúa, khó mà trung thành với đức tin tuyên xưng này.

Thánh Phaolô đả cảm nghiệm được kinh nghiệm đức tin này nơi chính bản thân, nên đã thốt lên: “Tôi không làm điều tốt mà tôi ưa thích, nhưng lại làm điều xấu mà tôi không muốn”. Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi, giữa tin và không tin đã làm cho Ngài đôi khi mệt mỏi và xin Chúa hãy can thiệp cất đi điều ngài không muốn. Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi, đừng lo”. Chính vì thế hơn ai hết, thánh Phalô Tông đồ đã chính bày cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng cộng tác với ân sủng Chúa để mặc lấy con người mới, từ bỏ con người cũ để tuyên xưng đức tin, để trung thành với đức tin.

Trở lại bài Phúc âm hôm nay, chúng ta nhận thấy thêm một điều nữa là, mặc dù Phaolô đã có đôi lần sống theo con người cũ, con người trần tục, nhưng Chúa Giêsu không thay đổi chương trình, Ngài đã chọn Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi”. Ơn Chúa luôn luôn ban xuống tràn đầy, Chúa không hủy bỏ chương trình Ngài muốn thực hiện nhờ qua mỗi người, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng ân sủng của Chúa. Chúa muốn nhắn nhủ Phêrô, nhắn nhủ mỗi người “khi nào con trở lại hãy nâng đỡ củng cố anh em con”. Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô hãy biết thông cảm nâng đỡ cho anh em, vì chính ông cũng được Chúa thương tha thứ và nâng đỡ.

 Thêm một bài học nữa cho mỗi người chúng ta là hãy cố gắng sống thánh thiện nơi chính bản thân mình và nâng đỡ những bất toàn, những sa ngã, những tội lỗi của anh em, xin Chúa gìn giữ chúng con trong Đức tin và trung thành với Tin Mừng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.

---------------------------------

 

29/6-142: Đào tạo

 

Tin Mừng qua câu chuyện này cho thấy rằng sự ưu tiên của Phêrô không phải là một điều mà 29/6-142


Tin Mừng qua câu chuyện này cho thấy rằng sự ưu tiên của Phêrô không phải là một điều mà Giáo Hội sau này đã nghĩ ra. Nó đã có ngay từ thuở ban đầu trong tâm trí và ý muốn của chính Đức Giêsu.

Phêrô là một người có tính cách hay nhất trong Tin Mừng. Ông rõ ràng có những phẩm chất của người lãnh đạo. Nhưng rõ ràng ông cũng có những sự yếu đuối rất lộ liễu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có lúc ông rất nhiệt thành rồi có lúc ông lại thờ ơ. Một đôi khi ông giống như một tảng đá, những lần khác ông giống như cọng bún. Ông rất người. Chắc chắn, ông không phải là ý tưởng để trở thành thủ lãnh của Giáo Hội Đức Kitô.

Nhưng rất lý thú, khi thấy Đức Giêsu đối xử với ông như thế nào. Người đã giúp đỡ ông trở thành một người sẵn sàng thí mạng sống mình vì Người, và Phêrô đã làm như thế. Sự trưởng thành này là một việc tuần tự, và đã có những lúc thụt lùi. Nhưng sự trưởng thành ấy xảy ra như thế. Sống là thay đổi và trở nên hoàn thiện là thay đổi thường xuyên.

Chúng ta hãy xem xét kỹ vào mối quan hệ giữa Đức Giêsu và Phêrô. Điều này sẽ giúp đỡ chúng ta trưởng thành như một con người và như những môn đệ của Đức Giêsu. Và nó sẽ chỉ cho chúng ta cách tốt nhất để giúp đỡ những người chúng ta yêu thương được trưởng thành.

Mọi sự đã bắt đầu khi Đức Giêsu kêu gọi ông. Dĩ nhiên Đức Giêsu đã thấy tiềm năng của ông. Tất cả chúng ta cần có ai đó tin tưởng mình. Khi có được sự tự tin nếu không có một ai khác tin tưởng chúng ta.

Phêrô không nghĩ ông xứng đáng với sự kêu gọi ấy. Ông nói “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa tôi vì tôi là một người tội lỗi”. Đức Giêsu không phủ nhận Phêrô là người tội lỗi, nhưng Người đòi hỏi ông trưởng thành. Chúng ta cần được yêu sách. Phải có những yêu sách đặt ra cho chúng ta. Không đòi hỏi một điều gì đó ở một người tức là kết án người ấy một đời sống cằn cỗi.

Đức Giêsu lôi kéo ông vào công việc của Người. Người làm cho ông thành một người cộng tác trong công việc, không chỉ như một cậu bé đưa thư. Tinh thần trách nhiệm giúp cho con người trưởng thành.

Người yêu cầu ông tuyên bố lòng trung tín của ông. Có lần khi nhiều người rời bỏ Người, Đức Giêsu quay lại Phêrô và nói:”Anh cũng sẽ bỏ đi chứ?” Điều này bắt buộc Phêrô nhìn lại tâm hồn mình và đứng lại trên hai chân của mình. Điều ấy giúp ích cho sự trưởng thành.

Khi Phêrô long trọng tuyên xưng đức tin:”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu khen ông, và hứa trao cho ông trách nhiệm sau này. Tất cả chúng ta cần có sự khẳng định. Điều này động viên chúng ta có thêm lòng quảng đại.

Đức Giêsu sửa chữa ông. Khi Phêrô rút gươm ra trong vườn Giệtsimani. Đức Giêsu nói với ông, “Hãy xỏ gươm vào vỏ…” Một người Thầy phải có can đảm chỉ ra mọi sai lầm. Và học hỏi từ những sự sai lầm của mình là phần quan trọng của việc trưởng thành.

Có lần Đức Giêsu nói với ông thẳng thừng. Khi Phêrô muốn ngăn cản Người Lên Giêrusalem, Đức Giêsu nói “Satan lui đi, đừng ngăn cản ta…”. Trong những lúc đó, người Thầy phải quở trách. Nhưng có một nghệ thuật quở trách. Đức Giêsu đặt Phêrô đối đầu với khuyết điểm của ông khi ông mới tỉnh thức trong vườn:”Thế ra anh không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?”. Ích lợi gì khi gạt bỏ một người vì người này nhu nhược và thấp kém.

Đức Giêsu cũng đe dọa đoạn tuyệt với Phêrô trong biến cố rửa chân. Chúng ta có lúc phải nghiêm khắc và từ chối mọi thỏa hiệp khi đụng đến vấn đề nguyên tắc.

Đức Giêsu biết rằng khi Phêrô chối Người, thì Phêrô đã biểu lộ sự yếu đuối của mình hơn là có ác tâm. Người đã tha thứ cho Phêrô và cho Phêrô cơ hội để bắt đầu trở lại. Tất cả chúng ta đều cần có người hiểu biết sự yếu đuối của chúng ta và không loại trừ chúng ta khi chúng ta không thể thực hiện ngay những điều tốt lành.

Nhưng Đức Giêsu không bao giờ làm hư hỏng Phêrô tức phá bỏ những cơ hội làm Phêrô trưởng thành.

Sợi chỉ xuyên suốt trong mối quan hệ của Đức Giêsu và Phêrô là yêu thương. Phêrô biết rằng Đức Giêsu yêu thương ông. Tình yêu thương là không khí trong đó người ta có thể trưởng thành. Đó là tảng đá trong đời sống của Phêrô.
Chúng ta có thể tưởng tượng rằng Phêrô đã được đào tạo thành một thủ lãnh rất tốt. Một thủ lãnh phải ý thức về sự yếu đuối của mình. Kinh nghiệm chối Chúa đã giải thoát Phêrô khỏi lòng Kiêu ngạo và tin cậy mù quáng vào sức lực của mình. Đồng thời, nó cho ông khả năng hiểu được sự yếu đuối của những người khác.

Câu chuyện của Phêrô cũng là câu chuyện của chúng ta. Chúng ta cũng hay dao động ngả nghiêng. Có những lúc chúng ta mạnh mẻ, và những lúc khác chúng ta yếu đuối. Không có mối tương quan nồng ấm với Đức Kitô, chúng ta chỉ ở vòng ngoài của đạo chúng ta. Chúng ta giống một người nói về tình yêu so với một người sống trong tình yêu.

---------------------------------

 

29/6-143: Câu trả lời

 

Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta có một ví dụ về sự thăm dò ý kiến. Và chính Đức Giêsu đã 29/6-143


Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta có một ví dụ về sự thăm dò ý kiến. Và chính Đức Giêsu đã chỉ đạo cuộc thăm dò. Dù nó rất hạn chế nhưng nó tập trung trên một vấn đề chính: căn tính của Đức Giêsu.

Ngày nay, chúng ta có quá nhiều cuộc thăm dò. Một cuộc thăm dò chúng ta thấy có nhiều ý kiến trái ngược nhau về một vấn đề hay cá nhân đặc thù nào đó. Cuộc thăm dò trong Tin Mừng cũng cho thấy điều đó. Chúng ta thấy người ta đưa ra những câu trả lời khác nhau cho vấn đề chủ yếu: Đức Giêsu là ai.

Câu hỏi Đức Giêsu đưa ra cho các Tông đồ không phải là một câu hỏi quanh co hoặc thông thường. Đó là một câu hỏi rất nghiêm túc. Đó là một vấn đề xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng. Nó là vấn đề chính của Tin Mừng. Nó liên quan đến căn tính của Đức Giêsu. Mọi vấn đề khác xoay quanh vấn đề ấy. Người không đưa ra câu hỏi ấy để chơi. Đó là một vấn đề mà rõ ràng mỗi người đều phải đặt ra: ”Ông Giêsu này là ai vậy?”.

Nghe được ý kiến mà những người khác nói. Đức Giêsu quay lại các Tông đồ và hỏi “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Không chút nghi ngờ, Người đã biết điều họ suy nghĩ. Tuy vậy, Người cho họ cơ hội để họ bày tỏ ý kiến của mình. Chúng ta chỉ có thể ngạc nhiên về cách thức mà Đức Giêsu không nói gì về Simon, nhưng chờ đợi Chúa Cha trước hết nói với Phêrô.

Điều quan trọng đối với chúng ta là đưa ra câu trả lời của mình. Phải có khả năng tuyên xưng niềm tin và giá trị của một Kitô hữu. Sẽ chưa đủ nếu chúng ta lặp lại những lời giải đáp chính thức. Chúng ta phải làm thành đức tin của mình. Một đức tin mua giá rẻ là một đức tin nghèo nàn.

Trong quá khứ, mọi việc về đức tin đều được đọc sẵn cho chúng ta. Chúng ta không chỉ có sẵn câu đáp mà còn có sẵn câu hỏi. Và cũng không bao giờ có người hỏi chúng ta “Bạn nghĩ gì?” Chúng ta không có cơ hội để tranh luận, để quan tâm tra hỏi về một điều gì. Kết quả là chúng ta phải có khả năng đưa ra câu trả lời đúng, nhưng nếu bắt chúng ta phải nói tại sao mình tin vào chân lý này, nọ hoặc chân lý ấy có ý nghĩa gì với chúng ta, chúng ta thường lúng túng.

Ngày nay, có thể có một nguy hiểm khi đi quá xa trong hướng ngược lại. Nghe một số người nói, chúng ta hẳn sẽ nghĩ rằng không có những chân lý và giá trị khách quan. Điều gì tôi nghĩ, tôi cảm nhận, tôi muốn điều ấy mới quan trọng. Nhưng một quan điểm riêng tư như thế có thể sai lầm. Đức Giêsu khen ngợi Phêrô, không phải vì ông có câu trả lời của riêng ông mà bởi vì ông có câu trả lời đúng.

Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy rằng Phêrô không hiểu hết điều ông nói. Khi ông thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Con Thiên Chúa hằng sống, ông không hiểu Đức Giêsu phải là Đấng Mêsia chịu đau khổ. Có điều ông còn phải học, và học bằng con đường gian khổ.

Chúng ta phải trưởng thành trong kiến thức về đức tin. Điều quan trọng là biết tin tưởng vượt qua xác tín cá nhân. Chúng ta càng có nhiều người như thế trong Giáo Hội, thì Giáo Hội càng được thiết lập vững chắc trên đá tảng.

Câu hỏi chủ yếu cho mỗi người chúng ta: Đối với tôi, Đức Kitô là ai? Người có là Con Thiên Chúa hằng sống không? Nếu đúng là thế, niềm tin ấy tác động như thế nào vào cách sống của tôi?

---------------------------------

 

29/6-144: Đích thực

 

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy sự ưu tiên của Phêrô không phải là một điều do Giáo 29/6-144


Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy sự ưu tiên của Phêrô không phải là một điều do Giáo Hội về sau đặt ra. Nó đã có ngay từ lúc ban đầu, thật vậy, trong tâm trí và ý muốn của Đức Kitô. Nhiều chi tiết trong Tin Mừng cho thấy vị trí thủ lãnh của Phêrô trong nhóm mười hai. Ví dụ như ông được giới thiệu như người phát ngôn của nhóm mười hai và trong danh sách nhóm này, lúc nào tên ông cũng đứng đầu.

Dĩ nhiên Tin Mừng không chừa Phêrô ra, nhưng chỉ ra rõ ràng những điểm mạnh và điểm yếu trong đời sống của ông. Chắc chắn điểm yếu nhất là khi ông chối Chúa. Biến cố kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay, lúc ông tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu chắc chắn là thời điểm tốt đẹp nhất của ông.

Đức Giêsu có thể điều hòa thời điểm này với va chạm của thực tế, trong trường hợp Phêrô tỏ ra tự mãn. Thay vì thế, Người khen ngợi và chúc lành cho Phêrô và hứa ban trách nhiệm và quyền bính cho ông.

Trong tính cách của Phêrô, có khía cạnh vững chắc như đá tảng. Ông luôn luôn là người tiến tới. Rõ ràng ông có những phẩm chất lãnh đạo mà Đức Giêsu đã nhận ra.

Nhưng có một khía cạnh khác trong tính cách của ông, khía cạnh yếu đuối và đen tối của ông mà ông chưa biết. Nhưng ông sẽ tìm ra nó kịp thời. Điều đó chứng tỏ ông đã có một kinh nghiệm cay đắng và làm ông phải khiêm nhường. Những người ở vị trí lãnh đạo phải ý thức về sự yếu đuối của mình và đó là một điều quan trọng. Người nào hành động như thể họ không thể sai lầm tạo ra nhiều lỗi lầm và làm tổn thương đến nhiều người khác.

Điều quan trọng là phải nhớ rằng Phêrô, người đã nói: “Thầy là Đấng Mêsia Con Thiên Chúa hằng sống” cũng là Phêrô người sau này đã nói “Tôi không biết người ấy”. Nếu là một Phêrô khác, thì có thể giải thích mọi việc. Nhưng cũng chính là Phêrô ấy. Chúng ta có thể nói rằng: “Ồ, nhưng Phêrô đầu tiên mới là Phêrô chân chính và đích thực”. Nhưng điều này không đúng vì chỉ có một Phêrô.

Điều ấy có nghĩa gì đối với chúng ta? Có một chia rẽ trong Phêrô, giống như sự chia rẽ trong mỗi người chúng ta. Như Phêrô khi thì can đảm, khi thì hèn nhát và chúng ta cũng thế.

Mỗi người trong chúng ta có những lúc cao thượng và những lúc thấp hèn, và chúng ta phải rút ra sức mạnh từ những lúc cao thượng. Trong lúc không quên khía cạnh yếu đuối, chúng ta phải cố gắng hành động từ khía cạnh mạnh mẻ. Chúa mỉm cười với chúng ta trong những khi tốt lành, và nâng đỡ chúng ta trong những lúc thấp kém.

Những lúc thấp kém của người khác không làm cho chúng ta hạ thấp họ hoặc loại trừ họ. Những lúc tốt lành của họ phải giúp chúng ta thấy tiềm năng của họ, để thừa nhận và khích lệ họ. Một cách tổng quát, chúng ta thường hăm hở lên tiếng phê bình, nhưng không sẵn lòng đưa ra một lời khích lệ, và bằng cách này, chúng ta ngăn cản mọi con đường thăng tiến.

Tôi đọc được một nhận xét ở đâu đó:”Tôi thường tìm điều xấu xa của người khác và hạ bệ họ. Giờ đây, tôi cố gắng tìm một điều tốt để nói với họ và xây dựng họ”. Khi quan niệm họ không thuộc loại người nào, chúng ta nhìn xuyên qua thực tế của họ. Tốt hơn hãy đánh giá điều gì một người có hơn là nghiền ngẫm điều họ không có.

Phêrô có những khiếm khuyết và những khiếm khuyết ấy rất rõ ràng. Nhưng sức mạnh của ông như lòng quảng đại, nhiệt thành, tài lãnh đạo cũng có. Và Đức Giêsu đã thấy rằng dù ông có thế nào, tấm lòng ông vẫn lành mạnh.

Chúng ta hãy cố gắng tìm điều tốt nơi mỗi người, phát hiện nó và đưa nó ra ánh sáng, như Đức Giêsu đã làm trong trường hợp của Phêrô.

---------------------------------

 

29/6-145: Viên đá

 

Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng thánh Phêrô đã được Đức Giêsu chọn làm tảng đá để xây dựng 29/6-145


Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng thánh Phêrô đã được Đức Giêsu chọn làm tảng đá để xây dựng Hội thánh của Ngài trên đó. Nhưng ngoài tảng đá Phêrô, Chúa còn xây dựng Hội thánh của Ngài trên đá tảng nào khác nữa không? Đây là một câu hỏi thú vị. Câu hỏi thú vị này lại có câu trả lời thú vị không kém, mà lại là câu trả lời của chính tảng đá Phêrô: Thưa có, mỗi Kitô hữu cũng là một viên đá để xây dựng Hội thánh. Nguyên văn câu nói của Phêrô trong thư thứ nhất của ngài là:” Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Đền thờ thiêng liêng”.

Như thế, thánh Phêrô không dành độc quyền xây dựng Hội thánh mà chia quyền ấy cho mọi Kitô hữu. Công đồng Vaticanô II cũng nói không khác với Phêrô: mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh, mỗi người trong cương vị của mình, hoàn cảnh của mình và theo khả năng của mình.

Có một bài cầu nguyện rất đặc biệt mà tôi đã đọc trong một quyển sách. Tôi không còn nhớ tựa đề quyển sách đó, cũng không nhớ tên tác giả, nhưng vẫn nhớ nội dung lời cầu nguyện ấy mặc dù không nhớ kỹ từng lời. Đó là lời cầu nguyện của một viên gạch. Viên gạch này nằm sát chân tường. Đôi khi nó nhìn lên những viên gạch khác và trong lòng nó chợt nảy ra những so sánh, những ước ao, và nó cầu nguyện như sau:

Lạy Chúa, con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát dưới chân tường.

Con không được như viên gạch xây cửa, ở ngay tầm mắt người ta.

Con không được như viên gạch xây mặt tiền, hãnh diện nhìn người qua kẻ lại và sung sướng được người ta khen đẹp.

Con không được như viên gạch trong phòng khách, hàng ngày được người ta lau chùi đánh bóng.

Con chỉ là một viên gạch tầm thường nằm sát chân tường.

Nhưng viên gạch ấy đã suy nghĩ, rồi nó cầu nguyện thêm: Nhưng Lạy Chúa, con vui vì chỗ ở của con, con vui với nhiệm vụ của con. Con mừng vì con cũng có góp phần trong ngôi nhà xinh đẹp này. Không có phần nhỏ bé và âm thầm của con thì bức tường sẽ đổ, ngôi nhà sẽ sập. Mặt tiền xinh đẹp kia không còn, cánh cửa xinh đẹp kia không còn, phòng khách xinh đẹp kia cũng không còn.

---------------------------------

 

29/6-146: Thầy là ai?

 

Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: 'Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Hôm nay 29/6-146


Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: 'Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Hôm nay Ngài còn đặt cho mỗi người chúng ta.Hoặc trả như Phêrô: "Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống". Trả lời như vậy là rất đúng. Nhưng sợ rằng dó là một câu trả lời lý thuyết, hiển nhiên, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là xác tín của bản thân. Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc mình nghĩ thế nào, cảm nghiệm điều gì thì nói lên trung thực như vậy. Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người có câu trả lời riêng của mình. Bạn sẽ trả lời như thế nào? Riêng tôi, tôi sẽ thành thật thưa cùng Chúa như thế này: Thầy là người gây rất nhiều phiền toái cho người khác, là một gương mẫu không thế theo nổi nên dễ làm nản lòng... nhưng đồng thời Thầy là người mà con cần đến nhất, không thế thiếu trong đời con.

Trước hết, Chúa Giêsu gây rất nhiều phiền toái cho mọi người, nhất là cho những ai muốn theo Ngài. Ngài đòi hỏi quá nhiều. Và những điều Ngài đòi hỏi thường đại ngược lại với bản năng của con người. Ngài mời gọi theo con đường hẹp, và qua cửa hẹp, vác thập giá mỗi ngày. Ngài còn đòi hỏi phải từ bỏ tất cả, kể cả chính bản thân. Nhiều lúc Ngài đặt người môn đệ trước những lựa chọn rất nghiêm trọng và gay cấn. Muốn trung tín với Ngài nhiều khi phải chịu những thiệt thòi rất lớn, chẳng hạn phải hy sinh tiền của, tình yêu, gia đình, sự nghiệp, tương lai....

Và trong thực tế nhiều người đã không có đủ nghị lực để chấp nhận những hy sinh đó. Có không ít những lời bộc lộ tâm tình thành thực rất đáng được thông cảm. Một nhà kinh doanh nói: Nếu làm đúng theo lương tâm Kitô giáo thì chúng tôi bị thiệt thòi quá lớn, biết lấy gì mà bù lại được! Một bà mẹ gia đình nói lên tình trạng bối rối: Nếu giữ đúng luật Chúa thì đời sống chúng tôi sẽ vô cùng chật vật, bấp bênh. Một đôi trẻ tâm sự: Nếu không phải là người có đạo thì chuyện tình duyên của chúng tôi gỡ rối cũng chẳng có gì khó. Nhưng khổ là mình có đạo nên mới thành bế tắc. Quả thật Chúa Giêsu gây không ít phiền toái, rắc rối... làm nhiều người đau khổ. Tiếp đến, người tín hữu phải theo gương Chúa Giêsu. Nhưng gương tuyệt hảo, cao siêu của Ngài dễ làm người ta choáng váng. Chúa Giêsu không chấp nhận một lối sống tầm thường. Ngài không muốn chúng ta thánh thiện nửa vời. Ngài chỉ cho thấy một lý tưởng cao vút: hãy nên toàn thiện như Chúa Cha trên trời. Ngài vạch ra một con đường khó đi: hãy sống như Ngài, theo gương Ngài. Theo Chúa Giêsu còn khó hơn leo núi. Mà chiều cao của ngọn núi này không thể đo được bằng thước trần gian. Càng leo càng thấy cao và càng thấy dốc. Làm sao đôi lúc tránh được cơn cám dỗ ác hại nhất là bỏ cuộc vì nản lòng.

Nhưng xét cho cùng, Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Ngài là bản thân sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ chao đảo, lạc hướng, mất hết ý nghĩa. Cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều tầng lớp nông sâu khác nhau. Nhận định và ý nghĩa về mỗi sự việc tùy thuộc vào vị trí chúng ta đứng mà nhìn.

Nếu ngừng lại ở tầng lớp nông cạn bên trên thì chỉ gặp nơi con người toàn những khát vọng, ưu tư, toan tính về cuộc sống thường ngày, cuộc sống thể xác, vật chất trước mắt. Những khát vọng, ưu tư này dầu có thiết thân đến đâu thì cũng vẫn chỉ có tính giai đoạn, ngắn hạn, nghĩa là tương đối. Về mặt này thì có lẽ Chúa Giêsu cũng chẳng có ích gì nhiều cho chúng ta. Nhưng càng đại xuống tầng lớp sâu hơn thì càng dễ khám phá ra những ước mơ thầm kín, thâm sâu của con người. Chúng luôn âm ỉ dưới chiều sâu, ẩn giấu... nhiều khi chính mình cũng không thế ý thức được hết. Những ước mơ này liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta nhận ra mình vẫn mơ ước, ít ra một cách mơ hồ, cái gì chân thật hoàn hảo, vĩnh cửu, nghĩa là mơ ước chân lý, sự toàn thiện,Vấn đề là ai có thể thỏa mãn được những ước mơ thâm sâu và thầm kín đó? Chắc chắn chỉ có mình Đấng đã tự giới thiệu mình là Chân lý và là Sự sống: "Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống". Chính vì thế mà Ngài là người mà chúng ta cần đến nhất, một người không thế thiếu... mặc dầu sự hiện diện của Ngài có gây phiền toái, và sự thánh thiện của Ngài đôi khi có làm cho chúng ta nản lòng. Cho nên lời tuyên xưng xưa của Phêrô còn phải trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy thầy, bỏ Thầy con biết đi theo Ai".

---------------------------------

 

29/6-147: Con Người là ai?

 

Một anh lính giải một nhà sư bị tù lên tỉnh. Anh ta có tính hay quên, nên vừa đi vừa lẩm bẩm, kiểm 29/6-147


Một anh lính giải một nhà sư bị tù lên tỉnh. Anh ta có tính hay quên, nên vừa đi vừa lẩm bẩm, kiểm lại người và đồ đạc cho khỏi quên: “Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình đây. Khăn gói đây, dù đây, gông đây, lệnh toà đây, sư đây, mình đây...” Nhà sư biết đây là “dân thứ thiệt”, nên tìm cách đánh lừa. Sư rủ anh lính vào quán uống rượu, nhậu thịt chó một bữa say mèm. Trong khi anh lăn quay ra ngủ, sư lấy dao cạo trọc đầu anh lính, tháo gông đeo vào cổ anh ta, rồi trốn mất. Khi tỉnh dậy, theo thói quen, anh lính kiểm lại hết mọi sự, miệng lẩm bẩm: “Khăn gói đây, dù đây, lệnh tòa đây, gông đây...” Đến đó anh giật mình thét lên: Còn nhà sư đâu mất tiêu rồi. Anh ta cuống quít vo đầu, thấy đầu trọc lóc nên mừng rỡ la lên: Nhà sư đây rồi! Anh ta chợt sực nhớ lại điều gì nên than thở: Quái lạ! Còn mình đâu mất rồi mà không thấy đâu? Người lính đãng trí đã không nhớ mình là ai. Tuy nhiên trong đời sống, có nhiều lần chúng ta thật sự không nhớ mình là ai trong hành động, trong những việc chúng ta làm.

Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu không quan tâm đến điều người ta nghĩ Ngài là ai. Chúa dùng đó để mở đầu việc mạc khải chính mình cho các môn đệ. Khác với Chúa, chúng ta thường quá quan tâm đến điều người ta nghĩ về mình. Chúng ta tìm cách làm đẹp lòng người khác để được quý mến, ủng hộ. Chúng ta hùa theo đám đông để cầu an, khỏi bị để ý, chống đối. Vì thế chúng ta sống một cuộc sống giả tạo, không phù hợp với căn tính của mình. Thiên Chúa sai mỗi người vào thế giới với một sứ mệnh, cùng với những tặng ân cần thiết để hoàn thành sứ mạng. Sứ mạng và những tặng ân đó nói cho chúng ta biết mình là ai và phải làm gì. Chúng ta cần quan tâm đến điều đó, hơn là nhìn chung quanh để thấy người ta làm gì thì mình làm theo. Nếu Chúa ban cho khả năng lãnh đạo, có óc tổ chức, chúng ta cần đem tài năng đó để phục vụ giáo xứ cộng đoàn. Ngoaøi ra, Chúa coøn mạc khải cho các môn đệ rằng danh xưng Kitô mang ý nghĩa thánh giá, đau khổ, tử nạn. Danh tánh căn bản của mỗi người chúng ta là Kitô hữu. Cuộc sống của chúng ta chắc chắn không khác gì Chúa Kitô. Nếu danh xưng Kitô hữu là điều làm chúng ta hãnh diện, hy vọng, tin tưởng, thánh giá sẽ là vinh quang của chúng ta trong cuộc sống đời đời. Chúng ta hãy luôn ngước mắt chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thánh giá, để khi đau khổ, khó khăn đến trong cuộc đời, chúng ta không lanh miệng chối bỏ như Phêrô, nhưng hân hoan reo vang như Phaolô: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô.”

---------------------------------

 

29/6-148: Biết và Yêu Chúa

 

Lần dở Phúc Âm, chúng ta thấy ít nhất bốn trường hợp Chúa Giêsu được nhận biết và tuyên xưng 29/6-148


Lần dở Phúc Âm, chúng ta thấy ít nhất bốn trường hợp Chúa Giêsu được nhận biết và tuyên xưng là Con Thiên Chúa qua những người và hoàn cảnh khác nhau. Một của Nathanien khi Chúa khen ông thành thật (Ga 1,49). Một của viên đội trưởng khi thấy sự lạ giờ Chúa chịu chết (Mc 15,39). Một của các tà ma trong Phúc âm thánh Marcô (Mc 3,12); và một của Phêrô do ơn linh ứng của Thánh Linh trong bài Phúc âm hôm nay (Mt 16,16). Qua bốn trường hợp trên chúng ta thấy ánh sáng của trời cao đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp con người nhận biết Thiên Chúa.

Đứng trong phòng, nhìn qua khung kính cửa sổ, chúng ta xem thấy người, vật, xe cộ qua lại và chúng ta nhận ra Thiên Chúa sống động trong những sinh hoạt đó; nhưng cũng tấm kính cửa sổ trên chỉ một lớp bạc, lớp thủy ngân được phủ lên, tấm kính cửa sổ đó đã trở nên tấm gương và thay vì nhìn thấy cảnh vật, người, sinh hoạt sống động, chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy chúng ta.Ngày nay con người cũng đang bị bao phủ bởi những lớp bạc đơn giản đó là tình, tiền, tài, danh giá, và tìm mình. Những lớp bạc đó đã làm con người chỉ nhìn thấy toàn là mình, mà không nhận ra Thiên Chúa trong các sự vật và hoàn cảnh chung quanh.Như Gia-kêu xưa đã bị lớp người vây quanh Chúa làm cản trở ông không xem thấy Chúa. Ông đã biết trèo lên cây cao để nhìn xem Chúa. Chúng ta cũng cần biết vượt lên cao khỏi những ràng buộc thế tục làm cản trở chúng ta nhận biết Chúa.

Nhận biết Thiên Chúa là một ơn Chúa ban, nhưng để lãnh nhận được ơn đó đòi phải có những điều kiện thoả đáng. Đứng trước máy xay lúa và trong khi nhìn gạo chuyển từ máng vào bao, chúng ta rút ra được những bài học sau:

Điều kiện thứ nhất: Khiêm nhường: Nói một cách tổng quát, Thiên Chúa không làm gì khác trật tự nhiên: nước mưa rớt xuống, nhưng lưu lại ở thung lũng. Ơn Thiên Chúa cũng xuống kẻ kiêu ngạo cũng như người khiêm nhường, nhưng lưu lại nơi tâm hồn khiêm nhu.

Điều kiện thứ hai: Sẵn lòng đón nhận. Theo Thomas Merton, người ta không thể cho nếu không có người nhận. Ơn Thiên Chúa tuy nhiều, nhưng nếu lòng con người không cởi mở, không đón nhận thì ơn Thiên Chúa vào sao nổi.

Điều kiện thứ ba: Trống rỗng, tinh thaàn cuûa Thiên Chúa và tinh thần thế gian không thế sống chung hoà bình. Nếu lòng con người còn mang nặng tinh thần thế gian thì ơn Thiên Chúa đau có chỗ đứng.

Hẳn không ai trong chúng ta muốn nhận biết Thiên Chúa để rồi thù ghét Ngài như ma quỉ, nhưng cũng phải nhận rằng chúng ta chưa nhận biết và yêu mến Chúa cho đủ. Vậy chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau để sau khi nhận biết Thiên Chúa, chúng ta biết đem hết tâm hồn yêu mến Chúa là Đấng đã chết vì yêu chúng ta.

---------------------------------

 

29/6-149: Thầy là ai?

 

Rembrandt vẽ Đức Giêsu rất con người với tất cả ánh sáng và bóng tối. El Greco trình bày một 29/6-149


Rembrandt vẽ Đức Giêsu rất con người với tất cả ánh sáng và bóng tối. El Greco trình bày một Đức Giêsu đòi hỏi và hoang dã, hơi gầy và tình cảm. Còn Angelico miêu tả một Đức Giêsu ngọt ngào giống như thiên thần. Có những hình vẽ Đức Giêsu là Chúa Chiên Lành, hiền từ và yêu thương, ôm lấy những con chiên hay bế trẻ thơ trong cánh tay. Có hình vẽ Đức Giêsu là quan án, nghiêm khắc, ngồi trên ngai, đang nhìn thấu suốt tâm tư của con người.

Điều không ai nghi ngờ là, con người được miêu tả nhiều nhất trong nghệ thuật trải qua bao thế kỷ, là Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa cũng như ngày nay, người ta vẫn tiếp tục vẽ ra hình ảnh của Ngài. Bài Phúc âm hôm nay, nói đến sự kiện Chúa Giêsu rút về vùng Caesarea Philippi và hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?” Họ trả lời: “Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó”. Ngài hỏi thẳng các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

William Barclay đã nêu lên những lý do rất hợp lý giải thích tại sao Chúa Giêsu lại rút về vùng Caesarea Philippi để dạy cho các môn đệ biết Ngài là ai. Vào thời điểm này, Chúa Giêsu phải đối diện với một vấn đề rất gay go. Cuộc đời trần thế của Ngài quá ngắn ngủi, đã có ai thực sự hiểu và nhận biết Ngài là ai chưa? Vì thế, Chúa đã chọn lựa rất kỹ lưỡng địa danh này để đặt câu hỏi “Thầy là ai?”

Theo William Barclay, vùng Caesarea Philippi cách biển Galilêa 25 dặm về phía đông bắc, ngoài vùng đất cai trị của vua Hêrôđê, đa số dân chúng không phải là Do Thái, chịu ảnh hưởng của những thần ngoại đạo, với nhiều đền thờ cổ thờ thần Baal của người Syrian. Vùng này lại có nhiều hang động nằm sâu trong núi. Một trong những hang này được tin tưởng là nơi sinh ra của vị thần Pan, thần của vũ trụ. Những huyền thoại về các thần của người Hy Lạp đã được gom góp lại trên phần đất này. Xa hơn nữa, hang này đã được truyền tụng là nơi xuất phát ra những nguồn suối nước tạo nên dòng sông Giođan. Nhưng quan trọng hơn hết, có một đền thờ vĩ đại bằng cẩm thạch trắng để thờ vị thần của hoàng đế Caesar.

Đang khi nhóm người Do Thái chính thống âm mưu giết Ngài như một kẻ rối đạo, Ngài đi đến một vùng đất thiêng thánh nhất của dân ngoại để mạc khải sự thật của Ngài. Đây là một bối cảnh có ý nghĩa sâu xa và có lẽ cũng là nơi an toàn để Chúa Giêsu cùng với 12 môn đệ tuyên xưng niềm tin. Qua lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu mạc khải về thần tính của Ngài ở địa vị tối thượng trên hết mọi thần linh.

Câu trả lời của thánh Phêrô là kết quả của những ngày tháng gặp gỡ chính con người Đức Kitô. Ông đã quan sát đời sống hằng ngày của Ngài khi giảng dạy, làm phép lạ, chữa lành bệnh nhân, kêu gọi dân chúng thay đổi đời sống, tiếp xúc với những người tội lỗi, phụ nữ và trẻ em, ăn uống, gần gũi và yêu thương những người bị bỏ rơi… Khi sống chung với Đức Giêsu Kitô, sự nhận thức của Phêrô về Ngài được mở ra dần dần. Ông nhìn thấy khuôn mặt của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Lời tuyên xưng phát xuất từ sự gặp gỡ chân thành trong tâm hồn của Phêrô.

Đức Tổng giám mục Oscar Romero của El Salvador, người đã bị bắn chết đang lúc dâng thánh lễ, đã phát biểu một cách hùng hồn rằng: “Kitô giáo không phải là một bộ sưu tập những sự thật để tin, những luật lệ phải tuân giữ… Kitô giáo là một con người… Kitô giáo là Chúa Kitô”.

Chính sự kết hợp mật thiết và gắn bó với Chúa Giêsu mà Phêrô đã được đặt làm thủ lãnh của Giáo Hội: “Con là Đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được”.

---------------------------------

 

29/6-150: Đức Kitô

 

Cuốn phim “The Passion” (Cuộc Thương Khó) của đạo diển Mel Gibson đã thu hút sự quan tâm 29/6-150


Cuốn phim “The Passion” (Cuộc Thương Khó) của đạo diển Mel Gibson đã thu hút sự quan tâm của cả thế giới. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở thành đối tượng cho loại hình “Nghệ thuật thứ bảy” nầy. Và nhất là không chỉ có mặt nơi sân khấu điện ảnh, hình tượng Chúa Giêsu còn xuất hiện trong nhiều loại hình văn học nghệ thuật khác: thi ca, tiểu thuyết, âm nhạc, hội họa…Có chỗ Ngài được đề cao như một thần tượng đầy hấp dẫn và thuyết phục tuyệt đối (Qui luật của muôn đời của Dumbatze), nhưng cũng có khi Ngài bị lột trần xúc phạm như một kẻ phàm phu tục tử đến độ làm sôi lên cơn phẫn nộ của giới Kitô giáo (Cơn cám dỗ cuối cùng của Nikos Kazant-zakis)…Thì ra, Giêsu Na-da-rét, sau 2000 năm, vẫn còn sống mãi giữa lịch sử nhân loại. Nói cách khác, Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn còn là một vấn nạn cho muôn con người, một vấn nạn mà chính Ngài đã đặt ra cho các môn sinh cách đây hơn 2000 năm trước: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”.

Quả thật, trong đời sống, có những câu trả lời thật quan trọng, ảnh hưởng trên toàn bộ vận mệnh của cả một dân tộc, của cả một đời người. Chỉ một câu trả lời “không” của Nhật Hoàng trước đề nghị đầu hàng vô điều kiện của phe Đồng Minh, hai thành phố Hiroshima và Nazasaki của Nhật bị tiêu hủy bởi hai quả bom nguyên tử của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Bởi một câu trả lời của con gái bà Herodia: “Con muốn đầu Gioan Tẩy Giả…”, lập tức cuộc đời của nhà đại tiên tri của cựu ước bị xóa sổ! Trên thế giới hôm nay, câu trả lời trong những cuộc thương thuyết chính trị hay trong các cuộc mặc cả với các tên khủng bố cũng rất là quan trọng vì có liên hệ đến sinh mệnh và cuộc sống của rất nhiều người…

Nếu quả thật, câu trả lời cho vấn nạn “các con bảo Thầy là ai” chỉ là một cụm từ không liên hệ gì đến con người, đến lịch sử nhân loại, đến vận mệnh cuộc đời, đến sự sống sự chết…thì quả thật câu trả lời đó chả cần thiết. Thật vậy, vào chính thời điểm câu hỏi đó đặt ra, thì đối với những con người như vua Hêrôđê, như quan tổng trấn Philatô, như các bậc đại gia ăn trên ngồi trước và chức quyền đạo đời ung dung bề thế ở thủ đô Giêrusalem, với vợ đẹp con khôn, với tiền bạc và phương tiện dồi dào… thì “Thầy là ai” mặc kệ Thầy, có liên quan gì đến họ, miễn là đừng làm gì ảnh hưởng đến sự an toàn của họ, vị thế chính trị của họi, sự hưởng thụ của họ. Nếu có, coi chừng họ sẽ loại trừ Thầy như nhỗ một cái đinh. Tuy nhiên, cũng trong thời điểm đó, câu trả lời “Thầy là ai” lại tuyệt đối quan trọng và cần thiết cho rất nhiều người, những người đang dõi mắt trông chờ ngày hiện thực của những lời sấm ngôn thuở trước như: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài đã xức dầu tấn phong tôi để tôi đem Tin mừng cho kẻ nghèo…Với họ, duy nhất chỉ có câu trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” thì: Kẻ mù mới hy vọng được sáng mắt, kẻ què mới hy vọng nhảy cửng lên như nai, kẻ phung hủi bị đọa đầy cách ly ngoài hoang mạc mới có cơ may trở về sống kiếp con người, kẻ lầm đường lạc lối như Maria-Mađalêna, Giakê, Matthêu… mới còn sinh lộ làm lại cuộc đời, và kẻ chết như con trai bà góa Naim, như Lazarô ở Bêtania mới có ngày được thấy lại mặt trời sự sống…

Và suốt hơn 2000 năm nay, có hàng hàng lớp người nhờ câu trả lời như thế mà tìm được ý nghĩa cho cuộc đời, tìm được hạnh phúc đích thực.

Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để thế giới hôm nay hòa bình hơn, huynh đệ hơn. Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để những giá trị tinh thần được thăng hoa, để hạnh phúc các gia đình được thiết định trên nền tảng Tin Mừng, để tình yêu hôn nhân được liên kết và vững bền bằng giao ước thánh, để thiếu nhi được chăm sóc yêu thương và giáo dục, để người trẻ sống có lý tưởng và can đảm dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống, để những người già được yêu thương và kính trọng…Thầy phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống để chúng ta nhìn nhận nhau là huynh đệ một nhà, để người giàu biết sẻ chia, người nghèo biết khiêm nhu đón nhận, kẻ bịnh hoạn tật nguyền luôn mỉm cười hy vọng được ủi an, người tội lỗi biết mở lòng sám hối để làm lại cuộc đời…

Vâng, câu trả lời “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” không chỉ để trả lời một vấn nạn mà là một tuyên xưng niềm tin, một xác tín, một niềm hy vọng ngút ngàn, một tiếng kêu òa vỡ của hạnh phúc và niềm vui khi chợt khám phá ra “Nước Trời đang đến”, ơn cứu độ đã được trao ban, Thiên Chúa đã nhập thể và đang đồng hành cùng nhân loại.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây