Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 4-2025

Thứ sáu - 16/05/2025 08:36
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 4-2025
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 4-2025
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS
Xếp gọn trong Tuần 4-2025
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:
Thứ 2 PS –Tuần 4/2025. 3
Lời Chúa: Ga 10, 1-10. 3
Suy Niệm 1: Mục tử nhân lành. 4
Suy Niệm 2: Cửa Giêsu. 5
Suy Niệm 3: Mục tử nhân lành. 6
Suy Niệm 4: Chúa chiên lành. 9
Suy Niệm 5: Ta Là Cửa Ðoàn Chiên. 10
Suy Niệm 6: “Ta biết chúng, và chúng theo Ta”. 11
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu-người chăn chiên nhân lành. 12
Suy Niệm 8: Đức Giêsu Chúa chiên nhân lành. 13
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. 16
Suy Niệm 10: Bước vào một xã hội mới 17
Suy Niệm 11: Chúa là cửa chuồng chiên. 19
Suy Niệm 12: Tôi là cửa cho chiên ra vào. 21

Thứ 3 PS –Tuần 4/2025. 22
Lời Chúa: Ga 10, 22-30. 22
Suy Niệm 1: Không ai cướp được chúng. 23
Suy Niệm 2: Sự sống của Thiên Chúa. 24
Suy Niệm 3: Sự thật cứu rỗi 25
Suy Niệm 4: Thắc mắc đến bao giờ. 26
Suy Niệm 5: Thái độ đáp trả của chiên. 27
Suy Niệm 6: Xin được ở trong đàn chiên của Chúa. 28
Suy Niệm 7: Chiên Tôi nghe tiếng và theo Tôi 29
Suy Niệm 8: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta. 29
Suy Niệm 9: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. 31
Suy Niệm 10: Sống theo sự dẫn dắt của Chúa. 33
Suy Niệm 11: Chúa Giêsu là mục tử. 35
Suy Niệm 12: Tôi và Cha Tôi là một 37
Suy Niệm 13: Tôi và Cha Tôi là một 38

Thứ 4 PS –Tuần 4/2025 - 14/05 Thánh Matthias. 40
Lời Chúa: Ga 15, 9-17. 40
Suy Niệm 1. Chúa chọn ai 41
Suy Niệm 2. Không phải anh em đã chọn Thầy... 42
Suy Niệm 3. Chính Thầy đã chọn các con. 44
Suy Niệm 4. Ở lại trong tình thương của Thầy. 45
Suy Niệm 5. Thánh Mátthia tông đồ. 46
Suy Niệm 6. Thánh Matthia tông đồ. 50
Suy Niệm 7. Thánh Mátthia Tông đồ. 53
Suy Niệm 8. Ðược sai đi 55
Suy Niệm 9. Tông đồ sau cùng: Matthia. 56
Suy Niệm 10. Thánh Mátthia tông đồ. 57
Suy Niệm 11. Thánh Matthia, vị Tông Đồ “thứ mười ba”. 59
Suy Niệm 12. Thánh Matthias Tông đồ. 60
Suy Niệm 13. Thánh Matthia. 61
Suy Niệm 14. Ngài đã chọn con. 62
Suy Niệm 15. Matthia, Tông đồ thứ 13. 63
Suy Niệm 16. Thánh Matthias, Tông đồ- 64
Suy Niệm 17. Thánh Matthias, Tông đồ. 65
Suy Niệm 18. Chính Thầy chọn anh em.. 67
Suy Niệm 19. Chúa chọn người Chúa muốn. 68
Suy Niệm 20. Thánh Matthia. 69
Suy niệm 21: Người thợ giờ thứ mười một 72

Thứ 5 PS –Tuần 4/2025. 73
Lời Chúa: Ga 13, 16-20. 73
Suy Niệm 1: Thật phúc cho anh em.. 73
Suy Niệm 2: Đón tiếp Chúa Giêsu. 75
Suy Niệm 3: Củng cố đức tin. 76
Suy Niệm 4: Chỗ cho đức khiêm nhường. 77
Suy Niệm 5: Tiếp nối sứ mệnh của Chúa. 78
Suy Niệm 6: Giới thiệu Chúa cách trung thực. 78
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ. 79
Suy Niệm 8: Tinh thần phục vụ. 80
Suy Niệm 9: Bài học Đón Nhận. 82
Suy Niệm 10: Đón nhận anh chị em như thế nào?. 84
Suy Niệm 11: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy. 86
Suy Niệm 12: Đón tiếp người Thầy sai đến. 87

Thứ 6 PS –Tuần 4/2025. 88
Lời Chúa: Ga 14, 1-6. 89
Suy Niệm 1: Thầy là đường. 89
Suy Niệm 2: Đường sự sống. 91
Suy Niệm 3: Ðường về quê trời 92
Suy Niệm 4: Dọn chỗ cho anh em.. 93
Suy Niệm 5: Chúa sẽ đến lại 94
Suy Niệm 6: “Đừng xao xuyến”. 95
Suy Niệm 7: Đức Kitô-con đường duy nhất 95
Suy Niệm 8: Đức Giêsu là con đường. 96
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu là người dẫn đường và là con đường. 98
Suy Niệm 10: Con đường Giêsu. 99
Suy Niệm 11: Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. 102
Suy Niệm 12: Chúa là lẽ sống và là niềm vui 103

Thứ 7 PS –Tuần 4/2025. 105
Lời Chúa: Ga 14, 7-14. 105
Suy Niệm 1: Làm những việc lớn hơn nữa. 105
Suy Niệm 2: Tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần. 107
Suy Niệm 3: Cầu nguyện nhân danh Chúa. 108
Suy Niệm 4: Cảm nghiệm lời chứng. 109
Suy Niệm 5: Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống. 110
Suy Niệm 6: Kết hợp với Chúa, làm được mọi sự. 111
Suy Niệm 7: Để dung mạo Chúa nổi hiện qua cuộc sống. 112
Suy Niệm 8: Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha. 112
Suy Niệm 9: Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. 115
Suy Niệm 10: Nhìn qua Chúa Giêsu. 116
Suy Niệm 11: Ai thấy Thầy, là thấy Cha. 118
Suy Niệm 12: Thấy Thầy là thấy Cha. 119

---------------------------------
 

Thứ 2 PS –Tuần 4/2025

Chúa chiên lành.
12/05 – Thứ Hai tuần 4 Phục Sinh.
"Ta là cửa chuồng chiên".

 

Lời Chúa: Ga 10, 1-10


Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".

-------------------------------

 

Suy Niệm 1: Mục tử nhân lành


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ
là một hình ảnh quen thuộc đối với người Palestin.
Giữa người và chiên có một mối tương quan mật thiết.
Ở đây Ðức Giêsu tự ví mình như người mục tử.
Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê,
vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên,
chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Ðức Giêsu Kitô.
Giữa Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó.
Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi,
như Cha biết tôi và tôi biết Cha.
Ðây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều.
Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động.
Chiên là hình ảnh của một ngôi vị tự do.
Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc.
Chiên nghe tiếng của Ngài và đi theo.
Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên
có sự hiểu biết nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng,
và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
Sau Phục Sinh, Ðức Giêsu đã giao cho Phêrô sứ mạng
chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên của Ngài.
Sứ mạng này bắt nguồn từ một tình yêu.
Yêu mến Ngài dẫn đến yêu mến đoàn chiên Ngài.
Ðức Giêsu là Mục Tử tối cao và gương mẫu.
Mọi mục tử khác chỉ là phụ tá
giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Mọi mục tử phải noi gương Ngài,
dám chết để cho chiên được sống.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn cần những người tiếp nối công việc của Ngài,
để lo cho đoàn chiên trên thế giới.
Các bạn trẻ khi lớn lên thường lập gia đình.
Ðiều đó thật là tốt đẹp.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số bạn trẻ
ở bên Ngài cách đặc biệt để được Ngài sai đi.
Họ chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm,
để có thể yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn.
Tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên
ở ngay nơi lời nài xin của con người.
Những người đói khát Lời Chúa, đói khát tình thương,
đói khát bánh ăn, đói khát ý nghĩa cuộc sống.
Khước từ tiếng kêu của con người là khước từ tiếng Chúa.
Chúa Giêsu mời các bạn trẻ nhìn thấy đám đông bơ vơ.
Những người bệnh hoạn tật nguyền, những trẻ em đường phố,
những người lầm lỡ, tự đặt mình ở bên lề xã hội...
Thấy họ bằng trái tim và để cho tim mình đáp trả.
Tạ ơn Chúa đã cho Hội Thánh biết bao đại chủng sinh,
các linh mục, và các tu sĩ nam nữ, các nhà thừa sai.
Nhưng đồng lúa chín vàng vẫn cần nhiều thợ gặt,
tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn.
Có thể chính bạn được Chúa bất ngờ mời gọi
để đứng trong đội ngũ những người phục vụ đó!
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Cửa Giêsu


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Lời Chúa hôm nay chứa đầy tâm tình yêu thương. Chúa Giêsu tự ví mình như cánh cửa. Quả thật cánh cửa của Chúa đã mở ra hết mọi chiều kích phong phú cuả sự sống để ban cho ta muôn vàn ân sủng.

Cánh cửa Giê-su mở ra chiều rộng vô biên của Nước Trời. Cửa mở rộng để đón nhận mọi người. Chúa không ngừng mời gọi mọi người đến với Chúa. Thoạt tiên là người Do Thái: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái các ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh”(Mt 23, 37). Rồi đến tất cả mọi dân tộc: “Tôi còn những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về”(Ga 10, 16). Hôm nay, trong một thị kiến lạ lùng, Chúa đã truyền cho thánh Phê-rô phải mạnh dạn đi đến với dân ngoại tại Ma-kê-đô-ni-a. Quả thật cánh cửa là tấm lòng của Chúa rộng mở đến vô biên để đón nhận tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, mọi mầu da, mọi ngôn ngữ vào Nước Chúa.

Cánh cửa Giêsu mở ra chiều cao vời vợi của ân sủng. Cửa mở ra cho ta đi vào cuộc sống mới trong một chân trời mới cao vượt cõi nhân gian phàm trần. Đó là cuộc sống trong Thánh Thần vượt xa mọi ràng buộc nặng nề của xác thịt. Được sinh trong Thánh Thần, ta tự do như gió, muốn thổi đâu thì thổi. Được nâng lên làm con Thiên Chúa, ta được ngồi ngang hàng với các bậc thần thánh. Chúa nâng cao phẩm giá con người. Con người không còn bị kết án dính chặt vào mặt đất. Con người trở nên Con Chúa và có một định mệnh mới cao quí vô cùng.

Cánh cửa Giê-su mở ra chiều sâu thăm thẳm của tình yêu. Chúa đến với ta trong tình yêu. Chúa yêu thương nên gọi tên từng người. Theo quan niệm của người Do Thái, tên tức là người. Biết tên là biết người. Chúa biết rõ ta từ khi ta chưa có mặt trên đời. Như lời Thánh vịnh 138: “Con mới là bào thai mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con. Đều thấy ghi trong sổ sách Ngài “. Ta đến với Chúa bằng tình yêu vì Chúa cho ta được biết tiếng ngài. Biết tiếng không khỏi gợi nhớ đến nguồn gốc của từ ngữ “tri âm, tri kỷ” tức là một người hiểu biết mình tường tận. Chúa cho ta được nghe tiếng Chúa để trở thành bạn hữu tri âm của Chúa, để hiểu và tham dự vào mọi chương trình của Chúa như lời Chúa nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15).

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Mục tử nhân lành


(TGM Ngô Quang Kiệt)

Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.

Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.

Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?

2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.

3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?

4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Chúa chiên lành


Có một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.

Mỗi tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.

Anh kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.

Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng ngày xưa, khi chưa có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất nguy hiểm nữa.

Trong sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.

Từ những mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo: Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại, Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta hãy rút ra một vài điểm thực hành:

Điểm thứ nhất, đó là hãy tỏ lòng biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta khỏi manh mối của thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.

Điểm thứ hai, đó là hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao giờ bị lầm đường lạc lối. Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn, bởi vì như lời thánh vịnh cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng xanh con không bao giờ thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.

------------------------------

 

Suy Niệm 5: Ta Là Cửa Ðoàn Chiên


(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

Phần lớn vùng đất Giuđêa nằm trên độ cao, nhiều gồ ghề và sỏi đá, thuận tiện cho việc chăn nuôi hơn là trồng trọt. Bởi thế, người dân vùng này nói riêng và toàn thể vùng Palestina nói chung thường sống bằng nghề chăn nuôi. Họ nuôi nhiều cừu để lấy lông chiên hơn là ăn thịt. Thế nên, mối liên lạc giữa đàn chiên và người chăn thật mật thiết. Chiên hiểu chủ và chủ biết từng con chiên một.

Hình ảnh người chăn chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu thương. Trong Kinh Thánh các tác giả Cựu Ước đặc biệt là Thánh Vịnh thường hay so sánh mối quan hệ giữa Giavê Thiên Chúa và dân Israel như người chăn và đàn chiên. Israel và đàn chiên Giavê chăm sóc trong đồng cỏ của Ngài.

Qua tân Ước, hình ảnh người chăn và đàn chiên cũng được nhiều lần nói đến, đặc biệt là người chăn chiên được Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn chiên nhân lành. Nỗi lòng của người chăn chiên cũng là nỗi lòng của Ngài. Một trong những diễn tả ấy được thánh sử Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Anh chị em thân mến!

Thấy người Do Thái không lãnh hội được ý nghĩa là người chăn chiên, Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết: "Ta là cửa chuồng chiên". Qua đó, chính Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết con đường đi tới Chúa Cha như là cửa mà đàn chiên ra vào và được hưởng sự an toàn, được sống dồi dào. Còn những kẻ đến trước mà vào là kẻ trộm cướp nên chiên đã không nghe tiếng họ. Những người đến trước ở đây không phải là các ngôn sứ, nhưng là những người dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian. Chính họ là những người Thiên Chúa dấu không cho biết những điều thuôc về ơn cứu độ. Trong thực tế, mặc dù bị áp đặt, nhưng người mù được Chúa Giêsu chữa lành không nghe lời người Pharisiêu và chỉ tin vào Chúa Giêsu. Vì họ là kẻ trộm đã giết hại chiên và phá hủy, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào.

Chúa Giêsu đã tóm tắt vai trò của Ngài, Ðấng chăn chiên với đàn chiên là hình ảnh cửa đàn chiên: "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu độ". Ðây là hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Ðông đối với các mục tử chăn chiên. Người mục tử nhân lành biết lo liệu cho đàn chiên của mình vào ban đêm và ban ngày, sẽ dẫn chiên tới đồng cỏ xanh tươi với dòng suối mát như tác giả Thánh Vịnh 22 vẫn hát lên "trong đồng cỏ xanh tươi Người cho tôi nằm nghỉ, Người cho tôi dòng nước trong lành".

Chúa Giêsu là cửa để qua đó từng con chiên vào và được nghỉ qua đêm an toàn. Chính nơi cửa, người mục tử sẽ cầm gậy để kiểm từng con chiên, không để một con nào bị lạc mất. Chúa Giêsu là cửa, qua đó các con chiên được dẫn đi ăn mỗi buổi sáng, để các chiên nghe và nhận biết tiếng gọi của chủ chăn. Chủ chăn gọi đàn chiên và dẫn chúng đi, người chăn chiên đi trước và chiên theo sau, vì chiên biết tiếng chủ chiên của mình. Hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh vị chủ chăn cho chúng ta thấy Ngài là Ðấng chăn chiên, là Ðấng Cứu Ðộ cho những ai nghe tiếng Ngài.

------------------------------

 

Suy Niệm 6: “Ta biết chúng, và chúng theo Ta”


Chuyện kể rằng: một du khách đến Palestin, gặp được người mục tử đang làm việc tại trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh đồi núi và bày cừu đang tung tăng trên cánh đồng cỏ.

Phóng tầm nhìn, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu?” Người mục tử hỏi lại: “Cửa hả? Chính tôi là cửa. Ban đem tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi”.

Trong cuộc đời của Đức Giêsu, một trong những phương pháp sư phạm của Ngài khi rao giảng Tin Mừng chính là phương pháp ẩn dụ. Tức là mượn hình ảnh của thiên nhiên, động vật... để nói lên một chân lý thuộc về Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay cho biết: Đức Giêsu dùng hình ảnh mục tử, đàn chiên và cửa chuồng chiên để nói lên mối tương quan giữa Ngài và dân Israel.

Mục tử là khái niệm rất quen thuộc của người Dothái; đàn chiên chính là gia sản của họ, nên ai cũng biết. Mục tử và đàn chiên cả hai đều sống du mục, nay đây mai đó, luôn tìm đến chỗ có đồng cỏ tươi, dòng suối mát để hạ trại.

Hôm nay, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Mục Tử Nhân Lành, được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Mục Tử Nhân Lành này sẵn lòng hy sinh tất cả vì đàn chiên. Ngài tự ví mình là “Cửa Chuồng Chiên”, tức là người canh phòng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ tấn công. Vì thế, ai qua “Cửa” mà vào thì sẽ được sống.

Người Mục Tử Nhân Lành này sẵn sàng dùng mọi cách để giữ gìn chiên, ngay cả cái chết. Ngài yêu thương chiên bằng tình yêu mục tử, nên Ngài “biết” từng con chiên và từng con chiên “biết” Ngài. Vì thế, sự sống của chiên là của Ngài và sự sống của Ngài luôn dành cho chiên.

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa và Chúa thuộc về ta. Chúa “biết” chúng ta và Ngài “biết” cách thấu đáo. Còn chúng ta, chúng ta có “biết” Ngài không, hay có “biết” nhưng “biết” cách vu vơ, lúc biết lúc không?

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc đặt lại câu hỏi ấy cho chính mình, ngõ hầu mỗi người làm mới lại mối tương quan với Thiên Chúa để được đi trong đường lối của Ngài. Đồng thời luôn sẵn sàng làm chứng về những gì mình “biết” về Thiên Chúa cho con người và cuộc sống hôm nay, ngang qua hành vi được biểu lộ nơi lòng mến và niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con được “biết” Chúa như chính Chúa đã “biết” chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu-người chăn chiên nhân lành


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu là người chăn chiên nhân lành. Người đến để ban sự sống cho tất cả những ai đặt tin tưởng nơi Người và nghe theo tiếng Người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, một trong những nỗi băn khoăn khắc khoải sâu xa nhất của mỗi người, của mỗi tâm hồn, là nỗi băn khoăn về ý nghĩa cuộc đời, về con đường mà mỗi người cần phải theo trong cuộc hành trình tiến về vĩnh cửu. Giữa lòng thế giới hôm nay, trước những quan niệm thế tục về cuộc sống con người, con cũng đã nhiều lúc hoang mang, nhiều lúc chao đảo, cứ mải loay hoay tìm kiếm cho mình một con đường, một lối đi, mà không cần ai dẫn dắt, chẳng cần nương tựa vào ai. Và như thế thất bại và chán nản là chuyện bình thường.

Lạy Chúa, từ những chán nản thất vọng đó, con tự hỏi: Ai sẽ dẫn dắt con vào con đường của sự sống hoàn hảo, ai sẽ xoa dịu những cơn đau khổ, những thất bại ? Chúa quả quyết với con: “Ta đến để cho mọi người được sống và sống dồi dào”. Lời xác quyết ấy tuy đơn sơ nhưng vững vàng, làm cho mọi băn khoăn lo lắng của con tan biến và đem lại niềm hy vọng cho đời sống con.

Lạy Chúa, một tương lai tươi sáng đã mở ra cho con. Xin cho con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Xin cho con biết luôn để cho Chúa dẫn dắt và nghe theo lời Chúa truyền dạy.

Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn con đi trên đường dẫn đến sự sống đời đời, và xin giúp con luôn trung thành với Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Ta là cửa chuồng chiên”.

------------------------------

 

Suy Niệm 8: Đức Giêsu Chúa chiên nhân lành


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy Đức Giêsu là cửa chuồng chiên:

- “Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào thì là quân trộm cướp”: Đức Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sĩ. Họ không được Thiên Chúa ủy nhiệm, họ chỉ giành quyền lãnh đạo tôn giáo, không phải mưu cầu lợi ích cho dân, mà để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.

- “Ta là cửa chuồng chiên”: Đức Giêsu là mục tử đích thật của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn.

2. Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và xem nhiều phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài, nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.

Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ: “Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10,14).

3. “Ta là cửa chuồng chiên”.

Đức Giêsu còn xác định Ngài là cửa chuồng chiên để bảo vệ đàn chiên. Hình ảnh này hơi khó hiểu đối với chúng ta vì phong tục nuôi chiên của người Palestin khác với chúng ta.

Trong cuốn “The Holy Land”: vùng đất thánh, tác giả John Kellman mô tả: chuồng chiên ở Do thái có một bức tường bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron. Người du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh đâu”? Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng”. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe biết, ban đêm anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có con chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.

4. “Khi sói đến, người làm thuê bỏ chiên mà trốn”.

Đức Giêsu khẳng định “Ta là mục tử tốt lành”, do đó Ngài đã quên bản thân mình để phục vụ lợi ích của dân chúng và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên.

Trong quyển “The land and the Book”, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có một chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn chiên của chàng.

5. “Anh đi trước và chiên đi theo anh”.

Hình ảnh người chăn chiên đi trước và đàn chiên theo sau thật đẹp. Điều đó nói lên sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đàn chiên, chiên nghe theo chủ chăn và do đó, chỉ có một chủ chiên và một đàn chiên.

Hiệp nhất vốn là dấu chỉ của tình yêu. Đức Giêsu mượn hình ảnh người mục tử không ngừng đi tìm kiếm những con chiên lạc, để nói lên mối quan tâm của Ngài đối với Giáo hội. Đó chính là chúc thư Ngài để lại trong những giây phút cuối đời. “Xin cho chúng nên một”, “một đàn chiên và một chủ chiên”: đó là hình ảnh của sự hiệp nhất mà Đức Giêsu luôn quan tâm đến. Hình ảnh người mục tử đi tìm kiếm những con chiên lạc cũng nói lên tất cả mối tương quan của Thiên Chúa đối với con người: không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Mọi cố gắng của con người xét cho cùng  cũng đều là  những lôi kéo của Thiên Chúa.

6. Truyện: Theo anh là thủ lãnh.

Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.

Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:

- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước, thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em quyết định.

Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:

- Theo anh là thủ lãnh của em.

Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:

- Em có bỏ không?

Lời thưa đầy hăng hái:

- Em đã chẳng hứa với anh sao?

Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.

-------------------------------

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Đoạn Phúc Âm hôm nay trình bày Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên:

“Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp”: Chúa Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sỹ. Họ không được Thiên Chúa uỷ nhiệm, họ chỉ dành quyền lãnh đạo tôn giáo, không chỉ để mưu cầu ích lợi cho dân, mà chỉ để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.

“Ta là cửa chuồng chiên”: Chính Chúa Giêsu là cửa đích thực của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn…

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Chúa chúng ta không phải là một Thiên Chúa cao vời xa cách, mà là một Thiên Chúa gần gũi yêu thương, như một Mục tử sống sát với đàn chiên, hiểu biết, yêu thương và chăm sóc từng con chiên một… Giả như tôi có là một con chiên yếu đau, què quặt, Chúa đã biết và vẫn thương tôi, hơn nữa còn chăm sóc tôi đặc biệt hơn các chiên khác. Vì thế nên tôi phó thác sống theo sự dẫn dắt của Ngài.

2. Từ lâu, tôi cứ vẫn ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví minh như Mục tử, lúc thì ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải toả cho tôi thắc mắc đó. Sách viết: một du khách đến Palestin, gặp được một Mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là mấy bầy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu ?” Người Mục tử hỏi lại: “Cửa hả ? Chính tôi là cửa. Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi”. Thế đó, Đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình: Ngài vừa là Mục tử vừa là cửa vào (Góp nhặt).

3. “Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy”.

“Tôi xin chọn Người làm gia nghiệp tôi mãi mãi. Trọn đời tôi trót cả đời tôi, trọn tuổi xuân, dâng cả tình yêu luôn với ước mơ…” Đối với tôi, đó không chỉ là một bài hát, là những nốt nhạc, nhưng là tâm nguyện, là cuộc đời của một chàng trai đã dám từ bỏ tất cả: Tương lai rược rỡ, một người yêu tuyệt vời và cả những cuộc vui cùng bạn bè, để bước theo tiếng Chúa gọi.

Đã bao lần tôi muốn quyết định… nhưng rồi lại thôi. Muốn đặt bước chân mình lên bước chân Người, định đưa tay ra để Người nắm và dắt tôi đi, nhưng lại hèn nhát rụt tay lại.

Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con, và xin cho con biết đón nhận thánh ý Người. (Epphata)

-------------------------------

 

Suy Niệm 10: Bước vào một xã hội mới


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu hôm nay tự xưng mình: “Ta là cái cửa” (Ga 10,9).

Cửa là lối vào. Qua Chúa người ta có thể bước vào một xã hội mới.

2/ “Ta là cửa chuồng chiên” (Ga 10,7).

a/- Chuồng chiên bên đông phương là một khu đất rộng, chung quanh có tường hoặc rào bao bọc. Chuồng chiên không bao giờ có mái che ở trên.

 - Thường thì mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa duy nhất. Đó là lối ra vào của chiên. Không bao giờ chiên trèo tường hay leo rào để ra vào.

 - Cửa chuồng chiên chỉ là một khoảng cách giữa hai bên bờ tường hay bờ rào. Nó chỉ là một khoảng trống. Nó khác hẳn với hình ảnh về một cái cửa mà chúng ta thường thấy trong xã hội hôm nay.

 - Khi Chúa tự ví mình như cái cửa, Chúa đã muốn nói với mọi người về lối vào của một xã hội mới Ngài thiết lập. Xã hội như một đàn chiên. Bất cứ ai muốn gia nhập thì phải qua Ngài. Ngài là cửa dẫn vào đoàn chiên. Không qua Ngài mà vào thì là kẻ cướp. (Ga 10,1)

b/ Nhưng làm thế nào để có thể gọi là “qua Ngài”. Chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh của người mù mới được Chúa chữa khỏi. Khi được sáng mắt chắc là anh đã vui mừng. Nhưng niềm vui của anh chưa được bao lâu thì nó đã biến thành nỗi sầu. Chỉ vì bênh vực cho sự thật mà anh bị loại trừ ra khỏi hội đường. Phải nói đây là hình phạt đáng sợ nhất đối với người Do Thái. Nhưng rất may cho anh, Chúa đã đón nhận anh. Bằng một lời tuyên xưng, anh đã bước vào xã hội mới của Chúa. Vâng, đó là cách chúng ta “qua Chúa” để vào xã hội của Ngài. Mỗi người chúng ta đã làm như thế ngày chúng ta được chịu phép Rửa tội. Giờ đây, chúng ta đang ở trong xã hội đó. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả này.

3. Tới đây tôi chợt nhớ tới một câu chuyện của Hầu tước (Sir) George Adam Smith. Một hôm ông đi du lịch bên Đông Phương. Ông thấy một mảnh đất có tường bao quanh như tôi vừa nói. Nhưng ông không dám nghĩ đó là một chuồng chiên. Cũng may là lúc ấy có một người chăn chiên đang ở gần đó.

 Ông hỏi anh ta: “Cái đó có phải là chuồng chiên không ?”.

 Người chăn chiên xác nhận: “Dạ phải”.

 Ông thắc mắc: “Sao, tôi thấy chỉ có một lối đi vào”.

 Người chăn chiên giải thích: “Vâng, chỗ đó là cái cửa”.

 Ông ngạc nhiên thắc mắc tiếp: “Nhưng chỗ đó tôi đâu có thấy cửa đâu ?”

 Chẳng cần phải suy nghĩ gì. Người chăn chiên trả lời ngay: “Tôi là cái cửa”

 Ông càng ngạc nhiên hơn nữa, Ông hỏi tiếp: “Anh muốn nói gì khi anh bảo anh là cái cửa ?”

 Người chăn chiên đáp: “Khi chiên vào chuồng rồi thì tôi đến nằm ngang chỗ đó. Không một con chiên nào có thể đi ra và cũng không một con sói nào có thể đi vào mà không phải qua con người của tôi”

Có lẽ tới đây cũng đã đủ để chúng ta có thể hiểu được ý của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay.

Xin Chúa cho chúng ta được tìm thấy hạnh phúc khi chúng ta được ở trong Giáo Hội, tức là đoàn chiên của Chúa. Trong Giáo Hội chúng ta có Chúa bảo vệ chúng ta. Trong Giáo Hội, bằng các bí tích Chúa lo lắng cho chúng ta. Cũng chính trong Giáo Hội mà chúng ta nhận được lương thực hằng sống là Mình và Máu Thánh Chúa hằng ngày.

Để kết thúc tôi xin được gửi đến anh chị em lời của Đức Hồng Y Marty, nguyên là chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp trước đây: “Tôi yêu Giáo Hội từ khi mẹ tôi dạy tôi làm dấu Thánh Giá cũng như lúc cuộc đời tôi đã xế bóng.

Tôi đã vào Giáo Hội khi tôi được sinh ra ở một làng quê. Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa khi tôi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu nguyện.

Tôi đã sống trong Giáo Hội trước khi tôi ý thức được Giáo Hội là gì. Tôi đã yêu mến Giáo Hội như tôi yêu mến mẹ tôi. Tôi đã sống trong Giáo Hội ngay từ trước khi tôi biết gọi tên Giáo Hội, cũng như đứa trẻ đã biết yêu trong gia đình của nó trước khi biết đến tên Tình yêu.

Tôi yêu Giáo Hội. Giáo Hội đã vỡ lòng cho tôi về Thiên Chúa, đã cho tôi lớn tiếng đọc sứ điệp của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Trên con đường dài của cuộc đời tôi, như những môn đệ Emmau, tôi đã bước đi trong bụi bặm, nhưng bên cạnh luôn có Người cùng đi và dẫn giải cho tôi Lời Kinh Thánh, và tôi đã luôn luôn nhận ra sự hiện diện của Người bên bàn chia sẻ Lời và Bánh”.

Lạy Cha từ ái,
cảm tạ Cha đã ban cho chúng con
ơn nhận biết và tin vào Ðức Giêsu Con Cha,
và được lớn lên trong lòng Giáo Hội.
Cha muốn chúng con noi gương Ðức Giêsu
chu toàn thánh ý Cha trong cuộc sống.
Xin cho chúng con mỗi ngày
biết múc lấy ánh sáng và sức mạnh
từ những phút giây trầm lặng bên Cha.
Ước gì sau một đời yêu thương và phục vụ,
chúng con lại được cùng sống bên Cha
và bên nhau trong Nước Trời. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa là cửa chuồng chiên


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với những người Do Thái rằng Chúa là người giữ cửa chuồng chiên và rồi sau đó Chúa mới nói Chúa là cửa chuồng chiên.

Chúa nói Chúa chính là người giữ cửa chuồng chiên. Người giữ cửa rất quan trọng. Mở cửa hay đóng cửa chuồng lúc nào, khi nào là quyền ở người giữ cửa. Mỗi buổi sáng, người giữ cửa mở cửa cho đàn chiên đi ra ăn ở đồng cỏ xanh tươi, uống nước nơi dòng suối trong, nằm nghĩ bên những sườn đồi mát thoa thỏa. Buổi chiều đàn chiên trở về chuồng thì đóng cửa lại để bảo vệ đàn chiên khỏi thú dữ ăn thịt và các kẻ vào cướp phá hoạ, để chiên được an toàn và rồi sau đó là lớn mạnh theo thời gian tháng năm. Vì thế, cửa chuồng chiên nói lên sự bảo vệ, sự an toàn. Chúa là Đấng bảo vệ chúng ta, chỉ nơi Chúa, chúng ta mới được an toàn thư thái. Như vậy, những kẻ không qua Chúa mà vào đàn chiên tức là Hội Thánh ngày hôm nay, nghĩa là những kẻ không được Chúa chọn thì là những kẻ làm hại Hội Thánh. Còn những người được Chúa chọn, Chúa cho phục vụ trong Hội Thánh, thì những người đó được Chúa chúc phúc, ban ơn, và các người tín hữu sẽ nghe theo họ: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ” (Ga 10, 1 – 5).

Khi những người Do Thái chưa hiểu những điều Chúa nói ở trên thì Chúa lại nới tiếp, chính Chúa là cửa chuồng chiên. Cửa chuồng chiên là nơi những người được tuyển chọn, những người danh chính ngôn thuận, và các con chiên  đi ra đi vào. Người giữ cửa sẽ mở cửa cho những người có trong danh sách ấy được ra vào. Vậy những người không có trong danh sách thì không được người giữ cửa chuông chiên mở cửa cho họ, cho nên muốn được vào thì phải được tuyển chọn, có tên trong danh sách. Còn nếu không muốn có tên trong danh sách mà cố ý vào chuồng thì chỉ còn cách là trèo tường, leo rào mà vào, vào để mà trộm cướp, phá họa: “Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào” (Ga 10, 6 – 10). Như vậy, muốn được Chúa cứu chúng ta, chúng ta phải qua Chúa, nhờ Chúa để Chúa mới giúp chúng ta. Còn chúng ta không chịu theo Chúa thì chúng ta sẽ không được Chúa chăm sóc, nuôi dưỡng, ban ơn, bảo đảm phần rỗi cho chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con rất tự hào và hạnh phúc được sống trong đàn chiên là Hội Thánh của Chúa, được làm con của Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến luật Chúa truyền để chúng con đi trong đường lối của Chúa, và xin cho chúng con luôn sống trong niềm hy vọng, một khi chúng con làm theo thánh ý Chúa, chúng con sẽ được Chúa cứu chúng con, cho chúng con hạnh phúc đời đời trong Nước Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12: Tôi là cửa cho chiên ra vào


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 4 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên, xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, thì xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh.

Được hưởng phúc trường sinh, nếu ta không thờ lạy Con Thú, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Hai Con Thú: Con Thú thứ nhất tiêu biểu cho quyền bính của đế quốc Rôma. Con thứ hai mệnh danh là ngôn sứ giả, phục vụ cho con thứ nhất. Hình như con thứ hai tiêu biểu cho những người cổ võ việc thờ phượng hoàng đế. Ai thắng sẽ được mặc áo trắng, Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh. Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người. Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

Được hưởng phúc trường sinh, nếu ta cùng chết với Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Baxiliô Cả nói về: Thần Khí ban sự sống… Từ giếng nước thanh tẩy đi lên là chúng ta đã chết đối với tội, đã từ bỏ những gì xác thịt ham muốn. Thánh Thần dưới hình bồ câu từ trời ngự xuống, bay đến con tàu Giáo Hội, ban tặng bình an của Thiên Chúa. Hạnh phúc biết bao, vì nhờ nước thánh tẩy mà ta được giải thoát và được hưởng sự sống muôn đời.

Được hưởng phúc trường sinh, nếu ta biết khao khát ơn cứu độ của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Nghe thế, họ mới chịu im, và họ tôn vinh Thiên Chúa mà nói : Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 41, vịnh gia cho thấy: Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tôi chính là Mục Tử nhân lành, Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Chúa là Mục Tử nhân lành biết từng con chiên một; Chúa là cửa cho chiên ra vào, để chiên gặp được đồng cỏ xanh tươi; qua cửa Chúa mà vào, thì được sống muôn đời. Thật vậy, Chúa là Đấng ban cho chúng ta sự sống, Người thiết lập cho chúng ta một giao ước, đó là Bí Tích Thánh Tẩy, hình ảnh tượng trưng cho cái chết và sự sống: nước là hình ảnh của cõi chết, Thần Khí là bảo chứng mang sự sống. Nước là hình ảnh của cõi chết, chẳng khác nào một nấm mồ. Thần Khí thông ban sinh lực đổi mới linh hồn chúng ta, đưa linh hồn từ tình trạng chết do tội lỗi sang sự sống mới. Đó là sinh lại bởi nước và Thần Khí. Sự chết được thể hiện trong nước, còn, sự sống của ta thì do Thần Khí ban. Để giúp chúng ta sống cuộc đời bắt nguồn từ ơn phục sinh, Chúa đề ra cả một lối sống theo Tin Mừng. Như thế, ngay từ đời này, chúng ta đã quyết tâm sống những gì tất nhiên sẽ có trong thế giới mai sau. Nhờ Chúa Thánh Thần, ta được đưa về vườn địa đàng, được dẫn vào Nước Trời và được trở lại làm nghĩa tử. Nhờ Chúa Thánh Thần, ta được dạn dĩ gọi Thiên Chúa là Cha, được thông phần ân sủng của Đức Kitô, được gọi là con cái ánh sáng, được chung phần vinh quang vĩnh cửu. Của bảo chứng mà đã lớn lao như thế, thì, ân sủng đầy đủ sẽ trọng đại biết chừng nào. Hoa quả đầu mùa mà đã dồi dào như vậy, thì, khi mọi sự đã hoàn tất, mùa gặt sẽ phong phú biết bao. Nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên. Chúa đã thương cứu chúng ta ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, ước gì chúng ta được hưởng phúc trường sinh. Ước gì được như thế!

------------------------------
 

Thứ 3 PS –Tuần 4/2025

Sự thật cứu rỗi.
13/05 – Thứ Ba tuần 4 Phục Sinh.
"Tôi và Cha Tôi là một".

 

Lời Chúa: Ga 10, 22-30


Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết".
Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi.
Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".

 -------------------------------

 

Suy Niệm 1: Không ai cướp được chúng


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Có những Kitô hữu theo đạo để mong tránh sóng gió của cuộc đời.
Nhưng đã có lần con thuyền chở Đức Giêsu và môn đệ gặp bão lớn,
nước tràn vào khiến thuyền gần chìm, làm môn đệ hốt hoảng.
Theo Chúa đâu phải để tránh bão, nhưng để vượt qua cơn bão.
Theo Chúa đâu phải để khỏi bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ.
Cuộc sống của người Kitô hữu không tránh khỏi những khó khăn
mà những người không Kitô hữu phải đối mặt mỗi ngày.
Hơn nữa, người Kitô hữu còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Có những cơn bão ập đến bất ngờ chỉ vì họ là Kitô hữu.
Làm chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu
không có nghĩa là được hưởng một sự êm ả dễ chịu.
Được ở trong ràn chiên của Chúa,
không có nghĩa là được yên ổn, chẳng bị ai quấy phá.
Đức Giêsu đã nói đến chuyện kẻ trộm, kẻ cướp, leo tường mà vào (c.10).
Chúng đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy đàn chiên (c. 10).
Khi được dẫn đi ăn nơi đồng cỏ, chiên còn phải đối đầu với sói dữ.
“Sói cướp lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (c. 12).
Đức Giêsu khẳng định mình không phải là người làm thuê,
nên khi sói đến, Ngài không bỏ chiên mà chạy.
Chiên là điều quý giá đối với Ngài đến độ Ngài dám nói nhiều lần:
“Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (cc. 11.15.17.18.).
Và thực sự Ngài đã làm điều đó trên thập giá.
Rõ ràng bảo vệ đoàn chiên là chuyện mấy chẳng dễ dàng.
Nếu Đức Giêsu, người mục tử nhân hậu mà bất khuất,
đã phải hy sinh mạng sống cho đoàn chiên,
thì hẳn cuộc chiến giằng co phải rất là ác liệt.
Kẻ thù của chiên chẳng phải là kẻ kém cỏi tầm thường.
Trong cuộc chiến để bảo vệ chiên, còn có sự hiện diện của Cha.
Chiên là của Cha và Cha đã giao chiên cho Đức Giêsu (c. 29).
Cha và Con cùng hợp tác để bảo vệ đoàn chiên,
không để ai cướp chiên ra khỏi vòng tay che chở của mình (cc. 28-29).
Cha và Con một lòng một ý trong nhiệm vụ này (c. 30).
Việc bảo vệ chiên còn kéo dài mãi đến tận thế.
Chúng ta làm gì để cộng tác với Chúa trong việc bảo vệ mình khỏi sói dữ?
Hãy tin vào Giêsu và nhận ra giọng nói của Giêsu để khỏi bị lừa.
Hãy theo sát sự dẫn đường của Giêsu, vị Mục tử đã chiến thắng cái chết.
Và hãy tin vào Chúa Cha, Đấng mạnh mẽ hơn tất cả (c. 29).
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến ru bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
 
-------------------------------

 

Suy Niệm 2: Sự sống của Thiên Chúa


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sự sống của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Đó là sự sống hiệp thông. Một sự hiệp thông mầu nhiệm. Nên một. “Tôi và Chúa Cha là một”. Không còn gì xác tín hơn. Không còn gì sâu xa hơn. Chỉ Thiên Chúa mới có sự sống ấy.

Sự sống hiệp thông ấy biểu lộ trong suốt đời dương thế của Chúa Giê-su. Người không nói gì, làm gì mà không bởi Chúa Cha. Đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng minh Người là Đấng Ki-tô. “Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi”.

Sự sống hiệp thông lan toả đến đoàn chiên của Chúa. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Đó là sự sống phong phú, viên mãn. Không bao giờ mất. Không ai cướp đi được.

Sự sống hiệp thông tràn lan khắp nơi. Càn tản mát lại càng lan toả. “Hồi ấy, những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a”.

Sự sống hiệp thông tràn lan sang cả dân ngoại. Không chỉ trong người Do thái. Nhưng còn lan toả đến mọi dân tộc. “Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ”.

Và thật lạ lùng. Sự sống ấy giữ được nét nguyên tuyền. Như Chúa Cha và Chúa Giê-su là một. Giờ đây đoàn chiên hiệp thông với chủ chiên. Tín hữu hiệp thông với Chúa Ki-tô. Đến nỗi người ta gọi họ là “Ki-tô hữu”. Người mang Chúa Ki-tô. “Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu”.

Xin cho con được kết hiệp trọn vẹn với Chúa. Sống sự sống của Chúa trong mình. Để con xứng đáng mang danh hiệu Ki-tô hữu rất cao quý này.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Sự thật cứu rỗi


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Không phải chỉ trong thời đại văn minh này người ta mới lịch sự đón tiếp đại sứ của một chính phủ hay nguyên thủ của một quốc gia đúng theo địa vị đại diện của họ. Nhưng ngay từ thời xưa, hậu đãi hay ngược đãi sứ giả của một vua là đã phụ đãi hay ngược đãi chính nhà vua và chính quốc gia mà người ấy đại diện. Không phải vì tiếng tăm, học vấn hay tài trí của sứ giả làm cho họ được kính trọng mà chính vì thay mặt nhà vua và một quốc gia mà họ có quyền được hậu đãi như thế. Ðây cũng là điều mà Chúa Giêsu nói với những người Do Thái thời xưa như được kể lại trong đoạn Tin Mừng vừa trích dẫn trên đây.

Câu hỏi mà họ đặt ra trong lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy tại đền thờ làm ta nhớ đến câu hỏi của thượng tế Caipha trong phiên họp thượng hội đồng: "Nếu ông là Ðấng Kitô thì xin hãy nói thẳng ra đi. Ông có phải là Ðấng Mêsia không?". Trong câu chất vấn này, Chúa Giêsu đã không phủ nhận. Chỉ có điều Chúa Giêsu trả lời một cách hơi gián tiếp như sau: "Tôi đã trả lời câu hỏi này mà các ông không tin". Nhưng dù vậy, Chúa Giêsu không bỏ rơi họ để giúp họ tìm thấy sự thật, tìm ra câu trả lời. Chúa Giêsu đã khéo léo làm cho họ chú ý đến quan hệ mật thiết giữa Ngài với Thiên Chúa Cha, mật thiết đến độ Ngài gọi Thiên Chúa là Cha Ngài và làm chứng cho mối quan hệ mật thiết đó bằng việc làm nhân danh Cha Ngài, và việc cao trọng nhất là ban cho kẻ tin Ngài được sự sống đời đời: "Ta sẽ cho họ sống đời đời. Họ sẽ không chết bao giờ và không ai có thể cướp họ khỏi tay Ta".

Nếu đã nhìn nhận mối quan hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, thì hẳn những người Do Thái sẽ biết trả lời cho câu hỏi "Ông là ai?" như thế nào rồi. "Ta và Cha Ta, chúng ta là một". Ðây là mạc khải quan trọng nhất nhắc ta nhớ lại những suy tư mở đầu Phúc Âm thánh Gioan: "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngôi Lời sống với Thiên Chúa ngay từ đầu. Vạn vật do bởi Ngài mà có và nếu không có Ngài thì sẽ không có gì cả". Tác giả Phúc Âm thánh Gioan đã có những suy tư cao siêu như vậy khi nhìn về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong viễn tượng Chúa Phục Sinh.

Ước chi mỗi người đồ đệ của Chúa trong ngày hôm nay cũng tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi nhân loại.

Lạy Chúa, với sự kiện Chúa sống lại, không ai trong chúng con nên hồ nghi về mối quan hệ giữa Chúa và Chúa Cha. Xin thương ban ơn giúp mỗi người chúng con sống xứng đáng với niềm tin vào Chúa và đừng bao giờ để con lìa xa Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Thắc mắc đến bao giờ


Chọn theo đức tin mà Đức Giêsu đòi hỏi không phải là để yên tâm nghỉ ngơi. Đức tin không cất đi những thắc mắc căng thẳng. Chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng lơ lửng: “Hãy nói cho chúng tôi biết ông có phải là Đức Kitô không?”. “Nếu ông là Đấng sống lại thì xin nói cho chúng tôi biết”. “Nếu ông là bánh ban sự sống thì xin nói cho chúng tôi hay”.

Trái lại, gắn bó với Đức Giêsu bằng đức tin chỉ có sự chắc chắn theo kiểu tin cậy của người yêu đối với người được yêu, khi đó dù có chuyện gì xảy ra, thì chẳng có gì quan trọng. Tôi sẵn sàng gắn bó quyến luyến anh, thì tôi luôn trung tín với anh. Cũng thế, chính niềm tin cậy vào Đức Giêsu, được đặt nền trên tình liên kết với Người, mà chúng ta chấp nhận lời Người như một bảo đảm bất biến.

Hôm nay, trong cuộc đàm thoại với chúng ta Người đã bảo đảm sự trung tín và sự cam kết của Người với chúng ta. Người biết rõ chúng ta, Người ban sự sống đời đời và giữ gìn chúng ta trong tay Người. Lòng trung tín của Chúa đã in đậm trong Cựu ước, giờ đây được xác nhận lại rõ ràng nồng nàn đậm đà hơn nữa bởi chính Con Chúa. Chúa không bao giờ bỏ giao ước của Ngài.

Nhưng có lần nào chúng ta nhắc lại lòng trung thành của chúng ta với Đức Kitô không? Nếu chúng ta không trung thành với những người chung quanh thì kể như chưa trung tín với Ngài. Nếu chúng ta thông phần vào đời sống Đức Kitô thì chúng ta phải hội nhập với mọi người.

Nếu chúng ta không biết sát cánh hoạt động với mọi người, không biết liên đới với họ trong tình huynh đệ, chúng ta không trung tín. Như thế chưa có thể nhận biết ai là Đức Giêsu Kitô. Chắc chắn rằng Đức Kitô chăm lo săn sóc cho mọi người đến tột đỉnh, thì những Kitô hữu cũng phải thực hiện theo hình ảnh trung tín của Người như vậy.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Thái độ đáp trả của chiên


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Đó là khẳng định của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay.

Nghe tiếng chủ chiên là nghe hiểu và đáp trả. Thái độ đó sẽ được đền bù xứng đáng: người chăn chiên sẽ dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi, sẵn sàng liều mạng để bảo vệ chúng. Nghe để rồi tách khỏi bầy, tìm cho mình một lối đi riêng thì đâu còn phải là nghe theo tiếng của người chăn. Người chăn sẵn sàng băng rừng vượt suối để tìm con chiên lạc, chứ chẳng bao giờ muốn chiên lạc xa bầy. Đồng cỏ mà người chăn dự tính trong đầu được dành cho cả bầy, tách rời khỏi bầy chắc chắn chiên không thể đến được đồng cỏ này. Tưởng rằng chỉ một mình thức tỉnh nghe và theo tiếng gọi, trong lúc cả bầy chiên chưa nghe biết, rất có thể đó là tiếng gọi giả hiệu của sói dữ muốn chiên rời xa sự chăm sóc của chủ để dễ dàng tấn công.

Giáo Hội là đàn chiên của Chúa. Lời hứa chăm sóc bảo vệ đàn chiên của Chúa Giêsu không chỉ dành riêng cho thời các Tông đồ hoặc các cộng đoàn tiên khởi, nhưng đã trải dài suốt 20 thế kỷ nay. Biết bao thế lực chống đối chủ trương triệt hạ Giáo hội, nhưng Giáo Hội vẫn tồn tại nhờ sự bảo về đầy quyền năng của chủ chăn. Trong đàn chiên Giáo Hội này, mỗi con chiên đều được người chăn biết rõ, và gọi tên và chiên có bổn phận phải nghe và đáp trả. Sự đáp trả có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, nhưng dù sao vẫn không thể ra ngoài lối đi của tất cả đàn chiên, vì đó là lối dẫn đến sự sống.

Ước gì chúng ta biết lắng nghe và đáp lại tiếng gọi của Chúa, đồng thời trung thành với đàn chiên Giáo Hội, bởi vì một khi lạc xa đàn, chúng ta sẽ không thể tìm được đồng cỏ và suối nước trong, nơi mà người chăn chiên muốn cho cả đàn chiên vui hưởng.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Xin được ở trong đàn chiên của Chúa


Cùng một lời nói được phát ra, có người nghe thấy, có người chẳng nghe; có người nghe đúng, có người nghe sai; có người nghe đủ, có người nghe thiếu...

Thực trạng đó rất đúng với bài Tin Mừng hôm nay. Thật vậy, những người Dothái hỏi Đức Giêsu: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết".

Những người Dothái không biết Đức Giêsu là bởi vì họ đã không nhận ra Ngài. Họ bị thói kiêu ngạo che lấp tâm trí, nên đứng trước biết bao nhiêu phép lạ, lời giảng dạy và nhiều mạc khải khác, họ vẫn bị mờ tối lương tâm nên không “biết” Đức Giêsu. Vì thế, khi được hỏi, Đức Giêsu đã khẳng khái trả lời cho họ biết nguyên nhân tại sao, đó là: “Vì họ không thuộc về đàn chiên của Ngài”. Bởi vì: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” Khi đã “biết” và nghe theo tiếng Chủ chiên là chính Đức Giêsu, thì sẽ được sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Nhất là được đảm bảo khỏi sói dữ, quỷ thần ám hại, vì được ở trong vòng tay của Vị Mục Tử Nhân Lành.

Nếu Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, thì Giáo Hội là đàn chiên của Chúa. Nơi đàn chiên này, luôn được Vị Mục Tử Nhân Lành chăm sóc, giữ gìn. Thế nên, dù sự dữ có mạnh đến đâu, quyền lực của ma quỷ có lớn lao cỡ nào, thì Giáo Hội Chúa vẫn tồn tại nhờ vào sức mạnh, uy quyền của Chủ Chăn.

Mong sao, mỗi người chúng ta luôn tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đồng thời hãy biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, để xứng đáng trở thành con chiên ngoan hiền trong đàn chiên của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con luôn biết dõi theo Chúa dưới cây gậy mục tử là chính Lời Chúa, để chúng con được sống trong đàn chiên của Chúa đến trọn đời. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chiên Tôi nghe tiếng và theo Tôi


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu thực sự là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Người đến để ban sự sống đời đời cho đoàn chiên và giữ gìn bảo vệ đoàn chiên an toàn. Hãy tín nhiệm đi theo Người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con được hạnh phúc biết bao vì biết rằng con đang được bàn tay yêu thương của Chúa ôm ấp và bảo vệ. Chúa như người mục tử yêu thương con, hy sinh liều mạng sống vì con để bảo vệ con khỏi những hiểm nguy tấn công con tứ phía. Trước mặt Chúa, mạng sống thân xác con thật quý giá, sự sống linh hồn con thật cao cả. Chúa muốn con được sống, được an toàn, được sống sung mãn và hạnh phúc.

Lạy Chúa, Sa-tan muốn cướp giựt con khỏi bàn tay Chúa. Sa-tan muốn biến thế gian này làm tay sai cho nó, thành sào huyệt đầy những hiểm nguy và ác độc. Có những cám dỗ ngọt ngào, có những thử thách khổ đau, tất cả đều muốn lôi kéo con xa rời đường lối Chúa và phản bội tình thương Chúa. Nhưng Chúa không đành lòng nhìn con rơi vào tay quỷ dữ. Chúa đã cầu nguyện xin Chúa Cha gìn giữ con đang phải chiến đấu giữa thế gian. Chúa còn liều mạng sống trên thánh giá để con khỏi phải diệt vong. Con cảm tạ tình Chúa thương con.

Thế mà lạy Chúa, rất nhiều lúc con lại muốn chạy trốn để vuột thoát khỏi bàn tay Chúa. Con không còn muốn bước theo Chúa. Con đã đi tìm sự tự do buông thả như người con hoang đàng để rồi chuốc lấy đau khổ và bất hạnh. Xin Chúa cho con tín nhiệm vào Chúa. Con muốn từ nay trung thành sống theo lời Chúa dạy. Trước mỗi cám dỗ hoặc mỗi thử thách, xin Chúa cho con được sáng suốt để nhận định, được can đảm để trung thành, và được tin tưởng để cầu nguyện. Amen.

Ghi nhớ: “Tôi và Cha Tôi là một”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Hành hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng: “Ta là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.

Chúa Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa (Theo Lm. Hồng Phúc).

Suy niệm

Tình thương của Thiên Chúa qua hình ảnh mục tử trải qua bao năm tháng luôn tràn đầy như Thánh Vịnh đã nhấn mạnh: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 22,6). Hôm qua, hôm nay và qua mọi thời, Thiên Chúa vẫn chăm sóc chúng ta, Ngài vẫn luôn cất tiếng gọi chiên, dẫn đưa trên đường chân lý như Thánh Vịnh ca ngợi: “Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính” (Tv 22,3).

Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự tương quan giữa Thiên Chúa chính là Ngài - Mục tử và đoàn chiên là những người tin vào Ngài: Đức Kitô Mục tử như vừa là người cha vừa là người mẹ hiền chăm sóc cho từng chiên và bảo vệ chúng. Thật thế, Ngài luôn bảo vệ chúng ta trước những cạm bẫy, nguy hiểm của thế gian. Ngài mạnh mẽ như người mục tử đầy sức mạnh, kiên cường của một người du mục, luôn sẵn sàng chiến đấu, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (x. 1Sm 17,34-35). Vì thế Ngài khẳng định: “Ta ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,28). Chúa khẳng định: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Trong mọi giây phút của cuộc đời, tôi và bạn cùng “gạn đục khơi trong” tiếng mục tử giữa cuộc đời. Tiếng đó thì thầm trong lương tâm ngay thẳng được chiếu sáng bằng đức tin và Lời Chúa: “Lời Chúa soi rọi bước chân con” (x. Tv 118,105). Tiếng Ngài nói qua những biến cố thăng trầm của cuộc sống: Luôn thẳng đứng trong hy vọng và tin tưởng. Lời của Chúa dạy phải biết vâng phục sự thật (x. 1Pr 1,22) và bước đi trong sự thật (x.3Ga 4), mọi tiếng nói, mọi sự việc, mọi biến cố đều đặt trong gương sự thật và như Chúa khẳng định: “Chính chân lý sẽ giải phóng các con” (Ga 8,32).

Nghe Lời mục tử, không để Lời Ngài bị lấn át bởi những âm thanh xào xạc của thế gian. Trái lại, chính nhờ Lời của mục tử “chỉnh lại” âm thanh vừa phải của những lời xào xạc của cảm xúc, thanh lọc âm điệu ồn ào của thế gian. Đặc biệt, Lời mục tử chỉnh sửa và phối hợp chúng làm những âm thanh trầm bổng của cuộc sống tạo thành bản tình ca “Chúa Chiên nhân lành Người thương chăn dắt tôi…”. Chính lúc đó, tôi và bạn học “biết” mục tử, tham dự vào cái “biết” của Ngài. Với cái “biết” linh thiêng này, tôi và bạn gắn bó trọn vẹn với Đức Kitô, dù thuộc bất cứ thành phần nào, cương vị nào: Người tín hữu gắn bó với Ngài hơn qua đời sống hằng ngày, người đang sống với ơn gọi linh mục, tu sĩ cảm nhận được hạnh phúc của đời thánh hiến và dấn thân quên mình như người mục tử nhân lành, sinh viên, học sinh nghe được tiếng Chúa gọi, nhắn nhủ đầu tư cho tương lai cần chăm chỉ học hành, rèn luyện nhân cách cho mình và cho xã hội là đồng cỏ xanh mới đang được kiến tạo. Đặc biệt, người đang được tiếng Chúa gọi trở nên mục tử tương lai, sẽ cảm nhận ơn gọi đã được gieo trong tâm bạn và bạn đang “biết” Chúa hơn, theo Ngài trọn vẹn để làm nảy nở và sinh trái. Đó cũng là ý nghĩa đặc biệt của Chúa Nhật hôm nay - Chúa Nhật Chúa Chiên Lành.

Như Chúa nói: “Chúng theo Ta”, “theo” là thái độ tự do đáp trả dấn thân với Chúa. Như các môn đệ gặp gỡ Đức Kitô, nghe Ngài và khi Ngài gọi “Hãy theo tôi” (Ga l,42). Các ông lập tức đáp trả lại: Bỏ mọi sự theo Thầy (x. Mt 4,20; Mc 1,18.20…). Theo Đức Giêsu là gắn bó trọn với Ngài. Được Ngài bảo vệ, hơn nữa kết hợp mật thiết tình thầy trò, và qua Thầy gắn bó với Cha vì gắn bó với Thầy là gắn bó với Cha như Chúa Giêsu nói “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30).

Ý lực sống: ”… Chúng theo tôi … không ai cướp được chúng trong tay tôi” (Ga 10, 27-28).

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Nhân kỷ niệm cuộc tẩy uế Đền thờ Giêrusalem và khánh thành bàn thờ mới thời Giuđa Maccabê, Đức Giêsu cũng có mặt. Trong khi Đức Giêsu đi bách bộ tại hành lang Salômôn, người Do thái vây quanh và chất vấn Ngài về nguồn gốc của Ngài. Nhân đây, Ngài tuyên bố một chân lý quan trọng: “Tôi với Chúa Cha là một”, nghĩa là Ngài đồng bản tính với Chúa Cha.

2. Năm 165 TCN, một trong những nhà ái quốc nổi tiếng của Do thái là Giuđa Maccabê đã lãnh đạo cuộc nổi dậy của người Do thái chống lại ách thống trị của vua Syria là Antiôkô Epiphane. Chiến công vẻ vang nhất trong cuộc nổi dậy là tái lập và thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem vốn đã bị tục hóa bởi bàn tay thô bạo của ngoại xâm. Từ đó, hàng năm vào khoảng Mùa Đông, người Do thái tưởng niệm biến cố này trong vòng 8 ngày liền, tuần lễ này được gọi là Cung hiến Đền thờ.

3. Đức Giêsu đã có mặt tại Giêrusalem nhân tuần lễ tưởng niệm này. Lễ Cung hiến Đền thờ vốn khơi dậy lòng ái quốc của dân chúng. Chính vì thế nhiều người đã vây quanh Đức Giêsu và yêu cầu ngài tuyên bố dứt khoát Ngài có phải là Đấng Kitô nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và sai đến như vị cứu tinh của dân tộc không?

Đối với họ, Đức Giêsu có thể là vị anh hùng dân tộc hay một nhà cách mạng nào đó. Chính vì thế, Đức Giêsu đã không trả lời dứt khoát cho câu hỏi của họ. Mối tương quan giữa Chúa Cha và Ngài mà Đức Giêsu vén mở trong câu trả lời mời gọi người Do thái đi vào mầu nhiệm của Ngài.

4. Chúng ta thấy Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi họ đặt ra, nhưng một lần nữa, Chúa cho họ biết Đấng Kitô không phải như quan niệm trần tục của họ, Đấng Kitô không đến để làm thỏa mãn những tham vọng chính trị của họ là giải phóng dân tộc của họ và đem lại thịnh vượng vật chất cho họ. Cho nên, Chúa vượt lên trên quan niệm thiên sai trần thế, và tuyên bố cho họ biết Ngài đồng bản tính với Chúa Cha: ”Tôi và Cha tôi là một”.

5. Như vậy, Đức Giêsu đã khẳng định rõ Ngài là ai. Ngài không những là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, mà còn là chính Thiên Chúa nữa. Trong vấn đề này, chỉ trong đức tin, con người mới có thể biết Đức Giêsu, nhận diện được khuôn mặt đích thực của Ngài và loan truyền một cách đúng đắn về Ngài. Nhiều khi qua cuộc sống và cung cách tuyên xưng niềm tin của mình, người Kitô hữu chỉ trình bầy một khuôn mặt, nếu không méo mó về Đức Giêsu, thì cũng giới hạn Ngài trong những quan niệm hoàn toàn trần tục. Biết Đức Giêsu và đi vào mầu nhiệm thẳm sâu của Ngài thiết yếu  là đi vào cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Đức Giêsu đã loan báo cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài.

6. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”.

Giáo hội là đàn chiên của Chúa. Lời hứa chăm sóc bảo vệ đàn chiên của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho thời các Tông đồ hoặc các cộng đoàn tiên khởi, nhưng đã trải dài suốt 21 thể kỷ nay. Biết bao thế lực chống đối chủ trương triệt hạ Giáo hội của Đức Kitô, thế nhưng Giáo hội của Chúa vẫn tồn tại nhờ sự bảo vệ đầy quyền năng của chủ chăn.

Trong đàn chiên Giáo hội này, mỗi con chiên đều được người chăn chiên biết rõ, gọi tên, và chiên có bổn phận phải nghe và đáp trả. Sự đáp trả có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, nhưng dù sao không thể ra ngoài lối đi của tất cả đàn chiên, vì đó là lối dẫn đến sự sống.

7. Cuộc sống của người Kitô hữu là lời tuyên xưng và rao giảng về một dung mạo của Đức Giêsu khi nào họ kết hiệp với Ngài  trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Người Kitô hữu phải cố gắng để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để có thể nói như thánh Phaolô: ”Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta nghe lời văn sĩ John Bayer đã khen vợ mình vào giây phút cuối đời ông: ”Mình thân yêu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.

8. Truyện: Bức tượng Chúa chiên lành

Hành hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào thế kỷ thứ II rằng: ”Ta là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn dàn chiên ra đồng có xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.

Chúa Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Sống theo sự dẫn dắt của Chúa


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Tiếp theo bài giáo lý sống theo sự dẫn dắt của Chúa:

Chúa Giêsu là Mục tử: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất”.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Tôi biết chiên của tôi. “Biết” theo thánh Gioan là “yêu thương”

Có một câu chuyện truyền kỳ rất hay kể lúc Môisen trốn khỏi Ai cập, chăn chiên cho Giêtrô trong đồng vắng: có một con chiên trong bầy bỏ đàn đi mất Môisen kiên nhẫn đi tìm nó và ông đã tìm thấy nó đang uống nước bên giòng suối. Môisen đến bên nó để tay trên mình nó và nói thật nhỏ nhẹ:

- Tại vì mày khát nên mày bỏ đi ? Ông không giận con chiên vì nó đã làm ông mệt mỏi, nhưng cảm thông với nó và mang nó trở về. Thượng Đế nhìn thấy như vậy, Ngài phán: “Nếu người này thương xót một con chiên đi lạc như vậy, đây chính là người ta muốn lập làm người lãnh đạo dân ta”.

2. “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Phụng vụ đang dạy chúng ta sống dưới sự dẫn dắt của Chúa Giêsu Mục tử tốt lành. Muốn thế, ta phải “nghe tiếng” Ngài và “đi theo” Ngài. Chiên không nghe theo tiếng người lạ.

Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, đã thấy ba người chăn chiên dẫn bầy mình ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:

-Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta!”)

Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy và đi theo người ấy lên đồi.

Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.

Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:

- Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.

Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu: “Men ah! Men ah!”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:

- Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao ?

Người chăn Syria trả lời:

- Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.

Người ta tìm thấy trong một cuốn nhật ký những tâm tình sau đây:

Suốt đời tôi, tôi rất sợ chết, cho đến ngày một đứa con tôi về với Chúa. Trong lễ nghi an táng cháu, Cha sở kể câu chuyện sau: “Một Mục tử dẫn bầy chiên đến bờ sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, tự nhiên bầy cừu sợ hãi. Người mục tử không làm sao hối thúc chúng qua được. Cuối cùng ông lựa ra một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dắt nó qua bên bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi và phóng theo. Và thế là cả bầy cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người Mục tử.

Một mai nếu có phải theo con tôi về với Chúa, tôi chẳng sợ (Góp nhặt).

3. “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.

Chúa Giêsu là vị Mục tử nhân hậu và tốt lành. Ngài không những biết rõ và biết từng con chiên mà còn yêu thương chăm sóc và hiến mạng sống vì đoàn chiên. Ngài sống lại và trở nên nguồn sống của đoàn chiên. Phần tôi, một con chiên trong đàn, tôi cũng được Ngài yêu thương chăm sóc vỗ về, nhưng tôi còn biết quá ít về Ngài và chưa theo Ngài trọn vẹn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa Giêsu là mục tử


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúng ta suy niệm tiếp về đề tài Chúa Giêsu là mục tử:

1. Chúa Giêsu nói: “Tôi biết chiên của tôi”. (Ga 10,14). Biết, theo thánh Gioan, là yêu thương.

Thánh Tôma Aquinô nói: “Nhiệm vụ của mục tử nhân lành là yêu mến. Vì thế, Người nói: mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Cần phải biết là có khác biệt giữa mục tử tốt và mục tử xấu: mục tử tốt nhắm đến lợi ích của đoàn chiên, còn mục tử xấu thì chỉ lo cho lợi ích riêng mình”.

Đây lời tiên tri Êzêchiel: “Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm, như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Israel, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được. Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Israel. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Israel. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng”. (Ed 34,11-16)

Có lẽ không có lời nào nói lên tấm lòng yêu thương của vị mục tử đối với chiên của mình hay hơn thế!

2. Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10,27).

Khi nhìn đám đông quần chúng theo mình, Chúa Giêsu cảm động và thương xót họ. Dưới mắt Ngài, họ như chiên không có kẻ chăn. Ngài ngụ ý gì khi nói như thế ? Thưa:

a. Một con chiên không có người chăn sẽ không tìm được đường đi. Nếu bị bỏ mặc một mình, chúng ta sẽ bị lạc lõng trong cuộc sống. Thi sĩ Dante có một câu nói rằng: “Tôi tỉnh dậy giữa rừng và trời tối đen, trước mặt tôi chẳng thấy có con đường nào trống trải cả”. Cuộc đời có thể khiến chúng ta bối rối lạc lõng như vậy. Chúng ta có thể gặp một ngã tư đường mà không biết phải đi lối nào. Chỉ khi Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta mới theo Ngài, tìm ra lối đi.

b. Một con chiên không người chăn sẽ không tìm được đồng cỏ và thức ăn. Sống trên đời này, chúng ta phải tìm kế mưu sinh, chúng ta ra khỏi chính mình và vượt cao hơn cả chính mình. Nếu chúng ta tìm nó ở những nơi khác, tâm trí chúng ta sẽ chưa thỏa mãn, tấm lòng chúng ta chưa được yên nghỉ, linh hồn chúng ta cũng chưa được no đủ. Chúng ta chỉ có thể tìm được sức lực của đời sống từ nơi Đấng vốn là Bánh Hằng Sống.

c. Một con chiên không có người chăn sẽ không được ai bảo vệ chống lại những nguy hiểm đang đe dọa nó. Nó không thể tự vệ cả với bọn trộm cướp lẫn với đám thú rừng. Nếu có gì cuộc đời dạy khôn chúng ta thì đó là chúng ta không thể sống một mình. Không ai có thể tự vệ đối với những cám dỗ, với điều ác của thế gian luôn luôn vây hãm mình. Chỉ khi nào chúng ta cùng đi với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể bước đi trong thế gian và luôn giữ được áo xống mình khỏi sự ô uế của đời này. Không có Ngài, chúng ta sẽ không thể tự vệ, với Ngài chúng ta được an toàn.

3. “Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất” (Ga 10,28). Mục tử tốt lành là mục tử luôn lo cho đoàn chiên.

Đây là lời cầu nguyện của thánh Grêgôriô:

Lạy Đấng Mục Tử nhân lành, Đấng mang cả đoàn chiên trên vai. Xin chỉ cho con chỗ nghỉ ngơi, xin dẫn con đến đồng cỏ xanh mà bổ dưỡng; xin gọi con đích danh, để con được nghe tiếng Chúa, vì con là chiên của Chúa.

Xin cho con biết Chúa đang chăn chiên ở đâu, để con tìm thấy đồng cỏ cứu độ và được đầy no lương thực bởi trời.

Xin cho con biết chạy đến nguồn suối mà múc lấy của uống thần linh, của uống chính Chúa ban như dòng nước từ nguồn mạch chảy tuôn cho những người đang khát. Chúa đã tuôn đổ dòng nước này từ cạnh sườn Chúa khi lưỡi đòng khai mạch. Ai nếm hưởng nước này thì trở nên mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.

Xin Chúa cho con biết phải làm gì để được nghỉ ngơi bồi dưỡng! Phải theo đường nào để tới chỗ nghỉ trưa. Xin đừng để con vì không biết sự thật mà rời xa bàn tay Chúa dắt dìu, nhập đoàn với những bầy chiên xa lạ, không phải là đoàn chiên của Chúa. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Tôi và Cha Tôi là một


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúng ta là những con chiên bé nhỏ trong đàn chiên của Chúa. Điều ấy có nghĩa là chúng ta là con cái của Chúa trong lòng Giáo Hội của Chúa. Là con cái của Chúa, chúng ta phải đi theo Chúa. Chúa nói, chúng ta phải nghe. Chúa bảo, chúng ta phải thực hiện. Chúa ra lệnh truyền, chúng ta phải tuân hành. Chúa ban hành quyết định, chúng ta phải tùng phục. Chúa xuống ơn, chúng ta phải đón nhận. Chúa mời gọi, chúng ta phải cộng tác. Chúa chỉ thị, chúng ta không từ chối. Chúa sai đi, chúng ta phải vâng nghe….. Như vậy, chúng ta phải theo Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc cuộc sống, dù bất cứ nơi nào, chỗ nào, thời gian nào, khung cảnh nào, môi trường nào, vì Chúa đã nói: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Ga 10, 27).

Chúng ta theo Chúa, vì Chúa là đường, là sự thật, và là sự sống (Ga 14, 6), Chúa sẽ dẫn chúng ta đến sự sống vĩnh cửu, sự sống mà ai trong chúng ta cũng mơ ước, cũng ta vươn tới: “Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp chúng được khỏi tay Tôi” (Ga 10, 28). Chúa không để chúng ta hư mất, vì Chúa yêu thương chúng ta, cho nên Chúa luôn ban ơn để chúng ta sống theo thánh ý Chúa, và Chúa luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ, gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ.

Sở dĩ mà Chúa yêu thương lo lắng cho chúng ta là vì tuy chúng ta là thụ tạo bất toàn, tội lỗi, nhơ nhớp, bẩn thỉu, tanh hôi…nhưng do Chúa Cha đã trao chúng ta trong vòng tay của Chúa. Bởi thế mà Chúa mới thương chúng ta, và Chúa quí mến chúng, Chúa xem chúng ta cao trọng hơn tất cả mọi sự hiện hữu trên trần gian này. Do đó, một khi Chúa đã gìn giữ chúng ta rồi, cũng không ai cướp được chúng ta khỏi tay Chúa Cha: “Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả, và không ai cướp được khỏi tay Cha Tôi” (Ga 10, 29). Do đó, Chúa và Chúa Cha nên một trong việc yêu thương, lo lắng, chăm sóc cho chúng ta: “Tôi và Cha Tôi là một” (Ga 10, 30). Vì thế, khi chúng ta theo Chúa, chúng thật quá an tâm. Chúng ta phó thác cuộc sống của chúng ta, cả quá khứ, hiện tại, tương lai cho Chúa quả là một điều thật chính đáng, phải đạo.

Chúa nói những điều có lợi khi trở thành con cái của Chúa với dân Do Thái trong bối cảnh ngày mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem, ngày mà dân chúng có mặt ở đó thât đông đủ, và người Do Thái vây quanh Chúa và nói: “Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ ràng cho chúng tôi biết. Chúa đáp: Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi làm chúng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thộc về chiên của Tôi” (Ga 10, 22 – 26). Chúa nói trước quá nhiều người như thế để chúng ta thấy rằng việc trở thành con của Chúa rất quan trọng, có liên quan đến phần rỗi con người chúng ta. Tất cả những việc Chúa làm, những lời Chúa rao giảng đã minh chứng Chúa là chủ chăn của chúng ta. Hãy vâng nghe Chúa thì được ơn. Còn không chịu tin Chúa, cứng lòng, thì không thuộc về Chúa, không được Chúa ban cho sự sống đời đời sau này.

Lạy Chúa, Đấng phục sinh, Chúa đã tái tạo chúng con thành con người mới qua cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa và ban cho chúng con sự sống đời đời. Xin Chúa thương xót chúng con, cho chúng con luôn sống tin tường vào Chúa, trông cậy vào Chúa, kính mến Chúa trên hết mọi sự để chúng con được hưởng sự sống vĩnh cửa sau này. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 13: Tôi và Cha Tôi là một


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 4 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta đang họp mừng mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh, xin Chúa cho chúng ta biết hưởng trọn niềm vui vì được Người cứu độ.

Hưởng trọn niềm vui vì được Người cứu độ, khi ta biết kính sợ và thờ lạy Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Con Chiên đã chiến thắng, cả một đoàn dân đông đảo được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết, trong khi, những người đã tra tay bách hại họ xưa kia, nay phải chịu muôn ngàn đau khổ. Tôi đã nghe tiếng vô số thiên thần từ trời hô lên rằng: Hãy kính sợ Thiên Chúa và tôn vinh Người, hãy thờ lạy Đấng tạo thành trời đất, biển khơi và mọi nguồn nước.

Hưởng trọn niềm vui vì được Người cứu độ, khi ta biết dâng hiến chính mình làm tế phẩm, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Phêrô Kim Ngôn nói về: Bạn hãy trở thành tế phẩm và tư tế cho Thiên Chúa… Lạy Chúa, Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách trời, và mở ấn niêm phong vì Ngài đã bị giết, và đã lấy máu đào chuộc chúng con về cho Thiên Chúa. Ngài cũng làm cho chúng con thành một vương quốc, thành những tư tế.

Hưởng trọn niềm vui vì được Người cứu độ, khi ta biết làm cho tất cả mọi người được hưởng ơn cứu độ của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói: Họ rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu cho cả người Hylạp. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 86, vịnh gia kêu gọi: Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa. Thành Xion được lập trên núi thánh. Chúa yêu chuộng cửa thành hơn mọi nhà của dòng họ Giacóp. Thành của Thiên Chúa hỡi, thiên hạ nói bao điều hiển hách về thành!

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng, và chúng theo tôi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Tôi và Cha tôi là một. Đức Giêsu là Mục Tử nhân lành: luôn chăm sóc đoàn chiên của mình, như Chúa Cha là Cha nhân hậu: luôn sẵn sàng thương xót và tha thứ cho ta, vì thế, Người và Chúa Cha là một. Đức Giêsu đã nên một với Chúa Cha, khi hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha để trở nên lễ phẩm và tư tế để cứu chuộc ta, và, Người cũng muốn mời gọi ta trở nên đồng hình đồng dạng với Người trong hy tế đó, để được hưởng ơn cứu độ của Người. Thập giá không phải là mũi đòng đâm Người chết, nhưng là, đâm chết tử thần; Những đinh nhọn khiến Người yêu mến ta thắm thiết hơn; Các thương tích đưa ta vào sâu hơn trong tim của Người; Thân Người bị kéo căng ra, để mở rộng vòng tay ôm lấy ta vào lòng, và Máu Người đã đổ ra làm giá chuộc ta. Vậy, ta hãy đến, hãy trở về với Chúa, mà cảm nghiệm xem thế nào là tấm lòng của người Mục Tử nhân lành, Người Cha nhân hậu, để thấy rằng: Người lấy thiện báo ác, lấy tình thương đáp lại xúc phạm, lấy lòng từ ái bao la đáp lại thương tích ê chề. Chúng ta hãy trở thành tế phẩm và tư tế cho Thiên Chúa, đừng bỏ mất ân huệ mà Người đã lấy uy quyền tặng ban cho ta. Chúng ta hãy mang lễ phục là sự thánh thiện, thắt đai lưng là đức thanh khiết, đội khăn che đầu là chính Đức Kitô; hãy mang huy hiệu thập giá trên trán để thập giá luôn gìn giữ ta; hãy lấy sự hiểu biết sâu nhiệm về Thiên Chúa làm khăn che ngực; hãy dâng lời cầu nguyện như hương trầm nghi ngút; hãy nắm lấy thanh gươm là Thần Khí, và lấy chính tâm hồn chúng ta làm bàn thờ. Như thế, chúng ta cứ vững tâm đem chính thân mình làm tế phẩm dâng Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn lòng tin, chứ không, đòi cái chết; Người thích lời cầu nguyện, chứ không, ưa máu tươi; Người vui thỏa vì lòng chân thành, chứ không, vì việc sát tế. Chúng ta đang họp mừng mầu nhiệm Đức Kitô phục sinh, ước gì chúng ta biết hưởng trọn niềm vui vì được Người cứu độ. Ước gì được như thế!

------------------------------

 

Thứ 4 PS –Tuần 4/2025 - 14/05 Thánh Matthias

Được sai đi.
14/05 – Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh. – THÁNH MATTHIA, Tông Đồ. Lễ kính.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ: Thầy gọi các con là bạn hữu".

* Thánh Matthia là người “đã theo Chúa Giêsu, kể từ khi Người chịu phép rửa của ông Gioan cho đến ngày Người thăng thiên”.

Chính vì thế, thánh nhân đã được các Tông Đồ chọn làm người thế chỗ của ông Giuđa, để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Thánh nhân được kể vào Nhóm Mười Hai, như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại.

 

Lời Chúa: Ga 15, 9-17


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.
"Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.
Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Chúa chọn ai


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Cái chết của anh Giuđa chẳng những là một điều đáng tiếc,
mà còn để lại một khoảng trống trong nhóm Mười Hai.
Nhóm Mười Hai trở thành nhóm Mười Một (Mc 16, 14).
Giuđa đã được tham dự vào công việc phục vụ của nhóm.
Sự ra đi của anh khiến cho chức vụ này cần người bổ sung.
Trong cuộc gặp mặt giữa khoảng một trăm hai mươi anh em,
Phêrô, trưởng nhóm, đã muốn tìm người thay thế (cc. 15-20).
Theo Phêrô đâu là điều kiện để có thể được chọn vào nhóm Mười Hai?
Anh phải là người đã đồng hành với nhóm này
trong suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa họ.
Thời gian đi với nhóm được kể từ lúc ông Gioan làm phép rửa cho Chúa,
cho đến ngày Ngài được phục sinh và được đưa lên trời (c. 21).
Như thế để được nhập vào nhóm Mười Hai,
phải là người có kinh nghiệm sống đời sống của nhóm,
và kinh nghiệm sống với Thầy Giêsu trong suốt sứ vụ của Ngài.
Chỉ ai đã từng có kinh nghiệm đi với nhóm, đói no vất vả với nhóm,
người ấy mới được là thành viên mới của nhóm.
Chỉ ai đã đi sát với Thầy Giêsu, đã lắng nghe bao bài giảng của Thầy,
đã chứng kiến bao việc kỳ diệu Thầy thực hiện,
chỉ ai có kinh nghiệm về việc Thầy bị giết và được phục sinh,
người ấy mới có thể trở nên chứng nhân về sự phục sinh ấy
cùng với cả nhóm anh em (c. 22).
Có hai người được đề cử vì hội đủ điều kiện: Giôxếp và Mátthia.
Khi không biết chọn ai, thì cộng đoàn đã cầu nguyện.
Cầu nguyện cho thấy họ muốn được soi sáng để chọn ý Chúa.
“Xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để kế tục sứ vụ tông đồ” (c. 25).
Họ đã không chọn bằng cách bầu phiếu theo đa số,
nhưng bằng cách rút thăm để tìm người Thiên Chúa chọn.
Cách này là cách truyền thống để tìm ý Chúa trong Do thái giáo (Lv 16, 8).
Matthia đã trúng thăm và trở nên vị tông đồ thứ mười hai.
Khi mừng lễ thánh Matthia, chúng ta mừng lễ một vị tông đồ,
tuy không trực tiếp được Đức Giêsu gọi và chọn,
nhưng đã được chọn gián tiếp qua các tông đồ khác và cộng đoàn.
Thiên Chúa vẫn chọn qua lựa chọn của con người, mãi đến tận thế,
nên Giáo hội vẫn có người được gọi để phục vụ.
Xin cho mọi chọn lựa của chúng ta đều nhắm đến vinh danh Chúa.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.

Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng;
biết xoay xở nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con
biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
 
--------------------------------

 

Suy Niệm 2. Không phải anh em đã chọn Thầy...


 --Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

“Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già,
tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con.”
Quyết định của cha Kônbê (Maximilianus Maria Kolbe) đã cứu được ông Francis.
Không phải chỉ mình ông và gia đình ông,
cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng,
những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.
Từ hầm giam,
không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa.
Chỉ có tiếng hát và lời kinh...
Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc,
vì nó là bằng chứng của một tình yêu.
Không có tình yêu nào lớn bằng
tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình.
Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kôn-bê,
nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.
Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.
Ðây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn
của một người đang yêu.
Ðây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu
dành cho những nhà thần bí.
Ðức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.
Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy
thì phải giữ các điều răn (x. câu 10),
mà điều răn quan trọng nhất
là yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu:
muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.
Cành nào muốn hiệp thông với cây
thì cũng phải hiệp thông với các cành khác.
Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành.
Chúng ta là những cành cây được nuôi bằng một dòng nhựa.
Khi gắn bó thân thiết với Chúa,
chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.
Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy
để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa.
Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển:
như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em;
như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.
Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.
Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.
Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.
Môn đệ Ðức Kitô phải là chứng nhân tình yêu,
yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.
Chúng ta không có dịp để chết như cha Kôn-bê,
nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.
Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ.
Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.
Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng,
hãy trở lại với Ðức Giêsu như suối nguồn
để được Ngài tưới đẫm yêu thương.

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa nói:
“Ðiều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” (Trích trong PRIER)

-------------------------------

 

Suy Niệm 3. Chính Thầy đã chọn các con


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy sống trọn vẹn tình yêu, theo mẫu mực tuyệt hảo như Thiên Chúa yêu thương. Ta hãy giữ giới răn của Chúa Giêsu để sống trong tình yêu của Người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, không có lời mời gọi nào êm dịu và ngọt ngào cho bằng tiếng gọi của tình yêu. Sự ngọt ngào ấy còn tuyệt diệu hơn nữa khi có tiếng gọi của tình yêu từ chính Chúa.

Nhưng lạy Chúa, từ vườn địa đàng, nơi phủ ngập tình yêu của Chúa, tổ tiên loài người đã đánh mất tình yêu. Lòng con người hóa nên chai cứng và thù hận đã bóp nghẹt con tim. Tình trạng ấy đang ảnh hưởng trên đời sống con hôm nay.

Lời Chúa đã đánh thức tình yêu con sống dậy, và hướng dẫn con biết sống trong tình yêu của Chúa. Tình yêu ấy cần được sống trong đời thường. Tình yêu ấy sẽ biến đổi con thành người sống trong thuận hoà. Tình yêu ấy luôn ẩn dấu trong trái tim để hướng dẫn con sống đời yêu thương cụ thể. Tình yêu ấy lắng đọng trong đôi mắt để con nhìn người khác là anh em. Tình yêu ấy luôn ngập tràn trên môi miệng để con biết nói lời dựng xây, biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn với kẻ khác. Tình yêu ấy luôn hiện diện trên đôi tay để con biết sẵn sàng cho đi những nghĩa cử cao đẹp. Và tình yêu ấy luôn tiến bước trên đôi chân để con sẵn sàng đi đến với mọi người.

Lạy Chúa, xin dạy con sống tình yêu chia sẻ như Chúa, để đời con tràn đầy niềm vui hạnh phúc, vì “kẻ cho thì có phúc hơn người nhận”. Amen.

Ghi nhớ: “Các con hãy ở trong tình yêu của Thầy, để niềm vui của các con được trọn vẹn”.

-------------------------------

 

Suy Niệm 4. Ở lại trong tình thương của Thầy


--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Mẹ Têrêsa, nhà truyền giáo của tình thương bác ái. Mẹ bắt đầu sứ mạng của mình mỗi ngày, trước lúc rạng đông, Mẹ đến trước Thánh Thể Chúa. Trong thinh lặng của sự chiêm ngắm, găp gỡ Thiên Chúa, Mẹ lắng nghe vang dội lời nói của Chúa Giêsu trên thập giá: “Ta khát”. Lời kêu vang này, được đón nhận trong cõi thâm sâu của tâm hồn, đã thôi thúc Mẹ tiến đi trên các đường phố ở Calcutta, Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới, để đi tìm Chúa Giêsu trong người nghèo, người bị bỏ rơi, người hấp hối sắp chết. Mẹ Têrêsa sống tình yêu, trao ban tình yêu cho những người bất hạnh nhất như lệnh truyền của Chúa Giêsu: Yêu thương anh chị em chung quanh như Ngài đã yêu thương chúng ta.

Suy niệm

Tình yêu xuất phát từ nguồn mạch là Thiên Chúa Cha như thánh Gioan sau này đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), một tình yêu vô tận và không ngừng trao ban:

Từ Chúa Cha qua Chúa Con như Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: Như “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào” (Ga 15,9a). Đức Giêsu nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người (x. Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5).

Rồi từ Chúa Con, Đức Giêsu đến môn đệ, như Ngài khẳng định: “Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9b). Người môn sinh khám phá và chiêm nghiệm: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9c).

Chính vì xuất phát nguồn từ nơi Thiên Chúa đến với nhau rồi lan ra giữa các môn đệ với nhau theo tiêu chuẩn mô phạm tình yêu của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Ở lại trong tình yêu và trung tín với lệnh truyền yêu thương của Ngài, môn sinh sẽ được “tràn đầy niềm vui” vì “Ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy” (1Ga 4,16b).

Như Chúa Giêsu đã mời gọi: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9), đó là cội nguồn của tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại: Tất cả những gì Ðức Giêsu lãnh nhận từ nơi Cha. Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình. Và nhân loại cũng trao cho nhau như Chúa Giêsu truyền: Biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.

Ý lực sống: Vạn sự đã do Tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về Tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore).

 -------------------------------

 

Suy Niệm 5. Thánh Mátthia tông đồ


Ga 15,9-17

--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái

* Lịch Sử

Về cuộc đời của thánh Mát-thi-a Tông Đồ, chúng ta chỉ biết qua đoạn Công vụ 1,15-25. Ngài được chọn để thay thế cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, để gia nhập vào Nhóm Mười Hai.

Theo lời của Phê-rô, Mát-thi-a thuộc về nhóm người “đã đi cùng chúng tôi, suốt cả thời gian Đức Giêsu đã ra vào giữa chúng tôi, khởi từ lúc Gioan thanh tẩy, cho đến ngày Đức Giêsu được cất khỏi chúng tôi’’ (Cv 1,21-22)

Theo truyền thuyết, thánh Mát-thi-a hoạt động ở Ê-ti-ô-pi và chịu tử đạo tại đó. theo lệnh của hoàng hậu Hê-lê-na, di hài của thánh nhân được mang về Tria; tại đây được tôn kính trong đan viện thánh Mát-thi-a. đây là nơi hành hương nổi tiếng thời Trung Cổ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

A. Hạt giống...

Chúa Giêsu dạy Kitô hữu hãy yêu mến nhau

- “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy”.

Lòng “Yêu mến nhau” mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ mình có phải vươn tới những mức độ sau đây:

- “Các con hai yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con”

- “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”

B.... nẩy mầm.

1. Tôi yêu Chúa. Nhưng tôi không luôn yêu Ngài. Tình yêu của tôi đối với Ngài lúc có lúc không, có khi nồng nàn, có khi lạnh nhạt. Nghĩa là tôi chưa “ở lại” trong tình yêu của Ngài. Muốn “ở lại”, tôi hãy làm theo Lời Chúa dạy “Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy”.

2. Hễ đã yêu thương ai, hẳn chúng ta muốn sống bên cạnh người ấy để chia xẻ và lấy sở thích của người ấy làm sở thích của mình. Tình yêu giữa con người với nhau còn như thế, huống nữa là tình yêu giữa Thiên Chúa với con người. Chúa Giêsu đã rất mực yêu thương các môn đệ, Ngài muốn họ luôn ở với Ngài cũng như Ngài hằng ở với Thiên Chúa; Ngài muốn họ thực hành Lời Ngài cũng như Ngài luôn vâng phục lệnh truyền của Chúa Cha. ("Mỗi ngày một tin vui")

3. “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.”

Năm 1963, tại Washington, 200.000 người lắng nghe Martin Luther King. vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hoà bình nói chuyện: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao...”

Ông ra sức thực hiện ước mơ ấy, biết bao khó khăn thử thách, ghen tương đố kỵ đã ập xuống trên ông, nhưng ông vẫn kiên quyết thực hiên hoài bão này.

Năm 1968, M.L. King đã ngã gục dưới lằn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng công trình của ông vẫn được tiếp tục, bởi ước mơ của ông đã trở thành ước mơ của hàng triệu con người trên thế giới.

Lạy Chúa, xin cho con luôn biết ở lại trong tình thương của Chúa. (Epphata)

4. “Yêu thương”, “Tình gia đình”, “Huynh đệ”, “Chia xẻ”, “Hiệp thông” v.v. là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính con cũng rất nhiều lần nói như thế. Từ nay con muốn nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm, cùng lý tưởng với con.

5. Yêu thương, nếu chỉ là một cảm giác dễ chịu thì chưa phải là tình yêu thật. Tình yêu thật là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng đúng nghĩa. Bởi thế Chúa Giêsu nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”

6. “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”. Câu Tin Mừng này khiến tôi liên tưởng tới một câu chuyện tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tựa đề “Anh phải sống”: hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo các con”. Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống”. Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.

7. “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”

Từ 23 tháng chạp đến tết, đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn lên vì chuẩn bị cầu phúc. Trong những ngày này, Lố Tấn gặp thím Tường Lâm. Thím là một nông dân cần cù. Chồng trước thì chết sớm, Cồng sau chết vì thương hàn, thằng con nhỏ thì bị chó sói vồ... Họ còn đồn rằng mai sau thím sẽ bị cưa đôi để chia cho hai con ma chồng. Thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng coi thím là đồ ô uế. Chủ nhà không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân đèn... Thím từ từ suy sụp và sinh hoảng loạn.

Lỗ Tấn thấy thím, tóc trắng toá, tay sách cái làn tre, trong có cái bát mẻ không đựng gì, tay kia cầm cây gậy trúc đầu dưới toe toé, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm gọi tên đứa con mình...

Tiết trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết vừa lúc giao thừa đến, pháo nổ vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy vậy quát lên: “Tại sao chết vào lúc tao đang cầu phúc?”

Lạy Chúa, có nhiều người bên con vẫn đang âm thầm đau khổ chỉ vì những suy nghĩ, lời nói và hành động thiếu yêu thương của con. Xin giúp con hiểu và thực thi giới răn yêu thương của Ngài. (Epphata)

8. “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12)

Mọi người đều xót xa và thương tiếc anh: trung uý Nguyễn văn Ngữ, người cảnh sát giao thông Hà Nội đã hy sinh trong ngày Mùng Hai Tết Bính Tý, vì đương đầu với hơn chục tên côn đồ say rượu và say máu, cầm dao chém một anh xích lô cùng một khách đi đường.

Anh đã xả thân vì mọi người, đã chết để người dân được sống yên lành, đã hy sinh mà không cần báo đáp, tri ân.

Dù xã hội còn nhiều những tay côn đồ, nhưng tôi tin rằng vẫn luôn có những người như anh, âm thần hiến thân cho tình yêu đồng loại. Chứng từ của anh làm cho Lời Chúa hôm nay trở nên sinh động và thúc bách chúng tôi, những người nhận mình là kitô hữu hay môn đệ của Đức Kitô, thực thi điều răn mới của Ngài.

Chắc chăn tấm gương cao đẹp của anh tiếp thêm sức sống cho bao người đang thầm lặng muốn sống đẹp đời mình.

Xin giúp con dám sống và dám chết cho Tình yêu. (Epphata)

9. “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16)

Hoa trái của Chúa là Tình yêu. Chính Chúa đã chọn tôi, sai tôi đến với anh em. Dường như tôi vẫn chưa sẵn sàng, chưa chuẩn bị gì cho cuộc ra đi này. Hành trang của tôi chỉ là những thứ trau chuốt cho bản thân. Tâm tưởng tôi chỉ xoay quanh chủ nghĩa cá nhân, để rồi bị trói chặt trong chủ nghĩa thực dụng lúc nào chẳng hay.

Lạy Chúa, xin cho con biết ra khỏi chính mình, biết nghĩ tới anh em, để hoa trái của Chúa được tồn tại và nhân rộng mãi. (Hosanna)

---------------------------------

 

Suy Niệm 6. Thánh Matthia tông đồ


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

I. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ.

Tài liệu duy nhất đáng kể về thánh Matthia là tường thuật của sách Công vụ các tông đồ (Cv 1, 15-26). Theo điều kiện mà thánh Phêrô đưa ra để chọn người thế chân cho Giuđa trong nhóm 12. Chúng ta biết thánh Matthia là một trong số các môn đệ của Chúa Giêsu. Ngài đã theo Chúa Giêsu “Khởi từ lúc Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu về trời” (c. 22)

Khi Chúa Giêsu đã về trời, các tông đồ vâng lệnh Chúa trở về Giêrusalem cầu nguyện chờ đón Chúa Thánh Thần đến. Họ gặp nhau lại khoảng 120 người. Lúc ấy Phêrô lên tiếng nhắc lại sự Giuda phản bội và kết luận:

- “Phải chọn lấy thêm một người để cùng chúng tôi làm chứng tá cho sự sống lại của Chúa Giêsu”.

Cộng đoàn đã đề cử hai người xem ra xứng đáng nhất, với vinh dự này là Giuse, gọi là Barsabba biệt danh là Giustô và Matthia. Thế rồi họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn. Matthia đã trúng cử và nhập vào nhóm 12.

Vị tân tông đồ, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, đã ra đi rao giảng Phúc âm và hiến phần còn lại cho việc tông đồ, thánh Clêmentê, thánh Alexandria kể lại rằng: các giáo huấn của thánh Matthia tập chú vào nhu cầu phải hy sinh hãm dẹp xác thịt và những ước muốn lăng loàn. Đó là bài học quan trọng Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu và đem ra thực hành.

Nhiều sứ giả cho rằng thánh Matthia đi từ Giuđêa tới tận Ethiopia rao giảng và làm cho vô số người trở lại đạo. Sau ba mươi năm bị bách hại, nỗ lực và thành công, Ngài bị ném đá và bị chặt đầu dưới thời Nerô vào năm 63.

Theo dân Hy lạp, thánh Matthia đã mang Kitô giáo đến miền Cappadôcia rồi bị đóng đinh vào thập giá ở Colergis. Và xác Ngài được đưa về Giêrusalem. Một phần các xương thánh vẫn còn ở đền thờ Đức Bà cả nơi thánh nhân đã làm nhiều phép lạ.

II.BÀI HỌC

Cuộc đời của Thánh Matthia Tông Đồ minh họa cho lời khẳng định của Chúa Giêsu: ”Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15, 16).

Chúa có một chương trình thật đặc biệt, một cách chọn gọi rất riêng để trao phó sứ mạng cao cả cho từng Tông Đồ và cho Thánh Matthia. Đáp lại, Thánh nhân đã dùng chính cuộc đời mình để đáp trả tiếng gọi yêu thương của Chúa.

Mừng lễ thánh Matthia Tông Đồ, mỗi người được nhắc nhớ đến ơn gọi làm tông đồ và làm Kitô hữu của mình. Quả vậy, qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Mỗi ngày, ta được Chúa mời gọi trở nên tông đồ của Người trong môi trường đang sống, trong vai trò và bậc sống của mình. Chúng ta chỉ có thể đáp trả ơn gọi của mình khi biết dùng Lời Chúa dệt nên cuộc đời mình mỗi ngày. Hãy sinh hoa kết trái trong bậc sống và hoàn cảnh của mình. Hãy làm sáng danh Chúa trong gia đình, ngoài xã hội, nơi công sở, trên ruộng nương. Hãy làm chứng cho Tin Mừng bằng chính niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.

Tác giả Đường Hy Vọng đã có những chia sẻ rất hay về vấn đề này:

- Con hãy hy vọng luôn luôn, đừng chán nản vì những khó khăn nội bộ, ngay trong việc tông đồ. Như thánh Phaolô: “Kẻ thì rao Đức Kitô vì lòng mến, bởi biết rằng tôi đã được chỉ định lo bênh đỡ Tin mừng. Kẻ lại giảng truyền Đức Kitô vì ganh tị, ý định không tinh tuyền, tưởng làm vậy sẽ gây thêm khổ cực cho cảnh lao tù của tôi. Cần chi! Dù sao đi nữa, bởi lấy nê hay tình thật, miễn là Đức Kitô được loan truyền thì tôi vui mừng và tôi cứ vui mừng luôn!” (Phil 1.16). (ĐHV 976)

Nhiều người nghĩ rằng muốn làm tông đồ cần phải có ơn Chúa đặc biệt.

Không! ơn Chúa ban luôn luôn sẵn có, miễn là ta biết nhìn thấy và sử dụng. Đó chỉ là những ơn thông thường những đặc tính của mỗi người, những tình tiết của mỗi hoàn cảnh...

Nói như vậy thì ai cũng có tài năng cả, hoàn cảnh nào cũng thuận lợi cả; nhưng tài năng ấy, ân phúc ấy, thuận lợi ấy không phải chỉ để cho một mình ta được cứu rỗi mà là để phục vụ ích lợi của tất cả mọi người.

Trong việc dành cho người mù ở đảo Sardaigne (Ý) có một cô gái tên là Pina, mù cả hai mắt từ hồi còn nhỏ. Rủi ro thay! Cha tuyên úy của nhà mù vừa bị bệnh tê liệt, không thể dâng lễ được nữa. Vì lý do đó, người ta định đưa Chúa Giêsu ra khỏi nhà. Nghe tin ấy, cô Pina kêu nài tận đến Đức Giám mục, xin ngài để Chúa Giêsu ở lại, vì đó là ánh sáng duy nhất của những kẻ mù lòa như cô. Cô được phép, và cùng một trật cũng được đặc ân trao Mình Thánh Chúa cho cha tuyên úy và các bạn của cô.

Nhưng không những thế cô luôn luôn cầu nguyện và ước ao phục vụ hơn nữa theo sức cô.

Cô được dùng mấy giờ trên đài phát thanh nọ của tư nhân, và với phương tiện ấy, cô đã chuyển đến cho các bạn cô món quà tuyệt hảo nhất mà cô nhận được nơi Chúa để nâng đỡ những người đau khổ bằng chính kinh nghiệm của cô: Những bài suy niệm, những lời khuyên nhủ, những khuyến khích, và biết bao là câu chuyện bổ ích khác...

Làm sao cô Pina học được, làm được những điều ấy khi mà cô cũng như cả nhà đều phải mù loà: Ai đọc sách cho cô nghe: Ai giảng dạy cho cô hiểu? Đó là nhờ cô, ngoài những điều nghe người ta nói, còn nghe đài phát thanh quốc gia, đặc biệt là đài phát thanh Vatican; cô nghe những bài suy niệm Phúc âm, những tin tức nóng bỏng trên thế giới, những lời nhắn nhủ tha thiết của Đức Thánh cha, theo dõi những biến cố trong Hội Thánh... Cô mù lòa, nhưng ánh sáng Phúc âm vẫn chiếu giọi đến tâm hồn cô, cho cô chất liệu để suy niệm và sau đó chuyển lại cho những người bạn cùng đau khổ như cô.

Trong một thời gian rất lâu, chẳng ngờ rằng cô Pina là người tàn phế! Khi biết được, ai cũng xúc động. Cuộc đời của cô đã làm cho nhiều người, nhất là những tâm hồn tận hiến phải suy nghĩ:

* Có bao giờ tôi nghĩ đến việc dùng vài giờ trong tuần lễ, hoặc ít là mười lăm phút mỗi ngày để giúp người khác chưa?

* Tôi có biết săn sóc nhà cửa, nấu nướng, may vá và làm những việc lặt vặt trong nhà không?...

---------------------------------

 

Suy Niệm 7. Thánh Mátthia Tông đồ


-- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Trước khi từ biệt các môn đệ thân yêu để đi vào cuộc tử nạn. Đức Giêsu đã nói với các ông mệnh lệnh cuối cùng của Ngài, và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Ngài: “Đây là điều răn của Thầy, các con hãy yêu thương nhau”. Đó là câu mở đầu của bài Tin mừng, và cũng là câu cuối cùng của bài Tin mừng, Chúa nhắc lại: “Điều Thầy truyền cho các con là hãy yêu thương nhau”. Rõ ràng Đức Giêsu muôn dạy các môn đệ và chúng ta hãy yêu thương nhau.

Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy yêu thương nhau bằng một tình yêu không phân biệt hay loại trừ. Yêu mà không mong đền đáp, nhưng yêu một cách vô vị lợi, luôn chia sẻ, cảm thông và tha thứ với mọi hoàn cảnh. Sẵn sàng phục vụ như người tôi tớ... và cuối cùng, coi sự sống của mình là sự sống của người khác, nên nếu cần, chấp nhận hy sinh cho người khác như Đức Giêsu đã hiến mạng vì bạn hữu của mình.

Tình yêu trao ban cho anh em mà Đức Giêsu muốn người môn đệ thực hành luôn mang những đặc tính tiệm tiến:

- Yêu như Chúa yêu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con (Ga 15, 12) hoặc “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống... và sai Con Một Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1G 4, 8-11).

- Yêu đến tận cùng như Đức Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Thánh Gioan diễn tả: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3, 16).


- Tình yêu phải thể hiện trong việc làm: “Nếu các con giữ điều răn của Thầy”. Thánh Gioan diễn tả: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3, 16-18).

Hy sinh cho người thân yêu là một đòi hỏi thường tình của tình yêu. Hy sinh cho người xa lạ là điều đáng khâm phục, và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người khác được sống quả là một diễn tả tuyệt vời của tình yêu.

Ai đã có dịp đọc cuốn tiểu thuyết “Anh phải sống” của Khái Hưng mới thấy thấm thía lời Đức Giêsu đã dạy. Nội dung cuốn tiểu thuyết nói về việc hai vợ chồng nọ quá nghèo, nên phải đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trên đường về, họ gặp trời giông bão. Họ bị nước cuốn trôi đi. Họ bám được vào một khúc cây, nhưng khúc cây quá nhỏ chỉ đủ cho một người bám. Họ không thể kéo dài mãi tình trạng hai người cùng bám vào một khúc cây. Kéo dài thêm thì sẽ chết cả hai. Trước tình trạng đó, đòi hỏi họ có một sự lựa chọn. Người chồng bảo người vợ hãy bám vào khúc cây, vì “Em phải sống để lo cho các con”. Người vợ cũng bảo người chồng “Anh phải sống”. Cuối cùng, người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.

Tin mừng hôm nay cũng hướng chúng ta về hình ảnh yêu thương tuyệt vời này: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người yêu”. Chúa Giêsu đã cứu thoát nhân loại bằng cách hiến mạng sống mình qua cái chết trên Thập giá, như một biểu lộ tột cùng của tình yêu. Một Thiên Chúa quyền năng có thể cứu nhân loại mà không cần phải nhập thể làm người và chết trên Thập giá. Thế nhưng, Ngài đã chọn phương thế này, vì Ngài muốn cho con người có được cảm nghiệm sâu xa về tình yêu của Ngài theo cách thế loài người, đó là hy sinh mạng sống vì người mình yêu.

Tóm lại, tình yêu không thể diễn tả được hết bằng ngôn từ, nhưng là sự cảm nhận rất riêng của mỗi người trong sự rung cảm của trái tim mà không bị lệ thuộc của bất cứ ranh giới nào. Tuy nhiên, người môn đệ có một tiêu chuẩn để diễn tả tình yêu đích thật là tuân giữ điều răn yêu thương của Chúa dành cho tha nhân, yêu thương một cách vô vị lợi, không so đo tính toán hơn thiệt, mà là “yêu như Chúa đã yêu” khi sẵn sàng hy sinh cả tính mạng vì bạn hữu.

Truyện: Sẵn sàng chết cho người khác

Một vị đạo sĩ kia kể rằng: Ngày nọ, ông từ trên núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường, ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:

- Chúng ta mau lại giúp đỡ người gặp nạn đó!

Nhưng người Tây Tạng trả lời:

- Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chúng ta đang bị giá lạnh đe doạ.

Nhưng vị đạo sĩ nói:

- Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa thì chúng ta cũng nên chết vì đã giúp người khác, đó là điều tốt đẹp hơn.

Nói rồi, vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ đem người đó xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống trước. Đi được một quãng, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành Tây Tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta quá mệt ngồi nghỉ và bị lạnh cóng chết lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn, nên cơ thể nóng lên thêm, nhờ đó mà ông thoát chết vì lạnh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8. Ðược sai đi


--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ thánh Mathia tông đồ. Tuy được gọi là tông đồ, nhưng thánh Mathia không thuộc nhóm Mười Hai Tông Ðồ nguyên thủy của Chúa Giêsu; ngài là người được chọn để thay thế cho kẻ phản bội là Giuđa Iscariốt.

Mathia theo tiếng Hybalai có nghĩa là "được trao ban", Tin Mừng không hề nhắc đến nhưng hầu chắc ngài đã từng là một trong số bảy mươi hai người môn đệ đã theo và sống với Chúa Giêsu, từ lúc Chúa chịu phép rửa cho đến lúc Chúa lên trời và như vậy đã chứng kiến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu cộng đoàn đã đồng thanh chọn ngài để thế chỗ cho Giuđa, thì cũng để ngài trở nên nhân chứng về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ðây chính là ý nghĩa của tước hiệu Tông Ðồ.

Tông đồ theo nguyên ngữ có nghĩa là "được sai đi". Thánh Phêrô đã xác định "được sai đi để làm chứng cho sự Phục Sinh của Chúa Giêsu". Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chính là nền tảng của niềm tin, là chìa khóa mở ra chiếc cầu của ơn cứu độ giữa Thiên Chúa và con người, giữa thời gian vĩnh cửu. Chính nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh mà các tông đồ đã hoán cải các dân tộc, rửa tội cho kẻ tin và thực thi những phép lạ. Sau ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã làm chứng về sự phục sinh của Chúa khắp nơi, từ Palestina đến Hy Lạp, từ Rôma đến Ai Cập và Siri. Các ngài thiết lập các Giáo Hội, các cộng đoàn những kẻ tin Chúa Kitô Phục Sinh. Ðược cộng đoàn ủy thác cho sứ mệnh khi chọn làm tông đồ, thánh Mathia đã làm chứng cho sự phục sinh của Chúa đến cùng. Có nhiều truyền thuyết về nơi hoạt động và cách thế tử đạo của thánh Mathia. Tất cả đều hội tụ vào một điểm nổi bật là ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô.

Ðức tin chúng ta đang có là đức tin được các thánh tông đồ truyền lại. Sợi dây chuyền nối kết chúng ta với các thánh tông đồ tuy vô hình nhưng vô cùng sống động. Với không biết bao nhiêu xương máu, niềm tin và sự phục sinh của Chúa Kitô mà các thánh tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng đã được truyền lại cho chúng ta. Ðây là gia sản quí giá nhất mà chúng ta đã được thụ hưởng, mà chúng ta cũng được mời gọi để chia sẻ với tất cả mọi người. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô gắn liền với cuộc tử nạn của Ngài. Có đi vào cõi chết, Chúa Giêsu mới sống lại. Tiến trình này đã trở thành qui luật cơ bản của niềm tin Kitô giáo. Các thánh tông đồ đã sống qua quy luật ấy cho đến cùng khi dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô. Các ngài xác tín rằng không thể là nhân chứng của sự phục sinh mà không tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ðược rửa tội, nghĩa là, nói như thánh Phaolô: "được mai táng với Chúa Kitô". Ðể cũng được sống lại với Ngài, các tín hữu Kitô tham dự vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội. Cũng như các thánh tông đồ, các tín hữu Kitô cũng làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô bằng cái chết từng ngày của họ. Chết đi cho những khuynh hướng thấp hèn của bản thân. Chết đi những gì đi ngược lại những giá trị của Nước Trời. Có chiến đấu và chết đi từng ngày như thế, họ mới cảm nhận được sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh bừng lên trong họ và tỏa sáng đến những người chung quanh.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9. Tông đồ sau cùng: Matthia


-- J.M

Người ta cho con số 13 là số xui! Đức Ki-tô với 12 tông đồ làm thành số 13! Sau khi Chúa về trời, các ông đề cử chọn một tông đồ thay thế Giuđa cho đủ số 12 tông đồ. Trong nhóm 120 cầu nguyện chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chi có hai vị được chọn. Họ đã theo Đức Giê-su từ khi Chúa chịu phép rửa của Gioan tới khi Chúa lên trời. Thánh Matthia đã được chọn theo kiểu rút thăm của loài người, Ngài đã vinh dự là tông đồ sau cùng, để vào sổ chứng nhân của Đức Ki-tô.

Không phải anh em nhưng chính Thầy chọn anh em.

Sự chọn lựa này làm sáng tỏ Tin Mừng theo Thánh Gioan. Trong suốt thời gian Chúa Giê-su còn trên đất Israel, Thánh Matthia đã thấy, đã nghe, đã biết giá trị cao cả của Đức Giê-su. Ngay từ giờ phút đầu Ngài đã có mặt ở đó, nhưng Đức Giê-su không chọn Ngài!.... Matthia đã chọn Đức Giê-su như mọi người, đã đáp lại lời kêu gọi của Đức Giê-su. Ngài đã yêu mến như 12 tông đồ; nhưng không được có địa vị gì. Ngài vẫn có sứ mệnh khá đặc biệt là thay thế Iscariốt, nhưng nhất là sứ mệnh tông đồ sau cùng!

Luôn luôn người ta thấy khó nhọc khi suy nghĩ về ơn kêu gọi: Giữ lời mời gọi của Chúa, khó lòng cự lại, dù ta được tự do trả lời. Đó là một mầu nhiệm. Thực ra Thiên Chúa đã biết rõ ta sẽ nói vâng hay không rồi! hai tình yêu đối diện với nhau rồi!

Vui mừng của tôi...

Thánh Matthia hình như là một trong những người tự hiến thân mà không đặt vấn đề, Ngài không xin gì, chỉ bằng lòng sống với nhau như là bạn thân là tốt rồi. Nhờ đó, Ngài thật sung sướng và vui mừng!

Một người đã yêu thì dù có thể bị khổ sở, cũng không sao. Họ yêu vì có tình yêu đang yêu. Họ cho mà như không cho gì, vì họ yêu trọn vẹn, vì họ tự hiến tất cả.

Thánh Matthia, vị tông đồ trung tín, tình nguyện tự hiến cho bạn thân! một thứ tình yêu quí hiếm luôn luôn, nhưng mãi mãi rất sống động.

-------------------------------

 

Suy Niệm 10. Thánh Mátthia tông đồ


--Lm. Anthony Trung Thành

Thánh Mathia là người con út trong số 12 Thánh Tông đồ. Ngài được chọn để thế chỗ cho Giuđa Iscariô, được 11 tông đồ và cộng đoàn sơ khai bầu chọn. Cuộc bầu chọn được sách công vụ ghi lại một cách cụ thể như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất hôm nay (x. Cv 1,15-17.20-26).

1. Việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ

Cuộc bầu chọn có những bước quan trọng sau đây:

Bước thứ nhất, Thánh Phêrô đưa ra điều kiện: Ngài nói:  "Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh" (Cv 1, 21-22). Chúng ta thấy, điều kiện mà Thánh Phêrô đưa ra rất rõ ràng. Người được bầu chọn phải là người đã từng theo Đức Giêsu từ khi chịu phép rửa cho tới khi lên trời. Nghĩa là phải hiểu về Giáo huấn và chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu làm trong suốt ba năm cuộc đời công khai. Đặc biệt, phải chứng kiến cuộc khổ nạn, sự phục sinh và lên trời của Ngài. Bởi vì người Tông đồ cần làm chứng về những điều đó.

Bước thứ hai, cộng đoàn đề cử: Sau khi lĩnh hội được ý của Thánh Phêrô, cộng đoàn đề cử 2 người là ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mát-thi-a.

Bước thứ ba, cầu nguyện: Cộng đoàn cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng. Đây là bước hết sức quan trọng làm cho cuộc bầu chọn này khác với các cuộc bầu chọn thông thường khác. Cuộc bầu chọn này mang tính thần linh. Có Chúa Thánh Thần can thiệp. Chính Chúa Giêsu trước khi chọn các Tông đồ, Ngài cũng đã làm như vậy. Kinh Thánh kể, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm (Mt 10, 1-4; Mc 3,13 -19; Lc 6,12-16).

Bước thứ tư cũng là bước cuối cùng để chọn ra người Tông đồ, đó là rút thăm. Trong thực tế hôm nay, có nhiều cách để bầu chọn người lãnh đạo. Cách đơn giản là giơ tay. Cách thông thường là bỏ phiếu. Nhưng dù sử dụng cách nào đi chăng nữa vẫn có yếu tố con người trong đó. Còn việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ, mặc dầu bằng cách đơn giản nhất là rút thăm, nhưng luôn luôn vẫn có yếu tố thần linh, đó là việc của Chúa chứ không phải việc của con người. Chúng ta liên kết bước thứ tư với ba bước trên sẽ thấy rõ điều đó.

Bài học mà chúng ta rút ra hôm nay: Luôn làm mọi việc dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt khi chọn lựa những người làm việc cho Chúa và Giáo Hội phải xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Những lúc đó phải nói được như các Tông đồ: “Thánh thần và chúng tôi quyết định” (x. Cv 15, 28).

2. Mọi người đều được Chúa mời gọi làm Tông Đồ

Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con” (Ga 9,16). Thật vậy, trong ba năm cuộc đời công khai, chính Chúa Giêsu đã chọn các Tông Đồ. Có khi Ngài chọn cách trực tiếp: Như khi Ngài gặp ông Philipphê và mời gọi ông “Hãy theo Ta” (x. Ga 1,43); Hay khi Ngài gặp ông Lêvi và mời gọi ông “Anh hãy theo Ta” (x. Mc 2,14). Nhưng cũng có khi Ngài mời gọi các Tông đồ đi theo Ngài qua một trung gian nào đó: Ngài mời gọi Nathanael qua trung gian ông Philipphê (x. Ga 1, 45-51); Ngài mời gọi ông Anrê qua trung gian ông Gioan (Ga 1, 35-37); Ngài mời gọi ông Simon Phêrô qua trung gian ông Anrê (x. Ga 1, 40-42). Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi mọi người làm việc tông đồ qua nhiều trung gian khác nhau, có thể qua gia đình, qua thầy cô giáo, qua bạn bè, đặc biệt là Ngài mời gọi chúng ta qua trung gian Giáo Hội.

Để đón nhận, Giáo hội cũng đưa ra những điều kiện phù hợp với từng ơn gọi, nhất là ơn gọi làm linh mục và tu sĩ. Điều kiện chung của Giáo luật. Điều kiện riêng của các Giáo Phận hay của các dòng tu. Vì vậy, không phải ai cũng đủ điều kiện để làm tông đồ trong ơn gọi linh mục hay tu sĩ (con số này rất ít). Nhưng mọi người đều được mời gọi chu toàn bổn phận ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa qua Bí tích Rửa tội. Đa số được mời gọi làm tông đồ trong ơn gọi hôn nhân: Có người được mời gọi làm tông đồ trong vai trò ban hành giáo, giáo lý viên; Có người được mời gọi làm tông đồ trong vai trò bác sỹ, nhà giáo, công nhân; Có khi chúng ta được mời gọi làm tông đồ ở gia đình, ở nhà thờ nhưng cũng có khi chúng ta được mời gọi làm tông đồ nơi chính mình là việc, nơi trường học, chợ búa…Trong mọi hoàn cảnh và trong mọi nơi, hãy luôn cố gắng toả sáng việc tông đồ để “sinh hoá trái” cho phù hợp với ơn gọi của mình: Hoa trái của đức công bằng; hoa trái của đức yêu thương, bác ái; hoa trái của sự tha thứ… Để làm việc được những việc đó, đồi hỏi người tông đồ phải hy sinh, thậm chí có khi phải chấp nhận hy sinh cả tính mạng của mình để làm chứng cho Chúa thì cũng phải sẵn sàng.

Sau khi được bầu chọn làm Tông đồ, Kinh Thánh không nói gì về Thánh Mathia. Nhưng chắc chắn Ngài đã hết lòng chu toàn bổn phận mà Giáo Hội trao phó, đó là bổn phận loan báo Tin Mừng và đặc biệt Ngài đã hy sinh tính mạng mình để làm chứng cho sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Xin Ngài luôn đồng hành và hướng dẫn công việc tông đồ của mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa, Thánh Mathia dầu được chọn sau hết nhưng Ngài đã chu toàn bổn phận như mười một Tông đồ khác, đó là hăng say loan báo Tin mừng và làm chứng cho Chúa bằng cái chết. Mọi người chúng con cũng được kêu gọi tiếp tục sứ điệp của Thánh Mathia. Xin cho chúng con, dù trong hoàn cảnh và địa vị nào cũng biết chu toàn bổn phận tông đồ để làm sáng danh Chúa. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 11. Thánh Matthia, vị Tông Đồ “thứ mười ba”


Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại (Ga 15,16)

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Thánh Matthia, vị Tông Đồ “thứ mười ba” được Chúa chọn để thay thế cho Giuđa Iscariốt. Theo sách Công vụ Tông Đồ, Thánh Matthia là môn đệ theo Chúa từ khi Người chịu phép rửa đến ngày Người lìa bỏ các Tông Đồ và được rước lên Trời (x. Cv 1, 21-22). Và sau khi các Tông Đồ cùng với cộng đoàn cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần, Thánh Matthia được chọn vào nhóm Mười Hai. Thánh nhân trở thành vị Tông Đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo, sẵn sàng hy sinh làm chứng, chịu bách hại và tử đạo trong sứ vụ Loan Báo Tin Mừng.

Cuộc đời của Thánh Matthia Tông Đồ minh họa cho lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16). Chúa có một chương trình thật đặc biệt, một cách chọn gọi rất riêng để trao phó sứ mạng cao cả cho từng Tông Đồ và cho Thánh Matthia. Đáp lại, Thánh nhân đã dùng chính cuộc đời mình để đáp trả tiếng gọi yêu thương của Chúa. Mừng lễ thánh Mathia Tông Đồ, mỗi người được nhắc nhớ đến ơn gọi làm tông đồ và làm Kitô hữu của mình. Quả vậy, qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Mỗi ngày, ta được Chúa mời gọi trở nên tông đồ của Người trong môi trường đang sống, trong vai trò và bậc sống của mình. Chúng ta chỉ có thể đáp trả ơn gọi của mình khi biết dùng Lời Chúa dệt nên cuộc đời mình mỗi ngày. Hãy sinh hoa kết trái trong bậc sống và hoàn cảnh của mình. Hãy làm sáng danh Chúa trong gia đình, ngoài xã hội, nơi công sở, trên ruộng nương. Hãy làm chứng cho Tin Mừng bằng chính niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa gọi mỗi ngày. Và nhất là, xin Chúa giúp chúng con luôn sẵn sàng và vững vàng trở nên những chứng nhân của Chúa, như Thánh Matthia Tông Đồ, nhờ luôn kết hợp mật thiết với Chúa Kitô Phục Sinh. Amen

-------------------------------

 

Suy Niệm 12. Thánh Matthias Tông đồ


--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa nói: ”Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả của anh em được lâu bền” (Ga 15, 16). Thánh Matthias là một trong trường hợp được chính cộng đoàn do Chúa Thánh Thần tác động, đã chọn Ngài thế chỗ Giuđa Iscariôt kẻ phản bội Chúa Giêsu.

CHÚA TUYỂN CHỌN MATTHIAS

Đọc công vụ tông đồ 1, 15-17. 20-26, ta sẽ nhận ra sự chọn lựa vô cùng quan trọng người thế chân Giuđa sau khi Chúa phục sinh về trời. Bài diễn từ của thánh Phêrô nêu lên những điểm nổi bật để tuyển chọn một người vào số 11 tông đồ. Sau khi giới thiệu hai người Giuse, tức Barsabba, biệt danh là công chính, và ông Matthias, Phêrô và mọi người có mặt cầu nguyện: ”Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước hiệu tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó” (Cv 1, 25), và họ rút thăm, thăm trúng ông Matthias: ông được kể thêm vào số mười một tông đồ” (Cv 1, 26).

Nhóm 12 là con số đã được mạc khải. Dân Israen mới được xây dựng trên nền tảng của 12 tông đồ. Xưa dân Israen được xây dựng trên 12 chi tộc của Giacóp. Thánh Matthias đã được tuyển chọn vào số 12 vì ông đủ tiêu chuẩn do Phêrô, thủ lãnh các tông đồ đề ra: đã theo Chúa Giêsu, từ khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giorđan đến khi Chúa về trời, để có thể làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Giêsu. Môn đệ phải sống với Chúa, nghe Chúa giảng dậy, chứng kiến các phép lạ của Chúa, sống thân tình với Chúa, và phải ăn uống với Chúa sau khi Chúa sống lại, nhờ đó, họ mới có thể mạnh dạn, can đảm làm chứng cho Chúa phục sinh, dẫu có phải hy sinh cả tính mạng để minh chứng cho Thầy chí thánh. Thánh Matthias đã được tuyển chọn thế chân Giuđa, và Ngài đã hoàn thành xuất sắc nhất sứ mạng Chúa trao phó cho Ngài.

LỜI NGUYỆN CẦU

“Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Matthias để bổ sung nhóm mười hai tông đồ. Cúi xin Chúa nhận lời Người cầu thay nguyện giúp cho chúng con, nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, mai sau cũng được kể vào số những người Chúa chọn”. (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Matthias, tông đồ).

-------------------------------

 

Suy Niệm 13. Thánh Matthia


--Suy niệm Tin Mừng hằng ngày

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 15,9-17)

Thánh Camilo Lellis (1550 -1614) đã lập một dòng để giúp các bệnh nhân. Dòng này có lời khấn buộc người tu sĩ phải hoàn toàn dấn thân cho việc cứu chữa các bệnh nhân, bất chấp bệnh truyền nhiễm, vì đó là tiếng gọi của lòng nhân lành Chúa.

Đức Giêsu dạy các môn đệ rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Lời đó mời gọi chúng ta trở lại với nền tảng đích thực của tình yêu. Tình yêu chân thực không dừng lại ở chữ viết hay trên môi miệng, nhưng là một tình yêu năng động, có sức lan tỏa bằng hành động, như Đức Giêsu đã yêu. Đó là tình yêu hy sinh tự hiến cho con người (xc. Ga 15,13)

Thánh Mathia cũng được Chúa tuyển chọn và mời gọi vào trong nhóm mười một thay thế cho ông Giuđa để làm chứng cho Thiên Chúa. Thánh nhân đã hăng say loan báo Tin Mừng. Ngài đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con hiểu biết giá trị cao quý của đức ái, để con say mê thực hành, ngõ hầu được trở nên giống Chúa hơn. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 14. Ngài đã chọn con


--Nhóm Suy niệm BC

“Không phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài đã chọn con”. Đó là niềm xác tín mà chúng ta đã nghe rất nhiều lần qua các bài hát trong các dịp lễ truyền chức hay khấn dòng, tưởng chừng chỉ áp dụng cho các tu sĩ, giáo sĩ mà thôi, nhưng quả thực câu Thánh Kinh này rất sâu sắc và sát với thực tế kinh nghiệm đời sống đức tin của mỗi người. Điều này càng đúng hơn nữa trong cuộc đời của thánh Mathia, người đã được chọn để thay thế chỗ khuyết của Giuđa, kẻ phản bội trong Nhóm Mười Hai.

“Không phải con đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài đã chọn con”. Trước tiên, chúng ta cảm nhận được điều này khi chúng ta được thành hình trong dạ mẹ. Chúng ta chẳng có quyền được chọn lựa ai sẽ là bố mẹ của mình, nơi nào sẽ là sinh quán của mình và ngày nào sẽ là sinh nhật của mình. Tất cả điều đó Thiên Chúa đã dự liệu cho chúng ta như một thụ tạo duy nhất, cá biệt của Ngài. Hơn nữa, Ngài còn đặt để chúng ta vào một gia đình, dòng họ, dân tộc với những truyền thống riêng biệt. Chính Ngài biết chúng ta trước. Rồi ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, Ngài đặt để chúng ta trong môi trường của một gia đình có đức tin thuộc về một giáo xứ, một giáo phận, một Giáo Hội. Ngài đặt chúng ta vào môi trường đức tin, gieo vào tâm hồn chúng ta những hạt giống đức tin và chờ ngày nó được lớn lên. Chính Ngài đã chọn chúng ta trước.

Khi ta lớn lên biết phán đoán và biện phân, tự chúng ta nhận định, cảm nhận về tình thương của Ngài và đó là lúc chúng ta can đảm đáp lại tiếng Chúa kêu mời sống ơn gọi của mình trong bậc tu trì hay gia đình. Chúng ta có thái độ đáp trả cách này hay cách khác là bởi vì trước đó chúng ta đã cảm nhận được tình yêu của Ngài dành cho. Chính Ngài đã yêu chúng ta trước.

Khi ý thức rõ ràng chính Thiên Chúa đã yêu thương và chọn chúng ta trước khi chúng ta có thể nhận biết và yêu mến Ngài, chúng ta dám hoàn toàn tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa: Ngài đã chuẩn bị mọi thứ cho chúng ta, Ngài biết chúng ta cả sau lẫn trước, Ngài ban cho chúng ta những điều chúng ta cần, Ngài dẫn chúng ta đi qua những lối chúng ta không bao giờ nghĩ tới. Một nhạc sĩ nào đó đã diễn tả thật đẹp về đức tin của người theo Chúa trong bài hát Hãy Theo Thầy: “Đi theo Chúa chẳng cần biết ở đâu, chẳng cần biết làm gì. Dù ở đâu hay làm chi con vẫn đi trong đường Ngài”.

Xác tín đó cho chúng ta một thái độ khiêm tốn nhìn nhận những thành công mà chúng ta đạt được chẳng phải do sức riêng của chúng ta nhưng hoàn toàn là do ơn Chúa đó thôi. Tác giả Thánh Vịnh 127, 1 đã diễn tả thật sâu sắc: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Đồng thời, xác tín về tình yêu đi bước trước và ơn gọi luôn đến từ phía Thiên Chúa cũng cho ta thêm niềm hy vọng, lạc quan trong những đau khổ thất bại mà chúng ta gặp phải. Bởi vì, Thiên Chúa có thể biến những điều tưởng chừng như thất bại đó thành những điều hữu ích cho chúng ta. “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119, 71).

Lạy Chúa, con tin Ngài đã biết đến con, yêu thương con trước khi con được thành hình trong dạ mẹ, bàn tay Chúa vẫn luôn bao bọc chở che con trên mọi nẻo đường. Xin cho con luôn tín thác vào tình yêu thương Quan Phòng của Chúa, đồng thời cao rao và đáp lại tình yêu đi bước trước của Ngài trong suốt cuộc đời con. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 15. Matthia, Tông đồ thứ 13


--Nt. Scholastica Vũ Hiền

Trong ngày lễ thánh Mat-thi-a Tông đồ chúng ta cùng suy chiêm về mầu nhiệm ơn gọi. Không ai trong chúng ta mới sinh ra đã biết trước sau này mình sẽ sống ơn gọi tu trì hay hôn nhân, nhưng Thiên Chúa thì biết và Ngài sẽ cắt đặt cũng như chọn gọi mỗi người theo ý Ngài muốn: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15, 16). Ơn gọi của thánh Mat-thi-a là bằng chứng minh nhiên cho Lời nói trên.

Mat-thi-a đã đi theo Chúa Giêsu từ những ngày Người còn tại thế, nhưng ông lại không được Chúa gọi trực tiếp như các Tông đồ khác mà qua trung gian Giáo hội dưới quyền điều hành của thánh Phêrô. Tuy nhiên, thánh Phêrô không tự mình đưa ra quyết định tuyển chọn mà ký thác cho Thiên Chúa bằng hình thức bắt thăm. Sách Công vụ thuật lại sự kiện này như sau: “Họ đề cử hai người: ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mat-thi-a. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai” (Cv 1, 23-24). Sau khi cầu nguyện họ bốc thăm và Mat-thi-a đã trúng cử. Sự kiện này nói lên rằng, ơn gọi luôn là sự lựa chọn đến từ Thiên Chúa. Cộng đoàn hay Hội thánh chỉ là trung gian cầu nguyện để thánh ý Chúa được tỏ hiện: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai trong hai người này”.

Các thánh Tông đồ và hôm nay là thánh Mat-thi-a không phải là những người đưa ra quyết định chọn Chúa Giêsu trước, nhưng các ông chỉ nghe và đáp lại sáng kiến của Người. Đức Giêsu đã tuyển chọn các ông, một số thì trực tiếp, số khác như Mat-thi-a gián tiếp qua việc bầu chọn mà Giáo Hội phó thác trong tay Chúa. Suy nghĩ về mầu nhiệm ơn gọi, thực sự không có lời giải đáp nào thỏa đáng cho thắc mắc, tại sao người này được tuyển chọn mà người kia thì không. Đơn giản chỉ vì Chúa gọi đến với Ngài những kẻ Người muốn. Vì thế, từ khi chúng ta bắt đầu xuất hiện trong thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Người đã an bài cho chúng ta mọi ân huệ và điều kiện cần thiết để ta có thể nghe và có khả năng đáp lại lời mời gọi của Chúa qua Hội thánh trần gian.

Ơn gọi là một linh ân tuyệt vời của Đấng luôn khởi sự những điều thiện hảo cho con người. Và khi chọn gọi Ngài cũng nâng những kẻ được tuyển chọn lên hàng thân hữu chẳng vì lý do nào: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Được trở nên bạn nghĩa thiết, được chia sẻ vinh quang cũng như kế hoạch nhiệm màu Chúa Giêsu đã nghe được từ nơi Chúa Cha. Đức Giêsu còn hứa sẽ yêu các môn đệ cũng bằng tình yêu Chúa Cha đã yêu thương Ngài, chỉ cần họ kiên trì ‘ở lại trong tình thương của Người’ và tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy (Ga 15, 9-11). Chỉ nơi Đức Giêsu các môn đệ mới tìm thấy tình thương thực sự. “Tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.

Lạy Chúa, giữa những giằng co phải lựa chọn, xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng, để có thể kín múc sức mạnh từ Chúa và can đảm thực thi kế hoạch Ngài an bài cho chúng con. Nhờ lời thánh Mat-thi-a chuyển cầu, xin cho chúng con nên chứng nhân trung thành sẵn sàng làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 16. Thánh Matthias, Tông đồ-


-giaophanvinhlong.net

Tài liệu duy nhất đáng kể về thánh Mathia là tường thuật của sách Công vụ các tông đồ (Cv 1,15-26). Theo điều kiện mà thánh Phêrô đưa ra để chọn người thế chân cho Giuđa trong nhóm 12. Chúng ta biết thánh Mathia là một trong số các môn đệ của Chúa Giêsu. Ngài đã theo Chúa Giêsu “Khởi từ lúc Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu về trời” (c. 22)

Khi Chúa Giêsu đã về trời, các tông đồ vâng lệnh Chúa trở về Giêrusalem cầu nguyện chờ đón Chúa Thánh Thần đến. Họ gặp nhau lại khoảng 120 người. Lúc ấy Phêrô lên tiếng nhắc lại sự Giuda phản bội và kết luận:

  - “Phải chọn lấy thêm một người để cùng chúng tôi làm chứng tá cho sự sống lại của Chúa Giêsu”.

Cộng đoàn đã đề cử hai người xem ra xứng đáng nhất, với vinh dự này là Giuse, gọi là Barsabba biệt danh là Giustô và Matthia. Thế rồi họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn. Matthia đã trúng cử và nhập vào nhóm 12.

Vị tân tông đồ, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, đã ra đi rao giảng Phúc âm và hiến phần còn lại cho việc tông đồ, thánh Clementê, thánh Alexandria kể lại rằng: các giáo huấn của thánh Matthia tập chú vào nhu cầu phải hy sinh hãm dẹp xác thịt và những ước muốn lăng loàn. Đó là bài học quan trọng Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu và đem ra thực hành.

Nhiều sứ giả cho rằng thánh Matthia đi từ Giuđêa tới tận Ethiopie rao giảng và làm cho vô số người trở lại đạo. Sau ba mươi năm bị bách hại, nỗ lực và thành công, Ngài bị ném đá và bị chặt đầu dưới thời Nerô vào năm 63.

Theo dân Hy lạp, thánh Matthia đã mang Kitô giáo đến miền Cappadôcia rồi bị đóng đinh vào thập giá ở Côlehis. Và xác Ngài được đưa về Giêrusalem. Một phần các xương thánh vẫn còn ở đền thờ Đức Bà cả nơi thánh nhân đã làm nhiều phép lạ.

-------------------------------

 

Suy Niệm 17. Thánh Matthias, Tông đồ


--Lm. Gioakim Dương Minh Thanh

Hôm nay giáo Hội mừng lễ thánh Matthia tông đồ, có thể nói đây là vị tông đồ của giờ thứ 11, giờ mà mọi sự hầu như đã kết thúc đã hoàn tất thì Ngài được chọn làm tông đồ. Chúng ta cùng nhau nhìn qua chân dung của Ngài một chút để xem cuộc đời của vị tông đồ giờ thứ 11 nầy như thế nào? Có thể nói được rằng ngày mà Chúa Giêsu chịu phép rửa dưới sông Giodan thì Matthia đã có mặt, nhưng lúc bấy giờ ai chú ý đến ông. Dưới cặp mắt của thế gian và của Chúa Giêsu nữa hình như không có ai để ý tới ông vì ông không có gì nổi bật. Chỉ biết rằng từ ngày biết được Đức Giêsu thì ông đã là người đi theo Ngài một cách âm thầm, không đòi hỏi, không bon chen điều gì. Ngày Chúa Giêsu chọn 12 Tông đồ thì ông cũng không được chọn, nhưng ông không hề thất vọng. Ông là một người tín hữu như hàng triệu người tín hữu vô danh khác, chưa một lần hưởng được dấu hiệu tình yêu nơi Đức Giêsu như các Tông đồ khác. 3 năm ròng rã theo Chúa, không cầu xin một ân huệ nào chỉ biết đi theo và đi theo một cách kiên trì. Ngày Chúa chết một số môn đệ thất vọng bỏ về, nhưng ông vẫn kiên trì ở lại. Thế rồi khi Phêrô tuyên bố: Chúng tôi cần một người theo Chúa Giêsu từ lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa cho đến khi Chúa Giêsu vinh thăng để thay thế Giuđa Iscariot. Lúc bình bầu, người ta chú ý đến một người quan trọng tên là Giuse, ông là người nổi tiếng có biệt danh là người công chính, nhưng để cho có sự công bình, người ta cũng nhắc đến tên của một người khác tên là Matthia. Không ai biết gì về ông, ông là một người lu mờ, chỉ có điều người ta chú ý đến ông là ông đã kiên trì theo Chúa từ đầu. Và rồi giữa 2 người, Thiên Chúa đã chọn người có tên là Matthia tầm thường đó. Matthia là gì? Tục danh? Biệt hiệu? Con ai? Thân thế? Sự nghiệp? Không ai biết và cũng chẳng ai để ý, thế mà ông được Thiên Chúa chọn làm tông đồ. Ông chỉ nổi bật khi được chọn và rồi lại tiếp tục rơi vào quên lãng, người ta chỉ biết được Ngài là người thế vào con số 12 đã khuyết. Ngày Chúa Giêsu còn sống, Giuđa được thân mật, được an ủi, được chuyện trò với Chúa và khi cần một người để bị sỉ vả, bị bách hại, bị đánh đập, bị tù đày vì Đức ki tô thì đã có Thánh matthia thế vào. Matthia có lẽ là vị Tông đồ bạc bẽo nhất, một người âm thầm gần như vô tích sự, thế mà Thiên Chúa đã chọn Ngài, Thiên Chúa đã không chọn Yuse justo barsaba biệt danh là người công chính mà lại chọn Matthia. Vì thế mà Thánh Phao lô Tông đồ đã nói: Những gì thế gian cho là điên dại, là hèn kém thì Thiên Chúa đã chọn để biêu nhuốc hạng khôn ngoan.

Thiên Chúa đã chọn Matthia làm tông đồ, mặc dù Ngài không có gì đặc sắc và nổi bật lại là một niềm an ủi và là một sứ diệp mà Thiên Chúa nhắn gởi cho mỗi người chúng ta. Matthia không lừng danh nổi bật với nhiều chứng tích như Phêrô và Phaolô, nhưng Ngài chỉ có một điều là sống tin mừng với lòng kiên trung để hành trình theo Chúa suốt đời. Chúng ta được an ủi rất là nhiều vì qua vị Tông đồ thứ 11 nầy, vì Ngài xuất hiện hầu như mọi việc đã được hoàn tất. Chúa Giêsu nhập thể, chết, sống lại, siêu thăng và sau đó Ngài mới được chọn. Mặc dù muộn màng, là người đến sau nhưng lại được đặt ngang hàng với người đến trước, không phải đồng hàng trong cái hư danh là Tông đồ, nhưng đồng hàng dưới đôi mắt nhân lành của Thiên Chúa. Ngài được chọn làm tông đồ, chúng ta được an ủi vì được chọn trước, chọn sau không quan trọng nhưng quan trọng là có được chấp nhận vào làm vườn nho của Thiên Chúa không?.

Mừng kính Ngài hôm nay, mỗi người trong chúng ta cũng được Thiên Chúa mời gọi trở nên Tông đồ của Ngài ngay trong môi trường mình đang sống và trong khả năng hạn hẹp có thể của mình. Hãy trở thành những vị tông đồ âm thầm khiêm nhường như men lẫn trong bột để làm cho cuộc đời dậy men Đức Kitô. Mừng kính Ngài hôm nay, xin Ngài cầu bàu cùng Chúa nâng đỡ cho chúng ta đừng buồn tủi vì nhiều lúc đời mình như chiếc bóng âm thầm, như đi trong đêm đen, ngày nầy qua ngày khác không cảm thấy sự dịu ngọt của Thiên Chúa và còn có cảm giác là Thiên Chúa không để ý đến mình. Mừng kính Ngài hôm nay, chúng ta có bằng chứng cụ thể để tin rằng, Thiên Chúa không xét đoán theo tài năng và công trạng của chúng ta, nhưng Ngài chỉ xét theo tình yêu của Ngài và quan trọng là lời đáp trả của mỗi người chúng ta. Xin cho mỗi người trong chúng ta biết hy vọng, tin tưởng và yêu thương trong ân tình của Thiên Chúa. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 18. Chính Thầy chọn anh em


--Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Mátthia hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã chọn thánh Mátthia để bổ sung Nhóm Mười Hai Tông Đồ. Cúi xin Chúa nhậm lời người cầu thay nguyện giúp, mà cho chúng ta, nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, thì mai sau cũng được kể vào số những người Chúa chọn.

Thánh Mátthia là người “đã theo Chúa Giêsu, kể từ khi Người chịu phép rửa của ông Gioan cho đến ngày Người thăng thiên”. Chính vì thế, thánh nhân đã được các Tông Đồ chọn làm người thế chỗ của ông Giuđa, để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Thánh nhân được kể vào Nhóm Mười Hai, như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại.

Được kể vào số những người Chúa chọn, để làm chứng cho Đấng Phục Sinh, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói về: Các Tông Đồ trong Hội Thánh tiên khởi. Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại, và Thiên Chúa ban cho tất cả các ngài dồi dào ân sủng. Các ngài được đầy tràn Thánh Thần, và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa.

Được kể vào số những người Chúa chọn, để thi hành thánh ý Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Gioan Kim Khẩu nói về: Lạy Chúa, xin chỉ cho biết Ngài chọn ai… Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người. Xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ. Họ rút thăm, và trúng ông Mátthia. Ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.

Được kể vào số những người Chúa chọn, để cùng thực thi sứ mạng mà Chúa đã giao phó, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói: Ông Mátthia trúng thăm: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 112, vịnh gia kêu gọi: Chúa cho ông ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người. Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi, nào ca ngợi danh thánh Chúa đi! Chúc tụng danh thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em. Không phải chúng ta chọn, nhưng là, chính Chúa đã chọn chúng ta, để chúng ta thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh và để ta được hưởng gia nghiệp muôn đời. Chứng nhân không cần phải làm chứng về quá khứ, về tương lai hay về các dấu lạ, nhưng phải là, chứng nhân về sự phục sinh. Quả thế, những điều kia đã rõ ràng và hiển nhiên; còn sự phục sinh thì đã xảy ra kín đáo và chỉ được tỏ ra cho các chứng nhân mà thôi. Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của chúng ta thật là vô ích. Tin Mừng Phục Sinh là Tin Mừng gieo rắc hy vọng, làm cho chúng ta được sống, và sống dồi dào, ngay khi, chúng ta đang ở trong những hoàn cảnh éo le, không còn gì để hy vọng. Ước gì đời sống của chúng ta luôn tỏ cho mọi người thấy niềm hy vọng của chúng ta đang đặt ở nơi đâu. Ước gì chúng ta luôn là những chứng nhân nhiệt thành, chiếu giãi ánh sáng phục sinh của Chúa vào trong những nơi, mà bóng tối của nghi ngờ, thất vọng đang vây bủa. Chúa đã chọn thánh Mátthia để bổ sung Nhóm Mười Hai Tông Đồ. Ước gì chúng ta, nay đang vui hưởng tình yêu của Chúa, thì mai sau cũng được kể vào số những người Chúa chọn. Ước gì được như thế!

-------------------------------

 

Suy Niệm 19. Chúa chọn người Chúa muốn


--giesu.net

“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái…” (Ga 15,16)

Suy niệm: Thánh Mát-thi-a được chọn làm tông đồ muộn màng sau khi Đức Giê-su về trời, mà lại được chọn bằng cách rút thăm, nhưng dù vậy trong lời nguyện của “nghi lễ truyền chức” đó, cộng đoàn đã nài xin Thiên Chúa tuyển chọn người mà Ngài muốn: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ” (Cv 1,24-25). Quả vậy, không ai tự chọn cho mình làm tông đồ nếu như Chúa đã không chọn họ trước. Chúa chọn họ một cách hoàn toàn tự do và theo ý Ngài muốn (Mc 3,13). Điều Chúa mong muốn là những người Chúa chọn được sai đi và mang lại nhiều hoa trái và hoa trái đó tồn tại vững bền.

Mời Bạn: Ơn gọi của mỗi người, dù thuộc bậc giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân đều là ơn ban từ Đấng Khôn Ngoan và Quan Phòng. Chúa không gọi chúng ta vào một bậc sống nào đó để chúng ta sống một cách tầm thường vô nghĩa. Nếu chúng ta hài lòng đón nhận và nhiệt tâm phát triển ơn gọi mình, thì chúng ta đang làm cho ơn gọi của mình sinh hoa kết quả cho Chúa.

Chia sẻ: Bạn cảm nhận hạnh phúc thế nào về ơn gọi của bạn? Mời bạn chia sẻ.

Sống Lời Chúa: Ôn lại quá trình ơn gọi của mình và dâng lời tạ ơn Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa đã chọn gọi các tông đồ và sai các ngài đi. Nay Chúa cũng chọn gọi chúng con và sai chúng con đi tiếp nối sứ mạng tông đồ. Xin ban cho chúng con niềm xác tín và lòng nhiệt thành để việc tông đồ chúng con sinh hoa kết quả cho Nước Chúa.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 20. Thánh Matthia


--Huệ Minh

Cùng với Giáo Hội, hôm nay ta mừng kính Thánh Mathia tông đồ.

Sau khi Chúa về trời, các Tông Đồ đã tụ họp lại với nhau, cùng nhau cầu nguyện và đón chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Theo Tông Đồ Công Vụ (1, 15-26), các tông đồ đã đề nghị phải tìm một người để thay thế cho Giuđa. Đó phải là người đã theo Đức Kitô và làm môn đệ của Ngài.

Tuy Sách Thánh cho biết, người đưa ra ý kiến là thánh Phêrô, nhưng thánh nhân không đơn phương quyết định ai sẽ là người thay thế Giuđa. Thánh nhân đưa ý kiến, nhưng tông đồ đoàn và các môn đệ của Chúa cùng nhau tuyển chọn bằng cách đưa ra người xứng đáng để mọi người quyết định bằng rút thăm sau khi đã cầu nguyện. Trong phòng cầu nguyện lúc đó có tất cả là một trăm hai mươi người, và họ đã chọn ra hai vị có đủ điều kiện là Matthia và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết cả hai vị này đã từng ở với họ và theo Đức Kitô. Thế rồi họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn. Matthia đã trúng cử và nhập vào nhóm 12 tông đồ của Chúa.

Mathia theo tiếng Hybalai có nghĩa là "được trao ban", Tin Mừng không hề nhắc đến nhưng hầu chắc ngài đã từng là một trong số bảy mươi hai người môn đệ đã theo và sống với Chúa Giêsu, từ lúc Chúa chịu phép rửa cho đến lúc Chúa lên trời và như vậy đã chứng kiến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu cộng đoàn đã đồng thanh chọn ngài để thế chỗ cho Giuđa, thì cũng để ngài trở nên nhân chứng về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ðây chính là ý nghĩa của tước hiệu Tông Ðồ.

Khi nhìn lại lịch sử cũng như biến cố chọn Thánh Mathia làm tông đồ, ta thấy có những tiến trình như sau.

Ta thấy, Thánh Phêrô đưa ra điều kiện: Ngài nói:  "Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh" (Cv 1, 21-22). Chúng ta thấy, điều kiện mà Thánh Phêrô đưa ra rất rõ ràng. Người được bầu chọn phải là người đã từng theo Đức Giêsu từ khi chịu phép rửa cho tới khi lên trời. Nghĩa là phải hiểu về Giáo huấn và chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu làm trong suốt ba năm cuộc đời công khai. Đặc biệt, phải chứng kiến cuộc khổ nạn, sự phục sinh và lên trời của Ngài. Bởi vì người Tông đồ cần làm chứng về những điều đó.

Sau đó, ta thấy cộng đoàn đề cử: Sau khi lĩnh hội được ý của Thánh Phêrô, cộng đoàn đề cử 2 người là ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và ông Mát-thi-a.

Và kế đến là việc cầu nguyện: Cộng đoàn cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng. Đây là bước hết sức quan trọng làm cho cuộc bầu chọn này khác với các cuộc bầu chọn thông thường khác. Cuộc bầu chọn này mang tính thần linh. Có Chúa Thánh Thần can thiệp. Chính Chúa Giêsu trước khi chọn các Tông đồ, Ngài cũng đã làm như vậy. Kinh Thánh kể, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm (Mt 10, 1-4; Mc 3,13 -19; Lc 6,12-16).

Và sau cùng, ta thấy là tiến trình cuối để chọn ra người Tông đồ, đó là rút thăm. Trong thực tế hôm nay, có nhiều cách để bầu chọn người lãnh đạo. Cách đơn giản là giơ tay. Cách thông thường là bỏ phiếu. Nhưng dù sử dụng cách nào đi chăng nữa vẫn có yếu tố con người trong đó. Còn việc bầu chọn Thánh Mathia làm Tông đồ, mặc dầu bằng cách đơn giản nhất là rút thăm, nhưng luôn luôn vẫn có yếu tố thần linh, đó là việc của Chúa chứ không phải việc của con người.

Với tất cả những điều nhìn lại ở trên, ta thấy ta học được bài học là:

Luôn làm mọi việc dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt khi chọn lựa những người làm việc cho Chúa và Giáo Hội phải xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Những lúc đó phải nói được như các Tông đồ: “Thánh thần và chúng tôi quyết định” (x. Cv 15, 28).

Ắt hẳn, ta còn nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Không phải các con chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con”(Ga 9,16).

Thật vậy, trong ba năm cuộc đời công khai, chính Chúa Giêsu đã chọn các Tông Đồ. Có khi Ngài chọn cách trực tiếp: Như khi Ngài gặp ông Philipphê và mời gọi ông “Hãy theo Ta” (x. Ga 1,43); Hay khi Ngài gặp ông Lêvi và mời gọi ông “Anh hãy theo Ta” (x. Mc 2,14). Nhưng cũng có khi Ngài mời gọi các Tông đồ đi theo Ngài qua một trung gian nào đó: Ngài mời gọi Nathanael qua trung gian ông Philipphê (x. Ga 1, 45-51); Ngài mời gọi ông Anrê qua trung gian ông Gioan (Ga 1, 35-37); Ngài mời gọi ông Simon Phêrô qua trung gian ông Anrê (x. Ga 1, 40-42). Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi mọi người làm việc tông đồ qua nhiều trung gian khác nhau, có thể qua gia đình, qua thầy cô giáo, qua bạn bè, đặc biệt là Ngài mời gọi chúng ta qua trung gian Giáo Hội.

Cùng với Giáo Hội, ta hân hoan đón nhận một vị Tông Đồ mới, ‘rón rén’ bước vào tông đồ đoàn với cả niềm khiêm tốn. Chúng ta không có thông tin nào khác về Ngài ngoại trừ thông tin về việc bầu chọn.

Trong khi chúng ta cầu nguyện với thánh Matthia và cùng Ngài hân hoan với sự chọn lựa của Thánh Thần, chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện cho các giám mục, linh mục, tu sĩ, cũng như Giuđa xưa, đã khước từ bổn phận mà Giáo Hội giao phó. Khiếm khuyết do bản tính con người… nhưng cũng do tính hời hợt trong việc phục vụ cộng đoàn kitô. Họ thiếu sự kết hiệp với Đức Giêsu mà hôm nay tin mừng Thánh Gioan nhắc đến.

Các thánh tông đồ xác tín rằng không thể là nhân chứng của sự phục sinh mà không tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ðược rửa tội, nghĩa là, nói như thánh Phaolô: "được mai táng với Chúa Kitô". Ðể cũng được sống lại với Ngài, các tín hữu Kitô tham dự vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội. Cũng như các thánh tông đồ, các tín hữu Kitô cũng làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô bằng cái chết từng ngày của họ. Chết đi cho những khuynh hướng thấp hèn của bản thân. Chết đi những gì đi ngược lại những giá trị của Nước Trời. Có chiến đấu và chết đi từng ngày như thế, họ mới cảm nhận được sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh bừng lên trong họ và tỏa sáng đến những người chung quanh.

Để sinh nhiều hoa trái, các tín hữu, cách đặc biệt những ai được Chúa tuyển chọn để làm người hướng đạo, cần phải mô phỏng cung cách sống của mình theo Đức Giêsu, Đấng đạt đến đỉnh cao tình yêu bằng cách chết cho người tội lỗi. Bổn phận của toàn thể Giáo Hội là cầu nguyện cho hàng linh mục, đặc biệt cho các linh mục của mình và giúp đỡ các ngài sống cuộc sống theo phong cách của những người tận hiến phục vụ, chứ không theo cách thức người đời. Đức Giêsu đă nhấn mạnh điều này: sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Người linh mục càng đầy tràn Thiên Chúa, càng sốt sắng cầu nguyện, kết hiệp với Chúa, thì càng có khả năng thông ban Đức Kitô cho anh em mình.

Mừng lễ thánh Mathia tông đồ hôm nay để nhắc nhớ cho mỗi người chúng ta về ơn gọi của mình. Chính Thiên Chúa đã yêu thương và ban cho chúng ta được làm con cái Ngài. Theo gương thánh nhân để lại, chúng ta hãy không ngừng cảm tạ ơn thánh Chúa ban, và hăng say làm chứng cho Tin Mừng Nước Chúa trong cuộc đời của mỗi chúng ta.

------------------------------

 

Suy niệm 21: Người thợ giờ thứ mười một


(hdmtggv.weebly.com)

+ Chúa luôn có cách của Ngài, và cách của Ngài không bao giờ giống ai.

+ Thánh Matthia chính là Tông đồ giờ thứ mười một. Không ai nghĩ ông là sẽ Tông đồ nếu không có sự phản bội của ông Giuđa.

+ Ơn gọi mỗi người một cách, mỗi người một vẻ, không ai giống ai nhưng ai cũng đặc biệt và duy nhất.

+ Chúa luôn CHỌN- GỌI- chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút.

BÀI HỌC:

+ Đức Hồng Y Thuận đã từng nói: “Thiên Chúa luôn viết thẳng trên những đường cong”.

+ Ông Giuse trong Cựu Ước thì nói: “Thiên Chúa biến sự dữ của anh em làm với tôi thành sự lành”.

+ Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người.

+ Trong mọi sự, chúng ta phải nhìn thấy được thánh ý Chúa muốn gì trên cuộc đời của ta? Trên sự việc xảy ra và trên cuộc sống này?

Lạy Chúa, con cảm tạ ơn Chúa đã chọn và gọi chúng con. Xin cho chúng con luôn là những người môn đệ trung tín, dù là người thợ giờ thứ mười một. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 5 PS –Tuần 4/2025

Củng cố đức tin.
15/05 – Thứ Năm tuần 4 Phục Sinh.
"Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy".

 

Lời Chúa: Ga 13, 16-20


Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc.
Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy".

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Thật phúc cho anh em


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Khi giảng cho các Giám mục Anh Giáo,
ông Jean Vanier có kể câu chuyện như sau xảy ra tại cộng đoàn của ông,
một cộng đoàn được lập tại nước Pháp để giúp những người cơ nhỡ.
Nhà ông có nhận nuôi anh Eric, 16 tuổi, vừa mù lại vừa điếc.
Anh không đi được, không muốn ăn, chỉ quậy phá và muốn chết.
Anh thật là mối kinh hoàng cho những ai phải chăm lo cho anh.
Làm sao để anh yêu cuộc sống này?
Làm sao để anh thấy mình được yêu và đáng quý,
bất chấp những khiếm khuyết của mình?
Tìm đâu thứ ngôn ngữ để một người vừa mù vừa điếc hiểu được điều ấy?
Ông Jean Vanier có nhiệm vụ tắm cho anh mỗi sáng.
Và ông đã tìm ra được thứ ngôn ngữ mà anh hiểu được, cảm được,
thứ ngôn ngữ của bàn tay, ngôn ngữ của thịt.
“Lời đã thành thịt, để thịt của chúng ta thành lời,” ông đã nói như thế.
Khi Thầy Giêsu chạm tay của mình vào chân các môn đệ để rửa
với sự trân trọng và yêu thương,
chắc họ đã cảm được thứ ngôn ngữ không lời đó.
Kinh nghiệm được Thầy rửa chân là kinh nghiệm chẳng thể nào quên.
Thầy muốn các môn đệ tiếp tục làm điều Thầy đã làm:
“Thầy đã nêu gương cho anh em,
để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 15).
Thầy Giêsu nhắc các môn đệ về vị thế của họ,
vị thế của người tôi tớ, người được sai.
Vị thế này hẳn thấp hơn vị thế của Thầy là chủ, là người sai họ đi (c. 16).
Bởi đó việc rửa chân cho nhau giữa các tôi tớ là một đòi buộc (c. 14).
“Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành,
thì thật phúc cho anh em!” (c. 17).
Đức Giêsu đã biến hành vi rửa chân thành mối phúc.
Con người thường tìm hạnh phúc nơi việc được phục vụ, được tôn vinh.
Thầy Giêsu dạy ta tìm hạnh phúc nơi việc cúi xuống khiêm hạ.
Nhiều Kitô hữu đã nếm được thứ hạnh phúc này,
trong đó có ông Jean Vanier, Mẹ Têrêsa, cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne…
Họ đã tình nguyện dâng đời mình cho những người cùng khổ.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn ở nơi những người cần được rửa vết thương,
vết thương thể chất và tinh thần.
Hôm nay, Ngài vẫn ở nơi những người đang cúi xuống,
âm thầm, nhẹ nhàng băng bó các vết thương của thế giới.
 
Cầu nguyện:

Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thầy dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Đón tiếp Chúa Giêsu


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su là trung tâm lịch sử. Trước Chúa Giê-su, tức thời Cựu Ước, dân chúng mong chờ. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa Cứu. Từ ngàn xưa vì con người tội lỗi hư hỏng. Nên phải chịu nhiều đau khổ. Chịu chết. Nhưng vì tình thương yêu, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Đấng Cứu Thế phát sinh từ dòng tộc Đa-vít, Vị Thánh Vương lẫy lừng và đạo hạnh. Đã đưa vương quốc Giu-đa đến đỉnh vinh quang. Và toàn dân luôn mong chờ Đấng Cứu Thế mau đến để thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Phục hồi vương quốc lẫy lừng. Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Khi Gio-an Tẩy giả xuất hiện, người ta cứ tưởng đó là Đấng Cứu Thế. Nhưng Gio-an Tẩy giả đã làm chứng về Người khi nói: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người”.

Thời Tân Ước chính là thời đón tiếp Chúa Giê-su. Nhưng tiếc là khi Chúa đến người ta đã không đón tiếp Chúa. Trái lại còn trao nộp Chúa. Kết án Chúa. Hành hình Chúa. Và đóng đinh Chúa trên thánh giá. Vì Chúa Giê-su không đến như một vị Quân Vương oai phong lẫy lừng. Nhưng đến như một tôi tớ hèn mọn. Không sinh ra trong hoàng cung lộng lẫy tại thủ đô. Nhưng sinh ra trong chuồng súc vật tại một làng quê nhỏ bé. Không sống trong gia đình quyền quý. Nhưng sống trong gia đình thợ thuyền. Không đến như vị tướng bách chiến bách thắng. Nhưng như một tôi tớ phục vụ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho môn đệ.

Người truyền cho môn đệ phải tiếp tục sứ mạng cứu thế bằng phục vụ như Người: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em”. Chúa cho mọi người biết, tuy các môn đệ sống nghèo hèn phục vụ. Nhưng là thừa sai của Chúa. Và “ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Đó là đón tiếp Chúa Cha. Là đón tiếp ơn cứu độ. Là đón tiếp phúc trường sinh.

Ta hãy rút kinh nghiệm của người Do thái. Đừng mơ tưởng một vị quân vương hiển hách. Người môn đệ hãy biết sống nghèo hèn phục vụ như Chúa. Và mọi người hãy biết đón tiếp người được Chúa sai đến. Có thể đó là Giáo hội, giáo quyền, bề trên. Nhưng có thể đó là những người nghèo hèn bất hạnh trong xã hội. Hãy biết nhận ra Chúa. Hãy đón tiếp người nghèo như đón tiếp chính Chúa. Ta sẽ được hạnh phúc. Ta sẽ được ơn cứu độ.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Củng cố đức tin


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ðó là những lời Chúa Giêsu tâm sự với các tông đồ vào lúc khởi đầu cuộc khổ nạn của Ngài, loan báo tương lai cuộc sống của các tông đồ sẽ như thế nào. Nhưng tại sao Giáo Hội lại chọn để chúng ta Suy Niệm đoạn Phúc Âm này trong những ngày của mùa phụng vụ Phục Sinh? Những gì đã xảy ra đúng theo như lời Kinh Thánh và theo lời loan báo trước của Chúa, nhằm củng cố các tông đồ và cả chúng ta ngày hôm nay trong đức tin vào Chúa. Tin Chúa là Thiên Chúa, là Ðấng Hằng Hữu, là Ðấng Ta Là, "Ta bảo các con điều đó ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy ra để đến khi sự việc xảy ra, các con tin Ta là Ðấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa".

Bản văn Phúc Âm thánh Gioan dùng từ "Ta là Ðấng Ta Là", từ dùng để chỉ chính Giavê Thiên Chúa. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, các tông đồ và mỗi người chúng ta được mời gọi Suy Niệm những lời Chúa Giêsu có liên quan đến vận mệnh tương lai của những ai làm đồ đệ Chúa. Trước hết là hồng ân được Chúa sai đi, được đại diện cho Ngài "Ai đón rước kẻ Ta sai là đón rước Ta và ai đón rước Ta là đón rước Ðấng đã sai Ta". Ðó là chiều dọc từ con người lên cùng Thiên Chúa Cha qua Chúa Giêsu Kitô. Mọi đồ đệ của Chúa cần phải duy trì trọn vẹn chiều dọc này. Ðây là hồng ân Chúa ban cho những con người Chúa chọn làm kẻ đại diện của Ngài, mang sứ điệp của Ngài đến cho anh chị em khác và hồng ân này có thể bị mất đi do chính quyết định tự do của con người như trường hợp của Giuđa ngày xưa, người môn đệ phản Thầy, "Ta biết những kẻ Ta đã chọn, kẻ ăn bánh cùng Ta đã giơ gót chân đạp Ta".

Lời cảnh tỉnh của Chúa thôi thúc mỗi người chúng ta xét lại cuộc sống làm đồ đệ theo Chúa của mình đang ở mức độ nào. Chúng ta sẽ làm đại diện cho Chúa một cách hữu hiệu hơn nếu chúng ta trở nên giống Chúa hơn và chia sẻ vận mệnh của Chúa: "Tôi tớ không hơn chủ; kẻ bị sai đi không trọng hơn người sai họ". Chúa đã đi qua con đường thập giá, thì đồ đệ của Ngài chắc chắn cũng sẽ đi qua con đường này. Hơn nữa, cám dỗ phản bội Chúa như Giuđa ngày xưa luôn là cám dỗ thường hằng của mọi môn đệ Chúa cả ngày hôm nay. Chúng ta hãy tỉnh thức đề phòng.

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn can đảm theo Chúa cho đến cùng trong mọi hoàn cảnh.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Chỗ cho đức khiêm nhường


Chúng ta không còn nghe nói đến những nhân đức Kitô giáo nữa hay cả đến những nhân đức thường nữa. Tất cả mang tiếng xấu. Chúng không còn chỗ trong văn hóa của chúng ta. Thời nay sống khiêm nhường khó biết bao! Hãy nhìn xem: Để được thăng cấp, phải tự đặt giá trị của mình nổi lên. Mọi kiểu đánh giá đều được đặt trên sự cạnh tranh và tham vọng. Người ta còn tính rằng để sống, cần phải đè nén và hạ bệ người khác để cho mình lên. Làm sao sống khiêm tốn trong một thế giới văn minh tôn sùng minh tinh, thần tượng, siêu sao, thị trường, thời trang …

Chúa nói đến đức này bằng hành động và giải thích. Bằng hành động: Trước lễ vượt qua, Người rửa chân cho các môn đệ. Đức Giêsu đã làm tôi tớ, Người có mục đích sẵn sàng phục vụ người khác. Nhưng chúng ta lại quên cử chỉ của Đức Giêsu ngay sau lễ chiều thứ năm tuần thánh. Chúng ta đã mừng lễ rất tốt, nhưng chúng ta trước và sau lễ chẳng sống chút gì với Thánh lễ.

Bằng lời nói, Đức Giêsu lưu ý chúng ta đến đức khiêm nhường: “Tôi tớ không lớn hơn chủ. Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai bảo”.

Điều đó kêu mời chúng ta phải lãnh lấy sứ điệp Tin mừng với hết lòng khiêm nhường: “Thầy nói điều đó, anh em hãy thực hành thì thật có phúc cho anh em”. Thánh Phao-lô đã nhắc lại lời khuyên đó và nói: “Anh em đừng cưu mang những thứ học thuyết tân kỳ theo sở thích, anh em hãy chỉ rao giảng Đức Giêsu và Đức Giêsu chịu đóng đinh”.

Đức khiêm nhường được Phúc âm trình bày cho chúng ta trong lễ hôm nay: Ngay sau khi Đức Giêsu trao bánh cho Giu-đa, Giu-đa liền ra đi phản bội Người. Đây là tột đỉnh của đức khiêm nhường. Chúa đã ban bánh cho ăn, được ăn rồi Giu-đa vẫn đi phản bội. Chúng ta nhớ rằng sự phản bội luôn rình mò chúng ta, chúng ta hãy khiêm tốn đón nhận những yếu đuối nơi mình và nơi người khác. Nhờ thế khiêm nhường trở nên bác ái.

C.G

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Tiếp nối sứ mệnh của Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài đến thế gian để giảng dạy cho mọi người con đường cứu rỗi, và khi đã hoàn tất sứ mệnh của Ngài trên trần gian này, Chúa Giêsu sai các môn đệ Ngài đi loan báo Tin mừng cứu rỗi cho mọi tạo vật. Sự chính thống đó được Chúa Giêsu quả quyết như chúng ta có thể đọc thấy trong Tin mừng hôm nay: “Thày bảo thật các con, ai đón nhận kẻ Thày sai là đón nhận Thày, và ai đón nhận Thày là đón nhận Đấng đã sai Thày”.

Trong văn mạch của Phúc âm, trước khi nói những lời trên, Chúa Giêsu đã làm gương cho các Tông đồ của Ngài: Ngài rửa chân họ và sau đó khi trở lại bàn ăn, Ngài nói với họ: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai không trọng hơn kẻ đã sai mình”. Thật là đơn giản, nhưng là một sự đơn giản đòi hỏi: đời sống truyền giáo của Giáo Hội phải rập khuôn với cuộc đời của Chúa Giêsu, với tấm gương Ngài đã sống và đã giảng dạy. Giáo Hội phải biết phục vụ trong khiêm tốn, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa.

Là những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta đều là những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu bằng đời sống yêu thương và Phục vụ, trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Giới thiệu Chúa cách trung thực


Trong nghề thuốc hay võ thuật, những thần y hay tổ sư thường lưu nghề bí truyền cho một ai đó, để đến khi họ có khuất núi thì vẫn còn có người lưu danh hậu thế nhờ lưu truyền lại gia bảo của cha ông.

Với Đức Giêsu cũng vậy! Sau hành trình loan báo Tin Mừng, trước khi về trời, Ngài cũng truyền cho các môn sinh của mình: “Hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian”. Đây chính là lệnh truyền, gia bảo cho Giáo Hội tới muôn đời.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu như muốn khẳng định rằng: nếu là người môn đệ chân chính, sẽ nói lời của chính Thiên Chúa, và như thế thì: “A i đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy".                                                                   

Muốn làm được điều đó để cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta phải mặc lấy chính tâm tình của Đức Giêsu, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi phục vụ con người cách vô vị lợi trong sự khiêm tốn...

Có thế chúng ta mới lưu lại cho người đương thời và hậu thế gia tài quý giá là chính Đức Giêsu, nhờ đó, con người hôm nay và mai sau mới nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống ngang qua đời sống và hành vi của chính chúng ta.

Mong sao mỗi người chúng ta biết được điều đó để thi hành, ngõ hầu trở thành người có phúc như Đức Giêsu đã nói: "Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!”. Ngược lại, chúng ta đừng như Giuđa, kẻ phản thầy mà hôm nay, Đức Giêsu đã tiên báo một cách đau đớn: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết sống trung thành với Chúa và sứ điệp của Chúa. Xin cho chúng con biết loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của chính mình, để cuộc đời và sứ vụ của chúng con chính là hiện thân cách sống động như chính Chúa đang trực tiếp hành động. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã tuyển chọn các môn đệ để họ tiếp tục sứ mạng cứu thế. Người được chọn phải biết quảng đại đáp lại với lòng trung thành.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn kẻ Chúa muốn. Chúa biết người Chúa chọn. Được Chúa đoái thương là một ân huệ cao vời. Và Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người. Tình thương Chúa đã trao ban một cách trọn vẹn, nhưng con vẫn có thể đón nhận hoặc chối từ. Điều đó đã xảy ra nơi nhóm Mười Hai, là những người được Chúa săn sóc một cách đặc biệt. Ông Giu-đa đã trở thành kẻ phản bội vì từ chối yêu thương, còn các tông đồ khác, dù có yếu đuối lỗi lầm, nhưng vẫn một lòng trung thành với tình yêu của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa có lầm chăng? Con tin chắc Chúa không lầm khi Chúa chọn ông Giu-đa. Và con tin chắc Chúa không lầm khi Chúa chọn con. Vì đó là chương trình Chúa thực hiện ơn cứu độ. Chúa đã chọn gọi con, con đã dứt khoát đứng về phía Chúa khi gia nhập Giáo Hội, khi con tuyên xưng niềm tin vào Chúa. Nhưng có những lúc con đã lạm dụng tự do Chúa ban để không chọn Chúa, để chối từ tình thương Chúa. Đồng thời con cũng chối từ sống yêu thương anh em. Con đã chối từ hạnh phúc khi chối từ tình yêu. Con đã chọn đau khổ khi cố tình sống ngoài tình yêu.

Lạy Chúa, xin Chúa gìn giữ con sống trong tình yêu Chúa. Xin đừng để con lạm dụng tự do để phản bội Chúa. Và nếu con có yếu đuối lỡ lầm, xin cho con biết tin tưởng trở về với Tình Yêu. Amen.

Ghi nhớ: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Tinh thần phục vụ


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Trong khung cảnh bữa tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn cho các ông biết tinh thần phục vụ trong yêu thương và khiêm nhường. Ngài hạ mình rửa chân cho các ông. Đức Giêsu đã mang lại ý nghĩa đích thực cho hai chữ “phục vụ”: phục vụ là sống như người tôi tớ, là sống trọn vẹn cho tha nhân, vì tha nhân...

Ngoài ra, Đức Giêsu dạy tiếp một bài học rất cần cho mọi Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy; và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy”.

2. Việc rửa chân cho các môn đệ không chỉ là một cử chỉ hay là một bài học của phục vụ, nhưng qua đó Đức Giêsu còn muốn loan báo chính cái chết của Ngài như tột cùng của thân phận tôi tớ mà Đức Giêsu đã đón nhận. Thật thế, người tôi tớ không sống cho mình, mà hoàn toàn sống cho người khác, đến độ trao nộp cả mạng sống mình. Như vậy, đối với Đức Giêsu, phục vụ là sống trọn vẹn cho người khác. Chính qua sự phục vụ cho đến chết ấy mà Đức Giêsu thể hiện thiên tính của Ngài. Ngài là Đấng Hằng hữu, vì Ngài có thể đón nhận thân phận con người và trao ban thân phận ấy cho người khác; Ngài là Đấng toàn năng vì cách thế thể hiện quyền năng ấy chính là phục vụ và phục vụ cho đến chết.

3. Quyền năng của Thiên Chúa là quyền năng của phục vụ; sức mạnh của Thiên Chúa là sức mạnh của tình yêu. Chúng ta hiểu được sự thành công của Mahatma Gandhi trong cuộc tranh đấu bất bạo động của ông, ông nói như  sau: “Tình yêu là sức mạnh vạn năng mà con người có thể có trên mặt đất này”. Yêu thương như Thiên Chúa yêu có nghĩa là yêu thương cho đến cùng, yêu thương cả kẻ thù và sẵn sàng hiến thân hy sinh cho họ. Phục vụ như Thiên Chúa phục vụ có nghĩa phục vụ mà không tranh giành, không tính toán hơn thiệt, không tìm lợi danh cho bản thân (Mỗi ngày một tin vui).

4. Đón tiếp người được Chúa sai đến.

Sau bài học về hy sinh phục vụ, Đức Giêsu dạy tiếp về sự đón tiếp. Lời nói về sự đón tiếp của Đức Giêsu nhằm tới chính sự thờ ơ của người Do thái đã không đón nhận Ngài, khi “Người đến nhà mình mà người nhà không ra nhận” (Ga 1,11). Người Do thái tự hào mình tin Thiên Chúa, nhưng lại không đón tiếp Đấng được Thiên Chúa sai đến, âu cũng vì họ vẽ ra: “Đấng được sai đến” đó theo ý họ, và họ không chấp nhận một Đấng Thiên Sai không thỏa mãn những tiêu chuẩn trần thế của họ.

Người Chúa sai đến với chúng ta cụ thể nhất chính là những người có trách nhiệm rao giảng, thánh hóa và dẫn dắt chúng ta. Các vị đến với chúng ta nhân danh Chúa trong phẩm vị và sứ vụ được Chúa giao phó cho Giáo hội, chúng ta đã đón tiếp các ngài như thế nào? Ít nhiều chúng ta cũng giống dân Do thái xưa, thích đón tiếp những vị được sai đến hợp ý chúng ta hơn là đón tiếp vị được sai đến theo ý Chúa.

5. Phục vụ Chúa trong anh em.

Thánh Biển Đức căn dặn các đan sĩ: “Khi anh em đón tiếp và phục vụ khách, thì không phải anh em đang đón tiếp và phục vụ khách, mà là cung kính đón tiếp chính Đức Kitô ở trong khách”. Và Đức Giêsu cũng đã đồng hóa chính Ngài hiện thân trong mọi mảnh đời khi Ngài nói về ngày phán xét chung: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em  bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Như thế, khi ý thức được Chúa ở trong mọi người, thì chúng ta không thể nổi giận cau có với “Chúa” được, mà là một sự kính trọng và chu đáo như Mattha và Maria đã đón Chúa vào nhà mình. Thấy Chúa trong anh em thì chúng ta sẽ dễ tôn trọng và yêu thương nhau...

6. Truyện: Khai sinh hội bác ái Vinh Sơn.

Khoảng năm 1883, dưới sự lãnh đạo của một thanh niên Ozanam, 8 thanh niên Công giáo trường đại học Paris thường gặp nhau để thảo luận chiến thuật bảo vệ Giáo hội đang bị tấn công tứ phía. Những buổi thảo luận đã diễn ra suốt một năm, nhưng chưa đưa đến một hành động nào. Tình cờ 8 sinh viên nghe một lời thách thức của kẻ chuyên chống phá Giáo hội:

 “Các anh luôn nói đến công lao Giáo hội của các anh trong quá khứ, nhưng Giáo hội các anh bây giờ đã chết rồi. Nếu các anh bảo Giáo hội vẫn đang sống, hãy chứng minh đi. Một năm qua, tôi chỉ thấy các anh thảo luận tranh cãi nhau bằng môi mép, nhưng chưa thấy một hành động cụ thể nào”.

Lời thách đố ấy được 8 sinh viên Công giáo tiếp nhận  như một bài học quí giá. Buổi chiều hôm đó, thay vì thảo luận, hành động đầu tiên của họ là thu nhặt số củi khô dùng để sưởi ấm ở phòng trọ và họ còn mang biếu cho người nghèo đang rét run tại phòng bên cạnh vì không có tiền để mua chất đốt.

Đó là buổi chiều đầu tiên khai sinh hội Bác ái Vinh Sơn chuyên hoạt động giúp đỡ người nghèo theo tinh thần thánh Vincent de Paul. Những người tiên phong của hội này hiểu rằng: Người tín hữu Kitô không thể bênh vực Giáo hội bằng những lời nói suông mà phải bằng chính những hành động cụ thể, bằng chính cả cuộc sống của họ.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Bài học Đón Nhận


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Bài giáo lý thứ 5: Chủ đề Đón nhận.

Trong khung cảnh bữa tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy các ông bài học yêu thương và phục vụ, Chúa Giêsu dạy tiếp một bài học rất cần cho mọi Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy; và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy”.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. “No man is an island”, đó là tựa đề một quyển sách (Không ai là một hòn đảo). Ai sống cũng có những người khác sống chung quanh. Cuộc sống đầy những dịp gặp gỡ. Khi tôi đến gặp ai, nếu người ta lạnh nhạt với tôi, tôi có khó chịu không? Thế thì tại sao khi người ta đến với tôi, tôi lại không đón nhận. Huống chi Chúa Giêsu còn muốn tôi coi những người đến với tôi là do Chúa sai đến.

2. Sau khi lãnh Bí tích Rửa tội, Kitô hữu gia nhập một cộng đoàn gồm những anh chị em mới trong Đức Kitô, và những người lãnh đạo thay mặt Chúa hướng dẫn mình. Đó là những người mà Chúa sai đến với mình và Chúa muốn mình đón nhận. Tôi đã đón nhận anh chị em như thế nào? Tôi có luôn vui vẻ đón nhận sự hướng dẫn của những người có trách nhiệm hướng dẫn tôi không?

3. Đón tiếp hay đón nhận đòi tôi phải hy sinh thời giờ, công việc và có khi của cải tiền bạc nữa. Không muốn hy sinh những thứ đó thì không phải là đón tiếp và đón nhận, hoặc chỉ là đón tiếp cách thờ ơ lãnh đạm.

4. Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.

Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư. Sáng hôm đó là một ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.

Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn, báo cho người khách quý biết mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.

Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh. Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.

Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe tiếng Chúa nói với anh: “Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay”. (Trích “Món quà giáng sinh”)

5. “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Chị tôi có một anh bạn cùng lớp. Tôi không ưa kiểu nói năng gàn dở của anh. Một hôm anh đến chơi, chị nhờ tôi pha nước. Mê coi ti-vi, bực mình vì quấy rầy, tôi đã pha cho anh ly nước mật chua và khoái chí khi thấy bộ mặt nhăn nhó của anh.

Chúa đã phục sinh gần hai ngàn năm, nhưng con người vẫn cứ ngụp lặn trong thế giới cũ mèm của hận thù, đố kỵ. Thế giới này sẽ đẹp hơn, nếu như mọi người biết bao dung và khoan dung cho nhau, yêu thương và phục vụ lẫn nhau.

Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng, mỗi người con gặp là một sứ giả của Chúa, Người mang đến cho con bài học về lẽ yêu thương. Xin cho con luôn biết yêu thương đón tiếp họ, để cả hai chúng con được sống trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài. (Epphata)

---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Đón nhận anh chị em như thế nào?


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chủ đề hôm nay là sự đón nhận.

Sau khi lãnh Bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu gia nhập vào một cộng đoàn gồm những anh chị em mới trong Đức Kitô, và những người lãnh đạo thay mặt Chúa hướng dẫn mình. Đó là những người Chúa sai đến với mình và Chúa muốn mình đón nhận. Tôi đã đón nhận anh chị em như thế nào?

Đón tiếp hay tiếp nhận đòi hỏi phải hy sinh và nhất là phải biết tôn trọng người khác. Không muốn hy sinh và tôn trọng người khác sẽ không có sự đón nhận thực sự, hoặc là đón nhận thì cũng chỉ đón nhận cách thờ ơ lãnh đạm.

Đây là câu chuyện có thực. Tuy câu chuyện xảy ra mãi tận bên Mỹ nhưng là chuyện của con người. Edith và Kelo lấy nhau đã hai mươi ba năm nhưng họ vẫn không có con. Dầu vậy tình yêu giữa hai người luôn đằm thắm. Mỗi lần đi công tác, người chồng luôn viết thư và gửi quà về cho vợ. Tháng 2/1950, Kelo được gửi đi công tác tại Nhật Bản. Lần này, Kelo không gửi quà về cho vợ nữa. Người vợ nghĩ rằng, chồng cần dành tiền để mua một ngôi nhà mới chăng.

Tháng ngày trôi qua, cứ mỗi lần người vợ mong chồng về nhà thì bà lại nhận được một lá thư, trong đó, người chồng báo tin là sẽ nán ở lại một vài tuần nữa. Vài tuần rồi một tháng, thời gian chờ đợi ngày càng dài hơn và những cánh thư cũng bắt đầu thưa dần.

Bẵng đi một thời gian, người vợ nhận được một lá thư trong đó chỉ có vỏn vẹn vài chữ. Như một hồi chuông báo tử, người chồng cho biết ông muốn được ly dị để cưới một cô gái Nhật Bản tên là Aikô, mười chín tuổi. Chờ cho những cảm xúc ban đầu lắng dịu, Edith bắt đầu hồi tâm lại, bà nghĩ rằng, chồng bà không vượt qua được nỗi cô đơn vì xa vợ quá lâu, nhưng ông đã tỏ ra thành thực và can đảm xin ly dị để cưới cô gái hơn là lợi dụng cô.

Bà Edith xây dựng cuộc sống còn lại trên sự cảm thông cao độ ấy. Thế là bà viết thư cho chồng và xin ông đừng cắt đứt liên lạc với bà. Không bao lâu, bà nhận được tin của người chồng cũ, ông cho biết ông đã có được hai đứa con gái. Bà Edith liền gửi quà mừng.

Trong những lá thư sau, Kelo kể đủ mọi chuyện cho người vợ cũ của mình biết: nào là về gia đình ông, nào là vợ ông đã tiến bộ trong việc học Anh ngữ, nào là ông đã giảm ký và đứa con gái nhỏ của ông đã mọc thêm mấy cái răng.

Nhưng rồi một ngày kia một lá thư khủng khiếp nhất đã đến tay bà: Kelo cho biết ông đang chờ chết vì bệnh ung thư phổi. Những lá thư cuối cùng của ông đầy nước mắt, không phải cho ông mà là cho Aikô và hai đứa con gái của ông. Ông đã dành dụm đủ tiền để gửi con sang Mỹ học, nhưng bệnh tật đã ngốn hết số tiền ấy.

Sau khi Kelo qua đời, Edith viết thư ngỏ ý bảo lãnh hai đứa con gái riêng của ông sang Mỹ. Edith đón nhận hai đứa con của người chồng cũ như chính con của mình. Mãi đến tuổi năm mươi, bà mới biết thế nào là làm mẹ. Giờ đây, sau khi tan sở, bà có đủ lý do để vội vã về nhà. Trong khi đó, vì thương con, Aikô cũng thường xuyên liên lạc với Edith. Edith chợt hiểu rằng, người mẹ này hẳn cô đơn vì nhớ con, bởi thế nên Edith quyết định bảo lãnh cho Aikô sang Mỹ.

Tháng 8/1957, Aikô nhận được giấy nhập cảnh. Khi máy bay đáp xuống phi trường quốc tế New Yord, tự nhiên Edith cảm thấy lo sợ: bà sợ bà không vượt qua được sự thù ghét đối với người đàn bà ngoại quốc đã cướp mất chồng bà. Vị hành khách cuối cùng ra khỏi máy bay là một người thấp bé, mảnh khảnh đến độ Edith tưởng chỉ là một cô bé. Bà gọi tên Aikô và người đó chạy đến ngả vào cánh tay của bà. Hai người ôm ghì lấy nhau thật lâu. Ý nghĩ phi thường chợt đến với Edith:

“Tôi đã cầu nguyện cho Kelo trở về với tôi, giờ đây chồng tôi đang hiện diện trong hai đứa con gái nhỏ và người đàn bà dịu dàng mà ông đã từng yêu thương. Lạy Chúa, xin giúp con yêu thương người đàn bà này”.

Có lẽ trong thực tế của cuộc sống, chúng ta khó có thể tìm được một câu chuyện nào đẹp như thế. Nhưng đây là một câu chuyện đã xảy ra... ngay trên trái đất này. Tuy ở một nơi thật xa chúng ta nhưng nó cũng cho chúng ta thấy được một phần nào Lời của Chúa đã rơi vào những mảnh đất mầu mỡ có thể sinh hoa kết quả.

Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Yêu thương thật sự là yêu thương cho đến khi nào cảm thấy bị tổn thương”.

Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng, mỗi người con gặp trên đời là một sứ giả Chúa gửi đến. Khi làm như thế chắc là Chúa mang đến cho con bài học về lẽ yêu thương. Xin cho con luôn biết yêu thương đón tiếp, để mọi người được sống trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài. (Epphata).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Sau khi rửa chân cho các tông đồ rồi, Chúa dạy các ngài bài học của sự khiêm hạ, yêu thương, phục vụ. Qua đó, một điều quan trọng nhất là Chúa luôn mời gọi và nhắc nhở chúng ta hãy nhớ và nằm lòng, là dù gì đi chăng nữa, dù là quyền cao chức trọng, dù là thủ lãnh mọi dân tộc trên trần gian này…thì mình cũng là một loài thụ tạo bất toàn, bất xứng, tội lỗi, tôi tớ, nô lệ… và Chúa luôn luôn là ông chủ của mình, không ai có thể thay Chúa để mà lo lắng cho chúng ta trong cuộc sống đời này được. Và vì Chúa là chủ của chúng ta, Chúa có quyền sai chúng ta đi vào trần gian để làm việc này, việc kia theo ý Chúa và nhất là việc làm chứng cho Chúa, sống yêu thương, phục vụ, rao giảng Lời Chúa cho anh chị em của mình: “Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình” (Ga 13, 16). Chúng ta hãy vậng lời Chúa.

Nếu chúng ta nghe Lời Chúa dạy để rồi chúng ta biết mình là thân phận thụ tạo, tội lỗi, và chúng ta sống đúng thân phận địa vị thụ tạo của mình, và chúng ta sống tốt theo ý Chúa chứ không được sống theo ý riêng, bản năng như chính điều mà Chúa đã cảnh báo trước: “Chính kẻ ăn bánh của Ta, sẽ giơ gót lên đạp Ta” (Ga 13, 18b). Nghĩa là chúng ta sống đừng bội phản Chúa, đừng ăn cháo đá bát, mà phải biết ơn Chúa, sống đàng hoàng tử tế hơn, sống cho ra người hơn. Tiếp đến, chúng ta biết Chúa là Chúa của chúng ta, đi theo Chúa, phó thác cuộc sống chúng ta cho Chúa, và chúng ta tiếp đón Chúa qua việc tiếp đón những người được Chúa sai đến với chúng ta: “Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Ðấng đã sai Thầy” (Ga 13, 19 – 20). Chúng ta tiếp đón với một thái độ kính trọng, yêu thương, và sẵn sàng hết lòng cộng tác với những người được Chúa sai đến theo khả năng của mình để xây dựng, để rao giảng Tin Mừng, và mở mang Nước Chúa. Do đó, chúng ta mới là người có phúc: “Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc” (Ga 13, 17). Cái phúc ở đây là chúng ta được Chúa ở với chúng ta, Chúa không bỏ rơi chúng ta, để rồi Chúa yêu thương chúng ta, gìn giữ, bảo vệ, chở che, nâng đỡ, ban ơn, giúp chúng ta sống tốt hơn và Chúa sẽ ban nước trời làm gia nghiệp cho chúng ta sau này.

Lạy Chúa, Đấng yêu thương, Đấng phục sinh của chúng con, chúng con được làm con Chúa trở lại là nhờ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết quý trọng ơn Chúa ban quá cao trọng này để mỗi ngày chúng con sống theo thánh ý Chúa, trung thành với mầu nhiệm tình yêu thương Chúa, và chúng con cao rao công trình kỳ diệu tình yêu này cho mọi người đang sống với chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Đón tiếp người Thầy sai đến


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 4 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã tỏ lòng từ bi nhân hậu, mà cứu chuộc con người và nâng lên địa vị cao sang, hơn tình trạng nguyên thủy, xin Chúa nhớ lại công trình kỳ diệu này, mà giúp chúng ta trung thành luôn mãi với ơn tái sinh Chúa đã ban.

Trung thành luôn mãi với ơn tái sinh Chúa đã ban, để thoát mọi tai ương, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Bảy chén tai ương, các tai ương nhắc lại các tai ương bên Aicập. Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông ta sẽ canh thức. Chúa nói: Đây Ta đến như kẻ trộm, hạnh phúc thay người nào canh thức. Khi người ta nói: Bình an biết bao, yên ổn biết chừng nào, thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống.

Trung thành luôn mãi với ơn tái sinh Chúa đã ban, để đủ sức sống điều răn mới, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Autinh nói về: Điều răn mới… Đây là điều răn chúng ta đã nhận được của Thiên Chúa: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng phải yêu thương anh em mình. Tất cả Luật Môsê và các sách Ngôn Sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.

Trung thành luôn mãi với ơn tái sinh Chúa đã ban, để luôn tin tưởng, trông cậy vào lời Chúa đã hứa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói: Từ dòng dõi Đavít, Thiên Chúa đã đưa đến cho Ítraen một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 88, vịnh gia cho thấy: Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Chúa Giêsu Kitô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết trỗi dậy, Chúa đã yêu mến chúng con, và đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng con. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy. Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta. Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, là Trưởng Tử, là Chứng Nhân trung thành cho tình Chúa yêu thương ta. Đón tiếp Đức Giêsu là đón tiếp Chúa Cha; Đón tiếp những người Đức Giêsu sai đến là đón tiếp chính Người. Đón tiếp Vị Trung Gian Tình Yêu là đón tiếp chính Đấng là Tình Yêu. Thầy ban cho anh em một điều răn mới: Tình yêu mới sẽ đổi mới những ai tuân giữ giới luật mới. Tình yêu mới không phải là bất cứ thứ tình yêu nào, nhưng là, như Thầy đã yêu thương anh em: đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi anh em. Tình yêu mới đổi mới chúng ta, biến chúng ta thành những con người mới, những người kế thừa Giao Ước Mới, những người hát bài ca mới.

Chính tình yêu mới đang đổi mới các dân ngoại, đang quy tụ và kết hợp toàn thể nhân loại sống rải rác khắp bốn phương trời thành một dân mới, nên thân thể của Tân Nương, Hiền Thê của Con Một Thiên Chúa. Chúng ta yêu thương nhau bằng tình yêu mà chính Đức Giêsu đã yêu thương ta, nhằm đưa ta đạt tới cùng đích quê trời, ở đó, ta được sung mãn, được hưởng muôn vàn phúc lộc, và như thế, mọi khát vọng của ta được no thỏa. Thật vậy, sẽ chẳng còn gì để ước vọng nữa, một khi, Thiên Chúa đã là tất cả mọi sự của chúng ta. Đức Giêsu là Đấng ban cho ta tình yêu mới. Người đã yêu thương chúng ta, là để, chúng ta cũng biết yêu thương nhau. Khi yêu thương chúng ta, Đức Giêsu làm cho chúng ta có thể yêu thương lẫn nhau, và được gắn bó với nhau bằng mối dây tương thân tương ái. Nhờ được liên kết bằng mối dây thân ái như vậy, chúng ta cũng trở nên thân thể của Chúa Giêsu, Đấng là Đầu rất cao trọng của chúng ta. Thiên Chúa đã tỏ lòng từ bi nhân hậu, mà cứu chuộc chúng ta và nâng lên địa vị cao sang, hơn tình trạng nguyên thủy, ước gì ta luôn trung thành với ơn tái sinh Chúa đã ban. Ước gì được như thế!

----------------------------

 

Thứ 6 PS –Tuần 4/2025

Ðường về quê trời.
16/05 – Thứ Sáu tuần 4 Phục Sinh.
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".

 

Lời Chúa: Ga 14, 1-6


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi".
Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?"
Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Thầy là đường


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sách Công vụ Tông đồ có một lối nói đặc biệt để chỉ Kitô giáo.
Tôn giáo mới này được gọi Đường của Chúa (Cv 18, 25-26),
hay thường xuyên hơn, được gọi là Đường (Cv 19, 9. 23; 22, 4; 24, 14. 22).
Sách Công vụ cũng có lối nói đặc biệt để chỉ các Kitô hữu.
Họ được gọi là những người thuộc về Đường (Cv 9, 2),
và họ đã chịu bách hại vì theo con đường này, theo Đạo này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
chúng ta nghe Đức Giêsu nói: “Chính Tôi là Đường” (c. 6).
Phải chăng vì thế Kitô giáo được sách Công vụ gọi là Đường của Chúa,
và các Kitô hữu đầu tiên được gọi là những người thuộc về Đường?
Đối với Kitô hữu, theo đạo chính là theo một Con Đường.
Con Đường ấy không phải chỉ là một số lễ nghi hay giáo lý phải giữ,
cũng không phải là những minh triết khôn ngoan phải theo.
Con Đường ấy hiện thân nơi một con người.
Theo đạo chính là theo Con Đường mang tên Giêsu,
là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu,
Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt.
Đức Giêsu không chỉ là người dẫn đường.
Chính Ngài là Đường, là Đạo.
Hơn thế nữa, Ngài là Con Đường duy nhất dẫn ta đến với Chúa Cha.
“Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (c. 6).
Phải qua Con Đường Giêsu chúng ta mới vào được thế giới của Thiên Chúa,
bởi lẽ chỉ Đấng từ trời xuống mới có thể đưa chúng ta lên trời.
Ngày nay người ta nói đến nhiều con đường khác để được cứu độ.
Nhưng con đường nào cũng phải đi qua Con Đường Giêsu.
Nơi Con Đường này chúng ta gặp được Sự Thật trọn vẹn về Thiên Chúa.
Nơi đây chúng ta gặp được Sự Sống viên mãn của chính Thiên Chúa.
Khi các môn đệ xao xuyến vì đến giờ chia tay,
Thầy Giêsu cho biết Ngài đi về với Cha để dọn chỗ cho họ (c. 2).
Chỗ ở vĩnh viễn của họ là nơi Thầy trò được ở với nhau mãi mãi.
“Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3; x. 12, 26; 17, 24).
Thiên đàng là nơi Thầy trò được ở bên nhau, không gì ngăn cách nổi.
Tình Thầy trò đã bắt đầu ở đời này và sẽ kéo dài đến vĩnh cửu.
Là người theo Đạo Giêsu, chúng ta biết mình từ đâu đến và sẽ đi đâu.
Chúng ta không đi loanh quanh cho đời mỏi mệt.
Chúng ta biết hạnh phúc đang chờ mình ở cuối đường.
Nhưng nếu chúng ta không có tình bạn thiết thân với Giêsu ở đời này
thì vào thiên đàng để làm gì?
 
Cầu nguyện:

Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Đường sự sống


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đức Phật bi quan vì thấy con người đắm chìm trong vòng xoáy khắc nghiệt của sinh, lão, bệnh, tử. Nên Phúc, Lộc, Thọ mãi mãi là niềm mơ ước của con người. Mơ ước chỉ là mơ ước. Vì chưa ai tìm ra con đường đến được nơi ước mơ. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su loan báo một lời làm nức lòng con người. Sáng lên niềm hi vọng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Chúa là đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chúa là sự thật. Đi theo Chúa ta không lo bị lầm lạc. Chúa là sự sống. Sống với Chúa ta không bao giờ chết. Và còn hơn nữa ta sẽ được hạnh phúc. Vì đó là thiên đàng. Thiên đàng là nơi Chúa Giê-su ở với Chúa Cha. Đây không còn là ước mơ. Nhưng là hiện thực. Vì chính Chúa chuẩn bị chỗ cho ta ở thiên đàng. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Tuy nhiên đi theo Chúa không phải dễ dàng. Vì có những thế lực ma quỷ luôn tìm cách chặn đường. Bằng gian dối. Bằng chết chóc. Chính Chúa Giê-su đã phải chiến đấu để mở ra con đường sự thật và sự sống.

Thế gian là gian dối. Muốn bịt miệng sự thật. “Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử”. Người Do thái dùng chứng gian tố cáo Người. Phi-la-tô biết Người vô tội. Nhưng vì sợ người Do thái, ông phải kết án Chúa. Để đánh lừa lương tâm, ông rửa tay và nói: “Ta vô can trong việc đổ máu người này” (Mt 27,24). Gian dối cấu kết với gian dối để tiêu diệt sự thật.

Người chết liên minh với người chết để tiêu diệt sự sống. “Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ”. Hơn nữa họ còn đòi Phi-la-tô niêm phong và cho lính canh gác ngôi mộ. Người sống phải canh giữ người chết. Nhưng chính họ mới là người chết. Vì họ không ngăn nổi sự sống. Chúa Giê-su đã phá tung cửa mồ. Sáng láng bước ra. Vì “Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết”.

Chúa Giê-su đã mở ra con đường. Người là con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Đi theo Người ta cũng phải chiến đấu với các thế lực gian dối và sự chết. Nhưng ta hãy tin tưởng. Vì Chúa đã chiến thắng. Chúa là sự thật. Nên đã chiến thắng gian dối. Chúa là sự sống. Đã chiến thắng thần chết.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðường về quê trời


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Khi tìm giải đáp cho một bài đố tìm đường từ một khởi điểm dẫn tới một địa điểm được yêu cầu thì người tham dự thường lúng túng, vì có quá nhiều đường có thể dẫn tới nơi nhưng thực sự lại dẫn đến ngõ cụt. Nhưng nếu tinh ý quan sát một chút, người ta có thể thấy công việc tìm kiếm dễ như trở bàn tay. Ðó là thay vì bắt đầu từ điểm khởi hành với nhiều ngõ rẽ, chúng ta hãy bắt đầu từ nơi đến rồi đi ngược lại. Với phương pháp này ta sẽ dễ dàng tìm ra con đường ngắn nhất dẫn đến nơi phải đến.

Như vậy, điều quan trọng không phải là biết đường không mà thôi, mà còn là và nhất là biết nơi mình đến, cần biết nơi mình đến trước khi bắt đầu đi. Khi hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết đường đi tới", thánh Thomas tông đồ đã lý luận theo cùng một nguyên tắc như nói trên.

Nhưng trường hợp mà thánh Thomas tông đồ đặt ra xem ra như không cần thiết nữa, nếu người tìm đường có được mối liên lạc thân tình với chính Ðấng là Ðường, là sự Thật và sự Sống. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các đồ đệ của Ngài biết nơi phải đến và con đường dẫn đến đó là chính Ngài: "Thầy là Ðường, là sự Thật và là sự Sống". Vậy, điều quan trọng nhất là theo Ngài, sống kết hiệp với Ngài, đừng rời xa Ngài, nhất là khi gặp gian nan thử thách. Chúa đã cảnh tỉnh trước các môn đệ: "Tâm hồn các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".

Ðường về quê trời có nhiều thử thách nhưng người đồ đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Giêsu Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô, đó là: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Ðấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi".

Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Chúa đã nêu chỉ cho chúng con biết đường dẫn về quê trời, đường dẫn chúng con đến nguồn hạnh phúc thật. Nhưng còn có một điều cần, đó là sự cộng tác của chúng con. Chúng con cần tin tưởng vào Chúa, cần để Chúa hướng dẫn cuộc sống mình. Nếu chúng con tự phụ, ỷ lại vào sức riêng mình, thì chúng con sẽ làm hư chương trình của Chúa. Xin Chúa thương ban ơn giúp chúng con thay đổi tâm thức và thay đổi con tim mỗi ngày một trở nên vâng phục và cộng tác tích cực với sự hướng dẫn của Chúa.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Dọn chỗ cho anh em


Khi chúng ta có những dự tính tương lai, khi chúng ta mơ ước về ngày mai, chúng ta rất hay hy vọng tìm được một chỗ tốt nào đó cho mình gửi tấm thân tàn để sống những ngày còn lại. Hay một ngôi mộ yên mả đẹp cho nắm xương tàn.

Ngày nay, người ta đang hy vọng xây những dẫy nhà chung cư tiện nghi để giải quyết những nhà ổ chuột cho hàng ngàn gia đình. Ai cũng mong muốn có một chỗ ở mới, những láng giềng lân cận tốt. Ai cũng khao khát được ở ngôi nhà của riêng mình với những tiện nghi theo kiểu mới, hợp thời trang, giữa khu vườn có phong cảnh lý tưởng.

Nhưng có biết bao gia đình không bao giờ tìm được một nơi ở tương xứng cho gia đình vì quá nghèo và giá cả quá mắc.

Tin mừng hôm nay dắt đưa chúng ta đến xem kế hoạch của Thiên Chúa đang dọn một chỗ ở mênh mông tráng lệ cho con người. Ngài là kiến trúc sư muôn đời, là sở hữu chủ vô biên.

Nhưng kế hoạch đó giống như những thứ nhà chúng ta đang ở, chỉ là những thứ tân trang theo những kiểu mẫu trần tục, thì chán chết. Hỏi có đáng chúng ta hy vọng vào đó nữa không?

Chúng ta trở lại câu hỏi này: Có gì ở bên kia cuộc đời? Khi tuổi già chấm dứt … Khi người ta nói: “Từ trần, đi rồi, tắt hơi thở cuối cùng …”, tôi sẽ đi về đâu? ở chỗ nào? chỗ chúng ta ở được Đức Giêsu dọn sẵn theo kế hoạch của Thiên Chúa là chỗ ở hiệp thông: sâu thẳm nhất, thông suốt nhất, liên đới nhất. Nơi mà láng giềng lân cận là những bạn chí ái nhất và sở hữu chủ là một người Cha. Chỗ chúng ta được mời đến ở là nhà mình, nhà Cha mình, và trung tâm nơi ở này là Đức Giêsu. Chính Người đã đưa chúng ta về ở với Người gần Thiên Chúa.

Mơ ước của chúng ta đượm mầu sắc rực rỡ về những ngôi nhà. Những vấn đề tương lai được mệnh danh là chỗ ở, “nơi cư trú”. Nhưng Đức Giêsu chỉ cho chúng ta con đường đến một nơi ở khác, nơi người ta hát vang ca khúc khải hoàn “nơi đầy ánh sáng, chan chứa tình thương tha thứ, an vui và tự do hạnh phúc”.

C.G

------------------------------

 

Suy Niệm 5: Chúa sẽ đến lại


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Cuộc trở lại nào cũng được khởi đầu bằng sự ra đi: có ra đi mới có trở lại. Thế nhưng cũng có những cuộc ra đi không bao giờ trở lại: đi để quên đi một quá khứ đau buồn, đi để thoát ly mọi ràng buộc, chân bước đi mà lòng rộn rã niềm vui. Những cuộc ra đi như thế chẳng bao giờ có hứa hẹn, có chăng chỉ là giả dối. Người ta chỉ hứa hẹn khi chân bước đi mà lòng chẳng muốn rời, lời hứa hẹn xoa dịu nỗi chia ly và hy vọng một ngày tái ngộ.

Chúa Giêsu sắp từ giã các môn đệ để trờ về cùng Cha, và điều đó khiến các ông u buồn xao xuyến. Không u buồn sao được khi đã ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi đã mất đi điểm tựa. Chúng Giêsu biết rõ điều đó và các môn đệ cũng thấm thía nỗi buồn khi Ngài tuyên bố ra đi. Chính vì thế để trấn an họ, Ngài giải thích việc Ngài ra đi và hứa trở lại. Ngài ra đi không phải vì Ngài, mà vì các ông: Ngài đi dọn chỗ cho các ông và Ngài sẽ trở lại đem các ông đi theo Ngài. Còn gì vui sướng bằng. Người đi nhận chịu gian lao vất vả chỉ vì người ở lại, do đó người ở lại không còn mặc cảm bị bỏ rơi nhưng hãnh diện vì được người đi đặc biệt lưu tâm.

Thái độ của người ở lại không phải là u sầu than khóc, mà là góp sức với người đi bằng cách chuẩn bị sẵn sàng cho giờ hội ngộ. Còn gì bẽ bàng cho bằng khi trở lại người đi chỉ gặp được sự dửng dưng thờ ơ của người ở lại. Còn gì buồn lòng Thiên Chúa hơn khi Ngài đến gõ cửa mà tâm hồn đã đóng kín và đèn dầu đã cạn.

Khi lãnh nhận đức tin, người Kitô hữu cũng được Đức Kitô hứa hẹn. Ngài hứa sẽ trở lại với riêng từng người và với chung cho cả thế giới. Ngài sẽ trở lại đem họ đến nơi Ngài dọn sẵn, để họ hưởng trọn niềm vui mà hiện nay họ chỉ mới cảm nghiệm lờ mờ như dọi qua gương. Ngài không báo trước giờ Ngài trở lại, nhưng muốn họ luôn sẵn sàng như tân nương chờ đón tân lang.

Xin cho chúng ta biết chọn lời hứa trở lại của Chúa làm ngọn đuốc chiếu soi cuộc sống, để chúng ta thoát được mạng lưới của u buồn, và luôn sống trong lạc quan hy vọng vì biết rằng Chúa hằng quan tâm săn sóc chúng ta.

------------------------------

 

Suy Niệm 6: “Đừng xao xuyến”


Đứng trước cái chết của người thân, ai trong chúng ta lại không khỏi xao xuyến và lòng lại không quặn đau đến tột cùng vì sắp phải chứng kiến sự chia lìa vĩnh viễn!

Tin Mừng hôm nay trong một văn mạch hết sức ấn tượng, đó là sự đau buồn của các môn đệ trước sự ra đi của Đức Giêsu. Thật vậy, ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi sẽ mất đi điểm tựa! Tuy nhiên, thấu hiểu được tâm trạng của các ông, nên tình thầy trò thân tín, Đức Giêsu đã tâm huyết chia sẻ với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Thầy đi dọn chỗ cho anh em... để Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”. Lời tâm huyết này được diễn ra trong bữa Tiệc Ly, một bữa ăn cuối cùng của tình thầy trò. Khi nói những lời ấy, Đức Giêsu trao cho các ông chìa khóa để thêm vững tin, đó là: để khỏi bị xao xuyến, thì: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tin vào Thiên Chúa, vì Người hằng thương yêu chúng ta. Tin vào Đức Giêsu vì Ngài đi để chuẩn bị cho chúng ta như Ngài đã phán: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em [...] và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Chúa trước mọi thử thách trông gai. Không được ủ rũ khóc than. Nhưng là chuẩn bị cho ngày hội ngộ với Đức Giêsu bằng việc sống những điều Ngài dạy. Hãy khước từ mọi sự bất chính, thêm niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu và trung thành đi trên chính con đường của Ngài để được sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng con phải vững tin vào Chúa. Sống những gì Chúa dạy để được sự sống đời đời. Xin Chúa ban cho chúng con được sống xứng đáng với ơn gọi cao quý, đó là được làm con Chúa. Xin cho chúng con được sống bên Chúa khi đã hoàn thành sứ vụ trên trần gian, nơi mà chính Chúa ra đi trước để dọn chỗ cho chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

------------------------------

 

Suy Niệm 7: Đức Kitô-con đường duy nhất


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Con đường duy nhất dẫn đến cuộc gặp gỡ với Chúa Cha là đi theo Đức Kitô, bởi chính Ngài đã nói: “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi biết Chúa sắp về cùng Chúa Cha, các môn đệ buồn sầu xao xuyến. Các ông xao xuyến vì không biết Chúa đi đâu và con đường nào sẽ dẫn các ông đến gặp gỡ Chúa Cha trên trời. Nhưng lạy Chúa, Chúa đã mở cho các môn đệ một lối đi: “Chính Thầy là Đường là Sự Thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.

Lạy Chúa, đã rất nhiều lần con đã đi trên những con đường khác: những con đường rộng thênh thang của tiền tài, danh vọng và đam mê thế tục. Những con đường này thật quyến rũ và hứa hẹn cho con nhiều sung sướng thoải mái. Nhưng cuối cùng chúng đã dẫn con đến vực thẳm của sự trống rỗng, cô đơn, của tội lỗi, khổ đau và sự chết. Trong cuộc sống có biết bao nẻo đường đang vẫy gọi, có biết bao lối mòn con đã đi, nhưng con tin rằng chỉ có một con đường duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Đó là con đường Chúa đã đi.

Xin cho con luôn xác tín rằng con không thể đến với Chúa Cha nếu không đi vào con đường của Chúa, nhất là con đường thập giá. Nếu con không đến với Chúa, với Mình và Máu Thánh Chúa, nếu con không biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, thì con sẽ không bao giờ đến được với Chúa Cha là nguồn hạnh phúc đích thực. Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết chọn Chúa là gia nghiệp và lẽ sống của đời con. Amen.

Ghi nhớ: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.

------------------------------

 

Suy Niệm 8: Đức Giêsu là con đường


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Trong  bữa tiệc ly, Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ những lời rất thân tình, tha thiết: Ngài sẽ ra đi về cùng Cha rồi Ngài sẽ trở lại đón các ông để Ngài ở đâu, môn đệ cũng ở đó với Ngài. Ngài cho các ông biết sứ mạng của Ngài là đến trần gian để dẫn đưa nhân loại về cùng Chúa Cha, đến sự sống đời đời. Chính Ngài là con đường duy nhất. Ai muốn đến cùng Cha, muốn có sự sống đích thực thì phải qua con đường đó. Nếu từ chối Ngài, không bao giờ chúng ta có thể đạt tới hạnh phúc viên mãn.

2. Trong khung cảnh bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã dùng những lời lẽ rất thân tình, tha thiết để tâm sự với các môn đệ. Ngài báo cho họ biết là Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi rất lạ mà họ chưa bao giờ được biết. Nhưng rồi Ngài lại hứa sẽ trở lại đón họ đề cùng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi”? Đức Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,5-6).

Khi nói như thế, ít nhiều Chúa đã muốn cho mọi người biết: mục tiêu hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha. Đức Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa chính Ngài là con đường dẫn ta đến đích điểm đó.

3. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết: “Chính Ngài là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tỏ bầy mầu nhiệm về Thiên Chúa, chỉ đường cho con người đến gặp Chúa Cha và dạy họ sống thế nào cho hợp ý Thiên Chúa. Ngài mạc khải chính Ngài, Đấng thực thi sứ mạng của Thiên Chúa bằng lời nói và hành động quyền năng nơi thế gian để cứu chuộc nhân loại. Ngài là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha như chính Ngài đã nói: “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Ngài là con đường dẫn đến sự thật; sự thật giải thoát con người và là sự sống sung mãn cho con người vì chính Ngài là sự sống (Ga 11,25). Như thế, chỉ Đức Giêsu mới là con đường, là sự thật, là sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài (Ga 10,28).

4. Mọi người muốn vươn tới hạnh phúc, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu. Hạnh phúc này chỉ có trên nước Thiên Chúa. Vậy đâu là con đường đưa tới hạnh phúc đó? Chúng ta biết Đức Giêsu vừa là Chúa vừa là người. Ngài là trung gian hoàn hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta. Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Ngài mới là con đường đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Ngài vì chính Ngài đã khẳng định với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

5. Mục đích tối thượng của chúng ta là đi về nhà Cha, đi vào quê trời là quê hương của chúng ta.

Đường về quê trời có nhiều thử thách, nhưng người môn đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Đấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi”.

6. Khi nghe Đức Giêsu nói “Thầy là đường”, chúng ta cũng nhớ lại một chân lý bất biến là “qua thập giá tới vinh quang”. Đó là con đường duy nhất mà Đức Giêsu đã đi, để tiêu diệt sự chết và đi vào cõi sống đời đời. Theo  đạo chính là Con Đường mang tên Giêsu, là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu, Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt. Vì thế, muốn đạt đến Nước Trời, Kitô hữu cũng phải bước theo con đường đó. Về vần đê này, chúng ta hãy nghe John Newton chia sẻ:

“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó  khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.

7. Truyện: Triết gia Diogène bán sự khôn ngoan.

Một ngày nọ, triết gia Diogène của Hy Lạp đã đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều có ghi đậm hàng chữ như sau: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.

Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều đọc được lời rao bảo, mới cười thầm trong bụng... Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.

Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ... Anh đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào tủi, triết gia Diogène nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh câu này: Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”.

Vị khoa cử thành Athènes vô củng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và tất cả nhưng ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.

------------------------------

 

Suy Niệm 9: Chúa Giêsu là người dẫn đường và là con đường


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Cũng trong khung cảnh bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đang nói cho các tông đồ những lời rất thân tình, tha thiết. Ngài báo cho họ biết Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi mà họ rất lạ. Nhưng Ngài hứa sẽ trở lại đón họ để cùng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi ?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nghĩa là: mục tiêu hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa Ngài chính là con đường đẫn ta đến đích điểm đó.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. “Sinh ký, tử quy” sống là gởi, chết là về. Đời này không phải là quê hương mà chỉ là nơi chúng ta gởi thân trong một khoảng thời gian nào đó. Khi chết, chúng ta sẽ về quê hương thật. Đó là chân lý. Nhưng nhiều người quên hẳn chân lý đó. Họ sống ở trần gian như là đang ở quê hương vĩnh viễn, không hề nghĩ tới lúc phải rời bỏ cái “Ký túc xá” này, không hề nghĩ tới nơi mình sẽ về.

2. Một người nói chuyện với bạn là một Kitô hữu đã già: “Tôi sợ rằng anh gần đất xa trời rồi”. Người kia nhẹ nhàng đáp: “Tôi biết chứ, nhưng nhân danh Chúa tôi không sợ, mà tôi còn đặt hy vọng vào đó”. (Góp nhặt).

3. Sống là hành trình, mà hành trình là phải hướng tới một điểm tới. Trong cuộc hành trình đến một nơi tôi chưa từng biết, nếu tôi tự hướng dẫn thì dễ lạc đường, tôi đi theo sự hướng dẫn của người khác thì có thể khá hơn. Nhưng không gì bảo đảm bằng hành trình theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống” (Gioan 3,13).

4. Lạy Chúa, nhiều khi con lo lắng về tương lai, không biết đời con sẽ về đâu. Chúa bảo, “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Tương lai hãy để Chúa dẫn dắt. Chúa dẫn con dần đến cái chết ? Không! Đúng hơn là Chúa dẫn con ngày càng gần đến với Chúa Cha. Chúa dạy con hằng ngày sống như con của Cha và như anh em của mọi người. Đó là con đường mà nếu con đi thì chắc chắn con sẽ đến nhà Cha trên trời.

------------------------------

 

Suy Niệm 10: Con đường Giêsu


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu tự ví mình như một con đuờng: Thầy là đường (Ga 14,6).

1. Trong khung cảnh bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã dùng những lời rất thân tình, tha thiết để tâm sự với các môn đệ. Ngài bảo cho họ biết là Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi rất lạ mà họ chưa bao giờ được biết. Nhưng rồi Ngài lại hứa sẽ trở lại đón họ để cùng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi ?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,5-6).

Khi nói như thế, ít nhiều Chúa đã muốn cho mọi người biết: mục tiêu hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa Ngài chính là con đường dẫn ta đến đích điểm đó.

2. Vâng! Đời là một cuộc hành trình, mà hành trình phải có một điểm tới. Trong cuộc hành trình đến một nơi tôi chưa từng biết, nếu tôi tự hướng dẫn thì rất dễ lạc đường. Nếu tôi đi theo sự hướng dẫn của người khác thì có thể khá hơn; nhưng không gì bảo đảm bằng hành trình theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu: Bởi vì Ngài là Đấng từ trời xuống “Không ai lên trời được ngoại trừ Con Người Đấng đã từ trời xuống” (Ga 1,13).

Một Kitô hữu già cả sắp chết. Một người đến nói:

- Con đọc cho cụ nghe một câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé!

- Vâng.

- Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ… Ta đi dọn chỗ cho các con. (Ga 14,2)

- Không, đó không phải là câu ngọt ngào nhất, đọc tiếp đi.

- Ta sẽ trở lại để Ta ở đâu thì con sẽ ở đó với Ta (Ga 12,26).

- Đó mới là câu ngọt ngào nhất. Điều tôi cần không phải là một chỗ, mà là chính Chúa. (Góp nhặt).

Jules César, một tướng lĩnh lừng danh của Rôma thời xưa...khi vượt biển sang Phi Châu, lúc đặt chân lên đất đã bị trượt chân và bị té ngã. Cảm giác đầu tiên là ông sợ hãi nên đâm ra lo lắng... sợ rằng, đây là một điềm xấu gì chăng. Thế nhưng, sau đó, César đã bình tĩnh lại ngay, ông giơ tay lên và kêu to như để thức tỉnh chính mình.

- Hỡi Phi Châu! Ta ôm lấy mi!

Và cuối cùng, vì cái té ngã bất ngờ đó mà ông đã chiến thắng và được hiển vinh.

Chúa Giêsu đã quả quyết “Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm được” (Mt 11,12)

3. Để đạt được vinh quang trần thế mà ta còn phải trả giá thì huống chi để được gặp Thiên Chúa và chiêm ngắm tôn nhan vinh hiển Người, thì con người còn cần một ý chí sắt đá cao hơn là dường nào. Con đường về thiên quốc là con đường không dưới vạn dặm và còn là con đường hẹp nữa.

Khi mời gọi chúng ta bước vào con đường đó, Chúa còn đòi hỏi ta phải bỏ mình, vác lấy Thập Giá mà đi theo Ngài.

Theo Ngài như thế, chúng ta được bảo đảm Ngài tới đâu chúng ta sẽ tới đó. Trong vinh quang của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được chiêm ngưỡng dung nhan rạng ngời của Thiên Chúa, tràn đầy hoan lạc và hạnh phúc vô biên.

Năm l796, chiến tranh giữa Pháp và Liên Minh Ý-Áo, Đại tướng Bonaparte của Pháp đã đưa quân đội đến một địa điểm, có cây cầu bắc qua trận tuyến của địch.

Khi trận chiến đã đến hồi quyết định, Bonaparte hô quân tiến qua cầu, nhưng không một ai qua! Bonaparte xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn, chân bước qua cầu, miệng hô to:

- Ai yêu tổ quốc thì theo ta.

Lịch sử kể lại rằng, lúc đó trên cầu người ta thấy chỉ có một mình ông với lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của địch quân. Rất may sau đó có cậu bé 13 tuổi đánh trống thúc quân, hai tay đập mạnh vào trống, chân bước qua cầu theo đại tướng, quân sĩ thấy vậy liền tràn theo qua cầu. Bonaparte toàn thắng và chấm dứt chiến tranh.

8 năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon, trở lại chỗ cũ, có lễ nghi nghinh tiếp rất long trọng. Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện ở trong quân đoàn tại đó. Hỏi đến Vidal thì cậu đã xin nghỉ phép để về đưa đám tang mẹ. Napoléon bãi bỏ tất cả nghi lễ quân đội, đi thẳng đến làng của Vidal, theo sau đám tang đến tận huyệt, đọc bài điếu văn rồi đi bộ cùng Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:

- Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên con đường đau khổ, con cho ta theo con, cho có bạn!

Ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu rỗi.

Lạy Chúa, nhiều khi con lo lắng về tương lai, không biết đời con sẽ về đâu. Chúa bảo “lòng con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Tương lai hãy để Chúa dẫn dắt. Chúa dạy con hằng ngày hãy sống như con cái Thiên Chúa và anh em của mọi người. Đó là con đường mà nếu con đi thì chắc chắn con đường đó sẽ dẫn con đến nhà Cha trên trời. Amen.

-----------------------------------

 

Suy Niệm 11: Chúa là đường, là sự thật và là sự sống


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Trong cuộc sống dương gian, khi chúng ta đối diện với những gian nan, thử thách: Nghèo, đói, khát, nợ nần, bệnh tật, thất bại…chúng ta không khỏi băn khoăn, lo lắng, âu sầu… Vì chúng ta biết rằng bản thân mình bất lực, không thể giải quyết được gì những vấn đề này để rồi cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào sau này đây. Chúng ta có bị vùi dập, hay là đứng lên để vượt qua những khó khăn mà chúng ta đang mắc phải, chúng ta hoàn toàn không biết. Do vậy mà có những người khi gặp tai ươn, thử thách thì sống buông xuôi, mặc cho số phận đẩy đưa, vì họ quá mệt mỏi, quá chán chường, quá bi quan.

Hôm nay, Chúa nói: “Lòng các con đừng xao xuyến” (Ga 14, 1) là bởi vì Chúa biết các tông đồ chưa hiểu lời Chúa nói về sự ra đi, sự chia tay giữa Chúa và các ngài để Chúa đi vào cuộc khổ nạn, để Chúa đi về với Chúa Cha: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi” (Ga 14, 1 – 4). Qua lời Chúa nói đó, các tông đồ suy nghĩ Chúa nói như vậy nghĩa là gì? Nếu Chúa mà đi xa, không còn sống với các ngài nữa thì cuộc đời các ngài sẽ như thế nào đây? Ai là người sẽ nâng đỡ các ngài, nhất là những lúc gặp sóng gió hiểm nguy của cuộc sống (Ga 6, 1 – 12)? Tương lai các ngài sẽ đi về đâu bây giờ? Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở mà ở là ở chỗ nào, nơi nào? Chúa ở đâu, các ngài cũng được ở đấy với Chúa là như thế nào? Dường như Chúa nói về tương lai, đang khi đó những sự việc hiện tại, những sự việc đang xảy ra trước mắt mà Chúa dạy các ngài, các ngài còn chưa hiểu thì những chuyện tương lai, mà tương lai thì quá mịt mù thì làm sao các ngài hiểu được. Vì thế, thánh Tôma mới hỏi lại Chúa: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” (Ga 14, 5) là như vậy.

Trước câu hỏi của thánh Tôma, Chúa đã trả lời cho ngài và cả chúng ta hôm nay: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).

-Chúa là đường: “Vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà có, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến” (Ga, 8, 12). Vì thế, Chúa sẽ là người dẫn chúng ta đến với Chúa Cha một cách chắc chắn nhất.

-Chúa là sự thật: “Sự thật sẽ giải thoát các con” (Ga 8, 32). Tin vào Chúa, theo Chúa vì Chúa là nguồn chân lý vĩnh cửu, trường tồn, bất biến, chúng ta sẽ được tự do của một người con cái Chúa, không còn sống nô lệ cho tội lỗi nữa (Ga 8, 35 – 36).

-Chúa là sự sống: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và ai sống mà tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ” (Ga 11, 25 – 26). Như vậy, tin vào Chúa và làm theo Chúa dạy thì chúng ta sẽ được Chúa cho sống đời đời.

Do đó, khi Chúa nói với thánh Tôma như thế, các tông đồ sẽ bớt băn khoăn hơn, tin vào Chúa hơn, để rồi phần nào Chúa an tâm về niềm tin của các ngài vào Chúa, nhất là để các ngài sẽ cố gắng hơn nữa trên con đường theo Chúa.

Lạy Chúa là Thiên Chúa từ bi, nhân hậu của chúng con, chúng con rất vui mừng hoan hỷ khi Chúa dạy bảo mà chúng con nghe được, hiểu được ý Chúa và chúng con đem ra thực hiện trong cuộc sống để Chúa thương và cho chúng con được sống tốt hơn. Xin Chúa gìn giữ bảo vệ chúng con trong tình yêu của Chúa. Amen.

-----------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa là lẽ sống và là niềm vui


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 4 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã thương cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Con Một Chúa, và làm cho chúng ta được tự do hoàn toàn: xin Chúa nhậm lời chúng ta cầu khẩn, mà cho chúng ta biết nhận Chúa làm lẽ sống và tìm được trong Chúa niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn.

Chúa là lẽ sống và là niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn, Người sẽ cho ta chiến thắng cùng với chiến thắng của Con Chiên, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Con Điếm khét tiếng hay là Babylon vĩ đại, nhân vật này tượng trưng cho dân tộc, hay đô thị thờ ngẫu tượng, có thể là kinh thành Rôma của hoàng đế đang nắm giữ một quyền bính mỏng manh. Vua chúa trên đời sẽ giao chiến với Con Chiên, và Con Chiên sẽ thắng, vì Người là Chúa các chúa, là Vua các vua. Người được tặng một triều thiên, và ra đi như người chiến thắng, để chiến thắng.

Chúa là lẽ sống và là niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn, Đức Kitô là trung gian, là đường dẫn ta đến với Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Cơlêmentê I nói về: Nhiều lối đi, nhưng, chỉ có một đường… Chính Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh, Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại. Anh em đã được cùng sống lại với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và anh em được sung mãn trong Người, được mai táng cùng với Người khi chịu phép rửa.

Chúa là lẽ sống và là niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn, Người luôn trung thành thực hiện lời đã hứa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói: Điều Thiên Chúa hứa, thì Người đã thực hiện khi làm cho Đức Giêsu sống lại. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 2, vịnh gia kêu gọi: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con. Chính Ta đã đặt vị quân vương Ta tuyển chọn, lên trị vì Xion, núi thánh của Ta. Con cứ xin, rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa. Con sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành, nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúa chính là lẽ sống và là niềm vui của tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy ngẫm xem chúng ta được dựng nên bằng gì. Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên ta, và cứu độ ta. Con đường đưa chúng ta đến ơn cứu độ chính là Đức Giêsu Kitô. Người là Thượng Tế hiến dâng của lễ thay cho ta, Người là con đường, là sự thật và là sự sống. Nhờ Người, ta ngước mắt nhìn trời cao; nhờ Người, ta được chiêm ngắm, như trong một tấm gương, Thánh Nhan tinh tuyền và cao cả; nhờ Người, con mắt tâm hồn ta được mở ra; nhờ Người, tâm trí ngu muội và u tối của ta được chiếu sáng; nhờ Người, Thiên Chúa đã muốn cho ta được hiểu biết một phần nào những mầu nhiệm vĩnh cửu. Như một thân thể, đầu mà không có chân thì chẳng là gì cả, chân không có đầu cũng vậy. Các bộ phận nhỏ nhất trong thân thể chúng ta cũng đều cần thiết và có ích cho toàn thân; hơn nữa, tất cả đều hòa hợp và cùng hướng về một mục tiêu là làm cho toàn thân được mạnh khỏe. Vậy, chúng ta hãy bảo toàn sức sống của thân thể Đức Kitô, mà chúng ta là thành phần: mỗi người hãy phục tùng người khác, tùy theo đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho họ. Chúa đã thương cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Con Một Chúa, và làm cho chúng ta được tự do hoàn toàn, ước gì chúng ta biết nhận Chúa làm lẽ sống và tìm được trong Chúa niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn. Ước gì được như thế!

------------------------------

 

Thứ 7 PS –Tuần 4/2025

Cầu nguyện nhân danh Chúa Cha.
17/05 – Thứ Bảy tuần 4 Phục Sinh.
"Ai thấy Thầy là xem thấy Cha".

 

Lời Chúa: Ga 14, 7-14


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm.
Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Làm những việc lớn hơn nữa


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Sau khi ông Tôma hỏi Thầy Giêsu về đường (Ga 14, 5),
thì ông Philípphê lại xin Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).
Không rõ Philípphê muốn thấy Thiên Chúa theo kiểu nào,
bởi lẽ theo niềm tin chung của người Do thái
không ai thấy Thiên Chúa chí thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).
Dù sao khát vọng được thấy Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.
Thiên Chúa đã thỏa mãn ước mơ mà Ngài đã đặt vào lòng con người.
Nơi Đức Giêsu, là Ngôi Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa,
chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa bằng mắt phàm.
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (c. 9).
Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
chúng ta chẳng những không phải chết, nhưng được sống.
Theo quan niệm của người Do thái,
sứ giả là đại diện trọn vẹn cho người sai mình.
Đức Giêsu đã là sứ giả cho Cha một cách tuyệt vời.
Ngài là một với Thiên Chúa, Đấng sai Ngài:
“Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).
Các lời Ngài nói, Ngài không tự mình nói.
Các việc Ngài làm, Ngài không tự mình làm.
“Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình” (c. 10).
Nhìn những việc Đức Giêsu làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.
Cha làm việc của Cha qua Con của mình là Đức Giêsu.
“Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm được những việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (c. 12).
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha và được vào trong vinh quang.
Khi tin vào Ngài, khi gắn bó với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,
chúng ta có thể làm được những điều như Ngài đã làm:
trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).
Và như Đức Giêsu, điều vĩ đại mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay
là yêu thương, yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Hãy mạnh dạn nhân danh Đức Giêsu mà xin,
vì biết thế nào Ngài cũng làm cho người gắn bó với Ngài.
Tất cả để Cha được tôn vinh nơi Con (c. 14).
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
 
-------------------------------

 

Suy Niệm 2: Tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Phi-lip-phê tâm thành muốn biết Đức Chúa Cha. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su đầy bức xúc, buồn phiền lẫn với trách móc: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh chưa biết Thầy ư”? Hỏi về Cha mà lại trả lời về Con. Vì “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Vì thế “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Hỏi về Cha như thế là chưa hiểu Con. Chưa hiểu vì chưa đi vào tình yêu. Tình yêu không thể định nghĩa. Chỉ có thể cảm nghiệm. Ai chưa yêu thì chưa hiểu được tình yêu.

Thiên Chúa là tình yêu. Ba Ngôi trong một Chúa. Một tình yêu hoàn hảo. Nên Ba Ngôi kết hợp mật thiết. Vì “Ta và Cha Ta là một”. Chúa Giêsu hoàn toàn kết hợp với Chúa Cha. Đến độ “Các lời Thầy nói với an hem, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình”. Cuộc kết hợp chặt chẽ đến nỗi Chúa Giêsu “sống nhờ Chúa Cha”. Và vì lương thực của Chúa Giêsu chính là làm theo ý Chúa Cha. Như vậy trọn tấm thân, cuộc sống, mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của Chúa Giêsu đều là của Chúa Cha. Tình yêu trong Chúa Thánh Thần khiến Ba Ngôi trở thành nguồn mạch tình yêu, nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc.

Hôm nay Chúa Giê-su cũng hỏi tôi như hỏi Phi-lip-phê: “Thầy ở với con bấy lâu mà con không biết Thầy sao”. Vì biết Chúa Giêsu thì phải đi vào tình yêu. Phải sống nhờ Chúa Giêsu. Và như Chúa Giêsu sống nhờ Chúa Cha, tôi phải để Chúa Giêsu suy nghĩ, nói năng và hành động trong tôi.

Thánh Phao-lô là người đạt đến trình độ đó. Nên ngài có thể nói: “Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá cùng với Chúa Kitô. Nên nếu tôi sống, không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.

Các tông đồ sau ngày Chúa Phục Sinh cũng đã đi vào tình yêu Chúa Kitô. Các ngài không còn sống theo xác thịt nữa, nhưng sống theo Chúa Thánh Thần. Các ngài sống trong tình yêu. Các ngài thực sự biét Chúa Kitô, biết Chúa Cha và luôn sống theo Chúa Thánh Thần. nên các ngài luôn bình an. Dù gặp gian nan khốn khó, bắt bớ. Nhưng các ngài luôn tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Cầu nguyện nhân danh Chúa.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thường tình chúng ta không tiếc lời ca ngợi kẻ xa lạ vì đã làm được những việc đáng kể, nói ra nhiều câu chí lý, có một hành động đáng phục. Trong khi đó chúng ta lại rất hà tiện lời khen đối với người sống gần bên cạnh, trong chính tập thể chúng ta, dù người đó không những đã làm, đã nói, đã sống, mà còn hơn cả những người được ca ngợi, nhưng lại sống xa chúng ta. Ðây có thể phần nào là hoàn cảnh sống của các môn đệ, nhất là của Philipphê. Họ đã sống gần Chúa Giêsu, Thầy của mình, bao nhiêu năm qua, nhưng dường như họ vẫn chưa hiểu Chúa và mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha. Chính vì thế, mà trong câu nói của Chúa Giêsu cho các môn đệ có mang chút ít sự chua xót và trách móc: "Thầy đã ở với các con lâu rồi mà các con không biết Thầy sao? Hỡi Philipphê, ai xem thấy Thầy thì cũng xem thấy Cha. Hãy tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Ít nhất, các con hãy tin điều đó vì thấy các việc Thầy đã làm".

Thật thế, không thiếu những dấu chỉ cho chúng ta biết mối quan hệ thâm sâu và đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Ðặc biệt trong đoạn Phúc Âm vừa đọc trên, chúng ta có thể ghi nhận một dấu chỉ đặc biệt, đó là Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban xuống, sẽ ban cho các môn đệ làm những việc cả thể hơn nữa. Họ sẽ hành động nhân danh Chúa, sẽ khai sinh một cộng đoàn mới, một Giáo Hội của Chúa. Nhưng chắc chắn các môn đệ sẽ gặp khó khăn và phương thế để vượt qua những khó khăn là cầu nguyện, cầu nguyện nhân danh Chúa. Hai lần trong cùng một đoạn văn vừa đọc, Chúa Giêsu đã yêu cầu các môn đệ của Ngài hãy cầu nguyện, cầu nguyện hết lòng tin tưởng, cầu nguyện nhân danh Chúa. Chúng ta có xác tín về những gì Chúa Giêsu giãi bày cho chúng ta hay không?

Lạy Chúa, trong ánh sáng phục sinh của Chúa, chúng con được mạc khải cho biết thực thể đúng thực của Chúa, là Ðấng sống hiệp nhất với Thiên Chúa Cha, nhưng đồng thời không bỏ quên chúng con. Chúa muốn chúng con hướng về Chúa. Xin đừng để chúng con đi tìm một vì Thiên Chúa khác, mà quên chính Chúa, là Ðấng luôn luôn hiện giữa chúng con mọi nơi mọi lúc.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Cảm nghiệm lời chứng


Phi-líp dám liều như Mô-sê và Ê-li-a đã xin thấy mặt Thiên Chúa. Các ông đã nhận được tiếng Chúa nói từ trong bụi gai bốc lửa và trong tiếng gió nhè nhẹ, đó là sự cảm nghiệm huyền nhiệm. Nhưng họ chỉ được đáp lời thật sự lúc Thiên Chúa hiện hình trong Đức Giêsu. Đó là lúc biến hình mà Chúa Cha đã cho thấy Con Ngài vinh quang sáng láng và bao phủ bằng tình yêu dấu của Chúa Cha trước mặt các tông đồ làm cho các ông ngất đi trong ánh sáng.

Ánh sáng này được Đức Giêsu tỏ ra cho những người đồng bàn trong bữa tiệc ly, khi nói về Chúa Cha vô hình, đó là ánh sáng của tình yêu hy sinh tận tình. Chính Đức Giêsu đã đón nhận tình yêu Chúa Cha trong Người, và tình yêu này sẽ đốt cháy Người đến lúc chết.

Thực sự, điều chúng ta thiếu, đó là thiếu nhận biết về Đức Giêsu bằng cảm nghiệm thân mật. Nhờ vốn kiến thức, nhờ nghiên cứu những bản văn thánh, chúng ta chỉ mới nhận được một Đức Giêsu bên ngoài chúng ta, bằng định nghĩa và bản tóm. Đó chỉ là bước đầu: cần thiết nội tâm hóa tất cả những hiểu biết đó trở nên cảm nghiệm sống động làm nguồn suối đặt nền móng cho chính mình, cam kết gắn bó riêng tư với Ngài. Nhưng nhiều lần sự cam kết gắn bó ấy vọt chảy ra một tình cảm luyến ái từ tâm can, một ước muốn cảm mến xúc động như được đụng chạm một niềm vui sướng chóng qua.

Cần thiết phải đào sâu và đi xa hơn nữa, đến tận căn tính trong bản vị tinh thần của chúng ta, mới thực sự là sự hiệp nhất dưới tác động của Thánh Thần. Chỉ có sức mạnh Thánh Thần mới làm cho chúng ta sống sâu sắc mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. “Tái sinh bởi Thánh Thần” như Đức Giêsu đã nói với ông Ni-cô-đê-mô, là làm cho con người chúng ta từ tâm trí, tình yêu và linh hồn được hiệp thông với Chúa Cha trong Đức Kitô.

Đức Giêsu đã làm chứng cho ta thấy Chúa Cha và Người đã trở nên chứng nhân cho tình yêu của Ngài và cho mọi người bằng việc Ngài làm. Vậy chúng ta làm chứng cho tình yêu nào? Tình yêu đó có được làm chứng bằng việc làm của chúng ta không? Bằng chứng có thể hiện được tài năng nhân tính và sức sống tinh thần của chúng ta không? Những chứng nhân của lòng yêu thương đôi khi trở thành tử đạo như Đức Kitô.

L.P

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Một vị vua nọ có lần nẩy ra ý nghĩ táo bạo: ông cho triệu mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu. Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa: làm thế nào có thể thỏa mãn được một ước muốn càn gở như thế. Biết được nỗi lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn. Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thừa: “Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được”. Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng niềm tin.

Trong Tin Mừng hôm nay, Philip, một trong mười hai đã xin Chúa Giêsu tỏ cho thấy Thiên Chúa Cha. Chắc hẳn khi nói điều đó Philip đã liên tưởng đến hình ảnh một Thiên Chúa quyền năng đã tỏ vinh quang Ngài trên núi Sinai, một Thiên Chúa mà Môsê chỉ được thấy phía sau lưng Ngài. Tâm trạng của Philip cũng là tâm trạng của rất nhiều người trong chúng ta, đó là một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế, không ít người sẵn sàng hao tổn tiền bạc và thời giờ để tìm đến những nơi xẩy ra sự lạ, đối với họ, một lần hành hương có ý nghĩa và giá trị cho cả cuộc đời.

Đáp lại yêu cầu của Philip, Chúa Giêsu đã đưa ra một khẳng định và một câu hỏi: trước hết Ngài nêu lên một chân lý: “Ai thấy Thày là thấy Cha Thày”, đó là một thực tại đã phá hiển nhiên; câu hỏi tiếp sau đó như một nhắc nhở cho Philip: hãy nhìn lại cuộc sống thân tình giữa Thày và các môn đệ. Những lời Thày nói, những việc Thày làm, không phải là của Thày, mà là của Thiên Chúa Cha ở trong Thày. Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ không nhận ra Ngài là Thiên Chúa. Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với Philip cũng là lời nhắc nhở chúng ta: đừng để những nét quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước mặt Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm dấu lạ, nhưng dấu lạ xẩy ra trước mặt mà chẳng nhìn thấy: hàng ngày qua lời truyền phép, Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ, nhưng đã mấy khi chúng ta tỏ thái độ cung kính tin nhận Ngài? Trong cuộc sống biết bao lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa nhưng đã mấy lần chúng ta phải tỉnh để nhận ra ơn lành Ngài ban.

Ước gì chúng ta giữ mãi thái độ tìm kiếm, một sự tìm kiếm không ở đâu xa, nhưng trong chính cuộc sống quen thuộc hàng ngày. Đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách ngạc nhiên đặt câu hỏi, chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Kết hợp với Chúa, làm được mọi sự


Chúng ta nghe nói đây đó nhiều vị thánh đã làm phép lạ cách phi thường. Có nhiều đấng làm phép lạ ngay khi còn sống, chẳng hạn như thánh Giêrađô, Vinh Sơn, Mattinô...

Đứng trước những phép lạ đó, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và ngạc nhiên! Tuy nhiên, chìa khóa để mở ra sự bất ngờ này, chính là sự kết hiệp mật thiết sâu xa giữa các thánh và Đức Giêsu. Vì thế, việc phi thường các thánh làm thực ra không phải, mà là Chúa đang hành động nơi các ngài.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rất rõ về sự kết hiệp này. Câu chuyện được khởi đi từ sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên của Philípphê khi ông cất lên hỏi Đức Giêsu về một sự kiện có tính siêu nhiên: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu đã trách nhẹ ông, vì Ngài đã ở với các ông bấy lâu, giảng dạy nhiều điều, đã làm những dấu lạ điềm thiêng, cũng như mạc khải cho ông biết Ngài từ Chúa Cha mà đến, và làm những việc của Chúa Cha, vậy thì tại sao ông và các môn đệ vẫn không tin??? Thật là đáng buồn! Vì thế, Đức Giêsu nói với ông Philípphê rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm”.

Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn dạy cho các Tông đồ một bài học về sự kết hiệp. Không kết hiệp với Ngài thì không thể làm được việc gì. Nhưng nếu kết hiệp với Ngài thì sẽ làm được mọi chuyện như chính Ngài đã làm và có khi còn hơn thế nữa... Khuôn mẫu của sự kết hợp chính là giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha. Người môn đệ khi ra đi loan báo Tin Mừng cũng vậy! Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa như cành liền cây. Có thế, chúng ta mới trở thành người mang Tin Mừng cho anh chị em mình. Không có điều này, chúng ta sẽ chỉ làm những chuyện mà chúng ta thích chứ không phải là Thiên Chúa muốn! Và theo lẽ đương nhiên, chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì vì chúng ta đã không nhân danh Đức Giêsu mà xin với Thiên Chúa. Chính vì điều này, mà chúng ta thấy nhiều sứ giả của Chúa bị thất bại, gãy cánh...

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống sự hiệp thông chặt chẽ với Chúa để chúng con trở thành chứng nhân chân thật nhờ biết gắn bó với Ngài. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Để dung mạo Chúa nổi hiện qua cuộc sống


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu là hình ảnh của Chúa Cha vô hình. Ngài là mạc khải về Chúa Cha. Cũng thế, Kitô hữu là gương soi phản ảnh về Chúa Giêsu. Hãy sống sao để dung mạo Chúa Giêsu nổi hiện qua cuộc sống của người Kitô hữu.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến trần gian để mở mắt cho con nhìn vào Chúa mà thấy rõ Chúa Cha trên trời. Thánh Ý Chúa Cha vốn nhiệm mầu, nhưng Chúa đã dạy cho con biết. Loài người nhờ Chúa mà an tâm biết cách thờ phượng cho đẹp lòng Cha trên trời. Cứ nhìn vào đời sống của Chúa trên trần gian mà con hiểu được tấm lòng khoan dung của Chúa Cha và sống sao cho đúng phận làm con.

Lạy Chúa, bao anh chị em quanh con trên thế giới này còn chưa biết Chúa. Chúa đến trần gian cho con nhìn vào Chúa mà biết Cha trên trời. Bao giờ Chúa cũng sai con đi đến với anh em để anh em nhìn vào con để biết Chúa. Chúa là mạc khải về Cha, còn Kitô hữu là tấm gương phản chiếu hình ảnh Chúa. Nhìn vào cuộc sống của Chúa hoàn toàn vâng theo Ý Cha, con nhận ra hình ảnh Cha trên trời. Xin cho con biết sống theo Thánh Ý Chúa để dung mạo Chúa được hiện rõ nơi bản thân con. Điều đẹp ý Chúa, xin dạy con thực hiện, để con trở thành tấm gương tốt, phản ánh trung thực về Chúa.

Xưa ông Mô-sê lên núi Si-nai gặp Thiên Chúa, nhờ đó ánh quang vinh từ Thiên Chúa tỏa ra làm cho mặt ông chói ngời. Ngày nay, xin cho con cũng biết tiếp xúc với Chúa để đời con biết trở nên tốt mà đủ sức giới thiệu Chúa cho anh em con. Xin cho con được gặp Chúa qua thánh lễ, qua kinh nguyện hằng ngày, để đời sống con chìm ngập trong ánh sáng của Chúa và chiếu tỏa ánh sáng ấy cho anh em con. Amen.

Ghi nhớ: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha”.

---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ về Chúa Cha. Tất cả đời sống của Đức Giêsu: lời nói, suy tư, việc làm... đều qui về Chúa Cha. Và cũng trong Đức Giêsu, mầu nhiệm cao siêu của Chúa Cha được bầy tỏ cách hoàn hảo nhất. Trong Cha có Con và trong Con có Cha. Vì thế, tin vào Đức Giêsu là tin vào Chúa Cha. Và xin gì với Chúa Cha nhân danh Đức Giêsu thì chính Đức Giêsu thực hiện.

2. Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: “Xin cho chúng con thấy Chúa Cha”, điều đó chứng tỏ khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa. Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ về Chúa Cha, về mối tương quan của Ngài với Cha: “Ai biết Thầy là biết Cha” và “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”. Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa. Tất cả đời sống của Đức Giêsu: Lời nói, suy tư, việc làm... đều qui về Chúa Cha.

Chúa Cha được bầy tỏ cách hoàn hảo nhất trong Đức Giêsu: Trong Cha có Con và trong Con có Cha. Vì thế, tin vào Đức Giêsu là tin vào Chúa Cha. Và xin gì với Chúa Cha nhân danh Đức Giêsu  thì được chính Đức Giêsu thực hiện.

3. Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật và là người thật. Đứng về phương diện loài người, Đức Giêsu giống chúng ta mọi đàng, chỉ khác một điều là không có tội. Quả thế, con người là con đường dẫn về với Chúa. Thiên Chúa xem ra không chọn lựa một con đường nào khác hơn để tỏ mình ra cho bằng con đường con người. Ngài đã nói bằng cả lịch sử của dân Israel, và cuối cùng, như tác giả thư Do thái khẳng định: Ngài đã nói bằng người Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ta là đường”, chỉ qua Ngài, con người mới có thể biết Thiên Chúa là ai và nhất là mới có thể đến với Thiên Chúa.

4. Tuy chưa thấy nhan thánh Chúa, qua Đức Giêsu Kitô, con người vẫn có thể đi vào tương quan mật thiết với Ngài, Thiên Chúa mà chúng ta có thể chiêm ngắm qua Đức Giêsu không phải là một pho tượng bất động, mà là một ngôi vị sống động. Đức Giêsu đã mạc khải ngôi vị ấy như một người cha yêu thương. Do đó, tương quan của con người với Thiên Chúa không phải là tương quan chủ - tớ; con người không đến với Thiên Chúa bằng tâm tình của người nô lệ sợ hãi, mà là bằng lòng tin tưởng phó thác của một người con (Mỗi ngày một tin vui).

5. Khao khát được biết Thiên Chúa là khát vọng chính đáng của con người, và cùng đích của con người là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha. Chính vì thế mà sau khi Đức Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, tông đồ Philipphê đã không ngần ngại thưa với Đức Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con đã mãn nguyện”.

Thấy Thiên Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều được nói đến trong Cựu ước, rằng  không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống: Maisen phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ phụ, thẩm phán, và tiên tri chỉ thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố như mây, lửa... Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mạc khải cho”. Mở đầu bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.

6. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng phải giới thiệu Chúa cho những người khác. Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, được đứng thẳng như những con người tự do. Như vậy, cũng trong mức độ sống tự do và trưởng thành, con người trở thành con đường dẫn về với Chúa. Thật thế, một nhân cách sung mãn là con đường dẫn về với Chúa. Đức Giêsu là đường dẫn về với Chúa Cha theo ý nghĩa ấy: không ai đã là người một cách sung mãn hơn Ngài. Đi trên con đường về với Chúa Cha là chính Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng được mời gọi trở thành lối dẫn về với Chúa, nhưng họ chỉ có thể  là lối dẫn về với Chúa, khi nhân cách của họ cũng được sung mãn như chính Đức Giêsu.

7. Truyện: Không ai nhìn thấy Thiên Chúa.

Một vị vua nọ nảy ra ý nghĩ táo bạo, ông cho mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.

Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm thế nào có thể thỏa mãn được một ước muốn càn rỡ như thế. Biết được mối lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo tôn giáo được làm công việc đó.

Vào một buổi sáng như đã hẹn, kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến  đồng cỏ nơi anh ta thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn.

Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thưa: “Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được”?

Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt trần gian, nhưng bẳng đôi mắt của niềm tin.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Ai thấy Thầy là xem thấy Cha


(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

A- Phân tích (Hạt giống...)

Chúa Giêsu là mặc khải của Chúa Cha. Tiếp tục những lời thân tình của Chúa Giêsu trong bầu khí bữa tiệc ly. Philipphê xin: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu đáp: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha”.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Được biết Thiên Chúa và được thấy Ngài, đó là ước muốn rất chính đáng và rất sâu xa của mọi tín hữu. Chúa Giêsu đáp ứng ước vọng đó: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha”. Nhìn Chúa Giêsu ta có thể biết Chúa Cha như thế nào: Nhân từ, hiền hậu, gần gũi với những người đau khổ, khoan dung với những kẽ tội lỗi… Thiên Chúa mà chúng ta thờ là như thế đó.

2. “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”. Chúa Giêsu nói đến sức mạnh và năng lực kì diệu Ngài sẽ ban cho kẻ tin vào Ngài. Các vị Thánh đã tin và đã làm được những phép lạ như Chúa Giêsu. Tôi có tin không ?

3. “Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc” (Ga 14,10).

Có một vị ẩn sĩ sống khiêm tốn và nghèo khó. Ngày kia, một Thiên thần đến nói với ngài: “Chúa sai tôi đến gặp ngài, ngài có thể xin bất cứ điều gì ngài muốn. Vậy, ngài có muốn được ơn chữa bệnh không ?” Vị ẩn sỹ trả lời: “Không, thà để chính Chúa chữa trị thì tốt hơn”. Thiên thần lại đề nghị: “Hay ngài có muốn trở thành mẫu gương để người khác nhìn vào mà sống tốt đẹp hơn không ?” Vị ẩn sỹ khiêm tốn nói: “Không, bởi thế tôi sẽ trở thành trung tâm của sự chú ý”.

Cuối cùng Thiên Thần nói: “Ít nhất ngài nên xin một điều gí đó vì Chúa muốn thế”.

“Vâng, tôi xin điều này: xin cho mọi việc thiện được thực hiện qua tôi mà tôi không hề hay biết”. Thế là lời ước của vị ẩn sỹ thành hiện thực, Thiên Chúa ban cho cái bóng của Ngài có được mọi quyền năng. Nơi nào có bóng Ngài đi qua người bệnh được chữa khỏi, niềm vui thay cho sầu khổ và đất đai trở thành phì nhiêu. Nhưng ẩn sỹ không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chỉ chú ý đến cái bóng, đến độ quên hẳn Ngài.

Xin cho con biết sống như Thánh Gioan Tẩy giả “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. (Epphata).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Nhìn qua Chúa Giêsu


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chủ đề hôm nay: Chúa Giêsu là mặc khải của Chúa Cha.

1. Được biết Thiên Chúa và được thấy Ngài, đó là ước muốn rất chính đáng và rất sâu xa của mọi người, nhất là người tín hữu. Môisen xưa đã có lần khao khát được nhìn thấy dung nhan Chúa. Thánh Augustinô có lần đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, lòng con khắc khoải và còn khắc khoải mãi cho đến khi được nhìn thấy Chúa”.

Nhưng làm sao để được nhìn thấy Chúa thì Chúa Giêsu đã cho chúng ta một phương thế. “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy” (Ga 14,9). Muốn thấy Thiên Chúa, con người phải nhìn qua Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là hiện thân sống động của Thiên Chúa Cha. “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30). Nhìn qua Chúa Giêsu ta có thể biết Chúa Cha như thế nào: Nhân từ, hiền hậu, gần gũi với những người đau khổ, khoan dung với những kẻ tội lỗi…Thiên Chúa mà chúng ta thờ là như thế đó.

2. Nguyên tắc thì là như thế, nhưng trong thực tế có rất nhiều người hầu như chẳng bao giờ thấy được Chúa. Tại sao thế ? Tại vì họ thiếu lòng khao khát.

Một môn đệ nọ đến trước mặt sư phụ mình và cung kính xin sư phụ của mình chỉ cho anh biết cách tìm thấy Chúa. Vốn là một học giả uyên thâm, ông thầy chỉ mỉm cười mà không nói gì cả. Một hôm, nhân lúc trời nóng bức, thầy trò liền rủ nhau ra sông tắm. Môn đệ nhảy xuống sông, vùng vẫy, bơi lội thoải mái giữa dòng nước trong. Ngắm nhìn đệ tử một lát, rồi sư phụ cũng nhảy xuống, bơi đến cạnh người môn đệ. Bất chợt ông nắm tóc anh dìm xuống dưới nước hồi lâu. Người môn đệ hốt hoảng, vùng vẫy cho đến lúc thầy mình buông ra, anh vội trồi đầu lên thở hít mạnh. Sư phụ hỏi:

- Lúc thầy dìm con dưới nước, con khao khát cái gì hơn hết ?

Môn đệ ngạc nhiên, trả lời:

- Lúc đó, con chỉ khao khát khí trời mà thôi.

Sư phụ lại hỏi:

- Vậy thì con có khao khát Chúa như vậy không ? Nếu con khao khát Chúa nồng nhiệt như thế, thì con sẽ tìm thấy Ngài. Bằng không, thì dù con có miệt mài suốt cuộc đời trên sách vở, thì cũng chẳng ích gì. Con không thể nào tìm thấy Chúa nếu con không khao khát Chúa như khao khát khí trời để sống. (MV).

3. Thứ đến là phải thay đổi lối nhìn của mình. Bằng cặp mắt thịt thì chúng ta chỉ nhìn thấy những gì là vật chất. Thiên Chúa là Thần Khí, là Tinh Thần cho nên muốn thấy Người chúng ta phải dùng cặp mắt đức tin.

Trong tập truyện biến ngôn, Linh mục Guillemetre đã kể lại câu chuyện sau đây:

Có một người đàn bà đạo đức nọ, suốt đời chỉ nuôi một nỗi khát khao duy nhất, đó là được xem thấy dung nhan Chúa trước khi chết.

Một đêm nọ, trong giấc mơ của bà, Thiên Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội trong đêm mai.

Thế là ngày hôm sau, người đàn bà đã sửa soạn nhà cửa và chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn để đón tiếp và đãi “Vị Thượng Khách”.

Người đàn bà chờ đợi mãi mà vẫn không thấy Chúa đến. Đêm về khuya, buồn ngủ quá, bà đã thiếp đi trong sự chán nản. Bỗng có tiếng gọi. Bà tỉnh dậy và thấy Chúa bảo:

-Tại sao Cha đến mà con không tiếp đón Cha ?

Người đàn bà đã giải thích là bà đã ngồi chờ đợi Chúa suốt buổi tối ở trước cổng nhà.

Rồi Chúa cho bà biết Chúa đã đến nhà bà bằng cổng sau. Rồi Ngài hẹn đêm sau đó Ngài sẽ đến.

Thế là ngày hôm sau, người đàn bà đạo đức lại chuẩn bị một lần nữa với hy vọng chắc chắn lần này thế nào Chúa cũng cho được gặp Ngài. Chuẩn bị xong bà lại ngồi chờ Chúa, bà chờ mãi cho đến tối, cứ chạy ra cổng trước, rồi chạy vào cổng sau, nhưng tuyệt nhiên không thấy tăm hơi một vị khách nào cả.

Lần này cũng trong giấc mơ, Chúa lại hiện ra và trách bà. Ngài cho biết Ngài đã đến qua cửa sổ. Thế rồi lần này Ngài lại hẹn ở tại một giếng nước trong vùng.

Nghe đến đây, người đàn bà chợt nhận ra trò chơi “cút bắt” của Chúa và ngay lúc đó Ngài giải thích:

- Nếu con chỉ muốn thấy Cha ở một nơi nào đó mà thôi, thì con sẽ không bao giờ thấy Cha được ở mọi nơi. Cha cho con thấy Cha, không phải là một lần trước khi con chết, nhưng là mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc đời của con. Và điều kiện để con có thể thấy Cha, là con hãy từ bỏ khát vọng được xem thấy Cha bằng con mắt trần tục, vì con mắt ấy quá hữu hạn không thể nhìn thấy sự vô biên của Cha. Con chỉ có thể xem thấy Cha bằng con mắt của con tim mà thôi.

Vâng! Con người chỉ có thể thấy Thiên Chúa bằng chính đôi mắt của con tim và đôi mắt của con tim chính là đôi mắt đức tin, mà chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho con người mà thôi.

Lạy Chúa, xin cho con được thấy Chúa luôn đồng hành với con trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Ai thấy Thầy, là thấy Cha


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa và Chúa Cha là một: “Cha Ta và Ta là một” (Ga 10, 30), vì thế, Chúa Cha suy nghĩ điều gì thì Chúa suy nghĩ cũng như thế, Chúa Cha nói điều chi thì Chúa cũng nói như vậy, Chúa Cha làm được tất cả mọi sự thì Chúa cũng làm được như Chúa Cha; “ Các con hãy tin  rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc” (Ga 14, 10). Do đó, không phải chúng ta không thích Chúa nên chúng ta đến với Chúa Cha, hoặc là chúng ta không thích Chúa Cha nên chúng ta chạy đến với Chúa. Chúng ta không được phép làm như vậy, vì Chúa đã nói; ‘ Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con đã xem thấy Người….Ai thấy Thầy là xem thấy Chúa Cha” (Ga 14, 7 – 9). Như vậy, qua đó Chúa mời gọi chúng ta hãy sống hiệp nhất nên một với nhau như Chúa và Chúa Cha là một. Điều này rất có lợi cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, Chúa cũng dạy chúng ta hãy yêu Chúa cũng như yêu Chúa Cha bằng một tình yêu vô bờ bến, thẳm sâu, không có giới hạn để rồi cũng ta cũng yêu anh chị em của mình như Chúa muốn nữa.

Một khi chúng ta đã biết Chúa và Chúa Cha như lời Chúa đã dạy rồi thì điều tiếp theo là chúng ta hãy tin Chúa. Biết và tin đi đôi với nhau, vì vô tri thì bất ngộ. Tin thì tin cả lời Chúa nói và các việc Chúa làm. Tin Chúa thì làm được nhưng việc Chúa làm và còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Chúa về cùng Cha của Chúa (Ga 14, 11 - 12). Nghĩa là, khi Chúa về cùng Chúa Cha, Chúa luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha cho chúng ta để rồi nhờ đó, chúng ta mới có nguồn sinh lực, chúng ta làm các điều thiện, điều lành, điều tốt như Chúa đã làm khi Chúa còn sống cho anh chị em của mình. Chúng ta tiếp nối các công việc này của Chúa qua việc làm của bản thân mình cho đến ngày tận thế để mang lại hạnh phúc cho anh chị em của mình, để rao truyền danh Chúa cho tất cả mọi người trên dương gian này.

Chúng ta biết, chúng ta tin và chúng ta làm theo điều Chúa dạy rồi thì chắc chắn Chúa rất vui, nhưng không phải chỉ dừng lại ở đó, mà Chúa còn dạy chúng ta một điều rất quan trọng trong đời sống đức tin là chúng ta hãy cầu nguyện với Chúa và Chúa Cha: “Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy se làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùn Thầy, Thầy sẽ làm” (Ga 14, 12 – 14). Vậy là chúng ta thấy tất cả các ơn Chúa Cha đã trao vào tay Chúa. Chúa là Đấng trung gin giữa Thiên Chúa và là người, do đó Chúa ban cho ai, ban như thế nào, ban lúc nào là quyền của Chúa. Chúng ta xin Chúa Cha nhân danh Chúa thì Chúa ban, chúng ta xin Chúa nhân danh chính Chúa, thì Chúa cũng ban. Chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa và Chúa Cha thương chúng ta cho nên Chúa và Chúa Cha mới sắp xếp như vậy để phần lợi thuộc về chúng ta cũng như để tiện bề cho chúng ta khi chúng ta cầu nguyện với Chúa.

Lạy Chúa hằng sống, hằng hữu của chúng con, nhờ chúng con biết Chúa, tin Chúa, cầu nguyện cùng Chúa mỗi ngày trong đời sống mà chúng con được Chúa thương ban muôn ơn, giúp chúng con không ngừng lớn lên trong tình yêu của Chúa. Xin Chúa nâng đỡ, phù trì, gìn giữ chúng con, cho chúng con sống tốt hơn nữa để chúng con được hưởng sự sống trường sinh bất tử với Chúa sau này cùng với các thánh và những người Chúa chọn. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Thấy Thầy là thấy Cha


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Bảy Tuần 4 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Tẩy, mà tái tạo chúng ta nên người mới, xin Chúa cho chúng ta tích cực sống Mầu Nhiệm Vượt Qua, để nhờ ơn thánh Chúa nâng đỡ, chúng ta mang lại nhiều hoa trái, và được hưởng niềm vui của cuộc sống muôn đời.

Sống Mầu Nhiệm Vượt Qua, bằng cách thanh tẩy mình, quay trở về thờ phượng Thiên Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Babylon sụp đổ, ngược lại với thành của Thiên Chúa, thành Babylon tượng trưng cho đô thị chia rẽ, là vì bộ mặt của thế gian này đang qua đi. Ra khỏi Babylon mà thanh tẩy đi, hỡi những ai mang đồ thờ phượng ĐỨC CHÚA, vì Đấng tiền phong của các ngươi sẽ là ĐỨC CHÚA. Đấng hậu vệ sẽ là Thiên Chúa của Ítraen. Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi đó, ai nấy hãy lo cứu mạng mình cho khỏi cơn lôi đình thịnh nộ của ĐỨC CHÚA.

Sống Mầu Nhiệm Vượt Qua, bằng cách mở lòng ra đón nhận ơn cứu độ, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Syrilô Alêxanria nói: Nhờ lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa rộng mở cho tất cả mọi người, toàn thể thế giới được cứu độ… Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời; nên bây giờ chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân.

Sống Mầu Nhiệm Vượt Qua, bằng cách làm cho muôn dân nhận biết ơn cứu độ của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ, ông Phaolô nói: Này đây, chúng tôi quay về phía dân ngoại. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 97, vịnh gia cho thấy: Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Nếu anh em ở lại trong lời Thầy, thì anh em thật là môn đệ Thầy, và anh em sẽ biết sự thật. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Ở lại trong Đức Kitô, sẽ là môn đệ của Người và sẽ biết được sự thật: Người và Cha là một. Nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua, Chúa Cha đã tái tạo chúng ta nên con người mới: Chúng ta tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, và là những bộ phận có liên đới với nhau, vì Đức Kitô đã nối kết chúng ta nên một bằng mối dây đức ái. Vậy, tất cả chúng ta phải có chung một cảm nghĩ đối với nhau: hãy đón nhận nhau, hãy mang gánh nặng cho nhau, và duy trì sự hợp nhất mà Thần Khí đem lại. Thiên Chúa cũng đã đón nhận ta như thế trong Đức Kitô. Xưa kia, Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ rằng: Người sẽ chúc phúc cho dòng dõi họ và làm cho dòng dõi ấy nên đông đảo như sao trên trời. Vì vậy, chính Ngôi Lời là Thiên Chúa, đã xuất hiện trong thân xác phàm nhân và đã làm người. Ngôi Lời là Đấng làm cho toàn thể tạo thành được hiện hữu, và ban cho mọi loài được sống an toàn, bởi vì, Người là Thiên Chúa. Đức Giêsu đã tuyên bố rõ ràng là: Người đến để thực hiện những lời Thiên Chúa đã hứa. Chúa Cha đã trao nộp Người, để các dân ngoại được hưởng nhờ lòng thương xót. Nhờ lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa rộng mở cho tất cả mọi người, các dân ngoại đã được Người đón nhận, và như thế, kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa trong Đức Kitô đã đạt tới đích, là toàn thể thế giới được cứu độ. Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Tẩy, mà tái tạo chúng ta nên người mới, ước gì chúng ta tích cực sống Mầu Nhiệm Vượt Qua, để nhờ ơn thánh Chúa nâng đỡ, chúng ta mang lại nhiều hoa trái, và được hưởng niềm vui của cuộc sống muôn đời. Ước gì được như thế!

------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây