C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa lại: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây". C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi". C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!" C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?" C. Ông đáp: S. "Tôi không phải đâu".
C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói". C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?" C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?" C. Ông chối và nói: S. "Tôi không phải đâu". C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?" C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì". C. Họ đáp: S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan". C. Philatô bảo họ: S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông". C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả". C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" C. Philatô đáp: S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này". C. Philatô hỏi lại: S. "Vậy ông là Vua ư?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi". C. Philatô bảo Người: S. "Chân lý là cái gì?" C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?" C. Họ liền la lên: S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba". C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. "Tâu Vua Do-thái!" C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án". C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. "Này là Người". C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!" C. Philatô bảo họ: S. "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông". C. Người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa". C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. "Ông ở đâu đến?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn". C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa". C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. "Đây là vua các ngươi". C. Nhưng họ càng la to: S. "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!" C. Philatô nói: S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?" C. Các thượng tế đáp: S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa". C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'". C. Philatô đáp: S. "Điều ta đã viết là đã viết". C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy". C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. "Hỡi Bà, này là con Bà". C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. "Này là Mẹ con". C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. "Ta khát!" C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. "Mọi sự đã hoàn tất". C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Vào thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan. Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông. Chúng ta trân trọng cái nhìn bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác. Trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động. Ngài biết trước các biến cố sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự. Chính Ngài tiến ra và hỏi các kẻ đến bắt Ngài: “Các anh tìm ai?” Câu trả lời của Ngài đủ làm họ lùi lại và ngã xuống đất (18, 4-9). Đức Giêsu bình an và uy nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn, vì Ngài đã chấp nhận chén đắng Cha trao (18, 11). Khi bị vị thượng tế Khanna tra hỏi về giáo huấn, chẳng chút sợ hãi, Ngài đã thẳng thắn từ chối trả lời (18, 19-21). Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18, 23). Đức Giêsu bị đem tới dinh tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng. Philatô là người xét xử Đức Giêsu, nhưng có vẻ ông là người bị động. Ông bị giằng co giữa một bên là Đức Giêsu đang ở trong dinh, bên kia là đám đông và các nhà lãnh đạo Do thái giáo đang ở ngoài dinh. Một bên là ông Giêsu mà ông không tìm thấy lý do nào để kết tội (18, 38; 19, 4. 6). Bên kia là chức tổng trấn và chức “Bạn của Xêda” mà ông đang nắm giữ (19, 12). Philatô không biết phải theo ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này. Vì thế ông đã đi ra, đi vào cả thảy bảy lần (18, 18, 29. 33. 38; 19, 1. 4. 9. 13). Đức Giêsu đã đối thoại khá dài với Philatô về Nước của Ngài (18, 36-37), một nước không có trên bản đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực. Nước của Ngài gồm những người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật, sự thật này được Ngài làm chứng và cất tiếng nói lên. “Đây là Vua các người”, Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19, 14) và ông đã cương quyết giữ lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ: “Giêsu Nadarét, Vua dân Do thái” (19, 19). Đức Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa. Chiên Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt qua. Đức Giêsu không cô đơn trên thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu. Suốt một đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất. Chủ động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30). Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15, 13), tình yêu trao hiến cả Máu và Nước từ trái tim bị đâm thâu (19, 34). Nhưng thập giá cũng cho thấy tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3, 16). Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường khó đi. Người Kitô hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp. Ước gì chúng ta sống cuộc Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ. Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống. Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật. Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng. Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng. Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực. Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau. Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen. --------------------------------
Sứ điệp: Thập giá Chúa Giêsu không phải là dấu hiệu của sự thất bại tủi nhục mà là biểu hiện của toàn thắng vinh quang. Thập giá là ngai tòa Vua Giêsu tình yêu hiển thắng trong sứ mệnh cứu độ nhân loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đối với người không có niềm tin thì Thập giá tiêu biểu cho một hình thức khổ đau thật nhục nhã, và rao giảng về Thập giá là sự điên rồ. Chính con mỗi lần đối diện với Thập giá cuộc đời, trí khôn như muốn nổ tung và lòng như muốn khăng khăng chối từ.
Nhưng hôm nay, nhờ mầu nhiệm Chúa chịu chết trên Thánh giá, Chúa đã đem lại cho khổ đau Thập giá một giá trị tuyệt vời: giá trị cứu độ trần gian. Vâng, Thánh giá là đỉnh cao của con đường cứu độ, là tiếng nói vĩ đại của lời yêu thương tha thứ tội lỗi nhân loại, là chặng đường Chúa đã đi để phục sinh một con người mới, một dân tộc mới. Con đường khổ đau Thánh giá mà Chúa đã đi trở thành lời mời gọi con bước theo: “Ai muốn theo sau Ta thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày mà theo Ta”.
Vâng, con đường mà Chúa đã đi làm rõ nét thêm Lời Chúa đã thưa khi nhập thể: “Này con xin đến để thi hành Thánh Ý Cha”, và lời thưa trên thánh giá: “Mọi sự đã hoàn tất”. Như vậy, đau khổ thập giá là cái Chúa đón nhận để xin vâng sứ mệnh Chúa Cha trao phó. Con đường đau khổ thập giá còn ghi đậm nét hình bóng Tình yêu Nhập thể, Tình yêu Cứu rỗi.
Xin cho con xác tín rằng theo Chúa là từ nay cả cuộc đời con, với từng phút giây, từng biến cố vui buồn sướng khổ, là những bước chân tiến vào con đường thập giá như Chúa. Xin cho con xác tín rằng cả cuộc đời con, với những trăn trở khắc khoải cho mình và tha nhân, là sợi chỉ đang kết dệt nên ơn gọi Kitô hữu mà đỉnh cao vẫn là Thập giá của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: Chúa Giêsu nói: “Ta khát!”.
--------------------------------
Suy Niệm 3. “Thập giá của Chúa – Thập giá của tôi”
--Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Lễ nghi chiều thứ Sáu Tuần Thánh được đề nghị cử hành vào lúc 3 giờ chiều (đối với những nơi phù hợp), vì theo truyền thống, Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên cây thập giá vào lúc giờ thứ chín (x. Mt 27,45-46). Phụng vụ hôm nay mang màu sắc đau thương, nhưng không hoàn toàn bi thảm, vì thập giá của Đức Giêsu vừa là dụng cụ khổ hình, vừa là cờ hiệu chiến thắng.
Chúa Giêsu đã tự vác thập giá, từ dinh quan Philatô đến núi Canvê. Theo những khám phá từ tấm khăn liệm thành Turinô và những nghiên cứu sử học, thì người bị kết án tử hình phải vác cây gỗ ngang, còn cây gỗ dọc thì đóng sẵn trên đồi. Việc vác cây gỗ ngang nhằm tránh tử tội trốn thoát, đồng thời cũng là một nhục hình để trừng phạt. Truyền thống Giáo Hội diễn tả con đường thập giá của Chúa Giêsu qua 14 hình ảnh được gọi là “Mười bốn chặng đàng Thánh Giá”. Trên con đường này, nhiều biến cố đã xảy đến với Chúa Giêsu. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Mẹ đến cuộc gặp gỡ với những người dân thành Giêrusalem. Từ những người ghen ghét chê bai nhạo cười đến những người cảm thương và giúp đỡ. Ông Simon và bà Vêrônica là hai người xa lạ và có địa vị thấp kém trong xã hội, lại là những người giúp Chúa, một người vác đỡ thập giá, một người lau mặt Chúa đang đầm đìa mồ hôi và máu. Trong hành trình thập giá, Chúa ngã ba lần, nhưng Người lại gượng dạy bước đi. Có lẽ, lời nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây Dầu luôn vang lên trong tâm trí Chúa: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đó là một cuộc giằng co khốc liệt giữa sự yếu đuối của con người và sự mạnh mẽ của Ngôi Hai nhập thể. Chúa Giêsu đã dứt khoát thi hành ý Chúa Cha, chấp nhận mọi nhục hình và gian nan khốn khó. Thập giá chính là bằng chứng của sự tuân phục và hy sinh của Người.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang nhìn tôi với cái nhìn đầy yêu thương. Trong thinh lặng, Chúa nói với tôi: “Ta tha thứ mọi tội lỗi cho con”. Vì thế, chiêm ngắm Chúa trên thập giá đem lại cho tôi hạnh phúc vì thấy mình được yêu thương. Trong giáo huấn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dạy hãy tha thứ cho kẻ thù. Giờ đây, trên thập giá, Chúa dạy tôi bài học tha thứ. Lúc này, Người thực hiện lời giáo huấn ấy khi xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình. Biết bao lần tôi cố chấp muốn tự khẳng định vị thế của mình trong gia đình và trong xã hội. Sự cố chấp làm tôi mù quáng, không nhìn ra đâu lẽ phải, không nhận ra ai là anh em. Chúa Giêsu đã tha thứ trong lúc trái tim rướm máu. Điều đó cho thấy, để có thể tha thứ, phải chấp nhận hy sinh. Khi tha thứ, nhiều khi tôi phải chịu tiếng là hèn nhát, có khi tôi phải hạ mình và mất thanh danh. Tuy vậy, dù thế nào đi nữa, khi tôi tha thứ, chắc chắn tôi tìm được sự an bình thanh thản trong tâm hồn.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Viên bách quan đội trưởng là người đã tham gia vào vụ hành hình Chúa. Vậy mà vào lúc Chúa tắt thở, ông ta lại nhận ra thân thế đích thật của Người và hô lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39). Một Thiên Chúa trần trụi, bị khinh khi, khổ nhục và chịu chết vì yêu thương con người. Thập giá dạy tôi một cách nhìn nhận mới về đau khổ: Thiên Chúa đau khổ cho con người hạnh phúc. Người chết cho con người được sống. Như vậy, nếu muốn đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh, tôi không thể trốn tránh đau khổ. Muốn yêu Chúa Giêsu, tôi không được khước từ thập giá. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là một cây gỗ vô hồn; Chúa Giêsu không có thập giá không phải là Chúa Giêsu của Đức Tin.
Khi tôi chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, tôi thấy những anh chị em Kitô hữu của tôi ở nhiều nơi đang bị bách hại. Chúa nhật Lễ Lá vừa qua (29-3-2015), tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các tín hữu trên toàn thế giới hãy cầu nguyện cho những tín hữu bị giết tại một số quốc gia trên thế giới. Họ là những thừa sai, những linh mục, tu sĩ và có nhiều tín hữu giáo dân. Họ đã chết chỉ vì một lý do đơn giản: họ là Kitô hữu. Qua Đấng chịu đóng đinh, tôi cũng nhìn thấy những mảnh đời bất hạnh, những người nghèo nàn, bệnh tật, đau khổ. Họ quằn quại trong nỗi đau của kiếp người mà chưa có lối thoát. Chúa Giêsu vẫn đang chịu đóng đinh nơi những người bất hạnh này. Thập giá là lời kêu gọi hãy ngưng bạo lực, hãy xử với nhau cho đúng phẩm giá con người và hãy liên đới nâng đỡ nhau trong cuộc sống.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, tôi thấy Người mời gọi tôi hãy vươn cao, hãy sống cao thượng, hãy hướng về trời. Dù tôi yếu đuối và tội lỗi, tôi vẫn có thể vươn cao, vì Chúa lôi kéo tôi bằng sự trợ giúp thiêng liêng. Tuy vậy, vươn cao để gặp Chúa đòi hỏi nhiều hy sinh. Phải can đảm dứt bỏ những gì đang ràng buộc. “Ai theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo Chúa Giêsu là đi trên con đường hy sinh của thập giá. Như thế, thập giá không phải một kỷ niệm vô hồn của quá khứ xa vời, nhưng là chính cuộc sống hằng ngày của tôi. Mỗi ngày sống, tôi đều có cơ hội tiếp cận thập giá, điều quan trọng là thái độ của tôi thế nào trước cây gỗ mà trên đó Con Thiên Chúa đã chịu đau đớn và đã chịu chết vì yêu tôi.
Lễ nghi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh nhắc bảo tôi: Thập giá của Chúa cũng là thập giá của tôi. Khi mầu nhiệm Mân Côi, thứ bốn của Năm Sự Thương, tôi cầu nguyện: xin cho tôi được vác thánh giá theo chân Chúa. Vâng, “Đây là gỗ thánh giá, nơi treo Đấng Cứu chuộc trần gian!” Tôi đến để tôn kính và thờ lạy. Tôi tin chắc Đấng đóng đinh sẽ ở bên tôi. Niềm xác tín ấy giúp tôi tìm thấy thư thái và an bình.
“Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá đi, và chúng tôi sẽ tin”. Người Do thái đã thách thức Chúa Giêsu như thế khi Người bị đóng đinh trên thập giá. Giả như chúng ta có mặt trên đồi Canvê chiều hôm ấy, liệu chúng ta có buông những lời thách thức đầy ngạo mạn ấy với Chúa Giêsu không? Tôi hồ nghi là có.
Trả lời như thế để đừng vội vã lên án những người đòi đóng đinh Chúa Giêsu. Đừng vội gọi người ta là quân dữ (với hàm nghĩa rằng mình tốt lành). Những lời thách thức kia có thể phát xuất từ niềm tin chân thành. Đã gọi là Thiên Chúa thì phải là Đấng toàn năng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng…”. Đã toàn năng thì làm gì chẳng được, huống chi xuống khỏi thập giá là chuyện quá dễ dàng! Mà nếu không xuống được thì rõ ràng không phải là Thiên Chúa rồi. Bản thân chúng ta lại không lý luận như vậy sao? Tại sao Chúa toàn năng mà lại để Hội Thánh phải chịu thiệt thòi đủ thứ thế này? Tại sao Chúa toàn năng mà lại không ngăn cơn sóng thần và động đất lại?
Đặt những câu hỏi như thế để thấy rằng khi Thiên Chúa chấp nhận để cho Con Ngài bị thế gian đóng đinh vào thập giá, Ngài đã bày tỏ cho ta thấy dung nhan một Thiên Chúa hoàn toàn khác. Đúng là Thiên Chúa toàn năng nhưng là sự toàn năng của tình yêu, tình yêu đi đến tận cùng, đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình cho thế gian được sống. Có thể nói Thập giá là cuộc cách mạng Copernique trong lịch sử tôn giáo, vì thập giá công bố một chân lý hoàn toàn mới về Thiên Chúa, mạc khải một dung mạo hoàn toàn mới về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng toàn năng nhưng là toàn năng của Tình Yêu.
Có điều là người ta không dễ chấp nhận một Thiên Chúa như thế. Người ta dễ dàng tin rằng Thiên Chúa là Đấng quyền năng nhưng lại không dễ chấp nhận Chúa là Tình Yêu. Giuđa bán Thầy vì tham tiền. Cũng có cách giải thích rằng ông chủ trương bạo lực và muốn thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng bạo lực nhưng không được. Cuối cùng ông tìm cách dồn Chúa vào đường cùng với hi vọng Người sẽ phản ứng để tự vệ. Không ngờ Chúa Giêsu chọn con đường yêu thương đến cùng. Và Giuđa tuyệt vọng! Phêrô cũng thế. Phản ứng đầu tiên của ông là vung gươm vì muốn giải quyết vấn đề bằng bạo lực. Dân chúng buông lời thách thức cũng vì không chấp nhận được hình ảnh một Thiên Chúa yêu thương đến độ chịu đóng đinh thập giá. Điều đó vẫn tái diễn trong lịch sử Hội Thánh, chẳng hạn như những cuộc thánh chiến hoặc những tòa án xử người dị giáo.
Hiểu như thế, ngày nay, nếu suy tôn Thánh Giá để hô hào bạo lực thì chỉ là đi vào vết xe đổ của những cuộc thánh chiến, vốn chẳng đem lại vinh quang cho Hội Thánh mà chỉ để lại vết nhơ trong lịch sử mà ngày nay Hội Thánh phải lên tiếng xin lỗi nhân loại. Nếu suy tôn Thánh Giá chỉ để kích động oán thù, dù dưới bất cứ hình thức nào, thì e rằng đã phản bội sứ điệp của Thánh Giá.
Cho nên chiều nay khi cử hành nghi thức tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa và suy tôn Thánh Giá, xin Chúa cho chúng ta in sâu vào tâm trí mình chân lý này: suy tôn Thánh Giá là suy tôn tình yêu, tình yêu trọn vẹn, tình yêu đi đến tận cùng. Suy tôn như thế hàm chứa lời tuyên xưng tình yêu để tình yêu ấy thấm nhập và định hướng đời sống ta. Chỉ có tình yêu mới đem lại sự sống phục sinh. Chỉ có tình yêu mới ban tặng ơn cứu độ. Và chỉ có chứng tá tình yêu mới đáng tin trong thế giới này.
--------------------------------
Suy Niệm 5. Chúa Giêsu chủ động bước vào cuộc thụ nạn
--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Phân tích (Hạt giống...)
Thánh Gioan có một cái nhìn đặc biệt với cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu. Thập giá không chỉ là con đường dẫn tới vinh quang:
- Đó là GIỜ mà từ lâu Chúa Giêsu hằng nghĩ tới và chuẩn bị, là thời điểm vinh qung mà vận động viên marathon chạy về tới đích đoạt chiếc cúp vàng.
- Do đó Gioan cho thấy Chúa Giêsu bước vào cuộc thụ nạn một cách đầy ý thức và chủ động. Gioan luôn lập đi lập lại những chữ “Ngài biết”. Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy đến. Ngài luôn làm chủ những diễn biến.
- Trên Thập giá Chúa Giêsu trở thành VUA và lấy lại vinh quang Ngài vốn có nơi Chúa Cha. Từ Thập giá, Ngài:
- Kéo mọi người lên với Ngài.
- Sinh ra Hội thánh.
- Ban cho Hội thánh một người mẹ là Đức Maria.
- Tuôn tràn Thánh linh xuống cho Hội thánh. Bởi đó, khi chúng ta cùng Gioan đi theo những chặng đường Thập giá Chúa Giêsu, tâm tình của chúng ta phải có lạc quan và biết ơn.
B. (...nẩy mầm)
1. Chính vì Chúa Giêsu luôn ý thức và chủ động trong mọi diễn biến của cuộc chịu nạn mà cuộc chịu nạn này mới có giá trị. Những đau khổ của chúng ta cũng thế.
2. Đối với Chúa Giêsu, Thập giá là vinh quang. Thánh Phalô cũng nói: “Vinh dự của chúng ta là Thập giá Đức Kitô”. Xin Chúa giúp chúng con có thể nói được như thế.
3. Khi George Nixon Biggs làm Thống Đốc bang Massachusetts, có 3 người bạn của ông đi viếng thánh điạ. Họ leo lên đỉnh núi Gôngôtha, bẻ một nhánh cây làm gậy. Khi trở về, họ tặng vị Thống Đốc cây gậy và nói: “Chúng tôi muốn Ngài biết cho rằng, khi đứng trên đỉnh đồi Canvê, chúng tôi đã nghỉ tới ngài”. Thống Đốc hết lòng cảm ơn họ, ưu ái nhận quà tặng và nói thêm: “Nhưng thưa các bạn, tôi còn nghĩ xa hơn: ở đó, có một Đấng khác cũng đã nghĩ tới tôi” (Góp nhặt).
4. Có một lần nhà truyền giáo hỏi lớp Giáo Lý Thánh kinh: “Nếu các bạn thấy một nhóm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có Đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài? Nhiều người bải không biết. Nhưng một em bé nói: “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài” (Góp nhặt).
Hôm nay là thứ Sáu Tuần Thánh, theo lễ nghi Phụng vụ, không có Thánh lễ, nhưng có rước lễ, để kỷ niệm cái chết đau thương của Chúa Giêsu, giáo xứ chúng ta tổ chức nghi thức suy tôn Thánh giá Chúa. Trong giờ phút này, chúng ta hãy suy nghĩ về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với chúng ta qua cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúa đã tự nguyện chịu chết thay cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải đáp lại tình yêu ấy cho cân xứng, bởi vì chỉ có tình yêu mới đáp lại được tình yêu.
Người ta kể rằng:có một người khách du lịch, một lần kia vào xem một nghĩa địa nhà binh ở Nashville. Người ấy thấy một người đàn ông đang lấy hoa đặt trên một nấm mộ. Người du lịch thấy thế, mới hỏi:
- Đây là mộ của con ông, phải không?
- Thưa ngài, không.
- Của một người bà con ông, phải không?
- Thưa ngài, không.
- Thế sao ông đặt hoa lên mộ?
Người kia cảm động, bỏ hoa xuống kể cho người du lịch nghe. Đó là khi chiến tranh bùng nổ, chính phủ bắt tôi phải đi động viên. Mà nhà tôi nghèo không thể có tiền để thuê người khác đi giúp. Nên tôi đành phải tuân lệnh chính phủ chuẩn bị lên đường. Đang khi tôi thu dọn đồ đạc và từ giã vợ con, thì một người bạn đến bảo: “Anh còn vợ và nhiều cháu dại, nếu anh đi sẽ không có ai làm ăn để nuôi chúng, nên anh hãy ở lại nhà, để tôi đi thay cho”. Tôi vui mừng sung sướng để người bạn đi thay. Chẳng may sau ít lâu bạn tôi bị thương nặng ở một mặt trận rồi chết. Người ta chôn bạn tôi ở nghĩa địa này. Được tin, tôi đã vội vã đi tìm mộ bạn tôi và ngày hôm qua tôi đã tới đây tìm được mộ của bạn tôi.”.
Rồi người đó lấy một mảnh ván viết chữ: “Người đã chết vì tôi” để đặt trên mộ người bạn.
Kể lại câu chuyện anh hùng của một người đi lính để chết thay cho bạn, tôi muốn nhắc cho anh chị em biết tới cái chết thê thảm của Chúa Giêsu, Đấng đã liều mạng sống, Đấng đã hy sinh thịt máu mình, Đấng đã chịu đóng đinh trên cây Thánh giá để cứu chuộc không những một người, một gia đình, một dân tộc, mà còn để cứu chuộc tất cả nhân loại, không những Ngài chết thay tội cho một thế hệ, mà cho mọi thế hệ, mọi thời đại. Chúa Giêsu chính là Đấng chăn chiên nhân lành, hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
Chính Chúa Giêsu là Đấng đã chịu chết cho mỗi người chúng ta. Chính Ngài đã chết thay cho mỗi người anh chị em cũng như tôi. Chính Ngài là Đấng mỗi người chúng ta phải viết một tấm bảng để đặt dưới chân Thánh giá Chúa: “Đấng đã chết vì tôi” hay nói: “Vì tôi mà Chúa Giêsu phải chết”.
Bởi vì chính tội lỗi chúng ta mà Chúa Giêsu phải hy sinh tính mệnh, chính vì tội lỗi chúng ta mà Chúa phải xuống thế làm người, phải chịu khổ cực vất vả và chịu đóng đinh một cách nhục nhã trên cây Thánh giá.
Đã phạm tội chúng ta phải đền tội, phải đổ máu, phải chịu chết. Các dân ngoại cũng đã làm như vậy, để xin thần phật tha tội cho họ, có dân đã phải giết trâu, giết bò để thế mạng, có dân đã giết những tù binh, có dân giết cả trẻ con, có dân khi thấy trời mưa bão, tưởng các thần thánh giận họ, họ lấy kiếm rạch đùi, lấy máu tung lên trời mà kêu: “Chúng tôi có tội, xin các ngài tha thứ cho chúng tôi”. Có dân lại lăn mình vào bánh xe nước rước các tượng thần có voi kéo để cho chết.
Mà để chịu chết đền tội cho xứng đáng theo phép công bằng, chúng ta phải nhờ người khác đền thay, chết thay. Người đó chính là Chúa Giêsu, chính là Chúa Cứu Thế đã tự nguyện chết thay cho chúng ta.
Chúng ta là những người đáng phải chết, chết vì tội tổ tông, vì tội riêng mình đã phạm, nhưng chúng ta đã được sống, được cứu rỗi vì có Chúa Giêsu liều mạng sống để chết thay cho chúng ta.
Chúng ta phải tỏ lòng yêu mến biết ơn Chúa, yêu mến biết ơn bằng giữ giới răn Chúa, bằng lấy tình yêu để đáp lại tình yêu, bằng lấy mạng sống để thế lại mạng sống, bằng quyết hy sinh đời mình để yêu mến Chúa và thương yêu tha nhân. Nếu Chúa Giêsu đã liều mạng sống vì chúng ta thì đáp lại, chúng ta cũng phải liều mạng sống vì Ngài.
Nếu chúng ta biết can đảm liều mạng sống vì Chúa và vì tha nhân, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa bầu chữa cho chúng ta trước mặt Chúa Cha, giống như trường hợp một người lính Rôma bị đưa ra trước tòa án, anh ta xin yết kiến hoàng đế César và xin hoàng đế đến tòa án bênh vực và bầu chữa cho mình.
Hoàng đế César hết sức bỡ ngỡ vì thấy anh lính kia dám táo bạo như thế. Nhưng tỏ ra mình là người đại độ, cao thượng, ngài bèn phán với anh: “Ta sẽ cho một vị quan đi thay”. Tức thì người lính đó cởi áo ra, chỉ vào vết thương mà tâu: “Tâu ngài César, khi đánh trận, lúc tôi thấy một mũi tên sắp bắn tới ngài, chính tôi đã đứng ra đỡ mũi tên cho ngài”.
Chúng ta cũng vậy, nếu Chúa Giêsu đã không tìm người khác chịu đòn, chịu xỉ vả, đội mạo gai, vác thánh giá và chịu đóng đinh thay cho Ngài, thì chúng ta cũng đừng ngại chịu đau khổ, hy sinh vì Chúa. Chúa đã chết cho ta thì chúng ta cũng phải chết cho Chúa. Mọi tình yêu chỉ có thể đáp trả bằng tình yêu, và cái chết chỉ có thể trả bằng cái chết.
Trong nghi thức suy tôn Thánh giá hôm nay, chúng ta có tổ chức hôn chân Chúa. Trong tâm tình tri ân cảm tạ, chúng ta hãy kính cẩn hôn chân Chúa. Cái hôn của chúng ta không được giả dối như cái hôn của Giuđa, mà phải là cái hôn thành thật, diễn tả lòng yêu mến biết ơn như bà Maria Madalena đã hôn chân Chúa ngày xưa.
Hôn chỉ là một biểu trưng về hình tính của tình yêu, thật ra chúng ta luôn phấn đấu để tình yêu ấy không chỉ dừng ở biểu hiện bề ngoài mà nó phải thường trú mãi mãi tận trong tâm, để mỗi suy nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành vi của chúng ta đều xuất phát từ hai chữ tình yêu. Đạt được như thế nghĩa là chúng ta tin rằng Chúa luôn luôn ngự trị trong tâm trí mình.
Nhưng phận người vốn mỏng dòn, yếu đuối và nhiều tội lỗi nên chúng ta cần liên lỉ khiêm tốn cầu xin sức mạnh của Ngài đổ xuống và nâng đỡ chúng ta luôn mãi trong cả đời sống, không khi nào ngừng. Và chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết hôn chân Chúa từng giây, từng phút trong cuộc đời chúng ta.
Hôm nay, chúng ta tưởng nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Chúa đã chết... Chết như nhiều người đã chết.
Ngày 5/9/1997, cả thế giới bàng hoàng và xúc động khi nghe tin Mẹ Têrêsa chết, chết tại thành phố Calcutta, sau một cơn đau tim đột ngột, hưởng thọ 87 tuổi.
Ngay sau cái chết của mẹ, báo chí đã đưa lên trang nhất những hàng tít lớn: "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi" - "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa" - "Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi."
Không phải chỉ thế giới đau buồn và cảm động trước cái chết của mẹ, mà nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến Calcutta bức điện chia buồn như sau: "Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới."
Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã nói: "Mẹ là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này."
Thủ tướng Tony Blair của nước Anh đã gửi đến Calcutta lời phân ưu: "Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn nhất đã ra đi."
Nước Albani, quê hương thứ nhất của mẹ tuyên bố "Cả nước sẽ để tang mẹ ba ngày."
Tại Ấn Độ, nơi người Công giáo chỉ là thiểu số, thủ tướng Inder Kamar đã tuyên bố tổ chức lễ an táng mẹ tại sân vận động quốc gia New Delhi theo nghi thức quốc táng.
Vâng, đó là một cái chết, cái chết thật đẹp, đẹp còn hơn một giấc mơ. Ngày an táng mẹ, Đức Thánh Cha đã cử đặc sứ của Ngài tới. Rất nhiều nhà lãnh đạo đạo đời trên thế giới đã có mặt. Từ trước cho đến nay, chưa có nhà lãnh đạo nào trên thế giới này, được yêu thương đến như thế.
Mẹ Têresa đã chết.
Và gần 2000 năm trước Chúa Giêsu cũng đã chết.
Ngài đã chết, một cái chết mà Ngài đã báo trước: "Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người." (Mc 10,33-34)
Một cái chết đau thương đến cực độ, cô đơn đến cực độ, nhục nhã đến cực độ. Chúa Giêsu đã chết không phải như một "vị thánh lìa đời" hay như "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi" - "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa" - "Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn lìa bỏ chúng ta."
Cái chết của Chúa chẳng được nhà lãnh đạo nào trên thế giới bày tỏ lòng thương tiếc. Chẳng được một người nào trên thế giới gửi điện đến phân ưu, chẳng được quốc gia nào tuyên bố sẽ tổ chức tang lễ theo nghi thức quốc táng.
Một cái chết không có vòng hoa, chẳng có vòng cườm, và cũng chẳng có ai để tang.
Một cái chết không kèn, không trống, không người đốt cho một nén nhang, cũng chẳng ai thắp cho một ngọn đèn.
Vậy mà ngày hôm nay, hay nói đúng hơn, suốt hơn hai mươi thế kỷ nay, biết bao nhiêu con người đã, đang và vẫn còn phải ngậm ngùi, rơi lệ, không cầm được sự xúc động mỗi khi tưởng nhớ đến cái chết này.
Tại sao? Tại sao thế?
Câu trả lời: Vì đó là một cái chết đẹp, đẹp tuyệt vời. Không đẹp ở hình thức bên ngoài nhưng đẹp ở nội dung, ở ý nghĩa. Bởi vì đây là một cái chết của Con Một Thiên Chúa - đã tự nguyện hy sinh để chuộc tội cho cả loài người.
Với mẹ Têrêsa, cái chết của mẹ đã đẹp vì được cả thế giới tiếc thương. Cái chết của một con người đã dám dấn thân và trung thành với lý tưởng phục vụ trong yêu thương cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời - như lời mẹ đã từng hóm hỉnh tuyên bố sau một lần chết hụt như sau: "Tôi đã đến cổng Thiên Đàng nhưng thánh Phêrô bảo tôi: Trở lại đi con. Ở đây đâu có người nghèo khổ nào để con chăm sóc đâu, - thế là tôi trở lại - Đối với tôi, điều hạnh phúc nhất là có thể giúp cho người ta chết một cái chết xứng đáng với phẩm giá một con người."
Còn cái chết của Chúa? Đây không phải chỉ là cái chết của một con người, nhưng là cái chết của Người Con Một, Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa, một cái chết: Không chỉ đơn giản như một sự lìa đời nhưng là một cái chết để nói lên sự trung thành tuyệt đối với ý muốn của Thiên Chúa, là thái độ yêu thương của một người con sẵn sàng làm mọi sự Cha muốn - cũng như sẵn sàng trả giá cho sự vâng phục đó bằng một lòng trung thành không có gì lay chuyển nổi - cho dù có phải hy sinh, tủi nhục, đau khổ, bị bỏ rơi và nhất là phải chết trên Thập Giá.
Vâng! Chúa đã chết.
Chúng con cám ơn Chúa đã chết vì yêu thương chúng con.
Xin cho chúng con biết sống xứng đáng với tình thương của Chúa và mãi trung thành với hồng ân cao quí Chúa đã dành cho chúng con. Amen.
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Câu chuyện tình yêu
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03.2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết”.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả: “Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta” (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng: nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu “, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Thờ lạy Thánh Giá Chúa
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát: Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy?
Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, “sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng: Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
Kinh Thánh là các văn bản thiêng liêng của nhiều niềm tin khác nhau, được viết trong giai đoạn hình thành của các niềm tin Do Thái và Kitô giáo; đây là các sách được các tác giả chép lại dưới sự linh hứng của Thiên Chúa trình bày chân lý mạc khải và mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân của Ngài.
Kinh Thánh là bộ sách gây ảnh hưởng nhiều nhất trong lịch sử loài người, được dịch nhiều lần, sang nhiều ngôn ngữ hơn bất cứ sách nào khác. Kể từ năm 1815, có khoảng hơn 5 tỉ ấn bản Kinh Thánh trọn bộ hoặc các phần quan trọng của Kinh Thánh được phân phối, trở nên sách bán chạy nhất trong mọi thời đại.
Kinh Thánh bắt đầu bằng câu chuyện thi vị, mang đầy sức sống với trình thuật sáng tạo và sự sống tràn đầy sinh lực xuất phát từ Thiên Chúa, đã làm nên vũ trụ vạn vật trong đó có con người, mang hình ảnh của Tạo hóa, làm chủ thế giới (x. St 1 - 2). Thế rồi, hình ảnh đẹp, đầy sức sống đó bị mất đi và con người tản mát khi tự cắt đứt nguồn sống với Thiên Chúa do bất tuân bằng hình ảnh ăn trái cấm: Ađam và Eva nguyên tổ mất địa đàng, con người đi vào đau khổ và đi vào sự chết... (x. St 3). Con người bị tản mát chia ly với tháp Baben... Nhân loại tưởng chừng không thể cứu vãn vẫn sẽ mãi đi trong sự tăm tối của sự chết, sự đau khổ bởi hậu quả của tội... Kinh Thánh đốt lên ánh lửa hy vọng thật cho chúng sinh khi kết thúc và khép lại bằng một hình ảnh đẹp tràn đầy hồng ân, thu hợp nhân loại đi vào sức sống mới, sức sống vĩnh cửu như ban đầu của Tạo hóa, nhờ Chúa Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc nhân loại bằng cái chết và phục sinh, và tập hợp con người vào vương quốc sự sống trường sinh. Các môn đệ của Ngài loan truyền Tin Mừng ấy cho toàn nhân loại.
Thứ Sáu Tuần Thánh, toàn thể Giáo hội theo bước chân vác thánh giá và dừng lại ở dưới chân thánh giá, Giáo hội tưởng niệm Ðức Giêsu chịu hiến tế trên thập tự: Ngài là Chiên Vượt Qua - con chiên được đưa tới lò sát để làm hiến vật. Ngài đã chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta. Vì thế Giáo hội tôn kính thánh giá, vì thánh giá là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa tự hiến cho con người. Thánh giá là cây sự sống mới cho toàn nhân loại như kinh phụng vụ ca ngợi:
Ôi thập tự, phước lành thế giới
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan...
Chiêm ngắm hình ảnh Chúa Kitô vác thập giá, chúng ta được mời gọi cùng vác thập giá là tất cả những gì xảy ra trong cuộc sống như Chúa Giêsu đã mời gọi trước đó: “Hãy vác thập giá mình hằng ngày” (Lc 9,23). Và ngày hôm nay, từng giây phút trong cuộc đời, Đức Kitô vẫn còn đang cùng ta vác thánh giá tiến về đồi Canvê. Mọi sự đau khổ, mọi khốn khó, vấp ngã, con người đều nương trong thập giá.
Cuối hành trình tử nạn, trên thập giá Chúa Giêsu đã ôm trọn nỗi khổ đau của nhân loại, Ngài chia sẻ đến cùng những khắc khoải khốn cùng nhất của con người, và là niềm hy vọng của con người về lẽ sống... Người trộm lành cùng bị án treo thập giá với Chúa Giêsu đã nhận ra con đường sự sống và anh đã đặt niềm hy vọng vào Ngài, dù hiện thực anh đang cùng phải tủi nhục treo trên thập tự. Ước chi mỗi chúng ta cũng cảm nghiệm được sự sống này:
Sen tươi tỏa ngát hương trầm
Héo khô ôm ấp hạt mầm hoa sau
Bàn tay Tạo hóa diệu thay! (NĐC).
Sen khô héo nhưng ôm hạt mầm như là hình ảnh của Đức Kitô trong cuộc tử nạn đầy đau thương, Ngài chết để cho nhân loại được sống... Từ nơi thập giá trên đồi Canvê, chính lúc Đức Kitô trút hơi thở cuối cùng, là lúc sự sống bắt đầu nảy sinh cho con người bằng hình ảnh nước và máu trào dâng (x. Ga 19,34). Theo truyền thống Thánh Kinh, máu tượng trưng cho sự sống (x. Lv 17,11-12), nước chính là nước rửa tội đưa chúng ta tái sinh vào cuộc sống mới (x. Ga 3,5).
Đường thập tự Thầy, đường sự sống Mỗi bước đi gieo một nụ hồng Giang tay chết treo trên thập tự Cứu người dương thế khỏi tử thần.
Sẽ luôn mãi là hình ảnh đẹp và tràn đầy sức sống: Thập tự giương cao trên đồi Canvê luôn vang vọng qua mọi thời mọi nơi: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), một vị Thiên Chúa chết để cho con người sống: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Ý lực sống: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1Pr 2,24a).