Tôi chối từ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn hiện diện. Vì Ngài là Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần tôi chứng minh có Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng không cần kẻ khác chứng minh cho tôi biết về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa thì không cần chứng minh. Như mặt trời không cần ai chứng minh về ánh sáng cho người mù. Như người dưới căn hầm, mặt trời không hiện diện với đôi mắt ấy mà thôi, mặt trời vẫn hiện diện với vũ trụ. Từ đó, Lạy Thượng Đế, xin cho con biết kêu lên: Con biết con cần Ngài. * * * Trong các kinh Tiền Tụng của thánh lễ, lời Tiền Tụng Chung IV là kinh rất ít khi giáo dân nghe linh mục đọc. Hầu hết các thánh lễ chỉ dùng Kinh Tạ Ơn II. Lời Tiền Tụng Chung IV đọc như sau: Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi, mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Vì thế hiệp với các thiên thần và các thánh chúng con ca ngợi Cha muôn đời vinh hiển, và đồng thanh tung hô rằng: Thánh! Thánh! Chí Thánh. Qua lời Kinh Tiền Tụng này, Giáo Hội chỉ rõ cho ta biết bản chất Thiên Chúa như thế nào. Một thần linh là Thượng Đế thì không cần tiếng ca tụng của người phàm. Vì là Thượng Đế nên lời ca tụng của phàm nhân chúng ta chẳng thêm gì cho Ngài. Trong ngôn ngữ con người, chúng ta hay nói, hãy ca tụng Chúa để Thiên Chúa được vinh danh, là lời nói có thể làm hiểu sai lạc về bản chất Thiên Chúa. Chính Sách Lễ Roma của Giáo Hội đã xác định như trên. Vậy chúng ta chỉ còn một cách hiểu chính xác theo Sách Lễ Roma là: Được tạ ơn Chúa là hồng ân cao cả cho chính tôi. Lời ca tụng của chúng tôi không thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng tôi ơn cứu độ. Từ Lời Tiền Tụng trên, chúng ta hãy xin cho mình lời nguyện là: - Lạy Thượng Đế, con biết con cần Ngài. Nhiều người nghĩ rằng mình làm “vinh danh” Chúa bằng lời ca tụng của mình, nên khi bất mãn với Giáo Hội thì ngừng ca tụng Chúa. Có người nghĩ rằng Chúa cần mình, nên khi “bất mãn” với Chúa thì không ca tụng để Thiên Chúa bị thiệt thòi. Có ai cứ nhắm mắt lại để mặt trời bớt ánh sáng không. Có ai xuống hầm tối cho mặt trời thiệt thòi không. Khi chúng ta hiểu rõ lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa nhưng lại thêm cho chính mình. Khi chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không cần ai ca tụng, nhưng ca tụng Chúa lại là hồng ân cho chính mình thì chúng ta phải nghiêm chỉnh đặt vấn đề về những lời ca tụng của chúng ta. Thái độ thứ nhất: Ao ước được ca tụng. Lạy Chúa từ bi và nhân hậu, Người thanh niên giàu có trong Phúc Âm đến hỏi Chúa đâu là con đường siêu thoát. Chúa cho anh ta một hồng ân là đến theo Chúa. Anh không muốn từ chối. Nhưng lòng anh quá nặng nề, sau cùng anh cúi mặt bước đi buồn rầu. Rất tội nghiệp cho anh. Tại sao Chúa không năn nỉ anh? Hình ảnh siêu bạo ở đây là Chúa không năn nỉ. Phải chăng vì theo Chúa là một hồng ân đem lại ơn cứu độ cho chính anh. Hôm nay, rất nhiều cha mẹ phải “năn nỉ” con cái đi lễ. Rất nhiều linh mục “năn nỉ” giáo dân đến nhà thờ. Trong các thánh lễ, có rất nhiều thứ “năn nỉ”. Năn nỉ đóng tiền. Năn nỉ làm việc tông đồ. Bởi đâu, lạy Chúa, chúng con có những não trạng như thế. Phải chăng chúng con đã không hiểu rằng những lời ca tụng kia là cần thiết cho chính chúng con. Thái độ thứ hai: Khiêm tốn trong lời ca tụng. Vì Chúa là thần linh không cần lời ca tụng của phàm nhân, nên con phải xin Chúa cho con được ca tụng. Lời của phàm nhân tội lỗi, tâm trí phàm nhân u mê, sao chúng con dám ca tụng thần linh. Bởi đó, được ca tụng Chúa là hồng ân, nên chúng con phải khiêm tốn trong mọi công việc tông đồ. Biết đâu có linh mục hôm nay rất tự hào về những công trình của mình. Từ đó, cũng biết đâu, nhiều tín hữu thấy mình quan trọng trong lời ca tụng, và việc dâng cúng. Tất cả chúng con đều lầm lẫn. Xin Chúa từ bi và nhân hậu thương xót chúng con. Thái độ thứ ba: Chờ đợi được ca tụng. Lạy Chúa từ bi và nhân hậu, Vì lời ca tụng Chúa mang ơn cứu cho chính chúng con, nên chúng con phải khiêm tốn, ao ước và chờ đợi được ca tụng. Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa gọi các môn đệ theo Chúa. Chúa truyền cho các ông làm việc này, việc kia. Đấy là hồng ơn cao cả chứ không phải Chúa thiếu thốn. Cái thiếu thốn của chúng con là thiếu Chúa. Cái nghèo của chúng con là không được Chúa sai đi. Khi hiểu thế, chúng con phải hạnh phúc biết bao khi được Chúa kêu mời. Lạy Chúa từ bi nhân hậu, Xin cho con biết lắng nghe Chúa sai bảo thật tha thiết, chờ đợi như kẻ cắp rình mồi. Vì con nghèo lắm nếu Chúa không sai con đi. Nếu không được ca tụng Chúa con lấy đâu hồng ân cho hạnh phúc của con. Bạn thân mến, Công việc mục vụ của tôi là đi giúp tĩnh tâm. Có người hỏi tôi, Phúc Âm thì lần nào đọc cũng giống nhau. Đọc mãi Cha có chán không. Lời Phúc Âm chỉ có vậy, nhưng tùy cách nghe mà lời đó khác. Một lần kia, vì lối nói của tôi, phút đầu khai mạc làm một người bất mãn. Họ không muốn đi tĩnh tâm. Nhưng vì bị “năn nỉ” quá, sau cùng có mặt trong cuối tuần linh thao. Một cuối tuần đến retreat house – nhà tĩnh tâm như thế, ít ra cũng hết một trăm năm mươi đô la một đầu người. Hầu hết những người ngại đi tĩnh tâm là không có thời giờ, và tiếc tiền. Hầu hết cha mẹ nói với con cái, linh mục nói với giáo dân là “hy sinh” dâng cho Chúa một cuối tuần tĩnh tâm để ca tụng Chúa. Đối với tôi đấy không phải là hy sinh. Hy sinh là chịu thiệt về mình cho người khác phần lợi. Vì cách nói của tôi làm họ bực bội. - Thưa Cha, nếu không hy sinh, con không đến đây chiều nay được. Còn biết bao công việc ở nhà nếu không hy sinh làm sao bỏ được. Họ bực với tôi, bực luôn với những ai đã “năn nỉ” họ đi. Tôi không ngờ buổi tối khai mạc mà bầu khí không êm ả chút nào, tôi cố gắng đưa mọi người vào giờ kinh tối, rồi đi ngủ. Qua một ngày thinh lặng, tối hôm sau, trước giờ kinh tối: - Thưa cha, con xin có đôi lời. Người này cất tiếng. Rồi tiếp: - Tôi xin lỗi anh chị em những gì tôi nói tối qua. Sau một ngày thinh lặng, tôi thấy có một cái gì đang xảy ra nơi tâm hồn tôi. Tôi chưa có bình an, chưa thấy Chúa đâu, nhưng có một chút gì đó làm tôi suy nghĩ. Nhìn bóng đèn trên trần nhà. Tâm sự với mọi người: - Có tôi hay không, thì chiều nay bóng đèn này vẫn sáng. Đâu phải thiếu tôi mà bóng đèn bớt sáng đâu. Rồi quay nhìn ra sân tối: - Tôi cũng xin lỗi những ai tôi xúc phạm, những ai đã khuyến khích tôi đi khóa linh thao này. Nếu tôi bỏ lò sưởi ra sân đứng thì tôi lạnh, chứ đâu phải thiếu tôi, tôi làm cho lò sưởi bớt sức nóng đâu. Thiên Chúa là như vậy. Tôi đến thì tôi ấm, tôi xa Ngài, tôi lạnh, Thiên Chúa cho tôi sức ấm chứ tôi làm sao cho Ngài thêm lửa nóng được. Bạn thân mến, Sau cùng, người này đã có những ngày tĩnh tâm – nghỉ ngơi với Chúa rất đẹp. Chớ gì chúng ta hiểu rõ và thưa với Chúa: Lạy Chúa, con biết con cần Chúa. Riêng với bạn đang đọc dòng này, không cùng tôn giáo với tôi. Tôi cầu chúc bạn hãy nói: - Lạy Thượng Đế, lạy Trời Phật, con biết con cần Ngài. Bởi, đó là con đường đi rất đẹp của một phàm nhân.
Hôm nay nhà nước Việt Nam không gọi những người vượt biên năm xưa phải chạy khốn khổ là phản động nữa, mà là “cánh tay nối dài của quê hương.”
Cuộc đời cứ như chong chóng.
Dừng lại cơn gió lốc. Tôi muốn hỏi lòng mình, quê hương nào? Nối cánh tay về đâu?
Tôi viết những dòng này sáng ngày 30 tháng Tư năm 2005. Ngày 30 tháng Tư năm nay khác hơn mọi năm vì đánh dấu 30 năm vượt biên tìm quê hương.
Tìm dầu. Chôn dầu. Giấu dầu. Tỵ nạn. Vượt biên. Tự do. Ngục tù. Sống và chết. Ra đi, quay về. Quê hương. Giữa những danh từ này. Đâu là chân lý. Chân lý là sự thật tiêu chuẩn cho cuộc đời, nó phải vĩnh cửu, không thể quay theo gió được. Có nhiều thứ quê hương. Quê hương lưu đầy. Quê hương sinh ra và lớn lên. Quê hương chạy chốn. Quê hương vĩnh cửu.
Chân lý là câu chuyện kể thế này:
Có năm người khờ dại, đem đèn mà không đem theo chai dầu.
Khi chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan, đem đèn, đem theo cả dầu, ra đón chàng rể.
Năm cô đem đèn mà không có dầu, vay mượn, nhưng người ta không cho.
Khi những người kia đi mua dầu thì chàng rể vào tiệc cưới. Cửa đóng lại.
Thánh sử Matthêu kết thúc bằng hàng chữ sau: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” (Mt. 25: 1-13).
Kinh Thánh gọi câu chuyện thiếu dầu, tìm dầu, không có dầu trên đây là quê hương Nước Trời.
Kinh Thánh không nói với những người có dầu hãy chia bớt cho người kia. Kinh Thánh không khuyên người ta làm việc bác ái. Nhưng bảo: “Hãy canh thức, vì không biết ngày giờ nào.”
Tại sao không chia sớt cho nhau?
Cuộc đời có những suy tư, đứng trên bờ giếng ta thấy khác, xuống lòng giếng sâu ta thấy khác. Chẵng hạn người ta cứ than phiền người Việt Nam không đúng giờ. Đi lễ trễ.
Tháng 10 năm 2004 tôi giúp tĩnh tâm cộng đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ở vùng Dallas, Texas. Trong thánh lễ Chúa Nhật hôm đó, tôi tâm sự với cộng đoàn:
- Kính thưa anh chị em,
Sáng nay thánh lễ Chúa Nhật, tôi đứng trên đây mới thấy rõ. Nhiều anh chị em đi lễ trễ quá. Tôi thấy nhiều anh chị em đi rất lững thững. Đã qua phần công bố Lời Chúa rồi.
Tôi chỉ là cha khách thôi, cứ thường, theo sự khôn ngoan ngoài đời, tôi chẳng nên nói. Đến cộng đoàn nào cũng cứ khen cha xứ tài khéo. Khen ban mục vụ hăng say. Khen tinh thần cộng đoàn sốt sáng. Như thế cha quản nhiệm cũng thích mình. Mình ra đi ai cũng thích. Tôi chỉ là cha khách. Kệ giáo xứ người ta.
Nhưng sáng nay, tôi xin tâm sự với anh chị em đôi điều. Nhiều anh chị em đi lễ sáng nay quá trễ.
Tôi thấy cộng đoàn ngồi im. Dường như họ đang chờ đợi một cái gì khó nói sắp xảy ra. Tôi cũng không biết cha xứ chủ tế ngồi đó nghĩ gì, thấy vui vì tôi nhắc điều chính cha cũng đã nhắc, hay là thấy đau vì cha khách chê giáo dân của mình. Tôi nói với họ:
- Nếu tôi không nói những điều khó nói, nhưng cần nói, tôi chỉ là người làm thuê. Tôi không thương Giáo Hội, tôi không kính trọng anh chị em. Tôi không xây dựng. Những gì tôi nói đến từ tấm lòng. Chúng ta cần những gợi ý giúp chúng ta suy tư. Vì thế tôi xin nói. Chúng ta nghe quá thường là người Việt Nam không đúng giờ. Nói đến người Việt Nam, chúng ta bảo là giờ giây thung, giờ cao su. Đối với tôi, tôi thấy người Việt Nam rất đúng giờ. Tôi thấy những biến cố lịch sử đã chứng minh rõ lắm. Tôi xin hỏi anh chị em:
- Có ai trễ giờ ngày họ vượt biên không?
Cả nhà thờ ngồi im. Hằng trăm ngàn người vượt biên, không ai trễ giờ. Lịch sử minh chứng điều đó. Như vậy tại sao có thể nói trễ giờ là đặc tính của người Việt Nam? Lạ thật, hàng trăm ngàn người mà không ai trễ giờ. Họ đến trước giờ vượt biên. Họ nằm chờ, có khi cả mấy ngày trước chuyến ghe khởi hành. Anh chị em không trễ giờ ngày vượt biên, tại sao anh chị em đi lễ trễ? Anh chị em không trễ giờ ngày vượt biên tại sao anh chị em đi dự tiệc cưới trễ?
Cả nhà thờ ngồi im. Tôi không trách họ. Tôi không “chưởi xéo” họ. Tôi chỉ gợi ý cho họ suy tư thôi. Tôi muốn họ không đứng trên bờ giếng tìm nguyên nhân, hãy xuống sâu dưới lòng giếng. Hãy trở về thâm sâu trong trái tim mình để tìm nguyên cớ. Tôi chỉ muốn nói với họ, đi trễ không phải là đặc tính của người Việt Nam. Người Việt Nam chỉ đi trễ tùy cái họ muốn trễ. Tôi nói thêm với họ một câu, như để trả lời thay cho sự cắt nghĩa. Người Việt Nam có câu: “Cha chung không ai khóc.” Phải chăng xuống giếng sâu trong tâm hồn ta bắp gặp những suy tư rất khác?
Anh chị em không trễ giờ trong ngày vượt biên, vì nó có nguyên nhân của nó. Anh chị em đi lễ trễ, nó cũng có nguyên nhân của nó. Lý do đơn giản và tôi thấy rõ là vì anh chị em thiếu lòng tha thiết. Nhưng tại sao anh chị em không tha thiết với thánh lễ thì tôi không trả lời được. Câu trả lời nó nằm sâu trong trái tim mỗi người. * * *
Câu chuyện 10 cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể cũng lạ thật. Phúc Âm gọi đó là câu chuyện về quê hương Nước Trời. Năm cô mang đèn mà không mang theo dầu. Họ không dám bỏ đèn. Ra đi cũng có đèn. Nhiều người không dám bỏ nhà thờ. Nhiều người không dám bỏ đạo, họ xách theo cái đèn. Ai cũng thấy họ có đèn. Họ không có dầu.
Trước ngày vượt biên, họ tìm dầu, chôn dầu, giấu dầu. Cuộc hành trình rất cam go.
Trước ngưỡng cửa sự chết. Không ai vay mượn công đức của người khác được. Dầu tôi có nhiều hay ít, tôi vào sự chết với số dầu đó. Ánh sáng trong đường hầm sau cái chết tùy ngọn đèn của tôi. Không ai thắp đèn thay tôi. Không ai xách dầu dùm tôi được.
Tại sao không chia sớt dầu cho nhau?
Bây giờ tôi hiểu. Phúc Âm gọi đó là câu chuyện Nước Trời. Không phải bác ái là lên trời dùm người khác hay thuê người khác xuống ngục tối thay cho mình. Nhân đức là bình dầu không vay mượn được. Vì thế Kinh Thánh không thể chỉ cho ta cách vay mượn mà chỉ có thể dạy ta “hãy tỉnh thức”.
Đó là câu chuyện đường tôi phải đi một mình.
Lạy Chúa,
Ba mươi năm vượt biên là con số rất lớn cho một đời người.
Trước ngày vượt biên, con tìm dầu, chôn dầu, giấu dầu. Cuộc hành trình rất cam go. Cánh tay nối dài mãi chưa tới quê hương. Ba mươi năm nhìn lại. Bến bờ còn lại của những ngày tháng ngắn ngủi trong đời. Con sẽ vượt biên nữa. Chuyến vượt biên này là chuyến định mệnh đời con. Vượt qua cuộc sống, vào cái chết.
Vào cái chết rồi, có người có đèn mà không có dầu.
Người đàn ông trạc ngoài năm mươi. Mọi người trong nhà thờ ra về gần hết thì ông ta bước vào. Tôi ra trễ, dường như ông ta muốn gặp tôi.
- Thưa cha, mai cha có làm lễ không?
Tôi ân cần hỏi ông:
- Ông có việc gì thế?
- Nếu mai cha làm lễ, xin cho con một thông báo.
Ông mới nói tới đó. Chưa biết ông muốn thông báo điều gì. Nhưng như vậy là ông không gặp tôi như điều tôi đang nghĩ. Tôi đến giúp tĩnh tâm mùa Vọng ở cộng đoàn này. Thường thường có nhiều người muốn gặp cha giảng tĩnh tâm có chuyện thiêng liêng muốn bàn. Ông ta không ở trong trường hợp này. Ông gặp tôi chỉ vì muốn có một thông báo. Nhưng thông báo là chuyện ngoài quyền hạn của cha khách như tôi:
- Thưa ông, tôi là cha khách đến đây giúp tĩnh tâm. Nếu có thông báo, ông cần liên lạc với cha quản nhiệm.
- Con không biết điều đó, con chỉ có một thông báo, nếu cha làm lễ ngày mai, xin cha cho con một thông báo.
Tôi biết mình không thể tự thông báo điều này điều nọ, dùm kẻ này kẻ kia. Nhưng tôi cũng hỏi ông. Câu chuyện làm tôi nghĩ ngợi.
- Thưa cha con có restaurant bên kia đường. Con biết anh chị em Công Giáo đi lễ là điều tốt. Nhưng thưa cha, họ cứ đậu xe vào parking của con, con mất khách…
Ông nói tới đó, tôi hiểu ngay rồi. Một tiếng thở phiền lòng.
- Con đã nói năm lần rồi. Chỗ gia đình làm ăn. Họ cứ đậu xe rồi đi xem lễ, con mất khách…
Sau khi cửa nhà thờ đóng. Tôi về phòng nhà xứ, một mình ngồi nghĩ đến câu chuyện của người đàn ông. Tôi đang về đây giảng tĩnh tâm. Ngày Chúa Nhật dân Chúa đi lễ bên này đường thì phía bên kia đường có người phàn nàn. Tôi đọc lại đoạn Tin Mừng tường thuật các thánh lễ ngày xưa:
Các tín hữu hợp nhất với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ (TDCV: 2:42).
Sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại thánh lễ ban đầu của Giáo Hội sơ khai bằng một đoạn văn ngắn. Trong đoạn văn này có một đặc tính rất lạ. Đặc tính ấy không ngắn, dài như những bước chân vất vả của một người làm thuê:
- Họ được toàn dân thương mến.
Điều đó có nghĩa là cứ sau những nghi thức bẻ bánh như thế, người chung quanh xóm giềng thương nhóm tín hữu này. Và rồi “Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.” Nghĩa là sau các thánh lễ như thế, dân chúng thương nhóm tín hữu này rồi họ xin nhập đạo.
Kết qủa của bí tích Thánh Thể là mức độ tăng trưởng về tình yêu.
Nhà xứ vắng lặng. Tôi ngồi xem lại bài giảng cho ngày mai. Tôi cứ hình dung, đã bao ngày tháng rồi. Khi bên đây có thánh lễ thì phía bên kia đường có người đau khổ. Parking nhà hàng của họ. Ngày Chúa Nhật họ làm ăn. Mất chỗ đậu xe của khách. Rồi tôi nghĩ, làm sao tôi có thể nhân danh những gì tôn giáo của tôi để lỗi đức công bình với người khác. Có thể vì đi trễ không muốn mất lễ, không muốn đậu xe ở xa. Có thể vì lười biếng. Làm sao người ta có thể “bảo vệ” những thực hành tôn giáo của mình bằng cách xúc phạm đến người khác. Ông ta nói với tôi rất lịch sự, không bực tức, nhưng biết đâu, cứ mỗi khi bên đây có thánh lễ, nhìn parking, ông không dằn lòng được, lại nguyền rủa.
“Và được toàn dân thương mến”. Kết qủa của thánh lễ ban đầu là như thế. Các tín hữu lúc sơ khai đã sống như vậy. Tôi đọc lại lời tường thuật ấy rồi nghĩ đến người đàn ông Việt Nam có cửa tiệm bên kia đường:
Có khi nào vì các nghi lễ mà tôi làm cho nhiều người phải xa Chúa không?
Đức tin cần một địa chỉ để về, đó là bác ái. Không có đức ái, đức tin không biết lối nào đi. Biết đâu có người nhân danh đức tin mà làm cho người khác khốn khổ. Họ chỉ nhìn đức tin, mà không có tấm lòng nên đức tin thành hố sâu ngăn cách người với người. Kẻ khác không thấy niềm vui, và rồi chỉ gặp nơi đức tin của họ là một hố sâu.
Thánh lễ: Đây là mầu nhiệm đức tin.
Nhưng đức tin được thánh Phaolô cắt nghĩa: “Giả sử tôi có đức tin đến nỗi chuyển núi rời non mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.” (1 Cor. 13:2)
* * *
Thánh Thể và lòng mến: Trưởng Thành
Có người băn khoăn khi đón nhận mầu nhiệm Thánh Thể này:
- Tội như thế nào thì không được rước lễ?
Họ nhìn bí tích tình yêu với một chọn lựa nguyên tắc hơn là mức độ trưởng thành. Sợ lề luật hơn là thúc đẩy bởi lòng mến. Khi nói tội như thế nào, nghĩa là họ vẽ lằn mức. Họ nhìn tội là những đơn vị đo lường. Nếu bảo tội nặng bằng này, không được rước lễ. Vậy tôi bớt đi một chút, có được rước lễ chăng? Bớt bằng nào thì vừa đủ để rước lễ?
Vị đạo sĩ đưa khúc mía cho người học trò. Khúc mía rất ngọt. Người học trò đưa lên miệng lấy răng cắn vào vỏ mía. Vừa cắn vào, đau buốt óc, anh không thể cắn nổi vì răng anh đau. Càng cố cắn, càng khốn nạn cho mình. Đây là cách hiểu lời Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô: “Ai nấy hãy tự xét mình rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa là tự chuốc lấy án phạt cho mình” (1 Cor. 11: 22). Khúc mía vẫn ngọt. Anh từ chối khúc mía? Hay khúc mía từ chối anh? Vị đạo sĩ hỏi người học trò:
- Khúc mía có ra hình phạt cho con không?
Anh im lặng hỏi lòng mình:
- Có ai đem đĩa cơm thịt nướng rất thơm bón cho xác chết trong nhà quàng không? Nhét đến đâu xác vẫn cứ nằm đó. Mắt nhắm và môi cứ lạnh. Càng nhét vào miệng, ta càng thấy rợn người. Anh hiểu xác chết không có khả năng để ăn chứ không phải đĩa cơm từ chối. Tội làm linh hồn tôi chết, nó không còn khả năng thích hợp đón nhận sự thánh thiện. Bản chất của bình an không đi với gian dối. Niềm vui không đi với lỗi phạm. “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa và chén của ma quỷ được” (1 Cor. 10:21).
Giáo lý trả lời, có tội trọng thì không được rước lễ.
Dễ hiểu. Vấn đề là:
Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con. Nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi loại bỏ tất cả những gì là trẻ con.” (1 Cor. 13:11). Giả sử bạn nghe tiếng nhỏ to: “Bận rộn thế này mà ngày mai lại phải vác mặt đến nhà ông ấy.” Họ không muốn nhưng vì lý do xã giao phải đến. Rồi ngày mai người đó phải đến nhà bạn. Rồi lại cũng xã giao cười cười, nói nói, nhưng lòng dạ chán lắm. Bạn có vui trong cuộc gặp gỡ không?
Đừng hỏi có ăn được khúc mía không. Mía bao giờ cũng ngọt, cũng thơm ngon. Tùy khả năng của mình.
Lạy Chúa,
Có tình yêu thì Thánh Thể mới là hoa trái. Và hoa trái của Thánh Thể là tình yêu.
Có những thánh lễ, có những bí tích tình yêu như thế mà sao tâm hồn người tham dự thì như có nỗi chán chường. Trong ngôn ngữ, chúng con diễn tả là “phải” đi lễ. Trong khi các tín hữu sơ khai thì diễn tả “được” tham dự. Đối với thánh lễ lúc ban đầu, sách Tông Đồ Công Vụ tường thuật là họ tham dự với lòng “vui vẻ”. Hôm nay, nhiều khi chúng con tham dự với lòng nặng nề. Khi chúng con nói “phải” đi lễ chứ không nói “được” là tâm hồn chúng con không nặng nề đó sao. Nếu con không tha thiết với Thánh Thể thì con rước Thánh Thể để làm gì? * * *
Thánh Thể và lòng mến: Cung Kính
Tôi cần nhìn lại lối sống tín nguỡng của mình nhiều lắm. Có những cách sống đã quá quen thuộc, tôi tưởng chừng như mình đang sống đức tin, nhưng có lẽ tôi chỉ quằn quại với niềm tin mà thôi, vì tâm hồn không an vui, không hạnh phúc, và những người chung quanh tôi cũng không hạnh phúc, không an vui.
Khi niềm tin trở thành quằn quại thì nghi thức tôn giáo là gánh nặng.
- Chúa nói: “Ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (M. 20:28). Như vậy, niềm tin là một giếng nước. Mà để kéo gầu ấy, tại sao ta không thể có niềm vui?
- Chúa nói: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt. 11:29). Như vậy đến với Chúa là một giải thoát. Tại sao ta thiếu thiết tha khi cử hành phụng vụ?
- Thấy bệnh tật, Chúa chữa lành, thấy đói, Chúa cho ăn (Mt. 14:14-21). Như vậy, niềm tin là cánh tay với vào vườn hoa trái. Tại sao ta thấy nặng nề?
Có người nói: “Tôi bận quá, không thể đi tĩnh tâm được”. “Tôi mỏi mệt lắm, không thể phục vụ Chúa được.” Trong khi đó, vì bận rộn nên mới cần tĩnh tâm, để Chúa dắt đi, nghỉ ngơi. Trong khi đó, vì ta mỏi mệt, và gánh đời quá nặng, Chúa mới đến để phục vụ. Có một suy nghĩ nào đó dường như không ổn. Nếu suy nghĩ không ổn thì rất có thể suy nghĩ ấy sẽ đưa đến một lối sống khắc khoải.
Thánh Inhaxiô, sau khi thụ phong linh mục, ngài không dâng lễ mở tay ngay. Ngài đợi một năm sau. Và rồi cứ mỗi lần dâng lễ ngài lại khóc. Còn Mẹ Têrêsa Calcutta thì treo trong phòng áo lễ của nhà dòng tấm bảng:
Xin linh mục của Chúa,
Cha dâng lễ này như thánh lễ mở tay,
như thánh lễ sau cùng,
như thánh lễ chỉ dâng duy nhất một lần trong đời mà thôi.
Nói về bí tích Thánh Thể, về những nghi thức cử hành. Hôm nay người ta nghe thấy những lời “khen”, tiếng “chê”. Đi lễ cha kia làm lẹ lắm. Và dường như cũng có những linh mục, vô tư nhận mình làm lễ lẹ lắm, nhiều người thích. Họ nói với người tham dự: “Chúa ở cùng anh chị em”. Nhưng thật sự đấy chẳng phải là lời cầu chúc, vì tay đang mở sách, chưa thấy lời nguyện thánh lễ hôm nay ở trang nào. Tâm trí đang vội vã đi tìm. Có những thánh lễ mà giây phút cực trọng là truyền phép Thánh Thể, linh mục đọc quá vội vàng. Chưa xong đã bái gối, chưa bái gối xong đã hốt hả đứng dậy. Rất là liếng thoắng. Tôi cũng thấy nhiều thừa tác viên thánh thể, sau khi cho chịu lễ, họ rước Máu Thánh còn lại trong chén thánh như uống một ngụm Coca. Họ “bốc”, họ “đổ” Bánh Thánh như đổ một hũ đậu phụng. Họ thiếu cung kính vì thiếu tấm lòng. Họ đến từ một cộng đoàn mà chính cha quản nhiệm không đầy đủ bổn phận huấn luyện họ cung kính Thánh Thể Chúa. Làm sao huấn luyện nếu chính cha quản nhiệm thiếu tấm lòng. Đi giúp mục vụ nhiều nơi, tôi rất cảm kích khi có những linh mục đến nhà thờ rất sớm, không tiếp ai trước thánh lễ. Họ dành giây phút đó để chuẩn bị thánh lễ. Và cũng có những thừa tác viên Thánh Thể được huấn luyện rất cung kính khi thi hành nhiệm vụ thánh.
* * *
Lạy Chúa,
Con cần hiểu bí tích Thánh Thể là kết quả của tình yêu Chúa chết cho con người được sống. Làm sao con có thể cử hành cho chóng qua như một cuộc gặp gỡ mà con không muốn gặp. Làm sao con cảm nghiệm được khi con chỉ gặp để cho qua.
Con cần phải hiểu những gì con đang làm, con đang sống, tôn giáo con đang theo. Con phải hiểu thông báo của người đàn ông kia là thông báo của thiên thần báo mộng trước cửa đền thờ linh hồn mỗi khi con bước vào:
- Đức tin không có đức ái, sẽ không biết lối nào đi.
Con phải hiểu Thánh Thể Chúa là tình yêu vô cùng sâu thẳm.
- Xin cho con lòng yêu mến trưởng thành.
Con phải hiểu Thánh Thể Chúa là mầu nhiệm cực thánh.
- Xin cho con cử hành với tâm hồn hết sức kính cẩn, thiết tha.
Có nhiều lời chúc mừng. Có nhiều dịp chúc mừng. Có nhiều người được chúc mừng.
Người ta chúc mừng nhau. Bằng lời nói. Bằng thư từ. Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng bi đát nhất.
Chẳng hạn:
Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.
Hoặc như:
Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha. Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.
Những lời chúc rất chân thành. Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía và bi đát bấy nhiêu. Thực tế, những lời chúc này xảy ra hàng ngày, ở chỗ này, chỗ kia. Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước. Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế. Sự bi thương nằm ở đó. Lời cầu chúc này đến từ một thực tế. Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày. Nó là tấm gương phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của người được cầu chúc.
Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời gian.
* * * Kỷ niệm 25 năm thành hôn
Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau. Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi. Nó xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu. Nói cách khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một hết như thủa ban đầu. Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao. Nếu tình yêu của người nào đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa gì? Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau như vậy. Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc. Nếu vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?
Kỷ niệm 25 năm linh lục
Sau 25 là linh mục. Tôi rửa tội biết bao nhiêu người. Tôi săn sóc biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp hối. Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ. Biết bao lần Bánh Thánh hóa thân trên tay tôi. Tôi cử hành biết bao bí tích. Như thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng. Một phần tư thế kỷ sống sống đời linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức. Tại sao người ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương? Ước mong được như ngày đầu!
Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sáng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dâng hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay. Nghĩa là hôm nay tôi dâng thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm. Tôi hết náo nức rồi.
* * *
Vì sao có lời chúc như thế?
Cũng là do thực tế mà thôi. Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường. Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy. Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương. Vì nó thật nên nó bi thương. Những lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm.
Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông cầu thương khó. Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu. Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân. Linh mục phải nhìn lại linh mục. Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng. Những lời chúc ấy đến từ ước vọng. Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.
Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên nhân. Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên do.
Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào vườn hạnh phúc. Ðàng sau đó là một chân trời khám phá. Thì càng đi càng say chứ. Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài. Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.
Những ngày đầu của linh mục cũng thế. Mới lên đường mà thấy lòng rộng mở, thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới chứ. Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.
Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời. Ði tìm nguyên do, đi hỏi nguyên nhân. Kinh Thánh bảo: “Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi” (Mt. 13: 25). Thời gian nào mà không có phấn bụi bay. Khoảnh khắc nào mà không có sương mù. Hạnh phúc rất mong manh. Tấm gương cần phủi bụi mỗi ngày. Cỏ lùng cần nhổ khi còn là mầm non. Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.
* * *
Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.
Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.
Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ không ao ước quay về.
Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì con đò sẽ lặng lẽ biết bao. Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá. Chả có sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm sao.
Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc. Ðừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế. Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.
Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.
Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng sáng phải ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.
Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần ánh sáng hơn.
Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.
Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.
Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng hơn.
“Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số, Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót. Ðể lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ, Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?” (Tagore)
Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi. Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia. Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé. Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét. Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét như thế. Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm. Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy. Lời cầu chúc đến từ ước mơ. Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật. Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật. Con có đau thương vì lời chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu kinh. Lời cầu chúc đến như tiếng than thở. Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng gọi. Lời cầu chúc đến từ thực tế Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế? Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi. Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa: - Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.
* * *
Ôi! Lạy Chúa, Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa. Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con. Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa. Amen
- Đâu là lằn mức giữa đêm và ngày? Lúc nào ngày bắt đầu? Lúc nào đêm chấm dứt?
Người học trò suy nghĩ. Vị đạo sĩ bảo người học trò vẽ lằn mức mặt trời mọc đến đâu là ngày, chia ranh giới lúc nào là hết đêm.
Im lặng, nhíu thêm đôi mày. Thời gian trôi qua. Không ngờ câu trả lời khó vậy. Người thanh niên thầm nhủ: “Ta nhìn bình minh biết bao lần, thức dậy biết bao buổi sáng, mấy mươi năm trong đời chưa một lần phân biệt: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?”
Khi viết dòng này, tôi cũng mới chợt tỉnh câu hỏi của nhà đạo sĩ. Mấy mươi năm làm người, chưa bao giờ nhìn buổi sáng hỏi chân trời lúc nào gọi là ngày, hỏi lòng mình lúc mặt trời mọc đến đâu là hết đêm. Câu hỏi không dễ trả lời.
****** Tôi đang ở Kanniyakumari, cực nam của miền đất Ấn Độ, cũng gọi là Cape Comorin. Nơi gặp nhau của ba dòng nước lớn, vịnh Bengal, Ấn Độ dương và biển Arabian.
Tôi muốn đến đây vì mỏm đá sau cùng của Ấn Độ để nhìn ba dòng biển ấy gặp nhau và nhìn mặt trời. Nhiều du khách tìm đến đây cũng vì lý do ấy. Đứng quay lưng lại lục địa, trước mặt là Ấn Độ dương, phía trái là vịnh Bengal, phía phải là biển Arabian. Điều đặc biệt nơi đây, khi trăng lên phía Đông ở vịnh Bangal, mặt trời xuống phía tây bên biển Arabian, cả hai đều tròng trành trên biển đối diện nhau. Đây là nét đẹp của biển, của trăng, của mặt trời trên trái đất mà du khách gặp mặt cùng một lúc. Sóng nước dạt dào vô cùng tận. Bên đông trăng lên. Bên tây mặt trời xuống. Dang hai cánh tay, ta sẽ hứng cả trăng và trời.
Lung linh, một quả cầu tròn đỏ ối rực xuống biển cả. Du khách đến đây chiêm ngưỡng mặt trời lặn. Tôi có mặt trong đám người đó chiều ngày mồng 5 tháng 4, năm 2001.
******** Sau thời gian suy nghĩ, người học trò không sao vẽ được lằn mức giữa ngày và đêm. Anh đánh bạo trả lời tôn sư:
- Thưa Thầy, lúc mặt trời cho con đủ ánh sáng phân biệt được con chó khác con mèo, đó là ngày.
Vị đạo sĩ lắc đầu, hỏi người học trò:
- Phân biệt con chó khác con mèo, nhưng đủ ánh sáng để phân biệt cành trúc khác cành tre không?
Người học trò im lặng chưa biết nói gì. Tôn sư anh ta lắc đầu nói tiếp:
- Đấy không phải tiêu chuẩn phân biệt ngày và đêm con ạ. Đủ ánh sáng phân biệt con chó với con mèo, nhưng bao nhiêu ánh sáng mới đủ phân biệt cây trúc với cây tre? Vả lại gần bao nhiêu thì rõ để gọi là chó, xa bao nhiêu là tối để có thể lẫn là mèo.
Sau cùng, người học trò tự thú:
- Thưa Thầy, từ lúc Thầy đặt câu hỏi con mới để ý khi mặt trời mọc. Con không vẽ ranh giới được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm kết thúc. Con thức giấc mỗi sáng mà không biết lúc nào gọi là ngày, lúc nào hết đêm.
- Con ạ, cuộc đời nhân gian đêm nhiều hơn ánh sáng. Người ta không tỉnh thức nên sống trong đêm tối mà cứ ngỡ ban ngày. Người ta thức dậy mỗi ngày mà không biết ngày bắt đầu lúc nào, làm sao gọi là thức dậy?
Người học trò im lặng trong ý nghĩ riêng tư, hỏi nhà đạo sĩ:
- Thưa Thầy, người ta không quả quyết được lúc nào đêm chấm dứt. Có phải ý Thầy muốn nói, như thế, thức dậy cũng chưa chắc là hết bóng đêm không?
- Đúng thế, con ạ. Thầy muốn dạy con hai điều. Điều thứ nhất, con đã phí phạm biết bao bình minh, mấy mươi năm trong đời nhìn mặt trời mà không biết đâu là ngày, đâu là đêm. Điều thứ hai, ngày tháng còn lại của con, con phải trả lời câu hỏi của Thầy: Lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?
Bao nhiêu năm thiền niệm trên ngọn núi này, ngày ngày Thầy nhìn mặt trời mọc trên biển tìm câu trả lời. Thầy thức giấc nửa đêm trăn trở vì câu hỏi ấy. Thầy ra ghềnh đá chờ ánh mặt trời, Thầy lấy hết tâm trí nhìn bóng tối lui dần mà không vẽ nổi lằn ranh biên giới lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Cho đến một ngày kia...
Nói đến đó nhà đạo sĩ im lặng. Mắt ông ngời sáng, nhìn xa xôi về phía chân trời. Người học trò lắng nghe.
***** Bạn thân mến, có khi nào bạn nhìn mặt trời buổi sáng với câu hỏi của nhà đạo sĩ kia chưa? Mặt trời chưa mọc mà hừng sáng, ta chưa gọi là ngày được, vẫn còn bóng tối, ta bảo đó là hừng đông. Hừng đông là đã có chút áng sáng nên cũng không thể gọi là đêm được nữa. Từ cái mềm mại như ngọn chuối non đến mầu xanh biếc của tàu chuối già, từ cái xanh nhẹ của ngọn mạ đến màu già dặn của lúa, đâu là lằn mức phân biệt? Mặt trời lên dần, vũ trụ ngái ngủ trở mình. Ta chưa gọi là ngày cho đến khi cái ngái ngủ kia thành thức tỉnh. Ánh sáng làm cho cái mềm ẻo của thời gian mơ hồ thành ngày. Nhưng đâu là biên cương giữa ngày và đêm?
Ta thấy trong cuộc đời dường như cũng thế. Đâu là tiếp nối giữa hạnh phúc và đổ vỡ? Bao nhiêu hạnh phúc hôn nhân lúc ban đầu đẹp vậy mà ít năm sau, ta nghe những chuyện buồn, ta ngỡ ngàng thở dài nghe bạn bè cho hay tin, họ ly dị rồi. Đời mỗi người cũng thế. Có khi mình đang đặt sai về những giá trị cuộc sống mà chẳng biết. Đến khi hối tiếc, đã quá muộn màng. Đâu là biên giới của sắp sa ngã và sa ngã?
Không phân biệt được lúc nào ngày bắt đầu, khi nào đêm chấm dứt, làm sao phân biệt được lúc nào ngày chấm dứt và đêm sắp bắt đầu? Thứ đêm và ngày trong ý nghĩa thiêng liêng. Làm sao phân biệt được khi nào hạnh phúc đang phai mờ và đổ vỡ đang đến? Làm sao phân biệt lúc nào giá trị thiêng liêng đang chấm dứt và giá trị trần thế đang lấn chiếm?
Có khi ngày đang hết, đêm xuống dần mà không hay. Ta chần chừ, tưởng đời mình còn dài, trước ngưỡng cửa hoàng hôn mà cứ gọi là ngày.
Có khi trước bóng đêm mà ta thản nhiên không phải ngày còn dài mà chỉ vì không phân được khi nào đêm bắt đầu.
Đường thiêng liêng của linh hồn hay những chuyện tình cũng thế thôi. Họ không biết lúc nào vào bóng đêm, vì không biết tâm tình mình đang đi về đâu. Hòang hôn mà ta cứ tưởng là ngày.
**********
Đợi người học trò thật yên tĩnh, nhà đạo sĩ nói với môn sinh ông ta:
- Con ạ, thật sự không thể vẽ lằn mức được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt!
Người học trò như ngạc nhiên, chăm chú lắng nghe. Tôn sư ôn tồn xác định lần nữa câu nói của ông bằng cách cắt nghĩa cho người học trò:
- Không thể phân biệt được biên giới giữa đêm và ngày cũng như không phân biệt được bao nhiêu của cải là hạnh phúc, thiếu bao nhiêu là chưa đủ!
Ngập ngừng đôi giây, vị đạo sĩ nói như lời tâm sự thân tình với học trò mình:
- Thách đố bởi câu hỏi khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt. Thầy mải mê đi tìm trong văn chương triết học, trong thần bí niệm tu, cho đến một ngày biết mình không còn sống bao lâu mà vẫn không tìm được câu trả lời. Lúc đó Thầy buồn khôn tả, biết mình nhỏ bé trước biển cả và mặt trời. Thầy cúi đầu xin Thượng Đế cho Thầy được chết bình an. Thầy xin Thượng Đế cất đi câu hỏi đã dằn vặt Thầy. Thầy không còn cách nào trả lời câu hỏi ấy. Trong văn chương triết học, Thầy đã thất vọng, trong thần bí niệm tu, Thầy đã ráng sức cả đời. Càng suy nghĩ càng thấy mình nhỏ bé, sau cùng, Thầy chỉ còn biết xin Thượng Đế thương xót, đừng hỏi nữa cho tâm hồn Thầy thảnh thơi.
Khi nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt?
Không trả lời được con ạ. Đâu ngờ, chính lúc Thầy xin Thượng Đế cất câu hỏi ấy đi, Ngài lại trả lời cho Thầy. Một ánh sáng êm dịu vô ngần nhẹ nhàng đậu xuống linh hồn Thầy, cho Thầy một trí hiểu đơn sơ, một niềm vui kín đáo, một năng lực sống trọn vẹn vì một khám phá: Đời quá đẹp.
Nói tới đó, nhà đạo sĩ như phiêu du vào một vùng trời rất đỗi bình an. Người học trò chăm chú kỹ hơn, lắng nghe.
- Con ạ, Thượng Đế nói trong linh hồn Thầy rằng, lúc nào Thầy nhìn con, thấy bóng dáng Thượng Đế trong con, lúc nào Thầy nhìn ai cũng chỉ thấy là bạn hữu, đó là ngày! Lúc nào Thầy nhìn người tức giận, ghét bỏ, tham lam, thù hận đấy là đêm!
Ánh sáng phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu.
Đi giữa ban ngày trong trái tim trĩu nặng, vẫn là đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung.
Ông nhìn người học trò rất đỗi nhân ái mến yêu. Từ từ nhắm mắt. Im lặng, linh thiêng và bình an, ông lặng lẽ xuôi hồn về thế giới bên kia.
Ông đã chết.
Ông về với ánh sáng, nơi chỉ có ngày, không còn đêm nữa. Ông ra đi, để lại cho người học trò câu trả lời lúc nào là đêm, lúc nào ngày bắt đầu.
*******
Người học trò vĩnh viễn xa tôn sư. Vị đạo sĩ chết bình an sau khi để lại cho người học trò ánh sáng mà ông đã kiếm tìm.
Ngày đó anh ta vui mừng vì được câu trả lời không phải vất vả tìm kiếm cả một đời như tôn sư anh. Xa Thầy, người học trò cắp sách vào đời. Chả bao lâu sau khi tôn sư chết, một chiều nọ nhìn mặt trời xuống biển, một sáng kia thấy mặt trời mọc trên đầu núi, nhìn lại câu trả lời của Thầy, anh bất giác nhận thấy đấy chỉ là tìm kiếm của riêng Thầy.
- Đâu là câu trả lời của riêng ta?
Anh tự hỏi vậy. Nếu lòng nhân ái bao dung là ánh sáng phân biệt đêm và ngày, ta có lòng nhân ái không? Câu chuyện hạnh phúc riêng linh hồn ta, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?
Nhìn ánh bình minh sắp lên, trên triền núi đá sương đêm đang mờ mờ tan. Lúc nào ngày tâm linh bắt đầu, lúc nào đêm thiêng liêng chấm dứt?
Nghĩ đến câu trả lời của tôn sư: “Ánh sáng phân biệt đêm và ngày là lòng từ ái nhân hậu hay óan thù nhỏ nhen. Đi giữa ban ngày trong trái tim trĩu nặng, vẫn là đêm, con ạ. Ngày và đêm không thể phân biệt bằng ánh sáng vật lý, chỉ có lòng từ ái bao dung.” Anh ta phân vân hỏi lòng:
- Đó là câu trả lời của Thầy. Thầy đã đem một đời tìm câu trả lời ấy. Còn câu chuyện hạnh phúc riêng linh hồn ta, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?
Anh tưởng rằng Thầy đã trả lời giùm. Không thể phân biệt được lúc nào ngày bắt đầu, lúc nào đêm chấm dứt bằng ánh mặt trời, mà bằng bao dung của con tim. Ngày ấy anh chợt vui vì câu trả lời không cần tìm kiếm. Nhưng nỗi nhẹ nhàng của tấm lòng lịm tắt ngay. Thầy hiểu thế trong trái tim và cuộc sống của Thầy. Còn chính ta, lòng ta có bao dung và ngày có bắt đầu? Câu trả lời của Thầy chỉ là gợi ý cho trí hiểu, còn chính ta, đời ta là ngày bắt đầu hay ngày đang chấm dứt? Ta phải tìm câu trả lời cho riêng ta.
Anh lại trăn trở, câu hỏi ấy không đơn giản, và biết mình sẽ phải đem theo cả đời để trả lời câu hỏi ấy.
Vị đạo sĩ đã bỏ những ngày thách đố chính mình ngồi nhìn hoàng hôn, bỏ những ngày dõi theo ánh bình minh. Ông quay về tìm ánh sáng trong cõi lòng. Tìm được rồi, ông bình an bỏ luôn cõi đời bước vào ngày ngàn thu vĩnh cửu. Nơi chỉ còn ánh sáng không còn đêm.
Rồi tôi cũng từ giã vùng biển Comorin. Trên chuyến xe đò về hướng Bắc tôi sẽ bỏ lại biển cả và mặt trời. Tôi biết ngày mai, rồi tiếp tục ngày mai nữa, thế kỷ nữa và nhiều thế kỷ nữa du khách sẽ kéo nhau ra mỏm đá này nhìn mặt trời. Trong trái tim mỗi đời người, trong chuyện tình cuộc sống của họ, ngày đang bắt đầu hay đêm đang bắt đầu?
Ngày mai tôi lên đường. Đến lúc tôi phải bỏ lại biển cả và mặt trời, bỏ lại ghềnh đá và dòng nước, giữ lại trong tâm tư thôi vì nếu không, làm sao tiếp tục cuộc hành trình.
“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Đời mất vui khi vẹn câu thề”
Đời có thật mất vui khi vẹn câu thề? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở hay là cho dù dở dang tình vẫn đẹp? Người ta nói chấm dứt mối tình dở dang, nghĩa là lúc tình đó đang dang dở thì bị chấm dứt. Có phải đã chấm dứt rồi thì không còn dang dở nữa? Dường như là thế. Chấm dứt là xong, là trọn vẹn không còn gì để nói. Khi đã chấm dứt thì tình đó thuộc về dĩ vãng nguyên tuyền. Nó dang dở trong quá khứ mà trọn vẹn xong ở hiện tại. Như vậy, tình thuộc dĩ vãng không còn tiếp tục hôm nay thì còn gì là dang dở?
Xem ra là thế, tuy nhiên, thuộc về dĩ vãng chưa hẳn là thuộc về vùng đã quên. Nếu còn nhớ thì ngay khi chấm dứt tình dang dở, tình vẫn chưa hết dở dang. Chấm dứt mà còn nhớ thì chuyện tình chỉ chấm dứt trong không gian ngoại cảnh chứ chưa hết trong không gian tâm hồn. Vì lẽ ấy, cũng khá khó cho một định nghĩa tình dang dở là gì, và còn khó hơn, tình dang dở có còn đẹp?
Có thể tìm một định nghĩa dễ hơn. Tình dang dở là tình còn nhớ. Ở đây, dang dở không có nghĩa là chấm dứt lúc còn dở dang. Dang dở là chưa xong. Tình của Đức Kitô không phải là tình đã xong trong quá khứ. Tình ấy không chấm dứt ở thập giá chiều nào trên đồi Do Thái. Tình ấy vẫn hàng ngày gọi, hàng chiều chờ. Tôi gọi tình ấy là tình dang dở. Đức Kitô tiếp tục yêu và tôi chưa nhận đủ. Ngài cho tình yêu, nhưng bàn tay có nhiều khe rãnh, nên hứng lãnh mà tình ấy cứ rơi đi hoài. Vì cái dang dở ấy nên Ngài cứ băn khoăn làm sao cho tôi múc được nhiều để hồn tôi bớt trống và tim tôi thôi vơi. Và vì thế, dở dang của tình yêu ấy là dang dở đẹp. Trong dang dở của tình yêu, cho tôi thấy trái tim Người bao dung và kiên nhẫn.
Nhờ dang dở ấy mà tôi thấy Ngài không mòn mỏi vì phải đợi chờ, không đếm thời gian và đưa tình yêu vào thời khóa biểu. Giữa tôi với Ngài, còn thời gian thì còn dang dở, còn thương xót.
Đức Kitô yêu tôi bằng tình trọn vẹn. Ngài là tình yêu (1 Yn. 4:16). Ngài cho tôi chính Ngài với hơi thở sau cùng trên thập tự. Nói về công việc thì xong, biến cố lịch sử trên Núi Sọ hoàn tất. Nhưng tình yêu không là biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử chỉ là một trong những đường nét để vẽ chân dung tình yêu. Tình yêu ấy vẫn yêu tôi. Thập tự giá ngày xưa vẫn là thập tự giá hôm nay kéo dài trên bàn thờ khi tôi dâng lễ. Đức Kitô đã phục sinh, nhưng trong đau đớn của chi thể Ngài là nhân loại thì Ngài vẫn còn bị đóng đinh. Trong yếu đuối, tôi làm phai nhạt bao nhiêu chuyện tình đẹp giữa tôi và Ngài, tôi vẫn có lỗi phạm. Trong lãng quên, tôi vẫn xuôi chiều bao nhiêu cám dỗ. Vì thế, tình tôi với Ngài làm sao mà không dang dở cho được. Chỉ có tình trọn vẹn ở phía thập giá. Thập giá yêu thương nhân loại nhưng nhân loại không có tình trọn vẹn, nên khi tình trời nối với tình đất thì tình trời mang thương khó. Ngày nào còn nhân loại thì tình giữa nhân loại và thập giá còn là tình dở dang.
Không có tình yêu thì trọn vẹn cũng là trọn vẹn thiếu. Với tình yêu thì dang dở cũng là dang dở quý mến.
Có những dang dở cần thiết. Dang dở cho chuyện tình còn dài, còn nhắc nhở, còn xám hối. Có một thứ dang dở mà Đức Kitô nhất định giữ:
— Khi Ngài chữa mắt cho người mù, Ngài chỉ chữa một cách dang dở. Ngài lấy bùn thoa vào mắt người mù nhưng anh ta chẳng khỏi. Anh ta phải đi rửa ở hồ Sứ Giả. Mù làm sao mà đi dễ dàng, thế mà Chúa không chữa cho xong (Yn. 9:1-41).
— Tiệc cưới Cana cũng vậy. Chúa không làm phép cho có rượu, nhưng chỉ làm cho nước hóa rượu. Đức Kitô bảo các gia nhân: “Hãy múc nước đổ đầy các chum” (Yn. 2:7). Sao Chúa không làm cho có rượu luôn đi mà lại bảo người ta đổ nước? Chúa chỉ làm một nửa. Thương xót thì trọn vẹn, nhưng thương xót ai, bởi đó, thương xót còn hệ tại đối tượng được thương xót muốn thương xót bao nhiêu. Do đấy, có những thương xót cần dang dở để đối tượng được thương xót kia lựa chọn mức độ thương xót cho mình. Nếu các gia nhân chỉ múc nửa bình thì chắc rượu chỉ có nửa bình thôi.
— Làm phép cho CÓ BÁNH ĂN và làm phép cho bánh HÓA RA NHIỀU là hai thái độ rất khác nhau. Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu, hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vứt vất cái dang dở ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cái dang dở ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Sao Chúa cứ thích cái dang dở của các tông đồ làm chi (Mc. 6:35-43).
— Thấy đền thờ thành nơi buôn bán, dơ uế mất rồi, Chúa bảo phá đi rồi trong ba ngày Ngài xây dựng lại. Tại sao Ngài không phá luôn cho tiện mà chỉ xây lại khi người khác phá (Yn. 2:13-22).
Chúa thích những phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới được góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở Chúa để xẩy ra là dang dở huyền diệu. Thiếu dang dở này con người thiệt thòi biết bao. Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do nhận lãnh. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dự. Cái dang dở của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào.
Chúa không thể nào bất toàn. Bởi đó, những gì dang dở mà Chúa để xẩy đến trong cuộc sống, tôi phải tìm hiểu. Có khi là đau khổ, có khi là những ngày chán nản. Những mũi chỉ thêu ngang dọc làm cho tấm tranh rối mù lộn xộn, nhưng nó sẽ là tác phẩm nghệ thuật khi nó hết dở dang. Con đường Hội Thánh đang đi là con đường dang dở. Công cuộc rao giảng Tin Mừng là công cuộc dang dở. Nhưng trong dang dở ấy là ngưỡng cửa hi vọng. Đời truyền giáo của tôi là một hành trình đang dang dở. Tay tôi ngắn mà cánh đồng thì mênh mông. Nhưng nối tiếp những dang dở sẽ thành hoàn hảo. Người mang hi vọng là kẻ chấp nhận những dang dở Chúa để xẩy đến, và nhìn thấy dang dở trong công cuộc rao giảng thập giá là dang dở lạc quan.
Dang dở của tình yêu giữa tôi và Chúa không là dang dở phải chấm dứt. Chúa không bao giờ chê căn nhà tôi nghèo nàn. Tôi cũng chẳng muốn bỏ Chúa. Dang dở chỉ vì yếu lòng. Dang dở vì vụng về trong những lựa chọn. Dang dở vì lấp lửng với những cám dỗ. Từ linh hồn thành thật rất sâu, tôi không muốn những dang dở này. Có băn khoăn về những sa ngã, có hối hận về những không trọn vẹn sẽ làm cho chuyện đường thập giá gồ ghề hơn. Những gồ ghề là những cản ngăn, nghĩa là đường thập giá sẽ thập giá hơn nữa. Khi đường thập giá trở nên thập giá hơn thì linh hồn gian nan hơn, nhưng vì gian nan đó cũng sẽ làm cho đường thập giá ấy ý nghĩa hơn.
Những chuyện tình gian nan bao giờ cũng là những chuyện tình nhiều kỉ niệm. Và, bởi đó, đường thập giá cho dù dang dở vẫn luôn luôn là những chuyện tình đẹp. Không phải dang dở thì mới đẹp, nhưng là vẫn đẹp khi dở dang.
Lạy Chúa, ngày nào còn hơi thở thì tim con còn rung cảm rực nóng. Còn rung cảm rực nóng thì còn những dang dở. Nhưng đường Chúa gọi đi là đường tình thập giá không đánh dấu bằng những lần ngã dở dang. Chúa nối những dang dở ấy thành đường thập giá. Bởi đó, con hi vọng và lạc quan trong mọi dang dở của hành trình thiêng liêng. Và con phải biết Chúa rất cần một thứ dang dở là Chúa không hoàn thành cho con tất cả ước mơ nếu con không thực sự mơ ước.
Ước mơ đẹp là mình ước mơ, còn ước mơ hững hờ là ước mơ người khác mơ ước dùm mình.
Xin cho con không bao giờ thở dài về sự dở dang trên đường thánh thiện. Không chán chường sự dở dang trong công cuộc truyền giáo rồi thôi rao giảng Tin Mừng để cho khỏi băn khoăn về những dang dở ấy.
Vâng, lạy Chúa, con không muốn làm cho chuyện tình thành dang dở, nhưng chỉ vì con yếu đuối. Chúa thương con, thì với Chúa, những chuyện tình dở dang của con trên đường theo Chúa vẫn là những chuyện tình đẹp.
Cũng có lúc dòng sông cạn. Nhưng chẳng vì thế mà dòng sông lo âu, rồi toan tính tích lũy nước cho mình. Từ quá khứ, xuôi nguồn vào tương lai, nước làm thành dòng sông chứ không phải dòng sông làm nên nước. Từ ý nghĩ đó, dòng sông vào đời tự do theo ơn gọi của mình.
Đặt cuộc đời trước dòng sông. Ta xin dòng sông cho cuộc đời một lần nhìn rõ mặt mình trong ý nghĩ ấy.
Vào mùa nước lũ, dòng sông cuồn cuộn đưa nước xuôi đồng bằng. Mênh mông chân trời khi bình minh rải ánh sáng. Lấp lánh rừng bạc vào mùa trăng thượng tuần huyền ảo. Thế nhưng, tháng hạ nắng hanh, dòng sông vơi dần. Nước cạn cho phơi bờ cát lở. Trong cuộc đời, có những khúc sông mà ngày tháng sóng nước chơi vơi. Cũng trong cuộc đời, không vắng những mùa khô cạn nước. Cuộc sống của ai cũng vậy thôi, hễ có ngày sai mùa trái chín, thì cũng có những ngày khô khan lá rơi. Có những mảnh đời nghèo khó và cũng có những khúc đường đầy đủ. Lúc vơi bờ cát lở là khi túng thiếu đưa mùa gian nan chín tới, là lúc buồn bã gọi lòng trống trải đi về.
— Xin Thượng Đế cho con hiểu rằng nếu dòng sông vì âu lo mùa nắng mà dừng lại tích nước mùa mưa thì dòng sông hết là dòng sông mất rồi. Nó chỉ là dòng sông khi chảy xuôi nguồn. Ngày nào con băn khoăn bắt dòng sông cuộc đời ngưng trôi chảy trong hồn, ngày đó cuộc đời thành ao tù. Buồn làm sao những mảnh đời ứ đọng, không còn niềm vui xuôi nguồn nhân gian. Dòng sông trở nên hoang vu trong cái ứ đầy của mình. Xin Thượng Đế cho con biết nhận thì cũng biết cho đi. Chính lúc nghèo túng là lúc con biết rõ tâm hồn mình có độ lượng, bao dung hay không.
Dòng sông không gian tham. Nó biết nó chỉ là dòng sông khi trời cho nước. Nó không băn khoăn vào mùa nắng hạn. Nó chẳng tự phụ khi dòng nước dâng. Nước làm nên dòng sông. Biết mình tùy thuộc vào dòng nước, con sông bình an xuôi dọc thời gian. Như nước đưa dòng sông thành nguồn, ơn sủng trời cao đưa con người vào đời. Dòng sông không bao giờ gian tham lấy nước của dòng sông khác. Nó dâng vui khi nước nguồn đổ tới. Nó thong thả khi nguồn nước nghỉ ngơi.
Nếu con người biết những gì mình có trong đời là do ơn sủng trời cao, như dòng sông biết nước đưa mình vào đời chứ không phải tự mình, thì con người sẽ nhận sự sống từ trời bằng bàn tay an nhiên. Con người phải vào đời bình an như dòng sông, không so sánh nhỏ nhen, ghen tức.
— Xin Thượng Đế cho con biết con tùy thuộc vào Ngài, con sống bởi ơn sủng của Ngài. Khi con hiểu ơn sủng Ngài đưa con vào đời như nước làm thành dòng sông thì con hiểu tình yêu là sức mạnh chứ không phải lấy sức mạnh tạo dựng tình yêu. Vì ngỡ sức mạnh tạo dựng giá trị nên con mới tích lũy để chiếm đoạt. Có những tích lũy bằng uy thế, bằng sắc đẹp, bằng địa vị, bằng đam mê. Giá trị đời con là sống như dòng sông, xuôi nguồn mùa nước lớn, thong thả mùa nước khô. Bởi, con biết giá trị cuộc sống là sống trọn ơn gọi trong hoàn cảnh Ngài ban tặng riêng con.
Dòng sông không ngừng lại nên sự sống của dòng sông chính là từ giã không ngừng. Cuộc đời cũng thế thôi, là trôi chảy. Nhưng con người không chấp nhận biệt ly. Bởi đó, sự bám giữ của con người đã đưa dòng sông cuộc đời mình thành sóng đổ. Một ngày nào rồi cũng giã từ tuổi thơ vào đời. Bờ đê nhỏ. Mái nhà xưa. Rồi cũng bỏ đi xa. Cho dù tuổi thơ có là êm đềm. Rồi lớn lên ta cũng buông cánh theo gió mà ra khơi. Cứ như thế cho đến ngày ta gặp gỡ tình yêu đầu đời. Thoáng hương có mật ong say, có hơi thở ấm. Rồi cũng đến ngày hơi thở thì dài và mật ong thì phai. Sống là chấp nhận chia ly không ngừng. Ngày nào ta bám víu lại không cho dòng sông chảy xuôi là ngày hồn ta quằn quại.
— Xin Thượng Đế cho con đừng bị ràng buộc vào những bờ đất. Bởi dòng sông phải buông bờ mà đi. Ngày nào dòng nước dừng lại, lưu luyến một bến bờ nào đó, nó chỉ tàn phá nhau thôi. Nước thành sóng và bờ tan hoang. Chẳng nói chi vật chất, ngay cả những giá trị tinh thần như tình yêu, tình bạn, lòng nhiệt thành, con cũng phải buông cánh cho trôi theo dòng đời. Những giá trị ấy không phải là cùng đích của cuộc sống, nó phải dẫn con đến cuộc sống cùng đích sau cùng là gặp Chúa. Vì thế, con phải biết lúc nào buông cánh để đời nhẹ nhàng xuôi dòng.
Dòng sông luân chuyển không bao giờ ngừng nghỉ, nhưng có ngày chấm dứt. Đó là ngày dòng sông về tới biển cả. Nó xuôi nguồn để tới cùng đích. Nó luôn luôn chảy, luôn luôn giã từ để tới nơi không còn từ giã. Và cuộc đời cũng thế thôi. Ta vào đời là xuôi dòng về với trùng khơi. Bởi đó, ta phải chấp nhận sự chết như một chờ mong. Bất cứ ràng buộc nào cũng gây khổ đau vì nó dồn sóng lại trên đường mà đáng lẽ phải là êm ả buông rơi. Chết như một định luật tất yếu thì bám víu vào bờ cát trên dòng sông cuộc đời chỉ là cấu chặt vào một hư vô. Người yêu cũng là từ giã. Những thành quách ta xây cũng là giã từ. Bởi đó, như dòng sông ta phải sẵn lòng nói lời ly biệt.
— Xin Thượng Đế cho con can đảm nhìn cuộc đời bao dung để con bao dung với chính mình. Nếu con không bao dung với đời, lòng thèm muốn bảo con giữ chặt lại cho mình, của cải, quyền bính, danh vọng thì con chẳng bao dung với chính mình đâu. Con mất tự do mất rồi.
Dòng sông tự nó là chia ly đôi bờ. Những tình yêu phải xa nhau đã chẳng có tiếng thở dài về dòng sông đó sao. Ôi! những dòng sông xa cách! Như dòng sông tự nó là chia ly, là trắc trở, con người cũng thế, ai cũng là gai nhọn cho nhau. Tự mình ai cũng là nghịch cảnh cho nhau. Bởi trong ta, ai không yếu đuối? Dòng nước làm chia ly, nhưng bên bờ sông cũng có những bến hẹn, bến mong cho con đò một chiều có nhau. Chia ly đôi bờ đã có những gặp gỡ. Cuộc đời cũng vậy thôi.
— Xin Thượng Đế cho đời con là bến hẹn cho người hội ngộ để dòng sông nhìn hạnh phúc gặp nhau trên bến đê. Người ta nhớ về những bến sông có kỷ niệm ngọt ngào. Tự con có thể là nghịch cảnh ngăn cách người với người, nhưng như bờ sông, tự con cũng có thể là bến hẹn hòa giải gặp gỡ. Như dòng sông hương hoa biết bao khi nghe tình yêu đi trên bờ đê của mình, thì đời con cũng thế thôi, cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi là bến cho niềm vui của thế nhân đỗ chân.
Khi dòng sông có cây cầu nối xa về gần thì bến sông có tình yêu về trên lối cỏ. Khi cây cầu đưa vắng mặt về xum họp thì bến sông có kỷ niệm hương hoa. Đời người cũng thế thôi. Và cây cầu ấy chính là Thượng Đế. Xin dòng sông dạy tôi biết không có cây cầu Thượng Đế thì đời tôi có thể là chia ly cách biệt người với người. Nhưng có Ngài, ôi! dòng sông đời sống sẽ đẹp biết bao. Dòng sông đời ai có bến đỗ đem kỷ niệm êm đềm cho người khác, thì bến đỗ ấy cũng được ban tặng lại hạnh phúc do kỷ niệm êm đềm kia để lại. Vì khi hạnh phúc đậu trên bờ sông nào thì dấu thơm hạnh phúc ấy cũng lưu lại với chính bờ sông đó nữa.
Tôi là một tòa giải tội bằng gỗ. Tôi đứng ở đây lâu lắm rồi. Năm tháng đi qua với dòng đời đổi thay, tôi đứng đây nhìn cuộc đời. Trải qua mấy thế hệ, những người cùng thời với tôi đã từ giã cõi đời từ lâu. Thế hệ này sang thế hệ khác, tôi chứng kiến những đổi thay trong cái họ đạo này. Đời tôi là vô vàn những trang hồi ký.
Cuộc gặp gỡ nào cũng là một lịch sử. Biến cố nào cũng có ý nghĩa. Dòng chữ tôi đang viết đây là một mẩu ngắn trong dòng thời gian đó. Chuyện hai con chuột nhắt nói với nhau. Câu chuyện của chúng nó có liên quan về tôi.
Con chuột cạnh bờ tường lên tiếng:
- Kỳ này mày có khỏe không?
Con kia trả lời:
- Nhức đầu quá!
Chúng tiếp tục câu chuyện. Tôi là tòa giải tội, tôi lắng nghe. Con cạnh bờ tường nói:
- Tao cũng nhức đầu quá.
- Tại sao vậy?
- Nhà tao ở, suốt đêm lúc nào cũng karao ôkê!
- Khu chung cư của tao thì chúng ồn ào, ôi thôi là ồn ào. Hết đám con nít khóc, lại đến người lớn cãi nhau. Chán mớ đời!
- Thế trước đó mày ở đâu?
- Tao đổi nhà bao nhiêu lần rồi, chỗ nào cũng chỉ được vài hôm.
Con chuột phía bên kia cúi xuống gặm chân. Miếng báo cũ nó tha về đã trải gọn gàng. Nó thở dài rồi lại tiếp tục câu chuyện:
- Cuộc sống hôm nay phức tạp quá, suốt ngày ồn ào. Người lớn cũng vậy, con nít cũng thế, chúng không bao giờ biết thinh lặng. Tao tìm hết nhà này đến nhà kia, chỗ nào cũng rứa. Khó ngủ quá. Tao từng ở ngoài chợ, rồi kho hàng, nhà chùa, rồi nhà thờ, bây giờ thì ở gầm cái tòa giải tội này.
- Mày nghĩ chúng ta sẽ được yên thân nơi này không hay cũng bị mất ngủ?
Tôi chưa viết về sự cố vì sao hai con chuột nhắt này lại gặp nhau ở đây. Bắt đầu là thế này. Ngày xửa ngày xưa ở cái tòa giải tội này, tôi lúc nào cũng bận rộn đón người qua lại. Sáng, chiều, có một cha già, chẳng mấy khi không ngồi ở đây đón tín đồ. Lúc ấy khác bây giờ lắm, nhà thờ vang câu kinh, người lớn, con nít, ôi thôi đủ là hát xướng, vui ơi là vui! Hồi ấy người ta sốt sắng đạo đức, chiều kinh tối, sáng thánh lễ, lúc nào cũng có người ra vào tòa giải tội. Thế rồi từ từ lòng người thay đổi, cha già chết đi. Những người cùng thế hệ tôi cũng vậy. Sau cùng, tôi là chiếc tòa giải tội vắng khách. Mạng nhện giăng đầy. Bụi bắt đầu mờ. Chả thấy ai quét bụi nữa. Tôi là tòa giải tội đứng buồn hiu như một chợ chiều không còn người. Nghĩ mà nhớ những ngày tháng xa xưa. Tôi chả quên được dĩ vãng nhiều kỷ niệm ấy.
Rồi một con chuột già đi ngang qua, thấy yên tĩnh lạ thường, nó dừng lại đôi ngày rồi khám phá ra cái không gian chẳng bóng người qua lại này. Sau cùng, nó vô cùng thích thú chọn nơi đây làm quê hương dưỡng già, ngủ ngon giấc. Yên tĩnh lắm. Con chuột ấy thế mà tinh khôn. Nó chui vào đây ở thảnh thơi cho đến ngày biết sắp qua đời, nó nhường lại khu vực êm ả cho hai con chuột nhắt.
Hai con chuột nhắt nói chuyện lúc nãy mới dọn vào đây đấy. Chúng còn ngỡ ngàng lắm. Thôi, bây giờ tôi kể tiếp về hai con chuột nhắt nói với nhau:
- Ừa, tao nghĩ nơi đây sẽ yên tĩnh và chúng ta sẽ ngủ ngon!
- Sẽ không bị bước chân người quấy phá như ở ngoài đời!
Hai con chuột nhắt cười đùa khoái chí. Chúng đố nhau:
- Đố mày chúng ta sẽ được yên tĩnh bao lâu? Một tuần? Một tháng? Hay một năm thì lại có người vào đây?
Con chuột nhỏ hơn trầm ngâm một chút rồi gục gặc cái đầu. Nó không trả lời mà đối lại con kia bằng câu đố khác:
- Đố mày ai là kẻ đầu tiên vào đây phá giấc ngủ chúng ta? Người hay lại là gã mèo già tìm nơi yên để ngủ?
* * * Ngày... tháng....năm....
Đã lâu không có ai vào đây, nhưng một mùa Chay nọ, câu chuyện xảy ra.
Người thanh niên ngồi dưới cuối nhà thờ lâu lắm. Người ấy đến đây mấy lần, chỉ ngồi trong nhà thờ thôi, không vào đây. Tôi là tòa giải tội lâu ngày không có người vào. Tôi cầu nguyện, tôi xin cho có một người vào đây với Chúa đi. Cây thánh giá treo trên tường cũng bụi bám, vắng thật vắng. Tôi cầu nguyện nhiều, và sau cùng, tôi thấy anh ta từ từ bỏ ghế ngồi đi lên. Lòng tôi hồi hộp cầu nguyện thêm, tôi xin cho anh đừng bỏ cuộc. Rồi, người thanh niên đến gần, ngó vào tòa giải tội, ngại ngùng. Tôi lại lấy hết tâm hồn cầu nguyện cho anh. Dáng đi của người thanh niên vất vả, có ai kéo anh lại? Tôi cầu nguyện thêm, cầu nguyện thêm. Sau cùng, người thanh niên giơ tay đẩy nhẹ cánh cửa, bước vào.
Tôi là tòa giải tội ở đây qua bao nhiêu thế hệ, gần trăm năm nay rồi còn gì, từ thế hệ cha ông của những người trong họ đạo này cơ mà. Như tôi viết ở trên, tôi chứng kiến rất nhiều thăng trầm của cuộc đời. Nhất là nhìn thấy không biết bao nhiêu biến cố lạ lùng đã xảy ra. Trong góc nhỏ nhà thờ này mà chứa không biết bao nhiêu phép lạ. Vì những phép lạ ấy rất hạnh phúc, rất riêng tư nên người ta muốn giữ kỷ niệm đó cho riêng mình, ít người nói ra.
Người thanh niên nói với Chúa:
- Lạy Chúa, mỗi lần đến với Chúa qua tòa giải tội này là đời con được tái sinh, con hạnh phúc hơn, yêu đời hơn, sao con vẫn cứ ngại ngùng hả Chúa?
Trên bóng thánh giá, Chúa nhìn người thanh niên trả lời:
- Con ạ, ma quỷ rất sợ tòa giải tội. Nơi đây là trận chiến thảm bại nhất của nó. Con có kinh nghiệm mỗi lần đến với Cha rồi ra về, lòng con vui hơn, cuộc đời nhẹ thênh thang, nhưng con vẫn ngại vì ma quỷ không muốn buông tha một người đang trên đường thuộc về nó. Lúc nào con ngại tòa giải tội là lúc ma quỷ gần con nhất. Nó đang giữ chân con lại. Chính lúc đó là lúc con lại cần tòa giải tội hơn lúc nào hết.
- Thưa Chúa, Chúa biết mọi tội con rồi sao con lại còn phải đến đây, sao Chúa không tha cho con đi?
- Con rất yêu quý của Cha, con hiểu lầm tình yêu của Cha trong tòa giải tội này rồi. Lòng của Cha luôn bao dung. Con không nhớ trước khi người con hoang đàng trong Phúc Âm trở về thì cha nó đã mong chờ nó rồi sao? Mong nó về là tha thứ hết rồi. Cha nó có hỏi tội nó đâu? Trước khi con đến đây, ngay khi con phạm tội, hôm đó lòng Cha buồn khôn tả. Con phạm tội xong, con bước đi u buồn lững thững, con giấu diếm Cha, con giấu diếm người chung quanh. Cha thấy thương con quá đỗi. Cha tha cho con ngay hôm đó rồi.
Người thanh niên im lặng lắng nghe. Anh trầm ngâm suy nghĩ. Một phút tĩnh mịch trôi qua. Lòng nhà thờ có con chim sẻ kêu chim chíp. Chúa thấy người thanh niên im lặng, Ngài nói tiếp:
- Cha chán tội, Cha không muốn nghĩ đến tội. Cha chỉ nghĩ đến tình thương và sự đau khổ. Cha thấy con lầm lũi đi, con không dám nhìn trời, con giấu diếm Cha. Con rước lễ mà lòng con chán ngán. Cha biết con đau khổ. Cha nghĩ đến khổ đau trong con. Con ạ, con là con của Cha.
Chúa mới nói tới đó thì người thanh niên cúi xuống tay ghế quỳ chảy nước mắt. Con chim sẻ bay ngơ ngác với tiếng kêu nhiêm nhiếp. Trong dòng nước mắt, người thanh niên cố nói như muốn trách Chúa thêm:
- Thế sao con lại phải đến đây?
- Con yêu quý, như con thấy, chỉ khi nào người con hoang đàng trở về nhà thì nó mới có ăn. Nếu không về, nó chết đói bên bầy heo. Cho dù người cha tha lâu rồi, nhưng không về nó vẫn chết vì đói. Sự tha thứ đã được ban ra, nhưng để lãnh nhận con phải giơ tay. Nhà cha có cơm gạo nhưng con sẽ đói nếu không ăn. Con hiểu ý của Cha không?
Cũng như chiều nay, khi con ngồi trầm ngâm trong nhà thờ, Cha thấy con, Cha thấy rõ con. Cha tha cho con lâu rồi. Cha tha cho con ngay khi con bước đi buồn bã vì tội trong con. Cha thương và Cha tha ngay.
Trong tiếng xót xa, người thanh niên hỏi Chúa:
- Cha tha mà sao lòng con cứ bối rối hoang vu?
- Con ạ, con không thể cảm nghiệm được tình thương của Cha cho đến khi con giơ tay lãnh nhận. Huyền diệu của tình yêu là chỉ khi nào người kia lãnh nhận thì tình yêu ấy mới thật sự thành tình yêu. Sự cao cả của tình yêu là tự do nên tình yêu không bao giờ đến từ một chiều. Khác biệt huyền diệu của tình yêu và sự thù ghét là sự tự do ấy. Khi thù ghét, người ta dùng bạo lực bắt người kia đau khổ. Tình yêu thì không, phải có người nhận tình yêu mới là tình yêu. Tình yêu cho đi mà không người nhận, tình yêu lại trở về với người đã trao ban. Người con hoang đàng không trở về sẽ không cảm nghiệm được sự tha thứ, không cảm nghiệm được tình thương của cha. Cho dù người cha có đẩy tình thương và sự tha thứ đi tìm kiếm nó, cũng sẽ không gặp nó.
Người thanh niên lắng nghe, quỳ im lặng. Tôi là tòa giải tội. Mỗi lần xảy ra như thế, lòng tôi hạnh phúc xót xa. Trong tôi có vui lẫn bùi ngùi. Trong xót xa có cái tiếc nuối, có thương tội nghiệp, có thật thà. Tôi mong có người đến với tòa giải tội là thế. Nơi ấy giữa Chúa và người ta gặp nhau cách kỳ diệu nhiệm mầu. Rồi người ta ra về với một trời mới, đất mới. Cỏ cây xanh tươi. Nắng chan hòa ấm cúng trong lòng người. Cứ mỗi lần chứng kiến như thế, đời tôi cũng hạnh phúc vô cùng. Vì thế, tôi cứ muốn làm tòa giải tội ở đây, dù cả tháng chỉ có vài người tới, tôi vẫn cứ muốn ở đây. Tôi lắng nghe tiếp Chúa và người thanh niên đang nói chuyện:
- Con đến tòa giải tội không phải tìm sự tha thứ mà để cảm nghiệm sự tha thứ. Cũng như người con hoang đàng, không phải về để cha tha, mà để cảm nghiệm sự tha thứ và được sống.
Ngày con phạm tội, con ơi, con bước đi u buồn, con không dám nhìn Cha. Trên thập giá, Cha nhìn xuống tội nghiệp con. Về phần Cha, Cha luôn tha thứ cho con. Cha đẩy sự tha thứ đi kiếm tìm con. Nhưng để cảm nghiệm tình yêu ấy vào trong hồn con, lại tùy ở con có về để lãnh nhận hay không.
Con yêu dấu, khi con đến tòa giải tội giơ tay lãnh nhận, tình yêu là ơn cứu độ trên bàn tay mang dấu đinh ở cây thánh giá này đổ xuống tay con.
Cha quý ơn sủng của Cha vì bàn tay Cha rất đau, nên khi cho ai ơn sủng ấy Cha nhớ người đó mãi. Con có thể quên ngày hôm nay, cũng như con đã quên những lần xưng tội trước vì khi lãnh nhận con chỉ giơ tay. Tay con không đau như tay Cha. Còn Cha, Cha không thể quên con vì tay Cha đã rất đau đớn với ân sủng này.
Con ơi, khi cho người nào ân sủng ấy, Cha nhớ người đó.
Con chim sẻ lại bay. Nó ngơ ngác như muốn tìm một đường bay nào đó mà không rõ. Tiếng kêu chim chíp vang trong lòng nhà thờ vắng. Người thanh niên vẫn cúi đầu, nói với Chúa:
- Lạy Cha, xin thương xót con. Xin cho con cảm nghiệm được tình thương của Cha.
Chúa nhìn người thanh niên, chậm rãi nâng bàn tay rất đau đớn, ôm người thanh niên. Người thanh niên cúi đầu lãnh nhận. Tôi thấy mắt người thanh niên rướm lệ. Còn tôi, chiếc tòa giải tội gỗ, tôi lại chứng kiến một trời mới và một mùa xuân thiêng liêng mới đang nở trong lòng nhà thờ.
Ai trong các con có bạn hữu nửa đêm đến nhà mình nói: Bạn ơi, cho tôi mượn mấy tấm bánh, vì bằng hữu ở xa tới mà tôi hết đồ ăn rồi. Người kia ở trong trả lời: Ðừng quấy rầy người ta, cửa đóng rồi, trẻ nhỏ ngủ hết, ai dậy mà lấy cho ông được. Nhưng nếu họ cứ gõ hoài. Ta bảo thật, người ấy không dậy mà cho vì tình bạn bè thì ít ra vì họ quấy rầy nên cũng ráng dậy mà lấy cho họ. Nên Ta bảo cho các con rõ: Vì hễ ai xin, sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ sẽ mở cho (Lc. 11: 5-10).
Chúa bảo tôi đến gõ cửa, ở đấy có chờ đợi. Ðó là lời xác định của Chúa. Như vậy, chắc chắn tôi sẽ bắt gặp nếu tôi kiếm tìm, tôi sẽ tìm thấy nếu tôi van xin.
Nhưng trong đời, tôi đã kinh nghiệm một nỗi bận tâm khó hiểu. Tôi gọi mà Chúa không đáp trả. Tôi xin mà Chúa không cho. Có những vực sâu của tâm hồn, có những đêm dài bất an, tôi hướng về Chúa nhưng tôi không gặp. Tôi không ước mơ những ước mơ lớn. Tôi chẳng xin sang giàu. Tôi chỉ xin cho tôi nhẹ bớt khổ đau tâm hồn. Tôi chỉ xin cho đỡ kéo dài bệnh tật của thân xác. Tôi chỉ xin Chúa soi cho tôi một ánh đèn khi tôi phải quyết định những vấn đề quan trọng. Tôi chỉ xin Chúa giữ tôi lại trước đêm đen mịt mùng cám dỗ. Nhưng tiếng tôi từ vực sâu lại vọng về với tôi trong nỗi vắng. Những lúc tôi cần Chúa nhất thì Ngài lại bỏ tôi đi xa. Vì sao Người im tiếng?
Ngài im tiếng. Hay có phải Ngài đang nói mà tôi không nghe? Ngài chối từ. Hay có phải cánh cửa đã mở mà tôi không vào vì có vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh? Ngài im lặng. Hay có phải Ngài bảo tôi: Hãy vào sa mạc, hãy ra bờ đá lặng thinh, hãy khép lại bớt cửa lòng rồi con sẽ nghe thấy tiếng Cha. Nhưng tôi chán những bờ đá vắng vẻ, và tôi đã yêu những vũ tiệc của mùa xuân trần thế ở chung quanh. Làm sao tim tôi nghe được tiếng con họa mi đang hót khi mà bày ve sầu đam mê đang kêu inh ỏi trong hồn?
Ngài thờ ơ. Hay có phải Ngài không đáp trả vì tôi bất xứng với ân sủng của Ngài. Chẳng ai có thể trách vì sao không có mặt trời nếu họ cứ sống dưới hầm tối, vực sâu. Chẳng ai có thể trách vì sao không có bình an nở giữa khu vườn tham lam. Người cha tốt là người cha đóng cửa nhà mình để đứa con khỏi ngày ngày về lấy gia tài đi hoang đàng, phung phí.
Vì sao Chúa không cho tôi điều tôi xin? Ðã bao lần Chúa bắt tôi đi. Gian nan. Mỏi. Tôi muốn ghé tạm xuống đường ngồi nghỉ. Nhưng Chúa biết để tôi ngồi nghỉ, dần dà tôi sẽ nghe theo tiếng nói của đất thấp, tôi sẽ lười biếng đối với tiếng gọi của trời cao. Tôi trách vì sao Người không cho tôi lập nghiệp trên những ước mơ của tôi, xin làm quê hương trên những ý nghĩ riêng tư của tôi. Ngài chẳng đáp trả, vì Ngài biết đường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi. Trong những đêm đen như mù mịt, tôi gõ nhưng cánh cửa chẳng mở. Phải chăng chỉ có Ngài, Ngài mới biết những gì là tốt nhất cho phần rỗi của tôi. Như vậy, không đáp trả có là dấu chỉ của tình thương?
Khi không đáp trả, đấy cũng là một cách trả lời. Trả lời bằng lặng im nhiều khi lại là câu trả lời thâm sâu và hàm chứa nhiều ý nghĩa.
Tôi không đến với ai mà tôi biết chắc rằng tôi không thể tin cậy. Khi đến xin Chúa trợ giúp là tôi đặt niềm tin nơi Ngài. Nếu đã đặt niềm tin thì sao lại có thể phân vân. Khi Ngài im lặng như không đáp trả, tôi lo âu, thì đấy là dấu hiệu niềm tin đó không vững vàng.
Niềm tin là lời cầu nguyện để xin được biến đổi. Như thỏi đất sét tin mình nằm trong tay người thợ lành nghề. Người thợ gốm biết loại đất sét nào có sức chịu đựng để đúc gạch lót đường, loại nào có thể tạc tượng. Niềm tin vững vàng là phó thác trong tay người thợ gốm vì tin rằng mình được yêu thương và săn sóc. Tin vững vàng hệ tại phó thác rằng Chúa là người thợ gốm khôn ngoan và không lầm lẫn trong công trình sáng tạo. Chứ tin vững vàng không có nghĩa là tin mình sẽ biến đổi được ý định của Chúa để đạt được điều mình xin. Có những lời xin chẳng bao giờ được đáp trả nhưng lại là một ân sủng thật lớn lao.
Ngày còn bé tôi không biết cầu nguyện thế nào. Những ngày bom nổ nhiều là những ngày mẹ tôi càng lo. Mỗi tối, mẹ tôi bảo tôi ngồi lần hạt cầu nguyện cho cha ngoài trận tuyến. Trong trí óc non dại, tôi cầu nguyện cho cha tôi được bình yên. Một lằn đạn hiểm nghèo. Một trái mìn kín đáo. Ðời sống bếp bênh như treo bằng sợi chỉ. Chỉ một giấy báo tin thôi, tôi sẽ là đứa mồ côi. Mẹ tôi sẽ là góa phụ. Tôi đã thấy nhiều lá cờ trải lên mộ đất. Tôi đã thấy nhiều chuyến xe nhà binh chở đơn độc một quan tài, người thiếu phụ đội nón trắng ngồi lặng lẽ không còn nước mắt để khóc.
Rồi chuyện một đêm đã đến. Chiến tranh đổ xuống trên mảnh đất quê tôi. Tôi còn bé, nhưng tôi hiểu những nghẹn ngào của người có thân nhân vừa mới vĩnh biệt. Mưa ướt lẹp xẹp, tôi nghển cổ nhìn qua cửa sổ đông chật người. Một chiều mưa ảm đạm, lạnh lẽo làm sao. Mái lá thấp đổ những dòng mưa thảm não. Tôi vẫn còn nhớ cái buổi chiều xám nặng nề ấy cho tới hôm nay. Ðôi chân của cậu X. chết nằm sóng sượt trên cái phản gỗ. Bùn dính lem luốc. Mợ X. khóc thảm thiết bên xác chồng mới chết trận. Ai đã bắn chết cậu? Có phải kẻ mà cậu chưa kịp bắn?
Tò mò, tôi theo những đứa trẻ khác ra ven rừng xem xác chết. Những hố bom cày tung đất còn mới nguyên. Vải băng trắng còn lẫn với xác người chưa kịp thu. Giữa những xác người ấy, tôi thấy một người nằm chết cong queo, cụt chân vì bom nổ, máu bầm khô bết vào áo đầm đìa. Mặt cháy đen. Nhìn kỹ trên khuôn mặt ấy, tôi không quên được là chuỗi tràng hạt vẫn quàng vòng quanh cổ. Kẻ chết là một bộ đội miền Bắc. Ðiều làm tôi ngỡ ngàng là bộ đội cộng sản cũng tin vào Chúa như tôi sao?
Từ ngày đó, mỗi lần giúp lễ, nhìn lên thánh giá mà hồn tôi bâng khuâng. Tôi thấy Chúa buồn. Quỳ đây, tôi cầu nguyện xin Chúa chở che cha tôi ngoài chiến trận. Nhưng người cán binh bộ độ ấy, có thể cũng có một đứa con trai bằng tuổi tôi ở ngoài miền Bắc. Nó cũng là cậu bé giúp lễ. Cứ mỗi sáng, mẹ nó cũng đánh thức nó dậy thật sớm để giúp lễ, cầu nguyện cho cha đang ở mãi trong miền Nam heo hút. Năm tháng bặt tin, chắc chiều chiều, tối tối, mẹ nó cũng rối bời lòng trí, thẫn thờ nhìn về phương Nam, dục nó đọc kinh. Chúa nghe lời tôi để cha tôi giết họ? Chúa nghe lời cậu bé kia để cha cậu giết cha tôi? Cả hai cậu bé đều cầu nguyện, Chúa biết nghe lời ai?
Tôi không tin là Chúa có câu trả lời. Tôi chỉ cảm thấy rằng Chúa khó xử ghê gớm lắm. Chúa trên thập giá như càng thêm đau đớn. Mỗi lời cầu của tôi là một vết thương cho Ngài. Mỗi nỗi lo âu của cậu bé ngoài miền Bắc kia làm Ngài thêm khổ tâm.
Tôi hình dung Chúa như một người cha. Ðứa con thứ nhất chạy đến: Cha ơi, đưa con dao cho con để con chém nó. Ðứa con kia chạy lại, sợ hãi: Cha ơi, đừng đưa! Cha có biết rằng con cũng là con của cha sao? Và người cha chỉ còn biết đớn đau mà thôi, vì cả hai con đều là con của mình.
Từ đó, mỗi buổi sáng giúp lễ, tôi thấy Chúa trên thập giá như ngậm ngùi. Tay giang rộng cứ thêm mãi khổ thương. Từ ngày đó, trong cái trí óc non nhỏ của tôi, tôi hiểu mơ màng rằng bất cứ hành động nào gây thương tích cho nhau cũng là làm khổ cho Cha trên trời.
Lạy Chúa,
Mỗi khi con cầu nguyện thì cho con biết xin được biến đổi, chứ đừng biến đổi Chúa. Làm sao con có thể biến đổi sự khôn ngoan của Chúa thành sự vụng về của con. Khi con nài Chúa làm theo ý con là con muốn đem sự hoàn hảo của Chúa thành những bất toàn giống như của con.
Con ngỡ tiếng sói sủa là vui tai. Con ngỡ lời mời của Satan là tha thiết. Con ngỡ trái táo hồng có hương thơm, nào ngờ đâu con có biết sâu độc làm tổ ở bên trong. Những lời con xin nhiều khi rất đẹp, nhưng chỉ là đẹp theo cái nhìn của con mà thôi.
Lạy Chúa,
Xin cho con hiểu rằng có những lời xin mà Chúa chẳng thể đáp trả được. Và chính lúc Chúa im lặng lại là lúc Chúa đang nói với con bằng ngôn ngữ nhiệm mầu nhất.
Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho.Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ đợi chẳng xảy đến.Như hai bờ sông nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng cách xa bởi dòng sông, nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng. Bởi đó, vợ chồng có thể cô đơn bên nhau.
Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Đã cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn.
Người ta gần nhau mà vẫn có thể xa nhau, vì trong cuộc đời, mỗi người đều có hai thế giới. Thế giới riêng trong cõi lòng tôi và thế giới ngoài vũ trụ. Thế giới tâm hồn tôi sụp đổ thì thế giới bên ngoài thành hoang vắng, vô nghĩa. “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Vì thế, tôi có thể cô đơn giữa đám đông. Cả vườn hoa chẳng có nghĩa gì nếu không có loài hoa tôi kiếm tìm. Người đưa thư trở thành thừa thãi nếu không có cánh thư tôi đang chờ mong. Chỉ một cánh hoa của lòng tôi thôi cũng đủ làm cho cả khu đồi thành dễ thương. Chỉ một cánh thư thôi cũng đủ làm cho bầu trời xanh thăm thẳm. Làm gì còn cô đơn nữa nếu đã có bắt gặp.
Tôi cô đơn khi thấy quanh mình chỉ là những dòng sông lững lờ, chỉ là những con nước thờ ơ. Tôi có thể cô đơn vì tôi không đến được với người. Tôi cũng có thể cô đơn vì người không muốn đến với tôi. Cô đơn nào thì cũng là một hải đảo. Nhưng nỗi cô đơn bị người khác hờ hững thì cay đắng hơn. Khi tự mình không bước tới thì tôi cũng có thể tự mình bước ra khỏi hàng rào cô đơn đó. Còn nỗi cô đơn bị người khác thờ ơ thì đưa tôi vào nỗi buồn mà có khi đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn tôi muốn chạy trốn mà chẳng trốn chạy được. Tôi thương, nhưng người khác có thương tôi không đấy là tự do của họ. Cho đi phần đời của mình mà không được đáp trả vì thế mới có xót xa.
Cô đơn của Chúa là nỗi cô đơn này.
Chúa đến với kẻ khác nhưng bị kẻ khác chối từ, gọi mà không có tiếng đáp trả, bởi thế, trong vườn Cây Dầu Ngài mới thấy cõi lòng trống trải. Trong cái trống trải ấy, theo Tin Mừng Máccô, Ngài tỏ lộ: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc. 14:34).
Làm gì có cô đơn nếu có lời đáp trả. Không có lời đáp trả nên mới cứ phải chờ đợi. Đợi chờ không là khởi điểm của cô đơn sao. (vài tiếng piano nhẹ) Đợi chờ càng lâu thì nỗi cô đơn càng dài. Chờ đợi mà chẳng bao giờ xảy tới thì nỗi cô đơn càng héo hắt. Làm gì có cô đơn nếu không có kiếm tìm. Làm gì phải kiếm tìm nếu đã đầy đủ. Vì thiếu vắng nên mới phải đi tìm. Khi sự thiếu vắng quá cay đắng thì nỗi cô đơn dẫn đến sự chết.
Sự thiếu vắng không hệ tại im lặng của không gian hoặc vắng bóng người mà hệ tại sự trống vắng của con tim. Có những quãng đời cô tịch, tôi đi một mình, nhưng càng lặng lẽ tôi càng thấy niềm vui nhiệm mầu trong hồn. Có những khúc đời chung quanh tôi tấp nập bước chân, rộn rã lời cầu chúc mà tôi vẫn nghe hiu hắt. Chúa cũng vậy, những đêm dài ở sa mạc chỉ có trăng và cỏ cây, chỉ có núi đồi và gió, nhưng Chúa không cô đơn. Chiều thứ sáu ở Jêrusalem tấp nập chân người mà cõi lòng Chúa thì hoang vắng. Trong vườn Cây Dầu có các môn đệ đi theo mà Chúa vẫn thấy lẻ loi.
Kẻ cô đơn là kẻ đi tìm niềm cảm thông nhưng chẳng gặp. Vì không gặp nên họ đành trở về thế giới nội tâm cô lẻ của riêng mình. Vì thế giới nội tâm đó đang heo hút trống vắng, nên họ chỉ bắt gặp sự thiếu thốn ở đó mà thôi. Sống trong thiếu thốn để rồi nhìn kẻ khác đầy đủ vì thế mới có nước mắt xót thương cho đời mình.
Ai cũng có lúc cô đơn vì chẳng ai đầy đủ. Ai cũng phải đi tìm vì ai cũng thiếu vắng. Nhưng có những thiếu vắng dễ tìm thấy. Có những thiếu vắng như mênh mông vô hạn. Khi Chúa mất hết tình thân, Chúa tìm đến với Chúa Cha: “Ôi! Cha cũng bỏ con sao”. Khi lòng tôi tan nát, khi đời tôi đắng cay, tôi cũng vẫn còn hy vọng là Chúa. Nếu tôi mất Chúa thì đây mới là sự thiếu vắng hoang tàn nhất. Đây là cô đơn không còn lối thoát.
Trong nỗi cô đơn của tôi hôm nay, khi mà tôi không còn tìm đâu được niềm vui, tôi cũng sẽ nói với Chúa như chính Ngài đã nói với Chúa Cha: — Ôi! Cha cũng bỏ con sao.
Lậy chúa, con tin là Chúa hiểu cõi lòng con. “Ôi! Cha cũng bỏ con sao?”. Đấy chính là lời nguyện của Chúa, lời nguyện của kẻ cô đơn trong giờ cô đơn nhất..
Chỉ có ai đã cô đơn mới có thể hiểu nỗi buồn, mới thấy cái hoang dại trong cuộc đời của kẻ cô đơn. Chúa đã cô đơn trên thập giá.
Mỗi lần đọc tập hồ sơ, quan tòa phải nheo mắt khó khăn dù có kính lão. Bên cạnh ông còn hai người trẻ hơn, nhưng tầm độ cũng ngoài bốn mươi. Người ngồi bên phải dáng điệu như còn chưa quen với loại áo cánh rộng của luật sư. Ông ta trịnh trọng đến nỗi vụng về mỗi khi kéo ống tay rộng thùng thình. Phiên tòa hôm nay không có gì hào hứng, ngoài quan tòa, luật sư buộc tội, chống án, chỉ có dăm bẩy người ngồi ở mấy ghế gỗ phía cuối đợi xem phiên xử. Vị chánh án mở hồ sơ, hỏi bị cáo:
- Ông bị tố cáo là ăn cắp đồ thánh của đền thờ. Ông có điều gì muốn trình bày không?
- Thưa quan tòa tôi không phải là quân gian phi.
Quan tòa quay ra phía kẻ tố cáo hỏi:
- Xin ông kể lại diễn tiến của sự việc.
Vị linh mục tuổi độ ngũ tuần bước ra giữa, tay cầm tập hồ sơ. Ông đang định mở ra đọc thì quan tòa yêu cầu ông gập tập hồ sơ lại, chỉ kể bằng trí nhớ. Vị linh mục hơi ấp úng một chút, rồi cũng bắt đầu:
- Thưa quan tòa, chính mắt tôi không trông thấy. Khi tôi tới tháp chuông thì bị can đã bị bắt. Nhân chứng nhìn rõ sự việc là ông X. cũng có mặt đây. Vị linh mục quay về phía ông X. đang ngồi ở hàng ghế thứ hai. Ngài chìa tay về phía ông X. để cho quan tòa biết, rồi lại tiếp tục trình bày:
- Lúc đó khoảng tám giờ tối. Tôi đang ở trên gian cung thánh, sắp sửa khóa cửa nhà thờ, bỗng nghe thấy xôn xao ở tháp chuông. Tôi tới nơi thì thấy ông X. và bị cáo đang giằng co, lớn tiếng với nhau.
Quan tòa hỏi vị linh mục:
- Vậy ngài có đồng quan điểm với ông X. là bị cáo đây đã dự định ăn cắp quả chuông?
Vị linh mục lưỡng lự rồi đáp:
- Tôi nghĩ như vậy! Thưa quan tòa, kể từ mấy tháng nay nhiều vụ mất cắp đã xẩy ra ở nhà xứ. Tuần trước chúng tôi cũng mới mất một bình hương cổ rất quý. Người luật sư biện hộ cho bị can nóng nẩy đáp trả:
- Xin lỗi linh mục, đó là điều vô lí! Bị can chỉ có một mình, với thân hình tiều tụy, ốm yếu như thế này làm sao có thể ăn cắp được quả chuông nặng mấy trăm kí lô!
Vị linh mục chưa tìm được câu trả lời thích hợp, quan tòa đã gõ chiếc búa xuống bàn ra hiệu cho họ im lặng:
- Yêu cầu luật sư im để bên công tố trình bày.
Người luật sư trẻ ngồi xuống, tức tối. Quan tòa ra hiệu cho linh mục về chỗ rồi gọi ông X.
- Có phải ông là người đã bắt quả tang bị cáo đây?
- Bẩm quan tòa, đúng thế!
- Yêu cầu ông kể rành mạch chi tiết theo thứ tự thời gian.
- Thưa quan tòa, khi tôi tới tháp chuông thì trông thấy tên ăn cắp này đang tháo dây chuông. Hắn mang theo một con dao găm, một túi vải đồ nghề đủ các thứ kìm, búa, chìa khóa...
- Vị quan tòa quay qua phía bị cáo hỏi:
- Điều cáo trên đây có đúng không?
Bị cáo buồn phiền nhìn quan tòa, bình thản thưa:
- Thưa quan tòa không! Tôi chỉ có con dao và túi vải, nhưng túi vải là túi đựng quần áo của tôi, tôi không có kìm, búa, bất cứ chìa khóa nào. Tôi cũng có thêm một khúc dây thép mà ông X. đã không nói tới. Tôi mới leo lên gần tới sàn gác chuông, chưa tới nơi thì ông X. ở trên lầu chuông leo xuống rồi ông đạp tôi ngã từ cầu thang, đổ tội cho tôi ăn cắp, chứ không phải là ông leo ở dưới lên như ông vừa trình bày. Quan tòa ghi chép rồi quay về phía linh mục hỏi:
- Thưa linh mục, ngài đã về xứ đạo được bao lâu?
- Thưa quan tòa, mười hai năm.
- Có phải ngài là người xây tháp chuông không?
- Không phải tôi, nhưng tôi tu bổ và sửa lại lầu chuông hầu như hoàn toàn.
- Xin linh mục tả cho chúng tôi biết về lầu chuông như thế nào.
- Thưa quan tòa, cả lầu chuông được xây nối liền với nhà thờ ở căn cuối cùng. Muốn lên lầu chuông phải qua cửa nhà thờ, rồi lên gác hát của ca đoàn. Từ gác hát có một cầu thang gỗ nhỏ, đủ để hai người đi, dẫn lên tháp chuông. Còn lầu gỗ, nơi để đặt quả chuông thì rộng bằng hai manh chiếu. Sàn của lầu chuông lát bằng gỗ thông. Đủ làm chỗ ngủ cho chừng dăm, ba người. Muốn leo lên sàn chuông, phải mở một nắp như nắp hầm.
Ông X. thêm vào:
- Vì thế lầu chuông có thể là chỗ ngủ đêm của bọn vô gia cư!
Ông ta ngừng nói trước khi quan tòa đập búa ra lệnh cho ông không được nói khi chưa có phép. Vị quan tòa quay lại hỏi bị can:
- Ông lên tháp chuông làm gì vào giữa đêm tối như vậy?
- Thưa quan tòa, câu chuyện dài dòng, quan tòa có thể cho tôi trình bày hết?
Vị quan tòa để xệ cặp kính lão, nheo mắt nhìn phạm nhân từ đầu đến chân như muốn lục lọi trong con người này những điều kì dị. Ngần ngừ. Ông ra lệnh:
- Hãy trình bày
- Thưa quan tòa, ngày còn bé tôi là cậu nhỏ chiều nào cũng giật chuông. Tiếng chuông đã là một phần đời của tôi. Tiếng chuông đã thấm vào trọn vẹn hồn xác tôi. Những buổi chiều không có tiếng chuông cầu nguyện tôi thấy khắc khoải, đời tôi như thiếu vắng một cái gì gần gũi và linh thiêng lắm. Tôi yêu những lầu chuông. Tôi yêu những tiếng chuông đồng. Giã từ tuổi thơ, tôi phiêu bạt khắp nẻo đường nhưng bao giờ cũng nhớ về lầu chuông xưa. Có những chiều tôi thường lẻn lên lầu chuông ngủ qua đêm khi tôi đi đường. Lầu chuông là nơi tôi trú mưa, lầu chuông che tôi khỏi nắng. Khi còn nhỏ thì lầu chuông là nơi tuổi thơ nô đùa. Lớn lên, khi đủ tuổi khôn thì lầu chuông vẫn nhắc nhở tôi về tiếng gọi của Thượng Đế trên cao. Trong những ngày phiêu bạt, tôi đã dừng lại biết bao nhiêu lầu chuông và tôi đã đánh bóng không biết bao nhiêu quả chuông đồng bị mưa nắng làm sét hoen rỉ. Khi tôi qua đây vào một buổi chiều, tôi cũng ước mong được nghe tiếng chuông, nhưng chiều qua, không gian lặng lẽ hiu hắt. Tôi không hiểu vì sao không ai giật chuông. Tôi đã leo lên lầu gỗ và thấy giây chuông đã bị đứt, quả chuông đã bị mạng nhện chăng kín. Quả chuông đã bị lãng quên từ lâu ngày. Tôi thấy xót xa cho Thượng Đế trên thập giá. Ngài chẳng có ai chuyện trò, chỉ có mỗi tiếng chuông mà nay lầu chuông cũng im vắng. Vì thế tôi đã tìm khúc giây thép này để mong tìm cách nối lại giây chuông xưa.
Lời nói của gã bị can chỉ lớn đủ để mọi người nghe. Gã ốm yếu. Trông bên ngoài không ai có thể nghĩ là hắn lại có những tư tưởng lạ lùng như thế. Ông già ngồi ở hàng ghế cuối cùng, hai tay cầm gậy tre run run, xúc động vì tâm sự của bị can. Gã luật sư nhìn lơ đãng qua cửa sổ. Vị linh mục cúi đầu trầm tư không nói gì. Ông chánh án ra hiệu cho mọi người chú ý, bỏ chiếc kính lão xuống bàn, ông nhìn tất cả mọi người hỏi:
- Ông ta bị cáo là ăn trộm. Nhưng chỉ có một nhân chứng là ông X. còn ai biết gì nữa không?
Ông X. mừng như bắt được cơ may hiếm có để vội kết tội gã đàn ông đang đứng lo xo trên kia cho xong chuyện. Vừa chợt định giơ tay minh xác là còn một nhân chứng nữa, nghĩ sao ông lại dừng lại. Sau đó ông mới hối hận đã hơi quá vội vàng với ý nghĩ điên rồ ấy. Ông giữ kín nhân chứng thứ hai này không hề nói cho ai hay trong suốt đời ông.
Nhớ lại đêm đó, khi gã tội nhân tới gần sàn chuông, ông X. ở trên đi xuống mở nắp ván và gã nghe có giọng nói phụ nữ trên gác chuông. Như thế, ngoài ông X. còn nhân vật thứ hai. Nhưng nhân vật này không hề xuất hiện cho dù sau khi ông X. đã túm cổ áo hắn la lối và vị linh mục đã đến.
Im lặng như tờ. Vị quan tòa dáo dác nhìn khắp phòng, gõ chiếc búa gỗ xuống bàn kết luận:
- Không hẳn là đủ điều kiện để buộc tội bị cáo ăn cắp chuông. Nhưng cũng không đủ chứng cớ để chứng tỏ bị cáo là người ngay. Dựa vào lời khai của linh mục, nhà thờ đã bị mất cắp nhiều lần trong những tuần lễ vừa qua. Bị can là người phiêu bạt như lời tự thú. Xét theo luật pháp và bị can đã xác nhận là đã lẻn lên lầu chuông hai lần vào đêm khuya. Xâm phạm giáo đường trong đêm vắng không có phép của linh mục quản nhiệm là điều phạm pháp. Quan tòa xin kết thúc: Ba năm cải hóa!
Tiếng búa khô khan đập xuống bàn không gây nổi tiếng động. Riêng ông già dự kiến, chậm rãi cúi tìm cây gậy tre, mò từng bước chậm ra cửa, ánh sáng chiếu rõ hai giọt lệ còn đọng trên gò má nhăn nheo. 3 NĂM SAU Ngoài ba mươi tuổi đời, ba năm tuổi tù. Ba năm tù không phải là thời gian quá dài. Nhưng cái cô đơn của cuộc đời bị xét đoán bất công. Cái xót xa cho sự thật thất bại trước sức mạnh của bóng tối. Cái vắng lặng của lầu chuông là thao thức trong lòng hắn, đã làm hắn cằn cỗi. Rồi nữa, chồng thêm lên mảnh đời độc hành: Cái già nua mang úa mầu thất vọng. Vẫn dáng người dong dỏng cao. Đôi mắt vẫn đặc biệt. Những suy tư thầm lặng dường như sâu hơn. Trong đôi mắt ấy nỗi buồn thất vọng lớn hơn nỗi buồn oán trách. Nỗi buồn thao thức chìm lắng xuống hơn nỗi buồn bị kết án. Hắn xách túi vải lững thững xuống đồi. Đi được một quãng, hắn quay lại nhìn khu nhà tù chiều nay mới được phóng thích. Dẫu sao, đấy cũng là ngôi trường cho chàng hiểu thân phận làm người. Gởi gắm lại nơi ấy những tháng ngày cảm nhận bóng tối có sức mạnh trong cuộc đời. Và có thực sự ánh sáng công lí là hương thơm có thể bay ngược chiều gió?
Ra tù vào mùa xuân. Trời gió mát. Cảnh vật thiên nhiên cho hắn thêm sức sống, vỗ về hắn bằng lời hứa hi vọng, an ủi hắn bằng mơ ước ngọt của tương lai. Chiếc túi trên vai. Bước chân ngập ngừng. Đi mà chưa biết về đâu. Rải rác đây đó, đàn bò béo tốt đang gặm cỏ trên ven đồi. Những chùm dâu đỏ đang mùa chín tới nằm phơi mình dưới nắng. Chàng thấy ngoài nhà tù, vũ trụ vẫn đẹp, vẫn tha thiết lắm. Những cánh nhạn đang bâng khuâng buông cánh muốn làm quen nhau trên bầu trời bình yên. Thế giới đẹp quá. Thế giới mà Thượng Đế đã làm cho cỏ hoa đồng nội đẹp hơn áo lụa, gấm vóc của Salomon. Vũ trụ mà Thượng Đế đã lo chăm sóc để chim muông khỏi lo lắng kiếm ăn hầu có thì giờ ca hót véo von. Chàng ngước mắt nhìn trời cao tin tưởng, cám ơn Thượng Đế. Một niềm vui nhỏ nở trong tim gã tù nhân mới được vào đời lần thứ hai.
Cặm cụi bước về phố dưới thung lũng, trên đường đi, mấy bác nông phu nhễ nhãi mồ hôi chào hắn những lời chào thân tình. Họ cho hắn những trái dưa chín thơm mùi mật ong. Cánh đồng bình yên. Chàng muốn dừng chân nơi đây lập nghiệp nhưng nhớ lại lời cha của chàng căn dặn. Phải đi. Phải luôn luôn là từ giã. Hắn ngần ngại nghĩ đến những tình thân quen thuộc trên đường đời. Hắn được nhận lời chào nhưng phải quên ngay sau đó. Hắn phải lên đường bước tới chứ không được dừng chân lưu luyến. Điều ấy đôi khi làm hắn thấy lẻ loi.
Từng đống rơm thơm mùi lúa mới gặt nằm rải rác khắp cánh đồng. Mấy chú bê nhỏ chạy tung tăng bên vú mẹ căng tròn bầu sữa. Dăm ba cô gái gánh những gánh bí ngô vàng rộ lên đường về. Những mớ tóc đen đơn giản lúc lắc sau chiếc cổ trắng nõn nà, bịn rịn mồ hôi. Những đôi mắt bình an, trong sáng như mầu trời trao cho chàng cảm xúc bâng khuâng. Buổi chiều ra tù của hắn hôm nay rất đẹp. Chàng nghĩ về tương lai với một niềm vui kín đáo mang mầu hi vọng mịn màng.
Nửa ngày mới về tới phố. Chung quanh tường đá đã nở mùa hoa leo tím. Ngồi trên bờ đá của ngôi nhà thờ cổ nghỉ chân. Chàng đã bỏ lại cánh đồng đằng sau lưng. Tâm trí chàng vẫn chan chứa những nụ cười giòn giã, lời nói chân tình của mấy bác nhà nông. Đối với chàng dường như chỉ có những người nhà quê là mến chàng. Từ ngày chàng bỏ làng quê nhỏ ra đi, chàng đã gặp biết bao miệt thị, khó khăn, nhưng chưa lần nào những khó khăn ấy đến từ những bàn tay chỉ biết vui bên vườn đất. Nghĩ lại mấy năm về trước, buổi trưa trước mặt quan tòa, kẻ kết án chàng toàn là những người có địa vị, có chức sắc trong xã hội, trong giáo xứ. Nhớ về đó, thoáng nỗi khổ đau dâng về.
Ngôi nhà thờ hiền hòa như bóng mát cho kẻ mệt vì đường xa có chỗ nghỉ chân. Mầu rêu xanh đậm phủ theo những vết nứt trên tường xi măng già. Nhìn ngôi nhà thờ, ngắm những bông hoa nhỏ, chàng giơ tay vuốt bờ đá rêu mát lạnh. Cõi lòng cung kính như thoang thoảng thấy mùi hương trầm đang kính dâng trong đền thờ. Đã mấy năm nay chàng xa vắng mùi hương quen thuộc ấy. Đã mấy năm nay không ngày nào mà chàng không nghĩ đến những hàng nến trắng cháy lung linh trên bàn thánh. Giờ này, bồi hồi sung sướng. Trước mặt chàng, nhà thờ đây, trong ấy có mùi hương,có nến sáng.
Người thanh niên tìm lối vào. Chàng mân mê vuốt từng phiến đá mát rượi của tường đền thánh. Lúc vừa xoay ổ khóa, cũng là lúc chàng vội rụt tay về. Lời của ông quan tòa năm xưa vẫn còn ám ảnh: Xâm phạm nhà thờ không có phép là bất hợp pháp! Chàng đứng ngần ngại. Tự nghĩ, biết đâu chẳng lại phải vào tù lần nữa. Đứng nhìn nhà thờ tần ngần, chàng ngó tháp chuông cao, nuối tiếc, không dám tìm lối vào. Buồn bã đi về phía phố.
Hàng me xám nặng của một buổi chiều hết nắng. Nửa ngày đường. Chiếc túi trên vai làm chàng mỏi, nhưng vui khi nghĩ đến tình người chàng đã bắt gặp trên cánh đồng. Đi qua một quãng đồng thôi mà được biết bao thương mến. Ổ bánh còn thơm mùi mới nướng. Họ đã cho chàng từng chùm dâu chín đỏ. Những củ khoai mướng còn thơm mùi tro. Chiếc bánh vương mầu lá gói. Đang nghĩ tới niềm vui ấy, chàng chạnh lòng trông thấy người đàn bà ăn xin.
Hình ảnh người đàn bà im lặng như một bức tranh tĩnh vật. Lặng lẽ. Chẳng thiếu được những thua thiệt trong cuộc sống. Đời làm sao vắng bóng được nước mắt. Có kẻ giầu, phải có người nghèo. Cuộc đời là vậy. Nhưng bất hạnh cho ai rơi trong dòng đời héo cạn ấy. Có chủ ông, phải có tôi nợ. Vẫn biết mầu sắc nào cũng cần cho bức tranh hoàn hảo. Vẫn hay chẳng thể loại trừ cái mầu xám lặng lẽ khỏi cảnh bình minh huy hoàng. Chính cái lặng lẽ của nó làm rực thêm cái nét vàng. Chính cái hẩm hiu mang số phận xám ngắt ấy làm cho mầu bình minh tươi rực. Nhưng có bao giờ cái mầu rực rỡ của bình minh kia biết cái mảng mầu tối tăm ấy chính lại là vùng đất cần thiết cho mình nương tựa? Cuộc đời là thế. Bất hạnh chen giữa hoan lạc. Đau khổ tìm lối ngoi lên để cho hạnh phúc sáng giá. Chàng đứng nhìn người đàn bà ăn xin.
Người đàn bà nhăn mặt thảm thiết. Bà cấu đứa bé mắt còn đỏ hoe, đứa bé khóc ré. Nhặt những đồng tiền sáng như bạc dắt vào chiếc bao cài ở vành quần rồi lại ngồi nhìn lơ đãng, thản nhiên. Có người, bà nhăn nhó ra vẻ nghèo đói, đứa bé lại khóc thét lên, bà lấy chiếc kẹp tóc nghiến vào bắp chân đã tím bầm để gợi lòng trắc ẩn kẻ qua đường. Thằng bé vô tội trở nên nạn nhân của một kẻ làm tiền. Bà chẳng có tật nguyền gì. Túi tiền bà giấu ở đâu? Nghĩ đến lòng người, chàng thất vọng, chán ngán bỏ đi.
Chàng vào phố, đi vòng quanh. Khu này lang thang sang khu khác. Rực rỡ đèn mầu, tấp nập người qua lại. Hàng đèn dọi lên những sợi giây chuyền vàng, sáng một vuông cửa. Trên nền nhung đen, những chiếc nhẫn kim cương gặp ánh điện lóe lên sáng ngời. Người chen người. Họ ôm nhau đi trên phố. Những đôi tình nhân trẻ đi tìm bến mơ. Hơi café đượm nóng, chàng thèm nghỉ chân.
Giầu sang của phố thị đưa chàng vào một thế giới quá lạc lõng, đơn côi. Trong đám đông ấy, chàng sững sờ ngó người đàn bà đang ôm chặt chiếc bóp da rằn ri như da rắn. Bà đang xóc những con lúc lắc trên mặt tấm vải lớn. Chung quanh bà, họ đang sát phạt nhau bằng những canh bạc tham lam. Chiếc nốt ruồi trên ngón tay cái. Chủ sòng là người đàn bà ngồi ăn xin ở góc phố hồi ban tối.
Ra khỏi phố phường, chàng tìm một ghế đá công viên ngồi nghỉ. Cuộc đời như một vòng tròn, đi mãi không có lối ra. Quyền lực, giầu sang, nghèo khổ, gian dối, yêu thương, hận thù, tất cả dính lẫn vào nhau. Những bước chân long đong hối hả. Những dòng lệ trong đêm. Những tính toán mệt nhừ. Những bàn tay chai cứng vì lao tác. Thở dài. Chàng thấy như con người đang lao đao vất vả quá mà vẫn không gặp cái mà họ kiếm tìm. Họ khổ sở xây những bức tường thành cao rồi than khóc là không có ánh sáng. Họ tất tưởi đi giành giật sự an nhàn bằng vội vã, để rồi càng vội vã, an nhàn càng mù xa.
Hạnh phúc? Sự chết? Tất cả lại đưa chàng vào câu hỏi cũ kĩ nhưng vẫn rất khó trả lời: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Trên ghế đá công viên, chàng không biết nhân loại đáng thương hay đáng trách. Nghĩ đến công việc của chàng, chàng bắt đầu nguyện cầu:
- Lạy Cha, tay con ngắn quá mà cuộc đời thì như Cha biết đó, bao la, phức tạp, ngổn ngang những bóng tối, con không biết phải làm gì, khởi đầu từ đâu. Con không biết rồi ngày mai ra sao.
- Con cứ làm theo sức con. Hạt giống con đang có trên tay hãy gieo xuống. Ai là người tưới, ai nhổ cỏ, ai là người làm cho nó nên xanh tươi, ai sẽ gặt, đó là việc của Cha.
- Vâng, con xin làm theo ý Cha.
- Cuộc đời bao la thì con đừng bao giờ xây đắp cho riêng tư nhưng hãy đi mãi. Cuộc đời phức tạp, con hãy giữ trái tim đơn sơ. Cuộc đời ngổn ngang, con hãy sống trong sự thật. Cuộc đời đầy bóng tối, con hãy thắp lên một que diêm.
- Vâng, con xin làm theo ý Cha. Nhưng dường như chẳng có kết quả. Cha bảo nơi nào có chia li thì hãy đem nối chắp vá lại. Nơi nào có tang tóc thì đem ủi an. Nhưng Cha thấy đó, lúc con nối lại giây chuông là lúc con bị kết án ăn trộm. Lúc con định chia sớt nhọc nhằn với người đàn bà ăn xin là lúc con khám phá ra túi bạc và lòng ích kỉ nhỏ nhen. Đâu là sự thật soi cho con đi hả Cha?
- Con không đi tìm sự thật. Sự thật ở trong con và con đến để làm chứng cho sự thật. Con đem sự thật cho đời. Vì thế, nơi nào có gian dối, Cha gởi con tới. Nơi nào có kết án bất công, Cha bảo con đến.
Người thanh niên ngồi yên. Lời nói trong hồn thăm thẳm sâu. Nhẹ nhàng như lời mời, thách đố như lệnh truyền. Phải đi. Phải đến. Đấy là ý nghĩa đời chàng. Một thoáng lại hiện về trong trí nhớ. Nhà tù, vòng sắt, quan tòa. Chàng biết gian dối, bất công có sức mạnh của nó, kẻ dám đương đầu với bất công là kẻ phải can đảm chấp nhận tù đầy, khổ đau. Chàng nghĩ tới thân mình. Một thoáng lo âu ngần ngại lướt qua như lời nói khẽ cho chàng hay đời chàng sẽ còn nhiều giông tố phũ phàng vì chàng dám sống cho sự thật. Ý nghĩ ấy làm chàng băn khoăn. Nhưng chàng đứng dậy, xách theo túi vải, nói với lòng mình:
- Thức ăn của ta là làm theo Đấng đã sai ta.
Người đàn bà bên kia đường trông thấy, vội rời hè phố, băng qua lộ, bước qua hàng rào công viên, đến trước mặt chàng:
- Ông có lửa không?
Người phụ nữ vừa nói vừa đưa điếu thuốc lên môi. Móng tay nàng dài, sơn mầu huyết dụ. Cặp môi đỏ mướt như vừa mới thoa son xong. Chàng đưa tay lên túi áo ngực:
- Xin lỗi, tôi không có bật lửa.
Người đàn bà chờ đợi thêm, hắn chỉ nói có thế. Nàng thất vọng, hơi bực mình, nhưng người đàn bà kiên nhẫn thêm. Bây giờ nàng đứng sát bên hắn. Gã bối rối vì mùi nước hoa làm chàng xao xuyến. Và dường như ngực người đàn bà cũng vừa chạm vào da thịt chàng. Dưới vùng sáng của ngọn đèn néon ở góc công viên, chàng thấy chiếc cúc áo ngực của người đàn bà đã mở rộng. Da thịt nàng căng tròn. Chưa biết phản ứng, người đàn bà đến sát chàng thêm nữa. Chiếc quần bó chẽn, mùi nước hoa đẩy đưa người đàn bà vào dáng dấp cám dỗ. Giọng nói phụ nữ đuổi đi cái im lặng ngập ngừng:
- Năm mươi đồng?
Hắn không hiểu gì. Người đàn bà nói thẳng:
- Năm mươi đồng một đêm!
Nàng đợi chờ phản ứng của gã. Hắn có hiểu ý? Hắn nghe không rõ? Im lặng. Hắn không dám hỏi lại. Người đàn bà chỉ tay vào túi vải hắn đang đeo, hỏi thăm rồi bảo chàng:
- Bán cho tôi ít dâu và mấy trái dưa đi, bao nhiêu?
Hắn không biết trả lời thế nào. Cuộc gặp gỡ bất ngờ. Đã mấy năm trong tù, chẳng biết gì ngoài xã hội. Từ chiều đến giờ mà đã gặp bao nhiêu chuyện bất ngờ. Cúi mở chiếc túi thì người đàn bà đặt tay lên vai ra hiệu cho chàng hãy đem ra chỗ có ánh sáng. Hắn xách túi vải theo sau người đàn bà. Nhưng họ đã không dừng lại ở ngọn đèn nơi đầu công viên. Họ tiếp tục đi với nhau dọc dẫy phố. Họ nói chuyện với nhau nhiều hơn. Đã có một cánh cửa nào đó mở ngõ cho những câu chuyện có lối đi về. Khi chàng biết được nàng là một gái đêm đang tìm khách, và người khách hàng nàng đang muốn ngủ đêm nay lại là chính chàng, chàng cảm thấy lo âu hồi hộp, nhưng cũng có phiêu lưu. Chàng chưa bao giờ gần gũi đàn, đêm nay là đêm đầu tiên chàng ngửi thấy mùi nước hoa ngay bên, da thịt căng đầy trước mặt, Chàng bối rối, rồi tự nhủ chắc chắn phần thắng sẽ về chàng. Chàng nhớ lại lời nói ban nẫy khi chàng cầu nguyện:
- Nơi nào có bóng tối thì con hãy đốt lên một que diêm. Đêm nay chàng đã gặp bóng tối. Thầm nghĩ nhất định chàng phải đem tâm hồn nàng về với ánh sáng. Chàng sẽ đốt lên một que diêm. Ý nghĩ ấy cho chàng can đảm, bình tĩnh theo nàng về căn gác trọ.
Vị chánh án hỏi bị can:
- Ông có quả bị bắt trong đêm ngày mồng 5 tháng 4 ở căn nhà số 103 không? - Thưa quan tòa đúng. - Ông đến đó làm gì? - Tôi đến để thắp lên một ánh lửa trong bóng đêm. Ở một góc nọ người đàn bà béo phị vừa cười ngặt nghẽo vừa lớn tiếng trong giọng nói pha trò:
- Ông ấy là thánh đấy! Mọi người cười ồ. Riêng người phụ nữ bị kết án là gái điếm cúi đầu khóc. Vị quan tòa hỏi nàng:
- Còn cô, cô muốn nói gì không?
Người đàn bà tức giận, không ngần ngại nhìn thẳng vào ông chánh án trả lời:
- Biết bao nhiêu người đàn ông đã đến với tôi, trí thức có, đạo mạo có, họ là những kẻ kết án tôi ban ngày nhưng lại cần tôi ban đêm...
Người đàn bà còn đang nói, có tiếng đập bàn phản đối của người đàn ông phía sau. Ông chánh án đập chiếc búa gỗ ra lệnh cho tất cả giữ trật tự. Mặt ông đỏ như gấc, tức tối vì câu nói của người đàn bà, như ông thấy trong số những người đàn ông mà bà ám chỉ đã có cả ông:
- Yêu cầu bà chỉ trả lời vào câu hỏi. Bà có muốn khiếu nại gì không?
Người đàn bà chỉ tay về phía gã đàn ông nói:
- Tôi không khiếu nại gì cho tôi, nhưng riêng người này vô tội. Ông không tìm tôi như nhiều người đàn ông ông khác, nhưng tôi tìm ông. Ông nghèo. Ông chỉ có một tâm hồn là giàu có. Ông đã đốt lên một que diêm trong bóng đêm. Ông chỉ cho tôi con đường về nhà cũ mà tôi đã bỏ đi. Ông chính là đấng thánh như lời các người vừa nói!
Cả phòng xử án phá lên cười. Vị quan tòa không đập búa nữa nhưng đợi cho mọi người cười xong, ông mở tập hồ sơ rồi tuyên bố vắn gọn:
- Tất cả đã rõ. Những mụn ghẻ trên da thịt xã hội phải được cắt đứt!
Cả phòng xử im lặng vì giọng nói cứng rắn bực tức của ông. Người đàn ông bị kết án đứng xuôi tay nhớ lại lời từ trời cao đã nói với hắn trong khi cầu nguyện:
- Nơi nào có ngổn ngang thì con hãy sống trong sự thật. Nơi nào phức tạp thì con hãy giữ trái tim đơn sơ. Nơi nào có gian dối thì Cha gọi con tới. Nơi nào có bất công thì Cha bảo con đến.Chàng cúi đầu chấp nhận tất cả. Riêng người đàn bà bị kết tội là điếm ôm mặt khóc nức nở. Nàng không sợ hãi cho đời nàng nhưng nàng thương người đàn ông vô tội đang đứng trước mặt nàng. Chính nàng là người hiểu rõ đâu là sự thật, đâu là công lí của xã hội. Cả phòng xử đông người nhưng chỉ có hai kẻ bị kết án là biết sự thật và cùng đau khổ cho sự thật. SAU NHỮNG NGÀY TÙ Tất cả trắng bát ngát. Tuyết phủ kín cánh đồng. Hàng táo đứng trơ cành khô khẳng khiu. Gió ào ào như muốn xô ngã tên tù. Hắn ôm túi vải vào ngực, đứng nhìn cánh đồng tuyết lạnh mà thấy cô đơn về mênh mông.
Hắn đã được thả tù sớm hơn bản án cay nghiệt vì sức khỏe hao mòn. Đã nhiều đêm hắn muốn tắt thở vì cơn ho. Vào những tháng gần đây sức khỏe của hắn giảm sút một cách thảm hại. Gió rét về từng cơn. Hắn đi không vững. Mặt hốc hác, chỉ còn đôi mắt vẫn huyền nhiệm.
Ra tù lần này khác với những năm về trước. Bây giờ là mùa đông băng giá. Chàng xiêu vẹo cầm cự với những cơn gió vô tình nghiệt ngã. Thỉnh thoảng hắn lại ngồi xuống ôm ngực ho. Mỗi lúc gió một nhiều. Dường như có một trận bão ở đâu đó. Hắn tìm lối xuống đồi nhưng tất cả mọi lối mòn đã bị tuyết phủ kín. Hắn chỉ còn căn cứ vào những hàng cây bên đường mà phỏng đoán lối đi. Hắn nhớ lại kì ra tù lần trước có hàng cây anh đào, nhưng hôm nay đã biến mất. Chúng đã bị chặt từ thuở nào? Gió lật ngược tấm vải khoác, chàng phải ngồi xuống tránh gió. Đi đâu bây giờ? Chàng thấy vũ trụ mà Thượng Đế đã dựng nên lớn quá, nhưng chàng không có chỗ nghỉ chân. Chàng thấy Thượng Đế đã trang điểm vũ trụ bằng vàng bạc châu báu mà chàng thì không có bữa ăn chiều nay.
Trời về tối gió càng lạnh. Đi được một quãng xa, đến gần ngọn đồi năm xưa mà bác nông phu đã cho chàng bánh, dâu thơm, trời chuyển mây, tuyết rơi. Chàng nhớ về những kỉ niệm năm xưa ở khúc đường này, muốn ứa lệ. Giờ này các bác nông phu ở đâu? Tuyết rơi rất nhanh. Cố gắng bước vội. Đã thấy ánh đèn phố xa tít dưới thung lũng. Chàng nhớ tới ngôi nhà thờ đã ngồi nghỉ năm xưa. Chàng thầm nghĩ sẽ cố gắng về tới nơi để xin một chỗ trọ đêm nay. Trên đồi tuyết lạnh mà những tưởng tượng ra mùi hương trầm nồng ấm của nhà thờ, lòng chàng nhẹ nở một an ủi êm đềm.
Nhưng chàng đã chẳng bao giờ tới nơi. Tuyết rơi dầy hơn, nhanh hơn. Mỗi lúc tuyết một phủ kín thêm cánh đồng đã trắng lạnh. Trên ngọn đồi, một đống tuyết nhỏ nổi bật lên cao phủ kín tên tù nhân xấu số. Hắn đã ngã chết vì đói trong trời tuyết lạnh.
Xế chiều, mặt trời mù mờ trong sương. Từ dưới thung lũng đi lên, người ta thấy một bóng người trong chiếc áo khoác màu đen. Đầu, cổ choàng khăn kín mít. Cánh đồng trắng như một biển muối. Rải rác đây đó những bụi cây nhỏ đứng chơ vơ. Hàng táo ở ven đường càng về chiều càng đen sẫm. Cơn bão tuyết đã dứt từ mấy hôm nay. Gió thổi bay những hạt tuyết đọng trên cành, bây giờ chỉ còn những cành cây trơ trọi, đen đủi, thỉnh thoảng rung rinh khi con gió đến.
Khi đi tới ngọn đồi, người đàn ông ngó về phía đồi tuyết. Ông tần ngần đi chậm lại, băng qua ruộng lúa bị tuyết phủ ngập, đi dần lên gò tuyết cao. Tuyết phủ mịn màng như một bãi cát đồng trinh. Bước đi của người đàn ông in từng vết chân thành một vệt ngoằn ngoèo dài. Tới gần đồi tuyết, ông không thể hồ nghi được nữa. Trước mặt ông là cụm hoa hồng!
Vì sao lại có cây hồng giữa mùa đông băng giá? Đây có phải là cây hồng thật? Ngạc nhiên quá đỗi. Ông cúi xuống, ngồi sát bên cây hồng. Màu lá xanh ngát thỉnh thoảng rung lên theo nhịp gió đẩy. Một bông hồng lớn bằng trái cam, đỏ thẫm. Cánh hồng mướt như nhung. Sương ướt còn long lanh trên những cánh hồng mềm. Người đàn ông đứng ngó sững sờ. Ông lại thắc mắc một mình. Giữa đồi tuyết lạnh sao lại có cành hồng? Tất cả cây cối đều rũ bã chết khô sao lại có cây hồng xanh tươi? Cả rừng cây đứng thua trận mùa đông sao lại có cành hồng thản nhiên? Người đàn ông giơ tay vuốt những cánh hồng xinh. Một cơn gió nhẹ, cánh hồng lao chao nghiêng ngả. Người đàn ông với tay đỡ, che cho bông hồng. Cánh gai nhọn làm tay ông rướm máu, bấy giờ ông mới nhận thấy một điều khác lạ: Những mũi gai nhọn. Gai hồng này không giống những loại hồng khác. Người đàn ông nhìn kĩ, chưa bao giờ thấy những chiếc gai lạ như thế. Dài gấp ba, bốn lấn gai hồng thường, nhọn hoắt như lưỡi dao sắc bén. Người đàn ông băn khoăn vì cây hồng ngoại lệ trong mùa đông, không biết giải thích ra sao. Ông định hái bông hoa nhưng rồi lại đổi ý. Gạt tuyết ở gốc hồng, ông tìm cách bứng cả cụm hồng về nhà trồng. Gạt được một mớ tuyết, ông thấy sồn sột của móng tay cào trên nền vải. Ông bới mạnh hơn, dưới lớp tuyết phủ, một tấm vải màu vàng ngà. Ngạc nhiên, hồi hộp, ông tiếp tục lần theo chiều vải, cào tuyết. Ló ra một khoảng lớn. Ông cầm miếng vải kéo mạnh. Tuyết bay mù mịt. Hoảng hốt giật bắn người: Một đôi chân! Ông vội lui về phía sau. Một đôi chân người! Ông quay mặt nhìn chung quanh, muốn cầu cứu, cánh đồng hoang vu vắng lặng. Chênh chếch về phía tây, mặt trời mù đặc trong sương ẩm.
Người đàn ông tháo chiếc túi vải đeo ở vai để xuống bên cạnh. Chiếc túi da màu đen có in hình thánh giá mạ vàng. Túi da nhắc nhở ông đến một sứ mạng thiêng liêng. Ông ngó quanh như mong có người đang đi đường để ông bớt lẻ loi. Đây là nạn nhân bão tuyết? Có thể bị cướp đánh? Còn nhiều cái có thể đặt ra trong đầu ông. Có thể họ đã chết? Có thể còn sống? Nếu sống, ông phải làm gì? Câu hỏi làm ông liên tưởng đến túi da bên cạnh có in hình thánh giá ở ngoài. Cây thánh giá ấy cho ông thêm can đảm bới nạn nhân ra khỏi tuyết.
Hai tay lạnh cóng, ông rút chiếc khăn đang đeo cổ cuốn lấy bàn tay phải làm chiếc găng tay cho đỡ lạnh. Bấy giờ mới ló ra cổ áo dòng đen có chiếc collar màu trắng. Ông là một linh mục đang trên đường đi làm việc mục vụ.
Nạn nhân nằm co quắp, người vẫn còn mềm. Linh mục bới sạch tuyết trên mặt nạn nhân, ông nhăn mặt nghĩ ngợi. Trên khuôn mặt như có nét quen thuộc mà vị linh mục hình như gặp nạn nhân ở đâu đó. Có thể là bộ râu? Mái tóc? Hay là sống mũi? Linh mục cố moi móc trong cái trí nhớ bắt đầu già nua theo tuổi tác. Đôi mắt nạn nhân nhắm nghiền như đang ngủ say. Càng nhìn kĩ, linh mục càng xác tín là đã gặp nạn nhân rồi. Xác định nhưng vẫn mơ hồ, lãng đãng chưa tìm được chứng cớ rõ ràng. Đang cố gắng lục lọi các ngăn tủ của trí nhớ, ngài lại nhìn thấy một đầu miếng vải khác nữa nhô lên khỏi tuyết ở cách đó không xa, chừng vài bước chân. Vị linh mục kéo mạnh miếng vải, cả chiếc túi bật lên. Ngài ngó đăm đăm vào chiếc áo choàng lớn mà nạn nhân đang mặc. Màu vải của chiếc túi và của chiếc áo khoác giống y như nhau. Thêm một tia sáng soi vào vùng tối của trí nhớ, quay ngược thời gian về khoảng 7 năm trước đây. Chính chiếc áo này, gã đàn ông đã mặc, với túi vải này hắn đã xách theo đứng trước tòa án khi bị tố cáo là ăn cắp quả chuông của nhà thờ.
Linh mục nhìn kĩ hơn vào khuôn mặt nạn nhân, càng nhìn kĩ càng thấy điều đó đúng. Chính nạn nhân là kẻ ăn cắp quả chuông của giáo xứ, năm nào!
Nạn nhân không còn dấu hiệu của sự sống. Linh mục ngần ngại lấy chiếc túi da đen, mở nắp tìm cuốn kinh và lọ dầu thánh, thứ dầu để xức cho bệnh nhân. Biết đâu nạn nhân chưa chết hẳn, nghĩ thế, ngài mở một cuốn sách nhỏ, tìm lời kinh nguyện cho kẻ đang hấp hối rồi đọc:
- Lạy Chúa, xin xót thương tôi tớ Chúa đây, vì lòng nhân từ, xin Chúa ban ơn trợ giúp để người tôi tớ Chúa được mạnh sức trung thành với Chúa đến cùng. Xin dấu thánh của Người là ân sủng xóa hết tội khiên...
Linh mục vừa đọc vừa xức dầu lên trán nạn nhân. Trên vừng trán, khi linh mục vén mớ tóc lên cao, ngài thấy những vết sẹo đã lành lâu ngày nhưng còn trông rõ như những vết gai nhọn đâm chằng chịt. Lúc xức dầu vào lòng bàn tay nạn nhân, ngài thấy bàn tay mềm như người còn sống dù giữa trời tuyết giá băng. Ở lòng bàn tay ưng ửng đỏ rồi máu từ từ rớt xuống nền tuyết trắng tinh. Lòng bàn tay mở ra một lỗ bị đâm thật lớn như dấu bị đóng đinh. Linh mục ngỡ rằng nạn nhân đã bị kẻ cướp đánh. Thế nhưng còn dấu đinh ở bàn tay? Nếu bị cướp giết thì sao lại để lại chiếc túi? Nạn nhân đã bị tuyết phủ sao vẫn còn máu tươi đỏ? Mà những gì đựng trong túi vải kia? Linh mục lại bắt đầu băn khoăn, linh tính báo cho ngài biết một sự gì khác thường, nhưng ngài không thể xác định được.
Linh mục đổ tất cả mọi thứ trong chiếc túi vải xuống tuyết. Một mớ quần áo cũ. Tất cả chỉ có thế. Chính những quần áo mà ngài đã nhìn thấy mấy năm trước đây khi quan tòa ra lệnh cho hắn lấy ra khỏi chiếc túi trong ngày hắn bị xử án. Linh mục lục lọi kĩ nhưng không có gì. Riêng có một gói nhỏ, bọc kính cẩn bằng miếng vải màu đỏ thẫm. Khi mở xong lớp vải sau cùng, linh mục thất vọng, đây không phải là gói tiền hay nột thứ gì quý, chỉ là cuốn sách cũ: Một cuốn Kinh Thánh.
Cuốn Thánh Kinh, bìa da bị cong và rách, những mép trang nhàu nát vì bị mở quá nhiều lần. Vị linh mục mở qua, mở lại nhưng cũng chẳng có một thứ giấy tờ gì nói cho rõ nạn nhân là ai.
Riêng ở trang đầu tiên, khi linh mục mở tờ bìa, ở góc phải, phía trên cao có mấy chữ viết như học sinh vẫn đề tên vào góc sách để biết sách nào là của ai. Nét chữ không đẹp, nét mực cũng nhòe, phải nhìn kĩ người ta mới có thể đọc được: Giêsu, Nazareth.
Lời cuối: Tôi có thể kết ở đây. Lối kết hơi đột ngột.
Đọc được tên Đức Kitô trong những nghịch cảnh, dưới hình dáng những người khốn cùng là một thách đố can đảm. Người ta hay đọc lộn tên Ngài bởi những thế lực, quyền quý, lòng tự phụ, thánh thiện độc đoán. Hai nghìn năm trước, các thầy thượng phẩm cũng nhân danh Yavê mà kết án Đức Kitô. Con người thích nhân danh công lí mà kết án công lí. Trên đường Jerusalem, những giọt nước mắt khóc thương Chúa thì Chúa bảo hãy khóc thương chính mình.
Kẻ thắc mắc thì cho rằng người viết không đề cao điều thiện. Sao tác giả không minh oan cho nạn nhân mà lại để chết đơn côi trong chiều tuyết lạnh? Có phải trong lối kết cấu tác giả đã đề cao điều ác? Đức Kitô cũng đã chết trên đồi máu, vậy sự ác có toàn thắng?
Giới thiệu: "Con gái Việt phải đi lấy chồng Đài Loan đúng là một thảm trạng của nòi giống Việt! 'Thuê một con ở Philippines mỗi tháng phải trả bao nhiêu tiền mà không được làm tình. Như lão nhà đây là sướng nhất rồi đấy, rẻ chán!' Lm. Nguyễn Tầm Thường đã ghi lại lời họ nói với nhau như vậy trong thời gian làm việc tại Đài Bắc, thành một truyện ngắn trong tác phẩm Tiếng Gọi Phía Bên Trong. Truyện đã viết 10 năm về trước như những tiếng "thở ngắn", nay là những tiếng "thở dài", mà có thể còn dài hơn... 'Truyện ngắn trong chữ nghĩa mà dài như hơi thở của cõi làm người.' Bây giờ lại tới thảm cảnh đi lấy chồng Hàn quốc! Mẹ Việt Nam ơi!!! (Lm. Trần Cao Tường)
Chàng đạp xe qua ngõ nhà nàng đã mấy vòng, không muốn vào. Ngại. Hai lần qua, mới dựng chiếc xe vào gốc vú sữa, đã có tiếng trong nhà vọng ra: "Nó không có nhà". Từ hôm đó, chàng thấy ngại làm sao ấy. Quen nàng có tới nửa năm nay rồi thì phải. Tình yêu như những đám mây, có đó mà sao thấy mong manh. Không ai dám giơ tay bắt sợ vuột mất sẽ đau. Chàng linh cảm có chuyện gì chẳng lành đang xẩy ra trong gia đình nàng. Từ tháng nay nàng thay đổi, hỏi gì cũng không nói. Chỉ buồn. Chàng không còn vào nhà nàng chơi như xưa. Đạp xe qua ngõ vòng nữa. Không nhìn thấy nàng. Chỉ biết nhớ.
****
Tiếng cô chiêu đãi viên hàng không vang lên. "Yêu cầu quý khách đáp chuyến bay Hồ Chí Minh City đi Taipei khẩn trương ra cửa số 2 để khởi hành." Thế là chấm dứt một hy vọng. Chuyến bay sẽ khởi hành đúng giờ. Nàng không còn hy vọng vào giờ chót máy bay sẽ hư động cơ để được hoãn lại nữa. Tiếng cô chiêu đãi viên lại vang lên hối thúc. Khách đã lục đục kéo nhau ra cổng. Một chuyến đi dài nhất trong đời. Bây giờ nàng chán quá. Không còn cách nào khác để quay về.
Lúc nãy, chia tay nhau ở cổng, cả nhà đều khóc. Nhiều người khóc cho nhiều cảnh chia tay khác nhau. Ngày nào ở phi trường mà không có nước mắt tiễn đưa, nhưng cuộc ra đi của nàng rất khác. Nàng có cảm tưởng rằng tất cả mọi người đều ái ngại nhìn tâm trạng nàng lúc mà gia đình đứng ngoài hàng rào giơ tay vẫy. Những dòng nước mắt rất lạ. Ngày mai ra sao chưa biết. Cho đến lúc này, cuộc ra đi của nàng rất đỗi xót xa.
Nàng biết rồi sẽ có lúc thế này, nhưng không ngờ nó mệt mỏi đến như thế. Nếu biết rõ vậy, dứt khoát sẽ không đi. Tương lai thế nào, nàng chưa thấy, sẽ hạnh phúc hơn, hay hôm nay vẫn là hạnh phúc so với những ngày sắp tới trước mặt. Nàng không còn sức để so sánh hiện tại với tương lai chưa tới. Ngay lúc này đây, một nỗi tuyệt vọng. Mẹ đã chuẩn bị tinh thần cho nàng từ mấy hôm nay, mà sao ngày ra đi vẫn bi ai quá. Ngược về mấy tuần lễ qua, từ cái ngày khởi đầu ấy, từ tò mò về chuyến đi xa đến băn khoăn háo hức, từ sung sướng đến lo âu tiếc nuối, từ sợ hãi đến chán nản, và lúc này là muốn quay về. Nàng không còn tâm sức để nghĩ, chỉ hy vọng rằng hôm nay là ngày đau khổ nhất, nàng đã đến đỉnh dốc, hy vọng rồi nó sẽ xuống dần.
Máy bay lao vun vút trên phi đạo, một cái lắc mạnh của thân phi cơ, nâng nàng lên khỏi mặt đất, giật mình. Tất cả là xa lạ, bây giờ không còn ai để mà khóc, nước mắt trong lòng cũng từ từ vơi. Mọi chuyện đã quyết định xong. Con sóng trào lên đến độ cao nhất là lúc nó tung vỡ, rồi cũng phải rơi xuống, rút ra xa. Tâm hồn nàng cũng vậy, nó đã vỡ thành những hạt nước vụn, đang rơi xuống. Con sóng lui ra rồi lấy sức đẩy con sóng khác, có khi còn tàn bạo hơn. Điều ấy chưa cần nghĩ tới. Bây giờ con sóng đang lui xa, hãy nghỉ ngơi đã, tâm trạng nàng là thế. Không phải cái chán nản đang từ từ thay đổi, chỉ là nghỉ ngơi mà chờ những con sóng khác. Nàng tựa đầu vào thành ghế. Không muốn nhìn bất cứ sự gì chung quanh mình. Nhắm mắt. Một màn tối.
Có lần mẹ nói với nàng, con sẽ đi máy bay. Mấy đứa em nhỏ biết chị sắp được đi máy bay, đứa nào cũng lè lưỡi kinh ngạc, vừa thích thú vừa đe dọa chị, coi chừng nó rơi đấy. Nàng chưa bao giờ được đi máy bay. Bố mẹ nàng cũng thế. Cả đời ông bà không bao giờ mơ tưởng tới. Mẹ cứ thỉnh thoảng nói không biết đi máy bay nó thế nào. Nó lên cao như con chim thế kia thì sợ lắm. Bố nàng bảo nặng thế mà làm sao họ bay lên được, tài tình thật. Nàng cũng không biết làm sao mà khối sắt khổng lồ kia lại lao đi giữa trời mênh mông không có gì chống đỡ. Nó mà hư máy thì không cách nào táp vào lề như những chiếc xe gắn máy nàng vẫn thấy xẩy ra hàng ngày. Đời nàng cũng vậy, đâu có ngờ cất cánh bay lên như thế này. Không giải thích nổi. Trong gia tộc từ đời ông cụ kỵ qua bố mẹ rồi đến nàng, nàng là người đầu tiên trong dòng họ được đi máy bay. Nàng cũng có lúc tò mò hồi hộp nghĩ đến ngày nào đó được ngồi trong máy bay như hôm nay. Thế giới tưởng tượng bao giờ cũng đầy hoa gấm. Bây giờ nàng đang bay giữa trời đất, không một chút gì là thú vị. Ào ào tiếng động cơ, chung quanh kín mít. Không ngờ nó tẻ nhạt đến thế. Vậy mà cả nhà bảo rằng nàng là người đầu tiên trong dòng họ được đi máy bay đấy. Thực tế và mộng mị sao khác nhau quá thế này. Tương lai trước mặt của nàng sẽ ra sao đây?
Những ngày cuối, bà mẹ tìm hết cách động viên tinh thần con gái bà. Bà dỗ con gái như dỗ một đứa bé, bà đem cả chuyện con gái sẽ được đi máy bay mà nói. Đúng là thế, lần đầu tiên gia đình bà được ra phi trường, nhìn những khối sắt khổng lồ bay lượn. Đối với nàng, chuyện đi máy bay chỉ là viên kẹo cho đứa con nít đang bị sâu răng, nó khóc đầm đìa nước mắt nhìn ông bác sĩ cầm cái kìm, hơi sức đâu mà ăn. Duy có lời mẹ nói rằng con đi ba bữa nửa tháng rồi con lại về thăm thầy mẹ, bây giờ họ đi Đài Loan như đi chợ ấy mà, nàng hy vọng vào những lời nói ấy. Bà động viên tinh thần con gái, nhưng đấy cũng chính là lời động viên tinh thần cho bà. Nếu con bà phải ra đi không bao giờ trở lại, chưa chắc bà đã chịu để con đi. Máy bay mới cất cánh mà nàng đã nghĩ tới lúc quay về thăm mẹ rồi.
****
Đã gần ba năm xa nhà, vẫn nhận thư mẹ và các em, thư nào cũng nói con sẽ về thăm gia đình ngày gần đây. Thấm thoát, gần ba năm rồi, kể cũng là lẹ, nhưng nó không lẹ đâu, dài như ba thế kỷ. Lúc xuống phi trường, không có ai bên chồng chờ đón như gia đình nàng đã tiễn đưa nàng. Người chồng Đài Loan bảo nàng đứng đó đợi, giả sử lúc đó anh ta bỏ đi thì nàng sẽ chết, nàng cảm thấy bắt đầu cần anh ta. Trở lại với hai cái vé xe buýt, họ lên xe chờ khởi hành. Cuộc tiếp đón trên đất Bắc, nơi mà nàng sẽ làm dâu vọn vẹn có thế.
Ba năm với căn phòng trọ thuê này rồi. Những ngày đầu không sao nàng ngủ được. Ở cuối một con hẻm trong thành phố, các cao ốc chung quanh như những lô cốt khổng lồ vây chặt đám xóm nhỏ. Chủ đang đuổi dần người thuê để bán đất cho các công ty xây cất chung cư. Suốt ngày đêm, những chiếc cần cẩu cao ngất đóng cừ sắt ầm ầm chung quanh khu nàng ở. Taipei vào mùa hè nóng hơn quê của nàng. Cát bụi từ các cao ốc đang xây dở dang lúc nào cũng bay mù mịt. Căn trọ thuê của hai vợ chồng gồm một phòng ngủ, cái phòng khách bằng ba manh chiếu lớn xếp lại và khu bếp. Đồ đạc không có gì mới. Chủ nhà không sửa sang, máng nước đã hư, vòi nước trong bếp chảy rỉ rả, lạch tạch cả ngày. Họ bảo sắp phá đi xây lại thành chung cư mười mấy tầng. Đã mấy mươi năm, căn hộ này qua không biết bao nhiêu con người. Lâu rồi cũng phải quen, nếu cứ như ngày đầu chắc nàng sẽ chết. Rời phi trường, từ bến xe buýt, người đàn ông, chồng nàng đó, lấy taxi về căn trọ này. Thấm thoát thế mà đã gần ba năm.
Cuộc đời là những ngỡ ngàng nối tiếp những ngỡ ngàng. Nàng lo quá không biết từ phi cơ xuống, gia đình chồng xúm xít chờ đón thì nàng biết làm sao. Nhưng điều ấy không xẩy ra, lặng lẽ, nhưng thôi cũng được, nàng đỡ phải đối phó với những khó khăn phức tạp. Nhưng trong tâm trí, nàng hoàn toàn không thể nghĩ là chỉ có hai người lấy xe buýt đi như thế về căn nhà trọ. Chồng nàng ôm đồ, xách vali vào, nàng hiểu đấy là tới nhà rồi. Cứ như những người câm điếc. Hai người không hiểu nhau một chữ. Cái gì cũng lạ, ngay cả đôi dép, cái bình nước cũng không giống như ở quê nàng, nhất là cái giường, phải mất bao nhiêu ngày tháng trăn trở. Không biết ở đây tạm đôi ba ngày hay đây là nhà hai vợ chồng sẽ ở suốt đời? Bố mẹ anh em chồng ở đâu, họ có biết nàng đã có mặt trong gia tộc họ hàng của họ chưa? Tuyệt đối, nàng không hiểu một tí gì. Bàng hoàng, lạ lùng. Nàng đã nghe kể những vụ buôn con gái đem sang trung đông, Bangkok, Taiwan bán cho các ổ chứa gái. Nàng sợ run người. Cả tuần lễ nàng không dám đi đâu, chồng đi làm, tối về. Giả sử nàng bị ông ta giết, cũng không ai biết chuyện gì xẩy ra. Bây giờ chỉ biết cầu trời Phật độ trì, nàng hoàn toàn bất lực, trông dựa lòng thương xót của người đàn ông xa lạ kia thôi.
Đàn ông Taiwan qua nước Nam tìm vợ rất nhiều. Tờ China News số ra ngày 19 tháng 6, 1996, thông tin rằng con số đàn ông Đài Loan qua đất Nam tìm vợ khỏang 30 người mỗi tháng. Tính trung bình mỗi ngày một người con gái xứ Nam về làm dâu xứ Bắc. Ấy thế mà chuyến bay của nàng ngày ấy có một mình nàng thôi. Chia đều ra, có thể ngày trước đó đã có một thiếu nữ và ngày sau đó cũng lại một thiếu nữ nữa. Vào những năm nước Nam nghèo đói, người Taiwan qua đó làm ăn rất nhiều. Các khách sạn sang trọng đều có mặt người Taiwan. Hết thời kỳ mà chiếc xe đạp của bố nàng gẫy cái bi đan bàn đạp, ông nhất định không chịu mua cái bi đan made in Taiwan rồi. Bây giờ Taiwan ngang nhiên vào thị trường kinh tế thế giới bằng những sản phẩm tinh vi. Hồi bấy giờ người ta gọi mấy người như chồng nàng là chú chệt, ở dơ. Bây giờ người Taiwan xách samsonite ra vào những khách sạn lớn. Người dân nước Nam nhìn họ đồng nghĩa với sự giàu có, thèm muốn. Họ là những con buôn qua mở công ti, hãng xưởng. Nếu họ là những người sang trọng giàu có vậy mà không lấy được vợ thì không biết xứ sở họ thế nào. Hay là họ chê con gái xứ Bắc không xinh đẹp, duyên dáng như con gái xứ Nam? Nếu họ qua xứ Nam tìm vợ thì phải có vấn đề chứ.
Chồng nàng qua xứ Nam cưới nàng không phải là chê con gái xứ Bắc, nhưng là chàng không lấy được vợ. Chàng cũng không phải là người qua xứ Nam với tiền rừng bạc bể để mở công ti, chỉ để tìm vợ thôi. Ngày ở phi trường, nếu chàng nói được tiếng Việt mà gọi nàng là em, chắc không ai hiểu là gì, nàng phải gọi là chú mới đúng tuổi tác chứ. Như giấc mộng, thấm thoát ba năm nàng làm dâu nhà người.
Nàng còn nhớ như in, mới có gần ba năm chứ nửa thế kỷ nữa nàng cũng không quên được. Mẹ nàng và người đàn bà mối lái nói chuyện cả buổi chiều. Mỗi lúc đi ngang qua, bà mối lái nhìn nàng quan sát từ đầu tới chân. Sau đó mẹ nàng bắn tiếng dạo này nhiều con gái nước Nam lấy chồng Đài Loan quá. Có đứa mới đi vài tháng mà đã về chơi. Người Đài Loan muốn lấy vợ Việt vì họ khen con gái Việt biết chăm nom chồng con, làm ăn giỏi giang hơn con gái Tầu. Khối người sau khi lấy vợ Việt rồi mua đất cho vợ lập nghiệp luôn ở đây để lấy cứ điểm làm ăn. Thời buổi tân tiến, sáng ở Đài Loan chiều đã ở Sài Gòn rồi, cứ như là đi chợ. Người Đài Loan cũng giống y như người mình. Từ những bắn tiếng xa gần, đưa đẩy của mẹ rồi sau cùng nàng về làm dâu xứ Bắc. Chồng nàng không là doanh thương chê thiếu nữ Tầu, không xách somsonite với từng xấp đô la, nên đã mặc cả kỹ lưỡng. Ba ngàn đô la, giá trung bình như bao nhiêu giá những người con gái khác. Một ngàn rưỡi là phần người móc nối và chạy giấy tờ. Bố mẹ nàng một ngàn rưỡi.
Một ngàn rưởi cũng nhiều chứ, những ba cây vàng cơ mà. Bố nàng chỉ cần có một cây để sắm chiếc xe đẩy cà rem. Ngày ông đi cải tạo, vợ con lên vùng kinh tế mới làm ăn, lúc về, ông sống dựa vào mấy công rẫy đó. Mấy năm cải tạo không chết, về đến nhà rồi còn tai nạn. Trời vẫn thương mới còn hôm nay, cưa trái mìn lấy sắt, sao nó không nổ banh người ông ra, chỉ mất có một con mắt. Bây giờ sắm chiếc xe đẩy cà rem mất có một cây, vẫn còn hai cây, đời ông mãn nguyện. Bà bàn với ông, sắm một cái xe nước mía có mô tơ chạy điện để ép mía nữa rồi cho con Tư trông coi.
Từ hồi con gái về xứ Bắc làm dâu, bà bắt đầu có những ước mơ. Cái xe đẩy kem đã thành sự thật. Cái xe nước mía đã thành sự thật. Rồi cao hơn, bà nghĩ ngày kia thằng con trai sẽ có cái xe gắn máy. Hồi thím Tư chết, nếu có cái xe thì mấy mẹ con chỉ việc đèo nhau đi vài tiếng là tới nơi. Bây giờ nhà ai cũng cố sắm lấy một cái, cần lắm. Rồi bà sẽ mua một cái tivi, sáng trưa, chiều tối, lúc nào buồn buồn là mở cát sét nghe nhạc. Gia đình sẽ rộn ràng. Biết đâu có tủ lạnh làm đá uống vào những lúc trời nóng như hôm nay. Rồi biết đâu nữa một ngày nào đấy, bà gầy được cái xạp nhỏ bán tạp hóa. Lúc đó con Ba, con Tư sẽ đi chạy hàng. Những giấc mơ vẽ ra rất đẹp trong tâm trí bà. Bà nghĩ vài tháng là con bà sẽ về thăm, rồi căn nhà sẽ được quét sơn, một màu tươi mới sẽ đưa gia đình sang một trang sử khác. Gần ba năm rồi chưa thấy con về, ước mơ chưa chết, nhưng nó làm bà thao thức quá. Ngày con gái mới đi, rồi ông già đẩy cái xe cà rem rực rỡ nước sơn mới, với tiếng chuông leng keng, rồi chiếc xe mía ở đầu ngõ, cả lối xóm đều kinh ngạc. Nhiều người thèm thuồng có con gái được như con gái bà.
****
Đứa con gái đầu lòng của nàng thức giấc, cái miệng dễ thương làm sao, đang ngáp ngủ. Hai con mắt mở to nhìn nàng nhoẻn miệng cười. Cái cằm tròn như quả táo con. Dễ thương quá đi thôi. Cúi xuống hôn lên má con. Bé con thích chí giơ tay khuờ khoạng muốn mẹ bế. Ngày sinh con, nàng nhớ rõ lắm, ngay trong nhà thương, lúc còn mệt vì đau, chồng nàng đã không muốn nhìn con. Tiếng Tầu, nghe câu được câu không, đến bây giờ cũng vẫn thế, nàng chỉ biết mang máng, họ nói chuyện với nhau là bà ấy đẻ con gái. Nàng không là phúc trời đem cho đất Bắc. Nối dõi tông đường mà là con gái làm sao được. Từ hai năm nay, chồng nàng đã luống tuổi rồi, lắm lúc ông nói những tràng tiếng Tầu thật dài, nàng không hiểu được, chỉ biết là ông bực lắm, ông chỉ tay vào đứa con mà nói. Nàng biết đấy là oan khiên.
Đám bạn bè chồng nàng chắc cũng người cùng quê với ông từ Hoa Lục. Chả mấy lúc họ không sầu muộn, hoài hương bằng những cuộc say vô lại. Hôm nay, lúc ngà ngà rượu, họ chỉ trỏ cả hai mẹ con rồi riễu cười tít mắt. "Thuê một con ở Philippines mỗi tháng phải trả bao nhiêu tiền mà không được làm tình. Như lão nhà đây là sướng nhất rồi đấy, rẻ chán!" Nàng không giỏi tiếng Tầu, nhưng nàng cũng có thể hiểu họ nói chuyện gì với nhau chứ. Nghe vậy, nàng chỉ giả vờ như không biết gì. "Đất Nam nghèo quá nên mới có người xứ Bắc đến mua mẹ. Chứ con sinh ra là gái ở đây rồi mai sau lấy ai đến trả giá hả con." Cúi xuống, nàng nói với con nhỏ như thế rồi ứa nước mắt. Đài Bắc 19 tháng 6, 1996
Lá thu về nhuộm đỏ ối cánh rừng nhỏ. Mây trắng lãng đãng bay về cuối nẻo trời xa. Người thanh niên ngồi ở ven đồi, trầm tư. Chàng đến đây khi sương thu chớm về. Những ngày đầu tiên trên đất lạ là những ngày lênh đênh nhất đối với chàng. Lo âu cho tương lai. nhớ thương quá khứ. Hiện tại thì vất vả. Gia đình chàng ở lại bên kia. Ra đi một mình. Chỉ riêng có giấc mơ mà chàng đang ấp ủ là người bạn song hành. Nhưng giấc mơ chẳng nuôi được chàng, mà chàng lại phải âu lo vì giấc mơ.
Mùa thu đó chàng vào chủng viện, tiếp tục con đường lý tưởng. Nhưng dòng thời gian không êm đềm như chàng mộng tưởng. Những weekend lặng lẽ, nhìn hành lang dài trống vắng mà chàng thấy như nỗi vắng trong tâm tư chàng. Sương sa, gió lạnh dần dần thấm vào hồn. Những cánh mây tím cũng theo mùa thu về bắt đầu mang nỗi hắt hiu trên từng lời kinh. Những giờ nguyện của chàng bắt đầu mệt mỏi, có nghĩ ngợi mông lung.
Cuối năm học đó, Đức Giám mục địa phận sai chàng về một xứ đạo nhỏ để tập làm quen với đời sống mục vụ. Chính trong mùa hè này, câu chuyện đã xẩy ra.
Nhận được thư Đức Giám mục báo tin đi giúp xứ mùa hè là một ngày u ám trong đời. Chàng không muốn đi thực tập mục vụ, nhưng muốn đi làm. Chàng cần tiền. Tiền đã dầy vò chàng không biết bao nhiêu đêm trằn trọc. Chàng luôn nghĩ đến tiền. Nhưng là sinh viên thần học, nên đức cha muốn chàng đi thực tập mục vụ để chuẩn bị cho cuộc sống linh mục. Khi nhận được thư đức cha là giấc mộng đi làm sụp đổ, kéo theo giấc mơ về tiền. Khi người ta không thực hiện được giấc mơ thì người ta lại càng nghĩ về nó. Nghĩ về nó mà không thực hiện được thì người ta sống trong một thứ ngục tù tâm hồn. Ðó là vây khổn của oán trách, của tiếc xót, của bất bình.
Ở nhà trường, mỗi tháng chàng nhận được hai mươi dollars của địa phận gởi, gọi là tiền túi. Thủa ban đầu, chàng cho là đủ, không thắc mắc, băn khoăn. Nhiều tháng hãy còn dư. Nhưng dần dà, có những cơn gió so sánh bay về. Chàng so sánh chàng với người khác. Tôi cũng có bàn tay, cũng có khối óc, sao cam nhận mỗi tháng hai chục… và chàng thấy mình nghèo! nhận mỗi tháng hai mươi đồng đó là dấu hiệu của sự khiêm nhường, dâng hiến, và sống đơn giản vì lý tưởng hay là cam chịu đời sống tầm thường? Chàng tự hỏi, rồi, những làn sóng tự ái bắt đầu gieo trên biển lặng. Người thanh niên trở nên trầm mặc, băn khoăn.
Xã hội nói về tiền. Giá trị con người cũng được đánh giá bằng tiền. Những kẽ nứt của tâm hồn bắt đầu mở rộng. Chàng thấy mình xót xa, và thực sự thấy mình nghèo. Nghèo vì tiền và nghèo cả tâm hồn. Khuôn mặt chàng không còn bình an, tâm hồn chàng không còn muốn bay bổng cho một lý tưởng. Buổi chiều cầu kinh nào cũng phủ đọng sương mù ẩm mốc. Lý tưởng là gì? Có ai cần lý tưởng nữa đâu? Chàng tự hỏi, rồi thấy con đường của chàng bước vào là cô đơn đằng trước mặt. Là mất mát, thua thiệt.
Chàng nói với lòng mình, là thanh niên như bao người khác tại sao tôi không làm ra tiền? Chàng sống giữa hai thách đố mà thách đố nào cũng lớn lao: tiền và không có tiền. Không tiền có phải là kém hơn người khác? Có phải vì tôi thiếu khả năng? Không tiền có phải là điều dại? Tự ái, như những cơn mưa nặng hạt mưa xuống đời người thanh niên. Tiền làm chàng nhớ về những người thân ở bên kia bờ biển mặn. Tiền làm chàng mơ ước một đời sống tiện nghi. Tôi có nên tiếp tục con đường tôi đang đi? Tôi có nên đem khả năng của mình vào cuộc thử sức của xã hội hôm nay? Mệt mỏi. Sóng gió đi về. Chàng muốn đặt lại lý tưởng cho cuộc sống.
Chính vì thế mà những ngày đầu mùa hè ở nhà xứ năm ấy là những ngày u ám và lặng lẽ nhất đối với chàng, chàng quay quắt suy tư. Cõi lòng hoang vắng, đìu hiu. Cũng có đôi lúc thầm lặng, chàng hỏi lại lòng mình, ngày xưa tôi đâu quá bận tâm về tiền, sao bây giờ tôi phải thao thức quá như vậy? Trong những lúc thinh lặng ấy, những lúc tỉ tê hỏi lại cõi lòng, những lúc tìm đường về thâm sâu của trái tim, chàng dần dà nhìn ra cái nghèo chua xót: Nghèo của một tâm hồn. Chàng băn khoăn tự hỏi: Khi tâm hồn nghèo thì kéo theo bao nhiêu cái nghèo khác?
Cái cao cả mà Thiên-Chúa đã làm, không phải là sống tước vị Thiên Chúa trong Thiên Chúa, nhưng là sống tước vị Thiên Chúa nơi con người. Chúa đã đem cái nghèo trở thành mùa xuân bất tận. Chàng biết vậy, nhưng đường đi của niềm tin thì siêu bạo quá. Niềm tin là giã từ tất cả. Là buông tay ra cho mình chìm xuống, lặng lẽ. Trong những tháng ngày giằng co muộn phiền thì câu chuyện xẩy đến:
Cũng như những thứ sáu khác trong tuần, hôm đó chàng mang Mình Thánh cho một bà già trong xứ đạo. Trời đã về tối. Chàng thích đi bộ để nhìn cỏ cây, để nghĩ về mình, về người. Trời chưa tối lắm nhưng phố xá đã lên đèn.
Từ nhà xứ đến nhà bà, chàng phải đi ngang qua phố, đây là một con phố nhỏ ở miệt quê rồi vào đường Broadway, Broadway là con đường lý tưởng nhất của thành phố. Ðường rộng và đẹp, có chiều đi, chiều về. Giữa hai chiều là hàng cây anh đào rợp mầu hồng khi mùa hoa nở. Chàng đi chậm rãi trên con đường ấy, nguyện mong cho đời nhẹ bớt ưu tư. Trên đường đi, có kẻ đi ngược, có người về xuôi, nhưng có ai đâu biết rằng trong túi áo chàng có Mình Thánh Chúa. Trời tối hơn. Ðèn của phố xá cũng sáng hơn. Mây tím về cuối cánh đồng, cũng là màu u uẩn của cõi lòng người thanh niên. Ðèn đường chẳng thắp sáng được linh hồn. Tâm tư chàng giăng mắc với những lựa chọn mà bên nào cũng có xót xa. Ở hay đi? Giã từ lý tưởng hay tiếp tục? Ðời linh mục là gì? Niềm vui, đau khổ? Làm sao tôi biết chắc được đây là lý tưởng mà Chúa muốn tôi đi vào? Trung thành, gian nan? Mệt mỏi. Mong thêm một chút ánh sáng cho bớt suy tư. Chàng nhìn trời cao. Chúa xa quá. Im lặng qúa. Im lặng quá. Chỉ mình chàng trên đường. Chàng mong một chút sương mai cho mảnh đất khô đỡ cằn cỗi. Chàng ước ao một lời nói rõ hơn, mạnh hơn để chàng bớt gian nan với những nghĩ ngợi. Nhưng trời cao vẫn cao. Ðêm về nhiều hơn.
* * *
Bên bụi hồng, đứa bé gái đang chạy tung tăng, cô bé đứng lại, giơ tay vẫy chàng. Bàn tay thiên thần. Nụ cười bình an. Ðôi mắt hồn nhiên như vì sao trời. Cô bé giơ tay vẫy vẫy. Những ngón tay mũm mĩm, đơn sơ. Nụ cười tươi như một búp phong lan đang hé mở. Cô bé lại tiếp tục chạy, những bước chân sáo vui tung tăng trên thảm cỏ xanh mịn. Hạnh phúc nở hoa theo từng bước chân vô tư. Cô bé đang vui. Và chắc hẳn thiên đàng cũng đang vui lắm. Người vỗ về trong tim. Cô bé vấp ngã. Bàn tay non vụng về để hạnh phúc vượt theo chiếc bong bóng đỏ bay cao. Chiếc bong bóng từ từ xa dần, lên cao, lên cao. Cô bé đứng nhìn ngẩn ngơ, tiếc nuối. Nghe như mùa xuân lắng đọng. Những viên ngọc nhỏ lăn dần trên má. Bé khóc.
Cô bé là cánh hoa bạch huệ tỏa hương hạnh phúc. Khi tung tăng với chiếc bong bóng, mỗi ngón tay nhỏ là một chiếc đũa tiên có phép mầu rải niềm vui trên từng cọng cỏ ngoan hiền. Bước chân bé đã làm cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc ca yêu thương của khu vườn. Bé đã cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc bong bóng bay cao. Xa tít. Xa tít. Buồn như chú mèo nhỏ, bé lững thững vào nhà. Qua vuông cửa sổ, chàng thấy ánh đèn. Nơi ấy, có tình yêu, có hơi thở.
Mầu vàng của khóm tulips với mầu trắng ngà của con đường trải đá cuội, hòa vào mầu cỏ non xanh, làm cho căn nhà thêm êm đềm, như một lời cầu chúc hạnh phúc cho những bước chân nào đặt tới. Giàn hoa hồng nở đỏ thẵm trên vuông cửa sổ. cạnh bụi hồng là những giây hoa tím nhỏ đang leo trên tường đá. Tất cả nhắc nhở đến sự săn sóc của một bàn tay biết nghệ thuật. Mầu đỏ thẫm của bụi hồng làm cho căn nhà có vẻ đài các, nhưng lại hoà chung một thứ buồn dịu dàng, mồ hôi của sắc hoa mầu tím thầm lặng. Lối kiến trúc của căn nhà nói lên sự giầu có của người làm chủ.
Cách nhau một hàng rào gỗ thấp mà bên kia là giầu sang, và ở đây, chàng đứng một mình như thân phận Lazaro nghèo khổ. Chàng thấy nghèo là một chua xót. Cái nghèo làm người ta mất giá. Không ai muốn làm bạn với người nghèo. Có tiền thì có quyền thế. Có quyền thế thì có điạ vị. Nghèo là một cõi vắng lặng lẽ. Nghèo thì bị coi thường, có khi còn bị khinh rẻ. Tiền như một thứ đánh giá thành công của một người. Chàng tiếp tục nghĩ: Nếu Chúa Kitô là một Ceasar giầu có thì đâu có bị xua đuổi, có khi còn có lắm người theo. Có tiền thì được kính nể. Tiền là tiêu chuẩn xác định tài năng. Chàng thấy không tiền là một nỗi chua xót.
Cô bé chẳng ra sân chơi nữa. Chắc bé đang phụng phịu kể cho má nghe về chiếc bong bóng đã bay xa. Người thanh niên để tình cảm của mình nhẹ nhàng đi về một miền cô đơn. Trong căn nhà đó, có hơi thở, có tình yêu, có tiếng khóc, có tiếng cười, có những gì là căn bản nhất mà Chúa đã dựng nên trong thân xác, linh hồn chàng. Chàng lại tự hỏi, đời sống linh mục là gì? Tôi cũng như bao nhiêu người khác sao tôi lại không thể có một tình yêu riêng tư? Người thiếu nữ nào mà đáng lẽ cùng tôi chia sẽ yêu thương? “Nàng là xương là thịt ngươi, bởi đó, ngươi sẽ bỏ cha mẹ mình mà khăng khít với nàng.” (Gen. 2:23-24) Lời Kinh-Thánh thủa xưa vẫn vang lên như một lệnh truyền thôi thúc trong chàng, chảy theo từng dòng thời gian trong cuộc sống, nhắc nhở về “một phần đời” của chàng. Nàng là ai, ở đâu? Tên nàng là gì? Ðó chỉ là huyền thoại hay là thực thể? Vì sao tôi không thể có nàng? Trong căn nhà ấy, có nụ cười trẻ thơ, có tiếng gọi ba, có tiếng gọi má, sao không thể là tôi? Máu tôi vẫn đỏ theo từng nhịp tim đập, vì sao tôi chẳng thể bao giờ được nghe tiếng ba, được gọi tiếng con. Chàng ngước nhìn trời cao. Trời vẫn lặng lẽ, vô tư. Chàng muốn vẫy gọi niềm tin. Chàng muốn nghe niềm tin đáp trả.
Không biết người thanh niên đã để hồn mình xuôi về nẻo đơn độc ấy, để lòng mình chìm vào những dòng tư tưởng ấy bao lâu, nhưng chắc hẳn là lâu lắm. Khi chàng vô tình đưa tay lên ngực thì chợt nhớ ra chiếc hộp đựng Mình Thánh còn đó. Lãng quên đưa chàng về một chút hối hận, ngỡ ngàng. Chàng úp tay trên chiếc hộp, tự hỏi. Cả bầu trời cao ở nơi đây. Cả niềm tin mà tôi đang đi tìm ở nơi đây. Có thật là niềm tin? Có thật là trời cao? Chàng mở chiếc hộp nhỏ. Những tấm bánh trắng vẫn im lặng, âm thầm.
Ngày xưa tà thần đã nói với Đức Kitô: Nếu ngươi bái thờ ta, ta sẽ cho ngươi tất cả vinh quang của trần gian (Luca 4:6-8). Người thanh niên nhìn tấm bánh thầm nghĩ, nếu hôm nay, cũng lời ấy nói với tôi: “Nếu ngươi đổi tấm bánh này cho ta, ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi đang mơ ước.” Vùng trán mang vết nhăn. Người thanh niên bối rối. Chàng không trả lời được. Có được một số tiền đã là thành công. Dệt được ước mơ là một niềm vui lớn. Giờ đây, chàng phải đối diện với câu hỏi mà chàng không bao giờ ngờ. Nếu có ai cho chàng những ước mơ chàng đang mơ ước, chàng có bằng lòng đổi tấm bánh này không. Tấm bánh nhỏ bé quá, yếu đuối quá. Dáng chàng ưu tư, chàng hỏi lại lòng: Ðây có là cả bầu trời cao? Ðây có là Thiên Chúa của vũ trụ? Người thanh niên xót xa cho mình vì chàng không đủ niềm tin để xác nhận. Chàng tin rằng Ngài là Thiên Chúa đó. Nhưng tình yêu của chàng quá nghèo nàn nên không nuôi nổi niềm tin. Chàng lặng nhìn tấm bánh trên tay mà như chàng ứa lệ. Nỗi cô đơn về mênh mông. Chàng thấy lạc lõng. Suối nguồn đã đang cạn khô. Chàng lại nhìn trời cao. Trời cao vẫn im lặng. Chàng cúi đầu xót thương mình. Vì sao trời cao không đáp trả? Trong sự im lặng ấy, dường như có tiếng nói với người thanh niên: “Nếu ngươi mất Ta trong cõi lòng ngươi thì ngươi phải trở về trái tim của mình, Vì chỉ nơi ấy ngươi mới tìm lại được Ta, mới có tiếng đáp trả mà thôi.”
* * *
Có nỗi cay ở mắt. Chàng thấy hồn mình chứa chan. Hình ảnh ông già làm chàng bối rối. Trong tim chàng, có an ủi đi trên xót xa, có ngọt ngào chen lẫn đớn đau. Nuối tiếc. Ngại ngùng. Mênh mông. Sám hối. Một thứ tình cảm bâng khuâng giữa tình trời và tình đất. Ông già đã theo chàng ra tới tận cổng. Ðôi tay gầy, lạnh lẽo, nắm chặt lấy tay chàng biết ơn. Ðã bao lần trong đời, chàng bắt tay người này, kẻ kia. Cái bắt tay nào ấm tình, cái nào xã giao. Ánh mắt nào chân thành, lời nói nào đãi khách, điều đó, ai mà chả nhận thấy. Hai tay run run cầm chặt lấy tay chàng. Người thanh niên biết ở trong bàn tay ấy gởi chàng lời cám ơn thành thật. Lời nói không thể che kín được nỗi lòng và nỗi lòng không cần ngôn ngữ để diễn tả. Ông run run xúc động: “We need you.” Ông chỉ nói với người thanh niên vỏn vẹn như thế thôi, trước khi chia tay.
Khi chàng tới nơi thì bà đã ngồi trên xe lăn, đợi sẵn ở phòng khách. Nghe bấm chuông, ông ra mở cửa. Chào chàng kính cẩn, thái độ của những người già miền quê đối với một linh mục. Căn nhà vắng lặng, chỉ có hai ông bà. Bà đã bị tê liệt từ mười bẩy năm nay. Xe lăn là quê hương duy nhất. Những mạch máu mầu xanh nổi gầy guộc trên đôi tay cố gắng giơ lên làm dấu thánh giá. Giây phút thiêng liêng nhất. Bà kính cẩn cúi đầu chịu Mình Thánh Chúa. Ông đứng bên cạnh, chắp tay. Ðôi mắt chẳng còn nhìn rõ được, không nuốt được, phải ăn bằng đồ lỏng, khó khăn. Người con gái lớn đã ly dị, đấy là niềm đau đớn vô cùng đối với bà. Hai người con trai khác ở rất xa. Ông tâm sự với chàng là tâm trí bà chỉ nhớ tới các con. Bà nguyện cầu và lo âu cho phần rỗi của chúng. Ðời sống hôn nhân ngoài Giáo-Hội của người con gái đã ly dị làm bà khổ sở, buồn phiền.
“We need you.”
Ðã hơn mười năm nay bà chẳng có thể tới nhà thờ được. Ðó là một quê hương mà bà cứ nhắc tới hoài. Ông nói với chàng rằng chỉ còn Chúa là nguồn vui và an ủi nhất của cả hai người. Mỗi Chúa Nhật đầu tháng, nỗi háo hức của bà là được chịu Mình Thánh. Có một mình cha sở, lại phải lo cho nhà thương, thêm viện dưỡng lão, nên ngài chỉ đến thăm bà một tháng một lần. Khi biết được mùa hè này có một chủng sinh về giúp xứ, và bà có thể nhận Mình Thánh hàng tuần, ông nói, đấy là niềm ước ao của ông . Trên khuôn mặt già nua mừng rỡ, ông không hỏi tên chàng. Ông không cần biết chàng từ đâu đến, dù chàng khác màu da, không cùng ngôn ngữ. Ông chỉ ôm lấy tay chàng mà nói: We are happy to have you here. We need more priests. Ông không cần biết chàng thánh thiện hay tội lỗi. Ông không cần biết chàng tài năng hay vụng về. Trong niềm tin ấy, ông chỉ biết chàng là người mang Chúa cho ông. Ðiều ấy càng làm người thanh niên nghĩ ngợi hơn về lý tưởng của chàng.
Chàng ra về với tâm hồn bùi ngùi. Tôi là ai? Vì sao họ cần tôi? Ðời sống linh mục là gì? Vì sao bàn tay linh mục có thể chúc phúc bình an? Những câu hỏi ấy lại đưa chàng về một thế giới thần thánh, mà câu trả lời không hoàn toàn đến từ trời cao. Ði tìm câu trả lời là cuộc hội ngộ giữa đất và trời. Giữa yếu đuối và cao thượng. Giữa mênh mông và mảnh đất chật hẹp. Giữa từ bỏ và lên đường. Ðối diện câu hỏi là một khắc khoải, không thể giải quyết được tự lòng người. Nhưng con người có tự do và lựa chọn. Chàng không nói, nhưng dường như trong thâm sâu của trái tim, có lời kinh như một ánh sáng nhỏ đang cố ngoi lên:
Lạy Chúa nếu chẳng có con cộng tác thì công trình cứu chuộc của Chúa có bị thiệt thòi không? Con nghĩ là có. Chẳng phải vì công lệnh của con, nhưng vì nhiệm vụ mà Cha trao phó cho con, con đã không thi hành. “Làm sao họ tin nếu họ không biết về Ngài, Làm sao họ biết nếu không có ai rao giảng cho họ.” (Rom.10:14)
Nếu con không đến đây thì ai là người đem niềm vui cho hai ông bà? Cha có gởi gắm sứ mạng ấy ở nơi con không? Cũng trong chiều nay, còn biết bao tâm hồn khác cô đơn, đang đợi một bàn tay chúc bình an, đang chờ bước chân đem Tin Mừng đi tới. Họ sẽ chờ đến bao giờ nếu người mà Cha sai tới đã không muốn đi? Những giây đàng bằng vàng ròng của Salomon đã chẳng ru khúc yêu thương được cho dân của người. Những ly rượu nồng của David cũng chẳng cho dân ngài một giấc ngủ yên. Chính là những ngày rong ruổi trên con đường Galilee của đám mười hai tông đồ. Trong huyền nhiệm thân thể của Cha, thì khi con đem niềm vui cho tha nhân là con đem cho chính con. Nếu chiều nay mà con không bước tới thì căn nhà sẽ vắng lặng làm sao. Vì sao Cha đã gọi con? Ðôi tay con vụng về chẳng xây nổi giấc mơ của mình mà sao Cha lại cho con ôm cả vũ trụ? Trên bàn tay yếu đuối ấy, sao Cha lại cho con quyền năng trọng đại? Làm sao con hiểu thấu. Đấy chỉ là ân sủng mà thôi, Cha ơi. Chàng giã từ hai ông bà với tâm trạng vấn vương. Có đau thương của một tâm hồn yếu đuối. Nhưng cũng có ơn tha thứ của trời cao. Có nỗi chua cay của một niềm tin mong manh. Nhưng cũng có lời an ủi của một kẻ hiểu đam mê của xác thân chàng. Chàng thấy cõi lòng chứa chan. Chàng muốn dâng một lời cầu mà chẳng biết cầu cho ai, cầu như thế nào. Trời vẫn cao mênh mông, dường như mênh mông hơn nữa. Những vì sao vẫn lấp lánh. Chiếc hộp đựng Mình Thánh đang ở trong túi áo. Ðây có là cả bầu trời? Ðây có là cả biển rộng thứ tha và yêu thương? Tôi là ai mà dám đi song hành với Thượng đế của nhân loại? Chàng hỏi nhỏ cõi lòng, và trong lặng lẽ, chàng nghe từ con tim, có tiếng người đáp trả.
Chàng muốn đi thật xa với Người, muốn về một cõi đời bát ngát bình yên với Người. Muốn xóa đi những giấc mơ chỉ làm chàng thêm khổ đau. Nhưng chàng nghe thấy tiếng nói: Không, con không thuộc về trần gian nhưng Cha không đem con ra khỏi thế gian. Và người thanh niên hiểu là Ngài ban cho chàng đủ ánh sáng để đi, nhưng Ngài cũng để chàng đủ tối tăm cho niềm tin của chàng phải đặt trọn vào Ngài. Chàng bỗng lo âu về những ngày sắp tới, về những tiếng gọi của giầu sang và địa vị. Chàng muốn ngài đem chàng ra khỏi những yếu đuối của chàng để đi với Ngài về một cõi xa. Nhưng ngài lại nói: Ơn thánh của Cha thì đủ cho con.
Những gì người thanh niên hỏi thì Ngài trả lời. Những gì chàng thắc mắc, băn khoăn thì Ngài đáp trả. Không phải ở bầu trời cao mà là âm thầm trong chính hồn chàng. Như xương thịt chàng là Ngài lo âu cho chàng trước khi chàng biết lo âu cho mình. Ngài bảo chàng cứ đi, và chàng thấy mùa xuân về, bát ngát, mênh mang. Chàng thấy như một bông hoa Quỳnh, trắng nõn, đang nhè nhẹ nở nụ trong sương đêm. Chàng nghe như hoa cỏ đang hồi sinh, và trong tim chàng, có dòng suối mát vỗ về. Chàng cảm thấy trên đường chàng đi, có vắng vẻ nhưng không đơn côi. Chàng cũng cảm nghiệm người chàng yêu ở trong tim chàng chứ chàng khôg phải kiếm tìm. Chàng nhủ thầm, tôi nghèo khổ khi tôi tìm kiếm, nhưng khi tôi ở trong vũ trụ và vũ trụ ở trong tôi thì tôi còn gì nữa mà để tìm kiếm đâu. Rồi chàng đã đi lang thang hết con đường này sang đường khác. Ngài cũng đi với chàng.
Chàng cứ hỏi, và ngài cứ trả lời. Ngài bảo rằng linh mục nghĩa là Kitô, đấng được xức dầu và đóng đinh. Ý nghĩa của linh mục càng thâm sâu khi càng vất vả, gian nan. Ánh nến Phục Sinh càng sáng khi máu tử nạn càng hồng.
Ngài không bảo chàng rằng đường chàng đi sẽ phủ đầy hoa hồng, nhưng chàng có thể làm cho hoa hồng nở trên đường chàng đi.
* * *
Ðêm ấy, người thanh niên cứ lang thang khắp đường. Khi về đến phố thì xuất ciné cũng vừa tan. Chàng nhìn đám người, nguyện cầu và mong ước cho từng người được bình an. Giã từ rạp cinée, chàng đi về phía những quán bar đang sực khói thuốc và men bia, chàng nguyện cầu cho mọi người tìm được niềm vui chân thật. Những cô gái đang bước lẻ loi trên đường. Biết đâu, đêm nay có những tiếng khóc thầm lặng, có những nỗi cô đơn dầy đặc. Chàng nguyện cầu cho tình yêu đi về trên những mảnh hồn đơn côi ấy. Ðêm nay, trong một góc tối nào đó, đang có những toan tính âm mưu. Chàng xin Chúa ban ánh sáng phục sinh. Cũng có lẽ đêm nay, trong căn nhà nào đó, có tiếng khóc than, có những quầng mắt thâm sâu. Có những tâm hồn lạc lõng đang tìm lãng quên bằng men đời say đổ. Có những quãng đời đang không biết đi về đâu. Có những tan nát, chia ly. Có những đổ vỡ lặng lẽ mà vô cùng xót thương. Có những dòng nước mắt tuyệt vọng. Cứ thế, chàng bước đi trên phố và xin Ngài chúc lành cho thành phố đã về đêm.
"Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới."
Chàng đã kiệu Mình Thánh Chúa đi trên biết bao con đường. Chẳng ai biết cả. Chỉ riêng chàng. Ðã nhiều lần trong đời, chàng đi rước, nhưng chỉ đêm đó, một đêm kiệu Mình Thánh mà chàng gần Ngài nhất. Ở một góc công viên, người thanh niên vuốt mặt, nhìn trời cao, chàng thấy hồn chàng nhẹ nhàng như đang đi trong cõi mùa xuân. Trong cõi lòng, chàng thấy một bầu trời rộng và có một cánh chim đang bay lên cao, tự do, bát ngát. Chàng thấy những giải nắng hồng rực rỡ. Nghe như vũ trụ có gió xuân nhè nhẹ đi về. Êm đềm. Những cơn mưa buồn đã theo mây đen trôi dần về biển xa. Chàng muốn giơ tay bắt giữ những giây phút thiêng liêng. Một cành lá dường như đang nẩy màu xanh hy vọng. Nhưng chợt nhớ về quá khứ, trong quá khứ đã nhiều lúc chàng xa Ngài. Bởi đó, chàng băn khoăn về tương lai. Nào chàng có biết chắc được những ngày sắp tới. Nào chàng có biết chắc cánh chim kia sẽ tiếp tục bay cao, hay lại quay về, bỏ khoảng trời mênh mông. Nào chàng có biết chắc những cành cây hy vọng kia sẽ thêm xanh hay sẽ khô dần. Người thanh niên cúi mặt sợ hãi những đám mây đen. Vì bao lần trong quá khứ, mây bay đi nhưng mây lại bay về. Trời hồng sáng rồi mưa tuôn lại làm dập dềnh khóm hạnh phúc chưa kịp trổ bông. Chàng nhìn tương lai mà không trọn vui được hiện tại. Nhưng chàng nghe dường như có tiếng Ngài nói:
– Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới.
Chàng cũng nghe như Ngài nói nữa:
– Cha không chờ con thánh thiện rồi Cha mới thương con, nhưng chính vì tình thương của Cha mà Cha dìu con đi lên từ tội lỗi.
Khi về đến nhà xứ thì đã quá nửa đêm. Và hình như chàng vẫn nghe thấy âm vang từ rất xa, âm thầm mà mãnh liệt:
– Ðường con đi sẽ không phủ đầy hoa hồng. Nhưng con có thể làm cho hoa hồng nở trên đường con đi.
Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ, Trích “Tiếng gọi phía bên trong”
Dừng lại một chút, ta thấy những nghi thức này trong thánh lễ quá kỳ diệu.
Chúa ở cùng anh chị em là gì? Tại sao linh mục cần nhận lại lời cầu chúc:
- Và ở cùng cha.
* * *
Nhiều lần, nhiều nơi, trong nhiều thánh lễ, khi nói lời cầu chúc này, theo cách thế bên ngoài, thì có linh mục không nói bằng tâm hồn. Nói qua cho xong. Vì linh mục vừa nói, nhưng không đối thoại với giáo dân, thiếu chuẩn bị nên đang bận mở sách. Hoặc vì muốn chóng xong, cắt ngắn thời gian. Không có thời gian đón nhận lời giáo dân cầu chúc: Chúa ở cùng cha. Giáo dân đáp lại cho có lệ. Những lời chúc như thế trong thánh lễ nhạt nhẽo làm sao. Khi họ không tha thiết trong lời cầu chúc, thì làm sao dám nói họ thiết tha trong mong ước Chúa thật sự đến với người họ cầu chúc. Nếu vậy, Chúa ở đâu trong mối tương quan họ với Chúa, với nhau? Thiếu tha thiết trong lời cầu chúc, thì khó mà xác định mình thiết tha Chúa đến với người mình chúc. Từ đó, làm sao định nghĩa đấy là một thánh lễ sốt sáng.
Khi họ không nhận định kỹ “Chúa ở cùng anh chị em” là gì, thì làm sao rõ “Chúa ở cùng chúng ta”, và “Chúa ở cùng tôi” quan trọng đến đâu. Họ đánh mất ý nghĩa tên gọi EMMANUEL.
EMMANUEL là tên gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, lời cầu chúc trong thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” là lời rất quan trọng. Và, thánh lễ là gì nếu chúng ta để mất vẻ đẹp: Chúa ở cùng chúng ta?
* * *
EMMANUEL
- Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 2:24).
Khởi đầu Phúc Âm, Mátthêu giới thiệu tên của Thiên Chúa là Emmanuel, nghĩa là tên gọi đó được phiên dịch ra: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và rất đẹp, hôm nay chúng ta cụ thể hóa tên gọi đó trong lời chào của thánh lễ: “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.”
Kết thúc Phúc Âm, Mátthêu để chính Ðức Kitô tự nói về mình bằng lời chấm dứt như sau:
- Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt. 28:20).
Mở đầu và kết thúc một cuốn sách là dẫn vào và đưa tới cho người đọc toàn thể cuốn sách đó nói gì. Tư tưởng trọn gói ở đây, tên gọi của Thiên Chúa là ở cùng con người.
* * *
TÌNH YÊU VÀ Ở CÙNG
Thiên Chúa không yêu thương con người bằng cách từ trên cao nhìn xuống.
Thiên Chúa không cứu chuộc con người bằng cách ở trên cao vớt con người lên.
Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa ở cùng.
Trong cuộc sống nhân loại, con người thường cứu nhau bằng sức mạnh của kẻ hơn. Kẻ có sức mạnh hơn, nhìn xuống kẻ yếu. Tôi giàu có hơn, tôi giúp đỡ anh. Tôi khỏe mạnh hơn, tôi vớt anh lên.
Màu nhiệm tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Mà là một tình yêu ở cùng. Kinh Thánh chỉ định, tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng.
Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng mà không phải ở trên thương xuống?
Tại sao tình yêu lại không là nhìn xuống để vớt lên mà lại là cùng xuống để nhìn?
Người môn sinh ưu tư với những băn khoăn.
Nắng trong vườn đã ngả dạt qua bờ dậu. Ráng chiều hoàng hôn rũ xuống lòng người môn sinh trẻ đang tầm thầy học đạo. Anh đã viết về tình yêu, đã nghe về tình yêu. Nhưng tình yêu vẫn là một huyền nhiệm. Tình yêu là gì?
Người môn sinh nhớ câu chuyện xa xưa:
- Bạch thầy, chúng con không chấp nhận nó được, nó ăn cắp, nó láu cá, nó làm biếng. Xin thầy đuổi nó về.
Mấy chú đệ tử nhỏ báo cáo với thầy. Và vị thiền sư đã bảo:
- Nó không biết phải, không biết trái nên mới cần ở với thầy...
Phêrô cũng thế, đã có lần Ðức Kitô gọi Phêrô là Satan. Nhưng Ngài không đuổi Phêrô. Ngài bảo: “Lui lại đàng sau Thầy.” Lui lại phía sau, chứ không là đuổi đi xa. Vì Satan đang ở trong con, nên con cần ở cùng Thầy.
Ðời người là những chặng đường kiếm tìm. Huyền nhiệm cuộc sống mở ra như những cánh hoa. Một ngày không tìm kiếm là một ngày chết ủ. Cánh hoa phải mở ra, bật lên thành màu. Bấy giờ mới là cánh hoa. Cuộc sống cũng thế, những ấp ủ băn khoăn kia phải bật lên thành màu mới là cuộc sống. Và ta phải tìm kiếm. Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng? Nhất là tên gọi kia của tình yêu Thiên Chúa. Tại sao lại là Thiên Chúa ở cùng chúng ta?
Ðể giúp người học trò tìm kiếm, nhà đạo sĩ hỏi người học trò:
- Ngày con đau, mẹ con không là thầy thuốc. Bà không có quyền lực cứu con khỏi bệnh. Sao bà cứ đứng bên giường nhìn con, ngay cả khi con ngủ?
- Bạch thầy, vì thương con.
- Bà có chữa con hết bệnh được không?
- Bạch thầy, không.
- Không chữa được, vậy đứng đó làm gì?
Người học trò ngập ngừng.
- Bạch thầy, vì thương con.
- Thương, nhưng không làm sao chữa bệnh cho con được. Vậy thương là gì?
Người học trò bắt đầu hiểu. Tình yêu không cứ là “doing”, mà là “being.” Nghĩa là ở cùng. Thật ra, ở cùng, không phải là không làm gì. Bởi “ở cùng - being” đúng nghĩa là sự hiện hữu trọn gói. Khi linh mục nói “Chúa ở cùng anh chị em”, mà chỉ nói vì công thức cho qua. Như thế, sẽ là có “doing” đó, nhưng vắng mặt của “being.” Khi bà mẹ nhìn con ngủ trong cơn đau. Cứ chốc chốc, bà đến bên giường nhìn con ngủ. Bà không có năng lực chữa bệnh cho con. Bà không “doing” được điều gì theo nghĩa sản xuất. Bà chỉ hiện diện trọn gói tâm hồn bà ở đó. Ðấy là chiều sâu của ngôn ngữ ở cùng, là “being.”
Trong cuộc sống, tôi cần một người nhìn tôi. Nói với tôi là cuộc sống, có họ ở cùng với tôi. Người vợ dọn cơm chiều, chỉ mong chồng về, đến bên cạnh, thầm nói rằng “anh ở cùng em.” Buổi chiều đó có thể trở thành hương hoa. Họ cần cái ở cùng này. Người ta kinh nghiệm trong cuộc sống thực như thế. Không ai chỉ hạnh phúc bởi tấm pay check, có “doing” mà không có “being”. Trong nỗi đau, con người thường kêu:
- Lạy Chúa, xin cất chén đắng này cho con.
Họ muốn Thiên Chúa “doing”. Chúa hãy lấy quyền năng mà hành động. Nếu Chúa không cất nỗi đau cho con mà chỉ “being”, nghĩa là chỉ đau với con thôi thì có ích gì. Người ta lý luận tình yêu thì phải cụ thể bằng hành động. Chúa thương tôi, Chúa phải hành động, xin hãy tặng tôi những món quà tôi xin. Tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Thay vì cứu con người khỏi chết thì lại chết với con người. Thay vì cứu con người khỏi đau thì lại đau với con người. Trong nỗi bực dọc, con người oán trách Thiên Chúa. “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! (Lc. 23:39). Con người thách thức Thiên Chúa, cứu tôi đi, nếu thực sự thương tôi. Rồi tôi sẽ tin. Ðức Kitô không lấy quyền năng để cứu những tiếng kêu này. Ngài cũng không lấy quyền năng thoát khỏi cái chết này.
Tại sao tình yêu không là cứu người mình yêu khỏi chết, mà là chết cùng?
Trước khi tiếp tục đề tài. Vị đạo sĩ nhắc người học trò về một kinh nghiệm:
- Nỗi đau là không có ai đau cùng, chứ chưa hẳn là không có ai cất cho mình nỗi đau. Làm sao con có năng lực làm cho người chết sống lại? Con không cất được nỗi đau đó. Nhưng nếu con đau cùng, “being” bên cạnh người đang đau. Thì nỗi đau kia nhẹ vơi. Làm sao trong tình yêu mà người ta nói: Anh không cất được nỗi đau của em. Rồi người đàn bà đi sanh con một mình. Người đàn ông rất thực tế. Tôi không sanh con thay vợ tôi được. Tôi không “doing” gì được. Ông ở nhà đi câu.
Hạnh phúc và đau khổ không là cứu, là cho, mà là ở cùng.
Thiên Chúa ở cùng.
Người học trò im lặng suy nghĩ. Anh lắng nghe. Trong cái tĩnh mịch, anh mơ hồ nhìn thấy từ vùng im lặng đó, bật lên màu sắc của cuộc sống. Như những cánh mỏng thức giấc dần, bật màu thành bông hoa. Vị tôn sư như sợ người học trò ngần ngại với lời mình. Ông cắt nghĩa thêm:
- Thầy giả sử một vị tổng thống quyền uy, ông chỉ gật đầu, gia nhân của ông sẽ đem những người tỵ nạn vào nước ông. Ðó là cách nhìn xuống. Ðó là cách vớt lên. Nhưng giả sử, vị tổng thống ấy nghe tin còn mấy trăm người tỵ nạn mười mấy năm bơ vơ không quê hương. Nghe tin, ông tội nghiệp. Ông bỏ văn phòng. Ông đến với người tỵ nạn. Ông hỏi người tỵ nạn làm gì kiếm sống qua ngày. Dạ thưa ngài, tôi làm nghề rửa xe. Ðể hiểu, hiểu để thương, ông tổng thống quyền uy kia, mặt mũi lấm lem, quẹt mồ hôi, tóc bù xù dính dầu nhớt xăng, cũng chầu chực rửa xe, cũng ở bến xe, cũng gặm bánh mì. Con có thể hình dung một tổng thống nào dám làm thế không?
Người học trò im lặng hơn. Trong tâm trí anh. Anh không thể hình dung có chuyện đó. Anh hiểu ý vị tôn sư đang muốn nói, Thiên Chúa đã làm như vậy. Ðó là ý nghĩa EMMANUEL, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Khi cho một món quà là cho một phần tài sản. Khi cho chính mình là cho hết. Không thể cho hết khi mình không cùng giống thân phận người đó. Bởi thế, vô cùng tuyệt vời khi Phúc Âm tường thuật về người lính canh như sau:
Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (Mc 15: 37).
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói:
Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).
Hai sự kiện đặc biệt trong cụm từ “Tắt Thở” mà ta phải kiếm tìm.
- Thứ nhất, lúc tạo dựng con người. Thiên Chúa thở hơi, cho Ađam sự sống. Bấy giờ Thiên Chúa chỉ cho một chút hơi thở. Nhưng ở đây, Ngài không cho một chút hơi, mà Tắt Thở. Nghĩa là cho hết không còn hơi để thở. Như thế, tên gọi EMMANUEL, càng ngày theo chiều lịch sử cứu độ càng trở nên rực rỡ. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, lời tung hô ấy như ngọn pháo bông muôn màu bật tung lên trong thánh lễ.
- Sự kiện thứ hai là viên đội trưởng, lính canh nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa khi Ngài “Tắt Thở”. Tắt thở là giây phút yếu nhất của một đời người. Ðáng nhẽ ông ta phải nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong những việc quyền năng, những phép lạ lớn lao. Tại sao lại nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong giây phút yếu đuối nhất?
Vị tôn sư nói với người học trò:
- Con ạ, hình ảnh người lính canh ở đây cho chúng ta một chiều sâu thiền niệm mà không biết ngọn núi cao nào, không biết vùng thinh lặng nào mới chỉ bảo cho chúng hết ý nghĩa. Trong giây phút yếu nhất ấy của Chúa Kitô, ông ta nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta quá yếu đuối tâm linh nên không nhìn ra sức mạnh trong sự yếu đuối như người lính canh.
Trời đã vào khuya, hai thầy trò, vị tôn sư và người thanh niên tầm thầy học đạo như thả hồn mình về biến cố hai nghìn năm trước trước mầu nhiệm Tắt Thở của một người. Trong tâm trí anh, anh không thể nào hình dung vị tổng thống kia dám trở nên yếu đuối như một người tỵ nạn được. Anh bắt đầu hiểu hơn, vị tổng thống ấy chỉ có thể thương xót bằng từ trên nhìn xuống, bằng từ trên vớt lên. Ông ta không thể xuống để ở cùng.
Ở cùng là trở nên một thân phận. Ðấy là chiều sâu khó nhất của tình yêu. Khó nhất mà cũng đẹp nhất. Phải trở nên thân phận thì mới hiểu. Hiểu mới có thể thương. Trong ý nghĩa này, thương bao giờ cũng phải là ở cùng.
Người học trò, như vẫn ưu tư. Nếu tình yêu là ở cùng. Tại sao Ðức Kitô lại kêu lên trong giờ sau hết: “Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?”
Vị tôn sư như đọc hết ý nghĩ thầm kín của học trò mình. Ông ôn tồn bảo:
Chiều sâu của tình yêu là ở cùng. Ðêm nay trời đã vào khuya. Con về ngủ đi. Tại sao Chúa Cha không lấy quyền năng như lời Ðức Kitô cầu xin, cất chén đắng này cho con?
Tại sao Chúa Kitô như quá cô đơn vậy?
“Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?” Ðâu là ý nghĩa ở cùng?
Ðây là Tình Yêu và Quyền Năng. Chúng ta sẽ nói tới.
Trời khuya rồi. Ðêm thường nói với chúng ta nhiều ý nghĩa cuộc sống. Ðêm nói về thân phận mù lòa, vất vả đi tìm. Những giờ phút tăm tối cuộc sống, khổ làm sao. Nhưng nhờ đêm mà ta phải khắc khoải. Nhờ khắc khoải tìm kiếm mà hồn ta mới thức giấc. Và con ạ, không bao giờ đêm dài bất tận. Ngày mai có ánh bình minh.
Vị tôn sư đi về am thất. Người học trò vẫn ngồi lại. Anh đang nhìn vào cõi sáng của bóng đêm. Thứ cõi sáng và bóng đêm của riêng anh.
* * *
Từ lời cầu chúc “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.” Thánh lễ phải là mầu nhiệm diễn tả tên gọi làm người của Thiên Chúa, EMMANUEL, Chúa ở cùng chúng ta. Mỗi thánh lễ, nếu ta trân trọng trong lời chào này, thì thánh lễ quá ngọt ngào. Thánh lễ là một diễn giải tuyệt vời mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hạnh phúc nối tiếp bí tích kỳ diệu đó qua những lời chào mang cả một chiều kích thần học rất sâu:
- Chúa ở cùng anh chị em.
- Và ở cùng cha.
Ðầu năm, người ta hay nói đến những lời cầu chúc.
Xin anh chị em tiếp tục cầu chúc cho linh mục chúng tôi: “Chúa ở cùng cha”.
Và cũng đầu năm, xin cầu chúc: “Chúa ở cùng anh chị em.”
Chớ gì chúng ta trân trọng những lời cầu chúc này trong các Thánh Lễ.
Tôi sẽ trở lại đề tài này: TÌNH YÊU VÀ QUYỀN NĂNG để tìm kiếm Lời Chúa trong câu: “Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?”
Trong mẻ lưới cuộc đời, tôi bắt được nhiều thứ cá. Tôi buông lưới kéo lên. Rác rưởi, cá, đất sỏi, vỏ dừa. Người ngư phủ nào cũng cần ngồi nhặt cá. Ðời tôi quá bận rộn, tôi không có giờ. Tôi cần gấp gáp thả lưới. Tôi chỉ muốn kéo lên. Ðổ cá đó, xuống chợ đời tiếp tục thả. Vì đời quá nhiều người thả lưới. Tôi sợ sẽ đi về đâu cuối ngày khi chung quanh tôi có kẻ thả lưới suốt đêm.
Tôi phải hối hả. Tôi cần gấp gáp. Tôi không có giờ ngồi bên bờ nhặt cá. Tôi để đó, lẫn lộn những gì kéo lên từ cuộc đời.
“Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé.”
Tôi vẫn thường để lại những lời yêu thương như thế. Rồi con tôi lớn dần. Chúng lớn không ngờ. Những đêm về trễ, tôi nhìn con ngủ. Cúi xuống hôn con. Mẹ ước ao có giờ cho con, nhưng mẹ quá bận rộn. Lòng tôi chùng xuống một chút se sắt. Con ngủ, con không biết mẹ mình sau một ngày thả lưới quá mệt, đang hôn con trong khoảnh thời gian, mà đối với con chẳng ý nghĩa gì, vì con đang ngủ. Tôi gắn tên cửa tủ lạnh, tôi gài trên tay cầm phôn những lời căn dặn yêu thương. “Con thương, má phải về trễ đêm nay. Thức ăn má để trong tủ. Con hấp nóng rồi mấy chị em ăn trước nhé.”
Rồi con tôi cứ lớn lên, không ngờ.
* * *
Chồng tôi cũng thế. Anh phải thả lưới cuộc đời. Như tâm sự của anh viết trong ánh mắt, một lần tôi đọc. Tôi thấy trong ánh mắt anh, như nói trong tâm trạng băn khoăn. Cũng chùng xuống một chút se sắt như tôi đối với con.
Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Ðáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ… Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project đang dang dở. Em yêu dấu.
Ai cũng bận rộn, hối hả thả lưới cuộc đời. Tôi chỉ hơi buồn mỗi khi vắng anh như thế. Có buồn, nhưng tôi im lặng chịu đựng vì tôi cũng bận rộn như anh. Cuộc đời là những rượt bắt không ngừng. Chung quanh tôi là những bàn chân hối hả.
* * *
“Con của ba! Ba tặng con món quà ngày sinh nhật.”
Ðã có lần chúng tôi nói với nhau. Mình chẳng có thời giờ cho con. Thôi thì bù trừ cho chúng, chúng muốn gì em cứ mua. Chúng tôi mua quà cho con như một yêu thương đền bù. Chúng tôi lấy đồ chơi thay cho nụ hôn ôm con, lúc chúng còn bé. Chúng tôi lấy tiền bạc, quà tặng thay cho những bữa cơm chiều vắng bố, vắng mẹ, khi chúng đã lớn. Chúng tôi cũng đối xử với nhau như thế. Anh vội vã tạt vào shop mua cho tôi chiếc ví da, thay vì những phút phải đi bên nhau tâm sự. Thời gian cứ trôi xuôi lạnh lùng. Tôi cứ thả lưới và nặng nề kéo lên.
Người ngư phủ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ. Sau mỗi mẻ lưới kéo lên, ông ngồi kiên nhẫn, chậm rãi vứt cá xấu đi.
Tôi không giống người ngư phủ. Tôi có nghe mùi tanh của một loài cá ươn. Tôi biết có rác, có đỉa, có củi mục trong mẻ cá vừa kéo. Nhưng tôi không có giờ.
* * *
Năm tháng qua đi không ngờ. Con tôi bây giờ cũng như bày cá đến tuổi lớn. Chúng dần dần bỏ bến ao, tìm đường ra sông cái. Vào đại học rồi đi xa. Ðôi khi tôi thẫn thờ lần về quá khứ. Những tấm ảnh con tôi lúc lên năm, lên ba. Chỉ nhớ và thương.
Rồi một ngày chồng tôi cũng như tôi, không biết những tấm hình năm xưa chụp chung bây giờ ở đâu. Trong mẻ lưới cuộc đời, anh cũng chẳng có giờ ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu quăng đi. Ðến một ngày tôi linh cảm bơ vơ một nỗi lo âu, mệt mỏi và chán nản. Ðó là ngày tôi vô tình nghe mẩu đối thoại:
- I love you.
- I love you too.
Chồng tôi bảo em không nên lo. Không phải chuyện tình cảm. Chỉ là công việc làm ăn của anh. Anh tiếp tục thả lưới và cứ hì hục kéo lên. Tất cả, cá tốt lẫn cá xấu. Tôi không biết rõ mình. Nhưng trong tôi dường như thấy một chút hoang vu nào đó đi về. Nỗi hoang vu khó định nghĩa. Về phía mẻ lưới của tôi, lần cuối tôi nói với người đàn ông không phải chồng tôi:
- Anh gởi cho em về hộp thư này.
Tôi không muốn chuyện gì xảy ra cho gia đình. Tôi muốn gìn giữ hạnh phúc. Không muốn chồng tôi hiểu lầm. Tôi có hộp thư riêng, một P.O. Box. Tất cả chỉ là công việc làm ăn. Những gì tôi lý luận cũng giống chồng tôi. Và tôi tiếp tục thả lưới. Tiếp tục kéo lên tất cả. Chúng tôi giống nhau là không ai có giờ ngồi bên bờ nhặt cá xấu vứt đi. Mơ hồ lãng đãng, tôi không phân biệt được cá nào lành. Tôi yêu mầu sắc của những con cá độc. Tôi không hiểu tình yêu hôn nhân chúng tôi có tiếng thở dài từ bao giờ. Chỉ biết hôm nay, tiếng thở dài quá mệt mỏi.
* * *
Thời gian cứ trôi, rồi đến một ngày. Những con cá ươn sình lên mùi hôi. Rác chung với cá. Mảnh chai, vỏ dừa. Những con đỉa và những càng cua gẫy nát. Tốt và xấu lẫn lộn. Những con cá lành bị nhiễm độc.
Khi chiều tàn mệt mỏi. Lúc hoàng hôn rủ nắng xuôi mùa. Những cơn mưa lộp độp kéo về, cũng là lúc chúng tôi mất nhau.
Chồng tôi ra đi với người ấy.
Tôi quay về tấm lưới cuộc đời xuôi theo loài cá khác.
Nhìn lại những bến bờ. Lời Kinh Thánh như một nốt nhạc than trầm:
“Nước Trời giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Ðến ngày tận thế cũng xảy ra như vậy. Các thiên thần cũng sẽ xuất hiện, và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng (Mt. 13: 47-50).
Hạnh phúc không chỉ giống như chiếc lưới thả xuống biển rồi kéo lên tất cả. Hạnh phúc hệ tại ngồi bên bờ, nhặt cá xấu vứt đi. Tôi để con tôi vào đời giống tôi. Chúng đã lớn lên, học nơi tôi những mẻ lưới hối hả. Tôi đã từng dạy chúng phải nhanh chân kẻo thua trễ người ta. Tôi không chỉ cho chúng ngồi bên bờ, sau mỗi mẻ lưới, nhìn kỹ, nhặt cá xấu vất đi.
Chúng đang thả lưới. Ðời đang hối hả. Con tôi có sẽ tự ngồi bên bờ lựa cá tốt cho vào giỏ, cá xấu thì vất đi? Hay chúng cũng sẽ như tôi, hối hả kéo lưới, tiếp tục gắn trên cửa tủ lời nhắn với các con của chúng: “Con ơi, má thương con thật nhiều. Má phải về trễ đêm nay.”
Người ta bận rộn thả lưới
Chẳng mấy ai có giờ ngồi bên bờ xem mẻ lưới đời mình.
Biết đâu ngày nào, người chồng của con gái tôi cũng có những lời tương tự với nó: Em yêu dấu. Ngày sinh nhật em. Em yêu dấu. Ngày chúng ta thành hôn. Em yêu dấu. Ðáng nhẽ anh phải đưa em đi nghỉ hè, đáng nhẽ… Nhưng anh quá bận. Cuối tuần này vắng anh nhé. Công việc quá nhiều. Một project anh đang dang dở.
* * *
Bạn thân mến,
Ðoản khúc trên đây thật buồn. Nhưng dường như đang xảy ra. Bạn cứ ngồi bên bờ, với Chúa trong những ngày tĩnh tâm, bạn sẽ thấy những gì bạn đang không thấy. Và rồi, biết đâu bạn lại chẳng hạnh phúc nuối tiếc vì đã không sớm ngồi bên bờ cuộc đời nhặt cá.
NGUYỄN TẦM THƯỜNG
(Trích tập suy niệm ÐƯỜNG ÐI MỘT MÌNH, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)
Tôi đến đây thăm ngôi mộ của tôi. Ba năm trước người ta đưa tôi ra nghĩa trang này. Hôm ấy có người khóc. Chung quanh mộ bia tôi có hoa. Bốn năm ngày sau hoa mới tàn. Sau trận mưa, hoa mới rữa. Người coi nghĩa trang hốt hết đổ vào thùng rác. Rồi, thỉnh thoảng mộ tôi vẫn có hoa. Những cánh hoa lẻ tẻ trong lòng một vài người nhớ tôi. Không nhiều.
Hôm nay không còn thế nữa. Tôi đến đây khá sớm. Tôi hồi hộp không biết hôm nay thế nào. Tôi không biết mình sẽ gặp lại những ai. Hôm nay kỷ niệm ba năm ngày người ta chôn tôi. Tôi còn nhớ ba năm trước, cũng vào ngày này, có linh mục mặc áo lễ, có ca đoàn hát. Trước khi đến đây, tôi nôn nao không biết ngày hôm nay có những gì. Tôi hồi hộp.
Bây giờ rõ rồi, không ai đến cả vì đã quá giờ. Bằng giờ này ba năm xưa người ta đứng chung quanh xác mới chết của tôi. Hôm nay không ai đến. Tôi đợi thêm cho tới ngang chiều thì biết rõ những gì tôi hồi hộp chờ đợi không xảy ra. Tôi đợi mãi, bây giờ xế chiều, sắp tối. Sắp tối thì chắc chắn sẽ không có ai ra đây nữa.
Tôi đứng bên cạnh mộ bia của tôi. Tên tôi còn kia. Ngày sinh, ngày chết. Chung quanh vắng quá. Càng về chiều càng vắng.
* * *
Tôi đứng đây một mình trong ngày tảo mộ. Nhớ về kỷ niệm ba năm trước. Ngày đó xác tôi còn tươi. Ngay trong nhà quàn, có người cũng chỉ đứng nhìn rồi rảy nước phép lên mặt tôi chứ không dám đến gần. Mới đó mà đã xa cách. Người ta sợ con người khi chết. Ngay người thân sống với nhau hằng ngày, khi chết người ta cũng sợ. Người ta không sợ con trâu, con bò chết, người ta sợ con người. Không biết vì sao lại thế. Khi có người chết, người ta bảo nhà ấy có đám ma.
Có đám ma. Vâng. Có đám ma.
Người ta sợ nghĩa trang.người ta bảo ngoài nghĩa trang có ma. Sống với nhau mà vừa chết người ta đã sợ xác nhau rồi. Cũng thân xác đó cho nhau say đắm mà sao người ta sợ nó. Người ta bảo nhà có đám ma.
Rất nhiều người sợ đứng trong phòng một mình với xác chết.
Hôm tôi chết, tôi nhìn xác tôi, nhà quàn cố gắng trang sức mà da tôi vẫn xanh, lạnh cứng. Có người đứng nhìn, họ giữ một khoảng cách. Tôi biết họ sợ. Vừa mới nói chuyện, vừa mới ăn cơm chung, vừa mới đi phố, vừa mới gặp nhau thế mà giờ nhìn xác tôi, họ sợ. Tại sao người ta không sợ con vật chết, mà lại sợ xác người?
Chỉ người mới có hồn. Hồn thiêng liêng đi về một cõi vô hình. Không kẻ nào có kinh nghiệm về cõi vô hình như tôi là kẻ chết bây giờ. Hồn ấy có thể vất vưởng điêu linh. Hồn ấy có thể an vui trong cõi hằng sống. Hồn ấy có thể thành ma. Hồn ấy có thể thành thánh. Hồn ấy có thể bình an. Hồn ấy có thể trăn trở khắc khoải. Thế giới này sau khi chết mới thấy rõ. Tùy thuộc lúc còn sống mà hồn ấy quyết định nơi chốn cho mình ra đi khi chết, và hồn ấy sẽ thành hồn gì.
Người ta sợ xác người vì cái hồn đó.
Xác ấy thành hồn thánh hay hồn ma?
Xác ấy an nghỉ hay là oan hồn khắc khoải?
Hồn ấy sẽ về gặp người sống trong thứ hồn nào?
Phải chăng vì thế mà người ta sợ? Phải chăng lúc sinh thời người ta chưa gặp hồn thánh trong xác thân kia nên bây giờ sợ không biết hồn thánh trong xác thân nào.
Bây giờ trời đang vào tối. Càng không ai dám ra nghĩa trang. Vì thế tôi càng biết chắc là kỷ niệm ba năm ngày tôi chết, vắng quá, nơi ngôi mộ của tôi.
Tôi không muốn đứng trong nghĩa trang này như thế mãi làm gì. Tôi đi tìm một vài kỷ niệm cũ của tôi lúc đương thời. Mặt trời xuống phía sau rặng cây rồi. Mây không còn hồng. Một khoảng trời xám phủ xuống nghĩa trang.
Ðầu tiên, tôi trở về ngôi nhà thờ cũ năm xưa. Bậc thềm vẫn như nguyên. Mấy chân nến đồng lâu năm lắm rồi vẫn nằm trong xó tối góc nhà. Cây thánh giá cũ. Tượng chịu nạn một năm mới sử dụng một lần dịp tuần thánh. Chả có gì thay đổi. Chỉ có tôi đã ra đi. Tám giờ tối có thánh lễ. Nhà thờ đông và vui. Tiếng đàn vẫn như xưa. Người vẫn tấp nập. Trong thánh lễ không có lời kinh nào cầu nguyện cho tôi. Ai cũng bận rộn với bao nhiêu công việc, bao nhiêu chương trình.
Tôi gặp một vài khuôn mặt quen ngày xưa. Nhưng hôm nay làm sao họ nhìn thấy tôi được. Tôi nhìn họ thôi. Họ cũng bận rộn như bao nhiêu người. Tôi cố nói với họ: "Hôm nay tôi đi tảo mộ! Hôm nay kỷ niệm ngày chết của tôi!" Tiếng tôi như gió bay trong trời rộng, chả ai nghe thấy gì. Tôi lẽo đẽo theo sau họ. Tôi cố nói mà không ai nghe. Tôi đi như thế một quãng đường rồi tôi chán. Tôi phải trả họ về cho đời sống của họ. Rồi một ngày nào họ cũng giống như tôi thôi.
Tôi đi tìm một vài cánh thư đã viết. Tôi bắt gặp mấy lá thư cũ trong căn nhà của người này. Chúng còn đó, nhưng người ta cũng quên rồi. Mấy tấm hình năm xưa. Một chút dư âm còn lại trên cõi đời. Bây giờ nhìn lại, vậy mà ngày đó tôi mất bao thời giờ cho cánh thư ấy. Tôi muốn được lòng người này, tôi muốn tình cảm của người kia. Bây giờ chả còn gì.
Tôi đi tìm một vài đồ dùng của tôi. Bao nhiêu công trình tôi sưu tầm, sách vở, hình ảnh, nghệ thuật. Vì người sống không cùng ý nghĩ với tôi, nên sau khi chết không ai còn gìn giữ chúng cả, chúng đã tan tác và đang dần dần biến đi. Thế mà lúc sống tôi bận tâm săn sóc từng ly từng tí. Có khi tôi tiếc xót về những thứ này. Bây giờ tôi đứng nhìn những thứ ấy sao xa lạ quá.
Một thời để nhớ, một thời thấy là hư vô.
Một thời thu góp, một thời thấy là hoang vu.
Một thời ôm giữ, một ngày thấy là cách xa.
Tôi cũng đi tìm người ngày xưa không thích tôi. Họ ghen tương chuyện này, chuyện kia, họ thử thách tôi điều này điều nọ. Tôi đứng ngay cạnh họ, họ chả biết gì. Có điều trong thế giới siêu hình người chết thấy nhiều điều người sống không thấy. Tôi thấy họ cũng giả hình nhiều lắm. Họ cũng bon chen nhiều lắm. Sự thành thật thường che đậy bằng những hảo ý tinh vi. Tôi thấy họ cũng thường quá. Vậy mà ngày còn sống tôi cứ băn khoăn về lời phê bình này, lời phê bình kia của họ. Chết rồi mới thấy nhiều cái trên cõi đời quá phù vân.
Tôi cũng đi tìm người ngày xưa tôi không thích. Bây giờ tôi đứng ngay bên cạnh, mà họ cũng chẳng biết gì. Lúc còn sống tôi không thích họ chứ không phải họ không thích tôi. Chết rồi tôi mới biết mình sai. Những người chỉ trích tôi làm tôi bận tâm. Những người tôi không thích thì tôi quên họ. Bây giờ mới thấy mình lầm nhiều. Họ chả là gì trong xã hội quý trọng danh vọng. Trong thế giới siêu hình tôi thấy cuộc đời họ cô đơn. Vậy mà ngày đó tôi không thích họ. Bây giờ tôi nói với họ: "Tôi xin lỗi nhé. Tôi muốn yêu thương và chân thành." Họ chả nghe thấy gì. Tôi lẽo đẽo theo họ một quãng đường rồi tôi thất vọng. Họ chả biết gì. Trong trái tim họ, đôi khi nhớ đến tôi, họ chỉ buồn. Ðó, tôi cũng còn lại một chút dư âm.
Tôi đi lang thang chỗ này chốn kia. Tôi tìm người này người nọ. Tôi đứng bên cạnh bàn ăn và ngửi thấy hương thơm café. Tôi ngồi trong xe và nghe họ nói chuyện. Tôi ở bãi biển nghe họ nhắc về những kỷ niệm, trong đó có bóng hình tôi. Tôi đi tìm và cũng còn một chút dư âm trên cõi đời. Cuộc sống là tiếp tục. Tôi chả còn là bao nữa trong cái dư âm kia.
Hôm nay tôi về tảo mộ sau ba năm. Tôi sẽ trở lại nghĩa trang này hơn hai mươi năm sau xem tôi như thế nào. Ngày đó là kỷ niệm 25 năm. Người ta gọi là silver jubilee. Ngày lễ bạc.
* * *
Lạy Chúa,
Con về nhìn lại ngôi mộ mình sau cái chết. Có những điều ngày xưa phải coi thường, con lại bận tâm, như lời phê bình của người này, kẻ kia, như nỗi sợ này, nỗi lo nọ. Cái bận tâm ấy làm cuộc sống mất bao nhiêu buổi bình minh đẹp, mất bao nhiêu tối trăng mơ màng thơ mộng.
Con đã không biết rong chơi trên cõi đời. Hồn con thiếu tự do vì quá bận rộn với biết bao dự tính. Bây giờ con làm gì với những dự tính đó? Còn người ta, có ai tiếp tục cái dự tính ấy đâu. Có con hay không, cuộc đời vẫn là cuộc đời. Con tưởng ngày con chết sẽ là thiếu vắng. Như dòng sông, vừa múc đi một vốc nước, nó lại đầy ngay chả còn dấu vết gì. Vậy mà ngày con sống, tưởng mình là cần thiết. Con phải dành cho mình lẽ đúng. Con đã không biết rong chơi trên cõi đời để mất biết bao mùa xuân lá xanh non, mất biết bao mùa hạ nắng thênh thang. Ngày còn sống sao lòng con chật chội quá.
Lạy Chúa,
Có biết bao điều con coi thường ngày xưa, bây giờ con tiếc nuối. Như sự thương mến chân thành. Như trái tim không chật hẹp. Như biết quý sự tự do của con tim hơn. Như sự từ bỏ cho cõi lòng thênh thang hơn. Nếu những ngày đó con biết quý nó, đời sống của con đẹp thêm biết bao, có thêm bao nhiêu con suối hiền hòa, có thêm bao nhiêu thung lũng xanh tươi. Bây giờ con biết quá trễ.
Có những kỷ niệm như, nhìn lại ngày đó, con bực bội vì họ chần chừ để hết hạn mới mua chiếc vé tầu, làm con phải trả thêm tiền. Con bực bội mãi vì họ không nghe lời. Thực ra họ cũng bận rộn, luôn luôn bận rộn. Bây giờ con mới thấy tiếc vì những ngày tháng cứ bận rộn là bận rộn, không biết rong chơi. Những thứ bực bội đó làm con mất vui, làm mất những ngày đẹp. Bây giờ nhìn lại nó chả đáng gì.
* * *
Tôi ngang qua nghĩa trang. Nhìn ngôi mộ tôi lần nữa. Có mình tôi tảo mộ tôi. Kẻ sống đã chôn và cho tôi một ngôi mộ rồi. Bây giờ là phần tôi. Một mình tôi với ngôi mộ của tôi.
Chiều nay đứng bên ngôi mộ của riêng mình nghĩ lại cuộc đời năm xưa. Bây giờ, tôi biết rõ cuộc đời rồi, nếu được trở lại kiếp làm người nữa, tôi sẽ sống như thế nào?
* * *
(Ngày Tảo Mộ, là bài thứ nhất trong loạt gồm ba đề tài. Tảo mộ lần thứ hai xảy ra 25 năm sau, tức Ngày Lễ Bạc. Tảo mộ sau cùng xảy ra năm mươi năm sau, tức Ngày Lễ Vàng.
Năm mươi năm sau ngày chết, lúc ấy mọi người cùng sinh thời, quen biết đã chết hết. Nếu hồn bạn trở lại, bạn thấy còn lại dấu tích gì của bạn? Hai đề tài sau sẽ in trong tập suy niệm kế tiếp: Ðường Ði Một Mình.)
Trong chuyến Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm Ấn Độ năm 1986, có những chuyện bên lề ít người biết. Người phụ trách lộ trình cho Đức Giáo Hoàng thăm Calcutta là một Linh Mục Dòng Tên ở thành phố ấy. Cha ở cùng Nhà Dòng nơi tôi xin trọ, Xavier’s College, 30 Park Street, Calcutta. Vì thích tìm xem có gì liên quan tới Mẹ Têrêsa không, tôi tò mò hỏi chuyện với ngài, vô tình mới biết ngài là Linh Mục được chỉ định công việc tổ chức lộ trình trong ngày quan trọng đó. Và câu chuyện bên lề trong chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng cũng khá thú vị. Chuyến đi sau cùng của Đức Giáo Hoàng dự định từ góc đường Park chạy thẳng ra phi trường. Nhưng đến ngã tư, xe cảnh sát dẫn đầu không đi thẳng mà lại quẹo trái. Cha kể với tôi là Linh Mục trưởng đoàn tổ chức, từ Roma qua, không hiểu có chuyện gì. Tại sao kỳ quặc thế này? Người ta sợ ám sát ư? Đoàn xe đi đâu bây giờ? Xe ngừng trên đường ghé vào Nhà Dòng chính của Mẹ Têrêsa. Nhà này ngay bên đường, sau này cũng là nơi chôn xác Mẹ. Đức Thánh Cha ghé thăm một lúc rồi đoàn xe tiến ra phi trường. Trong chương trình ở Calcutta, Đức Thánh Cha chỉ tới thăm ngôi nhà săn sóc những người hấp hối mà thôi. Lúc mới tới Calcutta, từ phi trường vào thành phố, Ngài đã ghé thăm ngôi nhà này rồi. Không có chương trình ghé Nhà Dòng chính. Tới phi trường, nghe cha kể lại, Linh Mục trưởng đoàn tổ chức kia rất bực mình với viên cảnh sát trưởng tại sao làm vậy mà không cho ngài biết. Ông cảnh sát trả lời rằng phút cuối, Mẹ Têrêsa xin ông như vậy. Ông bảo ở Calcutta này có ai là người không nghe lời Mẹ Têrêsa đâu! Rồi cha kết luận, chính quyền ở đây không từ chối điều gì bà xin. Chỉ khi đến Calcutta tôi mới biết chính quyền ở đây là đảng Cộng Sản. Thể chế chính trị ở Ấn gồm nhiều đảng. Chính phủ tiểu bang hợp thành chính phủ trung ương. Tiểu bang nào nhiều thành phần của một đảng, đảng ấy thắng thế. Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao trong một khu xóm, ngày nào tôi cũng đi bộ ngang qua đến Nhà Dòng Mẹ Têrêsa, họ treo ngợp cờ đỏ búa liềm. Nhưng Cộng Sản ở Ấn rất khác Cộng Sản trên thế giới. Họ chỉ là một đảng trong nhiều đảng của nền chính trị Ấn. Họ chủ trương đường hướng xã hội giải thoát giới nghèo chứ không đàn áp tôn giáo. Chưa đến Ấn, tôi chỉ biết Mẹ Têrêsa qua báo chí, qua phương tiện truyền thông là một Nữ Tu nổi tiếng thế giới vì săn sóc người nghèo. Qua Ấn, tôi hiểu hơn, màu sắc vẽ chân dung người đàn bà này khác lạ lắm. Bà không nổi tiếng về truyền giáo, về viết sách, về triết học, thần học, người nữ tu này làm việc rất tầm thường. Công việc của đời bà thật đơn giản. Qua Ấn tôi mới hiểu cái nghèo ở đây khác mọi nơi. Nó là kiếp nghèo của định mệnh đẳng cấp do xã hội và tôn giáo tạo ra. Trong bốn đẳng cấp, đẳng cấp thứ tư thấp nhất, chỉ có lao động, làm cu li. Nhưng ngoài bốn đẳng cấp này, còn loại người “unclean”, “untouchable”. Tiếng “untouchable” do Gandhi dùng để chỉ một hạng người khốn khổ nhất. Nghĩa là họ thuộc hạng người “ô uế”. Họ không được đụng vào người thuộc đẳng cấp khác. Họ phải làm những việc như lau cầu tiêu, chôn xác chết. Tóm lại, họ phải tránh xa người khác trên đường đi. Ai đụng vào họ đều ra ô uế, phải thanh tẩy. Vì thế, họ nghèo từ định mệnh nghèo ra, họ phải mang thân phận lầm than. Tôn giáo và xã hội bắt họ vậy. Cũng nhờ qua đây, tôi mới hiểu ý nghĩa sâu xa khi Kinh Thánh nói Giavê bảo vệ những người nghèo. Cái nghèo ở đây là nghèo đến từ con người mất phẩm giá. Nó không chỉ là cái nghèo kinh tế, nhưng nghèo vì bất công, nghèo vì bị xúc phạm. Giữa lúc tôn giáo và xã hội xa tránh họ thì Mẹ Têrêsa đến ôm những người này! Bà không sợ bị ô uế phải đi thanh tẩy ư? Mãi đến năm 1957 hiến pháp Ấn mới xoá bỏ chế độ đẳng cấp. Trong thực tế, các vùng xa xôi nó vẫn như chiếc cối đá choàng trên cổ đẳng cấp này. Năm 1948, Gandhi bị giết do một tín đồ Ấn Giáo cực đoan vì ông chủ trương mọi người phải bình đẳng. Trong bối cảnh xã hội và tôn giáo như thế Mẹ Têrêsa xuất hiện. Người Nữ Tu này chủ trương một Dòng Tu đi tìm những người bất hạnh mà phục vụ. Thế kỷ này thế giới không còn chế độ nô lệ. Không quốc gia nào có thể chấp nhận giai cấp người nô lệ người. Hiến pháp Ấn Độ không chấp nhận đẳng cấp, nhưng trong thâm tâm thành phần thống trị có muốn thay đổi không, đó là một chuyện khác. Trong hoàn cảnh như thế Mẹ Têrêsa xuất hiện. Người Nữ Tu này không là nhà cải cách tôn giáo, bà không là nhà cải tạo xã hội. Mẹ chỉ đến với những kẻ mà người khác sợ đến gần bị ô uế. Các Nữ Tu thuộc Dòng của Mẹ không đi truyền giáo. Người ta không thể vì Mẹ mà sợ mất tín đồ. Mẹ không truyền đạo để đông người, để cạnh tranh tôn giáo. Ai lạm dụng tôn giáo và kinh tế để nắm chính trị, không thể kết án người Nữ Tu này được điều gì ngoài điều họ không dám làm là đến với những người bị bỏ rơi. Thông tin đóng một vai trò chính yếu trong việc vẽ chân dung Mẹ Têrêsa. Hơn một tỷ người Ấn biết đến Mẹ. Công việc và đời sống mẹ được thông tin truyền đi. Toàn dân Ấn biết đến một con người mà truyền thống xã hội, tôn giáo của họ đi ngược lại. Đó là Mẹ đến với người nghèo. Nhiều người Ấn không biết đến Giáo Hoàng. Có thể có kẻ chống đối Vatican nữa. Nhưng Mẹ Têrêsa đi đến đâu, người ta xếp hàng xin chúc lành. Mẹ đã vẽ một chân dung rất trung thực về Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa của Tình Thương. Công việc và đời sống của người đàn bà này rất giản dị. Đối với tín đồ Bà La Môn, không chỉ người chết mới là thánh. Ngay người sống cũng là thánh. Các nhà Sadhu khổ hạnh, các bậc thiền tu, họ là thánh. Có danh từ “Phật sống” là thế. Bởi đó, chân dung Mẹ Têrêsa là chân dung “Phật sống”, chân dung đầu thai của một thánh nhân. Thiên Chúa đã dùng người đàn bà này để vẽ chân dung Thiên Chúa bằng ngôn ngữ thật tuyệt vời. Một người đàn bà thấp lùn, không có tướng mạo duyên sắc. Một người đàn bà không bằng cấp nói về chân dung rất chân thực của Chúa cho một tỉ người trên đất Ấn Giáo với không biết bao nhiêu nghìn năm bám vào đẳng cấp hệ luỵ. Khi để Thiên Chúa dùng, chẳng ai trong chúng ta là người nhỏ bé. Tất cả chúng ta được dựng nên trong ân sủng phi thường của Ngài. Phải chăng vì thế Mẹ Têrêsa đã nói: “Tôi là cây viết chì trong tay Chúa, Ngài muốn vẽ gì tùy ý Ngài”. Phải chăng vì thế, Chúa đã lấy tình thương trong trái tim Mẹ để vẽ chân dung Giáo Hội trong thế kỷ hôm nay. Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ
Tôi vào đời không có màu sắc. Tôi đi trong biển đêm không giới hạn hoàng hôn hay bình minh. Cuốn lịch của tôi chỉ có một tờ, dài bằng cuộc đời. Tờ lịch mở ra là ngày sinh và bóc đi là ngày chết. Chiều lên hay chiều xuống, rừng thay mùa đổi lá, thửa vườn tôi vẫn không đổi thay. Bốn mùa đời tôi chỉ có vậy, vang vang một cung điệu trầm của bóng tối, ngày lẫn vào đêm.
Tôi vào đời trong không gian không có hình dáng. Mây về ngang trời hay mây đi xa, mùa thu êm ả hay hoa xuân rạo rực trên đồi, không gian tôi vẫn thế. Tôi không biết gần, không biết xa. Chung quanh tôi có khi cận kề mà như xa tít tắp. Có khi xa lắm mà lại như bên cạnh.
Tôi dò dẫm cuộc đời trong bước chân rất chậm. Tôi tìm tôi trong cuộc sống bằng tiếng nói của con tim chứ không thể bằng con mắt.
Bởi tôi mù, tôi không bao giờ biết thế nào là ánh sáng, nên ánh sáng của tôi là một thứ ánh sáng không nắm bắt được bằng ánh mắt của xác thân. Cứ mặt trời lên, mặt trăng về là vũ trụ tuần tự lên xuống theo ánh sáng. Ánh sáng trong trí tuệ mà thôi. Bởi thế, những gì con người nhìn thấy và gọi là ánh sáng thì không phải ánh sáng của tôi. Không so sánh được với ánh sáng thì bóng tối của tôi cũng khác. Do đấy, bóng tối của tôi cũng khác xa bóng tối được xác định bằng nhãn quang của con người. Lương tâm tôi xác định bóng tối cho tôi.
Với thân phận mù lòa, con mắt của tôi không phải là ngôn ngữ định nghĩa về bóng tối và ánh sáng. Tôi đi tìm ánh sáng và bóng tối trong lương tâm và trí tuệ
Từ bóng tối và ánh sáng trong tim tôi, tôi vào đời bằng điệu ca của người mù, điệu ca cũng đến từ con tim nơi tôi suy niệm về bóng tối và ánh sáng đó. Ðây là bài ca:
- Xin thương xót tôi! Xin thương xót tôi!
- Xin thương xót tôi! Xin thương xót tôi!
Tôi là người mù nên bị xếp chung một loại với những người mù khác. Mở Phúc Âm để nhìn lại những bức ảnh của người mù, người ta sẽ thấy bốn trường hợp Phúc Âm nhất lãm ghi lại cũng là bốn lần chúng tôi hát điệp khúc ấy.
Trong Tin Mừng Mátthêu lần thứ nhất:
Khi Ðức Kitô ra khỏi đó thì có hai người mù theo Ngài mà kêu rằng: “Lạy Con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt. 9:27)
Trong Tin Mừng Mátthêu lần thứ hai:
Có hai người mù ngồi ở vệ đàng; nghe biết Ðức Kitô đi ngang qua, thì họ kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt. 10:29-30)
Jesus cures the blindTrong Tin Mừng Máccô:
Con của Timê là Bartimê, một người mù ăn xin, ngồi ở vệ đàng. Nghe biết là Ðức Yêsu Nazarét đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mc. 10:46-47)
Trong Tin Mừng Luca:
Có người mù nọ đang ngồi ăn xin ở vệ đàng. Nghe có đông người đi ngang qua, hắn dò hỏi cho biết chuyện gì thế. Người ta cho hắn biết là có Yêsu Nazareth ngang qua. Và hắn la lên rằng: “Lạy con vua Ðavit, xin thương xót chúng tôi!” (Lc. 18:35-38)
Những người mù chúng tôi không có bài ca nào khác. Trước chân dung Ðức Kitô, chúng tôi chỉ có điệu ca duy nhất. Chúng tôi chỉ lập đi, lập lại mãi:
-Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!
Chúng tôi không nhìn thấy khuôn mặt của Ðức Kitô. Bao nhiêu người đã chứng kiến dấu lạ Ngài làm và tin Ngài. Ðối với kẻ mù lòa như chúng tôi, niềm tin của chúng tôi cũng khác lắm. Vì không bao giờ nhìn thấy, bởi đó, chúng tôi kiếm tìm niềm tin dựa vào lòng thương xót. Chúng tôi không thấy dấu lạ. Chúng tôi chỉ tin rằng Ngài có lòng thương xót. Và hễ nghe tin Ngài sắp đi ngang qua là chúng tôi kêu lên:
-Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!
Ngày ngày ngồi ở vệ đường xin ăn, tôi chỉ biết về Ðức Kitô bằng cách lắng nghe tiếng người qua lại chuyện trò. Một người mù trong nhóm chúng tôi bị kết tội là do tội lỗi của cha mẹ hắn ta, hoặc có thể tội riêng hắn mà phải mù. Ngài bảo rằng không phải tội của ai cả. Nhưng là để quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện (Yn 9:1-41). Ðấy, Ngài lại có lòng thương xót.
Ngồi ở vệ đường, tôi nghe kể về Ðức Kitô đã đến với những kẻ khốn cùng như chúng tôi. Bị trách là tại sao vào thăm nhà những người thu thuế tội lỗi, thì Ngài bảo là người đau yếu mới cần thầy thuốc (Mc. 2:15-17). Gặp kẻ khốn cùng vì câm điếc, mù lòa, tật nguyền là Ngài xót thương họ ngay (Mt. 15:29-31). Bao nhiêu lần Ngài cứu chữa những người còng lưng, bất toại trong ngày Sabat (Mt. 12:9-14). Ngài không bảo chúng tôi về, ngày mai hãy tới vì Ngài phải coi ngày Sabat trọng hơn sự khốn khổ của chúng tôi. Lòng thương xót của Ngài không bao giờ là tình thương được định theo thời khóa biểu.
Ngồi bên vệ đường, tôi suy nghĩ về lòng xót thương. Tôi thấy lòng thương xót nào mà không phải chờ đợi bằng chương trình của những thời khóa biểu thì đấy là lòng thương xót thật. Tôi thấy chỉ vì thương xót chúng tôi mà Ngài mất đi niềm thương xót của các thầy tư tế, các kinh sư.
Cũng như những tháng ngày ngồi bên vệ đường, cũng bằng con tim thôi, tôi thấy lòng thương xót nào mà sẳn sàng chịu thương đau với người mình thương xót thì đấy là lòng thương xót thật. Những ngày thinh lặng bên chợ đời, cũng chỉ bằng con tim, tôi nhìn thấy chân dung Ngài. Làm sao màu sắc có thể vẽ được lòng thương xót? Tôi chỉ vẽ hình ảnh Ngài bằng điệu ca:
-Xin thương xót chúng tôi! Xin thương xót chúng tôi!
Những lời kêu của chúng tôi làm người chung quanh nhàm chán lắm: “Những kẻ đi trước quát bảo hắn im đi” (Lc. 18:39). Ðức Kitô không bao giờ chán nghe điệu ca ấy, không bao giờ từ chối bài ca của người mù chúng tôi. Ngài biết từng bước lần mò trong đời sống của kẻ mù lòa tội nghiệp như thế nào. Ngài không từ chối tiếng gọi của chúng tôi, vì trong điệu ca, chúng tôi đã gọi đúng tên của Ngài.
Tên Ngài là Ðấng hay xót thương. Và niềm tin của chúng tôi là tin Ngài là Ðấng hay thương xót.
Lạy Chúa, đọc trong Phúc Âm nhất lãm, chúng con đã thấy bốn trường hợp nhắc đến người mù là bốn lần có điệp khúc “xin thương xót chúng tôi.” Hôm nay, lập lại bài ca thương xót trước mỗi lần dâng lễ:
-Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con!
Là chúng con lập lại bài ca của người mù thủa xưa. Nhắc tới ánh sáng người mù đã nhìn thấy là lập lại lòng thương xót của Chúa. Họ đã nhìn thấy một tên gọi đẹp nhất để gọi Chúa: Chúa là Ðấng hay thương xót.
Ngày nào con yêu điệp khúc đó trong đời con là ngày đó con hạnh phúc. Nếu con không biết Chúa là Ðấng thương xót con, con sẽ lạc lõng.
Lạy Chúa, mỗi lần đi lễ, nghe điệp khúc ấy, con muốn Chúa cho con trong niềm tin, cậy, mến nói với Chúa rằng: Con hạnh phúc vì Chúa luôn thương xót con.
Con cái đã quên, không còn ai nhớ đến đôi guốc mộc. Sau đám tang của mẹ, mấy người con gom quần áo của bà đốt hết. Riêng đôi guốc gỗ nằm nơi xó tường nên chả người con nào để ý. Mấy tháng, kể từ ngày bà nằm trên giường bệnh, đôi guốc lúc bị đá vào xó tường này, lúc bị đẩy sang góc tối kia, đến độ người nhà không còn để ý nó là đôi guốc của ai.
Từ ngày theo người mẹ đó về nhà, đôi guốc giã từ những tháng ngày thong thả, mơ mộng trên quầy hàng.
Thủa xưa, khách vào ra, ngắm nghía, nâng niu, chủ hàng chẳng bao giờ để đôi guốc bám bụi. Ðôi guốc chả phải làm gì, sống như thế thật nhàn hạ. Nhưng nếu nghĩ cho cùng, cũng không thiếu nhàm chán, chả có gì mới mẻ trong cuộc sống cả. Ðôi lúc, đôi guốc nghe như có hai tiếng nói thì thầm trong hồn nó. Một là bảo nó cứ nằm yên ở đây cho nhàn hạ, hai là bảo nó hãy bỏ đây xuống đời tìm cho cuộc sống một ý nghĩa.
- Chả nhẽ cứ tiếp tục là đôi guốc nằm trên quầy hàng như thế này mãi sao?
Nó không phải là đồ trang sức, không phải là bức tranh cho người ta ngắm. Có nhàn hạ, nhưng nằm mãi ở đây thế này nó bắt đầu thấy chán, càng ngày càng thấm thía những suy nghĩ về một cõi sống trên những nẻo đường của cuộc đời. Nhưng mỗi khi nhìn đôi guốc dưới chân các bà mẹ, nó lại nghe tiếng nói khác thì thầm: "Vất vả quá!" Có đôi guốc sứt mẻ. Có đôi guốc mòn xác xơ. Ðiều đó làm nó nghĩ ngợi.
Ðời là một chọn lựa. Cứ tiếp tục suốt đời giam mình ở đây hay bước xuống đường để ra đi đây đó? Sau cùng nó quyết định ra đi.
Một trưa xế nắng kia, có người thiếu phụ vào tìm mua đôi guốc. Chủ hàng đem nó ra giới thiệu. Nhìn dáng người thiếu phụ, đôi guốc biết người đàn bà ấy thật thà, nhưng thấy dáng bà có vẻ nghèo. Những người nghèo thường vất vả. Bước chân của người nghèo là bước chân khổ. Làm thân guốc cho một người nghèo vất vả lắm. Thật thà mà nghèo chắc cũng chả hạnh phúc. Cuộc sống bây giờ chẳng ai quý người nghèo. Càng suy nghĩ, đôi guốc càng lưỡng lự, cứ sợ người đàn bà ấy chọn mua mình.
Nó phân vân không biết có nên theo chân bà ta hay không. Ðời luôn là phải chọn lựa như thế. Vất vả, nghèo mà thật thà, đặc tính của người muốn mua nó có vậy thôi. Ðôi guốc nghĩ thầm: "Ðến lúc muốn ra đi, lại gặp phải người đàn bà nghèo thế này. Hay ta chờ một người đàn bà khác giàu có. Theo chân người giàu sẽ sung sướng hơn?"
Trong lúc nó phân vân, người đàn bà cầm đôi guốc ngắm nghía, cho xuống chân ướm thử. Một làn hương thơm huyền nhiệm toát ra từ đôi chân bụi đường. Ðôi guốc vô cùng kinh ngạc, làm sao điều ấy có thể xảy ra được. Nó đã được nhiều đôi chân đẹp ướm thử mà chưa bao giờ có hiện tượng lạ lùng như thế. Phải là đôi chân dịu dàng mới toát ra vị thanh tao được chứ. Ðôi chân trần của người đàn bà nhà quê mốc thếch. Làm sao đôi chân lấm lem lại có thể toát ra một hương nhân đức kỳ bí được. Nó không ngờ. Ðiều huyền diệu ấy, tiếng lương tâm đôi guốc bảo cho nó biết rõ là đến từ lòng thật thà, bao dung, vất vả hy sinh của người mẹ kia. Bấy giờ, nó hối hận vì quá vội nghi ngờ đánh giá khi nhìn sự nghèo khó bên ngoài. Lòng hối hận ấy làm nó bừng lên một ước ao mãnh liệt là được theo chân bà. Linh tính cho nó biết nơi dấu chân người mẹ này có một thế giới huyền diệu. Nhưng người mẹ băn khoăn đặt nó vào kệ gỗ vì bà không đủ tiền.
Ðôi guốc gỗ mím môi tiếc xót vì từng bị thử dưới bao đôi chân, chưa thấy bước chân nào kỳ lạ như bước chân của người mẹ này. Giữa lúc nó muốn theo chân người đàn bà để khám phá thế giới linh thiêng kỳ bí đó, bà lại không đủ tiền mua nó. Bà tần ngần đặt đôi guốc lại kệ gỗ. Người chủ hàng chỉ bán rẻ những đôi guốc bị nứt thôi. Ðôi guốc nghĩ thầm: "Hay là ta đánh đổi đời mình thành đôi guốc nứt?" Nếu vậy, còn gì dáng vẻ, vì cả một đời sẽ mang dấu vết nứt đó. Ðôi guốc suy nghĩ quay quắt về một chuyến đi trong đời.
Người đàn bà lại cầm nó trên tay, tiếc vì không đủ tiền. Ðôi guốc giật mình nghĩ rằng đời không có nhiều cơ hội. Nếu bà không đủ tiền mua nó, bao giờ bà sẽ quay lại? Có thể sẽ không bao giờ. Nếu bà đặt nó trở lại quày hàng, biết đâu nó sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại bà? Nó lấy hết can đảm theo tiếng gọi thâm sâu của linh hồn, chấp nhận một thương đau cho khởi đầu một chân trời kỳ bí kia đang chờ đón. Nó quyết định chấp nhận đời mình thành đôi guốc nứt. Tức khắc, ngay khi quyết định xong, nó nghe như trong linh thiêng có một trận chiến vô hình. Tiếng nói của Bóng Tối gục xuống. Tiếng nói của Ánh Sáng bừng lên. Cũng trong lúc ấy, như chiều cao thập giá đổ xuống, một vết thương xước ra, chạy dài toàn thân. Nó ngất lịm. Thế là nó thành một đôi guốc nứt.
Người đàn bà giơ lên nhìn kỹ. Bà ồ lên một tiếng thở nhẹ, vui mừng vì một khám phá: - Ông chủ tiệm ơi, nhìn kỹ đi, đôi guốc có vết nứt đây này.
Người chủ tiệm tiếc rẻ. Ngần ngừ, ông đành bán tống nó đi.
Lúc tỉnh dậy, đôi guốc đã về đến nhà người đàn bà. Bà xoa xoa vết nứt, tìm mũi đinh đóng lại. Một lần nữa, nó đau buốt thân mình. Nhưng trong mỗi nhát búa, nó thấy mùa xuân đang về trên những nhánh gai. Nó bắt đầu cảm thấy ý nghĩa của nước mắt và hạnh phúc. "Tôi sẽ theo chân bà ta đi đâu bây giờ?" Trời đang vào hạ hanh nắng hay cúc vàng nhuộm xuân. Nó hồi hộp tự hỏi.
Ngày hôm sau, ngay chuyến đi đầu tiên nó đã mệt rã rời. Trời xuống tối, bà vẫn chưa về đến nhà. Quẩy gánh nặng trên vai. Con đường cứ dài thăm thẳm, toàn thân mình đau ê ẩm. Ðường đất miền quê sỏi đá gồ ghề, ngay chân bà cũng trượt té trầy da huống chi đôi guốc. Nó bị nện xuống gập ghềnh. Như vậy mà đã từ bao lâu nay người mẹ này cứ bước chân không, nghĩ đến nỗi đau, nó thấy xót xa cho bà. Nhìn xuống nỗi đau của mình, nó muốn chia sẻ với bà nỗi đau kia. Lạ lùng quá, khi mới chợt có ý nghĩ ấy, nó thấy toàn thân nóng bừng, và trên nỗi đau nó thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh.
Qua một buổi chiều mà đôi guốc đã khám phá bao nhiêu bí mật đời sống dưới bàn chân một người mẹ:
- Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm có thể bay ngược chiều gió. - Chịu đựng bao giờ cũng cho tâm hồn nét đẹp cao thượng. - Gánh nặng vì tình yêu luôn luôn đi đôi với sức mạnh. - Thật thà là mật ngọt nuôi dưỡng bình an. - Nhẫn nại là những đường may nối dài tình thương.
Quá mệt, đôi guốc ngủ thiêm thiếp lúc nào không hay. Lúc ướt lạnh, nó co người rùng mình thì người mẹ đã đang ở bờ giếng kéo nước đổ vào nồi cám nấu cho heo. Ðôi guốc bàng hoàng không biết trời đang vào khuya hay đã về sáng. Chung quanh chỉ là đêm tối lần mò. Nó lắng nghe bước chân. Người mẹ hết quanh quẩn trong góc bếp lại ra cầu ao. Khuya thế này rồi sao bà không nghỉ ngơi? Ðôi guốc mệt đừ.
Thời gian thấm thoát thoi đưa. Thoát chốc đã đến ngày đôi guốc mòn quá rồi. Bây giờ nó không còn là hình dạng đôi guốc ngày xưa trong cửa hàng nữa. Xấu xí, lem luốc, nứt nẻ. Nhìn lại quãng đời, đôi guốc không thể biết được nó đã bước bao nhiêu đường dài. Nếu mỗi ngày bà mẹ quẩy gánh 10 cây số, thì 365 ngày một năm, đã trên 3 ngàn cây số rồi. Trời ơi! Ðôi guốc không ngờ nó đã đồng hành với bà trên một dặm đường dài hơn cả đất nước của người đàn bà như thế.
Ðôi guốc không hiểu sao nó có sức chịu đựng trung thành theo chân bà. Nó còn nhớ ngày xưa nằm trên quầy tủ cửa hàng, mới chỉ nghĩ đến ra đi đã ngao ngán quá rồi. Vậy đâu là sức mạnh? Gần đến cuối đời, đôi guốc nhìn lại những bến bờ đã đi qua, nó thấy cộng lại những cây số ngàn ấy, không bước chân nào của bà mẹ không có tình thương. Từ sớm tinh mơ đến tan chợ chiều, bà vất vả cũng vì các con mà thôi. Từ đó, đôi guốc khám phá ra khi nó được chia sẻ đời nó trong tình yêu, tình yêu cho nó sức mạnh. Bất cứ nơi nào có tình yêu thì có sức sống. Bất cứ gỗ đá nào chạm vào tình yêu cũng thành trái tim mềm mại thiết tha. Và nó hiểu, nó không đi tìm mùa xuân vì chính nó đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.
Thưa mẹ, con còn nhớ một đêm kia, khuya quá khuya, mẹ ngồi bên con, nhìn con trong cơn sốt. Làm sao mẹ có đôi đũa thần của bà tiên quyền phép làm cho con hết cơn đau. Mẹ cứ ngồi bên con vậy thôi. Mẹ không an lòng rời xa con. Mẹ đặt tay lên trán con chờ mong từng giây cho con hết bệnh. Muốn uống một ly sữa, con chỉ cần đưa chiếc ly lên miệng uống là xong. Bây giờ nhìn lại, con thấy đêm đó, khi chợt nghe con muốn một ly sữa, mẹ vội thắp thêm đèn, chiếc đèn dầu con tù mù, lệch kệch ra sau vườn kéo gầu nước, nhóm bếp củi mù than đun nước. Mẹ hối hả không ngại ngùng gõ cửa hàng vào những giờ người ta không muốn thức giấc để mua, hòa cho con một ly sữa.
* * *
Sau khi bà mẹ chết, đôi guốc nằm im lặng nơi góc tường tối. Không người con nào để ý. Nó âm thầm một đời theo chân người mẹ, hy sinh, vất vả, chịu đựng. Lúc người mẹ còn sống, đôi guốc đã âm thầm như thế. Bây giờ bà chết rồi, nó vẫn tiếp tục cái âm thầm của bao tháng ngày về trước. Chẳng lẽ bất cứ điều gì liên quan tới mẹ đều lặng lẽ như thế sao?
Tình yêu của những người mẹ dường như bao giờ cũng âm thầm. Xin những người con hãy khua động tình yêu âm thầm ấy của mẹ bằng một cánh hoa linh hồn. Kìa, ngoài kia đất trời đã đang chuyển mình tìm mùa xuân. Lạy Chúa, con cũng đang đi tìm mùa xuân cho cuộc đời. Chân đi trong đời để tìm mùa xuân nhiều khi rất đau. Và bây giờ con hiểu, con nhớ tới đôi guốc của mẹ con. LM Nguyễn Tầm Thường, S.J. (Trích trong Cô Đơn và Sự Tự Do)
Trên trán cha quản nhiệm lấm tấm một chút mồ hôi. Trưa bắt đầu tỏa nóng. Trong nhà thờ vẫn rộng mênh mông, yên tĩnh, chỉ có hai người. Ngài nói với tôi:
- Có điều này rất lạ. Một hôm con nhân danh Chúa trừ nó.
Cha già mới nói tới đó, tôi ngắt lời cha:
- Thưa cha, mấy tháng trời từ lúc cô Kim Chi đem cô Hồng về nhà thờ, cha trừ nó nhiều lần hay sao?
- Nhiều chứ, nó cứ ra được vài ba bữa rồi lại nhập vào. Như con đã nói với cha, ban đầu nó còn sợ nước phép, sợ thánh giá, sợ giây Stola. Sau cùng nó không sợ gì cả. Con rất lo. Rồi một hôm con trừ nó ….
Có tiếng kẽo kẹt mở cửa phía cuối nhà thờ. Có lẽ mấy bà tốt lành đi đọc kinh trưa. Tôi nhìn cha già trong chiếc áo dòng mầu đen. Nét mặt cha như đang sống lại câu chuyện của 25 năm về trước. Cha nói tiếp câu chuyện dở dang:
- Một hôm con nhân danh Chúa trừ nó, nó không ra. Con lại nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi truyền cho nó ra, nó cũng không ra. Lúc ấy không biết làm thế nào. Con nhân danh Đức Mẹ truyền thì nó ra.
Nói tới đó, cha già nhìn tôi, trên vầng trán nhăn lại đăm chiêu. Tôi hỏi ngài:
- Thưa cha, cha còn nhớ hôm ấy cha nói như thế nào?
- Con nói: Nhân danh Đức Mẹ là Đấng vô nhiễm nguyên tội là Mẹ Thiên Chúa ta truyền cho mày phải ra. Nói thế xong nó quật cô ta xuống rồi ra khỏi cha ạ.
Nhà thờ hun hút sâu xuống phía cuối. Chỗ chúng tôi đang đứng là bậc thềm ngay bàn thờ Đức Mẹ. Cha già chỉ cho tôi rồi nói:
- Đó, ngay chỗ đó, hôm ấy xảy ra ngay chỗ này.
Tôi hỏi cha:
- Thưa cha, ngày xưa cha là giáo sư chủng viện. Xét về thần học thì không có lý nào nhân danh Chúa mà không truyền nó ra được, mà nhân danh Đức Mẹ lại được. Về tín lý thần học thì Mẹ Maria không quyền năng hơn Chúa. Vậy cha nghĩ sao?
- Thú thật với cha, con cũng không biết cắt nghĩa sao. Nhưng đó là sự thật. Xảy ra ở ngay chỗ này. Nghe cha già nói xong, tôi nhớ đến câu chuyện một thanh niên ở trại tị nạn ngày xưa xin vào đạo vì nhìn thấy con rắn bên hang đá Đức Mẹ (Chuyện này tôi sẽ kể vào dịp khác). Tôi liên tưởng đến hình ảnh Đức Mẹ đạp đầu con rắn và câu Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký nói về mối thù giữa miêu duệ người nữ và Satan. Tôi nói với cha già:
- Thưa cha, có thể Thiên Chúa để xảy ra như thế cho ta lòng sùng kính Đức Mẹ. Vì cha nói nhân danh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, là Mẹ Thiên Chúa mà truyền cho nó phải ra. Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, Mẹ đạp đầu nó. Nó không có quyền năng gì trên Mẹ. Nó thấy tủi nhục. Mẹ chiến thắng nó ngay từ khi Mẹ thụ thai. Cha nghĩ sao?
- Rất có thể như thế cha ạ. Chứ con không còn biết cắt nghĩa sao. Rõ ràng khi nhân danh Đức Mẹ con truyền thì nó ra ngay. Câu chuyện trên cha già nói với tôi ban sáng, đến chiều tôi phỏng vấn chị Hồng. Trong lúc kể lại những gì chị nhớ. Chị nói:
- Đêm hôm trước con thấy một người đàn bà bảo con là ngày mai có người dẫn con đến nhà thờ. Đúng hôm sau thì chị Kim Chi gặp con rồi dẫn con về nhà thờ. Con nghĩ rằng đấy là Đức Mẹ báo cho con biết.
Trong cuộc phỏng vấn, tôi không nói gì đến Đức Mẹ. Bỗng dưng cô ta đề cập đến câu chuyện 25 năm về trước. Tôi tìm hỏi chị Kim Chi xem ngày chị dẫn cô Hồng về nhà thờ là hôm nào. Chị Chi cho biết đó là ngày 13 tháng 10. Tôi giật mình, vì 13 tháng 10 là ngày Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.
Những năm tháng gần đây, tôi gặp nhiều sự trùng hợp, có thể là vô tình ngẫu nhiên chăng, nhưng nó như những dấu chỉ cho tôi một suy nghĩ.
Tôi có thể bắt đầu câu chuyện từ khoá tĩnh tâm 30 ngày.
Tháng 7 năm 2000, tôi trở về nhà dòng lấy một năm bồi dưỡng tinh thần sau một năm linh mục. Mở đầu chương trình năm học hỏi này là 30 ngày tĩnh tâm ở một nhà tĩnh tâm tại Cincinnati, tiểu bang Ohio. Trong ba mươi ngày này có nhiều biến chuyển ấy là tôi được an ủi thiêng liêng rất nhiều qua kinh Mân Côi. Thuở nhỏ tôi có lòng yêu mến Đức Mẹ, nhưng rất ít lần hạt. Trong cuộc tĩnh tâm 30 ngày, tôi qua một chặng đường mà thánh Inhaxiô gọi là sầu khổ thiêng liêng. Tôi suy niệm về sự hiện hữu của Thiên Chúa và mầu nhiệm sự chết rồi không có lối thoát. Tôi khốn khổ trong bế tắc của những mầu nhiệm này. Nó như một vực sâu không đáy. Tôi chơ vơ không còn biết mình bám vào ai. Chúa như để tôi bất lực cho thấy mình nhỏ nhoi quá, không Chúa tôi sẽ bối rối bất an. Ba đoản khúc Cô Đơn và Sự Tự Do, Tân Hồn và Nỗi Trống Vắng, Lời Nguyện Của Cây Đèn Chầu in trong tập suy niệm Cô Đơn và Sự Tự Do là tâm trạng tôi viết trong những ngày này. Giữa lúc cơ cực ấy tôi lần chuỗi Mân Côi. Và kỳ diệu thay, kinh Mân Côi đưa tôi ra khỏi vùng sâu tăm tối này một cách nhẹ nhàng. Tôi được an ủi vô cùng trong phần thứ hai của kinh Kính Mừng: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử, Amen ."
Lời kinh trên đây không thừa một chữ nào. Tôi gọi tên Mẹ Maria là Thánh, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ cầu cho tôi, mà tôi là kẻ có tội, Mẹ cầu cho tôi lúc này và trong giờ tôi chết. Bỗng dưng như một ánh sáng rất mới ùa ngập vào kinh này. Giữa lúc tôi thấy mình hoang vu, trống trải, Chúa như bỏ rơi, lời kinh quá đẹp. Tối nào trong sân nhà tĩnh tâm tôi cũng lần hạt. Một hình thức cầu nguyện rất đơn sơ. Nhưng kỳ diệu là lời kinh cho tôi sự an ủi thiêng liêng mà tôi đã không cách nào tìm được. Nhất là trong những ngày tôi suy niệm về sự chết. Lời kinh "cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử" cho tôi sự an ủi tôi không giải thích được. Tôi rất cần Mẹ trong giờ lo âu nhất của tôi là giờ tôi chết.
Sau 30 ngày tĩnh tâm, trở về cuộc sống bình thường, nhưng âm vang của nhưng ngày thinh lặng như một thứ tro âm ỉ, nằm nguyên đó. Rồi tôi qua Ấn Độ.
Ba tháng đầu ở Poona, tôi lấy khoá học về linh đạo thánh Inhaxiô. Học đặc biệt về Linh Thao, Spiritual Exercises. Tôi đọc kỹ những biến chuyển thiêng liêng trong cuộc đời thánh Inhaxiô, và những diễn biến đưa Inhaxiô đến việc soạn ra tập Spiritual Exercises, Linh Thao, một phương pháp hướng dẫn tu đức. Nhờ học kỹ, tôi thấy thánh Inhaxiô có lòng sùng kính Mẹ Maria đặc biệt. Trong những diễn biến thiêng liêng đưa thánh Inhaxiô đến việc lập Dòng, thánh nhân đã có nhiều lần thị kiến về Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ. Trong phương pháp tĩnh tâm Linh Thao, Đức Mẹ cũng giữ vai trò quan trọng. Điều này tôi đã ít chú trọng tới trong mười năm qua. Và tôi muốn từ đây, trong các khoá giảng phòng, tôi sẽ nói với các người tĩnh tâm hãy đến với Mẹ Maria nhiều hơn.
Qua ba tháng học, tôi bắt đầu làm cuộc hành hương. Như tôi kể ở phần trên, tôi đi dọc xuống miền nam nước Ấn, hành trình qua vết chân của Phanxicô Xaviê và các nhà truyền giáo ngày xưa. Rồi tôi gặp anh tài xế taxi nói cho tôi biết trung tâm hành hương kính Đức Mẹ ở Vailankanni. Và tôi đã đi.
Từ Ấn Độ về Việt Nam, tôi lại đi hành hương Đức Mẹ La Vang một lần nữa. Cũng ở La Vang này một biến cố khác xảy ra. Cách đây 20 năm, năm 1998 tôi đem bà cụ thân sinh tôi về Bắc. Ngày xưa bố tôi muốn có ngày được nhìn lại những con đường thời niên thiếu đã đi qua. Tôi chần chừ, chưa thực hiện được ước mơ cho bố thì ông cụ bị tai biến mạch máu não. Gìơ đây nằm bất toại, không còn trí nhớ. Còn mẹ tôi, tôi không muốn để ước mơ về thăm quê cha đất tổ của mẹ không thành. Tôi quyết một chuyến đi.
Trên đường, chúng tôi dừng lại dâng lễ ở La Vang. Trong chuyến xe chục chỗ ngồi có một người xin tới La Vang rồi về, không đi Bắc. Ông ước ao đi La Vang từ lâu mà điều kiện sinh sống không cho phép. Được tin tôi đi, ông chỉ mong được đến La Vang rồi về. Sau khi viếng đền thánh, tôi hỏi thăm để có thể giúp ông về lại trong Nam, còn chúng tôi tiếp tục ra Bắc. Ông bảo ông có thể đi luôn.
Câu chuyện xảy ra vào cuối tháng 9 năm 1998. Ông kể lại cho tôi là sau khi cầu nguyện ở La Vang, ông không cần uống thuốc mà hôm ấy thấy vẫn khoẻ.
Qua mấy ngày đường ra Bắc, không uống thuốc mà vẫn chịu được. Rồi hết những ngày trên đất Bắc, không cần thuốc. Ông không dám chắc là được ơn. Ông không nói gì với tôi là ước nguyện đi La Vang xin ơn Đức Mẹ.
Hai năm gần đây đau quá, như vỡ đầu. Ông bị đau đầu kinh niên 40 năm. Thuốc Aspirin ông uống từng nhúm, hết lọ này qua lọ khác. Trong thời quân đội Mỹ còn ở Việt Nam, ông đã được chữa trị mà không tìm được nguyên nhân. Chịu đựng hơn 40 năm.
Sau khi khấn Đức Mẹ xong, không dám chắc có khỏi thật, nhưng trong lòng cảm động. Rồi chuyến đi Bắc, rồi sau cả tháng trời không còn đau. Phép lạ không tỏ tưởng như người què bỏ nạng, người mù sáng mắt. Cả năm sau không còn đau nữa. Lúc gặp lại tôi lần này là hai năm. Từ ngày ông ở La Vang về, chứng đau đầu đã biến mất. Một chứng bệnh đã kéo dài 40 năm.
Những ngày tháng gần đây nhiều sự kiện liên tiếp xảy ra liên quan đến Đức Mẹ đã đến trong tôi. Đó là tình cờ hay một tiếng nói nhắc nhở, tôi không rõ, tôi chỉ biết mình được an ủi thiêng liêng rất đặc biệt qua lời kinh Kính Mừng bình thường đó. Như vậy cũng là đủ.
Qua chuyến hành hương La Vang năm nay, tôi xuôi miền Lục Tỉnh Bến Tre tìm hiểu vụ quỷ nhập vào cô Hồng. Cũng trong chuyến này, một tình cờ xảy ra rất ngẫu nhiên mà cũng đặc biệt, vì lại liên quan đến Đức Mẹ. Ngoài câu chuyện cha già kể trên và chị Kim Chi dẫn cô Hồng về nhà thờ ngày 13 tháng 10, tôi gặp một tình cờ như sau.
Ngày còn nhỏ, tôi thấy bố tôi có tấm hình đen trắng chụp nhà thờ La Mã. Chuyện kể là một người xúc tôm mò cá dưới rạch sông, xúc được một khung ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ảnh ngâm lâu ngày dưới nước bùn, còn gì nữa. Ông biện nhà thờ nghe tin đến chuộc ảnh đem về. Vào một đêm kia, hai bên bờ sông bắn nhau, giữa Việt Minh và lính miền Nam. Ông lánh đạn bên tủ đặt hình Đức Mẹ. Ông thấy hình Đức Mẹ toả sáng. Đạn bắn như thế, ghim đầy tủ mà ông không chết. Dân chúng kéo đến xem. Rồi hình Đức Mẹ từ đó bắt đầu rõ nét dần, mấu sắc bắt đầu từ từ trở lại như xưa. Dân chúng kéo đến mỗi ngày mỗi đông. Cha xứ xin kiệu ảnh Mẹ về làm một nhà nguyện. Sau này đến năm 1955 xây xong và khánh thành nguyện đường dâng kính Đức Mẹ, đặt tên là nhà thờ La Mã. Tôi nhớ câu chuyện này, với tấm hình nhà thờ của bố tôi năm xưa.
Trên đường đi từ Sài Gòn xuống Bến Tre, có cô Kim Chi đi theo. Gần đến Bến Tre, cô Chi bỗng dưng bảo tôi:
- Ở đây có nhà thờ La Mã, nơi Đức Mẹ làm phép lạ ngày xưa.
Tôi giật mình. Nào đâu ngờ chuyện kể năm xưa về ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp này lại ở ngay đây, trên đường tôi đang tới. Tôi bảo cô Chi:
- Như vậy tôi phải đi thăm. Tôi đâu ngờ chuyến đi này lại được đến đền thờ Đức Mẹ mà thuở nhỏ tôi đã nghe.
Trong bữa ăn trưa với cha quản nhiệm nhà thờ Cái Bông. Tôi đem ý nghĩa thăm nhà thờ La Mã kể cho ngài. Ai ngờ đâu chính ngài là cha sở họ đạo ấy từ năm 1965 cho đến bây giờ. La Mã là họ nhỏ, vì thiếu linh mục, từ ngày cha ra nhà thờ Cái Bông này, nhà thờ La Mã không có cha. Ngài chỉ vào cho lễ.
Vậy là tôi lại được phỏng vấn ngài về ngôi nhà thờ và chuyện ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Gíup này.
Sau biến cố 30.4.1975 nhà thờ được trưng dụng làm cơ quan học tập. Họ lấy hết bàn ghế, khung cửa gỗ làm củi nấu ăn. Những gì là gỗ đều bị làm củi nhóm bếp. Nhiều giáo dân sợ ảnh Mẹ bị đập phá bảo cha đem ảnh Đức Mẹ đi nơi khác. Cha nói với tôi:
- Xin Mẹ cứ ở đó với đoàn con. Xin Mẹ hãy làm phép lạ.
Nhà thờ xuống cấp trầm trọng. Trong nhà thờ không còn gì. Riêng ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và bàn thờ Đức Mẹ, họ không phá! Chiều ngày 14.7.2001 tôi ghé kính viếng nhà thờ. Không thể tin được đó là ảnh đã bị ngâm dưới nước rạch sông bùn. Một khung ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mầu sắc rực rỡ như một tấm hình in không bị vết nhăn. Cha già bảo:
- Đó chính là tấm ảnh gốc.
Ngài nói thêm:
- Ngày xưa vùng này hẻo lánh, không an ninh, ít người dám đến hành hương. Con đường dẫn vào nhà thờ ngày xưa xe vào được. Bây giờ nó tan nát thế đấy, phải đi đò hay xe ôm. Nghe đâu nhà nước sắp sửa lại đường để khách thập phương có thể tới.
Tôi lấy xe ôm đi khoảng hai cây số. Đường sâu quá, xe nhảy cà tưng, ông xe ôm ghì chặt tay lái mà xe cứ như nhảy xuống ruộng. Thế thẳm nào cha già khuyên tôi nên đi đò. Mấy năm sau này nhà nước đã cho hai sơ vào ở luôn trong đó, coi nhà thờ. Nhà thờ được sửa lại đẹp như xưa.
Tôi thật xúc động khi chiếc Honda xe ôm dừng trước sân nhà thờ. Đó chính là tấm ảnh chụp năm xưa của bố tôi. Một kỷ niệm của tuổi thơ như chết chìm biến mất trong đời, bỗng dưng hiện về sống động như mới hôm qua. Không biết ai cho bố tôi tấm ảnh ấy, hay trong chuyến hành quân nào đó, dừng chân nơi đây, bố tôi đã chụp tấm ảnh này.
Trời đã ngã về chiều. Sân nhà thờ vắng vẻ. Hai bên bờ sông lạch, bóng xoài rủ lá hiền hoà mà như có vẻ âm u. Trong nhà thờ có khoảng hai chục em bé chừng mười tuổi đang đọc kinh. Tôi hỏi sơ:
- Hôm nay các sơ có lớp giáo lý cho các em hả? Các em đang học gì đó?
Sơ bảo không. Chiều thứ Bẩy các em đang làm giờ kính Đức Mẹ đấy. Tôi không đợi chờ câu trả lời như vậy. Tôi cứ ngỡ giờ học của các em. Tuổi thơ các em dễ thương quá. Trong không gian êm ả của một buổi chiều đang tắt nắng. Ở một vùng nước sâu không ánh sáng văn minh, có các em bé đang đọc kinh bên Đức Mẹ. Đức Mẹ vẫn ở đó với đoàn con. Lòng tôi chùng xuống một buồn vui xúc cảm không định nghĩa được.
Tôi trở về Mỹ, kết thúc một năm hành hương bằng mấy ngày nghỉ ngơi tại nhà tĩnh tâm ở Cincinnatio, nơi tôi đã bắt đầu chương trình một năm trước đây. Rồi bắt đầu làm việc trở lại từ đầu tháng 9,2001.
"Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen ." Lm Nguyễn Tầm Thường
MỒ MẢ: MỘ NGƯỜI CHẾT HAY TÂM HỒN NGƯỜI SỐNG? Bài 21.
Qủy Nhập Là Điều Có Thật
Giáo Hội xác tín điều đó. Giáo Hội đã có mục vụ đặc biệt cho những trường hợp này. Các Giám Mục trong địa phận phải chỉ định cách riêng một linh mục nào đó để khi chuyện xảy ra, có kẻ trừ tà. Không gì rõ bằng trong Kinh Thánh. Phúc Âm xác nhận quỷ nhập vào người ta, Kinh Thánh cũng nói đến trừ quỷ. Chúa Kitô trừ quỷ. Các môn đệ trừ quỷ.
Hiện tượng quỷ nhập rất phức tạp, có thể lẫn lộn với bệnh tâm thần. Phức tạp không có nghĩa là không có quỷ thật sự nhập vào người ta. Vì thế phải rất cẩn thận khi đề cập đến. Tôi không dễ tin những chuyện này. Không dễ tin, nhưng có những chuyện tôi phải tin.
Tôi bắt đầu để ý về những hiện tượng quỷ nhập khi đọc tờ báo National Catholic Reporter số ra ngày 1 tháng 9 năm 2000. Tờ National Catholic Reporter dành nguyên một số báo đề cập đến hiện tượng quỷ nhập. Theo điều tra của tờ National Catholic Reporter, trong vòng hai trăm năm vừa qua, Giáo Hội khá lặng im về vấn đề này. Bỗng dưng đầu thế kỷ này, hiện tượng quỷ nhập xảy ra nhiều nơi. Theo thống kê, cha Gabriele Amorth, người được bổ nhiệm trừ quỷ của địa phận Roma, cũng là một trong những người sáng lập International Association of Exorcists, vào trung tuần tháng bẩy năm 1993 trong đại hội những người trừ quỷ tại Roma chỉ có sáu người tham dự.
Vào năm 2000, con số tăng lên 200 người. Vẫn theo tờ National Catholic Reporter, tại Roma vào năm 1986 chỉ có 20 người làm mục vụ trừ quỷ. Hiện nay toàn nước Ý con số lên tới 300 người. Theo kinh nghiệm mục vụ, cha Gabriele Amorth viết một cuốn sách mang tên: An Exorcist Tells His Story – Câu Chuyện Của Kẻ Trừ Tà. Ngài cho biết quỷ có thể làm cho người bị nó nhập mửa ra những đụm tóc người. Ta cũng có thể khám phá ra quỷ nhập bằng cách trộn Nước Phép vào đồ ăn rồi xem nó phản ứng ra sao. Cũng trong số báo này cho biết, cha James LaBar, được Đức Hồng Y John J.ÓConner bổ nhiệm làm kẻ trừ quỷ của địa phận New York, cho hay trong năm 1999, ủy ban của ngài đã phải đương đầu với 25 trường hợp quỷ nhập. Theo ngài, nhu cầu mỗi ngày một gia tăng.
Ngài nổi tiếng là "kẻ trừ quỷ" sau vụ trừ tà ở Florida năm 1991 và được chương trình 20/20 của đài truyền hình Mỹ ABC phát hình. Tờ Atlanta Journal Constitution, 1999 làm một cuộc điều tra, cho biết 50% người Mỹ tin rằng cuộc sống ít nhiều cũng có lúc bị quỷ nhập vào. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trừ quỷ cho một người đàn bà Ý tên là Francesca Fabrizzi, Ngài gọi nó là kẻ sát nhân và là vua gian dối của vũ trụ. Theo Cha Amorth, Đức Giáo Hoàng đương kim đã trừ quỷ ba lần trong triều đại của ngài. Phúc Âm Mátthêu và Luca tường thuật, Đức Kitô cũng trừ quỷ (Mt. 2:63, Lc. 8:26-40).
Theo tờ National Catholic Reporter, nhiều thần học gia tại Hoa Kỳ cho rằng quỷ nhập là một sự kiện phải nhìn nhận một cách nghiêm chỉnh.
Với những sự kiện trên, tôi đặt dấu hỏi cho những tò mò của tôi. Tại sao thời đại này lại có nhiều hiện tượng quỷ nhập như thế? Đời sống con người trong thời đại này thế nào? Niềm tin tôn giáo? Sự công bình xã hội? Gía trị luân lý? Gía trị gia đình? Đang lúc tôi muốn tìm hiểu vấn đề này, tôi bắt gặp
câu chuyện quỷ nhập một người ở Ba Tri, thuộc tỉnh Bến Tre, Việt Nam. Tôi không dễ tin, nên tôi muốn gặp tất cả đương sự, kẻ làm chứng, nhất là giáo quyền, linh mục trừ tà để kiểm điểm sự kiện. Điều tôi mong muốn đã xảy ra.
Câu chuyện xảy ra đã hơn hai mươi năm về trước. Trong số những chứng nhân, chỉ có thân sinh của nạn nhân là qua đời.
Tôi gặp chính cô Hồng, người bị quỷ nhập. Ngày đó mới 22 tuổi, hôm nay cô 47 tuổi. Tôi gặp cô Chi, người sống bên cạnh cô Hồng mấy tháng trời, nuôi cô. Người giảng viên giáo lý tên Chi này là nhân chứng biết nhiều chuyện về cô Hồng nhất.
Tôi gặp mẹ cô Hồng, bà cụ cũng già yếu rồi.
Tôi gặp các giáo dân, những người trong ca đoàn cùng tuổi cô Hồng của nhà thờ Cái Bông.
Tôi gặp cha phó nhà thờ Cái Bông, lúc đó là thầy giúp xứ.
Tôi gặp chính cha quản nhiệm Nguyễn Văn Quang, người đã trừ quỷ cho cô Hồng.
Một trong những điều làm tôi tò mò là tại sao quỷ hay chọn mồ mả làm nơi cư trú. "Khi Đức Giêsu sang qua bờ bên kia, và đến miền Gađara, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả gặp Ngài. Chúng rất dữ tợn đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy" (Mt. 8:28). Đức Giêsu và các môn đệ tới vùng đất của dân Ghêsarê, "từ mồ mả có một kẻ bị thần ô uế ám ra gặp Ngài. Người này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. Nhiều lần bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh ta bẻ gẫy xiềng xích, đập tan gông cùm. Không ai có thể kiềm chế anh được.
Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình" (Mc. 5:2-5). Bốn Phúc Âm đều nói đến mồ mả. Tôi có thể chia ra ba loại mồ mả sau đây:
- Quỷ thường sống ở mồ mả.
- Người ta cũng là một thứ mồ mả. "Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác ." (Mt. 23:27).
- Chúa phục sinh từ mồ mả.
Trong những thứ mồ mả trên chỉ có ngôi mộ của Chúa Kitô có sự sống. Về câu chuyện cô Hồng, vào những đêm cô trốn nhà thờ, người ta thường bắt gặp cô ở nghĩa địa gần đó. Cách nhà thờ không xa có một nghĩa địa lâu đời. Chị Kim Chi đã dẫn tôi đến nghĩa trang này chụp hình, chị cho tôi biết, nhiều đêm cô ta biến mất, đổ đi tìm thì thấy cô đang nằm ngoài nghĩa địa trên các mồ mả cỏ rậm um tùm. Ma quỷ gần với sự chết. Nó yêu thích sự chết. Căn nhà cư trú của nó là sự chết. Không phải những người nằm dưới đó là bạn bè nó. Nhưng nghĩa trang là nơi dành cho sự chết. Ngoài nghĩa trang chỉ còn một nơi nữa nó có thể cư ngụ là lòng con người. Như Đức Kitô đã nói, lòng con người có thể là một "mồ mả tô vôi". Trong ý nghĩa ấy, có biết bao ngôi mộ đang đi ngoài đường, đi trong chợ, ngồi ở tiệm ăn. Theo lời Đức Kitô nói, có biết bao mồ mả tô vôi, bên ngoài đẹp đẽ mà bên trong toàn xương người. Có thể ngôi mộ ấy là người bạn của chính mình. Họ ở cạnh nhau.
Bà mẹ cô Hồng kể cho tôi biết cô ta có dấu hiệu khác người từ hồi lên 5 tuổi. Tính đến ngày cô được trừ quỷ vào năm cô 22 tuổi, nghĩa là dòng dã 17 năm. Bà cụ cho biết trong gia đình không người con nào mặc bệnh tâm trí. Riêng cô Hồng lúc 5 tuổi thì bắt đầu đau yếu. Khoảng 10 tuổi thì bỏ nhà đi làm nhiều điều phi thường ai cũng sợ. Bà kể cô ta ăn hết một chiếc nồi đất để luộc bánh tét. Một chiếc nồi đất to thế mà cô cứ ngồi nhai rau ráu, ăn chỉ chừa có cái vành nồi. Rồi bà tự hỏi:
-Ông cha coi đó, nó ăn như vậy mà không sao, bụng đâu mà chứa hết một cái nồi đất to như vậy.
Tôi nghe bà kể, rợn người. Bên cạnh bà, trước mặt ống kính máy thu hình, chị Hồng cũng ngồi bên cạnh. Tôi giả bộ, lại bào chữa cho hành động phi thường ấy. Tôi bảo bà:
- Thưa cụ, người bị bệnh tâm thần cũng có thể làm như thế.
Chưa để bà cụ trả lời, cô Hồng lên tiếng ngay:
- Thưa cha không mà, con bị quỷ nhập thật mà cha ơi!
Chị Kim Chi cũng đang trước ống kính thu hình, kể thêm:
- Thưa cha người tâm thần gì mà treo lơ lửng trên trần nhà, lúc con nhân danh Chúa truyền cho nó ra, nó thả cô ta rơi đánh bịch cái xuống mà không hề bị gì.
Cô Kim Chi lúc ấy là giảng viên giáo lý, gặp cô Hồng ngoài đường, dẫn về nhà thờ. Theo lời cô Kim Chi thuật lại, lúc tới cổng nhà thờ cô Hồng bỏ chạy. "Nó sợ nhà thờ". Cô Chi nói vậy. Sau này đem cô Hồng về nhốt trong căn nhà thuộc đất nhà xứ. Đó là phòng họp dành cho hội Legio Mariae. Bên cạnh nhà có một giếng nước khá to. Khi quỷ nhập vào, cô nhảy xuống giếng, nằm nổi trên mặt nước hằng giờ. Những cô trong ca đoàn bấy giờ cũng chỉ độ hai mươi, bây giờ đã mấy mặt con rồi, họ là chứng nhân còn sống. Tôi gặp một nhóm sáu người, phỏng vấn họ:
- Tại sao các chị cho rằng cô Hồng bị quỷ nhập mà không phải là bệnh thần kinh?
- Thưa cha, thần kinh làm sao biết được những chuyện kín? Một hôm chúng con đang ngồi xem cô ấy lên cơn. Nó bảo: "Đấy, thằng Quang vừa đi tìm cách để chống lại ta ." Không ai hiểu nó nói gì. Sau này mới biết khi nó nói thế chính là lúc cha Quang ở nhà thờ lái xe lên toà giám mục xin đức cha làm phép giây Stola trừ quỷ đem về. Thần kinh gì mà khi hú nghe rợn người. Nó hú nghe ghê lắm cha ơi. Bây giờ mà con còn rởn da gà lên đây nè. Lúc lên cơn trốn chạy, nó chỉ về ngủ ở nghĩa trang.
Lúc tôi phỏng vấn mấy chị này, trời đã xế trưa. Tôi sẽ ra nghĩa trang chụp mấy tấm hình. Tôi lại liên tưởng đến Phúc Âm hay nói về quỷ và mồ mả. Nếu đời sống mà linh hồn là ngôi mộ tô vôi, bên trong chất chứa sự dữ, chỉ giả hình bên ngoài thôi thì đấy chính là quê hương của nó trú ngụ. Lời Chúa nói về mồ mả trong Phúc Âm Mátthêu lại vẽ trong tâm trí tôi một thứ quê hương của ma quỷ. Một thứ mồ mả nơi con người sống đang biết đi, đang mặc áo đẹp.
"Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác" (Mt. 23:27).
Phải chăng nếu sống mà linh hồn là nơi nó cư trú thì khi chết chôn xuống lòng đất nó sẽ tìm về ngôi mộ đó.
Qủy Nhập và Qủy Ám
Đứng bên bờ giếng, tôi hỏi cả hai người, chị Kim Chi và cô Hồng:
- Đây là cái giếng, khi bị quỷ nhập cô thường nhảy xuống phải không? - Thưa cha đúng vậy.
Giếng đầy nước, bờ giếng xây cao đến đầu gối. Chung quanh giếng có vài cây xoài, mấy gốc chuối rậm um tùm. Tôi tìm cách chống chế, trả lời cô Kim Chi:
- Nhảy xuống nước mà không chìm cũng không phải là khác thường, vì người biết bơi đâu có chìm?
- Thưa cha, nhưng đàng này khác, cô ta không bơi. Không phải ở giếng mà thôi, cả ngoài sông, ngoài đìa nữa. Cô ta nhảy xuống đìa nằm hàng giờ mà cứ nổi lềnh bềnh à, không chìm. Cô ta phá quá, cả công an xã chịu không nổi, họ muốn thảy xuống sông cho chết mà cô ta cứ nổi hàng giờ.
Tôi nhìn chị Hồng đứng cạnh bờ giếng, bóng tầu lá chuối lúc lắc, để rớt một khoảng trắng loang lổ xuống mặt. Mặt trời xế trưa. Năm nay chị 47 tuổi. Ngày đó là cô gái 22. Một thiếu nữ đang tuổi xuân thì. Suốt ngày thơ thẩn bên nghĩa trang, nằm đường ngủ bụi, tru tréo la hét, trôi trên sông. Con người ấy bây giờ đang trước mặt tôi. Tôi hỏi chị Hồng:
- Khi xảy ra như thế chị có biết gì không?
- Thưa cha không.
Trưa nay tôi đã quay phim hình cánh tay chị ta. Chính cô Kim kể:
- Thưa cha, đây là vết tích hãy còn. Con lấy lửa đốt cánh tay chị. Nếu là người thì phải biết đau chứ? Con đốt cháy như thế này mà nó cười khà khà. Một khúc dài độ nửa tấc trên tay cô Hồng còn mang sẹo. Một vết sẹo do bị cháy rất nặng vẫn còn. Nhân chứng về vết sẹo này, một cán bộ nhà nước nghe thấy quỷ nói:
- Không ai làm gì được ta. Ta chỉ khoá giải một cái sẽ không có sẹo, nhưng ta để lại cho có vết tích mà thôi.
Lời này do chị Hồng kể. Trong khi bị đốt chị không biết gì. Quỷ nói câu trên và cán bộ kia nghe được, sau này ông ta kể lại cho cô Hồng lúc cô đã tỉnh.
Mẹ chị Hồng vì tuổi cao, tự nhiên thì không nhớ nhiều, nhưng nhắc tới thì nhớ. Cô Hồng làm cho gia đình những điều kinh hãi. Lối xóm đàm tiếu nhà đó có quỷ nhập nên ông bà khổ sở. Một tay công an lực lưỡng dí điện xem cái gì xảy ra. Thay vì cô Hồng bị giật thì chính tay công an bị điện giật té ngửa. Cô ngồi cười khà khà. Ai cũng sợ hãi thất kinh. Nếu là ma quỷ thì không ai giết được nó. Họ nghĩ vậy. Ban đêm, công an khênh cô ta để ngoài đường cho xe cán xem sao. Tôi nghe kể, mấy chiếc xe vận tải chạy qua mà cô ta không chết.
Cô Hồng kể lại, cửa sông lớn như thế, làm sao một cô gái bơi qua sông với một bao gạo? Qua sông mà gạo không ướt. Nhưng chuyện sau đây thật không hiểu nổi. Dĩ nhiên khi xảy ra thì chính cô Hồng không biết gì. Một thế lực huyền bí nào đó hoạt động trong cô mà thôi. Một hôm có người ra sông mở đáy lấy cá. Đáy là một cái bẫy đan tre dưới nước, vây lại cho cá sông vào. Khi người ta ra mở đáy thì thấy cô Hồng ngồi trong đó. Không biết cô đã ngồi trong bẫy, ngâm dưới nước từ bao giờ. Người cứng lạnh, xám xanh thế mà không chết.
Theo bà cụ kể thì từ khoảng 10 tuổi cô Hồng phát chứng những hiện tượng lạ. Những chuyện phi thường tăng dần cho đến ngày được trừ tà. Thời điểm này mới sau biến cố 30.4.75, nói chuyện ma quỷ, thần thánh là vấn đề rất tế nhị đối với quan niệm xã hội chủ nghĩa. Có thể bị kết tội mê tín dị đoan dễ dàng. Ai cũng muốn tránh né vấn đề. Khi chị Kim Chi đem cô Hồng về nhà thờ, đó là chuyện chẳng đặng đối với cha quản nhiệm. Lúc nói chuyện cha già tâm sự với tôi:
- Khó xử quá về vụ này. Tôi cũng chỉ cho là bệnh tâm lý. Nhưng dần dần tôi thấy ghê quá. Ngay nhà nước xã hội chủ nghĩa đâu có tin chuyện ma quỷ mà cũng không cắt nghĩa được những hiện tượng quái gở của cô ta. Tôi nghĩ Chúa để xảy ra cho người ta biết có tôn giáo, có thần thánh, có ma quỷ, có đời sống tâm linh.
Cô Kim Chi thì cho rằng hiện tượng này xảy ra để chúng ta biết vinh quang của Chúa. Ngay quỷ có nhập vào người ta cũng là làm cho Chúa được vinh quang mà thôi. Nó chẳng có quyền phép gì.
Trong căn nhà ngày xưa "nhốt" cô Hồng, hôm nay các sơ đang ở. Có lớp giáo lý cho các em. Giữa căn nhà, ngay lối cửa chính bước vào, còn bàn thờ có tượng trái tim Chúa Giêsu.
Cứ đêm bỏ nhà đi, cô Hồng ra nghĩa trang nằm ngủ với mồ mả. Nên trong lúc phỏng vấn, tôi hỏi cô Kim Chi:
- Ra nghĩa trang một mình tìm người quỷ nhập như thế cô có sợ không? Nhất là nghĩa trang heo hút vào ban đêm. Cô Kim Chi trả lời bằng một câu không ngờ:
- Thưa cha nó là quỷ thì làm gì phải sợ.
Có lẽ thấy tôi ngạc nhiên với câu trả lời ấy. Cô nói tiếp:
- Nếu là trộm cướp thì sợ vì nó có thể giết mình, chứ là quỷ nó làm gì được mình mà sợ, mình có Chúa mà.
Trong giây phút mà tôi gọi câu trả lời làm cho thời gian ấy đọng lại thành linh thiêng. Tôi xác tín điều đó quá đúng. Người ta thường lấy ma quỷ để doạ nạt. Có người tôi đến không dám ở nhà một mình. Họ sợ bóng sợ vía. Nói đến người chết là nói đến ma. Họ sợ nghĩa địa. Khi gia đình có người qua đời, tôi thấy chúng ta thường nói nhà có "đám ma". Tại sao tự động gán hình ảnh ngiười chết là "ma". Tôi thấy lối nói này phải được thay đổi. Và tôi đề nghị, người Kitô hữu hãy thay đổi kiểu nói này. Ta nên nói nhà có tang lễ thay vì nhà có "đám ma". Tôi đang nghĩ về câu trả lời của người giảng viên giáo lý đã thực sự sống giáo lý này, thì cô ta nói tiếp:
- Quỷ nhập thì không sợ. Quỷ ám mới sợ cha à.
Tôi không hiểu tõ chị muốn nói gì. Thấy tôi nhíu máy im lặng, chị nói:
- Quỷ nhập, mình biết ngay là nó. Quỷ nhập chỉ làm những điều kinh thiên động địa, nhưng đâu làm gì được ta. Biết nó nhập, ta có thể trừ được. Con người quỷ ám là lòng họ gian ác, ngoại tình, thù oán, gian dối lường gạt. Họ vẫn đi nhà thờ, rước lễ mà tâm hồn không có bình an. Quỷ ám mới đáng sợ. Ai sống trong tội là sống trong tình trạng quỷ ám. Họ không làm những chuyện kinh thiên động địa, không ai biết, nhiều khi họ cũng không biết chính mình. Quỷ ám mới đáng sợ.
Tôi không ngờ một người giáo dân bình thường, một giảng viên giáo lý có cái nhìn chính xác về thần học như thế. Nhất là cô đã sống đời giảng viên giáo lý với ý nghĩa đẹp trọn vẹn của danh từ giảng viên giáo lý. Gặp người giảng viên giáo lý này cũng là một chuyến phỏng vấn mang nhiều ý nghĩa đối với tôi. Ý nghĩa trong tài liệu tôi đang thu thập, và ý nghĩa nhất là cho cuộc sống của chính mình. Sức Mạnh Trừ Qủy Của Bí Tích
Đã hai mươi lăm năm, thế mà lúc cha già kể lại giây phút rửa tội, ngài như đang sống chính giây phút ấy. Mặt ngài trầm ngâm, nhăn lại:
- Tôi thú thật với cha, chưa bao giờ trong đời tôi sợ như lúc đó. Tôi toát mồ hôi. Giây phút vô cùng quan trọng, quyết định số phận của tôi và danh tiếng Giáo Hội. Sau năm tháng, tôi quyết định rửa tội cho nó. Cha thử nghĩ coi, nếu rửa tội xong mà quỷ không ra thì tính sao? Lúc ấy nhà nước đang để ý tôi. Họ đâu có tin chuyện tôn giáo, đâu tin thần thánh gì. Còn tôi thì lo mất mặt. Nếu là quỷ nhập thì phải trừ được. Nếu không trừ được thì còn đâu là Chúa, Mẹ nữa. Tôi lo chứ.
Tôi hỏi các nhân chứng về ngày rửa tội ai cũng nói thế. Họ bảo chưa bao giờ thấy cha xứ toát mồ hôi như vậy:
- Thưa cha, cả chúng con nữa. Nhà thờ đầy người, ai cũng sợ. Chúng con chỉ sợ rửa tội không xong. Trước giây phút rửa tội, cả nhà thờ phải đọc kinh xám hối, chúng con quỳ hôn đất xin Chúa thương. Chúng con lúc đó mới mười mấy, hai mươi tuổi, còn trong ca đoàn mà. Chúng con đứng đàng sau nó. Lúc cha sắp làm phép rửa tội, nó lùi lại phía sau, muốn chạy. Chúng con giữ lại, đẩy nó lên phía trước.
Trong giây phút rửa tội, chị Kim Chi quả quyết nghe thấy, vì khi cô Hồng quỳ xuống, mọi người đứng, thì chị Chi quỳ ngay bên cạnh sát cô Hồng. Lúc ấy có giọng nói từ phía cô Hồng:
- Ta trả lại thân xác mày. Ta đi đây.
Trong buổi phỏng vấn, khuôn mặt cha già lúc nào trầm ngâm. Ngài nói với tôi:
- Cha biết gì xảy ra không? Sau lễ rửa tội đó nó khỏi hẳn cho đến bây giờ, đã hơn hai mươi năm. Nếu là bệnh thần kinh thì tại sao sau rửa tội lại hết? Cha thấy ghê không.
Tôi im lặng. Cha già cũng thế. Hai chúng tôi cố hình dung một sự kiện không giải thích được. Tôi quan sát chung quanh tường nhà xứ. Lúc này tôi không phỏng vấn cha trong nhà thờ nữa, đang trong phòng khách nhà xứ rồi. Căn nhà xây dở dang vì chiến cuộc. Góc tường, cha treo một tấm bản đồ rất lạ. Đó là bản đồ giáo dân trong họ đạo. Bản đồ vẽ từng nhà, nhà nào nằm gõ đường nào, rõ chi tiết. Tôi hỏi ngài:
- Tại sao trước đó cha nhân danh Chúa trừ nó nhiều lần. Nó ra rồi lại nhập vào. Tại sao sau khi rửa tội xong nó không nhập vào nữa? Vẫn dáng điệu trầm ngâm, bên tách trà, ngài nói nhỏ:
- Tôi nghĩ thế này, lúc trước tôi truyền cho nó ra. Nó ra nhưng rồi lại nhập, vì lúc ấy chưa có Chúa nơi cô ta. Rửa tội là đóng ấn bí tích thì khác chứ. Sau khi rửa tội xong, nó là con Chúa rồi. Có Chúa trong linh hồn cô ta rồi. Khác chứ. Làm sao nó dám nhập vào nữa.
Lời giải thích của cha già như ánh sáng lóe lên trong tâm trí tôi. Phải đúng như thế. Đấy là mầu nhiệm của các bí tích.
Phải chăng Chúa cho tôi nghe lời giải thích này để xác tín quyền năng các bí tích Chúa thiết lập. Những bí tích vô cùng cao quý mang ơn cứu rỗi linh hồn. Phải chăng đây là một ơn cho tôi. Vì là linh mục, tôi cử hàng các bí tích quá thường. Nếu linh mục không còn tinh thần khi cử hành bí tích, dâng lễ chóng qua, giải tội chóng qua, không chuẩn bị cử hành các bí tích thì đời sống linh mục quá buồn. Tất cả cuộc sống thành cử hành những nghi thức vô vị, thì cuộc đời cũng vô vị. Lời cha già giải thích đơn sơ nhưng tôi thích lời giải thích ấy. Sau lời giải thích đơn sơ ấy, tôi thấy mình quý các bí tích hơn. Tôi sẽ trân trọng hết tâm hồn khi cử hành các bì tích Chúa ban.
Nắng chiều đang xuống. Tôi sắp ra về. Tôi không biết có ngày nào trở lại nơi này nữa hay đây là lần cuối. Cuộc đời rất nhiều khi là vĩnh biệt. Tôi chụp chung tấm hình với cha. Không ngờ nơi đây hơn hai mươi năm trước đã xôn xao một thời quỷ dữ về nhà thờ. Không ngờ hai mươi năm sau tôi đến đây nhìn lại dấu chứng. Cuộc sống thật đẹp vì luôn luôn có những bất ngờ. Nhìn tuổi tác cha, tôi lại nghĩ, cuộc đời đẹp nhưng quá ngắn! Tuổi già rồi từ giã cõi đời. Ai cũng thế. Nghĩ tới đó, hình ảnh nấm mộ ngoài nghĩa trang lại hiện về. Mộ hoang nghĩa địa và chỗ quỷ hay lui tới. Mồ mả tô vôi đẹp bên ngoài và xương người chết bên trong. Những hình ảnh ấy hiện lên như một phản xạ tự nhiên. Tôi thấy bâng khuâng một thoáng buồn. Tôi cũng nghĩ ngay đến các bí tích. Bí tích ban cho người sống, bí tích ban cho người chết. Lạy Chúa, con cần những bí tích này cho cuộc sống của con trên đường về với Chúa. Và như một linh mục, xin cho con cử hành các bí tích với hết cả tâm hồn.
Loạt bài về một câu chuyện có thật xảy ra cách đây hơn 20 năm, do chính tác giả tìm đến xứ Cái Bông, Ba Tri, Bến Tre, để tìm hiểu, phỏng vấn và quay phim tài liệu các nhân vật trong cuộc là cha sở, nạn nhân, và những nhân chứng vẫn còn đó ... Nơi đây, hơn hai mươi năm về trước đã xôn xao một thời. Nơi xảy ra câu chuyện quỷ nhập vào một người thiếu nữ. Hơn hai mươi năm sau, tôi đến đây phỏng vấn, tìm hiểu và ghi lại chứng tích của những người còn sống về câu chuyện mà tôi tin có thật. Hiện tượng quỷ nhập.
... Trong buổi phỏng vấn, khuôn mặt cha già lúc nào cũng trầm ngâm. Ngài nói với tôi: - Cha biết gì xảy ra không? Sau lễ rửa tội đó nó khỏi hẳn cho đến bây giờ, đã hơn hai mươi năm. Nếu là bệnh thần kinh thì tại sao sau rửa tội lại hết? Xin mời qúy vị đọc những câu chuyện dưới đây: Giã từ xứ đất thần linh và quê hương của những Thầy Bà La Môn, tôi dừng lại Việt Nam trước khi về Mỹ. Bốn rưỡi sáng từ Sài Gòn tôi lấy taxi đi Bến Tre. Nơi tôi sắp đến là họ đạo Cái Bông, thị xã Ba Tri. Nơi đây, hơn hai mươi năm về trước đã xôn xao một thời. Nơi xảy ra câu chuyện quỷ nhập vào một thiếu nữ. Hơn hai mươi năm sau, tôi đến đây phỏng vấn, tìm hiểu và ghi lại chứng tích của những người còn sống về câu chuyện mà tôi tin có thật.
Tượng Hiện Quỷ Nhập
Trong nhà thờ, trưa thứ Bảy ngày 14, tháng 7, tôi ngồi hỏi chuyện cha quản nhiệm về những hiện tượng quỷ dữ phá phách trong nhà thờ này. Đặt máy video thu hình xong, câu chuyện bắt đầu, tôi bấm máy, băng video bắt đầu chuyển. Sau mấy phút, kiểm soát lại xem hình đã thu, tất cả trắng xóa! Hình không thu được vào máy. Tôi kiểm soát lại pin, đường giây, băng video, tất cả không có gì trục trặc. Xin lỗi cha quản nhiệm để bắt đầu lại cuộc phỏng vấn. Quay xong một đoạn, tôi soát lại xem đoạn vừa quay, tất cả vẫn là trắng xóa trên màn hình. Tôi soát lại lần nữa, không có gì trục trặc. Trên khung hình máy video, phần đèn ghi record cháy sáng, báo hiệu máy đang thu hình, không có gì trục trặc. Nhưng khi chiếu lại, màn ảnh cứ trắng xóa, hình không thu vào máy được.
Đây là sự kiện xảy ra lần đầu kể từ khi tôi mua và xử dụng chiếc máy này đã hai năm rồi. Sau gần một tiếng không làm sao thâu hình được, tôi bắt đầu lo. Tôi muốn ghi lại bằng hình ảnh các chứng nhân còn sống. Một khi họ qua đời rồi, câu chuyện sẽ trở nên mất ý nghĩa vì bấy giờ chỉ còn chuyện kể truyền miệng, không còn nhân chứng nữa. Nếu máy không làm việc, chuyến đi của tôi sẽ vô ích. Cha quản nhiệm kiên nhẫn ngồi đợi gần một tiếng đồng hồ. Tôi ái ngại quá.
Bắt đầu lo. Tôi nghĩ bụng: "Này Satan, hay là mày muốn phá cuộc phỏng vấn này? Nhất định, cách này hay cách khác, ta phải thực hiện cuộc phỏng vấn này ." Nếu máy không làm việc thì sao? Cả chuyến đi của tôi vô ích. Và rồi ngày trở về Mỹ của tôi sắp đến. Bao giờ tôi mới có cơ hội như hôm nay. Biết đâu có ngày trở lại thì những nhân chứng quan trọng này đã chết mất rồi. Trong tôi hỗn mang nhiều tâm tư khó tả. Tôi bắt đầu nghĩ xin cha quản nhiệm cầu nguyện với Đức Mẹ cho công việc trôi chảy, vì sự kiện hơi lạ, tôi chưa bao giờ gặp máy không thâu được hình như thế này.
Trong ý nghĩ cầu nguyện ấy tôi thu lại hình thử xem thế nào. Lạ lùng thay, màn ảnh có hình ! Máy làm việc như thường lệ. Tôi cầu xin cho máy đừng trục trặc. Hồi hộp, tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn :
- Thưa cha, tại sao cha tin rằng đây là trường hợp mà quỷ nhập thật, chứ không phải cô ta bị bệnh tâm thần?
Khi phỏng vấn, tôi thường đứng về phía chống lại câu chuyện quỷ nhập, tôi viện lẽ này, lẽ kia để bào chữa cho hiện tượng kỳ lạ ấy chỉ là hậu quả của tâm trí rối loạn mà thôi. Cha quản nhiệm trả lời :
- Tôi xin hỏi cha nhé, cha nhìn những chiếc ghế quỳ trong nhà thờ này xem. Nó thấp như thế kia, cô ta nằm ngửa, bất động, tay dang ra mà nó cứ trôi từ từ qua dưới các ghế quỳ này như có kẻ đẩy đi. Người nó to, ghế quỳ thấp thế kia, làm sao người qua lọt, thế mà nó cứ trôi từ từ qua mười mấy, hai mươi dẫy ghế.
Tôi nhìn, rồi lấy tay xem lại khoảng cách các ghế quỳ. Quả thật, từ mặt nền nhà thờ đến chiếc ghế quá thấp. Không tài nào có thể đút đầu qua được. Nghe cha quản nhiệm kể, thật khủng khiếp. Ngài tiếp tục:
- Nó cứ trôi như thế giống như có người đẩy. Thật ghê quá. Nó trôi gần đến cuối, ra phía giữa nhà thờ thì tôi đến trước, chặn đầu nó, tôi hô lớn: "Nhân danh Chúa ta truyền cho mày ra khỏi người này ." Nói thế xong, nó bỏ mà ra khỏi. Cô ta trở lại bình thường. Đấy, như thế mà cha bảo là bệnh tâm thần à? Tâm thần làm sao chui qua lọt dưới hàng ghế quỳ này?
Trong nhà thờ vắng, nghe cha kể chuyện, ngài chỉ cho tôi chỗ cô ta trôi trên mặt sàn nhà thờ. Tôi thấy rợn người. Tiếng sửa nhà, đập tường ầm ầm ngoài cuối, phía bên nhà xứ vọng vào. Trời tháng bảy đang mùa hè, nhà thờ rộng mênh mông, mang chút gió miệt vườn buông qua cửa sổ nên không nóng lắm. Tôi đứng nhìn lòng nhà thờ sâu thẳm lên gian cung thánh. Nhờ chiếc bóng đèn cực mạnh trên trần chiếu xuống, tượng Chúa chịu nạn trên thánh giá sáng rõ. Ròng rã mấy tháng trời linh mục 74 tuổi đang ngồi trước mặt tôi kia đã vất vả thách thức với Satan trong ngôi nhà thờ này. Bất chợt tôi nhớ đến một truyện ngắn đã viết gần chục năm về trước, in trong tập truyện ngắn Đường Về Thượng Trí, câu chuyện mang tựa đề "Đêm Satan, Đêm Đức Tin ."
Ngày đó tôi viết truyện ngắn này xảy ra như một thách thức giữa quyền phép Satan và đức tin của linh mục. Hai bên chiến đấu với nhau trong một ngôi nhà thờ. Truyện chỉ là tiểu thuyết giả tưởng. Không ngờ hôm nay tôi đang đứng trước một cha già 74 tuổi, người đã thực sự đương đầu với Satan. Chuyện đã thật sự xảy ra trong ngôi thánh đường này. Và cha đã cho tôi biết ngài toát mồ hôi trong cuộc đương đầu với Quỷ, sau cùng cha đã chiến thắng bằng đức tin mà thôi.
Nhớ lại câu chuyện ngắn mình đã sáng tác, tôi càng thú vị khi quay phim và phỏng vấn cha già về chuyện thật đã xảy ra nơi tôi đang đứng đây. Trong truyện ngắn, tôi mô tả Satan có một quyền năng không nhỏ. Trong chuyện thật xảy ra ở đây, cha già kể tôi nghe, quỷ nhập nơi người con gái này cũng thế. Cha nói:
- Mới đầu tôi rẩy nước phép, nó sợ. Tôi dí thánh giá vào nó, nó thụt lùi. Tôi lấy giây Stola, giây các phép truyền nó phải ra, nó hốt hoảng. Nhưng mà cha biết không? Sau một thời gian nó không sợ nữa. Có đời nào tôi đưa giây các phép, nó lấy đặt xuống đầu làm gối ngủ. Tôi kinh hoàng, không biết làm cách nào trừ nó. Mấy tháng trời ròng rã, trừ được nó ra rồi nó lại nhập vào cô ta, cứ như thế không chịu đi. Tôi lo quá không biết làm thế nào. Nhà nước, công an, dân chúng cứ xô tới theo dõi câu chuyện. Tôi bảo với Chúa, chết con mất, người ta đang chờ đợi nơi con trong cuộc trừ quỷ này. Tôi toát mồ hôi. Cũng sợ chứ. Tôi không biết làm sao.
Trong truyện ngắn tôi viết, tôi kết một cách bỏ ngỏ, tôi không để cho Satan thắng, vì nếu thắng thì còn đâu niềm tin nơi linh mục và ơn Chúa. Nhưng tôi cũng không kết là linh mục thắng môt cách trọn vẹn vinh quang. Tôi muốn kết là Satan chưa bỏ cuộc, nó sẽ trở lại. Và cuôc chiến còn dài, nghĩa là linh mục trong truyện ngắn đó, nếu muốn thắng quỷ, đời ngài phải là một cuộc chiến không ngừng và phải bám vào Chúa liên lỉ. Điều ấy cũng đơn giản mà đúng thôi. Vì đức tin dạy tôi rằng có khi nào ma quỷ buông tay đâu, có khi nào tôi không bám vào Chúa đâu.
Câu chuyện quỷ nhập xảy ra ở nhà thờ Cái Bông, thị xã Ba Tri này cũng thế, Quỷ không muốn ra. Không phải cứ linh mục nhân danh Chúa mà truyền lệnh được đâu. Tôi thay một cuốn video mới, sáu mươi phút nữa vào máy để tiếp tục phỏng vấn. Tôi xin cha già cho tôi hỏi chi tiết kỹ lưỡng vì tôi muốn có tài liệu thật. Tôi nghĩ những tài liệu này có ích cho tôi. Nhìn tuổi già của cha, năm nay ngài đã 74 rồi. Tôi lại ở xa, đâu có nhiều cơ hội gặp gỡ. Nếu Chúa gọi ngài ra đi, tất cả bí mật sẽ mang theo xuống lòng đất.
Sau này, tôi được một người giáo dân ở đấy cho biết, cha già chịu khó cho tôi quay phim như thế là chuyện lạ lùng đấy. Ngài không muốn ai chụp hình như thế bao giờ. Trong truyện ngắn "Đêm Satan, Đêm Đức Tin" tôi viết chục năm về trước, tôi tả chân dung vị linh mục vất vả với Satan trong nhà thờ. Không ngờ chuyện thật xảy ra ở đây cha quản nhiệm cũng gian nan trong nhà thờ với nó. Trong truyện, sau cùng cũng chỉ dựa vào đức tin mà vị linh mục chống trả lại được Satan. Chuyện thật ở đây, cha quản nhiệm đã nhiều lần trừ quỷ, nó ra rồi lại nhập trở lại. Nếu rửa tội nó không hết thì sao? Đó thật là thách đố lớn. Sau này cha quản nhiệm bảo ngài lo sợ toát mồ hôi trong nghi thức Rửa Tội. Ngài bảo đã trừ nhiều lần là không hết. Nếu bây giờ Rửa Tội mà cũng không hết thì ăn nói làm sao với những người đang nhìn thách đố đố vào đạo, biết trả lẽ thế nào về niềm tin nơi giáo dân.
Cuộc phỏng vấn này với tôi mang thú vị rất riêng tư, vì chính chuyện mình giả tưởng ngày xưa hôm nay tìm được những nét đồng chung. Tôi đã tìm được kẻ trừ tà trong chuyện thực của đời sống.
Đây là câu chuyện có thật được Lm. Nguyễn Tầm Thường, Dòng Tên, thuật lại nhân kỷ niệm 5 năm ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời 1997 – 2002...
Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi tôi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu...
Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng bên vỉa đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy,1 US dollar được 25 pesos tiền Philippines.
Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, ông tráng bánh. Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford, một cha già người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào, gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ. Ông rời cửa biển Cam Ranh ngày 2.9.1988 vào đất Philippines.
Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót.
Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng ý tiếp tế gạo, cho nước và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn ông này.
Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn sống. Vấn đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không mất đứa bé, toàn ghe có thể chết.
Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất hút về phía Trung Quốc.
Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hong Kong. Ðau thương vì mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu ? Vợ chồng mỗi người một ngả. Ðứa con mất tích sẽ ra sao? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi.
Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha già gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người vào cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già nghe chuyện ông mất con. Một trong những ý định qua trại tỵ nạn làm việc của tôi là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện.
Câu chuyện bắt đầu.
Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn lại kết hợp với ít người đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường qua Hongkong.
Người đàn ông tưởng chừng vợ đã chết trên biển vì hơn ba tháng sau mới nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn Hongkong.
Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông rời trại tỵ nạn,mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ tấm giấy như một kỷ niệm quý hơn chục năm nay.
Ðó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Những lần giảng trong Thánh Lễ về tình nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông.. Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ.
Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao ngán cho ông. Bao giờ ông mới được định cư ? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước ? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Ðất Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu tìm ?
Bao nhiêu khó khăn như tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi thấy ý nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng đại dương.
-Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Ðỏ Hongkong ?
Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đình Tầu kia biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy dự tính của ông khó khăn quá.
Những năm làm việc bên cha già, tôi biết một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ gì có thể. Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu tứ chiếng.
Các thư được viết đi. Ngài cầu cứu Cao Ủy Ti Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand. Ðợi chờ mãi mà năm tháng cứ bặt tin.
Tôi vẫn thấy người đàn ông cứ dáng điệu buồn bã ngồi bên đường tráng bánh. Trời nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường bay mờ người. Hàng ngày lên Nhà Thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông ngồi không xa tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và tiếng chuông mỗi chiều là bao.
Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nhìn thấy cây Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đã nghiêng vì gỗ bị mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi.
Bức hình Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước sơn. Những người tỵ nạn đã bỏ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ biển mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Ðêm về sóng vỗ ì ầm. Biết bao người đã không tới bến.. Họ đến đâytìm an ủi trong câu kinh.
Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều bất ngờ tin vui đến.. Hội Hồng Thập Tự Hongkong báo tin về Manila. Manila điện xuống báo cho cha Crawford biết người ta đã tìm được cháu bé.
Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong lúc thương lượng bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số ghe đó mà sau này người ta mới phanh phui ra được gốc tích chiếc ghe. Ðó là một thuyền đánh cá ở đảo Hải Nam.
Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần gia đình người Tầu đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn một năm liền mọi sinh hoạt trong gia đình kia là của cháu. Hồi bị bắt cháu còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định không trả. Cao Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý do là cháu đang được nuôi nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạncháu thiếu thốn đủ thứ, họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.
Ðể thỏa mãn điều kiện kia, Sở Di Trú Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ theo. Vì nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ đồng ý. Tin vui như vậy mà ông cứ đứng như trời trồngkhông tin chuyện có thể xảy ra như thế.
Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không biết mình. Tất cả ai cũng khóc. Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm nhân loại của con người với con người.
Thời điểm bấy giờ không biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển, ăn thịt nhau vì chết đói. Hải tặc Thái Lan tung hoành bắt người nhốt ngoài đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết. Ðối với thế giới chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm ?
Ðây là lý do:
Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn Ðộ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin Bộ Ngoại giao Bắc Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như thế..
Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể chuyện này cho Sơ Bề Trên Dòng. Sơ yêu cầu tôi viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa. Một Linh Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói:
- Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ thương người nghèo. Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.
Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết về phía mình. Chính vì thế tôi đặt tên cho bài viết này là: Người Mẹ của biên giới sống và chết.
Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại nhìn, không ngờ chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng 6, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.
Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con cái thì trong trái tim cha mẹ không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn.
Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn ông này.
Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những chuyện tình này, để rồi nối kết khung trời này với khung trời kia.
Không ngờ vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999 ông đã nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở Nhà Thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.
Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi Nhà Thờ nhỏ miền quê độc nhất. Em bé chào đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay cho người khác.
Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa. Mẹ Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi người Tầu đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm lòng bao dung của những bà mẹ.
Tôi viết dòng này, cha già Crawford đã chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi. Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và chết, còn những chuyện không ngờ nào sẽ xảy đến nhỉ ?
Mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, Thanksgiving, người ta hay nhắc đến chuyện người phung cùi trở lại cám ơn Ðức Kitô trong Phúc Âm Luca.
Trên đường lên Jêrusalem, Ðức Giêsu đi ngang qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilêa. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phung cùi đón gặp Người.
Họ dừng lại đàng xa, và kêu lớn tiếng:
"Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi."
Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ:
"Hãy đi trình diện với các tư tế.” Ðang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được khỏi liền quay trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari.
Ðức Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc. 17: 11-19).
Tôi nghĩ câu chuyện tạ ơn của người phung cùi không dừng lại ở đây. Không dừng lại ở lời tạ ơn Chúa mà thôi. Nó gọi ta đến một đường cong sâu hơn và xa xôi hơn. Tạ ơn là tâm tình đòi hỏi một tấm lòng. Tâm tình này là bản phiên dịch của một nội tâm. Chính bản phiên dịch nội tâm này nói trung thực cho ta biết mình là ai.
Tôi muốn nhìn vào nội tâm người phung cùi, để đi tìm chiều kích lời tạ ơn của anh ta với Ðức Kitô. Nó đến từ một đường cong sâu xa nào? Bối cảnh văn hóa, tôn giáo, lịch sử.
Người Do Thái trong thời Chúa Giêsu không chấp nhận những người phung cùi sống trong làng. Họ phải sống cô lập ngoài sa mạc, xa xôi ngoài cánh đồng. Khi gặp Ðức Giêsu, họ cũng đứng "từ đàng xa” chứ không dám lại gần. Họ bị coi là những kẻ tội lỗi, bị Thiên Chúa giáng án phạt. Hiểu như thế mới thấy nỗi cô đơn của kẻ mang bệnh tật này. Trong thời đại ấy, người Do Thái cũng không chấp nhận chung sống với người ngoại giáo. Họ đối nghịch đến độ thù hận nhau.
Cộng đoàn những người cùi.
Theo mạch văn của đoạn Kinh Thánh, Chúa hỏi: "Còn chín người kia đâu.” Như vậy chín người kia cộng với anh cùi đến tạ ơn Chúa, tất cả mười người. Tại sao có mặt người cùi ngoại giáo trong cộng đoàn những người cùi Do Thái? Tại sao những người cùi Do Thái lại để người cùi xứ Samaria theo mình nhập bọn? Ðoạn Kinh Thánh trên tường thuật là "một người trong bọn họ.” Cụm từ "một người trong bọn họ.” Cho thấy chín người Do Thái Giáo và một người Samaria đã sống chung, đi chung một con đường, là một cộng đoàn.
Chuyện này dường như cũng không xa lạ giữa hoàn cảnh xã hội hôm nay. Trong những hành trình gian khổ, dường như người ta vượt qua mọi biên giới để sống với nhau. Có những tình nghĩa vợ chồng, khi nghèo khó, họ sống đời đùm bọc nhau. Cùng nhau đẩy chiếc xe đạp chở ngô khoai. Cùng nhau chèo một con đò, buôn thúng bán bưng nuôi con. Rồi có thể họ mất nhau khi mỗi người có một địa vị, một công ty riêng. Lúc lâm nạn, người ta vượt qua biên giới chủng tộc, tôn giáo, để cứu nhau. Rồi người ta xây nên những thành trì, những bức tường tôn giáo khi người ta có đền thờ riêng.
Tại sao trong cộng đoàn mười người cùi này lại có một người ngoại giáo. Tại sao họ chung sống với nhau?
Khổ đau dường như có một giá trị rất sâu trong câu chuyện này. Rất nhiều trường hợp, khi hết yếu đuối, hết nghèo khó, họ xa nhau. Trên đường đi tạ ơn này, chín người kia đi về một phía, người Samaria đi về một phía. Không còn một cộng đoàn những người cùi khác tôn giáo.
Với chín người cùi, họ có thể liên kết lại để cô lập người cùi Samaria. Nhưng ở đây, họ chung sống, chấp nhận người cùi khác tôn giáo này. Dường như trong cô đơn tận cùng vì bị xã hội chối bỏ, họ được đốt cháy hết những địa vị, tên gọi, và khi được bóc trần đến phẩm giá sau cùng, họ thấy họ giống nhau ở một tên gọi duy nhất là làm người.
Giá trị cùng đích sau hết vẫn là: Làm người.
Dường như tôn giáo cũng rất cần luôn luôn được thanh tẩy để khỏi bám bụi. Những giá trị ngoài nhân đức như đền thờ, tổ chức, ảnh hưởng, rất có thể đưa con người xa cách nhau.
Mọi tôn giáo đều tìm cách dạy con người ý nghĩa của cô đơn, đau khổ. Nhưng ý nghĩa đẹp nhất của đau khổ và cô đơn lại là vượt qua mọi tôn giáo để đùm bọc nhau cho con người bớt cô đơn và đỡ khổ đau.
Rồi tình yêu cũng thế. Tình yêu cũng cần thanh tẩy. Những giá trị ngoài nhân đức như nhan sắc, địa vị, vàng bạc, rất có thể sẽ đưa con người xa cách nhau. Trong đời sống, ai cũng cần chịu ơn nhau.
Phải nghèo một chút để biết xin. Phải yếu một chút để biết nương tựa.
Nhìn lại, người cùi xứ Samaria, trong "bọn họ", anh ta là thiểu số, anh chỉ có một thân, một mình.
Tôi nghĩ anh ta trở lại tạ ơn Thiên Chúa vì đời anh quen tâm tình tạ ơn rồi. Ngay những ngày sống chung với chín người kia, biết mình thiểu số mà được chấp nhận, anh ta đã sống lòng biết ơn đó. Tạ ơn là một bản phiên dịch nội tâm của anh.
Câu chuyện cộng đoàn mười người cùi được chữa lành rất đẹp vì họ đã sống với nhau. Nếu sau khi được chữa lành, tất cả đều trở lại tạ ơn Thiên
Chúa thì câu chuyện kết thúc quá lý tưởng. Tại sao chín người kia không trở lại?
Rất có thể chín người kia không quen tâm tình tạ ơn. Rất có thể họ chấp nhận người cùi Samaria như là cho ơn hơn là lãnh nhận. Tôi thụ phong linh mục năm 1989. Cũng năm này tôi được gởi qua trại Palawan, Philippines giúp đồng bào tỵ nạn. Những ngày đó, chúng tôi đã có những kỷ niệm đẹp, tôi đã viết bài "Palawan Mùa Phật Ðản", năm 1992, đăng trong báo Ðường Sống.
Năm 1995 tôi rời trại tỵ nạn. Tôi xa khúc đường trong trại, một bên có hương trầm nhà Chùa, một bên có tiếng chuông nhà Chúa. Rồi một hôm, mười năm sau, kỷ niệm lại về như nghe tiếng mõ tụng kinh quen thuộc ngày nào đó, bên Chùa. Ðó là vào ngày 28 tháng 12 năm 2004. Sau lễ
Giáng Sinh, tôi đang giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn các Sơ Ðaminh Việt Nam ở Houston. Tôi nhận được một lời nhắn trong chiếc phôn cầm tay:
Dạ, kính linh mục Nguyễn Trọng Tước.
Ðây tôi là Thích Thông Ðạt từ San Jose gọi chúc mừng trong mùa Giáng Sinh với New Year. Chúc mừng linh mục dồi dào sức khỏe. Happy Merry Christmas. Happy New Year. Dạ, kính linh mục. Khi nhận được message xin cho gặp số phôn 408-926-1998. Kính chúc mừng linh mục trong mùa Chúa Giáng Sinh cũng như đầu năm mới.
Kính linh mục.
Tôi hết sức ngạc nhiên. Một Thầy bên Chùa đã mười năm xa cách. Từ ngày Thầy rời trại tỵ nạn Palawan, bằng ấy năm không hề gặp lại nhau. Mười năm không liên lạc. Bỗng dưng Thầy tìm phôn gọi tôi, vì Thầy muốn chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Những kỷ niệm xa xưa.
Kính Thầy Thông Ðạt,
Những ngày ở trại tỵ nan, những ngày ấy chúng ta có nhiều kỷ niệm quá nhỉ. Vào mùa Phật Ðản và Giáng Sinh, năm nào chúng ta cũng có những món nợ. Chúng ta cho nhau mượn cái trống, mấy sợi giây đèn. Các em Thiếu Nhi cho nhau mượn mấy mét vải, cái đầu lân để làm văn nghệ. Chúng ta đã nợ nhau tình thương mến.
Thời gian đã xa xôi quá, như đang xóa nhòa dần đi. Bỗng dưng mười năm sau, Thầy tìm điện thoại, gọi chúc mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Mười năm là thời gian dài lắm đó Thầy ạ. Thế là tôi lại "nợ" Thầy.
Thánh Phaolô đã căn dặn các tín hữu của ngài: "Các con hãy nợ nhau tình thương mến" (Rom. 13: 8). Bây giờ chúng ta đã xa những ngày tỵ nạn cho nhau mượn cái bát, tô cơm. Thầy Thông Ðạt có thể nay đã có chùa riêng, có đoàn Phật Tử đông đảo. Chả ai phải mượn ai. Chùa của Thầy chăng rợp hoa đèn ngày lễ. Chả ai cần ai. Thầy gọi điện không là để mượn gì cả, cũng chẳng hỏi tôi có mượn cái đầu múa lân không, chỉ để chúc
mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Thầy gọi điện vì nhớ về khung trời tỵ nạn có những kỷ niệm bên bờ đời sống. Tình thương mến.
Có những cặp vợ chồng nay mỗi người là một giám đốc. Chẳng ai phải nhờ ai. Có những anh em, không ai phải cậy ai. Xa những ngày nghèo túng rồi. Không ai phải dựa ai. Ðầy đủ. Mà sao cứ như có nỗi vắng trong lòng.
Hay là người ta thiếu nhau món nợ tình thương mến? LM Nguyễn Tầm Thường, S.J. - Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình
Có nhiều thứ trầm hương, hương dâng trong đền thờ Phật, trong đền thờ Chúa. Kho tàng văn chương tu đức Ðông Phương, có câu chuyện kể về hương trầm như sau:
Làng kia có ngôi chùa. Dân trong làng đem tượng Phật của mình đến để trong chùa. Ngày rằm, người ta đến dâng hương Ðức Phật. Trong số các tín nữ đến chùa có bà quê nghèo không tiền mua nhang. Trong số các tín nữ ấy, có bà mang theo hương quả. Bà để ý thấy bà quê kia không bao giờ mang hương lạy Phật. Dần dần bà đem lòng khó chịu.
Cứ khi đốt nhang lên tượng Phật của bà, bà quê kia liền lạy theo. Với cái khó chịu, bà nghĩ rằng bà quê kia keo kiệt, chỉ chờ người khác dâng nhang là lạy ké. Bà đâm lòng ghét bỏ. Suy nghĩ mãi, lần sau đến chùa, bà mang theo kế hoạch. Trước khi đốt nhang, bà lấy tàu lá đu đủ làm thành ống dẫn hương đổ lên mặt Ðức Phật, đầu kia bà lấy cái phễu gắn vào. Bà chỉ lạy nhang cho bay vào cái phễu để lên mặt Ðức Phật của bà, không cho hương thoát sang tượng Phật bà kia. Lạy xong, nhìn lên, bà thấy sao mặt Ðức Phật của bà mặt mày đen đủi, hai lỗ mũi đen kịt khói. Còn tượng Phật của bà quê kia vẫn cứ đẹp đẽ sáng ngời.
Trong kho tàng tu đức nhà Ðạo, sách tiên tri Isaia viết:
“Chúa phán: Muôn vàn hy lễ có lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo nữa. Khi các ngươi đến trước mặt Ta ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta? Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những tế lễ vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác. Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó làm khổ Ta. Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Khi ngươi giơ tay các ngươi lên thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời vì tay các ngươi vấy đầy máu. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy hãm dẹp khỏi mặt Ta các tư tưởng xấu xa” (Is. 1:10-20).
Trầm hương dâng Phật hay Chúa phải là nén hương lòng. Của lễ nào vào đền thánh phải siêu thoát từ con tim. Hôm nay có nhiều thứ hương trầm, nhiều thứ của lễ lắm.
Ðầu tháng hoa, nếu ba cộng đoàn hợp nhau rước kiệu, kiệu nào đi trước? Nhóm mình hay nhóm kia? Kiệu Ðức Mẹ Lộ Ðức hay La Vang, Fatima hay Hằng Cứu Giúp?
Sự cạnh tranh, thiếu siêu nhiên dường như nó bàng bạc khắp nơi. Có đông người, nhiều của lễ là có so sánh. So sánh thì có hơn thua. Hãnh diện thì cũng có không hãnh diện. Thành công thì cũng có kém thành công. Tiếng khen thường nằm cạnh tiếng chê, cho dù tiếng chê ấy không nói ra. Nó âm thầm mà khó chịu.
Một con người ba khuôn mặt.
Vì sao trong việc thờ phượng, người ta lại cạnh tranh như thế? Có lẽ cái thiếu thức tỉnh của cuộc sống đưa đến nỗi xấu xa ấy. Mỗi người đều sống với ba khuôn mặt này: Kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Con người kinh tế: Ai cũng cần của ăn, áo mặc, nhà ở. Nghèo thì khổ. Nghèo không thể tiến thân. Muốn có nhiều tiền, phải cạnh tranh. Tôi không khá hơn, người kia sẽ chiếm mất, lấn át tôi. Hai tiệm ăn gần nhau, muốn tiệm mình có nhiều khách, tiền vào nhiều hơn, phải cạnh tranh. Chiếm được khách bên kia là ưu tư của mình. Bất cứ gì đụng tới vật chất, tiền bạc, kinh tế đều chạm tới cạnh tranh.
Con người chính trị: Nếu tôi không mạnh, người khác sẽ xâm lăng. Kẻ có quyền là người có miếng. Tôi phải quen biết người có thế lực để cậy nhờ. Tôi cần có thế lực để gây ảnh hưởng. Nếu tôi không cai trị người, người sẽ cai trị tôi. Xã hội nào cũng mạnh được yếu thua. Cá lớn nuốt cá bé. Quyền lực đến từ nhu cầu sống còn, nó nằm sâu trong bản tính con người. Ai cũng muốn quyền lực.
Con người tôn giáo: Tôn giáo đi tìm thế giới siêu nhiên, đưa con người đến những liên quan tới Trời. Tôn giáo mời gọi con người đến giá trị chân thật của lương tâm. Hiểu như thế, tiếng gọi của tôn giáo nào cũng đẹp, niềm tin tôn giáo nào cũng đáng mến và con người tôn giáo nào cũng đáng yêu.
Ba khuôn mặt trong đền thờ.
Ai cũng đều mang cả ba bộ mặt kinh tế, chính trị, tôn giáo trong một con người. Khi con người tôn giáo bước vào đền thờ, bước vào chung với cả hai khuôn mặt kia: Kinh tế và chính trị. Họ vừa buôn bán ngoài đường phố ban sáng, vừa âm mưu một ý định chính trị ban trưa, chiều nay bước vào đền thờ dâng hương, không thể để con người chính trị và kinh tế ở nhà. Chiều nay bước vào đền thờ, họ bước vào với cả ba khuôn mặt. Từ đó nảy sinh một cách vô ý thức là tôn giáo, kinh tế và chính trị lẫn lộn với nhau. Rồi tôn giáo bị sự canh tranh của hai con người kia điều khiển, xúi đẩy.
Người ta đem cạnh tranh trong kinh tế vào tôn giáo. Ðem cạnh tranh trong quyền lực vào tôn giáo. Cho nên xứ đạo mình phải tổ chức linh đình hơn xứ đạo kia. Tìm cách lôi kéo người khác vào phong trào mình để phong trào này đông hơn phong trào nọ. Ðạo mình phải nổi hơn đạo khác. Ðền thờ này thiêng hơn đền thờ kia. Từ đó, tượng Ðức Phật bị dơ do lòng con người dâng những áng hương hẹp hòi nhỏ mọn. Từ đó, tượng Chúa kêu than thành tiếng: “Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta. Ta nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).
Thực tế cho thấy, thu xếp sao cho các ca đoàn trong giáo xứ hát chung với nhau trong một lễ trọng đã là khó rồi! Nhỏ như vậy, đã vương khói u ám, thì những công trình liên họ đạo, liên địa phận còn khó như thế nào. “Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương.” Không có tấm lòng siêu thoát, tất cả thờ phượng tôn giáo chỉ là những làn khói đen chứ không còn là hương trầm. Số phận của những con người làm nên nó đã được nhắc đến trong ngôn sứ Isaia: “Khi các ngươi giơ tay lên thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời. Vì tay các ngươi vấy đầy máu.”
* * *
Thay vì con người tôn giáo phải hướng dẫn con người tiền bạc và con người quyền thế, hôm nay, dường như con người tôn giáo đang thu nhỏ lại trước hai con người kia. Từ đó, hương khói trong đền thánh không còn là áng hương lòng, nó là u uất của những làn khói đen vì cạnh tranh nhau.
Cạnh tranh trong tôn giáo làm cho đời sống tâm linh nhỏ nhoi. Khi cuộc sống tâm linh nghèo nàn, tâm hồn ấy không còn bình an nội tại và niềm vui nữa. Chung quanh cuộc đời sẽ bị giằng co bằng cạnh tranh, họ băn khoăn làm sao hơn người. Cạnh tranh dẫn đến lo âu. Cạnh tranh dẫn đến buồn vì sợ người khác nổi hơn mình. Trong khi thánh Phaolô nói rõ “hoa trái của Thánh Thần là bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal. 5:22).
Cạnh tranh trong sinh hoạt tôn giáo là sự ngột ngạt của những làn khói đen che kín tâm hồn. Của lễ dâng Chúa trong sự cạnh tranh, bấy giờ trở thành thờ cúng ngẫu tượng. Chính vì thế tiên tri Isaia đã nói bằng ngôn ngữ rất mạnh. Thiên Chúa ghê tởm những của lễ đó. Thiên Chúa nhàm chán chịu đựng. Thiên Chúa khổ tâm.
Thấy mình không vui vì người khác được ca ngợi, thấy mơ hồ sự ghen tị, thèm muốn cạnh tranh trong việc tông đồ, lúc đó, ta cần đọc lại những lời này:
“Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác. Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta. Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20). LM Nguyễn Tầm Thường, SJ.
(Suy niệm mùa chay 2015) Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết. Làm gì có sự chết nếu không có sự sống. Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời. Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết. Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi. Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau. Trong lớn lên đã có mầm tan rã. Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ. Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết. Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề. Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến. Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết. Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không? Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi. Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi. Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết. Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết. Trong dòng đời, tôi không sống một mình. Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu. Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình. Chẳng ai đi với tôi. Vì thế, chết mang mầu ly biệt. Sống là hướng về tương lai. Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh. Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy. Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại. Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc. Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi. Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra. Mà cũng có thể là một thứ nô lệ. Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng. Mà tận hưởng là gì? Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm? Tích lũy? Kinh Thánh kể: Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”. Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải”. Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì? Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa. Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21). Không ai sống hộ tôi. Không ai chết thay tôi. Không ai đi cùng tôi. Tôi sẽ ra đi lẻ loi. Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người. Có thể đôi khi họ nhớ tôi. Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia. Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt. Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại. Chết là mất tất cả. Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54). Chết là đi về sự sống vĩnh cửu. Chết là gặp gỡ. Gặp Ðấng tạo nên mình. Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi. Chết là điều kiện để sống. Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu? Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa. Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề. Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa? Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà. Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con. Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình. Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi. Hôm nay hay ngày mai? Mùa thu này hay mùa xuân tới? Con âu lo. Nhưng vì sao phải lo âu? Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang. Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa. Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn. Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an. Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương. Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi. Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao. Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm. Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được. Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá. Chung quanh có biết bao mời mọc. Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa. Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai. Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao? Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không. Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá. Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa. Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16). Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao. Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.
Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá. Con không biết con can đảm đến đâu. Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi. Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi. Thập giá nào thì cũng có đau thương. Con không muốn thập giá. Vì thập giá làm con mang thương tích. Chúa cũng đã ngã. Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống. Chúa đã chết. Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết. Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa. Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết. Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết. Con muốn chết để được sống. Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự. Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.
Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con. LM Nguyễn Tầm Thường, SJ – Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc
Những bài ca nói về ngọt ngào của tình yêu hay nhắc đến kỷ niệm. Những bài thơ viết về hạnh phúc cũng thường mang hình ảnh của quá khứ. Những tìm về con đường cũ vết chân xưa. Sân ga thủa nào hẹn hò. Chiều Giáng Sinh lần đầu gặp gỡ. Tất cả là kỷ niệm. Kỷ niệm là hành ảnh ghi lại những yêu dấu đã buông cánh đậu xuống đời mình. Nhưng, cũng có những bài thơ buồn nhắc nhở một dòng nước mắt. Cũng có những nốt nhạc sầu âm vang một dang dở. Những nước mắt, những dang dở cũng là kỷ niệm. Như thế, kỷ niệm là con đường hai chiều: một lối xuôi hạnh phúc, một nẻo nhongược đau thương.
Tờ thư cũ. Tấm hình năm xưa. Kỷ niệm và kỷ niệm. Tuổi học trò có kỷ niệm của sân trường. Tình yêu vợ chồng có kỷ niệm của hôn nhân. Kỷ niệm ở khắp nơi. Ai cũng có kỷ niệm. Ai cũng có lúc sống với kỷ niệm. Ðã như thế, nơi nào có con người là có kỷ niệm.
Kỷ niệm không bao giờ nhắc đến con người nhưng con người lại hay nhắc đến kỷ niệm. Chính con người tạo nên kỷ niệm, chứ kỷ niệm không bao giờ hiện hữu độc lập. Mặc dù con người tạo nên kỷ niệm, nhưng sự yếu đuối của con người trước kỷ niệm là khi sinh ra kỷ niệm rồi thì con người lại bị kỷ niệm chi phối. Một khi kỷ niệm ra đời rồi thì khó mà chối bỏ được sự có mặt của chúng. Và kỷ niệm lại có quyền năng không ngờ: con người không giết được kỷ niệm, nhưng kỷ niệm lại có thể giết được con người.
Kỷ niệm là một gạch nối. Kỷ niệm là một lối đi về để tôi có thể đến được với người và người đến với tôi trong không gian xa cách, trong thời gian chảy xuôi. Kỷ niệm là lối đi về, là sự nhắc nhở giữa hai người. Ðã là nhắc nhở thì tùy sợi giây liên hệ ấy thơ mộng hay vụng về, thân ái hay oán trách mà hai người có kỷ niệm đẹp hay đau buồn.
Cái kỳ diệu và cũng là bi đát của con người là con người sống trong hiện tại nhưng lại có thể mơ ước tương lai và kéo cả quá khứ tới. Chính vì thế mà sống hiện tại, nhưng đau nỗi đau của quá khứ và lo nỗi lo của tương lai. Chính cái khả năng vượt thời gian này mà mới có kỷ niệm. Nếu không sống lại được quá khứ thì sẽ không có kỷ niệm. Do đấy, kỷ niệm có thể là hồng ân mà cũng là ngục tù.
Vì khả năng có thể kéo quá khứ tới hiện tại nên người ta có thể đem những kỷ niệm đẹp năm xưa làm hành trang cho hôm nay. Và cũng có thể là ngục tù nếu kỷ niệm đó là những kỷ niệm buồn. Con người không thể chỉ sống hướng tới tương lai. Quá khứ đã làm nên đời họ, luôn luôn nhắc nhở họ. Cánh cửa thời gian vật lý đã đóng kín, nhưng cánh cửa tâm lý của con tim chẳng chịu im lìm. Nó không ồn ào nhưng vẫn thăm thẳm sâu. Khi quay về quá khứ, họ sẽ không sáng tạo được kỷ niệm nữa, mà chỉ nhìn ngắm kỷ niệm và để kỷ niệm tham dự vào đời mình mà thôi. Con người bất lực trước quá khứ. Nhưng quá khứ không hẳn là bất lực trước con người. Chẳng thể lẩn tránh được kỷ niệm thì chỉ còn lối đi đẹp nhất là hãy xây dựng những kỷ niệm đẹp.
Một cánh thư viết thăm mẹ. Một món quà tặng nhau. Một dòng chữ cám ơn thầy, cô dạy cũ. Ðơn sơ nhưng đều là những kỷ niệm hồng có giá trị hạnh phúc dọc theo thời gian của một cõi lòng. Có những kỷ niệm êm đềm cho nhau bóng mát thì cũng có nhiều kỷ niệm đã giết chết bao tâm hồn. Ðưa dằn vặt câm nín đến đời nhau. Hối tiếc phũ phàng. Dọc theo thời gian còn lại của họ là nỗi đắng. Kỷ niệm là những hạt mầm đã gieo xuống hôm nay sẽ trổ sinh ngày mai. Có thể là quả ngọt, có khi là trái đắng.
Khó mà xóa nhòa được kỷ niệm. Nó có thể hằn sâu đời đời. Bởi đó, gieo kỷ niệm đau buồn cho nhau là có thể hành hạ nhau cả một tương lai. Tặng nhau những kỷ niệm đẹp là sắm sẵn cho nhau bóng mát hạnh phúc trong những ngày sắp tới. Vì kỷ niệm có quyền năng như vậy, nên khi trao tặng nhau kỷ niệm, những kỷ niệm đó phải là những kỷ niệm hồng.
*****
Thánh Kinh có nói đến kỷ niệm. Con người mong muốn những kỷ niệm đẹp. Nhưng Chúa lại là người yêu thích kỷ niệm hơn ai hết. Trước khi chia ly, bữa cơm chiều hôm ấy Chúa đã trao kỷ niệm cho các môn đệ của Ngài. "Này là mình Ta, các con hãy lãnh nhận ... để nhớ đến Ta" (Lc 22, 19). Cho kỷ niệm để nhớ nhau. Kỷ niệm là một nhắc nhở để tình thân ấy đẹp mãi, đẹp thêm. Chúa cũng yêu quý kỷ niệm thì con người cũng cần kỷ niệm để giữ ấm đời nhau.
Chúa đã chuẩn bị bao nhiêu năm trời để trao tặng kỷ vật cho con người. Chúa đã coi tặng vật như một giá trị vô cùng thiêng liêng nên đã dành vào giờ quan trọng nhất là giờ trước khi Chúa chết. Chúa cũng đã chọn một tặng vật cao quý nhất để tặng con người, đó là bữa Tiệc Ly, Chúa lập phép Thánh Thể.
Sự việc Chúa lập phép Thánh Thể được coi như một trong những cao điểm quan trọng của Phúc Âm. So sánh bốn Phúc Âm, ta thấy một sự khác biệt rất lớn. Cả ba Phúc Âm Máccô, Mátthêu, Luca đều nói tới bữa Tiệc Ly, nhưng lại không đề cập đến việc Chúa rửa chân. Còn Phúc Âm Gioan, trái lại, chỉ nói đến việc Chúa rửa chân cho môn đệ, nhưng lại không đề cập tới biến cố Chúa lập phép Thánh Thể.
Gioan muốn làm nổi bật một tư tưởng khác. Không đề cập đến bữa Tiệc Ly, nhưng người môn đệ này mở đầu cuộc loan báo Thương Khó bằng kỷ niệm Chúa rửa chân cho các môn đệ. Gioan dùng biến cố rửa chân để chuẩn bị cho giây phút trao tặng kỷ vật xẩy ra kế tiếp. Ngay khi rửa chân xong, Chúa long trọng tuyên bố gởi gắm lại di sản cuối cùng trước khi chết: "Cha chỉ ở lại với các con một ít nữa... nơi Cha đi các con chẳng thể đến được, thì này Cha nói với các con, Cha trao cho các con một kỷ vật mới là: các con hãy thương mến nhau" (Yn 13, 33). Ðối với Gioan, kỷ vật là tình yêu.
Gioan đã bỏ qua, không nói đến bữa Tiệc Ly để hết sức thâm thúy diễn tả ý nghĩa liên hệ giữa tình yêu và kỷ vật. Không có tình yêu, bữa Tiệc Ly không còn ý nghĩa. Bữa Tiệc Ly chỉ là kết quả của tình yêu. Không có tình yêu kỷ vật trở nên tội nợ. (Cor 11, 26-29).
Trong ý nghĩa đó, tình yêu phải luôn luôn đi với kỷ vật. Chính vì có tình yêu nên kỷ vật trở thành kỷ niệm của quá khứ vẫn còn sức sáng tạo cho hạnh phúc hiện tại và nối tiếp đi vào tương lai. Cũng trong ý nghĩa đó, không có tình yêu, kỷ vật chỉ là nợ nần, kỷ niệm sẽ là gánh nặng, là ngột ngạt khó thở. Người nhận kỷ niệm mà không có tình yêu là vô ơn. Kẻ tặng kỷ vật mà không có lòng mến thì kỷ niệm là thừa, hoặc đánh lừa.
****
Vì thực tế lắm lúc nghèo nàn nên con người muốn tìm về kỷ niệm, mong gặp được bóng hình hạnh phúc để xóa bớt đi nỗi khô cằn hiện tại. Nhưng đã có biết bao tâm hồn thở dài vì một quá khứ chỉ toàn kỷ niệm u uẩn. Có biết bao cõi lòng phải chạy trốn kỷ niệm, mỗi lần nhớ về kỷ niệm là vết thương càng sâu và bước chân vào tương lai càng ngần ngại. Sống trong hiện tại, con người không thể trở về quá khứ để thay đổi những gì đã xảy ra. Ðó là sự yếu đuối của con người trước quá khứ. Trái lại những gì đã xẩy ra ở quá khứ vẫn tiếp tục cắn rứt hay an ủi con người trong hiện tại. Ðó là sức mạnh của quá khứ. Tuy nhiên, đây chỉ là định luật tương đối để con người ý thức thái độ sống của mình hầu cẩn trọng gieo trồng kỷ niệm đẹp, tránh những kỷ niệm đau thương. Trong cuộc sống, nhiều trường hợp đã xẩy ra, tôi không gieo kỷ niệm gai góc nhưng nó vẫn xẩy tới do sai lầm của tha nhân, hay sự khờ dại của chính tôi.
Như vậy, tôi bất lực trước tàn phá của kỷ niệm u buồn?
Trong thực tế, có phần đúng, nhiều người đã bất lực trước kỷ niệm đau đớn. Vì không trốn nổi, kỷ niệm đã giết chết họ bằng con đường tự tử. Giuđa hôn Chúa. Nụ hôn phản bội đã là kỷ niệm bất hạnh dẫn đến cõi chết. Con người không thay đổi được sự kiện của quá khứ. Một mùa thu qua rồi là một mùa thu không thể thêm một cánh lá rơi. Kỷ niệm là kỷ niệm. Trọn vẹn. Dứt khoát. Kỷ niệm trong quá khứ ảnh hưởng đến hiện tại của tôi. Nhưng, tự nó, kỷ niệm không hiện hữu độc lập mà phải có con người dựng nên nó. Thì cũng vậy, nó không thể ảnh hưởng đến tôi như một sức mạnh toàn năng, mà vẫn chịu sự chi phối của suy tư và tự do của tôi đối với nó. Ðời sống tội lỗi của Augustino trong những ngày ăn chơi ở kinh thành Paris không phải là những kỷ niệm đẹp. Nhưng Augustino đã thành thánh nhân. Trong thực tế, nhiều người không chịu đựng nổi sự tàn phá của kỷ niệm buồn. Nhưng, cũng trong thực tế, nhiều tâm hồn đã vượt thắng.
Làm sao để xóa nhòa những kỷ niệm buồn?
****
Sự khác nhau giữa một tâm hồn đã vượt thắng được những kỷ niệm thương tích và kẻ để cho thương tích dằn vặt là một cõi lòng đi tìm những kỷ niệm đẹp hơn, là một cõi lòng mở rộng cho một kỷ niệm mới. Tôi không thể tránh được những kỷ niệm đau buồn. Nhưng mầu nhiệm trong cuộc đời là tôi có khả năng để mơ những kỷ niệm đẹp hơn và khả năng sáng tạo những kỷ niệm mới. Khi đạt được những kỷ niệm đẹp hơn rồi thì những kỷ niệm buồn trong quá khứ, không hẳn là mất, nhưng phai mờ. Khi chưa đạt được thì tôi cũng đã trên đường đi tìm kỷ niệm đẹp, điều đó cũng có nghĩa tôi đang trên đường từ giã những quá khứ u uẩn. Trên con đường từ giã những kỷ niệm u uẩn cũng hàm ý là tôi không hoàn toàn bị nô lệ quá khứ.
Kỷ niệm đẹp không phải là thành công vật chất mà là sự tươi mát của tâm hồn. Nói về hy vọng và đi sáng tạo những kỷ niệm đẹp hơn, thì con người, một là đạt được, hai là chưa đạt được, chứ không bao giờ có nghĩa là không bao giờ đạt được.
Tại sao?
****
Vì thời gian là tình yêu của Chúa cư ngụ. Chúa không bao giờ rải gai trong tương lai cho tôi vấp ngã. Một tâm hồn mở rộng cõi lòng để tìm kỷ niệm mới, họ sẽ gặp: "Ai tìm thì sẽ thấy. Ai gõ, cửa sẽ mở cho" (Lc 11, 9-10). Thời gian là Nước Chúa. Trong Nước ấy: "Kẻ mù nhìn thấy, kẻ què đi được, người phong hủi được chữa lành, kẻ điếc nghe thấy, người chết sống lại và người nghèo khổ được nghe rao giảng Tin Mừng" (Lc 7, 22-23). Vì thế, trong Nước Chúa, tôi còn cả một vũ trụ mênh mông để sáng tạo những giấc mơ đẹp, xóa đi những kỷ niệm buồn. Biết tôi một khi đau khổ vì kỷ niệm đen tối rồi sẽ sợ hãi và nghi ngờ tương lai, nên Chúa đã bảo đảm: "Cha ở với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20).
Lời hứa trên đây phải hiểu trong toàn mạch văn của thánh Mátthêu. Trong chương mở đầu Phúc Âm, thánh sử giới thiệu bản tính của Thiên Chúa là làm người để ở với nhân loại: "Một người nữ sẽ sinh con và người ta đặt tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng tôi" (Mt 1, 23). Rồi những dòng chữ sau cùng, thánh sử đã kết thúc Phúc Âm cũng bằng tư tưởng đó: "Cha ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Tư tưởng mở đầu và kết thúc của một quyển sách nói lên tính cách quan trọng độc nhất mà toàn bộ cuốn sách nhắm tới. Thánh sử muốn làm nổi bật chân lý Chúa đi song hành với con người.
Bởi đó, tương lai là sự chờ đợi Chúa. Nơi Ngài là một vũ trụ mênh mông để tôi mở lòng cho những kỷ niệm tươi đẹp hơn.
****
Chúa đã đề cao giá trị của tặng vật và kỷ niệm. Chúa đã cho con tặng vật đẹp nhất là chính Chúa. Xin giúp con cố gắng đem kỷ niệm đẹp đến cho người. Một hy sinh trao tặng nhau hôm nay là một kỷ niệm có thể nẩy sinh nhiều an ủi cần thiết cho một lúc trống trải nào đó của một tâm hồn.
Và, xin Chúa cũng hãy nhắc nhở con luôn luôn khôn ngoan gieo xuống đời mình những kỷ niệm đẹp hôm nay để ngày mai con khỏi dằn vặt hối tiếc. LM Nguyễn Tầm Thường, SJ.
1 Tĩnh tâm là những ngày nhìn lại linh hồn mình, xét xem tôi đang đi về đâu, ý nghĩa cuộc đời, để rồi chìm sâu hơn nữa trong đời sống tìm kiếm ơn thánh. Trong những ngày này, người tĩnh tâm thường đặt câu hỏi làm sao tôi có thể nghe tiếng Chúa nói.
Trong cuộc sống, người ta rất thường phân vân, đâu là tiếng Chúa, đâu là tiếng của chính mình. Khi phải quyết định một vấn đề gì đó hệ trọng, họ tới nhà cầu nguyện, mong nghe được tiếng Chúa dạy. Họ cầu nguyện nhưng phân vân, rồi vẫn không biết làm sao quyết định.
Nghe là một nghệ thuật không dễ. Học một ngôn ngữ bao giờ cũng cần có thời gian. Phải nghe nhiều lần mới quen. Nghe trong định nghĩa bình thường là âm thanh vật lý vang lên, rồi truyền qua những làn sóng mà đến các thần kinh của tai. Thần kinh ghi những ký hiệu này, cất trong ngăn kéo của máy tính não bộ. Khi gặp lại âm thanh ấy thì não bộ cho nó một nhận định và một giá trị. Việc nhận định càng dễ nếu bão bộ càng quen âm thanh này. Nghĩa là âm thanh ấy được lập đi lập lại nhiều lần.
Tập nghe để phân biệt âm thanh này với âm thanh khác cũng đã khó. Nhưng nghe âm thanh là tiếng nói của lòng thì bước sang một chiều sâu hơn nữa rồi. Vì tiếng nói của lòng không là âm thanh vật lý, nó thiêng liêng, vô hình. Cũng tiếng cười, nhưng ý của nó có thể không làm vui, mà là mỉa mai, riễu cợt. Hiểu tâm hồn nhau là một tiếng nghe đòi nghệ thuật trong đó có yêu, có hy sinh, có tế nhị, có mình muốn thuộc về người đó. Vì thế mà có khi sống bên nhau chẳng hiểu ngôn ngữ của nhau.
Mẩu đối thoại giữa ba người, Đức Kitô, ông Tôma và Philipphê cho thấy sự lúng túng về loại ngôn ngữ này.
Chúa nói: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”
Ông Tôma thưa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?”
Đức Kitô đáp: “Thầy là đường, là sự thật, là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”
Ông Philipphê đáp: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chũng con mãn nguyện.”
Đức Kitô đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Yn 14:1-9).
Chúa nói là Chúa đi đâu thì các ông ấy biết đường rồi. Nhưng tôma lại thưa các ông ấy không biết Chúa đi đâu. Các ông muốn biết Chúa Cha, Chúa Yêsu lại bảo ở với nhau lâu vậy rồi mà chưa biết được ư.
Cuộc đối thoại cứ như mỗi người nói một nẻo.
Đọc lại mẩu chuyện đối thoại ấy để thấy nghe là một công trình phải luyện tập, phải có thời gian, phải quen nhau nhiều. Nghe người nói với người đã không dễ, bây giờ nghe Chúa nói là tiếng nói vô âm thanh thì làm sao nghe.
Khó, nhưng không có nghĩa là không nghe được. Tiếng nói tình yêu thường là tiếng nói bằng con tim hơn bằng ngôn ngữ. Khi hai người thương nhau, họ nói một thứ ngôn ngữ riêng, không theo định nghĩa của tự điển nữa. Họ nói bằng ánh mắt. Họ hiểu bằng tâm tư. Họ ngỏ ý bằng một chút hờn. Họ muốn người khác bắt ý bằng một chút giận. Đó cũng là một thứ ngôn ngữ không có âm thanh. Như vậy, ngôn ngữ của Chua cũng có thể nghe, cũng có thể hiểu. Một biến cố đau khổ xẩy đến có thể như cái trách của Chúa gởi cho ta một nhắc nhở. Một chút cắn rứt lương tâm có thể so sánh như một sự dỗi hờn của hai người đang thương nhau.
Trở lại vấn đề nghe là một nghệ thuật phải luyện tập, ta thấy yếu toío quan trọng nhất là phải quen với ngôn ngữ ấy. Vì thế, cứ đợi khi có một vấn đề gì đó rồi mới hỏi Chúa thì e rằng khó hiểu được ngôn ngữ của Ngài. Dụ ngôn người chăn chiên và đàn chiên cho ta hình ảnh khá rõ về nghệ thuật nghe này. Ta có thể chia đàn chiên làm ba loại: Một loại không quen ngôn ngữ của chủ, một loại chỉ nghi ngờ tiếng nói của chủ, một loại nhận ra tiếng chủ ngay.
Không Quen Ngôn Ngữ
Tiếng gọi trong đêm là tiếng gọi gian nan. Không biết ai gọi. Không biết từ đâu đến. Một lúc nào đó bất ngờ có tiếng gọi tên mình. Trong đêm tối, con chiên này bừng dậy. Kẻ cắp giấu mặt cho khỏi bị nhìn. Tên trộm nào cũng ưa bóng tối. Bầy chiên đang ngủ ngon, bỗng có tiếng gọi. Hạng chiên không quen ngôn ngữ của người chăn là loại không khi nào gần chủ, không nói chuyện với chủ. Trong đàn chiên, chúng là những con chạy ở cuối đàn.
Đúng ra, nó không phải là những con chiên theo chủ mà là chỉ lẽo đẽo theo đàn chiên để sống nhờ. Bởi đó, trong đêm, khi kẻ trộm giả vờ tiếng người chăn mà gọi thì chúng không thể phân biệt được.
Một người không có đời sống cầu nguyện nhiều cũng giống như vậy. Trong đêm tối của xã hội, họ không phân biệt được đâu là tiếng nói của sự thật, đâu là ngôn ngữ nguỵ biện đánh lừa lương tâm. Hạng chiên không bao giờ gàn chủ thì khi gặp thử thách trong tiếng gọi giữa đêm khuya chúng sẽ bị kẻ cắp đánh lừa. Một linh hồn thiếu đời sống nội tâm kết hiệp qua cầu nguyện, họ cũng dễ bị lừa như thế trong những phán quyết của tiếng nói lương tâm. Loại lương tâm này khi thấy một lời mời quyến rũ, say mê là hành động ngay, không phân biệt được phải trái. Nghi Ngờ Tiếng Người Chăn
Loại thứ hai này khá hơn. Những con chiên này phân vân nhiều khi nghe tiếng gọi. Chúng sẽ suy nghĩ chứ không vội chạy theo, nhưng rất khó mà quyết định. Loại chiên này đôi khi gần chủ nên cũng nghe tiếng chủ, nhưng vì không gần chủ nhiều, nên lúc nghe, lúc không. Có nói chuyện với chủ, nhưng ít thôi. Không quen tiếng chủ lắm nên trong đêm khuya chúng phân vân, lưỡng lự, khó phân biệt nổi. Giống người mới bắt đầu học một ngôn ngữ, hiểu lầm, hiểu không hết ý của người nói là chuyện thường. Nếu con chiên này nghe tiếng gọi trong đêm mà vẫn ở lại trong đàn cũng là cầu may, chứ không có một thái độ tri thức dứt khoát.
Người lâu lâu mới cầu nguyện, có việc mới chạy tới Chúa cũng giống như vậy. Có nghe tiếng Chúa mà không rõ lắm. Họ phân vân không biết có phải tiếng Chúa hay là mình nói mà thôi. Vì thế, những quyết định của họ rất nửa chừng. Tâm hồn họ không hẳn là muốn ở lại trong tội, nhưng cũng chẳng hân hoan lên đường. Một khi không dứt khoát thì không đủ năng lực hành động, nên đời sống thiêng liêng mệt mỏi. Nhận Ra Tiếng Chủ
Không tên trộm nào lừa được loại chiên sau cùng này. Tiếng gọi bất chợt vang lên trong đêm. Nó giật mình dậy, nghe xong, nó nhận định rồi tiếp tục giấc ngủ bình an. Nó biết ngay tiếng giả đó là của bóng tối. Loại chiên này ngày nào cũng nói chuyện với chủ, ngày nào cũng nghe âm thanh người dẫn mình đi, nên chúng quá quen rồi. Không tiếng nói nào bắt chước tiếng chủ được. một tiếng gọi vang lên, nó phân biệt ngay đấy là tiếng chủ hay tiếng người lạ.
Ma quỷ cũng như những tên trộm chiên, chúng đợi đêm tối là lúc lương tâm phải lựa chọn những hướng đi mà đến xúi giục ta. Bóng tối có những luận cứ tinh vi, những lý do xem ra rất chính đáng. Người có đời sống kết hiệp với Chúa thì nhận ra ngay đâu là con đường phải đi. Họ có những quyết định chính xác, đúng. Bóng tối khó mà lừa được những tâm hồn này.
Để nghe tiếng Chúa, yếu tố đầu tiên phải lưu tâm là một trái tim sạch tội. Điều này ta cảm nghiệm rõ là sau mỗi lần nhận bí tích hoà giải, ta thấy tâm hồn thanh thản, vui tươi. Vì thế, nếu một tâm hồn muốn hỏi Chúa, muốn nghe tiếng Ngài, linh hồn đó cần phải thanh tẩy linh hồn, đến gặp gỡ Chúa trong bí tích hoà giải trước đã. Gĩư một trái tim sạch tội, rồi sau đó mới hy vọng dễ nhận định tiếng Chúa nói qua lương tâm.
Trước một quyết định quan trong trong đời sống, như ngày truyền chức, ngày nhận một sứ vụ quan trong, Giáo Hội khuyên những người này phải tĩnh tâm. Các tu sĩ theo luật, hàng năm phải tĩnh tâm.
Tĩnh tâm là những ngày cầu nguyện đặc biệt hơn, nhiều hơn. Cứ hàng tháng, hàng năm lập đi lập lại nhiều lân tĩnh tâm như thế để tâm hồn ấy quen cách nói chuyện. Khi quen rồi, lúc phải quyết định một điều gì trong đời sống, tâm hồn này dễ vững tâm, bình an. Khi cuộc sống đi sai đường sẽ dễ nhận ra.
Tĩnh tâm là phương pháp sư phạm học nghe ngôn ngữ thiêng liêng , vì thế ai cũng cần. Nhiều người không nhận định rõ nên đến xem mình đã tĩnh tâm bao nhiêu lần để so sánh với người khác và tự cho mình một thứ “tốt nghiệp” qua những lần tĩnh tâm ấy.
Có người đi tĩnh tâm để cho biết là gì rồi sau đó thôi không tĩnh tâm nữa.
Tĩnh tâm không phải là chỉ để giải quyết một vấn đề mà là hành trình tập nghe. Tiếng Chúa có sức mạnh. Chẳng ai nghe đủ và nghe hết, bởi đó, không thể có vấn đề tĩnh tâm như một thứ “tốt nghiệp”, một thứ chứng chỉ là tôi đã đi tĩnh tâm rồi, tôi biết rồi, tôi không cần đi nữa.
Chúa dành một thời gian rất dài, 40 ngày trong sa mạc để cầu nguyện. Trong đời sống hoạt động, Chúa tiếp tục tìm nơi thinh lặng để cẩu nguyện.
“Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện” (Mt 14:23).
“Trong những ngày ấy, Đức Yêsu đi ra núi cầu nguyện, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12).
Chúa cũng bảo các tông đồ phải cầu nguyện.
“Anh em phải tỉnh thức và cầu nguyện, hầu đủ sức thoát khỏi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36) Nghe là một nghệ thuật không thể qua một buổi sớm, đến một buổi chiều mà quen. Vấn nạn con không cầu nguyện, chỉ khi cần đến Chúa, con mới đên hỏi Chúa đôi câu. Không quen ngôn ngữ của Chúa nên con cho rằng Chúa không nói.
Lạy Chúa, vấn đề là con phải học nghe, chứ không phải là Chúa có nói hay không? Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J
Chúa đem con vào đời, nhưng mục đích chính yếu của cuộc sống lại là chờ đợi một chuyến đi. Sân ga không phải là quê hương của con để con bám víu và xây đắp, nhưng chỉ là bến tạm để đợi chờ con tàu. Khi nào thì con tàu sẽ đến để đem con đi? Khi nào con từ giã cuộc sống? Con chẳng biết được thời giờ định mệnh này. Thưa Chúa, có điều con muốn nói là trong khi chờ đợi, trong lúc nhìn thời gian tiến về điểm mốc trọng đại ấy, con luôn luôn cần hạnh phúc.
Suy tu
Con đã cảm nghiệm được nhiều thứ hạnh phúc. Hạnh phúc khi nhận được tin vui. Hạnh phúc đến từ một tâm hồn biết thông cảm. Hạnh phúc đến từ sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng, những hạnh phúc ấy vẫn chẳng làm con an lòng. Con vẫn lo âu. Những hạnh phúc ấy vẫn là bấp bênh. Quá khứ minh chứng rằng nhiều lần con đã mất hạnh phúc ấy.
Vì những hạnh phúc ấy có thể mất nên cũng có những ngày tháng con sống không niềm vui, chung quanh con là sa mạc. Mà đời người thì chẳng thể sống không niềm vui. Nên con đi tìm niềm vui mới. Có khi con oán giận Chúa, bỏ đời sống đức tin để tìm bất cứ một an ủi nào đó. Trong những giây phút ấy con thường tìm hạnh phúc trong tội lỗi. Con không nhìn thấy những tàn phá của tội mà con chỉ thấy những hứa hẹn và bóng mát của tội mà thôi. Thật sự con chẳng muốn bỏ Chúa bằng con đường chủ tâm sống trong tội. Con vẫn biết con không thể sống thiếu Chúa, nhưng trong yếu đuối của đời mình, con đã thấy quyến rũ nơi tội mạnh hơn hạnh phúc do đời sống đức tin đem lại.
Hạnh phúc thật thì chỉ có một định nghĩa. Nếu con đi tìm bất cứ hạnh phúc nào ngoài thứ hạnh phúc thật đó, con sẽ hoang mang và hụt hẫng. Hạnh phúc thật đó chỉ có Chúa mới cho con được mà thôi. Chúa là nguyên ủy của tất cả, thì hạnh phúc cũng phải do Chúa là nguyên nhân. Bởi đấy, khi con đi tìm niềm vui ngoài nguyên nhân tối thượng là Chúa, con sẽ gặp thất vọng.
Khi con phạm tội, tội cũng cho con một chút “niềm vui”. Nhưng tội làm con xa Chúa. Niềm vui hay hạnh phúc là lúc trầm mình thưởng thức trong dòng nước chảy của dòng sông. Mức độ và sắc thái khác nhau của hạnh phúc tùy thuộc vào nguồn gốc của dòng sông ấy. Chúa là nguyên nhân của một thứ hạnh phúc. Tội cũng sinh ra một dòng hoan lạc. Nguyên nhân khác nhau thì hạnh phúc hay hoan lạc đến từ các nguyên nhân đó phải khác nhau. Từ sự khác nhau ấy, con chọn lựa cho mình một dòng sông. Dòng sông hạnh phúc của Chúa hay đôi bờ hoan lạc của tội.
Con là một tạo vật hữu hạn. Thứ hạnh phúc của tội cũng là một sản phẩm hữu hạn, bởi vì chính con tạo nên nó. Vì con tạo nên nó, do đấy, nó chẳng bao giờ thỏa mãn con được. Hạnh phúc của con hệ tại bám vào hạnh phúc tự thể là Chúa. Nên khi con mất cái tự hữu để ký sinh thì con chênh vênh và hao hụt ngay.
Tội làm con xa Chúa. Chúa xa con không phải vì Chúa bực mình, ghen tức. Dù con thánh thiện tới đâu đi nữa thì cũng chẳng vì thế mà sự trọn hảo của Chúa thêm trọn hảo hơn. Dù con có cầu nguyện thiết tha đến đâu đi nữa thì chẳng vì thế mà Chúa được cao cả hơn. Tự Chúa đã tràn đầy tất cả. Chúa chẳng cần gì. Nếu con cầu nguyện là con bám vào sự trọn hảo của Chúa để được thương ban mà thôi.
Tội là thái độ tự do để lựa chọn một đối tượng ngoài Chúa. Khi phạm tội là con nghe theo một tiếng gọi khác, chấp nhận một đối tượng khác. Khi con chấp nhận một đối tượng khác rồi thì lẽ dĩ nhiên là Chúa phải xa con. Chúa không áp bức con bằng sức mạnh, bằng quyền năng, nhưng Chúa kính nể sự tự do của con. Khi con phạm tội, khi con lựa chọn một đối tượng rồi thì Chúa muốn ở với con cũng không được vì con đã dành khoảng trống của lòng mình cho một chủ khác rồi.
Khi con kiếm tìm niềm vui nơi tội là con tạo nên cơn bão táp cho chính vườn rau của mình. Càng để tội lỗi làm chủ con tim mình thì Chúa càng phải ở xa. Mà Chúa càng xa thì hạnh phúc thật càng mù tăm, khuất bóng. Lý tưởng cuộc đời con là kiếm tìm và quy về nguồn cõi hạnh phúc thật đó. Do vậy, càng xa nguồn hạnh phúc thật thì con càng đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Mà không còn ý nghĩa thì cuộc sống trở nên man dại, tính toán, lo âu, giành giật, hận thù và chán chường.
Khi con phạm tội là con phá hủy hết tất cả tự do của con. Cơn bão táp ấy xóa nhòa nhân phẩm của con. Tội là điều xấu. Con không muốn để người khác biết những điều xấu xa của con. Từ đó, con có hai khuôn mặt. Một khuôn mặt thật và một khuôn mặt để “show up”, trình diễn để tha nhân nhìn vào. Khi con giấu kín khuôn mặt thật tội lỗi để phô bày khuôn mặt giả cao thượng là con xây dựng giá trị của mình trên sự lầm lẫn của tha nhân. Con lừa dối kẻ đối diện. Nếu con còn may mắn để nhìn thấy rằng mình có hai khuôn mặt mỗi khi xét mình thì con còn lương tri để biết rằng mình chỉ lừa gạt người chứ không lừa dối mình. Nhưng ngày nào đó, con lẫn lộn giữa thực và hư. Ngày nào đó, con người để trình diễn kia rợp bóng đến nỗi con chỉ thấy nó là chính mình và con tin nó là khuôn mặt thật của mình, con không còn thấy bóng khuôn mặt thật của con đâu nữa thì ngày đó con chẳng còn gì. Con đã là nạn nhân của sự giả tạo. Gian dối với tha nhân đã nên lừa đảo chính mình.
Khi tha nhân tưởng con là gương mẫu của đời mà con không là gương mẫu thì con sẽ lo âu cho cái ngưỡng mộ kia bị đổ vỡ nếu tha nhân nhận ra con người thật tội lỗi của con, cho nên con lại càng phải cất giấu con người đó kỹ hơn. Bởi đấy, tội cướp mất tự do. Sống trong tội, con phải sống trong hồi hộp, gian dối, lo âu.
Chẳng có người cha nào không mủi lòng khi thấy đứa con mình sắp xuống tắm trong dòng sông ngầu vẩn rác đục. Vì kính trọng tự do Chúa đã ban cho con, nên Chúa biết con xa Chúa là đời con sẽ chán chường, Chúa cũng đau khổ, nhưng Chúa chẳng thể cưỡng bách con chọn Chúa được. Mà thật sự con cũng không muốn mất tự do. Hành vi chọn lựa là một thú vui chan chứa của tự do. Không có tự do sẽ là gỗ đá. Nếu con không phải là gỗ đá, nếu con có tự do, thì con phải biết lo âu biết bao về sự tự do của mình.
Tìm dấu chân xưa là tìm dấu chân không còn. Trở về biển nhớ, nghìn dấu chân đã đi qua. Sóng xô bờ đã bao lần xoá thật kĩ. Trở về làng cũ, tàu cau đã chết thủa nào. Năm tháng cũ nhạt hương không còn ấn tích. Mưa nắng quanh năm giặt bạc màu ký ức. Đổi thay trong đời như những lớp phù sa đã bao lần cày sâu xuống, lấp kín lên. Tìm dấu chân xưa là tìm dấu chân đã mất.
Không còn dấu chân cũ mà vẫn cứ tìm vì dấu chân ấy có nhiều thương nhớ. Bến ga chiều nay mưa phùn bay, nhưng người ta trở về tìm dấu chân cũ vì ảnh xưa thì đẹp và hình xưa là hạnh phúc. Tìm vết chân cũ, vì ở tình yêu ấy, đã bao lần ngọt ngào cùng nhau quấn quýt bước chân đi. Không gian thay đổi nhưng hồn quá khứ không muốn đổi thay. Thế giới ấy đi bằng những bước chân đẹp nên nó trong ngắt. Bụi chỉ xoá dấu chân trên đường còn thế giới trong ngắt của linh hồn nó đẹp mãi. Và, vì thế, nhiều người cứ muốn đi tìm.
Đi tìm dấu chân xưa, vì về ngõ hồn quá khứ có khi dễ hơn lách lối tương lai đi tới. Đời người có khi tương lai khép kín mà quá khứ mở rộng ngõ. Lắm lúc càng đi về phía trước mà lại chỉ thấy đẹp ở phía sau. Vì thế, hôm qua, hôm nay và mãi về sau vẫn sẽ có nhiều kẻ muốn đi tìm kỷ niệm của dấu chân xưa.
Dấu chân không gian đã mờ nhạt, bụi cát bôi rồi. Đi tìm dấu chân xưa là dấu chân trong hồn mà thôi. Có nhiều bước chân. Có bước chân lên đồi. Có bước chân vào hoàng hôn. Có bước chân ra bình minh. Đi tìm dấu chân xưa là tìm riêng kỷ niệm đẹp. Nhưng khi quá khứ mở ngõ là mở rộng cả đôi cánh. Vì thế, có những dấu chân không đẹp, chẳng muốn 20tìm mà vẫn gặp. Có dấu chân muốn quên mà cứ nhớ.
Lạy Chúa, trong hành trình đời sống, Chúa đã nói với con về những bước chân:
Đừng dõi theo đường phường gian ác Đừng tiến tới trong đường lũ ác nhân Hãy tránh đi, đừng đi qua đó Hãy quay lại và đi đi. (Cách Ngôn 4:14-15) Ta dạy con trong đường khôn ngoan Và Ta đã hướng dẫn con đi đường ngay chính Khi con đi bước chân con sẽ thênh thang Và nếu con chạy, con sẽ chẳng vấp ngã. (Cách Ngôn 1:11-12) Dấu chân của một mình ta thôi mà đã là những dấu chân xưa muốn đi tìm rồi. Huống chi, những dấu chân của hai người đi bên nhau chắc hẳn sẽ còn lưu luyến, bởi, vết chân của người này mở ý cho vết chân của người kia đi về. Con tim mình thổn thức vì nó dâng hai nhịp đập của một chiều sóng. Vết chân hôn nhân và vết chân của Đức Kitô với các môn đệ là những vết chân này.
Dấu Chân Thiêng Liêng
Trong dấu chân xưa của những chuyện tình, chuyện thuỷ chung, còn một thứ dấu chân của thập giá. Đó là dấu chân theo Chúa ở biển hồ Galilêa khi nghe tiếng gọi: Hãy theo Ta (Mt 4:19). Theo Chúa trong hành trình truyền giáo: Ngài sai từng hai người một (Mc 6:7). Theo Chúa lên cuộc tử nạn: Hãy vác thập giá hằng ngày (Lc 9:23). Những dấu chân thiêng liêng này không sao xóa nhoà được. Những bước chân này đã một lần in dấu là kỷ niệm thiên thu. Bởi, Thiên Chúa quý kỷ niệm. Ngài không bao giờ quên những bước chân ân tình. Một lần gọi là một lần muốn có trang thiên tình sử. Một bước chân đi bên nhau là hy vọng có kẻ mang Tin Mừng.
Khi chết rồi Đức Kitô vẫn về Galilêa, vẫn muốn đến biển hồ. Gặp gỡ Thây trò ở khúc đường Emmaus không phải là đi tìm dấu chân xưa hay sao. Nhưng dấu chân xác thân không còn. Chỉ còn là dấu chân xưa trong hồn mà thôi. Đó là dấu chân thiêng liêng.
Cửa tương lai sẽ đóng lại. Thí dụ, ngày Đức Kitô chết. Vết chân trên cát của Ngài chấm dứt. Mỗi bước chân nhân thế cũng vậy. Ngày xuôi tay là bước chân sau cùng chào vĩnh biệt đường trần. Sự chết đến như con đường cụt. Tôi không còn bước nữa. Bây giờ tôi chỉ còn quay lại tìm dấu chân xưa. Và bây giờ dấu chân xưa trở thành vô cùng huyền nhiệm linh thiêng. Tất cả định mệnh hạnh phúc hay đau khổ của tôi trong cõi sống vĩnh hằng hệ tại những dấu chân xưa này. Tôi đã bước đi trong quá khứ thế nào, thì bây giờ bước chân ấy cũng dẫn tôi vào tương lai như vây. Bước chân ngang trái sẽ dẫn tôi tới ngang trái. Bước chân chính trực, chính trực sẽ đem tôi tới đại lộ. Cái huyền nhiệm của dấu chân xưa thiêng liêng là không tìm, tôi cũng sẽ gặp, cũng phải gặp, như lời Kinh Thánh sau đây:
“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người cho chiên đứng bên phải Người còn dê đứng bên trái…Bấy giờ đức Vua phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thủa tạo thiên lập địa… Rồi Đức Vua phán cùng những người ở bên trái rằng: Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các thần của nó.” (Mt 25:31-46)
Giờ này, dấu chân xưa thiêng liêng có sức mạnh thần thánh đưa tôi về trời cao hay xuống vực sâu.
Ai cũng có kinh nghiệm dấu chân xưa trong đời sống trần thế. Ngày thơ tuổi nhỏ. Tấm hình năm cũ. Nó đưa ta về những vùng ký ức xa mờ. Dấu chân xưa oan trái sẽ làm ngày tháng hôm nay của ta ảm đạm. Dấu chân xưa đẹp thì hôm nay cho ta hạnh phúc ngọt ngào.
Trở lại một bến ga bụi sương, dù năm tháng mù mịt rồi, người xưa đã khuất mà lòng ta cứ gần. Ghé lại bến đò cũ, dòng sông gợi cho ta bao nhớ nhung. Dấu chân xưa trong chuyện mình lúc còn sống là thế. Nhưng không ai biết thao thức của người chết đi tìm dấu chân xưa như thế nào. Đơn giản, là không có ai từ cõi chết về kể chuyện cho ta nghe cả. Phúc Âm có kể chuyện một người chết đi tìm dấu chân xưa như sau:
Xưa có một nguời giàu, ăn mặc những gấm tía, và hàng mịn; ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có người ăn mày tên là Lazarô, người ta vứt bỏ bên cổng nhà ông, mình đầy lở lói, ước ao có được miếng thừa dưới bàn ông nhà giàu mà ngốn cho no, lại còn bầy chó hoang liếm các ung nhọt người ấy. Nhưng xẩy ra là người ăn mày chết, và được các thiên thần đem lên dự tiệc ngay lòng Abraham. Còn ông nhà giàu cũng chết và được tống táng.
Trong âm phủ giữa những cực hình, ông nhà giàu ấy ngẩng mặt lên, thấy đằng xa Abraham cùng Lazarô nơi lòng ông. Người ấy mới kêu lên và nói: “Lạy cha Abraham, xin thương xót tôi, và sai Lazarô nhúng đầu ngón tay một chút nước mà thấm dịu lưỡi tôi, vì tôi quằn quại đây trong ngọn lửa này.” Nhưng Abraham nói: “Hỡi con, hãy nhớ lại: suốt đời con đã lãnh cả sự lành phần con, còn Lazarô cũng lãnh, nhưng chỉ là tai với họa. Bây giờ Lazarô được an ủi nơi đây, và con phải quằn quại đau đớn. Vả chăng giữa chúng ta và các ngươi, đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm, khiến cho tự bên này, ai muốn cũng không thể qua bên các ngươi, và tự bên ấy, người ta không thể quá giang đến được với chúng ta. “ Ông nhà giàu lại nói: “Vậy thì, lạy tổ phụ, xin tổ phụ sai Lazarô đến nhà con, vì con có năm anh em, ngõ hầu Lazarô làm chứng răn dạy chúng, kẻo chúng cũng phải sa vào chốn cực hình này.” Abraham nói: “Chúng đã có Maisen và các tiên tri, chúng hãy nghe lời các ngài.” Người ấy đáp: “Thưa tổ phụ Abraham, không đâu! Song có ai từ cõi chết mà nói với chúng, tất chúng sẽ hối cải.” Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không nghe Maisen và các tiên tri, thì cho dẫu có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng nghe đâu.” (Lc 16:19-31).
Hai người trong câu chuyện, Lazarô và nhà phú hộ đều bước những dấu chân trong đời. Bây giờ dấu chân ấy đưa họ đi mỗi người mỗi ngã. Dấu chân xưa của người nghèo Lazarô đưa ông về Nước Trời với Abraham. Dấu chân xưa của người giàu đưa ông về cõi vắng mênh mông.
Trong cuộc sống này, ta tìm kỷ niệm dấu chân xưa mà nhiều khi không gặp. Khi chết rồi vào giờ phán xét, những dấu chân xưa thiêng liêng ấy sẽ tự ý đi tìm ta. Và, dấu chân này sẽ đưa ta về cõi hệ trọng vô biên. Hạnh phúc hay gian nan. Bởi đó, mỗi dấu chân linh hồn đi hôm nay trong cõi đời sẽ là dấu chân thiêng liêng cho ngày mai.
Khi nhớ về kỷ niệm là ta đi tìm dấu chân xưa. Dấu chân đó có thể là những bước chân trên bến đò, trên con đường nhỏ. Những dấu chân này là dấu chân trong tình cảm, nó sẽ chấm dứt khi ta chết. Còn dấu chân xưa thiêng liêng là đời sống thánh thiện hay tội lỗi, công bình hay gian tham, độ lượng hay hẹp hòi, thì khi cuộc đời chấm dứt, những bước chân này mới khởi đầu.
Lạy Chúa, khi con đi tìm kỷ niệm cũ, tìm dấu chân xưa trong tình cảm, thì xin Chúa nhắc nhở con đến dấu chân thiêng liêng, để hôm nay con biết đi những bước chân thật đẹp, hầu bước chân này chuẩn bị cho con bước vào hạnh phúc trong Nước Chúa mai sau.
Có người Biệt phái kia mời Ngài tới dùng bữa với mình. Ngài vào nhà người Biệt phái và lên giường ăn. Và này: Một phụ nữ, một người tội lỗi trong châu thành. Biết Ngài dùng bữa tại nhà người Biệt phái, người phụ nữ ấy xách theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Ðứng phía đằng sau chân Ngài, khóc nức nở, sa nước mắt đẫm ướt chân Ngài. Xõa tóc trên đầu, cố lau sạch. Và tha thiết hôn chân Ngài và xức dầu thơm (Lc. 7: 36-38).
Mai Ðệ Liên đã tìm gặp Chúa. Tìm là giai đoạn sôi bỏng nhất của tình yêu. Gặp mặt nhau nhưng chưa chắc biết tên nhau. Biết là một chuyện nhưng có để ý nhau không lại là một chuyện khác. Cho dù có để ý nhau nhưng chưa chắc đã tìm nhau. Bởi đó, những chuyện tình đi tìm nhau bao giờ cũng là những chuyện tình không quên. Tìm nhau là giai đoạn đồng cảm nhất trong tiến trình của yêu thương. Nói đến phải đi tìm là nói đến vất vả, nên những chuyện tình tìm nhau thường là những chuyện tình gian nan.
Tặng vật là niềm tin
Ðến với Ðức Kitô, người đàn bà này đã mang theo ba tặng vật: Niềm tin, mái tóc và bình dầu quý. Tìm là xác định một điều có trong khi chưa có. Tin là có để rồi miệt mài theo đuổi điều chưa có là một thứ gian nan không dễ. Niềm xác định có càng nhiều thì mới càng có nỗ lực. Những đêm bâng khuâng gọi hồn, tiếng con tim ngập ngừng đếm từng khoảnh khắc. Và bữa tiệc chiều nay, đôi khi nghe cõi lòng chùng xuống khi hình dung ra những cái nhìn soi mói, nhưng người đàn bà này vẫn chuẩn bị cho một cuộc đi tìm rất nhiệm mầu trong linh hồn. Bà cần gặp Ðức Kitô.
Xét theo khung cảnh thì đây không phải là bữa ăn thường mà là bữa tiệc. Tôi không nghĩ rằng người phụ nữ này được mời, vì Biệt phái kết án "gái điếm và thu thuế". Người phụ nữ này đã nổi tiếng tội lỗi trong châu thành vì ai cũng biết. Nếu vậy, càng không thể là khách mời của Biệt phái. Khách được mời sẽ được lấy nước rửa chân, xức dầu và hôn chào. Vậy làm sao người phụ nữ tội lỗi này lọt được vào? Ðối với một kẻ tội lỗi bị xã hội kết án thì đi tới đâu cũng phải đương đầu với những con mắt tò mò. Có thể người phụ nữ này phải giả dạng để vào được phòng khách. Có thể cô ta lẩn đi vào ngõ sau. Có thể cô ta bất chấp mọi ngịch cảnh xông đại vào. Trong bao nhiêu giả thuyết, ta không biết cách nào là đúng. Hoặc cho dù có được vào tự do, thì điều ta biết chắc là người phụ nữ này đã phải chấp nhận những lời kết án cho một lần gặp gỡ.
Chợt đọc qua đoạn Tin Mừng, tôi thấy hình ảnh người phụ nữ ngồi khóc bên chân Chúa là một hình ảnh êm đềm. Thoáng qua, tôi thấy người phụ nữ có thể gặp Chúa một cách nhẹ nhàng. Nhưng nhìn kỹ lại, tôi thấy gặp gỡ với Chúa, cô ta phải lên đường vô cùng quyết liệt. Mình không phải là khách. Người ta dòm ngó xầm xì. Bao nhiêu người chỉ trỏ. Có khi phải bẽ mặt vì bị đuổi đi.
Trong quá khứ, không biết có khi nào tôi liều thân đi gặp Chúa như thế chưa. Những kỷ niệm tìm nhau trong gian nan là những kỷ niệm khó quên. Nếu tôi không nhớ có khi nào tôi vất vả đi tìm Chúa như thế chưa, điều đó có nghĩa là tôi chưa có những "chuyện tình gian nan", dù có đôi ba lần liều thân tìm gặp Chúa, sự liều thân ấy cũng chắc là nhạt nhẽo lắm.
Dầu thơm của khổ đau
Cho cuộc đi tìm này người phụ nữ đã mua một bình bạch ngọc, tìm loại dầu thơm quý. Tặng nhau một cành hồng, gởi nhau một lọ nước hoa là chuyện thường. Nhưng dầu thơm ở đây là hương thơm có thể bay ngược chiều gió. Bởi, nó là hương thơm của trắc ẩn, là đóa hoa lòng. Chắc hẳn tiền mua bình bạch ngọc đến từ những đêm nhục nhằn câm nín, từ nước mắt dàn dụa trên những đồng bạc bất hạnh nằm rơi vãi trên giường. Ðời là hoang vu. Cúi mặt đi trong phố vắng khi đèn chiều cứ ảm đạm. Người khách ra về, cánh cửa sập lại, cúi nhặt những đồng bạc trong cơn mệt mỏi chán chường. Người gái điếm ấy gom số tiền đã chắt chiu từ những tháng ngày cùng cực. Xuống phố, không tiếc lòng, mua một bình ngọc quý, một cân dầu thơm. Rồi, từ từ, đổ hết cho phí đi cân dầu hảo hạng, cho phí đi những đồng tiền khổ đau.
Trọn vẹn mái tóc xám hối
Tặng vật thứ ba là mái tóc của cô ta. Người con gái nào không thương mái tóc. Ở Mai Ðệ Liên chắc hẳn cũng có những ngày mới lớn như những nàng thiếu nữ Jêrusalem. Cô cũng cũng có những áng mây hồng của tuổi bâng khuâng, có cánh bướm nhỏ trong giấc mơ về đậu trên bờ tóc. Tóc mai cũng đã thương những sợi vắn sợi dài. Hôm nay, thương yêu có thể là muộn màng. Thương nhớ có khi đã mất mát. Bây giờ, thương đau là gương soi. Những sợi tóc ấy, giờ đây thả xuống cho xuôi dòng. Những sợi tóc đó nếu có một thủa mây bay tà đạo, thì hôm nay ngoan ngoãn theo lời xin xám hối. Cài vào những sợi tóc ấy là niềm tin để chải xuống một dòng đời lỗi lầm.
Lạy Chúa,
Người phụ nữ ấy đã lấy tất cả thương đau đời mình để mua cân dầu rồi đổ đi, đổ cho cạn đến giọt sau cùng. Con chỉ nhìn vào hình ảnh Chúa tha thứ tội lỗi một cách nhẹ nhàng, mà ít nhìn vào thái độ ao ước tận cùng của niềm tin, của sự quyết liệt trọn vẹn trong trái tim người phụ nữ.
Ở trong con, nhiều lần cũng tìm gặp Chúa, nhưng không bao giờ đổ tất cả cho một cuộc gặp gỡ. Bởi đó, gặp gỡ nào giữa con với Chúa cũng cứ là những gặp gỡ dang dở.
Ý nghĩa sâu thẳm của tình yêu được minh chứng bởi xa cách, vắng mặt hơn là xum họp?
Khi con tàu chuyển bánh thì bến ga cũng nhạt nhòa, bởi đấy, xa nhau, người ta thường quên nhau. Tàu đi rồi, bến ga có thể chơ vơ trong sương bụi chiều hôm, nhưng đường tàu vẫn còn đó. Nếu xa nhau mà vẫn nối dài mến thương, như đường tàu trung thành làm dòng máu luân hoán yêu thương giữa con tàu cách xa và bến đỗ mong chờ, thì đấy mới là yêu thương đích thực.
Chia ly, tình yêu dễ bụi mờ, bởi trong xa cách là lúc tình yêu lên cao vút trên quãng đời mênh mông những lựa chọn, là lúc tình yêu xuống thẳm sâu dưới lũng đồi cám dỗ.
Hạnh phúc tạm dung thì bắt buộc phải gần gũi, vì hạnh phúc ấy không được thụ thai bởi tình yêu vượt núi đồi mà là hoa trái của khu vườn gần gũi. Hạnh phúc ấy bị vây bọc bởi bến ga chật hẹp. Do đó, vắng mặt người này, xa cách người kia, tình yêu biến dạng và phai màu. Ðấy là hạnh phúc của con tàu khi cập bến đỗ chứ không phải yêu thương của đường tàu nối dài viên miễn.
Nếu tình yêu được sinh bởi chọn lựa trong tự do, thì có thể mịt mùng xa cách, có thể thăm thẳm chia xa mà vẫn rực rỡ trong không gian. Chọn lựa là bao hàm từ chối. Chối từ là dứt bỏ. Dứt bỏ nào cũng thường có phần xót xa. Chính vậy, tình yêu trong tự do là tình yêu có ray rứt giữa những giằng co của lựa chọn, là tình yêu có đau khổ của một chối từ. Chính Thượng Ðế cũng đã đớn đau trước giờ chọn lựa: "Lạy Cha, nếu được, xin Cha cất chén đắng này cho con" (Mk. 14:36). Người yêu cần tự do để xác định tình yêu của mình. Ðau khổ của chối từ, ray rứt của chọn lựa minh chứng sự cao cả của tình yêu mình dành cho người yêu.
Tình yêu không tách rời khỏi thời gian, mà thời gian thì luôn luôn đổi mới, bởi thế, tình yêu không thể chọn lựa một lần là xong, cưới nhau một lần là đủ, mà tình yêu cần được rửa tội mỗi ngày, cưới nhau mỗi sáng. Chính mặt trời còn lột xác, khai sinh sau mỗi đêm đen, cho nên hôn nhân là tái xác nhận chọn lựa không ngừng.
Vì sự bất toàn của mình, con người không thể có một lựa chọn hoàn hảo tuyệt đối. Hôn nhân là chọn một người tình và chối từ những người tình khác. Nhưng bởi sự bất toàn, nên chọn lựa đó chẳng thể trọn vẹn, cho nên từ sâu thẳm trong căn hầm tham lam, đôi lúc họ khổ tâm vì mất mát do những mối tình khác mà họ phải chối từ. Họ bất toàn nên không thể cho nhau sự hoàn hảo. Từ đấy, họ mơ màng một tình yêu nào đó ngoài tình yêu mà họ đã lựa chọn, cho nên sự trung thành là thử thách lớn lao của tình yêu hôn nhân.
Yếu tính của trung thành là khả năng có thể vượt qua rừng sâu, trèo qua núi đá, có thể song hành với thời gian, và thế, tình yêu phát sinh từ sự trung thành sẽ bát ngát như vũ trụ và thênh thang như núi đồi.
Trong tình yêu, ràng buộc chính đáng nhất là hãy để nhau lớn lên trong tự do. Ý nghĩa cao cả của tự do là thành thực với chính mình và ngay thẳng với người tình. Hãy cho nhau tự do nhìn khuôn mặt thật của nhau. Ðừng tạo nên giá trị của mình bằng cách để người tình ngưỡng mộ những điều mình không có.
Vì tình yêu cũng là một thứ nhu cầu, bởi đó, người ta mới nói đến chinh phục. Có khó thì mới phải chinh phục, nên khi chinh phục người ta dùng mọi tài năng. Trong những tài năng tích cực, có một thứ tiêu cực là tạo ra một hình ảnh đẹp, nhưng không đúng với con người thật của mình.
Vì tình yêu cũng là một thứ nhu cầu, bởi đó, người ta nói đến tiếng sét ái tình. Ðã mê hoặc thì phải chiếm đoạt, nên chiếm đoạt trong tình yêu bao giờ cũng pha trộn mù quáng. Cần phải chiếm đoạt, nên người tình thường biện minh, rồi gán cho người yêu những đặc tính mà người yêu không có.
Tạo ra giá trị mình không có là lừa tha nhân. Gán cho tha nhân giá trị họ không có là lừa mình. Cả hai thái độ đều nguy hiểm như nhau. Cả hai thái độ đều là xây dựng giá trị trong thiếu tự do, lầm lẫn. Lầm lẫn không biến đổi bụi than thành kim cương, đá cuội thành ngọc qúy. Sớm muộn gì rồi cũng khám phá ra con người thực của nhau. Ngỡ người tình là kim cương, nhưng thực tế là đá cuội. Thất vọng, ở đó, bắt đầu nẩy sinh. Trung thành, từ đấy, bắt đầu lung lay. Tình yêu sống bởi sự thực, thiếu vắng sự thực tình yêu sẽ u buồn, ủ dột. Thiếu sự thực, tình yêu không còn là cây leo hạnh phúc trong mùa xuân, mà là bủng vàng xanh xao.
Hôn nhân là loài tằm chất phác và kiên nhẫn. Là loài dâu thật thà biết hy sinh. Là tằm, là dâu, chúng chung khúc yêu thương, âm thầm, gắn bó với nhau, góp nhặt hạnh phúc, chúng nhả tơ, dệt lụa óng ả cho đời.
Còn tình yêu của bầy ong với đám hoa cải, cho dù dẫu dễ thương đến đâu chăng nữa, trên da mặt chúng vẫn là mơ màng quyến rũ tình yêu bằng đỏm dáng, và thèm muốn tình yêu qua mật ngọt. Bởi đấy, chỉ là hạnh phúc bấp bênh.
Luống cải kia, cánh ong đó đã nghèo nàn hóa tình yêu của nhau bằng chiếm hữu. Chúng hạn chế hạnh phúc của nhau vì đánh giá tình yêu qua duyên sắc bên ngoài mà thôi. Tình yêu của cả hai đã thai nghén trong thiếu tự do vì sự hiểu biết bị lừa gạt, lòng thật thà bị lãng quên.
Như thế, khi mùa cưới đến, lúc tình yêu của chúng sáp lại. Khi thèm muốn và chiếm đoạt đã theo dòng thời gian thiếu thật thà ấy mà trưởng thành thì cũng là lúc buồn chán đã sẵn chờ đàng sau môi hôn.
Chúng nô lệ hóa nhau mà gọi là tự nguyện.
Chúng mang thương tích nhưng phải gọi là nỗi thương đau dịu dàng.
Chúng trao nhau tình yêu thể nào thì tình yêu cũng dầm bập chúng thể ấy. Bởi, chúng đã dệt tổ yêu thương bằng tơ lụa gấm vóc hơn là sự hiểu biết. Chúng nhìn tình yêu qua nhan sắc hơn là tâm hồn.
Có người hỏi: Sao các đôi tình nhân lại nhắm mắt mỗi khi hôn nhau?
Có phải, dẫu trong tha thiết thế nào, họ vẫn yêu một phần bóng tối?
Có phải, dẫu trong hạnh phúc sóng sánh đến đâu, cũng vẫn có một phần thiếu thật thà?
Nếu họ bất tòan, nếu họ chẳng thể trọn vẹn trao nhau thì sao họ lại mơ ước "tôi hóa" tha nhân? "Tôi hóa" tha nhân là bắt tha nhân nên giống như mình. Ðấy là tình yêu ích kỷ, là tàng tật hóa người yêu. Người yêu là của mình, nên khi tàng tật hóa người yêu thì cũng là tàng tật hóa chính hạnh phúc của tôi.
Kẻ muốn đồng hóa tha nhân trong tình yêu là những đôi tình nhân yêu nhau hơi gặp hơi, thở gặp thở mà vẫn như mênh mông xa cách, vẫn như khắc khoải kiếm tìm. Họ khắc khoải kiếm tìm vì chẳng bao giờ con người có thể "tôi hóa" được nhau. Bắt người khác giống mình là hủy diệt tự do và bản tính của người đó, càng bắt họ giống mình bao nhiêu thì sự hiện hữu của họ càng mất đi bấy nhiêu. Tôi muôn đời vẫn là tôi. Tha nhân nghìn đời vẫn là tha nhân.
Nếu tha nhân là tha nhân, tôi là tôi, thì làm sao có thể nên một trong tình yêu như lời Kinh Thánh mong mỏi?
Kẻ nên một trong tình yêu là những đôi hôn nhân đem sự khác biệt của nhau làm nên phong phú của một kết hợp. Khi nói nên một thì phải chấp nhận là đã có hai. Làm sao có kết hợp nếu không có khác biệt. Như thế, khác biệt đã là điều kiện cần thiết cho kết hợp. Trong ý nghĩa đó, khác biệt phải có một giá trị tự nó. Kết hợp không biến hóa nguyên thể của các khác biệt mà là một luân vũ nhịp nhàng. Ðó là một hoà âm trầm bổng của các đơn thể khác nhau chứ không phải là đơn điệu. Ðó là kết hợp của âm nhạc, của vũ trụ, của tình yêu. Kẻ lớn lên trong tình yêu hợp nhất là những đôi uyên ương nửa bên bờ đại dương, nửa trên "cánh đồng nước mặn" Việt Nam mà tình yêu của họ vẫn chập chùng qua biển cả, bàng bạc qua không gian.
Con tàu chỉ tới bến trên tuyến đường sắt song hành. Sự nên một của tuyến đường là cùng sóng đôi chứ không phải là cùng chạm nhau. Mất sự sóng đôi, con đường đánh mất bản tính của mình. Mất sự song hành thì tuyến đường không còn là tuyến đường nữa, bởi, sự hợp nhất căn tính của nó hệ tại cùng sóng đôi đi về một hướng.
Hôn nhân là nên một trong tình yêu. Nên một trong tình yêu là nên một trong hòa đồng chứ không phải nên một bằng đồng hóa.
Kinh Thánh bảo: Phải nên một!
Ôi! đâu là ý muốn thâm sâu của Thượng Ðế.
Cẩn thận! Nếu không đấy chỉ là những lời lừa dối mà thôi. Bởi, chính trên bàn thờ mà hai cây nến cũng có bao giờ dám cháy cạnh nhau đâu
Cuộc sống quanh ta với biết bao là nét đẹp. Nét đẹp của hoa cỏ đồng nội. Nét đẹp của trăng sao, cá nước chim trời. Nét đẹp của những cánh đồng mênh mông bát ngát, hay nét đẹp của những dòng sông hiền hòa, trĩu nặng phù sa. Nét đẹp của thiên nhiên và nét đẹp của con người. Đó là nét đẹp của trí tuệ, nét đẹp về hình thể, nét đẹp của lòng nhân ái bao dung, nét đẹp trong những lời thơ, tiếng hát v.v… Thế nên, một nhạc sĩ đã từng viết: “Cuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp.” Vậy những nét đẹp của đời linh mục là gì? Tại sao đời linh mục lại có những nét đẹp như thế? Trong một bài viết đã lâu, linh mục Anthony Đào Quang Chính, OP, có đề cập đến 6 niềm vui sướng và 5 niềm khổ đau trong đời linh mục: “Cái sướng thứ nhất là được gọi bằng “cha”; thứ hai là được bài hát nào đó ca tụng rằng: Chúa chọn con lên hàng khanh tướng; thứ ba là nghe tội người khác; thứ tư là ngồi chỗ kính trọng; thứ năm là không bị lo lay-off, nghĩa là thất nghiệp; và thứ sáu là cha nói một tiếng bằng chúng con nói mười tiếng.” Suy cho cùng, những niềm vui sướng ấy chỉ dừng lại ở khía cạnh hình thức bên ngoài mà thôi. Những niềm vui sướng ấy không nói lên những nét đẹp nơi căn tính và sứ vụ của người linh mục. Căn tính sâu xa của đời linh mục đó chính là nét đẹp của tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, và nét đẹp của hy sinh. Nét đẹp của tâm linh
Linh mục là con người của cầu nguyện, là thầy dạy về cầu nguyện. Là con người của cầu nguyện, linh mục nguyện gẫm, suy niệm Lời Chúa, giảng dạy Lời Chúa, viếng Chúa, Chầu Thánh Thể và dâng Thánh lễ mỗi ngày. Đó là những nét đẹp tâm linh trong đời linh mục. Mỗi lần nguyện gẫm, linh mục có thời gian nhìn lại chính mình, nhìn lại mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, hay mối tương quan giữa mình với giáo dân. Mỗi lần suy niệm hay giảng dạy Lời Chúa, linh mục phải là người để Lời Chúa soi sáng, dẫn đường để rao giảng những lời của an ủi yêu thương, những lời của sự thật và sự sống. Mỗi lần viếng Chúa, chầu Thánh Thể, linh mục quỳ gối thinh lặng, cầu nguyện và chiêm ngắm Thánh Thể là bí tích của tình yêu, một tình yêu cao trọng, một tình yêu đến cùng mà Chúa Giêsu, vị linh mục thượng phẩm đời đời đã dành cho nhân loại. Mỗi lần dâng Thánh lễ là mỗi lần linh mục hiệp cùng hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá, để dâng cả những suy nghĩ, dự định, ước muốn; dâng cả những lỗi lầm, bất xứng trong đời linh mục lên cho Thiên Chúa Cha, để cầu nguyện cho bản thân, nhất là cầu nguyện cho những đau khổ của đoàn chiên mà Chúa trao phó. Nét đẹp của sẻ chia
Nhiều bổn đạo đau khổ, tuyệt vọng bởi những biến cố đau thương giữa đời thường. Họ tìm đến nhờ linh mục cho những lời khuyên, giúp lời cầu nguyện để vượt qua những khó khăn và thử thách. Đau khổ về tinh thần lẫn vật chất. Nhiều bà con vướng vào cảnh nợ nần, hoặc quá nghèo tìm đến với linh mục, nói thật những đau khổ ấy với linh mục, họ hy vọng được ngài sẻ chia. Có cha mẹ nào lại không thương những đứa con đang hoạn nạn, nghèo túng của mình. Vì vậy, người linh mục luôn đồng cảm với những nỗi thống khổ của nhiều bổn đạo trong giáo xứ mà ngài coi sóc. Cha giúp lời cầu nguyện. Cha thăm viếng động viên. Thậm chí cha giúp một chút tiền để họ vượt linh_muc4qua khủng hoảng và bế tắc. Vì vậy, linh mục là người “bị ăn”, là tấm bánh được bẻ ra để phân phát cho những ai đang đói khát. Nhiều linh mục tổ chức mời đoàn bác sĩ ở thành phố về nhiều giáo xứ tỉnh lẻ ở thôn quê để khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con giáo dân. Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát quà cho bà con giáo dân nghèo mỗi dịp Giáng sinh hay Tết đến. Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát học bổng cho các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn nhưng chăm chỉ học hành. Gia đình nào có tang chế, linh mục đến hiệp dâng Thánh lễ, cầu nguyện và chia sẻ sự mất mát lớn lao. Đó là những nét đẹp của sẻ chia và yêu thương trong đời linh mục. Nét đẹp của tha thứ
Theo gương Chúa Giêsu, người linh mục là con người của tha thứ. Ngài tha thứ cho những bổn đạo nói xấu, chỉ trích, lên án mình. Ngài tha thứ cho nhiều hối nhân nơi tòa giải tội. Ngài tha thứ cho những lầm lỗi, thiếu sót cho bà con đang làm việc trong các hội đoàn. Đó là nét đẹp của lòng bao dung. Vì yêu thương con cái nên cha mẹ sẵn sàng tha thứ, không chấp nhất những lỗi lầm, khuyết điểm của con. Vì yêu thương đoàn chiên nên người linh mục luôn đón nhận tất cả vào vòng tay nhân ái của người mục tử nhân lành. Vì vậy, nơi nét đẹp của tha thứ, mỗi Kitô hữu chúng ta còn khám phá ra nơi khuôn mặt của mỗi linh mục sự hiền lành và phúc hậu. Nét đẹp ấy đã giúp nhiều hối nhân lấy lại niềm tin yêu và cậy trông vào Thiên Chúa. Cả thế giới vô cùng cảm kích trước nghĩa cử Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới một nhà tù, thăm hỏi và tha thứ cho người thanh niên bắn những phát súng để ám sát ngài. Phải chăng đó là nghĩa cử xuất phát từ những gì Chúa Giêsu đã dạy và đã sống? Nét đẹp của hy sinh
Làm linh mục đòi hỏi phải có sự hy sinh. Hy sinh thời gian, sức khỏe; hy sinh những phút thư giãn của bản thân để phục vụ nhu cầu tâm linh của nhiều bà con bổn đạo; hy sinh sống đời độc thân không có vợ con để dành trọn thời gian và công việc cho việc phục vụ Giáo hội và mọi người. Bởi vậy, nét đẹp của hy sinh được kết nên bởi những từ bỏ trong đời linh mục. Người linh mục đúng nghĩa phải là một con người của sự từ bỏ của cải vật chất, từ bỏ những quyến luyến của tình cảm, của đam mê xác thịt, hay từ bỏ những cám dỗ quyền lực, danh vọng để sống đơn sơ, thanh thoát và dấn thân cho sứ vụ mục tử. Tình yêu đòi hỏi phải có hy sinh. Hy sinh càng nhiều tình yêu càng có ý nghĩa và đúng nghĩa. Tuy nhiên, ngày nay, tâm lý tự nhiên ai cũng sợ hy sinh và từ bỏ. Người linh mục sợ hy sinh vì thấy lòng mình chưa thật sự từ bỏ dứt khoát những lôi cuốn của sự đời. Người linh mục sợ cô đơn vì động lực dấn thân vì lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội chưa thật sự mạnh mẽ. Vì vậy, tận trong sâu thẳm cõi lòng, nhiều linh mục vẫn chân nhận rằng mình cảm thấy cô đơn và đấu tranh với những phân mảnh trái ngược nhau diễn ra trong tâm hồn như trong “Lời Kinh Chiều Chúa nhật”, Linh mục Michel Quoit đã viết: “Lạy Chúa, chiều nay chiều Chúa nhật, một mình con quỳ đây đối diện với ngọn đèn chầu, đối diện với Thánh Thể Chúa. Giờ này, nhiều gia đình đang sum họp ăn uống, cười nói vui vẻ bên nhau, còn con thì lặng lẽ âm thầm cầu nguyện với Chúa. Con bắt tay nhiều người nhưng không giữ lại một bàn tay nào cho riêng mình. Con tiếp xúc với nhiều trẻ con, nâng niu và vui đùa với chúng. Nhưng lạy Chúa, đó là những đứa trẻ của người khác chứ không phải là của con. Con giơ tay ban phép lành xá tội cho nhiều người, nhưng những tội đời của con thì chỉ có Chúa mới hiểu mà thôi… Lạy Chúa, làm linh mục có những phút giây cô đơn rất thật như thế, nhưng con tin rằng những phút giây ấy là cơ hội để con trắc nghiệm lại động lực ơn gọi dấn thân trong sứ vụ đời mình.” Tóm lại, trong cuộc đời này cái gì cũng đều có hai mặt. Đời linh mục cũng vậy. Nhiều bậc cha mẹ muốn con đi tu làm linh mục cho sướng cái thân, ra đời lăn lộn kiếm tiền, vất vả khổ cực lắm! Nhưng họ đâu biết rằng, đằng sau những hào nhoáng, sung sướng bên ngoài ấy, người linh mục hằng ngày phải chiến đấu với bản thân, chiến đấu trong lời kinh, nguyện cầu. Làm linh mục có nhiều cái sướng nhưng khổ đau cũng không phải là ít, thậm chí khổ nhiều hơn sướng. Thế nhưng, nhờ những nét đẹp tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, hy sinh mà người linh mục có thêm động lực tình yêu để sống trọn vẹn trong ơn gọi. Những nét đẹp đời linh mục cho thấy Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng của niềm vui, của niềm tin yêu và hy vọng cho thế giới hôm nay.
Tôi đã vất vả rong ruổi đi tìm, nhưng chẳng gặp. Miệng đã khô và bụi sương làm tóc tôi bay rối. Ngày lại ngày, tôi lục lọi những pho sách quý giá trong tủ sách loài người, nhưng tôi vẫn thất vọng. Tôi rũ mỏi đi khắp phố chợ, ngày, đêm. Tôi hỏi bạn bè cùng các triết nhân và họ đã trả lời: Ðó là cuộc đời!
Thân tôi tội lỗi, trước Ngài, Thượng Ðế, tôi sợ đâu dám hỏi. Nhưng đau thương cứ dâng cao và nỗi lo lắng càng ngày càng lênh láng. Một chiều, tôi vào cuối giáo đường ngồi khóc. Tôi khóc như một đứa nhỏ và than thở với Người như một đứa con:
- Cha ơi, con đã vất vả đi theo Cha dọc chuỗi thời gian. Con đã vấp ngã vô vàn, và mặt mày nhơ nhớp như bây giờ Cha thấy đây.
- Cha! Sao Cha đặt con trong vòng Bóng-Tối rồi bảo con tìm về Ánh-Sáng.
- Sao Cha đặt con trong vùng Sự-Ác rồi bảo con tìm về Thiện-Hảo.
- Cha ban cho con Trí-Tuệ nhưng sao Cha lại đặt trong lòng con Trái-Tim trùng trùng, điệp điệp những Man-Mác, Lấp-Lửng.
- Trong khu vườn Già-Nua, khô cằn, Cha bảo con hãy mọc lên Xanh-Tươi và trổ sinh hoa trái!
- Cha ơi, Cha cho con Lương-Tâm, nhưng sao Cha không đem con ra khỏi căn hầm của Gian-Dối và lâu đài của Tham-Lam.
50 ATừ tâm điểm Cha đã thắp sáng trong con Ánh-Lửa-Tình-Yêu nhưng xa xa sao Cha lại vây bọc con bằng Chu-Vi-Căm-Thù. Rồi Cha bảo: Hãy vượt qua!
Cha ơi, Cha có yêu con?
- Bao lần con lầm lũi trốn tránh vì tha nhân là vấp phạm. Nhưng từ hút thẳm ý nghĩ Cha lại thôi thúc vang vang: Tha-Nhân là Cây-Cầu và bên kia bờ sông là chính Cha!
- Ôi, Cha đã mở cửa cung vườn tình yêu cho con bước vào. Con đã hái Bông-Hồng và tay con đã nắm vào Gai.
Cha ơi, Cha có yêu con?
Con đã vất vả gian nan theo Cha. Bờ vai đã lạnh và Gió-Sương vẫn nghìn dặm dõi theo. Hai chân đã mỏi mà đường đi thì cứ mù khơi, tít tắp.
Trong vườn hạnh phúc Cha ban, con bứt giật đóa Bạch-Huệ bằng tay trái, thì tay phải đã vướng vào Sâu.
Giáo đường chẳng có ai. Những hàng ghế dài mút mút, im lặng thẹn thùng vì những lời tôi nói. Nhưng mặc kệ, tôi cứ kể lể. Vì tôi lo lắng và đã biết rằng đường tôi đi còn dài mà không gian là những đây đó vấp ngã, còn thời gian là những cám dỗ tiếp nối mênh mông.
Tôi kể lể cho tới khi lời tôi nhỏ lại mất hút, cho tới khi những làn sương xuống dầy đặc xóa nhòa đôi mắt, cho tới khi giáo đường tan loãng biến vào hư không. Bấy giờ, tôi thấy một đồi cao và rừng cây trầm lặng bát ngát. Những gió và suối tiên vang lên lời ru. Tôi nghe như có tiếng người nói:
- Trong vùng thăm thẳm, Thẫm-Tối của Cuộc-Ðời, Cha đã ban cho con Ðức-Tin để đi. Ðó là tặng phẩm qúy nhất.
- Trong những miên trường của giằng co giữa Con-Tim và Lý-Trí, Cha đã cho con Tự-Do để lựa chọn. Ðó là tặng phẩm quý nhất.
Rồi, những cung điệu rất lạ đã say sưa lá của rừng, những lời ngọt ngào của suối đã ru êm bờ đá cuội trắng. Tôi nghe như có tiếng nhạc dạt dào, và cũng trong tiếng nhạc ấy dường như có tiếng Người nói nữa:
- Ðó, tất cả là Tặng-Phẩm của Mùa-Xuân. Ðó, tất cả là Dấu-Chỉ của Tình-Yêu.
Niềm vui và hơi ấm nhen nhúm đâu đây. Tôi lập lại: Ðó, tất cả là dấu chỉ của Tình-Yêu.
LM Nguyễn Tầm Thường S.J trích trong "Nước Mắt Và Hạnh Phúc"
Tĩnh tâm là những ngày nhìn lại linh hồn mình, xét xem tôi đang đi về đâu, ý nghĩa cuộc đời, để rồi chìm sâu hơn nữa trong đời sống tìm kiếm ơn thánh. Trong những ngày này, người tĩnh tâm thường đặt câu hỏi làm sao tôi có thể nghe tiếng Chúa nói.
Trong cuộc sống, người ta rất thường phân vân, đâu là tiếng Chúa, đâu là tiếng của chính mình. Khi phải quyết định một vấn đề gì đó hệ trọng, họ tới nhà cầu nguyện, mong nghe được tiếng Chúa dạy. Họ cầu nguyện nhưng phân vân, rồi vẫn không biết làm sao quyết định.
Nghe là một nghệ thuật không dễ. Học một ngôn ngữ bao giờ cũng cần có thời gian. Phải nghe nhiều lần mới quen. Nghe trong định nghĩa bình thường là âm thanh vật lý vang lên, rồi truyền qua những làn sóng mà đến các thần kinh của tai. Thần kinh ghi những ký hiệu này, cất trong ngăn kéo của máy tính não bộ. Khi gặp lại âm thanh ấy thì não bộ cho nó một nhận định và một giá trị. Việc nhận định càng dễ nếu bão bộ càng quen âm thanh này. Nghĩa là âm thanh ấy được lập đi lập lại nhiều lần.
Tập nghe để phân biệt âm thanh này với âm thanh khác cũng đã khó. Nhưng nghe âm thanh là tiếng nói của lòng thì bước sang một chiều sâu hơn nữa rồi. Vì tiếng nói của lòng không là âm thanh vật lý, nó thiêng liêng, vô hình. Cũng tiếng cười, nhưng ý của nó có thể không làm vui, mà là mỉa mai, riễu cợt. Hiểu tâm hồn nhau là một tiếng nghe đòi nghệ thuật trong đó có yêu, có hy sinh, có tế nhị, có mình muốn thuộc về người đó. Vì thế mà có khi sống bên nhau chẳng hiểu ngôn ngữ của nhau.
Mẩu đối thoại giữa ba người, Đức Kitô, ông Tôma và Philipphê cho thấy sự lúng túng về loại ngôn ngữ này. Chúa nói: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi” Ông Tôma thưa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?” Đức Kitô đáp: “Thầy là đường, là sự thật, là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Ông Philipphê đáp: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chũng con mãn nguyện.” Đức Kitô đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philipphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Yn 14:1-9).
Chúa nói là Chúa đi đâu thì các ông ấy biết đường rồi. Nhưng tôma lại thưa các ông ấy không biết Chúa đi đâu. Các ông muốn biết Chúa Cha, Chúa Yêsu lại bảo ở với nhau lâu vậy rồi mà chưa biết được ư. Cuộc đối thoại cứ như mỗi người nói một nẻo. Đọc lại mẩu chuyện đối thoại ấy để thấy nghe là một công trình phải luyện tập, phải có thời gian, phải quen nhau nhiều. Nghe người nói với người đã không dễ, bây giờ nghe Chúa nói là tiếng nói vô âm thanh thì làm sao nghe.
Khó, nhưng không có nghĩa là không nghe được. Tiếng nói tình yêu thường là tiếng nói bằng con tim hơn bằng ngôn ngữ. Khi hai người thương nhau, họ nói một thứ ngôn ngữ riêng, không theo định nghĩa của tự điển nữa. Họ nói bằng ánh mắt. Họ hiểu bằng tâm tư. Họ ngỏ ý bằng một chút hờn. Họ muốn người khác bắt ý bằng một chút giận. Đó cũng là một thứ ngôn ngữ không có âm thanh. Như vậy, ngôn ngữ của Chua cũng có thể nghe, cũng có thể hiểu. Một biến cố đau khổ xẩy đến có thể như cái trách của Chúa gởi cho ta một nhắc nhở. Một chút cắn rứt lương tâm có thể so sánh như một sự dỗi hờn của hai người đang thương nhau.
Trở lại vấn đề nghe là một nghệ thuật phải luyện tập, ta thấy yếu tố quan trọng nhất là phải quen với ngôn ngữ ấy. Vì thế, cứ đợi khi có một vấn đề gì đó rồi mới hỏi Chúa thì e rằng khó hiểu được ngôn ngữ của Ngài. Dụ ngôn người chăn chiên và đàn chiên cho ta hình ảnh khá rõ về nghệ thuật nghe này. Ta có thể chia đàn chiên làm ba loại: Một loại không quen ngôn ngữ của chủ, một loại chỉ nghi ngờ tiếng nói của chủ, một loại nhận ra tiếng chủ ngay.
Không Quen Ngôn Ngữ
Tiếng gọi trong đêm là tiếng gọi gian nan. Không biết ai gọi. Không biết từ đâu đến. Một lúc nào đó bất ngờ có tiếng gọi tên mình. Trong đêm tối, con chiên này bừng dậy. Kẻ cắp giấu mặt cho khỏi bị nhìn. Tên trộm nào cũng ưa bóng tối. Bầy chiên đang ngủ ngon, bỗng có tiếng gọi. Hạng chiên không quen ngôn ngữ của người chăn là loại không khi nào gần chủ, không nói chuyện với chủ. Trong đàn chiên, chúng là những con chạy ở cuối đàn. Đúng ra, nó không phải là những con chiên theo chủ mà là chỉ dựa vào đàn chiên để sống nhờ. Bởi đó, trong đêm, khi kẻ trộm giả vờ tiếng người chăn mà gọi thì chúng không thể phân biệt được.
Một người không có đời sống cầu nguyện nhiều cũng giống như vậy. Trong đêm tối của xã hội, họ không phân biệt được đâu là tiếng nói của sự thật, đâu là ngôn ngữ nguỵ biện đánh lừa lương tâm. Hạng chiên không bao giờ gần chủ thì khi gặp thử thách trong tiếng gọi giữa đêm khuya chúng sẽ bị kẻ cắp đánh lừa. Một linh hồn thiếu đời sống nội tâm kết hiệp qua cầu nguyện, họ cũng dễ bị lừa như thế trong những phán quyết của tiếng nói lương tâm. Loại lương tâm này khi thấy một lời mời quyến rũ, say mê là hành động ngay, không phân biệt được phải trái.
Nghi Ngờ Tiếng Người Chăn
Loại thứ hai này khá hơn. Những con chiên này phân vân nhiều khi nghe tiếng gọi. Chúng sẽ suy nghĩ chứ không vội chạy theo, nhưng rất khó mà quyết định. Loại chiên này đôi khi gần chủ nên cũng nghe tiếng chủ, nhưng vì không gần chủ nhiều, nên lúc nghe, lúc không. Có nói chuyện với chủ, nhưng ít thôi. Không quen tiếng chủ lắm nên trong đêm khuya chúng phân vân, lưỡng lự, khó phân biệt nổi. Giống người mới bắt đầu học một ngôn ngữ, hiểu lầm, hiểu không hết ý của người nói là chuyện thường. Nếu con chiên này nghe tiếng gọi trong đêm mà vẫn ở lại trong đàn cũng là cầu may, chứ không có một thái độ tri thức dứt khoát.
Người lâu lâu mới cầu nguyện, có việc mới chạy tới Chúa cũng giống như vậy. Có nghe tiếng Chúa mà không rõ lắm. Họ phân vân không biết có phải tiếng Chúa hay là mình nói mà thôi. Vì thế, những quyết định của họ rất nửa chừng. Tâm hồn họ không hẳn là muốn ở lại trong tội, nhưng cũng chẳng hân hoan lên đường. Một khi không dứt khoát thì không đủ năng lực hành động, nên đời sống thiêng liêng mệt mỏi.
Nhận Ra Tiếng Chủ
Không tên trộm nào lừa được loại chiên sau cùng này. Tiếng gọi bất chợt vang lên trong đêm. Nó giật mình dậy, nghe xong, nó nhận định rồi tiếp tục giấc ngủ bình an. Nó biết ngay tiếng giả đó là của bóng tối. Loại chiên này ngày nào cũng nói chuyện với chủ, ngày nào cũng nghe âm thanh người dẫn mình đi, nên chúng quá quen rồi. Không tiếng nói nào bắt chước tiếng chủ được. Một tiếng gọi vang lên, nó phân biệt ngay đấy là tiếng chủ hay tiếng người lạ.
Ma quỷ cũng như những tên trộm chiên, chúng đợi đêm tối là lúc lương tâm phải lựa chọn những hướng đi mà đến xúi giục ta. Bóng tối có những luận cứ tinh vi, những lý do xem ra rất chính đáng. Người có đời sống kết hiệp với Chúa thì nhận ra ngay đâu là con đường phải đi. Họ có những quyết định chính xác, đúng. Bóng tối khó mà lừa được những tâm hồn này.
Để nghe tiếng Chúa, yếu tố đầu tiên phải lưu tâm là một trái tim sạch tội. Điều này ta cảm nghiệm rõ là sau mỗi lần nhận bí tích hoà giải, ta thấy tâm hồn thanh thản, vui tươi. Vì thế, nếu một tâm hồn muốn hỏi Chúa, muốn nghe tiếng Ngài, linh hồn đó cần phải thanh tẩy linh hồn, đến gặp gỡ Chúa trong bí tích hoà giải trước đã. Giữ một trái tim sạch tội, rồi sau đó mới hy vọng dễ nhận định tiếng Chúa nói qua lương tâm.
Trước một quyết định quan trong trong đời sống, như ngày truyền chức, ngày nhận một sứ vụ quan trọng, Giáo Hội khuyên những người này phải tĩnh tâm. Các tu sĩ theo luật, hàng năm phải tĩnh tâm. Tĩnh tâm là những ngày cầu nguyện đặc biệt hơn, nhiều hơn. Cứ hàng tháng, hàng năm lập đi lập lại nhiều lần tĩnh tâm như thế để tâm hồn ấy quen cách nói chuyện. Khi quen rồi, lúc phải quyết định một điều gì trong đời sống, tâm hồn này dễ vững tâm, bình an. Khi cuộc sống đi sai đường sẽ dễ nhận ra.
Tĩnh tâm là phương pháp sư phạm học nghe ngôn ngữ thiêng liêng, vì thế ai cũng cần. Nhiều người không nhận định rõ nên đếm xem mình đã tĩnh tâm bao nhiêu lần để so sánh với người khác, và tự cho mình một thứ “tốt nghiệp” qua những lần tĩnh tâm ấy.
Có người đi tĩnh tâm để cho biết là gì rồi sau đó thôi không tĩnh tâm nữa.
Tĩnh tâm không phải chỉ để giải quyết một vấn đề mà là hành trình tập nghe. Tiếng Chúa có sức mạnh. Chẳng ai nghe đủ và nghe hết, bởi đó, không thể có vấn đề tĩnh tâm như một thứ “tốt nghiệp”, một thứ chứng chỉ là tôi đã đi tĩnh tâm rồi, tôi biết rồi, tôi không cần đi nữa.
Chúa dành một thời gian rất dài, 40 ngày trong sa mạc để cầu nguyện. Trong đời sống hoạt động, Chúa tiếp tục tìm nơi thinh lặng để cẩu nguyện. “Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện” (Mt 14:23). “Trong những ngày ấy, Đức Yêsu đi ra núi cầu nguyện, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12). Chúa cũng bảo các tông đồ phải cầu nguyện. “Anh em phải tỉnh thức và cầu nguyện, hầu đủ sức thoát khỏi điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21:36)
Nghe là một nghệ thuật không thể qua một buổi sớm, đến một buổi chiều mà quen. Vấn nạn con không cầu nguyện, chỉ khi cần đến Chúa, con mới đên hỏi Chúa đôi câu. Không quen ngôn ngữ của Chúa nên con cho rằng Chúa không nói.
Lạy Chúa, vấn đề là con phải học nghe, chứ không phải là Chúa có nói hay không?
Phêrô đang ở dưới sân, một người đầy tớ gái của thượng tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói:
- Cả bác nữa, bác cũng ở với cái ông người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì!
Ông liền chối: - Tôi chẳng biết, chẳng hay cô muốn nói chi!
Chối lần thứ nhất: Nhìn kỹ đoạn văn trên, ta thấy những chi tiết sau: Một - Chỉ có một, không phải hai. Ðứa tớ - Ðầy tớ, không phải người địa vị. Gái - Tớ gái, không phải trai.
Như vậy, kẻ Phêrô gặp mặt tối đó là người mang địa vị thấp nhất trong xã hội bấy giờ. Chỉ một đứa, lại là đứa đầy tớ, mà lại là tớ gái! Thế mà Phêrô hoảng sợ. Làm sao lại có thể sợ hãi trước một người không quyền hành, không địa vị gì như thế? Chỉ là một tớ gái!
Cung cách của Phêrô chối nữa, ông chối bằng ngôn ngữ rất đặc biệt:
Tôi chẳng hay chẳng biết chị muốn nói chi!
Chợt nghe câu đó, người nghe xem ra như ông đâu có chối. Ông chối rất nhẹ nhàng. Ông làm bộ như không rõ chuyện gì. Ngôn ngữ hôm nay, người ta bảo là kiểu nói đánh trống lảng. Chối lần thứ hai:
Tin Mừng kể tiếp:
Rôì ông bỏ đi ra phía tiền đường. Bấy giờ có tiếng gà gáy. Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: - Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.
Ông Phêrô lại chối.
Qua đoạn văn trên, người đọc thấy sau khi chối lần thứ nhất xong, ông không còn ngồi chỗ đó nữa. Ông đi ra phía ngoài cổng. Như vậy, đối với khoảng cách trong không gian là ông xa Chúa thêm một khúc đường rồi. Chối lần thứ nhất ông còn ở giữa sân, còn gần Chúa. Bây giờ bỏ đi ra ngoài. Cái xa cách không gian ấy diễn tả một khoảng xa hơn trong tâm hồn. Nó là một khoảng tội nặng hơn.
Lúc nẫy ông chỉ đối diện với một đứa tớ gái thôi. Bây giờ đứa tớ gái nói với "những người có mặt". Như thế, ông đối diện với nhiều người. Chối Chúa lúc nẫy trước mặt một người, tội nhẹ hơn trước mặt nhiều người chứ. Hai lần chối không mang mức độ giống nhau. Lần này xa hơn, nặng hơn. Ông chối Chúa công khai hơn. Chối lần thứ ba:
Lần thứ ba này Tin Mừng Máccô cho biết những chi tiết cuộc chối bằng ngôn ngữ rất tinh vi, rất chính xác. Chính xác trong chi tiết để diễn đạt cái tang thương của Phêrô. Tin Mừng kể:
Một lát sau những người đứng đó lại nói với ông: - Ðúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê!
Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa mà thề: - Tôi thề là không hề biết người các ông nói đó. (Mc 14:70-71). Ở đây có bốn điểm chú ý, người đọc cần ghi nhận trong lần chối thứ ba này:
1. Không phải là một người tố cáo nữa mà là "những người có mặt" đều tố cáo. Một người tố cáo, ít nguy hiểm hơn nhiều người.
2. Tố cáo này xác đáng vì đi vào chi tiết lịch sử của Phêrô, họ nhận ra giọng nói của ông là người Galilê, họ biết rõ gốc gác, còn chối vào đâu?
3. Vì hai lý do trên, lần này Phêrô không chối nhẹ nhàng như lần đầu, ông lấy lời "độc địa mà thề".
4. Câu ông thề là: "Tôi không hề biết con người đó là ai".
Như thế, ông quyết liệt công khai chối bỏ liên hệ với Ðức Kitô để cứu lấy mạng sống. Bây giờ ông không cần biết con người ấy là ai nữa. Ông chỉ biết làm sao thoát thân trong lúc này.
Xét trong ba lần chối, người đọc thấy rõ tiến triển của ba lần khác nhau. Mỗi lần nặng thêm chứ không phải ba lần giống nhau. Ba lần chối như ba nấc thang của một con dốc xuống vực sâu. Mỗi lần là một bực sa xuống sâu hơn, sâu hơn nữa.
Giờ đây nhìn lại đời Phêrô, ta thấy thảm cảnh bi đát của thân phận một con người. Con người này làm được gì? Cả đời ông toàn là lỗi lầm. Cứ mỗi lúc ông lại lỗi nặng hơn. Lầm lỗi ngay khi theo Chúa ba năm trước ở biển hồ Galilê cho đến ba năm sau, giây phút sau cùng trước khi Chúa chết vẫn cứ lầm lỗi.
****
Bi kịch trên là thảm cảnh não nề cho đời Phêrô. Bi kịch ấy cũng là thảm cảnh não nề cho Ðức Kitô, một Rabbi mà có một môn đệ kém như thế. Nhưng đàng sau bi kịch này, đâu là mối dây liên hệ của hai người? Ta hãy tìm hiểu.
Chắc chắn Phêrô thương Thầy. Sau khi Chúa bị bắt, các môn đệ khác bỏ chạy. Phêrô cũng thế, nhưng không chạy xa. Không biết Thầy mình ra sao, ông trở lại, lẻn vào dinh thượng tế nghe ngóng. Nếu ông bỏ Ðức Kitô chạy xa thì đâu xảy ra nông nỗi này. Tội nghiệp cho ông vì ông thương Chúa.
Chiều sâu phía bên kia lỗi phạm của Phêrô vẫn có tình thương. Nói về tình thương sâu kín này, ta hãy ngoảnh lại nhìn một chút về chuyện Phêrô bị mắng lần thứ hai xem sao. Lần đó, Chúa mắng Phêrô "ngu tối". Giả sử hôm đó Phêrô lặng im đừng hỏi thì đâu bị mắng. Lời xin của Phêrô: "Thưa Thầy xin giải thích dụ ngôn đó cho chúng con" đã đưa Phêrô vào tròng. Lời xin ấy nói rằng Phêrô chậm hiểu. Vì lời xin đó, ông bị mắng. Ðàng sau lời xin, cho ta thấy chiều sâu trong trái tim, ông quý lời của Chúa. Không hiểu, ông hỏi chứ không im lặng bỏ qua. Có thể vài môn đệ khác cũng không hiểu. Nhưng đối với Phêrô, ông quý lời của Chúa. Ông không để lời đó trôi đi. Bằng chứng khi có người bỏ Chúa, Chúa hỏi các môn đệ có bỏ Chúa không. Phêrô là người thưa trước tiên: "Thưa Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai, Thầy có Lời ban sự sống" (Yn 6:68). Ta thấy tội nghiệp Phêrô. Ông có yếu đuối, lỗi phạm nhưng luôn có trái tim.
Ðối với Chúa, Chúa phải mang cái bi thảm của một môn đệ chậm hiểu, kém tin, hành động lung tung. Nhưng Chúa không bỏ môn đệ này trong yếu đuối, người môn đệ này có một tâm hồn.
Phêrô chối Ðức Kitô vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu. Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường trốn. Nhưng trước yếu đuối ấy Phêrô đã khóc. Nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông òa khóc nức nở.
Ðời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mạnh, giữa trọn vẹn và dang đở, giữa xa và gần, giữa trời và đất. T rái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Ðời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại, có lên cao gặp vực sâu.
Theo sát lời tường thuật của Phúc Âm, ông lầm lỗi và bị mắng nhiều quá. Tuy nhiên, có điều trong trái tim ông, Chúa có một chỗ đặc biệt. Trong tất cả trăn trở ấy, tim ông có một ước mơ. Cho dù yếu đuối, ông vẫn có một ước mơ. Cho dù chơi vơi giữa dòng nước, ông vẫn có một ước mơ. Ông thương Thầy mình.
Ðức Kitô không đếm chân ông đã bước được những bước thánh thiện nào. Ngài cũng không chối từ vì ông đã bước sai bao nhiêu bước. Ngài chỉ nhìn vào ước mơ trong trái tim ông. Và ở ước mơ đó, Thầy trò họ gặp nhau.
****
Lạy Chúa, Chúa không lầm khi chọn người môn sinh yếu đuối. Chúa không sa thải lúc người môn sinh lỗi phạm. Chúa lấy kiên nhẫn dẫn đi. Chúa là Thầy dạy lấy tình thương chịu đựng. Chúa nhận thập giá về phía mình để người môn sinh được nâng lên cao. Chúa không lầm khi gọi Phêrô. Lúc nào trong tim con có mơ ước theo Chúa, Chúa sẽ không nhìn đến yếu đuối của con, chỉ nhìn vào ước mơ ấy trong tim con thôi. LM. Nguyễn Tầm Thường Trích trong “Cô Đơn và Sự Tự Do”
Sau đó, Ðức Yêsu lại tỏ mình ra lần nữa cho môn đệ ở ven biển Tibêria. Ngài tỏ mình ra như thế này: Tề tựu với nhau có Simon Phêrô và Tôma, nghĩa là sinh đôi, Nathanael người Cana xứ Galilê, các con ông Zêbêđê, và hai môn đệ khác nữa, Simon Phêrô nói với họ: "Tôi đi đánh cá đây". Họ nói với ông: "Chúng tôi cũng đi với ông". Họ ra đi, lên một chiếc thuyền; nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả (Jn. 21:2-3).
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời của ông làm hai: Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma.
Tôi chọn những lời Phúc Âm trên đây để vẽ căn cước cho ông vì trong cuộc đời phần một của ông, ông đi từ lỗi lầm này qua lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông chối từ thê thảm (Mc. 14:66-72). Nhưng phần thứ hai trong đời ông là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Yoan trên đây. Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mùng sương gió cho Nước Trời.
Trên biển hồ Tibêria, thẻ căn cước của ông được viết bằng một hàng chữ ngắn: Tôi đi đánh cá. Ông mở đầu cuộc đời anh hùng ca của ông bằng mấy chữ ấy. Với thẻ căn cước đó ông vẽ chân dung của ông bằng những mảng màu độc đáo. Ðời ông ra sao về sau này, tuỳ thuộc ở tấm căn cước mà ông xác định trên biển hồ hôm nay: Tôi đi đánh cá. Vậy chúng ta hãy "xét" căn cước của ông để tìm một chút thành tố căn bản cho thiên anh hùng ca đời ông.
Chấp nhận cô đơn sương gió
Trên biển hồ hôm đó, ta thấy Yoan kể về một nhóm bạn hữu. Ðếm ra ít nhất cũng bẩy người, nếu tính cả Phêrô, biết đâu còn nhiều hơn. Thầy của họ vừa mới chết. Cái tang chế u buồn như còn chít vòng khăn sô trong tim họ. Mất Thầy rồi, giờ này biết đi đâu? Tương lai chúng ta ra sao? Chắc chắn họ vọng về những ngày quá khứ đi đâu cũng có Thầy với nỗi sầu muộn u hoài. Chắc chắn họ nhìn về tương lai với nỗi lo băn khoăn. Bởi đó, họ cần nhau. Ði đâu họ cũng muốn có nhau. Cho nên cái thường tình, họ ngồi chụm với nhau một đám đông là thế.
Trời xuống đêm nặng nề. Ngoài kia biển cứ mênh mông vô tâm. Họ hỏi nhau. Chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta phải làm gì? Những câu hỏi ngắn thôi mà câu trả lời sao mịt mờ quá. Trong cái bơ vơ mệt mỏi để tìm một định hướng, Phêrô lên tiếng: Tôi đi đánh cá.
Ông dại dột quá, tại sao ông không nói: Chúng ta hãy đi đánh cá. Ông lỡ lời mất rồi. Ông chỉ nói: Tôi đi đánh cá. Nếu không ai đi với ông thì sao? Khi ông nói, Tôi đi đánh cá, mà không ai đi với ông thì ông phải đi một mình. Chúng ta hãy nhìn mảng màu mà ông tự vẽ cho ông. Ông đã nhìn thấy một đêm đen mờ mịt, ngoài kia gió lạnh buông theo sương. Mênh mông một mái chèo. Lặng lẽ trong khuya khoắt một nhịp sóng cô độc, lẻ loi. Nếu không ai đi, một mình một mái chèo, một mình một biển rộng hoang vu, một mình một bão tố thăm thẳm. Nếu không ai đi, gió đưa về từng con sóng bung vạt áo, một tay đỡ nhịp, một tay chống. Chắc chắn ông đã nhìn thấy ra khơi trong đêm nay là thế. Nhưng tiếng lòng của ông là căn cước của riêng ông. Nếu không ai đi ông vẫn ra đi một mình.
Từ nay, bước đường căn cước ơn gọi làm Kitô hữu của tôi là thế . Là ngược gió mà đi, là ngược theo dòng đời mà tới. Tôi chọn hàng chữ Phêrô viết trên tấm căn cước của ông: Tôi đi đánh cá. Vì tôi thấy ông có một lựa chọn dứt khoát cho một ơn gọi. Không có ai đi, tôi vẫn đi. Trên cuộc đời, có người đi ngược, có kẻ về xuôi. Nhưng đâu là con đường của tôi. Phêrô, ông đã không để đời ông nhiễm lạnh vì cái ấm cúng của một đám đông. Ông không để đời ông sợ hãi vì không có kẻ đồng hành mà ngần ngại với ơn gọi. Tôi đang nhìn thấy một Phêrô khác cũng đang vẽ căn cước cho đời mình bằng thiên anh hùng ca của biển hồ Tiberia năm xưa, đó là Yoan-Phaolô II. Người ta chống đối Giáo Hội, vì Ngài dám nói thẳng về những tệ trạng thiếu luân lý, công bình của xã hội hôm nay.
Trong ơn gọi làm Kitô hữu của mình, tôi cần viết một hàng chữ cho căn cước của tôi.
Ðặc tính của lửa
Khi Phêrô nói: Tôi đi đánh cá. Các ông khác cùng nói: Chúng tôi cũng đi với ông. Chúng ta giả sử đêm ấy Phêrô không ra khơi, chắc hẳn chẳng có ai muốn xuống thuyền. Nhưng giờ đây, ta hãy nhìn những mảng màu táo bạo Phêrô đổ xuống biển hồ. Trong cái đêm đen mênh mông ấy, khi mà thế giới say ngủ, nhóm chài lưới bẩy người ra khơi. Họ tiến vào mù mịt gió sương, họ đập chèo vào mặt sóng không sợ hãi, họ dứt khoát đi thẳng vào mịt mùng nước mênh mông. Ðẹp làm sao trong cái u hoài sầu muộn, giờ đây bừng bừng lửa, đốt thành bẩy ngọn hải đăng thiêng liêng. Mỗi con sóng đập là toé lên từng mảng mầu dũng cảm long lanh. Mỗi ào ào gió tạt là vung tay gạt thách đố. Tôi có thể nhìn thấy Phêrô đứng ở mũi thuyền, mỗi lần sóng trào lên, mắt ông ngời sáng nhìn về phía trước. Tóc ông rối bay ẩm ướt gió sương. Không phải biển hồ đe dọa nuốt ông, mà là ông đe dọa sẽ nuốt cả biển hồ.
Lửa. Một lần Ðức Kitô đã nói: "Ta đã đem lửa xuống thế gian và ta muốn lửa ấy cháy lên" (Lc. 12:49). Ðặc tính của lửa là đốt cháy. Cái mệnh đề: "Tôi đi đánh cá" của Phêrô dẫn đến mệnh đề thứ hai: "Chúng tôi cùng đi với ông". Họ đã bị Phêrô đốt cháy.
Lạy Chúa,
Cuộc đời con có nhiều khúc đường mà kẻ đi xuôi, người về ngược, kẻ bảo dừng, người phân vân. Trong cái hoang mang đó con rất dễ đánh mất căn cước ơn gọi của con. "Xét" căn cước của Phêrô, con thấy đời ông có một lý tưởng. Thiên anh hùng ca đời ông đã bắt đầu bằng thái độ dứt khoát đó. "Xét" căn cước của Phêrô, con thấy ông đã đốt cháy đời kẻ khác chung quanh ông. Dựa vào căn cước của ông con cần xét căn cước của mình:
Trong cuộc sống, nếu con không dám trung thành với giáo huấn của Giáo Hội, nếu con tự nhủ lối sống dễ dãi của con chẳng có gì phàn nàn vì tất cả kẻ khác cũng sống như vậy. Ðấy là dấu chỉ con bỏ căn cước ơn gọi Kitô hữu của con, con đang cầm căn cước của người khác rồi.
Lý tưởng của Phêrô đã làm thay đổi ngoại cảnh chung quanh ông. Chỉ có lửa giả mới không đốt cháy. Nếu trong bổn phận Chúa trao cho con, mà chung quanh con mọi thứ đều tà tà, chẳng có gì thay đổi, đấy là dấu hiệu con phải "xét" kỹ lại căn cước thiêng liêng của mình.
Tôi cần nhìn lại lối sống tín nguỡng của mình nhiều lắm. Có những cách sống đã quá quen thuộc, tôi tưởng chừng như mình đang sống đức tin, nhưng có lẽ tôi chỉ quằn quại với niềm tin mà thôi, vì tâm hồn không an vui, không hạnh phúc, và những người chung quanh tôi cũng không hạnh phúc, không an vui.
Khi niềm tin trở thành quằn quại thì nghi thức tôn giáo là gánh nặng.
- Chúa nói: “Ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (M. 20:28). Như vậy, niềm tin là một giếng nước. Mà để kéo gầu ấy, tại sao ta không thể có niềm vui?
- Chúa nói: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt. 11:29). Như vậy đến với Chúa là một giải thoát. Tại sao ta thiếu thiết tha khi cử hành phụng vụ?
- Thấy bệnh tật, Chúa chữa lành, thấy đói, Chúa cho ăn (Mt. 14:14-21). Như vậy, niềm tin là cánh tay với vào vườn hoa trái. Tại sao ta thấy nặng nề?
Có người nói: “Tôi bận quá, không thể đi tĩnh tâm được”. “Tôi mỏi mệt lắm, không thể phục vụ Chúa được.” Trong khi đó, vì bận rộn nên mới cần tĩnh tâm, để Chúa dắt đi, nghỉ ngơi. Trong khi đó, vì ta mỏi mệt, và gánh đời quá nặng, Chúa mới đến để phục vụ. Có một suy nghĩ nào đó dường như không ổn. Nếu suy nghĩ không ổn thì rất có thể suy nghĩ ấy sẽ đưa đến một lối sống khắc khoải.
Thánh Inhaxiô, sau khi thụ phong linh mục, ngài không dâng lễ mở tay ngay. Ngài đợi một năm sau. Và rồi cứ mỗi lần dâng lễ ngài lại khóc. Còn Mẹ Têrêsa Calcutta thì treo trong phòng áo lễ của nhà dòng tấm bảng:
Xin linh mục của Chúa, Cha dâng lễ này như thánh lễ mở tay, như thánh lễ sau cùng, như thánh lễ chỉ dâng duy nhất một lần trong đời mà thôi.
Nói về bí tích Thánh Thể, về những nghi thức cử hành. Hôm nay người ta nghe thấy những lời “khen”, tiếng “chê”. Đi lễ cha kia làm lẹ lắm. Và dường như cũng có những linh mục, vô tư nhận mình làm lễ lẹ lắm, nhiều người thích. Họ nói với người tham dự: “Chúa ở cùng anh chị em”. Nhưng thật sự đấy chẳng phải là lời cầu chúc, vì tay đang mở sách, chưa thấy lời nguyện thánh lễ hôm nay ở trang nào. Tâm trí đang vội vã đi tìm. Có những thánh lễ mà giây phút cực trọng là truyền phép Thánh Thể, linh mục đọc quá vội vàng. Chưa xong đã bái gối, chưa bái gối xong đã hối hả đứng dậy. Rất là liếng thoắng. Tôi cũng thấy nhiều thừa tác viên thánh thể, sau khi cho chịu lễ, họ rước Máu Thánh còn lại trong chén thánh như uống một ngụm Coca. Họ “bốc”, họ “đổ” Bánh Thánh như đổ một hũ đậu phụng. Họ thiếu cung kính vì thiếu tấm lòng. Họ đến từ một cộng đoàn mà chính cha quản nhiệm không đầy đủ bổn phận huấn luyện họ cung kính Thánh Thể Chúa. Làm sao huấn luyện nếu chính cha quản nhiệm thiếu tấm lòng. Đi giúp mục vụ nhiều nơi, tôi rất cảm kích khi có những linh mục đến nhà thờ rất sớm, không tiếp ai trước thánh lễ. Họ dành giây phút đó để chuẩn bị thánh lễ. Và cũng có những thừa tác viên Thánh Thể được huấn luyện rất cung kính khi thi hành nhiệm vụ thánh.
Lạy Chúa,
Con cần hiểu bí tích Thánh Thể là kết quả của tình yêu Chúa chết cho con người được sống. Làm sao con có thể cử hành cho chóng qua như một cuộc gặp gỡ mà con không muốn gặp. k Làm sao con cảm nghiệm được khi con chỉ gặp để cho qua.
Con cần phải hiểu những gì con đang làm, con đang sống, tôn giáo con đang theo. Con phải hiểu thông báo của người đàn ông kia là thông báo của thiên thần báo mộng trước cửa đền thờ linh hồn mỗi khi con bước vào:
- Đức tin không có đức ái, sẽ không biết lối nào đi.
Con phải hiểu Thánh Thể Chúa là tình yêu vô cùng sâu thẳm.
- Xin cho con lòng yêu mến trưởng thành.
Con phải hiểu Thánh Thể Chúa là mầu nhiệm cực thánh.
- Xin cho con cử hành với tâm hồn hết sức kính cẩn, thiết tha.
Lm Nguyễn Tầm Thường, S.J trích trong “Thánh Thể - Đường Đi Một Mình”
“Về gần đến nhà, khi nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì” (Lc 15:25).
Đó là phản ứng đầu tiên của người anh trong câu chuyện “đứa con hoang đàng” hay là “người cha nhân hậu” của Phúc Âm thánh Luca.
Tại sao không vội vã vào ngay?
Có thể anh ta đoán được chuyện gì đang xảy ra. Chuyện người em đã về.
Anh ta không muốn vào nhà vì biết đâu người em đã về thật. Anh gọi người đầy tớ ra hỏi cho chắc. Không ngờ, người đầy tớ báo tin. Trong lời báo tin này có ba sự kiện:
- Em cậu đã về !
- Cha cậu đã giết con bê béo !
- Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ! (Lc. 15:27).
Nghe xong, anh “nổi giận”, không chịu vào nhà. Thế là hết! Ba yếu tố vừa kể trên làm anh ta đau đớn. Anh không muốn đứa em về. Không muốn người cha thịt con bê béo. Không muốn người cha nhìn đứa em mạnh khoẻ. Anh chối từ bữa tiệc. Chối từ bữa tiệc cũng là không muốn gặp mọi người hiện diện ở đó. Nếu vào nhà, gặp đứa em, anh ta làm sao chạy ra? Nếu vào nhà, bà con láng giềng chúc mừng em anh ta đã về, anh biết phản ứng làm sao? Anh không vội vã vào nhà. Anh đã tính toán khá kỹ.
Tại sao không truyền lệnh mà năn nỉ?
Có thể người đầy tớ phải vào báo cho chủ biết nên người cha mới ra gặp anh ta. Hoàn cảnh người cha rất khó xử. Nếu anh ta không vào, ông trả lời thế nào với đứa con thứ khi nó hỏi:
- Anh con đâu?
Nếu người con trưởng không vào, ông biết nói thế nào với bà con láng giềng về sự vắng mặt rất ý nghĩa này. Nếu những người giúp việc nói chuyện với nhau, họ phản ứng thế nào, vì họ không ngờ chuyện lại xảy ra như thế. Ai cũng nghĩ là một ngày vui. Rồi câu chuyện đến tai bà con lối xóm, những người dự tiệc. Bây giờ, đề tài trong bữa tiệc này chuyển hướng về đâu?
Ngày hôm nay, có bố mẹ cũng không sao sắp xếp được cho các con ngồi chung với nhau một tiệc vui. Có những anh em thề không nhìn mặt nhau. Họ nói:
- Nếu có vợ chồng chúng nó, không có con!
Vì sao người cha trong câu chuyện này không truyền lệnh mà lại năn nỉ? Ông rơi vào tình cảnh đó. Ông ở một hoàn cảnh rất thương tâm.
Phản ứng của người con thứ
Cho đến lúc này ta không nắm chắc tâm tư người con thứ và cuộc trở về của nó.
Nếu người con thứ biết anh nó đang nổi giận ngoài kia. Liệu bữa tiệc có tiếp tục vui?
Chi tiết cho hay là nó về vì đói. Luca nói rõ: Nó ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Nhưng không ai cho.
Điều cần lưu ý ở đây là chữ “dân”. Nó đi chăn heo cho một người “dân” trong vùng . Không phải chăn heo cho một ông chủ. Người dân này lại đang trong nạn đói “khủng khiếp”. Heo của nhà giàu, chắc ăn thức ăn khác của nhà nghèo. Đã nghèo mà lại trong nạn đói khủng khiếp. Như vậy còn gì mà ăn? Ấy thế mà nó vẫn chưa chịu về, vẫn xin đồ ăn của “heo-nhà-nghèo-trong-nạn-đói”. Giả sử người ta cho nó thứ đồ ăn đó, nó đâu có về. Bằng chứng là nó chỉ về khi người ta không cho nó. Nếu không về lấy gì ăn?
Sau cái ôm hôn, sự gặp gỡ cha có làm nó mủi lòng thật tâm trở về hay không? Phúc Âm không nói rõ. Dù nó thật tâm hay không thì người cha vẫn có bữa tiệc. Chúng ta không nắm chắc được tấm lòng người con thứ sau vòng tay của cha. Có thể nó sám hối ngày tháng cũ khi cảm thấy cha thương mình. Cũng có thể chưa. Cũng có thể lên mặt với người anh khi thấy anh nó hành xử như vậy. Luca viết đoạn văn này tuyệt với với những nét “thiền niệm” quá sâu. Luca để băn khoăn đặt ra là, nếu biết người anh nổi giận vì cuộc trở về của mình, phản ứng nó sẽ ra sao? Và điều gì xảy ra trong bữa tiệc?
Nguyên nhân của những nguyên nhân
Dựa vào bản tường thuật, sau khi chia gia tài, đứa con thứ “ít ngày sau, thu góp tất cả, rồi trẩy đi phương xa” (Lc. 15:13). Nó ở lại ít ngày, và thu góp “tất cả” rồi mới trẩy đi phương xa. Như thế, khi ra đi nó không thể bỏ cái áo “đẹp nhất” ở lại. Ngày nó về, người cha bảo các đầy tớ mau mau đem áo “đẹp nhất” ra đây mặc cho cậu.
- Áo đó ở đâu?
Khi được sai đi lấy áo, người đầy tớ không hỏi áo nào. Người đầy tớ biết rõ “cái áo”. Có một liên hệ hiểu ngầm nào đó giữa người cha, chiếc áo và người đầy tớ. Họ biết rõ về câu chuyện cái áo.
- Bắt con bê đã “vỗ” béo để làm thịt.
Không phải con bê béo, nhưng là con bê đã “vỗ” béo. Như thế ta thấy rõ cái áo từ đâu ra. Cái áo phải là chiếc ông may sẵn. Vì con bê đã được “vỗ” béo. Bắt con bê mà từ trước tới nay vẫn săn sóc đặc biệt cho nó béo. Săn sóc đặc biệt con bê cho béo để làm gì? Bản tường thuật cho thấy rõ. Ông thịt con bê đó trong ngày người con thứ trở về. Như vậy, trước khi nó về, người cha may áo mới chờ đợi, săn sóc con bê cho bữa tiệc. Tất cả những chuyện này, đầy tớ là người lo chuẩn bị. Cho nên khi công việc xảy ra, mọi chuyện đâu vào đó. Khổ một điều, tất cả chuyện này, người con cả cũng biết.
Người con cả thấy đầy tớ săn sóc con bê cho béo. Anh ta thấy may sẵn áo mới chờ ngày. Từ ngày đó, lòng anh không yên tâm. Những ngày sống của anh là giận kín trong lòng. Hồn anh là tháng năm rất âm u. Nhìn con bê, nghĩ đến bữa tiệc có ngày xảy ra. Anh sợ ngày đó. Anh lo một ngày nào đó đữa em sẽ về. Không ngờ, hôm nay nó về thật.
Dang dở ngàn trước cho đến ngàn sau
Người anh cả. Câu chuyện dang dở từ đây.
“Gọi người đầy tớ ra mà hỏi”.
Bình thường khi thấy gia đình như thế, người ta phải vội vã chạy về xem có chuyện gì mà vui vậy. Nhưng anh dè dặt, vì… nếu là tiệc cho đứa em thì sao? Nếu chạy vào mà đúng là đứa em về thì… trời ơi! Anh ta gọi người giúp việc ra hỏi, sự thận trọng đó là đúng.
Đời anh là những tháng ngày dang dở. Từ khi người con thứ bỏ nhà đi thì người cha cũng mất luôn người con trưởng, vì tấm lòng nó chật chội quá. Nó ở trong nhà, mà tấm lòng chỉ là một quán trọ tính toán giữa chợ. Căn nhà không có trái tim bao dung, buồn làm sao. Anh sống những ngày ảm đạm của một tấm lòng khoắc khoải. Nếu ngày nào đó có tiếng đàn ca thì sao, buồn quá. Anh lo cho ngày đó, anh sợ tiếng đàn vui.
Cuộc đời như vậy lặng lẽ quá nhỉ.
- Chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con.
Thì ra thế! Thời gian những người đầy tớ “vỗ” con bê cho béo, cũng là những tháng ngày nó bị dằn vặt đau đớn. Nó thầm mong một con dê con. Ấy vậy mà bây giờ cha dám giết cả một con bê béo vì thằng em. Lòng ghen tức làm nó khổ.
Trong lúc “nổi giận” không chịu vào nhà, nó nói gì? Bản tường thuật cho thấy nỗi đau ray rứt linh hồn anh ta sâu lắm.
- Thằng con của cha đó, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! (Lc. 15:30).
Anh ta lại nhắc đến con bê. Con bê béo này là hình ảnh xót xa liên hệ đến con dê, vì một con dê con anh cũng không có. Rồi vì con bê ấy thúc đẩy anh dùng cụm từ này: “Thằng con của cha đó”. Anh ta nói với cha mình như vậy. Thế thì, anh ta là con ai? Đứa nào ngoại hôn? Cụm từ “thằng con của cha đó” là nỗi đau vô vàn đối với một người cha có con như vậy. Làm sao một người con có thể nói với cha mình như thế.
Đời người con cả trong câu chuyện này quá dang dở. Anh ta sống, nhưng không còn là anh ta sống nữa. Bên cạnh cha là bổn phận ngày tháng dài lê thê. Anh chưa hề trái lệnh. Chính vì chưa trái lệnh nên mới càng đau. Chưa trái lệnh mà không được một con dê con, nên cái lê thê mới dài, dài của những ngày tìm mà không gặp cái mình tìm. Lòng ghen tức, nỗi cay nghiệt, xót xa trăn trở sống trong anh ta. Thấy cha may áo chờ, biết đâu có ngày người con thứ về. Từ ngày nó bỏ đi, thì lòng người con cả rối bời, chỉ sợ ngày em nó về. Nhìn gia nhân săn sóc con bê cho béo, anh đau đớn. Nhìn con bê, nghĩ đến cái áo, anh không một ngày vui. Cuộc sống anh ta khổ quá.
Tại sao người cha không cho?
Ông còn gì đâu mà cho! “Tất cả những gì của cha đều là của con!” Như thế, có nghĩa là nó có thể giết bất cứ con dê nào nó muốn, vì tất cả là của nó! Trời ơi! Vậy mà nó không biết. Tại sao nó không hiểu điều này! Đời anh ta sao dang dở quá vậy? Anh ta sống bên gia nghiệp lớn như thế mà cứ nghèo, ao ước một con dê con cũng không được. Giữa những cơn nghèo ấy, giữa những tháng ngày khao khát ấy, thì cừu cứ từng bầy, chiên cứ từng đàn ngày ngày đi về trước đời anh. Tại sao sống bên vàng bạc lại túng thiếu, bên cánh đồng mà không đủ thóc. Tại sao suối đầy nước mà ruộng mình cứ nắng hạn. Đời anh dang dở quá. “Tất cả của cha là của con”. Câu này mang ý nghĩa là nó muốn giết con dê nào thì giết. “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn thì anh em không còn lệ thuộc lề luật nữa” (Gal. 5:18). “Nếu gia nghiệp dành cho những kẻ lệ thuộc lề luật thì đức tin thành vô nghĩa và Lời Thiên Chúa bị huỷ bỏ” (Rom. 4:11).
Mà đời người cũng bi thương khôn cùng. Con sống bên mình mà không biết tâm tư của mình. Cha con cứ xa nhau.
Người con thứ chỉ xúc phạm cha một câu: “Xin chia phần tài sản con được hưởng”. Người con trưởng xúc phạm đến cha nhiều quá.
Không thấy người con thứ xúc phạm đến anh nó. Nhưng người con trưởng xúc phạm cả em nó. Tại sao nó đương nhiên kết luận em nó nuốt hết của cải với “bọn điếm”.
Người con thứ ra đi, cha nó thương vì có nhớ. Hoặc vì nhớ nên thương.
Người con trưởng ở nhà, nên không thể nhớ. Không nhớ, nhưng cha có thương không? Điều này chắc chắn có. Vì: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.
Cái bất hạnh của người con trưởng là không nhận ra tình thương của cha. Trong tình yêu, khi không nhận ra thì cũng không nhận được.
Nếu người con trưởng không nhận ra, không nhận được tình thương của mình, thì tình thương của người cha lại trở về với ông ta mà thôi. Cho mà không có người nhận, đó là cô đơn.
Cuộc đời người cha trong câu chuyện này cũng quá dở dang. Một nỗi cô đơn của kẻ cho mà không có người nhận. Của kẻ gần mà quá xa.
Cha anh ta ra năn nỉ:
- Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy (Lc. 15:32).
Lời người cha nói: “Em con đây”, vừa êm ái vừa tha thiết. Nhưng với người con trưởng có là “em con đây” hay vẫn là “thằng con của cha đó”.
Câu chuyện thật là dang dở ở đoạn kết. Sau khi người cha nói với anh ta như vậy, Luca chấm dứt câu chuyện. Đọc xong rồi, người đọc băn khoăn:
- Vậy sau cùng, người con trưởng có vào nhà không?
Luca không cho người đọc biết quyết định của anh ta.
Tôi giả sử: Nếu anh vào thì mọi chuyện quá đẹp.
Nếu anh ta không vào. Bao nhiêu vấn nạn được đặt ra. Liệu bữa tiệc có tiếp tục? Tiếp tục thế nào? Chiều đến, từ xa vẫn nghe “tiếng đàn ca nhảy múa”. Các người dự tiệc sẽ hỏi gia chủ:
- Thưa ông, thế cậu hai đâu?
Người cha biết trả lời khách làm sao. Nếu chiều về, người con thứ vẫn không thấy mặt anh mình trong bữa tiệc. Người cha sẽ nói gì với nó khi ông biết rõ anh nó đang “nổi giận”, và không chịu vào nhà.
Tại sao Luca, khi viết chuyện này không cho đoạn kết? Tại sao lại bỏ lửng câu chuyện ngang chừng? Đọc xong, người đọc không biết người con cả có vào nhà hay tiếp tục ở ngoài.
Đọc xong, ta thấy một trời bơ vơ.
Tâm trạng người cha thế nào? Nó không vào, ông trả lời khách sao đây? Ông tìm cách nào để cắt nghĩa cho người con thứ về sự kiện anh nó nổi giận không chịu vào nhà? Tâm trạng người con thứ nữa, nó có điên tiết, anh em đánh nhau ngay bữa tiệc? Lối xóm phản ứng ra sao? Câu chuyện trong bữa tiệc chuyển đề về đâu? Tất cả rối bời.
Giả sử Luca cho người con trưởng hối hận rồi nghe cha vào nhà, câu chuyện có toàn bích hơn không? Vì sao Luca không viết rõ?
Đọc xong, băn khoăn không biết hỏi ai.
Một trời bơ vơ.
Phải chăng vì tác giả biết có ngày người ta sẽ băn khoăn đặt câu hỏi. Phải chăng Luca muốn cho cái dang dở ấy hết dở dang khi người ta tự thắc mắc với chính lòng mình:
- Nếu tôi là người anh cả tôi sẽ vào hay không? Nếu tôi là người con thứ, tôi phản ứng thế nào?
Đây cũng là đường đi một mình, vì chỉ tôi biết rõ lòng tôi. Chỉ tiêng tôi có câu trả lời cho tôi.
Luca phải để cho câu chuyện dở dang, vì dở dang này chỉ chấm dứt trong tim người đọc chứ không thể hết dở dang bằng ngòi bút.
Người ta chúc mừng nhau. Bằng lời nói. Bằng thư từ. Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng bi đát nhất.
Chẳng hạn:
Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.
Hoặc như:
Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha. Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình Cha sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.
Những lời chúc rất chân thành. Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía và bi đát bấy nhiêu. Thực tế, những lời chúc này xảy ra hàng ngày, ở chỗ này, chỗ kia. Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước. Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế. Sự bi thương nằm ở đó. Lời cầu chúc này đến từ một thực tế. Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày. Nó là tấm gương phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của người được cầu chúc.
Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời gian.
* * *
Kỷ niệm 25 năm thành hôn
Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau. Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi. Nó xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu. Nói cách khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một hết như thủa ban đầu. Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao. Nếu tình yêu của người nào đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa gì? Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau như vậy. Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc. Nếu vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?
* * *
Kỷ niệm 25 năm linh mục
Sau 25 là linh mục. Tôi rửa tội biết bao nhiêu người. Tôi săn sóc biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp hối. Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ. Biết bao lần Mình Máu Thánh Chúa hóa thân trên tay tôi. Tôi cử hành biết bao bí tích. Như thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng. Một phần tư thế kỷ sống sống đời linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức. Tại sao người ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương?
Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sắng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dâng hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay. Nghĩa là hôm nay tôi dâng thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm. Tôi hết náo nức rồi.
* * *
Vì sao có những lời chúc như thế. Cũng là do thực tế mà thôi. Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường. Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy. Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương. Vì nó thật nên nó bi thương. Những lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm.
Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông cầu thương khó. Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu. Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân. Linh mục phải nhìn lại linh mục. Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng. Những lời chúc ấy đến từ ước vọng. Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.
Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên nhân.
Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên do.
Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào vườn hạnh phúc. Ðàng sau đó là một chân trời khám phá. Thì càng đi càng say chứ. Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài. Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.
Những ngày đầu của linh mục cũng thế. Mới lên đường mà thấy lòng rộng mở, thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới chứ. Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.
Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời. Ði tìm nguyên do, đi hỏi nguyên nhân. Kinh Thánh bảo: "Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi" (Mt.13: 25). Thời gian nào mà không có phấn bụi bay. Khoảnh khắc nào mà không có sương mù. Hạnh phúc rất mong manh. Tấm gương cần phủi bụi mỗi ngày. Cỏ lùng cần nhổ khi còn là mầm non. Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.
* * *
Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.
Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.
Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ không ao ước quay về.
Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì con đò sẽ lặng lẽ biết bao. Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá. Chả có sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm sao.
Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc.
Ðừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế.
Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.
Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.
Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng sáng phải ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.
Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần ánh sáng hơn.
Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.
Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.
Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng hơn.
"Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số,
Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót.
Ðể lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ,
Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?" (Tagore)
Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi.
Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia.
Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé.
Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét.
Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét như thế.
Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm.
Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy.
Lời cầu chúc đến từ ước mơ.
Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật.
Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật.
Con có đau thương vì lời chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu kinh.
Lời cầu chúc đến như tiếng than thở.
Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng gọi.
Lời cầu chúc đến từ thực tế.
Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?
Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi.
Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa:
- Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.
* * *
Ôi! Lạy Chúa,
Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa.
Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con.
Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa. Amen.
Lm Nguyễn Tầm Thường SJ (Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình, xuất bản mùa Giáng Sinh 2005)
Tôi thấy thập giá khắp nơi, trên mộ bia trong nghĩa trang, trên tháp cao nhà thờ, bên bàn thân lễ, trên ngực áo, bên vành tai, trên tường đá. Nhiều thập giá quá. Đức Kitô bị đóng đanh trên thập giá. Thập giá đã mặc nhiên được coi như biểu tượng của Kitô hữu. Nơi nào thấy thập giá, người ta nghĩ ngay nơi ấy có đạo Chúa. Vậy có thể nói nơi nào có thập giá, nơi ấy có Đức Kitô không?
Tôi không nghĩ vậy.
Trong khi Đức Kitô bị đóng đanh đã có thập giá rồi. Người Rôma dùng thập giá để lên án tử hình cho các tội nhân. Bây giờ, ở đâu có thập giá là có sự chết. Người ta sợ hãi thập giá. Bóng thập giá là tử thần. Thập giá ở đâu có khóc than ở đó. Bởi thế, nếu nói đâu có thập giá là có Chúa thì kiểu nói ấy e rằng rất hàm hồ. Hôm nay, nếu nói nơi nào có bóng thập giá là nơi ấy có vết chân người Kitô hữuthì có thể đúng. Nhưng làm sao dám khẳng định nơi nào có Kitô hữu là có Chúa hiện diện? Người ta có thể dùng thập giá để đấu tranh. Đã chẳng có những xứ đạo mất bình an chỉ vì xây cất nhà thờ đó sao. Không phải cứ có bóng thập giá là có sự hiện diện của Chúa.
Biểu tượng và ngẫu tượng
Những gì tôi thấy hôm nay, thập giá trên tháp chuông cao, thập giá trên bàn thờ nhà tôi, thập giá ở cổng giáo đường, nhiều khi rất là vô nghĩa. Tôi quá quen thuộc với biểu tượng nên biểu tượng có thể trở thành ngẫu tượng. Khi tôi mặc nhiên cho rằng nơi nào có thập giá là có Chúa thì tôi có thể chỉ nỗ lực xây dựng nhiều thập giá. Điều này dễ rơi xuống hố sâu nguy hiểm. Biểu tượng bao giờ cũng mang hai đặc tính. Đặc tính thứ nhất của biểu tượng là cần nhìn thấy. Vì thế, thập giá có thể bằng xi măng, bằng đá, bằng đồng, bằng vàng. Đặc tính thứ hai là biểu tượng ấy phải diễn tả một thực tại không nhìn thấy ở đàng sau. Điều này gian nan chứ không đơn giản. Một thực tại vắng mặt thì có thể diễn tả bằng một biểu tượng. Nhưng không phải cứ có biểu tượng là có thực tại vắng mặt. Và bi đát hơn nữa là người ta có thể đánh lừa bằng biểu tượng. Gởi tặng cánh hoa là gởi biểu tượng để chuyển ngữ một tình cảm không nhìn thấy. Biểu tượng ấy chỉ đúng nghĩa khi có tình yêu ở phía sau. Như thế phải có tình yêu trước. Biết bao giờ người tặng hoa những không tặng tình yêu. Biết bao giờ người nhận hoa mà trao lầm trái tim vì ngỡ rằng có tình yêu ở đàng sau cánh hoa.
Điều đó cũng đúng với thập giá. Thập giá là biểu tượng thì tôi phải đi tìm thực tại đàng sau biểu tượng. Nếu tôi gọi thập giá là biểu tượng hiện diện của Chúa mà thật sự không có Chúa thì lòng yêu mến biểu tượng ấy thành ôm giữ ngẫu tượng. Qúa quen với não trạng thập giá là biểu tượng hiện diện của Chúa, nên ta ít tự hỏi nếu không có sự hiện diện của Chúa thì tôi đang ôm giữ gì. Không còn là biểu tượng hiện diện của Chúa, nếu không là ngẫu tượng thì ta gọi là chi?
Lý do các thượng tế đưa ra để kết tội Chúa là vì Đức Kitô nhận mình là con Thiên Chúa. Theo họ, Đức Kitô đã phạm thượng vì xúc phạm đến Thiên Chúa. Còn họ thì phải bảo vệ Thiên Chúa. (Mc. 14:60-64). Chính trong hành động nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thiên Chúa họ đã kết án Thiên Chúa. Chính hành động họ nói với Đức Kitô phạm thượng, họ đã phạm thượng. Gian nan là ở đấy. Quá gần Thiên Chúa nên ngỡ Thiên Chúa ở rất xa. Càng đợi trông một Thiên Chúa ở xa mà Ngài lại ở gần thì sự xa cách ấy lại càng xa hơn nữa.
Do đấy, kẻ ôm giữ thập giá là biểu tượng chứ chưa chắc có sự hiện diện của Chúa mà họ cứ khăng khăng tin rằng họ đang ôm giữ Chúa thì làm sao mà nhận ra sự xa cách ấy. Cho nên họ tưởng rất gần Chúa mà thật sự rất xa. Từ biểu tượng đến ngẫu tượng, họ tưởng rất xa, mà lại hoá quá gần.
Từ thập giá đến THÁNH giá
Ba cây thập giá dựng lên trong chiều ấy. Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là THÁNH giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Ngài đi vào Phục Sinh thì cây thập giá khốn khó ấy thành cây cứu rỗi và trở nên THÁNH. Chất THÁNH ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết, là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không phải là THÁNH giá.
Nhìn lại những bến bờ đã đi qua của thập giá và THÁNH giá, ta thấy khi thập giá trở thành THÁNH giá rồi cũng không có nghĩa cứ thoáng nhìn là nhận ra THÁNH giá. Vẫn có một khác biệt rất lớn. Câu chuyện hai người trômk bị đóng đanh cùng với Chúa chứng minh điều đó. Một người nhục mạ Chúa:
“Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu chúng tôi với.” Một người thì nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức Yêsu: “Ông Yêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Đức Yêsu nói với anh: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc. 23:39-43).
Một người nhìn thấy thập giá là THÁNH giá. Một người thấy THÁNH giá chỉ là thập giá.
Phân biệt thập giá và THÁNH gía không đơn giản. Lại càng không giản đơn khi ta quá quen biểu tượng trong một não trạng mù mờ. Trước THÁNH giá thật mà còn không nhận ra THÁNH giá thì trước những THÁNH giá giả vấn đề còn gian truân tới đâu. Nếu không biết yếu tố làm nên chất THÁNH, nếu không tìm yếu tố làm nên chất THÁNH, nếu không sống yếu tố làm nên chất THÁNH thì ta không có THÁNH giá. Cả một bến bờ cuộc sống chỉ là ngẫu tượng.
Trong xã hội hôm nay, từ tâm lý quảng cáo đến các tổ chức chính trị, văn hoá, thể thao, nghệ thuật, từ cá nhân đến tập thể, chỗ nào cũng thấy có những biểu tượng cho sinh hoạt của tổ chức đó. Mặc dầu Chúa bảo: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con hãy yêu thương nhau” (Yn. 13:34-35). Nhưng chúng ta cũng vẫn có một biểu tượng cho sự hiện diện của đạo Chúa, đó là THÁNH giá.
Biểu tượng là để người khác nhìn. Tôi sống trên quê hương tôi thì biểu tượng là ngôn ngữ nói với những người cùng một quê hương ấy. Tôi phải dùng ngôn ngữ nào dễ hiểu và chính xác cho thực tại là Chúa ở sau biểu tượng? Trên một quê hương nghèo đói thì biểu tượng để nói về Chúa là bác ái, chia xẻ cảnh khốn cùng. Giữa tuổi chán nản với lí tưởng hoà bình, nhân quyền, buông xuôi theo lối sống cho qua ngày thì biểu tượng là trái tim nhiệt thành, can đẩm, yêu đời. Giữa cảnh các bé thơ thất học không có trường lớp, thầy cô thiếu lương, thì sự hiện diện của Chúa không là biểu tượng thập giá to hay nhỏ, mà phải là THÁNH giá có tình yêu, dấn thân cho Tin Mừng bừng con tim tân tụy như chính một rung cảm chiều nọ bên đồi vắng: “Ta thương đoàn dân này… Ta không muốn để họ đói… Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt. 15:32)
Lạy Chúa, không có bác ái, không có THÁNH giá, chỉ có thập giá thì con chẳng nói gì về Chúa cho những người cùng một dân tộc mà Chúa sai con tới cả. Một biểu tượng sai về Chúa sẽ làm cho Chúa còn khổ tâm hơn nữa. Có khi người ta càng nhìn thấy thập giá mà càng xa Chúa. Có khi càng nhiều bóng thập giá càng làm người ta khó chịu những kẻ xây dựng nên nó. Điều đó cũng đúng thôi, vì thập giá không là THÁNH giá. Có THÁNH gía phải có bác ái.
Lạy Chúa, nhưng nếu con không hiểu rõ con đang có THÁNH giá hay chỉ có thập giá trong giáo xứ, trong gia đình, trong đời sống của con thì làm sao con biết nói với dân tộc con về Chúa qua biểu tượng THÁNH giá.
Tác giả: Nguyễn Tầm Thường, sj. (trích viết Trong Tâm Hồn)
Sống mong đợi là sống trong thương nhớ. Nỗi nhớ càng nhiều thì nỗi mong càng ray rứt. Mong đợi là gởi tâm hồn mình đi để tìm một tâm hồn. Là sống ở đây, nhưng vẫn không là sống thực. Một phần đời nào đó đã mất. Ở rất xa.
Lịch sử cứu rỗi là lịch sử mong đợi. "Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa vị cứu tinh". Dân Chúa đã mong đợi ân tình cứu rỗi. Ðấng Thiên Sai đã đến. Con người không chấp nhận. Ðóng đinh Ngài trên thập giá. Con người đã bỏ đường đến cứu độ. Ði xa. Và bây giờ, đến lượt Thiên Chúa mong chờ, Ngài đợi tôi trở về. Một phần đời nào đó đã mất. Ở rất xa.
Câu chuyện "Người Con Hoang Ðàng" trong Tin Mừng Luca đã diễn tả trung thực hình ảnh mong đợi của Cha. Người con đi hoang nhưng người con đã trở về. Như thế, có thể gọi dụ ngôn là câu chuyện "Người Con Trở Về". Dù người con trở về hay người con đi hoang thì tình thương của Cha vẫn không thay đổi. Bởi đó, tôi thích đặt tên cho dụ ngôn là "Nỗi Mong Của Cha". Vì nói đến mong đợi là nói đến tình thương.
Người con đến nói với cha mình: "Xin cha ban cho con phần gia sản thuộc về con!" Nhìn con ra đi. Nhìn trời cao. Sợ có mây đen đem mưa gió. Cha nguyện xin cho mưa bão đừng đến. Cha mong cho bầu trời cứ nắng bình yên để đời con mình có một tương lai. Ra đi rồi, cha ở lại thao thức không biết con mình ra sao. Một phần đời đã mất. Ở rất xa.
"Ðã bao lần Ta như gà mẹ muốn tụ họp con cái lại dưới cánh nhưng chúng chẳng nghe" (Mt 23,37). Ðây là tình thương của Chúa muốn tâm sự với con người. Càng thương bao nhiêu, khi mất càng buồn. Càng thương bao nhiêu, khi xa càng nhớ. Càng nhớ thì tâm hồn người nhớ càng gần người mình nhớ. Chỉ có kẻ ra đi là ơ hờ. "Cho dù mẹ có quên con thì Ta vẫn chẳng nguôi lòng nhớ thương ngươi" (Is 49,15). Ðây là trái tim của Chúa đối với tôi.
Mong đợi là dấu âm thầm nói: tôi nhớ. Có thương thì mới nhớ. Khi Chúa muốn tôi trở về là dấu chỉ Chúa nói: cha thương con. Câu chuyện "Người Cha Mong Con Trở Về" (Lc 15,11-31), diễn tả tuyệt vời tình thương này:
Nó còn ở đàng xa thì cha nó đã thấy nó, và ông chạnh lòng thương: chạy lại ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để. Người con mới nói với ông: Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha, con không còn xứng đáng gọi là con cha nữa! Nhưng cha nó đã nói cùng đầy tớ: Mau mau! đem áo thượng hạng mà mặc cho nó; hãy xỏ nhẫn vào tay nó; và giầy vào chân nó; rồi đem con bò tơ này mà hạ đi! Ta phải ăn mừng mới được vì nay con ta đây: nó đã chết mà lại hoàn sinh, đã mất mà lại tìm thấy được. Và người ta mở tiệc ăn khao.
Phân tích đoạn văn trên đây ta sẽ thấy tình thương của Chúa ướp vào từng lời, từng chữ, là tha thiết vô cùng.
- ... nó còn đàng xa thì cha nó đã thấy nó. Câu chuyện không nói rõ là bao nhiêu năm trời người con đã xa nhà. Nhưng cho dù năm tháng có lâu, cho dù phương trời có xa. Cho dù thân xác có đổi thay. Khi thấy bóng con là nhận ra ngay. Lời văn nhấn mạnh là "nó còn ở đàng xa". Còn xa thì bóng hình còn mờ. Mờ thì khó nhận diện. Nhưng thấy con là cha nhận ra ngay!
- ... và ông chạnh lòng thương. Mong đợi là ngôn ngữ của thương nhớ. Tiếng "chạnh lòng thương" ở đây là lời phiên dịch tình thương thành xúc động. Là cụ thể hóa tình thương thành tiếng khóc. Là muốn kéo vô hình thành hữu hình. Là một thứ vỡ òa của thương mến nội tại trong tâm hồn ra bên ngoài. Xúc động vì gặp lại con, hay chạnh lòng trắc ẩn khi thấy con tiều tụy vì con "phải ăn bám dân trong vùng, và người ta đã sai nó ra đồng chăn heo", thì cũng là động lực đến từ trái tim giàu lòng thương xót, thì cũng là tình thương bật nở sau bao ngày cưu mang ẩn kín.
- ... ông chạy lại. Người ta chỉ chạy khi vội vàng. Chạy khi không có thì giờ. Chạy là muốn rút ngắn. Chạy là bị thúc đẩy bởi một động lực rất mạnh. Chạy thì ít an toàn hơn đi thong thả. Biết ít an toàn mà cha già vẫn chạy là liều chấp nhận một thiệt thòi có thể xẩy đến cho mình. Không ai có thể suy nghĩ, tính toán, sáng tác trong lúc chạy. Càng chạy nhanh thì càng mất đi hình ảnh bên cạnh. Chạy thì quên hết những gì chung quanh để chỉ còn một mục tiêu duy nhất đang nhắm tới. Cha già đã quên hết mọi sự, trước mặt chỉ thấy con. Chạy là muốn rút ngắn thời gian mong nhớ.
- ... ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để. Cái hôn của Yuđa lạnh lùng bao nhiêu, thì cái hôn của người cha già tha thiết bấy nhiêu. Ít khi nào Phúc Âm kể chi tiết như ở đây. Cái hôn của người cha như vội vàng, hối hả, như sợ sắp mất, như một trông đợi vô cùng.
- người con nói: trước mặt cha con không xứng đáng gọi là con cha nữa. Nhưng cha nói cùng đầy tớ... Nói nhưng có nghĩa là muốn nói ngược lại. Nói nhưng có nghĩa là bảo người nghe đừng theo ý riêng mình mà hãy theo ý của người nói. Trong kinh nghiệm sống, ta hãy thấy hạnh phúc hay đau khổ nhiều khi hệ tại có một chữ nhưng. Người con muốn nhắc cho cha cái quá khứ lầm lỗi của mình. Nhưng cha chẳng quan tâm. Vì trong mong đợi là có tha thứ rồi.
Trong câu chuyện này, người cha không hề nhắc đến tội của con. Chính lúc người con muốn cha nhận lời xin lỗi của mình, cha cũng không muốn nhận. Ông gạt đi. Ông muốn quên hẳn. Ðây là thái độ của Chúa đối với tôi. Trong trái tim Chúa chỉ có tình thương chứ không có trí nhớ về tội. Những đau khổ gây ra bởi tội của tôi chỉ là tôi tự xa cách tình thương. Người con đi hoang phải chăn heo và "ước gì có thể lấy rau heo mà ăn cho đầy bụng nhưng cũng chẳng có ai cho". Ðau khổ này không phải là hình phạt của cha, mà chỉ là người con không muốn ở với sự giàu có của cha mình.
- ... ông nói cùng đầy tớ: mau mau đem áo. Nói mau mau là nói đến gấp rút. Khi truyền cho một người làm việc mau mau có nghĩa là việc đó rất quan trọng, rất cần. Một việc phải làm mau mau là việc muốn có kết quả ngay. Mau mau là hành động đang bị hối dục. Toàn thể mạch văn của câu truyện đều diễn tả sự nóng lòng mong con trở về. Thấy con về thì cha già chạy vội vàng. Thấy con rách rưới thì sai gia nhân mau mau lấy áo.
- mau mau lên đem áo thượng hạng mà mặc cho nó. Áo thượng hạng là áo quý. Những gì quý thì gìn giữ cẩn thận. Không ai mặc áo thượng hạng để đi làm. Người ta mặc áo thượng hạng trong tiệc mời, trong nghi lễ. Bởi đó, nếu ông chỉ bảo gia nhân về nhà lấy áo, chắc chắn họ không lấy áo quý. Mặc áo thượng hạng ở khung cảnh này hoàn toàn không thích hợp. Người con mới ở phương xa về, phải chăn heo mà sống, đói rách, đau ốm, tóc tai dơ bẩn vì bụi đường. Mặc áo thượng hạng ở đây coi như dị đời. Theo thường tình, ông phải đợi con về nhà, tắm rửa, chuẩn bị kỹ càng cho bữa tiệc ăn khao đã, rồi bấy giờ mới mặc áo quý. Nhưng cha già quá lính quýnh, ông không biết làm sao giữ được hạnh phúc trong tim ông. Ông nghĩ gì nói vậy chứ không cần xét rằng mặc áo thượng hạng lúc này chẳng thích hợp với hoàn cảnh. Ông không dùng lý trí để phân tích hoàn cảnh, nhưng chỉ nghe tiếng nói của tình thương. Tất cả hành đông ở đây đều là hành động muốn đốt cháy thời gian vì đã mong nhớ quá lâu. Ðã chờ đợi quá dài. Ông "chạy hối hả", ông "bá lấy cổ", ông "hôn lấy hôn để", ông truyền lệnh "mau mau".
- ... hãy xỏ nhẫn vào tay nó. Có thể cần áo lành để thay áo đã dơ bẩn, nhưng nhẫn, thực sự chưa cần để đeo. Người ta đeo nhẫn trong ngày cưới, trong ngày giao ước. Tất cả đều xẩy ra trong nghi thức trang trọng, có trầm hương, nhạc khúc. Vì sao cha già không đợi cho con về nhà rồi hãy đeo nhẫn, có muộn màng gì? Nếu nhẫn là biểu tượng của quyền thừa hưởng gia tài, thì chỉ còn một khúc đường ngắn nữa, có muộn màng gì mà không đợi?
- ... và xỏ giầy vào chân nó. Ðã bao năm dong duổi tha phương cầu thực. Ðã bao đoạn đường đi qua trong đời. Người con đã đi chân trần. Chỉ còn một khúc đường ngắn là tới nơi. Có cần thiết gì phải đi giầy? Nếu chân trần là biểu tượng của kẻ nghèo thì chỉ còn một khúc đường ngắn là tới nhà, là có gia nghiệp của cha. Có lâu lắc gì mà không chờ?
Ta phải ăn mừng mới được!
Và người ta mở tiệc ăn khao!
Lạy Chúa, con đã được nghe rất nhiều là Chúa phạt những người tội lỗi, hơn là được nghe nói về tình thương của Chúa. Ðể rồi, nói đến Chúa là con nghĩ đến một vị quan tòa. Nhìn Chúa kính sợ hơn là dám đến gần. Có ngờ đâu, Chúa mong con đến bên để kể cho con nghe những câu chuyện về lòng thương xót của Chúa, để chữa lành vết thương của tâm hồn, để nói cho con nghe về hạnh phúc, để chỉ cho con thấy vẻ đẹp của cuộc sống.
Xin cho con được nhìn Chúa với tình thương.
Trong câu chuyện dụ ngôn Chúa kể, khi thấy đứa con trở về, cha già chạy vội vã đón con. Cha tha thứ lỗi lầm trước khi con tự thú. Giữa cha mẹ với con cái, muốn được tha thì phải xin lỗi. Có khi xin lỗi cũng chẳng được tha. Chúa thì lại tha trước khi xin lỗi. Xin cho con biết hối hận vì đã bao lần con chẳng để ý đến lòng nhân từ của Chúa.
Lạy Chúa, người con trở về đã được mặc áo quý, đeo nhẫn với quyền thừa hưởng gia nghiệp. Cha già đã giết bò tơ ăn mừng. Hình ảnh mô tả như một đại tiệc để mừng sự thành công, vinh quang của một người con đã học hành thành tài, đỗ đạt vinh hiển, nay về quê làm rạng danh công ơn của cha mẹ.
Lạy Chúa, chỉ có việc con lên đường trở về mà Chúa hạnh phúc như vậy sao?
LM Nguyễn Tầm Thường – Trích trong “Nước Mắt và Hạnh Phúc”
Có thể Paris, London, rồi bạn ghé vào một quán kem. Ấm với hương cà phê, đưa hồn bạn về một vùng trời. Tôi cũng đã đi qua những quán kem buổi chiều tây phương. Những quán kem có bờ công viên mát cỏ xanh, những con đường trải đá trắng thơ mộng. Cũng có những quán kem hối hả tiếng nhạc của một chiều bận rộn xua đẩy mọi suy tư.
Saigon cũng có những quán kem. Một lần về với những kỷ niệm cũ. Ghé quán kem xưa ngồi nhìn thành phố một thủa mình đã lớn lên. Ngang đời, hôm nay trở lại quê hương. Tôi đã đi qua những quán kem chiều xa xứ, quán kem không có gì để nhớ, nhưng ở quán kem trên thành phố cũ, hôm nay, tôi thấy phân vân giữa lòng mình và cuộc đời. Thìa kem gần ở môi mà như xa lắm ở trong lòng. Tôi ngồi bên này vỉa hè, chầm chậm những thìa kem nhỏ. Ở vỉa hè bên kia, mấy vành xích lô mệt mỏi đang đợi chờ tìm khách. Mặt họ hằn những gian khổ của cuộc sống. Vai áo bạc vì mồ hôi. Chắc vợ con họ đang đợi tiếng xe cọc cạnh đạp về với hy vọng một ngày đủ sống.
Một em bé đến nhìn tôi, xin tôi cho uống ly nước cam còn dở. Mắt em vẫn theo dõi sợ chủ quán đuổi. Liệu em có chờ những thìa kem còn sót lại trong đáy ly em đang nhìn? Tôi sẽ để lại ít kem cho em, hành động ấy là yêu thương hay xúc phạm?
Tôi đã đi qua những quán kem tây phương. Buổi chiều ở bờ biển Laguna Hills hay San Francisco tôi thấy cuộc đời bay trôi theo những đám mây. Những quán kem tây phương đưa tôi vào cõi mộng. Quán kem quê hương đưa tôi vào cuộc sống thật. Cả bầu trời mơ ước của một con người nằm gọn dưới đáy ly kem.
***
Sau khi làm phép lạ bánh hóa ra nhiều cho mấy ngàn người ăn, và họ ăn no rồi, Chúa nhìn những mẩu bánh vụn rất tiếc, căn dặn các môn đệ nhặt hết lại: "Anh em hãy thu lấy những miếng thừa, đừng để hư phí" (Yn. 6:12).
Ðó là câu chuyện hai ngàn năm xưa. Nếu hôm nay giảng Tin Mừng, Chúa sẽ bảo đừng đổ phí những sợi mì vì có nhiều người nghèo đói đang dang dở mong buộc cuộc đời mình bằng những miếng bánh phở dư. Nếu hôm nay Chúa vào quán kem, Chúa sẽ thấy có những thìa kem đưa một buổi chiều vào cõi mộng. Chúa cũng thấy có những con người kéo cả bầu trời mơ ước vào thìa kem còn sót lại.
"Anh em hãy thu lấy những miếng bánh thừa, đừng để hư phí". Chúa muốn nói gì với chúng ta về "mấy cái bánh và vài con cá nhỏ" trong tương quan giữa con người với nhau? Có những nơi dư thừa trong khi có những nơi thiếu thốn. Có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời chiều mà người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ. Các ông đã nói với Chúa: "Ðây là nơi vắng vẻ, và trời đã gần tối, xin Thày cho dân chúng về để họ vào các làng mua ăn" (Mt. 14:15).
Ðó là thương xót nhập đề. Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm, nhưng có khi chỉ là xót thương không muốn nhận trách nhiệm, lúc đó khởi điểm chấm dứt ở nhập đề. Chúa trả lời các môn đệ bằng một lệnh truyền thật ngạc nhiên: "Họ không cần phải đi, anh em hãy lo cho họ ăn" (Mt. 14:16). Chúa muốn các môn đệ bước qua ngưỡng cửa xót thương khởi điểm, đem thương xót nhập đề mà vào xót thương nhập cuộc. Chính các con phải lo cho họ ăn!
Phản ứng của các môn đệ ghi trong bốn Phúc Âm như sau:
- Máthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi (Mt. 14:17).
- Máccô: Thế thì chúng tôi phải đi mua hai trăm đồng quan bánh mà cho họ ăn sao? (Mc. 6:37).
- Luca: Chúng tôi không có hơn năm chiếc bánh và hai con cá, họa chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này (Lc. 9:13).
- Yoan: Philiphê thưa: Có mua hết hai trăm đồng cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng ngần ấy thì thấm vào đâu cho bấy nhiêu người? (Yn. 6:7-8).
Xem ra họ thất vọng trước vấn đề vì "chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá thôi". Lo cho mình còn chưa đủ còn lo cho ai. Những phản ứng của bốn Phúc Âm chung nhau ở một cửa ngõ là không có lối vào. Họ bế tắc.
Theo Phúc Âm Yoan thì chưa chắc các môn đệ đã có bánh và cá, mà là của thằng bé bán rong. Bởi đó, làm sao các môn đệ dám đề cập tới chuyện lo cho đám đông ăn dù biết họ đói và mệt lắm. Hôm nay, nghèo đói như một bãi rác mênh mông, không biết bắt đầu dọn dẹp từ đâu. Thái độ của con người hôm nay cũng là tâm trạng của các môn đệ ngày trước, "ngần ấy thì có thấm vào đâu". Trong cái nghèo khó của tôi, làm sao tôi dám cho đi. Và có khi để xoa dịu lương tâm, tôi cũng lập lại cùng mệnh đề đó, "ngần ấy thì có thấm vào đâu".
Cho đi là mất, bởi thế, kẻ biết mất mà vẫn cho đi là kẻ có lòng thương xót lớn hơn niềm tin. Trong ý nghĩa này, khi niềm tin bế tắc mà có lòng thương xót thì lòng thương xót sẽ mở ngõ cho niềm tin đi về. Khi khóa ngõ lòng thương xót thì niềm tin sẽ đứng ở ngoài. Chính lòng thương xót của Chúa đã làm cho mấy chiếc bánh và hai con cá nhỏ thành lương thực nuôi đám đông.
Khi Chúa giơ "năm chiếc bánh và hai con cá" lên đọc lời nguyện thì cửa ngõ bế tắc lo âu không lối vào của các môn đệ đã trở thành lối vào không còn cửa ngõ. Ðám đông ăn no và còn dư thừa. Cũng vậy, những giúp đỡ của ta cho tha nhân, dù nhỏ nhưng đến từ lòng thương xót thì Chúa sẽ giơ lên trời cầu nguyện và nó sẽ thành hiến lễ.
***
Chỉ có mấy cái bánh mà hàng ngàn người ăn no, làm sao chỉ có hai con cá nhỏ mà họ ăn không hết? Có những cho đi rất nhỏ mà nhận về thật lớn lao, vì những tia nắng nhỏ ấy đã qua lăng kính quang phổ trăm màu của Chúa. Có khi nào bạn bị bệnh và phải dùng thuốc trụ sinh chưa? Ðây là câu chuyện thuốc trụ sinh. Ngày nọ, một gia đình giầu có, quý tộc nước Anh dẫn con về miền quê chơi. Trong khi nô đùa, tai nạn đã xẩy đến, cậu trai nhỏ của họ sa chân vô vọng dưới vực nước sâu. Kẻ nghe tiếng kêu và đã đến cứu cậu là một chú bé, con của người làm vườn nghèo.
Một đứa bé nhà giàu, có thể bàn tay ấy đã được tán thưởng vì tiếng đàn trên phím ngà, nhưng lại không biết bơi. Một đứa bé nhà nghèo thôn quê, bàn tay xạm nắng vì cuốc rẫy nhưng hôm nay đã cứu đời. Cha của cậu bé giàu có kia đã biết ơn cậu bé nhà nghèo. Nhưng thay vì lời cám ơn, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé nằm dưới đáy ly kem. Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé vào bầu trời ở trên cao. Ông hỏi cậu bé:
- Khi lớn con muốn làm gì?
- Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con.
- Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?
- Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì.
- Nhưng nếu con có mơ ước thì con ước mơ gì?
- Thưa ngài, con muốn đi học, muốn là bác sĩ.
Sau này, cậu bé được cứu sống vì không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đã giữ vai trò quan trọng trong cục diện thay đổi thế chiến đệ nhị, đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị. Ðó chính là thủ tướng Winston Churchill. Nhờ lòng thương và biết ơn chân tình của cha cậu bé Churchill, cậu bé nhà nghèo đã không còn đặt mơ ước của đời mình ở những cụm cỏ, bờ đê. Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ này đã tìm ra thuốc trụ sinh Penicillin. Tên của cậu là Fleming!
Rồi cậu bé Churchill là thủ tướng. Rồi Fleming là bác sĩ. Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đây. Những áng mây rực sáng, với ánh mặt trời sẽ còn rực sáng nữa. Khi thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, vương quốc Anh đã đi tìm những danh y lừng lẫy để cứu sống thủ tướng của nước mình. Kẻ danh y ấy chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.
***
"Chính các con hãy lo cho họ ăn". Chúa bảo các môn đệ vậy. Ðấy là hình ảnh của một cậu bé can đảm lao xuống dòng nước trước tiếng kêu của một người hấp hối. Số tiền nuôi cậu bé nhà nghèo Fleming ăn học, đối với gia đình quý tộc kia có thể đó chỉ là "năm cái bánh nhỏ và hai con cá". Nhờ mấy cái bánh nhỏ này mà chính người con của nhà quý tộc ấy, thủ tướng của nước Anh đã được cứu sống lần thứ hai, và cả nhân loại hàng triệu triệu người được thừa hưởng công trình y khoa từ những cái bánh nhỏ đó.
Nhờ năm chiếc bánh và mấy con cá mà Chúa nuôi cả ngàn người. Phép lạ của những liều thuốc trụ sinh hôm nay và cho đến mãi mãi thế kỷ sau này mở đầu là do sự giúp đỡ mà cậu bé nhà nghèo Fleming đã nhận được.
Những buổi chiều tây phương và những quán kem. Ngồi bên ly kem người ta thả hồn vào những vùng trời ước mộng mây trôi. Những buổi chiều đông phương và những quán kem. Những thìa kem sót lại mà chứa cả bầu trời mộng ước của một tuổi thơ.
Chúa gọi lòng thương xót ở chúng ta, đừng nói chúng tôi "chỉ có năm cái bánh và hai con cá", Chúa có thể cho một viên than hồng âm ỉ trong đám tro than hôm nay thành biển lửa dữ dội ngày mai. Vấn đề không phải là "chỉ có năm cái bánh và hai con cá", nhưng là có bao nhiêu lòng can đảm dám cho đi.
Khi Chúa mời gọi ta cho nhau những cái bánh nhỏ là Chúa mời gọi ta cùng làm phép lạ với Chúa.
Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ – Trích trong “Con Biết Con Cần Chúa”.
Tôi cầu mong cho tôi được bình yên. Cuộc sống có nhiều khi vất vả, nên tôi muốn gạn lọc những giây phút muộn phiền để được thảnh thơi. Tôi muốn quên những đau buồn của ngày tháng cũ. Tôi không muốn nhớ những chua xót của một lầm lỡ, những tiếc nuối của một vụng về. Nhưng, vết thương lòng, khi tôi muốn quên lại là khi tôi càng nhớ thêm. Tôi muốn quá khứ rơi vào vùng biệt tích hư vô, nhưng quá khứ vẫn buông cánh đậu xuống đời tôi những đám mưa buồn.
Tôi cầu mong cho tôi được bình yên. Nhưng cuộc sống hôm nay xô đẩy tôi vào nỗi lo âu của ngày mai. Những công danh chưa toại nguyện. Những mộng đời đang dệt dở dang. Những tình yêu có khi đang nhen nhúm hé nụ, có khi đang mong manh. Hồi hộp và băn khoăn, đợi chờ và bấp bênh là những đám mây đen phủ đi vùng trời thảnh thơi. Tương lai là một vòng kẽm gai vô hình làm héo úa nỗi vui của tôi.
Tôi sống trong hiện tại mà bị giăng mắc bởi lo âu về tương lai. Bị ràng buộc vì ám ảnh của quá khứ. Như thế, tôi có tự do của thân xác cũng chưa hẳn đã có tự do của tâm hồn.
Trở về với tôn giáo. Tôi nghe tiếng vọng từ nghìn năm trước và vẫn là lời kinh cầu hôm nay. "Trời cao ơi, hãy đổ sương xuống. Ngàn mây hỡi, hãy mưa vị cứu tinh". Nói đến vị cứu tinh là nói đến nô lệ. Ðề cập đến giải thoát là hàm chứa tù đày. Như vậy, mục đích đạo của tôi là đi tìm tự do?
Tự do của thân xác không đồng nghĩa với tự do của tâm hồn. Xét như vậy thì tự do cao cả quá. Tự do là yếu tố xác định tình yêu. Tự do là giấc mơ hạnh phúc. Tự do đi vào mức độ sâu xa căn bản của đạo. Tôi biết, những gì càng cao cả thì càng khó khi nói tới. Tự do liên hệ đến tình yêu, tự do là chiều sâu thẳm của tôn giáo. Tôn giáo và tình yêu là những vấn đề mênh mông. Mà những gì càng mênh mông thì khi nói đến lại càng hay có nhiều thiếu sót.
Bởi vậy, những gì tôi viết ở đây chỉ là những suy tư của một người đang đi tìm con đường giải thoát. Có thể là tìm thấy rồi nhưng chưa đủ nghị lực lên đường. Có thể là lên đường nhưng chưa trọn vẹn tìm được tự do. Vì thế, những gì tôi viết ở đây, suy tư cũng là ưu tư.
Tự do có phải là thoát mọi ràng buộc, có phải là không để cho một năng lực nào ảnh hưởng trên những quyết định chọn lựa của tôi? Nếu hiểu như thế thì tôi không bao giờ có thứ tự do này. Là một hữu thể giới hạn được đặt vào trong một thế giới chằng chịt những liên hệ với những hữu thể khác. Liên hệ giữa tôi với người chung quanh. Giữa tôi với vũ trụ. Giữa tôi với chính tôi. Tôi không hiện hữu độc lập nên tôi không bao giờ có tự do tuyệt đối độc lập. Sự sống của tôi đến từ một sự sống khác. Vì thế, có cùng liên hệ tới sự sống khác. Nếu chỉ vì một lầm lỡ của tha nhân gây bất bình cho tôi mà tôi chối từ tất cả, gọi là "để sống tự do một mình". Thì tôi chỉ nghèo nàn hóa đời tôi chứ tôi cũng chẳng thể thoát khỏi được những ràng buộc vô hình. Tôi muốn có sức khỏe nhưng làm sao tôi tránh được cảm lạnh của mùa đông, chiều sương ảm đạm của mùa thu? Tôi không thể tránh được mọi ảnh hưởng của vũ trụ, để gọi là "sống tự do một mình". Tôi bị chi phối và luôn luôn bị chi phối. Rồi còn chính tôi. Ðã bao lần không đồng ý với mình, mà nào tôi có thoát được chính mình. Như vậy, chối từ mọi ràng buộc để đi tìm tự do tuyệt đối là trở thành hư vô.
Chỉ Thiên Chúa, Ngài là hữu thể vô giới hạn, Ngài không sống trong tự do nhưng Ngài là tự do. Ngài không bị ràng buộc, nên Ngài mới có tự do tuyệt đối này.
Tôi là hữu thể bất toàn nên tôi chỉ có tự do tương đối. Thứ tự do trong đó có những ràng buộc liên hệ. Thứ tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà chỉ có nghĩa làm những gì xây dựng thêm giá trị cho sự hiện hữu của tôi và những hiện hữu chung quanh tôi.
Nói đến tự do, người ta thường nghĩ ngay đến khả năng chọn lựa. Chọn thì có thể chọn đúng, có thể chọn sai. Sai, lại có nhiều thứ sai khác nhau. Có thứ sai ít, có thứ sai nhiều. Có thứ sai người ta có thể làm lại được. Có thứ sai một lần là mãi mãi mang niềm tủi hận. Ði lộn một khúc đường thì mất giờ đi lại. Nhưng đi lộn lý tưởng cuộc sống là mất cả cuộc đời. Mua lầm cái áo thì tôi có thể mua cái khác. Cưới lầm một tình yêu thì vấn đề lại khác rồi. Nhưng cái sai lầm lớn nhất là chối từ Chúa. Nếu trước giờ chết mà tôi vẫn xa Ngài thì tôi sẽ vĩnh viễn đi về cô đơn mà chẳng bao giờ có thể làm lại được. Ðấy là thảm cảnh của tự do trong vấn đề chọn lựa.
Sống là đi tìm hạnh phúc. Chọn lựa sai lầm là làm hao mòn hạnh phúc đó. Vì thế, khi biết giữa cái sai và cái đúng thì người ta không còn tự do để chọn cái sai mà phải chọn cái đúng. "Ngài chính là Thần Khí, nơi đâu có Thần Khí của Chúa thì có tự do" (2Cor 3,17). Bởi đó, tự do chân chính là định hướng cuộc sống đi tìm sự thật, tìm Chúa.
Tội và đam mê đối nghịch với Thần Khí của Chúa nên nơi nào có tội thì không có tự do. "Tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rom 6,23). Con đường của đam mê dẫn tới băn khoăn và lo âu. Tôi nhớ tới Yuđa. Có lẽ Yuđa là con người cô đơn nhất. Yuđa không bị bắt như Phêrô. Yuđa có tự do, nhưng tâm hồn Yuđa là một cõi vắng mênh mông, là lo âu chập chùng. "Tiền công của tội lỗi là sự chết" (Rom 6,23). Câu chuyện người thanh niên giàu có cũng nói rõ giá trị chọn lựa của tự do.
- Thưa Thầy, tôi phải làm gì để nên trọn lành?
- Hãy cho hết những gì ngươi đang có, rồi đến theo Ta.
Nghe xong, người thanh niên buồn bã, lặng lẽ bỏ đi (Mt 18,21-22).
Anh có một giấc mơ nhưng anh chẳng bao giờ đạt được. Anh có một chân trời để đi tới, nhưng anh không bao giờ lên đường nổi. Có lựa chọn là có từ bỏ. Từ bỏ nào cũng có chiến đấu. Vì thế, tự do không phải là sự giải thoát tự nhiên mà có. Bình an của tự do là một cuộc chiến đớn đau. "Xác thịt có đam mê chống lại thần khí. Thần khí chống lại xác thịt. Khiến anh em không thể hễ muốn gì là làm được" (Gal 5,17).
Ðam mê và tội lỗi là một thứ mật ngọt ngào. Ðam mê đẹp như lời mời êm ái. Trong đời có nhiều vất vả, có lắm lúc thiếu vắng hạnh phúc, nên tôi bước xuống, gặm những đám cỏ xanh mà không nhìn thấy đám cỏ mọc trên vũng bùn. Khi đam mê đã trở thành căn nhà rồi thì ngại ngùng từ bỏ nó. Bởi, nếu tôi nêu lên vấn đề là chạm tới cả một cuộc chiến. Cuộc chiến của lựa chọn. Nhiều khi biết mình phải chọn gì. Tìm con đường mình phải đi không phải là điều khó. Nhưng có lên đường về chân trời mơ ước của lý tưởng không, đấy mới là thảm cảnh bi đát và hùng tráng của một tâm hồn. Mới là lằn mức xác định giá trị. Mới là hoa trái của tự do hay là bất hạnh của tự do. Ðức Kitô đã chỉ cho người thanh niên con đường của tự do là theo Ngài. Nhưng người thanh niên buồn bã, lặng lẽ bỏ đi.
"Tội ngự trong thân xác chết dở của tôi khiến tôi phải theo nó" (Rom 6,2). Như vậy, làm sao tôi có thể cất bước lên đường. Trong cái đêm tối của yếu đuối, giữa niềm thao thức đi về một nẻo sớm mai có nắng reo vui, có an hòa của cõi lòng. Trong cái chán nản của linh hồn giữ bóng tối. Phaolô đã tự hỏi như một lời kinh thầm lặng tự thú nỗi đau thương bất lực của mình: "Vô phúc thay con người tôi, ai sẽ giải cứu tôi khỏi cái xác chết này?"
Tôi không đi tìm tự do chỉ vì tự do. Trong tự do tôi kiếm tìm bình an. Bình an của tự do là được đi về vùng trời mơ ước, không bị đam mê bắt quay về mảnh vườn mà tôi không muốn. "Tội ngự trong thân xác chết dở của tôi khiến tôi phải nghe nó". Vậy, "ai sẽ giải cứu tôi khỏi cái chết này?" Qua Phúc Âm thánh Yoan, Chúa đã trả lời cho Phaolô, và cũng cho ta: "Nếu ta cho ngươi tự do thì các ngươi mới đích thực tự do" (Yn 8,36). Như vậy, hạnh phúc của tôi là sống trong tự do mà Chúa ban.
Tự do của Chúa là gì?
Thực sự Chúa không có tự do, nhưng Ngài là tự do. Vì Ngài là tự do nên tôi không thể có tự do mà lại không có Ngài. Chúa không có tình yêu nhưng Ngài là tình yêu. Khi nói có là nói ai có và có cái gì. Nói đến liên hệ giữa hữu chủ và vật sở hữu. Thiên Chúa là tất cả, không có gì hiện hữu độc lập ngoài ơn sủng của Ngài. Thiên Chúa không Có, nhưng Thiên Chúa Là. Vì chính Ngài là hạnh phúc nên tôi không thể có hạnh phúc mà lại không thuộc về Ngài.
Nếu Chúa chỉ cho tôi một món quà thì tình yêu ấy chưa phải là tình yêu tuyệt hảo. Cho một món quà chưa phải là cho tất cả. Ngài là tình yêu, nên khi cho tôi tình yêu thì Ngài cho tôi chính Ngài. Nếu Ngài cho tôi một món quà thì tôi cũng có thể đáp lại bằng một món quà khác. Nhưng Ngài cho tôi chính Ngài thì tôi không thể lấy gì đại diện để cám ơn Ngài. Tình yêu sâu thẳm hay hờ hững hệ tại cho đi nhiều hay ít. Những gì đại diện thì không thể nói được là tất cả. Chính vì thế, tôi không thể nói: Lạy Chúa, con xin dâng hiến tất cả, trừ điều này. Con xin hiến dâng tất cả, ngoại trừ điều kia.
"Thành quả thu lượm được nơi Ngài là tự do, có sức thánh hóa" (Rom 6,22). Những gì tôi giữ lại cho riêng tôi, chẳng làm tôi nên giàu có mà chỉ cản tôi về với tự do có sức thánh hóa đó.
Tôi biết thế, nhưng đường về tự do không dễ. Lời vẫy gọi của đam mê thì gợi cảm, ngay bên tôi, ở trong tôi. Tiếng gọi của niềm tin thì vô hình. Vất vả để lắng nghe, nhưng còn gian nan hơn nếu chấp nhận theo tiếng gọi, vì niềm tin không bao giờ nhượng bộ. Ðã hơn một lần trong đời, tôi hỏi Ngài:
- Thưa Thầy, con phải làm gì để được tự do?
Ngài cũng chỉ đáp:
- Hãy bỏ tất cả những gì thuộc về ngươi rồi theo Ta.
Tôi thấy bâng khuâng và thao thức vì bóng hình người thanh niên thuở xưa. Chàng thông minh. Chàng đã nhìn thấy một vùng trời biển rộng. Chàng mơ ước đi về vùng biển rộng có gió ngàn tự do đó. Nhưng chàng đã chẳng bao giờ tới nơi.
Lm Nguyễn Tầm Thường – Trích trong “Nước Mắt và Hạnh Phúc”
Ít nhất phải có một chút hy vọng nào đó thì người gọi mới cất tiếng gọi. Mong được người đáp trả, đấy là niềm vui của người gọi. Trong tiếng gọi bao hàm sự có mặt của hai người. Nếu chỉ có một người lẻ loi thì không có tiếng gọi, vì tiếng gọi không có đối tượng để gửi tới.
Tiếng gọi là một lời mời. Lời mời là một cử chỉ biểu lộ lòng mến yêu. Không mến thương ai thì chẳng bao giờ gọi người đó.
Thà rằng tôi lẻ loi, cô độc còn hơn là tôi quen biết, còn hơn là tôi có những mối giây liên hệ tình cảm để rồi những quen biết, những mối liên hệ ấy chối từ tôi. Khi sống một mình thì tôi chỉ đơn độc, còn khi tôi quen biết mà bị từ chối thì tôi sẽ cô đơn. Bị thờ ơ bao nhiêu thì nỗi cô đơn càng hiu hắt bấy nhiêu. Và nỗi cô đơn này có thể hoang vu hơn sa mạc. Chúa không buồn khi chưa có con người. Khi con người chối từ tình yêu mà Ngài ban tặng, bấy giờ Ngài mới cô đơn (Kn. 6:6). Chúa không tủi lòng khi chưa quen biết Phêrô, khi chưa gặp mặt Yuđa. Khi đã gọi tên, khi đã cùng nhau xây đắp mối liên hệ, bấy giờ nỗi cô đơn của Ngài mới thấm thía lúc bị phản bội, bị chối từ.
Khi tôi gởi một cánh thư đi là tôi gởi lòng tôi ở đó. Gởi nỗi lòng mình đi thì bao giờ cũng có nhớ nhung và hồi hộp, âu lo. Tôi không viết thư cho gió vì gió không biết tiếng người. Tôi chẳng gửi thư cho mây vì mây không bao giờ đáp trả. Tôi chỉ gởi cho người vì chỉ người mới có thể đáp trả lại nỗi lòng tôi. Nhưng người có tự do nên tôi cũng có thể bị chối từ. Tiếng gọi của tôi có thể vang lên khô khan rồi hiu hắt trở về với cõi lòng tôi.
Khi Chúa cất tiếng gọi thì Chúa cũng thầm nuôi hy vọng được đáp trả. Chắc hẳn Ngài cũng ngậm ngùi khi bị khước từ. Bởi trong tiếng gọi là thầm cho đi tình yêu. Bởi trong tiếng gọi là thầm nói lên nỗi nhớ thương.
Gọi là dấu hiệu đang còn xa nhau. Gọi là muốn lại gần.
Trong cuộc đời, tôi có hai tiếng gọi, hai mẫu người lý tưởng để theo. Tiếng gọi thứ nhất là Chúa Kitô. Tiếng gọi thứ hai là chính tôi. Tôi có thể tạo nên cho tôi những tiếng gọi, những giấc mơ và tôi có thể theo đuổi để trở thành mẫu người như tiếng gọi tôi ước mong. Tôi cũng có thể trở thành mẫu người như Chúa Kitô mong muốn. Cái khác nhau là một đàng tôi sống ước mơ của tôi, một đàng tôi phải sống tiếng gọi của Chúa. "Thức ăn của Ta là làm theo ý Ðấng đã sai Ta và hoàn tất công việc của Ngài" (Yn. 4:34). Chúa Kitô đã sống trọn vẹn tiếng gọi của Cha Ngài.
Tôi có thể lầm lẫn thì tiếng gọi của tôi cũng có thể không trung thực. Nếu tiếng gọi của tôi không trung thực thì lo âu để trở nên mẫu người như tôi mơ ước sẽ là dại dột.
Nếu tôi tin rằng Chúa không thể sai lầm thì tôi cũng phải xác tín rằng tiếng gọi của Ngài phải tuyệt hảo. Không thể có hai sự tuyệt hảo. Như thế, khi tôi chối từ sự tuyệt hảo là tôi nhận sự bất hảo.
Có nhiều thứ tiếng gọi. Gọi để cho một tặng vật. Gọi để chung một niềm vui. Gọi để gởi gấm một niềm tin cậy. Nhưng tiếng gọi cao cả nhất, sâu xa nhất là gọi để theo một người. Gọi để cho một tặng vật mới chỉ là cho một phần yêu thương. Còn gọi để theo một người là tiếng gọi cho tất cả. Vì muốn người khác trở nên giống mình thì phải cho họ biết rõ về mình. Cách cho họ biết rõ về mình tốt nhất là cho chính mình. Tôi không thể trở nên mẫu người như Chúa muốn, tôi không thể theo Ngài nếu Ngài không tỏ rõ cho tôi biết Ngài là ai. Ngài chẳng thể tỏ rõ cho tôi biết Ngài là ai nếu Ngài không cho tôi chính Ngài. Và thực sự, Thập Giá đã minh chứng sự cho đi trọn vẹn ấy.
Chúa đã viết một cánh thư. Ở nơi nào đó, Chúa đang mong chờ hồi âm. Ngài không viết thư cho lá rừng, vì lá rừng và bụi cát chỉ phủ mờ thập giá. Ngài viết thư cho người vì chỉ có người mới biết quét mạng nhện trong đền thờ, mới biết xóa dịu một nỗi khổ đau.
Có xa nhau thì người ta mới phải gọi. Khi tôi nghe tiếng Chúa gọi là dấu hiệu tôi còn đang xa Ngài. Khi Ngài gọi là dấu hiệu Ngài muốn tôi lại gần.
Này Ta sai sứ ta đi trước mặt ngươi kẻ sẽ dọn đàng cho ngươi. Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi (Mc. 1: 2-3).
Máccô bắt đầu Tin Mừng bằng hình ảnh tiếng kêu với sa mạc. Nếu kêu thì phải kêu ai chứ, mà kêu ai thì sao lại kêu trong sa mạc, vắng như vậy có ai đâu mà kêu. Nếu lên tiếng thì phải lên tiếng ở chỗ đông người chứ. Nhưng Yoan lại lên tiếng trong cõi tịch liêu lặng lẽ.
Lên tiếng gọi đời
"Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Ðó có là tiếng gọi của Yoan gởi vào cuộc đời? Ðó có là tiếng gọi của Yoan truyền đến người nghe? Nói đến gọi là gọi ai. Người ta chỉ truyền đi khi có đối tượng nhận. Ở đây, tôi thấy chung quanh là sa mạc, chỉ có đất với trời, có mây và gió. Mây bay đi, gió không dừng lại, vậy Yoan gọi ai?
"Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Nếu tiếng kêu ấy chỉ là tiếng kêu Yoan gọi đời thì tôi hiểu thế nào về Nước Trời trong đời sống của tôi. Trong đời, có những quãng trống không ai song hành với tôi. Có những quãng vắng tôi không gặp ai. Có phải vì không có người nghe mà tôi không cất tiếng gọi ấy lên? Nếu tiếng kêu trong sa mạc của Yoan chỉ là tiếng ông gọi người, thì khi không có người, ông không có động lực để cất tiếng kêu. Tin Mừng Máccô cũng nói về Nước Trời "như người kia gieo giống xuống đất, dù người ấy ngủ hay thức, ban đêm hay ban ngày, hạt giống cứ nảy mầm lớn lên mà người ấy không biết" (Mc. 4: 26-27). Như thế, lời công bố Nước Trời không tuỳ thuộc vào có mặt của người nghe. Ngay cả khi tôi im lặng thì Nước Trời cũng cứ âm thầm lớn lên. Như vậy, tiếng kêu trong sa mạc là tiếng kêu của ai gởi cho ai?
Tiếng gọi lòng mình.
Mùa vọng khởi đầu bằng lời ngôn sứ trong hoang địa: "Hãy dọn đường cho Chúa đi! Hãy bạt lối cho Chúa đi!" Tôi nghe như tiếng kêu ấy vang lên rất lẻ loi. Trong sa mạc tịch liêu, tiếng ấy vang lên, vang lên, cứ một mình. Giữa cái hoang vu của đất trời, Yoan mình trần trong manh áo da thú, đầu tóc bụi mù đất rừng. Ông ngửa cổ nhìn trời mênh mông cất tiếng: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Ông nói với ai giữa đất trời hoang vu ấy. Cái dáng ông lẻ loi như quay cuồng với lời vọng của mình. Giữa đất trời ấy, ông đã nghe thấy tiếng lòng ông thúc bảo.
Yoan không giữ tiếng lòng ấy trong thinh lặng. Ông không chờ tiếng lòng ấy khi đến dòng sông Jordan rồi mới cất tiếng. Ông không để dành tiếng lòng ấy khi thấy có kẻ lắng nghe rồi mới nói ra lời. Trong hoang vu lạnh lùng, ông cất tiếng. Trong sa mạc đìu hiu, ông nói lên lời. Như vậy, trong lẻ loi với bóng, ông nói với chính mình: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!"
"Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Tiếng hô ấy Yoan đã hô to cho lòng của chính ông. Ông đựng lại cơn lốc của âm vang ấy cho chính ông. Rồi từ âm vọng đó ông đến bờ sông Jordan cho âm vang ấy xuôi dòng thế kỷ chảy vào thế giới, đến ngày hôm nay. Tiếng gọi đời của Yoan chỉ là nối dài tiếng gọi cho lòng mình. Nghĩa là nếu không có người nghe thì tiếng gọi ấy vẫn đi vào không gian.
Chỉ trong sa mạc tiếng vọng mới âm vang cho cõi lòng. Hễ nói trong hoang vu không bóng người là nói với mình thôi. Khi có người tôi mới nói là để nói cho người chứ không phải cho tôi, vì mục đích chỉ để nói cho người cho nên chưa chắc điều tôi nói đã là niềm thao thức trong tôi. Khi không có ai mà tôi vẫn nói, khi tôi nói cho chính mình nghe, điều tôi nói đó mới là băn khoăn tự tình. Trong sa mạc chỉ có bóng, nhưng Yoan đã nói với bóng của mình: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Tiếng mời gọi dọn đường cho Chúa phải là tiếng lòng mình trước đã. Tiếng ấy chỉ trở nên si mê khi hình băn khoăn với bóng, và bóng khắc khoải với hình.
***
Khi thấy con người được tạo dựng, các thần dữ đã ghen tức với con người. Sợ rằng con người biết đâu cũng lại là một vị thần, họ bàn tính phải hành động sao đây. Vì không muốn có thêm vị thần nào khác nữa, các thần dữ gian ác này quá đỗi băn khoăn về con người mới được tạo dựng. Lúc đó con người chỉ là pho tượng đất sét còn ẩm ướt, đang chờ thành hình. Các thần gian manh đề nghị với nhau là pho tượng đất đang còn mềm, chúng ta hãy ngắt đầu con người rồi giấu đi, để rồi mai sau con người sẽ mãi mãi bận tâm đi tìm cái đầu của nó. Một số thần được sai đi, và quả thật, tượng đất sét còn mềm, họ đã ngắt đứt được đầu con người đem về, nhưng vấn đề nan giải là giấu cái đầu đó ở đâu bây giờ. Con người cứ đi tìm mãi, rồi cũng có lúc nó tìm ra.
Trong lúc tất cả bối rối về cái đầu, một vị thần già quỷ quyệt nhất thủng thẳng bước ra an ủi các thần khác rằng đừng sợ. Vị thần phù thuỷ này nhặt cái đầu lúc đó là một cục ánh sáng xanh nhợt nhạt đang run rẩy. Lão thần già rực mắt hung đỏ quỷ quyệt, trong nháy mắt đập đầu con người xuống nền đá. Chiếc đầu con người vụt biến mất, để lại ngơ ngác cho lũ thần đang bối rối.
Lão thần già gian ác cất tiếng cười man rợ nói với lũ thần trẻ còn khờ khạo. Các ngươi giấu ở đâu rồi con người cũng tìm ra đầu của nó. Nó sẽ lục lọi khắp cả vũ trụ này. T uy có chỗ nó chẳng để ý, nó sẽ không tìm đâu là chính con người của nó. Ta đã giấu cái đầu của nó trong chính nó! (Theo Rudyard Kipling)
***
Lạy Chúa,
Hàng năm, cứ khi gió se se lạnh đem Mùa Vọng tới, tiếng kêu trong hoang địa của Yoan lại đưa con về một nhắc nhở. Con cần những khoảnh khắc sa mạc để âm vang khi con gọi đời là gọi chính lòng mình đó thôi: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!" Khi con gọi người dọn đường cho Chúa mà thôi thì khi không có người con sẽ không gọi, mà con không lên tiếng gọi thì con mất ơn gọi làm ngôn sứ. Khi con gọi người thì âm vang của con ra đi mà không về với con. Con cần những sa mạc thinh lặng, để khi con cất tiếng gọi thì tiếng gọi ấy vọng về với con ngay. Trong hoang vu một mình, Yoan an cứ ngẩng đầu gọi để ông nghe tiếng lòng ấy, để dù nếu không gặp ai, không ai gặp, ông vẫn mãi mãi là sứ ngôn. Hình ảnh đẹp của Yoan là ông không để mình nhiễm lạnh cái hoang vu độc thoại.
Con những tưởng rằng con cần đối thoại với đời, phải lên tiếng gọi đời, nhưng, lạy Chúa, con cần độc thoại biết bao về tiếng gọi ấy: "Hãy dọn đường cho Chúa đi!". Nếu con không độc thoại tiếng gọi này với lòng mình thì con cũng chẳng thể có đối thoại với đời về tiếng gọi đó.
Lm Nguyễn Tầm Thường S.J Trích trong sách “Con Biết Con Cần Chúa”
Trong Phúc Âm thánh Luca, dụ ngôn Chúa bỏ chín mươi chín con chiên trong hoang địa để tìm một con chiên lạc, có lối kết luận nghịch với tiền đề. Chúng ta hãy đọc toàn bản văn:
Ai trong các ông, giả sử có trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ chín mươi chín con ngay nơi hoang địa, để đuổi theo một con chiên lạc, cho đến khi tìm được nó ư? Tìm được rồi, há người ấy lại không mừng rỡ, quàng nó trên vai mình, và về đến nhà, mà lại không gọi cả bạn bè hàng xóm, mà phân phô với họ thế này sao: Bà con hãy chia vui với tôi, nay tôi đã tìm thấy con chiên lạc của tôi! (Lc.15:4-6)
Tiếp đó dụ ngôn được kết luận như sau:
Tôi bảo các ông: Cũng vậy, trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn (Lc.15:7)
Bản văn được chia làm 2 phần. Ta có thể vẽ thành họa đồ sau đây
Phần một diễn tả câu chuyện, có bốn chi tiết:
- Nói về con chiên đi lạc,
- Người chăn chiên đi tìm,
- Tìm thấy rồi ôm trên vai,
- Vui mừng khoe với bà con,
Phần hai kết luận:
- Nước Trời vui mừng vì một người sám hối.
Xét qua bản văn ta thấy kết luận rất lạ với tiền đề câu chuyện, vì cả câu chuyện không hề nói tới lòng sám hối. Có một con chiên lạc, rồi Chúa đi tìm. Người chăn chiên đi tìm chứ đâu có phải con chiên tìm lối trở về, như thế làm sao mà gọi là lòng sám hối được?
Xem ra lối kết luận trên đây không hợp luận lý. Tuy nhiên, thinh lặng một chút ta sẽ thấy có điều phải suy nghĩ lại trong lối viết văn của Luca. Luca không trình bày rõ lòng sám hối của con người, nhưng làm nổi bật lòng xót thương của Chúa. Ở Luca tôi thấy dựa vào lòng xót thương của Chúa mà ta có thể về, chứ không phải sự tốt lành của ta. Lối kết luận này vẫn hợp lý, và chỉ hợp lý khi ta giả sử là người chăn chiên tìm thấy, rồi con chiên đồng ý trở về. Sự đồng ý trở về ấy Chúa coi như lòng sám hối.
Một đêm dừng chân trên lưng núi, Chúa thao thức vì một tâm hồn. Giờ này con tôi ở đâu? Tiếng lòng vọng về đáp trả giữa đêm đen vẫn chỉ là một khoảng không cô tịch. Cũng trong tiếng lòng ấy, vọng về nỗi thương, Người phải đi tìm vì đó là con của Ngài. Rong ruổi cho đến khi gặp, nhưng vì còn tự do của nó, Ngài chỉ có thể thương yêu hỏi:
- Cha muốn con về.
Ánh mắt người chăn chiên có nỗi đau thương vì Satan đã lừa gạt con của Ngài. Nhưng khổ tâm, Satan cũng đã không cưỡng bách được sự tự do của con cái Ngài. Ra đi vẫn là một lựa chọn tùy ý. Trở về cũng thế, Ngài chỉ có thể hỏi đứa con ấy:
- Con có muốn trở về?
Trong cái gật đầu mệt mỏi của con chiên lạc, Ngài mừng rỡ vác lên vai mà đem về. Chỉ ở điểm này, gọi đó là lòng sám hối, ta mới có thể chấp nhận kết luận kia hợp lý.
*** Lạy Chúa! Một lần ra đi, một quãng đời nào của con vương trong bụi gai chẳng còn lối thoát. Chúa thương tìm con về. Bụi đất làm con xơ xác. Chúa chẳng ngại, Chúa bế con rồi ôm trên vai. Chúa không sợ dơ áo của Chúa vì những vết thương của con lâu ngày mưng mủ.
Lối trình bầy Tin Mừng của thánh sử Luca cho con thấy rực lên lòng thương xót của Chúa đi tìm con, hơn là con sám hối ăn năn.
LM. Nguyễn Tầm Thường, S.J. (Trích tập sách “Con Biết Con Cần Chúa”)
Lạy Chúa, con là người ngoại đạo Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
Là người ngoại đạo sao lại tin có Chúa ngự trên cao? Ðã tin Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn ngoại đạo chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo thôi.
Nhiều người có đạo nhưng không vào đạo. Cũng như nhiều người vào đạo nhưng không có đạo. Thơ Nguyên Sa bảo rằng nắng Saigon tôi đi mà chợt mát vì em mặc áo lụa Hà Ðông. Cũng nắng Saigon tôi đi, nhưng sẽ chẳng chợt mát khi lòng tôi không có áo-lụa-em bay. Áo lụa cũng phơi bên sân hiền nhà ai. Dưới ngõ trúc cũng là áo lụa ai đi về. Cũng là áo lụa đó, nhưng vẫn là khác. Phải là áo-lụa-em bay lòng anh mới chợt mát.
Như thế, xem ra, cái gần gũi không gian có là gần mà vẫn là xa. Cái lòng mình chợt mát phải là cái gì thiêng liêng hơn, nó ở trong hồn ta chứ không ở ngoài ta. Nếu nó ở ngoài ta thì bất cứ áo lụa nào lòng tôi cũng chợt mát, bất cứ nắng nào cũng được chứ không phải nắng Saigon. Cái nắng Saigon, con đường Duy Tân lá đổ, hàng me già công viên, tự nó chỉ là me, là nắng, là lá đổ mà thôi cho những ai đi giữa Saigon mà không có Saigon với áo-lụa-em trong hồn mình. Còn ai có áo-lụa-em thì nắng là chợt mát, lá đổ là muôn chiều dư âm. Ðạo cũng thế, chỉ khi nào đạo ở trong tôi mới là có đạo, mới là "chợt mát", là ơn cứu độ.
Thủa xưa cũng đã có một chuyện tình. Ngày đó, sau khi phạm tội, Ađam cùng Evà đi "trong địa đàng" nhưng vẫn là rũ úa giữa địa đàng. Như thế, "tôi ở trong địa đàng" vẫn là thống khổ, chỉ khi "địa đàng ở trong tôi", lúc đó tôi mới "có địa đàng", bấy giờ mới là gió lụa, mới là nắng hoa, mới là lòng mình chợt mát.
Nói về có đạo và vào đạo thì Phúc Âm có nhiều biến cố tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.
Một người ngoại đạo
Kết thúc cuộc đời rao giảng của Chúa là khúc đường vác thập giá lên Núi Sọ. Nếu Chúa vác không nổi mà chết trên đường đi thì hành trình cứu chuộc có dang dở không? Ðó là câu hỏi giả sử mà thôi. Thực tế, hành trình cứu chuộc đã không dang dở. Chúa đã không kiệt sức mà chết trên đường đi vì đã có người vác đỡ. Kẻ vác đỡ thánh giá là ông Simon, người xứ Kyrênê, ông là một người ngoại giáo (Lc. 23:26).
Một người ngoại giáo nữa
Trong quãng đời mục vụ của Chúa, Tin Mừng thánh Matthêu có kể câu chuyện đức tin của một người như thế này:
Khi Ngài vào Carphanaum, thì một viên bách quản đến gặp Ngài, van xin: "Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà, phải đau đớn dữ dằn." Ngài nói: "Ta phải đến chữa nó?" Viên bách quản thưa lại: "Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào mái nhà tôi. Song Ngài hãy phán một lời mà thôi, thì tên hầu tôi sẽ khỏi, vì tôi đây tuy là thuộc hạ, thế mà có lính tráng dưới quyền tôi, tôi bảo người này: "Ði đi!" là nó đi; và bảo người khác: "Ðến!" là nó đến; tôi bảo tôi tớ của tôi: "Làm cái này" là nó làm". Nghe vậy Ðức Kitô ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel" (Mt. 8:5-10).
Lại một người ngoại giáo nữa
Câu chuyện trên là chứng nhân của niềm tin. Câu chuyện dưới đây nói về tâm tình biết ơn, cũng lại là một người ngoài.
Nhằm lúc Ngài vào một làng kia, thì mười người phung hủi đón gặp Ngài. Ðứng đàng xa, họ gióng tiếng lên mà rằng: "Lạy Thầy Yêsu, xin thương xót chúng tôi!" Thấy vậy, Ngài bảo họ: "Hãy đi trình diện với hàng tư tế." Và xẩy ra là trong lúc họ đi, thì họ đã được sạch. Một người trong bọn thấy mình được lành thì quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari. Ðức Yêsu cất tiếng nói: "Không phải là cả mười người được sạch cả sao? Chín người kia đâu? Không thấy họ quay lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại bang này?" (Lc. 17:11-18).
Rồi lại một người nữa ngoại giáo
Thánh Luca thuật lại câu chuyện như sau: "Một người ở thành Yêrusalem xuống Jêrico, giữa đường bị kẻ cướp bóc lột hết và đánh nhừ tử, đoạn chúng bỏ người ấy nửa sống nửa chết mà đi. Tình cờ một trưởng tế đi qua đấy, ông thấy người ấy song tránh một bên mà đi. Lại có một thầy Lêvi cũng qua lối ấy, thầy thấy người ấy song cũng tránh một bên mà đi. Một người Samari nọ, nhân đi đường, cũng đến nơi ấy, thấy thế thì chạnh lòng thương, tiến lại đổ dầu và rượu, ràng buộc thương tích người ấy, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa đến quán trọ, và săn sóc người ấy (Lc. 10:29-37).
Thầy tư tế và Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa, họ là kẻ giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng lại không có đạo. Kẻ sống đạo lại là người ngoại đạo.
Rồi những người ngoại giáo nữa
Vào đêm Chúa sinh ra, trên bầu trời Belem năm ấy có một vì sao lạ. Cả triều đình và bao nhiêu pho Kinh Thánh, với những kinh sư chuyên môn cắt nghĩa ngôn sứ, mà họ chẳng biết gì, họ phải đợi cho tới khi những kẻ ngoại giáo từ phương xa tới hỏi: Ðấng Cứu Thế đã sinh ra ở đâu? (Mt. 2:1-12). Trên bầu trời Belem năm ấy, vâng: Con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
* * *
Lạy Chúa,
- Nói về niềm tin thì các môn đệ khẳng định Thầy đâu có sống lại (Mc. 16:11, Yn. 20:25). Trong khi người có niềm tin mà tìm hết dòng dõi nhà Israel cũng không thấy lại là một người bên ngoài.
- Kẻ vác đỡ thánh giá cho Chúa trên những bước chân xiêu té cuối đời cũng lại là người ngoại.
- Nói về lòng biết ơn thì ít quá. Trong cái ít ỏi ấy lại cũng là một người bên ngoài.
- Nói về lòng bác ái thương người thì cũng không phải là tư tế hay các vị chức sắc trong đạo mà lại là người Samari, một kẻ ngoại giáo.
Băn khoăn một chút thế nào là "người bên ngoài", thế nào là "người bên trong", thế nào là "ngoại đạo" và "có đạo", con thấy một lần Chúa nói: "Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ tự phương Ðông, phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Yacob trong Nước Trời, còn chính con dân trong Nước lại sẽ bị đuổi ra bên ngoài tối tăm" (Mt. 8:11-12).
Con không muốn là con dân trong Nước nhưng bị loại ra ngoài. Làm kẻ từ mười phương mà được Nước Trời thì vẫn tốt hơn. Nếu thế thì con phải hiểu ÐẠO là gì. Con phải băn khoăn thế nào là "vào đạo" và thế nào là "có đạo". Trời chiều nay rộng quá, mênh mông như ÐẠO không bến bờ. ÐẠO mênh mông lắm, làm sao con có thể đem ÐẠO vào một định nghĩa chật hẹp được. Làm sao con có thể nhốt ÐẠO vào nhà thờ, vẽ chân dung ÐẠO bằng tờ giấy rửa tội. Ðã nhiều lần con loại bỏ những ai không cùng tôn giáo với con là người "ngoại đạo".
Bỏ cái chật hẹp của lòng mình, con thấy ý nghĩa lời kinh kia quá đỗi thênh thang. Nếu những giải mây ngang đời trôi về vùng trời bao la không biết đâu là bờ bến thì ý nghĩa của lời kinh ấy cũng mênh mông không biết đâu là bến bờ. Lời kinh đó là:
Lạy Chúa, con là người ngoại đạo Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
Nguyễn Tầm Thường (Trích tập Con Biết Con Cần Chúa)
Có cây nho xinh, lá mịn màng. Người làm vườn chờ nắng lên, tiễn ngày đi, bên vườn nho ấp ủ một mùa sai trái. Ngồi bên luống nho như ngồi bên dòng đời. Người làm vườn nhìn màu lá dập dờn trong nắng như màu hạnh phúc đổ xuống tâm hồn. Bình an và chờ đợi. Thời gian và nôn nao.
Chúa bảo mỗi người là một cành nho trong vườn nho thiêng liêng Nước Trời. Trên màu nắng vỗ, lá non bóc vỏ mình xanh tươi theo ngày tháng. Lời gọi của Chúa cũng vậy, muốn kẻ theo mình bước dần về Jêsusalem cùng lãnh ơn cứu rỗi, cùng lên phục sinh. Trong vườn nho thiêng liêng, có nhánh nho kể chuyện đời mình:
Cành nho kể chuyện
Ngày xưa, tôi là một cành nho xinh. Tôi xin kể chuyện những gian nan đời tôi. Trong những ngày tháng ấy, người làm vườn nói với tôi nhiều lắm. Chúng tôi tâm sự với nhau bên những chiều úa nắng, những bình minh. Có hy vọng, có đau đớn, có mệt mỏi, có lừa dối. Tôi xin kể lại những tâm sự ấy như một đoạn đời thiêng liêng.
Không biết tôi vào đời lúc thời gian đang là xuân, hạ, hay thu. Từ một mầm non nhỏ, tôi chào nắng. Nắng ấm làm tôi nôn nao, rồi sức sống như bùng vỡ trong tôi, bao nhiêu mầm non khác trong da thịt tôi vỡ vỏ chào nắng theo. Tôi thành một cành nho xinh đẹp, rũ lá xuống vườn nho. Người làm vườn rất vui, nhìn tôi mơ một mùa nho sai trái.
Rồi một ngày bất ngờ, có cơn gió vô tình từ đâu bay tới, làn gió như nghịch như đùa, nó làm chùm lá đập vào nhau, rách rơi xuống đất ẩm. Tôi đâu biết trên đời lại có gió như thế. Lần đầu tiên tôi gặp gió. Tôi thua cuộc trong cái thờ ơ không biết chuẩn bị đề phòng. Người làm vườn thương tôi, đến bên tôi, và người làm vườn ấy dâng một lời kinh:
“Lạy Chúa, đời sống thiêng liêng của mỗi tâm hồn, mỗi gia đình, mỗi tu viện cũng giống như cành nho. Người ta nói về những chùm nho đẹp, nhìn những cành lá xanh mà ươm mơ. Nhưng gió đến, lá xanh có thể rách, chùm nho càng sai thì càng dễ rơi xuống. Cành nho vững được trước gió là nhờ những sợi dây nho nhỏ cuốn vào hàng rào. Chính những sợi râu nhỏ không ai để ý, chả ai nói tới, lại mang một trách nhiệm lớn như thế. Gió có thể làm chính những cành lá đập vào nhau mà rách. Giống như cuộc đời vậy, lúc gió bão cuộc đời xẩy ra thì chính anh em trong nhà, người trong cùng tu viện, kẻ trong một Giáo Hội, vợ chồng với nhau có thể xâu xé nhau. Những sợi râu nhỏ kia là hình ảnh của những giây phút cầu nguyện và xét mình. Nó nhỏ và âm thầm, nhưng thiếu nó, đời sống thiêng liêng sẽ sụp đổ. Chùm nho có đẹp, lá có xinh, nhưng không có những sợi râu bám chặt vào thân rào, gió sẽ làm nó tan tác. Bao nhiêu công trình tông đồ đẹp như mùa nho sai trái, nhưng thiếu cầu nguyện và xét mình, nên chúng trở thành ghen tị, hiềm khích chống đối lẫn nhau. Những sợi râu nhỏ ấy có thể là những tối hồi tâm chung giữa vợ chồng, gia đình đọc kinh chung. Nó có thể là xét kỹ xem đâu là căn tính hướng đi của Tin Mừng mà một người có trách nhiệm trong Giáo Hội phải đặt tiêu chuẩn.”
***
Sau lời nguyện của người làm vườn, sau trận phong ba ấy, tôi dè dặt hơn vì biết gió đến bất chợt. Tôi khôn ngoan hơn trong những cái nhìn. Tôi không tự hào lắm về những cành lá xanh nữa. Tôi biết, không có những sợi râu nhỏ kia, gió sẽ tàn phá chúng tôi. Từ đó, tôi có cái nhìn thiết tha hơn với những gì mà tôi coi là nhỏ bé tầm thường trên giàn nho gia đình chúng tôi. Chắc là trong cuộc sống của loài người cũng thế phải không, biết đâu những đóng góp kín đáo bằng cầu nguyện, hy sinh của những người mà xã hội coi thường đã giữ cho cộng đoàn sức sống? Biết đâu những người tôi cho là quê mùa, những gì tôi coi thường là nhỏ bé, trước mặt Chúa lại là những viên đá nền tảng cho Giáo Hội?
Nhờ nắng ấm, nhờ sương hiền của trời, cành nho tôi hôm nay bắt đầu có trái. Ôi! tôi còn nhớ sáng ấy, người làm vườn vui làm sao. Ông ta cứ loanh quanh bên gốc nho, xoa từng màu xanh, săn sóc từng đốm hồng trên chùm lá. Ông nhìn vườn nho, mà tôi biết trong tim ông vui lắm. Ông đang nghĩ tới một năm được mùa. Nhưng bạn ạ, cuộc đời có những gian nan không ngờ.
Trên cành nho, có một tàn lá rất xinh. Màu vàng của nắng, màu xanh của mình, chùm lá đẹp làm sao! Người ta nhìn vườn nho, cứ dựa vào màu lá mà khen vườn nho. Úa vàng là vườn nho bệnh hoạn, xanh tươi là vườn nho hy vọng. Trong chùm lá ấy, “ẩn mình một cánh lá chờ chết.” Cánh lá giấu mặt đằng sau một tổ sâu! Nó chỉ khoe màu xanh mặt trước mà che kín một màu tang tóc phía sau. Từ cánh lá “ẩn mình chờ chết ấy”, vết chân sâu bò dần sang những cánh lá khác, đi tới đâu là rải xuống mầm hoang vu. Sâu không bao giờ chịu xây tổ dưới một cọng lá, sớm muộn rồi nó cũng lan qua, tàn phá những tàn lá chung quanh. Vết chân sâu tiêm vào chùm nho đang giữa mùa chín tới. Người làm vườn đâu có ngờ trái nho chua rồi, nó chỉ còn màu xanh vẻ đẹp bên ngoài thôi. Rồi thời gian cũng đến. Xót xa trong tim người làm vườn. Rồi tôi cũng nghe như nỗi buồn từ từ rơi xuống hồn tôi. Thấm thía. Xa vời. Lời rất sâu trong trái tim người làm vườn ấy, vào một ngày ủ dột, dạy tôi lời kinh nguyện:
Lạy Chúa, tội lỗi là những sa ngã kín đáo, ai cũng sợ người khác biết. Che dấu là cảm dỗ ngọt ngào xúi đẩy nhiều tâm hồn trở thành lừa dối. Cuộc sống chung là một liên hệ hòa hợp, tình trạng thánh thiện hay tội lỗi của người này có ảnh hưởng tới đời sống thiêng liêng của linh hồn kia. Khi một gia đình, một tu viện mà có những người thánh thiện, giữ tâm hồn sạch tội thì hạnh phúc sẽ chan hòa sang nhau. Như những nhánh sông chảy bên rễ vào nhau, dòng nước sẽ trong nếu có nhiều nhánh sông trong, dòng nước sẽ đục nếu những nhánh sông đó đục. Tội lỗi của một cá nhân trong gia đình, trong tu viện ấy có thể giấu kín, nhưng sức sống thiêng liêng trong gia đình ấy sẽ bị mất, niềm vui trong tu viện ấy thành nhạt. Xin Chúa cho con can đảm để Chúa bắt những con sâu tội lỗi ấy qua bí tích giải tội. Vì như những con sâu đó, tội trong con sẽ phát sinh ra những xét đoán thiếu công bình. Khi mất bình an, con sẽ dễ cay nghiệt, dễ nóng giận. Ðiều đó làm cho những chùm nho thiêng liêng thành chua chát, mất vẻ đẹp của linh hồn con, gia đình con, tu viện con.
Tâm sự người làm vườn
Tôi là người làm vườn. Tôi quý vườn nho của tôi. Từ ngày trồng đến mùa nho chín là một hành trình dài. Dài ngày tháng bằng khoảng đo mặt trời lên xuống. Dài ngày tháng bằng nỗi mong đến mùa hái. Dài ngày tháng bằng nỗi sợ có thể bị mất mùa. Thời gian trong tâm hồn làm tôi ngột ngạt. Nếu biết chắc chắn mùa tới, nho sẽ chín, trái sẽ ngọt thì cái dài của ngày tháng chỉ là chờ đợi niềm vui. Nhưng phân vân không biết rồi mùa sẽ thế nào, sẽ ra sao là một khắc khoải lớn lắm. Cứ nhìn tay người làm vườn mà định giá nỗi thao thức trong tim người làm vườn ấy. Không người làm vườn nào mà có bàn tay trắng trẻo. Tôi không ngại mưa nắng sớm hôm. Tôi không sợ xước tay vì gai, vì đá sỏi. Tôi chỉ mong được mùa.
***
Lạy Chúa, bàn tay của Chúa trên thánh giá trong mỗi nhà thờ nhắc nhở con điều gì? Khi con muốn xuống vườn nho, đi làm với Chúa, con cũng phải hỏi mình về đôi bàn tay. Nếu con sợ bàn tay rám nắng, nếu con không muốn nhặt cỏ, cuốc đất, thì con không phải là người làm vườn, con chỉ xem người khác làm vườn thôi.
Cuốc đất, nhặt cỏ ấy là từ bỏ sự ươn lười, là chiến thắng sự thiếu nhiệt thành, là phấn đấu không dấn thân nửa chừng, là tha thiết với công việc giáo xứ, là xây dựng cộng đoàn huynh đệ. Muốn giữ cho bàn tay không mệt mỏi có thể là những cám dỗ chỉ muốn đưa ý kiến nhưng ngại hy sinh, muốn ra chỉ thị hơn là thi hành.
Ðôi tay Chúa đã mang đầy thương tích.
Con đã thấy những người lao động ở vùng kinh tế mới. Trưa nắng quá sức mà họ cứ hì hục rẫy cỏ. Tay họ cháy nắng. Mồ hôi họ nhễ nhãi. Nhưng khi nói chuyện với họ, băn khoăn sau cùng của họ vẫn là: “Rồi, không biết năm nay có được mùa không.” Nhìn nương khoai, tay quệt mồ hôi, nheo mắt trong trời chói nắng, họ không phàn nàn vì phải lao động vất vả, họ chỉ có một băn khoăn: “Rồi, không biết năm nay có được mùa không.”
Phải chăng đó cũng là băn khoăn của Chúa khi nhìn linh hồn con. Chẳng còn điều gì có thể làm mà Chúa không làm cho con để cứu chuộc linh hồn con. Sau cùng, khi bàn tay đã tả tơi trên thập tự thì cũng chỉ còn lại trong tim Chúa một ước mơ thôi, đó là linh hồn con thuộc về Chúa.
Nếu con yêu Giáo Hội thì nỗi băn khoăn ấy cũng phải là của con nữa. Nếu con không thao thức với nhịp sống của Giáo Hội thì con sẽ không tha thiết trong việc tông đồ, điều ấy làm con mất đi năng lực cộng tác với ơn Chúa để thánh hóa chính mình.
Xin Chúa cho con phải nhắc nhở, thôi thúc tự hỏi chính con về tình trạng linh hồn mình và lòng nhiệt thành với Giáo Hội là một vườn nho chung. Trong vườn nho ấy, xin cho con quý bí tích giải tội, có lẽ nào một cành lá cứ giấu ẩn đàng sau những con sâu đo xấu xí.
Một hôm các môn đệ đến phân bì với Chúa là Yoan dậy môn đệ của ông ta cầu nguyện, còn Thày, xin Thày cũng dạy chúng con cầu nguyện đi. Từ ngày đó kinh Lạy Cha đã ra đời. Ðó là kinh mà chính Chúa đã dạy các môn đệ (Lc. 11:1-3). Chẳng biết lúc đó các môn đệ có hiểu lời kinh ấy không mà chẳng thấy các môn đệ thắc mắc gì cả. Rồi từ đó dọc theo lịch sử hai nghìn năm, người ta cứ đọc kinh ấy mãi cho đến hôm nay. Vì tính cách quan trọng nên kinh ấy được đưa vào thánh lễ. Mỗi lần dâng lễ, tôi lại trịnh trọng giang tay nói với toàn thể cộng đồng: "Theo lời Người dạy chúng ta hãy nguyện rằng." Rồi cả nhà thờ vang lên lời kinh đó. Trong lời kinh có một câu thế này: "Xin Cha tha nợ cho chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con" (Mt. 6: 12).
Thế là chết tôi rồi! Tôi ký với Chúa một giao kèo hay sao. Tại sao tôi không xin Chúa tha cho tôi theo lòng thương xót của Chúa chứ đừng giống như sự hẹp hòi của tôi. Rõ ràng tôi bảo Chúa cứ tha cho tôi giống như là tôi tha cho người khác. Chúa cứ việc nhìn vào tôi như mẫu mực mà thi hành.
***
Ðâu là mẫu mực của tôi? Thánh Matthêu kể:
Nước Trời giống như một vua kia tính sổ với bầy tôi. Nhà vua vừa khởi sự tính sổ thì người ta điệu đến một người nợ một ngàn nén vàng. Y không có gì để trả nợ nên nhà vua ra chỉ thị bán y và vợ con sản nghiệp thay thảy để trả nợ. Vậy người bầy tôi phục xuống bái lạy mà rằng: "Xin Ngài nán lại cho tôi với, thần sẽ trả hết." Nhưng tôn chủ của bầy tôi ấy chạnh lòng thương, đã thả y về và tha bổng cả món nợ. Ði ra, người bầy tôi ấy gặp một người bạn đồng nghiệp mắc nợ y một trăm đồng bạc. Y liền bóp cổ chận họng mà rằng: "Nợ đâu, trả đây." Người bạn đồng nghiệp phục xuống nài van y rằng: "Xin ông nán lại cho tôi với, tôi sẽ trả!" Nhưng y không chịu, lại đi bỏ tù, cho đến khi nào nó trả nợ xong. Vậy các bạn đồng nghiệp thấy sự xảy ra thì rất đỗi buồn phiền mà đi phân trần đầu đuôi mọi sự xảy ra với tôn chủ họ. Bấy giờ, tôn chủ cho điệu y đến bảo rằng: "Tôi tớ bất lương, ta đã tha bổng cho người tất cả món nợ ấy, chỉ vì ngươi đã nài xin ta! Há ngươi không phải thương xót bạn đồng nghiệp ngươi sao, như chính ta đã thương xót ngươi?" Thịnh nộ, tôn chủ của y đã trao y cho lý hình cho đến khi nào y trả xong tất cả những gì mắc nợ với ông. Cha Ta, Ðấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi như thế, nếu các ngươi mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình" (Mt. 18: 23-35).
Nếu mẫu mực của tôi như thế thì chết tôi rồi. Tôi chỉ xin Chúa tha cho tôi giống như tôi tha cho người khác.
***
Sau kinh Lạy Cha. Phúc Âm Matthêu kết luận như sau: "Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho các ngươi; nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha thứ điều các ngươi sai lỗi" (Mt. 6: 14-15).
Như vậy là rõ lắm, Chúa tha thứ cho tôi theo mức độ tôi tha thứ cho người khác. Như thế lời kinh Lạy Cha có thể là lời tôi kết án cho tôi. Tôi xin với Chúa rằng chỉ tha cho tôi giống như tôi tha cho người ta thôi. Hằng ngày tôi đọc kinh ấy, đã mấy mươi năm trong đời rồi. Ðã bao nhiêu ngàn lần tôi khắc sâu vào tâm trí Chúa để Chúa nhớ là: Xin tha nợ cho tôi giống như tôi tha nợ kẻ khác, đừng tha nhiều hơn! Nếu tôi không tha cho người khác được là tôi xin Chúa cũng đừng tha cho tôi. Ôi! lời kinh nguy hiểm biết bao nhiêu!
***
Ở đây, giữa tôi và Chúa có phải là ký với nhau một giao kèo không? Nếu là giao kèo thì hợp lý trong lối lý luận, nhưng thiếu tự do trong thái độ tha thứ. Bấy giờ, tha thứ trở nên như một mặc cả đôi bên. Có khi tôi không muốn tha cho người ta, nhưng để Chúa tha cho mình thì thôi cũng đành cố tha cho người khác vậy. Còn phía của Chúa thì lấy sự tha thứ cho tôi như một áp lực để tôi phải tha cho người khác. Tôi thấy có điều không ổn theo lối đặt điều kiện như thế này. Tha thứ đến từ những điều kiện là trả nợ theo luật pháp chứ không phải là rung động bằng con tim. Tha thứ áp lực là tiếc nuối của một đổi chác. Chúa không thể hành xử như thế. Vậy tôi phải hiểu tha thứ như thế nào?
**
Trong thân thể Ðức Kitô mà tôi là chi thể thì dòng máu luân hoán chỉ có một màu đỏ, nghĩa là tôi đến với Chúa rồi qua tha nhân, hay qua tha nhân rồi đến với Chúa, ngả nào cũng là một thái độ. Tôi không thể có hai thái độ, đến với Chúa là dòng máu đỏ, ngả qua tha nhân là dòng máu đen. Bánh xe luân chuyển tương quan giữa ba chủ thể; Tôi - Tha nhân - Chúa là thông cảm của một thứ tình. Bởi đó khi một bánh xe bị gẫy sẽ làm con đường nối kết ba chủ thể ấy gián đoạn. Tôi và tha nhân bị cách đoạn thì tôi và Chúa cũng không thể nối kết. Không nối kết với tha nhân thì nối kết với Chúa là ảo tưởng, lúc đó Chúa chỉ là ngẫu tượng: "Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ trước bàn thờ, rồi đi làm hoà với anh em ngươi đã, rồi hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi" (Mt. 5: 23-24).
***
Tha thứ không phải là tri thức để hiểu mà là cảm nghiệm rung động. Khi tôi không tha thứ được cho người là lúc con tim tôi đã khô cứng. Nếu sự khô cứng làm tôi không rung cảm trước xót thương của người khác thì cũng chính sự khô cứng ấy làm tôi không cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa cho tôi. Sự tha thứ của Chúa luôn luôn vô điều kiện, nhưng điều kiện cảm nghiệm được sự tha thứ ấy lại hệ tại khả năng mềm mại nơi trái tim tôi để tôi có thể rung động mà tha thứ cho người. Chỉ khi trái tim mềm mại tha thứ thì khả năng mềm mại của nó mới có thể lãnh nhận được thứ tha của Chúa.
Có cảm nghiệm được Chúa tha thứ thì mới có thể thứ tha cho người. Bởi đó, khi tôi không tha thứ là vì có thể tôi chưa cảm nghiệm được sự tha thứ của Chúa. Như thế, khi tôi khó tha thứ cho người đấy là dấu chỉ cho tôi biết tôi chưa thực sự xin Chúa thứ tha cho tôi. LM Nguyễn Tầm Thường S.J. trích trong “Con Biết Con Cần Chúa”