Có lần Đức Kitô bảo muốn hạnh phúc hãy đi con đường hẹp. Đường thênh thang chỉ dẫn đến hư đi. Rồi từ đó, người ta bảo muốn theo Đức Kitô phải đi con đường gian khổ. Có người đơn giản cho rằng theo Chúa thì phải khổ. Từ đó có nhiều cái nhìn về những con đường.
Trải qua nhiều năm tháng mù mịt. Hai nghìn năm quá xa. Không biết ngày đó câu chuyện xảy thế nào. Chúa thật sự nói gì về những con đường?
Kho tàng tu đức nhà Phật có kể câu chuyện thế này.
Trải qua bao thời kỳ, cứ đến giờ tụng kinh, người ta trói một con mèo. Ngày qua ngày, tháng qua tháng. Không biết bao đời tiếp bao đời, cứ đến giờ tụng kinh, có một con mèo bị trói. Nó trở thành một nghi thức không thể thiếu trong các cuộc lễ của chùa. Đến một ngày nọ, có vị sư trẻ đến chùa, thấy sao kỳ cục quá. Nhà sư tìm về lịch sử tại sao có nghi lễ kỳ quặc thế.
Nhà sư khám phá ra. Ngày xửa ngày xưa, chùa có một con mèo. Đến giờ tụng kinh nó hay chạy nhảy lung tung. Đổ nhang, đổ nến hoa. Để khỏi chia trí, vị sư già trụ trì chùa cho đệ tử cứ đến giờ tụng kinh, trói nó lại. Rồi nhà sư già qua đời. Trải qua nhiều năm tháng. Bến mê đưa kẻ đi sau lụy hình thức mà không hiểu nghi lễ mình làm. Cứ phải tìm một con mèo trói lại mới trọn lời tụng kinh. Truyền thống dễ dãi ấy kéo dài về sau. Trong tôn giáo có những hình thức không hợp với tín điều. Có những thờ phượng lụy vào lầm lẫn. Cần có một tâm hồn để nhìn ra có những con mèo đã chết miệt từ năm tháng nào rồi mà người ta vẫn đưa vào nghi lễ.
Trở về những con đường đi.
Nhiều người cho rằng theo Chúa thì phải chấp nhận một đường đi đau khổ. Họ dễ dãi bảo đường Chúa đi là đường khổ đau. Thật sự, Chúa nói gì về những con đường?
Ta rất cần phải phân biệt, thế nào là đau khổ. Người ta có thể đau nhưng không khổ. Khi người mẹ sinh con thì đau đớn. Nhưng bà hạnh phúc, chứ không khổ. Đau một lần khi sinh con, nhưng có khi khổ suốt đời vì con. Có nhiều cuộc đau mà không khổ. Cũng như có nhiều cuộc không đau mà khổ.
Đau khổ không là đề tài dễ dãi để suy tư một cách biếng nhác. Nó ẩn chứa quá nhiều chiều sâu. Đấy là những đau, những khổ rất bình thường. Bởi đó, làm sao ta dám dễ dãi đơn giản nói rằng theo Chúa thì phải chấp nhận đau khổ?
Có những vợ chồng chấp nhận đau thương để vượt biên tìm nhau cho đời hết khổ. Bàn chân vướng gai nào không đau khi tìm đường đến trại cải tạo thăm chồng? Vì khổ nên người ta lấy đau để hóa giải. Như thế, đau mà có thương có thể mua được hạnh phúc. Có những kinh nghiệm rất thực, có những bàn chân hôm nay không đau vì phải buôn thúng bán bưng. Có những bàn chân hôm nay hàng tuần đi mỹ viện. Nhưng họ rất khổ. Có những đau thương tìm nhau cho đời hết khổ thì cũng có những ngày hết đau vì không phải tìm nhau mà lại rất khổ vì có nhau. Đó là kinh nghiệm từ cuộc sống.
Có nhiều cuộc đau mà không khổ, như khi bà mẹ sinh con. Cũng như có nhiều cuộc không đau mà khổ, như khi con lớn, khổ vì con. Thì cũng có nhiều cuộc đau để hết khổ. Như vợ chồng tìm nhau. Vậy đau khổ là gì trên con đường Đức Kitô nói hai nghìn năm xưa? Nếu theo một người để đau khổ thì theo làm gì?
*** Thiên Chúa không bao giờ bảo con người theo Chúa để mà đau khổ. Ta không muốn dễ dãi cột con mèo rồi bảo đó là nghi lễ.
Nhưng để hết khổ thì Thiên Chúa bảo có khi phải đau. Cũng như người ta sẵn sàng chấp nhận đau cho một tình yêu hết khổ. Đau để hết khổ thì vấn đề không phải là đau khổ nữa, mà là thế nào là khổ và thế nào là đau.
*** Một ngày nọ chú bé bẫy được bày chim. Con nào cũng gầy quá. Giữa tháng năm mất mùa, chẳng có lúa thóc, ngô khoai. Để đem ra chợ, cậu bé nuôi bầy chim cho béo nẫy. Ngày ngày lúa thóc đổ vào. Chỉ một vài tuần sau, con nào cũng béo mập. Nhìn những con chim khác say sưa mổ thóc, mổ gạo. Cánh chim kia đau lắm. Nó thèm thuồng làm sao. Giữa năm tháng mất mùa. Rừng khô nước, đồng khô cỏ. Con người cũng thế thôi, giữa cái chang chang của cuộc đời. Nhìn kẻ khác làm giầu bằng con đường lừa gạt, nhìn những hạnh phúc bằng mối tình rong chơi. Nhiều tâm hồn cũng xót xa cho thân phận. Tất cả giống nhau ở trong lồng và miếng ăn. Bầy chim và cuộc đời.
Ngày ngày con chim nọ rất đau nhìn bạn bè ăn. Cái đau dằn vặt. Cái đói thèm thuồng. Chỉ còn một ước mơ nuôi nó, bầu trời xanh thăm thẳm ngoài kia. Đợi ngày bầy chim béo mập, cậu bé sẽ đem ra chợ bán. Thật không ngờ, sáng nọ, nhìn bầy chim. Cậu bé thấy biến mất con chim gầy.
Ngày ngày nó đau nhìn bầy chim ăn no nê. Nó chấp nhận đau để thoát khổ. Quê hương nó là bầu trời ngoài kia. Hạnh phúc của nó là cánh rừng bàng bạt gió núi. Nó phải trở về quê hướng đó. Yêu bầu trời tự do quá đỗi. Nó không thể vì miếng ăn mà giam mình trong cũi lồng chật hẹp. Nó phải tung cánh đi tìm tự do. Mỗi lần nhìn bầy chim tranh nhau mổ thóc. Mỗi khi cậu bé đổ gạo vào lồng. Nó đau. Nó phải nhìn bầu trời mà khấn xin. Rồi ngày phải đến. Nó gầy, nó ốm lại để một bình minh kia, nó ép mình nhỏ lại, lách mình qua nan tre của chiếc lồng bay thẳng vào trời mênh mông. Chớ gì trong mỗi ơn gọi, ta nhìn bầu trời thênh thang, ngoài kia.
Đau không có nghĩa là khổ. Và có khi để thoát khổ cần phải đau. Khi người ta đau để thoát khổ thì không còn đau khổ.
*** Đức Kitô là hạnh phúc.
Ngài nói rõ: Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào. Ngài bảo Ngài dẫn chiên đi ăn, Ngài tìm từng con thương tích mang về. Ngài chữa lành cho kẻ bệnh tật được khỏi. Ngài truyền cho người ta không còn bị quỷ nhập. Ngài thương người tật nguyền. Ngài bảo kẻ lành không cần thầy thuốc. Ngài cứ đến nhà, ăn uống với người tội lỗi. Đời Đức Kitô toát lên một hạnh phúc vui tươi. Tôi không theo ai để đời tôi đau khổ.
***
Vậy đâu là con đường hẹp Đức Kitô nói đến? Cánh chim kia đã chọn con đường hẹp để tung cánh vào bầu trời. Có những thèm muốn dang dở. Có những tham, sân, si khổ lụy. Cái khổ lụy như mồi chài bắt bóng. Cái bắt bóng mà khi bừng tỉnh mới thấy con đường hẹp đẹp làm sao. Cũng như khi tìm đau để hết khổ thì không còn đau khổ. Cũng thế, khi tìm đường hẹp để thấy đời rộng thì đường không còn hẹp nữa. Ta cần một tỉnh thức của tâm hồn là Thiên Chúa không bao giờ bảo ta theo Ngài để đau khổ.
Theo Ngài để hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ở đâu?
Con chồn nghển đầu cố nhìn qua hàng rào. Mùi hương của mùa nho chín trong vườn làm nó chảy rãi. Qua cái lỗ nhỏ của chân tường, nó chúi đầu chui vào. Mùi mật của vườn nho làm nó càng tham, sân, si. Lầm lũi, ngày ngày nó đến ướm mình vào lỗ chui ở chân tường. Không chui nổi. Nó nhịn ăn cho đến một ngày gầy đủ để lách qua, chui vào vườn nho. Rồi một ngày hân hoan. Nó tưởng như thiên đàng bất tận. Mùa nho sai chín. Nó say xưa ăn uống cho thỏa mãn dục vọng. Bất chợt ngày kia có tiếng động rất lạ. Và dường như không còn cái bất tận của thiên đàng nữa. Nó tìm trở về góc tường ngày xưa. Than ôi, cái béo phì không đẩy được thân xác ra nữa. Mùa gặt đến. Ai sẽ cứu nó? Các tá điền bắt đầu theo chủ đi hái nho. Cái bừng tỉnh của nó, bây giờ làm sao thoát thân?
Có những thèm muốn dang dở. Có những tham, sân, si khổ lụy.
Phúc thay, trở về kinh nghiệm thiêng liêng ngày xưa. Chỉ còn con đường hạnh phúc là tìm cách chui qua lỗ chân tường. Từ ngày đó, nó lại nhịn ăn. Gầy ốm dần, tiêu đi chiếc bụng chềnh bềnh, một hừng đông kia, nó lại lách mình qua chân tường, biến ra ngoài. Hú hồn, nó thoát chết.
Cái khổ lụy như mồi chài bắt bóng.
Con chồn nhìn lại đời nó. Một đêm trăng vắng yên lặng, nó ngồi nhìn ánh trăng mênh mông, trong bóng đêm vằng vặc, nó nói với đời: Tất cả chỉ có thế. Nó hiểu thế nào là đường hẹp. Nó quý những con đường của riêng nó, những con đường mòn hạnh phúc.
*** Lạy Chúa, con cần một tâm hồn tỉnh thức. Con không thể biến tôn giáo của con thành tiếng kinh cầu ê a. Con không thể cứ đến ngày rằm là trói con mèo trong nghi lễ. Con cần một tâm hồn để hiểu Chúa là hạnh phúc. Con ước mong được đau như người lực sĩ chịu tập luyện chứ đau không là hình phạt. Con phải hiểu Chúa tuyệt vời trong tiến trình đi tìm hạnh phúc. Và phải hiểu rằng, để hạnh phúc, con phải biết yêu bầu trời tự do của lương tâm. Đau để lách vào vườn nho mồi chài bắt bóng của con chồn, khác với nỗi đau thoát khỏi cái lồng tre chật chội của cánh chim. Đau của con chồn tìm vào tham, sân, si khác nỗi đau sám hối tìm đường ra.
Con cần một trái tim dũng cảm để thoát khổ bằng nỗi đau. Thì con cũng cần một tâm hồn để biết lựa chọn vì không phải cứ đau là thoát khổ. Con khổ vì không phân biệt được những nỗi đau.
Và khi con hiểu cuộc đời nhiều khi chỉ thoát khổ bằng nỗi đau thì con sẽ thấy con đường hẹp Chúa bảo con không phải là đường khổ đau nữa mà là hạnh phúc.
Chúa luôn luôn tuyệt vời vì Chúa hiểu thế nào là đau, thế nào là khổ. Chúa đã khổ, đã đau.
Còn con, con lẫn lộn đau khổ, lẫn lộn hạnh phúc.
Để bớt lẫn lộn, con xin dừng lại, xét lại những lời kinh, lối sống đạo, xét lại cách con hiểu Lời Chúa như nhà sư kia xét lại những nghi lễ của mình.
Lm Nguyễn Tầm Thường, S.J. - Trích từ tập suy niệm KẺ ĐI TÌM
Câu chuyện người con hoang đàng trong Tin Mừng Luca (Lc. 15: 11-32) nói đến trở về. Mùa chay là mùa sám hối. Ði tìm một khoảnh hồi tâm, ta hãy đọc lại đoạn Tin Mừng.
Người con hoang đàng
Từ xưa tôi vẫn nghĩ rằng hãy trở về như người con hoang đàng. Ðứa con hoang đàng như một mẫu mực trở về. Khi thấy con về, người cha vui mừng quá làm tôi thấy sự trở về của người con như một hành động anh hùng. Ðã bao năm tháng qua, tôi vẫn được nhắc nhở rằng hãy lên đường anh hùng, dứt khoát như người con ấy.
Ðọc kỹ đoạn Tin Mừng, tôi thấy man mác đó đây một mầu tím buồn. Một giải mây tím buồn rất xa. Ở một điểm nào đó, tôi thấy sự trở về của người con có làm cho cha vui, nhưng tôi vẫn không ra khỏi giải mây tím lặng lẽ. Trong sự trở về của người con hoang đàng tôi thấy có điều không ổn. Rồi chiều nay, mùa chay lại trở lại. Tôi muốn đọc lại đoạn Tin Mừng, chậm rãi hơn, lặng lẽ hơn để đi tìm cái không ổn của mầu tím đó.
Sau khi người con ra đi, thánh Luca viết về quãng đời của nó như sau:
Khi nó tiêu sạch cả rồi, thì khắp miền đó, lại sẩy ra nạn đói kém khủng khiếp và nó bắt đầu lâm phải túng thiếu. Nó đi sống bám một người dân trong vùng ấy; và người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó ước gì có thể lấy rau heo ăn mà thốn cho đầy bụng, mà cũng chẳng ai bố thí cho nó. Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy! tôi sẽ về cùng cha tôi, tôi sẽ nói với người:
"Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa, xin cha xử với con như một người làm công của cha thôi".
Ðộng lực nào khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: "Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy, tôi sẽ về cùng cha tôi.” Như vậy động lực khiến nó trở về chỉ vì đói. Trước khi bị đói, không bao giờ thấy nó nhớ đến cha, không thấy sám hối vì bỏ cha đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về căn nhà cũ, nơi còn có cha chẳng biết già yếu ra sao, không thấy nuối tiếc vì phá tan cả sản nghiệp của cha. Sau khi bị đói nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái tự nhủ, băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha nó là nó trót phạm tội nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như một người làm công.
Trong tự nhủ này có một ngập ngừng không đơn giản. Tại sao nó muốn được đối xử như một người làm công? Người làm công có dư bánh ăn! Có phải, bây giờ muốn có bánh thì chỉ cần xin được làm người làm công? Tôi không muốn khắt khe xét đoán sự trở về của nó. Nhưng vẫn có một u uẩn trong lối hành văn của thánh sử Luca. Ban đầu, vì đói nó mới về. Khi hồi tâm nó nghĩ đến miếng bánh của người làm công được ăn. Những ý tưởng này cho tôi nghĩ lời nói "trót phạm tội nghịch đến Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa", mang một giá trị rất nhẹ của lòng sám hối.
Nếu nó được ăn rau của heo thì nó ngang hàng bằng heo. Nhưng trước mặt người ta, nó không được ăn rau của heo, nghĩa là nó không giá trị bằng heo. Cái hoang vu của mầu tím ở đây là nếu nó được ăn rau của heo thì liệu nó có trở về không? Cái dằn vặt của một mầu tím khó tìm được câu trả lời là tại sao phải đợi đến khi ngay cả rau cho heo cũng không có ăn lúc bấy giờ mới về. Ðó là cuộc lên đường về trọn vẹn sao? Ðấy là cuộc lên đường thúc đẩy từ lòng sám hối sao?
Mỗi mùa chay, nghĩ đến cuộc trở về trong Tin Mừng thánh Luca, tôi lại mơ ước một cuộc lên đường trọn vẹn. Tôi trở về trọn vẹn để xứng đáng lòng yêu thương của Chúa, hay chỉ có thể dựa vào lòng xót thương của Chúa mà tôi có thể trở về?
Thái độ của người cha
Khi nhớ thì mỗi chiều cách biệt là một quãng đời hoàng hôn xạm tím. Lần rở lại những trang đầu của câu chuyện. Ta thấy thánh sử Luca vẽ chân dung người cha bằng một sắc mầu rất đỗi chịu đựng.
Ngài còn nói: "Người kia có hai đứa con. Con thứ nói với cha: "Thưa cha, xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!" Vậy người cha đã phân chia của cải cho chúng nó. Không mấy ngày sau, đứa con thứ thâu góp tất cả của cải mà trẩy đi phương xa. Và ở đó nó sống trác táng phá tan cả sản nghiệp".
Bắt đầu câu chuyện là đã thấy mầu tím u uẩn như những giây đàn han rỉ. Nó như những giọt mưa buồn của một từ giã nặng nề. Nó như những tiếng chuông trầm, cũng rất thong thả, rơi trong một chiều cô tịch, gõ vào lòng người cha, rất đìu hiu. Khi người con từ giã, đi xa rồi, lòng người cha ở lại nghe những tiếng chuông ấy vọng về: "Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!"
Tôi không thấy mầu tím buồn trong hồn người cha than vãn, nuối tiếc vì số sản nghiệp bị mang đi. Nhưng có một ray rứt không buông thả trái tim người cha già tội nghiệp. Cha mẹ chia của cải cho con cái khi biết mình sắp chết. Con cái chia nhau sản nghiệp khi bố mẹ đã qua đời. Tài sản của cha mẹ, nên chỉ khi cha mẹ gọi con cái đến chia, con cái mới được nhận, không khi nào con cái được quyền đến đòi cha mẹ phải chia cho mình. Nhưng ở đây, người con không đợi nổi đến ngày cha mình chết. Nó mong sao ngày đó chóng đến. Nhưng bao giờ? Thôi! cha cứ chia cho tôi trước đi, đợi cha chết lâu quá! Cha cứ chia đi rồi ngày nào cha chết tùy cha!
Người cha không nổi giận. Ðưa cho con gói bạc mà thực ra nó chẳng có quyền đòi. Người cha không tiếc gia nghiệp, nhưng tiếc một tình nghĩa đang mất. Tiếng nói của người con: "Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con" như những tiếng chuông báo tử của một linh hồn sắp lìa đời đang gõ xuống lòng người cha một sự thật đau đớn không thể chối từ. Người cha nhìn về chân trời để thấy hồn mình là một nỗi sầu tím. Người cha già giữ nỗi sầu tím ấy trong im lặng.
***
Lạy Chúa, Bàn thờ đã giăng lên mầu tím của mùa chay. Ngày ngày dâng lễ con thấy mầu tím nhắc nhở con trở về. Con đã được dạy hãy lấy hình ảnh người con hoang đàng trở về làm mẫu mực. Ðọc lại câu chuyện, con thấy sự trở về của nó không phải là một mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về đến từ hồi tâm của tình yêu tha thiết.
Con thấy động lực thúc đẩy người con thứ trở về là miếng ăn. Một cuộc trở về man mác buồn. Nhưng, những tối một mình trong thinh lặng, rồi, những trang Lời Chúa nói với con bằng một ngôn ngữ rất sâu. Nếu cuộc trở về của nó mà trọn vẹn đến từ nước mắt thì câu chuyện thánh sử Luca trình bầy sẽ đẹp lắm, sẽ uy hùng lắm. Câu chuyện trở nên thiên anh hùng ca, nhưng sẽ là thách đố sợ hãi cho con.
Nhìn lại những cuộc lên đường về của con, con thấy cũng giống vậy. Con lên đường về cũng vì miếng ăn. "Khi tình yêu con còn mơ, tin yêu con dệt thơ thì tình Chúa hững hờ.” Con trở về khi cuộc đời dầm bập con. Nếu người cha chỉ hân hoan đón đứa con hoang đàng khi nó về với lòng sám hối ăn năn tận đáy lòng thì chắc Chúa ít có cơ hội đón con lắm. Con trở về vì con muốn thiên đàng. Con trở về vì con sợ hỏa ngục. Con trở về vì đời hắt hủi. Sự trở về của con vẫn đến từ nỗi sợ, từ sự thèm muốn, từ một cùng đường.
Cuộc trở về của đứa con hoang đàng trong Tin Mừng Luca không là mẫu mực lên đường về như một gương sám hối, mà con thấy là cuộc trở về dựa vào tình yêu của Chúa.
Làm sao định nghĩa được tình yêu. Người ta nói như thế. Người ta bảo không định nghĩa được tình yêu vì tình yêu phức tạp quá. Con không nghĩ vậy. Tình yêu khó hiểu không phải vì phức tạp mà vì nó quá sâu để hiểu. Khi tình yêu phức tạp là người ta đang đày đọa tình yêu mất rồi. Chỉ vì miếng ăn người con mới trở về mà cũng làm cho người cha quá đỗi vui mừng. Lòng xót thương của Chúa, con không hiểu được. Con không hiểu được chẳng phải tình yêu phức tạp mà vì tình yêu quá sâu.
Con không thấy người cha hỏi đến gia nghiệp nó mang đi. Con không thấy người cha thắc mắc bất cứ điều gì để làm cho tình yêu ra phức tạp. Con không thấy người cha hỏi lý do nào nó trở về. Con chỉ thấy người cha thương con của mình. Lạy Chúa, con chỉ trở về được vì dựa lòng thương xót quá bao dung của Chúa. Con sẽ chẳng bao giờ sám hối trọn vẹn được đâu, và như thế, bao giờ con về được nếu Chúa hỏi con bằng những câu hỏi phức tạp của một tình yêu phức tạp. Nhìn vào tình thương của Chúa con chỉ thấy một chiều sâu. Quá sâu. Dựa vào đó, lạy Chúa, con xin về.
LM. Nguyễn Tầm Thường, S.J (Trích trong "CON BIẾT CON CẦN CHÚA")
Trên đường về với Chúa, tôi đã bao lần cất cánh bay lên, nhưng có mưa phùn làm đôi cánh lạnh giá.
Ðã bao lần tôi muốn đi tới, nhưng lối về có gai góc cản ngăn. Ðã bao lần muốn giang tay ra, cho đi nhiều hơn, nhưng có nuối tiếc bảo đừng.
Vì thế, trong mơ ước có gian nan. Và, trên đường về với Chúa vẫn là khúc đường xa xăm.
***
Trong cuộc sống, những giấc mơ chưa trọn vẹn là những giấc mơ buồn. Vì không trọn vẹn nên mới buồn. Nhưng đặc tính của những giấc mơ buồn lại thường là những giấc mơ lớn. Vì lớn nên mới khó trọn vẹn. Bởi đó, cái buồn của giấc mơ không trọn vẹn dường như vẫn là cái buồn giá trị, giá trị vì nó mang một hoài bão rất cao.
Cái không trọn vẹn đó thúc bách, mời gọi đi tới. Con đường tình yêu không bao giờ có giới hạn thì giấc mơ tình yêu không bao giờ cùng. Do đấy, sự chưa được trọn vẹn trong ước mơ đi về với Chúa là sự chưa trọn vẹn dễ hiểu trong thân phận làm người của tôi nơi trần thế này. Ðường tình yêu càng dài thì giấc mơ tình yêu càng sâu. Tình yêu càng sâu thì trên đường ấy, tôi cần miệt mài đi mãi.
Trên đường về với Chúa, tôi chỉ hỏi lòng tôi là tôi đã đi xa tới đâu, đã bay cao thế nào. Chứ không thể có câu hỏi tôi đã yêu Chúa trọn vẹn chưa. Từ ngàn xưa, Ngài đã biết hồn tôi là dang dở, những lời thề của tôi là những lời đoan hứa dập gẫy. Bởi đấy, tôi không thể yêu Ngài trọn vẹn nhưng Ngài đòi tôi đi về trọn vẹn.
Trọn vẹn là một mơ ước. Dang dở vì chưa trọn vẹn có chiều sâu của nó là nó làm cho mơ ước tiếp tục còn là ước mơ. Tôi có thể cầu Chúa cho tôi đạt được mọi mơ ước không? Khi đạt được mọi mơ ước rồi thì tôi không còn mơ ước nữa. Không còn mơ ước thì còn gì để mà đi tới, còn gì để mà bay lên. Trong ý nghĩ ấy, đường về với Chúa nếu còn dang dở chỉ là lời gọi tôi đi tới. Mỗi lần sa ngã chỉ là bảo tôi nhìn lên cao. Tôi không thất vọng vì chưa đạt được mơ ước.
Mơ ước đã được rồi là hạnh phúc đã được đóng khung trong một bến bờ. Tôi muốn thứ hạnh phúc vô cùng. Tôi muốn hoài hoài mơ ước. Tôi muốn vào một không gian hạnh phúc mà càng bay cao thì càng bắt gặp trời thênh thang tự do. Càng bắt gặp thì càng si mê, càng si mê thì càng nuôi mộng đi tới nữa. Tôi tin rằng hạnh phúc ấy có thật. Ðó là chính Chúa. Bởi tôi biết, tôi không bao giờ uống cạn được ân sủng của trời cao. Vì thế, tôi không xin cho tôi đạt được điều tôi mơ ước mà chỉ xin cho tôi được mãi mãi, hoài hoài đi về Ngài, sống trung thành với mơ ước đó thôi.
Và vì thế, linh hồn tôi có vì bất toàn mà lầm lỗi, thì đấy chẳng thể là lý do làm tôi thất vọng, xuôi lòng. Trên đường về nhà Cha, nếu vì yếu đuối mà dừng nghỉ. Thì, đường về nhà Cha có xa xăm thật. Xa xăm ấy vẫn là xa xăm có Chúa. Nếu vì sa ngã mà làm cho giấc mơ gian nan. Thì, đường về nhà Cha có gian nan thật, gian nan ấy vẫn là gian nan ấm lòng.
***
Lạy Cha,
Cha cầu xin cho con không thuộc về thế gian, nhưng Cha đã chẳng đem con ra khỏi thế gian. Ngày nào con còn trong thế gian thì con còn nghe thấy tiếng dỗ dành của những rung cảm đam mê. Từ trong bào thai của mẹ, con đã là lỗi phạm. Con có thể vấp ngã vì bóng đêm, nhưng con có thể không thuộc về đêm tối. Con không thất vọng vì những đám mưa phùn làm con ướt cánh. Con không ủ dột vì bờ đá chênh vênh giữ chân con đi tới. Vì con biết, khi Cha dìu con, thì tình trời sẽ sưởi ấm chiều mưa lạnh ảm đạm, và ân sủng sẽ gieo trên gai nhọn. Khi Cha dìu con thì ước mơ sẽ nên tha thiết, và dù có vất vả cánh ong vẫn bay về được với mật ngọt của hoa. Khi Cha dìu con thì con có thể trung thành. Khi Cha dìu con thì thánh giá sẽ là sức sống.
Lạy Cha, Ðấy là mơ ước và cũng là lời cầu nguyện của con trên đường về. Có giấc mơ nào đẹp mà không phải trả giá bằng thương đau? Có giấc mơ nào lớn mà không phải trả giá bằng thử thách? Có thập giá nào lên đồi Golgotha mà không quỵ ngã? Có chiều nào trong vườn Giệtsimani mà không lo âu rướm máu. Những áng mây trời chỉ bay trên đỉnh đồi. Gió lộng chỉ ở ngoài biển khơi. Tôi phải đi lên. Tôi phải miệt mài bước tới. Và Ngài đã nói với tôi: "Cha ở cùng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt. 28: 20).
Tiếng gọi của trời cao là bảo tôi trung thành với ước mơ. Cho dù lầm lỗi có làm tôi đau khổ vì mất giá trị nhưng chẳng vì thế mà Người chê trái tim tôi nghèo nàn xấu xí. Ðôi cánh con chim sẻ sẽ chẳng bay cao được như con phượng hoàng. Nhưng một ly nước nhỏ mà đầy thì ý nghĩa hơn một ly nước lớn mà vơi.
Dù có yếu đuối cản đường. Dù có lầm lẫn che lối. Dù ngày tôi chết, tôi vẫn chưa leo được tới nửa đồi của thập giá, nhưng nếu tim tôi vẫn hồng lửa ước mơ, hồn tôi vẫn vất vả đi tìm cõi vô biên thì đấy là đường mở lối vào vườn hạnh phúc rồi.
Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một con chiên què mà cứ xiêu vẹo trèo lên. Cha trên trời sẽ chạnh lòng khi thấy một đôi cánh đang lầm than vì gió lạnh, mưa ướt, mang thương tích vì gai rậm mà cứ nhất quyết tìm đường về. Và vì đó, dù trong yếu đuối của tôi, tôi vẫn thấy biển rộng, trong dòng xót thương của Cha, tôi tới đồi cao.
LM. Nguyễn Tầm Thường – Trích trong “Con Biết Con Cần Chúa”
Tôi sống trong cuộc đời nhưng tôi có riêng đường đời của tôi. Mới hôm nào bố mẹ nhìn bầy con chung quanh mâm cơm chiều. Chỗ nào cũng là gần gũi yêu thương, từ nhà ra sân, từ ngõ đi vào.
Dòng sông lớn lên âm thầm rẽ nhánh. Tôi đi theo tiếng gọi của đời tôi. Lũ em lần lượt bước vào ngõ quanh của mỗi đứa. Bây giờ đã là xa cách. Trong cuộc đời, nhưng mỗi đứa có riêng đường đời của mình.
Kinh Thánh kể, sau khi dâng lễ ở Jerusalem về, Mẹ Maria lạc mất Chúa. Mẹ hối hả đi tìm: "Cha con và mẹ phải đau khổ đi tìm con". Chúa thưa lại: "Mẹ tìm con làm chi, vì con phải ở nơi nhà Cha con" (Lc 2,48-49). Trong cuộc đời, Chúa có đường Chúa phải đi. Mẹ Maria có lối của Mẹ.
Mỗi người có một cuộc sống riêng nên không đường của ai giống đường của ai. Tuy vậy, chỉ có một người gọi, đó là Chúa. Và cũng chỉ có một tiếng gọi, đó là tiếng gọi về Nhà Cha. Chỉ có một thứ tiếng gọi và do một người gọi, thì đường đi có khác, vẫn ở trong toàn thể. Ở trong toàn thể thì có liên hệ và ảnh hưởng. Với ý nghĩa đó, cuộc sống đức tin của người này liên quan đến cuộc sống của ngươì kia. Lối về Nhà Cha phải đi riêng đường của mình. Ðiều ấy có nghĩa là đi một mình. Ði một mình trong hàm ý là tự mình đi chứ không phải là đi lẻ loi.
Chúa Yêsu lên đường về Jerusalem để chịu tử nạn. Theo tiếng gọi, Phêrô cũng lên đường với Ngài. Nhưng trên đường đi, Phêrô gợi ý cho Chúa bỏ cuộc (Mc 8,31-33). Làm gì có Phục Sinh nếu Chúa Yêsu nghe lời Phêrô chối từ Thập Giá. Từ bỏ con đường của mình phải đi là đánh mất bản tính của mình. Nếu Chúa cũng chỉ là Chúa khi Chúa đi con đường của Chúa thì đấy phải là định luật không thể thay thế cho tôi. Tôi sẽ chẳng còn là tôi nếu chối từ con đường của mình.
*
Mỗi người có một con đường, vì sao họ lại không đi được đường của họ?
Trên đường đời, cả hai: đau khổ và hạnh phúc, đều là những tiếng gọi dỗ dành làm tôi lạc lối.
Ðau khổ dẫn tới lẩn tránh đường đi.
Phêrô đã âm thầm cảm nghiệm được một khúc đời khốn khó nếu để Chúa về Jerusalem tử nạn. Ðau đớn thường dẫn đến chạy trốn. Trên đường đi, có những quãng đời rộn rã tiếng cười như ngày Chúa long trọng vào thánh thánh: "Dân chúng rất đông đảo, trải áo choàng trên đường, nhóm khác chặt cây mà lót lối đi. Kẻ trước, người theo sau tung hô rằng: Hosanna, con vua David. Vạn tuế Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hosanna trên chốn trời cao" (Mt 21,8-9). Tưng bừng là thế đó, nhưng lại không hiểu những ngày hắt hiu: "Hồn Ta buồn quá đỗi, muốn chết được. Các ngươi hãy ở lại mà thức với Ta". Ðã chẳng ai thức với Chúa trong giờ phút lẻ loi nhất ấy: "Simon, ngươi ngủ sao? Ngươi không thể thức với Ta được một giờ ư?" (Mc 14,34-37). Có những ngã tư đông đúc, cũng có những ngõ vắng dẫn vào cô tịch đìu hiu. Ngõ vắng ấy là ngại ngùng. Cô tịch đìu hiu kia là đau khổ. "Ai bỏ tất cả mà theo Ta sẽ được gấp trăm" (Mc 10,28-30). "Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta" (Mc 8,34). Lời ban đầu là quãng đường đẹp hứa hẹn đầy mộng ước. Lời kế tiếp là khúc vắng dẫn vào đìu hiu, cô tịch.
Chúa không về Jerusalem để chết vĩnh viễn trên thập giá, mà là để đón nhận phục sinh vì hoàn tất thánh ý của Chúa Cha. Bởi đó, đường về Nhà Cha thì Nhà Cha mới là cùng đích. Nhưng cô tịch đìu hiu, những ngõ vắng nếu có trên đường đi, tôi phải chấp nhận. Chối từ phương tiện là chối từ cùng đích. Ðường của Yoan Tẩy Giả là "mọi thác ghềnh sẽ được lấp đầy, đồi cao sẽ hạ thấp, nơi cong queo nên ngay thẳng" (Lc 3,4-6), để dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến. Chấp nhận đường của mình. Yoan đã phải đi những quãng đường rất vắng vẻ, rất đìu hiu trong ngục tối vì dám làm chứng cho sự thật. (Mc 6,17-28).
Trời sa mạc rộng quá. Yoan cất tiếng kêu. Tiếng kêu trong sa mạc thì thấm vào đâu. Nhưng lối đi của Yoan là thế. Sứ mạng của sứ ngôn là lên tiếng. Không thể để cái hoang vu của sa mạc làm nản lòng. Dù không có ai nghe, người sứ ngôn vẫn phải cất tiếng. Chối từ lên tiếng là đánh mất bản tính làm sứ ngôn của mình. Bản tính đó hệ tại là người sứ ngôn có lên tiếng hay không chứ không hệ tại người nghe chối từ hay chấp nhận.
Gian nan làm người ta muốn chối từ con đường của mình thế nào thì hạnh phúc giả cũng làm người ta lạc lối như thế.
Ảo ảnh hạnh phúc dễ đưa lầm đường.
Vì đường đời đi trong cuộc đời, nên có lúc người khác đi cùng với tôi. Ði cùng không có nghĩa là đi con đường của nhau. Ðường tôi đi vẫn là của riêng tôi, nên dù không ai đi cùng, tôi vẫn phải đi. Những lúc trên đường vắng ấy, một quán hạnh phúc bên ngã rẽ dễ mời tôi tắt lối quẹo ngang. Sau những ngày ăn chay trong sa mạc, Chúa đói. Ma quỷ đã đến cám dỗ Ngài: "Nếu ngươi là con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho viên đá này thành bánh" (Mc 4,3). Luôn luôn có lời ngọt ngào bảo tôi chối bỏ con đường của tôi.
Trong hôn nhân, biết bao đổ vỡ đã đến từ những bóng mát hạnh phúc ở bên cạnh. Trong đời tu, biết bao trống trải đã ủ xuống hồn vì những lời gọi không chính đáng. Mỗi người có một lối đi. Vì cùng đi trong cuộc đời, nên sẽ thấy có người bước tới, có người quay về, có người tắt ngang. Ðiều ấy dễ gây xôn xao. Có người lấy bóng hạnh phúc của kẻ khác làm của mình, vì thế họ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc thật. Có người lại lôi kéo kẻ khác vào con đường của họ. Làm như thế, ngỡ là yêu thương, nhưng thật ra, họ đã tàn tật hóa con đường của nhau phải đi. Nâng đỡ nhau trên đường đi không bao giờ có nghĩa là đi con đường của kẻ khác. Yêu thương là để kẻ khác đi trên con đường của họ.
Nguy hiểm trên đường đi là sự lừa dối lương tâm của chính mình. Khi người ta gian lận nhiều lần, thì dần dà sẽ thành thói quen, nhưng thành thói quen không có nghĩa là được phép.
Cứ đi lại nhiều lần trên bãi hoang, thì tự nhiên sẽ thành đường đi, nhưng thành đường đi không có nghĩa đấy là chính lộ. *
Lạy Chúa, hôm nay con muốn nói với Chúa về nỗi lòng của con đã thấy gì trên đường con đi. Trên đường đi, con thấy có nhiều quán trọ. Có quán cho con bóng mát. Có quán bảo con đừng đi. Mệt nhọc làm con muốn dừng nghỉ. Chống đối, hiểu lầm, ghen tỵ, kết án làm con muốn bỏ cuộc. Và dường như, nếu con càng dừng nghỉ thì con càng ngại đi. Nếu con càng làm quen với lười biếng thì con càng ngại ngùng trở về con đường Chúa muốn con sống. Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm. Và, cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng đường thật xấu, gồ ghề như quãng đường Chúa đi xưa. Hình ảnh đồi sọ làm con tính toán lưỡng lự. Có những quãng đường sao mà tối tăm làm con hồ nghi không biết có phải là đường thật không. Ðây là lúc con phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu. Và cũng là những lúc con bị cám dỗ nghi ngờ ơn gọi Chúa đã ban. Ði trọn tiếng gọi của mình theo Phúc Âm không dễ vì có nhiều hình ảnh đánh lừa con. Có phải vì thế mà Chúa đã dặn: "Ðường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi" (Mt 7,13-14).
Hôm nay, có điều con cũng muốn thưa với Chúa là dù được an ủi hay chịu đựng âm u của những ngày nặng nề, con vẫn nghe thấy tiếng Chúa khuyến khích con đi con đường của riêng con. Tuy có khó khăn nhưng con vẫn tin ở trước mặt là một bình minh rất đẹp. Ðiều ấy làm con vững tâm.
*
Trong lịch sử lầm đường, chối bỏ lối đi của mình bao giờ cũng có mặt của Satan. Khi Phêrô ngăn cản Chúa đừng chịu chết. Chúa mắng: "Satan hãy cút khỏi sau Ta vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa" (Mt 8,31-33).
Phúc Âm thánh Luca nói về Yuđa như sau: "Satan nhập vào hắn, và y đi thương lượng với các thượng tế để làm sao nộp Ngài cho họ" (Lc 22,3-4).
Trong sa mạc, kẻ cám dỗ Chúa đừng đi con đường của Chúa cũng là Satan (Mt 4,1-11).
Ngày xưa trong vườn địa đàng, Adong, Evà đã không đi được con đường của mình cũng vì lời ma quỷ lừa gạt. Lịch sử lầm đường là lịch sử có mặt của Satan. Ðiều ấy cho tôi tin chắc rằng khi tôi không muốn đi con đường của mình, tôi phải cẩn thận vì tiếng nói của thần dữ rất tinh vi.
Nói về hành động Yuđa đi lạc lối, Phúc Âm thánh Yoan kết luận: "Lập tức hắn đi ra và trời đã tối" (Yn 13,30). Khi nói trời đã tối, Yoan không có ý viết một bài văn chương tả cảnh hoàng hôn. Bằng ngôn ngữ thần học, rất sâu sắc, Yoan muốn nói khi con người chối bỏ ơn gọi của mình để Satan đổi hướng đời mình phải đi, đấy là lúc "người ta yêu mến bóng tối hơn sự sáng" (Yn 3,19).
Không đi đường mình phải đi, chìm vào bóng tối thì tôi tìm thấy gì trong vùng đất ấy?
Trời đã tối, tiếng than ngắn ngủi mà thăm thăm như nỗi tuyệt vọng mịt mù, buông xuống che kín một đời người. Lời thánh Yoan nhắn nhủ nghe buồn như tiếng thở dài, nhẹ mà rất sâu: "Ai đi trong tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu" (Yn 12,35).
*
Lạy Chúa, con đường đời của riêng con. Chối bỏ con đường của mình là lừa dối chính mình và tránh mặt Chúa, kẻ đang đợi chờ con ở đầu đường bên kia.
Một trong những lời căn dặn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước khi qua đời là: Tiếng chuông và những làn khói.
Họ đến Roma để chứng kiến giây phút lịch sử. Chờ công bố Giáo Hoàng mới.
Nếu không vỗ tay khi làn khói bay lên, lỡ là khói trắng, họ mất cơ hội là những người đầu tiên reo mừng vì chứng kiến làn khói lịch sử.
Nếu vỗ tay mừng mà là khói đen thì giây phút lịch sử ấy lầm lỡ quá.
Media, truyền thông khắp thế giới quay ống kính vào làn khói. Không biết bao nhiêu nghìn phóng viên quốc tế chỉ chờ giây phút lịch sử ấy để mình là người đầu tiên loan tin về một làn khói. Không biết mấy trăm triệu người theo dõi truyền hình về một làn khói.
Người ta bực mình về một làn khói. Không đen, không trắng.
Thế kỷ này, người ta chứng kiến, người ta sống một trời lịch sử về những làn khói.
Con người hôm nay đang khủng hoảng về những giá trị không rõ trắng, rõ đen.
Trước khi vĩnh biệt trần gian, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để lại tiếng chuông trước những làn khói.
*** **
Khói ở công trường Roma không nhiều, hai mươi sáu năm nay mới lại xảy ra. Khói ở cuối sân nhà thờ thì nhiều.
- Nhóm quyên tiền giúp người nghèo. - Nhóm quyên tiền bảo trì đền thờ. - Giáo dân tổ chức raising fund. - Linh mục tổ chức raising fund.
Nhóm nào cũng muốn khói mình bay cao, bay xa. Nhóm nào cũng muốn mọi người chú ý đến ống khói của mình. Lúc này cuối sân đền thờ rất nhiều thứ khói.
- Có khi giáo dân trách linh mục về raising fund. Cuộc đời họ là chạy theo nhu cầu để raising fund rồi, ít được học về Chúa, khi đến nhà thờ, họ xin các ngài hãy nói cho họ về Chúa.
- Có khi giáo dân lại xin các ngài raising fund. Họ rủ các ngài vào nhóm raising fund. Họ tập cho các ngài raising fund. Họ dựa vào các ngài mà raising fund.
- Có khi linh mục muốn raising fund nhiều hơn giáo dân.
Cuối sân giáo đường hôm nay, khói bay muôn hướng.
Rồi từ những làn khói bay. Có người cay mắt. Có tiếng kêu. Có người mắt cay mà không kêu. Có người kêu mà khói vẫn bay. Từ những làn khói, có người bỏ cuối nhà thờ đi chỗ khác. Thì cũng từ những làn khói, có những người bỏ nhà thờ từ lâu, nay lại tìm đến. Đó là kỳ diệu của những làn khói. Có làn khói làm người đi xa. Có làn khói đem kẻ khác lại gần.
LỜI KINH VÀ NHỮNG LÀN KHÓI
Cha Nguyễn Văn Quang, một linh mục người Việt Nam, coi một họ đạo lớn người Mỹ ở Greeley, gần Denver, Colorado. Một ngày chúng tôi lên núi Rocky Mountains. Trong câu chuyện đời sống linh mục. Chúng tôi nói chuyện với nhau.
- Mình là linh mục mà 60 phần trăm thời gian phải lo administration mất rồi. Có cuối tuần mất hàng tiếng đồng hồ chỉ ký checks cho nhân viên. Thế này thì hỏng, phải xét lại.
Linh mục được huấn luyện để nói về Chúa. Vai trò quan trọng của linh mục là sứ ngôn. Công bố Lời Chúa. Chúng tôi không được huấn luyện để raising fund. Nếu có linh mục kém raising fund, xin giáo dân đừng trách, đừng đòi buộc và so sánh. Khi có những linh mục raising fund giỏi, giáo dân ca tụng. Họ nhờ, họ xin các linh mục đó raising fund. Ca tụng linh mục này raising fund giỏi, chê linh mục kia kém, từ đó, giáo dân đưa dần làn khói, rất tiếc, không đen, không trắng vào cuối giáo đường, và có thể làm cay mắt nhiều tâm hồn.
Linh mục mà phải lo administration, phải lo đối phó với nhóm này, nhóm kia, phải raising fund, phải lo trả lời phỏng vấn, phải lo nhiều thứ quá, làm sao có thời giờ soạn bài giảng, làm sao có thời giờ đọc văn kiện Giáo Hội, làm sao có thời giờ nhận định xem khói đang bay về đâu, khói luân lý, khói đức tin, khói văn hóa, khói xu hướng, khói trong Giáo Hội, khói ngoài cuộc đời.
Trong những cuộc raising fund, làm cách nào để tránh được khói cạnh tranh?
Khi linh mục có mặt trong các chương trình này, dù tốt đến đâu, nếu có sự cạnh tranh, sẽ có “triệu người vui, và triệu người buồn.” Khói sẽ làm kẻ này đến nhà thờ, khói cũng làm kẻ khác bỏ đi. Nếu một việc mà như thế, một mục tử có nên làm không? Hay là trở về với bục giảng, để an ủi kẻ này bị khói làm cay mắt đừng bỏ nhà thờ đi, và cảnh tỉnh kẻ kia đừng lấy khói làm ai cay mắt.
Đức tin không có lòng xót thương, nó không có địa chỉ để về. Lòng xót thương dễ ngộp thở trong một thế giới cạnh tranh.
Muốn giết lòng xót thương, có lẽ không khó. Cứ khen cha kia tổ chức giỏi, chê cha này giảng dài. Khen ông chủ tịch cũ, nhờ ông mà cộng đoàn mua được miếng đất. Hỏi ông chủ tịch mới, khi nào hội đồng mục vụ mới xây tượng đài? Nói Rollo hay thế sao kỳ này họ không mời? Cứ so sánh, khen và chê, sẽ thấy sinh họat xứ đạo ngộp thở, nhiều tâm hồn khốn khổ và lòng xót thương có thể sẽ chết tự bao giờ.
Khi một đoàn thể Công giáo tiến hành mà chỉ mong đoàn thể mình thành công hơn đoàn thể kia, thì đâu là Công Giáo tiến hành? Khi một dòng tu mà chỉ muốn dòng mình phát triển. Thành công của Phúc Âm là gì? Đối với việc tông đồ, làm sao có thể cổ võ kẻ khác bỏ tiền vào quỹ người nghèo do mình lập nên, đừng bỏ tiền vào quỹ kia? Nếu thế, đâu là lý chứng biện minh cho lòng bác ái và hành động như vậy? Nếu không, cứ khuyến khích người ta bỏ tiền vào quỹ kẻ khác, thì đâu là quỹ do mình lập nên? Đó là thách thức của lời kinh và những làn khói.
HỌC THUYẾT PHAOLÔ: ĐƯỢC LÀM KHÁC VỚI NÊN LÀM
Trong cộng đoàn Côrintô đã xẩy ra những chuyện được làm nhưng không nên làm. Phaolô viết:
“Được phép làm mọi sự” nhưng không phải mọi sự đều có ích. “Được phép làm mọi sự” nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. Đừng ai tìm lợi ích riêng nhưng hãy tìm lợi ích chung. Tất cả những gì bán ngoài chợ anh em cứ việc ăn… Nhưng nếu có người bảo: “Đây là của cúng” thì đừng ăn. Tôi không có ý nói lương tâm anh em, nhưng vì lương tâm người khác.(1 Cor. 10:23-33 - Xem chú thích câu 29, bản dịch Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ).
Phaolô cẩn thận cắt nghĩa là ăn của cúng không sao, nhưng nếu vì gương xấu cho người khác thì đừng ăn. Phaolô viết:
“Không phải của ăn làm chúng ta gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, chúng ta chẳng thiệt, mà có ăn cũng chẳng lợi gì. Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho người yếu đuối sa ngã.” (1 Cor.10:8-9).
Trường hợp cụ thể xẩy ra ở cộng đoàn Côrintô là vấn đề ăn thịt cúng. Nếu dựa vào hiểu biết của mình, cứ làm, không cần biết gương mù có thể gây ra, nghĩa là biết ăn của cúng không có tội, cứ ăn, còn ai nghĩ thế nào kệ họ, Phaolô viết rất rõ về thái độ đó như sau:
“Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc. Như vậy, phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Kitô. Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã (1 Cor. 11-13)..
Không phải chỉ gởi cho cộng đoàn Corintô. Trong thơ gởi cộng đoàn Rôma, chúng ta cũng gặp những căn dặn tương tự:
“Nếu vì bạn ăn một thức ăn, mà bạn làm phiền lòng người anh em, thì bạn không còn sống theo đức ái nữa. Đừng vì chuyện ăn uống mà làm cho người anh em của bạn phải hư mất, vì Đức Ki-tô đã chết cho người ấy.
Vậy đừng để cho thiên hạ chê bai điều mà anh em cho là tốt.Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai phục vụ Đức Ki-tô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. Đừng vì một thức ăn mà phá huỷ công trình Thiên Chúa. Đã hẳn, mọi thức ăn đều thanh sạch; nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rom. 14:15-20).
Trong hoàn cảnh xã hội hôm nay. Các vấn đề raising fund cần thận trọng. Nhưng tìm đâu tiêu chuẩn thận trọng? Có nên tìm hiểu thêm trong học thuyết này của Phaolô như một tiếng chuông không?
NHỮNG NGUY CƠ
Trong hoàn cảnh đặc biệt của người Công Giáo Việt Nam hải ngoại, raising fund là chuyện rất thường. Có khi cần. Nhiều người muốn đóng góp để xây dựng. Vấn đề là để được tốt, phải nói đến những nguy cơ để bảo vệ điều tốt kia.
1. Nguy cơ thứ nhất: Power
Đằng sau công việc từ thiện. Tiền bạc ngấm ngầm cho người ta power. Power ở đây mang nhiều mầu sắc:
- Power thứ nhất là chứng tỏ tài năng. Ai raising fund được nhiều, càng chứng tỏ nhiều power. Nhóm nào raising fund được nhiều càng chứng tỏ uy tín. Vì xã hội khen như thế. Đây là tiêu chuẩn xã hội, chứ chưa hẳn là đúng vì có những giá trị thành hình là do sự lầm lẫn của kẻ khác. Có người thành công trong raising fund, rồi cho là mình có tài năng. Có kẻ thấy người khác raising fund giỏi rồi cho rằng người đó có uy tín. Có nhiều cách raising fund. Nếu khen nhóm này đóng tiền nhiều để khích cái tự ái của nhóm kia thì đấy có là do tài năng và uy tín không? Nếu vì sự dễ tin của những tâm hồn chân thành mà dẫn họ vào những con đường vòng quanh mập mờ thì đấy có là nhân đức không? Giáo Hội đã có từng thời kỳ nhân danh ân xá để kiếm tiền, và đấy là một trong những nguyên nhân lớn trong cuộc ly giáo do Luther khởi xướng. Có đường lối thật, có đường lối sai. Phúc Âm gọi những tài năng giả, đường lối sai đó là những ngôi mộ tô vôi.
- Power thứ hai là được có quyền chi tiền cho ai. Thứ power này êm dịu, kín đáo vô cùng. Nó kín đáo lẻn vào lòng người, nhưng nó lại tỏ lộ trong thái độ sống. Người ta kín đáo che đậy, nhưng nó lại êm dịu như ánh trăng chiếu ra, không giấu được.
- Power thứ ba là được người chịu ơn ca tụng. Ai cũng bảo mình không muốn kẻ khác cám ơn. Nhưng ít người chỉ raising fund mà lại không muốn “đích thân” mình về Việt Nam trao tiền thì mới chắc chắn. Có hai thứ “đích thân”. Một là đến từ lòng nhiệt thành. Hai là kín đáo đến từ thứ power này.
Những power này, nó thầm kín, nhưng người ta dễ nhận ra. Những thứ Power trên đây không loại bỏ ai, giáo dân cũng như tu sĩ.
Khi không ai cắt cử mình vào công việc raising fund mà cứ có động lực thúc đẩy, thì cần cẩn thận vì có thể đàng sau động lực bác ái, đang bị những power trên đây thúc đẩy.Và đối với người dâng cúng tiền bạc cũng nên khôn ngoan nhận định những động lực này.
Tiêu chuẩn để canh chừng chính hồn mình, hoặc để khám phá ra các thứ power trên đây, thánh Phaolô đã viết cho cộng đoàn Galát:
“Hoa trái của Chúa Thánh Thần là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (Galát 5:22-23). Như thế, khi công việc dẫn tới những gì ngược với hoa trái trên đây, đấy là dấu chỉ cần thức tỉnh về những làn khói.
2. Nguy cơ thứ hai: Power
Đằng sau công việc từ thiện. Tiền ngấm ngầm lấy mất power của người ta. Nguy cơ thứ nhất, tiền cho người ta power có chất độc, nguy cơ thứ hai, trong power nó cho, nó lấy mất power nhân đức mình có. Power bị mất ở đây cũng mang nhiều mầu sắc.
- Power bị mất là không còn thời giờ cho đời thong thả, vì quá khắc khoải làm sao công trình của mình thành công. Với linh mục, thêm những mất mát khác, thiếu thời giờ thăm bệnh nhân, soạn bài giảng, học hỏi thêm. Và làm mình “chia trí”. Tại sao Đức Kitô quả quyết tiền bạc ở đâu thì lòng dạ ở đó. Nếu linh mục rơi vào tình trạng này thì lời giảng của linh mục mất nhiều power. Đây là mất mát rất lớn.
- Power bị mất là có thể mất lương tâm trong sáng. Tiền dễ đi tới gian lận. Lỗi đức công bình. Cắt nghĩa quá rộng cho lương tâm của mình vào vấn đề xử dụng quỹ bác ái. Ngày còn là các chú tiểu chủng viện Têrêsa, Long Xuyên. Cha giáo Vũ Sửu, bây giờ ngài vẫn còn sống, nhưng cha già yếu rồi, ngày đó, hơn ba mươi năm về trước, miền Tây thường lụt lội, ngài nhờ chúng tôi đi ủy lạo người nghèo bị lũ lụt. Tôi nhìn những thùng xà bông. Nhiều như thế kia, nghĩ làm công tác xong, thế nào cha chẳng cho mỗi đứa một bánh xà bông. Vậy mà ngài không cho một bánh nào. Lúc đó, đứa nào mà không buồn. Nhưng ngài dạy chúng tôi, dù một bánh xà bông, phải giữ tấm lòng trong sạch. Tôi vô vàn biết ơn những linh mục rất nhân đức trong đời tôi.
- Power bị mất là không còn trái tim bao dung. Họ sẽ cạnh tranh với kẻ khác, gây gương mù. Có thể đi đến phá đám nhau. Gây chia rẽ cộng đoàn vì cần các đoàn thể khác ủng hộ mình. Người ta có thể gây chia rẽ và kiếm được trăm ngàn dễ dàng. Nhưng không dễ dàng dù chi trăm ngàn để chữa được vết thương đã chia rẽ. Trái tim bao dung và sự hiệp nhất có là tiêu chuẩn thành công theo cách thế của Nước Trời không? Việc làm của họ không còn siêu thoát. Giáo dân cũng vậy, tu sĩ cũng thế. Không nói đến tiền bạc, cách đây hơn hai mươi năm, vào năm 1984 cha Julian Elizalde, người Tây Ban Nha, hiện nay còn sống, đang làm việc ở Roma, một mình lái xe khắp các tiểu bang nước Mỹ lo tĩnh tâm cho giới trẻ Việt Nam. Tôi còn làm thày, xin theo ngài để học hỏi. Một chuyến hai cha con lái xe xuyên bang, ngài tâm sự:
- Có cha Việt Nam bảo giới trẻ nằm trong tay ông cha người Tây! Họ sợ tôi ảnh hưởng. Là pastor tốt thì phải lo cho giáo dân, đáng lẽ họ nên nhờ tôi đến giúp họ, họ lại cho rằng cho tôi đến giảng là một ân huệ.
Tôi còn nhớ mãi lời này. Xã hội này phải cạnh tranh mới sinh tồn. Cạnh tranh lẻn chui vào cả vấn đề thánh thiện của tôn giáo. Có những cộng đoàn giáo dân thiệt thòi chỉ vì pastor của họ như thế.
NHỮNG LÀN KHÓI HOANG MANG
Khi giáo dân hoang mang về những làn khói, không biết đen hay trắng, giáo đường sẽ là nơi rất buồn. Thánh Phaolô bảo ăn của cúng không sao. Nhưng nếu gây gương mù thì đừng ăn. Nhiều giáo dân thắc mắc, tại sao linh mục cứ phải bỏ thời giờ vào những việc mà giáo dân làm được, hay vì họ thiếu khả năng? Mỗi người tự chọn cho mình một chọn lựa. Nhưng đây là nguyên tắc không thể thay thế: Dù tu sĩ hay giáo dân khi tham dự vào các raising fund thì công việc này phải là những làn khói trắng vô cùng rõ ràng, không thể xám.
Ơn gọi của người hướng dẫn tâm linh là phân biệt cho người ta khỏi lầm lẫn về những làn khói. Phân biệt cho người khác không lầm lẫn những làn khói đã khó. Chính mình làm làn khói thì phải rất trắng để người khác không thể lầm lẫn.
Mê ngủ nơi thiền sinh thì khác nơi thiền sư.
Tín đồ lầm lẫn, họ mong các vị linh hướng giúp họ phân biệt khói trắng hay đen. Khi người hướng dẫn tâm linh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình.
Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II trước khi chết, Ngài thay đổi một nghi thức rất lạ. Để báo Tin Mừng cho thế giới là có Giáo Hoàng mới, đền thánh Roma không được để khói bay mà thôi. Trải qua nghìn năm lịch sử, thế mà bây giờ Ngài thêm vào: Khói trắng cũng phải có tiếng chuông kèm theo.
Công việc raising fund nhiều khi không rõ đen mà cũng không rõ trắng. Khói bay ở sân nhà thờ hôm nay nhiều khi không rõ trắng, không rõ đen. Đức Hồng Y Thuận đã phân biệt CHÚA và Công việc của chúa. Để tránh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình?
- Phải có tiếng chuông!
Đối với giáo dân, làm sao linh mục giúp họ nhận ra tiếng chuông? Đối với linh mục, đâu là tiếng chuông cho chính mình?
- Phải có tiếng chuông!
Đó là lời căn dặn của một con người đã làm xoay chiều lịch sử hôm nay.
Xin Đức Thánh Cha cầu bầu cho chúng con. Vì cuối sân giáo đường hôm nay có nhiều làn khói khác nhau.
Phụ Chú
Cần một tiếng chuông. Chính đời Đức Giáo Hoàng là một tiếng chuông rồi.
Có một phụ chú. Có thể chỉ là trùng hợp thôi, nhưng là trùng hợp rất đáng suy nghĩ. Ngôn ngữ Phúc Âm Gioan ở đây là tiếng chuông rất lạ, cho thấy kẻ đánh mất lý tưởng, phản bội Chúa và anh em mình là kẻ giữ túi tiền, chi tiền, quản lý tiền, là kẻ quan tâm đến người nghèo.
“Môt trong các môn đệ của Đức Giêsu là Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp Người liền nói: “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo.” Y nói thế không phải vì y lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung.” (Gioan 12: 4-6).
Tôi chết được 25 năm rồi. Hôm nay tôi trở lại tảo mộ lần thứ hai. Tôi gọi là Ngày Lễ Bạc.
Sau khi chết được ba năm. Tôi tảo mộ lần thứ nhất. Lần đó tôi kể trong tập sách Cô Ðơn và Sự Tự Do, đoản khúc số 59. Ngày đó mộ tôi không có hoa. Không có ai đến mộ tôi cả. Tôi đứng đó hồi hộp suốt buổi chiều. Mây xuống thấp, xám một hoàng hôn. Rồi trời tắt nắng phía sau hàng cây. Tôi còn nhớ rõ hôm ấy trời không gió. Nghĩa trang im lìm. Sau ba năm tôi chết, vẫn còn ít người nhớ và cầu nguyện cho tôi. Nhưng không ai ra nhìn mộ tôi.
Tôi biết nếu trở lại vào năm sau thì cũng thế. Thản nhiên như một cánh chuồn chuồn đậu hờ hững trên một bờ giậu thưa nào đó. Không có gì hồi hộp nữa nên tôi không trở lại. Ðợi 25 năm sau. Một kỷ niệm đặc biệt hơn. Ngày Lễ Bạc.
Tôi đang đứng trong nghĩa trang, chỗ tôi đứng lần thứ nhất cách đây hơn 20 năm về trước.
Tên tôi vẫn còn. Tên được khắc vào mộ đá. Nhưng rêu lắm rồi, dơ bẩn nữa. Mộ đá không còn sạch như ba năm sau khi tôi chết. Bây giờ sần sùi, mốc rêu xanh. Ngày xưa không có cây cổ thụ ở chỗ này. Họ trồng bao giờ thế? Cả cái nghĩa trang này bây giờ cũng khác. Ngôi mộ cạnh tôi không còn. Họ bốc đem đi hồi nào mà bây giờ có một cái tên lạ hoắc.
Trên cành cây già, một loại côn trùng nào đó rỉ rả tiếng kêu cuối mùa. Hôm nay cũng không có gió như lần trước. Những chiếc lá lặng lẽ. Nghĩa trang cũng yên tĩnh như ngày xưa.
Tôi đến gần mộ, nhìn xác tôi dưới đất sâu. Chiếc quan tài gỗ mục từ bao giờ? Ðất sập kín lẫn với xương. Ðất dưới đó ẩm ướt. Có bùn sền sệt. Nước quanh năm. Tôi không còn hình hài gì cả. Có những con trùng trườn qua trườn lại trên khúc xương. Người ta bảo trắng như xương. Thật không phải thế, xương lấm dơ đen, rỗ những vết bọ ăn, bùn cắn chặt vào những kẽ nứt. Bọ ăn làm các xương không còn nhẵn nhụi. Chiếc sọ đầu còn nguyên vẹn hơn cả. Hai cuồng mắt rất to. Tôi nhìn xuống, chiếc sọ cũng giống như trăm nghìn chiếc sọ khác. Tôi không thể phân biệt được. Ngày còn sống, tôi băn khoăn về làn da. Nhìn kìa! Chỉ tuần lễ sau khi chết. Nó rữa ra. Ngày còn sống, tôi chải chuốt mái tóc. Tôi tìm cách nhuộm cho người ta thấy mình trẻ. Tôi băn khoăn về cái nhìn. Tôi muốn chinh phục. Bây giờ cái sọ trọc, rỗng, nhúc nhích loại giun nào trong đó? Tôi đứng nhìn tôi, tôi nhìn sang tất cả những xác chung quanh và tôi sợ. Tôi thấy xa lạ với chính mình. Hình hài thân xác tôi đấy ư? Tôi đang mừng 25 năm, Lễ Bạc sao? Còn đâu những lúc băn khoăn mùi nước hoa nào, Chanel số 5 hay 8?
Tôi biết chắc là không có ai đến mộ tôi 25 năm sau. Tôi biết là không có hoa ở mộ. Tôi không hồi hộp gì cả, tôi không chờ đợi gì cả khi trở về đây. Kỷ niệm 25 năm ngày tôi chết là của riêng tôi. Hôm nay tôi có thì giờ nhìn ngắm tôi và những gì xảy ra nơi đây.
Ở một góc kia, người ta đang khóc. Một đám tang đang chôn. Có linh mục mặc áo lễ. Lại cũng có ca đoàn hát. Sao mà giống tôi 25 năm về trước thế. Hoa chung quanh mộ, rồi mấy hôm nữa hoa sẽ rữa, người được thuê làm vệ sinh lại hốt đổ vào thùng rác.
Có những mộ bia không còn hình dạng. Họ ra đi trước tôi lâu rồi. Có người mới chôn vài năm nay, có người mười năm, có người hai mươi năm, có người cả trăm năm. Ghê nhất là những người mới chôn. Ngôi mộ này của một người đàn bà. Chết đã tháng nay. Áo quần còn mới, nhưng xác rữa rồi, lúc nhúc dòi bọ. Chiếc quan tài còn cứng, xác trong đó phồng căng, sình rữa. Tóc bết lại. Áo nhung và thịt kết dính chặt lại. Những con dòi trắng cắn loang lổ nhiều vùng vải lỗ chỗ. Ðấy cũng là hình hài tôi 25 năm về trước.
Ngày còn sống tất cả những người đang nằm đây xum xuê từng ngọn tóc, mà bây giờ thế ư?
Tôi đi tìm xem ai là người trí thức. Không thấy ai cả. Chết được vài ngày, tất cả sọ người đều nồng nặc hôi thối.
Tôi đi tìm xem ai là người nổi tiếng. Tất cả chỉ là những mảnh xương dính bùn đen đủi và toàn dòi bọ ở trong.
Tôi đi tìm xem ai là người giầu có. Không thấy ai cả. Tất cả đều trần trụi không còn manh áo che thân. Tôi không thấy kim cương, vàng bạc. Tôi tưởng người thân chôn theo, nhưng không, người ta giữ lại hết. Người ta chỉ chôn xác thôi.
Tôi đi tìm xem ai là người lúc sống họ lên tiếng phải xây dựng Giáo Hội thế này, phải cải tổ Giáo Hội thế kia. Không thấy ai cả. Lúc đương thời, họ sống chết, ăn thua đủ với nhau chỉ vì “bảo vệ đức tin.” Trong cái nghĩa trang này thân xác nào cũng hôi tanh.
Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Cái sọ kia ngày xưa đã bao nhiêu suy nghĩ. Những giấc mơ ấy bay về đâu? Còn dưới đó không? Trái tim ôm ấp bao nhiêu tình cảm. Cái mùi tanh hôi nồng lên khi nó rữa ra.
Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Tôi nghe chung quanh tôi, trăm nghìn tiếng động xèo xèo. Nhiều xác mới chôn đang rữa. Tiếng những con bọ ăn vào xương. Những xác chết đang xảy ra giống tôi 25 năm về trước.
Ở phía kia, đám tang đã xong. Nhiều người đứng xa mộ để có thể ra về sớm hơn. Họ còn nhiều việc phải làm. Họ rất bận rộn. Họ không muốn ở đây lâu. Chiều xuống tối rất mau. Người ta phải về. Xác mới chôn nằm đó. Vài ngày nữa sẽ có ai đó tiếc thương đem hoa ra mộ. Rồi ba năm sau không còn ai. Rồi 25 năm sau nếu trở về đây cũng sẽ giống tôi bây giờ. Lần lượt ra đi theo con đường đó. Giống nhau.
***
Bỏ nghĩa trang, tôi đi tìm lại con đường tôi đi năm xưa. Phần lớn còn đó nhưng chỗ này mới hơn thì chỗ kia cũ kỹ đi. Nhiều tòa nhà bỏ trống hoang phế. Tôi không còn gặp mấy người quen. Một vài người tôi tìm mãi mới thấy. Vì họ thay đổi quá nhiều rồi. Họ chậm chạm, đau yếu. Họ lẩn thẩn. Cái thế giới 25 năm về trước không còn. Ðất trời còn đó. Mặt trăng vẫn thế. Cả gió biển và mầu xanh của sóng nữa. Nhưng con người và thế giới lúc họ trẻ hết rồi. Ðời họ bây giờ ai cũng lầm lũi. Tôi đứng nhìn họ mà không muốn hỏi chuyện vì bắt họ nhớ lại những tháng ngày quá xa. Bây giờ họ chỉ muốn thầm lặng sống qua ngày thôi. Vài người sót lại trong viện dưỡng lão, lặng lẽ. Người tôi quen ngày xưa, chết hầu hết rồi.
Những tờ thư cũ, tấm hình năm xưa sau khi tôi chết, có vài người giữ nó ít năm. Ðến lúc họ chết thì kẻ sau dọn phòng không biết tôi là ai. Tất cả vào thùng rác sau khi người đó chết ít ngày. Bây giờ tôi không còn dấu vết là bao.
Tôi đi tìm những chữ nghĩa ngày xưa tôi học. Vất vả toan tính. Ngày ấy nuôi bao nhiêu mộng mị ở miếng bằng ra trường. Bám vào tên tuổi muốn xã hội tặng ban. Cần treo tấm bằng ở nơi làm việc. Chụp chung tấm hình với nhân vật tiếng tăm. Bây giờ chả còn gì.
Ðã 25 năm rồi, tất cả đồ dùng của tôi đã biến mất. Chiếc xe ngày xưa tôi đau buồn vì trầy vết sơn. Ngày ấy không dám cho người khác mượn, tôi lau chùi thật bóng. Bây giờ là bụi rác ở đâu? Tôi đứng đây nhìn lại cuộc đời. Tất cả qua đi như con gió thoảng mà sao ngày ấy lòng tôi bồn chồn, lo lắng, tiếc nuối những thứ này thế.
Tôi đi tìm những công trình tôi để lại. Người để công trình này, người để công trình kia. Tôi để lại những bài diễn văn. Ai còn nhớ? Họ quên ngay khi tôi rời cái mai-cô-phôn cơ mà. Ngay khi ra khỏi phòng họp, ngay mấy phút sau. Vậy mà hôm nay tôi đi tìm nó như một công trình để lại sao? Giật mình. Tôi thấy mình quá ngớ ngẩn. Vậy tôi đi tìm gì hôm nay? Còn gì không? Ngay cả những người tôi quen biết cũng không còn, thì tôi còn gì? Ai mà giữ những kỷ niệm của tôi khi họ không biết tôi là ai?
Tôi không ngờ ngày lễ bạc này buồn tẻ hơn ngày tảo mộ lần thứ nhất. Ngày ấy sau có ba năm tôi chết. Ðứng một mình ngoài nghĩa trang, không có ai ra mộ tôi như hôm người ta chôn tôi. Nhưng ngày ấy trở về tôi còn nhìn thấy nhiều bóng hình tôi quen. Tôi còn gặp vài tờ thư tôi viết cho họ. Có kẻ còn giữ tấm hình tôi. Lần này hoang vu quá. Trống trải. Ngày 25 năm Lễ Bạc mà vắng thật vắng.
Bây giờ tôi hiểu, Ngày Lễ Bạc là của chính mình. Một mình mình thôi.
Nhiều điều chết rồi mới thấy rõ. Lúc sống sao tôi không nhìn thấy. Chẳng hạn như tôi băn khoăn làm sao để lại công danh cho đời. Ðời chả cần gì tôi. Cần hay không, tiếng kêu của một cánh ve trong chiều hè trống trải mênh mông? Chẳng hạn như tôi lo lắng ngày mai ra sao, tôi phải tích góp bao nhiêu cho đủ? Bây giờ thấy quá rõ rồi, ngày mai, tức là bây giờ tôi đang đứng đây. Trong nghĩa trang người ta không không còn nhan sắc, người ta không cần chỗ ở.
Nếu bây giờ sống lại kiếp người, tôi sẽ rong chơi, tôi sẽ ca hát với suối xanh, tôi sẽ với mây trời cho trái tim tôi bao dung. Nhưng trễ quá rồi.
***
Tất cả những gì nhìn thấy đều không mang theo được khi tôi chết. Son phấn. Sự nghiệp. Cũng không phải tất cả những gì thuộc tinh thần là mang theo được đâu. Những điều thuộc tinh thần như tình yêu, lòng thù ghét, niềm kiêu hãnh, sự ghen tị, giận dữ, bao dung cũng tùy đó. Chỉ những gì tinh thần mà thuộc về Ðức Kitô mới tồn tại.
Như vậy cuộc đời người ta phải bỏ lại tới 98 phần trăm. Chỉ có hai phần trăm mang theo là tình yêu Chúa và bao dung với người đời.
Lúc sống, tôi quá vất vả cho 98 phần trăm cái không mang theo được. Hôm nay nhìn lại trong ngày kỷ niệm 25 năm tôi chết. Trở về tìm lại những bến bờ đã đi qua. Chả còn gì. Nếu tôi được sống lại, tôi sẽ sống như thế nào?
Hỏi mình vậy thôi, chứ tôi biết, quá trễ rồi.
Ðường tôi đi, bây giờ lại vẫn chỉ một mình, mình đi. Tôi lại nhủ lòng: Ðường đi một mình.
Bóng mát cần thiết để dừng nghỉ. Thiếu bóng mát cuộc hành trình sẽ mệt lắm. Vì bóng mát chỉ để dừng nghỉ, nên nếu ngày nào bóng mát giữ chân tôi lại không muốn tôi lên đường thì lúc đó bóng mát trở thành đánh lừa tôi. Thiếu bóng mát cuộc hành trình sẽ mệt nên tôi cần bóng mát. Trong cái cần bóng mát ấy, dễ đưa tôi đến chỗ ôm giữ bóng mát như một nuối tiếc không muốn rời bỏ.
Có những bóng mát của một ngày hành trình dài trên đường đi bộ. Nhất là, khi mồ hôi đong vào những sợi nắng chẻ tóc. Nhất là, khi gặp một trời hạ hực nắng và gió không hiền hòa. Lúc đó, tôi cần một bóng mát làm sao!
Dù là bóng mát của một quán trọ hay bóng mát của một tàng cây, bóng mát vẫn chỉ là "bóng" chứ không phải là "thực". Vì là bóng, nên bóng mát không thể là nơi tôi nương trú. Tôi chỉ dừng chân rồi đi. Cái nguy hiểm của bóng mát là có thể làm chậm trễ hành trình tôi đi tới, có thể đánh mất đường về của tôi. Từ bóng mát trên đường đi dẫn tôi đến "bóng mát cuộc đời".
Bóng mát cuộc đời
Có nhiều thứ bóng mát trong cuộc đời. Một ngày nào đó với lo âu trĩu nặng, rồi có một tình thân đến chia sẻ. Một ngày nào đó bơ vơ, rồi có một tâm hồn đến cho nương tựa. Ðấy đều là những bóng mát. Trong lúc cơ cực, một tấm lòng rộng lượng đến nâng đỡ. Những bóng mát như vậy cần thiết biết bao. Trong đời ai cũng cần những bóng mát như thế. Cuộc sống không giản dị êm đềm, có những quãng vắng lặng lẽ, có những khúc đi gian nan, để rồi cuộc sống cần những bóng mát cuộc đời.
Trong những bóng mát cuộc đời ấy có những bóng mát nguy hiểm, bóng mát lừa dối. Giữa những bóng mát cần thiết có những bóng mát bất chính. Người ta lẫn lộn những bóng mát ấy với nhau. V ì đặc tính của bóng mát là cho người ta "chất mát". Ðam mê và tội lỗi cũng là một thứ bóng mát. Nhiều khi tội lỗi và đam mê càng cho người ta nhiều "chất mát" hơn.
Thí dụ trong hôn nhân, thí dụ trong đời tu, vì một lúc yếu lòng, vào một mùa thu ảm đạm. Rồi, ở một nơi nào đó trong tâm hồn mình, thấy bâng khuâng gợi nhớ, thấy man mác một nỗi sầu trống vắng thiếu thốn. Người ta dễ đi tìm "bóng mát cuộc đời" bằng lỗi chung thủy.
Ðời là con đường dài. Những lúc chớm sáng bình minh, người ta hăng hái lên đường, nhưng vào trưa oi bức, người ta muốn dừng nghỉ. Những ngày hạnh phúc êm ả người ta không cần bóng mát cuộc đời. Những ngày chán nản, bơ vơ, người ta không muốn lên đường, lúc ấy, những quán hạnh phúc bên đường dễ cám dỗ mời mọc làm sao.
Bóng mát và người chăn chiên
Người chăn chiên nhìn về cuối chân trời. Nắng vẫn hanh, nhưng trong lòng người chăn chiên, chiều đang đổ xuống rất mau. Ðường vẫn còn dài. Người chăn chiên nhủ lòng: Phải ra khỏi cánh rừng khi chiều về!
Chúa Kitô cũng vậy, thời gian đối với Ngài là mùa màng cứu rỗi. Ngài nhìn cuộc sống của tôi với chiều đi mà nôn nao, hối hả: "Bao lâu còn sáng ngày, Ta phải làm việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm tối đến không ai còn làm việc được nữa" (Jn. 11:10).
Người chăn chiên tính toán kỹ lưỡng. Trời còn hanh nắng đó, nhưng phải lên đường cho kịp tránh hoàng hôn. Bầy chiên nào có biết, chúng chỉ thích an nghỉ dưới tàng cây rợp bóng. Cái êm dịu của bóng mát làm chúng ngại lên đường. Chúng muốn thiu thiu ngủ hơn ra đi. Chiều cứ xuống, chầm chậm không lời báo động. "Trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, lấy vợ lấy chồng cho đến ngày ông Noe vào tầu. Và lúc chẳng ai để ý gì, thì lụt đến và cuốn trôi đi tất cả" (Mt. 24: 38-39).
Khi giấc ngủ vừa tỉnh, muốn lên đường thì đã muộn. Hoàng hôn xuống mà chưa ra khỏi cánh rừng là bóng tối bủa vây, là nguy hiểm rình chờ, sói rừng sẽ xuất hiện. Những bóng mát ấy là cõi chết rất êm. Những bóng mát đánh lừa.
Người chăn chiên lành nghề thì biết khúc đường còn bao lâu, quãng dài cần thiết bao nhiêu thời giờ để ra khỏi cánh rừng. Cho dù trời có nắng, mồ hôi có chảy, người chăn chiên vẫn cứ hối hả thúc chiên lên đường, không cho nó nằm nghỉ dưới bóng mát tàng cây. Nỗi tâm tư của người chăn là chiên chẳng hiểu mình. Chúng trách cứ, oán than.
Trong bóng mát ấy, bầy chiên than thở, tại sao một chút hạnh phúc mà Ngài cũng lấy đi. Bao lần trong đời, con người đã nhìn hình ảnh người chăn chiên như kẻ khó tính, không cảm thông. Một chút hạnh phúc mà Ngài cũng không cho. Một chút an ủi mà Ngài ngăn cấm. Người chăn chiên biết cái rình mò của bóng đêm. Nhìn đường còn xa mà lo âu thương bầy chiên, nếu trời đổ tối mà chưa ra khỏi cánh rừng thì sao. Sói đến. Chết chóc. Ðổ vỡ. Dù chiên muốn hay không, người chăn chiên vẫn nhủ lòng: Nhất định phải bắt chúng lên đường!
Chúa Kitô cũng thế. Ngài thấy những "bóng mát cuộc đời" giả tạo của tôi mà lo âu. Ngài biết bóng mát ấy đang đánh lừa tôi. Bóng mát ấy có thể là tình cảm bất chính, là tiền bạc tôi không rõ ràng trong khi có trách nhiệm cầm giữ. Bóng mát ấy có thể là quyền hành tôi được trao phó, nhưng mà để thoả mãn hơn là phục vụ. Bóng mát ấy cũng có thể là giấc ngủ dài vì ngại ngùng khi thấy hành trình xám hối đòi nhiều cố gắng. Bóng mát ấy có thể là một thứ đam mê. Những thứ bóng mát này có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng cùng một địa chỉ là lừa gạt tôi.
Khi nói về bóng mát (shadow), cả bốn Phúc Âm chỉ nói đến 2 lần. Và cả hai lần tiếng bóng mát đều liên quan đến sự chết. Lần thứ 1 trong Matthêu: "Kẻ ngồi trong bóng tối sự chết" (Mt. 4: 16). Lần thứ 2 trong Luca: "Kẻ ngồi trong tối tăm bóng chết" (Lc. 1: 79).
Trong khi những lời giảng dạy, nhiều biến cố quan trọng giữa Chúa và con người hầu hết đều xẩy ra trên đường đi đổ nắng chứ không ở trong bóng mát. Thí dụ:
- Trên đường đi Ngài hỏi họ: Người ta nói Thầy là ai? Và Phêrô tuyên tín Thầy là Ðức Kitô (Mt. 8: 27-27).
- Khi bắt đầu lên đường. Một người đến hỏi: Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời (Mt. 10: 17).
- Dọc đường lên Jerusalem, Ngài nói: Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời, các ký lục và thượng tế... (Mc. 10: 32-34).
- Trên đường đi, họ bắt ông Simon vác thánh giá đỡ cho Ðức Kitô (Lc. 23: 26).
- Trên đường đi đến một làng nọ. Mười người phong cùi đến gặp Ngài (Lc. 17: 11).
- Cuộc gặp gỡ sau biến cố Phục sinh cũng xẩy ra trên đường Emmaus. Hai ông kể lại chuyện xẩy ra khi các ông đi đường và các ông đã nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh (Lc. 24: 35).
- Giakêu gặp Chúa cũng là gặp trong lúc đi đường (Lc. 19: 4).
Khi người chăn chiên dùng gậy đánh để bầy chiên khỏi ươn lười ngủ vùi trong bóng mát, cũng là lúc, để thức tỉnh tôi, Chúa trao cho tôi "chút bánh đau thương và ít nước khốn cùng. Nhưng Ðấng dạy dỗ tôi sẽ không bao giờ rời bỏ tôi. Khi chân tôi xiêu bên phải, vẹo bên trái, chính tai tôi nghe tiếng từ đàng sau phán: Ðây là đường hãy đi theo đó" (Isaia 30: 18-21). Chúa biết ngày nào tôi còn nằm trong "bóng mát" giả tạo ấy, tôi chỉ ôm mơ một bóng hình hạnh phúc ảo ảnh. Những êm đềm ấy chỉ lừa dối tôi thôi.
Bóng cây mát ven đường đánh lừa bầy chiên để đêm tối ập xuống thế nào thì "bóng mát cuộc đời" đam mê cũng đánh lừa tôi để tôi mất mùa ơn sủng như thế.
Lạy Chúa, Bao lần tâm tư Chúa buồn phiền khi thấy con dại dột nằm ẩn mình trong bóng mát. Những cảm xúc ngọt ngào của bóng mát chỉ cho con hạnh phúc giả mà thôi. Nó cản đường con về đồng cỏ quê trời. Nó làm chậm chân con ra khỏi cánh rừng nguy hiểm cho linh hồn. Những ngày con sống như thế, Chúa thấy thời gian đổ vỡ đã gần kề mà con vẫn ngủ, thì con xin Chúa, như người chăn chiên tốt lành, hãy dùng gậy mà đánh, mà lùa chiên ra khỏi bóng mát.
Xin cho con nhớ lời thánh Phaolô nhắn gởi: "Hỡi con chớ khinh chê lời sửa phạt của Chúa, chớ ngã lòng khi Chúa trách mắng con. Vì Chúa sửa trị kẻ Chúa yêu và đánh phạt kẻ Chúa nhận làm con. Chúa dùng đau khổ để dạy anh chị em. Thiên Chúa đối xử với anh chị em như đối xử với con cái. Có con nào mà cha không phải sửa phạt ư? Nếu anh chị em không nhận lời răn dạy như mọi người, anh chị em là con ngoại tình chứ không phải con thật nữa. Ðàng khác cha phần xác sửa dạy ta mà ta còn tôn kính, phương chi ta càng phải vâng phục cha phần hồn là Ðấng ban sự sống cho ta. Cha phần xác sửa trị ta theo ý riêng mình và vì lợi ích tạm thời, còn cha phần hồn thì vì lợi ích thực sự là để ta được thông phần vào sự thánh thiện của cha. Thật vậy, mọi sự sửa phạt lúc đầu chỉ gây buồn tủi, chẳng có đem lại an ủi đâu, song về sau, những kẻ vui lòng chịu thử thách như vậy, sẽ được sự bằng an và sự công chính làm phần thưởng (Hipri 12: 4-11).
Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ – Trích trong “Con Biết Con Cần Chúa”
Chỉ là tấm bánh nhỏ thôi Trong đó có bầu trời Có biển khơi. Chỉ là tấm bánh nhỏ Chứa cả một chiều gió Một vùng đồi núi bao la. Là tấm bánh nhỏ Mà ở đó có bài trường ca vũ trụ. Mà ở đó có hoa xuân - nắng hạ
đông tàn - cuối nẻo hừng thu. Chỉ là tấm bánh nhỏ Sao quá đỗi bao la. Tôi gặp ở đó nắng trên ngàn – về trở gió cho rừng thu thay lá. Tôi gặp ở đó nghìn triệu bài ca – Gió đông về cho tuyết phủ trắng xoá thời gian. Tôi gặp ở đó – từ hừng đông bình minh vũ trụ thành hình. Tôi gặp ở đó những mùa xuân. Ôi! Sao quá đỗi, quá xinh.
Tôi gặp ở đó những mùa hạ. Ôi! sao quá đỗi, quá tình. Chỉ là chiếc bánh nhỏ Mà ở đó có một biển cả. Có ngàn ngàn triệu triệu con sông – cứ muôn đời cứ mãi mãi thiết tha. Chỉ là tấm bánh nhỏ Mà ở đó Muôn nghìn triệu những vì sao. Những vì sao lấp lánh ở rất cao. Đêm nay con ngồi trước nhà chầu Chúa Trước mặt là tấm bánh nhỏ Từ triệu năm của nghìn xưa thế giới Từ triệu năm của nghìn sau diệu vợi Vỏn vẹn trong lòng tấm bánh nhỏ Tâm tư con làm sao hiểu thấu Những nhiệm mầu Những cao sâu Tâm tư con làm sao hiểu thấu Cuộc đời con sẽ xuôi tay về đâu Tất cả vỏn vẹn trong lòng tấm bánh nhỏ Ở đó Trong hình hài tấm bánh nhỏ Là Chúa Là mầu nhiệm nhập thể Chúa xuống thế làm người Con không ngồi trầm tư với chiếc bánh nhỏ Ở đó Con nói chuyện với cả sông dài từ nghìn xưa Cựu Ước vọng lại Con nghe chuyện tình sử cứu độ thập giá từ nghìn sau Tân Ước đi tới Đêm nay thinh lặng mà sao quá đỗi chơi vơi Chúa ơi, Vắng vẻ mà sao bản hoà tấu quá đỗi thênh thang Qúa đỗi mênh mang Chỉ là tấm bánh nhỏ Ôi! Lậy Chúa, Làm sao con tin thật được Chúa đang ở đó? Với con.
LÀM SAO NGHE ĐƯỢC TIẾNG CHÚA
Đây là câu hỏi khó chấm dứt vì bao giờ mới có câu trả lời trọn vẹn được. Chúa là vô biên, Chúa ở khắp nơi, Chúa là chủ thời gian, nên tiếng Chúa cũng sẽ mãi vang trong không gian, thời gian và mọi hoàn cảnh. Chúa nhắc nhở qua biến cố. Chúa nói qua lương tâm. Dáng Chúa trong mây trời, hình Chúa trong sắc hoa. Chúa ẩn bên dòng nước. Trong sa mạc. Trong lời dạy của Giáo Hội.
- Nhưng làm sao Cha biết có ơn gọi đi tu? Vì con cũng muốn biết con có ơn gọi đi tu hay không.
Khi bạn đặt những câu hỏi như thế, bạn rất chân thành. Đôi khi là khắc khoải của sự tìm kiếm. Nếu tôi tin là tôi “nghe” được tiếng Chúa gọi, tôi phải trả lời bạn. Nếu không, tôi nói sao về những điều mình xác tín.
Bạn thân mến, đã đôi ba lần tôi cố trả lời những thao thức của bạn:
- TÌM Ý CHÚA, đề tài này trong cuốn Mùa Chay và Con Sâu Bướm. Tôi đưa một vài nguyên tắc chuẩn bị cho việc lắng nghe.
- TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU, bài suy niệm cũng trong cuốn sách trên, tôi viết dưới hình thức thi ca, một kinh nghiệm thiêng liêng qua cầu nguyện, tĩnh tâm và dấu chỉ tiếng Chúa là sự bình an trong tâm hồn.
- ƠN GỌI, đoản khúc 76 trong cuốn này, bạn vừa đọc ở phần đầu tập sách. Tôi nói đến nhận định tiếng Chúa qua cầu nguyện, tin tưởng. Ơn thánh không cất nhắc khó khăn nhưng cho niềm xác tín.
- TẤM BÁNH NHỎ. Đoản khúc bạn đang đọc đây. Bây giờ là lần tứ tư. Tôi giữ im tiếng gọi này 27 năm qua. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1979.
Sau câu chuyện trong TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU, tôi tin tưởng vào ơn gọi linh mục của mình. Tôi lấy lại được niềm xác tín.
Sự yếu đuối của con người là một trường ca. Bóng tối trên đường là một cánh đồng. Ngày nào còn hơi thở ta còn vấn đề. Nhưng rồi, tôi thấy đời luôn luôn thi vị. Tất cả cho dù xót xa, hay hạnh phúc, đều là niềm khám phá về cuộc sống. Có thể tôi chưa thấy những con đường thật là tăm tối chăng. Nên tôi chưa thấy những vết thương đau như nhiều người để tuyệt vọng nói rằng, xót xa của cuộc sống không có gì để khám phá.
Tôi đã viết ở đoản khúc ƠN GỌI rằng:
Khi bạn hỏi làm sao tôi biết Chúa gọi, là chuyện riêng tư. Tôi không biết trả lời bạn ra sao cho dễ dàng. Nếu trả lời theo ngôn ngữ những sách tu đức, thì tôi không chắc mình biết những điều mình học. Nếu trả lời bằng chuyện đời mình đã đi qua thì tôi lúng túng vì đó là chuyện riêng và không biết bắt đầu thế nào. Trả lời bằng những gì mình đã đi qua thì nó có những vụng về của nó, vì nó riêng tư, nhưng những gì mình đã đi qua thì mình biết rõ hơn.
Chúa nói bằng ngôn ngữ? Ngôn ngữ của Chúa nói với chúng ta rất riêng. “Người chăn chiên gọi tên từng con một mà đưa chúng ra ngoài” (Jn. 10:3).
Câu chuyện TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU, là một cuộc tĩnh tâm xảy ra ở Âu Châu. Xác định ơn gọi mình, rồi tôi qua Mỹ. Qua Mỹ, tôi lại phân vân về ơn gọi. Làm sao biết Chúa gọi? Nếu đấy chỉ là ý tưởng của mình thì sao?
Vào những ngày này, thập niên 1978-1980, Việt Nam đang đói, nhiều người phải ăn bo bo. Với bẩy đứa em còn lại với mẹ. Một người mẹ quê sống vào tiền lương lính của chồng. Làm sao nuôi các con? Bố là “ngụy”. Trách nhiệm người con cả đã vượt biên ra đi? Nếu Chúa hiện ra nói rõ, tôi có ơn gọi đi tu. Tôi sẽ an tâm. Nhưng Chúa không hiện ra. Chúa nói qua tâm hồn. Mà tâm hồn mình, lấy gì làm bảo chứng? Vào tu, rồi vài năm Chúa không gọi, tôi không dang dở học hành sao?
Tại sao tôi không kiếm mảnh bằng kỹ sư? Nếu Chúa gọi, vừa là linh mục vừa là kỹ thông thái, không phải lý tưởng sao. Từng đêm suy nghĩ. Lý lẽ rất đúng. Cần một mảnh bằng. Thương mẹ bên kia biển, hết sóng gió nào mẹ đang trải qua. Có những hoàng hôn rất ảm đạm của người vợ lính sau chiến tranh. Có những ánh đèn nhà nguyện leo lét. Nhưng trước Thánh Thể Chúa trong nhà nguyện với ánh đèn ấy, tôi không bình an khi quyết định ra đi kiếm mảnh bằng.
Nếu Chúa gọi, trở lại tu đâu có sao? Con đường ấy chắc chắn hơn vì đã nắm trong tay một mảnh đời. Bây giờ theo tiếng gọi, có đúng không? Sóng gió nào đang xô dạt bên kia biển nơi quê mẹ và các em. Cuộc đời của bố. Một bóng chiều. Nếu Chúa không gọi thì sao? Liệu đời mình có dang dở?
Nhớ lại kinh nghiệm những ngày TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU. Chỉ còn con đường cuối là xin lòng thương xót Chúa nói rõ hơn.
Mùa hè năm 1979
Cả năm học, mong đến hè đi làm kiếm tiền gởi về giúp mẹ và các em. Về xứ đạo. Xin đi làm. Với student visa, không được phép. Bấy giờ tôi mới biết luật lệ xứ sở này. Bao nhiều trong mỗi mùa hè, tan nhẹ.
Tôi về một họ đạo vùng lúa mì Kansas. Một tiểu bang toàn cánh đồng, không sông ngòi, không núi đồi. Trời mùa hè, tám giờ tối đường đèn vẫn chưa lên. Một thứ ánh mặt trời chiều, cho dù mặt trời đã lặn sau những cánh đồng lúa mì, bầu trời vẫn sáng. Tiểu bang Kansas rất flat. Xứ đạo miền quê. Chỗ nào cũng là những con đường xuyên cánh đồng. Nếu đứng bên ruộng lúa, hương lúa mì vào ngày mùa sẽ thơm nức. Cánh đồng chạy dài mãi về phía bên kia. Rất thanh bình và êm ả. Nhưng tiếng lúa rì rào, những con đường làng kia chỉ thanh bình với người dân bản xứ. Nó có thể là nỗi rất chán cho những người biết đây không có ai là thân nhân của mình. Một vùng quê tỉnh lẻ.
Cha già Bill Vogel nay đã chết rồi.
Mùa hè năm học đầu tiên về xứ Mỹ. Cái gì cũng lạ. Không nói được sinh ngữ. Đó là những tháng ngày dài. Cha già nhờ tôi đưa Mình Thánh cho những người chưa phải vào nursing home, nhưng không đi lễ được. Chưa biết lái xe. Xứ đạo nhỏ. Chịu khó đi một vòng là xong hết. Mặt trời lặn. Nắng chiều hoàng hôn và những side walk. Tôi đem Mình Thánh Chúa, bước đi trên những side walk của buổi chiều hoàng hôn này.
Chính buổi chiều này mà tôi muốn trả lời bạn bằng những dòng sau đây.
Không biết tôi đi trên đường như thế đã được bao lâu. Lúc tôi đem hộp Mình Thánh trong túi áo ra nhìn, tôi không biết mình đã bước những bước chân vô hồn qua bao lối ngõ. Tôi đi qua phố. Qua nhà. Qua những con đường. Chỗ nào cũng không thấy niềm vui. Bây giờ, thỉnh thoảng gặp những người Việt mới qua, họ nhớ nhà. Thậm chí có người muốn quay về. Đấy là bây giờ chỗ nào cũng có cộng đoàn Việt Nam đông đảo. Huống hồ ba mươi năm trước, một mình tôi trong ngôi làng nhỏ ấy, một tỉnh lẻ miền quê xa xôi của Bắc Mỹ. Đối với người bản xứ, đó là một chiều thanh bình, con họ đong đưa bên chiếc ghế xích đu. Vườn cỏ xanh mướt. Quê làng tôi không như thế. Chỗ nào cũng là xình, cống rãnh. Ở đây vườn nhà sạch mướt. Hoa hồng rất to. Hàng rào trắng đẹp hơn biết bao lần chiếc cửa nhà tôi. Nhưng tôi không thấy đẹp.
- Sao cuộc đời có những bất công vậy Chúa?
- Tại sao có đất nước sinh ra may mắn, có quê hương đói khổ lầm than?
Chúa không trả lời.
Tôi mở chiếc hộp nhỏ. Bánh Thánh trong chiếc hộp chẳng có gì đặc biệt. Chỉ là tấm bánh nhỏ vô hồn. Tôi có thể búng nhẹ, chúng rơi xuống lề đường, không ai nhặt.
- Đây là Mình Thánh Chúa?
- Đây là Thiên Chúa?
- Có thật Thiên Chúa hiện diện trong tấm bánh này?
Những câu hỏi như thế quen rồi. Ai cũng trả lời được. Tôi có tin không? Tôi phải tin chứ: Tôi trả lời là tôi tin. Nhưng sao lời tin quá tầm thường. Tôi không có một cảm xúc băn khoăn. Nó là niềm tin tôi thuộc lòng như vậy. Làm sao có chuyện Thiên Chúa thật sự hiện diện ở đây? Nó mơ hồ. Thiên Chúa là ai?
Tôi đi qua phố. Qua nhà. Tôi nghĩ đến quê, không biết mẹ và các em ra sao. Tôi nhớ nhà. Tôi thương bố. Tôi thấy mình lang thang, đời sẽ đưa tôi về đâu.
Nhìn tấm Bánh Thánh, tôi cứ hỏi: “Có tin không?” Tôi đều trả lời: Tin. Nhưng linh cảm cho tôi biết có gì không ổn. Cho đến một lúc, tôi tự hỏi mình, hay Chúa hỏi tôi, tôi không rõ, nhưng khi câu hỏi đến từ chiều sâu:
Do you REALLY believe?
Tôi thấy không dễ trả lời. Vì dường như sau tiếng THẬT SỰ tin không, sẽ có chuyện gì đó không lành xảy ra. Tôi lưỡng lự, thận trọng hơn. Nói là tin thì tôi tin. Nhưng THẬT SỰ tin? Tôi thấy như có chuyện không đơn giản.
Nếu thực sự tin, thì đây là AI?
Có phải Thiên Chúa thật không?
Nếu là Thiên Chúa thì sao?
Bầu trời tháng hè, như tôi đã nói, tám giờ tối vẫn có thể chơi banh. Trời sáng lắm. Nhưng vào giờ này không còn một bóng mây. Trời rất cao. Cái cao mênh mông ấy vừa làm cho trời bát ngát bao la, uy hùng, nhưng cũng đồng thời làm ta rơi vào vùng không gian xám rất nặng nề. Càng mênh mông, càng cao, thì vùng xám im lặng ấy càng làm ta chìm xuống trong cuộc đời. Tôi nhìn tấm bánh trên tay cứ hỏi mình:
- Có thật đây là Thiên Chúa không?
Không có câu trả lời rõ. Nếu là Thiên Chúa, thì bầu trời mênh mông vô cùng tận kia đang trong bàn tay tôi. Người là Thiên Chúa, là CREATOR. Tôi thấy lãng đãng một điều gì đó rất huyền bí.
Tôi không được phép đi làm hè. Tôi đang nghĩ đến vài trăm đô. Nếu tôi chỉ được một chân làm hè cũng đã vui rồi. Huống chi dám so sánh với những người bản xứ kia, kìa căn nhà của họ, kìa vườn cỏ xanh và đám hoa hồng. Họ giầu có quá. Tôi nhìn lên bầu trời. Có thật đây là CREATOR? Có thật đây là Thiên Chúa, Đấng dựng nên bầu trời kia?
Căn nhà kia là gì so với thành phố này? Thành phố này là gì so với New York? Nếu đem Tokyo, London, New York góp lại, sẽ có bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu? Thoáng qua là một con toán. Tôi lại nhìn lên bầu trời. Cao quá. Rộng quá. Tấm bánh trên tay tôi có thật là Thiên Chúa không ?
Nếu đem ba thành phố ấy so với trái đất này, nó có là chi. Trái đất này giầu có quá, bao nhiêu châu báu. Nhưng so với vũ trụ thì sao? Tôi lại nhìn bầu trời, quá đỗi mênh mông. Vô cùng tận. Nó đi về đâu cuối chân trời kia? Không gian là gì? Vũ trụ là gì? Ai là CREATOR?
- Có thật đây là ĐẤNG TẠO HOÁ?
- Do you REALLY believe?
Dường như tôi thấy hơi rộn người. Nếu THẬT SỰ tin, tôi trả lời làm sao vấn đề là NGƯỜI ĐÓ đang nằm im trong bàn tay tôi?
Tôi không dám trả lời ngay. Vì sau câu trả lời REALLY tin kia, một loạt thách thức sẽ ập đến và tôi sẽ phải đối diện. Tôi linh cảm một bàng hoàng không im lặng như tấm bánh kia đâu. Im lặng của tấm bánh không là im lặng quê mùa. Một im lặng bùng vỡ không gì đỡ nổi. Tôi hỏi lòng tôi:
- Do you REALLY believe?
Tôi im lặng.
Lúc đó tôi hỏi lòng tôi bằng câu hỏi tiếng Anh này.
Tôi phải đem Mình Thánh cho những người già đang đợi tôi. Tôi cất chiếc hộp vào túi áo. Bước đi.
Tôi lại đi qua đường. Qua cổng. Qua nhà. Trong tôi bây giờ hỗn độn. Bừng bừng một loạt những thách thức về câu hỏi kia. Gió mùa hè Kansas, ai ở tiểu bang này thì biết, hừng hực cho dù vào ban đêm. Trời tối hơn. Những chiếc vòi tưới cỏ xịt nước ướt từng khúc đường side walk.
Lúc tôi vào nhà, ông ngồi trên xe lăn đã sẵn sàng nhận Mình Thánh. Bà cụ đứng bên xe, cạnh ông. Tôi không nói được tiếng Anh nhiều, không dễ dàng nói chuyện. Ông hiểu điều đó. Qua những ngập ngừng của tôi, ông bà biết một người ngoại quốc, họ cảm thông. Tôi biết ông bà muốn nói nhiều hơn. Căn nhà nhỏ, hai ông bà sống với nhau tuổi già. Tôi rất ngại khi phải nói. Họ đọc được ngại ngùng của tôi. Ông chỉ nói một câu ngắn. Nhưng bàn tay ông nói thay lời. Bàn tay một người già, gầy, hơi lạnh. Ông thấy tôi sắp từ giã, bàn tau già nua kia, cố cầm chặt tay tôi. Ông nhìn tôi thiết tha, rồi nói như với cả tấm lòng:
- We need you.
Tôi từ giã, bước ra cổng. Ba tiếng kia vọng lên. Ánh mắt và cái giữ tay rất chặt. Tôi hiểu ngay, Chúa cần có người mang Mình Thánh cho ông. Rất nhiều tâm hồn đang cần các bí tích. Không có tôi thì người khác. Nhưng câu chuyện ơn gọi kia. Câu chuyện linh mục. Tôi không thể nói không có tôi thì người khác là linh mục cũng được. Nếu Chúa gọi tôi là linh mục thì sao? Ơn gọi là câu chuyện một con người chứ không là công việc của một con người.
Lúc về đến city hall, sắp qua con đường Broadway, tôi thấy người ta xếp hàng chờ vào xem ciné. Không ai trong hàng người kia biết tôi vừa kiệu Mình Thánh Chúa qua đường, qua nhà, qua phố. Tôi đã từng tham dự kiệu Mình Thánh ở nhà thờ, ở quê xưa. Nhưng chiều nay tôi đang kiệu Mình Thánh ngang qua cuộc đời. Kiệu Mình Thánh ở nhà thờ, có nến, có hoa, có trang trí kiệu, có nhiều thứ lắm. Còn tôi, chiều nay kiệu Mình Thánh chẳng ai biết. Trong số những người xếp hàng chờ ciné kia đâu ai biết tôi là ai. Họ không biết những gì đang xảy ra. Họ không biết Thiên Chúa đang trong túi áo tôi.
Làm sao tôi có thể vì mấy trăm đô la, làm sao tôi có thể đi kiếm mảnh bằng mà phân vân với ơn gọi làm linh mục được. Là linh mục, khi cử hành thánh lễ, Thiên Chúa hiện diện trong bàn tay tôi. Hôm nay, người ta nói nhiều về nhân tính con người của linh mục. Họ không đề cao linh mục là Alter Christus nữa. Nhưng thật sự linh mục, ngoài nhân tính tội lỗi và yếu đuối kia. Ơn gọi linh mục vẫn là một huyền nhiệm không trả lời được.
Ơn gọi linh mục vẫn là một chiều sâu ngoài tầm hiểu biết của con người.
Làm sao Thiên Chúa thực sự trong tấm bánh nhỏ qua thánh lễ linh mục cử hành? Một CREATOR của trời và đất, của vũ trụ.
Nếu hiểu được phần nào chiều kích này, linh mục không thể đánh mất được ơn gọi của mình. Nó quá cao cả. Không vì một lý do nào để mất ơn gọi này được. Họ phải bảo vệ với tất cả kinh nghiệm và niềm vui. Và họ không thể không khiêm nhường mà lo lắng vì làm sao Thiên Chúa lại cho họ ơn gọi như thế.
Trong căn phòng nhà xứ, một mình tôi về đến nhà. Tôi vừa đi kiệu Thánh Thể. Ơn gọi linh mục lại như hồng ân sáng lên trong cơn mù tăm tối của phân vân. Một cảm giác giống như ngày tôi ở tu viện Solei Mont bên Bỉ, với TIẾNG GỌI BÊN RỪNG THU. Tôi thấy yêu cuộc đời linh mục. Tôi ao ước Chúa gọi tôi vào ơn gọi này.
Bình an Cha ban không giống như bình an của con người. Chúa nói vậy với các môn đệ. Và Chúa còn nói thêm: Anh em đừng xao xuyến, đừng sợ. (Jn. 14:27). Điều này ảnh hưởng đến suy nghĩ và việc mục vụ của tôi sau này. Tôi hiểu là ơn thánh Chúa không cất nhắc hết khó khăn, nhưng Chúa cho ta niềm vui, bình an, tin tưởng, sức sống. Điều này không có gì lạ. Ta đã gặp thấy trong thơ thánh Phaolô. Ba lần thánh Phaolô xin Chúa cất nhắc những khó khăn, Chúa không cất nhắc (2 Cor. 12:7-8).
Bạn thân mến,
Làm sao nghe được tiếng Chúa?
Tôi trả lời bạn, câu trả lời có cách học hỏi tu đức trong bài TÌM Ý CHÚA. Khi bạn hỏi làm sao tôi biết mình có ơn gọi đi tu. Câu hỏi lại là riêng tư, tôi không thể trả lời bằng những gì tôi không đi qua. Bài suy niệm TIẾNG GỌI BÊN RỪNGTHU là như một trả lời riêng tư đó.
- Làm sao Cha biết mình có ơn gọi đi tu?
Người bạn trẻ thân mến,
Trong đoản khúc ƠN GỌI tôi trả lời thêm cho câu hỏi này. Năm nay, năm 2005 là năm Thánh Thể. Liên quan đến Thánh Thể và tiếng Chúa, tôi cố trả lời bạn thêm về tiếng gọi này. Như tôi đã nhiều lần quả quyết, Chúa ban bình an cho ai Chúa gọi. Chúa gọi riêng tư thì bạn cũng sẽ nghe được trong cách riêng tư của đời mình. Đời là những khám phá. Có gian nan nhưng cũng rất nhiều thi vị, bởi khám phá làm con người trở nên chính mình nhiều hơn.
Với mùa hè ở Kansas năm 1979 đó, tôi xác định ơn gọi linh mục của mình. Tôi hân hoan đi hết chương trình thần học của địa phận và sẵn sàng tin tưởng chờ thêm sáu năm nữa tôi trả lời bạn ở đoản khúc ƠN GỌI phần đầu tập sách này. Tấm Bánh Nhỏ đã đưa tôi vào cách trả lời qua cảm nghiệm của thinh lặng hơn là âm thanh.
Lắng nghe tiếng gọi là một khám phá.
Và khám phá, thật sự làm con người trở nên chính mình nhiều hơn.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj. (ĐƯỜNG ĐI MỘT MINH )
Nói về nước mắt cũng khó như nói về tình yêu. Nói về nước mắt cũng khó như nói về đau khổ.
Tình yêu và đau khổ là những ngôn ngữ phải hiểu bằng con tim hơn bằng lời. Và nước mắt cũng thế.
Làm sao có thể tả được nỗi khổ của người vợ trẻ nghe tin chồng tử trận từ miền xa. Làm sao có thể nói được nỗi đau của cuộc tình phản bội. Làm thế nào để diễn tả được nỗi đắng của người con gái gặp trầm luân trên biển cả. Ðó là nước mắt và đau khổ. Không có ngôn ngữ nào nói về những dòng nước mắt đó cho đủ.
Nước mắt của đau khổ tự nó là một ngôn ngữ. Một thứ ngôn ngữ không có văn phạm. Vì nước mắt là ngôn ngữ không có văn phạm nên ai cũng có thể đọc được. Người giàu khóc. Kẻ nghèo cũng thế. Người trí thức, kẻ quê mùa, ai cũng có lúc khóc. Nước mắt và đau khổ là ngôn ngữ chung. Người từ phương đông cũng có thể gặp kẻ từ phương tây, trong ngôn ngữ ấy. Mình có nước mắt và thấy người khác có nước mắt.
Nước mắt là ngôn ngữ chung. Nhưng đọc được không có nghĩa là hiểu được. Từ đọc được đến hiểu được vẫn còn là chặng đường dài. Dòng nước mắt này không có văn phạm để đọc, nhưng lại có văn phạm để hiểu. Văn phạm để hiểu những dòng nước mắt của đau khổ là con tim. Nhìn một người khóc, tôi biết đó là nước mắt. Tôi đã đọc được. Nhưng tôi có hiểu dòng nước mắt đó không lại là một chuyện khác. Ðã bao lần tôi thấy người khóc, nhưng tôi vẫn bình thản. Ðã bao lần tôi thấy nước mắt chảy, nhưng chẳng có nghĩa gì đối với tôi. Cũng có những lần tôi không muốn nhìn nước mắt. Nước mắt đau khổ là ngôn ngữ chẳng cần học cũng nhìn thấy, nhưng chẳng bao giờ hiểu được nếu không học. Ðể hiểu dòng nước mắt đó phải học bằng con tim của yêu thương và tâm hồn của chia sẻ.
Nỗi đau đã nói bằng nước mắt, thì để hiểu cũng cần trả lời bằng nước mắt. Nhưng người ta chẳng trả lời được bằng nước mắt nếu người ta không học yêu thương và chia sẻ. Ðây là bài học khó nhất trong đời. Nhận ra nước mắt đau thương ở chung quanh mình đã là điều khó. Học để chấp nhận dòng nước mắt ấy và để dòng nước mắt ấy hòa vào cuộc sống của mình lại càng khó hơn. "Nơi điều này mà ta biết được lòng mến: là Ðấng ấy đã thí mạng mình vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em" (1Yn 3,16). Khi Thiên Chúa yêu, Ngài yêu đến cùng. Bởi đó, yêu thương là bài học không có ngày ra trường, nó giai giẳng cả đời. Bài học này không có chứng chỉ xác nhận, vì có ai chỉ yêu thương một lần là xong?
Một người khóc với nỗi đau của tôi, tôi thấy bớt khổ hơn khi họ chỉ nói về nỗi đau của tôi. Họ chẳng nói gì, chỉ im lặng thôi, nhưng nhìn trong đôi mắt cảm thông của họ, tôi có can đảm. Họ không cho tôi gì cả, nhưng tôi thấy mình lãnh nhận. Dòng nước mắt của tôi là yếu đuối thì dòng nước mắt của họ lại là sức mạnh cho tôi. Ðó là sự nhiệm mầu của nước mắt, và ở chỗ đó, nước mắt là ơn thánh. Trong thơ gởi tín hữu Roma, Thánh Phaolô viết: "Vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu" (Rom 12,15). Lời nói thì dễ, quà tặng cũng có thể mua. Khóc thì thật khó, vì nước mắt là mức độ rung cảm sâu xa nhất của con tim, và cũng chính vì chỗ đó, nước mắt là hồng ân. Ðể hiểu được nước mắt của người khác và nói với họ bằng nước mắt của mình là một con đường tử nạn Jerusalem. Người đứng xem thì nhiều, nhưng kẻ khóc thì chẳng có bao nhiêu.
Nước mắt ở đâu?
Trong trại tị nạn, tôi thấy có những tâm hồn lạc lõng, không người thân, không tiền bạc. Biển chiều là những nỗi vắng khôn nguôi. Họ ngồi một mình, im lặng, nhìn về biển mà khóc. Trong khi đó, có người mang theo được vàng bạc, có thân nhân, họ bình thản bên quán cà phê, mơ ngày đi sắm đồ ở Hong Kong, Bangkok. Họ chẳng thể hiểu được những dòng nước mắt kia. Vì muốn hiểu, họ phải mời dòng nước mắt đó một ly cà phê, một tấm áo mặc. "Kẻ nào có của đời này và thấy anh em nó lâm phải túng thiếu, lại khóa lòng dạ lại đối với anh em nó thì làm sao lòng mến của Thiên Chúa lưu lại được trong nó? (1Yn 3,17). Hai ngàn năm trước, họ đã chẳng hiểu mồ hôi và nước mắt Chúa Kitô trên đường tử nạn vì họ là kẻ đứng bên lề để xem.
Nước mắt ở đâu?
Ở trong những tâm hồn tan nát. Có những vết thương đau đớn của một đời người. Những người thiếu nữ gặp trầm luân trên biển cả. Họ đau khổ. Trong khi đó, có người đem những chuyện đó để mua vui. Họ chẳng thể hiểu được dòng nước mắt kia. Vì hai ngàn năm trước họ cũng đã lột trần Ðức Kitô và cười với nhau. "Khi chế diễu Ngài rồi, thì họ cởi chiếc nhung y đi, cho Ngài mặc lại áo của Ngài, rồi họ điệu Ngài đi mà đóng đinh trên thập giá" (Mt 27,31). Ðóng đinh kẻ khác cũng là thú vui của một số người.
Nước mắt ở đâu?
Có những tâm hồn lầm lỡ, chỉ vì yếu đuối mà chua xót. Họ muốn quên đi cái quá khứ bất hạnh ấy. Nhưng có kẻ biết chuyện lại đem nói cho người khác hay để tỏ ra sự hiểu biết của mình. Họ chẳng thể hiểu được nỗi đắng cay kia. Vì, hai ngàn năm trước họ đã muốn ném đá người đàn bà ngoại tình (Yn 8,5). Ðối với một số người, nói những khuyết điểm của kẻ khác là hình thức để nói mình trong sạch. Họ chỉ thua cuộc khi bị phơi trần trước mặt Ðức Kitô.
Hai ngàn năm trước là thế, hôm nay cũng vậy, tôi thấy nhiều người khóc, nhưng tâm hồn tôi chẳng rung cảm. Làm sao có thể rung cảm, làm sao có thể hiểu được khi tôi chỉ đứng xem người vác thập giá chứ tôi không vác thập giá.
******************************************
Trong tình yêu cũng có nước mắt. Mai Ðệ Liên đã khóc: "Ðứng đàng sau phía chân Ngài, bà khóc nức nở" (Lc 7,38). Phêrô đã khóc vì chối Thầy: "Và Phêrô nhớ lại lời Ðức Kitô đã báo: Trước khi gà gáy, ngươi đã chối Ta ba lần. Và ra ngoài ông khóc lóc thảm thiết" (Mt 26,75). Phêrô không nói gì với Chúa khi Chúa nhìn, nhưng chỉ khóc. Mai Ðệ Liên cũng vậy. Họ chẳng nói nhưng nước mắt đã nói tất cả. Ðó là những giọt nước mắt sám hối. Những giọt nước mắt khi biết mình lỗi lầm bao giờ cũng có giá trị cứu rỗi.
Eva đã lỗi phạm. Khi Chúa hỏi thì Eva đổ lỗi cho con rắn. Bà đã không khóc.
Adong đã lỗi phạm, Khi Chúa hỏi thì Adong đổ tội cho Eva. Ông đã không khóc.
Tội kế đến xẩy ra trong gia đình đầu tiên của nhân loại là Cain giết em mình. Khi Chúa hỏi em mình đâu, Cain trả lời: "Tôi không biết! Tôi là người giữ nó à?" (Kn 4,9). Chàng đã không khóc.
Ôi! Những dòng nước mắt đã hiếm hoi làm sao. Vì thuở ban đầu đã thiếu nước mắt ăn năn, nên bây giờ nước mắt gian truân ở khắp chốn.
Nước mắt đã làm động lòng Thiên Chúa. Nước mắt xóa nhòa quá khứ. Nước mắt mở cửa tương lai. Nước mắt làm hạnh phúc phục sinh.
Có những dòng nước mắt hiếm hoi bao nhiêu, thì dường như, cũng có những dòng nước mắt dư thừa bấy nhiêu. Có người khóc vì mất một số của cải, nhưng lại chẳng khóc khi mất Chúa. Có người khóc vì bị ngăn cản một ước mơ không chính đáng, nhưng lại chẳng khóc khi bỏ lỡ một giấc mơ chính đáng đã đi qua mà không thực hiện.
Lạy Chúa, để hiểu dòng nước mắt đau khổ, con phải học thứ văn phạm của ngôn ngữ đó, đó là một trái tim yêu thương, một cõi lòng có Chúa ngự, một tâm hồn không đứng xem Chúa vác thập giá mà xuống đường vác thập giá với Chúa.
Nước mắt có cần không?
Khóc là một ân huệ. Những trái tim bằng gỗ không thể khóc. Những tâm hồn lạnh lùng cũng chẳng thể rung cảm. Xin hãy dạy con biết khóc như Phêrô, đừng chai đá như Cain. Nước mắt có thể tha thứ mọi lỗi lầm của con. Và, Nước Trời đã mở cửa cho con cả hai lối. Con có thể vào một cách anh hùng như các thánh tử đạo, con cũng có thể vào bằng tiếng khóc như Mai Ðệ Liên.
Tôi cười khi tôi vui. Tôi khóc lúc khổ đau. Nụ cười biểu hiệu cho hạnh phúc. Nước mắt tượng trưng cho nỗi buồn. Như thế, trong hạnh phúc không có nước mắt. Nhưng nước mắt có thể mời gọi hạnh phúc trở về. Nước mắt là những lời giải thích về đau khổ. Tôi có đau khổ tuyệt vọng, tôi có đau khổ ăn năn. Bởi đấy, nước mắt cũng có hai dòng, một dòng tuyệt vọng, một dòng sám hối.
Nước mắt tuyệt vọng là nước mắt của con tim oán than chối từ một niềm tin. Càng chối từ niềm tin bao nhiêu thì nỗi đắng cay càng oan nghiệt bấy nhiêu. Nước mắt tuyệt vọng là ngọn than hồng thắp lửa thêm cho đau khổ và khi đau khổ bùng cháy sẽ tiêu diệt đời mình.
Nước mắt ăn năn là nỗi nhớ thương của một tâm hồn gởi một tâm hồn. Nước mắt ăn năn sẽ lôi kéo tình yêu trở về và nước mắt ăn năn là mời gọi duy nhất tình yêu không thể chối từ.
Lầm lẫn và yếu đuối giăng mắc đó đây, do đó tình yêu hoen ố, bởi đấy hạnh phúc chông chênh. Vì lầm lẫn, tôi có thể làm người yêu tôi buồn. Vì yếu đuối, tôi có thể phản bội người yêu tôi. Yếu đuối và lầm lẫn như những thành tố làm nên cuộc đời. Tôi chẳng thể tránh được yếu đuối. Tôi không thể thoát khỏi lầm lẫn. Dù không muốn, chúng vẫn chẳng thiếu vắng trong đời tôi. Có yếu đuối là có bất toàn, có lầm lẫn là không trọn vẹn. Vì thế không có tình yêu tuyệt hảo và hạnh phúc vô song trên cõi đời này. Chỉ có hạnh phúc tương đối nên hạnh phúc nên hạnh phúc ấy có thể nhạt nhòa. Không có hạnh phúc tuyệt hảo thì cũng không có đau khổ vô cùng. Bởi đó, trong dại dột tôi có thể học được khôn ngoan. Trong đau đớn tôi vẫn có hy vọng tìm về niềm vui.
Lầm lẫn và yếu đuối gây thương tích cho hạnh phúc. Thương tích nơi hạnh phúc chỉ được xoa dịu và tái sinh bằng nước mắt ăn năn. Xin cho tôi biết khóc, biết chua xót ăn năn. Bởi nếu tôi không biết khóc, biết xót xa hối hận thì tôi chẳng bao giờ mời gọi được hạnh phúc tôi đã đánh mất trở về. Và như thế, đời tôi nghèo nàn, cơ cực.
Tình yêu là giây đàn rung lên hạnh phúc. Chỉ cần sẽ chạm tay cũng đủ làm giây đàn im tiếng. Chỉ cần một tư tưởng phản bội cũng làm cho tình yêu hoen ố. Chỉ cần một chút oán thù cũng đủ làm cho mặt hồ bình an thành mờ đục. Nhưng cái mầu nhiệm của tình yêu là chỉ cần một giọt nước mắt ăn năn cũng đủ để tình yêu tha thứ gọi hạnh phúc trở về. Tình yêu nào khi nghe nước mắt sám hối nhớ thương mời gọi mà không trở về thì đấy không còn là tình yêu nữa.
Nước mắt rơi trong im lặng nhưng tiếng nói của nước mắt lại sâu như lòng biển, lại dài như chiều cao của trời.
Nhìn khóe mắt Phêrô, nước mắt đã chảy, và Chúa Yêsu chẳng còn cách nào khác là yêu thương bằng một tình yêu rộng lớn hơn.
Nhìn khóe mắt Mai Ðệ Liên, nỗi u buồn đọng đó, và Chúa Yêsu chẳng còn cách nào khác là để nỗi buồn đó thấm vào tim mình bằng những dòng máu tha thứ và yêu thương vô bờ.
Tội và đau khổ là định mệnh trong cuộc đời. Tôi phải khiêm tốn nhìn nhận mình chẳng thể tránh khỏi. Nhưng tội và đau khổ không có toàn năng lực chế ngự vĩnh cửu cuộc sống, chúng bị phá đổ bởi nước mắt.
Lạy Cha, xin cho con biết khóc mỗi khi tội trần con phạm.
Xin cho con được rửa tội hồn con bằng nước mắt ăn năn.
Và lạy Cha,
Ðừng bao giờ để con tuyệt vọng vì mất niềm tin là mất cả cuộc đời.
- Con ạ! Anh em chúng con chỉ có mấy đứa. Đất khách quê người, con để ít giờ cuối tuần mà thăm nhau. Con đừng đi làm ngày Chúa Nhật nữa.
Lời khuyên không làm đứa con gái xuôi lòng.
Sống xa cộng đoàn người Việt, mãi vùng xứ lạnh Bắc Âu. Tâm tư bà thường nhớ về quê cũ. Mảnh vườn xưa. Dăm ba tầu chuối trưa hè. Nhưng con bà đã gần như người Âu. Đối với bà, tiếng chuông nhà thờ còn là nỗi nhớ người, nhớ cảnh. Nhưng những đứa con lớn lên ở đây, chúng không có kỷ niệm những tối trăng cao vằng vặc, tiếng ếch kêu trong đêm mưa. Bởi đó, những lời khuyên như trên của bà chỉ là ước mơ hững hờ.
Ngày bà chết. Người con gái để tấm hình bà trên tủ thờ tổ tiên. Người con gái năm xưa ấy bây giờ đã có một lũ con. Chúng lớn mau không ngờ. Nếu bà còn sống, nay chúng là lũ cháu của bà. Giống như bài luận văn ngày cũ: Cứ tối tối ngoại quây quần kể chuyện cổ tích cho các cháu nghe. Người con gái năm xưa ấy kể:
- Mỗi lần nhìn tấm hình của mẹ. Lòng tôi se sắt một tiếng thương và một nỗi nhớ.
Trở về câu chuyện năm xưa. Đã bao năm về trước, ngày còn sống, ngày bà đã một lần nói với đứa con gái lớn: “Con ạ! Anh em chúng con chỉ có mấy đứa. Đất khách quê người, con để ít giờ cuối tuần mà thăm nhau. Con đừng đi làm ngày Chúa Nhật nữa”.
Lời khuyên có vẻ dễ dàng, nhưng đời có những chuyện chưa kịp nghĩ tới. Lời bà khuyên con gái, không ngờ một ngày kia trở về với chính bà.
Câu chuyện bắt đầu từ cửa tiệm bán quần áo. Bà chung với một người đồng hương. Sau những ngày làm ăn, nghi ngờ nhau. Bà đánh dấu mực vào cổ áo. Hôm sau người partner đến bán đi, không muốn chia lời, người này lấy áo mới thay vào. Gỉa bộ cứ như là đến phiên mình bán, không bán được bao nhiêu.
Hai bên đưa nhau ra toà, hết tình hết nghĩa, cửa tiệm bán quần áo không còn.
Bà kiếm một việc mới: Bán chợ phiên ngày Chúa Nhật. Thế là lời khuyên con gái năm xưa trở thành lời khuyên chính mình. Chỉ cần một buổi chợ phiên Chúa Nhật, bà kiếm mấy trăm đô la. Câu chuyện “bình an” cho đến một ngày. Người con gái năm xưa, có chuyện giữa mẹ con, nói với bà:
- Ngày xưa mẹ bảo con đừng đi làm ngày Chúa Nhật, bây giờ thì
Người con gái không nói hết câu. Nhưng ý phải hiểu: “Bây giờ thấy tiền thì mẹ cũng làm ngày Chúa Nhật như con thôi”.
Đi làm ngày Chúa Nhật có tội hay không?
Đôi lúc bà cũng phân vân. Nhưng nỗi trăn trở nhất trong tâm hồn bà là tấm ảnh người mẹ sau khi chết. Bà biết nếu ngày nào bà chết trước người con gái. Con bà sẽ để hình bà trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh chồng bà.
Mỗi lần đến thăm nhà đứa con gái, bà âm thầm nhìn lên tấm ảnh đen trắng, chồng bà. Tấm ảnh đứa con đã để trên bàn thờ tổ tiên. Ảnh bố nó. Bà lại như thở nhẹ một nghĩ ngợi, chắc nó cũng để hình bà ở góc kia, trên điện thờ ngày bà chết. Bà kín đáo nhìn tấm ảnh vô hình của bà. Bà hình dung ánh mắt bà trong tấm ảnh đang nhìn xuống.
Vào một đêm không ngờ. Đêm đen của đất trời, nhưng sáng trong linh hồn. Trong đêm đó, thinh lặng, các con yên ngủ, trước tượng Chúa. Người mẹ đau khổ lâm râm cầu nguyện:
- Lạy Chúa,
Xin giúp con, con đã một lần khuyên con gái đừng đi làm ngày Chúa Nhật, dành thời gian cho anh em, cho chồng, cho các con. Nhưng nay thì con lại đi làm. Ngày con chết đi, mỗi khi nhìn ảnh con trên điện thờ, chắc con của con sẽ đau khổ vì có người mẹ như thế, chỉ biết khuyên con mà không dám sống lời mình khuyên. Nhìn ảnh con chắc nó cũng thương một người mẹ. Nhưng chắc nó cũng đau vì có người mẹ như thế. Con muốn ngày nào con chết đi, nhìn ảnh con trên bàn thờ vào những ngày giỗ kỵ, nó dám nói với các con của nó là: Các con nhìn cuộc đời ngoại của các con, ngày còn sống, ngoại chúng con dám sống cuộc đời can đảm như thế.
Lạy Chúa, cuộc đời con còn được bao lâu. Con muốn để lại tấm ảnh thờ không phải chỉ cho đứa con gái mà còn cho các cháu cảu con nữa.
Đêm đó tĩnh mịch. Căn phòng ngủ im như thờ. Se sẽ tiếng thở của lòng người mẹ thương con, thương cháu. Bà im lặng khấn vái trước tượng Chúa, cầu nguyện cho tương lai con cháu. Một đêm rất đỗi không ngờ. Im lặng trong lòng bà thôi, mà lời kinh thấu đến trời cao.
Rồi một ngày, bà bỏ chợ phiên. Bà bỏ những sáng Chúa Nhật đi buôn.
Người con gái bà sau này kể tiếp.
- Một hôn tôi hỏi mẹ. Tại sao mẹ không đi làm ngày Chúa Nhật nữa? Mỗi buổi chợ phiên mẹ kiếm mấy trăm đô la cơ mà! Mẹ tôi không trả lời. Tôi liếc là bà bỏ mất mấy trăm đô la.
Hôm nay mẹ tôi không còn. Chỉ còn tấm hình bà trên bà thờ tổ tiên.
Một tối thinh lặng. Các con tôi đã ngủ. Một mình ngồi nhìn ảnh mẹ. Bây giờ làm mẹ mới hiểu những đoạn đời mà một người mẹ đi qua. Người ta bảo có qua cầu mới hay. Nhìn các con tôi ngủ, chúng đang lớn dần. Lo cho con, bấy giờ mới thấm thía những ngày mẹ tôi lo cho tôi. Ảnh mẹ trên bàn thờ tổ tiên. Hương khói không có. Trong căn nhà tôi ra vào hàng ngày. Ảnh mẹ tôi âm thầm treo đó. Im lặng. Nhưng đêm nay. Nhớ về kỷ niệm năm xưa. Tôi nhìn mẹ lại hỏi: “Tại sao mẹ không đi làm ngày Chúa Nhật nữa? Mỗi buổi chợ phiên mẹ kiếm mấy trăm đô la cơ mà!”
Và hôm nay, lạ thật, trong ánh mắt chịu đựng của mẹ. Mẹ tôi trong tấm ảnh kia âm thầm trả lời.
- Mẹ biết có ngày con đặt ảnh mẹ trên bàn thờ cạnh hình ba con. Con sẽ đau khổ khi đến ngày giỗ mẹ. Con nhìn ảnh thấy mẹ rồi nói: “Ngày xưa bà này bảo tôi đừng đi làm ngày Chúa Nhật, thấy tiền thì bà cũng như tôi”. Con thương mẹ, nhưng nghĩ đến lời khuyên và lối sống của mẹ như thế. Con sẽ khổ đau, không vui.
Bỗng quá lạ. Tôi thấy tấm ảnh mẹ tôi như sáng lên. Âm thầm mà mạnh mẽ vô cùng. Các con tôi vẫn ngủ. Chúng không biết hôm nay ngày giỗ ngoại chúng. Tôi một mình ngồi trước ảnh mẹ. Ảnh mẹ lại như nói với tôi:
- Mẹ biết có ngày con đặt ảnh mẹ trên bàn thờ cạnh hình ba con. Đến ngày giỗ kỵ. Nếu con có thắp nén hương cho mẹ, con sẽ vui vì mẹ đã dám sống những gì mẹ khuyên con. Biết đâu con cái của con khó dạy, con có thể nói với chúng rằng: Nhìn ảnh ngoại chúng con đây. Ngày còn sống, ngoại đã dám sống một đời can đảm như thế.
Tôi chợt ứa nước mắt. Hình ảnh xưa hiện về. Mẹ tôi đã can đảm bỏ làm ngày Chúa Nhật chỉ vì lời khuyên cho tôi. Nghĩ tới đó, tôi gục khóc hơn nữa. Mẹ tôi không chỉ muốn giáo dục tôi mà cả với các con của tôi.
Các con tôi vẫn ngủ. Chúng không biết tối nay, ngày giỗ ngoại chúng. Mẹ tôi đã có tấm ảnh để lại cho tôi. Mẹ tôi đã đi con đường của riêng mẹ. Còn tôi, khi chết, tôi có bức hình nào để lại cho các con tôi không.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj. (ĐƯỜNG ĐI MỘT MÌNH)
Không ai đi theo tôi ngày tôi chết. Họ đến huyệt chôn tôi rồi về. Đời của mỗi người là một con đường. Đã có những đêm hát nhạc Trịnh Công Sơn. Đêm cho một người hát rong trong cõi đời. Bây giờ thì Trịnh Công Sơn đi rồi, ông bảo ông có cõi riêng để đi về. Ông đã về. Ông bảo đời như cánh vạc bay. Cánh vạc bay ngang buổi chiều, có thể lẻ bóng, lặng lẽ, nó nhẹ nhàng vào đêm. Người nào nhìn bóng nó bay, chỉ thấy nó như nói với chính mình rằng. Cõi riêng một lối đi về.
Tôi cũng có một lối riêng để đi. Hay quá nhỉ, bạn thử nghĩ. Vợ chồng thương yêu như cánh vạc bay chung. Mà họ cũng không chết thay được cho nhau. Rồi, mỗi ai, cũng có riêng một cõi đi thôi.
Nhạc Trịnh Công Sơn hát rong trong cõi đời là:
- Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.
Chọn lấy niềm vui mà sống. Đấy, chọn một lối riêng để đi. Là linh mục, tôi nghe có những tâm hồn than thở là đời không có niềm vui. Họ không có niềm vui không phải vì không có, nhưng họ không muốn chọn niềm vui. Hoặc chưa thấy đấy thôi.
- Thưa Cha, con sẽ không tha thứ cho họ, nếu họ không xin lỗi con.
Đấy, họ chọn cho mình một lối đi. Cánh vạc họ bay trong đời không như tiếng đàn êm nhẹ trong chiều thong thả. Đời họ dằn lên tiếng đập cánh oằn oại đau thương. Nếu cuối chiều hoàng hôn, trước cõi bóng ngả về thế giới bên kia mà cứ oằn lên đau đớn như thế thì đời thương tâm quá nhỉ.
Không tha thứ thì trời vẫn xanh, gió vẫn cao, mây cứ bay, và cánh hạc họ ẫn trôi về cuối trời của riêng họ. Vì, đời mỗi người là một chuyến đi riêng cơ mà. Không tha thứ thì ở ngoài kia hoa vẫn nở, ong vẫn làm mật, và đời vẫn ngọt. Nó chỉ đắng trong hồn mình thôi. Hay quá nhỉ, bạn thử nghĩ, mỗi ngày tôi có thể chọn một lối đến, chọn một đường đi.
Chuyện Phúc Âm kể có năm cô trinh nữ khôn ngoan đem dầu theo với đèn. Năm cô khờ dại đem đèn mà không đem theo dầu. Nửa đêm chàng rể đến. Các cô khờ dại không có dầu thắp đèn, mượn dầu, nhưng năm cô kia không cho. Thế là một đêm tối, rất tối đã đến trong cuộc đời. Đúng rồi, không ai cho nhau vay mượn nhân đức được. Tôi không thể mượn nhân đức yêu thương của người khác làm áo mặc cho lòng ganh ghét của mình. Tôi không thể đến trước mặt Thượng Đế bằng trái tim cao thượng của người khác. Trong cõi đi về, tôi không bay bằng cánh vạc của người khác được, nhưng, chỉ là của riêng tôi.
Mỗi ngày, tôi chọn niềm vui cho riêng tôi. Tôi không chọn dùm ai được và cũng chẳng ai chọn dùm cho tôi. Ngọn đèn của tôi trong lương tâm chỉ có dầu nhân đức của riêng tôi mới thắp sáng được mà thôi. Đấy cũng là sự công bằng của Thượng Đế, nếu không vậy, kẻ giàu sang sẽ mua hết nhân đức, kẻ có quyền sẽ chiếm hết hạnh phúc trên cõi đời.
Ông ta đã chọn cho riêng ông một đường đi. Tôi gặp ông một mùa đông chưa tan hết giá lạnh. Ông hỏi:
- Trước khi dâng thánh lễ chiều nay con có thể nói đôi lời với gia đình con được không?
Tôi chưa trả lời. Như sợ tôi từ chối. Ông nói thêm:
- Trước mỗi thánh lễ, người ta đọc: “Tôi cáo mình cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Con cáo mình cùng Thiên Chúa nhiều lần rồi. Nhưng chưa bao giờ cáo mình với gia đình. Nếu được cáo mình với gia đình thì thánh lễ con dâng chiều nay sẽ trọn vẹn hơn.
Tôi chưa gặp ai có ý lạ như thế.
Người ta chỉ cáo mình cùng Thiên Chúa chứ mấy khi cáo mình cùng anh chị em. Câu chuyện xảy ra vào năm 2002. Sau ba ngày linh thao, chúng tôi kết thúc bằng thánh lễ Chúa Nhật trước khi chia tay. Trời mùa đông còn lạnh. Sương mù trắng xoá. Cây khô cành còn đang chịu đựng màu xám của trời. Trong căn nhà nguyện nhỏ, ông đã chọn một đường đi. Trước thánh lễ tôi nói với mọi người:
- Anh chị em thân mến, chúng ta chỉ cáo mình cùng Thiên Chúa, chứ có khi nào cáo mình cùng anh chị em như lời kinh vẫn đọc? Lúc này, trước thánh lễ có người hỏi tôi họ có thể nói đôi ba lời với gia đình được không, để thánh lễ bế mạc chiều nay của họ trọn vẹn như lời kinh.
Lời nói đầu lễ này như một thông báo. Gần ba mươi người đang ngồi chung quanh bàn thờ. Ai? Ai là người sẽ nói với ai? Nói gì? Im lặng chờ đợi. Không ngờ có người đứng dậy. Vợ ông không ngờ, chẳng có ai ngờ. Đối với ông, giây phút ấy không phải là không ngờ. Nhưng không phải vì tế mà nhẹ nhàng, dễ dàng. Rời chỗ ngồi, ông đến đứng trước gia đình. Cái gì sắp xảy ra? Người ta sợ những cái không ngờ. Trước mặt vợ, ông đứng đó không nói nên lời. Im lặng. Người chịu đựng sức nặng của giây phút này có lẽ lại là vợ ông.
“Tôi cáo mình cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Nó như quả chuông rất nặng. Tiếng chuông chưa đổ thành lời. Người ta đổ mồ hôi. Trong lòng mọi người, lời kinh cáo mình hôm nay không như lời kinh của người mê ngủ lật dờ trong mọi sáng Chúa Nhật. Lời kinh như lưỡi gươm sẽ làm chảy máu người đâm hay bị đâm?
Thời gian chờ đợi nào mà không nặng nề. Nhưng cái nặng ở đây nó mới khó khăn. Nó phải có để chuẩn bị cho người ta đón nhận sức đẩy của quả chuông kia. Người không có thời gian chuẩn bị sức đẩy chính là vợ ông. Có thể vợ ông cũng đến thánh lễ Chúa Nhật hôm nay như mọi ngày khác trong đời. Không ngờ hôm nay bà ở đấu trường.
Khi ông đến trước mặt gia đình, đứng đó. “Tôi cáo mình cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Thời gian chờ đợi này là lúc ông lấy hết sức đẩy quả chuông kia. Nó quá nặng. Chờ đợi tiếng chuông cũng nặng nề khủng khiếp. Ông có thời gian lấy sức, ông đã chuẩn bị, nhưng bà, như người bất chợt ra đấu trường không có gì chắn đỡ. Nên khi ông cúi xuống ôm người bạn đời:
- Anh xin lỗi em.
Thì vợ ông oà khóc.
Trong đời sống dường như người ta cũng nặng nề chờ đợi những câu nói như thế, lâu lắm rồi.
Ở những nỗi xúc động người ta một là câm nín kìm hãm, hai là oà vỡ. Tâm hồn không dửng dưng được.
Như ta thấy quả chuông đồng. Tự nó không đổ thành tiếng. Càng nặng càng khó đổ. Nó phải có một sức lay khủng khiếp. Nhưng khi nó đổ thành tiếng, người ta phải thức giấc.
Không ai còn để ý cái lạnh của trời. Người ta đi tìm hứng cái ấm của lòng. Nước mắt vợ chồng họ dường như rơi nhiều hơn. Tiếng sè sè của cái lò sưởi cũ, chả còn ai để ý.
Vợ ông vẫn khóc, ông vòng qua trước người con gái lớn. Khi tiếng chuông đã vang lên được rồi thì những quả chuông khác dễ đổ theo hơn.
- Bản chất con là thành thật, vì công việc làm ăn, ba bắt con gian dối. Ba biết con không vui. Ba xin lỗi con.
Ông cúi xuống ôm đứa con trong vòng tay. Bàn tay mềm mại của người con gái xoa trên vai ông. Họ lại khóc. Tiếng sè sè của chiếc máy sưởi cũ làm nhoè bớt nỗi xúc động của ai đó cũng không cầm được nước mắt của lòng mình.
Ở ngoài kia lá đập vào vuông kính cửa sổ. Mưa buông cánh lạnh theo hơi nước mùa đông. Trong cõi đời lạ thật. Có những chặng đường rất vất vả mà người ta vẫn bình an. Có những chặng đường chẳng vất vả, rất giầu sang, nhan sắc như Salômôn mà chẳng an bình, lương tâm cứ nổi sóng.
Ông có một cơ sở làm ăn, nó là một motel. Không thông thạo ngoại ngữ như con cái lớn lên ở xứ người được. Ông là “master mind” đứng đàng sau, bày cho con cách làm ăn bằng những đường vòng quanh co giấy tờ về tiền bạc. Mỗi lần như thế, đứa con không vui. Biết không là đường thẳng lương tâm. Biết con không vui mà mình vẫn làm. Đứa con không vui nhưng đây là bố của tôi. Trong đời có những cơn gió bay cát bụi ngược chiều, rối rắm. Trong thánh lễ chiều nay. Ông chọn một đường đi. Ông cáo mình với gia đình. Ông muốn đổ rác trong gia đình.
Không ai đi dùm đường mình được. Đường chỉ đi một mình. Nhưng con đường này rất lạ. Khi mình đi trong niềm vui thì chung quanh đều có tiếng ca. Người chung quanh nghe được tiếng ca, dù tiếng ca không là của họ. Và trong tiếng ca họ nghe được, họ có sức mạnh để lên đường, con đường của riêng họ. Và họ cũng sẽ có những tiếng ca.
Một người thanh niên chào tôi ra về:
- Hình ảnh của anh ấy cũng là hình ảnh người chồng, người cha mà con muốn mang theo cho chính mình mai sau.
Mấy năm sau, tôi lại trở lại vùng đất này. Mùa đông lạnh hơn. Trời mù sương hơn. Vợ chồng anh chị đã lấy motel của họ làm nơi tĩnh tâm cho người Việt ở rải rác trong vùng. Nhiều nước mắt rơi hơn. Có những tiếng chuông khác đổ thành lời.
Dòng ca của người hát rong Trịnh Công Sơn để lại trong đời, sau khi ông tìm cõi riêng để đi về, tôi vẫn nghe thoang thoảng là: Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.
Trên đường tôi đi, tôi cũng vẫn bắt gặp nhiều người, họ cũng chọn một con đường riêng cho họ đi.
Trong tiếng ca hạnh phúc, dù là tiếng ca một mình, nó lan vào vũ trụ. Tiếng ca chỉ riêng mình đi mà nó làm cho nhiều bước chân lên đường. Ông đã chọn một đường đi. Lạ quá, chỉ một cánh bướm mà sao cả khóm hoa xôn xao. Chỉ một lời xin lỗi mà có khi nôn nao cả một đời người. Mỗi ngày tôi cũng có thể chọn một niềm vui. Một con đường.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj. (ĐƯỜNG ĐI MỘT MÌNH)
Đã hai mươi lăm năm, thế mà lúc cha già kể lại giây phút rửa tội, ngài như đang sống chính giây phút ấy. Mặt ngài trầm ngâm, nhăn lại:
- Tôi thú thật với cha, chưa bao giờ trong đời tôi sợ như lúc đó. Tôi toát mồ hôi. Giây phút vô cùng quan trọng, quyết định số phận của tôi và danh tiếng Giáo Hội. Sau năm tháng, tôi quyết định rửa tội cho nó. Cha thử nghĩ coi, nếu rửa tội xong mà quỷ không ra thì tính sao? Lúc ấy nhà nước đang để ý tôi. Họ đâu có tin chuyện tôn giáo, đâu tin thần thánh gì. Còn tôi thì lo mất mặt. Nếu là quỷ nhập thì phải trừ được. Nếu không trừ được thì còn đâu là Chúa, Mẹ nữa. Tôi lo chứ.
Tôi hỏi các nhân chứng về ngày rửa tội ai cũng nói thế. Họ bảo chưa bao giờ thấy cha xứ toát mồ hôi như vậy:
- Thưa cha, cả chúng con nữa. Nhà thờ đầy người, ai cũng sợ. Chúng con chỉ sợ rửa tội không xong. Trước giây phút rửa tội, cả nhà thờ phải đọc kinh xám hối, chúng con quỳ hôn đất xin Chúa thương. Chúng con lúc đó mới mười mấy, hai mươi tuổi, còn trong ca đoàn mà. Chúng con đứng đàng sau nó. Lúc cha sắp làm phép rửa tội, nó lùi lại phía sau, muốn chạy. Chúng con giữ lại, đẩy nó lên phía trước.
Trong giây phút rửa tội, chị Kim Chi quả quyết nghe thấy, vì khi cô Hồng quỳ xuống, mọi người đứng, thì chị Chi quỳ ngay bên cạnh sát cô Hồng. Lúc ấy có giọng nói từ phía cô Hồng:
- Ta trả lại thân xác mày. Ta đi đây.
Trong buổi phỏng vấn, khuôn mặt cha già lúc nào trầm ngâm. Ngài nói với tôi:
- Cha biết gì xảy ra không? Sau lễ rửa tội đó nó khỏi hẳn cho đến bây giờ, đã hơn hai mươi năm. Nếu là bệnh thần kinh thì tại sao sau rửa tội lại hết? Cha thấy ghê không.
Tôi im lặng. Cha già cũng thế. Hai chúng tôi cố hình dung một sự kiện không giải thích được. Tôi quan sát chung quanh tường nhà xứ. Lúc này tôi không phỏng vấn cha trong nhà thờ nữa, đang trong phòng khách nhà xứ rồi. Căn nhà xây dở dang vì chiến cuộc. Góc tường, cha treo một tấm bản đồ rất lạ. Đó là bản đồ giáo dân trong họ đạo. Bản đồ vẽ từng nhà, nhà nào nằm gõ đường nào, rõ chi tiết. Tôi hỏi ngài:
- Tại sao trước đó cha nhân danh Chúa trừ nó nhiều lần. Nó ra rồi lại nhập vào. Tại sao sau khi rửa tội xong nó không nhập vào nữa?
Vẫn dáng điệu trầm ngâm, bên tách trà, ngài nói nhỏ:
- Tôi nghĩ thế này, lúc trước tôi truyền cho nó ra. Nó ra nhưng rồi lại nhập, vì lúc ấy chưa có Chúa nơi cô ta. Rửa tội là đóng ấn bí tích thì khác chứ. Sau khi rửa tội xong, nó là con Chúa rồi. Có Chúa trong linh hồn cô ta rồi. Khác chứ. Làm sao nó dám nhập vào nữa.
Lời giải thích của cha già như ánh sáng lóe lên trong tâm trí tôi. Phải đúng như thế. Đấy là mầu nhiệm của các bí tích.
Phải chăng Chúa cho tôi nghe lời giải thích này để xác tín quyền năng các bí tích Chúa thiết lập. Những bí tích vô cùng cao quý mang ơn cứu rỗi linh hồn. Phải chăng đây là một ơn cho tôi. Vì là linh mục, tôi cử hàng các bí tích quá thường. Nếu linh mục không còn tinh thần khi cử hành bí tích, dâng lễ chóng qua, giải tội chóng qua, không chuẩn bị cử hành các bí tích thì đời sống linh mục quá buồn. Tất cả cuộc sống thành cử hành những nghi thức vô vị, thì cuộc đời cũng vô vị. Lời cha già giải thích đơn sơ nhưng tôi thích lời giải thích ấy. Sau lời giải thích đơn sơ ấy, tôi thấy mình quý các bí tích hơn. Tôi sẽ trân trọng hết tâm hồn khi cử hành các bì tích Chúa ban.
Nắng chiều đang xuống. Tôi sắp ra về. Tôi không biết có ngày nào trở lại nơi này nữa hay đây là lần cuối. Cuộc đời rất nhiều khi là vĩnh biệt. Tôi chụp chung tấm hình với cha. Không ngờ nơi đây hơn hai mươi năm trước đã xôn xao một thời quỷ dữ về nhà thờ. Không ngờ hai mươi năm sau tôi đến đây nhìn lại dấu chứng. Cuộc sống thật đẹp vì luôn luôn có những bất ngờ. Nhìn tuổi tác cha, tôi lại nghĩ, cuộc đời đẹp nhưng quá ngắn!
Tuổi già rồi từ giã cõi đời. Ai cũng thế. Nghĩ tới đó, hình ảnh nấm mộ ngoài nghĩa trang lại hiện về. Mộ hoang nghĩa địa và chỗ quỷ hay lui tới. Mồ mả tô vôi đẹp bên ngoài và xương người chết bên trong. Những hình ảnh ấy hiện lên như một phản xạ tự nhiên. Tôi thấy bâng khuâng một thoang buồn. Tôi cũng nghĩ ngay đến các bí tích. Bí tích ban cho người sống, bí tích ban cho người chết.
Lạy Chúa, con cần những bí tích này cho cuộc sống của con trên đường về với Chúa. Và như một linh mục, xin cho con cử hành các bí tích với hết cả tâm hồn.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj. (NHỮNG TRANG NHẬT KÝ CỦA MỘT LINH MỤC - 40)
Sau khi ăn trái táo, Evà thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân (Stk. 3:1-7). T rong hình ảnh này, tội liên hệ tới áo che thân.
Những chiếc áo
Nhiều người tạo giá trị đời mình bằng cách sắm sửa quần áo đắt tiền. Nhiều kẻ đánh giá sai một người cũng chỉ vì áo quần người đó che thân.
Nhiều lần Chúa khó chịu vì các thầy tư tế thích trang phục cho mình những áo tua rộng, ngồi chỗ nhất trong hội đường. Có "áo tua rộng", khuynh hướng tự nhiên là thích "ngồi chỗ nhất trong hội đường" để được chú ý. Bằng ấy năm theo Chúa, chẳng thấy Chúa may cho các môn đệ lấy bộ áo đồng phục. Chúa cứ bảo dấu hiệu người ta nhận ra các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau. Bây giờ thì khác, giáo phái nào cũng có đồng phục. Ðoàn thể nào cũng thích có áo đồng phục. Không có đồng phục, sợ rằng người ta không nhận ra mình là ai.
Bác ái vô hình quá, chứng nhân bằng bác ái khó hơn làm nhân chứng bằng manh áo. Ðối với manh áo, cứ có tiền là sắm được. Cứ mặc lên là xong, người ta nhìn thấy ngay. Có khi càng có đồng phục đẹp, càng nghĩ mình là chứng nhân trung thực. Có khi càng nghèo nhân đức càng cần tấm áo thật đẹp. Chứng nhân bằng bác ái khó lắm.
Cả đời Ðức Kitô, có một lần Phúc Âm nhắc đến áo, lại là lần mất áo. "Chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau" (Mt.27:35).
Chúa lấy nghèo khó, làm nhân chứng lòng thương xót.
Lấy can đảm, cắt nghĩa sự quý trọng chân lý.
Lấy đau khổ, diễn giải lòng trung thành.
Chúa không lấy tấm áo làm biểu hiệu chứng nhân. Biết đâu những tấm áo tôi mặc hôm nay chẳng làm tôi thành nhân chứng mà chỉ là tấm áo ẩn náu, che đi những yếu đuối vì tôi không có khả năng làm chứng nhân.
Có tội, Ađam - Evà mới tìm áo che thân. Như vậy, áo che thân cũng là áo che tội. Theo câu chuyện thiếu áo che thân của nguyên tổ trong địa đàng thủa xưa, áo và tội liên quan với nhau. Biết đâu, hôm nay cũng có những tấm áo chỉ để làm nổi bật sự quan trọng mà thực sự họ chẳng có. Hoặc để che đi những gì họ có mà chẳng tốt lành.
Người nghèo thường phải mặc áo rách. Kẻ nghèo hơn nữa thì không có áo. Hình ảnh những nô lệ, không thấy họ mặc áo. Nghèo là sự trần trụi của con người. Ai cũng cần tấm áo để che đi cái trần trụi ấy. Cái áo làm đẹp con người. Thiếu áo, khổ thật. Nó là dấu chỉ của thấp hèn, của túng thiếu. Chả ai muốn nghèo.
Ở quê hương tôi có nhiều người thiếu áo. Có những bà mẹ lam lũ mà không sắm được cho con tấm áo vào ngày đầu năm. Dì tôi ngồi ở hiên nhà nhặt những hạt đậu sâu. Bàn tay đen sậm, cáu ghét vì đồng áng lam lũ. Nắng hầm hập trên mái tôn thấp. Những sợi tóc muối tiêu vương vãi trên lưng áo im lặng. Tôi nhìn chiếc áo, áo của dì rách quá. Cái áo ấy không bằng chiếc giẻ lau ở đây. Cũng là con người, nhưng hai miền đất, hai hạnh phúc khác nhau. Tôi ở một nơi rất xa nơi dì tôi ở. Sự giàu có ở đây làm tôi khó nhớ tới những manh áo rách nơi đó.
Nếu Evà vì tội phải cần tấm áo che thân, thì mỗi manh áo tôi che trên mình đều có ý nghĩa. Manh áo ấy có nhắc tôi về tội tôi đang giấu giếm? Những tương quan của manh áo này với manh áo nọ trong cuộc đời chắc hẳn cũng có những ý nghĩa. Ðâu là ý nghĩa chiếc áo của những người nghèo như dì tôi đang mặc? Nó liên hệ thế nào với chiếc áo của tôi nơi phương trời này trong thân thể Chúa Kitô, nơi mọi người đều là anh em?
Chiếc áo đẹp nhất
Câu chuyện người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca kể rằng: Anh ta còn ở đàng xa, người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh, hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa..." Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ: "Mau mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu..." (Lc. 15:20-22).
Bỏ nhà, anh ta phải đem những áo tốt nhất đi theo. Vậy sao lại còn cái "áo đẹp nhất"? Dựa theo mạch văn của bài tường thuật, ta có thể biết được nguồn gốc của cái áo ấy.
Người cha sai đầy tớ về bắt con bê đã "vỗ béo" ăn mừng. Theo bản văn, không phải bắt con "bê béo" mà con bê đã "vỗ béo". Bê đã "vỗ béo" khác con "bê béo". Vỗ béo là con bê đã được săn sóc cách riêng cho béo. Nó là con bê được nuôi nấng từ lâu cho một mục đích chờ sẵn.
Bắt con bê béo làm tiệc cũng là quý rồi, nhưng việc ấy chỉ nói lên phần đãi ngộ khi người con trở về. Còn con bê "vỗ béo" là đãi ngộ ngay khi người con chưa trở về. Có nghĩa là khi còn trong tội lỗi, người cha đã cưu mang một lòng bao dung thương nhớ con mình. Chưa trở về đã đãi ngộ bằng sửa soạn một con bê. Hai điều đó khác nhau, diễn tả hai ý nghĩa rất khác biệt.
Nếu người cha nuôi con bê cách riêng cho béo, hy vọng là có ngày người con về, thì chiếc áo kia hẳn phải là áo ông may sẵn.
Ra đi, nó không để lại những đôi giầy quý, bỏ lại những cái áo hảo hạng. Lúc ông bảo đầy tớ về lấy áo, người đầy tớ không thắc mắc chiếc áo nào, áo của ai, không thắc mắc áo của người anh hay áo của chính ông chủ, người đầy tớ hiểu đích xác chiếc áo nào. Qua cách truyền lệnh ấy, dường như giữa người đầy tớ và ông cha già đã có những lần nói chuyện về cái áo và mục đích của nó để làm gì. Bởi thế, khi nói lấy chiếc áo đẹp nhất, người đầy tớ không cần hỏi han chi, họ biết ngay áo nào rồi.
Sau khi bảo đầy tớ về bắt bê đã vỗ béo ăn mừng, Phúc Âm Luca kết luận: "Vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy" (Lc. 15:24). Lời kết luận trên đây nói về một cuộc sống mới, về bình minh của phục sinh. Sự phục sinh là chiếc áo mới. Không phải đợi con về mới có chiếc áo mới. Chiếc áo ấy đã may sẵn. Như thế, trong lúc tôi phạm tội, khi tôi trong bóng tối sự chết, Chúa đã gieo mầm phục sinh cho tôi.
Lạy Chúa, nói chiếc "áo đẹp nhất", con muốn hiểu không phải đẹp trong ý nghĩa tơ lụa, mà là ngày tháng nối những ngày tháng, người cha cứ nghĩ đến đứa con. Ông nhớ nó trong những đường may nối những đường may. Con muốn hiểu tình thương của Chúa trong chiều sâu đó.
Ngày xưa, trưa hè vắng, mẹ ngồi vá áo cho con. Ngón tay mẹ đưa những mũi chỉ. Tuổi thơ chỉ thích nô đùa làm rách áo. Nhìn lại tháng ngày thơ bé ấy, bây giờ con biết mỗi mũi chỉ là mỗi tình thương. Với cái chết khổ nạn, Chúa may áo mới cho con. Biết công ơn của mẹ thì nay đã xa, con muốn cầu nguyện báo hiếu cho những ngày tuổi thơ ấy.
Lạy Chúa, con muốn gìn giữ chiếc áo cứu rỗi Chúa ban cho con. Tiếc làm sao nếu rách chiếc áo linh hồn.
Trong cuộc sống giữa đời thường, xin cho con thông cảm giá lạnh của những người thiếu áo.
Con cũng xin ơn đừng vì tấm áo mà làm hoen ố Giáo Hội, áo tu sĩ, áo trí thức, áo quan tòa, áo đoàn thể, áo chủ tịch. Những tấm áo chức vị ấy, những chiếc áo đồng phục kia có cần thiết để biến con thành nhân chứng? Hay nhiều khi chỉ làm hoen ố những chứng nhân.
Ai muốn làm thiện nguyện chỉ việc gặp sơ phụ trách, sơ viết mấy chữ chứng nhận vào miếng giấy. Không có văn phòng, không thủ tục rườm rà gì cả. Rồi, đi làm. Đã hỏi đường, nhưng tôi cũng hồi hộp, xe buýt trong thành phố lèn đầy người. Chạy nửa tiếng mới tới chỗ tôi xuống, phải chú ý lắm theo dõi nơi ngã ba nào có cái chợ như thế, cây xăng như vậy mà định chỗ xuống xe. Đây là ngày thứ nhất tôi đi làm. Mọi người đều phải tự do lấy phương tiện di chuyển.
Từ cuối xe, tôi thấy một cô người Nhật đứng phía trên, cầm chiếc túi ni lon thấy rõ bên trong mấy hộp thuốc. Trong xe không có người ngoại quốc nào. Tôi đoán chừng phải là một trong các cô thiện nguyện của nhà Mẹ Têrêsa. Qủa thế, lúc cô xuống xe cũng là nơi tôi thấy ngã ba, có khu chợ như đã được dặn trước. Vội theo chân cô để khỏi phải tìm nhà. Cô rất vui kho biết tôi cũng là thiện nguyện viên đi làm. Cô không nói được tiếng Anh nhiều, chỉ lõm bõm, thế mà dám đi.
Trong những ngày tháng gần đây, tôi hay suy niệm về sự chết. Có khi bất chợt trong lúc đi đường, có khi trong giờ cầu nguyện, có khi kéo dài trong những dịp tĩnh tâm. Tư tưởng sống chết, ý niệm đời sau của thế giới bên kia cứ như chờn vờn. Tôi không bỏ qua được. Nó như một hố sâu nhìn thấy đáy. Tìm đâu câu trả lời? Không ai có kinh nghiệm sự chết. Không ai chết rồi hiện về nói cho biết sự chết. Người nào chết rồi cũng mất tích trong thế giới siêu hình. Giáo Hội dạy về sự chết nhưng không có kinh nghiệm sự chết. Tất cả là niềm tin vô hình thôi. Tôi xin Chúa cho tôi cảm nghiệm chứ không phải cứ dục lòng tin những điều không thể chứng minh. Tôi tìm đến nơi đây cũng là vậy.
Trong thành phố Calcutta có nhiều nhà của các sơ. Nhà cho người già bệnh, nhà cho các em bị tâm thần, nghễng ngãng, nhà cho trẻ mồ côi. Tôi chọn nơi “khủng khiếp” nhất. Nhà cho những người chờ chết. Tôi đã nghe nói về căn nhà này, ai không thân nhân sắp chết ngoài đường, các sơ đem về săn sóc cho chết bình an, chết xứng đáng phẩm giá con người. Tôi cứ tưởng tượng nơi ấy đầy bi thương thống khổ. Máu me, dơ dáy.
Qua chiếc cổng có bảng đề không chấp nhận khách tham quan, chụp hình, tôi vào trong nhà. Hai dẫy giường dài trước mặt tôi. Điều trái ý nghĩ của tôi là không máu me, không tiếng kêu la, không dơ dáy, không “khủng khiếp” như tôi nghĩ. Êm đềm, các bệnh nhân nằm im. Sạch chưa từng thấy. Sau này tôi được biết, chính phủ Ấn phải thừa nhận các nhà săn sóc người bệnh của Mẹ Têrêsa sạch hơn tất cả các bệnh viện ở Ấn. Lý do đơn giản là có biết bao thiện nguyện đến làm, họ làm việc với con tim, làm hết mình chứ không vì đồng lương nền nhà cửa gìn giữ rất sạch sẽ.
- Đây là công việc anh sẽ làm.
Một người làm thiện nguyện ở đó lâu rồi phân công các việc cần làm. Anh gọi và phân công cho tôi. Chưa rõ tôi hỏi lại anh:
- Tôi sẽ làm gì?
- Anh lựa những chiếc quần áo, khăng giường “dơ” để riêng ra.
Tôi nghĩ bụng, cái nào mà không dơ. Hỏi lại:
- Tôi phải làm gì?
Bằng một ngôn ngữ hơi ngại, nhưng anh ta phải nói rõ:
- Những quần áo, khăn giường nào dính phân người!
Bấy giờ tôi hiểu. Ghê quá. Nhiều người nằm liệt giường, họ đi tiêu bừa bãi ra quần áo. Công việc của tôi là lựa riêng ra những thứ ấy. Tôi thấy lợn giọng vì chưa bao giờ làm công việc này. Họ là những người đủ thứ bệnh, biết đâu có cả HIV, Sida. Nghĩ tới đó tôi thấy hỏng rồi, sao mình lại chui đầu vào đây.
Trong đám thiện nguyện đang giặt quần áo, anh người Nhật là toát mồ hôi. Tôi thấy anh ta làm hùng hục. Anh ở đấy tám tháng rồi. Tôi hỏi thăm mấy người chung quanh nên biết vậy. Anh ta ít nói. Mới gặp nhau rất khó nói chuyện riêng tư, như vì sao anh tới đây làm công việc này? Cảm nghiệm anh ra sao trước những cái chết đơn côi không người thân? Những tâm tư ấy không biết được. Chỉ vui với nhau và làm việc thôi. Tất cả đều giặt bằng tay. Không máy móc. Đồ giặt to thì bỏ vào bể ximăng, lấy chân đạp như ta đạp nhồi đất sét làm gạch. Sau một ngày tay ngâm nước lâu, vắt quá nhiều vải thô cứng, da tay tôi mềm ra và đau.
Thánh Inhaxiô ngày xưa cùng với nhóm mới thành lập dòng của ngài đều đi bộ hành hương. Họ xin ăn dọc đường để cảm nghiệm sự cơ cực của con người. Họ chỉ tín thác vào Chúa. Có lần săn sóc chân máu mủ một bịnh nhân, ngài rất ngại lây bệnh. Để chiến thắng, ngài đút bàn tay dính máu sau khi săn sóc bệnh nhân của ngài vào miệng. Hôm nay không ai làm thế, nhưng thế nào là tin tưởng vào Chúa, thế nào là có khi nguỵ biện cho sự lười biếng của mình?
Trong nhà, bên này bức tường chúng tôi giặt đồ. Bên kia là giường bệnh. Anh thanh niên người Đức đang săn sóc một người đàn ông không thể đoán được tuổi. Có lẽ là ông già. Người đàn ông nằm lồi hai mắt. Người chỉ còn da bọc xương. Lồi lên hai hàm răng. Gò má như cánh gà xương xẩu. Tôi hình dung có thể ông bị nhiễm HIV, bệnh Aids chăng. Ông sắp chết. Đầu gối, cánh tay chỉ còn xương. Hai tròng mắt lồi cao như hai quả cau. Tôi biết chắc ông sẽ chết nay mai.
Các thiện nguyện chia nhau, một bên sắc sóc nữ, một bên nam. Lây đồ ăn rồi cho bệnh nhân ăn. Tắm cho họ. Cho họ uống thuốc. Lau nhà. Giờ nghỉ trưa ngồi uống trà lại cười giỡn. Tay thanh niên Canada lúc nào cũng thích hát. Lâu lắm tôi mới lại nghe những bài ca tiếng Pháp. Lõm bõm mấy câu: L’amour. L’amour. Tình yêu. Ôi! Tình Yêu. À thì ra anh ta đang hát một bài chuyện tình.
Cô bé người Nhật thấy tôi mới đến ngày đầu, tới gợi chuyện:
- Ông là người Việt Nam hả?
- Đúng vậy, tôi người Việt Nam.
- Ở đây cũng có một cô Việt Nam.
- Vậy à? Cô ta đâu?
Nghe vậy, tôi rất ngạc nhiên, không ngờ cũng có người trẻ Việt Nam lần mò đến đây. Sau này tôi gặp hai cô bé, Tuyết Anh và Lan. Cả hai cùng đạo, đang học trường thuốc, mới hai mươi hai tuổi. Tuyết Anh và Lan sống ở Na Uy.
Ý định ban đầu của tôi đến đây là để suy niệm về sự chết. Tôi muốn nhìn khi người ta chết sẽ ra sao. Tôi đang trăn trở về sự chết và mầu nhiệm thế giới bên kia. Chết là đề tài bận tâm trí tôi. Mục đích thứ hai là quan sát, như người đi tìm tài liệu viết bài. Mới sau một ngày, tôi thấy mình thay đổi. Tôi không thể là người quan sát được.
Làm việc với các bạn trẻ, bên những tâm hồn giàu quảng đại tươi vui. Tôi thấy họ tràn đầy sức sống. Nhìn anh thanh niên người Đức săn sóc ông già, tôi thấy mình phải viết về sự sống chứ không thể tập trung về sự chết. Sự sống quá đẹp. Hãy nói về những người đang sống, những người đang săn sóc sự sống. Tôi thấy những người nằm chết không là đề tài gợi sự đau khổ cho tôi viết, mà là sự sống của những trái tim quảng đại kia.
Điều thứ hai tôi thấy mình thay đổi là không thể chỉ đứng ngoài làm người quan sát. Tôi không thể xem họ chết rồi viết bài. Như vậy tôi sẽ lạc lỏng ở đây. Chỉ khi nào tôi hoà vào cuộc sống nơi này, với kẻ chết, với niềm vui của các thiện nguyện kia tôi mới thực sự hiểu điều tôi “quan sát”.
Ngày thứ nhất trong ngôi nàh cho người chờ chết đã làm thay đổi hai thái độ cảu tôi, một là nhìn vào sự sống thay vì sự chết, hai là tôi phải sống thật chứ không thể chỉ quan sát. Với hai thái độ trên, tôi lưu lại Calcuta một tuần.
Lạy Chúa, sống chết là thân phận con người. Trong cái mỏng dòn của thân phận ấy, nhiều lần tâm trí con hoang mang khắc khoải. Con dùng trí tuệ con tìm biết về Chúa và con đã khắc khoải vô cùng. Chỉ khi nào con xin lòng thương xót Chúa con mới được an bình thôi. Trước cái chết, con không thể dùng trí tuệ phân tách được. Con đi về đâu trong cõi vô hình kia? Chắc chắn rồi con sẽ chết. Sự hiểu biết nào đỡ nâng con? Ai là người cho con can đảm, bình an, niềm vui? Chỉ có Chúa mà thôi. Con cần Chúa hôm nay để con hiểu mầu nhiệm chết là tập sống trọn vẹn. Xin giúp con sống và sống fully alive, sống từng biến cố buồn vui, khó khăn, sống trọn vẹn trong Chúa để thấy đời luôn luôn đẹp. Amen.
Tôi không có nhiều thời gian ở Vailankanni để sưu tầm những ơn lạ. Trong cuộc nói chuyện với cha Irudayam , giám đốc trung tâm tôi xin một phỏng vấn:
- Thưa cha, con thấy rất nhiều, hàng ngày bảng lưu niệm tạ ơn Đức Mẹ trong nhà bảo tàng. Cha có thấy ơn lạ đặc biệt nào Đức Mẹ đã ban?
- Tôi không biết trả lời sao vì nhiều quá.
- Thưa cha, để dễ cho cha, xin cho con biết ơn lạ mới nhất, mới xảy ra.
Trong lúc tôi đang nói chuyện, khách hành hương đã xếp hàng ngoài hành lang chờ gặp ngài. Hành lang nhà xứ lúc nào cũng ồn ào tấp nập người. Họ đến từ khắp nước Ấn. Văn phòng nhận của lễ, nhận lời cầu xin làm việc không ngừng. Cha giám đốc nhìn tôi nói:
- Đây nhé, tôi xin kể cho cha câu chuyện mới xảy ra. Cha thử nghĩ xem có là ơn lạ không. Một cặp vợ chồng đến đây cầu nguyện tám năm rồi. Họ có hai cháu, cháu gái mười hai tuổi, cháu trai chín tuổi. Chân đứa cháu gái bị tật. Là con gái như vậy thì khổ lắm. Cặp vợ chồng này xin ơn chữa lành chân cho cháu. Mùa hè vừa qua họ được ơn. Năm nay họ đến tạ ơn Mẹ. Hai vợ chồng quỳ, lết bằng đầu gối từ nhà thờ đến đền thánh nơi ghi dấu Đức Mẹ hiện ra ngày xưa.
Nói tới đó cha giám đốc nghiêng mình nhìn ra phía cửa sổ chỉ cho tôi khoảng cách từ công trường đền thờ tới tượng đài Đức Mẹ. Có thể chừng ba trăm mét. Ngài kể tiếp:
- Đi bằng đầu gối như thế đau lắm, có khi chảy máu. Đứa cháu trai thấy bố mẹ làm vậy nó cũng bắt chước. Ban đầu bố mẹ không cho, nhưng nó cứ làm. Bố mẹ nghĩ thôi đành kệ, khi đau cháu sẽ thôi. Và chân nó đã rướm máu. Trên đường về, như cha biết đó, xe lửa ở đây chen chúc nhau đầy người. Trong lúc xe chạy nhanh như thế, nó bị văng ra khỏi xe. Cùng lúc, chiếc xe lửa khác ngược chiều lao tới. Mọi người la lên, xe dừng lại được thì thằng bé đã bị bỏ rơi cả trăm mét. Vậy mà nó hoàn toàn không bị xây sát. Nó bảo có một bà cầm chân lôi nó ra khỏi đường rầy lúc xe lửa lao tới. Đấy, cha thử nghĩ xem không là ơn lạ Đức Mẹ ban sao?
Nghe cha giám đốc kể tôi thấy rõ như đang chứng kiến câu chuyện. Ngoài công trương khách hành hương nhốn nháo. Nắng đã lên oi bức, trời nóng căng thẳng. Chuông lễ lại vang lên rộn ràng. Hầu như giờ nào cũng có thánh lễ. Những bà mẹ dắt con, những bà mẹ đang ghé hàng quán mua hoa, nến, nhang. Người đi hứng nước, người tìm bóng mát ngả lưng. Từng bầy quạ kêu inh ỏi trên ngọn rừng dừa chung quanh vương cung thánh đường. Tại trung tâm có mấy dãy nhà ở cho các linh mục, tu sĩ. Lúc nào cũng thấy bóng áo dòng các nữ tu và linh mục rải rác ở công trường.
Trên chuyến xe đò cũ kĩ, tróc sơn tôi bỏ lại Vailankanni sau lưng. Xe đò ở Ấn Độ không có chiếc nào ghế không long. Ba hay bốn chục người chết hết khi xe rớt xuống đèo bốc cháy là chuyện thường, lý do đơn giản là không ai thoát ra ngoài được. Để tránh tình trạng chui qua cửa sổ hoặc kẻ cắp đứng ngoài xe giật túi đồ trong xe, các cửa sổ đều có song sắt. Chỉ có một lối ra vào là cửa chính. Xe bốc cháy không thể chui qua cửa sổ thoát hiểm. Xe nào cũng cũ kỹ, chằng buộc dây kẽm lung tung, nhưng đầy máy nổ rất tốt. Tôi chưa thấy chiếc nào chết dọc đường. Xe nào cũng chở quá tải nhưng leo dốc rất khoẻ. Tài xế rất vững tay lái. Những đoạn đường nhỏ, cong queo mà họ chạy như không thắng.
Trên đường về thành phố Trichy, hình ảnh đậm nét nhất còn trong tâm trí tôi là người đàn bà trọc đầu bò từ bãi biển đi lên. Lúc xuống bãi biển quay phim tôi thấy bà. Từ phía biển, bà bò như con chó, bằng hai đầu gối và chống hai tay làm hai chân. Mặt cuối chằm xuống đất. Như một con chó bò giữa đám rừng chân người chen nhau. Tôi nghĩ đấy là một bà điên. Gần tiếng đồng hồ sau, lúc trở về công trường vương cung thánh đường, tôi lại thấy bà. Đứng nhìn bà một lúc. Bà cứ bò thong thả như thế, như một con chó cuối mặt xuống đất, chống hai tay. Rồi bà bò vào đền thờ. Đó là ngày đầu tiên. Tôi nghĩ đấy thật là người đàn bà điên. Đầu cạo sạch tóc, rũ rượi ướt mẹp trong chiếc saree lấm cát biển, thứ áo dài của đàn bà Ấn Độ. Sau này được cắt nghĩa tôi mới hiểu những người cạo đầu như thế là tâm ý thật lòng, họ chỉ đến đây để cầu nguyện hành hương mà thôi. Cạo đầu xám hối.
Tôi đâu ngờ vùng đất xa xôi này có một trung tâm hành hương kính Đức Mẹ sốt sắng như thế. Có những lời cầu xin bỏ vào ống tre thả xuống biển, nó trôi dạt từ Srilanka đến đây. Vailankanni là vùng đất xa xôi lắm. Ngày bị nóng sốt, yếu mệt vì kiết kỵ tôi tìm đến trạm xá. Một sơ trẻ rất nhân từ, biết tôi người ngoại quốc xa nhà, biết tôi đang lo, sơ đã động viên tinh thần và lo thuốc cho tôi chóng khỏi. Chiếc quạt trần không đủ xua nóng, trán sơ rịn mồ hôi, khám bệnh không ngừng cho các người hành hương bị đau. Bên bàn trạm xá, tôi nói giỡn với sơ cho vui:
- Sơ mà không đi tu thì uổng quá.
Đang quấn chiếc ống đo nhịp tim vào cánh tay tôi. Sơ mỉm cười, dừng tay nhìn tôi, đôi mắt người thiếu nữ xứ Ấn đen lay láy, hỏi:
- Còn Father, nếu Father không đi tu thì sao?
Tôi trả lời:
- Chả được tích sự gì cả. Nếu tôi không đi tu thì hôm nay sơ đâu phải chữa bệnh cho tôi. Còn nếu sơ không đi tu, tôi biết tìm ai chữa bệnh bây giờ!
Làn mi cong duyên dáng, nụ cười mỉm chi như có vẻ vui hơn. Trên khuôn mặt nước da ngăm đen, vẫn lấm tấm mồ hôi.
Giã từ Vailankanni, biết chắc chả bao giờ trở lại nữa. Tôi nhìn tượng đài Đức Mẹ lần cuối. Những hàng dừa cao vòi vọi trong nắng ban trưa. Trên ngọn dừa bày quạ đen trốn nắng. Xe chạy ngang qua cổng trạm xá, tôi ngó theo, nơi người nữ tu vừng trán lấm tấm mồ hôi, nước da ngăm đen với đôi mắt đen láy màu Ấn Độ vẫn đang khám bệnh và cho thuốc.
Tâm tư cũng mang một chút bùi ngùi. Tôi gởi lại nơi đây một chút tâm tình của mình cho một bước dừng chân.
Tôi trở lại ngôi nhà thờ lưu giữ xác thánh Phanxicô Xaviê lần thứ hai. Lần này tôi đi một mình, không đi Honda với Benedito nữa. Tôi muốn có thời gian thong thả, không bận tâm chụp hình, không quay phim. Tôi muốn có một khoảng trời cho riêng mình với chuyến đi thật dài đã tìm đến tận xứ này.
Ngồi bên bờ đá nhìn nắng ban mai đổ xống các góc cạnh đền thờ. Chung quanh ngôi vương cung thánh đường, những hàng dừa cao vút. Mấy gốc cổ thụ kia chắc có từ hồi Phanxicô qua truyền giáo chăng, to quá là to.
Tôi ngồi đây nhớ về kỷ niệm mười ba năm về trước. Năm 1988, tôi đã đứng bên ngôi mộ, nơi Phanxicô chết ở đảo Thượng Xuyên nhìn vào Hoa Lục. Ngày đó tôi hứa với lòng mình sẽ viết về chuyến đi ấy khi nào tới được Goa. Hôm nay tôi đang có mặt nơi mà mười ba năm trước ước mơ. Hôm nay tôi mới dâng lễ bên xác thánh mà hơn bốn trăm năm trước dân chúng đã nô nức đón về đây. Tôi miên man nghĩ về những bước chân. Nghĩ tới ngày xưa là cậu bé giúp lễ nhà thờ quê, một vùng sâu xa xôi. Ánh trăng chưa tan, trời con mù tối, cậu bé mười ba tuổi đứng đón xe lôi dọc đường lên Saigon lấy xe đò đi Long Xuyên nhập chủng viện. Lớn lên yêu con đường Văn Khoa, nhà sách Khai Trí. Rồi giã từ Saigon, bỏ nước đi. Một phần tư thế kỷ rồi. Nhìn lại những chặng đường, không ngờ bước chân tôi đi nhiều như thế. Những tối Bangkok, những quán chiều bên bãi biển Bali, Nam Dương, mấy năm trời bên Philippines, biển ngát xanh bên bờ Địa Trung Hải, Hy Lạp, những bữa cơm trên Tầu bên Đài Loan, những chuyến bay cất cánh ở Singapore, London, Bruxelles. Bây giờ đang ngồi đây trên đất phương đồng huyền bí, Ấn Độ. Tôi thả hồn tôi theo thời gian. Rồi ngày mai bước chân sẽ đi đâu nữa?
Nhớ mười ba năm trước ở đảo Thượng Xuyên, sau khi nhóm các cha Don Bosco trở về Macao, Paul và tôi, hai đứa tiếp tục cuộc phiêu lưu vào đất Quảng Đông. Tôi đã thấy những ngôi mộ người Việt Nam. Tên họ bằng Tiếng Việt còn ghi đó. Không biết có ai còn nhớ tới. Im lặng những mộ bia. Hồn họ đã xuôi về đâu? Tôi nhớ nhà thờ chính toà Quảng Đông, nơi linh mục vẫn làm lễ quay lên theo nghi thức trước Cộng Đồng Vaticanô II. Tất cả hình ảnh ấy sống lại, đưa tôi về dĩ vãng năm xưa. Tôi sắp giã từ Goa. Tôi sắp xa thành phố này. Sẽ vĩnh biệt Phanxicô Xaviê ở đây.
Mười ba năm trước tôi và Paul nói chuyện với ông già dẫn đường. Ông biết tôi là người Việt Nam, ông hỏi Paul rằng người Việt Nam cũng giống mình thế sao? Coi bộ người An Nam cũng hiền từ! Sau này Paul bảo tôi rằng ông chưa bao giờ thấy người An Nam, ông chỉ được tuyên truyền rằng người phương nam rất hung tợn độc ác. Khi quen rồi, ông hay bắt chuyện với tôi, nhờ Paul thông dịch. Ông hỏi tôi nghĩ gì về chuyến đi. Tôi tỏ vẻ tiếc nuối rằng thánh Phanxicô Xaviê không vào được đất liền Hoa Lục. Gía mà Phanxicô Xaviê không chết, ngài truyền giáo được cho các vua chúa Trung Hoa thì cả lục địa này theo đạo hết. Nghe vậy ông già chỉ nói với tôi, dáng điệu của một người đã rất kiên nhẫn bình thản:
- Chúa để thế chúng ta mới còn việc. Chúng ta phải tiếp nối những gì Phanxicô đang làm dở dang.
Tôi cứ nhớ mãi câu nói ấy của ông già. Ông ngồi trên thềm cửa, căn nhà thấp tối, nên đất ẩm lạnh. Vì thế tám năm sau gặp lại Paul Chen bên Đài Loan tự nhiên tôi hỏi anh ta là không biết ông già nói năm xưa là: “Chúng ta phải tiếp nối những gì Phanxicô đang làm dở dang”. Tôi không biết Paul Chen có để ý lời ông già nói không. Biết đâu anh ta cũng nhớ nhưng không nói ra. Cuộc đời, ai cũng có những kỷ niệm riêng tư. Có những hình ảnh tầm thường mà nó nhắc nhở ta cả một quãng đời.
Hôm nay ngồi bên xác thánh nhân, một trưa nắng trên đất Ấn xa xôi, tôi lại nhớ hình ảnh ông già năm đó. Biết đâu ông đã chết rồi. Trong những ngày thầm lặng nơi ngôi làng nhỏ ấy, là một Kitô hữu sống tháng ngày bách hại vì niềm tin. Ông đã làm những gì trong ý nghĩ “ta phải tiếp nối những gì Phanxicô đang làm dở dang”? Ngày mai tôi lên đường giã từ Goa. Rồi mười ba năm sau nữa, tôi sẽ ở đâu? Hôm nay không có ông già nói lời như năm xưa. Chỉ có tiếng vọng về:
- Chúa để vậy chúng ta mới còn việc. Chúng ta phải tiếp nối những gì Phanxicô đang làm dở dang.
Thiền niệm đường rất rộng. Sàn bằng gỗ mầu nâu nổi vân bóng. Thiền sinh ngồi trên sàn nhà, mỗi người một chiếc nệm gối mầu xanh dương. Gần giữa niệm đường, một chiếc bàn thờ nhỏ mầu gỗ trên tụ, trên đó Đức Phật ngồi thiền dưới cây thập giá. Cho dù đây là niệm đường Zen, tập thiền theo tu đức Công Giáo nhưng có thể nói Đức Phật là người tìm thấy con đường thiền niệm trong thiền đường người ta đặt tượng Đức Phật ngồi thiên như một bậc thầy trước các tập sinh.
Căn phòng không bàn ghế, không trang trí hoa đèn, không có cái huyền bí của mùi nhang và cái mờ tối trong đền chùa. Mới bước vào, cảm giác của tôi là bình an. Qia những vuông kính rộng, từ phòng thiền nhìn ra, bên ngoài chập chùng núi đồi. Bao quanh một không gian đơn sơ, thanh bạch. Cạnh tượng Đức Phật là cây thập giá, chiều đến, duy nhất một ngon dầu cháy liên tỷ, ánh lửa nghiêm trang không gió lay động, phẳng lì như các thiền sinh ngồi bất động.
BodhiZendo, trung tâm thiền Công Giáo do cha Ama Samy, dòng Tên điều khiển. Thiền viện mở ngày 6 tháng Giêng năm 1996, cách thị trấn Kodaikanal nửa tiếng xe trên đường núi, thuộc làng nhỏ Perumalmalai, cách thành phố lớn Madurai 120 cây số về phía tây bắc, thuộc miền nam nước Ấn, vùng Tamil Nadu. Bỏ vùng biển CapeComorin, tôi đến đây ngay sau Chúa Nhật Lễ Lá, mùa Chay năm 2002, ngày 9 tháng 4.
Sáng nay tôi nhổ cỏ trong vườn Zen.
Trung tâm thiền nào cũng có vườn Zen như thế. Mỗi ngày chúng tôi có một tiếng rưỡi làm việc. Nhóm nhặt rau, nhón lau sàn nhà, nhóm quét sân, nhóm làm vườn hoa. Tôi ở trong nhóm làm vườn hoa.
Ngọn núi cao 1700 mét. Núi đồi mênh mông. Bát ngát là rừng. Chung quanh thiền viện, những rặng chuối cũng theo mầu lá rừng, bát ngát xanh. Giữa mầu xanh bát ngát ấy, vườn Zen rực lên muôn hoa do tay con người trồng. Trung tâm sơn mầu trắng. Từ đỉnh núi phía xa nhìn xuống khu thiền viện bé xíu giống như cụm nấm nhỏ trắng xinh xinh giữa biển rừng. Chung quanh thiền viện đều trồng hoa. Đất núi, vườn Zen nhiều bậc cao thấp, cong co. Đường đi lát bằng đá núi, trải cát và sỏi. Ngay từ cổng vào, tôi đã thích, như đi dưới giàn hoa. Những tàng hoa giấy rủ bóng. Trên núi, lúc nào cũng gió, khóm hoa nào cũng đùa giỡn, ngả nghiêng vào nhau.
Tôi nhặt cỏ đã đựơc nửa tiếng. Gío mát rười rượi nhưng trán cũng bắt đầu lấm tấm mồ hôi. Dừng tay ngồi nhìn xống thung lũng phía xa. Lãng đãng sương mù như những làn mây trắng mỏng. Trong nhóm thiền sinh, có người đã ở đây sáu tháng, người vài tuần. Chỉ có hai người mới tới, trong đó có tôi. Nhìn họ sinh hoạt, cái gì cũng chậm rãi thong thả, từng bước chân đi nhẹ, đặt chiếc ly xuống bàn ăn cũng từ tốn, sẽ sàng.
Ở góc vườn, một người Đức đang cưa cây. Tiếng cưa nghe rõ từng nhát kéo vào thớ gỗ, nghe như từng mạch kéo lúc va vào gỗ cứng lúc lướt qua gỗ mềm. Thiền viện trên núi cao, núi rừng chưa bị khai thác, chưa có khách sạn, không nhà nghỉ mát, hoàn toàn yên tĩnh, không tiếng động cơ, không tiếng ồn ào. Chỉ có gió và tiếng lá xào xạc, tiếng chim và bóng mây bay ngang. Tôi dừng tay nghe gió về. Nhìn xuống sườn đồi thoai thoải.
Đã lâu lắm rồi, hôm nay mới lại nhổ cỏ bằng tay. Hai mươi sáu năm về trước, năm 1977 tôi cũng nhổ cỏ bằng tay, nhưng không phải trong vườn Thiền. Ai ở Âu Châu thì biết, trời vương quốc Bỉ, một năm mưa phùn trên hai trăm ngày! Năm ấy tôi mới vượt biên, định mệnh đưa về một vương quốc nhỏ xíu, hiền hoà giữa Âu Châu. Mưa phùn bay, cỏ xanh, chả mấy nhà không có chút vườn trồng hoa. Ngày ngày tôi đạp xe, trời bay bụi mưa, gió lạnh. Chiếc áo che lạnh người ta cho tỵ nạn dài ngang gối. Tôi nhổ cỏ làm vườn cho một bà già. Con cái đi xa, bà sống một mình. Vườn không ai săn sóc, nhiều cỏ dại quá, như vườn hoang. Cỏ mọc kín trong hàng rào, phải lấy liềm cắt từng cụm. Trời bụi bay se lạnh, tay xước gai. Đất ẩm, ướt át. Bùm lấm. Sinh viên tỵ nạn mới bỏ nước đi. Việc gì cũng được, mấy mươi quan một ngày cũng được, tôi cần việc làm. Tôi chăm chỉ để bà tiếp tục mướn. Mưa cứ bụi bay, đất lấm, thế mà một buổi sáng chúng tôi làm sạch hết khoảng vườn. Hy vọng bà hài lòng lúc đi chợ về. Tôi cố gắng hết sức mình, làm nhiều, làm sạch, làm ít nghỉ. Mướn người Tây chắc khó có ai làm được như thế.
Vừa cất xe vào garage, ra nhìn khu vườn, bà đổi sắc mặt, mắng to lời. Tôi không hiểu gì. Tôi cố gắng làm chăm chỉ như thế sao bà lại mắng?
Bà dặn chúng tôi làm sạch cỏ, chừa lại những gốc hoa!
Ngày đó mới tới xứ lạ đâu rành ngôn ngữ họ. Vườn bỏ hoang lâu rồi, cỏ cao quá nhiều. Chỉ thấy cỏ, nào có hoa gì đâu. Tôi cuốc đất, nhổ hết tất cả!
Ngày ấy đem sức lao động cần tiền sống, không phải nhổ cỏ trong vườn Zem. Tôi không có trái tim của Thiền sư nên kho bị bà mắng tôi chán ngán “chuyện đời dang dở.” Ý ngay và longg tận tụy được đáp trả như thế sao. Tuổi thanh niên mất đất nước, mang nhiều tủi nhục. Thấy mình như hành khất trên quê hương lưu đầy. Bà cũng không có trầm tĩnh của trái tim Thiền sư nên mới mắng như vậy. Người sinh viên cùng nhổ cỏ với tôi những ngày ấy nay là linh mục Francois Nguyễn Xuyên, hiện đang coi mục vụ cho người Việt ở Bruxelles, bên Bỉ.
Đứng trên vườn Zen hôm nay, tôi nghĩ lại ngày xa xưa đó. Thấm thoát thế mà hai mươi sáu năm rồi, một phần tư thế kỷ. Ai ngờ hôm nay tôi phiêu bạt đến đây, trên ngọn núi cô tịnh Ấn Độ. Nửa vòng trái đất phía bên kia, căn nhà tôi nhổ cỏ ngày xưa có còn? Chắc bà chết lâu rồi. Nhát liềm cắt, những gốc cỏ dại, trời mưa phùn bay, những vòng xe cúi đầu cố đạp đã qua rồi. Lời mắng hôm xưa cũng chỉ là tiếng vọng thời gian. Tôi đứng đây trong vườn Zen nhìn xuống phía xa thung lũng dưới đồi. Trên đây thanh tịnh quá, nhớ tới lời Đức Phật: Raising and passing away. Đời là có đó rồi phút chốc biến đi.
Tôi đang nhổ cỏ trong vườn Zen.
Zen bảo rằng khi nhổ cỏ. Uống trả, biết mình uống trà, Rửa chén là thấy từng dòng nước làm sạch thơm cái bát, đôi đũa. Người đi tìm Thiền là tìm tỉnh thức cho tâm trí. Mục đích của Thiền là ý thức giây phút hiện tại. Sống trọn vẹn từng phút giây thời gian. Thiền sinh tập ý thức ấy khi quét nhà, nhổ cỏ, rửa chén. Sống từng hành động trong ý nghĩa. Điều này không xa lạ gì với tu đức Công Giáo. Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sống như thế. Nhặt mũi kim khâu, giặt áo, dọn cơm, Têrêsa ý thức từng việc làm trong tình yêu.
Để tập sự, tôi nhìn gốc cỏ mới nhổ trên tay. Chậm rãi, Thong thả. Có cụm cỏ nhổ nhẹ là xong. Có thứ mọc trong kẽ đá rất khó nhổ. Trong vườn Zen có nhiều lối đi lát đá. Công việc của tôi là nhổ cỏ mọc giữa những kẽ đá đó. Có rất nhiều tâm tình khi nhổ cỏ. Chẳng hạn nhổ cỏ lâu cũng nhàm chán. Khi mệt muốn nhổ vội cho xong. Nhổ vội cỏ sẽ đứt, còn lại rễ.
Những lúc mệt, tôi dừng tay nhìn vẻ đẹp của vườn hoa. Mấy luống hoa mặt trời đang hong nắng. Những bông hoa to như chiếc đĩa, vàng óng rực rỡ giữa đám hoa cúc cũng bát ngát vàng. Từ cổng vào, hai bên ngập kín hồng leo, loại hồng nhỏ nở từng chùm, leo quấn lên thành tường. Chung quanh vườn cát, bay phất phơ những nhánh hoa mỏng mầu nhẹ như mây.
Đã có người đến trước tôi trồng vườn Zen. Họ đâu rồi? Gìơ tôi đang nhổ cỏ, mai đây tôi xa nơi này. Chả ai biết ai. Vườn hoa cứ đó, chào đón cho người đến, vĩnh biệt cho người đi. Kẻ đi trước trồng khóm cúc, kẻ đến sau nhổ cụm cỏ, cứ thế mà cuộc đời tiếp nối vẻ đẹp.
Ngồi trong vườn, tôi nghĩ đến chuyện cụ già với tâm hồn Thiền đã sống thật bao dung trong đời.
Ông hàng xóm thấy cụ già vất vả đào đất trồng cây. Chiều nọ ông nói vọng qua bờ rào:
- Cụ ơi, tuổi đời cụ còn bao nhiêu nữa vất vả làm gì.
Loại hạnh đào ấy chục năm nữa mới có quả. Lúc đó cụ chẳng còn nữa đâu mà ăn.
Cụ già dừng tay, nhìn trời nói vọng lại:
- Tuổi đời tôi chả trông ngày ăn quả. Tôi trồng cho người sau đấy thôi.
Cụ nhìn thấy cây hạnh đào cổ thụ phía cuối vuờn, nói thêm:
- Cây đào kia kìa, chả biết ai trồng tù hồi nào mà nay tôi đuợc ăn, thì mình cũng trồng cây này cho kẻ hậu thế mai sau.
Đấy là trồng cây trong vườn Zen đời sống. Bỏ đi cái nhỏ nhen chật hẹp của cõi lòng. Đời sống thật đẹp biết bao.
Tôi có thể giật đứt nắm cỏ xanh. Dễ thôi. Nhưng vài hôm cỏ lại đâm chồi. Giống như người ta vội xưng tội dịp lễ lớn. Đợi lễ lớn xưng tội thoáng qua, làm đẹp linh hồn chốc lát. Sau đó lại trở về chốn cũ. Cỏ hoang dại mọc. Chỉ người làm thuê mới nhổ dối cho chóng xong, không muốn nhổ rễ.
Chuyên cỏ lùng trong Phúc Âm Mátthêu rất lạ. Mátthêu viết như một chuyện của bậc thiền sư cao tay. Chuyên kể rằng: “Nước Trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất” (Mt. 16:25).
Như một thiền sinh tập sự. Ta lấy ba chữ “rồi đi mất” trong câu Phúc Âm trên để tìm tông tích tại sao gieo cỏ lùng xong kẻ thù lại hành động như thế.
Giả sử có người đặt mồi lửa muốn đốt cháy căn nhà kia, có khi nào đặt xong mồi lửa rồi bỏ đi không? Nếu bỏ đi, gió tắt thì sao? Sự thường phải quanh quẩn đó chờ xem kết quả thế nào chứ. Điều lạ trong chuyện gieo cỏ lùng.Mátthêu viết rằng, kẻ thù bỏ đi. Đâu là ý của Thiền niệm trong ba tiếng “rồi đi mất”?
- Có thể kẻ thù bỏ đi vì biết chắc chắn cỏ sẽ mọc, nó đã biết trước thành công. Nếu đấy là chuyện linh hồn ta, ta không có năng lực nào chống lại hay sao? Như vậy quá buồn.
- Có thể kẻ thù vội bỏ đi, sợ chủ vườn nhận diện được nó. Nếu vậy sự vắng mặt của kẻ thù là nguyên nhân thành công. Vắng mặt nguy hiểm hơn có mặt. Hình ảnh này cũng quá thực và quá thường trong cuộc sống. Nhiều hoàn cảnh thấy như êm đềm nhưng thật sự không phải thế. Nhiều gia đình bề ngoài không bóng dáng sóng gió, thật sự không phải thế. Không nhận diện được bóng kẻ thù, bất chợt một ngày thấy cỏ lên cao, lúc ấy quá muộn cho một chuyện buồn rồi.
- Tại sao ngày lúa trổ bông cỏ lùng mới xuất hiện?
Mátthêu viết tiếp: “Đến khi lúa mọc lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng xuất hiện” (Mt. 16:26). Theo ý viết, không phải lúa trổ bông cỏ lùng mới xuất hiện. Nhưng lúa trổ bông mới khám phá sự xuất hiện của cỏ lùng. Chuyện này cũng quá thật và quá thường trong đời sống. Mầu cỏ quá xanh, mầu lúa quá xanh. Ta ngỡ cuộc sống là thế. Cái mơ hồ lẫn lộn mầu xanh hạnh phúc và mầu xanh ảo ảnh làm người ta lầm. Ông chủ không nhìn kỹ lúa mình, xa xa ngỡ mầu xanh là chân thật của lúa. Chuyện ấy cũng quá thật trong đời sống tâm hồn. Ta thiếu hồi tâm rất nhiều trong đời sống. Chuyện cá nhân, chuyện gia đình, chuyện tôn giáo, chuyện đất nước. Lúc đổ vỡ mới nhìn ra, bấy giờ quá tiếc. Ôi! cỏ đã gieo lâu rồi.
Tiếng khuông Thiền vang lên phía bên kia vườn Zen, báo hiệu hết giờ làm việc. Còn nửa tiếng nữa tôi lại ngồi thinh lặng trong niệm đường. Gío dạt dào, đưa tiếng chuông thong thả vào núi rừng. Cả khu núi thêng thang, tiếng chuông Thiền không náo nức, không hối hả, chuông âm vang từng tiếng một, trầm nhẹ rồi tan theo sương mây.
Lát nữa đây trong niệm đường có lẽ tôi tiếp tục nhổ cỏ trong vườn Zen của Mátthêu. Thiếu thăm nom kỹ thửa vườn nên lúc ông chủ nhận ra cỏ, đã quá trễ. Lúa tốt bao nhiêu cỏ cũng tốt bấy nhiêu.. Bởi, cỏ dại biết bám vào những gì người ta sửa soạn cho lúa mà ăn theo. Cũng như những gì tài năng cao quý sửa soạn cho đời sống thiêng liêng, nhưng thần sữ dùng chính tài năng ấy làm hư hao linh hồn. Trí thông minh thành kiêu căng, tiền bạc thành lỗi phạm, tình bạn thành dang dở, của làm phúc thành niềm tự hào, đền thờ thành pháo đài ngăn cách, lễ nhạc thành trình diễn.
Mátthêu viết rằng lúc mọi người say ngủ, kẻ thù gieo cỏ vào ruộng. Đất tốt bao nhiêu cho lúa, cũng tốt bấy nhiêu cho cỏ. Cùng một thứ cỏ xấu, nhưng cỏ mọc trong tâm hồn người không được cơ may học hành, rất khác trong vườn kẻ hiểu biết. Cũng như nói dối ngoài chợ rất khác nói dối nơi cửa chùa. Cùng một mê ngủ, nhưng mê ngủ nơi thiền sinh rất khác mê ngủ nơi bậc thiền sư. Mục đích Zen là tìm tỉnh thức cho tâm hồn. Tôi sẽ tìm gì trong giờ thiền niệm lát nữa đây?
Tiếng chuông vẫn thong thả từng tiếng một. Nắng lên cao hơn, rực rỡ hơn. Các khóm hoa đong nắng vẫn cứ ngả nghiêng, thênh thang bình an vui với gió.
Nói đi vào hoặc đi ra là nói đến những bước chân. Nhưng khi vào đời, tôi không vào đời bằng chân vì tôi chỉ là hài nhi không biết đi. Ra khỏi cuộc đời, tôi cũng chẳng ra khỏi bằng chân vì tôi chết. Như thế, vào đời hay ra khỏi cuộc đời là những bước chân thiêng liêng. Đó là những bước chân liên quan đến hạnh phúc và ơn cứu độ.
Trong khoảng thời gian từ lúc tôi mới sinh ra, không biết đi, đến khi tôi không thể đi vì tôi chết, là một hành trình thật dài. Trong hành trình dằng dặc này của cuộc sống, tôi bước những bước chân. Tôi đi. Tôi đi rất nhiều. Vì tôi vào đời đón sự sống bằng bước chân thiêng liêng. Tôi từ giã cuộc đời, ra khỏi sự sống bằng vết chân thiêng liêng, nên những bước chân hàng ngày tôi đi trên mặt đất rất liên quan đến những ý nghĩa thiêng liêng.
Hướng chân đi
Đi, là đi đâu. Đi không định hướng sẽ là cuộc đi thiếu năng lực. Vì không có lí tưởng để tiến tới nên chân mỏi mệt lắm. Rồi, cuộc đời là cuộc đi buồn bã. Có bước chân ban sáng, có bước chân chiều tà. Bước đi trong đời, ai cũng mang một trong hai bước chân đó. Đức Kitô biết rõ những loại chân này, nên Ngài nói với các môn đệ: “Khi còn sáng ngày Ta phải làm việc của Cha Ta. Đến tối không ai còn làm việc nữa” (Yn. 9:4). Thời gian sẽ ngắn lại, bước chân ta chậm theo dòng đời. Bình minh gọi, kẻ không bước đi sẽ muộn phiền hối tiếc khi chiều buông xuống.
Có người đi ban đêm. Có kẻ đi ban ngày. Có người đi trên đường. Có kẻ đi dưới rãnh. Có nhiều thứ đi. Có nhiều thứ bước chân. Khi Đức Kitô bị bắt thì có những bước chân chạy trốn mà cũng có những bước chân đến gần. Khi Đức Kitô gọi, thì có những bước chân theo mà cũng có bước chân chối từ. Có bước chân đi phân vân và cũng có bước chân dứt khoát. Từ khởi điểm của vào đời và ra khỏi đời là trăm ngàn ngõ bước, lối đi, những bước chân khác nhau.
Điệu chân đi
Nói đến đi thì cũng nói tới bước chân đi và lối ngõ để bước chân đi trên đó. Có những lối ngõ khác nhau và phải bước theo cách thế của mỗi lối đi. Không thể bước trên đường sỏi đá giống như bước trên đồi cỏ. Rồi ngay mỗi người cũng có nhiều đoạn đường khác nhau trong một lối đường. Bởi đó, người ta phải học cách bước của mỗi đoạn đường. Đoạn đường Maria đi thăm chị họ mình để báo tin vui là bước chân đon đả, không giống đoạn đường trốn sang Ai Cập. Cách Đức Kitô bước vào dinh tổng trấn Philatô chắc không giống cách Người bước vào nhà người thu thuế. Thích nghi với hoàn cảnh, văn hoá trong công cuộc rao giảng Tin Mừng chẳng những là sáng tạo mà còn là một định luật. Chọn cho mình một lối đúng mà không bước đúng cách cũng chưa là đi đúng.
Người ta nói: Bước vào yêu. Thì nghe cũng như đúng vậy thôi. Tình yêu ở đâu để mà bước vào? Tình yêu tự nó không là thửa đất, không là cánh đồng. Tình yêu không giống như một bản đồ vẽ sẵn. Rồi ai nấy chọn một ngã. Tình không chờ sẵn như căn nhà rồi ta vào ở. Đức Kitô không bước vào yêu mà Ngài là Tình Yêu vào thế gian (Yn. 3:16). Như thế, bước vào yêu theo nghĩa đẹp nhất là tình yêu đưa ta bước tới. Tình yêu nơi trái tim Đức Kitô đưa bước chân Ngài lên Núi Sọ. Ngài không lên Núi Sọ tìm tình yêu mà là tinhd yêu thúc đẩy Đức Kitô gặp thập giá, để thập giá có tình yêu.
Tình yêu và bước chân
Trong cuộc đời sẽ có hai bước chân của hai lối đi khác nhau về tình yêu. Một bước chân vào đời do tình yêu đưa lối. Và một bước chân tìm lối đi của tình yêu trong đời.
- Bước chân do tình yêu đưa lối thì có năng lực và không bao giờ bước sao. “Bỏ lại chín mươi chín con chiên đó mà đi tìm con chiên lạc” (Mt.18:12-13). Những bước chân này đi tới đâu là rộn rã yêu thương tới đó. “Vì Cha quá yêu thế gian nên đã sai Con Một vào thế gian” (Yn. 3:16). Không là chân đi tìm tình yêu mà là tình yêu đẩy chân đi tìm.
- Còn lối bước thứ hai là bước chân đi tìm tình yêu. Bước chân này rất dễ lầm đường lạc lối. Tình yêu không co sẵn khơi khơi. Bởi đó, làm sao tìm thấy tình yêu được. Họ không thấy tình yêu mà chỉ thấy cái họ thích yêu.
Khi tôi gặp người tôi thương mến, điều ấy có nghĩa là tôi bắt gặp điều làm tôi yêu thích. Tôi phải để tình yêu trong tôi lên tiếng thẩm định cho sự gặp gỡ này. Rạo rực của con tim khi gặp người tôi mến thương thúc đẩy tôi phải ôm giữ. Rồi, từ đó tôi ngỡ rằng đó là tình yêu và tôi đã gặp tình yêu. Khi trong tim tôi không có tình yêu thì sự ôm giũ này trở thành cuồng phong, vì tôi lầm lẫn cho đó là tình yêu. Nếu trái tim tôi có tình yêu thì tình yêu sẽ lên tiếng thẩm định và câu trả lời có thể là không cho phép tôi bước tới. Nếu bước tới, bước chân đó sẽ sai vì không nghe tiếng tình yêu nói mà chỉ là tìm cái tôi thích yêu.
Nếu nói gặp người tôi thương mến là gặp tình yêu thì làm sao có trung thành trong hôn nhân luôn luôn gặp những người yêu mới.
Đức Kitô không bao giờ đi sai vì chân Ngài được tình yêu thúc đẩy. Trước giờ chết, trước kẻ có quyền kết tội, Ngài không chối từ, không trốn tránh vì Ngài có tình yêu làm sức mạnh. Trên đường đời có những quãng vắng khắc nghiệt vì sỏi đá. Tình yêu sẽ đẩy chân bước tới. Còn bước chân đi tìm tình yêu sẽ phân vân ngại ngùng tránh né. Bởi đó, trong hôn nhân, và người tu sĩ cũng thế, không có lạc lối trong tình yêu mà chỉ là không có tình yêu nên mới lạc lối.
Những bước chân riêng
Mỗi người có một lối nên không thể lấy bước chân kẻ khác làm bước chân của mình. Sự nghèo khó, lý tưởng, con cái, giáo dục, thân xác, hoàn cảnh của mỗi gia đình không giống nhau. Áng màu nào cũng đẹp nhưng nó phải phù hợp với ơn gọi của nó. Bước lẫn sang lối đi của người khác là lạc lối. VÌ lối đi của người khác đúng với họ mà thôi nên khi lấy cái đúng của họ làm của mình nó dễ trở thành cái sai. Khó mà nhận ra cái lạc lối của mình khi mình đi trong lối đi của kẻ khác, bởi vì cứ nghĩ rằng nó đúng với tha nhân thì cũng đúng với mình.
Những bước chân phải cùng nhau đi mà không đi cùng nhau là đi sai. Những bước chân phải đi đơn lẻ mà cứ quyến luyến nhau cũng là đi không đúng. Huyền nhiệm của những bước chân là thế.
Có những bước chân âm thầm. Có những bước chân trong chiều mưa. Là những bước chân riêng, nhưng bước chân nào thì cũng biết mỏi. Đường ở đâu hay ở đó, hôm nay hay ngày mai, ở đâu và thời gian nào thì đường cũng có thể làm chân ê ẩm, gây thương tích đau đớn. Đường đời dài lắm. Nhất là đường sám hối, đường muốn tập nhân đức. Bởi vậy, chân cần nghỉ ngơi, cần xoa dịu. Là những bước chân riêng, nhưng cùng một ơn cứu độ. Có phải vậy mà đường chiều thập giá là Simon vác thập tự cho Đức Kitô đỡ té ngã. Có phải thế mà hôn nhân cùng nhau đi.
Lạy Chúa, khi biết mình sắp xa các môn đệ, Chúa đã rửa chân cho họ. Nếu chỉ nhìn những bàn chân được rửa như một gương khiêm nhường Chúa đã làm thì con thấy chưa đủ. Bỏ trời cao xuống trần chưa đủ là khiêm nhường sao. Sinh ra trong nghèo khó đủ cho con thấy Chúa thế nào rồi. Thái độ rửa chân cho chúng con là hình ảnh tuyệt vời ý nghĩ của những bước chân. Cần thiết lắm. Một ý nghĩ rất sâu của những bàn chân sẽ bước đi rất chơi vơi trong đời. Sắp chết là Chúa sắp bước những bước chân vô cùng mầu nhiệm. Ai có thể đi theo những bước chân gian nan khổ nạn ấy? Phải là những bàn chân được Chúa rửa thì mới có năng lực bước theo Chúa vào khổ nạn được. Rửa cho rơi đi những ươm hèn, gian dối, nhỏ nhen. Bàn chân con phải được rửa bằng tình yêu của Chúa để bàn chân ấy có tình yêu thì con mới có thể bước đi trong đời mà không bước sai.
Vì hệ trọng, nên khi bước, chân phải biết mình đang đi đâu và bước như thế nào.
Chúa bảo chúng con rửa chân cho nhau. Bởi, chân nào đi mà không mỏi. Đường đời dài thăm thẳm. Lối đi nào mà không nhiều lúc dẵm sang đời nhau. Chúng con cần nâng đỡ cho đôi chân nghĩ ngơi, cần được nhắc nhỡ cho đôi chân tỉnh thức, cần thông cảm cho đôi chân khỏi chán nãn.
Lạy Chúa, con phải suy tư như thế nào về bước chân của mình và của người anh em?
Những người nghèo là người phải đi bộ. Và đi bộ thường phải đi bên lề đường. Nếu họ đi bên lề đường chỉ vì nghèo để tránh rộng lối cho con đi, và nếu chỉ vì nghèo mà bước chân bên lề đường ấy làm họ phải bước bên lề cuộc đời thì con nghĩ sao về bước chân của mình.
Có bài ca trong đời hát rằng: “Con chin quý thì phải ở lồng son.” Không biết lời ca đó có tự bao giờ, từ bao nhiêu thời gian thưở trước. Nhưng cũng từ gốc thời gian ấy có lời trầm buồn của một bài thơ. Tiếng người thục nữ u uẩn trong cung điện lầu son nhìn mây thênh thang đi về cuối chiều. Có vị vua thương nàng nhiều lắm, nhưng nàng chẳng hạnh phúc. Nàng đẹp như dáng thu. Bên đồi dâu nàng hong tơ dệt lụa. Hạnh phúc êm ả đi về trên lối cỏ may bốn mùa. Vị vua tiếc thương đời người thục nữ xinh mà chẳng có lầu son. Tiếc màu xanh thiên lý bên giàn gỗ mộc. Nhà vua bảo rằng hoa quý thì phải ở trong bình vàng cổ sứ cao sang. Vua đem người thục nữ về cung. Từ thưở đó có tiếng ru vào đời à ơi thương cho số phận: “Con chim quý thì phải ở lồng son!” Có lời thương đau trong hồn hiu quạnh của cánh chim nhớ rừng. Vỗ về của bàn tay con người là khóc than trong trái tim của cánh chim thở dài nhìn trời cao. Có bàn tay dịu dàng đưa âu yếm. Nhưng trên đôi cánh ấy trĩu nặng mùa thập tự gian nan. Con chim nhỏ nói với “người yêu” của nó: - Hãy mở của cho tôi bay cao. Tôi biết người âu yếm tôi. Nhưng tôi không cần được âu yếm, đó chỉ là âu yếm người cần. Tôi không là cánh chim nữa khi tôi không biết bay. Bởi đó, trong lồng son âu yếm người dành, không bao giờ có cánh chim thật, tôi chỉ là hình bóng mà thôi. Hạnh phúc của tôi ở cuối gió lưng đèo. Tôi chỉ cần gió và bầu trời. Hạnh phúc của loài chim là đôi cánh. Nếu người thương tôi thật tình, xin hãy nhìn hạnh phúc của tôi chứ đừng nhìn tôi mà hạnh phúc. Tiếng con chim nhỏ chỉ là lời kinh cầu thương khó. Bởi, làm sao định nghĩa được yêu thương? Trong tình yêu, nhiều khi, yêu thương của trái tim này là khổ tâm cho trái tim khác. Biết rằng hạnh phúc của cánh chim nhỏ là trời cao. Nhưng tung cánh bay là chia ly. Nhìn bóng bay xa về rừng vô tận là rưng rưng mất mát. Bởi đó, người ấp ủ cánh chim nhưng chỉ là thương mìn. Và từ đấy, yêu thương là gian nan cho người được yêu. Tôi ray rứt người tôi thương mến bằng tình thương tôi trao tặng. Quà tặng yêu thương trở thành dằn vặt. Nhưng tôi vẫn nói với đời rằng tôi rộng lượng bao dung. Tôi vẫn nói với mình rằng tôi bác ái thật thà. Khi tôi xây ngục thất cho tha nhân bằng hận thù thì tôi biết mình không có yêu thương. Nhưng khi lấy yêu thương xây ngục thất thì không biết mình đã mất thương yêu và tha nhân đang khổ đau. Tôi yêu cánh chim nên tôi không thể để mất. Tất cả là tình yêu. Tôi nhân danh tình yêu để giữ gìn. Trong tình yêu ấy, cánh chim chỉ biết nhìn khung trời tự do trong ý muốn khắc khoải. Thở dài. Tôi không muốn được yêu thương như thế. Đấy không phải là thương yêu mà chỉ là tiếng thở dài đìu hiu. Thôi, ta hãy mở cửa lồng cho cánh chim buông theo chiều gió. Nhìn cánh chim hạnh phúc đấy mới là yêu thương. Rung cảm thì dễ dàng, còn yêu thương là sáng suốt lựa chọn và dũng cảm đi theo chọn lựa sáng suốt đó. Điều ấy có dáng dấp của khổ đau. Muốn yêu thương thật là muốn cho người hạnh phúc. Mà để người hạnh phúc thì yêu thương của ta phải thanh luyện bằng đau khổ. Nhìn cánh chim bay về cuối trời. Nghĩ đến ngày mai trống trải thiếu một bóng hình. Đó là nỗi vắng rất âm u Cía nhạt nhoà ở cuối trời nó đi vào hồn ta. Cái trống trải vì thiếu một bóng hình nó nhắc ta nỗi cô đơn mà từ lâu ta cứ tránh né. Vì thế, thứ tình yêu mình-yêu-thương-mình nằm kín rất sâu dưới lòng sông tâm hồn. Thôi thúc thoả mãn nhu cầu mình-yêu-thương-mình có thể thành những con sâu độc trong màu áo vị tha. Người nông phu nuôi con công thật chu đáo, bởi ông thương bộ lông. Có người thiếu nữ chỉ mơ một mái gia đình nhỏ bé với hạnh phúc đơn sơ. Nhưng niềm kiêu hãnh của bà mẹ bị đánh thức. Bởi, muốn rực rỡ như loài công xoè cánh nên bà muốn con mình phải ở lầu son gác tía. Người con gái chỉ thương một loại bông đơn sơ vì nó thật thà. Nhưng người mẹ bào loài hồng nhung mới đáng quý. Cho con sự khôn ngoan là tặng phẩm. Nhưng người nào lấy đường hạnh phúc của mình vẽ lối cho kẻ khác phải theo thì không còn là cho nhau tặng phẩm khôn ngoan nữa mà chỉ là khôn ngoan chọn tặng phẩm cho riêng mình. Khi thành công của người con chỉ là thoả mãn niềm kiêu hãnh của người mẹ thì người mẹ hạnh phúc, nhưng chưa chắc đã là hạnh phúc của người con. Người khách qua đường khen màu sắc con công đẹp. Từ giá trị được xã hội đánh giá, ông nông phu muốn con công phải xoè màu. Như thế có gọi là tình yêu chăng? Đi tìm định nghĩa cho tình yêu, tình yêu bảo rằng tình yêu có một định nghĩa đơn sơ thôi: Khi áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, đấy là tôi thương em. Tôi yêu hoa cúc, nên muốn em mặc áo lụa vàng, đấy là tôi thương tôi. Vì yêu màu hoa cúc mà tôi muốn em mặc áo lụa vàng thì em chẳng có tự do. Vì em không mặc áo lụa vàng làm tôi nhớ màu hoa cúc, thì qua em, tôi tìm một bóng hình nào đó mà thôi. Tôi không muốn yêu người như thế. Ngược lại, tôi cũng không muốn ai thương tôi như vậy. Nếu người không thể mở cửa lồng cho cánh chim bay đi là lòng người thiếu tự do. Thiếu tự do thì trong trung thành có mầm chống đối. Trong chung thuỷ đã chán chường. Trong gần gũi đã cách xa. Nếu tôi được thương bằng tình không có tự do như thế tôi chỉ là đồ chơi. Tôi không muốn cỗ quan tài buồn dù áo quan đó làm bằng thương mến. Chỉ là khổ đau cho kẻ bị yêu thương. Những cỗ áo quan dù gợi bao nhiêu nước mắt tiếc thương cũng chỉ là nước mắt rơi trên sự chết. Tôi không muốn tình yêu mang một chút gì tang chế. Tin Mừng Luca (Lc. 15:11-31) có kể chuyện một người cha giàu có lắm, có hai đứa con. Đứa con thứ bảo cha chia gia tài cho mình. Sau khi nó tiêu hết sản nghiệp của cha cho rồi, nó túng thiếu quá phải đi chăn heo mà chẳng đủ ăn. Nó tìm đường về làng cũ. Ngày nhìn con đi, bóng nó nhạt dần ở cuối trời, như cánh chim bay, ông thấy trống trải vì thiếu vắng một bóng hình. Ông cầu mong cánh chim ấy gặp đường hạnh phúc, cúi nhìn hồn mình mất mát. Rồi ngày kia, đứa con về trong thất bại tang tóc. Thua cuộc đời. Nó về, tức là làm dấy lên cho ông những lời bình phẩm của hàng xóm. Giả sử nó không về, câu chuyện có khi cũng lãng quên dần. Hôm nay trở về là nhắc nhở cho người chung quanh sự thất bại trong gia đình ông. Cái hình hài và quá khứ “không ra gì” của đứa con bỏ nhà đi, bây giờ, có khi trở thành đề tài đầu môi câu chuyện ở đầu làng cuối xóm. Ông không tìm màu sắc rực rỡ của loài công. Bê béo đã giết. Tiệc liên hoan tưng bừng. Khách đến hỏi con ông đâu. Người khách muốn hỏi xa xôi hơn rằng vì sao ông mở tiệc chúc mừng, đâu là sự nghiệp con ông mang về. Người khách muốn biết điều gì làm ông hãnh diện. Khách được mời chẳng ai hiểu vì sao ông lại mở tiệc ăn khao khi con ông trở về trắng tay. Đối với họ, không thể có chuyện đó. Bởi, họ muốn được chào kính bằng vinh quang của người khác. Những chuyện dân gian là thế, người ta dấu kín chuyện đời thất bại của người khác, người ta mắc cỡ, có phải vì thương xót chính người trong cuộc, hay rất nhiều khi chỉ vì họ lấy thành công của tha nhân mà nuôi dưỡng niềm hãnh diện của họ? Khách được mời ngỡ ngàng lắm khi ông chủ khoe rằng con ông nay trở về sau những ngày chăn heo. Họ không hiểu được. Nếu cuộc đời đứa con như thế tại sao lại mở tiệc. Đáng lẽ ông phải xấu hổ mà dấu kín chuyện con ông đi chứ. Họ không hiểu vì mỗi người định nghĩa tình yêu một ý khác nhau. Riêng ông cha già thì biết rõ việc mình làm. Ông hiểu tình yêu là gì vì ông không tìm định nghĩa cho tình yêu. Bởi, chính ông là tình yêu. Lạy Chúa , đấy là hình ảnh tình yêu của Chúa đối với con.
Tình thương thúc đẩy, chàng chuẩn bị lương thực, với cây gậy gỗ, chàng dẫn chiên lên đường. Ðường lên núi chỉ có mình chàng. Trên trườn núi mênh mông, chàng tiếp tục đi, can đảm. Chàng chỉ có một niềm vui: tình thương cho bầy chiên. Bầy chiên gặp cỏ non thì hớn hở. Chúng ham ăn, quên người chăn. Chàng ngồi đó, trên bờ đá. Ánh nắng làm bóng chàng đổ dài trên nền cỏ.
Nghĩ đến những ngày sắp tới dài dằng dặc. Có thể là mưa. Có thể là gai góc. Và có thể là mệt mỏi. Chàng ngần ngại cho cuộc sống. Nhưng còn bầy chiên thì sao? Tình thương dành cho bầy chiên lại níu kéo chàng về với bổn phận. Cõi lòng chàng, can đảm, trìu mến lại trải rộng theo bầu trời.
Chàng chấp nhận tất cả sương gió, nguy hiểm, vì bầy chiên. Chàng chấp nhận hy sinh, nỗi vắng và nỗi đắng vì bầy chiên. Nhưng bầy chiên chẳng biết nỗi lòng chủ mình. Chúng cứ thản nhiên như lạnh lùng với chủ.
*********
Sau những ngày đầu bình yên. Chàng đã nghe tiếng sói rừng sủa văng vẳng đâu đó. Bây giờ là chiến đấu với giao tranh. Ðêm đêm, chàng thức giấc một mình nhìn núi lặng lẽ mà nghe xao xuyến. Riêng chiên cứ ngủ yên vô tư. Mỗi khi gió trời chuyển mưa là chàng ướt lạnh. Lạnh cả thân xác và lạnh cả tâm hồn vì yêu thương chiên.
Sói đã đến vào một tối.
Chiến đấu nào mà không cam go. Bởi thế, chẳng mấy ai là người chấp nhận gian nan vì kẻ khác. "Kẻ làm công thì không màng đến chiên, khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy trốn. Chỉ có người chăn chiên thương chiên mình thì mới thí mạng sống vì chiên" (Yn 10,1-14). Chàng chiến đấu bảo vệ chiên. Chân rướm máu vì núi đá. Tay ê ẩm vì phải chống cự. Trận chiến nào cũng có phần thua thiệt. Lời Kinh Thánh đã loan báo: "Cứ chủ chiên mà giết thì đàn chiên sẽ tan tác" (Mt 26,31). Biết thế, sói tấn công chàng, sói muốn ăn thịt chiên. Nỗi đau của chàng không phải là thương tích chàng phải mang, mà là những tiếng kêu của chiên con bị thương. Nhìn vài con chiên nhỏ phải đi tập tễnh, lòng chàng như tơ chiều chùng xuống. Thương yêu quá đỗi. Chiên thì chẳng biết tâm sự chủ mình. Chúng cứ vô tư.
Ðó có là tâm tình của Chúa đối với con người?
*********
Người chăn chiên biết đâu là cỏ non. Nơi nào có suối trong lành. Chiên chẳng biết gì. Nhưng làm sao để chiên nghe lời chủ. Ðấy là nỗi khổ tâm của người chăn chiên. Ðó là nỗi khổ tâm của Chúa đối với nhân loại.
Khi chợt thấy bãi cỏ xanh trước mắt, mầu xanh quyến rũ. Bầy chiên nôn nao ùa tới. Cũng như con người trong lúc hoang vu, buồn chán, chợt thấy bóng hạnh phúc mờ ảo, cứ ngỡ là cơn mưa tươi mát, đã sa ngã. Người chăn chiên thì biết đám cỏ xanh kia tuy có đẹp nhưng nó mọc trên đám bùn, nơi đó đầy đỉa độc và rắn xanh. Nếu chiên đến ăn sẽ sa lầy, sẽ bị đỉa cắn, sẽ bị rắn độc giết chết. Ðằng sau mầu xanh đẹp mắt là thuốc độc. Nhưng chiên đâu biết thế. Chiên cứ muốn xuống. Chiên chẳng nghe lời chủ. Và người chăn chiên se sắt cõi lòng khi thấy chiên mình chết.
Chúa cũng vậy, bao lần con người đã đi tìm hạnh phúc giả trong tội lỗi. Những hạnh phúc giả vì bất trung trong tình nghĩa vợ chồng. Những hạnh phúc giả vì gian tham bất chính, vì những rung cảm trái phép. Chẳng ai muốn hạnh phúc giả. Chỉ vì lười biếng đi tìm hạnh phúc thật nên thấy bất cứ đám cỏ xanh nào cũng chạy lại. Chúa biết rõ đâu là hạnh phúc đem bình an. Chúa cản ngăn và con người đã than trách. Chúa đau lòng. Nhưng biết làm sao. Vì thương chiên mình nên vẫn phải ngăn cấm. "Chúa thương ai Người mới sửa dạy, Người nhận ai làm con, Người mới cho đòn. Vì còn gì là con nếu người cha không dạy" (Hr 11,5-10). Sửa dạy thì có đau đớn. Nhưng nếu không sửa dạy thì người cha không còn là cha nữa.
****************
Trên đường dẫn chiên đi, bao lần chiên kêu gào oán than chủ. Chiên cứ muốn dừng nghỉ, nhưng chủ biết phải đi nữa mới có cỏ tốt, suối lành. Chủ cũng biết chẳng mấy chốc nữa mùa đông lại về. Phải vội vã mà lên đường. Chiên nào có hiểu vậy. Chúng mỏi chân. Chúng chán nản. Nhìn lịch sử cứu độ, khi Maisen dẫn dân qua sa mạc về Ðất Hứa, đã chứng minh rõ ràng điều đó.
Cũng trên đường đi ấy, có những liên hoan của bầy chồn, bầy heo đứng ca múa bên đường. Có những con chiên nghe tiếng cười đùa của bầy chồn, vui tai, xuôi lòng muốn ở lại. Nhưng chủ biết rằng nếu con chiên nào ở lại với bầy chồn, bầy cáo, chúng sẽ suốt đời cô đơn. Bầy chồn sẽ chẳng bao giờ săn sóc chúng, mà chúng phải nô lệ bầy chồn. Trên đường đời của con người cũng thế. Bao lần đi với Chúa, những tông đồ của Chúa đã muốn rẽ lối, phân vân ở ngã ba đường. Họ thấy con đường theo Chúa sao mà dài. Họ chẳng thể nhìn thấy đồi cỏ ở xa xa. Họ muốn theo lối rẽ để ở lại vui chơi theo tiếng mời gọi của thần tượng ảo ảnh. Trên đường về Ðất Hứa, dân Chúa đã bao lần than trách Maisen, họ đã dừng lại để thờ các tượng thần mà họ nghĩ là sẽ cho họ khoái lạc.
Sói rừng bao giờ cũng khôn ngoan. Chúng mang bộ mặt của những con thỏ hiền từ. Chờ chiên đến gần, chúng sẽ vồ bằng răng nhọn. Chúng đứng bên đường nhởn nhơ nô đùa. Bầy chiên phải theo chủ hoài thì nản lòng, muốn bỏ đồi cỏ xanh ở đàng kia. Chúng muốn đến làm bạn với bầy sói. Riêng chủ thì biết đằng sau tiếng cười là nước mắt. Bên này là nỗi vui, bên kia là chết chóc. Người chăn chiên thương chiên mình thì phải ngăn cản. Nhưng bầy chiên đâu hiểu thế. Không nghe lời thì người chăn chiên phải dùng roi mà đánh. Mỗi vết roi là lòng chủ lại thêm đau. Tâm hồn chủ chiên thì tan tác mà chiên cứ oán than.
Ðời người cũng vậy. Có người cha nào không lo âu khi thấy con mình đùa với vực thẳm. Chúa biết con người nghèo đói hạnh phúc. Chúa biết trong thực tế, cuộc sống của con người có nhiều nỗi đắng, con người dễ bị cám dỗ ăn những đám cỏ dại. Chúa biết con người không muốn bị sửa trị vì có đau đớn. Biết vậy, Chúa đã căn dặn: "Bị sửa phạt thì chẳng có vui, chỉ có buồn, nhưng nhờ đó mà được luyện tập và về sau mới thấy sinh lợi: tức hoa quả của bình an" (Hr 11,11).
*************
Tuy nhiên vẫn có những con chiên bỏ đàn, ở lại với bầy chồn, bầy cáo và nhận quê hương đó làm của mình. Ðã bao lần Chúa ngậm ngùi xót thương mà chẳng làm gì được. Khi một tâm hồn muốn bỏ chiên đàn mà đi, Chúa xót thương cho Chúa vì đã mất một người con. Ðể cứu vãn, Chúa dùng gậy mà đe dọa. Nhưng Chúa không thể đánh chết chiên mình được. Nó quyết định đi thì Chúa chỉ biết đứng nhìn, nuối tiếc mà thôi. Người chăn chiên thật thì thương chiên của mình.
Người chăn chiên bao giờ cũng khôn ngoan. Biết nơi nào có thể cho chiên dừng nghỉ, uống nước. Người chăn chiên biết từng con suối: "Ta đến để chiên Ta có sự sống và có một cách dồi dào" (Yn 10,10). Khi bất hạnh làm con người khổ thì bất cứ an ủi nào cũng như suối trong. Người ta dễ bị cám dỗ bỏ đời sống đức tin, muốn bám víu vào thú vui của trần thế. Chỉ có Chúa thấy rõ, đấy không phải là bóng mát hạnh phúc, suối trong bình an. Ðấy chỉ là bóng đen của những cơn mưa sắp đổ xuống. Thay vì phải đi nhanh, phải chạy trốn, con người lại muốn ẩn trú trong những bóng đen ấy. Rồi từ đó, bất hạnh lại nẩy sinh bất hạnh. Túng thiếu lại nẩy sinh túng thiếu.
Vì bản tính của chiên là chiên, nên những con chiên bỏ đàn đi, nó sẽ chẳng bao giờ tìm được căn tính của mình. Từ đó, cuộc đời sẽ trôi dạt, hạnh phúc sẽ là những bóng mây chợt qua. Khi tôi lìa xa Giáo Hội là đàn chiên Chúa, tôi sẽ thao thức, bất an.
***********
Trên đường đi đến đồng cỏ, chắc chắn sói sẽ đến. Chắc chắn có giao tranh, Nhưng hạnh phúc của bầy chiên là chủ chiên không bao giờ bỏ bê. "Chiên của mình, Ta gọi tên từng con một" (Yn 10,3). Sói rừng chỉ bắt được những con chiên bỏ đàn đi rong chơi một mình. Giáo Hội là nhiệm thể có lửa của Chúa Thánh Thần sưởi ấm. Những viên than nằm riêng rẽ chẳng bao lâu gió sẽ làm nguội tắt. Nó tự làm cho đời sống mình nên khô cằn và cũng làm cho bếp than kém hồng vì mất đi một phần tử.
Cũng trên đường đi đến đồng cỏ, núi đá có thể làm đau chân chiên con. Nó có thể mang thương tích và chẳng thể kịp với đàn chiên. Nhưng chỉ cần cất tiếng kêu là chủ sẽ đến và bồng nó trên vai mà dẫn đi. Người chủ thương chiên mình thì chẳng bao giờ vì chiên con yếu đuối không đi kịp đàn chiên mà bỏ rơi nó. Chủ chiên hãnh diện vì những con chiên khỏe mạnh nhưng lại thương những con chiên bé bỏng, yếu sức. Chúa cũng vậy, một tâm hồn mang nhiều thương tích là tâm hồn được Chúa yêu thương đặc biệt: "Có cần lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà là người đau ốm" (Lc 5,13). Khi người ta trách Chúa tại sao lại ngồi chung bàn ăn với người tội lỗi. Chúa đã trả lời như thế. Câu trả lời ấy cho tôi nhiều an ủi.
Trong cuộc sống, Chúa chẳng bao giờ quên những tâm hồn lạc lõng. "Ai trong các ông giả sử có một trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ 99 con còn lại mà ruổi theo con lạc cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó sao?" (Lc 15,4-7). Chính vì thế mà Chúa đã đến. Chỉ cần cất tiếng kêu, Chúa sẽ đến như người chăn chiên bồng chiên mình trên vai mà đi. Trong vòng tay chủ chiên, con chiên đã mang thương tích sẽ được ngủ bình yên vì người chăn chiên quá thương nó.
Người chăn chiên mừng vui biết bao khi tìm thấy chiên mình. Nhưng nếu chiên không về thì sao?
- Nỗi nhớ thương sẽ hằn sâu trong tim và người chăn chiên sẽ mãi mãi thao thức. Sợ nó chết trên đường cô độc, người chăn chiên sẽ dõi theo vết chân nó, vì nó vẫn thuộc đàn chiên mình.
Ðó là nỗi lòng của Chúa, người chăn chiên tốt lành.
Lm Nguyễn Tầm Thường - trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc
Sâu đo trên cành cao. Sâu bò ở đất thấp. Không người làm vườn nào mà không ghét sâu. Một sáng ra vườn, thấy lá non bắt đầu héo, có thể trời hanh nắng quá chăng? Người làm vườn tưới nước mát mà hoa cứ héo thêm. Vết thâm cứ đen trên màu da xanh. Cánh lá rơi dần. Người làm vườn thương cành hoa nhiều hơn. Nhưng định mệnh sâu đem đến là sự chết. Mỗi sáng lá cành cứ héo hơn. Hồn người làm vườn cũng theo đó mà khô thêm.
Vết Sâu Đi
Cái gian nan của vết sâu cắn là thế đó. Cành cây chết dần trong nỗi khát khao sự sống. Người ta ghét sâu, tìm cách giết sâu. Sâu khôn ngoan biết thầm lặng. Vết chân sâu đi rất kín đáo. Tiếng kêu của nó rất vô hình. Và ngay màu sắc của sâu cũng khôn ngoan vô lượng. Có loại sâu vàng, có con màu xanh, có loại pha sắc. Sâu biết đo đường dài mà buông chân, biết thích nghi rất tuyệt vơi với mỗi khu vườn nó sống. Lá cây màu gì thì sắc hình của sâu chiều theo màu ấy. Giống như đam mê chiều theo khao khát của những cám dỗ vậy. Vì thế mà người làm vườn khó mà nhìn thấy sâu. Cũng chả mấy ai nhìn rõ nhu cầu lẫn trong đam mê của mình như thế nào đâu nhỉ.
Sâu không ưa ánh sáng mặt trời. Nó giấu mặt đằng sau cánh lá. Cuộc đời mỗi cánh lá có mặt phải và trái. Sâu thích sống trên mặt trái mà thôi. Chờ bóng tối đên, đợi thờ ơ của con người mà sâu âm thầm gỡ lối ra đi, đưa vết chân sâu vào những vùng lá non xanh khác. Đi tìm sâu phải vất vả mới thấy. Phải quay ngược mặt mình trong những thế nhìn không bình thường. Có khi sau một đêm trăng thôi mà cánh lá nào cũng bị sâu gây thương tích. Sâu sợ mặt trời và có sức mạnh tàn phá trong bóng tối. Có thể gọi đó là loại sâu đêm.
Lại còn sâu ngầm dưới đất. Không biết vết chân sâu đi về đâu. Chỉ thấy sự chết. Sâu này tàn phá đau xót lắm. Cũng giống linh hồn và những ẩn kín của một lương tâm gian dối. Nhìn cánh lá bị xâu cắn, xem hoa trái bị vết sâu đi qua, người làm vườn tiếc làm sao. Trái khô khẳng, hoa mất duyên dáng tươi xinh. Và linh hồn có sâu cũng nhạt nhẽo buồn đời dửng dưng. Bởi đó, người làm vườn muốn có hoa thì phải có những cái nhìn nỗ lực hết sức để mà kiểm soát sâu. Phải đề phòng. Phải gìn giữ ngõ lối cổng rào. Và, cách riêng là phải nhìn vào mặt trái của màu xanh cuộc đời những cánh lá trong khu vườn linh hồn.
Xám Hối
Xám hối của tâm hồn là đi tìm những vết sâu cắn. Không có xám hối nếu không nhìn vào mặt trái của cuộc sống. Những vết sâu cắn, những đường chân sâu đi trong tâm hồn cũng giống vậy. Chúng ẩn dạng mựt sau. Mặt trước có thể là lời kinh, nhưng sau lời kinh ấy có thể là khoe khoang. Mặt trước là công việc bác ái, nhưng mặt sau có thể là dụng ý riêng tư cho những kế hoạch không ngay lành.
Có sâu thì sớm muộn gì cây cũng chết. Linh hồn mang vết sâu cắn sẽ không hạnh phúc. Có tiếng cười nhưng không bình an. Có điềm nhiên nhưng vẫn bấp bênh lo sợ. Nó giống như loại sâu đo nằm kín dưới lòng đất tối. Có thể gọi rõ hơn cho những vết chân sâu này một định nghĩa, đó là tội. Tội có sức truyền sinh, từ tội này sinh ra tội khác, cũng giống sâu vậy, sâu không ở riêng một mình, một chỗ. Tội thích bóng tối. Tội muốn được giấu kín. Tội tàn phá.
Người làm vườn chờ mặt trời lên mà tìm vết sâu đi. Xám hối là nhờ ơn Chúa mà tìm ra tội lỗi của mình. Tội là xấu. Không có lý do để biện minh cho tội được. Xám hối là nhìn vào thực tại xấu đó mà tiếc nuối. Nếu người làm vườn không đau lòng khi thấy cánh lá bị héo thì sẽ không có chuyện giết sâu. Và thực sự, lúc ấy cũng chẳng định nghĩa được đó là một người làm vườn nữa. Không có dung hoà giữa sâu và sự sống của luống rau thì linh hồn cũng vậy, không có chung sống giữa tội và bình an vui tươi của tâm hồn.
Người làm vườn phải đau lòng trước sự chết của luống rau. Nỗi đau càng sâu thì sự chán ghét loài sâu mới càng cao. Sự chán ghét này là nền tảng xây hy vọng cho một mùa màng kết trái. Bởi đó, nỗi đau là yếu tố cần thiết. Để cho nỗi đau càng sâu thì người làm vườn càng phải kiếm thêm nỗi đau, phải xúi giục mình đau. Người làm vườn có thể tìm kiếm nỗi đau bằng cách nhìn luống rau xanh tươi mà khêu lên lòng xót xa trong mình trên những luống rau đang bị tàn phá. Và nghe thật kỹ tiếng than im lặng của đọn lá đang héo. Tiếng than như một lời kêu, một lời tố cáo đến từ một tác phẩm của chính mình, mà loài sâu kia là thách đố tàn phá nó.
Đối với linh hồn cũng vậy, nỗi đau cần thiết đến độ ta phải cầu xin cho được niềm đau. Thiếu đau đớn sẽ không có sám hối. Đau đớn là thềm cửa bắt đầu của một thay đổi. Một sự thay đổi trong cuộc sống bao giờ cũng có tiếng gọi nhìn rõ hạnh phúc ở tương lai. Đau đớn vì sợ mất hạnh phúc ấy là đòn bẩy bật ta ra khỏi những ngày cũ kỹ. Đấy là lý do tại sao niềm đau rất quya hoá. Phải có hối hận qúa khứ thì mới có hướng vào tương lai. Niềm đau này chính là hối hận đó. Để có hối hận và tiếc nuối, ta phải nhìn vết sâu cắn trong linh hồn, như người làm vườn nhìn lại tháng ngày nặng vai gánh nước, trầy tay rẫy cỏ. Bây giờ hoang vu.
Sâu Trả Nợ Đời
Ngày còn bé, tôi thích bắt bớm. Bướm đẹp. Nắng hạ hanh giòn với bầu trời trong vắt. Bên góc vườn nhỏ, những chú bướm bé con bay nhởn nhơ. Chúng cho bụi xả, khóm gừng một cái duyên mềm mại thanh bình của buổi trưa hè. Nhưng cánh bướm trên cành phượng, trên giàn thiên lý, chúng đẹp làm sao. Màu sắc con nào cũng rực rỡ. Nhờ có bướm mà cánh phượng mới rực và gian thiên lý mới thêm hương. Bướm rủ nhau đi trẩy hội ở đâu mà vui như thế. Bướm cho không gian thinh lặng của tháng hạ thành êm ả. Bướm gieo tung tăng vào thời gian. Vắng cánh bướm, vũ trụ sẽ mất bao vẻ đẹp.
Ngày xưa, tôi chỉ thích bướm vì bướm có nhiều màu sắc. Tôi đâu biết đời bướm ra sao, đâu có hay mỗi con bướm là một cuộc đời rất ly kỳ. Trước khi thành bướm, nó là một con sâu trông ghê gớm. Nó là những cái trứng rơi trên ẩm mốc. Có một thời mà mỗi con bướm là một kẻ thù của hoa. Nó cắn rách những cánh lá non xanh. Vết chân sâu đi tới đâu là ghẻ lở tới đó. Vết sâu cắn của nó là thương tích cho đọn lá đơn sơ. Tội nghiệp biết bao cho những cánh hoa mỏng manh. Trong thời gian làm sâu này, hình dáng của nó sần sù trông ghê rợn. Nó như một thứ ôn dịch của tối tăm.
Hôm nay, nhìn những cánh bướm bay, tôi không còn đuổi bắt bướm như ngày còn bé chỉ thích màu sắc của bướm nữa. Hiểu lịch sử ly kỳ của nó, tôi thấy bướm càng đẹp hơn xưa nữa. Nét đẹp kín đáo lắm. Không phải cái đẹp bên ngoài mà thôi nhưng là nét đẹp từ cuộc đời của bướm. Nét đẹp từ tháng ngày làm sâu xấu xa và ngày lột cỏ con người cũ thành cánh bướm lộng lẫy duyên sắc. Tôi gọi những ngày làm sâu của bướm là những ngày tội lỗi. Ngày lột vỏ bỏ đi theo tiếng gọi trong bầu trời là phục sinh trong Chúa Kitô.
Tôi hình dung ngày bướm đẹp cho hoa là ngày bướm làm lại cuộc đời. Bướm nuối tiếc những ngày làm sâu đã cắn nát biết bao cánh lá còn non yếu. Bây giờ, bướm đền bù lại bằng buổi sáng, bằng cả buổi chiều chăm chỉ làm đẹp vườn hoa. Tôi thấy hoa và bướm không thể xa nhau. Hoa thương bướm và bướm mà không có hoa thì bơ vơ lạc lõng như thế nào. Chắc là hối hận lắm những ngày làm sâu cắn nát chùm lá xanh non kia, nên bây giờ cứ rộn rã bay, cứ bên hoa mà quấn quýt.
Hôm nay, tôi nhìn bướm như cánh màu chói chang của một mùa xuân xám hối ăn năn tuyệt đẹp. Những ngày làm sâu tàn phá bao nhiêu thì hôm nay chăm chỉ làm đẹp cuộc đời bấy nhiêu. Mỗi cánh bay tùn tăng là bướm muốn nói lên tiếng nói từ bỏ quá khứ tội lỗi. Mỗi màu sắc khoe nắng là bướm muốn làm rực lời nói xám hối thiết tha.
Hôm nay, tôi yêu loài bướm vì nó như hình ảnh ước mơ cho tâm hồn. Một thủa linh hồn là loài sâu xấu xa. Tương lai mong là cánh bướm trả nợ cho mình và cho đời. Trả nợ của cánh bướm là cho đời duyên sắc, cho hoa bạn đường. Xám hối của bướm là bay trong trời xanh cho xôn xao hồn tuổi thơ, cho đẹp một khung trời, cho ngỏ ý của những hình ảnh thơ mộng yêu thương. Chớ gì linh hồn tôi cũng trả nợ đời và trả nợ mình như thế.
Chắc là hối hận lắm những ngày làm sâu tối tăm, nên bây giờ cứ bay, cứ theo gió mà buông cánh. Tôi muốn nhìn cánh bướm mà mơ cho linh hồn như thế. Chán những ngày ủ dột không có tự do, hối hận cho những ngày luẩn quẩn trong u buồn của tội luỵ, tôi muốn linh hồn là cánh bướm bay trong nắng rực rỡ tự do và bình an rất ấm của Chúa.
Cất Cánh Bay
Cứ mỗi mùa Chay trở lại là một mùa màu tím trải trên bàn thờ. Nhắc nhở xám hối của màu tím mùa Chay là nhắc nhở của cánh bướm. Không phải là máu tím của hoa sim, tím rồi tan theo cuối ngày. Không phải là màu tím của tà áo im lặng mỏng manh. Xám hối của mùa Chay là nhắc nhớ đau đớn thiệt hại mà linh hồn phải chịu vì tội lỗi là những con sâu làm tổ trong linh hồn. Màu tím buồn nhắc tôi nhớ về tiếng thở đau đớn trên thân hình Đức Kitô phải chịu đóng đinh vì tội của tôi. Màu tím buồn nhắc tôi những ngày sâu lặng lẽ và lặng lời trong một thế giới khuất nẻo, cô tịch.
Chúa cho tôi cánh bướm để nói với tôi về ý nghĩa của xám hối. Xám hối không có nghĩa là nhìn về quá khứ rồi ôm giữ quá khứ. Quá khứ đã qua rồi. Khi người con đi hoang trở về trong Phúc Âm Luca, tôi không thấy người cha hỏi rằng nó đã đi những đâu, tiền bạc ngày xưa đem đi tiêu những gì. Người cha im lặng với quá khứ. Người cha hướng đứa con nhìn về tương lai: “Mau mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu” (Lc 15:22). Vâng, tà áo màu của những cánh bướm.
Tôi cần nhìn vào quá khứ để tìm niềm đau. Tôi cần niềm đau để xám hối được trọn vẹn, để rực lên cánh bướm tuyệt sắc, chứ không phải để nhìn về quá khứ với niềm đau chán nản xót xa. Niềm đau vì tội lỗi là niềm đau Chúa muốn nói với tôi qua cánh bướm. Con người dùng lỗi lầm của quá khứ mà chì chiết nhau, rồi tự đay nghiến chính mình. Cánh bướm nói với tôi về Phục Sinh. Những ngày làm sâu xấu bao nhiêu thì xám hối là rực lên niềm vui, làm đẹp cho đời và cho chính mình bấy nhiêu. Cánh bướm luôn bận rộn với nắng, với gió, với hoa. Bướm sẽ chết trong bầu trời xanh ngắt cho duyên sắc bay trên ngàn cánh hoa. Bớm không bay về quá khứ làm sâu nữa. Quá khứ qua rồi. Buồn chán qua rồi. Khi Madalenna đến tìm Chúa bên mồ, bà khóc than buồn bã. Chúa nói với bà: “Sao con lại khóc?” (Yn 20:15). Chúa đã Phục Sinh. Không còn tiếng khóc nữa.
Ngoài kia cánh bướm đang bay. Cuộc đời ở đâu cũng có những cánh bướm. Trời ở đâu cũng rất trong và rất cao. Mùa hạ luôn nôn nao và sẽ rất mênh mông. Chúa muốn nói với tôi :
Con hãy cất cánh bay. Cha muốn con là cánh bướm hạnh phúc bay trong cuộc đời.
Tôi xa Việt Nam năm 24 tuổi. Quê hương bỏ lại. Bố đi cải tạo. Một mình mẹ nuôi 7 đứa em. Làm người con trưởng, tôi ra đi với nhiều trăn trở. Mẹ và các em ở lại sống ra sao?
Ở tuổi đó, người thanh niên phải có một hướng đi rõ rồi, nhưng hoàn cảnh thay đổi khắc nghiệt làm hướng đi đời tôi băn khoăn hơn. Băn khoăn lớn nhất là không biết Chúa còn tiếp tục gọi tôi đi tu hay không. Chúa không hiện ra để nói rõ cho tôi biết tôi có ơn gọi hay tôi cần phải đổi hướng đi. Tôi tiếc ơn gọi, nhưng tôi băn khoăn về cuộc sống mới của tôi và gia đình. Thời gian thật dài, thật trống trải. Bấy giờ tôi chỉ tin rằng Chúa không bao giờ im lặng mãi. Tôi tin rằng cứ cầu nguyện rồi Chúa sẽ cho biết.
Cho dến một ngày rất mệt, tôi lấy xe lửa từ Tournai xin đến một viện tu để tĩnh tâm, tu viện Soleimont.
Một chiều mùa thu, gió se lạnh. Tôi ngồi bên bờ đá, chung quanh vắng lặng. Giữa rừng thu có một cây khô trơ cành đã chết tự thủa nào. Tôi thấy cây khô ấy giống như đời tôi. Xa gia đình, xa tất cả. Tự mặc cho mình cánh áo sâud bi ấy, tôi cho đời người khác là rừng thu đẹp kia, còn tôi là gốc cây khô. Khi mình càng vin cho đời mình những hình ảnh sầu não thì cái nhìn về cuộc đời càng bi quan.
Rồi bất chợt, tôi nghe có tiếng chim hót trên cành. Lắng nghe, tôi thấy tiếng chim như cũng se sẽ hót trong hồn tôi.
Trời vừa xong cơn mưa, lá trên cành đọng nước, nhỏ giọt, làm bày chim ướt cánh. Chúng con thể đậu được. Nhờ cây khô chết không còn lá nên bày chim mới có thể thong thả dừng chân. Nhờ những cành khô ấy mà khu rừng mới có tiếng hót của bày chim. Không ngờ những cành cây khô giữa rừng thu đẹp kia lại cũng có một ơn gọi riêng trong rừng thu ấy.
Nhìn những cành cây khô, tôi cũng lại nghe như chúng đang muốn nói với tôi về ý nghĩa đời nó. Qua hình ảnh cành cây khô là chỗ dừng chân cho đàn chim cất tiếng hót, tôi thấy Chúa muốn tôi về ơn gọi của mình.
Như con nước nhè nhẹ dâng, tôi thấy lòng mình tự do dần dần. Rồi rừng thu cũng nhè nhẹ sang mùa, không phải sang mùa trên lá, trên cỏ cây mà trong hồn tôi. Tôi thấy dấp dáng một sự thong thả, một thứ hạnh phúc rất đơn sơ, nhẹ thôi, nó là sự bình an.
Tôi có ơn gọi đi tu không? Qua tiếng hót của bày chim, qua hình ảnh những cành cây lạc lõng, tôi biết lời cầu xin đã được Chúa đáp trả, cảnh cửa im lìm bắt đầu mở, nắng ấm đã dọi trong hồn lạnh sau một thời gian dài.
Trở vào nhà nguyện, tối một mình bên Nhà Chầu, ánh đèn rất ấm cúng thiết tha. Hình ảnh những cành khô giữa mùa thu lá vàng se lạnh và tiếng hót trong khu rừng thu vắng đẹp như một bài thơ nhẹ đọng xuống linh hồn. Nhẹ nhàng mà có sức mạnh thiêng liêng xoá đi hết những muộn phiền phân vân. Linh hồn tôi bình an lạ thường, và ơn gọi đi tu trở nên mãnh liệt hơn lúc nào hết.
Trong lá thư gởi tôi, em hỏi: “Làm sao Cha biết Cha có ơn gọi đi tu?” Tôi hiểu là em cũng đang băn khoăn như tôi thủa nào. Em muốn theo đuổi ơn gọi nhưng phân vân. Tôi lưỡng lự, không biết viết cho em một lời khuyên, hay trả lời em bằng ngôn ngữ sách tu đức. Sau cùng, tôi chọn cách trả lời em như một người đi trước, viết cho em cảm nghiệm của tôi, nhưng bằng ý từ ngôn ngữ thi ca. Bởi, trong hình ảnh thi ca, em có cả một vùng trời sáng tạo để bước vào. Tôi xin gởi em:
Tiếng Gọi Bên Rừng Thu
Có nhiều bài thơ về mùa thu. Người ta hay nói đến mùa thu như những khung trời mang nhiều chia ly. Nhìn cánh lá rơi, gợi một nỗi cách xa. Gió nhẹ thôi mà lá thu cũng giã từ. Cứ nhìn những cánh lá lặng lẽ ra đi, mùa thu sẽ nói với người lữ khách “mùa thu không trở lại”. Có giã từ, nên những tâm tình trong mùa thu hay mang lời ru: “mùa thu đã chết rồi”. Chia ly là định mệnh, con người cũng thế thì cỏ cây cũng vậy, chẳng nên trách mùa thu là khung trời xa cách, là bóng người phân ly. Đối với tôi, mùa thu có chia ly nhưng bao giờ cũng đẹp. Trời thu bao giờ cũng dịu và nhất là khi có tiếng thu thì mùa thu huyền dịu biết bao.
Kính lạy Đức Vua, như người hành khất, con đến trước cửa nhà Người trong trời thu gió ẩm sương. Lối cỏ ướt. Đường đi yên tĩnh vắng người qua lại. Có phải mùa thu là tiếng thở cuối mệt mỏi của thời gian báo cho người hành khất tìm chỗ trú thân vì gió đông sắp tới? Gió đông lạnh làm cỏ cây khô cứng, nó là một không gian không còn niềm vui, chỉ có im nìn. Nếu so sánh đời một người chỉ có thể ví trong đời người cũng giống như những tháng ngày u ám, đang dẫn dần người đó đến lối chỉ còn là nặng một cõi lòng. Người hành khất bên rừng thu như thế cũng giống như con đường thiêng liêng mà một linh hồn đang lạnh vì không thấy hơi ấm của niềm tin, không thấy Thượng Đế đâu trong cuộc sống, đang lo âu tương lai. Bấy giờ gió ẩm của sương là nỗi lạnh thâý linh hồn bơ vơ. Trời mù hơi nước là băn khoăn của con đường thiêng liêng không biết phải quyết định làm sao, đâu là lý tưởng, con đường nào phải theo.
Kính lạy Đức Vua, như người hành khất, con đến trước cửa nhà Người kể lể câu chuyện về một mùa thu ẩm lạnh hơi sương. Như Người biết, khi mùa thu đến là gió có heo may, có những cánh chim giang cánh tìm nắng ấm và có những chuyển màu huyền nhiệm trên sự sống của cỏ cây. Đường thiêng liêng của linh hồn trong thời gian mùa thu cũng vậy, bối rối và u sầu, muốn bay mà cứ chập chừng, muốn tin mà cứ ngờ vực, muốn đi theo tiếng thôi thúc của linh hồn mà cứ phân vân vì không đủ hơi ấm. Người hành khất trong mùa thu cũng thếm biết mình phải vội vã tránh mùa đông mà không biết phải làm gì, cứ dùng dừng cho thấm cảm hơi gió. Đi lẻ loi bên rừng chiều ẩm hơi nước là lúc người hành khất thèm nghỉ ngơi, là lúc người hành khất mơ tưởng được trú thân và bấy giờ, căn nhà của Đức Vua là nỗi khát khao như thế nào trong hồn con.
Kính lạy Đức Vua, khi rừng thu chuyển màu trên cánh lá, mùa thu đẹp lắm, duyên dáng và tình tứ, nhưng Đức Vua nhìn kìa, buồn làm sao giữa một rừng thu mơ màng thế mà lại lẻ loi một thân cây đã khô chết tự thủa nào. Chung quanh nó là màu vàng của lá, màu hường của nắng, là mùa thu đang về. Nhưng với cành cây khô, không còn dáng lá, nó như một ngôi mộ lạc lõng bên bờ đồi. Đời của một người hành khất có như thế chăng? Khi mà chiều xuống, có tiếng trẻ thơ vui đùa giòn giã trong căn nhà ấm cúng, khi mà có yêu thương của vợ chồng bên chiều ấm lửa thì người hành khất bước lên đường một mình. Trong đường thiêng liêng, đấy có là hình ảnh của con khi con thấy Đức Vua như bỏ rơi con trên cuộc sống, chung quanh ai cũng là mùa thu rực màu mà con là thân cây khô chết lạc lõng một mình giữa không gian.
Lời Của Rừng Thu
Con yêu mến, nói về mùa thu, Ta cũng muốn nói với con về Tiếng Thu, tiếng gọi của mùa thu là tiếng gọi rất êm, nhẹ như lá thu bay trong đời. Ta biết cành cây khô trong chiều thu, giữa một trời đất rừng thu đang chuyển màu, mà riêng mình nó chơ vơ không còn vương một cánh lá chắc nó sẽ thấy lạc lõng. Và bất cứ người hành khất nào khi đi ngang qua rừng thu ấy, nhìn thấy lẻ loi một thân cây chết như thế cũng sẽ thấy đó là hình ảnh chính đời mình. Giữa một bìa đồi xanh bao la, vàng mênh mông, giữa một rừng thu vi vu tiếng lá mà chỉ có một thân cây chơ vơ ai mà không thấy le loi, khi người hành khất bước lên đường vào những chiều se lạnh, nhìn qua khuông cửa, thấy trong căn nhà người khác là ấm cúng, người hành khất nào cũng nhìn xuống đời mình như kẻ sinh ra dưới vì sao xấu. Đường thiêng liêng của một linh hồn cũng không khác lắm đâu, lúc qua những con đường đêm tối của niềm tin, họ thấy như Thượng Đế bỏ rơi, họ thấy chung quanh ai cũng là người hạnh phúc, trừ riêng mình họ, cô đơn, đau yếu, nghèo túng, sao mà vất vả gian nan, cầu xin mà như không thấy tiếng vọng đáp trả.
Con yêu dấu, Tiếng Thu nhẹ vì là tiếng rì rào của gió, của lá hoa cỏ cây, nên con phải lắng nghe với trái tim của người hành khất đi tìm thi ca, chứ không phải của trái tim người hành khất đi tìm của ăn.
Trong cuộc đời, ai cũng là hành khất, nhưng có nhiều loại hành khất trong đời lắm. Hành khất đi tìm vẻ đẹp, hành khất đi xin sự hiểu biết, hành khất tình yêu, hành khất tiền bạc, hành khất xin ăn.
Tiếng Thu chỉ nói với con tim hành khất đi tìm lý tưởng, muốn nghe Tiếng Thu, cần con tim hành khất của kẻ chấp nhận làm hành khất như Đức Kitô. Ngài hành khất tình yêu nơi Chúa Cha. Gởi niềm tin trọn vẹn nơi Đấng sai Ngài đi. Con phải nhìn lại thái độ làm kẻ hành khất của mình.
Con là hành khất đi tìm vẻ đẹp không?
Bên rừng thu ẩm ướt hơi sương, mưa chiều làm cánh thu ướt lá. Con có nghe bày chim buông lời hát vang khu rừng làm cả chiều thu mênh mông? Con có thấy những cánh chim tinh nghịch muốn bay xa, chờn vời với mùa thu trong chiều ấy?Bao nhiêu lần nó muốn rời cành cây khô, đậu xuống những tàn lá xanh màu, xum xuê, nhưng cơn mưa còn ướt sũng, con có thấy những giọt nước mưa trên tàng lá xanh màu kia rơi xuống làm chúng ướt cánh? Con có thấy chúng lại bay về đậu trên nhánh cây khô? Nếu rừng thu không có cành cây khô ấy cho bày chim nghỉ chân thì khu rừng chiều đó im lìm lắm, không có tiếng chim ca. Những cành cây khô ấy không còn dáng lá mùa thu, nhưng nó là chỗ nghỉ chân cho bày chim. Con không thấy rằng nhờ chính cây khô ấy mà bầy chim ráo cánh và đã hát vang khúc nhạc chiều thu hay sao?
Đường thiêng liêng cũng vậy, con có thể là người hành khất trong đời, nhưng là hành khất đi tìm ân sủng hay đi tìm gì?
Con có thể là thân cây khô giữa một rừng cây xanh tươi, nhưng mỗi con người có một ơn gọi, một lối đi mà con không nên so sánh. Khi thấy mình bơ vơ là lúc con cần lắng nghe tiếng nói nhiệm mầu của rừng thu. Khi gió làm rơi những cánh lá mùa thu, cũng như khi đời gởi tới con những nghi ngờ, hoang mang, con dễ nhìn thấy chia lìa, sầu muộn trong hình ảnh mùa thu chết. Nhưng trong cánh lá rơi con có thấy rực lên huy hoàng của màu sắc kỳ diệu?Lúc “mùa thu chết” cũng là lúc lá thu chuyển mầu sự sống nhiệm lạ cho một sự thay đổi vô cùng sinh động trong mùa xuân. Con hãy nghe Tiếng Thu trong tâm hồn một kẻ nghe mùa thu vi vu trong khúc nhạc của bầy chim. Con hãy nhìn đời mình như bến đỗ cho bầy chim dừng chân hát vang. Chính nhờ cành cây khô mà mùa thu mới có tiếng hát, mùa thu mới thêm lãng mạn thi ca, thì đấy không phải là cành cây khô ấy đã vẽ nên mùa thu không phải bằng màu sắc mà bằng vẻ đẹp thiêng liêng đó sao.
Con yêu dấu, Ta có thể dùng con trong những công trình trong tay Ta. Miễn sao con là kẻ hành khất đi tìm chính Ta.
Ta muốn con là cành cây khô, là mùa thu không có cánh lá thu. Ta không muốn con làn cho khu đồi đẹp vì dáng lá, mà đời con là chỗ dừng chân cho tiếng thu reo. Nếu con thấy nhờ cành cây khô chiều đó cho bầy chim nghỉ chân hát vang mà mùa thu vào thu ca, thì con thấy đời con là một ẩn số trong công trình sáng tạo của Ta. Nếu con nghe Tiếng Thu trong cung cách ấy thì con đã đến trước cửa nhà Ta rồi, mùa đông có đến con cũng không lo vì nhà Ta đã mở cửa chờ con, và trong mùa đông lạnh con có thể thảnh thơi nghe tiếng mùa thu đang trở lại, mùa thu không chết, thu êm đềm và hạnh phúc.
Ta gởi con: Tiếng Gọi Bên Rừng Thu. Đấy không phải là quà tặng cho con đó sao.
Em thân mến, là người tu sĩ trẻ, em đang băn khoăn không biết Chúa có gọi em thật không. Mỗi người có một con đường riêng em ạ, Chúa có cách trả lời riêng cho em vì Chúa biết rõ em. Em đừng so sánh mình với người khác, hãy tin tình yêu Chúa dành riêng cho em. Chúa đã gởi tôi Tiếng Gọi Bên Rừng Thu, tôi cũng xin gởi lại em như một quà tặng. Có thể Chúa trả lời em bằng tiếng gọi trong mùa đông, bằng nắng của mùa hạ, hoặc biết đâu bằng hương sắc mùa xuân.
Em thân mến, như con con sâu bướm, khi thoát xác bay cao, nó là cánh bướm thật đẹp, khi cánh cửa im lìm mở ra, ngoài kia trời xanh lồng lộng sẽ đẹp lắm. Và tôi tin rằng đời em cũng thế, hãy đi theo ơn gọi, nếu có mệt mỏi của niềm tin mù mờ hãy nghĩ đến cánh bướm, đến hy vọng, đến tiếng Chúa đang gọi rất dìu dặt, rất thơ mộng ở chung quanh bước chân em đang đi.
Ai cũng muốn tránh yếu đuối. Ngoài đời sống xã hội, yếu đuối là những tà áo khác nhau mà người ta phải khoác. Có thể là nghèo túng, có thể là cô thân, cô thế, có thể là thiêu khả năng… Nhiều khi vì yếu đuối mà bị khinh rẻ, vì yếu đuối mà bị thiệt thòi. Yếu đuối trong ý nghĩa thiêng liêng là sa ngã vì cám dỗ. Dù yếu đuối dưới phương diện nào đi nữa thì yếu đuối cũng vẫn là những cánh áo không ai muốn mặc. Đáng buồn. Bởi đó, trốn chạy được bao nhiêu thì trốn. Giấu đi những yếu đuối được phần nào hay phần đó.
Vậy mà Phaolô lại bảo: “Nếu cần phải vinh vang thì tôi chỉ vinh vang về sự yếu đuối của tôi thôi” (2Cor 11:30).
Tôi có thể giấu được phần nào yếu đuối, không để lộ cho kẻ khác biết, nhưng tôi không trốn chạy được yếu đuối. Trên đường đi cuộc đời, chỗ nào cũng có yếu đuối. Yếu đuối gặp trong lúc đi đường. Có khi đường đi dẫn đến yếu đuối.
Tôi có thể tránh được phần nào chứ không tránh hết được yếu đuối. Nỗ lực tránh lầm lỗi là tiếng gọi phải theo. Nhưng bất mãn vì không tránh hết được là tự kiêu.
Yếu đuối là một phần bản tính, tìm sự trọn hảo không bao giờ vấp ngã là tìm sự thất vọng. “Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai nhi trong bụng mẹ” (Tv 51:7). Yếu đuối tự trong bản chất của mình rồi, làm sao tôi có thể huỷ bỏ được nó. Chính vậy, không nhìn nhận mình có yếu đuối sẽ rơi vào vực sâu thất vọng, mất niềm cậy trông. Khi đó, tôi là kẻ không nhìn nhận chính mình. Trong ý nghĩa ấy, điều kiện đầu tiên để tìm sự thánh thiện là biết mình yếu đuối, và nhận mình yếu đuối.
Yếu Đuối Trên Đường Theo Chúa
Tội lỗi là kết quả của yếu đuối. Sự chết là tiền công của tội lỗi (Rom 6:23). Bởi đó, yếu đuối, tội lỗi và sự chết đi với nhau. Như lời thánh vịnh, từ thai nhi trong lòng mẹ tôi đã vương tội rồi, vậy làm sao tôi có thể tự cứu mình thoát khỏi vấp ngã vì yếu lòng.
Yếu đuối làm ta lâm vào lầm lỗi, sa ngã, mất giá trị. Nhưng trên đường đi, yếu đuối cũng có thể là điểm hẹn gặp Đức Kitô. “Con Người đến để tìm cứu những gì đã hư đi.” (Lc 19:10). Nhiều lần Đức Kitô vào dùng cơm trong nhà những kẻ tội lỗi. Trong yếu đuối, quyền năng của Chúa cũng được thể hiện. Chúa không cần sự yếu đuối như điều kiện để tôi gặp Chúa. Không phải để Chúa thể hiện quyền năng thì Ngài cần tôi phải yếu đuối. Nhưng là trong yếu đuối ấy, những gì đổ Ngài có thể chữa lành.
Thấy tình thương của Chúa trong yếu đuối thì yếu đuối sẽ biến đổi. Mất mát do yếu đuối gây nên là một đau khổ, nhưng cảm nghiệm được Chúa yêu thương là hạnh phúc cho mất mát. Yếu đuối gây khổ đau vì mình đánh mất chính mình. Nhưng cũng trong yếu đuối mà Chúa nâng đỡ thì tôi lại gặp được tôi. Có quăng đi của yếu đuối thì có nhặt lại của ơn sủng. Yếu đuối trên đường theo Chúa là yếu đuối hy vọng.
Bất hạnh lớn nhất của yếu đuối là yếu đuối không có Chúa, chứ không phải là tôi không thể tránh được yếu đuối. Trong yếu đuối, tôi vẫn có thể yêu cuộc đời. “Có cần đến lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà là kẻ đau ốm” (Mt 9:12).
Yếu Đuối Để Biết Người
Biết mình yếu đuối có khi chỉ đưa đến thất vọng. Biết yếu đuối của mình có khi chỉ là sống trong mặc cảm. Nó là thế giới bất mãn buồn chán. Yếu đuối là những vết đen của cuộc sống, nên có khi càng nhìn, càng thấy cuộc sống tối. Không muốn nhìn mình yếu đuối, mình vẫn yếu đuối. Tại sao Thầy Thượng Phẩm là đại diện cho loài người giao tiếp với Thiên Chúa để dâng lễ đền tội mà không thoát khỏi yếu đuối tư bề?
“ Chính Ngài cũng lâm phải yếu đuối tư bề để Ngài biết thương xót những kẻ u mê lầm lạc. Và vì yếu đuối, thì Ngài cũng phải dâng lễ đền tội cho mình như Ngài dâng lễ cho dân” (Heb 5:2-3).
Như thế, có thể tránh được yếu đuối không phải bằng cách trốn yếu đuối mà là đối diện.
Yếu đuối mà có Chúa cùng đi thì yếu đuối thành trông cậy. Biết mình yếu đuối mà cậy trông Chúa thì Chúa sẽ đi với tôi trong những phút yếu đuối.
Chính vì yếu đuối nên khi chưa yếu đuối tôi hay quên rằng tôi là người dễ sa ngã. Trong ánh sáng của cầu nguyện, yếu đuối sẽ nhắc nhở tôi về những giây phút tôi nghĩ mình không dễ sa ngã đó. Nhờ yếu đuối nhắc nhở, tôi xót thương những kẻ yếu đuối như tôi. Yếu đuối trong thái độ như vậy sẽ đưa đến hợp nhất.
Ghen tương xẩy đến là vì ai cũng giấu đi sự yếu đuối của mình và đến với nhau bằng sức mạnh. Không nhìn thấy đau khổ đằng sau nụ cười, vì thế mới có ghen tương. Bởi đó, một trái tim bán nhậy với những yếu đuối ẩn náu của tha nhân sẽ cho hồn mình thanh thản, đồng cảm. Đồng cảm là khởi đầu của mọi sự hiệp nhất. Không còn ghen tức nếu tất cả được yếu đuối nhắc nhở và rồi đến với nhau bằng sự yếu đuối. “Để khỏi sinh lòng kiêu căng về những ơn lạ ấy, Chúa đã đặt một cái dằm trong da thịt tôi, khác nào để một thủ hạ của Satan tát vả tôi, để tôi mất tự kiêu tự đắc” (2Cor 12:7).
Nếu vì yếu đuối của mình mà cho nhau hiệp nhất thì trong yếu đuối ấy tôi gieo trồng sức mạnh.
Yếu Đuối của Phaolô
Phaolô thự thú:
Ba lần tôi xin Chúa cất tôi khỏi cái dằm khổ cực ấy. Song Chúa phán bảo tôi rằng: “Oưn của Thầy đủ để hộ giúp con. Vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trong sự yếu đuối” Bởi vậy, tôi rất vui mừng và tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi (2Cor 12:8-9).
Phaolô bảo rằng nếu phải khoe khoang thì Ngài khoe khoang về những yếu đuối:
“Năm lần tôi bị người Do Thái đánh đòn ba mươi chín roi, ba lần bị đánh đòn, một bị ném đá, ba lần bị đắm tầu, và đã phải qua một ngày một đêm chơi vơi trong biển. Tôi còn hơn họ bởi hành trình thường xuyên, gặp bao nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm nơi thành thị, chốn hoang vu, ngoài biển cả, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn lao đao vất vả, bởi thường phải thức đêm, bởi đói khát, bởi nhịn ăn lắm bận, bởi chịu rét mướt trần truồng” (2Cor 11:21-30).
Lạy Chúa, đó là yếu đuối của Phaolô. Có khi con cũng nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người mình tin tưởng, bị lao đao vất vả, phải thao thức bởi nghèo đói, bởi lo âu, bởi túng thiếu. Mà sao những yếu đuối ấy chỉ là những tiếng thở dài ngán ngẩm cuộc đời.
Suy niệm về sự yếu đuối, con thấy có nhiều thứ yếu đuối khác nhau. Yếu đuối dại dột là không nhận mình yếu đuối. Yếu đuối thiệt thòi ơn thánh là không dám chấp nhận yếu đuối như Chúa. Chúa yếu đuối mới để người ta đánh đón. Chúa yếu đuối mới bị đóng đinh. Làm sao con có được một mất mát hết sức lớn lao. Phaolô dã không chịu để mất sự yếu đuối ấy: “Lại nữa, tôi vui thoả trong các nỗi yếu đuối, trong lăng nhục, trong quẫn bách, trong bắt bớ và cùng khốn vì Đức Kitô. Bởi khi tôi yếu đuối lại chính là lúc tôi dũng mạnh” (2Cor 12:10)
Lạy Chúa, khi bị lăng nhục, bị hà hiếp mà lại là lúc dũng mạnh, thì khi mình lăng nhục kẻ khác, làm cho kẻ khác phải yếu đuối, chắc chắn không phải là lúc có dũng mạnh trong trái tim mình.
Bước chân ăn trộm. Bước chân ban ơn. Chân bước ban ngày. Chân đi ban đêm. Trong những bước chân, lại có một bước chân rất lạ: Bước chân người lo huyệt mộ.
Nếu nói thánh tích cao điểm nhất ở Giêrusalem, người ta có thể nói Mộ Chúa. Nơi Chúa được táng xác và từ ngôi mộ trong lòng đất này, Chúa Phục Sinh. Bởi thế, lúc nào khách hành hương cũng xếp hàng chờ viếng mộ. Công Giáo và Chính Thống giao chia nhau giờ canh mộ. Những lúc đông khách hành hương, mỗi người chỉ được mấy giây, rồi người gác mộ mời ra ngay.
Tôi đăng ký dâng lễ ở đây lần thứ nhất vào 6:30 sáng ngày 27 tháng Tư, năm 2006.
Từ nhà trọ, tôi thức dậy sớm. Đường vào cổng thành còn tối tờ mờ. Đường trong thành lên đền thờ còn rất vắng. Chỉ một vài người Palestine đem rau vào chợ. Họ là những người đàn bà vào thành Giêrusalem sớm nhất.
Tôi lên đền thờ trong tâm trạng hồi hộp. Tôi đến Mộ Chúa. Nơi lịch sử cao điểm nhất của niềm tin Kitô Giáo: Chúa Phục Sinh. Nơi mà thánh Phaolô bảo nếu Đức Kitô không Phục Sinh thì niềm tin chúng tôi ra vô ích. Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng (1 Cor. 15:14).
Mộ đá trong đền thờ. Nghĩa là Đền Thờ Gôngôtha hôm nay là một Đại Vương Cung Thánh Đường xây bao trùm lên một khỏang đất rộng lớn. Bao gồm nơi chôn thánh giá ngày xưa và khu mộ đá. Để vào mộ, nơi táng xác, phải qua hai cổng vào. Cánh cửa bên ngoài rộng lớn như cửa nhà thờ. Hết giờ viếng mộ, người ta đóng cửa này. Đó là một cánh cửa gỗ dầy nặng. Ngoài cửa, phía trên cao là bẩy ngọn đèn lúc nào cũng cháy lửa. Những giây đèn chầu chắc là bằng vàng bạc, rất trang trọng. Sau cửa vào sẽ đến một cửa vòm cung bằng đá rất thấp. Phải cúi rạp đầu mới chui lọt qua. Ngay sau vòm cung ấy là mộ Chúa. Đúng ra là một chiếc hòm bằng đá. Trong đây, các giây đèn chầu cháy liên lỉ. Tất cả bằng vàng bạc. Tượng Chúa phục sinh bằng bạc gắn trên tường đá, dựng trên mặt hòm. Đây là lối tạc phù điêu rất mỏng, vì phải dành mặt hòm để làm bàn thờ dâng lễ. Không gian nơi đây rất chật. Chỉ có thể đứng được chừng năm người sát vào nhau.
Tôi đăng ký dâng lễ một mình. Một đoàn người xếp hàng ngoài kia phải đợi tôi dâng lễ. Thấy tôi vào mộ dâng lễ mà đi có một mình, ánh mắt họ thèm muốn, ước ao quá đỗi. Tôi nói với người coi mộ là có thể cho được ai muốn vào thì vào. Họ vội vàng chạy ùa tới. Sáu người chen chúc nhau đứng chật trong mộ. Họ là những người may mắn vì được dâng lễ nơi đây. Họ sung sướng quá chừng, tỏ lòng cám ơn tôi. Họ không ngờ được như thế.
MỘ ĐÁ
Việc táng xác Chúa được cả bốn Phúc Âm trình thuật. Tôi dùng cả bốn Phúc Âm để gom những áng mầu mà mỗi tác giả trình thuật hầu vẽ nên mộ đá hôm nay.
Ngôi mộ của ai?
- Chúa không có mộ.
Ngày sinh ra, Phúc Âm ghi nhận về Chúa Giêsu như sau. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ (Lc. 2:7). Chúa sinh ra không có nhà. Ngày về Giêrusalem rao giảng, Phúc Âm cũng ghi nhận như sau: Ban ngày, Đức Giêsu giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ôliu (Jn. 21:37). Chẳng nơi nào Chúa có nhà. Phúc Âm Gioan ghi thêm chi tiết là Sau đó, ai nấy trở về nhà mình. Còn Đức Giêsu thì đến núi Ôliu (Jn. 8:1). Mọi người về nhà. Đức Kitô đến núi Ôliu, vì không có nhà. Sinh ra không nhà. Chết giữa trời. Cả mộ cũng không có. Mượn mộ của người khác.
Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là Giosép, và cũng là môn đệ Đức Giêsu. Ông đến gặp ông Philatô để xin thi hài Đức Giêsu. Bấy giờ tổng trấn Philatô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. Khi đã nhận thi hài, ông Giosép lấy tấm vải gai sạch mà liệm, và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về (Mt. 27:57-60).
Ông Giosép là ai?
Theo Mátthêu: Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là Giosép (Mt. 27:57).
Theo Máccô: Ông là người thành Arimathê, thành viên có thế giá của hội đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu (Mc. 15:43).
Theo Luca: Khi ấy có một người tên là Giosép, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng (Lc. 23:50-51).
Theo Gioan: “Ông Giosép này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do Thái (Jn. 19:38).
Đây là nhân vật khá đặc biệt. Dựa vào bốn Phúc Âm, ta thấy ông có những đặc tính:
- Là người giàu có.
- Là người lương thiện, công chính.
- Là thành viên thế giá trong Hội Đồng.
- Ông mong đợi Triều Đại Thiên Chúa đến.
- Ông không tán thành quyết định của Thượng Hội Đồng là giết Chúa.
- Ông mạnh dạn xin Philatô cho tháo xác Chúa.
- Là người liệm xác Chúa.
- Là người cho Chúa mượn mộ của chính mình.
- Là môn đệ Chúa cách kín đáo vì sợ người Do Thái.
Xuyên suốt Phúc Âm, không thấy nhắc đến tên ông. Xuyên suốt cuộc đời của Chúa, không thấy ông xuất hiện. Tên ông chìm ẩn. Đàng sau những lớp người Chúa thường gặp như người tội lỗi, người bệnh tật. Chúa có một lớp người đặc biệt. Họ trí thức, họ giàu có, họ có địa vị. Thí dụ như ông Nicôđêmô cũng vậy. Như thế, không phải tầng lớp theo Chúa chỉ là những người thường. Có một lớp “quan lại” trí thức, là thủ lãnh thế giá trong xã hội.
Sự kiện xảy ra ở đây thật ngỡ ngàng.
Kẻ tẩm liệm xác Chúa, kẻ lo việc mai táng là hai nhân vật ngoài tầm ngờ. Họ không phải là môn đệ Thầy trò lúc nào cũng đi với nhau, không phải là kẻ thân cận hằng ăn uống chung bàn với Chúa. Kẻ lo tẩm liệm, mai táng là Ông Giosép và ông Nicôđêmô. Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, một thủ lãnh của người Do Thái. Ông đến gặp Đức Giêsu ban đêm (Jn. 3:1). Về ông Nicôđêmô, Phúc Âm Gioan trình thuật thêm như sau: Ông Giosép đến hạ thi hài Người xuống. Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do Thái (Jn. 19:39-40).
Cả hai ông này đều theo Chúa cách kín đáo. Ông Nicôđêmô có một lần hỏi Chúa người già làm sao mà tái sinh được. Riêng ông Giosép, người thành Arimathê thì tuyệt đối không hề thấy Phúc Âm nhắc đến. Ông theo Chúa cách kín đáo vì sợ. Nhưng đến cuối đời của Chúa, thì ông lại là người “đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng.” Sau cái chết của Chúa: “Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu.”
Ông chỉ xuất hiện ở giây phút táng xác Chúa mà thôi.
Cứ sự thường, việc tẩm liệm cho người quá cố không thể dành cho ai khác ngoài người thân cận trong gia đình. Đây là bổn phận, cũng là đặc ân và quyền.
Vậy ông Giosép này là ai?
THƯ GỞI ÔNG GIOSÉP
Thưa ông Giosép,
Phúc Âm không hề nhắc đến ông. Tôi không biết thêm được gì về ông. Ông là ai mà đến vào giây phút hãi hùng như thế? Tôi gọi là hãi hùng, bởi hôm nay tôi nhìn lại lịch sử, lịch sử cho thấy Chúa đã sống lại. Còn ngày hôm ấy? Dĩ nhiên có linh thiêng, nhưng tôi muốn hỏi ông, một cái chết không mộ chôn thì linh thiêng ở nơi chốn nào. Giây phút ấy không là linh thiêng như niềm tin của tôi hôm nay vì Chúa đã Phục Sinh, thì phải là hãi hùng chứ. Giây phút ấy chưa có Sống Lại. Chưa có quyền năng và vinh quang. Giây phút ấy là đau thương. Bởi đó, nếu gọi giây phút ấy là linh thiêng, phải hiểu linh thiêng trong một ý nghĩa đến cùng cực của linh thiêng. Linh thiêng riêng tư trong linh hồn ông.
Thưa ông Giosép,
Tôi có đôi điều muốn thưa chuyện với ông.
Chuyện thứ nhất: Tại sao ông theo một xác chết?
Ngày Chúa còn sống, ông kín đáo theo Chúa, vì sợ đồng nghiệp. Rất có thể ông cũng nghĩ như một số người, biết đâu Chúa sẽ làm nên sự nghiệp. Các môn đệ đã tỏ rõ ước mơ ấy, họ đã bàn với nhau: Ai sẽ là người lớn nhất trong nước của Người. Người mẹ kia đã xin cho con mình ngồi bên tả, bên hữu Người. Bây giờ Chúa chết, rõ ràng chết như một người không quyền năng. Rõ ràng là chết như một người rất bình thường. Ai mơ rằng một ngày nào Chúa sẽ lập vương quốc thì bây giờ hoàn toàn thất vọng. Chúa đã Phục Sinh đâu mà theo. Vậy tại sao ông không bỏ xác chết đó?
Lúc Chúa sống, ông phải theo cách kín đáo, theo chừng mực. Nhưng Chúa còn sống. Vì đàng sau những ngày sống đó, biết đâu ông hy vọng Chúa thành lập một vương quốc. Bây giờ Chúa chết thật rồi. Không có vương quốc nào. Không chiến thắng được ai. Trước mặt các Thầy Thượng Hội Đồng, Chúa thất bại hoàn toàn. Tấn bi kịch hạ màn. Vậy tại sao ông không bỏ xác chết đó? Đáng nhẽ lúc Chúa còn sống mà ông theo cách kín đáo thì khi Chúa chết ông phải quay về ngay với Thượng Hội Đồng chứ. Giống như nhiều người phải đón gió mà theo chiều chứ. Ông làm ngược lại với tính toán khôn ngoan cuộc đời. Chính lúc Chúa mất hết quyên năng thì ông lại dốc lòng buông theo. Ở nơi ông phải có một cảm nghiệm hết sức lạ lùng. Không ai dại như thế, không ai dám buông liều cả một sự nghiệp cho một xác chết.
Tôi theo Chúa với tất cả lịch sử tôi đã biết là Chúa đã chiến thắng sự chết. Tôi biết rồi tôi theo. Hôm nay tôi theo Chúa với tất cả giáo lý rõ ràng và ân sủng của các bí tích. Nhưng trong tôi, tôi muốn thành thực câu chuyện giữa ông và tôi. Ấy vậy mà tôi vẫn không thể cho Chúa mượn ngôi mộ của tôi. Tham dự một thánh lễ mà thiếu trước, thiếu sau. Nói chi đến cho Chúa ngôi mộ của mình. Làm sao ông dám lấy mộ của mình cho một người khác mượn? Không phải là chuyện cho mượn ngôi mộ mà là dám cho một xác chết không có quyền năng trước những đe dọa có thể mất chân trong Hội Đường. Đấy là điều tôi muốn thưa chuyện với ông. Ông có nhìn thấy gì sau cái chết kia mà dám đánh đổi những ý nghĩ quá phiêu lưu.
Điều làm tôi sẽ băn khoăn mãi, sẽ không thể hiểu là, ngày Chúa còn sống, ông phải kín đáo che dấu niềm tin. Bây giờ Chúa chết rồi, tại sao ông lại “mạnh dạn” đến gặp tổng trấn để xin thi hài? Tại sao ông lại công bố niềm tin vào một xác chết?
Cho người sống mượn thì mới hy vọng họ trả. Cho người chết mượn, hy vọng đền trả ở đâu? Người ta tìm quen với người sống có thế giá. Còn ông, ông đưa đời mình vào một xác chết.
Chuyện thứ hai: Ông muốn chôn ở đâu?
Còn một chuyện nữa rất khó hiểu, tôi muốn thưa chuyện với ông.
Tôi biết ông là người giàu có. Ông sắm một ngôi mộ cho riêng ông. Tại sao ngôi mộ ông ở ngay đồi Gôngôtha, mà không phải ở phía Đông thành Giêrusalem?
Hôm nay, tôi đến Giêrusalem. Tôi hiểu rõ hơn về niềm tin Do Thái giáo của các ông. Phía Đông đền thờ Giêrusalem còn ngôi mộ của Absalom, con vua Đavít. Còn ghi nhớ nơi an nghỉ của những người nổi danh như Jehoshaphat, như Zechariah. Không biết bao nhiêu thế kỷ các ngôi mộ chen nhau nằm ở đây. Vì người Do Thái các ông tin Đấng Mêsia sẽ giáng lâm ở đây. Cha ông các ông, tổ phụ các ông dành phần tác xác ở phía Đông này, mong là người đầu tiên gặp được Giavê trong ngày giáng lâm. Vậy tại sao ông không sắm ngôi mộ ở nơi này?
Ông là người giàu có. Ông là người có thế giá trong Hội Đồng. Ông biết giáo lý Do Thái. Tại sao ông không trông chờ Đấng Mêsia đến từ phía Đông đền thờ? Tại sao ông sắm ngôi mộ ở Gôngôtha là nơi không có ngôi mộ của ai thế giá cả? Gôngôtha, tiếng ấy nghĩa là Đồi Sọ. Nơi chôn các tử tội. Tại sao ông không sắm ngôi mộ ở một nơi trang trọng khác mà lại là Gôngôtha. Ông muốn chôn xác ông với các tử tội à? Không thể như thế được. Vậy đâu là bí mật về ngôi mộ của ông?
Một người giàu có, trí thức, có địa vị trong Hội Đồng không ai làm như ông. Không ai sắm mộ mình ở ngọn đồi thường xử các tử tội.
Trời Gôngôtha hôm nay tấp nập người hành hương. Không gian hôm nay không còn thương đau như hai nghìn năm trước. Tôi đi tìm một quá khứ mù tăm khuất bóng. Ông là người thế giá trong Hội Đồng. Ông biết rõ những gì sẽ xảy đến cho Đức Kitô. Phúc Âm Luca có một chi tiết về ông: Khi ấy có một người tên là Giosép, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng (Lc. 23:50-51). Ông không tán thành, như thế ông biết những toan tính, ông tham dự các buổi họp. Ông biết Đức Kitô phải chết ở đâu. Ông là người biết rõ chuyện.
Rồi từ đó, ông âm thầm sắm một ngôi mộ. Ông biết tử tội sẽ bị đóng đinh ở đâu. Ông biết Đức Kitô không có mộ chôn. Ông lặng lẽ sắm một ngôi mộ. Phải vậy không ông?
Khi ông biết tình hình đã đến lúc Chúa phải chết. Ông sắm một ngôi mộ mà biết đâu dòng họ ông cũng phản đối. Ông là người thế giá thì dòng họ ông muốn ông phải sắm mộ ở phía Đông đền thờ, ở phía cùng các mộ của Absalom của Jehoshaphat, của Zechariah. Tại sao muốn chôn ở nơi dành cho các tử tội này?
Phúc Âm cho tôi một chi tiết nữa về ông. Ông là “Người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa.” Hay là vì thế, ông biết người ta sẽ đóng đinh Đức Kitô ở Gôngôtha. Ông muốn được chôn ở đấy với Chúa. Ông sắm cho mình ngôi mộ bên Đồi Sọ ấy để gần mộ Chúa? Ông là người giàu có, ông là thành viên Thượng Hội Đồng, làm sao thân nhân ông chấp nhận ông chôn ở đó. Đường ông đi một mình, phải vậy không ông? Và đích thực ông là một kẻ đi tìm?
Ở điểm này tôi mới định nghĩa thế nào là trí thức, thế nào là người giàu có và thế nào là người làm chính trị. Trí thức là cái nhìn xuyên suốt, chính trị là người biết đường đi, giàu có là người mua được tầm nhìn.
Tôi không biết vì sao ông xuất hiện vào giây phút cực kỳ linh thiêng ấy.
Tôi không hiểu sao ông quá âm thầm trong Phúc Âm.
Tôi không hiểu sao ông liệm xác một người chết mà đáng lẽ chỉ dành cho thân nhân.
Thưa ông Giosép,
Giữa đất trời hôm nay, hình bóng ông là huyền nhiệm của một bí mật không bao giờ tôi tìm thấy. Cả tháng trời nay, tôi vào đền thờ Gôngôtha biết bao lần. Tôi đã dâng lễ trong Mộ Thánh. Tôi vẫn bâng khuâng với những thắc mắc về ông. Và trong linh thiêng của hồn ông, dường như ông là người lại đang thắc mắc về tôi. Một ngày nọ, tôi nghe như ông hỏi tôi:
- Biết chỗ Chúa an táng, tôi có tìm cho mình ngôi mộ để an táng nơi đó không?
- Cho Chúa mượn mộ mình là gánh nặng hay hồng ân?
Nếu tôi trả lời được hai câu hỏi này thì tôi biết được phần nào cái thinh lặng và theo Chúa kín đáo trong đời ông. Phải chăng ông đang muốn nói với tôi như thế?
Một là ông biết Chúa không mộ chôn, ông âm thầm sắm ngôi mộ cho mình, nhưng thật sự kín đáo là cho Chúa.
Hai là ông biết Chúa chết ở đâu, ông tìm cho mình được chôn nơi đó. Bất chấp thói tục muốn ông phải được chôn cất ở phía Đông đền thờ.
Ông sắm cho ông một ngôi mộ ở chỗ Chúa chết. Hay ông sắm cho Chúa ngôi mộ ở chỗ ông muốn chết?
Ông có những suy nghĩ của riêng ông.
Ông mạnh dạn tin vào một xác chết.
Tôi chết vì không đủ niềm tin vào một xác đã Phục Sinh.
Tôi mù mờ về cái sống của tôi, vì biết nơi Chúa chết mà không muốn chôn cùng.
Tôi muốn sắm ngôi mộ cho riêng tôi lúc còn sống. Ngôi mộ tôi xây hôm nay thật chẳng trí thức chút nào. Ngôi mộ bằng lời điếu văn người khác đọc, ngôi mộ bằng bia nhớ ơn, ngôi mộ bằng mề đai tưởng niệm. Bởi đó, sống mà như một phần chết đang dang dở trong tôi.
Ông có những bí mật của riêng ông. Ông đem theo bí mật ấy vào lòng đất. Tôi có những kín đáo của riêng tôi. Tôi thắc mắc về ông. Ông thách thức tôi với những thắc mắc ấy. Vậy giữa tôi và ông, chúng ta có thể tiếp tục câu chuyện về ngôi mộ cho đời mình được nữa chứ?
Vâng, thưa ông Giosép, tôi sẽ tiếp tục thưa chuyện với ông...
Để hiểu hơn về “Cổng Phía Đông”, tôi xin đưa thêm ít hình ảnh và đôi lời giải thích về bức tường thành, cũng như tại sao khách hành hương thấy Cửa Thành Phía Đông bị bít kín. Trước hết, ta có thể nhìn lại Cổng Thành Phía Đông trong thời Chúa Giêsu:
Đức Giêsu vào Giêrusalem (Mc. 11:1-11; Lc. 19:28 -38; Jn. 12:12-16).
Trong đời, Chúa Giêsu đã đến Giêrusalem nhiều lần. Nhưng lần sau cùng, từ Giêricô, qua Bếthaghê, Chúa vào Cổng Thành Phía Đông lần sau cùng. Người đã vào Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia, chịu đóng đinh và hòan tất hiến lễ hy sinh trên thánh giá.
Khi thầy trò đến gần thành Giêrusalem và tới làng Bếthaghê, phía núi Ôliu, Đức Giêsu sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay.” Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ.” Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giêsu cỡi lên. Một đám người rất đông cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.”
Khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: “Ông này là ai vậy? Dân chúng trả lời: “Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy”(Mt. 21:1-10).
Đức Giêsu vào thành Giêrusalem hai nghìn năm trước, trong ngày rước Lá là vào qua cổng này. Chứ không phải cửa thành hôm nay mà khách hành hương vẫn đi qua. Cửa thành hôm nay chỉ mở sau khi cổng phía Đông bị bít kín. Nền cổng chính nguyên thủy còn nằm dưới đất sâu, ở dưới nền cổng hiện tại đang bị bít kín. Nhưng chưa được đào xới lên để nghiên cứu. Đây là những vùng đất vô cùng nhạy cảm của tôn giáo. Cả người Do Thái và Hồi giáo đều coi cổng này vô cùng quan trọng.
Kinh Thánh viết về cổng phía Đông:
Cuộc quang lâm của Con Người được ghi trong Mátthêu
Vậy, nếu người ta bảo anh em: “Này, Người ở trong hoang địa”, anh em chớ ra đó; “Kìa, Người ở trong phòng kín”, anh em cũng đừng tin. Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó (Mt. 24:26-27).
Ngày cánh chung được ghi trong sách Dacaria
Ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Ôliu, đối diện với Giêrusalem về phía đông. Núi Ôliu sẽ chẻ ra ở giữa, từ đông sang tây, làm thành một thung lũng rộng lớn; một nửa quả núi sẽ lui về phía bắc và một nửa về phía nam. Các ngươi sẽ chạy trốn qua thung lũng giữa các núi của Ta, vì thung lũng giữa các núi chạy dài tới Axan. Các ngươi sẽ trốn thoát như đã trốn thoát cơn động đất thời Útdigia làm vua nước Giuđa. Rồi Đức Chúa, Thiên Chúa của tôi, sẽ đến, cùng với toàn thể các thánh của Người (Dacaria 14:4-5).
Những nghi lễ tôn giáo
Người ấy đưa tôi đi tới cổng, cổng quay về phía đông, và này, vinh quang của Thiên Chúa Israel từ phía đông tiến vào. Bấy giờ có tiếng như tiếng nước lũ và đất rạng ngời vinh quang Đức Chúa. Thị kiến này giống như thị kiến tôi đã thấy khi Người đến để hủy diệt thành, đồng thời cũng giống như thị kiến tôi đã thấy bên sông Cơva. Bấy giờ, tôi sấp mặt xuống đất.
Vinh quang Đức Chúa tiến vào Đền Thờ qua cổng quay về phía đông. Thần khí đưa tôi lên và dẫn tôi vào sân trong, và này vinh quang Đức Chúa tràn ngập Đền Thờ (Êzêkien 43:1-5).
Chương kế tiếp trong sách Êzêkien, liên quan đến việc đóng cổng phía Đông được loan báo như sau:
Người ấy dẫn tôi trở lại cổng ngoài thánh điện, cổng quay về phía đông. Bấy giờ cổng đóng. Đức Chúa phán với tôi: “Cổng này sẽ đóng; người ta sẽ không mở và không ai được vào, qua cổng này, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Israel, đã tiến vào qua cổng ấy. Vì thế cổng này đóng. Nhưng ông hoàng, chính ông hoàng, sẽ được ngồi đó để dùng bữa trước nhan Đức Chúa. Ông sẽ vào qua tiền đình của cổng và sẽ ra bằng lối ấy” (Ezekien 44:1-3).
Qua lời của sách Êzêkien ta thấy tầm mức quan trọng của cổng phía Đông này ra sao. Đây là lời loan báo của tiên tri Êzêkien sáu trăm năm trước. Lời tiên tri này có làm cho cổng thành phía Đông này bị đóng kín như đã loan báo không? Tại sao cổng phía Đông bị đóng kín?
Cổng này chỉ bị bít kín vào năm 1543 (1541?) khi Hồi Giáo Ả Rập chiếm đóng dưới quyền Sultan Suleimen. Do Thái Giáo tin rằng Thiên Chúa của họ sẽ vào Đền Thờ qua cửa này, người Hồi Giáo bít kín không cho người Do Thái đón chờ Đức Chúa của họ. Đây là một hành vi ngăn cản xúc phạm. Chẳng những vậy người Hồi Giáo chôn người chết ngay mặt tiền sát ngoài cổng thành phía Đông để làm cho cổng thành ra ô uế, ngăn chặn lối vào của Thiên Chúa Do Thái Giáo. Phúc Âm kể chuyện một thầy Lêvi thấy nạn nhân bị cướp đánh bỏ chết bên đường. Ông ta tránh qua một bên mà đi (Lc. 10:29-31). Có thể ông đang lên Đền Thờ, ông không muốn chạm vào những xác chết ô uế. Với mục đích làm Cổng Phía Đông ra ô uế là một hành động rất xúc phạm mà người Hồi Giáo cư xử với Do Thái Giáo.
Hôm nay người Hồi Giáo chiếm phần quan trọng nhất là Đền Thờ Giêrusalem ngày xưa. Lại xây bít kín cổng thành phía Đông. Hiểu như thế ta mới thấy tâm trạng của người Do Thái là không thể có chung sống hòa bình ở vùng đất này.
NGUYỄN TẦM THƯỜNG Trích trong KẺ ĐI TÌM, sách mới xuất bản Mùa Phục Sinh 2009
Sắp chết đuối trên biển, có người cứu tôi sống, ơn mà họ cho tôi đó là sự sống. Như thế, tôi lấy gì tương xứng để trả ơn? Nếu nói trả ơn là những hành động đáp trả bằng vật chất thì có khi người làm ơn quá giàu, họ chẳng cần đến trả ơn của tôi, là vật chất thì có khi người nhận quá nghèo, chẳng có gì để báo đáp. Lại có khi không thể trả ơn được vì không có gì cân xứng với điều mình đã nhận.
Trả ơn là hành động diễn tả tâm tình của người chịu ơn với người cho ơn. Là hành động diễn tả, nó chỉ là biểu tượng cho một thực tại khác sâu xa hơn. Biểu tượng diễn tả bao giờ cũng nghèo nàn hơn thực tại của điều được diễn tả. Tặng người yêu một cánh hồng. Cánh hồng là biểu tượng diễn tả tình yêu. Cánh hồng sẽ héo khô. Như vậy, cánh hồng chỉ là hình ảnh nghèo nàn khi so với chính tình yêu là thực tại ở đằng su nó.
Trong ý nghĩa hành động trả ơn chỉ là để diễn tả lòng biết ơn, thì quả thật, phương tiện diễn tả bao giờ cũng nghèo nàn hơn thực tại được diễn tả. Tuy nhiên, nói lại cần thiết. Không có hành động diễn tả, làm sao biết được thực tại vô hình cần được diễn tả? Thiên Chúa đã làm người có thân xác để con người hiểu được. Ngài cũng đã diễn tả tình yêu thực tại vô hình bằng nước mắt, bằng cái chết cụ thể để con người cảm nghiệm: “Chúa đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi” (Gal 2”20). Vì thế, lòng biết ơn cần được diễn tả bằng trả ơn.
Làm ơn khác với cho vay nợ. Cho vay nợ thì đòi lại. Làm ơn thì cho đi nhưng không. Nếu người làm ơn không đòi sự trả ơn, thì trả ơn chỉ cần thiết để minh chứng lòng biết ơn cho chính người chịu ơn. Người chịu ơn cần phải biểu tỏ lòng biết ơn bằng haànhđộng cụ thể để kiểm soát chính mình. Làm sao có thể nói tôi không giúp đỡ? Trả ơn là hy sinh vì phải cho đi phần nào của mình. Cho đi thường gây nuối tiếc. Hỏi lòng mình nuối tiếc nhiều hay ít khi phải cho đi để biết ơn nhiều hay ít.
Có hai thứ chịu ơn, vật chất và tinh thần. Vật chất thì có thể tính bằng con số và đo bằng mức độ, một lượng vàng, một ngàn đồng vv…. Nhưng, con người là hữu thể gồm cả hai, thân xác và linh hồn. Vật chất gắn bó với tinh thần và ảnh hưởng đến nhau. Bởi đó, những ơn ta nhận cho dù là vật chất đo được bằng con số, cũng chẳng đi được khi ảnh hưởng đến tinh thần. Thí dụ, lúc nghèo, có người giúp tôi mười ngàn để ăn học. Khi học thành tài, tôi có thể trả ơn lại số tiền lớn gấp đôi. Nhưng nếu không ai giúp tôi học hành xong, đời tôi chắc chắn sẽ rẽ sang một lối khác. Món tiền chỉ giúp tôi trong mấy năm ngắn ngủi. Nhưng sự giàu có kiến thức tôi thu nhận được qua việc học hành sẽ ảnh hưởng cả đời tôi. Do đấy, tôi chỉ trả ơn xong những gì đã được giúp, còn lại cả đời tôi nhờ sự giúp đỡ ban đầu ấy mà học hành nên làm sao tôi trả được. Vì thế, trả ơn có thể là xong nhưng biết ơn phải là mãi mãi.
Có những chịu ơn về tinh thần còn sâu thẳm hơn nữa, khó mà định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Chẳng hạn một nâng đỡ lúc đời tôi chung quanh chán chường, cô đơn. Trong lúc lạnh lẽo ấy, tôi cần một lửa ấm tình thương nâng đỡ. Dù lửa ấm nâng đỡ ấy có nhỏ đến đâu đi nữa, cũng nhờ có chút ánh sáng đó mà tôi lần mò ra được căn hầm. Lúc tìm được ánh sang rồi, tôi chẳng thể nói rằng tôi trả ơn lại bằng mười ngọn nến cháy sáng là xong. Một ánh lửa trong đêm tối thì giá trị hơn mặt trời khi có ánh sáng. Những nhận ơn về tinh thần thì làm sao trả được, vì thế phải biết ơn mãi.
Kẻ nghĩ rằng chỉ trả ơn là xong, không cần biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn. Không biết ơn chằng làm cho người ban ơn ra thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn ra chật hẹp. Vì họ đã lấy hình ảnh biểu tượng để thay thế cho chính thực tại được biểu tượng.
Ai Là Người Tôi Mang Ơn?
Tôi phải biết ơn người và biết ơn Chúa.
Bắt đầu là mầm sống trong bụng mẹ, ngày đó, tôi đã chịu ơn rồi. Tôi vào đời với tiếng khóc như biểu tượng sự yếu đuối và thiếu thốn của tôi gởi tới mẹ và những người xung quanh. Từng dòng sữa. Từng hơi ấm. Lớn lên, từng bàn tay dắt đi. Từng muỗng cơm. Tất cả đời tôi là những chi phiếu chịu ơn. Thầy cô dạy tôi từng mẫu vần a,b. Rời ngôi làng nhỏ, vào đời, tôi cần tình yêu, tôi cần thông cảm, tôi cần tình bạn. Nếu thiếu vắng chúng, đời tôi sẽ buồn lắm. Ai dệt đời mình bằng những liên hệ chịu ơn, thì biết ơn là con đường người ấy phải đi.
Có túng thiếu mới phải chịu ơn. Nhưng túng thiếu cũng có nhiều cấp bậc. Có thứ thiếu ít, có thứ túng nhiều. Có thứ cần nhưng không đến nỗi cần lắm. Có thứ bắt buộc phải có, đấy là sự cần tuyệt đối. Điều cần tuyệt đối này chính là sự sống. Tôi không thể tự ban cho mình sự sống. Hiển nhiên là khi không muốn chết, tôi vẫn chết. Sự sống của tôi, thứ tôi cần tuyệt đối này đã đến từ chính Chúa. Vậy, chịu ơn Chúa là con đường tôi phải đi.
Nói đến trả ơn, chỉ có thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có người giúp tôi. Một thời gian sau, tôi có thể giàu hơn họ, và tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể trả ơn. Bởi có gì cảu tôi mà không đến từ Chúa. Do đó, tôi chẳng thể trả ơn mà chỉ có thể biết ơn thôi.
Thế Nào Là Biết Ơn Chúa?
Khi cho em bé một món đồ chơi, em thường vội vàng cầm chặt, sung sướng quý mến nó. Đấy chính là lòng biết ơn. Em không thể trả ơn bằng một vật gì. Tôi cũng không chờ đợi em đáp trả vì em chẳng có gì. Thiên Chúa đối với tôi cũng vậy. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và tiếng kêu mời làm con của Ngài. Bởi đó, tôi phải yêu quý sự sống của tôi, tôi phải yêu tôi, tôi phải yêu đời. Ghét bỏ chính mình, từ chối tiếng kêu mời không phải là sự vô ơn với kẻ ban tặng sao.
Tất cả những gì hiện hữu, vũ trụ và con người đến từ Thiên Chúa. Vì đến từ Chúa, nên những liên hệ giữa vũ trụ và con người, giữa con người với nhau là một hoà điệu Thiên Chúa xếp đặt để con người tham gia vào chương trình lãnh ơn sủng của Ngài mà trao tặng nhau. Tôi chẳng có gì thì những gì tôi giúp kẻ khác cũng chẳng đến từ tôi, nhưng từ một nguyên nhân xâu xa hơn, những gì tôi nhận lãnh từ người khác cũng có một nguyên nhân như thế.
Vì mọi sự tôi nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn của tôi đối với tha nhân cũng phải là biết ơn Chúa. Vì tha nhân đã xử dụng dự tự do của mình để trao tặng tôi, cho nên lòng biết ơn của tôi đối với Chúa cũng phải là biết ơn tha nhân.
Sự sống tôi mỏng manh, nghèo nàn, nên biết ơn là điều quan trọng, nó phải là lối sống của Kitô hữu. Xã hội là gia đình Thiên Chúa, sự biết ơn tha nhân có căn bản bắt nguồn từ biết ơn Thiên Chúa, nên biết ơn nhau cũng có giá trị trong ý nghĩa đường về cứu độ.
Lạy Chúa, từ con chẳng có gì thì xin cho con hãy lộng lượng cho đi. Va xin Chúa nhắc nhở con, để biết ơn Chúa, con cũng phải biết ơn người. Và biết ơn người là biết ơn Chúa.
Bỗng nhác thấy bóng ngựa phóng qua. Nhà đạo sĩ bàng hoàng vì kẻ trên lưng ngựa chính là người bạn thủa xưa cùng nhau tầm thầy học đạo. Cất tiếng gọi, mà bóng ngựa cứ nước kiệu phóng đi như bay.
Băn khoăn về người bạn cũ thủa nào, nhà đạo sĩ lên đường xuôi phương nam tìm ngọn núi có am thất của kẻ đồng môn. Tới nơi, nhân gian cho ông biết am thất không còn ai trông coi. Kẻ trụ trì đã chết rồi. Tính ra, nhà đạo sĩ thấy ngày chết của kẻ đồng môn đúng là đêm có bóng ngựa hiện về. Ngày xưa hai người có một lời hứa: Ai chết trước sẽ về báo cho kẻ ở lại biết thế giới bên kia thế nào.
Đêm đó, bên am thất, vào lúc ánh trăng bạc hạ tuần mềm mại trên rừng cây, bỗng có bóng người cầm tay nhà đạo sĩ dắt đi. Lại chính hồn người bạn đồng môn hiện về! “Này bạn cũ, xin nói cho tôi biết thế giới bên kia thế nào”. Hồn người chết không trả lời, lẳng lặng kéo nhà đạo sĩ theo mình. Qua khu rừng, rồi một hoang địa. Có tiếng nói từ đâu đó: “Đi về phía đông mươi trượng. Vào đường hâm. Xuống trăm bước. Đi lên. Về phía nam.” Thoát chốc, hồn người bạn đồng môn biến bất ngời như khi hiện đến, đẩy nhà đạo sĩ vào thế giới kỳ quái.
Lạc trong hoang tưởng mộng mị, con đường về thế giới bên kia bắt đầu. Cứ theo tiếng gọi huyền bí dẫn đi, nhà đạo sĩ hỏi tiếng vọng: “Thiên đàng đâu?” Tiếng vọng dẫn ông qua nhà, qua cửa. Ông nghe có tiếng cầu kinh. Trởi đổ mưa. Ngoài cánh đồng có người làm việc. Hoàng hôn xuống, bình minh lên. Bé thơ ngồi xem mẹ xay bột bên khuông cửa. Êm ả, thanh bình. Một quang cảnh tương tự như cuộc sống bình thường trên dương thế đang diễn ra. “Đó, ngươi đang đi qua thiên đàng đó.” Nhà đạo sĩ không thấy chi thần tiên người ra nói. Không có vũ công vũ khúc nghê thường, không có yến tiệc linh đình. Kỳ lạ quá. “Thiên đàng có vậy thôi sao? Còn hoả ngục thế nào?” Ông ngạc nhiên về những hình ảnh thiên đàng mà ông vẫn dạy trong những bài thuyết giảng của ông. Ông ngỡ rằng thiên đàng phải là chốn yến tiệc vui chơi chứ.
Qua thiên đàng rồi, tiếng vọng dẫn ông sang thế giới khác. Chập chờn, nhà đạo sĩ lạc vào một vùng như hoang tưởng. Khắp cả là những toà nhà sang trọng. Người ta ca hát, nhảy múa thâu đêm suốt sáng. Yến tiệc tưng bừng. Chỗ nào cũng là xa hoa, phấn hương. “Có phải đây mới là thiên đàng chứ?” Ông ngạc nhiên không hiểu nơi này là gì mà tưng bừng thế. Nhưng có tiếng bí mật trả lời ông: “Không! Đây là hoả ngục!” Qua sảnh đường, nhà đạo sĩ nhac thấy có người quen, thì ra chính hồn ngượi bạn cũ năm xưa! Người bạn đồng môn ấy đang ngậm miệng, cố nuốt những dòng rượu chảy nhễ nhại. Trên nền cẩm thạch bóng láng, đoàn vũ nữ nhảy múa không ngừng. Nhóm người khác đang chia nhau tiền bạc. Tiền đâu mà nhiều thế. Họ đếm thâu suốt sáng không hết. Chỗ nọ, đoàn nhạc công mồ hôi nhễ nhại oằn oại trên tiếng đàn. Họ ăn chơi không ngơi nghỉ. “Thế này nghĩa là gì? Đâu là thiên đàng? Đâu là hoả ngục?”
Được giác ngộ, nhà đạo sĩ thấy những gì hiểu về thiên đàng, hoả ngục của ông xưa kia non nớt quá. Ông vẫn nghĩ rằng thiên đàng là nơi không phải làm việc, chỉ có ăn chơi, tung tăng nhàn nhạ suốt ngày. Hoả ngục là nơi cực hình, không có ăn chơi, chỉ quần quật làm việc. Bây giờ trái ngược lại. Nhưng ông đã hiểu. Cái bi thương hẹ tại là thiên đàng có tự do, hoà ngục là đường một chiều, không có chọn lựa.
Ông thấy người bạn cũ sống trong căn nhà lộng lẫy, không phải làm việc gì, chung quanh là nhạc khúc dập dình. Mới đầu ông nghĩ thế thì hạnh phúc quá. Nhưng hồi lâu, lâu nữa, một ngày, hai ngày, rồi một năm, hai năm, nếu dòng rượu cứ suốt ngày đêm tuôn chảy và người bạn cũ của ông cứ phải oằn oại uống như thế suốt năm này qua năm nọ thì sao? Ông ớn đến lạnh người. Nhìn chung quanh, ông thấy quả là một thế giới kinh khủng. Tópp người đang khiêu vũ kia cứ oằn oại trong điệu nhạc, ngày này qua ngày nọ. Họ không được đi đâu, không phải làm gì, đời họ bây giờ chỉ là khiêu vũ, ngày, đêm. Ông đứng nhìn những khuôn mặt thất thần. “Họ đã ở đây bao lâu? Họ đã phải đếm tiền kia từ thế kỷ nào?” Chung quanh ông không còn là hạnh phúc vì tiếng đàn, vì những khăn bàn bằng lụa quý, những chén ngà chạm vàng nữa. Ông thấy một thế giới cô độc khủng khiếp. Nhìn người bạn cũ, nhà đạo sĩ thấy đôi mắt đỏ ngàu, lờ đờ, nhưng ông ta không nghỉ được, dòng rượu cứ chảy và ông cứ ừng ực mà uống. Một thế giới không còn tự do.
Những ngày còn lại cuối đời của nhà đạo sĩ, ông nhìn lại những lời giảng thuyết của ông ngày xưa thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ. Ông thấy những suy tư ấy non yếu quá. Trầm ngân hơn, ông viết cho người môn sinh của mình về thiên đàng và hoả ngục như sau:
Con thân mến, Thiên đàng là nối tiếp hạnh phúc chúng ta sống trên cõi trần. Hoả ngục là xây tiếp những nô lệ nội tâm chúng ta đang xây dựng dở dang lúc chết.
Tội là đưa một đam mê lên thành lý tưởng để theo. Hạnh phúc là sự hài hoà của mọi thứ say mê.
Tình yêu, tình dục, lòng thèm muốn, ghen tương, nhan sắc, tiền bạc, giận hờn, sức khoẻ, trí tuệ, vật chất, tinh thần… tất cả làm nên con người chúng ta. Hạnh phúc là khi ta quân bình và hài hoà nó. Chẳng hạn như nhan sắc, đó là nghệ thuật, nó đem lại hạnh phúc cho người, cho mình. Nhưng nó phải hài hoà trong nhân đức, thật thà, đoan trang. Khi con người đưa nhan sắc thành lý tưởng cao nhất để theo thì giống như một bức tranh thêu lạc màu, nhan sắc sẽ tiêu diệt những đường chỉ thêu khác. Lúc ấy, lòng thương xót sẽ chết trước cửa nhà người nghèo khó, lòng bao dung chìm dần, niềm tự kiêu dâng lên. Con sẽ dùng mọi tiền bạc cho tấm thân thôi, những tốn phí có thể lỗi công bình, vì con không còn lòng thương xót cho những kẻ phải sống không đúng phẩm giá con người chỉ vì nghèo.
Không có một chút ghen, có lẽ cuộc sống cũng khô lắm. Không có tình dục, con người sẽ đi về đâu. Giận hờn là thế, nó cho người ta những giây phút “đau thương êm ái” Nhưng chúng phải hài hoà.
Con thấy đó, hoả ngục là nơi không còn hài hoà. Kẻ nhảy múa là thấy đêm suốt sáng nhảy múa. Kẻ uống rượu là phải uống triền miên. Khi sống, họ chọn một đam mê rồi đưa lên thành lý tưởng để theo, thì khi chết họ cũng theo lý tưởng đó mà sống. Hoả ngục hệ tại là đó.
Tội làm con người mất hạnh phúc. Nhưng mất hạnh phúc bằng cách nào? Tội là thần tượng hoá một đam mê. Khi một đam mê lên cao thành thần tượng thì nó thống trị mọi suy tư khác. Kẻ ấy, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi đam mê đó. Đam mê độc tài này đẩy con người vào hành động không có chọn lựa. Lúc đó, con người mất tự do. Bị đam mê điều khiển thì cuộc sống thành đường một chiều. Trên đường một chiều này, hễ ca múa là thâu đêm suốt sáng ca múa. Hễ say đắm tình dục thì ngụp lặn trong dục tính. Hài hoà bị tan vỡ. “Nô lệ là kẻ để cho bất cứ sự gì đó không trị mình” (2Phêrô 2:19).
Khi của cải bị cô lập một mình, xa cách sự độ lượng, lòng thật thà, tâm tình bao dung, thì nó không còn bè bạn, nó trở nên độc tài. Lúc ấy, nó trả thù lại kẻ đã cắt đi những liên hệ mà nó phải có bằng cách nô lệ hoá người làm chủ nó.
Nghi ngờ đi với thành thật và đọ lượng sẽ thành khôn ngoan. Có sức mạnh nhưng thiếu tâm hồn sẽ thành hung bạo. Tình dục đi với lề luật sẽ phong phú tình yêu. Tự bản chất, tất cả nó đã được sinh ra trong những liên hệ hài hoà ấy. Khi ta chọn một mà thôi đời sống sẽ nghiêng đổ.
Nhà đạo sĩ thấy nơi ông đi qua mà tiếng nói nhiệm mầu bảo ông là thiên đàng, có gì đặc biệt đâu. Cũng đồng lúa. Mưa và nắng. Có người tát nước bên dòng sông. Bây giờ hiểu ý xâu xa mà tiếng nói nhiệm mầu dạy ông. Thiên đàng, nơi ông đã đi qua đó, bình thường thôi, có em bé rong chơi, có con diều bay. Ý nghĩa của sự bình thường đó là ở đấy không có cưỡng chế độc đoán. Thiên đàng là sự tự do nội tâm. Hoả ngục là tiếp tục cái thú vui độc đoán lúc còn sống, như người mê rượu sẽ suốt ngày đêm phải uống rượu tiếp, người mê nhảy múa sẽ suốt tháng cứ nhảy múa liên miên, kẻ mê tiền thì khi chết rồi không được làm gì cả, cứ đếm tiền hết năm này qua năm nọ.
Nhà đạo sĩ muốn nói cho người môn sinh của ông về thiên đàng là gì, hoả ngục là gì trong cái nhìn suy tư về tự do và độc đoán của đam mê. Đọc kỹ những gì đã viết, ông thấy những suy tư đó cũng chẳng có gì mới. Kinh Thánh đã nói đến rồi. Nhìn lại nững trang chữ viết, ông lại nhớ tới lời Kinh Thánh: “Nếu họ không tin lời của Maisen và các tiên tri, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu” (Lc 16:31). Điều ấy làm nhà đạo sĩ ngẫm nghĩ là không biết người môn sinh có chấp nhận những điều ông viết, vì lời Kinh Thánh mà nếu người môn sinh không suy tư thì lời ông viết này có ý nghĩa gì.
Ông trầm ngân, phân vân không biết có nên gởi cho người môn sinh những gì ông viết hay là thôi.
Sau khi xảy ra sự bất hoà giữa mấy anh em, tôi quyết định giữ trong lòng sự hận thù, quyết cắn đứt tình huynh đệ, nên nghiêm cấm các con tôi không được tiếp xúc với hai Cậu của chúng, tôi đã dạy các con tôi: “Tao thề sống chỉ mặt, chết chỉ mồ, không đội trời chung với lũ chúng nó. Tao mà thấy đứa nào qua lại với tụi nó tao giết chết.”
Và rồi hậu quả của sự đe răn là một trận đòn chí tử cho con bé út chỉ vì dám cãi lời Bố, tôi cảm thấy thoả mãn phần nào với lòng thù hận đang nung nấu trong tôi, kể từ khi tôi biết chắc rằng các con tôi đã không dám liên hệ gì với các cậu của chúng.
Sau khi được ân sủng của Chúa khi Ngài nói với tôi: “Hỡi con! Cha đã hạ mình xuống để đến với con, vậy mà con lại ngần ngại khi đến với Cha qua người anh em của con.” Tôi đã quyết định và nói với Ngài: “Con hứa với Chúa là khi về đến nhà con sẽ xin lỗi các con trước về những sai xót trong giáo dục con bằng bạo lực mà không biết là mình đang dẫn chúng nó vào con đường thù hận. Sau đó, con nhờ nó mời các Cậu lại để con làm hoà và xin lỗi về những gì con đã cư xử với hai Cậu của nó.”
Qua biến cố, Ngài đã cho tôi nhìn lại con người tôi một cách rõ nét. Trách nhiệm của tôi mà Chúa giao phó cho là giáo dục và nuôi dưỡng chúng nên người, thế nhưng vì lòng hận thù, tôi đã trở thành một người cha độc tài và tàn bạo các con tôi phải cúi đầu tuân lệnh, dù là một lệnh thiếu đạo đức và trái luật Chúa, mà không được quyền có ý kiến.
Đáng lý tôi phải là người hướng dẫn và giáo dục chúng trong ân sủng và ơn thánh Chúa trong việc đạo đức thì tôi lại xem thường điều đó, đáng lý tôi phải khuyến khích và động viên chúng tham gia các sinh hoạt đoàn thể và tham dự thánh lễ, cầu nguyện mỗi ngày thì ngược lại tôi còn la rầy và răn đe khi các con tôi “qua tích cực công việc” của đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, và nhà xứ, vv….
Từ sau ngày tĩnh tâm trở về tôi thấy tâm hồn bình an một cách kỳ lạ, không nóng giận trước những lỗi lầm thường ngày của các con, biết lắng nghe những ý kiến của con cái, và một điều tôi cảm nghiệm rõ nhất đó là chấp nhận và yêu đời hơn với kiếp sống của kẻ bị từ chối quyền tị nạn, vì tôi nghĩ rằng mọi ngày trong cuộc đời tôi đều là của Chúa ban cho và dĩ nhiên cuộc đời sẽ đáng yêu hơn một khi có ân sủng của Ngài mỗi ngày trong cuộc đời mình. Một điển hình là hôm thứ bảy, trong khi đi rước kiệu hoa cuối tháng Đức Mẹ tôi gặp lại người luật sư của JRS (Jesuit Refugee Service) đã phỏng vấn để làm bổ túc kháng cáo cho tôi lúc mười giờ sáng ngày thứ sáu 29.5, ông ta cho tôi biết một tin là có khoảng hơm 600 kháng cáo sẽ được sổ ra trong tháng tới, thứ hai này ông ta sẽ vào Cao Ủy để xem nếu có tên tôi trong danh sách kết quả thì ông ta sẽ không làm bổ túc kháng cáo cho tôi nữa, thế mà tôi vẫn dửng dưng trước tin sốt dẻo đó, tôi không hề ngóng trông dù ông ta có hứa sẽ đến nhà tôi vào chiều thứ hai, mà hôm nay đã sau hai ngày vẫn chưa thấy ông ta trở lại. Cuộc sống của tôi lúc này là: “Lạy Chúa xin cho con biết phó thác cuộc đời con trong tay Người và xin Người hãy nhồi nắn theo ý định của Ngài.”
- Ba à, con nghĩ Ba cứ thử đi tĩnh tâm một lần cho biết, vì dù sao…
- Tao đã nói mày nhiều lần tao không rảnh! Tao mà bỏ dạy bây giờ thì tụi mày đói hết.
- Con đâu có bảo Ba bỏ dạy, Ba cứ thử xin phép Sister xem sao.
- Tao biết bả không cho. Phải như tuần trước thì tao cũng ráng đi cho mày vui, khi tao nghỉ cả tuần thì sao mày không nói Cha tổ chức tĩnh tâm, đến khi tao đi làm thì mày về hối tao, mệt quá!
- Tại có vài trục trặc nên Cha mới đình, con nghĩ Ba cứ thử lên xin Sister xem, nếu Sister không cho nghỉ thì thôi, vì đây là khoá cuối cùng mà nếu mình không đi được thì không còn cơ hội nào khác nữa đâu.
- Với tao điều đó đâu thành vấn đề, hơn nữa việc đạo đức là của mấy hội đoàn, tao ngoài đoàn thể không liên quan gì!
- Khoá nào cũng có những người ngoài hội đoàn Ba à, Ba cứ đi thử cho biết.
- Thôi được, sáng mai tao sẽ xin phép nếu được thì tao đi cho mày vui, còn không được thì đó không phải tại tao, OK, còn tiền lệ phí, mày nói Cha làm sao thì nói tao chỉ có thể góp được 100 pesos thôi.
- Được Ba cứ yên tâm để con nói với Cha.
Mặt con bé có vẻ tươi hơn đôi chút kho thấy tôi có vẻ hơi đổi ý, kẻ từ sau khoá 9 tĩnh tâm về nó tìm mọi cách thuyết phục Bố đi tĩnh tâm. Với tôi thì tôi còn lạ gì cái chuyện tĩnh tâm này, có thể chỉ là tĩnh tâm cầu nguyện rồi đọc sách thánh thôi chứ đâu có gì đâu mà con bé úp úp mở mở:
- Ba cứ đi một lần cho biết…
Tôi không thích cái không khí này, và tôi đã một lần tĩnh tâm ở Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở đường Cường Để năm 1970, nào là ăn ngủ, sinh hoạt phải theo giờ giấc vv… đó là chưa kể phải nhức đầu về mấy cái chuyện cầu nguyện với suy gẫm cho nên với ba ngày tôi chịu không nổi nên rút lui sớm.
Sở dĩ mà tôi chấp nhận lời đề nghị của con gái tôi là vì tôi sợ nó buồn nếu tôi từ chối thẳng, chỉ bằng cứ đổ thừa là tại Ba xin phép không được vậy là ổn thoả vì tôi biết Sister sẽ không cho tôi nghỉ mà!
Thế nhưng một điều hoàn toàn trái ngược như tôi dự trù, ngày chiều thứ tư hôm đó tôi nhận được thư xấu ngoại quốc(1) của bà cô ở Mỹ mà đã bị gián đoạn bốn tháng nay rồi, chiều thứ năm lại nhận thư bảo đảm ngoại quốc của thằng bạn mà hơn một năm nay kể từ ngày tôi bị đá (2) nó đã bỏ rơi tôi luôn vì thất vọng! Coi như vấn đề tiền bạc tôi không còn lý do gì để phản đối nữa, con bé hớn hở ra mặt.
- Con nghĩ đây là ý Chúa muốn Ba đi tĩnh tâm đó nên một lúc Ba nhận hai thư … khoẻ !
Sáng hôm sau con bé cứ nhắc lại một cách khéo léo trước khi Bố đi làm:
- Nếu xin phép được Ba nghé phòng IOM (International Organization for Migrants) cho con hay nhé Ba.
- Còn nếu không thì sao?
- Ba khỏi ghé cũng được, vì nếu Ba xin nghỉ được thì con phải đi xin Cha ghi tên cho Ba.
- OK.
Một điều làm cho tôi phải giật mình mà đặt lại vấn đề vì nó hoàn toàn không như ý tôi nghĩ Sister hiệu trưởng trường CADP, một bà sơ nổi tiếng là khó thì hôm nay lại “very generous”.
- OK. How many days do you need? (Anh cần mấy ngày nghỉ)*
- OK. I will pray for you and every one in this Spiritual Exercises and remember your teacher training at 7:00 PM, room 1. (Được rồi, tôi sẽ cầu nguyện cho các anh trong khoá linh thao, nhớ giờ tu nghiệp giáo chức là 7 giờ tối đấy nhé, ở phòng số một).
Tôi không thể nào quên được nỗi vui sướng và hân hoan trên khuôn mặt Quyên khi con bé nhìn thấy cái gật đầu của tôi.
Con bé nhắc lại Bố trước khi tôi đi dự lớp teacher training:
- Cha dặn là có mặt ở staff-house lúc 7:30. Ba nhớ xin Sister ra sớm nhé Ba.
1. Trong trại tị nạn, các thư được phân loại như sau: Thư nội địa là thư trong nước Philippies. Thư ngoại quốc là thư từ các quốc gia khác trên thế giới. Thư xấu là thư bị trả lại không có ai nhận. Thư bảo đảm là hàm ý nói như có tiền.
2. Bị “đá” là bị rớt thanh lọc, không được quyền tị nạn.
- Cha dặn là có mặt ở staff-house lúc 7:30. Ba nhớ xin Sister ra sớm nhé Ba.
Tôi là tổng thư ký của Hội Cựu Quân Nhân vì thế chúng tôi thường có cuộc họp Ban Chấp Hành vào chiều thứ bảy lúc 3:00, nên con bé nhắc trước khi đi sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể:
- Ba nhớ về sớm đi lễ rồi ăn cơm và còn xuống staff-house lúc 7:30, vì hôm nay mà vắng mặt thì Cha gạch tên đó.
- Biết rồi nhắc mãi, tao đâu còn bé.
Tôi trở về dự thánh lễ lúc 5:30 chiều, tắm rửa xong lên đến nhà thờ mới 5:20, các em thiếu nhi đang giăng biểu ngữ chụp hình tặng báo Đường Sống nên tôi đứng ngoài nhà thờ, thì ông hội phó tới tìm tôi:
- Em về văn phòng hội gấp vì có hai an ninh Phi tới gặp Ban Chấp Hành.
Trong Ban Chấp Hành có tôi là người nói được tiếng Anh nên tôi đành phải theo ông ta, tôi hơi lưỡng lự.
- Ông X. đâu? Anh đi tìm ông X. đi tôi phải đi lễ, nếu không có ông X thì tôi đi.
- Nói thật có ông X. ở hội nhưng anh không thích, bỏ lễ một bữa có sao đâu? Bây giờ họ đấu tranh đòi quyền tị nạn là trên hết, lễ nay không đi thì mai đi. Ông ta cũng có lý, bây giờ mình không đấu tranh đòi quyền tị nạn cho mình thì mình còn nhờ ai đây? Chúa đã bỏ để cho mình bị đã như vậy, Chúa không thương mình, vv… cuối cùng tôi di theo ông ta. Khi tôi đến thì đã có sẵn một bàn nhậu gồm bia, xí quách, bánh mì vv…
Tiệc nhậu kéo dài cho đến 6:24 thì một an ninh Phi đề nghị:
- I would like to invite all of you come to my house for eating something. (Tôi muốn mời các anh đến nhà tôi nhậu lai rai).
- I’m terrible sorry I have teacher training class at 7:30. I will do it next time. (Tiếc quá ! Xin lỗi vì tôi có giờ tu nghiệp giáo chức tối nay. Xin để lần khác nhé).
- No next time but right now. I will take you back at 7:30 PM. OK? (Không được! Tụi mình phải nhậu tối nay. Đừng lo, tôi sẽ đem anh trở lại đúng giờ).
Ông phó hội tiếp:
- Em phải đi, nếu em không đi sợ tụi nó buồn.
- Thôi được, nhưng tôi phải về trước 7:30.
Chiếc xe trycicle lăn bánh với bốn người chúng tôi và một an ninh Phi, còn tôi thì đi với một người khác trên chiếc Yamaha. Tôi rất ngạc nhiên khi họ dẫn chúng tôi theo đường hẻm ra cảng, cuối cùng họ dừng lại một căn nhà mà hoàn toàn là tre rào xung quanh, tôi nghe họ nói với nhau lúc tiếng Phi lúc tiếng Anh:
- Take three enough for them. (Cho bọn này ba em đi).
Người chủ nhà đáp:
- I’m sorry they went out all. (Tiếc quá, các em đi hết mất rồi).
Và rồi hai người An Ninh phi nói với nhau:
- Go to another place (Đi kiếm chỗ khác).
- OK.
Tôi đoán được một phần nào ý định của họ nên hỏi đi lên xe:
- Do you want us take prostitutes? (Đi kiếm mấy ả hả).
- Yah. You don’t want to take it? I want you enjoy one time before my leaving. (Bộ tụi maỳ không muốn à. Tui muốn quý vị “yêu đời” trước khi tui rời nhiệm sở).
- You told me come to your house, didn’t you? I’m sorry we don’t have money. (Anh bảo tụi tôi là đến nhà anh mà! Xin lỗi, tụi tui không có tiền!).
- Oh don’t worry I do. We are free here. (Ba chuyện lẻ tẻ! Tui bao!)
Tôi cảm thấy thậy áy náy vì sự việc diễn tiến ngoài ý muốn của mình, nếu biết trước tôi đã không đi, nhưng dù sao thì cũng lỡ rồi. Nếu không vè kịp giờ tĩnh tâm thì sao? Dù sao tôi cũng có cớ để nói cho con tôi biết là tôi phải đi công tác cho Hội và nếu lần này không đi được thì lần sau đi, tôi tìm mọi cách để an ủi chính mình, nhưng tôi vẫn cảm thấy áy náy vì mình bây giờ có tiền và xin phép được mà không đi thì trả lời sao với Sister… Họ dẫn chúng tôi qua một điểm khác và tình trạng cũng như điểm trước, thấy thế tôi đề nghị.
- It’s better we should go back àn make appointement for next time. I don’t want being absent at 7:30 (Thôi! Về đi, để lần tới mình hẹn hẳn hoi! Bẩy rưỡi tối nay tôi cần có mặt ở nhà) Và họ đồng ý.
Tôi nhìn đồng hồ đã 7:20 nên hối thúc người tài xế chạy nhanh hơn, vì thế khi tôi về đến trại là đúng lúc Cha linh hướng từ trong nhà thờ đi ra, tôi vội càng nhảy xuống xe rồi chạy về nhà, tôi không còn thời giờ để dùng cơm tối và tắm rửa, tôi vào toilet rửa mặt thì con gái tôi hớt hả chạy về.
- Con lên hội tìm Ba mà không thấy, lo muốn chết, Ba đi đâu về vậy?
- Ba vừa mới ở phố về, đi công chuyện cho Hội.
- Cha xuống staff-house rồi, Ba đi đim con chờ Ba về rồi ăn cơm luôn.
- Con cứ ăn trước đi, Ba không đói.
Thực sự mà nói, tôi bị thôi thúc nhiều về bài Phúc Âm ông Simon tiếp Chúa tại nhà ông, tôi đã thật sự mất ngủ vì sự giải thích của Cha linh hướng: “Lý do tại sao ông Simon không lấy nước cho Chúa rửa chân, không ôm hôn Chúa khi Chúa vào nhà và không mời Chúa ngồi thì chỉ có Chúa biết, chúng ta không cần tìm hiều lý do mà đã xảy ra cách đây 2000 năm, chúng ta hãy xét xem thái độ của chúng ta thế nào khi chúng ta rước Chúa vào linh hồn chúng ta.”
Cuối cùng thì tôi đã có mặt ở Pastoral center, sau giờ cơm trưa tôi đã không tài nào nhắm mắt được, một cảm giác hồi hộp, lo âu, một sự nôn nóng kỳ lạ mong cho mau sớm tới 2 giờ để bước vào khoá tĩnh tâm, thế rồi việc gì đến đã đến, chúng tôi tập trung vào phòng hội khi Cha linh hướng rung chuông. Giờ huấn đức đầu tiên với chủ đề: “Tôi đi tìm tôi” tôi đã bắt đầu cảm nghiệm được thực sự tôi đã chưa biết ngay chính tôi và bây giờ tôi mới có gịp để nhìn lại mình. Bài trích sách Tiên tri Isaia đã dằn vặt làm tôi không thể ngủ được: “Ta đã chán chê mùi hương, ta sẽ quay mặt đi kho các người cầu nguyện. Hãy cát khỏi mặt ta mọi điều xấu xa, hãy làm điều lành đừng làm điều xấu nữa.”
Trong giấc ngủ chập chờn tôi đã bị rơi vào cơn ác mộng, tôi đã nhìn thấy chính tôi và những tội lỗi tầy trời mà tôi đã phạm, tôi giật mình tỉnh giấc vào lúc 2:15 sáng, tôi ngồi lặng thinh và cầu nguyên, rồi hồi tưởng nhớ lại những gì xảy ra, tôi bị dằng co bởi hai lý luận có thể là ý Chúa cho tôi thấy lại những tội lỗi của tôi để tôi tìm thấy được chính tôi mà quay trở về, cũng có thể là ma quỷ ám ảnh để tôi thấy rằng tội lỗi không thể nào tha thứ được thì thà rằng cứ tiếp tục sống như mình đang sống coi bộ an tâm hơn. Ngày thứ hai của tĩnh tâm bắt đầu giờ kinh sáng, tôi đã không thể nào cầu nguyện được vì lúc này tôi thực sự mất bình an khùng khiếp, một âm vang nào đó đang bảo tôi: “Chúa sẽ không tha thứ cho mày đâu và nhất là con mày sẽ không kính trọng mày nữa khi nói biết Cha của nó là một kẻ tội lỗi, chi bằng mày cứ sống như vậy sẽ thoải mái hơn và sẽ hạnh phúc hơn, và một tiếng nói khác đang nói với tôi: Hãy chỗi dậy, vì đây là dịp thuận tiện nhất cho người, hãy lên đường và ngươi sẽ được cứu thoát dù tội lỗi ngươi có nặng nề”.
Có thể chắc chắn một điều là: Bài trích sáng tiên tri Isaia đã thôi thúc trong tôi: “Tội lỗi ngươi có đỏ thắm như vải điều cũng trở nên trắng như len”, rồi bài Phúc Âm Chúa trở lại đền thờ Giêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua, Chúa bảo phá đền thờ cũ đi. Tôi đã xúc động và đã cầu nguyện bộc phát:
“ Ôi, đôi mắt của Chúa u buồn và thất vọng biêt bao khi Chúa trở lại ngôi đền thờ trong linh hồn con! Làm sao Chúa có thể tìm thấy ngôi đền thờ của cái thủa ban đầu Chúa trao cho con nữa! Bởi vì bao nhiêu năm nay con đã kể cho Satan và ma quỷ vào ở trong đó và bây giờ linh hồn con đã trở thành nơi buôn bán! Bán buôn những chuyện bất chính, thù ghét anh em mình, lỗi phạm với vợ con, lỗi đức công bằng vv… Những thứ tội lỗi đó đã làm cho đền thờ linh hồn con trở nên dơ bẩn, hôi thối đến nôn mửa. Hôm nay Chúa đã gọi con và con đã bỏ tất cả các công việc ở trại để đến đây với Chúa, con biết lúc mà con nhận được ân sủng của Chúa thì cũng là lúc mà các Thiên Thần Chúa phải chiến đấu cam go hầu dành linh hồn con lại cho Chúa. Con cảm thấy quá mệt mỏi Chúa ơi! Con đã dại dột nghe theo sự lừa gạt của ma quỷ, nghe theo những lời ngọt ngào của nó, vùi đầu trong những cuộc hoan lạc mà tưởng là những hạnh phúc thật. Xin Chúa hãy cho con can đảm để phá đi ngôi đền thờ dơ bẩn, ô uế trong con, xin cho con biết nghe được tiếng Chúa nói với con: Phá đi, phá đi, hãy phá đi ngôi đền thờ này đi.
Lạy Chúa, ước gì con có thể phá ngay được ngôi đền thờ đáng ghét, dơ bẩn trong con, để sau khoá tĩnh tâm này Chúa có thể xây lại một ngôi đền thờ để Chúa ngự vào đó. Amen. “
Có một cái gì đó hơi bất an trong tâm hồn, tôi quyết định gặp Cha linh hướng, để biết rõ hơn về ý Chúa.
Tôi cảm thấy bình an hơn trong thánh lễ hoà giải và khi Cha linh hướng nắm tay tôi lúc tôi lên lãnh bí tích hoà giải, tôi cảm thấy được cả tình yêu bao la vô bờ bến của Chúa đang thấm vào tim, được tác động bởi Thánh Linh tôi cảm thấy một sự hối hận tột đột và tôi đã bật khíc với sự rung cảm cao nhất của một con tim đã gần ba mươi năm khô khan và chai lì, tôi đã khóc nức nở như một đứa trẻ bị đòn nhưng nhận thức được lỗi lầm của mình, khoảng năm phút sau tôi mới có thể nói với Chúa tất cả những ưu tư, lo âu, dằn vặt và mặc cảm trong lòng mình những vẫn chưa hoàn toàn bình an khi tôi nói với Chúa qua Cha linh hướng.
- Làm sao con có thể hạ mình xuống để xin lỗi hay làm hoà với các em con, điều nay thật khó cho con, con không thể làm được.
Cha nói:
- Con hãy xuống dưới nhà thờ, nhìn lên ánh mắt của Chua và hỏi Chúa xem con phải làm gì bây giờ.
Chúa vẫn lặng thinh và nhìn tôi với một ánh mắt thật cảm thông, tôi đã cố để lòng mình thật lắng đọng nhưng Chúa vẫn lặng thinh, nhưng ánh mắt Chúa có vẻ trìu mến hơn và thiết tha hơn. Tôi đi ra ngoài để có chút gió cho thoải mái và dễ dàng gặp Chúa hơn nhưng rõ là Chúa không nói gì cả. Sau khi rước Mình Thánh Chúa trong lúc tôi đang cầu nguyện thì Cha linh hướng cầu nguyện để hướng dẫn mọi người biết cảm tạ Chúa, bỗng tôi nghe rõ tiếng Chúa nói với tôi qua Cha linh hướng trước khi rước lễ:
- Hỡi con! Cha đã hạ mình xuống để đến với con, sao con lại ngần ngại khi đến với Cha qua anh em con!
Ngay giây phút ấy tôi đã nói Chúa:
- Lạy Chúa, ngay khi về đến nhà, con sẽ xin lỗi các con trước và nói với các con là con hãy đi mời hai Cậu lại để Ba làm hoà cùng hai Cậu.
Tôi đã làm một quyết định trở về với mười điều tâm niệm, và chỉ hai ngày xuống núi, tôi đã thực hiện được toàn vẹn hai điều, còn tám điều khác tôi đang thực hiện, vì những điều này có liên quan đến cả cuộc đời tôi và tôi phải thực hiẹn nó tuỳ ân sủng và tình yêu bao la của Chúa thì mới mong đạt được kết quả. (Ngày 31, tháng 5 năm 1992)
Thư Gửi Con
Palawan ngày 2 tháng 6 năm 1992
Con thân mến !
Đây là lá thư đầu tiên và có thể cũng là lá thư sau cùng mà Ba viết cho con, Ba đã quyết định viét dù rằng nó có đến được tay con hay không!
Ba biết là con mong Ba đi cầu nguyện lâu thật lâu để con thực hiện ý định của con, nhưng không ngờ ba lại về quá sớm, vì thế con lại mong cho Ba đi ngủ sớm để công việc của con không gặp trở ngại, có lẽ con chưa tin Ba, có lẽ sự cố chấp và tàn bạo của Ba trong cách giáo dục đã làm cho con khiếp đảm đến nỗi vẫn còn nghi ngờ thái độ hỗi cải của Ba dù rằng Ba đã hứa là sẽ làm một cái gì đó cho con vui dù là thật nhỏ (ý định này chớm nở trong tôi từ sau khi đi tĩnh tâm về.)
Con có biết đâu khi con xách giỏ đồ của đoàn về giặt, Ba đã học được một sự e ngại và lo âu trong ánh mắt con, Ba nhìn thấy cả sự lúng túng và sợ sệt khi Ba hỏi: “Đồ của ai vậy?” và con đâu biết là ba đã có một quyết định trong đầu là phải làm một cái gì đó dù thật nhỏ thôi khuyến khích con và để cho con tin yêu Ba hơn, vì thế sau khi ăn cơm tối xong là Ba lúi húi lo làm cho con một cây đèn, rồi sau đó Ba đi cầu nguyện, khi trở về đã chín giờ tối Ba đe cây đèn ra thử lại nhưng cái tim bị hư hỏng không xử dụng được, ba vội vàng tìm một cái tim khác thay thế và khi cây đèn được thắp sáng lên thì cũng là lúc cúp điện. Ba đã đem cây đèn ra cho con khi con giặt giỏ đồ đó.
Đêm đó Ba rất băn khoăn và ưu tư, tìm đâu ra dây để cho con phơi số đồ đó, thế rồi cuối cùng Ba cũng đã tìm được câu trả lời, Ba đã dậy thật sớm để chuẩn bị toàn bộ dự tính mà Ba sẽ làm cho con sáng nay. Ba đã nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt con và cả ánh mắt tin yêu khi con từ nhà thờ trở về và thấy những chiếc khăn của đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể đã được phơi trên những dây phơi xinh xắn và Ba không bao giờ quên cái nụ cười hân hoan của con, “Bây giờ con mới biết Ba của con, Ba của năm 92 chứ không còn là Ba của năm 91”.
Con thân yêu! Ba không thể nào nói với con những gì Ba sẽ làm cho con trong tương lai, thế nhưng Ba sẽ đã nguyện với lòng là Ba sẽ đem lại cho con những nụ cười, những hạnh phúc dù nhỏ nhoi nhất, Ba muốn con hãy tin yêu vào đời như con đang tin yêu vào Ba, Ba muốn chuộc lại những lỗi lầm mà Ba đã đối xử với con trong những thời gian qua. Có một điều mà Ba đang tự hỏi: “Tại sao không phải là một người nào đó động viên hoặc khuyến khích Ba đi tĩnh tâm mà lại là con? Tại sao Chúa không nhờ một người như Cha linh hướng chẳng hạn, mà lại là con? Một người mà dưới quan niệm giáo dục của Ba thì con chỉ là một đứa con nít, một đứa con nít tầm thường chỉ biết cúi đầu vâng phục mà không được quyền ý kiến, dưới mắt Ba, con tầm thường bao nhiêu thì trước mặt Chúa con giá trị bấy nhiêu, vì Chúa đã chọn con để ban ơn cứu chuộc cho Ba, Chúa đã ban ân sủng cho Ba qua sự tác động của con, con là viên gạch mà Ba loại bỏ, khinh để thì lại trở thành viên gạch góc tường nơi bàn tay điêu luyện của Chúa. Bây giờ Ba mới thấy những điều kỳ diệu mà Chúa đã thực hiện, và không có điều gì mà Thiên Chúa không làm được.
Cảm tạ Chùa vì Người đã thương mà ban cho Ba một ân sủng cao quý nhất đó là con và cảm tạ Chúa vì Người đã đoái thương đến gia đình ta.
Trong đời sống, hạnh phúc thật gần mà cũng thật xa, đau khổ có khi phải thật xa mà cũng thật gần. Có khi hạnh phúc treo trên tầm tay, mà trái tim vẫn không nhìn thấy. Có khi âu lo mờ xa như trăng trên đầu núi, mà con tim cứ khắc khoải băn khoăn. Đau khổ, hạnh phúc, gần hay xa là tuỳ nhịp đập con tim của mình. Có ơn thánh Chúa, con tim sẽ bình an và nhịp đập sẽ là hạnh phúc.
Nhiều khi khó định nghĩa được ơn thánh là gì, vì ơn thánh siêu nhiên không nhìn thấy. Vì vô hình, nên ơn thánh như xa với không thực tế trong cuộc sống thường ngày. Ơn thánh là quà tặng của Chúa, giữa Chúa và ơn thánh là một liên hệ có một là có cả hai. Khi người ta thấy ơn thánh sao mà xa vời đâu đâu ấy, thì người ta cũng thấy Chúa xa vời ở mãi tận đâu ấy. Chúa như không thật, không gần con người, không nghe những khổ đau của con người.
Câu chuyện của bé Quyên cầu nguyện với Chúa, và cha của em, một cựu sỹ quan phi công, đã viết thư cho con mình, đối với tôi, đó là câu chuyện Chúa ở cùng chúng ta. Ơn thánh là điều có thật. Ơn thánh rất cụ thể. Ơn thánh liên hệ trực tiếp tới hạnh phúc của con người. Ơn thánh không trừu tượng xa vời cuộc sống.
Tôi dành đoản khúc 44 và 45 này để nói với bạn về ơn thánh bằng ngôn ngữ của 2 người giáo dân. Hai đoản khúc này nói về thế nào là cầu nguyện, xin ơn, thế nào là sám hối, là tình yêu, thế nào là tội lỗi, hạnh phúc, là giáo dục gia đình, là Chúa ở cùng chúng ta. Như một cánh bướm tự do trong trời xanh sau những tháng ngày ẩm mốc.
Câu chuyện xảy ra năm 1922 ở trại tị nạn Palawan, Philippines, nơi tôi làm tuyên uý. Tôi thấy cả người con lẫn người cha đều có những khổ đau và cũng đều có những hạnh phúc. Có ngày tháng cũ và ngày tháng mới. Có lo âu chán nãn và ánh sáng. Có yếu đuối và sức mạnh. Tôi nói với người cha hãy viết một cánh thư cho con gái như một quà tặng, vì trong đời khó có những quà tặng như thế lắm, và cánh thư ấy cũng sẽ là kỷ niệm cho chính ông. Ông đã viết. Đồng thời, tôi cũng bảo em Quyên viết lại đơn sơ những gì đến từ con tim. Quyên đã viết.
Hôm nay, trong hai đoản khúc này, không phải là ngôn ngữ của những nhà thần học nói về ơn thánh nhưng là của những người giáo dân nói về Chúa, về hạnh phúc và đau khổ, về nước mắt, về tuyệt vọng, về bình an. Tôi xin gởi bạn, cách riêng tới những gia đình có những hoàn cảnh tương tự, những dòng chữ tôi đã cất giữ từ nhiều năm qua.
Lời Viết Của Em Quyên
Sau khi tĩnh tâm về, tôi thấy tâm hồn thật thoải mái nhẹ nhàng, tôi thương mến tất cả mọi người chung quanh, bạn bè trong đoàn, tôi thấy ai ai cũng dễ mến chứ không dễ ghét như trước kia tôi thường nghĩ. Đó là tại vì trong lòng tôi đang có sự hiện diện của Chúa và tình yêu.
Gia đình tôi đất Phi này được năm người, Bố, tôi, em và hai người Cậu (em ruột của má tôi). Thời gian đầu sống vui vẻ đầm ấm nhưng cuộc sống tị nạn có những phức tạp, những lo lắng về tương lai, tiền bạc,… Đã làm cho con người dần trở nên ích kỷ và hay bẳn gắt. Và gia đình tôi đã không thoát khỏi điều này, những sự bất đồng ngấm ngầm đã phát xuất ra tự lúc nào giữa Bố và hai Cậu tôi. Sự chịu đựng nào rồi cũng có giới hạn của nó, nó như một trái bom nổ chậm và đến lúc phải nổ tung lên. Một cuộc ẩu đả đã xảy ra trong gia đình tôi, trầm trọng đến nỗi như không còn thể nào hàn gắn lại được. Điều này đã làm cho tôi đau khổ vô cùng và tôi đang đứng trong thế kẹt không có đường lối thoát. Một bên là Bố, một bên là Cậu, tôi phải đối xử làm sao đây? Tôi phải làm thế nào để được lòng cả hai bên? Từ ngày xảy ra câu chuyện, Bố tôi cấm không có chị em tôi quan hệ với hai Cậu, điều này lại đem đến cho tôi sự lo buồn khó xử đến tột cùng. Dĩ nhiên tôi không thể bỏ Bố, nhưng theo Bố rồi bỏ Cậu thì cũng không thể có. Vì thế, chị em tôi vẫn thường lén Bố qua lại thăm Cậu. Và có một lần Bố tôi biết được, ông giận lên và cho tôi một trận đòn chí tử. Tôi có cảm tưởng ông đánh hai chị em tôi như thế để trả thù một điều gì đó đã làm ông tức tối ghê gớm. CHuyện xảy ra làm tôi có một chút bất mãn với Bố tôi. Tôi tự nghĩ “Tại sao bố lại cấm chị em tôi quan hệ với người thân, người có cùng huyết thống?”. Và đầu tôi le lói một ý nghĩ: “Bố tôi quá cố chấp”. Tôi có thể khẳng định được điều này vì sau ngày xảy ra chuyện xích mích, Cậu tôi có đến xin lỗi bố tôi nhưng Bố tôi đều làm lơ và có một lần muốn đuổi Cậu tôi ra khỏi nhà khi Cậu tới xin lỗi. Từ đây, tôi cảm thấy bớt phần kính nể đối với Bố và chị em tôi lén gặp Cậu nhưng cẩn thận hơn không để Bố tôi biết.
Sau khi tĩnh tâm về, tôi cảm thấy thương yêu và thông cảm cho Bố tôi hơn và một sự ước ao đeo đuổi trong đầu tôi khi nghĩ đến chuyện gia đình, đó là làm sao cho Bố tôi đi tĩnh tâm. Khi biết cha sẽ tổ chức thêm một khoá nữa tôi có đi hỏi để xin Bố tôi đi, được biết đã có đông người ghi danh lắm rồi, tôi lo sợ không biết có ghi tên cho Bố được hay không. Và kết quả xảy ra làm tôi bất ngờ vì khi tôi hỏi, Cha lại đồng ý ngay dù số người quá đông và Cha phải loại bớt ra.
Cám ơn Chúa một bước đã qua và còn một bước nữa là thuyết phục làm sao cho Bố tôi đi. Về nhà tôi có nói chuyện và đề nghị mấy lần nhưng Bố tôi đều từ chối, cứ lúc nào vui vui là tôi đề nghị nhưng ý Bố tôi không muốn đi. Điều này lại làm tôi lo lắng vô cùng vì tính Bố tôi khi quyết định một việc gì rồi là không thể thay đổi. Và tôi không biết làm gì hơn ngoài lời cầu nguyện cùng Chúa, “nếu Chúa muốn thì xin Chúa hãy sắp đặt cho Bố con dự khoá tĩnh tâm này”. Và điều vô cùng bất ngờ lại xảy đến với tôi lần nữa, đến ngày dự hai tối chuẩn bị trước khi đi tĩnh tâm thì Bố tôi lại đồng ý đi, rất vui mừng nhưng tôi vẫn nơm nớp lo sợ ông đổi ý. Mọi việc điều tốt đẹp cho đến sáng ngày đi tĩnh tâm, trong lúc tôi đang sắp xếp quần áo và đồ dùng cá nhân vào giỏ cho Bố tôi thì Bố tôi nói là “Bố đi vì Bố sợ con buồn thôi chứ thật lòng Bố không muốn đi tí nào”. Tôi lại lo lắng trong lòng và tự nghĩ, “nếu vậy thì không biết Bố đi có được ơn ích gì không?” Đang suy nghĩ miên man thì tôi chợt nghĩ lại, “Bố đã chịu đi là tốt rồi, bây giờ hãy để cho Chúa lo lắng và sắp đặt theo ý Ngài”. Và sáng hôm đó Bố tôi lên đường.
Khi Bố tôi đi rồi, ở nhà tôi vẫn cứ lo lắng, không biết là Bố tôi có cảm nhận gì không, có sốt sắng không. Và điều làm tôi lo nhất là không biết Bố tôi có chịu phép Hoà Giải không vì đã lâu lắm rồi Bố tôi không có xưng tội rước lễ. Với những lo lắng này, tôi không biết làm gì hơn ngoài việc góp lời cầu nguyện xin Chúa ban cho Bố tôi dù chỉ một chút cảm nhận được Tình Yêu của Chúa dành cho con người vĩ đại như thế nào và tình con người đáp lại cho Chúa ra sao mà thôi.
Ba ngày trôi qua trong lo lắng và ngày kết thúc của Bố tôi đã đến. Một lần nữa, Chúa lại cho tôi một bất ngờ, và sự bất ngờ này thật vĩ đại. Tôi cong nhớ rất rõ tối hôm đó hai chị em tôi đang ngồi trong nhà chờ Bố tôi về thì bất ngờ Bố tôi đẩy cửa bước vào, tôi chưa kịp lên tiếng thì Bố tôi đã tiến tới ôm lấy chị em tôi và khóc. Tôi chưa bao giờ thấy Bố tôi khóc nên khi thấy Bố tôi khóc khi đi tĩnh tâm về thì tôi đã đoán biết được điều gì đã xảy ra cho Bố tôi. Quá ngạc nhiên và vui mừng nên chị em tôi cũng không cầm nổi dòng nước mắt, và trong dòng nước mắt Bố tôi đã nói: “Bố xin lỗi hai đứa vì đã đánh hai đứa khi hai đứa qua thăm Cậu”. Từ ngạc nhiên và vui mừng này đến ngạc nhiên và vui mừng khác, quá xúc động trước lời nói này tôi đã khóc nức nở vì vui sướng, tôi thầm cảm tạ Chúa và thầm dâng lên Ngài những giọt nước mắt vui sướng này, sau cùng Bố tôi nói: “Ngày mai con kêu hai Cậu lại nhà chơi cho Bố xin lỗi hai Cậu vì Chúa đã nói Bố phải làm như vậy”. Tối hôm ấy Bố con tôi ngồi nói chuyện đến khuya. Và Bố tôi có kể một đoạn như thế này: “Trong suốt buổi hoà giải Bố vẫn quyết là sẽ không chịu hạ mình để làm hoà với Cậu, Bố có nói với Cha và Cha chỉ nói Bố về cầu nguyện tìm ý Chúa. Và cầu nguyện cho đến lúc làm lễ Bố vẫn chưa thay đổi ý định. Cho đến lúc rước lễ thì Cha nói: “Các con hãy đứng tại chỗ và Cha sẽ mang Mình Thánh Chúa đến cho mỗi người. Thiên Chúa đến làm hoà với ta thế thì khồn có lý do gì ta không đến để làm hoà với người anh em”. Câu này làm cho Bố giật mình và làm Bố phải suy nghĩ, ngay sau đó Bố quyết định và hứa với Chúa về sẽ làm hoà với Cậu. Và Bố chợt thấy tâm hồn thanh thản và bình an lạ thường.
Tôi hẹn Cậu tôi sau thánh lễ chiều ghé vào nhà tôi vì Bố tôi có ý định muốn làm hoà với hai Cậu. Nghe tôi nói vậy, tôi thấy hai Cậu rưng rưng nước mắt. Suốt ngày hôm đó Bố tôi cứ nói với tôi là phải nói như thế nào đây? Sao Bố lo quá. Tôi cũng nói để trấn an Bố tôi nhng thật tâm tôi cũng lo lắng không kém, không biết là có được tốt đẹp hay không? Trong thánh lễ hôm đó tôi hết lòng cầu nguyện cùng Chúa cho mọi việc được tốt đẹp.
Tối hôm đó khi Cậu tôi vừa bước chân vào nhà thì Bố tôi đi ra, cũng có phần ngượng ngập, nhưng bất chợt Bối tôi và hai Cậu ôm chầm lấy nhau khóc. Quá ngỡ ngàng trước sự việc xảy ra quá vui sướng, tôi và em tôi cũng khóc, thế là gia đình tôi, năm người khóc trong vui mừng của sự đoàn tụ. Sau đó chúng tôi ngồi lại bàn, Bố tôi nói lời xin lỗi Cậu và Cậu nói lời xin lỗi Bố. Hai bên hỏi thăm qua lại về đời sống và sinh hoạt hằng ngày trong trại. Lòng ai cũng hoan hỷ và cùng nhau thầm cảm tạ Chúa.
Riêng tôi, tôi không sao diễn tả được sự vui sướng này. Ước mơ của tôi qua bao ngày tháng chừng như không bao giờ được mà nay lại trở thành sự thật. Đôi lúc thấy sự thật mà tôi tưởng như tôi đang mơ, hồn tôi cứ lâng lâng vui sướng. Đến bây giờ tôi nhận biết rằng: “Đối với Thiên Chúa không việc gì mà Ngài không thể làm được. Với Ngài sắt cũng phải mềm”. Thánh Gioan đã định nghĩa rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thật đúng như vậy, ở đâu có Chúa ở đó có Tình Yêu, ở đâu có Chúa ở đó có bình an.
Mùa xuân đã về trên cành đào. Dọc theo chiều gió, cành đào thả hương tơ. Gío dúi vào nhau. Gío thả ỡm ờ. Dấp dáng màu hoa xuân trăng hồng vào gió như màu tơ lụa dìu nhau. Vườn đào dạt dào một vùng hương sắc. Gío rung rinh giữa lá và hoa. Gío đong đưa cho ẩn náu giữa hoa và lá tìm nhau. Trên đồi cỏ ngát màu mây, vườn đào vào nắng. Lấm tấm sương ẩm trong sáng mai hồng cho ủ mát những mộng mị êm đềm giấu dưới cánh hoa. Vườn đào đã vào xuân thì.
Bạn ạ, cũng có một vườn đào thiêng liêng mà người yêu tìm nhau như hoa đào tìm lá trong sách Diệu Ca, trong kho Kinh Thánh cổ:
Người yêu của tôi là chùm hoa thảo lý
trong vườn nho Engadi
Em xinh dường bao, em hỡi, em xinh dường bao!
Mắt em là những bồ câu!
Anh đẹp dường bao,
người yêu của em! Đẹp trai biết mấy!
Xanh um biết mấy, giường của chúng mình.
Xà nhà chúng mình là những hương nam, trần là trắc diệp.
Em là thuỷ tiên cánh đồng Saron,
là huệ trong những lũng sâu.
Như huệ giữa gai góc,
người yếu của tôi giữa lũ con trai.
Dưới bóng cây ấy, tôi ước mong ngồi cho chàng chở che,
và trái ngọt lịm nơi miệng tôi.
Chàng đã đưa tôi vào nhà rượu,
trên tôi bảng hiệu là: Yêu
Hãy lấy mứt nho mà chống đỡ tôi!
hãy lấy táo mà tẩm bổ tôi!
Bởi tôi ốm liệt vì yêu.
Tôi gối đầu lên cánh tay trái chàng
và tay phải chàng xiết ủ tôi
Tôi van xin các cô, nữ tử Jêrusalem hỡi,
nhân danh đàn linh dương cái và nai trong thảo nguyên!
Xin đừng lay thức, xin đừng thức tỉnh tình yêu
Cho đến khi tình yêu muốn!
(Diệu Ca 1:15;2:1-7)
Trên đường đào giường xuân, nắng ươm chín mật ngọt cho lũ ong say. Thời gian có mùa. Lúa chính có thì. Lũ ong về uống mật. Lũ bướm về bên hoa. Khu vườn đào không thường tình như người viễn khách chợt đi qua. Dừng chân đứng ngó. Sẽ thấy hoa lả lơi. Nắng bận rộn. Ong vội vã. Và cành đào được chiều chuộng sủng ái. Không phải xuân đất trời mà là xuân tình, xuân mộng. Giữa thung lũng trần ai bụi rừng, có đồi cỏ xanh và vườn đào, có yêu thương tìm nhau. Có vui trong trái tim nhỏ của lũ ong. Có thơ buông cánh trên màu bướm. Nhộn nhịp một mùa mới.
Bạn ạ, đấy chỉ là hình ảnh yêu thương thiêng liêng ảu một chuyện tình trong sách Diệu Ca. Cũng có tìm nhau, gọi nhau mà uống mật trong vòng tay của pho Kinh Thánh cổ:
Còn hơn là tiệc rượu, ta sẽ gợi lại tình yêu của chàng.
Ai cũng yêu chàng thật là phải lẽ.
(Diệu Ca 1:14)
Rồi loài chim quý từ đâu bay về. Dừng chân mỏi trên chùm hoa đào. Sương mát là thảo dược tinh kết từ nhuỵ hoa áp vào lòng nhỏ cho cánh chim nghỉ ngơi. Thứ tinh khiết quý hoá của trời, từ cao xuống, thứ tinh khiết hiếm hoi rịn từ cao sang nhất của nụ hoa chỉ một lần nở. Giọt mát ấy cho loài chim ngứa cổ hát vang cung nhạc vô thường. Tiếng hót chỉ có một lần trong đời, vì mùa thời gian năm tới có bến, bày chim có trở lại thì cánh ong đã biệt ly, cánh bướm đã già, và hoa năm cũ đã vào hư vô. Bài ca độc nhất. Tiếng hót thanh tao không ai có thể sao chép lại. Tiếng hót trong ngắt không loài chim nào có thể âm dạng được gần gần như thế. Tiếng hót vang lời thập giá: “Mọi sự đã hoàn tất. Con phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Ôi! Bài ca độc nhất.
Bạn ạ, lời chim hót trong vườn đào là âm vọng sao bản của một mùa ca hát thiêng liêng mà nhân loại cũng bắt gặp trong sách Diệu Ca. Trong pho Kinh Thánh cổ có viết về một mùa gọi tìm nhau rất thực và rất thánh, rất thiêng liêng và rất thơ:
Tôi thuộc về người yêu của tôi
với tôi, chàng những hăm hở!
Nào, người yêu của em, ta hãy ra đồng,
qua đêm giữa những chùm hoa mỏng!
Sáng sớm, ta hãy dạo các vườn nho
xem hoa có đâm chồi, nụ có nở, lựu có đơm hoa?
Ở đó em sẽ hiến dâng chàng ân ái của em.
Cỏ yêu đã xông mùi thơm phức
Nơi ngõ ra vào của ta, có mọi thứ thời trân,
cả cũ và mới, mà em đã giữ lại cho chàng,
người yêu của em hỡi!
Phải chi chàng với em như anh em ruột,
Đã cùng chung bú vú mẹ em!
Như thế, ngoài đường gặp chàng em sẽ hôn chàng
Mà mọi người sẽ chẳng ai khinh.
Em sẽ dẫn chàng, đem chàng về nhà mẹ em.
Và cho em, chàng sẽ khai tâm.
Em sẽ chuốc chàng, rượu nồng nàn,
cùng với nước lựu tinh nguyên.
Tôi gối đầu trên tay trái chàng,
và tay phải chàng ủ trên tôi.
(Diệu Ca 7:11-14,8:1-3).
Nhộn nhịp mùa hạnh phúc trên cành đào. Ở dưới đất, có con ốc nhỏ nhìn lên. Từ đất thấp, đợi kinh cầu mùa vọng trên cao, con ốc nhỏ tìm đường đi tới. Đường đi hạnh phúc là thế. Đếm từng phiến hạnh phúc rất chậm. Đo dài ngày tháng mong. Con ốc cứ kiên nhẫn nhích từng mẫu đời ngắn tí ti. Cây đào cao vời vợi với bước chân con ốc ngắn quá. Liệu khi con ốc lên tới cành đào thì hoa xuân còn hương cho gió? Mật ngọt còn rịn hay cánh hoa đã theo vĩnh biệt rơi về ngàn thu? Bước chân chậm quá, bao giờ mới tới nơi? Liệu khi tới cành đào thì hội xuân có còn?
Có tiếng thở tinh khôn của con rắn độc ác, nó tiêm những sợi buồn trong tim con ốc nhỏ tội nghiệp, nó bảo con ốc thôi đừng mơ đường lên cành đào nữa:
Ngày nào lên tới nơi thì tiệc cũng tàn. Thôi, ở đất thấp mà hà hơi ẩm mốc của thân phận một cõi làm thân ốc!
Nhưng con ốc nhỏ cứ im lặng bò từng phiến chậm. Trái tim nó nhỏ xíu thôi mà mơ ước cả mùa hội lớn. Con rắn độc ác cưa gieo vào hồn nó những tiếng thở dài thất vọng. Con ốc có khi nhỏ lệ, nhủ lòng rằng có khi một tháng nữa mới bò tới cành đào. Khi tới thì hoa đã tàn, hương đã bay, mùa xuân đã qua. Nhưng khi hoa tàn rồi thì tinh tuý của hoa kết nụ thành trái. Bấy giời sẽ là những cành đào trĩu nặng trái đỏ hồng một trời tháng hạ. Không còn hoa, nhưng hoa đã thành trái. Bấy giờ mùa hạnh phúc còn trọn vẹn hơn gấp bội. Với lý tưởng ấy, mùa hạnh phúc ấy ấp ủ trong tim, con ốc lại bò từng phiến chậm, bất chấp lời xúi giục của con rắn già gian ác.
Lạy Chúa, chân con chậm trên đường về mùa đào thiêng liêng. Yếu đuối làm con sa ngã hoài. Đường tới nhân đức cứ xa xôi mãu thôi. Nhưng con sẽ bước những bước kiên nhẫn. Cho dù có lời cám dỗ bảo con chẳng bao giờ đạt được, nhưng con đã thấy mùa hồng đào trong vườn thiêng liêng Nước Trời, con không bỏ cuộc, con sẽ tiếp tục đi như con ốc miệt mài bò từng bước chậm.
Xin cho con ấp ủ mãi trong hồn tiếng gọi ở trên cao.
Gởi tấm thiệp cưới báo tin là gởi cả một thay đổi vào dòng đời. Một lần lên xe hoa là bỏ lại cả một bến bờ. Mỗi tấm thiệp là chuyện thật dài của một hồn thơ:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy.
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi (HÀN MẶC TỬ)
Theo chồng là ngày vui mà sao lời thơ như có vẻ nuối tiếc cuộc chơi. Phải chăng nuối tiếc vì biết có mùa xuân hôn phối đấy, nhưng giã từ đám xuân xanh, đường theo chồng có thật sự sẽ dẫn người gởi thiệp vào xuân hạnh phúc?
Mọi đám cưới đều đưa tin bằng những tấm thiệp. Thiệp cưới nào cũng giống nhau là báo tin vui. Thiệp đơn sơ vậy, nhưng tâm tình người gởi thiệp chưa hẳn là đơn sơ. Có người lên xe hoa, hồn vui như mùi thơm giấy mới của thiệp. Thế nhưng có kẻ bỏ cuộc chơi mà lòng vẫn thương bến xưa. Có người hạnh phúc náo nức bay theo cánh thiệp đưa tin. Thế những cũng có kẻ lên thuyền sang sông mà hồn không trọn theo nước xuôi thuyền. Phức tạp của người đưa thiệp là thế.
Tấm thiệp không thay đổi, sau bao năm tháng, tên hai người in trên đó vẫn cứ bên nhau. Có dôi hôn nhân ngày gởi thiệp, tên viết bên nhau, mà giờ đây mỗi người một cuối đường xa cách. Tiếng pháo nổ trong ngày cưới thật vui, nhưng cũng có những bài ca buồn về xác pháo bay. Tấm thiệp không thay đổi nhưng người sang bến sông có thể đổi thay.
Làm sao để đường theo chồng cứ hạnh phúc. Làm sao để ngưòi gởi thiệp lúc nào cũng như tấm thiệp cưới, tên cứ bên tên và tình yêu cứ bên tình yêu mãi mãi.
Nếu để giữ cho tình yêu lúc nào cũng là tin vui như tấm thiệp có là chuyện gian nan thì cũng chẳng phải là điều khó hiểu. Hai ngàn năm trước, câu chuyện tiệc cưới Cana cho thấy tiệc chưa xong, khách chưa về đã có chuyện gian nan rồi: “Họ thiếu rượu” (Yn 2:3). Chuyện khó khăn trong hôn nhân đã xẩy đến ngay khi ngày cưới chưa qua.
Có thể thiếu rượu vì gởi nhiều thiệp quá. Mỗi tấm thiệp đều có một giá trị. Gía trị từ phía người gởi và cá phía người nhận. Người gởi thiệp đi, gởi với tâm tình gì. Người nhận thiệp, nhận với tâm tình nào. Hôm nay, không đám cưới nào mà không gởi thiệp. Ta hãy đọc lại Phúc Âm tường thuật tiệc cưới Cana để tìm thêm ý nghĩa của những tấm thiệp.
Chung quanh một ngày cưới tôi thấy có nhiều thứ thiệp. Có thiệp gởi đi vì xã giao, thiếu nó là khồn xong. Có người nhận thiệp mà không vui, miễn cưỡng mà đến dự thôi, không đến là không được. Có người đến tiệc cưới vì kẻ khác chứ không vì đôi tân hôn. Thiệp in giống nhau mà tâm tình của những tấm thiệp nhiều khi khác nhau lắm. Từ nhiều tâm tình khác ấy, tôi thấy những người đến dự tiệc cưới cũng có nhiều thái độ khác nhau. Có lời chúc mừng thương đôi bạn trẻ. Có khách so sánh đám cưới này với đám cưới nọ. Có tiếng phê bình cách tổ chức. Khác được mời là quan trọng, đôi tân hôn phải phục vụ khách chứ không phải khách đến để giúp đỡ đôi tân hôn. Vì thế, khác nào cũng muốn được tiếp đón trang trọng. Không phải mọi thiệp gởi đi đều vì tình và mọi người nhận thiệp đều đến vì thương yêu. Trong ngày hạnh phúc mà dường như đã có những vì sao đi lạc.
Đọc lại Phúc Âm về tiệc cưới ở Cana, chúng ta thấy tấm thiệp mang ý nghĩa ở cả hai phia, người gởi và người nhận. Mẹ Maria có mặt trong ngày cưới đó. Nghĩa là Mẹ cũng nhận được tấm thiệp. Chính nhờ tấm thiệp này mà ngày cưới hôm ấy xâỷ ra một biến cố rất lớn. Nếu người gởi thiệp không gởi cho Mẹ Maria thì đám cưới hôm đó sẽ ra sao.
Tuy đôi tân hôn là trung tâm của ngàu cưới, nhưng Phúc Âm lại không nói gì về đôi tân hôn cả. Phúc Âm nói về sự thiếu thốn của đôi tân hôn.
Đối với người Do Thái, không thể quan niệm một tiệc cưới mà không có rượ. Nó tẻ nhạt không còn là tiệc cưới nữa. Vấn đề ấy là nguyên nhân có thể đem niềm vui hay một kỷ niệm buồn cho đôi tân hôn. Tìm hạnh phúc, phải chăng đó cũng chính là chủ đề các đôi hôn nhân hôm nay đang cần. Câu chuyện thiếu rượu trong tiệc cưới Cana bắt đầu với một người khách, đó là Mẹ Maria, rồi liên quan đến các gia nhân và ông chủ sự.
Một Người Khách
Mẹ Maria được mời như một người khách, nhưng Mẹ đã không đến dự tiệc như một người khách mà như người giúp việc. Làm sao Mẹ biết họ thiếu rượu nếu Mẹ không quan sát? Chắc hẳn Mẹ là tiếng xầm xì, Mẹ thấy nỗi lo âu của những người chạy việc. Mẹ tế nhị quá. Mẹ để ý những chuyện chung quanh ngày cưới của đôi trẻ. Mẹ thương người. Mẹ biết tiệc cưới mà thiếu rượu là một kỷ niệm buồn của ngày hôn nhân. Mẹ muốn tình yêu của họ trọn vẹn. Không ai yêu cầu Mẹ giúp, Mẹ đã đến như một kẻ tự nguyện.
Sau khi Chúa làm phép cho có rượu rồi, ta không thấy nhắc đến Mẹ nữa. Mẹ rút vào thầm lặng. Tình thương của Mẹ bao dung hơn nữa khi ta để ý rằng đây là phép lạ thứ nhất Chúa làm. Nếu Chúa làm nhiều phép lạ tồi thì Mẹ Maria có lý mà xin Chúa can thiệp, điều ấy cũng dễ hiểu thôi. Đâu là phép lạ đầu tiên, điều ấy nói lên nỗi bận tâm đặc biệt của Mẹ với hạnh phúc của đôi hôn nhân.
Hạnh phúc cho đôi hôn nhân nào có những người khách như Mẹ Maria. Và cũng đẹp biết bao nếu khách được mời cũng đến tiệc cưới với tâm tình như của Mẹ.
Trong bóng dáng của Mẹ ở tiệc cưới, hình ảnh Mẹ vừa là ý nghĩa cho người gởi thiệp đi biết chọn người mà gởi, vừa là ý nghĩa cho người nhận thiệp biết đến dự tiệc với tâm tình nào.
Ông Quản Tiệc
Có người quản tiệc, chứng tỏ đám cưới này cũng có chuẩn bị chu đáo. Họ đặt một người quản tiệc để lo mọi công việc trong tiệc mừng. Nhưng mỉa mai thay là có quản tiệc mà thiếu rượu. Và câu nói của ông ta “rượu ngon này bởi đâu mà có?” âm vang lên một cung điệu thiếu trách nhiệm của ông. Rượu hết ông không biết, có rượu mới ông cũng không hay. Vậy đâu là bổn phận của ông? Có đáng buồn cho đôi tân hôn là họ đã tin cậy và phó thác lầm người?
Trong ý nghĩa đời sống thiêng liêng, ông quản tiệc là hình bóng dấp dáng hàng ngày trong hạnh phúc hôn nhân của nhiều gia đình. Có khi nào thay vì nương nhờ nơi Chúa thì họ lại đi tìm và gởi gắm hạnh phúc gia đình trong tay những thế lực khác? Phải chăng ông quản tiệc là hình ảnh của những thế lực như người đời, của cải, tiếng tăm, quyền thế. Những thế lực mà ta ngỡ rằng sẽ là nguyên nhân an toàn mang lại hạnh phúc.
Các Gia Nhân
Trong tiệc cưới này có những suy nghĩ dường như nghịch lý. Các vai trò chung quanh đôi tân hôn là chủ đề chứ không phải chính đôi tân hôn. Những người giúp việc là những người được chứng kiến phép lạ đầu tiên. Đặc ân đặc biệt này không dành cho gia chủ, mà cho người rất tầm thường. Lý do đơn giản là họ đã kín nước. Trong thái độ kín nước, các gia nhân có hai điểm, thứ nhất là họ đã nghe lời Mẹ Maria chuẩn bị cho họ: “Chúa bảo gì thì làm thế” (Yn 2:5). Đặc điểm khác là họ kín nước đầy tới miệng chum chứ không kín nửa vời. Với tâm tình phục vụ thành thực, Chúa đã dành đặc ân được chứng kiến phép lạ đầu tiên ấy cho họ. Phục vụ là hương thơm. Bất cứ ai phục vụ đều được hương thơm ấy lưu lại với chính họ.
Lạy Mẹ Maria, soi mình trong tiệc cưới Cana, chúng con cần gởi thiệp cưới cho Mẹ. Chúng con muốn Mẹ ở trong tiệc cưới của chúng con mỗi ngày. Những tấm thiệp chúng con gời cho người đời rồi sẽ quên. Những chuẩn bị cho hạnh phúc hôn nhân của chúng con nhiều khi rất lầm. Chúng con chuẩn bị sai. Sáu chum bằng đá đựng nước để rửa chân tay thì con đầy mà rượu thì thiếu. Cái phụ thì dư mà cái chính thì không có. Phải chăng đấy cũng là hình ảnh đời sống thiêng liêng trong gia đình chúng con. Rượu ơn thánh trong gia đình cbhúng con còn bao nhiêu? Chúng con không biết rõ. Có khi cạn rồi mà chúng con không hay. Có khi nào chúng con phân vân, bàn tính với nhau về tình trạng rượu thiêng liêng trong hạnh phúc hôn nhân không? Những chum bằng đá đựng nước, những phụ thuộc thì chúng con biết rõ lắm. Nó là nhà cửa, xe cộ, quần áo, nữa trang, sắc đẹp… Phải chăng nhiều đổ vỡ hôn nhân hôm nay là dấu chứng chúng con cần suy niệm kỹ hơn về sự lo âu của chúng con: Chúng con lo âu về những chum đựng nước phụ thuộc hay là rượu ơn thánh?
Những tấm thiệp gởi đi, tấm thiệp gởi Mẹ phải là tấm thiệp tha thiết nhất. Nếu đôi tân hôn Cana không gởi thiệp cho Mẹ thì tiệc cưới ấy thiệt thòi biết bao.
Chúng con muốn Mẹ ở mãi trong gia đình chúng con để nhắc nhở chúng con về tình trạng rượu ơn thánh trong gia đình còn bao nhiêu, nhiều hay hết. Chúng con ưa tìm những chum đá đựng nước và coi như bảo đảm hạnh phúc hôn nhân. Nhiều gia đình đổ vỡ vì lầm lẫn ấy.
Xin Mẹ chuẩn bị cho chúng làm theo ý Chúa như Mẹ chuẩn bị cho các gia nhân kín nước đầy chum. Và, nhất là chuẩn bị cho chúng con sống theo ý Chúa để chúng con được hạnh phúc sau cùng là gặp gỡ nhau trên quê trời.
Trong đời, ai cũng có lúc khóc. Khóc thầm lặng. Khóc cho vơi niềm đau. Kinh cầu tuyệt vọng là kinh cầu trong nước mắt. Kinh cầu mong hy vọng cũng là lời kinh khao khát đẫm lệ.
Vũ trụ dường như đã có dan díu với tiếng khóc trước khi hình thành hay sao mà bây giờ ở đâu cũng thấy có nước mắt. Có tiếng thở dài trên đường, có tiếng thở muộn phiền lúc nghỉ ngơi. Tiếng than bên đời là buồn nhiều hơn vui.
Những trang Kinh Thánh thưở xưa cũng đong dài nhiều dòng nước mắt. Nhưng câu chuyện nước mắt của Mađalena thật đặc biệt. Bà khóc hai lần, hai lần khác nhau.
Ngày đó, Mađalena khóc bên chân Chúa, nước mắt và hương thơm. Trong buổi chiều ấy, Chúa không nói gì. Chúa cứ để Mađalena khóc. Chúa nhận nước mắt như nhận quà tặng ân tình. Còn Mađalena muốn đem nước mắt hòa vào hạnh phúc dầu quý cho bay đi những cơn mưa phùn của linh hồn rêu phong năm xưa. Chiều đó, người đàn bà ấy không nòi gì. Thinh lặng và nước mắt thôi.
Thế rồi, cũng người đàn bà ấy, một sáng nọ bà khóc, buổi sáng đến mộ đá tìm xác Chúa. Nhưng tiếng khóc lần này không như tiếng khóc thuở xưa.
“Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc, vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt xác của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn, lền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về” (Yn 20:11-15).
Một Mađalena, mà hai khung trời, hai dòng nước mắt khác nhau. Một con tim mà hai nhịp đập, hai thổn thức khác biệt.
- Ở nhà Biệt phái: Ngày ở nhà ông Simon Biệt Phái, nước mắt bà Mađalena rơi xuống chân Chúa, nhưng chảy ngược vào tâm hồn. Mađalena khóc thầm lặng không tiếng nói. Bên mộ đá: Hôm nay, bên mộ đá Mađalena oà vỡ khóc thành lời nói. Bà thổn thức báo tin cho Phêrô và Yoan. Bà vội vã hỏi “Người làm vườn”. Bà quả quyết với thiên thần: “Người ta lấy mất Chúa tôi rồi” (Yn 20:13).
- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Simon, Mađalena kín đáo tìm cách vào tận phòng tiệc cho nước mắt rơi trên sàn nhà. Bên mộ đá: Hôm nay, Mađalena đứng ở ngoài mộ mà thôi, tiếng khóc vang bên phía ngoài.
- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, nước mắt Mađalena rơi trước mọi người, rơi trên chân Chúa. Bên mộ đá: Hôm nay, nước mắt rơi trong cát bụi.
- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, Chúa để Mađalena ngồi cạnh mình lấy tóc cùng nước mắt mà lau chân. Bên mộ đá: Hôm nay, Chúa không cho nước mắt kia chạm tới Ngài.
- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, trong tiếng khóc, Mađalena bị người ta kết án. Bên mộ đá: Hôm nay, Mađalena kết án người khác trong tiếng khóc của mình. Không bằng chứng mà Mađalena dám báo tin cho Phêrô bằng cách đổ tội cho người khác rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ” (Yn 20:2).
- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, trong dòng nước mắt, Mađalena nhìn rõ Chúa. Bên mộ đá: Hôm nay, cũng là nước mắt, Mađalena nhìn Chúa nhưng ngỡ là ông làm vườn. “Thưa ông, nếu ông đem Người đi thì cho tôi biết ông để Người ở đâu?” (Yn 20:15).
- Ở nhà Biệt Phái: Ngày ở nhà ông Biệt Phái, Chúa thương dòng nước mắt ấy thiết tha. Bên mộ đá: Hôm nay, Chúa chất vấn: “Bà kia, sao lại khóc?”.
**************
Lạy Chúa, cũng một con người được Chúa yêu, mà sao một lần khóc thì Chúa như bùi ngùi, một lần khóc thì Chúa nhìn dòng nước mắt mà hỏi: “Bà kia, sao bà lại khóc?”. Câu trả lời của Chúa như ngạc nhiên về dòng nước mắt ấy. Câu hỏi như từ chối, như nói rằng dòng nước mắt ấy không cần thiết. Tại sao vậy Chúa?
Tiếng khóc nào cũng có ý nghĩa. Nước mắt nào mà không chứa đựng nghẹn ngào. Càng nguyện vọng, nước mắt càng mặn cay, nước mắt ấy phải quý lắm chứ. Vậy tại sao Chúa lại hỏi: “Bà kia, sao bà khóc?”
Chỉ có một lần Chúa khóc, đó là trước cái chết của Lazarô. Cái chết nào mà không mất mát, nghẹn ngào, chính Chúa mà còn khóc. Vậy tại sao hôm nay Chúa lại bảo Mađalena đừng khóc nữa. Nhờ Chúa khóc trước cái chết của Lazarô, nên hôm nay, con phải suy nghĩ về nước mắt, tiếng khóc, nỗi đau của Mađalena trước mộ đá.
Khi Chúa khóc trước cái chết của Lazarô thì người chung quanh nói với nhau rằng: “Kìa, nhìn xem Ngài thương Lazarô dường bao” (Yn 11:36). Như vậy, nước mắt của Chúa hôm Lazarô chết không phải là nước mắt tiêu điều. Cái khóc của Chúa không là tuyệt vọng mà là tình thương.
Còn nước mắt của Mađalena bên mộ Chúa, có thương đó mà cũng có xót xa. Chúa sống lại, nhưng Mađalena phao tin rằng người ta lấy xác Chúa. Bà không nhìn thấy, nhưng bà nghi ngờ và đổ lỗi cho việc Chúa không còn trong mộ đá là xác Chúa đã bị đánh cắp! Nước mắt chúng con trước cái chết của người thân yêu có lẽ cũng mang dáng dấp cả hai. Có thương nhưng lại thương trong xót xa, và nỗi xót xa ấy nhuốm màu đau tuyệt vọng như của Mađalena. Vì chưa hiểu niềm tin Phục Sinh, nên không thấy xác Chúa thì Mađalena cảm thấy ngày một mất mát lớn lao. Nỗi mất mát ấy là của Mađalena, cho nên thương Chúa mà xót xa cho mình. Xót xa và tuyệt vọng làm Mađalena nghi ngờ và đổ lỗi cho nhiều người.
Vì xót thương trước cái chết của người thương yêu, nhiều khi chúng con cũng không tránh khỏi những phàn nàn, trách nhiều nguyên nhân, có khi trách cả Chúa. Xin Chúa cho chúng con hiểu hơn về mầu nhiệm Phục Sinh trong sự chết.
Nước mắt bên mộ đá đã đưa Mađalena vào những vùng mây mờ không chứng cớ. Đấy là nước mắt thiếu ánh sáng Phục Sinh. Trong nước mắt xúc cảm nhạt nhoà, bà không nhìn rõ Chúa đứng ngay bên cạnh. Chính Chúa đó mà bà lại hỏi ông để xác Chúa tôi ở đâu.
Chúng con cũng thế thôi, vào những giờ đau đớn quá, chúng con không bình tâm nhìn thấy Chúa bên cạnh mình nữa. Nước mắt đau đớn làm nhoà cái nhìn về sự sống đời sau. Mađalena đã bừng tỉnh khi Chúa gọi tên bà. Vậy con xin Chúa cũng gọi tên con trong những giờ chán nản tuyệt vọng để hồn con được an ủi.
Chúa khóc trước cái chết của Lazarô chỉ vì thương. Xin cho nước mắt chúng con trước nỗi biệt ly cũng chỉ có một tình cảm ấy mà thôi, là chúng con hãy thương mến nhau. Người chung quanh nhìn trước mắt Chúa mà nói: “kìa Ngài thương Lazarô biết bao”. Chớ gì nước mắt chúng con hôm nay cũng như vậy, để một người ra đi là đem yêu thương về đầy giữa chúng con, những kẻ ở lại.
Tình thương thì đem chúng con gần lại, còn nỗi tuyệt vọng sẽ làm đời sống chúng con rã rời. Con hiểu, cũng trước cái chết, Chúa đã khóc. Mà cũng trước cái chết, Chúa không muốn Mađalena khóc. Chúa muốn tiếng khóc của tình thương thôi chứ không muốn tiếng khóc tuyệt vọng. Vì Chúa là Phục Sinh.
“Vì sao con lại khóc?” Con mong lời Chúa hỏi Mađalena thưở xưa cũng là lời Chúa hỏi con hôm nay trong nỗi buồn này. Con hiểu lời ấy như một an ủi nhắc con về niềm tin Phục Sinh đằng sau nỗi chia ly vĩnh biệt. Con hiểu vì sao Chúa đặt câu hỏi ấy, vì trước giờ từ biệt Chúa đã căn dặn con: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Yn 14:3). Chúa mong chúng con ở bên Chúa như vậy thì khi người thân yêu của chúng con ra đi là giây phút Chúa chờ đón.
Mađalena chỉ nhìn vào mộ đá, vì thế nước mắt chỉ là trời sương buồn nản phủ xuống hồn. Chúa đã không muốn nước mắt ấy. Xin cho nước mắt của chúng con hôm nay không bám víu vào nỗi mất mát cho vơi niềm đau. Nhưng qua nước mắt, chúng con cho rơi đi những gì thiếu sót chúng con đã đối xử với nhau những ngày còn sống, để nước mắt hôm nay rửa tâm hồn chúng con cho đẹp hơn.
Xin Chúa cho nước mắt của chúng con hôm nay không kéo về những chiều hoàng hôn tuyệt vọng, mà rửa niềm tin chúng con sáng hơn để chúng con thấy người thân yêu đang ở bên Chúa và đang cầu bầu cho chính chúng con. Amen.
Sống mà không được ai nhớ tới là sống trong quan tài buồn. Trong quan tài khi chết thì không thương đau vì không biết mình trong quan tài. Sống mà sống trong quan tài buồn thì đau thương bởi vì biết mình đang chết.
Có cha, có mẹ, nên ta vào đời. Mẹ là chuối hương cau, là xôi nếp mật là đường mía lau. Tình cha là sông dài, núi rộng. Cha vất cả mồ hôi. Con như ruộng lúa cha gánh nước nuôi trong những ngày suối cạn. Con như ngọn đèn và cha là người chịu lạnh đậy gió, che mưa cho con. Người con nào không nợ tình của mẹ, chịu ân nghĩa của cha. Mẹ lo lắng từng ngày. Áo rách mẹ khâu thì cha âu sầu lo cho con đường học vấn.
Mẹ đưa con đến trường khi tuổi còn chưa biết khôn, mong con mình sẽ có tương lai mai sau. Những ngày trái nắng, gió mùa làm con đau, mẹ ru con ầu ơ bằng cả linh hồn. Mẹ nhớ con trê từng mớ rau mẹ ngồi bán. Mẹ nghĩ tới con mà mong bóng người mau thưa, chợ chiều mau tan. Rồi con lớn, con đi xa. Mẹ nhìn con cầu trời độ lượng, phù trì cho con thành nhân, con đạt công danh hạnh phúc.
Dòng sông xuôi nguồn đưa con vào đời. Bận rộn vì sự nghiệp với người để con xa mẹ. Thời gian trôi đi sao quá lẹ. Thoát chốc mà tóc mẹ bạc theo mùa trăng. Rồi định mệnh đến. Ngày con trở về, ngày đó, con mua cho mẹ cỗ quan tài quý.
Khi mẹ chết rồi, con có nhớ về thời xưa xa xăm cũng chỉ là tìm dấu chân trên cát, là hình ảnh nhạt nhoà dĩ vãng. Mẹ vẫn muốn chờ đợi gặp con, nhưng định mệnh gõ cửa, và linh hồn mẹ phải ra đi. Ngày trở về, con mua cỗ quan tài để trả ơn cho mẹ đã sinh thành. Có khi nào người con nghe cỗ quan tài kể chuyện chưa?
Lời Của Cỗ Quan Tài
Khi chết rồi có người mẹ nào biết cỗ quan tài con mua cho mình là bao nhiêu tiền đâu. Chuyện đời của tôi, một cỗ áo quan, dài lắm. Người bán hòm đã gian dối tính toán trên thân phận tôi. Có ai biết rõ câu chuyện của những cỗ quan tài không? Ngày họ biết, khi nằm vào thì đã muộn rồi. Vậy tôi xin kể về cuộc đời tôi cho bạn nghe, khi bạn còn sống.
Cỗ quan tài bạn mua cho mẹ dù là gỗ quý đến đâu đi nữa, nó cũng lạnh lẽo lắm. Thân phận tôi lạnh không phải vì gỗ, nhưng lạnh vì người bán hòm và mua hòm. Tôi đã thấy, xấu xa quá là có những người con vì lời khen, tiếng chê của người đời mà họ mua loại gỗ quý. Tôi nghe trong im lặng ý nghĩ của một số người con, họ muốn mua loại quan tài quý để lối xóm khen họ hiếu trung. Nhưng bà mẹ chết rồi, đâu còn biết cái hồm thế nào nữa. Ngày bà ta còn sống, chả đứa con nào nhớ tới. Phải đợi đến ngày Tết, ngày lễ, họ mới mua cho mẹ một món quà nhỏ. Họ nghĩ rằng đóng cửa cuộc đời, trả ơn mẹ bằng một cỗ quan tài là xong. Tôi là chiếc quan tài nên tôi biết rõ nhiều ý nghĩ thầm kín.
Cũng có khi không vì lời khen, tiếng chê, có những người con chân thành, nhưng người bán hòm lợi dụng khơi động lòng hiếu thảo của họ mà kiếm tiền. Tôi nằm đó mà nghe người bán hòm khôn khéo lời ngọt ngào. Nếu người con không tiếc tiền vì giàu có quá thì đâu là ý nghĩa của lòng hy sinh? Nếu phải khổ sở mặc cả kỳ kèo vì không đủ tiền thì đâu là hạnh phúc của người chết? Ngay lúc còn sống các bà mẹ đã không vì con mà chịu nghèo khổ hay sao. Đằng nào thì cỗ quan chúng tôi cũng có những ý nghĩa rất sâu.
Ngày kia, hai người con đến mua tôi, một người đến ban sáng, một người đến ban chiều. Dĩ nhiên, sau cùng chẳng ai mua tôi cả, nên hôm nay tôi mới kể lại chuyện này cho bạn được.
Người đến ban sáng giàu có lắm, ông ta sờ lên người tôi , khen màu sơn đẹp nhưng chê gỗ xấu. Ông muốn mua loại quan tài không bao giờ mục. Cả đời ông là lo công danh tiền bạc, ông thành công lừng lẫy, nhưng quên mẹ, quên cha. Nếu không mua cho mẹ cỗ quan tài quý vào phút sau cùng cuối đời này, ông sẽ ái ngại. Đọc được hết cuộc đời ông, tôi nói với ông rằng, đời ông cũng giống như lời ông chê tôi thôi, chỉ có nước sơn bên ngoài, còn trái tim là loại gỗ mục. Ngày mẹ còn sống sao không thương nhớ mẹ, bây giờ chọn gỗ quan tài quý, mẹ cũng đã chết rồi, ông chỉ vì nể tiếng đời thôi. Nhưng ông không nghe đựoc tiếng tôi nói.
Ban chiều, có một người con khác cũng đến sờ lên người tôi, nhưng nghèo qua không đủ tiền mua tôi. Tôi nói với người ấy rằng, có bà mẹ nào không hy sinh cho con mình đâu, chết rồi mẹ không biết trong quan tài nào nữa, có hiếu là hiếu lúc còn sống. Cứ tìm chiếc quan tài, nối kết người sống với người chểt, chúng tôi biết nhiều thế giới bí mật trong lòng người lắm.
Bạn vẫn thấy những chiếc xe tang, vẫn trông những cỗ áo quan, nhưng bạn chưa bao giờ hỏi chuyện những cỗ áo quan chúng tôi. Tất cả cuộc đời sau cùng gói lại trong cỗ áo quan. Mà cuộc đời là gì? Chẳng có triết nhân nào hiểu đủ được ý nghĩa cuộc đời thì làm sao hiểu được ý của cỗ áo quan. Bao nhiêu tư tưởng sâu xa, những chuyện yêu đương đẹp như thần thoại cũng gọi bằng chiếc áo quan. Bao nhiêu khối óc vượt nhân thế, những tính toán siêu vời cùng gói bằng chiếc áo quan. Bạn ạ, mênh mông như cuộc đời, huyền nhiệm như cuộc đời, mà sau cùng cũng im lặng vỏn vẹn trong cỗ áo quan, thì bạn biết cỗ áo bí hiểm như thế nào. Chúng tôi gói trọn tất cả đem về lòng đất. Người chết mới hiểu hết ý của những cỗ áo quan. Mà ngôn ngữ của kẻ chết là ngôn ngữ nhiệm mầu, e rằng bạn không quen với ngôn ngữ này.
Ngày mẹ chết, bạn đem về cho mẹ chiếc quan tài quý. Mẹ không biết bạn chuẩn bị cho mẹ chiếc áo quan này từ bao giờ. Có điều mẹ biết chắc bạn không rõ nguồn gốc của chiếc áo quan. Ngày từ khi cây gỗ xẻ xuống, người ta đã trả giá chúng tôi bằng định lượng tiền bạc. Từng nhát đinh cũng đánh giá bằng tính toán lời, lỗ. Từng vết keo dán họ cũng hà tiện. Khi cỗ áo quan chúng tôi thành hòm, tôi bị trăm cặp mắt nhìn tôi. Làm thân áo quan bao giờ cũng lạnh bạn ạ, bởi người ta đối xử với tôi như thế. Và hôm nay, bạn đem tôi về đây. Tất cả các người con chỉ biết về cỗ áo quan tài cho mẹ mình bằng giá tiền mắc hay rẻ mà đánh giá tốt hay xấu. Nhưng nằm vào, các bà mẹ mới thấy tất cả nguồn gốc cuộc đời chúng tôi là cỗ áo quan. Vì bạn không rõ nguồn gốc chiếc quan tài nên bạn khó nghe ý nghĩa cỗ quan tài là lời của chúng tôi thầm thì.
Có những người con bỏ mẹ đi không phải vì đường sự nghiệp mà ích kỷ cho riêng mình. Ngày người con ra đi, lòng người mẹ đã có cỗ áo quan rồi. Người mẹ gọi chúng tôi là quan tài buồn. Cuộc sống của người mẹ đó là sống trong quan tài vô hình. Bốn bề chệt chội bởi trái tim người mẹ đó khắc khoải. Ngộp thở vì mẹ gọi, con mình không nghe, và muốn nghe mà con minh không gọi. Chiếc quan tài vô hình đó không có người con nào phải trả tiền mua, nên không người con nào nghĩ tới. Có bao giờ nhìn thấy người sống trong quan tài đâu.
Nói về lòng hiếu thảo, thì bạn ạ, có không biết bao nhiêu quan tài cho các bà mẹ lúc còn sống. Sống mà không được nhờ tới là sống trong lạnh lẽo của mộ sâu. Mộ đó người con chưa đào nên không thấy nó sâu bao nhiêu. Trong trái tim những người mẹ, có khi cả đời là sống dưới mộ sâu lạnh ấy. Chịu đựng. Nó là nghĩa trang không có cổng. Lặng lẽ lắm. Cuộc đời một người mẹ sống mà không được con mình nhớ tới thì âm thầm như đám tang không người đưa.
Ai yêu mến cha mình thì đền bù tội lỗi. Ai thảo kính mẹ thì như người thu được kho tàng. Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha người, chớ làm phiền lòng người khi còn sống. Trí khôn người có suy giảm, con cũng hãy nể vì, đừng nhục mạ người khi con đương sức trai tráng. Của dâng cho cha sẽ không rời vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi và xây dựng đức công chính. Vào ngày bĩ cực, công ciệc con sẽ được nhớ đén, như băng giá khi trời tối, tội con sẽ tan đi. Người lộng ngôn, khinh cha, để mẹ là xúc phạm đến Thượng Đế, kẻ tác tạo nên họ (Huấn Ca 3,3. 12-16).
Bạn cứ hỏi cỗ áo quan xem đâu là ý, chúng tôi sẽ cho biết. Có lần tôi nói với người khóc rằng: Người điên không biết nhớ và người say không biết buồn. Đấy là hình ảnh trốn đời khổ sau. Nhưng người chết thì không biết say và cũng chẳng còn điên. Do đó, xác chết không buồn và chẳng nhớ. Khi chết mới được nhớ thì xác chết không biết ai nhớ mình, nhớ ấy lại trở về với người nhớ mà thôi.
Đừng coi thường cỗ áo quanchúng tôi. Lắng nghe tiếng nói nhiệm mầu của chúng tôi bạn ạ. Bởi, rồi bạn cũng sẽ ra đi trong quan tài đó.
Sống là một vũ điệu. Chân nối những bước chân. Ta đưa ta. Ta đưa người. Con người dìu nhau vào đời. Ngày ngưng nghỉ điệu vũ là dấu chứng bệnh hoạn úa chán. Vũ trụ cũng là một luân vũ không ngừng. Lá theo mùa nhịp nhàng với thời gian, xuân, hạ, thu, đông. Nắng theo đêm gọn gàng không lỗi hẹn. Trăng đi rồi trăng nhớ. Sông cạn rồi sông lại về. Vũ trụ không bao giờ ngưng nghỉ, vì sống là tham dự vào vũ điệu đời đời. Ngưng là chết. Trong đặc tính không ngưng nghỉ và không ngừng lại, có điệu vũ của một người mù.
Cuộc Đối Thoại Trước Điệu Vũ Của Người Mù:
Biệt phái: Làm sao anh được sáng mắt?
Người mù: Ông ấy thoa bùn lên mắt tôi, tôi rửa thì tôi được thấy.
Biệt phái: Nó không bởi Thiên Chúa được vì nó không giữ ngày hưu lễ! Anh nghỉ sao về việc ông ta chữa mắt cho anh?
Người mù: Ngài là một tiên tri!
Biệt phái: Hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta biết nó là một đứa tội lỗi!
Người mù: Ông ấy là người tội lỗi ư? Tôi không biết, tôi chỉ biết là tôi mù mà bây giờ tôi thấy được!
Biệt phái: Thế hắn đã mở mắt cho anh thế nào?
Người mù: Thì tôi nói với các anh rồi, dễ chừng các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?
Biệt phái: Có mày làm môn đồ hắn, chúng ta là môn đồ của Maisen.
Người mù: Cũng lạ thật, các ông không biết ông ấy bởi đâu mà ra mà lại mở mắt được cho tôi. Ông ấy không bởi Thiên Chúa đến thì chẳng làm gì được!
Biệt phái: Mày sinh ra trong đống tội mà lại dạy chúng ta ư?
Và họ trục xuất anh ta khỏi hội đường. Bạn thân mến, sau khi người mù ra khỏi hội đường là vũ điệu của anh bắt đầu.
Người Mù Bắt Đầu Điệu Vũ
Đức Kitô: Anh có tin Con Người không?
Người mù: Con Người là ai để tôi tin?
Đức Kitô: Chính kẻ đang nói cùng anh!
Người mù: Tôi tin!
Rồi người mù sấp mình thờ lạy Người. Từ đây, chân người mù và chân Đức Kitô cùng nhau về Jêrusalem. Điệu vũ đã lên tiếng kèn trả lại trần thế cho thế trần. Thênh thang từ dấu chân nhận biết, từ mệnh lệnh ban hành: “Chính Ta là Người đang nói với anh”. Hồn người mù có bài ca phẫn nộ vì ngoan cố sai lầm của Biệt phái. Bài ca phẫn nộ ấy như tiếng trống đẩy anh ta ra khơi. Giờ đây, bão tố đời có đưa tới cũng mặc kệ. Hồn anh ngập niềm tin và lòng dũng cảm. Chân người mù như đôi chân sứ giả lên đường bụi bặm của toan tính đê hèn. Bước đi giữa lòng ganh tị của kẻ chống đối Đức Kitô, anh lên đường theo Ngài.
Chân anh ta nhịp vào cát bụi của lộ hành thương khó về Núi Sọ. Điệu vũ của nhịp chân chỉ là lời phiên dịch điệu vũ niềm tin trước Biệt Phái. Không sỏi đá nào có thể ngưng được lối về Giêrusalem nữa, vì đôi chân tìm sự sống đã gặp vũ điệu của sự sống đời đời. Không còn chọn lựa nào đẹp bằng chọn lựa điệu vũ về thành thánh. Từ đây, chân tìm chân, chân theo chân, chân cùng chân về thập tự để rồi tiếp tục cuộc luân vũ trong phục sinh vĩnh hằng.
Nhạc cảnh đưa người mù vào vũ điệu về Jêrusalem với Đức Kitô đã không bị ngừng lại ở những cung nhạc lỗi giọng thê thảm của các tay nhạc công giở tệ là các kinh sư. Khi gặp Đức Kitô thì không còn nhạc công nào có thể sửa lại được cung điệu của nốt nhạc trong linh hồn người mù nữa.
Bằng sự hiểu biết Kinh Thánh, bằng am tưởng chi tiết các lề luật, những nhạc công Biệt Phái này cũng không sao thuyết phục được người mù. Người mù không cần biết nốt nhạc nào các ông ấy thổi. Anh ta chỉ biết một điều là: “Ông Yêsu ấy đã chữa mắt cho tôi.”
Lý luận bằng danh hiệu là môn đệ của Maisen đi nữa, đe doạ bằng lề luật thế nào đi nữa thì người mù cũng vẫn chỉ một niềm tin vào Đức Kitô thôi. Trước thách đố của Biệt Phái, người mù lấy cung điệu cảu mình. Anh biết bản hùng ca của anh bất hủ bởi anh không viết bằng trí tuệ, không hiểu bằng lề luật mà viết bằng sự gặp gỡ: “Tôi chỉ biết là tôi mù mà bây giờ tôi thấy được”.
Đe doạ đến đời sống, linh hồn người mù cũng vẫn chỉ một cung đàn thôi: “Chính Ông ấy đã chữa mắt cho tôi.”
Nhiều vũ điệu bị ngưng nghỉ vì nghe sai tiếng kèn của những nhạc công rồi. Trong đời sống hôm nay, luôn luôn có những nhạc công tồi bên lề đường thổi những bản ca lười biếng, bảo người ta sống lương thiện là dại dột, lý tưởng là không thực tế, khiêm nhường là nhu nhược, gian dối là khôn ngoan. Tiếng kèn của bọn nhạc công tồi bao giờ cũng ầm ĩ khua động, bởi, chúng không cần kỹ thuật hoà điệu.
Đường về với Chúa trong cuộc sống của tôi cũng có thể lỗi nhịp vì những tiếng kèn âm vang dữ dội, lung lay bởi những suy tư ngang trái sai lạc. Tôi lung lạc vì chưa gặp ánh sáng của Đức Kitô. Lỗi nhịp chân dừng ở những bến bờ không đáng dừng vì tôi chưa bắt nhịp vũ điệu với Ngài. Tôi hoang mang, bởi, tôi chỉ xem chân Ngài đi, chứ chưa cùng đi với chân Ngài.
Theo chân Chúa là một vũ điệu. Tất cả vũ trụ đang nhịp đi. Vũ điệu của người mù tuyệt vời vì chân anh ta gặp chân Chúa trong cách bước. Tin không thể là giải thích của trí tuệ. Và chẳng giải thích nào thoả mãn được niềm tin. Tin là quấn quýt nhau cùng một lối về. Tin là cất bước chân đi để người khác thấy chân mình đi trong bước chân Đức Kitô bằng điệu vũ của cả cuộc đời.
Lạy Chúa, chứng nhân nơi người mù là dùng chân để gặp chính Chúa, người mình làm nhân chứng. Anh ta lấy chân cùng đi với Chúa để làm nhân chứng chứ không phải tự dựa vào sức mình mà lấy chân đi làm chứng nhân.
Khi dựa vào tài trí của mình đi làm chứng nhân thì dễ lầm lạc lắm, dễ cạnh tranh ghen tức lắm, dễ nghĩ đến công trình mình lắm.
Xin cho con biết suy nghĩ về những thái độ nhân chứng của con với Tin Mừng mà Chúa đang mời gọi là: Làm chứng nhân bằng cách nói về Chúa cho người ta nghe, hay là lắng nghe Chúa nói với mình. Lấy chân ra đi làm nhân chứng hay làm chứng nhân bằng đôi chân đi về với Chúa.
Nhiều người tin là có những thầy bùa có thể gọi hồn người chết về nhập vào người sống để nói chuyện. Có người đến xin hồn cho biết những chuyện kín như ai lấy cắp tiền bạc của mình. Có kẻ muốn hỏi hồn ý kiến phải quyết định như thế nào trong những việc hệ trọng. Do đó, mới có chuyện “gọi hồn”.
Người ta chỉ gọi hồn người chết. Trong Phúc Âm cũng có nói đến chuyện “gọi hồn”. Chuyện rất lạ. Người trong Phúc Âm kể không gọi hồn kẻ chếtmà là hồn người sống! Trước khi tìm hiểu chuyện gọi hồn này trong Phúc Âm, ta thử đặt vấn đề: “gọi hồn” hay là “hồn họi”? Người ta đã nói đến “gọi hồn” rồi, có thể có vấn đề “hồn gọi” không?
Không có xác, hồn đi lang thang, người ta gọi là “hồn ma vất vưởng”. Không có hồn, chỉ có xác nằm đấy, người ta bảo là “xác ma không hồn”. Con người là tổng hợp của cả hồn và xác. Thiếu một trong hai thì người ta gọi là “ma”! Hễ có tổng hợp là có liên hệ tương quan. Tin Mừng có nói đến liên hệ này giữa xác hồn. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì linh hồn thì hăng hái, nhưng thân xác lại yếu đuối” (Mt 26:4).
Thân xác yếu đuối, linh hồn hăng hái. Có khác nhau trong tương quan giữa xác và hồn. Như thế, thân xác có tiếng nói của thân xác. Hồn có ngôn ngữ của hồn. vậy có “gọi hồn” thì cũng có “hồn gọi”. Hai ngôn ngữ khác nhau thì “hồn gọi” rất khác với “gọi hồn”. Một đàng là hồn gọi thân xác theo mình. Một bên là thân xác gọi hồn đến với mình.
Một Con Người: Hai Tiếng Gọi
Nhà văn Tuý Hồng có cuốn tiểu thuyết nhan đề: “Tôi Nhìn Tôi Trên Vách”. Đức Cha Bùi Tuần viết tập sách thiêng liêng, đặt tên là: “Nói Với Chính Mình” tựa đề những tác phẩm trên nói lên một nội dung là có băn khoăn, có thao thức, mà cách nào đó có vấn đề giữa mình với mình.
Trong thư gửi giáo đoàn Roma, Phaolô cũng tự “tôi nhìn tôi trên vách” rồi thú nhận về con người mình:
“Tôi khám phá ra luật này: Khi tôi làm sự thiện thì thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì lề luật Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi tỏng luật của tội là luật vẫn nằm trong chi thể tôi” (Rm 7:21-23).
Nói “tôi nhìn tôi” là nói đến hai nhân vật. Một bên là chủ thể nhìn, một bên là khách thể bị nhìn. Cũng vậy, khi “nói với chính mình” là có người nói, có người nghe. Nhưng ở đây, người nghe cũng là người nói, người nhìn cũng là kẻ bị nhìn. Trong tương quan xác - hồn thì ai theo ai khi nghe tiếng phía bên kia gọi” Ai dừng lại khi thấy phía bên kia nhìn mình?
Hồn Gọi
Hồn gọi là hồn muốn nói với xác. Hồn bất tử. Hồn không thể chết. Đặc tính ấy cho thấy hồn có một giá trị cao hơn xác. Trong đời sống thường nhật, người ta đồng ý là vật chất rất cần thiết, nhưng tinh thần có giá trị đẹp hơn vật chất. Chẳng hạn như lòng chung thuỷ thì đáng ca ngợi hơn nhan sắc. Tình yêu thì quý hơn bạc vàng. Vì thế, mới có những hy sinh cao thượng. Có người chết cho quê hương, có kẻ chết vì lý tưởng. Do đấy, mới có những thiên anh hùng ca.
Lúc đói, ngôn ngữ của xác bảo: Hãy ăn. Tất cả thú vật đều làm thế. Xác càng đói thì tiếng đòi ăn của xác càng mạnh. Ấy vậy mà có lúc đói ta vẫn chống lại, không ăn. Như thế, tiếng nói bảo: “đừng ăn” không thể đến từ xác. Nó phải là tiếng của hồn ta gọi xác ta. Khi xác muốn ăn mà hồn bảo “đừng” là hồn tìm lý do, lý luận và điều khiển xác. Bởi đó, “hồn gọi” là hồn suy luận, phân tích và hướng dẫn xác trước khi để cho sự việc xảy tới.
Ta ít nghe nói đến “hồn gọi”, nhưng trong đời sống hằng ngày, chẳng mấy lúc mà hồn không gọi xác. Khi xác đói, ta xoè tay muốn lấy trộm củ khoai, hồn suy nghĩ rồi bảo: Không! Thiếu tiếng “hồn gọi”, xác chỉ nói ngôn ngữ tự nhiên của đòi hỏi sinh lý thì con người và loài vật giống nhau. Tiếng “hồn gọi” là tiếng lương tâm Thượng Đế in dấu nơi con người nên bao giờ cũng đúng, nó chỉ đạo cho xác. Và như thế, tiếng “hồn gọi” bao giờ cũng là tiếng gọi đẹp. “Hướng đi của xác thịt là sự chết, còn hướng đi của hồn là sự sống và bình an” (Rm 8:6).
Cũng có những trường hợp lương tâm sai, nhưng là do con người làm sai. Tuy nhiên, dẫu có sai, nó chỉ sai một phần nào, chứ lương tâm không thể mất dạng. Những câu nói tự nhiên hằng ngày như “hãy lắng nghe tiếng lương tâm”, đấy chẳng phải là chứng từ chấp nhận hồn nói với xác hay sao. Và khi chấp nhận như thế, chẳng phải là đã đồng ý cho hồn một sứ mạng hướng dẫn xác hay sao.
Gọi Hồn
Nếu xác có ngôn ngữ riêng thì tiếng xác “gọi hồn” thế nào? Ngay cả những người biết Phúc Âm cũng tin hồn cao hơn cả thể xác. Nguyễn Du, trong Kiều viết rằng: “Xác là thể phách, hồn là tinh anh”. Vì hồn tinh anh nên người ta mới “gọi hồn” người chết về mà vấn ý. Nhưng chuyện “gọi hồn” trong Phúc Âm thì rất lạ. Tin Mừng Matthêu ghi câu chuyện “gọi hồn” người sống như sau:
Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu!” Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, và tích trữ tất cả lúa và của cải của mình vào đó. Lúc đó ta sẽ nhủ lòng: hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê chề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12:16-19).
Đã chết đâu mà ông phú hộ ấy gọi hồn về. Làm sao hồn có thể ăn mà lại gọi hồn đến? Có người đem khoanh thịt ra mộ bia rồi lại đem về. Đó là biểu tượng nhớ thương nhiều hơn là tin rằng hồn thực sự ăn. Hồn thuộc thế giới thiêng liêng, làm sao lấy thịt thà, rượu bánh là vật chất mà đãi hồn là thế giới vô hình? Vậy mà ồn phú hộ mời hồn đến “ăn uống vui chơi cho đã.” Cái lầm lẫn của ông ta là cho hồn thứ không thể ăn. Tiếng “gọi hồn” của ông ở đây là một nghịch lý hoang tưởng. Ông ta tin vào hoang tưởng này và kiên quyết “gọi hồn”.
Phúc Âm kết đã kết thúc cái phi lý đó:
“Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc12:20-21).
Liên hệ hồn xác gọi nhau là những tiếng gọi cho những hướng đi khác biệt. Giữa “hồn gọi” và “gọi hồn” có một phân tranh rất rõ. “Anh em là khách lạ vãn lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn” (1Phêrô 2:11).
Hãy để ý là trong câu chuyện gọi hồn của ông phú hộ, theo mạch văn tường thuật, ta thấy trong căn nhà ấy rất vắng. Không có ai. Không thấy ông nói đến vợ con, không thấy nói đến anh em, không thấy nói đến bạn bè, không thấy nói đến người hàng xóm, chỉ có mình ông ta lẻ loi. Nổi bật lên là một thế giới khép kín lạnh lùng.
Không có ai để mà gọi, chỉ xác của ông gọi hồn ông thôi. Hồn không ăn được thóc chứa trong kho, hồn không uống được ly rượu trên bàn. Ông gọi sai chỗ, ông cho lầm đối tượng. Tại sao vậy? Vì ông quá cô độc không có ai nên mới phải gọi hồn về ăn? Hay tại ông chỉ muốn cho hồn ông ăn thôi nên ông chẳng có ai chung quanh cuộc đời và ông thành cô độc? Hình ảnh chỉ có một mình ông trong căn nhà vắng là bóng hình rất âm u.
Hồn không ăn được mà ông ta cứ gọi hồn, câu chuyện kỳ lạ là ở chỗ ấy.
Đi qua nghĩa trang vào ngày rằm, ta thấy xôi gà, những khoanh thịt trước mộ người chết. Khi chết rồi người ta mới đem đồ ăn cho hồn. Hay nói cách khác, hễ có hồn, có đồ ăn là có bóng hình mộ người chết. Hình ảnh “gọi hồn” này làm cho căn nhà của ông phú hộ phảng phất một chút ma quái của thế giới bên kia. Trong cái sống đã có cái chết. U uẩn. Một nấm mồ.
Qua những tháng ngày trăn trở nhìn mình, biết có tiếng “hồn gọi”. Ray rứt khi mình nghe mình và cũng muốn có tiếng “gọi hồn”. Rồi, Phaolô nói với chính mình phải bỏ tiếng “gọi hồn” đi mà nghe tiếng “hồn gọi”:
“Nếu anh em sống theo xác thịt anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em được sống” (Rm 8:13). “Hướng đi của xác thịt là phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa” (Rm 8:7)
Trong căn nhà vắng, bóng hình người phú hộ cô độc cất tiếng “gọi hồn”. Nghe như âm vang hồn đã xa rồi. Và quả là thế. Trong ý nghĩa của Phaolô than thuở: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rom 7:20). Thì, lúc này hồn ông phú hộ đang trăn trở lắm với tiếng gọi của thân xác. Hồn ấy muốn đi xa. “Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm. 7:20). Hồn chạy trốn. “Vẫn biết rằng lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét tôi lại làm” (Rm 7:14-15). Giằng co. Âm vang của xác “gọi hồn” rất kỳ bí, tàn bạo.
Đời Phaolô đã khổ sở trong tiếng gọi của xác. Có hai tiếng gọi thật đấy, nhưng Phaolô đã nghe tiếng “hồn gọi” chứ không để xác “gọi hồn” theo. “Được cả thế gian mà mất linh hồn thì nào lợi ích gì?” (Mt 16:26).
Ta thấy trong căn nhà ông phú hộ chỉ có một mình ông. Phải chăng sự say mê đi tìm, tích luỹ gạo thóc ấy làm ông cô độc? Cô độc, không có ai chung quanh, một mình, và sau cùng, xác người phú hộ cất tiếng cười mời hồn đến. “Hồn tôi hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ chơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!“ Sự sai lầm trong tiếng trong tiếng “gọi hồn” của ông đã được Chúa đặt lại thành câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng người, thì nhũng gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12:20-21).
Câu hỏi ấy cũng vẫn là câu hỏi cần thiết cho cuộc sống hôm nay để nhắc nhở chính mình về hạnh phúc đích thực mai sau cho linh hồn.
Đôi hoa tai lấp lánh hai hạt ngọc nhỏ, sáng màu sao trời, nằm ngoan hiền trong bàn tay người thiếu nữ. Người thiếu nữ biết mình sẽ đẹp hơn nếu đeo đôi hoa tai ấy lên đôi tai mịn màu da tuổi dậy thì. Xoa xoa vành tai, nhưng mỗi lúc đầu gai nhọn châm vào da thịt, nàng lại thấy đau buốt. Nhìn mặt mình trong chiếc gương bạc, nàng thấy mình như một đoá hoa lưu ly. Hẩy nhẹ mớ tóc xoã ngang vai ra sau lưng rồi nhìn vào vành tai còn trống trơn. Ướm thử đôi hoa lên vành tai. Chiếc khuyên vàng nổi trên làn da trắng. Hạt kim cương óng ánh như giọt sương ngũ sắc. Nàng đẹp. Người thiếu nữ mỉm cười. Nhưng làm sao để đeo đôi bông ấy được? Người thiếu nữ nhìn cành gai. Nhọn quá. Mỗi khi định bấm chiếc gai vào vành tai, nàng lại nhăn mặt. Đau đớn.
Nắng gắt hơn mọi ngày. Yêsu ngồi nghỉ, mồ hôi thấm ướt chiếc áo mẹ may cho thưở nào. Ba mươi tuổi đời, tuổi của chàng trai mới bóc lớp vỏ thanh niên để chuyển mình thành cây tre bước ra gánh vác việc làng. Giờ sắp đến. Chung quang nôn nao về một ngày bất định. Những ngày trước mặt sẽ là tang chế. Mặt đất chuyển về đôi chân sắp bước tới một cuộc động đất kinh hoàng. Chân người thanh niên trẻ Yêsu không vững. Cố mà giữ khỏi nghiêng ngả. Mơ hồ đã có máu và nước mắt, mồ hôi và cát. Tâm tư người thanh niên ba mươi tuổi đời ngộp thở cho những quyết định vô cùng táo bạo. Mây đang vần vũ trên bầu trời tâm hồn, lối nghĩ nào cũng là kẹt cứng khô cằn. Âm vọng từ đường xá đi vào, từ con tim thở ra, những âm vọng sắc như dao nhọn. Không còn văn chương và thơ. Không còn trăng mềm và đãi ngộ của đất trời. Đã đến ngõ làng vào Jêrusalem. Tiếng thở chần chừ: Lạy Cha, nếu được xin cất chén đắng này khỏi con.
Đường Nước Trời cũng giống như người thiếu nữ và đôi hoa tai. Lối ở phía trước nhan sắc. Nơi đó, mây trời đang chờ đợi hơi sương của đất. Tình trời như đôi hoa tai sẽ làm người con gái thêm đẹp. Tình đát là bàn tay vẫy gọi, là chân đi tới. Nhưng làm sao lãnh nhận tình trời, cũng ngư người thiếu nữ làm sao đeo được đôi bông tai lên tai nếu không đủ can đảm bấm chiếc gai nhọn qua vành tai chờ đợi.
Yêsu đã một thưở mơ tình trời giao hoà cùng tình đất, đã có lúc ngại ngần vì khổ đau. Nhưng Yêsu đã bấm cành gai nhọn. Vòng gai trên đầu Yêsu đã sáng ngời mũ quân vương thắng trận. Muốn có vẻ đẹp phải chấp nhận đớn đau.
Người thiếu nữ lại ướm khuyên vàng với vòng tai mình trong ước mơ thèm muốn. Đôi tai vẫn trống trải đợi chờ. Tất cả hệ tại đôi tay can đảm và lòng muốn thiết tha của nàng. Những sợi tóc thánh thiện đang nôn nao đợi, những sợi tóc mai mong manh chờ. Lại nhìn mình trong dáng gương thật trong. Một nỗi cô đơn nào đó thoang thoảng trên khuôn mặt xinh. Vẫn u hoài một thiếu vắng nào đó trên khuôn mặt đẹp. Nàng biết nỗi u hoài ấy, nàng thấy cái thiếu vắng ấy chính là thiếu vắng của đôi hoa tai. Nhưng cành gai nhọn quá. Nàng có thể chần chừ cho giây phút trang điểm. Nhưng thời gian không đợi chờ nàng. Cứ nhìn mình trong gương và cành gai, nhưng không vì thế mà cành gai thông cảm bớt sắc đau.
“Lạy Cha, đừng theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Trăng đêm ấy là trăng nhỏ màu. Ánh trăng chênh chếch không dám nhìn thẳng. Giữa những cành ôliu già sần sùi gắng gượng, Yêsu đã phó mình trong tay Cha, hoàn tất cho một yêu thương nhất định. Chỉ có tình yêu mới đẩy tảng đá che mồ mà bước vào. Đất đã lở cho lửa thiêu đốt những lưỡng lự ngái ngủ. Hệ luỵ điêu linh người thanh niên Yêsu đã anh dũng lãnh nhận. Đêm Giêtsimani. Đêm nghiệt ngã. Cành gai nhọn đã trùm lên đầu đau đớn. Đêm linh thiêng. Đau đớn của thập giá và vinh quang của phục sinh là nhan sắc mà mất một mà là mất cả hai. Lời nguyện xin vâng là chuyến đi tìm nhan sắc xuyên qua rừng gai dầy. Đôi hoa tai sẽ nhạt duyên nếu không gắn trên vành tai người con gái. Và cất giấu đôi hoa thì khuôn mặt người thiếu nữ cũng bình thường lặng lẽ mà thôi.
Người thiếu nữ nhìn cành gai nhọn trong tay thon nhỏ. Tiếng gọi của cành gai là nhan sắc ở đằng sau. Trong tim người thiếu nữ có bài ca của lới thánh vịnh thênh thang. Người thiếu nữ hiểu rằng không phải nhan sắc trong gương mà mình muốn nhận mũi nhọn của cành gai. Đằng sau nhan sắc là tình yêu mà nàng đang chờ. Đôi hoa tai chỉ là tiếng thơ cho một giọng ngâm rất ấm mà nàng đang rủ Hoàng Tử Bình An của nàng vào thơ. Người thiếu nữ, trước ranh giới, không phải gian nan và nhan sắc nữa mà là giữa bến đau thương và bờ đậu hạnh phúc. Nhan sắc chỉ là bậc thang cho chân đi vào hoàng cung với Người Yêu Muôn Thưở. Bởi đó, lựa chọn đưa đôi hoa lên vành tai bây giờ là lựa chọn thử thách của Thiên Đàng và Sự Chết. Hiểu được chiều sâu của nét đẹp con gái thì đôi hoa tai xàng duyên sắc như thế nào. Tuy thế, sự hiểu biết ấy chẳng làm cho cành gai bớt nhọn và bớt đau thương. Đường về Thượng Trí vẫn chẳng tuỳ thuộc trí hiểu mà là ý chí.
Yêsu không xin luật trừ cho vòng gai tử nạn. Cha Ngài cũng im lặng. Trong ý sâu nhất của linh hồn, Yêsu đã hiểu, và giục giã hồi chiêng trống, Yêsu vào tình sử. Trọn vẹn. Có ngại ngùng nhưng không thiếu thiết tha.. Có thách đố nhưng không vắng bóng lòng dũng cảm. Yêsu đi trọn đường trần. Gió bay muôn hướng bũng vãi ánh sáng phục sinh xuống khắp nhân gian. Trầm trầm rừng hương ca tụng một trái tim thanh niên, rất cao sang, rất thánh.
Người thiếu nữ ngồi đây, phân vân trên tay cành gai nhọn với đôi hoa tai tuyệt đẹp. Đôi má xuân thì đang thèm muốn. Ngoài kia đời đang chờ tiếng sáo bay lên. Lời mời gọi về đường nhân đức cũng vây, là lựa chọn không thể từ chối từ can đảm mà có chiến thắng vượt qua. Trái tim người thanh niên đang tìm nét đẹp cho êm lòng, cho khơi nguồn sáng tạo trong cuộc đời thiếu nữ. Đức Kitô cũng đang chờ chân bước tới của kẻ muốn theo Ngài làm môn sinh.
Làm sao để người thiếu nữ đeo được đôi hoa tai ấy? Nàng biết có câu trả lời ở bên kia bờ. Nhưng từ bên này qua bờ bên kia có cách biệt bởi dòng sông thương đau của cành gai. Đường về thánh thiện cũng thế thôi. Liệu kẻ theo Đức Kitô có dám chèo qua dòng sông, rẽ gai bước tới?
“Từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng khanh tướng. Rầy vể sau khắp nơi khen con thật vinh phúc.”
Lời ca trên đây vẫn rất ấm trong lòng người. Tiếng nhạc vẫn rạo rực trong giáo đường ngày thụ phong linh mục. Lời đẹp, ý cao sang. Làm sao mà qua lời kinh truyền phép, có Chúa hiện diện nơi bánh miến? Tôi chỉ có thể sống đời linh mục chứ chẳng hiểu được ơn gọi linh mục bằng phân tích của trí tuệ. Ơn gọi linh mục là một huyền nhiệm.
Chức vụ tư tế chỉ ai được chọn mới được lãnh nhận (1Sam 16:1-13, Yn 15:16). “Không ai được tự hãnh huống về vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa kêu gọi, như Aaron thưở xưa” (Heb 5:4). Chẳng có ý muốn trần thế nào ban tặng được thiên chức linh mục. Bởi đó, bài hát đã gọi ơn linh mục là rất quý. Lời ca thật đẹp và cũng thật đúng. Ngày tôi bước lên lãnh nhận thiên chức đó, hồn tôi cũng hân hoan vô lượng. Đức mến gọi tôi tới nhủ rằng tôi là người được chọn. Đức tin bảo rằng lối tôi vào đời rất huyền diệu.
Ngày thụ phong linh mục không phải chỉ là mơ ước trong hồn người lãnh nhận đã kết trái, mà là kết trái của mơ ước nơi bao nhiêu con tim. Những con tim nhìn về tương lai đợi trông mùa hoa thơm quý sẽ nở trên đường linh mục. Lời ca nói đến kẻ được chọn là một hồng ân. Thế nhưng, trong hai lời ca, chỉ có lời ca thứ nhất: “Từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng khanh tướng” là lúc nào cũng đúng. Chúa không lấy lại ơn gọi Chúa đã ban tặng.
Lời ca thứ hai: “Rầy về sau khắp nơi khen con thật vinh phúc” không phải lúc nàp cũng đúng. Có linh mục chỉ sau một bình minh không dài, màu áo dòng bạc phai. Và lời ca kia trở thành sầu muộn. Có đời linh mục là tiếng thở dài của người bên cạnh và của chính mình. Giáo dân không còn bảo tôi là người vinh phúc nữa. Nơi họ là nỗi chán. Tôi đi vào chiều tắt nắng.
Ngày Hạnh Phúc Nhất?
Ngày đứng trước bàn thánh có phải là ngày hạnh phúc nhất trong đời một linh mục? Một trời mới, một đất mới mở ra, vì thế, người ta thường bảo ngày thụ phong linh mục là ngày hạnh phúc nhất, đẹp nhất.
Nhưng thời gian trôi. Những bó hoa “Ngày vui nhất” đó tàn theo một chiều ngắn. Căn phòng trở lại êm vắng. Và rồi, cũng với thời gian, căn phòng từ êm vắng có thể trở thành vắng mà không còn êm đềm. Người ta cũng thường lấy ngày cưới của hôn nhân mà so sánh với ngày linh mục. Trong ngày cưới, không phải chỉ có tình yêu giữa hai người yêu nhau, mà tiếng pháo của bao nhiêu thân thương khác chung quanh họ, anh em, bạn bè cũng nổ vang chung vui với họ. Nhưng tiếng pháo cũng sẽ im. Người sẽ xa. Tà áo cưới lãng quên trong bận rộn. Hình kỷ niệm mờ phai dần với tuổi đời. Một ngày nào đó nhìn lại tấm hình xa xưa mà ngỡ như chuyện thần tiên. CÓ khi những khắc khoải muộn phiền trong đời sống hôn nhân làm họ nhìn những kỷ niệm cũ mà mơ hồ như chuyện không thực. Vì thế, họ thường gọi chỉ có ngày hôn lễ là đẹp nhất trong đời.
Ngày hôn nhân hay ngày linh mục cũng có những giống nhau. Lãnh ơn gọi cho một giao ước thì hôn nhân hay linh mục cũng thế. Ngày khởi hành lời đoan hứa thì hôn nhân hay linh mục cũng là khởi hành bằng tình yêu.
Rồi lại cũng ngày nào đó, mười lăm năm sau, hai mươi năm sau, có thể là cánh thư, có thể là tấm thiệp gởi đến chúc mừng. “Cầu chúc tình yêu của hai người nồng nàn như ngày mới cưới nhau.” Họ nhắc nhau nhớ kỷ niệm năm xưa và chúc cho nhau một hành trình thật dài, tình yêu vẫn đẹp như ngày ban đầu. Ngày xưa dấu ái ấy đẹp quá. Họ nhớ mãi ngày mà không có lần thứ hai trong đời. Linh mục cũng vậy thôi: “Xin cho Cha dâng lễ sốt sắng như ngày Cha dâng lễ mở tay.” Một lời chúc mừng mà trong đó vô tình có nuối tiếc.
Vào ngày kỷ niệm thụ phong linh mục, tôi nhận được cánh thiệp chúc mừng. Từ xa có người nhắc nhở cho ngày trọng đại thưở xưa. Cái ngày đẹp ấy còn ghi dấu trong hồn người thân. Và hôm nay, người ấy nguyện xin cho đời linh mục của tôi mãi mãi “đẹp như ngày ban đầu”.
Trong lời chúc ấy có lo âu nếu hôm nay tôi không còn thiết tha như thưở đầu tiên. Lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm của cuộc sống thực, vì trong cuộc sống cho thấy với thời gian, cung đàn nào rồi cũng có thể phôi pha.
Sau bao năm sống đời linh mục, bao nhiêu lần dâng lễ, mà nay chỉ mong sao cho được như ngày ban đầu thôi. Trong hôn nhân, tình yêu những ngỡ rằng như dòng sông sau bao nhiêu khúc quanh, ngang miền gian khổ mà đi thì nay vận điệu phải là trường ca, ấy thế mà lời cầu chúc cũng chỉ mong sao cho hôn nhân của họ được đẹp ngày đầu thôi.
Những lời chúc mừng ấy là phản xạ rất trung thực của đời sống thực tế hôm nay. Ước mơ được như ngày đầu có nghĩa là sợ rằng đã xa hạnh phúc ban đầu ấy rồi. Ngày xưa dâng lễ sốt sắng, bây giờ phôi pha. Ngày xưa hôn nhân hạnh phúc, bây giờ chán chường.
Linh mục hay hôn nhân mà nhìn những ngày tương lai không thể hạnh phúc hưn ngày đầu được thì trong hạnh phúc của những ngày đầu ấy đã là hàm số chứa đựng nuối tiếc đang đến rồi.
Ngày hôn lễ chỉ là khởi điểm của những ngày hạnh phúc hơn về sau. Họ không mừng ngày hôn lễ như ngày đích điểm tận cùng đã tới. Ngày ấy chỉ là vết than hồng cho ngọn pháo bông ngày mai. Ngày thụ phong linh mục cũng vậy. Những nghi lễ, chúc mừng chỉ là phụ thuộc cho một hành trình nột tâm mà hôm nay lối ngõ mới chợt mở. Nếu không săn sóc sự thật này, chao đảo dưới chân ngày thụ phong linh mục và hôn nhân sẽ đưa những hoang vắng đến.
Ngày thụ phong linh mục hay hôn lễ là ngày tình yêu lên đường. Tình yêu như những hạt lúa, đi tới đâu làm thửa đất thành ruộng mạ tới đó. Hành trình tình yêu ấy càng dài thì người mang tình yêu ấy càng hạnh phúc.
Lúa vàng không có ở chân bàn thờ trong ngày thụ phong linh mục. Cánh đồng lên màu, mùa gặt chỉ đến sau những ngày lao tác. Ngày thụ phong linh mục là tấm phên cửa sổ mở ra cho thấy những huyền nhiệm hạnh phúc khác đang đến. Huyền nhiệm hạnh phúc ấy là những ngày truyền giáo, có thể là xuôi ngược như Phanxicô, có thể là trong chiêm niệm trầm lắng mà tha thiết như Têrêsa. Đó là những chiều mỏi mệt mà không từ chối ban bí tích giải tội cho một linh hồn đang gõ cửa. Đó là những ngày hối hả mà vẫn tha thiết với bí tích Thánh Thể, sốt sắng cho giờ dâng lễ.
Ngày làm linh mục là ngày dâng lễ thứ nhất. Như thế, sẽ có hàng ngàn thánh lễ sắp xếp theo thời gian. Nhưng thánh lễ nào cũng phải là thánh lễ “mở tay”. Tân linh mục không chỉ dâng lễ “mở tay” một lần. Thánh lễ nào cũng mới. Thánh lễ nào cũng linh thiêng mầu nhiệm. Trên thập giá, tay Đức Kitô lúc nào cũng giang rộng. Mở tay để nắm lấy tay người, và để người nắm tay mình. Đường về nhà Chúa là đường Hiệp Nhất. Khi bàn tay nắm lại là dấu chỉ của thách đố, tranh đấu, chỉ thị, ra lệnh quyền uy. Những thánh lễ không “mở tay” là thánh lễ không có ơn cứu độ.
Nếu linh mục không thể chỉ có một thánh lễ “mở tay”, mà là suốt đời, thì có phải đường hôn nhân cũng là như thế, không thể chỉ có một ngày cưới mà sáng nào cũng là hôn lễ.
Lạy Chúa, sáng mai con dâng lễ trong nhà nguyện nhỏ không trang trọng như ngày con dâng lễ “mở tay”. Nhưng giữa con và Chúa vẫn là thánh lễ rất đặc biệt.
Bánh thánh không bao giờ cũ.
Xin cho con chút linh hồn nghệ sĩ để thấy không buổi chiều nào có hai màu mây giống nhau. Mỗi bình minh là một độc đáo. Thì, mỗi thánh lễ là một ơn cứu độ khác biệt quý giá.
Xin cho con ngày thụ phong linh mục cuả con, trước mặt Chúa và trước mơ ước của con sẽ không phải là ngày đẹp nhất để rồi xuống dần. Những ngày con đang sống, những ngày đang tới với con phải là những ngày đẹp hơn và hạnh phúc hơn, vì lòng thương xót của Chúa cứ theo thời gian mà ban xuống cho con cơ mà.
Mỗi ngày, cuộc sống của ta đều liên hệ tới ba mối tương quan:
- Với thế giới vật chất chung quanh - Với tha nhân - Và với Chúa
Thế giới chung quanh là nhà cửa của ta ở, công việc làm ăn, quần áo, tiền bạc, xe cộ… Liên hệ kế tiếp là ngày nào ta cũng phải tiếp xúc với người này kẻ kia, nhờ tới người gần, kẻ xa. Không ngày nào mà cuộc sống ta không có liên quan tới kẻ khác, người trong gia đình, bạn bè, kẻ quan người lạ. Và liên hệ sau cùng là những thao thức về bình an, hạnh phúc, lương tâm, một thế giới siêu nhiên, đó là liên hệ với Chúa. Không có cách nào tránh được ba liên hệ này. Còn sống là con giằng co trong những ràng buộc đó.
Câu Chuyện Hàng Ngày
Tối ấy chúng tôi đi chợ. Tôi đang đứng với anh chờ chất đồ lên xe. Trong lúc de xe, chị không nhìn thấy cột đền trong bãi đậu. Điều không nên xẩy ra đã xẩy ra. Chiếc xe giật lùi phía sau đập vào chân cột điện, bể chiếc đèn báo hiệu, móp một vế dài. Chiếc xe dường như mới mua. Đau xót làm sao! Chị xuống xe, bối rối, có lẽ chị cũng biết những gì sắp xẩy đến khi chị nhìn anh. Cái xe đẹp chưa kịp thưởng thức, nay đã bị móp. Anh đặt bịch đồ xuống đất, nói chị những lời nặng lắm. Rồi như chợt nhận ra tôi là khách, anh cố cầm lòng lại. Ai cũng ngại ngùng cả. Một buổi chiều ngột ngạt, mất vui.
Nếu bình tâm một giây phút nhìn lại thì ai cũng vậy, gia đình nào cũng thế, và có khi xẩy ra hàng ngày. Ta phản ứng thế nào khi chiếc đĩa nhạc bị trầy, ta nói gì với con khi nó đánh bể chiếc ly pha lê? Bao nhiêu là chuyện tương tự. Nó làm ta bực bội bẳn gắt, mất vui. Nó tô lên một ngày sống những màu xám kỳ quái làm ta cay cú.
Dĩ nhiên, giáo dục để tránh lầm lỡ là điều cần. Nhưng vấn đề là ta hay dựa vào lý do giáo dục ấy mà đay nghiễn kẻ lỗi phạm. Bằng chứng là ta cứ tiếc xót mãi khi mất một đồ vật. Cái tiếc xót nó làm ta đay nghiến chứ yếu tố giáo dục không thể làm ta đay nghiến được. Ta đay nghiến người phạm lỗi, và có khi không tha thứ cho cả chính mình, nếu mình là kẻ gây nên.
Sự mất mát ấy làm ta mất thú vui. Có thú vui và khoái lạc cũng chưa là hạnh phúc. Hạnh phúc là một sự sung mãn nội tâm. Khoái lạc, thú vui là một sung mãn cảm giác. Là cảm xúc, nên nó ồn ào mãnh liệt. Vì thế, khi một biến cố trái ý xẩy ra bất ngờ là ta nổi nóng không làm chủ được. Bằng chứng là có những lúc ta phản ứng quá mức, rồi sau đó hối hận. Tại sao có hiện tượng đó?
Tạo Dựng Thủa Ban Đầu
Thiên Chúa đã dựng nên thế giới vật chất và dựng nên con người. Vậy, giũa vật chất và dựng nên con người phải có những tương quan. Để xét những tương quan này, ta hãy nhìn xem cách mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng.
1. Tạo dựng vũ trụ. Để tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa chỉ dùng có ánh sáng, có cỏ cây thì cỏ cây xanh tươi. Cả thế giới huyền bí bao la, Ngài chỉ dùng lời nói mà dựng nên. Thật đơn sơ không ngờ! (Stk 1:1-25).
2. Tạo dựng con người. Để tạo dựng con người, Kinh Thánh kể rằng: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta” (Stk 1:26). Nói vậy xong mà vẫn chưa có con người. Thiên Chúa tiến thêm một bước nữa là lấy đất mà nặn nên nó. Qua hai giai đoạn rồi mà con người vẫn chưa hoàn thành. Đất trơ đất. Con người là một sự vật vô tri. Rồi Ngài phải thở hơi và khối đất nó mới thành người (Stk 2:7). Như thế, một cái nhìn đơn giản ta cũng thấy để dựng nên vũ trụ, Thiên Chúa không vất vả như dựng nên con người. Thiên Chúa dựng nên con người cầu kỳ phức tạp hơn vũ trụ nhiều lắm.
Sau khi vũ trụ thành hình, từ ngìn xưa đến nay, bốn mùa cứ về rồi đi. Trăng lên cho lúa đồng nên thờ. Chiều cứ gió và sương đêm cứ thong thả cho đất ẩm lên mầm xanh tươi. Vũ trụ chuyển mình qua hàng triệu thế kỷ cứ đẹp mãi. Bướm bay và mây hong nắng. Thiên Chúa hài lòng với công trình tạo dựng. Vũ trụ là lời kinh, là bóng dáng vẻ tốt lành của Chúa. Tuần tự theo thời gian biển không lỗi hẹn, sao đêm không thờ ơ. Vũ trụ tiếp tục đẹp mãi .
Trong công trình tạo dựng, chỉ có con người làm sai thánh ý của Chúa. Adam, Evà đã phạm tội. lỗi cung đàn, buông nhịp ngang âm. Thiên đàng thành lỗi phạm. Trong liên hệ với con người, ta thấy Thiên Chúa đưa ta vào ba giai đoạn liên hệ.
1. Tạo dựng. Khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa thở hơi vào khối đất. Đấy là hình ảnh Chúa cho con người một phần sự sống của Chúa. Không như vũ trụ chỉ là sáng tạo ngoài Ngài. Con người có một liên hệ mật thiết là phần hơi thở của Ngài, là mảnh đời của Ngài. Như Kinh Thánh diễn tả: “Ta hãy làm ra con người giống hình ảnh Ta, như hoạ ảnh Ta” (Stk 1:26).
2. Cứu chuộc. Sau khi tạo dựng con người, Thiên Chúa chưa được “nghỉ ngơi”, vì con người phạm tội. Công việc kế tiếp là cứu chuộc. Tái tạo dựng con người khỏi án chết bằng thập giá trên đồi chiều tử nạn cho ta thấy một liên hệ sâu hơn nữa. Trong vườn địa đàng Thiên Chúa chỉ cho một phần hơi thở vào khối đất Ađam. Nhưng trên đồi tử nạn, Ngài chết. Nghĩa là Ngài khồn cho một phần mà là cho hết hơi thở. “Đoạn gục đầu xuống, Ngài phó thác thần khí” (Yn 19:30). Ngài đã cho đến hơi thở sau cùng, cho hết đên độ không còn thở nữa. Cho đến tận cùng của mối liên hệ.
3. Thánh hoá. Liên hệ giữa con người và Thiên Chúa chưa chấm dứt ở đồi thánh giá bên thành Jêrusalem. Sau khi cho hết hơi thở của mình, Thiên Chúa lập bí tích Thánh Thể để ở với con người. Và cho đến mãi mãi, chúng ta có Thiên Chúa ở cùng, như lời Cựu Ước loan báo: Ngôi Lời thành xác phàm và ở giữa chúng tôi (Is: 7:14). Mỗi lần dâng lễ, mỗi lần ngang qua giáo đường là một nhắc nhở thâm thuý câu chuyện liên quan từ vườn địa đàng mịt mùng thời xa xưa đến.
Xét như thế, ta thấy mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa đặc biệt quá. So sánh với vũ trụ, thì như là Thiên Chúa bỏ quên, còn với con người, Ngài cứ loay hoay bận tâm hoài. Thấm thía lời thánh vịnh: “Phàm nhân là gì để Người nhớ tới, con người là chi mà Ngài cứ phải bận tâm” (Tv 8:5)
Ngài không tạo dựng con người từ hư vô mà bằng sự sống Ngài. Không phải một phần hơi thở của Ngài mà là trọn vẹn con người với cái chết. Không phải là một giai đoạn xong là thôi, nhưng tiếp tục mãi. Bởi đó, con người đáng quý, con người đáng mến, con người quá giá trị.
Liên Hệ Giữa Con Người Và Vũ Trụ
Nếu so sánh và cho Thiên Chúa một chọn lựa giữa con người với vũ trụ. Ngài phải chọn con người. Trên hai cán cân chọn lựa, con người và vũ trụ, cán cân vũ trụ nhẹ tênh. Thiên Chúa không đổ máu chính mình cho vũ trụ, nhưng cho con người. Ngay trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã nói với con người, hãy làm chủ vũ trụ (Stk 1:26). Nghĩa là vũ trụ được tạo dựng cho con người. Nếu đem tất cả vàng bạc của Tokyo mà so với nước Mỹ thì có vào đâu. Nhưng đem tiền bạc của nước Mỹ so với trái đất thì nhỏ bé quá. Nhưng trái đất này là gì so với vũ trụ mênh mông. Ấy vậy mà giữa những của cải đó với một linh hồn. Ngài vẫn chọn linh hồn con người.
Lạy Chúa, xét tương quan giữa con người với của cái vật chất, con người với nhau, con người với Chúa, con thấy vũ trụ này đảo ngược mất rồi. Hôm nay, con quý vật chất hơn con người. Người ta có thể làm nhục nhau vì một số tiền nhỏ. Người ta gây hận thù, chia rẽ trong gia tộc, trong xứ đạo vì vài cây vàng. Bình tâm xét kỹ, con thấy mình không hiểu được chính mình trong những thái độ con xử dụng của cái vật chất.
Chúa bảo hãy làm chủ của cải, nhưng thật sự của cải đã làm chủ con. Thay vì chiếc xe để chở con đi, nó chỉ là phương tiện phục vụ thì con lại bị nó làm chủ hồn mình với những xót xa nuối tiếc. Tại sao có thể kỳ lạ như vậy? Tình yêu, nhân phẩm, ơn cứu độ, nỗi đau trong tim một con người xương thịt không quý hơn chiếc xe sao. Vật chất không biết vui buồn, nhưng con người có nước mắt. Của cải không có tiuếng nói, nhưng con người biết thổn thức, biết tủi nhục.
Lạy Chúa, nếu mỗi tối con biết xét mình về những tương quan và thái độ sống này, định lại những giá trị, hồn con sẽ tự do nhiều lắm, con sẽ làm chủ vật chất chứ không bị khổ sở dằn vặt khi mất một món đồ.
Nếu mọi người trong gia đình đều nhìn những liên hệ với nhau, với của cải theo Kinh Thánh, thì gia đình sẽ biết sống một đời sống trên những giá trị thật, biết quý mến con người là trái tim có thao thức chứ không bắt con người phải ở dưới giá trị của xe cộ, nhà cửa là những đồ vật cô tri vô giác.
Và, với cái nhìn đặt giá trị theo tiêu chuẩn như Kinh Thánh giữa liên hệ với con người, thái độ đối với vật chất thì tình thương sẽ đến, hoà bình sẽ xuống, tâm hồn tự do hơn và cuộc đời sẽ đẹp hơn.
“Đêm đến, không ai có thể làm việc được nữa” (Yn 9:4).
Nói câu này, Chúa nhắc nhở môn đệ về thời gian. Ngày còn bé, ta mong thời gian chóng tới để mau làm người lớn. Tuổi xế chiều, ta mong thời gian chậm lại để khỏi mau chết. Đâu là mốc thời gian đưa ta lên, đâu là khởi điểm kéo ta xuống? Thời gian không lên tiếng nói. Người ta sống quá thường trong thời gian, vì thế người ta ít để ý về thời gian. Thực tế, giữa ta và thời gian là một tiếp cận cọ sát không ngừng. Một cuộc giằng co không ngơi nghỉ giữa sống và chết. Kinh nghiệm về thời gian thường là những kinh nghiệm nuối tiếc. Muộn màng.
Muộn màng trong thời gian vật lý là muộn màng không thể lấy lại. Người ta thường nhủ lòng mình bằng những lý luận xem ra là hay, nhưng xét kỹ hơn, có lẽ phải đặt lại cái nhìn. Thí dụ, hôm nay tôi không muốn đọc kinh, tôi thường nhủ lòng rằng ngày mai tôi sẽ đọc bù lại gấp đôi. Mỗi ngày tôi sản xuất hai ký bột. Hôm nay không làm thì ngày mai tôi sản xuất bốn ký, gọi là bù lại hai ký hôm qua. Rồi tôi hài lòng về thái độ ấy. Xét về số lượng theo kinh tế sản xuất thì xem ra đúng lắm. Và luận cứ này cho ta an tâm. Nhưng xét theo khía cạnh thời gian thì vẫn có những vướng víu, cần suy nghĩ lại.
Làm sao mà nói có thể “bù” được, mất là mất. Những gì mất ở hôm qua là hôm qua trọn vẹn không có. Hôm qua, trên khung cửi ấy không có đường tơ. Những mũi chỉ thêu trên tấm thảm hôm nay là của ngày hôm nay. Ta không thể lấy mũi chỉ ngày hôm nay, quay về may vào tấm thảm thời gian hôm qua.
Khi nói làm “bù” lại những gì hôm qua không làm, đấy chỉ là một cách nói an ủi lương tâm. Hành động làm “bù”, thật ra chỉ là làm “đủ” cái ta phải làm. Ly nước đã đầy thì người ta không thể đổ thêm. Khi đổ thêm được, đấy là dấu chỉ ly nước còn vơi, và phần đổ “thêm” ấy, chẳng phải là thêm, mà chỉ là “đủ” cho ly nước mà thôi. Thí dụ phải yêu và lòng hiếu thảo là một ly nước. Tôi phải sống trọn vện tình yêu, và lòng hiếu thảo ấy như một ly nước đầy. Hôm qua tôi đã không hiếu thảo đủ, hôm nay hối hận, tôi hiếu thảo “thêm”. Nếu hôm nay tôi hiếu thảo trọn vẹn như tôi phải sống, nghĩa là ly nước hiếu thảo hôm nay phải đầy, như thế, tôi hiếu thảo “bù” thêm vào đâu được?
Cứ thường, ta không sống trọn vẹn ly nước cuộc đời ta phải sống. Ngày nào nó cũng vơi. Ta không nhìn thấy cái vơi này. Thí dụ, hôm qua ly nước tình yêu trong gia đình của ta cạn mãi gần đáy: Có thể đó là lòng nhỏ nhen, là gay gắt, là không chung thuỷ. Lúc ấy ta mới giật mình. Nhìn lại tâm hồn, ta nhủ thầm, ngày mai sẽ bù lại bằng yêu thương nhièu hơn. Hôm sau, để “bù” lại, ta có yêu thương thật. Rồi ta thấy mình hân hoan thơi thới.
Thật ra, cái thơi thới hân hoan ấy chỉ là hành động sống đủ điều ta phải sống, chứ không bù thêm gì cả. Những gì đã mất vẫn mất. Nuối tiếc phần đã mất hôm qua làm ta chua xót, rồi sự chua xót ấy xát vào lương tâm làm ta hối hận. Cái đau nhức này là sức mạnh đẩy ta sống “đủ” điều ta phải sống hôm nay. Không có cái hối hận này, có thể ta lại chỉ sống nửa ly nước thôi. Ta không sống đầy ly nước cuộc đời mà ta phải sống. Hằng ngày, ta sống nửa chừng. Hôm trước quá vơi, hôm sau ta “bù” bằng cách sống đầy. Xét kỹ, ly cuộc đời, có thể là ly nước tình yêu, ly nước trách nhiệm, ly nước trí tuệ của mỗi ngày, nếu ta sống trọn vẹn như ta phải sống thì ly nước ấy tự nó đầy rồi, còn chỗ nào mà “bù” mà “thêm” được nữa.
Ngày rời làng quê, tôi như cây tre vừa chớm lớn. Ngày trở lại, hình ảnh cũ còn đó, mà sao đất trời đổi thay nhiều quá. Chung quanh không còn những cây tre già che gió. Biết bao người đã khuất bóng, về thế giới bên kia. Ai cũng có những dấu ấn thời gian trong đời sống. Nhìn lại những dấu ấn ấy cũng có lúc cần thiết. Bởi không có sống “bù”, sống “thêm” những gì hôm qua ta đã không sống, nếu không nhing lại dấu ấn quá khứ.
Tuổi thơ ai cũng có những kỷ niệm thật thơ bé. Tôi sán kỷ niệm này vào một chiều cuối hè. Nó ngủ yên lặng trong một trang vở đời sống. Ngày đó, tôi đến chào bác tôi về trường đi học lại. Tuổi thơ mà, trong hè rong chơi với nắng, với ruộng đồng cỏ dại, hết hè, bây giờ lại xa nhà, rồi bài vở thi cử, lòng sao bịn rịn. Những kỷ niệm bùi ngùi về tháng ngày nhập học, giờ nhìn lại thấy hồn nhiên làm sao. Nhưng kỷ niệm một chiều bên gốc cây đu đủ ở đầu nhà bác tôi, hôm nay nhìn lại không thấy êm ả. Nó ngủ yên trong trang vở cuộc sống đã mấy chục năm qua. Hôm nay, nó bóc đi cái hồn nhiên ngày cũ, thành cái muộn màng.
Cứ sắp hết hè là tôi phải đi chào mọi người trong gia tộc để đi học xa. Các Cha ở nhà trường dạy như thế. Thấy cháu lại sắp đi xa thì cô, dì, chú, bác nào cũng hay cho tiền để làm hành trang lên đường. Còn bé, nhưng tôi đã mơ màng hiểu thế giới của người lớn. Có người cho tôi tiền, nhưng mục đích là cho mẹ tôi hay để quà tặng ấy như món nợ nói thầm cho mẹ tôi biết mà xử thế. Còn riêng bac, bác gọi tôi ra gốc cây đu đủ ở đầu nhà, bác dúi vào túi tôi tờ 20 đồng. Bác khuyên tôi ngoan ngoãn và chịu khó học để sau được
”làm cha”. Bác không cho ai biết là bác cho tôi tiền. Tôi còn nhớ giọng của bác. Nó thành thật làm sao. Bác bảo không có nhiều tiền, khi nào có, bác sẽ cho. Bác làm tôi xúc động. Tôi tin lời bác ngay. Vì ai cũng thấy bác nghèo. Tôi vẫn thấy trưa nắng bác xách giỏ mò cua, tát cá ở những mương nước. Tôi nhớ rõ lắm cái dúi tay kín đáo ấy. Tôi nhớ rõ lắm cái giỏ tre và cái chậu nhôm để tát cá. Tôi nhớ rõ lắm cái nắng của một miền quê. Khi chợt nghe bác nói bác muốn cho tôi nhiều hơn mà bác không có. Lòng tôi chùng xuống. Tôi thấy cái nghèo trong gia đình bác bày ra trước mặt. Những cái ly cũ, cáu vết trà đựng trong chiếc đĩa nhôm không biết từ bao giờ. Mấy cái ghế đã phải dóng thêm nhiều đinh mà vẫn không chắc. Căn nhà xùm xụp tối. Chiếc màn gió ngăn riêng cái chái ngả màu, rách nhiều chỗ. Hình ảnh cuộc đời và căn nhà của bác tôi biết từ lâu, nhưng bấy giờ nó mới thổi mạnh và quất vào tâm thức tôi một thực tại rất cụ thể: Bác nghèo nhưng bác có tình thương đối với tôi. Tâm thức của tuổi thơ rất đơn sơ. Nó bảo tôi trả lại tiền cho bác đi. Tôi muốn ứa nước mắt. Tôi muốn bảo bác rằng: “Thôi, cháu không lấy tiền của bác đâu.” Nhưng tôi không nói được. Tôi không biết làm gì. Bác không cho thời gian để cái trí non dại ấy biết phản ứng. Bác xoa đầu tôi: “Cháu nhớ chịu khó học nhé.” Rồi đi vào nhà. Dường như bác cũng đọc được sự xúc động của tôi. Hay là bác cũng muốn tránh sự xúc động của chính bác vì thấy mình nghèo. Một tờ lịch rơi xuống vào lúc cuối ngày. Nhưng tờ lịch hôm đó không giống những tờ lịch khác. Có giọt nước mắt rơi theo.
Về nhà trường, những tuần lễ đầu, nhiều tối tôi suy nghĩ vì thấy bác tội nghiệp qua. Bác thương mình mà bác nghèo. Tôi không ngờ kỷ niệm đó theo tôi mãi. Tôi dán tờ giấy hai chục vào cuốn nhật ký linh hồn. Cuốn sách mà Cha linh hướng bảo tôi cố giữ, viết những giù xẩy ra cho linh hồn, viết mỗi ngày một đoạn tâm sự với Chúa. Cuốn sách bé với những cành hoa tôi nắn nót tô mầu ở mỗi đầu trang. Tờ giấy hai chục như một kỷ niệm trong hành trình tâm hồn của tôi tuổi mới lớn. Về sau này, tôi không còn tâm trạng hối hận, trách cứ mình sao đã không can đảm mà chối từ, dám nhận tiền của bác khi bác nghèo vậy. Tôi giã từ dần dần từng năm trung học. Cái suy nghĩ ngày xư bé ấy theo thời gian thay vào một bình an mới. Cuốn nhật ký linh hồn kia thành những trang sách kỷ niệm tuổi thơi tôi cất vào ngăn kéo của quãng đời thứ nhất.
Rồi đến ngày mặc áo dòng. Bắt đầu tập suy tư như người lớn. Có những ước mơ cho ngày mình làm người lớn. Có những ước mơ cho ngày mình làm người lớn. Khi rở lại cuốn nhật ký nhỏ, tôi ước mong có ngày là linh mục. Ngày đó, tôi sẽ khoe bác tờ giấy hai chục mà tôi đã ủi phẳng phiu giữ kỹ bao nhiêu năm. Nhưng thời gian có những định mệnh của nó. Tuổi trẻ ấy cũng là năm tháng của chiến tranh. Chẳng ngày nào không nghe tiếng súng vọng về. Rồi những gì phải đến đã đén. Sau những ngày lánh nạn, trở lại nhà xứ, tôi thấy đồ đạc vương vãi ngổn ngang khắp cả. Tôi giật mình nghĩ đến cuốn nhật ký. Không còn nữa! Những tấm hình chụp, tất cả những gì tôi viết về tuổi thơ của tôi đã cháy theo chiến tranh. Trên thềm cửa, chung quanh nhà thờ, dưới tháp chuông, chỗ nào cũng có vỏ đạn sáng tinh màu đồng. Những mũi đạn đã bắn đi thật xa rồi. Chỉ còn lại là những tút vỏ nằm im thôi. Đầu đạn đã bay đi những đâu. Có ai ngã xuống. Nào ai biết có những mũi đạn vô hình bắn vào tâm hồn tôi. Tôi không muốn tin là những tấm kỷ niệm, những dòng chữ viết về tuổi thơ tôi bị mất. Nhưng định mệnh không bao giờ lên tiếng, nó im lặng phũ phàng như thời gian. Cái mơ ước có này làm linh mục rồi khoe bác về hai chục đồng đó không còn nữa. Cuốn nhật ký với tờ giấy bác đã ra tro than, thản niên như sự chết. Tôi đứng giữa tro tàn nhìn lại thời gian mà thấy muộn màng mất rồi.
Thời gian bao giờ cũng có những nhiệm mầu khó hiểu. Mười mấy năm kỷ niệm ngủ bình an, ôm mơ mộng mị. Rồi, búng mẹ một tàn bụi rơi xuống đường, thời gian như bước chân quay gót đi. Tôi không thể tìm lại được kỷ niệm đó, ngoài những lúc nghĩ về quá khứ với tiếc nhớ của thời gian ghi dấu trong tâm hồn.
Rồi. Bỗng dưng một ngày tôi bỏ nước ra đi. Bỏ lại tất cả. Chỉ còn hành trang ước mơ là linh mục mang theo trên lối tôi đi. Một hành trình ra đi khó hiểu nhất trong đời. Tôi nghĩ không bao giờ có ngày gặp lại bác tôi nữa. Thời gian đưa đất nước vào những ngày nghèo đói. Tôi không biết bác làm gì để sống. Tuổi đời già yếu theo tan cau khô dần, lá trầu vàng rồi sẽ rụng xuống. Bác có còn xách chiếc giỏ tre đi tát cá ven đường? Đã xa quá rồi, tôi không thể hình dung được những gì xẩy ra ở nơi ấy.
Thời gian đến. Ngày thụ phong linh mục, tôi nhận quà tặng, nhận hoa chú mừng, nhưng tôi cứ nhớ đến hai chục đồng ở gốc cây đu đủ mấy mươi năm về trước. Buổi tối đó âm thầm làm sao. Rất vắng vì không ai biết.
Thời gian, có những muộn màng. Thời gian, có những hiểu biết vuột tầm nhìn. Rồi, một ngày không ngờ, tôi hồi họpp biết bao khi được trở về quê cũ lần đầu tiên. Trong những quà tặng, tôi nghĩ đến bác già yếu. Tôi mua cho bác quà gì đây? Tôi biết mình không thể nhắc lại kỷ niệm mấy mươi năm cũ vì bác già rồi. Đồng tiền đã cháy, chắc bác chả còn nhớ gì. Cài ngày tôi mới vào nhà sau gần 20 năm xa cách. Làm sao nói được. Có những khuôn mặt tôi thấy quen lắm mà không sao nhớ nổi. Ồn ào. Kẻ ra người vào. Cảm xúc mừng vui của dòng tộc. Con còn nhớ bác này không? Con có biết cô kia không? Trong cái tình cảm ồn ào ấy, tôi vẫn không quên người bác cũ. Tôi nghĩ bác phải già lắm rồi. Không biết ai là người đó trong đám đông hỗn độn này. Tôi đang có một trò chơi đi tìm người.
Tôi đợi cho những ngày đầu tạm trôi đi. Tôi chờ những con sóng tình cảm tích luỹ trong dòng tộc mười mấy năm qua dịu lại, rồi tôi sẽ thăm bác. Tôi sung sướng nghĩ bây giờ tôi có thể giúp bác một số tiền cho những ngày tháng cuối đời này của bác. Tôi sẽ im lặng giữ kỷ niệm cũ. Nhưng định mệnh có những nghiệt ngã riêng. Khi hỏi thăm thì người nhà cho biết bác ấy đã chết rồi. Câu trả lời như câu thông tin bình thường. Nhưng với tôi thì khác, tôi thấy bầu trời mang mây như những sợi tóc bạc ngậm ngùi. Những lá trầu trong liên tưởng của tôi về hình bác đã thực sự rơi tàn theo đất ẩm. Tính nhẩm ra, bác chết trước tháng ngày tôi thụ phong linh mục không bao xa.
Nhìn lại quá khứ đi qua. Tôi gọi những kỷ niệm ấy là muộng màng của thời gian.
Chúa hay nói về muộn màng của thời gian. Chẳng hạn câu chuyện người giàu có và Lazarô nghèo khổ. Chết rồi, người giàu kia đối diện cuộc sống vĩnh hằng của mình. Ông muốn anh em ông biết cuộc sống đời sau như thế nào để khi còn ở trần thế biết cách mà sống. Nhưng mọi sự đã xong. Ông muốn Lazarô đến cho mình chút nước để đỡ nóng. Nhưng trễ rồi: “Giữa chúng ta có một vực thẳm lớn, bên này muốn qua bên kia cũng không được.” (Lc 16:26). Rồi câu chuyện hồng thuỷ. Người ta ăn uống chơi bời, cho đến ngày Noe vào tàu mà họ chẳng biết. Họ bị hồng thuỷ cuốn trôi đi tất cả. Biết dòng nước dâng thì quá muộn. Câu chuyện mười cô trinh nữ đi đón chàng rể cũng thế. Năm cô khờ dại đem đèn mà không đem dầu theo. Lúc đi mua dầu thì chàng rể tới (Mt. 25:1-13). Trở lại, cửa đã đóng. Thời gian, ôi! Lại muộn màng nữa rồi.
Lạy Chúa, những giây phút con hay phủ lòng rằng con sẽ làm bù ngày mai điều con phải làm hôm nay là con đang dối lòng đấy thôi. Thiệt thòi biết bao. Xin cho con lấy những hối tiếc quá khứ mà cho lòng mình tiếc xót để con sống trọn một ngày con phải sống. Sống đầy ly nước tình yêu, ly nước lòng hiếu thảo, ly nước trí tuệ. Và, những muộn màng trong đời phải nhắc con đừng để muộn màng ngày cuối đời của mình, một thứ muộn màng thiêng liêng liên quan đến hạnh phúc đời đời.
Tôi đang đi trên phố nhỏ một tỉnh lỵ miền quê Trung Quốc. Đèn đuờng rải xuống mặt phố những vũng sáng vàng thưa thớt. Mấy quán ăn mở muộn, được phụ sáng bằng chiếc đèn măng-xông treo ngày ở cổng vào. Khách hàng ngồi ăn bình dị, ít nói, bù đắp cho một ngày lao động mỏi mệt, chắc họ là những người quen thuộc trong khu xóm. Đêm nay, tôi đang đi trên những con đường mà thủa trước đã có một thời điêu linh. Con đường của những bóng người chết trong đầy ải.
Những mái ngói rêu phong cứ nằm im lặng dọc theo dẫy phố đã hàng trăm năm. Trải qua bao đêm thầm lặng của xã hội chủ nghĩa, những con người lao động bên quán ăn kia cũng biết mỏi chịu đựng. Tỉnh lỵ này cũng đã mộ bia tiếp nối mộ bia chôn đi những mơ ước rung cảm của cuộc sống. Họ là những con người biết hạnh phúc và đau khổ như tôi.
Không ai để ý tôi cả. Tôi cũng như họ thôi. Đối với họ, tối nay cũng thản nhiên như mọi ngày. Họ đâu ngờ có người đang nhìn họ xa lạ, đang nghĩ về họ, đang nghĩ đến quê hương mà người viễn khách bỏ đi, cùng một bối cảnh như đất nước của họ. Tuy không ai để ý tới, nhưng xa lạ trong vùng đất xã hội chủ nghĩa vẫn làm tôi hồi hộp.
Một tối không có gió. Êm ả, thanh bình, mà trời vẫn không sao đem hồn ra khỏi nỗi u uẩn được, nó bàng bạc khắp không gian này. Cả tỉnh lỵ không có căn nhà nào mới xây. Chỉ còn tường thành cổ sót lại sau một thời nào đó hoang tàn biến động. Màu xám rêu của tường gạch, ngói cũ làm cả thành phố chìm trong êm ả chịu đựng. Sự tĩnh mịch đêm nay không giống thanh bình của hạn phúc mà nó mang mác một niềm trăn trở nào đó không muốn gọi tên. Đường phố như nói với tôi rằng đừng băn khoăn, cứ để cái yên lặng của tỉnh lỵ này cho nó ngủ, cũng đừng thắc mắc về số phận con người ở đây, cứ để họ tĩnh mịch lìa đời như cha ông của họ từ mấy chục năm qua.
Tôi không để ý đến thời gian. Ba chúng tôi cứ đi đềy trên những con đường mà đã có một thủa khác hôm nay rất nhiều. Thỉnh thoảng ông già dừng lại, chỉ trỏ những góc phố, có khi là một bờ tường, có khi là một căn nhà, cắt nghĩa về những dấu tích còn sót lại. Người thanh niên đi bên cạnh chăm chú nghe như đang hận trăn trối của một vị thầy sắp qua đời. Trang trọng trên khuôn mặt, thỉnh thoảng anh đứng lại giữa đường, thông dịch cho tôi hiểu. Lúc ấy ông già nhìn tôi như muốn nói với tôi rằng ông đang là nhân chứng sau cùng cho những gì tôi đang nghe, cứ nhìn vào ông mà tìm lại cả lịch sử của thành phố này. Ông như mảnh sành cứng của chiếc bình bị đập tan chôn vùi dưới lòng đất, mà tôi như nhà khảo cổ đang phủ bụi để sống ngược thời gian về quá khứ.
Ông già điềm tĩnh. Khuôn mặt người thanh niên luôn luôb trạng trọng lắng nghe, có khi căng thẳng. Dừng lại gần một ngã tư, ông nói:
- Đây là con đường của chúng tôi đã đi qua. Ngày xưa cả hai vợ chồng chúng tôi bị trói tay ra đằng sau điệu đi ở khúc đường này vì vợ chồng chúng tôi là giảng viên giáo lý. Khi cách mạng văn hoá đỏ bùng nổ, tất cả nhà thờ bị đốt phá. Đấy, cái nhà đằng kia kìa, ngày xưa của Giáo Hội đấy, bây giờ là cửa hàng quốc doanh. Còn đây này, nhà của các Cha thừa sai ngoại quốc. Hình như ở đâu đây ngày xưa có cả một trường học cho các em nhi đồng nữa, bây giờ hết dấu tích rồi. Hồi ấy hàng trăm người Công Giáo bị điệu đi cho người ta riễu cợt trên con đường này. Họ trói tay, đáng trống, đầu chúng tôi cuốn khăn trắng, bị dẫn từng tốp một đi khắp phố. Kinh hoàng lắm! Chết cả rồi. Chắc chả còn mấy người sống sót như tôi. Bị đem đi lao động mãi tận mạn Bắc.
Nói xong, ông trầm ngâm im lặng như đang nhớ tới những con người và những con đường đã hơn nửa thế kỳ trôi qua. Tôi cúi nghe người thanh niên thông dịch lại những gì ông già nói. Mỗi lần nghe xong, hồn tôi như trĩu nặng. Cái nặng của một mùa thương khó thánh giá Đức Kitô đã vác nghiêng ngửa nơi đây mà xã hội bên ngoài không hề biết. Đêm nay, tôi đang đi lại trên những con đường mà vì niềm tin, bao người đã chết. Tôi hình dung tiếng trống khua vang, bỗng người ngã dúi vào nhau. Họ là đàn ông, đàn bà, trẻ thơ. Những người ấy, giờ này đang ở đâu, có còn ai sống sót như ông già đêm nay. Thinh lặng, tôi quý cái tĩnh mịch trang nghiêm của đêm nay. Một đêm không ngờ. Tôi đang đi lại trên những chặng đường của anh hùng đức tin.
Chổ chúng tôi đang đứng là bức tường, có cổng khoá, cách một sân vuông cỏ, qua bóng cửa sổ, căn nhà có ánh đèn. Tôi bảo người thanh niên hỏi ông già xem đây là đâu mà trên nóc nhà có bóng thánh giá. Khi ông già đang nói thì cánh cửa xê dịch. Một người bước ra. Dường như chúng tôi đã đứng hơi lâu trước cổng làm người nhà để ý. Tôi thấy người thanh niên có vẻ hơi hốt hoảng. Phản ứng tự nhiên, tôi nghĩ ngay đến công an, đến tra vấn, hỏi cung, lấy tay sờ sổ passport.
Đêm có lẽ đang vào khuya. Họ nói với nhau những gì tôi không hiểu, nghiêm chỉnh. Giọng họ nhỏ. Tôi im lặng theo dõi thôi, hồi hộp.
……
Bây giờ tôi đang ở trong căn nhà mà qua ánh cửa sổ có ánh sáng hắt ra, căn nhà trên nóc có thánh giá, căn nhà mà tôi thắc mắc muốn người thanh niên hỏi ông già xem đây là đâu. Nó là căn nhà nguyện nhỏ nhưng không có bàn thờ. Có lẽ nó là một căn phòng nào đó, dùng để làm gì đó, đã từ lâu rồi. Nhưng hôm nay nó có vẻ như căn nhà nguyện. Vôi lở khắp các mặt tường. Mạng nhện phủ đen mái ngói. Những căn nhà Trung Quốc được xây dựng rất kiên vững vì thế mà có khi cả mấy đời trong dòng họ vẫn sống trong căn nhà hương hoả cha ông để lại. Căn nhà này cũng thế. Những xà gỗ đen xì, to lớn, rắn rỏi, tôi nghĩ không biết bao giờ mới có thể mối mọt được. Xà gỗ to trong căn nhà thấp, nó cho căn phòng dáng vẻ vững chắc, nhưng làm căn phòng nặng nề. Giữa đêm oi bức của mùa không gió, tôi đang sống trong căn nhà của thế kỷ trải qua mưa nắng. Trên tường, treo khung hình thánh Giuse và chị thánh Têresa bằng tre đã bị mọt ăn, bụi bặm. Màu trên tấm hình không còn.
Tôi không hiểu ngôn ngữ họ đang nói, nhưng tôi biết chắc họ đang nói về Chúa, về niềm tin, về một nỗi gian nan và thống khổ trong quá khứ. Tôi hình như nơi đây đã một thủa biến động, tan tác, bắt bớ tù đầy. Ai đã vào đây với những sợi dây trói người dẫn đi thinh lặng trong đêm. Người trói, kẻ bị trói, giờ này họ ở đâu. Nước mắt cho hạnh phúc nào. Đau khổ nào cho lý tưởng nào. Trong cái trầm mặc, vắng thật vắng của đêm nay, tôi đang đứng trong căn nhà mà đã một thời lịch sử vang động. Trôi qua hết rồi, người năm cũ ở đâu bây giờ. Tượng Chúa còn đó, không thăng trầm theo lịch sử, mà nhìn lịch sử thăng trầm. Trong căn nhà này đã có nước mắt, thù hận, niềm tin, thách đố, tha thứ, lý tưởng. Tôi thấy trong tôi có xót xa, xót xa cho Chúa và cho người theo Chúa, cho người theo Chúa và cả người ghét Chúa. Còn sot lại hôm nay là bóng thánh giá trên mái ngói.
Tôi đã rừng vào biết bao nhiêu thánh đường nguy nga ở tây phương, có trang trọng nhưng không huyền bí như ở đây, nơi mà tôi thấy một sức chịu đựng đến vô cùng. Cái dũng cảm rất thiêng liêng, không phải dũng cảm thách đố những nhẫn nại. Tôi không thấy thù hận những người đã gây bao khổ đau. Tôi không oán trách những bàn tay tàn phá đã để lại những tu viện mà nay không bóng người. Tôi chỉ thấy xót xa. Người năm cũ đã ra đi tất cả. Còn lại tường vôi và hoang vắng. Đâu là ý nghĩa cuộc sống, họ muốn để lại trên mặt đất? Nhìm hình thánh Têrêsa và thánh Giuse đã phai màu, tôi thấy đời cả hai vị thánh đều thầm lặng, đều can đảm trong nhẫn nại và bao dung. Cái nghèo làm căn nhà điêu tàn. Cái vắng làm căn nhà thấy buồn. Tự nhiên, ai mà không chùng lòng.
Hôm nay, tôi viết những dòng này vào cuối xuân 97 thì đêm đi trên những con đường tỉnh nhỏ ấy đã 9 năm. Chín năm rồi trong đời linh mục, tôi vẫn thường nhớ về ông gia giảng viên giáo lý, hình ảnh ngôi nhà nguyện và người nữ tu trong đó.
Câu chuyên thế này, khi cách mạng văn hoá đỏ bùng nổ, chủ trương tiêu diệt tôn giáo là một trong những tín điều của đảng cộng sản Trung Quốc bấy giờ. Ngày xưa, nơi đây là tu viện. Lúc hai cô thiếu nữ xin vào tu thì cũng là lúc sóng gió xẩy đến cho Giáo Hội. Các linh mục bị bắt. Giáo đường đóng cửa. Tu viện bị tịch thu, tan tác mỗi người mỗi ngả. Một trong hai cô bấy giờ là một thiếu nữ 16 tuổi. Họ chưa nhập viện tu thì đã phải lưu lạc theo gia đình tìm đất sống. Nửa thế kỷ Giáo Hội bị bắt bớ trầm luân. Ngày tôi vào Trung Quốc thì chính quỳên hơi nới rộng chính sách công giáo, bắt đầu trả lại một phần đất đai khô cằn cho Giáo Hội. Bà già đang sống trong căn nhà ấy, người đã mở cổng mời chúng tôi vào chính là cô thiếu nữ 16 tuổi của gần 50 năm về trước. Bà kể lại rằng lý tưởng đi tu không bao giờ chết trong tâm hồn bà. Sau khi tu viện bị tịch thu, các đệ tử mỗi người một nơi, hai cô cũng theo bố mẹ tản cư. Dù sóng gió, dù khó khăn, lý tưởng ấy cứ thôi thúc âm ỉ trong đời sống. Gần nửa thế kỷ giữ trái tim cho một ánh sao. Đem tuổi thời con gái ấy vào cuộc sống gian nan và giữ trọn ơn gọi. Khi nhà nước trả lại căn nhà cho Giáo Hội, hai người nữ đệ tử của gần 50 năm về trước, những người nữ tu không bao giò có ngày lễ khấn dòng, không bao giờ được mặc tu phục, hôm nay tìm về nhận trách nhiệm trong những ngày cuối đời.
Sức mạnh nào cho họ nhìn thấy tương lai? Tôi không nghĩ là họ thấy tương lai. Phải có tình yêu hỗ trợ niềm tin, niềm tin phải vẫy gọi tình yêu tha thiết lắm thì người ta mới đi trọn được lý tưởng trong những khúc đời gian truân như thế.
Ở tuổi đời 16, cái tuổi của những thiếu nữ chưa biết mình muốn gì, cái tuổi chỉ thích mơ “mầu tím hoa sim” ấy, làm sao họ biết đó là ơn Chúa gọi đi tu? Không tu viện, không người linh hướng, giữa xã hội lao lung đầy ải, họ sống trọn đời tu sĩ.
Hôm nay, giáo dân từ miền lân cận đem gạo cho tu viện. Đã có những thiếu nữ trẻ đến đây cầu nguyện tìm hiểu ơn gọi. Hơn một nửa thế kỷ của mùa đông băng giá. Im lặng. Bây giờ những hạt lúa bắt đầu nẩy mầm chờ ánh sáng, ngoi lên.
Gĩa từ miền đất mà tôi nghĩ không bao giờ sẽ trở lại nữa, lòng tôi bùi ngùi. Hình ảnh của những con đường đêm đó tôi đã đi không phai mờ trong tôi. Nó là tiếng vọng của niềm tin thánh.
Đêm tĩnh mịch, hoang vu, người đàn ông đi lại trên những góc phố một thời đã bị bắt bớ khốn khổ chỉ vì là giảng viêng giáo lý. Làm sao những con người ấy lại chọn cho mình một ơn gọi đau thương như thế.
Xa vùng đất ấy đã gần mười lăm năm rồi mà hình ảnh người thiếu nữ 16 tuổi cam đảm tìm hướng đi, phấn đấu giữ trọn ơn gọi tu sĩ cứ bàng bạc trong tôi. Nhiwuf buổi chiều tĩnh tâm, tôi vẫn thường nghĩ tới câu chuyện xa xưa ấy và rồi lại vang âm lên trong tâm thức những hình ảnh: Làm sao người thiếu nữ ấy biết mình có ơn gọi mà nhất quyết đi mãi? Làm cách nào mà tuổi thơ ấy đã trung thành suốt đời trong bao nhiêu bão tố cuồng phong? Còn những người giảng viên giáo lý kia, đàn ông, đàn bà, họ đã sống trọn vẹn ơn gọi tông đồ giáo dân, đẹp như những vì sao toả sáng trong thinh lặng, bình an.
Cũng một ơn gọi đi tu, hoàn cảnh ngày tôi 16 tuổi và người thiếu nữ 16 tuổi ấy khác nhau quá. Ngày 16 tuổi, tôi chuẩn bị kết thúc những ngày trung học với bút vở sách đèn, với hè nắng hoa phượng tuổi thơ học trò. Còn người thiếu nữ ấy lầm than với bố mẹ, vì đức tin mà khổ ải. Không gian có thể khác, thời gian có thể khác. Mỗi thời đại, có những cái nhìn mới theo hoàn cảnh về ơn gọi . Những cái mới đó có thể là phương pháp huấn luyện, giá trị xã hội, cấu trúc tâm lý, nền tu đức theo thời đại. Nhưng trong những điều khác biệt đó, cái khác biệt nhất, sâu nhất mà tôi phải suy niệm không phải là hoàn cảnh và thay đổi của thời đại mà là sự tha thiết với ơn gọi. Tôi tin rằng đấy là địa chỉ đúng nhất cho lý tưởng.
Nhiều bạn trẻ muốn đi tu thường có nỗi sợ và băn khoăn tự hỏi là Chúa có gọi mình thật không. Họ lo rằng nếu theo Chúa vài ba năm rồi Chúa không gọi đời sẽ dang dở. Tôi phải tìm một mảnh bằng, một nghề nghiệp cho chắc ăn đã, để “lỡ” Chúa không gọi, tôi có thể kiếm tiền được cho tương lai của tôi chứ!.
Tìm xem mình có ơn gọi đi tu có là điều khó lắm không? Làm sao hai thiếu nữ ấy biết mình có ơn gọi trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế? Và đi tu như thế để làm gì? Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần đã linh hướng họ. Để nghe tiếng Chúa Thánh Thần, tôi nghĩ đến hai điều kiện này. Thứ nhất, giữ trái tim trong sạch, tránh phạm tội để linh hồn nhẹ nhàng, thanh thoát để tìm ánh sao. Thứ hai, với sự bình an của tâm hồn mà lúc nào cũng chìm trong sự cầu nguyện, Chúa sẽ ban sức mạnh cho kẻ muốn theo Chúa nhìn thấy cẻ đẹp và say mê ơn gọi của họ. Tôi tin là Chúa không coi thường ơn gọi tận hiến, để rồi nay gọi, mai bảo thôi.
Lạy Chúa, trong vùng đất xa xôi, gian khổ, đã có những vì sao lấp lánh. Khi gọi thì Chúa gọi với tất cả con tim. Có những con tim, khi theo, đã theo với tất cả tâm hồn.
Trời chiều về hiu quạnh Giáo đường buồn cô vắng Chúa Yêsu rũ mỏi Trên thập giá thầm lặng
Người về theo nắng hạ Yêu cúc vàng mặn mà May áo lụa hoàng hoa Say bên duyên tình mới Chúa tay gầy hiu hắt Mưa rơi buồn vời vợi Giáo đường mình Chúa thôi
Yêsu ơi Yêsu Trong nắng thu vàng gió Với đôi bờ vai nhỏ Với tóc mây sầu thơ Con xin dâng Chúa đó Aân tình lễ yêu thương
Con xin chọn khổ giá Thay nhẫn cưới gối hoa Con xin chọn khổ giá Thay chén ngà rượu quý Con xin chọn khổ giá Bằng cả mười ngón tay
Chúa ơi yêu con nhé Để mầu áo ngây thơ Mầu hoa nắng đơn sơ Mãi mãi không phai mờ
Chúa ơi yêu con nhé Cho con là ma soeur Yêu lời kinh nhè nhẹ Bên nắng hè rộ hoa Yêu ánh lửa nhà chầu Trong chiều đông buồn bã
Chúa ơi yêu con nhé Gọi con là ma soeur Trong tình yêu tuyệt vời Để mãi mãi ngàn đời Con là ma soeur nhỏ Của một mình Chúa thôi
Lạy Chúa, Chúa đã nói với người mù: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi. Anh đã chọn một lối đi riêng cho anh. Chuẩn bị Lễ Vượt Qua, Chúa từ Jêricô về Jerusalem. Trong đám người từ Jêricô này có anh mù Batimê. Hôm nay con nghĩ nhiều tới anh trong cuộc rước Lá. Bằng một linh hồn khôn ngoan, anh tìm cho mình một hướng đi. Ở những bước chân con đang đi đây, anh mù Batimê ngày xưa cũng đã đi.
Lạy Chúa, Con không đến đây như khách du lịch. Con là kẻ hành hương. Con muốn đi lại những con đường lịch sử có thật. Trên đường đi, con thấy lòng mình thật bâng khuâng. Nơi này Chúa đã thực sự bước đi sao? Con thấy Chúa quá gần con người. Chúa là con người thật sự. Nơi này anh mù Batimê đã đi hay sao. Họ là những con người thật sự.
Khi đọc bài Chúa vào thành, con tưởng Chúa đi trên một đường mòn, như con đường làng. Thấy địa lý vùng này con mới thấm thía khi Chúa dừng chân khóc Jerusalem. Từ Bêtania và Bethage, leo núi Ôliu, từ độ cao con nhìn xuống, dưới chân núi Ôliu là thung lũng Kidron, và bên kia là thành Jerusalem. Ở độ cao này, ánh mặt trời ngả chiều hắt xuống mái vàng đền thờ. Bây giờ con mới thấy sự hoành tráng của các vì vua Salomon. Con hiểu tại sao các môn đệ phải trầm trồ khen ngợi. Kìa! Thầy nhìn vẻ đẹp của đền thờ. Ðứng trên triền núi nhìn qua thung lũng Kidron, Jesusalem rất gần. Gần trong không gian mà khó đến vì ngăn cách một thung lũng. Thung lũng nhỏ thôi nhưng khó đến trong ý nghĩa thiêng liêng. Phêrô chạy trốn. Chính thung lũng Kidron này là nơi Ðavít đem quân lập quốc. Bên này núi Ôliu, bây giờ có đền thờ Chúa khóc thương Jerusalem. Ánh chiều hắt xuống, mầu vàng đền thờ rực sáng. Bên bờ núi Ôliu này Chúa đem các môn đệ đến cầu nguyện và nghỉ ngơi. Hai nghìn năm xưa với rừng ôliu thinh vắng, bên bờ núi này Chúa bị bắt. Ðứng trên sườn đồi nhìn qua bên kia Jerusalem, con không ngờ con đang đi giữa những dấu tích lịch sử có thật của một thời Chúa đã đi qua. Con phân vân hỏi lòng. Thiên Chúa gần gũi con người đến như vậy sao.
Con đang vào Tuần Thánh. Ðường đến Jerusalem với bóng hình của hai cuộc gặp gỡ: Ông Dakêu và người mù Batimê.
Ông Dakêu và người mù, cả hai đều là người “muốn nhìn.”
Ðể nhìn rõ, cả hai tìm lối lên cao.
Ðoàn người rước Lá qua chân núi Ôliu, nơi hôm nay có vương cung thánh đường Gietsimani. Vườn Gietsimani còn sót lại mấy gốc ôliu già không biết từ nghìn năm nào. Qua vườn Gietsimani là tới chân thung lũng vào cổng thành Jerusalem rồi. Qua cổng thành, chừng mươi phút sẽ tới hồ Betsaiđa, nơi Chúa chữa người bất toại.
Lạy Chúa, Trên con đường này, đi thêm vài chục mét nữa là dinh tổng trấn Philatô. Con đang ở rất gần nơi Chúa đã đứng ngày xưa. Chặng Ðàng Thánh Giá bắt đầu từ dinh tổng trấn này lên đồi Golgotha. Một chặng đường lên cao cho những ai muốn nhìn. Chắc đoạn này phải có chân người mù Batimê từ Jêricô. Vì anh là kẻ đi tìm ánh sáng, kẻ muốn nhìn.
Muốn sống vẻ đẹp phải là kẻ muốn nhìn. Muốn nhìn vẻ đẹp phải lên cao. Muốn lên cao cần phải bỏ đi những gì cản trở.
* * *
Lạy Chúa, nhiều người đã nâng đỡ con đi, đã chỉ cho con đi. Con hiểu bước chân người mục tử phải đi về đâu, xin cho con những ơn cần thiết. Làm sao con chuẩn bị lối đi hôm nay để bước vào đền thánh vĩnh cửu giờ con chết. Con dự ngày lễ Lá ở Jerusalem cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu không gặp dấu chân người xưa đã đi.
Mỗi người đều có một bước chân đi. Chúa về Jerusalem để hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Trong hành trình này Chúa nghỉ chân ở nhà mấy chị em Mácta. Trưa nay con đang đi dưới bầu trời hanh nắng của vùng trời Chúa đã đi qua. Căn nhà Mácta không còn. Bóng người xưa không còn. Còn lại là những trang Kinh Thánh nói cho con về những tình cảm êm đềm của mấy chị em này. Con mong sao những nơi con dừng chân cũng có những tình cảm êm đềm như thế. Có nhiều thứ tình cảm hôm nay, có nhiều thứ liên hệ thiệt thòi cho bước chân tự do. Chúa không tránh những liên hệ cảm tình. Phúc Âm tường thuật khi nghe tin Chúa đến, mấy chị em mừng lắm, chạy ra đón Chúa. Tình cảm của Chúa là tình cảm rất con người. Con mong sao và con sẽ gìn giữ những liên hệ tình cảm với người này, gia đình kia được thánh thiện, đơn sơ vui vẻ như liên hệ giữa Chúa với mấy chị em Mácta.
Xin cho con tha thiết với ánh sáng như anh mù Batimê. Con cần can đảm đứng phắt dậy trong nhiều hoàn cảnh. Như người mù khi nghe Chúa gọi, đứng phắt dậy, vứt cái áo choàng. Con cần Chúa cho con tinh tế đối với những tấm áo choàng ăn xin mà hôm nay nó bao quanh cuộc sống bằng nhiều hình thức khác nhau. Xin tình cảm. Xin quyền lực. Có nhiều công trình xem ra rất đẹp, nhưng nó vẫn là những chiếc áo choàng xin ăn. Nhiều khi xin ăn hôm nay là một nghệ thuật. Có khi người ta xét một người có giá trị nhiều hay ít là do khả năng người đó xin được nhiều hay ít. Từ nghệ thuật xin ăn, nếu con tự tìm giá trị cho mình bằng những cuộc xin ăn thì tấm áo choàng trở nên quá nặng rồi. Con cần tinh tế để biết lúc nào phải bỏ chiếc áo choàng lại.
Con cần đứng phắt dậy trong nhiều đau đớn. Có những bóng đêm con tự xoay mình trong đó. Nó có thể là quá khứ nuối tiếc, nó có thể là hiện tại hoang mang. Nó có thể là ngần ngại mỏi mệt. Anh mù ngồi bên bờ đường nhưng không ngồi bơ phờ. Anh để ý người ta nói gì về Chúa. Anh không nhìn thấy mầu sắc ngoài trời, anh nhìn mầu sắc trong linh hồn. Cuộc đời anh vẫn là theo dõi một người, bởi anh biết người ấy thuộc dòng dõi con vua Ðavít. Trong cái bóng tối buồn bã của con, chớ gì con biết ngồi ở chỗ Chúa có thể nhìn thấy đời con.
Xin Chúa con con sáng kiến như ông Dakêu. Cuộc sống đẹp là bước chân không gì ràng buộc được. Có nhiều thứ lên cao, nhưng lên cao để nhìn và để được nhìn là hai con đường khác nhau. Cũng như con đường xuống thấp cũng vậy, xuống thấp để lãnh nhận như Dakêu thì khác xuống thấp trong bất mãn. Con muốn lên cao để tìm mình, để nhìn trời, để gặp Chúa và yêu đời.
(Jerusalem Tuần Thánh 2006, Trích tập suy niệm KẺ ÐI TÌM, sẽ xuất bản 2010)
Tin Mừng Gioan ghi lại Chúa Giêsu hiện ra ở Biển Hồ Tibêria như sau:
“Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Teberias-bantho.jpg Biển hồ Tiberia: nơi Chúa nướng cá cho các môn đệ
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Jn. 21:1-6).
Phêrô đã một thời tự ý ngang dọc. Ông xách gươm. Ông kéo Chúa ra riêng một chỗ rồi lên tiếng trách Người. Bên Biển Hồ Tibêria, hồ hôm nay chỉ dật dờ một rừng lau sậy. Tôi đến đây sau trưa, bóng ngả dần về chiều. Biển xanh mơ êm đềm. Ấy thế mà một thời nổi sóng với ngôn từ của Chúa. Tôi biết, bây giờ ngó ở đâu cũng chỉ là bờ đá và rừng xanh. Nhưng tôi vẫn nhìn quanh như tìm xem bóng Chúa đâu. Phêrô từng ngồi chỗ nào. Bây giờ khách hành hương có thể xin tĩnh tâm nơi những trung tâm này. Tôi có thể dâng lễ ngay tảng đá mà chỉ vài bước chân là xuống biển hồ.
Chúa hiện ra tảng sáng và bảo Phêrô thả lưới. Người đánh cá chuyên nghiệp thì biết, không ai thả lưới lúc tảng sáng. Họ đánh lưới về đêm. Ấy thế mà Phêrô không cãi lại, ông im lặng thả lưới. Một thái độ ngược bản tính của ông. Cái ngang dọc của Phêrô hôm nay biến mất. Và quả thật, cá nhiều quá kéo lên không nổi.
Trên bờ biển hồ tôi đang đi đây, Chúa hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Tôi xin dâng lễ ngoài trời, nơi bàn thờ đá cuối nhà thờ. Bàn thờ quay ra biển. Nơi này câu chuyện xảy ra hai nghìn năm trước như sau:
Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
“Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Jn. 21:15-17).
Hai Biến Cố Một Mặt Hồ
Ta phải đặt không gian nơi Chúa hiện ra với mẻ cá kéo lên không nổi và câu chuyện bánh hóa ra nhiều vào một liên hệ chung. Xét về địa lý thì cả hai biến cố xảy ra ở mạn Bắc Biển Hồ Galilê, vùng Tibêria. Chỗ Chúa làm phép bánh hóa ra nhiều nuôi mấy ngàn người ăn ở sát bên cạnh nơi Chúa hỏi Phêrô con có mến Thầy không. Cả hai xảy ra bên biển hồ. Ta chỉ cần đi bộ một quãng đường. Đặt vào chung một vùng đất, ta thấy những điểm trùng hợp như sau:
Biển Hồ Galilê
TRƯỚC PHỤC SINH SAU PHỤC SINH Bên đồi cỏ Bên biển hồ Bánh hóa ra nhiều trên đất Cá hóa nhiều trên nước - Một ngày đói không đủ bánh ăn - Một đêm hoài công không có cá - Một bên Chúa hỏi có mấy chiếc bánh - Một bên Chúa hỏi có gì ăn không. Cả hai bên đều trả lời không có.Cả hai bên đều thiếu. Cả hai bên đều trả lời không có. Cả hai bên đều thiếu. - Một bên Chúa bảo đem bánh lại đây - Một bên Chúa bảo thả lưới. Cả hai bên Chúa không tự ý làm phép lạ. Cả hai bên Chúa không tự ý làm phép lạ. Cả hai biến cố đều có phần góp sức của con người. Cả hai biến cố đều có phần góp sức của con người. Một bên đem bánh ố Một bên thả lưới Chúa bảo các môn đệ lo cho dân ăn Chúa bảo Phêrô săn Giáo Hội. - Chúa còn sống, thấy dân chúng thì Chúa thương. - Chúa chết rồi, Chúa bảo Phêrô tiếp tục yêu thương ấy. Cả hai biến cố đều dùng hình ảnh chiên. Cả hai biến cố đều dùng hình ảnh chiên. Một bên là: “Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.” Một bên là: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.” Căn bản của những trùng hợp này là kết luận ta có thể di tới:
Như thế, biến cố bánh hóa ra nhiều là tiền thân của mẻ lưới, của cuộc hiện ra sau Phục Sinh với Phêrô. Cả hai biến cố nói lên một ý nghĩa chung là lòng thương xót của Chúa đối với dân chúng và Phêrô, kẻ theo Chúa là nối tiếp lòng thương xót ấy mà săn sóc Giáo Hội. Khi Chúa bảo các môn đệ lo cho dân chúng ăn trong biến cố bánh hóa ra nhiều, là tập cho các ông cách lo mà Chúa trối cho Phêrô sẽ lo cho Giáo Hội tương lai ở biến cố hiện ra sau Phục Sinh này.
Phêrô phải lo cho Giáo Hội như Chúa săn sóc:
- Vì lòng mến. (Con có mến Thày không?)
- Không dựa vào công lao sức mình. (Hãy thả lưới bên phải)
- Không thất vọng khi thấy không có lối thoát. (Không có gì ăn ư? ố Thưa: Không)
- Phải đóng góp sức của mình, không ỷ nại vào Chúa. (Vâng lời Thày con thả lưới)
- Chúa hành động khác cách con người. (Thả lưới lúc ban sáng!)
Ba lần Chúa hỏi Phêrô để Phêrô được ba lần rửa tội. Ba lần ông chối Chúa. Trong ba lần này Chúa chỉ hỏi về lòng mến. Điều kiện Chúa trao Giáo Hội cho Phêrô là lòng mến. Chúa không hỏi về khả năng lãnh đạo, không hỏi về khả năng kiến thức, không hỏi về khả năng tài chính, không hỏi về khả năng thu phục lòng người. Lòng mến ở đây là mến Chúa, không phải mến công việc của Chúa. Chúa nói rõ: “Con có mến Ta không”. Chúa không hỏi có mến công trình của Chúa không.
Điều khác biệt
Điều khác biệt giữa hai biến cố bánh hóa ra nhiều và mẻ lưới là lời loan báo căn tính tông đồ: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Jn. 21:18-19). Trong biến cố bánh hóa ra nhiều, Chúa không nói với Phêrô về ơn gọi ông sẽ phải sống như thế nào. Nhưng sau khi Chúa sống lại thì Phêrô phải hiểu rất rõ về căn tính của mình là sẽ phải chết cách nào.
Điều khác biệt hơn nữa
Ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” Vậy khi thấy người đó, ông Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” Đức Giêsu đáp: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy” (Jn. 21:20-22).
Nét độc đáo trên Biển Hồ Tibêria sau khi Chúa Phục Sinh tăng theo chiều cao của một con diều no gió, phải bay vút lên. Phêrô có người bạn thân là Gioan. Chúa nói cho Phêrô biết có thể phải chết cách nào đó, rồi hỏi ông nghĩ sao. Chúa không đề cập đến Gioan.
Phêrô quyết định theo. Nhưng còn con người trần thế, một chút yếu lòng. Ông nói với Chúa: “Thưa Thầy, còn người này thì sao?”
Phêrô hỏi Chúa một lời trần tình thật tuyệt vời. Nó nói lên tất cả chiều sâu nhân tính của một thân phận làm người. Ông không là thánh. Ý ông muốn nói, xin Thầy gọi anh ta nữa, cho đi cùng với con cho có bạn. Con thấy lẻ loi khi theo Thày một mình. “Còn người này thì sao?” Phêrô “nhắc khéo” với Chúa. Không ngờ, Chúa lắc đầu. Chúa không gọi Gioan! Chúa trả lời Phêrô bằng tiếng lệnh lên đường dứt khoát: “Việc gì đến anh.”
- Phần con, con hãy theo Thầy.
Phêrô im lặng. Như thế ta có thể vẽ lên màu xanh êm ả của vùng biển hồ hôm nay một bóng hình nổi sóng vô cùng siêu bạo. Một Thầy, một trò, hai bóng người nhỏ dần khuất bóng. Cái khuất bóng chỉ có hai bóng hình trộn vào nhau làm thành vùng màu sắc táo bạo chấm dứt Phúc Âm Gioan.
Tôi muốn trở lại vùng Biển Hồ Tibêria này, ở lại lâu hơn để nghe sóng vỗ vào chân bờ đá. Những bờ đá đã có dấu chân người một thủa đi qua. Rất hào hùng.
Lm Nguyễn Tầm Thường, S.J. (Jerusalem Mùa Phục Sinh 2006, Trích tập suy niệm KẺ ĐI TÌM, xuất bản 2010)
Đừng tự xét đoán, tự nó đã nói lên phần nào tính chất mơ hồ rồi. Xét đoán được ghép bởi hai động từ khác nhau là xét và đoán. Xét là tìm hiểu. Đoán là phỏng chừng. Xét thì khó vì phải tìm hiểu hoàn cảnh, phải kiếm nguyên nhân, phải phân tích để có dữ kiện rõ ràng. Đoán thì dễ hơn, chỉ cần ước lượng là thế, phỏng chừng như vậy. Động từ đoán dựa trên những điều không đủ chắc, không rõ sự thật. Khi nói xét đoán một người thì có phần xét và cũng có phần đoán. Nhiều khi phần đoán lại nhiều hơn phần xét. Sai lầm nẩy sinh từ đó.
Trước khi tìm hiểu Kinh Thánh nói về vần đề xét đoán, tôi muốn nhìn xét đoán trong một yếu tố liên hệ giữa con người trên bình diện tự nhiên. Yếu tố đó là: phức tạp của vấn đề trong việc xét đoán. Có hai thứ phức tạp. Phức tạp nơi đối tượng bị xét đoán, chẳng hạn như hoàn cảnh, lương tâm của khách thể. Và phức tạp nơi chủ thể xét đoán, chẳng hạn như giới hạn tri thức của chủ thể, ảnh hưởng tình cảm của chủ thể khi xét đoán.
Phức tạp nơi đối tượng
“Không ai tắm hai lần trên một dòng sông.” Dòng nước chảy. Đã đi. Sẽ mất mãi. Chẳng ai có được hai lần cái tâm tình lúc tuổi mười tám. Hôm qua đứng bên dòng sông. Hôm nay trở lại. Dòng sông còn đó. Tôi còn đây. Nhưng không phải là tôi của ngày hôm qua. Không phải là dòng sông hôm cũ. Nước hôm qua của dòng sông đã mất. Mây trên bầu trời hôm qua đã tan loãng. Đâu rồi? Và tôi, tâm tình cũng đã đổi thay. Hôm qua gặp dòng sông thì tâm tình của tôi không thể là nhớ dòng sông được, vì đã xa cách đâu mà nhớ. Hôm nay trở lại, vì có nhớ dòng sông tôi mới tìm đến. Như vậy, trong tôi đã mang chất nhớ nhiều hơn hôm qua. Tất cả đều biến chuyển. Khi xét một vấn đề mà xét trong hoàn cảnh mọi sự đều thay đổi thì khó mà chính xác. Trong tôi có thương, nhưng đồng thời cũng có giận. Tôi ghét đó, nhưng tôi vẫn yêu. Đâu là ranh giới mà phương pháp khoa học có thể vẽ lằn mức rõ ràng?
Khi xét một vấn đề phải xét trong bối cảnh của nó. Mà hoàn cảnh của mỗi người là một thế giới chằng chịt những phức tạp chi ly. Tôi cũng chưa biết rõ về tôi đủ thì làm sao có thể biết rõ về người? Càng phức tạp thì càng dễ có sai lầm.
Xét một vấn đề lại phải có tiêu chuẩn để xét, nếu không có tiêu chuẩn người ta không thể đi đến kết luận. Hai cộng với hai không phải là ba. Vì tôi đã có tiêu chuẩn hai cộng với hai là bốn. Sống trong tập thể, con người tuân theo tiêu chuẩn của xã hội. Nhưng tiêu chuẩn luân lý sâu thẳm vẫn do chính Chúa trong tiếng nói lương tâm. Câu chuyện người đàn bà ngoại tình trong Phúc Âm nói lên rõ điều này. Với tiêu chuẩn của tập thể mà xét đoán thì bà phải ném đá chết vì những hành động tội lỗi. Nhưng tiêu chuẩn của Chúa lại khác. Trước mặt xã hội bà bị kết án. Trước mặt Chúa bà được thứ tha (Yn 8,1-11). “Ngươi chỉ nhìn thấy trước mắt còn Yavê trông thấy điều ẩn náu trong lòng” (1Sam 7). Chính điều “ẩn náu trong lòng” này là yếu tố quyết định tối hậu cho việc xét đoán thì tôi lại không bao giờ biết được.
Điều “ẩn náu trong lòng” là lương tâm. Đề cập đến lương tâm là đề cập đến vấn đề riêng tư nhất. Đã là riêng tư thì làm sao tôi biết. Mà không biết thì làm sao tôi định lượng giá trị. Tôi có kinh nghiệm của riêng đời tôi. Lương tâm người khác thì tôi đành chịu. Thí dụ, một người ăn trộm một trăm đồng. Hành động ăn trộm chưa phải là tội. Nếu họ bị khủng bố, cưỡng bách thì sao có thể là tội? Tôi thấy hành động ly dị, ngoại tình. Nhưng nguyên do đưa đến? Mức độ ý chí lương tâm của họ ra sao? Tôi không thể biết. Khi không xét được, không biết đủ sự kiện thì tôi đoán chừng. Có đoán chừng là có sai lạc.
Hành động phạm tội chưa phải là tội cho đến khi có mặt của ý chí và lý trí. Mà mức độ ý chí, khả năng lý trí, lương tâm kẻ khác thì tôi không biết. Như vậy, xét đoán của tôi có thể dựa trên hành động ngoại tại. Mà hành động bên ngoài, tự nó chưa có giá trị quyết định, thì công việc xét đoán của tôi có giá trị không? Làm sao có thể có một giá trị vững chắc khi mà giá trị đó xây dựng trên một nền tảng không có giá trị vững chắc? “Ngươi là ai mà xét đoán gia nhân người khác? Nó đứng hay nó ngã, mặc chủ nó, song nó sẽ đứng vững, vì Chúa có đủ quyền năng cho nó đứng vững” (Rom 14,4).
Phức tạp nơi chủ thể
Cái phức tạp rõ ràng nơi tôi là sự giới hạn tri thức của tôi. Có điều hôm qua nhớ, hôm nay đã quên. Trí tuệ và sự hiểu biết không hoàn hảo thì không bao giờ tôi có một xét đoán hoàn toàn trung thực. Muốn xét đoán đúng, tôi phải biết rõ, thông suốt. Điều này chỉ có Chúa mới đủ khả năng mà thôi.
Tôi đã có hình ảnh không đẹp về một linh mục. Gần một năm trời tôi nhìn linh mục với hình ảnh như vậy. Mùa hè năm đó, linh mục mua cây về trồng chung quanh nhà xứ. Việc đào hố trồng cây đã không được tính toán kỹ, nên phải làm đi làm lại nhiều lần. Số tiền trả nhân công quá tốn. Tôi thấy linh mục làm việc không có chương trình, kế hoạch rõ ràng. Số tiền ấy để làm được bao nhiêu việc quan trọng khác? Mùa hè năm sau, trở lại giáo xứ cũ, Chúa đã cho tôi một ân sủng, một kinh nghiệm về xét đoán tha nhân. Đối với tôi, linh mục đã là người tiêu tiền của nhà xứ không tính toán. Mùa hè lần này, trong lúc nói chuyện với cha già đã về hưu, tôi phàn nàn về việc cha xứ tiêu tiền như vậy. Lúc đó, cha già cắt nghĩa cho tôi hiểu là trong giáo xứ có mấy gia đình nghèo quá không đủ gạo ăn. Cha xứ thì tế nhị không muốn giúp đỡ họ bằng tiền bạc vì họ sẽ mang ơn. Cha đã bày việc để gọi mấy đứa con của họ đến nhà xứ làm, hầu cha xứ lấy cớ trả công cho họ. Hành động quá tế nhị đến nỗi họ không hề biết là cha xứ muốn giúp đỡ gia đình họ. Cha muốn họ nghĩ là tiền lương do công của con họ làm để họ khỏi phải mang ơn ngài.
Nghe xong câu chuyện, tôi thấy như nắng chiều nhạt xuống. Nặng nề trong hồn. Đó là hình ảnh quá đẹp của một linh mục sống đức tin. Tôi thấy mình đã nhỏ nhoi và tầm thường. Gần một năm trời tôi đã giữ hình ảnh không đẹp về linh mục đó. Bây giờ tôi mới hiểu những việc rất thường mà tiền công thì cha trả rất nhiều. Đối với tôi, linh mục đã là người không biết tính toán để tốn tiền bạc. Nhưng chính ngài đã tính toán rất cẩn thận để tìm lối giúp đỡ giáo dân của mình. Tình thương bao giờ cũng có sáng kiến.
Nếu tôi đem câu chuyện linh mục tiêu phí tiền bạc của nhà xứ mà nói cho những người khác để họ cũng có hình ảnh xấu về linh mục như vậy thì tội nghiệp cho ngài biết bao. Nếu tôi có nói xấu thì chắc ngài cũng không đính chính việc ngài làm. Những tâm hồn cao thuợng là những tâm hồn dám âm thầm chấp nhận đau đớn cho một lý tưởng. Những tâm hồn nhỏ nhen khi thấy người khác im lặng thường coi đó như một chiến thắng. Những xét đoán sai lầm và nói cho người khác để rồi họ không hiểu đúng về một người, trước mặt Chúa có thể là lỗi rất nặng. Phúc Âm thánh Yoan gọi những xét đoán đó là: “Các ngươi căn cứ vào xác thịt mà xét đoán” (Yn 8,15).
Tôi thiếu tri thức nhận diện dữ kiện để nhìn ra sự thật. Tri thức nào có đủ khả năng để đi vào những chi ly, phức tạp như văn hóa, giáo dục, tập quán, gia đình, tâm lý, sức khỏe của cả chủ thể xét đoán và khách thể bị đoán xét?
Một nghịch cảnh thông thường, nhưng đáng sợ nằm ẩn kín trong tôi đó là tình cảm của mình. Thương ai tôi muốn làm vừa lòng người đó. Tôi nhớ. Tôi mong. Nếu nỗi nhớ càng sâu và nỗi mong càng cao thì những sai lầm mà tôi sẵn sàng làm để chiều lòng người đó càng nặng. Tình cảm có sức ma thuật che mờ lý trí và đẩy ý chí vào hành động cuồng dại. Nó quá nhẹ nhàng nên tôi không nghe tiếng động. Nó quá sắc nên tôi không thấy vết thương. Xét đoán của tôi không sao tránh khỏi “căn cứ vào xác thịt mà xét đoán.”
Lạy Chúa, con không thể nhìn thấu suốt tâm hồn tha nhân được, vì thế xét đoán của con bao giờ cũng là xét đoán “căn cứ vào xác thịt.” Căn cứ vào xác thịt thì có sai lầm. Khi con xét đoán sai lầm là con gây bất công cho kẻ khác. Xét đoán của con không làm tha nhân ra xấu thêm, nhưng hậu quả của nó là làm con mất bình an. Tâm hồn con không còn thanh thản, tươi sáng nữa, mà vương vấn vì những ý nghĩ đen tối. Con đã tự đem mảnh trời u ám mặc lấy hồn mình.
Từ ý nghĩ xấu về tha nhân sẽ làm con xa tha nhân. Từ chỗ xa cho đến chỗ nói thêm về tha nhân những điều họ không có là một bước rất gần. Từ đó, bức tường ngăn cách cứ thế mà xây cao. Nghi kỵ loang ra như một vềt dầu, làm hoen ố tất cả hồ nước xinh đẹp của cuộc sống. Khi con xây tường cũng ngăn cách chính mình. Thí dụ, Phúc Âm đã thuật lại thái độ của Pharisiêu. “Các người thu thuế cùng những kẻ tội lỗi thường lui tới bên Ngài để nghe Ngài. Và Biệt Phái kêu trách. Họ nói: ông ấy tiếp nhận quân tội lỗi và cùng ăn với chúng” (Lc 15,1-2). Thái độ của những người Pharisiêu luôn luôn là xét đoán. Xét đoán đem đến đối nghịch. Pharisiêu đã tự tách biệt họ ra, nhưng sự tách biệt này lại cô lập chính họ với ân sủng thiêng liêng là chính Chúa.
Phúc Âm dạy về xét đoán
Chỉ có Chúa mới thấu suốt tâm hồn mọi người, nên Chúa Cha đã dành quyền xét xử cho một mình Chúa mà thôi: “Mọi việc xử án ban cho Con” (Yn 5,22). Như thế, khi con phán đoán để xét xử về một người là con giành quyền đó của Chúa. Thánh Yacôbê cũng viết: “Xét đoán anh em là xét đoán Lề Luật. Nếu ngươi xét đoán Lề Luật thì ngươi không còn là kẻ giữ Luật, mà là Thẩm Phán. Chỉ có một Đấng lập Luật và là Thẩm Phán, Đấng có quyền cứu rỗi và tiêu diệt. Ngươi là ai mà dám xét đoán đồng loại” (Yc 4,11-12). Con lấy quyền không thuộc về con là con đã tái lập lại tội của Adong, Evà ngày xưa là “muốn trở nên như Thiên Chúa biết cả tốt xấu” (Kn 3,5). Ý nghĩa sâu xa của tội xét đoán là ở đó, chứ không phải chỉ là gây bất công.
Với tiêu chuẩn của xã hội, khi thấy một người sa ngã, xã hội kết án ngay. Kẻ bị kết án thì đau khổ một mình. Nhưng nguyên nhân của sa ngã có thể là do một người khác đã rải gai xuống lối đi của họ. Biết đâu những gai đó đã do chính con gây ra.
Hoàn cảnh, lương tâm của một người là vùng đất vô cùng thánh, con không thể dẵm chân vào được, chỉ có Chúa mà thôi.
Chúa đã căn dặn con trong Phúc Âm thánh Yoan rất chi tiết: “Ta không xét xử ai, và nếu ta có xét xử, thì án của Ta chân thật, vì Ta không chỉ một mình nhưng có Ta và Đấng đã sai Ta” (Yn 8,15-16). Trong mọi biến cố, Chúa cầu nguyện với Chúa Cha, rồi thi hành ý của Chúa Cha. Riêng việc xét xử, thì chẳng những Chúa xét xử theo ý Chúa Cha, hơn nữa, Chúa không xét xử một mình, mặc dù đã được Chúa Cha trao quyền, mà Chúa lại còn xin Chúa Cha xét xử cùng với mình. Cách cư xử cẩn thận của Chúa làm con lo sợ vì đã bao lần con quá coi thường, xét xử tha nhân.
Thánh Phaolô cũng căn dặn con: “Chính điều ngươi xét đoán kẻ khác, ngươi kết án chính mình ngươi” (Rom 2,1). Và khi con xét đoán người khác là con “khinh thường kho tàng phong phú là lòng nhân từ, kiên nhẫn và quảng đại của Chúa” (Rom 2,4).
- Nếu con cần lòng nhân từ của Chúa đối với con thì tại sao lại khinh thường lòng nhân từ của Chúa với người khác?
- Nếu con cần lòng kiên nhẫn của Chúa để con có thời gian làm lại cuộc đời sau khi lầm lỗi thì tại sao con lại khinh thường lòng kiên nhẫn của Chúa với người khác?
- Nếu con cần lòng quảng đại của Chúa đối với sa ngã của con thì tại sao con lại khinh thường lòng quảng đại của Chúa với người khác?
Lạy Chúa, con cần ơn Chúa rất nhiều để kìm hãm mình khi con muốn xét đoán kẻ khác, vì đây là lời mời gọi cám dỗ rất nguy hiểm, nó đã gây nên biết bao đổ vỡ, xa cách. Một thứ cám dỗ rất nguy hiểm được bao bọc bằng những lý do hết sức tinh vi.
LM Nguyễn Tầm Thường, S.J – Trích trong “Nước Mắt và Hạnh Phúc”
Gia đình bà Ðiền bắt đầu suy sụp từ khi ông qua đời. Nhưng tình trạng thê thảm thấy rõ nhất, nó như chiếc vòng lăn xuống giốc, phải kể từ ngày 30 tháng 4 năm 75. Vào những năm 70, gia đình ông không dư giả nhưng không phải nợ nần chất đống như những ngày về sau này. Ông làm nghề mộc. Ở vùng căn cứ quân đội Mĩ, dân chúng bám vào những căn cứ ấy như miếng bánh ngọt mầu mỡ: Buôn lậu, làm công. Dân chúng khá giả, đua nhau sắm sửa nhà cửa tươm tất. Nhà nào mà không có một, hai chiếc tủ đứng, tủ chè đựng đồ kiểu. Nghề thợ mộc của ông đắt khách. Dù ông chỉ là người làm thuê cho một chủ tiệm bán bàn ghế nhưng cũng đủ cung ứng mọi chi tiêu cho gia đình.Thế rồi, cái bánh ngọt mầu mỡ ấy, bỗng một ngày có người nhắc đi. Chỉ sau vài tháng khi quân đội Mĩ rút lui, cỏ mọc xanh lối vào các căn cứ mà đã một thuở rộn rã bóng người. Ðồng tiền khó kiếm. Cái nghề mộc của ông Ðiền bắt đầu lung lay. Ông chủ tiệm đã có tiếng thở dài ế ẩm. Gia đình ông Ðiền thấy bóng dáng mây đen đe dọa ở xa xa. Ba năm sau, gia đình ông bắt đầu là con nợ của nhiều người.
Âu lo về chuyện nhà, thêm vào là bệnh tật, nhưng có lẽ ông không đến nỗi chết sớm nếu không nghe cái hung tin về đứa con trai của ông tử thương ở cao nguyên. Ông đã dốc tất cả số tiền dành dụm để chạy chọt, lo cho thằng con khỏi phải đi lính. Nhưng tiền mất tật mang. Ông đã mất hai cây vàng để mua lầm miếng giấy hoãn dịch giả. Hai tháng sau khi mua mảnh giấy giả ấy, thằng con ông bị bắt. Thương nhớ con, tiếc của bị mất, vì nỗi tức, ông đã nghẹn thở suýt chết mấy lần hồi ông mới bị bệnh. Khi nghe tin con tử thương thì ông xỉu thường bữa. Từ ngày đó, sức khỏe ông trút đi trông thấy.
Vào một chiều u uẩn cuối tháng tám, ông vĩnh biệt cuộc đời khổ đau để lại cho bà Ðiền trông coi sáu đứa con. Tháng tám với mùa nắng hanh nhưng cũng có những cơn giông bất chợt. Cái nắng gian khổ của trời gởi đất. Cái giông tố bất chợt của mưa bão gởi người. Cũng tháng tám, mùa có những giải mây trắng tan loãng bay về nẻo xa như nhắc nhở của chia li cách biệt. Ngày ông chết là cánh cửa đóng lại mảnh vườn gia đình của bà Ðiền và đưa Lan, người con gái lớn của bà, mười chín tuổi vào thế giới của gian khổ, nhọc nhằn.
Lan phải bỏ học phụ mẹ tần tảo nuôi em. Bà Ðiền không còn gì để cậy trông, nhìn sáu đứa con như một đường hầm dầy quánh bóng tối chảy vào tương lai. Trên vai trĩu xuống tình mẫu tử nặng nề, xót xa. Trong nhà đã cạn tiền bạc. Thương chồng, thương con, bà như cây sậy trơ vơ trước giông tố sắp ập xuống. Bà không thể giấu được khổ đau. Những tiếng thở dài muộn phiền, não lòng của mẹ như những mũi kim đâm vào tim Lan đau buốt.
Lan bỏ thi Tú Tài I. Ngày quyết định cất cặp sách vào cuộc đời là ngày Lan đã lặng lẽ khóc. Giã từ sân trường, xa rời thầy cô, bạn bè, bỏ lại sau lưng những mộng mơ thơm mùi hoa học trò. Những cánh phượng, những trang lưu bút vấn vương kỉ niệm trôi về vùng biệt tăm. Lan như mất đi một phần đời. Nhìn đám bạn bè vô tư với chữ nghĩa, với những tiếng cười giòn vang, Lan thấy mình già đi. Những sáng trông tà áo bay, những vành nón nghiêng bên cặp sách, Lan thấy mình thiệt thòi, xót xa. Nỗi tiếc thương của tuổi học trò vừa mất, thêm vào những vất vả của mẹ làm tuổi thời gian mới mười chín của Lan đã phải hằn lên bằng lo âu của tuổi đời, chập chùng bằng thao thức của tuổi sống. Ánh mắt Lan đọng trên bờ mi những đăm chiêu. Trong đôi mắt ấy, bay về những chân trời thoang thoáng mây tím lặng lẽ, đơn côi.
Vì ế ẩm, bà Ðiền bỏ nghề tráng bánh. Lan theo mẹ về các xóm quê mua gà đem lên chợ bán. Tuy vất vả nhưng nếu gặp may thì bà Ðiền cũng có thể cầm cự được với cuộc sống khó khăn. Nhưng không phải lúc nào cũng êm xuôi, có những ngày Lan rối bời ruột gan nhìn bầy gà ốm. Gặp những chuyến gà toi là lỗ vốn nặng. Mỗi con gà là một dòng máu của gia đình. Nhìn nó đi, nó nhẩy như chính cuộc đời của Lan. Thấy bóng gà ủ rũ mà Lan lo âu từng giây, từng phút. Nhưng lo âu cũng chẳng có phép mầu cứu vãn được tình thế. Chẳng bao lâu bà Ðiền kiệt vốn vào một mùa gà toi. Gà chết, dòng máu cạn, chết đi cả gia đình. Trống không, hai tay xơ xác. Nhà hết gạo ăn. Lan giấu mẹ những chiều ngồi một mình rưng rưng lệ. Làm sao bây giờ? Không câu trả lời. Lan chỉ biết nhìn lên trời tìm yên ủi ở một niềm tin. Nhưng niềm tin ở xa xôi quá.
Trong những ngày kiệt quệ ấy, thằng Ngân, đứa em kế của Lan được ông Sáu Vượng mượn làm thuê. Tờ mờ sáng, nó sửa soạn sang nhà ông Sáu theo xe lam của ông về miệt Vũng Tàu buôn cá khô. Ông buôn cá về phơi, xay nhỏ rồi bán cho mấy công ti làm đồ ăn cho heo. Từ ngày thằng Ngân góp tay vào giúp gia đình, bà Ðiền cũng bớt được đôi chút lo âu.
Thời gian bỗng dưng nổi sóng gió. Biến cố tháng Tư năm bẩy lăm đảo ngược tất cả mọi sinh hoạt của miền Nam. Sau biến cố, ông Sáu Vượng bị tịch thu chiếc xe lam. Thằng Ngân mất việc làm. Cuộc sống đảo lộn, rối bời trong cơn lốc xoáy. Nhiễu nhương ấy đẩy con người vào hải đảo cô lập, thủ thân. Bà con hàng xóm bỗng một ngày trở nên xa lạ. Niềm tin phai màu. Nhìn nhau bằng mặt, xa nhau lòng thành. Tình thân thành nghi ngờ. Không ai còn dám cho nhau mượn tiền bạc, lo sợ đủ điều. Chính vì vậy mà Lan đã cám ơn Chúa vô cùng, nàng coi như một ơn đặc biệt Chúa ban cho gia đình nàng. Ðó là chuyện một gia đình dám cho bà Ðiền mượn tiền mua chiếc máy may. Thấy hoàn cảnh đáng thương nên khi chủ tiệm may Tân Thái muốn bán bớt máy để tránh cảnh dòm ngó của công an phường, gia đình này đã sẵn sàng giúp vốn cho Lan mua chiếc máy để lấy kế sinh nhai.
* * *
Bà Ðiền biết mình sắp ngã nhưng không sao chống lại được. Bà biết rõ là hai chân bà đang ríu lại. Cái cảm giác đầu tiên bà thấy là người nhẹ đi, rồi những vật chung quanh bắt đầu di chuyển, ban đầu chầm chậm, rồi nhanh hơn, nhanh hơn. Bà còn biết rõ, mới đầu chúng chạy vòng vòng, rồi một lúc sau, hỗn độn, tứ tung. Trên đầu bà, mái nhà như chạy ngược về phía sau. Ðến giai đoạn đó là bà thấy muốn ói mửa, xây xẩm mặt mày muốn té ngã. Bà cố gượng hết sức nhưng không làm thế nào chống lại được, như người thủ môn chạy ra khỏi khung gỗ, thấy đối thủ sút trái banh, nhìn đường bay vào khung gỗ mà đành chịu bó tay, không sao níu kéo được. Nghe tiếng đổ nước ngoài sân, bà biết Lan đã cắt rau cho heo về. Bà lại càng lấy hết sức mình bước về phía cái phản gỗ để giấu không cho Lan biết bà đang bị chóng mặt. Bà nhủ thầm là bà không thể để cho đứa con gái biết bà yếu sức đến như thế, không thể để cho Lan thấy bà ngã ở đây được. Với ý tưởng ấy, bà cố gắng gượng thêm, nhưng bà chóng mặt rồi, không còn nhìn thấy gì nữa. Tất cả quay tít. Hai chân ríu lại. Trời đất sụp xuống. Bà có cảm giác như đang đứng trên cây thang, bỗng dưng có người rút mất khỏi chân. Lảo đảo, mặt tối sầm, bà quỵ ngã xuống nền nhà.
Nghe tiếng người ngã, Lan vội bỏ gánh rau heo đang rửa nửa chừng chạy vào. Bà Ðiền nằm sõng soài, miệng hẵn còn bọt trắng. Lan kêu thét lên chạy đến ôm mẹ. Bà Ðiền chóng mặt nhưng tâm trí vẫn tỉnh, biết Lan ở bên cạnh, bà ráng sức nói cho con gái yên tâm:
– Mẹ không sao đâu, đưa mẹ lên phản.
Mắt Lan đầm đìa lệ vì đây không phải là lần đầu bà Ðiền ngã. Và Lan biết lí do tại sao mà mẹ chóng mặt. Ðiều ấy lại càng làm Lan đau khổ vô cùng:
– Mẹ! Mẹ lại bán máu nữa rồi!
Nàng nức nở hỏi bà Ðiền:
– Mẹ, Mẹ có sao không, người ta rút bao nhiêu máu của mẹ?
Bà Ðiền nói lãng :
– Hôm nay trời đất đổi gió làm mẹ hơi nhức đầu.
Nhưng lời nói ấy chẳng làm Lan yên tâm mà chỉ làm nàng đau khổ thêm. Lan bỗng nhiên tức mình với mẹ. Lan dìu mẹ lên phản mà chỉ muốn xô cho mẹ ngã lần nữa, quá tức vì bà không chịu nghe lời mình. Lan biết bà đang dối Lan. Nàng biết mẹ mình không phải trúng gió mà vì thiếu máu. Tức mẹ, nhưng càng tức lại càng thương làm nước mắt Lan chảy thêm. Nàng khóc thút thít, bật thành tiếng nấc. Khi bà Ðiền nằm lên phản rồi, Lan vạch tay áo của mẹ lên nhìn. Ðúng như nàng đã nghĩ. Tay bà Ðiền vẫn còn vết rỉ máu. Một chấm đỏ, hơi sưng, lớn hơn đầu tăm. Vết thương của một mũi kim chích.
Ðây là lần thứ tư bà đã bán máu trong vòng khoảng hai tháng nay. Lần thứ nhất, nhờ số tiền bán máu bà đã trang trả được một phần nợ, dù số nợ chẳng lớn nhưng vì đã quá lâu, người chủ nợ hỏi hoài vì sợ bà quỵt mất. Lần bán thứ hai thì bà yếu hẳn đi nhưng bà vui vì đã trả được tiền thuốc cho thằng Ngân bị thương hàn. Lần thứ ba thì người ta phải gọi Lan lên nhà thương dìu bà về. Lúc đó Lan mới biết mẹ đã bán máu đến lần thứ ba rồi. Trong nhà chẳng còn gì để bán. Vào lúc cùng quẫn ấy, ông Ngọ mách cho bà biết là ông cũng đã bán máu tuần trước. Bà Ðiền thấy như chiếc phao đang trôi lại gần trong lúc sóng dập đang đưa gia đình bà chìm xuống. Nhưng đến lần thứ tư thì bà không còn máu để bán nữa. Một tháng trời mà bà đã bán hai lần rồi. Ăn uống không đủ, bữa cháo, bữa ngô, bữa đói thì lấy đâu ra máu mà bán. Lần cuối cùng này bà Ðiền đã xỉu ngay lúc người ta rút mũi kim chích ra khỏi tay. Họ đã phải cho bà một li nước đường để uống hầu bù vào số chất lỏng bị thiếu hụt. Nhưng sau cùng họ cũng phải quyết định trả lại số máu mới rút ra. Bà nhất định không chịu. Nghĩ đến số tiền họ đã trả trước đang nằm chặt trong túi áo đã cài kỹ bằng chiếc kim băng, bà nhất định bảo cô y tá là bà còn khỏe, bà chỉ chóng mặt một lúc là khỏi, bà chỉ cần nghỉ một lúc là có thể đi được. Nhưng cái “một lúc” của bà đã kéo dài hàng giờ. Cứ khi bà tưởng mình đi được, bà đứng dậy cố bước thì trời đất lại như lún xuống, hụt hẫng. Bà bước chân trước chân sau, dập dềnh. Sau cùng thì cả hai bên đều kì kèo, bà muốn bán, người ta muốn trả, nên giải đáp cuối là bơm lại một nửa để bà có đủ sức bước về.
Dìu mẹ lên giường xong, Lan lặng lẽ ra bờ giếng ngồi nghĩ đến hoàn cảnh nghèo của gia đình mà khóc một mình. Nàng nghĩ đến chiếc máy may, lại tức giận với chính mình hơn. Ðối với nàng, cái quyết định sai lầm lớn nhất trong đời là đã bán chiếc máy may. Từ ngày bán chiếc máy rồi, nàng thấy như một cánh cửa gỗ nặng, dầy kín đè sập xuống không còn tia hi vọng để soi sáng nữa. Lan trách mình sao mà ngu quá. Nhưng nghĩ lại thì Lan cũng lại thương mình. Ðêm trước khi bán máy, nàng đã suy tính hơn thiệt, nàng cũng đã nhìn thấy cánh cửa gỗ dầy đặc, tàn ác đó sẽ sập xuống. Nàng biết còn chiếc máy, còn có thể kiếm được tiền, bán đi sẽ mất vĩnh viễn. Nhưng làm sao cứu nổi bà Ðiền trong cơn bệnh nguy kịch. Mất máy may hay là mất mẹ. Câu hỏi sau cùng ấy đã quyết định số phận cái máy may. Lan còn nhớ rõ là Lan nói với chính mình rằng đành liều vậy, rồi sẽ xoay xở vì phải giữ mẹ. Mẹ là tất cả. Nàng ngồi bên bờ giếng nhớ lại vụ bán máy, thấy mình hành động đúng chứ không ngu dại như vừa tự trách. Nước mắt lăn dài, im lặng của một kẻ độc hành.
Cả buổi chiều đó Lan không cầm được nước mắt vì thương mẹ quá. Tối về, trên giường ngủ, Lan úp mặt vào gối khóc thổn thức một mình. Ngoài trời phủ mưa giăng. Tiếng mưa đập vào miếng giấy cứng che cửa sổ bồm bộp. Ánh đèn dầu lao chao trên bàn thờ, mở một vùng sáng nhỏ. Chân tượng Chúa gầy trên cây thập giá bụi mốc. Mưa nặng hạt, mưa lạnh quá, mưa đang rơi vào hồn. Gió đêm bay tan tác con tim, gió đem mưa về bơ vơ trống trải. Tất cả mọi lối tới tương lai đều nghẽn đường. Lan chỉ nhìn thấy bóng tối. Bóng dầy đặc như những tảng khói sền sệt làm nàng không thở được. Bóng tối có sự chết, bóng tối chập chùng những chán nản, âm u. Tư tưởng muốn chết, sợ hãi sự sống, oán trách Chúa làm Lan lạnh người. Lan vội xua đuổi như một thứ yêu tinh. Ngoài trời đêm nay đen thăm thẳm, gió ào ào xé nát những đọn chuối non. Mưa cứ từng cơn đổ về. Lan lặng lẽ khóc. Trong cơn mệt, nàng đi vào giấc ngủ không bình yên, có những cơn mộng mị khô héo. Trong cơn mơ ấy nàng thấy thánh lễ Chúa Nhật thật đông. Cha phó làm lễ rất sốt sáng. Tất cả ca đoàn đứng trên gác hát trong bộ đồng phục áo dài vàng tha thướt. Riêng nàng ngồi ở một góc tường. Cô độc. Nàng đã mất bạn bè rồi. Những dẫy ghế dành cho ca đoàn còn đó, bỗng dưng nay sao xa lạ. Nàng không còn thuộc về khung trời ấy nữa, như kẻ bị đẩy ra khỏi cuộc chơi. Ðứng đó, bơ vơ. Chỉ có chiếc áo dài, mà từ ngày bán nó, Lan trở thành mồ côi. Càng ngày Lan càng hiểu rằng chỉ có tâm hồn nhiều khi cũng chưa đủ. Trong cuộc sống, có những lằn mức mà đức tin chẳng thể xóa mờ. Chưa lúc nào tâm hồn Lan gần gũi ca đoàn như lúc này. Nhưng chỉ có tâm hồn thôi. Không có chiếc áo đồng phục, Lan chẳng thể thuộc về thế giới ấy. Trong cái lẻ loi, Lan dần dần mới thấy Chúa là người luôn luôn đi ngược dòng đời. Môn đệ Chúa chẳng có áo đồng phục. Kẻ theo Ngài chẳng có phù hiệu. Nghĩ tới đó, Lan ôm mặt:
– Chúa ơi, đấy là thế giới của Chúa. Còn cuộc sống của chúng con, khác lắm, vì nghèo đói mà cuộc sống mất phẩm giá của con người. Chúng con chẳng thể nhận ra giá trị niềm tin nếu niềm tin không được may mặc bằng gấm vóc.
Cha phó, người mà nàng vẫn đến để tâm sự, nay cũng mất luôn rồi. Nàng không dám gặp mặt cha, sợ cha hỏi tại sao lại bỏ ca đoàn, biết trả lời thế nào, chẳng lẽ lại nói cho cha biết sự thật, chiếc áo đã bán? Thức dậy nửa đêm, Lan nhớ lại cơn mơ, nàng thấy tủi thân quá, thương mình quá, Lan lại úp mặt xuống khóc trong lặng lẽ.
* * * Cha phó đứng nhìn gốc lan đã bị nhổ, ném ra xa. Cây lan mới trồng đây, mầm non đang đâm chồi, hôm nay nằm héo úa, chết dần như một người nhợt nhạt ra đi vì bị rút máu khỏi cơ thể. Ngài cho rằng con chó hoang đã đào vì nó thấy vết đất mới nên nghĩ là có gì chôn ở dưới. Chả có gì là quan trọng, sẽ trồng gốc lan khác.
Bên kia ruộng khoai, bà quản Thông hé tấm phên che cửa nhìn qua. Lòng rộn lên sung sướng vì bà bắt gặp chính lúc cha phó đứng nhìn gốc lan bị nhổ. Kết quả do chính công trình tay bà tạo nên. Thấy mình là kẻ chiến thắng, có sức mạnh làm cho cha phó phải khổ lụy. Bà hài lòng mãn nguyện. Khi thù oán, người ta mừng lúc thấy đối phương sa cơ lỡ vận. Bà quản Thông cũng không ra ngoài tâm trạng ấy, trong đầu bà vẽ ra bao nhiêu hình ảnh về cha phó. Cha phó càng tức bao nhiêu, bà càng sung sướng bấy nhiêu. Nỗi đau của cha tỉ lệ nghịch với niềm vui của bà nên để cho niềm vui ấy say sưa thêm, bà tưởng tượng ra nào là khuôn mặt cha nhăn lại tức tối vì không biết ai nhổ cây lan, nào là cha phó đang lẩm bẩm chửi thề, tức một mình mà không làm gì được. Thế mới đáng. Bà đứng đó nhìn cha phó cho đến khi cha đi khỏi mới sập phên cửa lại.
Ngày cha phó về nhận xứ, bà quản Thông là người đầu tiên biếu cha gói quà mà về sau cha phó cứ nhắc mãi vì nó là kỉ niệm, gói quà thứ nhất ngày cha về xứ mới. Sau khi khép lại phên cửa, bà quản đứng tần ngần nhớ lại cái “kỉ niệm” ấy. Bà còn nhớ rõ hộp kem đánh răng Colgate của đứa con gái ở Mĩ gửi về. Cha phó bảo kem của nhà nước toàn là bọt. Nhưng cái tình nồng nàn của bà quản dành cho cha phó giảm dần từ ngày cha mượn bà Ðiền vào giúp việc nhà xứ. Ðến hôm nay thì cảm tình ấy đã trở thành tức giận. Bà nghĩ lại mà tiếc rẻ lọ kem đánh răng đã biếu ngài. Riêng cha phó, chẳng hay biết gì, ngài vẫn thấy nụ cười của bà quản thân tình như ngày nào.
Sự có mặt của bà Ðiền trong khu nhà xứ là một cái gai trước mắt bà quản. Nhất là cái duyên dáng của cô Lan. Bà quản đã nhiều lần so sánh giữa Lan và con gái của bà, Thu Cúc. Giữa Lan và Cúc thì Lan có cái đẹp kín đáo để người ta phải tìm kiếm, khám phá. Nét đẹp ở Lan là cái duyên không ào ạt như những cơn mưa mà là những làn gió nhẹ, những cụm mây trời lãng đãng. Lan hiền. Cúc cũng đẹp, Cúc có sắc đẹp nổi bật, gợi cảm. Ðôi mắt Cúc có cái nhìn để kẻ nói chuyện phải nôn nao. Nhưng đời Cúc và Lan khác nhau nhiều. Ðời sống vất vả, nghèo khổ làm Lan có những suy tư, nhìn đời trầm lặng hơn Cúc. Cúc thì mặn mà, tươi trẻ, nhí nhảnh. Cúc đẹp nên bà quản rất hãnh diện về cô con gái, hãnh diện bao nhiêu thì lại đau bấy nhiêu nếu có ai khen người con gái khác. Ðối với bà quản thì Cúc phải trổi vượt hơn Lan, hơn bất cứ người con gái nào. Và trong thâm ý của bà quản thì Cúc phải có một “chỗ đứng” đặc biệt trong trái tim cha phó hơn bất cứ người con gái nào trong ca đoàn.
Bà quản khó chịu khi thấy cha phó nói chuyện với Lan. Mới đầu, cái khó chịu ấy chỉ là những nỗi tức suông, nhưng dần dà, nó có lí do của nó. Bà cho rằng có thể Lan là dịp cám dỗ nguy hiểm cho cha phó! Ban đầu bà không để ý đến Lan, bà chỉ khó chịu vì sự có mặt của bà Ðiền mà thôi. Chính Cúc là người hay ra vào nhà xứ nhiều hơn cả vì nhà sát ngay bên. Nhưng cơn ganh tị có những giả thuyết riêng của nó. Và nỗi ghen của bà quản đã được bọc một lớp đường thánh thiện là: Bảo vệ cho cha phó khỏi sa chước cám dỗ! Mới đầu bà quản cũng biết đấy chỉ là những ngụy biện. Bà xấu hổ vì cái ghen tức vô cớ của bà với sự có mặt của bà Ðiền. Nhưng dần dà, bà mất dần cái ý thức tự nhận ấy, nỗi ghen từ từ trở nên đích thực và chính đáng. Bà thấy tất cả việc làm của bà chỉ là làm sáng danh Chúa chứ chẳng phải là tức tối với ai. Trên con đường mòn đầy cỏ dại nghi ngờ, đố kị ấy, bà đã đi. Những bước chân ban đầu làm cắn rứt lương tâm, bàn chân đau. Nhưng trên lối mòn bất chính đó, vết chân dẵm lên nhiều lần, nay dần dà sắp thành chính lộ.
Khu nhà xứ đã là mảnh đất “bất khả xâm phạm” của bà quản từ bao lâu nay rồi. Khi cha phó mượn bà Ðiền vào làm thì bà quản thấy như mình bị hất ra. Như cái tình của cha phó dành cho bà đã bị chia sẻ. Bà thấy như mình bị giảm mất ảnh hưởng. Cái giai đoạn đầu ấy đưa bà đi xa hơn trong lối phán quyết. Bà nhìn cha phó với con mắt nghi ngờ đủ điều. Có thể vì thương cô Lan mà cha phó mượn bà Ðiền chăng? Biết đâu đấy chẳng là cái cớ cho Lan có dịp vào nhà xứ giúp mẹ để gặp cha nhiều hơn? Những câu hỏi ấy biện minh cho nỗi ghen của bà, rồi từ đó, bà quản thấy rõ là việc làm của mình cần thiết và chính trực. Thực sự đôi lúc bà cũng nhận rằng Lan không vào nhà xứ, lí do bà đưa ra không vững. Nhưng nếu không tìm được lí do thì bà cảm thấy bà tức tối chỉ vì ghen. Ðiều đó làm bà thấy mình tầm thường, nên từ tiềm thức sâu thẳm đẩy bà đi tìm mọi thứ nghi ngờ hầu biện minh cho việc làm và tình cảm bất an trong tâm hồn bà. Vì thế, lí do bà chưa bắt gặp Lan nói chuyện riêng với cha phó lại được tiềm thức bà đi đến những sáng tạo mạnh bạo hơn: Biết đâu Lan chẳng gặp lén? Nếu vậy thì bà lại càng phải để ý nhiều hơn! Những ý nghĩ ấy cho bà quản thêm xác tín về hành động của bà, trấn an lương tâm và đẩy bà bước tới.
Nghe tiếng gõ cửa, cha phó lên tiếng gọi:
– Ai đó. Xin mời vào.
Sau khi thấy cha phó đứng trầm ngâm nhìn cây lan bị nhổ, bà quản Thông muốn sang tận nơi để nhìn mặt cha phó xem phản ứng của cha thế nào về cây lan. Bà nở một nụ cười thật tươi trước khi bước vào phòng:
– Bẩm cha! con đây ạ!
Cha phó vui mừng:
– Ấy! bà quản đấy à, tôi đang định qua tìm bà thì bà tới! Tôi có việc phải nhờ bà đây. Thật đúng bà quản là người được thiên thần Chúa sai đi!
Bà quản Thông, trong giọng nói rất đon đả, trả lời lại câu nói dỡn của cha phó:
– Con có là quỷ thì có chứ thiên thần thiên thánh gì!
– Chết! Sao bà quản lại nói thế.
Thấy bà quản vui, rất tự nhiên, cha phó cũng vui lây, ngài nói dăm ba câu pha trò. Hai người cùng cười. Bà quản Thông hỏi cha:
– Bẩm cha, cha tìm con có việc chi?
Cha phó không trả lời nhưng lại hỏi bà quản:
– Bà quản này, con Cúc nó có nhà không?
– Bẩm cha, cháu ở trên hợp tác xã chiều mới về, cha có điều chi dạy cháu?
– Tôi có việc khá cần. Sắp đến dịp lễ quan thầy xứ, tôi muốn nhờ nó may cho tấm khăn trải bàn thờ. Mới có người dâng nhà thờ ít vải đẹp lắm. Cũng vải lụa từ Mĩ gởi về đấy bà quản ạ.
Nói đến từ Mĩ gởi về, bà quản lại nhớ đến lọ kem đánh răng Colgate đã “lỡ” biếu cha phó làm bà thêm bực mình. Bà quản Thông đã biết hoàn cảnh của bà Ðiền từ lâu. Bà biết Lan đã bán máy may nhưng đây là lúc được dịp để bà nói dăm ba câu xiên xỏ mà bà ít thấy có cơ hội:
– Gớm! Cha dạy cháu quá điều. Con Cúc nhà con nó vụng tay lắm cha ạ! Sao cha không nhờ cô Lan có hơn không, cô ấy vừa khéo tay lại vừa…đạo đức!
Việc nhờ vả của cha phó chẳng ăn nhằm gì đến vấn đề đạo đức nhưng khi chợt nhớ ra hai tiếng “đạo đức” ấy, bà lấy làm thú vị là đã khen Lan đạo đức một cách mỉa mai trước mặt cha phó. Cha Phó quay sang nhìn bà quản, vô tư:
– Con Lan nó bán máy may rồi bà quản ạ.
Bà quản Thông làm ra vẻ ngạc nhiên:
– Gớm! Bán máy may rồi hả cha?
Cha phó vô tình kể lể:
– Ừ, nó bán máy rồi. Tội nghiệp cho con nhỏ, nó bán máy hồi bà Ðiền bị bệnh nặng. Con Lan đảm đang quá, vất vả lo cho mẹ, lo cho em vậy mà Hội Con Ðức Mẹ có điều gì nhờ vả là nó làm ngay chẳng nề hà.
Bà quản nghe những lời khen mà như lửa đốt trong tim. Bà hầm hầm nhìn cha phó bỉu môi. Cha phó chẳng hay biết gì.
Ra khỏi phòng cha phó, bà quản tới cuối hành lang tìm gói đồ. Bà đã cẩn thận để thật xa, chỉ sợ cha phó nhìn thấy. Bà xách chiếc túi giấy đi về phía phòng cha xứ.
– Bẩm cha, cha có nhà không ạ?
Nghe tiếng gọi, cha xứ biết ngay là ai:
– Bà quản đấy hả, mời bà vào.
Bà quản Thông sẽ sàng mở cánh cửa đang khép hững hờ bước vào với gói quà:
– Bẩm cha, con có chút quà mọn biếu cha!
– Bà quản nói thế chứ quà mọn của bà cũng bằng…
Nói đến đây cha xứ không biết so sánh thế nào, ngài vội lấp:
– Thế bà quản có gì đấy?
– Bẩm cha, chẳng nói giấu gì cha, nhà con mới đi Vũng Tầu về, có ít nhãn gọi là chút quà…
– Ồ! Nhãn Vũng Tầu thì nổi tiếng ngọt!
Vừa nói cha xứ vừa kéo ra một chùm nhãn. Ngài trầm trồ khen:
– Nhãn lớn quá! Chưa bóc vỏ đã thấy mùi thơm!
Bà quản lấy làm sung sướng:
– Vâng, nhãn lồng đấy cha ạ. Nhiều cùi mà hột thì nhỏ chứ không như thứ nhãn miệt Phước Thành. Con biết cha thích nhãn nên đã dặn nhà con là thế nào cũng phải nhớ mua cho cha vài kí.
Bà cố ý nhấn mạnh chữ “cha” chứ không nói “hai cha” vì bà muốn loại cha phó ra khỏi tình cảm lúc ban đầu mà bà đã hối hận vì biếu cha lọ kem Colgate. Cha xứ đặt gói nhãn xuống bàn, ra chiều cảm động vì sự săn sóc của bà quản. Trời hâm hấp nóng. Cha xứ vừa với chiếc quạt giấy vừa hỏi bà quản:
– Thế ông nhà mới đi Vũng Tầu về đấy à, đi vì chuyện làm ăn hay là chuyện gì?
– Thế à! Vậy ông bà tính đến bao giờ thì cho tôi ăn cỗ đây.
– Gớm! Cha nói vậy chứ cũng chưa biết thế nào.
– Con Cúc vừa đẹp lại vừa nhanh nhẹn, chắc là ông bà kén rể lắm nhỉ.
Bà quản Thông sung sướng đến xúc động khi nghe cha xứ khen Cúc đẹp. Bà làm ra vẻ bẽn lẽn:
– Gớm! Cha nói quá điều, con Cúc nhà con nó ra cái gì đâu!
Bà quản luôn có cái tật hay mở đầu bằng câu “gớm”. Nào là “gớm” con Cúc nhà con nó vụng tay lắm. “Gớm” cha khen quá điều. Ðề cập đến chuyện cưới gả cho Cúc, bà quản thấy đây là dịp thuận tiện cho bà “đánh” cha phó một đòn mà bà đã thầm nghĩ nhiều lần là chỉ khi nào có bàn tay của cha xứ, bà mới thành công. Bà mở đầu câu chuyện như đã chuẩn bị kĩ lưỡng:
– Gớm! có con gái lớn cũng khổ cha ạ. Con cứ lo ngay ngáy. Thôi thì được người ta thương thì gả cho xong. Chứ như cô Lan bây giờ thì…cũng khó… mà có khi …mất linh hồn cũng không biết chừng! Có người nói là có bầu! Có người nói là phá rồi!
Cha xứ chưng hửng, ngạc nhiên. Cô Lan nào? Lan con bà Ðiền đang giúp việc nhà xứ ấy à? Lời phán quyết của bà quản như trái bom. Câu chuyện hấp dẫn. Ngài nóng lòng hỏi bà:
– Cô Lan nào?
– Thì cô Lan con bà Ðiền ấy, cha không nghe gì hết à?
Nhíu mày suy nghĩ, ngài không hề biết, cũng chẳng nghe gì về câu chuyện. Càng ngạc nhiên, Cha xứ hối bà quản:
– Vậy à, chuyện như thế nào bà kể cho tôi nghe.
Bà quản mừng thầm vì thấy cha xứ như con cá đang mắc phải lưỡi câu. Bằng kiểu nói khôn ngoan, bà rào đón trước sau:
– Bẩm cha con cũng không biết rõ. Nói ra chỉ sợ mang tội xét đoán oan cho người ta. Con chỉ nghe thấy tiếng đồn thôi. Con cũng định nói với cha nhưng ngại quá. Vì câu chuyện không đơn giản như những câu chuyện khác, những đứa con gái khác. Nhưng không nói thì con thấy lương tâm không bình an, cứ cắn rứt, như là Chúa bảo phải nói cho cha hay…
Bà quản im lặng một chút như ngần ngại, cha xứ càng thấy câu chuyện trở nên quan trọng. Bà làm ra vẻ điều bà sắp nói đây là điều rất khó nói, chậm rãi bà quản kể tiếp:
– Bẩm cha, lâu nay, từ ngày bà Ðiền được cha phó mượn làm thì cô Lan cũng lấy cớ vào phụ mẹ mà ra vào phòng cha phó luôn. Con nghe mấy đứa Hội Con Ðức Mẹ xì xèo… Giáo dân cũng nói ra nói vào. Chuyện cha phó và cô Lan. Rõ khổ! Mấy bà bên Hội Dòng Ba cũng nói lắm. Mấy bà cứ xúi con vào trình cho cha hay. Con bảo là con không dám đâu. Nhưng mấy bà hối quá là hối, bảo rằng dù sao thì con cũng là bà quản, cũng là người chức sắc trong xứ chứ họ thì lấy quyền gì mà trình bày cho Cha. Nên hôm nay con phải lấy hết can đảm nói cho cha hay. Nếu có điều gì không nên, không phải thì xin cha dạy, con chỉ vì lòng thành mà thưa cha thôi.
* * * Chiều hôm đó cha xứ dò hỏi và bực tức vì biết cha phó đã trả cho bà Ðiền số lương khá hậu hĩnh. Bà quản Thông cặm cụi viết thơ. Bà chỉ viết khi nào tất cả nhà đã đi vắng. Bà thấy công việc tấn công cha phó bắt đầu hiệu nghiệm từ khi có bàn tay cha xứ nhúng vào. Nhất là bà trở nên như một nhân vật quan trọng trước mặt cha xứ. Bà thấy rõ, cha xứ niềm nở hơn, tin tưởng bà hơn nữa. Cầm lá thư đang viết gởi cho cha phó, bà đọc lại:
Kính thưa cha,
Con không biết làm sao để nói cho cha, nên đành mượn trang giấy này tâm sự với cha vậy. Bẩm cha, ruột gan con rối như tơ vò khi nghi người ta xì xào về chuyện giữa cha và cô Lan. Người ta bảo vì cô Lan mà cha mượn bà Ðiền vào làm trong nhà xứ để cho cô Lan có dịp gặp gỡ cha…Con nghe thấy người ta đồn thổi quá, nào là cô Lan kì này rất xanh xao… nào là cô Lan gầy rạc hẳn đi…có người con nói là cô phá thai…
Ðọc đến đó, bà quản cảm thấy mắt như hoa lên, mặt nóng bừng. Lời thơ táo bạo quá, nó ác độc đến tận cùng rồi. Bà thấy áy náy, nhưng bà cất bỏ lá thư vào ngăn tủ rồi lấy lá thư khác, lá thư viết cho Lan. Với tay lấy chiếc nón lá, bà cầm lá thư đi về phía nhà bà Ðiền.
Bà quản Thông đứng chờ ở bên bụi chuối cho đến khi chính mắt bà nhìn thấy Lan lấy lá thư cài ở khe cửa thì bà mới yên trí về.
Buổi chiều hôm ấy Lan như người mất hồn. Nàng không còn sức nào rửa gánh rau heo mới vớt về. Bùn lấm đầy tóc nàng cũng chẳng gội. Tất cả trước mặt nàng là tan tác. Trái tim nàng là một nghĩa trang với những ngôi mộ lạnh lùng. Bạc phếch. Khổ hạnh. Âm u. Nàng không khóc được khi xem xong lá thư. Ngồi ở thành giếng nhìn lên trời. Hết rồi. Tất cả là cạn máu, là đêm đen.
Lan đứng trước gương soi, nhìn hai gò mó. Lặng lẽ nói với chính mình. Ừ, Lan ơi, mày xanh xao quá mà! Mày gầy quá mà! Mày không phá thai sao mày xơ xác thế! Nói đến đây Lan mới bật khóc được. Nàng ôm mặt héo rũ cơn đau, ra vườn cải đứng thẫn thờ. Ngồi bên bờ đất lặng lẽ nàng lại không khóc tiếp được. Cả buổi chiều nàng thơ thẩn vì lá thư ngoài tầm hiểu biết của kẻ vô danh gởi cho nàng. Những tin đau quá đột ngột, quá nặng nề thường làm người ta chai lì không phản ứng kịp. Lan cũng thế, phải mãi đến nửa đêm mới đủ thời gian cho lá thư ấy thấm vào hồn, mới đủ thời gian cho lòng bình tĩnh để nhìn cơn đau, bấy giờ nàng mới khóc. Nước mắt như một nguồn cơn không thể dứt. Nghĩ đến cha phó, người mà nàng thương mến, nghĩ đến chính mình, nàng không thể hiểu được vì sao những kẻ vô tội lại phải chịu những hình phạt nặng nề đến thế. Nàng lo âu về lá thư, nếu tin đồn tung ra, người ta sẽ nhòm ngó, theo dõi, nàng sẽ cô đơn cùng cực, sẽ chẳng bao giờ dám gặp cha phó. Lan tưởng tượng thấy mình bị cô lập trong một vỏ ốc tối đen, chật hẹp đến ngạt thở. Trong đêm dài tịch mịch, Lan khóc tủi thân một mình:
– Chúa ơi, Con có làm gì nên tội tình đâu mà Chúa để con khổ thế. Ba con chết sớm. Cả đời ba con phải vất vả làm ăn, dành dụm được ít tiền thì bị lừa gạt, để rồi em con tử thương không lấy được xác chôn. Nhà con chẳng còn gạo ăn để mẹ con phải bán máu nuôi lũ con. Chúa ơi, Chúa có biết những chuyện ấy không? Dầu sao thì ngày xưa Ðức Mẹ cũng chẳng phải khổ như mẹ con, Chúa cũng chẳng phải từng đêm thao thức lo âu vì không có cơm cho ngày hôm sau…
Kể lể tới đó. Lan không nói được nữa. Nàng ôm chặt chiếc gối úp lên mặt nén tiếng khóc. Căn nhà vắng vẻ đìu hiu. Thỉnh thoảng nàng nghe tiếng thở khò khè của bà Ðiền vì bị suyễn. Bóng tối dầy đặc. Ánh đèn dầu leo lét trên bàn như một ngọn đèn nhang thắp canh người chết. Vắng lặng quá. Lan khóc thút thít.
Chúa có nghe lời con cầu nguyện không? Con có làm gì nên tội đâu sao đời con khổ quá vậy hả Chúa?
Những giọt nước mắt tròn trên mi vỡ dàn dụa. Chúa nói với nàng:
– Cha đâu có làm con khổ. Chính Cha cũng khổ mà con. Nhìn con đau đớn, nhìn gia đình con trằn trọc lo từng miếng ăn lòng Cha cũng tan nát. Con đã chẳng nhớ rằng Cha đã dựng nên tất cả giàu sang của vũ trụ chỉ vì loài người thôi hay sao? Cha cũng khổ tâm lắm. Nỗi đau của con là của Cha.
Lan lại khóc nhiều hơn. Lời nói của Chúa tội nghiệp quá. Nàng giận Chúa, muốn trách Chúa. Nhưng Chúa đã chẳng trách, lại còn thương, còn nhân từ, an ủi. Lan thấy Chúa cũng tội nghiệp, cũng một mình chịu cô đơn, sầu muộn. Ðời Chúa cũng hiu hắt lắm, có mấy ai hiểu. Lan thầy mình nhẫn tâm đã oán trách Chúa, chẳng chịu hiểu cho Ngài. Những ý nghĩ ấy, làm nước mắt càng chảy thêm, không ngăn được. Nàng mếu máo hỏi Chúa:
– Nhưng Cha có quyền năng sao Cha không can thiệp!
Nàng chỉ nghe thấy tiếng im lặng vì nghĩ rằng Chúa cũng thua cuộc nên mới bị đóng đinh trên thập giá. Ðau khổ quá, Lan không còn tâm trí nào để nghĩ thêm về tình thương hay những mầu nhiệm trong cuộc đời mà Chúa chưa dọi sáng cho người ta hiểu. Nhớ đến cha phó, đến người đã hỗ trợ tinh thần cho nàng, đã cho nàng bao nhiêu lời khuyên khi nàng thấy cuộc đời là bóng tối tư bề. Nàng đau đớn nghĩ rằng bây giờ nàng đã mất cha rồi. Trong dòng nước mắt Lan gọi thầm:
– Giờ này chắc cha đang ngủ yên. Cha có biết con đang gục khóc đêm nay không? Trong những giờ nguyện của cha, cha có van Chúa cho con xin một lời kinh?
Ðêm vẫn mênh mông. Trên bàn thờ gỗ của gia đình bà Ðiền có cây thập giá, Chúa của cây thập giá ấy cũng bị đóng đinh như thập giá của hai nghìn năm trước đây trên đồi máu.
Câu chuyện cô Lan phá thai vì cha phó làm xôn xao ca đoàn. Chỉ sau buổi chiều ca đoàn khám phá ra thì tin loan đi khắp xứ. Lá thư bà quản Thông cố ý viết cho cha phó nhưng ngài chẳng bao giờ đọc được. Bà đã cẩn thận để ở ghế của cha vẫn quỳ đọc sách nguyện. Bà đã tính toán kĩ và nhủ thầm rằng thế nào cha phó cũng nhận được cánh thư. Bà muốn cha phó đọc lá thư nặc danh ấy như một lưỡi dao cho tâm hồn ngài rối bời để cha hết dám mượn bà Ðiền làm việc trong khu nhà xứ. Ðối với bà, đây là một cách gây đau khổ, mà gây được khổ đau thì bà mới cảm thấy mình có quyền lực trong tay. Nhưng Bà đã quên một điều quan trọng là hôm ấy Hội Con Ðức Mẹ quét dọn nhà thờ, trước giờ cha vẫn ra nhà thờ nguyện kinh. Lá thư dán kín chỉ gợi thêm tò mò của những cô gái đang tuổi thắc mắc. Những cô gái luôn luôn nhìn vào cha phó với con tim chinh phục và con mắt theo dõi.
Cha xứ vào bàn ăn bực bội. Cha phó vẫn vô tư như mọi ngày, ngồi vào bàn ăn vui vẻ không hề để ý đến nét mặt cha xứ hằm hằm. Vì lịch sự. Ngài cũng trả lời khi cha phó hỏi chuyện nhưng trong lòng thì hậm hực. Ðối với ngài, khuôn mặt cha phó hôm nay thật là trá hình. Bữa cơm gần xong, cha xứ quyết định:
– Cha phó này, tôi thấy không cần người làm. Tôi xin cha cho bà Ðiền nghỉ việc. Tôi thấy cha trả cho bà số tiền hơi vô lí!
Nhìn mặt cha xứ nghiêm trang với giọng nói cứng rắn, cha phó biết có chuyện chẳng lành. Ngài phân trần:
– Thưa cha vâng, cha nói đúng. Riêng mình con cũng có thể làm tất cả công việc được, chẳng cần người làm. Con mượn bà Ðiền chỉ vì muốn giúp gia đình bà mà thôi, vì thế mà con trả lương hơi cao. Nhưng đó là tiền của con chứ con đâu lấy tiền nhà xứ. Gia đình bà túng thiếu quá. Không đủ gạo nấu cháo. Bà đã lên nhà thương quận bán máu bốn lần trong vòng hai tháng. Con cũng giúp gia đình ông Ất một số tiền cách đây vài tháng, nhờ thế mà gia đình ông đã qua được một cái tang lớn. Ông biết ơn con quá, cứ mỗi khi gặp con là khúm núm, nói dăm ba câu là nước mắt lại chảy. Vì thế, khi nghĩ đến việc giúp bà Ðiền con không muốn cho bà Ðiền tiền sợ rằng bà cũng sẽ mang ơn. Khi người ta chẳng còn chạy đến với ai được mà có người giúp thì ơn nào mà chả nặng. Con không muốn bà nghĩ đến việc phải mang ơn quá như ông Ất. Vả lại nếu cho bà tiền mà người khác biết được thì có khi câu chuyện lại phức tạp lắm. Vậy cha có giải pháp nào tốt hơn không xin cha chỉ cho con.
Nghe xong cha xứ bối rối. Câu trả lời của cha phó ngoài dự đoán của ngài. Giọng ngài lại nhỏ nhẹ, kính nể, phục tùng quyền bính của ngài. Không còn lí do cho một tức giận. Nhưng chuyện cô Lan phá thai thì sao? Trên nét mặt cha phó, ngài thấy dường như có thánh thiện mà cũng như đang lừa gạt ngài. Ðể đánh tan cái bối rối hầu che kín những ý nghĩ khó giải đáp về cha phó, cha xứ hỏi bâng quơ:
– Còn con Lan làm sao nó lại bỏ ca đoàn?
– Thưa cha con cũng không biết rõ. Nhưng con để ý thì không thấy nó mặc áo dài đi lễ nữa, cả lễ Chúa Nhật. Vì thế con nghĩ nó đã bán áo dài rồi. Bà Ðiền đã phải bán máu thì còn gì nữa mà không bán. Mà ca đoàn thì có đồng phục áo dài vàng. Nếu nó không có áo thì làm sao mà ở trong ca đoàn được. Chứ con Lan từ trước đến giờ nó có nề hà việc gì của nhà xứ đâu.
* * *
Mặt trời đang lên. Sương đang vén dần, tan loãng, đưa một buổi sáng mát tươi vào đời. Cha xứ cầm cuốn sách dầy toàn là những lời nguyện thánh. Ngài nhớ tới câu chuyện trong bữa cơm chiều hôm qua mà áy náy. Chính ngài là người phải giúp bà Ðiền mới đúng. Còn ông Ất nào? Ngài không hề biết gì về tình trạng gia đình ông. Nhìn cuốn sách nguyện, cha xứ thấy mình là chủ chăn mà chẳng biết rõ chiên của mình, chẳng biết con nào đau, con nào cần săn sóc. Ðể cho cha phó mới ra trường chưa được hai năm làm việc ấy, ngài thấy hổ thẹn với lương tâm. Nhưng chuyện thực hư thế nào? Còn vụ con Lan, sao học được chữ ngờ? Ngài lưỡng lự. Cuốn sách nguyện trên tay mà ngài không dám đọc một cách bình thản như mọi ngày.
Bà quản Thông lại hé cánh cửa nhìn sang nhà xứ. Thấy cha phó cúi nhặt cành lan đã bị bẻ gẫy, lòng bà rộn lên niềm vui thỏa mãn. Bà đứng núp sau tấm phên, theo dõi. Hôm nay thì bà xác tín rằng không phải vì ghen tương gì cả mà chỉ vì Chúa mà bà phải nhổ gốc lan. Bà tin chắc cha phó thương cô con gái bà Ðiền nên mới trồng cây mộc lan. Tại sao không trồng thứ hoa khác mà lại phải là hoa lan? Nếu không thương con Lan thì trồng lan làm gì? Trồng đấy để mà nhớ nó à? Những xét đoán ấy làm bà vững chí để nhất định bẻ cây lan cho tới cùng.
Cha phó không còn nghi ngờ gì nữa, không phải là con chó khoang bới, nhưng là dấu người bẻ và nhổ hẳn hoi. Sau trận mưa đêm qua, cát mướt mịn, cha thấy vết chân đi từ phía bờ rào, băng qua dẫy khoai lang đến gốc lan. Rõ ràng là vết chân người lớn. Cha phó mới trồng lại cây lan chưa được hai tuần. Ngài chau mày nhìn cây lan bị nhổ rễ, dập gẫy mấy khúc. Ai đã bẻ cây lan? Vì sao họ lại làm như vậy?
Ngài chưa hay gì những lời đồn thổi trong xứ về chuyện giữa ngài và cô Lan. Mấy cô trong ca đoàn khi thấy cha phó thì bấu tay nhau ra dấu hiệu ngầm, cha vẫn nhìn như những nụ cười thân thiện, trong sáng, lòng cha cũng nở niềm vui. Sự vắng mặt của Lan trong ca đoàn càng làm cho xét đoán của các cô là đúng. Các cô càng xác tín với lời trong lá thư đã khám phá ra. Nhiều cô tò mò muốn đi qua nhà Lan để xem mặt Lan xanh như thế nào, gầy rạc làm sao. Chẳng còn kính nể nữa, họ nhìn cha phó bằng nửa con mắt. Mới có mấy ngày mà dân xứ xôn xao về tin cô Lan phá thai với cha phó. Một cơn bão tố sắp ập xuống để chào đón những năm đầu đời của một linh mục trẻ. Cha phó chưa hay biết gì, nghe tiếng chim hót trên cành, ngài se sẽ ngó, tìm cánh chim, trên tay vẫn cầm khúc cây hoa lan bị bẻ gẫy. Trên ngọn đu đủ có con chim nhỏ đứng một mình, đang nhìn trời, hót líu lo. Giọng hót trong như suối mát, tiếng chim cao vút làm cha phó thấy tâm hồn bát ngát, thênh thang.
Trời lồng lộng, xanh ngắt. Từ sâu thẳm trong cõi lòng, dào dạt thiên ân như những nụ hoa dưới mưa xuân, êm đềm. Cha phó nhìn trời cao, tâm hồn lâng lâng trong buổi sáng ngập nắng ban mai. Con chim lại cất tiếng hót, chỉ có một mình, nhưng giọng nó trong vắt như những giọt sương, say sưa gởi vào bầu trời bài ca buổi sáng. Cha phó cũng huýt sáo nho nhỏ, vui với cánh chim một bài ca mà ca đoàn đã hát cho ngài trong ngày lãnh chức linh mục.
Từ ngàn xưa Cha đã yêu con Cha gọi con giữa muôn người.
Lời cuối * Có kẻ cho rằng chuyện không có kết. Chuyện chấm dứt như là bâng quơ! Nếu hiểu bâng quơ nghĩa là không xác định, thì đi tìm một cái kết xác định là lại phải thắc mắc: Tựa đề truyện là CÂY HOA LAN, nhưng ai là nhân vật chính? Cây hoa Lan? Người trồng Lan? Hay kẻ bẻ gẫy cây Lan?
Trong một sáng mai hồng, con chim cứ hót một mình. Nó không biết giông tố đang xẩy đến. Ðó là lời hót khờ dại hay tiếng hót rất trong mà không phải trái tim nào cũng có?
Ðường là để đi. Ðường là để đi nghĩa là đường sẽ dẫn đến nơi nào đó. Bản tính của đường là để đi, nên đường không bao giờ là nơi cư trú, mà là để dẫn đến nơi cư trú. Như vậy, kẻ dùng đường làm nơi cư trú thì chẳng bao giờ đến nơi cư trú của mình. Tôi phải xác định với lòng tôi: cuộc sống hôm nay là đường đến một quê hương khác? Nếu cuộc sống hôm nay không phải là cùng đích, mà tôi lại chọn làm nơi cư trú, tức là tôi chẳng lên đường để đến nơi tôi phải đến. Lối đi hôm nay của tôi có là đáp trả tiếng gọi của Chúa? Nếu không, mà tôi chẳng lên đường theo tiếng gọi là tôi đang làm ngơ, đang cố quên đường về.
Phải rẽ lối khai quang mới thành đường đi. Sở dĩ có người rẽ lối khai quang để làm đường đi vì họ muốn đến một nơi nào đó. Nghĩa là họ muốn tìm kiếm. Như thế, trước hết, trái tim họ phải là nơi ôm ấp những ước mơ kiếm tìm. Cõi lòng họ phải là nơi ôm ấp những ước mơ kiếm tìm. Cõi lòng họ phải mở rộng cho một chân trời bước tới. Sẽ không có đường đối với kẻ không muốn tìm kiếm. Và ước mơ lên đường mà không lên đường thì cũng không thành đường đi.
– Có ai không cần tìm kiếm vì đã dư thừa?
– Có ai không cần lên đường vì đã gặp gỡ?
Ước mơ hạnh phúc là dấu hiệu hạnh phúc đang vắng mặt. Nguyện cầu cho hết phân ly là nói một cách khác họ đang khao khát được xum họp. Khổ tâm khi thấy người thương mến của mình gặp bất hạnh nghĩa là kẻ đó đang thiếu thốn, và mình cũng chẳng đủ quyền năng cho họ hạnh phúc. Khi tôi lo âu là lúc tôi có vấn đề. Ai trong cuộc sống mà lại chẳng có lúc âu lo? Tất cả đấy là những dấu hiệu giới hạn của con người, những thiếu thốn mà con người đang đi tìm.
Và như thế, ai cũng cần phải lên đường, ai cũng phải tiếp tục tìm kiếm. Ðời là cõi rộng mênh mông. Sống là đi. Mục đích là gặp điều tôi mong mỏi.
Nhưng đi về chốn nào? Trong cõi rộng mênh mông ấy, đâu là đường?
Chắc chắn không thể là tôi. Vì tôi có thể ban tặng cho mình được những gì tôi thiếu thốn thì tôi đã chẳng còn bao giờ ước mơ nữa. Nếu tôi không thể đến một nơi nào đó để lấy được những gì tôi mong mỏi, như vậy, cũng có nghĩa là tôi không thể tự làm đường đi cho mình được. Chắc chắn cũng không thể là người chung quanh tôi vì họ cũng thiếu thốn như tôi.
Vậy, ai có thể giúp tôi đạt được những điều thiếu thốn đó?
“Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống” (Yn 14,6). Ðường của cuộc đời tôi đi là Chúa. Những gì tôi thiếu thốn và lo âu đều liên quan đến hạnh phúc của tôi. Khi Chúa nói Chúa là sự sống, có nghĩa Chúa là hạnh phúc tôi đang túng thiếu. Khi Chúa nói Chúa là đường, có nghĩa là để dẫn tôi tới hạnh phúc đó.
Kinh nghiệm cho thấy hạnh phúc có thể thỏa mãn những thao thức sâu kín nhất trong tâm hồn tôi không hệ tại sự giàu có, người yêu, những gì trong phạm vi trần thế. Nếu vậy thì phương cách để đạt được hạnh phúc có thể thỏa mãn tâm hồn tôi cũng không thể đến được từ trần gian. Hạnh phúc ấy thuộc về phạm vi siêu nhiên, vượt tầm sáng tạo của nhân loại. Cho nên, con đường dẫn tới hạnh phúc đó cũng phải là siêu nhiên, không thể là sản phẩm của con người. Trong ý nghĩa này, Chúa là cùng đích và cũng là phương tiện dẫn tới cùng đích. Chúa là hạnh phúc và cũng là đường dẫn tới hạnh phúc.
***
Lạy Cha, Cha đã tỏ cho con biết Cha là đường của con. Ðường đã có rồi. Sự thật và sự sống đã có rồi. Nhưng con cần Cha dọn cỏ, mở lối cho con. Cỏ tối tăm và cỏ nguội lạnh là những giây leo rừng chằng chịt che kín lối. Và con đã không thấy đường. Cha là sự thật, nên không có loại cỏ tối tăm nào có thể che kín. Cha là sự sống nên không loại gai nào có thể làm nghẽn lối. Giây gai làm nghẽn lối, cỏ dại che kín đường không mọc ở đường đi, nhưng mọc trong chính trái tim con. “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy” (Mc 10,51). Cha đã mở mắt và người mù đã thấy đường đi. Một lần nữa, hành động của người mù cũng lại khởi đầu bằng ước mơ: ước mơ được sáng mắt. Ðiều ấy cũng hàm nghĩa là anh ta luôn luôn muốn tìm kiếm ánh sáng. Nếu anh ta không muốn lên đường. Nếu anh ta chọn thế giới mù làm quê hương. Nếu anh ta cư trú trong thế giới bóng đêm ấy và chẳng muốn bước tới nữa thì chắc chắn anh sẽ chẳng bao giờ thấy mặt trời. Ðời anh sẽ tẻ nhạt biết bao. Ðời con cũng vậy. Con phải lên đường. Ngày nào con cũng có lầm lỗi. Ngày nào cũng có bóng đen của ghen tương, bóng đen của thèm muốn bất chính, bóng đen của lo âu thiếu tin tưởng. Ngày nào con cũng có mù lòa. Vì thế, con cần Cha mở mắt cho con hàng ngày. Và, con phải lên đường mỗi sớm mai.
****
Mơ ước lên đường thì bao giờ cũng đẹp. Nhưng để thực hiện lên đường lại không dễ. Những hạnh phúc đẹp chỉ dành cho những tâm hồn dám lên đường tìm kiếm. Muốn nhìn vũ trụ mênh mông phải giã từ mặt đất, cất cánh theo chim trời. Nếu con sâu cứ lặng lẽ sống dưới măt đất với loài trùng, thì nó chẳng có lý do để oán trách sao cuộc đời chung quanh chỉ là mùi ẩm của đất, mùi mốc của cỏ. Nó phải hóa thân thành cánh bướm. Và, lúc đó người ta sẽ ngước mắt nhìn theo. Tất cả vũ trụ là của nó. “Trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi từ khi mới là thai nhi trong lòng mẹ” (Tv 51,7). Ðó là hình ảnh tôi sinh ra trong thân phận sâu. Sinh ra trong thân phận sâu, nhưng lại không để làm sâu, mà được kêu gọi hóa thân làm bướm. “Ta đã chọn các ngươi từ giữa thế gian” (Yn 15,19; 17,16).
****
Lên đường nào cũng có giã từ, vì thế mới có ngần ngại. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Những rung cảm bất chính đã ở trong dòng máu của tôi. Bây giờ tôi phải từ bỏ. Những liên hệ không ngay lành, nhưng cho tôi thú vui trần thế. Bây giờ tôi phải cắt đứt. Lười biếng là một thứ quyến dũ như bếp lửa trong chiều đông, nó giữ chân tôi lại. Bởi, lên đường là mở cửa đi ra, ngoài kia có gió lạnh làm tôi ngại ngùng. Muốn được người ngưỡng mộ, tôi tạo ra khuôn mặt đẹp mà tâm hồn tôi không có. Bây giờ, lên đường, nghĩa là tôi phải sống thật với tôi. Trở về chấp nhận khuôn mặt nghèo nàn của mình là điều tôi không muốn. Ðể người biết khuôn mặt thật của mình là điều tôi không dám. Bước tới để thay đổi tâm hồn là một giá tôi phải trả. Là một lên đường đòi nhiều can đảm.
Những biến cố thay đổi cuộc sống của một tâm hồn trong Phúc Âm đều là những biến cố lên đường. Chúa đã dùng những hình ảnh lên đường cụ thể, lên đường bằng đôi chân bước trên cát bụi để diễn tả cuộc lên đường nội tâm. “Ði dọc theo bờ biển Galilêa, Ngài thấy Simon và Anrê dang quăng chài dưới biển. Ðức Yêsu nói với họ: Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi là ngư phủ bắt người. Tức khắc, họ đã bỏ chài lưới mà theo Ngài. Ði xa một ít, Ngài thấy Yacôbê và Yoan em ông, cả hai đang vá lưới dưới đò. Ngài gọi họ. Và họ đã bỏ cha họ và những người làm công mà theo Ngài” (Mc 1,16-20). Phúc Âm thuật lại, sau khi theo Chúa rồi, nhiều lần Phêrô vẫn còn thả lưới. Như vậy, đáng lẽ Chúa phải bảo Phêrô mang lươí theo kẻo mai mốt lại tốn tiền mua lưới khác. Nhiều lần Chúa phải dùng thuyền mà đi. Sao Chúa không dặn Phêrô giữ lấy thuyền vì mai mốt cả Thầy trò vẫn còn cần tới.
Họ đã bỏ lại tất cả.
Họ đã bỏ lại tất cả, phải chăng lưới mà Yacôbê đang vá lưới của những toan tính thiếu niềm tin vào Chúa, là mạng nhện đam mê gắn liền với tâm hồn tôi như áo tôi mặc. Tôi chẳng muốn bỏ. Mỗi mũi kim vá là một lần tôi níu kéo, bám theo. Phải chăng thuyền của Phêrô là những nét xấu như một thứ quê hương tôi đang sống ở trong. Tôi đang an phận với quê hương ấy?
Lạy Cha, Simon và Anrê, Yacôbê và Yoan đã lên đường. Khi nghe Cha gọi, họ đã tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường. Không lưỡng lự. Dứt khoát. Hình ảnh của những cuộc lên đường đẹp quá. Lên đường của những kẻ muốn tung cánh trong tự do bát ngát như thập giá không chịu khuất phục sự chết. Lên đường của những bàn chân không biết mỏi khắp cánh đồng Galilêa. Lên đường không phân vân như mặt trời bình thản đẩy bóng tối lại đàng sau.
***
Lạy Cha, nếu không lên đường, chắc hẳn Phêrô chẳng gặp Cha, đã không được Cha huấn luyện và tâm hồn Phêrô đã nghèo nàn lắm. Trong cuộc sống của con, Cha đã gọi. Con cũng đã lên đường, nhưng con không can đảm như Anrê, như Yacôbê. Lưới đời của con dầy mắt, những mắt lưới mà con nghĩ là sẽ bắt được nhiều cá: cá bằng cấp, cá danh vọng, cá sắc đẹp, cá giàu có, cá tình yêu. Mỗi lần bắt hụt vì lưới bị rách là con lại cặm cụi ngồi vá. Có bao giờ con đã quá chú ý cúi mặt vá lưới đến nỗi Cha đi qua, Cha gọi mà con chẳng nghe gì?
Sau khi nhấp miếng trà, cụ chậm rãi đặt chiếc ly sành nhỏ xuống mặt bàn đen bóng màu gỗ gụ, bắt đầu câu chuyện:
- Ngày xửa ngày xưa...
Cụ mới bắt đầu có thế, lũ trẻ đã thiu thiu ngủ. Cụ dừng lại không kể nữa. Duy nhất còn đứa bé tò mò xin cụ đừng vì lũ trẻ kia mà bỏ dở. Hai ông cháu bên buổi chiều tháng tư, rù rì tâm sự với nhau. Rồi cụ chết đi, câu truyện truyền lại cho đứa trẻ duy nhất ấy. Cũng may, vì thế mà hôm nay còn dấu tích câu truyện này.
Ðứa bé đó rồi cũng đến ngày thành cụ già. Ngày nọ, cụ già thứ hai này cũng lập lại y chuyện xẩy ra hơn ba phần tư thế kỷ về trước. Ðặt ly trà xuống chiếc khay, cụ bắt đầu:
- Ngày xửa ngày xưa...
Mới bắt đầu có thế, cụ nghĩ đến ngày còn bé như mấy đứa trẻ đây, lũ trẻ ngày xưa đã ngủ hết nên không đứa nào biết được câu truyện u uẩn kỳ thú này, chỉ riêng chú bé là chính cụ được biết thôi, cảm động, cụ rưng rưng nước mắt. Lũ trẻ thấy cụ khóc, chẳng đứa nào hiểu gì, chúng cùng nhau cười rồi kéo nhau chạy. Còn lại một đứa tật nguyền thấy cụ khóc, nó thương cụ ở lại kiên nhẫn nghe. Dĩ nhiên cụ già rồi cũng chết đi. May mắn nhờ đứa ốm yếu ấy mà câu truyện không bị tuyệt tích. Ðứa bé thấy câu truyện ly kỳ, nó ngày ngày ôn lại để nhớ. Sinh ra đời tật nguyền, trí kém, nó phải phấn đấu lắm mới nhớ được câu truyện. Ngày nào cũng phải tự kể cho mình nghe kẻo sợ quên mất. Rồi một ngày kia cũng già theo thời gian. Ðến lúc biết mình gần đất xa trời, cậu nhỏ tàn tật ngày xưa ấy, bây giờ là cụ già chống gậy đỡ từng ngày. Trước khi chết không bao lâu, cụ già thứ ba này gọi đám trẻ lại, kể cho chúng nghe câu truyện năm xưa.
- Ngày xửa ngày xưa...
Cụ mới bắt đầu tới đấy thì đã có đứa bỏ đi. Lũ trẻ này lạ lắm, chúng không thể hiểu mấy tiếng "ngày xửa ngày xưa" là gì, đối với bọn trẻ này, chúng tưởng cụ nói ngôn ngữ của người chết. Mỗi đứa xách theo đôi giầy có bánh xe, gắn vào chân, chúng chạy vù vù như gió làm cụ chóng mặt. Câu truyện hay quá. Cụ tiếc vì có khi câu truyện tuyệt tích mất. Chỉ còn lại có đứa cháu ngoại bị bố bỏ, thấy cụ tật nguyền là hay ở bên cạnh mà săn sóc cho cụ. Qua đứa này, cụ kể hết từng chi tiết cho nó nghe.
Rồi Cụ chết đi. Có đứa cháu ngoại là người biết gốc gác câu truyện thôi. Ðến khi đứa cháu ấy về già thì tính sơ qua mà đã ngót ngót hai trăm năm chứ đâu ít ỏi gì. Thời gian đi mau thế đấy. Thấm thoát mới có mấy chữ "ngày xửa ngày xưa" mà đã hai thế kỷ đi qua.
* * *
Truyện kể rằng ngày xửa ngày xưa có mấy cha con lái buôn từ phương Bắc xuống phương Nam làm ăn. Họ sống bằng nghề làm xiệc. Mỗi cha con quẩy một đôi gánh tòong teng. Búa, liềm, khóa tay, xích sắt đủ thứ để diễn trò. Có mấy con chó, cặp khỉ, hai con gà trống cho đá nhau, cặp rồng và mấy cặp rắn. Phương Nam hiền hòa, dân chúng đa số nghề nông, ở thành từng làng. Mấy cha con cứ tuần tự đi hết làng này đến làng khác. Mỗi nơi dăm ba bữa, diễn xong trò thì kéo nhau đi. Chẳng có trò gì ra trò, nhưng dân quê phương Nam thấy thế là lạ mắt lắm rồi. Chỗ nào đông đúc làm ăn được, cha con họ dừng chân lâu hơn. Họ cũng chỉ ở lâu vừa đủ, nghề nghiệp mà, không bao giờ tham lam ở chỗ nào lâu quá, cho dù có làm ăn được, họ sợ ở lâu dân chúng sẽ học mất nghề. Chịu khó chông gai, rày đây mai đó, dân chúng chỗ nào cũng là khách mới, nên đến đâu cũng có người vỗ tay.
Vùng quê mà. Xích sắt, để cho người xem khóa tay hẳn hoi rồi lão chỉ trùm tấm khăn đỏ lên, múa một vòng là người xem có thể hoa mắt, lão gỡ xích ra lúc nào không hay. Búa liềm sáng choang, khách xem thử chém thì cây chuối lớn như đầu người cũng đứt ngọt, thế mà lão chém bùm bụp vào mấy đứa con không đứa nào bị sao cả. Dân quê cứ lè lưỡi ra kinh ngạc. Nhiều người tin rằng cha con họ có bùa ngải. Lão ta biết tâm lý đám nhà quê lắm. Thỉnh thoảng lim dim nói dăm ba câu thần chú, nói mà làm như cố ý không cho người khác biết. Lão làm ra có vẻ che che, đậy đậy. Ấy thế mới ăn tiền. Dân chúng càng tin cha con lão có phép mầu. Chuyện ma quỷ bùa ngải lúc bấy giờ đắt khách lắm. Chả mấy người không tin có những chuyện hoang tưởng ấy. Mấy cha con Bắc phương biết rõ yếu tố dân phương Nam, cứ đấy mà móc túi tiền. Cũng có những tay thông minh, lăm le muốn cắp nghề. Nhưng đó chỉ là chuyện hão, lão luyện, giang hồ tứ phương thì sao mà qua mặt lão già được.
Ở vùng kia có hai làng xích mích nhau, một bên họ Lê, một bên họ Trần rồi thù hận mãi về sau. Một bên trồng bắp, một bên trồng lúa. Lão lái buôn mớm tí mồi, bày mưu cho bên trồng lúa thuê người từ xa đến mua hết râu bắp ngô của làng bên. Giá bao nhiêu cũng mua, dân chúng đua nhau vặt hết râu bắp đem bán. Ai ngờ khi cái bắp không còn râu che chở, nó không lớn lên được. Ðến ngày mùa, một ruộng bắp lèo tèo được vài cái. Mất mùa, dân chúng làng trồng bắp đói khốn khổ, phải làm công vay nợ cho dân làng trồng lúa. Dân bên trồng lúa khoái lắm vì thấy mình thông minh vượt bực. Bây giờ giàu có, làm chủ, có kẻ hầu người hạ. Mối hận ấy sâu lắm. Bên trồng bắp phải tìm cách mà rửa nhục.
Lão lái buôn lại bày trò khác, cha con lão xui bên trồng ngô gởi người phương xa đến mua móng chân trâu. Lợi quá, có mấy cái móng mà bán được bao nhiêu con bạc. Dân làng trồng lúa cậy hết móng chân trâu mà bán. Ðến mùa rét, trâu không cày được, lăn ra mà chết. Cứ thế, người cày thay trâu. Dân bên trồng bắp cười đến nôn ruột vì đã trả thù được. Bên nào cũng tự nhận là thông minh cực kỳ nên cả hai đều khốn khổ, đói rách lầm than.
Lão lái buôn cứ quẩy đôi gánh toòng teng giả ngu giả điếc, bị dân phương Nam gọi là lão già dốt nát. Về sau, mãi mãi về sau, con cái dân phương Nam bao giờ cũng nhận mình thông minh hơn người. Dân nào chê họ dốt là chết ngay. Thích khen lắm. Lão lái buôn xúi giục, bày mưu cho mấy tay trưởng làng thôi, rồi giấu mặt. Dân cứ tin rằng thông minh kia, mưu chước nọ là của làng mình chứ ai hay là do chính lão lái buôn kia bày trò. Con cái họ cũng cứ tin là họ thông minh. Vì thông minh nên họ không bao giờ tự đặt vấn đề. Thông minh, thế tại sao họ không giàu có? Thông minh, thế tại sao lại cứ triền miên nghèo đói hết đời cha đến đời con? Họ không cần biết, hễ mà được khen là thông minh thì hài lòng rồi. Về sau, ai muốn gì của con dân phương Nam thì cứ bảo là họ thông minh nhất, thế nào cũng được việc. Chuyện gì cũng có nguồn gốc cả đấy.
Cặp rồng và rắn của tay lái buôn cứ như yêu tinh. Chúng làm đủ trò. Tinh khôn quỷ ma. Lúc ấy dân phương Nam nhà nào cũng nuôi rồng, không có rắn. Hồi đó người phương Nam chỉ nói "rồng tiên" chứ không nói "rồng rắn" như bây giờ. Tại sao bây giờ lại nói là "rồng rắn"? Câu chuyện khá dài dòng. Cái gì cũng phải có nguyên nhân của nó. Hồi đó làng nào cũng có từng bầy rồng. Mùa hội, rồng bay khắp trời Nam, cứ như lụa đào trong gió xuân. Dân Nam nuôi rồng để múa hội. Các ngày hội làng là chiêng, trống, cồng âm vang lưng trời. Trai gái làng này đối tài mưu lược làng kia. Vui lắm chứ không như bây giờ. Hội hè liên miên. Dân phương Nam thích đàn ca múa hát. Mỗi kỳ hội là dăm ba ngày, có khi cả tháng. Ðời sống thong thả, thư thái, an hòa. Vì thế nhà ai, làng nào cũng có rồng. Hồi ấy không có vẽ rồng, khắc rồng như bây giờ. Nhất là không ai làm rồng giả bằng giấy. Vì có nhiều rồng thật. Ðêm rằm là trai thanh, gái lịch cưỡi rồng vờn trăng cứ như tiên bay lượn. Ðẹp lắm. Vui lắm. Thanh bình bốn bể.
Tay lái buôn từ phương Bắc đem theo cặp rắn và rồng để làm xiệc. Về sau này, bao nhiêu đời nghiên cứu mà cũng không rõ là con rồng của tay lái buôn kia có là rồng thật hay chỉ là con rắn già. Những nhà chuyên môn tìm hiểu không đồng ý với nhau. Rồng tại sao nó trườn như rắn? Rồng phương Nam chỉ bay và nhào lộn. Muốn đi là bay mà tới. Nhưng con rồng của lão lái buôn cứ trườn dưới đất không ngại sâu bọ, đất dơ. Nó làm nhiều trò rất thông minh, kỳ tài, dân chúng xem biểu diễn mà mát mắt, không ai mà không say mê con rồng của tay lái buôn. Chỉ có điều nó không thanh tao thôi. Phe nghiên cứu dốt thì kết luận đơn giản rằng đấy chỉ là con rắn già, không phải rồng, kết luận vậy là dễ nhất! Phe muốn tỏ ra mình là nhà nghiên cứu trí thức thì nói đấy là rồng thật, nhưng sống chung với rắn, được huấn luyện để làm trò với rắn nên nó pha máu rắn. Chả biết bên nào đúng, nhưng câu chuyện là thế.
Như truyện đã kể, rồng phương Nam chỉ nuôi để chơi vui trong ngày hội. Từ khi lão lái buôn phương Bắc tới, đem theo con rồng kia, nhiều dân làng quê thấy hay quá, thuê lão lái buôn dạy cho con rồng của làng mình cũng biết trườn, biết làm trò. Chẳng mấy chốc, những con rồng phương Nam cũng học nhiều trò mới như con rồng của lão lái buôn. Từ làm trò đến học cách đấu nhau. Từ những ngày ấy, mỗi ngày hội là đem rồng ra đấu, dân chúng đứng chung quanh vỗ tay gào thét cổ võ. Ngày xưa, có hội là cưỡi rồng ca múa. Nghệ thuật múa rồng đòi nhiều tài năng, muốn ca múa phải tập luyện, mỗi kỳ hội làng là một bức tranh văn hóa không dễ vẽ đâu. Nói rằng dân phương Nam quanh năm ăn chơi, không có nghĩa là biếng nhác làm việc. Ăn chơi với vũ điệu, với văn chương thi ca, hát hò quan họ là cả một công trình đấy. Cho nên phải nói đời sống của họ là một vũ điệu mới đúng. Chẳng hạn như bay với rồng mà thả con diều. Diều phải lên cao, mà diều phải đón gió cho tiếng sáo xuống trần. Cả là một nghệ thuật tinh vi. Từ khi lão lái buôn dạy cho đá rồng thì dân chúng thích trò chơi mới này, không phải tập tành gì, chỉ việc đứng chung quanh sân đình mà xem rồng đá nhau thôi. Vỗ tay quá trời. Rồng đá tóe máu, có con chết đứt đầu. Càng vỗ tay.
Lão huấn luyện cho rồng biết vờn rắn. Hai con thi tài lừa nhau xem con nào gian xảo hơn. Con nào lừa được con kia là thắng cuộc. Các ngày hội sôi động hơn xưa, khác xưa nhờ những cuộc đấu rồng. Rồng lối xóm đấu với nhau, đấu vui rồi đấu ăn thua quyết liệt. Qua làng đó, làng bênh cạnh cũng vui lây, lão lái buôn lại phải đi huấn luyện những con rồng khác. Hắn đi khắp nơi để huấn luyện. Cuộc chơi càng ngày càng tàn bạo. Bây giờ đá rồng đã lan khắp cả. Ðể vui hơn, ngày hội họ thi đá rồng làng này với làng kia. Rồng họ này đấu với rồng họ kia. Rồng Nam đấu với rồng Bắc. Muốn thắng thì phải có rồng hay, thế là họ tranh nhau mời cha con lão lái buôn huấn luyện. Bây giờ, mấy cha con lão không phải làm xiệc kiếm sống nữa. Không bao giờ cha con lão dạy hết nghề. Làng nào trả nhiều vàng bạc thì lão tới. Một thời gian ngắn, cha con lão gánh không biết bao nhiêu vàng về quê cũ.
Vàng bạc nhiều, lòng tham nổi lên, cha con lão cãi nhau, đánh nhau rồi giải tán gánh xiệc. Mỗi người một giang sơn, tranh nhau gây thanh thế. Vàng bạc mà. Thế là bao nhiêu miếng võ độc ác đưa nhau truyền cho rồng phương Nam. Bây giờ rồng phương Nam mới có cơ hội học nghề thực thụ. Lão già trấn thủ một giang sơn. Mỗi đứa con một vùng. Người nào cũng đem hết mưu mô để thanh thế mình là bậc thầy. Ðến kỳ hội năm, làng nào cũng hồi hộp không biết rồng nào thắng trong cuộc tranh tài. Cứ như thế mấy mươi năm cho đến khi cha con lão lái buôn rủ nhau về quê cũ, phương Bắc.
Sau này, con cháu dân phương Nam tìm về cội nguồn, nghiên cứu kỹ lại gia phả mới khám phá ra câu chuyện ly kỳ. Nhớ nhé, lão là lái buôn thì chỗ nào có vàng bạc, châu báu là lão tới. Lão là tay xiệc, huấn luyện cho rồng rắn làm trò, là bậc thầy làm trò thì chính lão phải biết làm trò. Cái chuyện cha con lão cãi nhau rồi giải tán gánh xiệc chỉ là một trò xiệc thôi! Cha con lão giả vờ để dân làng phương Nam đua nhau mời cha con lão, cung phụng cha con lão dạy rồng cho riêng làng mình. Cha con lão nháy nhau cười dân làng phương Nam đến đứt ruột mà dân phương Nam cứ tưởng bở. Một ngày nọ, cha con lão cùng nhau ngược phương Bắc về quê với không biết bao nhiêu châu báu mà dân làng phương Nam cất giữ từ thời tổ tiên.
* * *
Kể đến đây, cụ già chảy nước mắt. Hai đứa cháu ngồi nghe im lặng thương cụ quá. Cụ nghẹn ngào không kể tiếp được, cụ nấc lên rồi gục đầu tắt thở.
Hai đứa cháu mơ hồ hiểu chuyện vì sao suốt đời cụ cứ băn khoăn khổ sở. Về sau hai đứa cháu ghi lại câu chuyện rồi lần mò đi tìm tiếp những đoạn cuối để chắp nối lại. Sau này, sống ở Phương Tây mà chúng là những nhà nghiên cứu lỗi lạc nhất về Phương Ðông. Mỗi đứa đem theo một dòng họ, chia làm hai, một tìm về hướng Bắc, một xuôi hướng Nam. Với những phương pháp khoa học cực kỳ tinh vi, hai đứa cháu của cụ già kia đào lên những tháng ngày của mấy trăm năm về trước. Vệ tinh trên trời tìm chụp lại các bóng hình quá khứ. Các làn sóng vi âm chạy trong lòng đất. Rồi một ngày kia, thời gian cũng lại đến, tất cả đều già. Bên tách trà nhỏ, hai nhà nghiên cứu ấy thành hai cụ già, họ chậm rãi kể truyện cho các cháu của họ nghe:
Ngày xửa ngày xưa... Chắc có một cuộc đánh nhau ghê gớm lắm. Các cháu có biết không, cụ tìm được nhiều dấu vết, cụ kể các cháu nghe. Câu chuyện tính cho đến nay chắc là ba, bốn trăm năm rồi. Sông ngòi thay đổi, nước lũ trên rừng soi mòn, lụt lội làm thay đổi quá nhiều, phải công khó lắm mới ghép nối lại được. Chắc chưa đủ đâu. Cụ kể, mai mốt có đứa nào đi tìm tiếp, viết cho xong câu truyện.
Những bộ xương người đào được ở hướng Bắc đa số đều có đeo một thẻ đồng khắc hình dấu chữ Hồ. Còn những bộ xương hướng Nam khắc dấu in hình chữ Ngô. Xương thì giống nhau. Khảo nghiệm cho biết một trăm phần trăm là cùng một nguồn gốc. Dĩ nhiên các cháu biết đó, nếu mà đánh nhau thì xương phải lẫn lộn chứ. Ðúng như vậy, lẫn lộn cả hai thẻ đồng các cháu ạ. Có khi bộ xương khắc dấu Hồ nằm lẫn bộ xương mang dấu Ngô. Như là hai bộ xương đang vật lộn với nhau. Rất nhiều như thế. Khắp cả. Hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu, không biết cơ man nào mà đếm. Chính vì vậy mà người ta cho rằng có cuộc chiến tranh rất dữ dội.
Cụ không kể chuyện ma đâu, chuyện có thật đấy. Trong một tối kia, ở chân rặng núi, oan hồn người chết khóc ngất. Tiếng khóc kỳ lạ ai oán ghê lắm. Bên cánh rừng nọ, xình từ cái hồ nông nước gẳn lên mùi thối xác người. Ghê lắm. Nhặng bay đàn đàn, bầy bầy, o e trên những xác người chặt cụt chân tay. Ghê lắm. Ghê lắm. Có ba người không quần áo gì cả, bị lột trần truồng trói ôm vào ba gốc cây bỏ đói. Ngày thứ nhất, một người bị vặn đầu từ từ cho đến khi đứt mà chết. Ghê quá. Ghê quá. Cái cổ cứng vậy sao mà vặn đứt được. Thế mà vặn được đấy. Hai mắt lồi lên. Càng vặn nó càng lồi. Sau cùng nó rớt ra ngoài. Ðầu mà, đỉnh cao trí tuệ mà. Ðến ngày thứ hai. Người kế tiếp. Không bị bịt mồm gì cả, cứ để thế cho la hét. Ghê quá. Họ lấy dao khoét hậu môn rồi kéo hết ruột ra. Ghê quá. Tiếng la đinh tai, buốt thấu óc. Vì thế dân phương Nam vẫn nói, "đau như cắt ruột." Cái gì cũng phải có nguyên cơ, nguồn cội. Lũ trẻ nhỏ la lên. Cụ kể chuyện ma! Ghê quá! Ghê quá! Cụ kể chuyện ma! Không đứa nào dám nghe.
Cụ già biết nói ra không đứa nào tin. Như chuyện hoang đường. Sự thật làm người ta sợ. Sự thật bao giờ cũng là sự thật. Nó còn đó không bao giờ phai màu. Chỉ có điều ai không dám nghe hay không muốn nghe thì đừng nghe thôi. Lũ nhỏ không tin chuyện có thật. Chúng bảo là cụ kể chuyện ma. Ðến khi cụ đem cái máy thu hình quá khứ ra bấy giờ chúng mới kinh hoàng. Máy móc điện tử thần kỳ, khi những tín hiệu tìm thấy xương người dưới đất, chỉ việc báo cho cái máy vệ tinh ở trên trời là chúng nó phóng những tia vi điện vô cùng mầu nhiệm tìm bắt tất cả những gì liên quan đến bộ xương ấy. Với máy móc như thế thì làm sao mà giấu được quá khứ.
Các cháu đừng sợ, không có ma quỷ gì cả, họ là những con người như các cháu. Xem lại những hình ảnh ấy mà thương họ. Các cháu có biết họ là ai không? Là tổ tiên của các cháu đấy! Các cháu sợ tổ tiên của mình à? Với những chiếc máy này không còn gì giấu kín được nữa. Các cháu sống thế nào thì mai sau lịch sử ghi lại y như thế. Không thể giấu được. Kinh Thánh bảo không có gì giấu kín mà không bị tỏ lộ ra. Ðúng như thế.
- Thưa cụ, thế những người giết họ là ai? Là người đeo dấu chữ H hay chữ N.
- Cụ không cho các cháu biết được. Cụ muốn các cháu thử tự tìm xem.
Một đứa khác lại hỏi:
- Thưa cụ, làm sao mà họ thù ghét nhau như thế?
- À, chuyện này mới dài, cụ cũng để xem cháu nào tìm được lý do.
Hai câu hỏi ấy cụ biết chứ, mà đau lòng quá không trả lời nổi. Cụ thấy chính mình cũng sợ sự thật. Kinh Thánh nói sự thật sẽ giải phóng chúng con. Bây giờ chạm sự thật, cụ thấy linh hồn buồn quá. Khi Ðức Kitô bị đóng đinh, tổng trấn Philatô cũng hỏi câu hỏi ấy: Sự thật là gì. Cụ ngưng câu chuyện không kể tiếp nữa.
Mấy đứa bé tò mò tiếp tục hỏi chuyện nhau. Hai đứa ra chiều thông minh:
- Tao biết làm sao tụi nó đánh nhau rồi!
- Mày không được gọi là "tụi nó", cụ đã chẳng bảo họ là tổ tiên của mình đó sao.
- Ừ, đúng rồi, tao biết làm sao tổ tiên chúng ta đánh nhau, tại họ dạy cho bày rồng đánh nhau đấy, lúc nào cũng muốn rồng nhà mình thắng, rồi rồng làng mình phải thắng, nên họ mới thù nhau. Ai cũng muốn rồng làng mình là vua.
- Nhưng mà tao biết họ dạy cho rồng đánh nhau là ngày xửa ngày xưa, có một ông lái buôn từ phương Bắc...
- Nhưng mà làm sao ông lái buôn lại dạy cho tổ tiên ta đem rồng của mình ra đấu nhau?
- Ờ.. ờ.. tao không biết!
Ðể trả lời câu hỏi ấy, sau này một đứa đem hết đời mình tìm kiếm. Thế là mất mấy trăm năm sau con cháu phương Nam mới có câu trả lời. Nhưng rồng của dân phương Nam không còn là rồng như ban đầu nữa, nó không biết bay, nó thích trườn dưới đất, quanh co, mưu mô nhưng không hút nước phun lên trời như rồng ngày xưa. Rồng của những vương quốc lân bang bơi lộn vùng vẫy ngoài khơi sóng nước Thái Bình Dương, tranh đua với trời, hưởng phúc lộc thiên nhiên mây gió trời ban. Rồng phương Nam chỉ loanh quanh trên bờ, nhiều con lộn xuống biển, ôi! chết không biết bao nhiêu là cơ man.
Sau bao năm tìm kiếm, hai đứa cháu đến thăm cụ. Những ngày cuối đời, cụ thao thức, buồn lặng lẽ trong hồn, cụ hỏi:
- Tại sao rồng chung quanh bơi khắp Thái Bình Dương, còn rồng dân phương Nam thì không?
Ðứa cháu của cụ thành một nhà nghiên cứu lỗi lạc, bảo cụ rằng:
- Trải qua mấy trăm năm, bây giờ gọi là rồng chỉ vì gốc tích ngày xưa thôi, theo nghiên cứu thì rồng phương Nam hết chất rồng rồi.
Cụ già sửng sốt. Ngạc nhiên kinh hoàng hỏi:
- Thế.. thế là rắn mất rồi sao?
Cụ già run lên. Ðứa cháu nhìn cụ không biết phải làm gì. Rung toàn thân người, cụ nấc lên rồi chết.
Ðứa cháu, nhà nghiên cứu lỗi lạc, nhớ lại ngày xưa cụ không dám trả lời khi nó hỏi: "Làm sao họ ghét nhau thế." "Bên nào có dấu chữ H, bên nào chữ N." Bây giờ ông ta hiểu, cụ sợ sự thật không dám trả lời. Cũng như bây giờ, chính ông ta chỉ nói cho cụ biết là rồng phương Nam hết chất rồng rồi, chứ không dám trả lời hẳn câu hỏi của cụ vậy bây giờ là rắn rồi sao. Ông ta nhủ thầm, lại tới phiên mình sợ sự thật. Còn lại hai người, ông ta quay sang hỏi người bạn cũ, kẻ mà lúc nhỏ ngồi nghe cụ kể chuyện rồi sau đó hai đứa đã đua tài trí thức xem ai biết nhiều, ông hỏi:
- Bây giờ có cách nào làm cho rồng dân phương Nam trở thành rồng thật mà ganh đua với các rồng lân bang được không?
Người bạn năm cũ thản nhiên trả lời bằng một câu tiếng ngoại quốc: "I DON'T KNOW. I DON'T CARE." Rồi bỏ đi.
Còn lại một mình. Ông cũng không biết rồi đây có cách nào rồng phương Nam bay lộn hào hùng như rồng thật của mấy trăm năm về trước nữa không hay là hết chất rồng thật mất rồi. Ông ta cặm cụi ghi lại tất cả nối kết của mấy đời các cụ xưa đang kể mà chết ngang chừng, thành một câu chuyện. Câu chuyện bắt đầu bằng mấy chữ: Ngày xửa ngày xưa...
Trích Tập Truyện Ngắn sắp xuất bản của tác giả Nguyễn Tầm Thường.
Không mấy người để ý về chuyện biến mất của ông ăn mày. Mười mấy năm rồi, ông đi từ làng nọ sang làng kia xin ăn, giáp vòng, ông quay trở lại, đường ông đi tuần tự như cuốn lịch. Vùng quê có đến gần chục ngôi làng nối nhau nằm theo con hương lộ bụi đất. Ông xuất hiện rất sớm vào từ độ dân di cư 1954 bỏ Bắc xuôi Nam. Mười mấy năm nay ông cứ đi xin ăn như thế, ai mà không nhẵn mặt ông. Chẳng ai bận tâm về gốc tích của ông, như bài học thuộc lòng đã quen, hễ nghe tiếng chó sủa, thấy ông ghé ngõ, là người ta chuẩn bị cho ông một vốc gạo.
Thế rồi ông biến mất vào một ngày không ai biết. Ông đi đâu? Khi người ta thắc mắc hỏi nhau thì ông đã cao bay xa chạy, hay chết ở một nơi nào đó rồi. Vì sao ông lại biến mất như thế? Không ai có thể nghĩ ra một lý do hợp lý. Lâu không thấy ông trở lại xin ăn, người ta tò mò đặt câu hỏi thì đã quá trễ. Tin ông già ăn xin biến mất thành đề tài thời sự vì tính chất bí mật của nó. Từ đấy nhiều huyền thoại ma quái được những kẻ giàu óc tưởng tượng thêu dệt ra. Có người quả quyết ông bị cắt cổ chết vì ông có bao nhiêu vàng. Có người nói ông trốn đi vì là gián điệp miền Bắc mới bị khám phá. Càng tò mò thì sự cố ông già ăn mày biến mất càng huyền bí. Không ai tin ai là người biết rõ chuyện.
* * *
Thời gian trước 1954
Mấy tá điền trói người đàn ông bên đống rơm. Ðã sang ngày thứ hai. Ðất Bắc vào tháng hai trời mưa lai rai, nó rét như cắt thịt thế mà người đàn ông chưa xỉu. Ông ta bị bọn tá điền đánh một trận đau quá sức. Người đàn ông run cầm cập, môi xám lại. Vừa rét, vừa đói, ông không biết cái nào sẽ đưa ông chết. Ngay khi bị bắt, ông đã cúi lạy bọn tá điền như tế sao mà họ không tha.
Ðất Bắc vào những ngày này đâu mà chả có điền chủ và tá nông. Những ông Lý, ông Huyện là một thứ vua con. Ði đâu cũng dù che, gậy chống, xa xa những người mang nợ thấy họ là khúm núm vái chào. Người đàn ông bị trói bên góc sân lát gạch rộng có đến như sân đình. Dẫy nhà ngói vàng rựa dài như nhà quan chính trên phủ huyện đủ cho biết chủ nó là ai rồi. Từ lúc bị bắt đến giờ người đàn ông vẫn không thấy ông Lý đâu. Cứ tưởng dẫn về tới nhà, ông Lý phải ra ngay mà nhìn mặt xem quân ăn cắp là đứa nào chứ. Người đàn ông không thể đoán được những gì sắp xẩy đến cho định mệnh khốn nạn của mình. Ðã gần hai ngày bị trói. Cái rét làm ông không chịu nổi. Cứ thế này thì chết mất thôi. Vợ con ở nhà bây giờ thế nào. Lạnh run mà lòng dạ người đàn ông bỏng như lửa thiêu. Nếu người ta biết vì đi ăn trộm bị bắt, ông còn mặt mũi nào mà sống với dân làng. Chợt nghĩ đến đấy, ông quằn quại ruột gan. Có khi nào ông Lý thương tình tha cho ông không? Nó như giấc mơ gần lắm mà sao sợ hãi quá, chắc không bao giờ là sự thật. Cầu Trời độ lượng phù trì. Người đàn ông khóc rấm rức.
Sau cùng thì ông Lý cũng xuất hiện. Người đàn ông cúi lạy xin ông tha cho lần đầu. Chỉ một câu nói của ông Lý, lũ tá điền sẽ cởi trói. Người đàn ông mới nghĩ đến đó đã cảm động rơi nước mắt. Ông thề hứa với hồn thiêng sẽ không bao giờ có chuyện này trong đời nữa, kinh hoàng quá rồi. Ðêm qua người đàn ông đã được đưa vào góc nhà ngang chứa đồ. Tên tá điền đổ bao khoai trước mặt người đàn ông. Chứng cớ. Người đàn ông cúi sầm mặt không dám nhìn, không nói một câu. Ông Lý không giận dữ chửi mắng nguyền rủa gì cả. Ông bảo tay tá điền bỏ khoai vào rổ cất đi. Người đàn ông đã chờ cây gậy của ông Lý ra oai, nhưng điều ấy không xẩy đến. Giọng ông Lý bình thường, ba chuyện lặt vặt này có đáng chi cho ông bận tâm. Rồi ông bỏ đi. Người đàn ông cám ơn Trời Phật đã phù trì. Giấc mơ đang thành sự thật chăng? Hồn ông bà thiêng lắm nên ông mới được ông Lý thương như thế. Ông Lý sẽ tha cho ông chăng?
Ðất Bắc nơi vùng này có được mùa cũng chẳng phải ai cũng đủ ăn. Nghèo đói là bạn quanh năm. Thiếu đất, thiếu ruộng, được người thuê mướn là như mang ơn, mang nghĩa. Vào những năm mất mùa, gió bão, trộm cắp nổi lên như tôm. Nhà các ông Lý, ông Tổng chẳng mấy đêm mà quân canh không đuổi trộm chạy huỳnh huỵch. Xui cho người đàn ông bị bắt. Cầm lòng chẳng đặng, túng quá rồi, bụng đói đầu gối phải bò. Vợ chồng nhìn nhau không ai bảo ai, những u ẩn kín đáo về một lối đi là làm sao để có cái gì cho vào bụng. Trằn trọc bao đêm, người đàn ông không sao chợp mắt được. Không phải chỉ cái đói, cái rét gió trời, nhưng tiếng khóc của mấy đứa con. Nó như dao chém vào lòng.
* * *
Cu tí ôm củ khoai lớn như cái chày giã cua nóng bỏng xuýt xoa khoái chí. Người đàn ông vui quá. Cái mùi khoai nướng chảy mật bốc thơm đầy nhà. Bóc cái vỏ cháy xém là phô ra cái màu vàng sậm thật mướt. Ông chảy rãi không chờ cho củ khoai kịp nguội. Còn vợ ông nữa, lâu lắm hôm nay mới thấy bà tươi một chút. Mọi sự trong nhà thay đổi như cơn mưa chợt đến không ngờ. Ngồi bên thềm cửa nhìn mấy đứa con xúm xít bên rổ khoai bốc khói, chà! ông mới nhận ra không biết gia đình đã vắng tiếng cười từ bao giờ. Bỗng có tiếng con nít òa khóc, ré lên buốt giọng. Giật mình dậy, đấy lại chỉ là một cơn mơ.
Cả tuần nay, chẳng mấy đêm ông không mơ thấy giữa nhà ông là rổ khoai đầy. Giấc mơ nào ông cũng thấy mình ăn no. Giật mình dậy nó phũ phàng làm sao. Vẫn mấy đứa con khóc vì đói. Vợ ông không cười như trong giấc mơ. Giấc mơ càng đẹp, lúc tỉnh mộng lại càng đau. Nó vẽ ra những hình ảnh không có thật làm người ta càng tiếc. Chớ gì được một ngày như thế.
Cứ thế, tâm trí ông lảng vảng như người không hồn. Lúc thật lúc tỉnh. Trong giấc mơ nào cũng thấy của ăn. Có khi là mùi cơm cháy, có khi miếng giò, cũng có những giấc mộng mị rất sang, chẳng hạn như ngồi bên mâm cơm thịt gà béo ngậy. Ðĩa thịt rang tiêu hành. Nó thơm đến từng tế bào. Nhưng bao giờ cũng kết thúc bằng tiếng đứa con khóc hay cơn gió bay thốc, nước mưa tạt vào mặt. Những lúc tỉnh dậy như thế ông không thấy tiếc mà đôi khi thấy cũng "đã", vì trong những giấc mơ ấy được ăn quá ngon. Chỉ khi sáng bừng xua hết ảo ảnh, mặt trời khua đám con nít bảo chúng nó là chúng đang đói, nhìn vợ không biết tính toán chuyện gì hôm nay, bấy giờ ông mới thấy những giấc mơ có bữa cơm ăn là độc ác.
Ông xách cái bao đi về cuối làng. Trời chạng vạng tối. Ruộng khoai ông Lý không có người canh. Gốc đầu tiên kéo lên nặng đã đôi tay. Chùm khoai sai mùa như những quả mướp béo tròn. Ông lanh lẹn bẻ ngọn cho vào bao. Ðâu có gì khó khăn quá sức như ông nghĩ trước khi xách bao đi đâu. Thế mà phải mất mấy ngày chuẩn bị tinh thần. Mấy ngày liền, cứ chợn vợn tối là người đàn ông lại rảo vài vòng, gần xa ruộng khoai. Ông tưởng tượng ra đủ đường, đủ ngõ, đủ cách, mà cách nào cũng chông gai. Bây giờ đang đứng trong ruộng khoai rồi, đã bới lưng túi mà trời vẫn vô tư, đất không bạo hành. Ông khám phá thêm một chân lý mới trong cuộc sống. Người ta cứ lo quá mức đấy thôi. Sự tưởng tượng là kẻ thù ghê gớm của đời sống. Việc gì cũng vậy, thực tế không đến nỗi tàn bạo như những gì vẽ ra trong đầu. Ông không ngờ ông có thể bình tĩnh như thế giữa ruộng khoai. Chung quanh vắng như tờ, giả sử ông có bới thêm một túi nữa cũng không sao. Ông nghĩ bụng, đời phải liều. Cái luân lý mô phạm đôi khi chỉ là dở hơi.
Ðang bới, túi đã gần đầy, chợt tiếng chó cắn oang. Quay lại thì đám tá điền đã đâm cái sào tre nhọn hoắt vào gần mặt. Ông kêu ré lên. Giật thót mình bật dậy. Ðây là đâu? Mồ hôi đầm đìa. Xoa tay úp mặt. Thì ra lại một cơn mơ.
Tỉnh dậy, nhìn chung quanh. Vắng lặng. Vợ ông nằm thiêm thiếp giấc ngủ chập chờn. Thằng cu chúi đầu ôm cái gối rơm. Mỗi đứa con lăn lóc một nơi. Trong giấc ngủ đêm, ngồi nhìn cả nhà, ông mới thấy gia đình ông rời rạc như những hạt cơm nguội. Ðứa nào lo ôm cái đói của đứa ấy, ngay cả đến ông và vợ ông cũng thế. Trong giấc mơ có bóng hình yêu thương vợ ông đâu. Chỉ thấy toàn chuyện ăn.
Mà sao giấc mơ đêm nay hãi hùng quá, ông bị bắt à. Tỉnh rồi ông mới thấy bới trộm được một rổ khoai không phải là chuyện bỡn. Tiếng chó sao mà ghê hồn. Trong những giấc mơ, người đàn ông khám phá thêm rằng những cái rất tầm thường hàng ngày, nó không là gì cả, nhưng khi đúng thời điểm của nó, nó mang một giá trị sống chết chứ chẳng chơi đâu. Thí dụ, hàng ngày, tiếng chó có là gì, thế mà nó có thể giật sập ông xuống bẫy. Hàng ngày, một củ khoai có là gì, thế mà lúc đói, củ khoai cũng trở thành ông thần. Cuộc đời lạ quá. Con người lại còn khó hiểu hơn nữa vì có lúc nó không giá trị bằng rổ khoai. Nhìn mình đi bới trộm khoai trong giấc mơ, ông cười mỉa mai trong bóng đêm, chả nhẽ ông lại bị bắt vì trộm khoai à, như thế thì còn gì là con người, còn gì là nhân phẩm. Hình ảnh chỉ là mơ, nhưng lúc lũ tá điền ập đến, ông thấy kinh hoàng thiệt. Tim ngừng thở. Tỉnh cơn mơ, ông mừng hú vía, thấy mình thoát nạn! Mơ chứ không phải thật.
Ngoài trời gió lạnh vỗ phành phạch qua phên cửa nhưng trán ông rịn mồ hôi. Chỉ là cơn mơ mà rợn người. Chùm khoai sai mùa vẫn in hình nguyên vẹn trong giấc mơ trước mặt ông. Bàng hoàng, chỉ là một giấc mơ thôi sao? Cho tới sáng, ông không sao nhắm mắt được, trăn trở suốt đêm về giấc mơ quái lạ. Ðiều ông thấy trong giấc mơ với thực tế lại quá khác xa nhau. Mới chợt đây thôi, chân lý ông tìm thấy trong giấc mơ về cuộc sống là: "Người ta cứ lo quá mức đấy thôi. Sự tưởng tượng là kẻ thù ghê gớm của đời sống. Việc gì cũng vậy, thực tế không đến nỗi tàn bạo như những gì vẽ ra trong đầu." Bây giờ ngồi đây ông thấy chân lý ấy sai. Vừa lúc trước ông bình tĩnh đứng trong ruộng khoai, thấy rằng không chuyện gì là không thể làm được. Nhưng khi bị bắt ông mới thấy những chuyện tưởng dễ mà lại không dễ tí nào. Thế giới thật và mơ nó mù mờ quá, vừa một giây lúc trước là đúng, một chớp mắt đã là sai. Thực và mộng sao cách biệt thế.
Liên tiếp gần tháng nay, chẳng đêm nào trong giấc ngủ của người đàn ông không chờn vờn ác mộng. Cơn mơ nào thấy mình bị bắt mà bừng dậy thấy vẫn ở trên giường là ông mừng như nhặt được vàng. Người đàn ông ngẫm nghĩ trong đêm vắng. Ừ, hạnh phúc đơn sơ vậy thôi sao, thoát chết trong giấc mơ là hạnh phúc à. Hay là những hạng người như ông thì chỉ có hạnh phúc trong giấc mơ như thế mới là hạnh phúc thật?
* * *
Bây giờ ông đang bị trói. Người đàn ông tỉnh tỉnh điên điên hỏi mình, thực hay mơ? Chẳng lẽ ông bị bắt thật à. Không thể ngờ đời ông lại xẩy ra nông nỗi này. Nhưng mơ hay thực thì ông biết rõ rồi. Không phải là mơ đâu. Khủng hoảng, dật dờ, người đàn ông cứ khóc rấm rứt. Mộng mị đêm đen, sự thật ban ngày, chúng lẩn quẩn vào nhau. Cái nhìn hiền từ của ông Lý thì sao? Người đàn ông không thể hiểu nổi. Người ta đồn thổi nhiều về những người điền chủ độc ác, giàu có mà hành hạ gia nhân không xót lòng. Nói đến những ông Chánh, ông Tổng là ai cũng sợ. Quyền sinh sát trong tay, tiền hô hậu ủng. Thế sao ông Lý lại không quất cho ông ít là vài gậy cho ra quyền dạy bảo của kẻ làm lớn? Ðây có là thật hay lại chỉ là mộng? Người đàn ông đã nhìn rõ ông Lý ôn tồn bảo tay tá điền cất rổ khoai đi cơ mà. Ðiên đầu, ông chóng mặt vì toàn những chuyện ngược dòng. Tưởng đến ánh mắt rực lửa thì ông Lý lại nhìn mình bằng con mắt nhân từ. Không thể ngờ có ngày bị bắt thì bây giờ đang bị trói ngồi đây. Thực và hư, Cuộc đời. Chóng mặt.
Ðêm là thày dạy nhiều tàng ẩn chôn kín khó nhìn. Bóng tối có một thứ ánh sáng rất lạ. Ðêm và tối soi vào tâm thức con người những ý nghĩ xót buốt không ngờ. Những đêm không ngủ, giật mình dậy giữa cơn đen, đen trong nghĩa thật là đêm, nghĩa bóng là đời mình, người đàn ông thấy trí tuệ mình bừng mở. Trong cái bừng mở ấy của trí tuệ, ông phải trả một giá đau thương cho những suy tư của ông về cuộc đời.
Tại sao có những con người thừa ăn, dư mặc? Tại sao có những con người khốn khổ như ông? Cái nghèo có là tiền định của ông trời? Trằn trọc trong đêm, người đàn ông đi tìm câu trả lời. "Giấy rách phải giữ lấy lề." Người đàn ông rủa thầm. "Rách thì vứt nó đi chứ giữ làm cái gì!". Giá mà say, mà điên thì hạnh phúc biết mấy. Vào ngày mùa, cái sân nhà ông Lý đầy người, trai tráng, thanh niên, phụ nữ, đập lúa vang chuyện cả đêm. Tại sao trên đời có ít ông Lý thế, mà hạng người nghèo khổ như ông thì đầy. Cái giàu có kia có là may mắn ông trời ban cho không? "Con quan thì lại làm quan, con nhà sãi chùa thì quét lá đa." A! thế ra cuộc đời đã sắp sẵn như vậy rồi sao. "Ðói cho sạch rách cho thơm." Người đàn ông lại rủa thầm. "Ðói làm sao mà sạch, rách làm sao mà thơm, toàn chuyện rởm đời!" Nhưng xã hội bắt như thế. Ông không lội ngược dòng được với những định chế ấy. Hoàn cảnh nào thì ông cũng phải sạch, phải thơm mới là con người. Ông bắt đầu muốn phủ nhận nhiều khuôn thước cuộc đời đã bắt ông đi. Chính ông đã dạy lũ học trò như thế mà. "Ðói phải cho sạch, rách cho thơm". Bây giờ ông thấm thía hơn về cái năng chức thầy giáo người ta gọi ông. Tại sao người ta bắt ông phải sạch hơn nữa, thơm hơn nữa chỉ vì cái tên gọi ông giáo ấy. Nếu ông chỉ là tay đánh dậm, tát cá cầu ao có lẽ lúc này lương tâm ông bớt xốn xang.
Bóng tối vẽ ra những vực sâu ý thức không đáy. Ðịnh mệnh con người là cái giếng, đừng tìm hiểu nó, cứ sống cho đến ngày chết thì xuôi tay, ngó vào hỏi số phận là gì, định mệnh là gì thì cũng như xúc đất mà tìm nó, càng tìm nó càng sâu. Ðừng nhìn xuống, quên đi thì nó đầy. Nếu thế, mấy đứa con của ông mai này lấy chồng, lấy vợ xong, cứ đêm đêm rồi lại cũng tiếp tục những giấc mơ như của bố nó, mong một rổ khoai giữa nhà. Rồi đến lượt con cái chúng nó lớn lên, giấc mơ này đẻ giấc mơ kia, nối tiếp đến đời nào cho hết thân phận một kiếp nghèo. Cái may mắn của một người từ khi sinh ra và cái định mệnh lầm than như ông, hai dòng sông không thể chảy vào nhau. Xã hội của ông Lý và người đàn ông chỉ là phản ánh cái xã hội lớn của đất nước. Chảy rộng lan ra, nó là phản ánh của cả con người, có những dân tộc như là bất hạnh từ tiền kiếp, có những đất nước như sinh ra để làm cảnh sát của ông trời dòm ngó hết lục địa này đến lục địa kia. Hai dòng sông không chảy vào nhau được. Bất hạnh đối kháng.
Người đàn ông nhìn đàn cò bay. Những cánh sau cùng nhỏ bóng mất tiêu mà vẫn chưa hết ruộng của ông Lý. Cái lẫm chứa thóc kia bao giờ mới vơi. Chỉ cần nhổ lên vài gốc khoai là cả nhà ông đều no. Tại sao một dòng sông ngập nước còn một dòng sông cạn khô. Cái đối kháng giai cấp giữa hai dòng sông là đối kháng phát sinh từ đâu? Nếu con người sinh ra trong số phận nào, phải chấp nhận số phận đó, nếu đấy là tiền định của trời, thì làm sao lại có cái đối kháng giai cấp trong ý thức? Nó là tiếng gọi thâm sâu của linh hồn. Cái ý thức này đến từ một lương tâm. Người đàn ông cho rằng cái ý thức về một dòng sông tràn nước và dòng sông cạn khô kia nhắc cho ông rằng con người không sinh ra trong định mệnh và phải chấp nhận định mệnh. Nếu là định mệnh thì ông phải an lòng mà sống chứ? Nếu là định mệnh thì ông phải an vui mà nhìn lũ con khóc vì thiếu ăn chứ? Lòng ông dấy lên một ý thức về tương quan con người với con người. Ông không chấp nhận định mệnh. Lấp ló đâu đó trong những khe nứt lương tâm, người đàn ông thấy một tiếng gọi mù mờ, chưa thành hình, nhưng đủ ấm để giữ một ngọn than chờ ngày thành lửa.
Ðất Bắc đang vào mùa thu. Không phải sương thu của bốn mùa mà là mùa thu có những bài ca nhắc nhở con người sinh ra không phải để chấp nhận định mệnh. Tiếng hát mùa thu bao giờ cũng có sức hút ma quái quyến rũ. Tự mùa thu đã là sầu muộn rồi. Tiếng thu gieo sầu trong tim những con người như đang tự hỏi mình về thân phận đất nước, thân phận làm người như người đàn ông.
Cách mạng bùng nổ. Mùa thu đấu tranh. Toàn nước đánh đuổi thực dân dành độc lập. Vang khúc hành ca mừng định mệnh bị đổ vỡ. Người đàn ông có mặt trong đoàn người anh hùng ấy. Mấy chục năm sau này, từ miền Nam, lúc tuổi đời ngả bóng, ông giáo làng ngày xưa ấy hồi tưởng lại những đấu tố kinh hoàng của miền Bắc. Trong đêm đen, ông lại khốn khổ tự hỏi mình, tất cả những sự cố ấy xẩy ra có phải là định mệnh? Khởi đầu là mấy gốc khoai bới trộm ở khu vườn nhà ông Lý, rồi "định mệnh" đưa ông vào say mê cách mạng mùa thu. Tòa án nhân dân. Trả thù. Í thức hệ. Nhận thức. Lỗi lầm. Ðủ mọi màu sắc, quay tít như chiếc chong chóng, nhưng hết gió, khi chiếc chong chóng ngừng quay, cuộc đời lại cũng trở về có một câu hỏi, thế nào là định mệnh, là số phận con người.
Ðời ông đi từ những khe hở nho nhỏ của lương tâm về số phận con người cho đến ý thức bừng lên, vỡ òa ra như quả trứng bị đập vỏ, ông hoàn toàn phủ nhận con người không sinh ra từ định mệnh và phải chấp nhận định mệnh. Cuối đời nhìn lại một kiếp sống đi qua, ông thấy cái mầm của mọi thứ chủ nghĩa cũng chỉ là một ý thức hệ về số phận con người như ông đã từng đối kháng. Ông không chấp nhận nhìn những ruộng khoai dư thừa kia mà lũ con mình đói không có ăn. Ông nhớ rõ lắm cái đêm quyết định xách bao đi về hướng cuối ruộng khoai. Ông cũng sợ bị bắt chứ, ông cũng sợ tiếng đời mỉa mai chứ, nhưng ông không sợ tiếng lương tâm. Một sự đứng dậy rất sâu trong tiếng nói của lương tâm cho phép ông dứt khoát giật lên những gốc khoai vì lũ con đói lạnh quá.
Từ tiếng gọi đối kháng của hai dòng sông cách biệt, tiếng gọi đứng lên tháo chiếc mặt nạ định mệnh xuống, người đàn ông yêu mến Marx trong nhận thức khi Marx nói tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ con người. Sau này, nhìn lại những biến cố đi qua, ông thấy những người rao truyền tôn giáo cũng mang một tội không nhỏ khi tôn giáo không trả lời rõ ràng thế nào là số phận đời người. Nếu tôn giáo gỡ chiếc mặt nạ định mệnh xuống thì liệu Marx có cơ hội đứng ra thay thế tôn giáo để gỡ nó không? Sau Marx, cả Châu Mỹ La Tinh với cái gọi là nền thần học giải phóng cũng chỉ là loay hoay như Marx, tìm cách tháo gỡ cái mặt nạ định mệnh 75 phần trăm dân chúng nghèo đói trong khi tất cả đất đai nằm trong tay có 25 phần trăm thuộc giai cấp thống trị. Ông không cần tôn giáo nói gì, nhưng tiếng nói đi tìm sự công bình, đối với ông là tiếng nói lương tâm. Ðối với ông, tôn giáo nào không đi tìm sự công bình là tôn giáo giả hiệu.
"Tại sao những tay phú ông tin rằng họ được may mắn là do định mệnh trời ban mà không tin rằng tiếng gọi cách mạng mùa thu cũng chỉ là định mệnh của ý trời?" Người đàn ông cười nửa miệng. À, thì ra ai cũng tin số mệnh. Chỉ khác là những gì đe dọa đến cơ nghiệp họ thì đấy không phải ý trời, họ sẽ chống lại. Thuyết nhà Phật bảo cứ bỏ tham sân si đời sẽ bớt khổ. Thuyết nhà đạo bảo hãy yêu thương nhau đời sẽ hết khổ. Sau cùng thì Marx đến với búa và liềm.
Thế nào là công bình, là may mắn? May mắn có là một định mệnh trời dành riêng cho ai thì người ấy được không? Từ ngày bị bắt vì trộm khoai, rồi theo tiếng nhạc quân hành của mùa thu cách mạng, rồi nhiệt thành giơ cao lá cờ tổ quốc, đến hối tiếc, đến bỏ Bắc xuôi Nam, rồi cuối đời nhìn lại, người đàn ông vẫn không định vị được thế nào là may mắn, là duyên số.
Ðấy không phải là ý thức xót xa riêng của người đàn ông. Nhiều kẻ mở nắp giếng ấy ra rồi vội vàng đóng lại. Có người nhìn sâu xuống, sau cùng chóng mặt tự kết thúc đời mình. Có người lần mò tìm vào tôn giáo để giải quyết, chân bước se sẽ không dám đi mạnh, nên tôn giáo lại không giật mình đủ tỉnh mà trả lời.
* * *
Suy Tư: Soi bóng mình qua người đàn ông, tôi thấy ngôn ngữ của tôi phải cực nhọc mà không nói được rõ nghĩa của số phận và cơ may là gì. Cơ may nào cũng có những nguyên nhân rất sâu để rồi đến cõi cuối cùng thì dường như nó lại không còn là cơ may nữa. Nhìn xuống đời mình, số phận tôi có may mắn không? Trong tương quan so sánh thì có những cái may mắn này nhìn thấy được là do cái bất hạnh kia của người bên cạnh nổi lên. Rồi cái may mắn của kẻ khác vẽ đường cho tôi thấy bất hạnh của mình. Cứ lẩn quẩn trong một nhùng nhằng khó có lối ra.
Bỏ nước ra đi, tôi không biết định mệnh hay cơ may cho tôi ngày hôm nay ngồi đây soi đời mình trong những suy tư của người đàn ông trong câu chuyện tôi đang viết. Nếu không ra đi, có lẽ biết đâu bây giờ tôi đang chấp nhận số phận như hàng triệu người Việt Nam vượt biên không thành đang lầm lũi ở một cánh đồng nào đó. Và có lẽ sẽ chẳng bao giờ để nổi lên một ý thức muốn đem những định đề số phận, cơ may này xuống chữ nghĩa. Tôi có may mắn hơn nhiều người, điều ấy đúng chứ.
Nhưng cái may mắn ấy là gì? Hai mươi năm may mắn cắp sách đến trường với chữ nghĩa là cái giá phải trả không rẻ. Số tiền lớn ấy đến từ đâu? Giáo Hội đã tốn biết bao nhiêu tiền cho tôi từ những năm đầu đời trung học cho tới ngày thành linh mục, tiền ấy đến từ những bàn tay có khi rất nghèo như của bà góa trong Phúc Âm. Tôi có thể gọi đời tôi là may không? Không có những con người như bà góa trong Phúc Âm đóng góp cho Giáo Hội thì hôm nay tôi thế nào? Tất cả đó là những chi phiếu mang ơn, cách này hay cách khác, ý thức hay vô thức, biết hay không biết. Nếu đã là may thì không đi tìm nguyên nhân được. Nếu đã là may thì có cần trả ơn? Có nguyên nhân thì làm sao mà gọi được là may? Hai mươi năm cắp sách đến trường, chợt nhìn thì xem ra tôi may mắn, nhưng may mắn nào cũng có những nguyên nhân, có khi xa, có khi gần, chỉ có điều tôi có nhận đó là nguyên nhân hay không thôi. Mắt xích này nối vào mắt xích kia, tận cùng, tôi thấy cái mà người ta thường gọi là may mắn chẳng còn gì là may mắn nữa.
Nếu hôm nay những người con ông Lý có thành công, thì cũng nhờ cái giàu có của ông Lý để lại. Ông Lý giàu có nhờ những mẫu ruộng mênh mông kia thật đấy, nhưng ông có được những mẫu ruộng ấy là nhờ có những con người nghèo khó như người đàn ông nọ. Vì nếu ai cũng nhiều đất đai như thế thì làm sao ông làm chủ như vậy được, làm sao con cái ông có của cải mà thành công.
Cái giếng ý thức này sâu thật. Có lẽ vì thế không ai muốn nhìn kỹ. Nhìn kỹ, nhìn lâu có thể nó quật ngược lại nhiều dòng suy tư đã cố định từ lâu. Cái bật rễ đó tốt hay xấu chưa là vấn đề nói tới, nhưng mới thấy bật rễ, điều ấy đã làm con người hoảng sợ. Khi nói người ta may mắn nên được cuộc sống khá giả. Ðiều ấy tự động cắt nghĩa là tôi không mang ơn ai, nợ ai. Sau cùng, con mộc kết luận được đóng xuống là vì không mang ơn nghĩa nên tôi không có trách nhiệm phải chia sẻ những gì tôi có được với những kẻ nghèo đói. Cái bi kịch của người đàn ông năm xưa bên sân nhà ông Lý là thế. Ðối với ông Lý, ông có cơ may sinh ra là thừa hưởng cơ nghiệp của tổ tiên để lại. Ông không nghĩ là có trách nhiệm về cái bần cùng của người đàn ông.
Cách mạng mùa thu với 30 năm nội chiến, với mấy trăm ngàn người bỏ mình trên sóng xanh rợn biển cả, với 70 triệu người nghèo đói hôm nay cũng là phát xuất từ ý thức chống lại cái tự cho mình là có cơ may không cần phải san sẻ với những con người như người đàn ông kia. Tự hỏi mình thế nào là may mắn, tôi thấy cái giếng ấy sâu quá, khó mà trả lời. Không có cái may nào mà không liên quan đến cái rủi của người khác. Khi tôi may mắn nhặt được cây vàng này thì ai là người không may đánh mất nó? Khi tôi may mắn vào được hãng xưởng này thì ai là người không may đã bị từ chối? Khi tôi may mắn được một nền giáo dục như thế này, đạt được mảnh bằng như thế kia để hôm nay tôi có thể thu về hàng chục ngàn đô la, khi tôi được ngồi trên chính thể này làm chủ hàng chục mẫu đất, tôi có thực sự là may mắn không? Mặt trái đất này chỉ có thế, khi tôi dẵm chân chiếm giữ khoảng đất này thì người khác mất chỗ. Tất cả những gì mà tôi tưởng tôi không có trách nhiệm chia sẻ với con người chỉ vì tôi không mang ơn họ dường như chỉ là luận lý đến từ một lý luận thiếu luận lý.
Ông giáo làng theo tiếng quân hành ca dưới ngọn cờ Marx vì Marx muốn lấy liềm để cắt, búa để đập. Với búa và liềm, Marx nghĩ con đường ấy thức tỉnh cái ý thức ngủ mê kia về liên hệ huynh đệ giữa con người và con người. Marx muốn xây dựng một thế giới bình đẳng. Có thể Marx có lòng nhiệt thành, nhưng điều sai lầm cay đắng của Marx là tiêu diệt lương tâm. Í thức thế nào là may mắn, định mệnh, chia sẻ giữa con người với con người, không phải chỉ cần tri thức soi sáng là thấy, nhưng cần năng lực yêu thương để thực hiện. Ðiều này cần đến tôn giáo. Chính Ðức Kitô đã khởi xướng ý thức này bằng ý thức tôn giáo sâu nhất trong tôn giáo của Ngài. "Ai cho những người bé nhỏ này một bát nước lã là cho chính Ta." Ðó là một tuyên ngôn vô cùng siêu bạo về ý thức tôn giáo của Ngài lập ra. Nó siêu bạo và trở nên căn bản vì Ngài đồng hóa chính Ngài là Thượng Ðế trong thân phận một kẻ nghèo. Marx và những người theo Marx hô hào một ý thức bênh vực người nghèo nhưng họ không bao giờ dám đồng hóa họ với người nghèo như Ðức Kitô. Chính vì thế người nghèo chỉ trở thành phương tiện đấu tranh mà thôi. Các thầy tư tế đóng đanh Ðức Kitô cũng vì Ngài chống một ý thức tôn giáo dùng giáo điều cai trị. Ngài quật dậy ý thức không ai có quyền nhận mình may mắn hơn người khác mà chối từ trách nhiệm giúp đỡ kẻ nghèo hơn mình. "Các ngươi nhận nhưng không thì cũng hãy cho đi nhưng không". "Có gì tôi có mà không là do từ Thiên Chúa." Dọc theo giáo lý của Ngài là tiếng kêu sống dậy ý thức ấy. Ðiều đó đụng chạm vào tư lợi của một lớp người, sau cùng Ngài phải chết. Tôn giáo không sai, con người sử dụng sai tôn giáo. Tôn giáo không là thuốc phiện, chỉ có những con người sử dụng tôn giáo như thuốc phiện. Như thế, đáng lý Marx phải dùng tôn giáo mà làm đòn bẩy cho cái ý thức hệ kia. Nhưng Marx đã lầm lớn khi khai trừ tôn giáo. Cái lầm bi đát của những người theo Marx là họ tưởng chỉ cần tiếng kèn thúc quân sẽ làm bừng sáng lên cái ý thức con người hãy chia sẻ với con người. Họ tưởng rằng tiếng đạn AK là đủ khua vang lên ý thức ấy. Họ không biết rằng ý thức chỉ là phạm trù trí tuệ, còn hành động chia sẻ thuộc phạm trù yêu thương, nó cần xám hối, cần xót xa, cần rung động của con tim. Ðiều này chìm trong tôn giáo.
Mấy mươi năm sau ông giáo làng thuở xưa mới thấy cái ngày ra đi sau sự cố bị trói ở sân nhà ông Lý là bồng bột quá. Cuối đời, ông cố sống thảnh thơi. Vì ông cũng cho rằng ông Lý đối xử tệ với ông cũng chỉ vì những ý thức thế nào là may mắn, là số phận trời cho là một ý thức nghèo nàn mù mờ trong trái tim ông.
* * *
Sang ngày thứ ba, ông Lý tha cho ông giáo làng kia về. Nhưng mộng và thực lại dính chùm vào nhau, không biết đâu mà lường. Cái nhìn thương tình của ông Lý hôm đó là một hỏa ngục trá hình. Ngay khi ông Lý bảo tay tá điền cất rổ khoai đi, ông biết ông phải làm gì đối với tay ăn trộm khoai này. Chung quanh nhà ông có tường xây, tre mọc kín. Mấy tay tá điền dắt kẻ bị bắt trộm ra bên giếng trừng phạt. Con dao phay sáng choang như mới mài. Kinh hoàng. Ông giáo làng run cầm cập không tin vào mắt mình. Chuyện gì nữa đây? Thực hay chỉ là mơ? Con dao thật à?
Chỉ ít lâu sau, tin ông giáo biến mất loan đi khắp làng. Ông đi đâu? Ông đi từ hồi nào? Không ai biết được. Sau bóng hình ông, còn lại chỉ là những câu chuyện thêu dệt của những tay giàu óc tưởng tượng.
Cuộc đời thăng trầm như những ý thức hệ trong lịch sử, bay nhào nhào như cánh chuồn chuồn rồi cũng ào ào lao xuống như con diều đứt giây. Rồi cũng lại thực hay mơ, bỗng dưng một ngày ông Lý không còn sản nghiệp gì. Nào là cải cách ruộng đất, nào là đấu tố cường hào ác bá, nào là xây dựng thế giới đại đồng dưới ngọn cờ chủ nghĩa Mác Lê. Mới hôm qua nhà cao cửa rộng, qua một đêm đổi đời ông Lý thành trắng tay. Bây giờ không phải là người đàn ông ăn trộm khoai hỏi mình nữa mà là ông Lý: "Chỉ là mơ hay là thực?" Mùa thu cách mạng bay về đem khói Marxist chảy khắp mọi nẻo đường quê. Ông Lý bị tố là cường hào ác bá, điền chủ độc ác. Ðến phiên ông lầm lũi bỏ của chạy lấy người.
* * *
Thăng trầm có là định mệnh? Ông Lý bị hành quyết mà không chết. Cách nào trốn vô Nam được thì không ai biết.
* * *
Vùng quê, nên hầu hết ai cũng chỉ cho ông ăn mày gạo thôi. Ông ăn mày ngả nón, hai tay hứng chiếc túi đựng gạo. Gia chủ cũng là một ông già, cố bốc mà gạo cứ rơi. Bàn tay ông già chủ nhà bị cụt hai ngón, vụng về mấy ngón còn lại cố bốc mà lòng bàn tay trơn tru quá, gạo cứ rơi xuống thôi. Tay ông không còn khỏe nữa, run run đổ gạo vào bao cho ông ăn mày. Bàn tay cụt mấy ngón cứ chìa ra với đám gạo rơi trước mặt ông già ăn xin. "Ông cảm phiền vậy nhá, tay tôi bị cụt nên làm cái gì cũng khó khăn." Ông già ăn xin nhìn kỹ hơn bàn tay cụt hai ngón. Cơ hồ một làn điện chạy dọc tủy sống ông lạnh buốt. Ngẩng mặt nhìn gia chủ, ông không tìm thấy nét gì quen thuộc. Thoang thoáng những bóng chớp lóe lên rối rắm của mấy mươi năm trước hiện về. Ông chợt nhớ lại cái ngày tháng hai gió lạnh bên giếng nước với gã ăn trộm khoai. Buột miệng ông hỏi một câu mà vỡ toang một quá khứ mấy mươi năm khóa chặt. "Làm sao ông bị cụt mấy ngón tay thế?". Ông già chủ nhà đáp:
Chuyện thì dài lắm cụ ơi, nhưng cụ hỏi thì tôi cũng kể cụ nghe, già rồi chả biết có còn gặp cụ được mấy lần. Thoát chốc mà cuộc đời trôi qua có ai ngờ. Ðời cứ như thực như mơ. Tôi chẳng giấu gì cụ, ngày xưa ở Bắc thì cụ biết đấy, nghèo quá, nhiều người phải đi mò trộm củ khoai, đào trộm củ chuối mà ăn. Vào năm ấy mất mùa đói kém quá thể, "đói cho sạch rách cho thơm" cụ ạ, nhưng nhìn mấy đứa con không có ăn tôi cầm lòng không nổi, một đêm nọ tôi đào trộm khoai nhà ông Lý. Chẳng may bị bọn tá điền bắt. Tôi thấy ông không nói gì, cảm động quá vì thấy ông thông cảm thương tình hoàn cảnh tôi. Nào ngờ ông cho lũ tá điền dẫn tôi ra bên giếng nước xem bàn tay nào bới khoai rồi chặt đứt mấy ngón.
Ông già ăn mày cúi đầu chú ý nghe. Còn gia chủ, đã mấy mươi năm với bàn tay cụt hai ngón mà không hề có ai thắc mắc hỏi han gì, lần đầu tiên kể từ ngày xẩy ra sự cố, bây giờ mới có người hỏi đến lịch sử của nó, ông xúc động kể. Như người sắp xa cuộc đời, ông muốn tâm sự cho vơi nỗi niềm hay cho sống lại một quá khứ bi tráng nhất đời. Ông chậm rãi tiếp thêm câu chuyện:
Hồi ấy tôi là ông giáo làng, cụt mất mấy ngón tay cầm phấn rồi làm sao mà dạy học được nữa, vả lại còn mặt mũi nào với dân làng. Tôi bỏ làng đi biệt, bỏ nghề giáo tôi cũng bỏ luôn lương tri nhà giáo. Như cụ biết đấy, cha ông thì bảo "giấy rách phải giữ lấy lề", từ ngày ấy tôi bảo giữ làm gì nữa. Tôi theo tiếng gọi cách mạng mùa thu. Chỉ mấy củ khoai rồi mấy ngón tay mà đem đời đi xa như thế đấy. Bây giờ nghĩ lại thấy đời như bóng mơ. Tôi cũng chẳng oán trách ai. Tôi kể cụ nghe, vì cho đến bây giờ tôi vẫn không hối hận việc mình làm, tôi không mắc cỡ vì mấy củ khoai, tôi không ăn trộm, tôi chỉ đi tìm sự sống. Có điều hối hận là sau sự cố ấy tôi đem đời mình vào cuộc chơi phiêu lưu quá, theo ngọn cờ búa liềm đi xa quá. Giá mà tôi không mất mấy ngón tay... giá mà ông Lý có một chút xót thương... ông ấy dư thừa gạo thóc mà.. giá mà tôi không mất cái lương tri nhà giáo... giá mà...
Ông già ăn mày run lên, hai vai rung rung, khụy xuống. Ông khóc. Ông già chủ nhà nghĩ đến chuyện xưa với bao nhiêu trăn trở đường đời cũng xúc động ứa lệ theo. Trời chiều đang tắt nắng. Ðến mùa thay lá, những chiếc lá xoài khô rụng xuôi bỏ cành. Hai ông già ngồi bên nhau, câu chuyện cũ làm nước mắt rơi trong chiều xuống muộn. Ông già chủ nhà ngồi ôm tay trên đầu gối. Bàn tay cụt hai ngón run rẩy trước mặt ông ăn mày.
Hình ảnh bàn tay cụt hai ngón kia xói buốt vào tim ông già ăn mày. Ông già chủ nhà kể tiếp:
"Tội nghiệp cuộc đời, tôi nghe sau này ông Lý cũng khổ lắm, ông bị đấu tố rồi không biết trôi dạt nơi đâu, cuộc đời chóng qua thế đấy. Không biết ông Lý có còn sống không".
Những âm thanh sau cùng rót vào hồn ông già ăn mày và đọng lại.
Ông già chủ nhà đâu có biết ông ăn mày kia chính là ông Lý ngày xưa của mấy mươi năm về trước.
Sau cuộc đấu tố thoát chết, ông Lý trốn được vô Nam. Mất hết cơ nghiệp, gia đình bị đấu tố chết cả. Ông mang thân tật nguyền, đi xin ăn, sống nhờ lòng thương xót của mấy xóm đạo cho đến hôm nay.
Mấy mươi năm về trước, cũng cái bàn tay mà ông giáo làng ra đi biệt tăm. Mấy mươi năm sau, cũng cái bàn tay, nhưng lần này kẻ ra đi biệt tăm lại là ông Lý. Ông ăn mày nhìn bàn tay cụt hai ngón mà chính ông ra lệnh cho bọn tá điền chặt đứt đang run rẩy trước mặt ông. Ông không dám ngẩng mặt sợ ông già chủ nhà có thể nhận ra chính ông là ông Lý của cái đêm nghiệt ngã ấy.
"Nếu tôi không chặt đứt hai ngón tay kia thì hôm nay với bàn tay năm ngón lành lạnh sẽ bốc gạo cho tôi dễ dàng biết bao." Nhìn lại bàn tay cụt hai ngón lúc xúc gạo cho ông, gạo cứ rơi xuống hoài. Ông Lý đau xót khi thấy chính bàn tay đang làm phúc cho ông là bàn tay ông đã ra lệnh chặt. Vì mất hai ngón nên bàn tay làm phúc ấy hôm nay muốn xúc cho ông mà gạo cứ rơi xuống. Nếu bàn tay kia lành lạnh thì cái phúc bàn tay ấy làm cho ông hôm nay sẽ nhiều hơn. Hình ảnh đó siêu bạo quá. Cái phúc hay cái bất phúc là do mình tạo nên. Nhân quả đi với nhau trong đời. Người ta không trốn được cái nhân quả ấy. Nhân quả thuyết nhà Phật dạy rằng ai làm ác sẽ đầu thai trong kiếp ác. Thuyết nhà Ðạo tin có ngày Chúa phán xét, tội mình làm sẽ cưu mang mình trong kiếp sau. Ðạo nào cũng đi tìm cái căn nguyên hạnh phúc là yêu thương. Vắng yêu thương thì chính đạo cũng thành tà đạo.
Sau buổi chiều gặp gỡ ngoài tầm không ngờ đó, ông già ăn mày đi mất bóng như tôi đã viết ở đoạn trên. Chẳng ai biết ông đi về đâu. Ông về cõi buồn phiền hay bất mãn? thiên đàng hay hỏa ngục? phẫn nộ hay tỉnh thức?
Trích Tập Truyện Ngắn sắp xuất bản của tác giả Nguyễn Tầm Thường.
Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ Trung Tâm Truyền Hình Quang Khải, Ðài Loan Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan
Có một người tên Tetsugen. Ông là một tâm hồn Thiền ở Nhật bản mơ ước in các tập kinh điển Thiền Sutra cho dân Nhật. Bấy giờ kinh điển của Thiền mới có bằng tiếng Trung Hoa bên Tầu. Ông lặn lội khắp nơi xin tiền. In bằng bản khắc trên gỗ, công trình rất cam go, tốn phí. Sau mười năm dành được tiền, sắp đem in kinh, dòng sông Uji ngẫu hứng dâng nước tràn ngập, lụt lội khắp miền. Dân chúng lâm cảnh màn trời chiếu đất, mất mùa khốn khổ.
Băn khoăn trước số tiền mười năm quyên góp được, in kinh hay cứu người?
In kinh để truyền bá một triết lý, gầy dựng cả một suy tư tôn giáo. Cứu người chỉ là giai đoạn nhất thời. Rồi ai mà không chết? In kinh có thể lưu danh lại tên tuổi. Ấy vậy mà Tetsugen không đành lòng đem tiền in kinh. Ông bỏ hết số tiền tích góp mười năm trời giúp nạn nhân lụt lội của dòng sông Uji. Thế là công trình mười năm với giấc mộng truyền bá Zen cho dân tộc Nhật theo dòng sông nước đục chảy vào hư vô.
Tha thiết với tấm lòng, ông lại lên đường hành khất xin tiền lần nữa. Mấy năm sau, dành dụm được một số tiền, ai ngờ một nạn dịch lan tràn, bao nhiêu người chết, động lòng trắc ẩn, ông lại đem hết tiền in kinh giúp người khốn khổ. Thoáng qua đã mười mấy năm. Tuổi đời theo thời gian ngắn lại.
Hết tiền in kinh, lòng ông vẫn tha thiết, ông lên đường xin lần thứ ba. Mất mấy năm nữa, lần thứ ba này ông in được bộ Sutra. Thấm thoát hai mươi năm. Bản in gốc của bộ Sutra hiện còn lưu giữ tại Obaku, thiền viện ở Kyoto. Tôi đọc câu chuyện này ở Thiền viện Bodhi Zendo, Ấn Ðộ trong cuốn Zen Flesh, Zen Bones (trang 44).
Trên đây không phải câu chuyện dụ ngôn để dạy thiền sinh. Nó là tấm lòng có thật. Một trái tim bồ tát, trái tim Chúa Kitô. Có những dòng sông và những định mệnh. Có nhiều dòng nước phù sa, lụt lội. Dòng sông và lời kinh ở đâu cũng có. Nhưng những tấm lòng dám hy sinh lời kinh vì lấy con người làm chính lời kinh thì không nhiều. Bởi nó là một lối suy tư rất khác. Ôi! những con người với những tấm lòng.
Hôm nay, nhắc nhở đến Tutsugen, dân Nhật giáo dục con cái họ là Tetsugen đã in ba lần bộ kinh Sutra. Lần thứ nhất ông in bộ kinh ấy trong trận lụt của dòng sông Uji. Lần thứ hai in trong cơn bệnh dịch của xứ sở. Lần thứ ba in bằng mực. Hai lần trước vô hình không nhìn bằng mắt xác thịt được, nhưng hai lần ấy cao cả linh thiêng hơn lần thứ ba.
Ðền thờ Jêrusalem đẹp thế, các môn đệ xít xoa khi đi ngang qua, thế mà Chúa chẳng để ý. Chúa bảo đền thờ là một tấm lòng.
Trong bối cảnh hôm nay, giả sử Tetsugen là linh mục, là ông trùm, ông biện, có thể ở Việt Nam, ở Ấn Ðộ hoặc bất cứ nơi đâu, ông sẽ xử trí ra sao? Giả sử ông là tu sĩ trưởng, ông sẽ hướng dẫn cộng đoàn, ông sẽ suy tư thế nào với lối sống Tin Mừng trong lòng dân tộc nơi ông sống?
Nhóm trẻ hai mươi hai người. Một người đàn ông Nhật Bản độ ngũ tuần và tôi là hai người lớn tuổi nhất. Tôi đến đây để quan sát và nghe đám trẻ nói gì về kinh nghiệm sống của họ trong những ngày làm thiện nguyện với các sơ dòng Mẹ Têrêsa ở Calcutta. Trong nhóm hai mươi hai người, khi tự giới thiệu, tôi nhớ được họ đến từ Pháp, Úc, Thụy Ðiển, Nhật, Mexico, Ðức, Mỹ, Bỉ, Singapore, có hai cô bé Việt Nam Tuyết Anh và Lan đến từ Na Uy.
Họ bỏ mùa hè qua làm việc giúp người nghèo, săn sóc các em bé mồ côi trong nhà của các sơ dòng Mẹ Têrêsa. Cha Robert Drugman, một linh mục dòng Tên, người Canada qua Ấn Ðộ truyền giáo từ ngày còn là thanh niên mở lời chào nhóm bạn trẻ:
- Các bạn thân mến, tôi nhân danh Mẹ Têrêsa chào các bạn. Tôi nhân danh Mẹ vì ngày còn sống, Mẹ đã trao công việc này cho tôi, là mỗi tháng một lần, tôi hướng dẫn các bạn, chúng ta cầu nguyện và nói chuyện với nhau. Vì sao các bạn đến đây? Ngày còn sống, Mẹ Têrêsa dặn tôi hai điều này:
Trước hết, các bạn là chứng nhân. Những người Ấn bỏ bị bỏ rơi bên lề cuộc sống luôn nghĩ rằng quốc gia các bạn là thiên đàng. Họ là những người mang mặc cảm thế giới từ chối, hất hủi họ. Khi các bạn đến đây, các bạn làm họ phải đặt vấn đề, là thiên đàng tại sao có người bỏ thiên đàng đó, đến đây sống thiếu thốn với những người khốn khổ như họ. Ðặt vấn đề như thế họ sẽ thấy vẫn còn có những tình yêu. Trong ý nghĩa ấy, các bạn là chứng nhân.
Ðiều thứ hai, các bạn học hỏi được gì? Ra về các bạn sẽ sống thế nào với đời mình và với người chung quanh?
Cha Robert Drugman cũng như các linh mục thừa sai khác, họ là những thanh niên đáp lại tiếng gọi truyền giáo của Chúa lúc còn là thanh niên. Hầu hết các cha thừa sai ngoại quốc còn sống sót ở đây, họ đến Ấn Ðộ lúc khoảng hai mươi mốt hay hai mươi bốn tuổi. Năm nay cha Robert Drugman đã bẩy mươi tư tuổi. Sau buổi nói chuyện với nhóm thiện nguyện viên, tôi tò mò về con người này.
Có lần cha Robert mời tôi lên phòng ngài. Căn phòng quá đơn sơ. Dáng cha bước đi dường như bao giờ cũng vất vả, bước vội vã, lúc nào cũng mồ hôi ướt đẫm áo. Ở Ấn Ðộ phải ngủ trong mùng, muỗi rất nhiều. Chiếc mùng của cha quá ngắn. Bốn cọc mùng cao lêu khêu, chiếc mùng bắt ngang lưng cọc, chui vào vất vả. Phòng không trang hoàng gì, chiếc giường trơ trọi ở giữa. Lúc cha tìm cuốn sách trong thùng giấy ngài muốn tặng tôi, tôi nhanh tay quét xuống mặt bàn xem có bụi dơ không hay vì nó quá cũ.
Lần kể chuyện Mẹ Têrêsa gặp người đàn ông chết vì không nhà thương nào chịu nhận, cha Robert nói thêm:
- Mẹ cứ nghe tiếng Chúa kêu "Ta khát."
Sau này, khi đến làm việc trong nhà dành cho người sắp chết. Tôi thấy trên tường treo nhiều hình Chúa chịu nạn trên thánh giá với hàng chữ to bên dưới: I Thirst. Ta khát. Ðiều cha Robert nói về kinh nghiệm thiêng liêng của Mẹ Têrêsa rất hợp lý, nếu không vì sao có nhiều tấm hình như vậy khắp nơi (chuyện Mẹ Têrêsa thấy người đàn ông sắp chết sẽ kể vào dịp khác).
Thiền sư Zen Tetsugen đã in lời kinh Sutra bằng tình yêu con người hơn là trên giấy. Mẹ Têrêsa cũng in những lời kinh Sutra bằng lòng xót thương chứ không bằng mực. Thầy Bà La Môn kia cũng không in lời kinh bằng lề luật mà bằng lòng trắc ẩn.
Tôi rời Ấn Ðộ một chiều cuối tháng Năm với hình ảnh những nhà truyền giáo như cha Robert, với hình ảnh những bạn trẻ đến Calcutta thiện nguyện. Họ đang tìm cho đời họ những cách in lời kinh.
Trời tháng Năm, dọc đường từ thành phố Calcutta ra phi trường rực đỏ màu hoa phượng. Mầu phượng cũng rực rỡ như những lời kinh. Tôi thấy cuộc đời rất đẹp. Trong dòng đời vẫn luôn luôn có những trái tim nôn nao yêu thương như loài phượng vỹ nở đỏ rực dọc theo đường đi.
(Trích từ Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục, sắp xuất bản)
ÐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II VÀ NHỮNG LÀN KHÓI Bài 100.
Nguyễn Tầm Thường
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Một trong những lời căn dặn của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước khi chết là: Tiếng chuông và những làn khói.
Họ đến Roma để chứng kiến giây phút lịch sử. Chờ công bố Giáo Hoàng mới.
Nếu không vỗ tay khi làn khói bay lên, lỡ là khói trắng, họ mất cơ hội là những người đầu tiên reo mừng vì chứng kiến làn khói lịch sử.
Nếu vỗ tay mừng mà là khói đen thì giây phút lịch sử ấy lầm lỡ quá.
Media, truyền thông khắp thế giới quay ống kính vào làn khói. Không biết bao nhiêu nghìn phóng viên quốc tế chỉ chờ giây phút lịch sử ấy để mình là người đầu tiên loan tin về một làn khói. Không biết mấy trăm triệu người theo dõi truyền hình về một làn khói.
Người ta bực mình về một làn khói. Không đen, không trắng.
Thế kỷ này, người ta chứng kiến, người ta sống một trời lịch sử về những làn khói.
Con người hôm nay đang khủng hoảng về những giá trị không rõ trắng, rõ đen.
Trước khi vĩnh biệt trần gian, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để lại tiếng chuông trước những làn khói.
* * *
Khói ở công trường Roma không nhiều, hai mươi sáu năm nay mới lại xảy ra. Khói ở cuối sân nhà thờ thì nhiều.
- Nhóm quyên tiền giúp người nghèo.
- Nhóm quyên tiền bảo trì đền thờ.
- Giáo dân tổ chức raising fund.
- Linh mục tổ chức raising fund.
Nhóm nào cũng muốn khói mình bay cao, bay xa. Nhóm nào cũng muốn mọi người chú ý đến ống khói của mình. Lúc này cuối sân đền thờ rất nhiều thứ khói.
- Có khi giáo dân trách linh mục về raising fund. Cuộc đời họ là chạy theo nhu cầu để raising fund rồi, ít được học về Chúa, khi đến nhà thờ, họ xin các ngài hãy nói cho họ về Chúa.
- Có khi giáo dân lại xin các ngài raising fund. Họ rủ các ngài vào nhóm raising fund. Họ tập cho các ngài raising fund. Họ dựa vào các ngài mà raising fund.
- Có khi linh mục muốn raising fund nhiều hơn giáo dân.
Cuối sân giáo đường hôm nay, khói bay muôn hướng.
Rồi từ những làn khói bay. Có người cay mắt. Có tiếng kêu. Có người mắt cay mà không kêu. Có người kêu mà khói vẫn bay. Từ những làn khói, có người bỏ cuối nhà thờ đi chỗ khác. Thì cũng từ những làn khói, có những người bỏ nhà thờ từ lâu, nay lại tìm đến. Ðó là kỳ diệu của những làn khói. Có làn khói làm người đi xa. Có làn khói đem kẻ khác lại gần.
Lời Kinh Và Những Làn
Cha Nguyễn Văn Quang, một linh mục người Việt Nam, coi một họ đạo lớn người Mỹ ở Greeley, gần Denver, Colorado. Một ngày chúng tôi lên núi Rocky Mountains. Trong câu chuyện đời sống linh mục. Chúng tôi nói chuyện với nhau.
- Mình là linh mục mà 60 phần trăm thời gian phải lo administration mất rồi. Có cuối tuần mất hàng tiếng đồng hồ chỉ ký checks cho nhân viên. Thế này thì hỏng, phải xét lại.
Linh mục được huấn luyện để nói về Chúa. Vai trò quan trọng của linh mục là sứ ngôn. Công bố Lời Chúa. Chúng tôi không được huấn luyện để raising fund. Nếu có linh mục kém raising fund, xin giáo dân đừng trách, đừng đòi buộc và so sánh. Khi có những linh mục raising fund giỏi, giáo dân ca tụng. Họ nhờ, họ xin các linh mục đó raising fund. Ca tụng linh mục này raising fund giỏi, chê linh mục kia kém, từ đó, giáo dân đưa dần làn khói, rất tiếc, không đen, không trắng vào cuối giáo đường, và có thể làm cay mắt nhiều tâm hồn.
Linh mục mà phải lo administration, phải lo đối phó với nhóm này, nhóm kia, phải raising fund, phải lo trả lời phỏng vấn, phải lo nhiều thứ quá, làm sao có thời giờ soạn bài giảng, làm sao có thời giờ đọc văn kiện Giáo Hội, làm sao có thời giờ nhận định xem khói đang bay về đâu, khói luân lý, khói đức tin, khói văn hóa, khói xu hướng, khói trong Giáo Hội, khói ngoài cuộc đời.
Trong những cuộc raising fund, làm cách nào để tránh được khói cạnh tranh?
Khi linh mục có mặt trong các chương trình này, dù tốt đến đâu, nếu có sự cạnh tranh, sẽ có "triệu người vui, và triệu người buồn." Khói sẽ làm kẻ này đến nhà thờ, khói cũng làm kẻ khác bỏ đi. Nếu một việc mà như thế, một mục tử có nên làm không? Hay là trở về với bục giảng, để an ủi kẻ này bị khói làm cay mắt đừng bỏ nhà thờ đi, và cảnh tỉnh kẻ kia đừng lấy khói làm ai cay mắt.
Ðức tin không có lòng xót thương, nó không có địa chỉ để về.
Lòng xót thương dễ ngộp thở trong một thế giới cạnh tranh.
Muốn giết lòng xót thương, có lẽ không khó. Cứ khen cha kia tổ chức giỏi, chê cha này giảng dài. Khen ông chủ tịch cũ, nhờ ông mà cộng đoàn mua được miếng đất. Hỏi ông chủ tịch mới, khi nào hội đồng mục vụ mới xây tượng đài? Nói Rollo hay thế sao kỳ này họ không mời? Cứ so sánh, khen và chê, sẽ thấy sinh họat xứ đạo ngộp thở, nhiều tâm hồn khốn khổ và lòng xót thương có thể sẽ chết tự bao giờ.
Khi một đoàn thể Công giáo tiến hành mà chỉ mong đoàn thể mình thành công hơn đoàn thể kia, thì đâu là Công Giáo tiến hành? Khi một dòng tu mà chỉ muốn dòng mình phát triển. Thành công của Phúc Âm là gì? Ðối với việc tông đồ, làm sao có thể cổ võ kẻ khác bỏ tiền vào quỹ người nghèo do mình lập nên, đừng bỏ tiền vào quỹ kia? Nếu thế, đâu là lý chứng biện minh cho lòng bác ái và hành động như vậy? Nếu không, cứ khuyến khích người ta bỏ tiền vào quỹ kẻ khác, thì đâu là quỹ do mình lập nên? Ðó là thách thức của lời kinh và những làn khói.
Học Thuyết Phaolô: Ðược Làm Khác Với Nên Làm
Trong cộng đoàn Côrintô đã xẩy ra những chuyện được làm nhưng không nên làm. Phaolô viết:
"Ðược phép làm mọi sự" nhưng không phải mọi sự đều có ích. "Ðược phép làm mọi sự" nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. Ðừng ai tìm lợi ích riêng nhưng hãy tìm lợi ích chung. Tất cả những gì bán ngoài chợ anh em cứ việc ăn... Nhưng nếu có người bảo: "Ðây là của cúng" thì đừng ăn. Tôi không có ý nói lương tâm anh em, nhưng vì lương tâm người khác. (1 Cor. 10:23-33 - Xem chú thích câu 29, bản dịch Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ).
Phaolô cẩn thận cắt nghĩa là ăn của cúng không sao, nhưng nếu vì gương xấu cho người khác thì đừng ăn. Phaolô viết:
"Không phải của ăn làm chúng ta gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, chúng ta chẳng thiệt, mà có ăn cũng chẳng lợi gì. Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho người yếu đuối sa ngã." (1 Cor.10:8-9).
Trường hợp cụ thể xẩy ra ở cộng đoàn Côrintô là vấn đề ăn thịt cúng. Nếu dựa vào hiểu biết của mình, cứ làm, không cần biết gương mù có thể gây ra, nghĩa là biết ăn của cúng không có tội, cứ ăn, còn ai nghĩ thế nào kệ họ, Phaolô viết rất rõ về thái độ đó như sau:
"Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Ðức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc. Như vậy, phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Ðức Kitô. Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã (1 Cor. 11-13).
Không phải chỉ gởi cho cộng đoàn Corintô. Trong thơ gởi cộng đoàn Rôma, chúng ta cũng gặp những căn dặn tương tự:
"Nếu vì bạn ăn một thức ăn, mà bạn làm phiền lòng người anh em, thì bạn không còn sống theo đức ái nữa. Ðừng vì chuyện ăn uống mà làm cho người anh em của bạn phải hư mất, vì Ðức Ki-tô đã chết cho người ấy.
Vậy đừng để cho thiên hạ chê bai điều mà anh em cho là tốt. Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai phục vụ Ðức Ki-tô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. Ðừng vì một thức ăn mà phá huỷ công trình Thiên Chúa. Ðã hẳn, mọi thức ăn đều thanh sạch; nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu" (Rom. 14:15-20).
Trong hoàn cảnh xã hội hôm nay. Các vấn đề raising fund cần thận trọng. Nhưng tìm đâu tiêu chuẩn thận trọng? Có nên tìm hiểu thêm trong học thuyết này của Phaolô như một tiếng chuông không?
Những Nguy Cơ
Trong hoàn cảnh đặc biệt của người Công Giáo Việt Nam hải ngoại, raising fund là chuyện rất thường. Có khi cần. Nhiều người muốn đóng góp để xây dựng. Vấn đề là để được tốt, phải nói đến những nguy cơ để bảo vệ điều tốt kia.
1. Nguy cơ thứ nhất: Power.
Ðằng sau công việc từ thiện. Tiền bạc ngấm ngầm cho người ta power. Power ở đây mang nhiều mầu sắc:
- Power thứ nhất là chứng tỏ tài năng. Ai raising fund được nhiều, càng chứng tỏ nhiều power. Nhóm nào raising fund được nhiều càng chứng tỏ uy tín. Vì xã hội khen như thế. Ðây là tiêu chuẩn xã hội, chứ chưa hẳn là đúng vì có những giá trị thành hình là do sự lầm lẫn của kẻ khác. Có người thành công trong raising fund, rồi cho là mình có tài năng. Có kẻ thấy người khác raising fund giỏi rồi cho rằng người đó có uy tín. Có nhiều cách raising fund. Nếu khen nhóm này đóng tiền nhiều để khích cái tự ái của nhóm kia thì đấy có là do tài năng và uy tín không? Nếu vì sự dễ tin của những tâm hồn chân thành mà dẫn họ vào những con đường vòng quanh mập mờ thì đấy có là nhân đức không? Giáo Hội đã có từng thời kỳ nhân danh ân xá để kiếm tiền, và đấy là một trong những nguyên nhân lớn trong cuộc ly giáo do Luther khởi xướng. Có đường lối thật, có đường lối sai. Phúc Âm gọi những tài năng giả, đường lối sai đó là những ngôi mộ tô vôi.
- Power thứ hai là được có quyền chi tiền cho ai. Thứ power này êm dịu, kín đáo vô cùng. Nó kín đáo lẻn vào lòng người, nhưng nó lại tỏ lộ trong thái độ sống. Người ta kín đáo che đậy, nhưng nó lại êm dịu như ánh trăng chiếu ra, không giấu được.
- Power thứ ba là được người chịu ơn ca tụng. Ai cũng bảo mình không muốn kẻ khác cám ơn. Nhưng ít người chỉ raising fund mà lại không muốn "đích thân" mình về Việt Nam trao tiền thì mới chắc chắn. Có hai thứ "đích thân". Một là đến từ lòng nhiệt thành. Hai là kín đáo đến từ thứ power này.
Những power này, nó thầm kín, nhưng người ta dễ nhận ra. Những thứ Power trên đây không loại bỏ ai, giáo dân cũng như tu sĩ.
Khi không ai cắt cử mình vào công việc raising fund mà cứ có động lực thúc đẩy, thì cần cẩn thận vì có thể đàng sau động lực bác ái, đang bị những power trên đây thúc đẩy.Và đối với người dâng cúng tiền bạc cũng nên khôn ngoan nhận định những động lực này.
Tiêu chuẩn để canh chừng chính hồn mình, hoặc để khám phá ra các thứ power trên đây, thánh Phaolô đã viết cho cộng đoàn Galát:
"Hoa trái của Chúa Thánh Thần là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (Galát 5:22-23). Như thế, khi công việc dẫn tới những gì ngược với hoa trái trên đây, đấy là dấu chỉ cần thức tỉnh về những làn khói.
2. Nguy cơ thứ hai: Power.
Ðằng sau công việc từ thiện. Tiền ngấm ngầm lấy mất power của người ta. Nguy cơ thứ nhất, tiền cho người ta power có chất độc, nguy cơ thứ hai, trong power nó cho, nó lấy mất power nhân đức mình có. Power bị mất ở đây cũng mang nhiều mầu sắc.
- Power bị mất là không còn thời giờ cho đời thong thả, vì quá khắc khoải làm sao công trình của mình thành công. Với linh mục, thêm những mất mát khác, thiếu thời giờ thăm bệnh nhân, soạn bài giảng, học hỏi thêm. Và làm mình "chia trí". Tại sao Ðức Kitô quả quyết tiền bạc ở đâu thì lòng dạ ở đó. Nếu linh mục rơi vào tình trạng này thì lời giảng của linh mục mất nhiều power. Ðây là mất mát rất lớn.
- Power bị mất là có thể mất lương tâm trong sáng. Tiền dễ đi tới gian lận. Lỗi đức công bình. Cắt nghĩa quá rộng cho lương tâm của mình vào vấn đề xử dụng quỹ bác ái. Ngày còn là các chú tiểu chủng viện Têrêsa, Long Xuyên. Cha giáo Vũ Sửu, bây giờ ngài vẫn còn sống, nhưng cha già yếu rồi, ngày đó, hơn ba mươi năm về trước, miền Tây thường lụt lội, ngài nhờ chúng tôi đi ủy lạo người nghèo bị lũ lụt. Tôi nhìn những thùng xà bông. Nhiều như thế kia, nghĩ làm công tác xong, thế nào cha chẳng cho mỗi đứa một bánh xà bông. Vậy mà ngài không cho một bánh nào. Lúc đó, đứa nào mà không buồn. Nhưng ngài dạy chúng tôi, dù một bánh xà bông, phải giữ tấm lòng trong sạch. Tôi vô vàn biết ơn những linh mục rất nhân đức trong đời tôi.
- Power bị mất là không còn trái tim bao dung. Họ sẽ cạnh tranh với kẻ khác, gây gương mù. Có thể đi đến phá đám nhau. Gây chia rẽ cộng đoàn vì cần các đoàn thể khác ủng hộ mình. Người ta có thể gây chia rẽ và kiếm được trăm ngàn dễ dàng. Nhưng không dễ dàng dù chi trăm ngàn để chữa được vết thương đã chia rẽ. Trái tim bao dung và sự hiệp nhất có là tiêu chuẩn thành công theo cách thế của Nước Trời không? Việc làm của họ không còn siêu thoát. Giáo dân cũng vậy, tu sĩ cũng thế. Không nói đến tiền bạc, cách đây hơn hai mươi năm, vào năm 1984 cha Julian Elizalde, người Tây Ban Nha, hiện nay còn sống, đang làm việc ở Roma, một mình lái xe khắp các tiểu bang nước Mỹ lo tĩnh tâm cho giới trẻ Việt Nam. Tôi còn làm thày, xin theo ngài để học hỏi. Một chuyến hai cha con lái xe xuyên bang, ngài tâm sự:
- Có cha Việt Nam bảo giới trẻ nằm trong tay ông cha người Tây! Họ sợ tôi ảnh hưởng. Là pastor tốt thì phải lo cho giáo dân, đáng lẽ họ nên nhờ tôi đến giúp họ, họ lại cho rằng cho tôi đến giảng là một ân huệ.
Tôi còn nhớ mãi lời này. Xã hội này phải cạnh tranh mới sinh tồn. Cạnh tranh lẻn chui vào cả vấn đề thánh thiện của tôn giáo. Có những cộng đoàn giáo dân thiệt thòi chỉ vì pastor của họ như thế.
Những Làn Khói Hoang Mang
Khi giáo dân hoang mang về những làn khói, không biết đen hay trắng, giáo đường sẽ là nơi rất buồn. Thánh Phaolô bảo ăn của cúng không sao. Nhưng nếu gây gương mù thì đừng ăn. Nhiều giáo dân thắc mắc, tại sao linh mục cứ phải bỏ thời giờ vào những việc mà giáo dân làm được, hay vì họ thiếu khả năng? Mỗi người tự chọn cho mình một chọn lựa. Nhưng đây là nguyên tắc không thể thay thế: Dù tu sĩ hay giáo dân khi tham dự vào các raising fund thì công việc này phải là những làn khói trắng vô cùng rõ ràng, không thể xám.
Ơn gọi của người hướng dẫn tâm linh là phân biệt cho người ta khỏi lầm lẫn về những làn khói. Phân biệt cho người khác không lầm lẫn những làn khói đã khó. Chính mình làm làn khói thì phải rất trắng để người khác không thể lầm lẫn.
Mê ngủ nơi thiền sinh thì khác nơi thiền sư.
Tín đồ lầm lẫn, họ mong các vị linh hướng giúp họ phân biệt khói trắng hay đen. Khi người hướng dẫn tâm linh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình.
Ðức Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II trước khi chết, Ngài thay đổi một nghi thức rất lạ. Ðể báo Tin Mừng cho thế giới là có Giáo Hoàng mới, đền thánh Roma không được để khói bay mà thôi. Trải qua nghìn năm lịch sử, thế mà bây giờ Ngài thêm vào: Khói trắng cũng phải có tiếng chuông kèm theo.
Công việc raising fund nhiều khi không rõ đen mà cũng không rõ trắng.
Khói bay ở sân nhà thờ hôm nay nhiều khi không rõ trắng, không rõ đen.
Ðức Hồng Y Thuận đã phân biệt Chúa và Công việc của chúa.
Ðể tránh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình?
- Phải có tiếng chuông!
Ðối với giáo dân, làm sao linh mục giúp họ nhận ra tiếng chuông?
Ðối với linh mục, đâu là tiếng chuông cho chính mình?
- Phải có tiếng chuông!
Ðó là lời căn dặn của một con người đã làm xoay chiều lịch sử hôm nay.
Xin Ðức Thánh Cha cầu bầu cho chúng con. Vì cuối sân giáo đường hôm nay có nhiều làn khói khác nhau.
Phụ Chú
Cần một tiếng chuông. Chính đời Ðức Giáo Hoàng là một tiếng chuông rồi.
Có một phụ chú. Có thể chỉ là trùng hợp thôi, nhưng là trùng hợp rất đáng suy nghĩ. Ngôn ngữ Phúc Âm Gioan ở đây là tiếng chuông rất lạ, cho thấy kẻ đánh mất lý tưởng, phản bội Chúa và anh em mình là kẻ giữ túi tiền, chi tiền, quản lý tiền, là kẻ quan tâm đến người nghèo.
"Môt trong các môn đệ của Ðức Giêsu là Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp Người liền nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo." Y nói thế không phải vì y lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung." (Gioan 12: 4-6).