"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".
Lời Chúa: Ga 8, 51-59
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng việc Đức Giêsu bị ném đá. Nhưng Ngài đã ẩn mình đi và ra khỏi Đền thờ (c. 59). Ném đá là hình phạt của người Do thái chủ yếu dành cho kẻ phạm thượng. Đức Giêsu đã làm gì để bị coi là mắc tội phạm thượng, nghĩa là tội coi thường quyền tối thượng của Thiên Chúa? Trước hết Đức Giêsu đặt mình lên trên tổ phụ đáng kính Abraham. Ngài biết ông Abraham vui sướng mừng rỡ vì hy vọng được thấy ngày của Ngài, thấy những việc Ngài làm đây (c. 56). Abraham mừng vì chính Đức Giêsu, chứ không phải cá nhân mình, mới là Đấng đem phúc lành cho mọi dân tộc trên thế giới. Dù chưa tới năm mươi tuổi, Đức Giêsu dám coi mình là có trước ông Abraham. “Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (c. 58). Ta là Đấng Hằng Hữu là câu trả lời của Thiên Chúa cho ông Môsê khi ông hỏi tên của Ngài bên bụi cây bốc cháy (Xh 3, 14). Đức Giêsu cũng muốn trả lời câu hỏi về mình (c. 53) bằng lối nói đó. Vì trước khi được sinh ra ở đời làm người, thì Ngài đã hiện hữu rồi. Ngài là một với Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga 1, 14-18), bởi đó Ngài có trước Abraham, người đã sống trước Ngài gần hai ngàn năm. Chính khẳng định bị coi là phạm thượng này đã khiến Ngài bị ném đá. Đức Giêsu thường bị coi là ngạo mạn, tự tôn vì những lời như vậy. Thật ra Ngài chẳng tự tôn vinh mình. Chúa Cha mới là Đấng tôn vinh Ngài qua cái chết tủi nhục (c. 54). Đức Giêsu cũng chẳng coi thường Thiên Chúa bao giờ. Ngài gọi Thiên Chúa là Cha một cách thân thương, và nhìn nhận: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14, 28). Có một sự phân biệt rất rõ giữa Chúa Cha và Đức Giêsu: Chúa Cha là người sai đi; Đức Giêsu là Con, là người được sai đi. Đức Giêsu chỉ làm điều Ngài thấy Cha làm (Ga 5, 19-20; 8, 28-29), và nói điều Ngài nghe Cha nói (Ga 8, 26. 40; 12, 49-50). Triệt để vâng phục và tùy thuộc là nét đặc trưng của Đức Giêsu. Trong Tin Mừng Gioan, bao lần ta gặp cụm từ không tự mình. Đức Giêsu không tự mình nói, cũng chẳng tự mình làm. Ngài đòi chúng ta tuân giữ lời Ngài (c. 51) chỉ vì chính Ngài cũng đã tuân giữ lời của Thiên Chúa (c. 55). Trong tuần lễ này, tại nhà thờ các ảnh tượng có thể được che lại. Khi bị ném đá, Đức Giêsu đã tránh đi vì giờ của Ngài chưa đến. Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm. Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa. Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày. Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen. R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Người Do thái nhặt đá ném Chúa Giê-su. Vi Người nói: “Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Khi ném đá Người họ phủ nhận Người là Con Thiên Chúa. Phủ nhận sự ứng nghiệm của Lời Chúa. Và phủ nhận Áp-ra-ham đang sống. Đồng thời cũng phủ nhận đức tin của Áp-ra-ham.
Áp-ra-ham đã tin vào Lời Chúa. Vì tin nên ngài bỏ quê hương xứ sở lên đường đi đến miền Đất Hứa. Vì tin nên ngài sẵn sàng sát tế I-sa-ác, người con duy nhất nối dõi. Đức tin mạnh mẽ của ngài đã khiến ngài trở thành cha của những kẻ tin.
Nhờ đức tin, tổ phụ Áp-ra-ham đã nhận được lời Chúa hứa. Dòng dõi Áp-ra-ham lớn mạnh về chiều rộng. Vì Áp-ra-ham trở thành “cha của vô số dân tộc”. Dòng dõi ngài sẽ tồn tại suốt chiều dài thời gian. Vì Chúa sẽ lập giao ước với dòng dõi của ngài “từ thế hệ này qua thế hệ khác”. Dòng dõi ngài sẽ trổi vượt về chiều cao. Vì “các vua chúa sẽ phát xuất từ Áp-ra-ham”.
Tất cả lời hứa ứng nghiệm vào Chúa Giêsu. Vì Người thuộc dòng dõi Áp-ra-ham. Nước Thiên Chúa do Người thiết lập sẽ trải rộng vô biên. Không còn giới hạn vào một miền đất, một dân tộc hay một ngôn ngữ. Trái lại “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Chúa”(Lc 13, 29). Nước Thiên Chúa sẽ trường tồn vĩnh cửu. Như lời thiên sứ Ga-bri-en đã loan báo: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33). Dòng dõi người là vua chúa vì “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người”(Lc 1, 32).
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu ta biết Áp-ra-ham đang sống vì tổ phụ đã tuân giữ lời Chúa không sai mảy may. Vì thế ngài được sống. Không chỉ sống ngài còn vui mừng vì thấy Chúa Giê-su thuộc dòng dõi của ngài đang được vinh hiển. Ngài vui mừng vì thấy lời hứa của Thiên Chúa được hoàn thành hoàn hảo nơi Chúa Giê-su.
Mọi lời hứa đã bắt đầu với đức tin của Áp-ra-ham và hoàn thành viên mãn nơi Chúa Giê-su. Đức tin làm phát sinh sự sống. Nếu tổ phụ Áp-ra-ham hoàn toàn tin tưởng cả trong những việc khó khăn nhất là hiến tế I-sa-ác, thì Chúa Giê-su hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Cha trong thời điểm khắc nghiệt nhất là cái chết. Còn hơn thế nữa, Chúa Giê-su tự hiến tế thân mình với một đức tin trổi vượt. Đem lại sự sống muôn đời cho nhân loại.
Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chàng Hải Âu Kỳ Diệu, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được ước mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các con chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới. Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trở lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe chàng nói, lòng chợt dậy lên khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện ước mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.
Khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Người, cho rằng Người bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Chúa Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Người dùng danh xưng Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến. Câu nói ấy đã khiến người Do Thái phẫn nộ và định ném đá Người.
Ðược sống mãi không phải chết là ước mơ muôn thuở của con người, thế nhưng khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng nếu họ tuân giữ Lời Người dạy bảo thì họ sẽ khỏi phải chết, họ lại chế nhạo Người là bị quỉ ám. Nếu xét thêm mặt ngoài của sự kiện thì quả thật họ là người có lý. Họ lý luận như sau: "Bây giờ chúng tôi biết chắc là ông bị quỉ ám. Ông Abraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy. Thế mà ông lại nói: ai tuân giữ lời tôi thì sẽ không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Abraham hay sao?" Họ lý luận rất chặt chẽ, nhưng chính cái chặt chẽ ấy lại là một sợi xích cột chặt họ lại khiến họ không thể cất cánh bay cao. Họ có lý nhưng tổ phụ Abraham ngày xưa đã chẳng lý luận gì khi nghe theo lời Giavê Thiên Chúa kêu gọi mà từ bỏ quê cha đất tổ để ra đi. Những người Do Thái có lý nhưng theo lối lý luận của con người. Thiên Chúa thì không dựa theo lý lẽ của con người để thực hiện công việc của mình, Thiên Chúa làm theo cách của Ngài. Những ai muốn nhận ra chương trình của Thiên Chúa thì cũng phải tập nhìn mọi sự theo cách nhìn của Ngài. Những người Do Thái không muốn nhìn như thế, họ nhìn vào Chúa Giêsu và họ chỉ thấy đó là một con người tuổi chưa đầy năm mươi mà dám khoác lác nói rằng mình đã thấy tổ phụ Abraham, lại còn dám xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa nữa. Họ không thể chấp nhận thái độ cao ngạo và phạm thượng ấy. Họ phải ném đá kẻ ngông cuồng này. Quả đúng như lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người. Người đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1, 9-11).
Cũng như tình yêu, đức tin không dựa trên lý lẽ. Lý trí có thể đưa chúng ta đến bên bờ của đức tin, rồi để mặc chúng ta ở đấy. Không phải lý trí bỏ rơi chúng ta nhưng lý trí không thể giúp chúng ta vượt qua được mép bờ huyền nhiệm của đức tin. Ðứng trên mép bờ huyền nhiệm ấy, tác động thích hợp duy nhất là yêu mến và phó thác. Tổ phụ Abraham đã yêu mến Thiên Chúa và đã phó thác mọi sự cho Ngài và đã được toại nguyện. Ðức Maria cũng đã khẳng định tương tự. Các thánh cũng hành động như thế; còn chúng ta, chúng ta hành động ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: "Ai tuân giữ Lời Ta thì sẽ không bao giờ phải chết". Con không thể hiểu được lời này bằng lý luận mà chỉ có thể và sống lời ấy với tâm tình yêu mến và hoàn toàn phó thác vào Chúa mà thôi.
Lạy Chúa, xin hãy gia tăng đức tin cho con. Con tin nhưng xin Chúa thương trợ giúp cho sự cứng lòng kém tin của con.
Khi mới về xứ Ars chỉ vỏn vẹn 300 người, cha Vianney đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng cầu nguyện, hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ tuôn đến để nghe Ngài dạy giáo lý và để xưng tội với Ngài.
Các linh mục đồng nghiệp đều biết cha Vianney trước đây rất tầm thường và học hành rất dốt, cho nên vì ghen tương đã trình lên Đức cha địa phận rằng nhiều lần cha Vianney đã giải sai các nguyên tắc thần học luân lý.
Nghe thế, Đức cha cho gọi cha Vianney đến và giao cho cha một số trường hợp tội khó giải để cha giải trên giấy tờ rồi nộp lại cho Đức cha. Vài ngày sau, cha làm xong đem nộp và được các nhà chuyên môn khen là giải đáp đúng và khôn ngoan.
Các linh mục đồng nghiệp của cha Ars đã xét đoán theo tiêu chuẩn tự nhiên của lý trí, cộng thêm lòng ghen tỵ. Những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài mù quáng tinh thần nhiều hơn. Đó cũng là thái độ của những người Do Thái, không tin Chúa, không chấp nhận chân lý mạc khải như được kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mạc khải thêm về thân thế của Ngài, về nếp sống của những ai tin nhận Ngài: “Ai giữ lời Ta thì muôn đời sẽ không phải chết”. Với cái nhín và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám”. Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ, chụp mũ. Con người dễ tin theo những sự thật khác hơn sự thật của Chúa. Vả lại, sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tỵ hám danh.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã viết: “Đức Kitô là Sự thật, không phải báo chí là sự thật, không phải truyền thanh, truyền hình là sự thật, con theo loại sự thật nào? Giàu hay nghèo, sang hay hèn, khen hay chê, không sao cả. Chấp nhận tiến trên đường hy vọng hồng phúc về ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Không nhượng bộ xác thịt, không nhượng bộ lười biếng, không nhượng bộ ích kỷ. Con không thể gọi đen là trằng, xấu là tốt, gian là ngay được”.
Trên con đường canh tân của Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy dừng lại xét mình về thái độ của chúng ta trước những chân lý mạc khải và trước chính Đức Kitô, Đấng đang thôi thúc chúng ta tiến trên đường tin, cậy, mến.
“Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông. Các ông không biết Người; Còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, Thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. (Ga. 8, 54-55)
Trong một xã hội có cơ cấu tổ chức như xã hội chúng ta, mọi thứ trôi theo cuộc sống buộc chúng ta phải giữ trọn nhiều giao kèo, khế ước, hợp đồng. Chúng có nhiều loại, nhiều kiểu khác nhau. Thứ này thì lâu dài như khế ước kết hôn. Thứ khác thì ngắn hạn, như giao kèo mua bán. Dù là thứ nào, hai bên hợp đồng phải tự ràng buộc mình giữ đúng lời nói hay ký kết và tôn trọng sự cam kết của mình. Được như thế, người ta gọi là trung tín. Rất đáng trách kẻ bê trễ hay quên tôn trọng những lời cam kết của mình đối với phía cho vay mượn. Sự quên lãng hay bê trễ luôn là một sức nặng đè lên đời sống cá nhân.
Có thể chúng ta cũng có thứ trí nhớ hạn hẹp đó chăng? Có thể lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng hạn hẹp như vậy! Đã có lần trong lịch sử đời ta, Thiên Chúa đã can thiệp để ấn ký một giao ước đời đời giữa Ngài với chúng ta, như Thiên Chúa đã nói với Áp-ra-ham: “Và ngươi, ngươi sẽ giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi từ đời này tới đời kia”. Mỗi người chúng ta nhờ bí tích Rửa tội, đã ký kết một bản giao kèo với Thiên Chúa, một giao ước được ấn ký long trọng tuyên thệ dứt khoát và đời đời trong máu thánh Đức Giêsu Kitô.
“Chúa đã luôn nhớ lời minh ước của Ngài”. Thánh vịnh đã ca tụng Chúa như vậy. Vâng, Thiên Chúa luôn luôn trung thành và không bao giờ quên lời cam kết của Ngài đối với chúng ta. Còn chúng ta thì sao?
Noi gương Thiên Chúa, chúng ta phải trung thành nhắc nhở chúng ta nhớ đến minh ước tình yêu đã nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Bội ước, bất trung, nếu chúng ta không tôn trọng lời đã cam kết.
Đức Giêsu Kitô dạy chúng ta hôm nay: người nhận biết Thiên Chúa phải sống lời minh ước. “Tôi biết Ngài và giữ lời Ngài” (c. 55). Sống lời Chúa mỗi ngày, chúng ta sẽ được lời Chúa soi sáng, đó là dấu chỉ bảo đảm chắc chắn nhất về lòng trung thành của chúng ta đối với minh ước của Chúa. Lúc đó Thiên Chúa sẽ rất gần gũi với chúng ta. Chúng ta sẽ không còn sợ có một trí nhớ hạn hẹp chóng quên lời giao ước.
Trong tông huấn Thiên Chúa là Tình yêu, Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã viết: “Chúng ta được cứu độ là nhờ vào hy vọng”. Thật vậy, sống mà không hy vọng thì thật bi đát, nhưng điều quan trọng là chúng ta hy vọng vào ai và vào cái gì mới là điều đáng nói!
Là người Kitô hữu, niềm hy vọng chúng ta đặt ở nơi Đức Giêsu và những lời giáo huấn của Ngài. Tại sao vậy? Thưa bởi vì nơi Ngài là nguồn mạch sự sống đời đời. Ngài thông truyền sự sống ấy cho những ai tin và thuộc về Ngài.
Chân lý này chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay khi Đức Giêsu nói Ngài là: “Đấng Hằng Hữu”.
Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu muốn mặc khải Thiên tính của Ngài xuất phát từ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, thay vì vui mừng và tạ ơn, những người Dothái cùng thời đã không thể chịu nổi những tuyên bố này của Đức Giêsu, nên sự đối đầu của họ với Ngài ngày càng quyết liệt, khiến họ quyết định lượm đá ném Ngài.
Ngày nay, trong xã hội thiên về thực dụng, coi trọng vật chất và thượng tôn chủ thuyết tương đối, nhiều người cũng không thể chấp nhận những sự thật của Tin Mừng, ngược lại, họ luôn đi tìm những điểm tựa mang tính nhất thời, những lời tuyên bố hão huyền và những chân lý nửa vời!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng và hy vọng nơi Chúa, chỉ có Ngài mới tồn tại vĩnh viễn, bởi vì Ngài Hằng Hữu. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi sống niềm tin và hy vọng ấy ngay trong những lựa chọn và hành động của mình để được thuộc Chúa và chung hưởng hạnh phúc cùng với những người thuộc về Nước Hằng Sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con trung kiên theo Chúa đến cùng, ngõ hầu chúng con trở nên môn đệ đích thực của Chúa trong thời đại hôm nay. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu không tự tôn vinh mình, nhưng chỉ tìm vinh quang từ nơi Chúa Cha. Đó là động lực giúp Người trung thành với sứ mạng. Và đó cũng phải là động lực cho đời sống Kitô hữu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cúi mình trước sự khiêm tốn thẳm sâu của Chúa. Chúa quả quyết với người Do thái rằng: Chúa lớn hơn tổ phụ Ápraham, Chúa là Đấng Hằng Hữu. Nhưng dù vậy, Chúa không đi tìm vinh quang cho mình, không phô trương quyền lực, không tìm cách để cho người đời ca khen chúc tụng. Trái lại, làm gì hay nói gì, Chúa chỉ tìm cách làm rạng rỡ vinh quang của Chúa Cha và chờ đợi Chúa Cha tôn vinh Chúa. Con thấy trong suốt cuộc đời Chúa nơi trần gian, dù Chúa có bị người đời hiểu lầm, chê cười, chống đối, Chúa vẫn không nản lòng bỏ cuộc, một vẫn trung thành với sứ mệnh, vì Chúa chờ đợi Chúa Cha sẽ tôn vinh Chúa bằng sự phục sinh vinh hiển.
Lạy Chúa, xin dẫn dắt con theo đường lối Chúa để con chỉ đi tìm vinh quang của Chúa Cha. Con dễ thường theo thói đời đi tìm vinh quang cho mình bằng cách tự phụ, phô trương, khoe khoang, bắt người khác phục tùng mình. Con cũng dễ tìm vinh quang nơi người đời, tìm cách để họ chúc tụng khen thưởng, nên con dễ buồn lòng nản chí khi bị chê cười hoặc gặp thất bại.
Lạy Chúa, vinh quang người đời mau qua, đôi lúc nó đã làm con sống giả dối và mù quáng trước những lời nịnh hót. Xin Chúa giúp con làm mọi việc vì vinh danh Chúa Cha. Xin dạy con khiêm tốn để con sống thực lòng. Con xin trao phó trọn vẹn đời con cho tình thương và sự phán xét công minh của Chúa. Chỉ có Chúa mới thấu tỏ lòng con và ban thưởng vinh quang đời đời cho con. Con chỉ xin cho con được lòng trung thành luôn mãi. Amen.
Ghi nhớ: “Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta”.
Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chàng hải âu kỳ diệu, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được ước mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các con chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới.
Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trở lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe chàng nói, lòng chợt dậy lên khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện ước mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.
Suy Niệm
Sau khi Chúa Giêsu mạc khải về bí tích Thánh Thể, nhiều môn đệ cho rằng Chúa nói lời thật khó nghe, nên bỏ ra đi. Còn Phêrô đại diện cho những tông đồ trung thành tiếp tục theo Chúa, đã tuyên xưng rằng: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Giờ đây Ðức Giêsu khẳng định: “Ai giữ lời Ta thì sẽ không bao giờ phải chết”, cùng một thái độ sau diễn từ Thánh Thể người Do Thái không chấp nhận, và họ sôi sục căm giận lượm đá ném Ngài.
Hôm nay, Chúa vẫn đang nói với chúng ta qua Tin Mừng, qua Giáo hội, qua những vị có trách nhiệm, những người khôn ngoan mà ta được gặp gỡ trong cuộc sống. Chúng ta có khiêm tốn đón nhận hay cũng có thái độ cứng tin, cố chấp như người Do Thái xưa?
Chúng ta khao khát tìm nghe và đón nhận Lời Chúa với thái độ yêu mến vì điều cốt lõi trong cuộc đời người Kitô hữu là kiếm tìm và thực thi Lời Chúa dạy.
Ý lực sống: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
1. Hôm nay vẫn tiếp tục cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người Do thái về thân thế của Ngài. Đức Giêsu khẳng định: “Ai giữ lời Ta thì không bao giờ phải chết”. Với những lời giáo huấn của Đức Giêsu, người Do thái không chấp nhận, và họ đã lượm đá ném Ngài.
Điều cốt lõi trong cuộc đời Kitô hữu là kiếm tìm và thực thi Lời Chúa dạy. Hôm nay, chúng ta đã nghe và đón nhận Lời Chúa với thái độ như thế nào? Chúa vẫn đang hướng dẫn chúng ta qua những người có trách nhiệm, những người mà ta được gặp gỡ trong cuộc sống. Chúng ta có khiêm tốn đón nhận hay cũng có thái độ như người Do thái xưa?
2. Càng đi sâu vào Mùa Chay, cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và những người luật sĩ cũng như người biệt phái ngày càng gây cấn hơn. Nếu như Đức Giêsu càng ngày càng tỏ rõ danh tính của mình là Con Thiên Chúa thì những người Do thái càng ngày lại càng căm thù và muốn giết Ngài. Nhưng người Do thái với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm hẹp hòi của cá nhân như thế, làm sao họ có thể biết được thân thế của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỉ ám” (Ga 8,52),
Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Đức Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó có cả những thành kiến do những người có đạo tạo nên.
3. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu lại tuyên bố một câu làm cho người ta hiểu sai: “Ai tuân giữ lời Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Người Do thái không hiểu nổi mạc khải này, bởi vì theo họ, Abraham và các tiên tri cũng đã chết, mặc dù vẫn tuân giữ Lời Chúa. Do đó, họ lên tiếng phản đối, cho Ngài là bị quỉ ám, và họ lượm đá ném Ngài.
Thật ra khi tuyên bố điều đó, Chúa có ý nói về sự sống siêu nhiên chứ không có ý nói về sự sống thể xác. Vì thế, khi nghe Chúa nói: “Ai tuân giữ lời Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết” thì phải hiểu rằng Chúa có ý nói: Ai đặt niềm tin vào Ngài, đón nhận và thực thi giáo huấn của Ngài, thì được thông hiệp vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của thân xác, các môn đệ cũng thế. Nhưng sự thật, các môn đệ của Đức Giêsu và cả chúng ta nữa được dự phần vào sự sống của Thiên Chúa nếu chúng ta tin vào Ngài.
4. Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề “Chàng Hải Âu Kỳ Diệu”, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được giấc mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới. Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trởi lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe nói, lòng chợt dậy một khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện giấc mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.
Khi Đức Giêsu nói với người Do thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Ngài, cho rằng Ngài bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Đức Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Ngài dùng danh xưng Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến. Câu nói ấy đã khiến người Do thái phẫn nộ và định ném đá Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
5. Suy Niệm Lời Chúa, ta thấy Chúa không nói: Ai là người Công giáo thì không bao giờ phải chết, nhưng lại nói: “Ai tuân giữ lời Ta”. Vì vậy, cho dù là người công giáo, là người có đạo mà không tuân giữ lời Chúa thì cũng phải chết. Trái lại, có những người chưa có đạo, nhưng cuộc sống của họ chứng tỏ họ đã tuân giữ lời Chúa một cách vô tình thì vẫn không bao giờ phải chết. Điều quan trọng là có tuân giữ Lời Chúa hay không, có sống Lời Chúa hay không. Chúng ta đọc hay nghe Lời Chúa, chúng ta tìm hiểu, học hỏi, Suy Niệm Lời Chúa, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là sống hay thực hành những điều đã nghe, đã đọc, đã tìm hiểu và Suy Niệm.
6. Truyện: Biết thực hành Lời Chúa.
Ngày nọ, Đức Giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được Rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt tên là John Selwyn, vì chính ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài” (Góp nhặt).
1. Bài đọc 1: Thiên Chúa gọi Abram, giao ước cho ông là tổ phụ nhiều dân tộc và đổi tên ông là Abraham. Bởi đó, Abraham rất được người Do Thái ngưỡng mộ. Họ coi ông là tổ phụ của họ.
2. Phúc Âm: Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu về Ngài. Trong bài trích Phúc Âm này, Ngài nói hơi xa xôi: Khi người Do Thái hỏi “Chẳng lẽ ông lại lớn hơn Cha chúng tôi là Abraham sao ?”, Ngài đáp: “Khi Abraham chưa sinh thì đã có Ta rồi”. Ý Ngài muốn họ hiểu Ngài là Thiên Chúa. Nhưng chẳng những họ không hiểu mà họ còn định lấy đá ném Ngài.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mặc khải thêm về thân thế của Ngài… Nhưng với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: Ông là ai ? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao ? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám… Sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ của tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tị tham lam (Mỗi ngày một tin vui).
2. Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó cũng có những thành kiến do một số người có đạo tạo nên. Mỗi người hãy tự kiểm xem có khi nào vô tình khiến người ta có thành kiến với Chúa và với Giáo hội không ?
3. Một du khách mới tới Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi bị sai lạc”. Và một người Á Đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin” Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn. (Góp nhặt).
4. Ngày nọ, Đức Giám Mục Jonh Selwyn thấy một người con trai người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, Ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trận. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi Ngài quay lưng ra và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một vị truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính Ngài đã dậy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh Ngài”. (Góp nhặt).
1. Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu về Ngài. Trong đoạn Tin Mừng này, Ngài nói hơi xa xôi: “Khi người Do Thái hỏi: Chẳng lẽ ông lại lớn hơn Cha chúng tôi là Abraham sao ?” (Ga 8,53), Ngài đáp: “Khi Abraham chưa sinh thì đã có Ta rồi”. (Ga 8,58) Ý Ngài muốn cho họ hiểu Ngài là Thiên Chúa. Nhưng chẳng những họ không hiểu mà họ còn định lấy đá ném Ngài.
Như vậy, chúng ta thấy lúc Chúa Giêsu muốn mặc khải rõ hơn về thân thế của Ngài, thì với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm của một con người xác thịt, người Do Thái vẫn không nhận ra Chúa: “Ông là ai ? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao ? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông là người bị quỷ ám”. (Ga 8,52)
Nhiều người thời nay cũng vậy. Họ không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó có cả những thành kiến do những kẻ có đạo tạo nên.
2. Làm sao cho con người nhận ra được Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, điều đó không phải dễ.
Ngày nọ, Đức Giám Mục John Selwyn thấy con trai của một người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những cậu ta không chịu nghe, mà còn vung tay tát vào mặt vị Giám mục một cái nảy lửa. Mọi người thấy vậy định phản ứng. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng lại và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm trôi qua, một vị truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi ông muốn lấy tên thánh là gì. Ông đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài”. (Góp nhặt).
Vâng, John Selwyn đã làm cho một người được biết Chúa không phải do lời ngài giảng, cũng không phải do tài năng của ngài nhưng là do chính cuộc sống của mình. Chính cách cư xử tử tế quảng đại, không oán giận, không trả thù đối với một kẻ đã đánh ngài đã làm cho kẻ đó phải suy nghĩ và rồi cuối cùng ông ta đã trở về với Chúa.
Và còn một yếu tố này nữa: Chúng ta không thể tự mình nhận biết được Thiên Chúa. Đức tin là một hồng ân nhưng không Ngài ban cho. Đôi khi nó có tính cách rất bất ngờ.
Thời Giáo Hội sơ khai, người Rôma thường đem các nghi thức của Giáo Hội ra làm trò đùa, và dĩ nhiên có những người chuyên làm trò cho thiên hạ cười.
Một bữa tối nọ, hoàng đế Dioclétiano đến một quảng trường để tham dự những trò đùa phạm thánh này. Lúc đó có một tên hề nổi tiếng tên là Ghênesiô. Anh đã cùng với các bạn của mình chuẩn bị một nghi lễ rửa tội để trình diễn cho hoàng đế xem. Khi bắt đầu, Ghênesiô hô lớn:
- Hỡi các bạn, xin hãy đến giúp tôi. Tôi muốn trở thành Kitô hữu.
Tức khắc, một tên hề khác mặc phẩm phục linh mục bước ra, và tên thứ ba đem nước đến. Bắt chước công thức quen thuộc của Giáo Hội, họ hỏi Ghênesiô:
- Hỡi Ghênesiô, ngươi muốn xin gì ở chúng tôi ?
Ghênesiô bập bẹ nói: - Thưa xin phép rửa.
Nhưng kìa, khi tên hề Ghênesiô chưa đọc dứt câu, thì bỗng như có sức mạnh vô hình nào đó uốn lưỡi anh, bắt anh phải đọc trọn cả một câu: “Thưa, tôi xin phép rửa để được lãnh nhận ơn của Đức Giêsu Kitô”.
Tên hề đóng vai linh mục không chút nghi ngờ, bèn đổ nước trên đầu của Ghênesiô và đọc công thức của bí tích Rửa tội.
Hoàng đế Dioclétiano và cử tọa vỗ tay hoan hô màn kịch. Thế nhưng, tiếng vỗ tay chưa dứt thì Ghênesiô đã đứng lên ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi trịnh trọng tuyên bố:
- Tâu hoàng đế và quí vị vừa xem tôi. Chúng ta đến đây để cười nhạo những người Kitô hữu bằng những nghi thức phạm thánh của chúng ta, nhưng xin quí vị biết cho rằng: nước vừa đổ trên đầu tôi, đã biến tôi thành một Kitô hữu thực sự. Giờ đây, tôi đã là một tín hữu Kitô, và tôi tin Đức Giêsu Kitô là “Con Thiên Chúa”.
Khi Ghênesiô vừa dứt lời thì đám đông nhốn nháo lên. Tức giận, vị hoàng đế ra lệnh trói chân tay Ghênesiô lại cho đánh đòn và phân xẻo thân thể anh. Trong cơn đau đớn cùng cực, Ghênesiô không ngừng lập đi lập lại:
- Tôi là người Kitô hữu, tôi tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa độc nhất của chúng ta.
Để cho anh câm miệng, hoàng đế đã ra lệnh chém đầu anh.
Lạy Chúa, Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng ! Bấy giờ Chúa ở trong con, vậy mà con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Chúa đã gọi con, đã gọi thật to và phá tan sự điếc lác, và xua đi sự mù lòa của con. Giờ đây con hối hả quay về với Chúa. Xin cho con luôn được ở gần Ngài. Amen.