Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy”. Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?” Chúa Giêsu trả lời: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
“…Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn. Linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi gần chết được lên thiên đàng.” Đó là phần cuối của một bài đồng dao quen thuộc cách đây mấy chục năm. Bài hát này đi kèm với trò chơi thiên đàng hỏa ngục hai bên của trẻ nhỏ. Thiên đàng là điểm đến tối hậu của đời người kitô hữu. Nhưng mô tả thiên đàng lại là điều vượt sức con người. Thánh Phaolô đã được nghe những lời khôn tả ở đó, nhưng tiếc là ngài không được phép nói lại (2 Cr 12, 4). Đức Giêsu đã dùng hình ảnh bữa tiệc để nói lên bầu khí thiên đàng, nơi có niềm vui, hạnh phúc và sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và những người từ bốn phương thiên hạ (Mt 8, 11). Nếu coi thiên đàng là nơi con người được hạnh phúc bên Thiên Chúa, trong một tương quan tình yêu, diện đối diện và vĩnh viễn, thì thiên đàng ấy đã chớm nở ngay từ đời này rồi. Khi yêu Thầy Giêsu, người môn đệ sẽ được Thầy yêu lại. Hơn nữa, chính Chúa Cha cũng yêu mến người ấy (c. 21). Và điều con người không dám mong sẽ xảy ra sau Phục sinh: “Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy và sẽ ở lại với người ấy” (c. 23). Thiên đàng bắt đầu với sự trao đổi tình yêu qua lại giữa người môn đệ với Cha và Con. Nơi nào có Thiên Chúa cư ngụ, nơi đó là thiên đàng. Khi Cha và Con đến dựng nhà nơi người môn đệ trung tín, tâm hồn người ấy trở thành thiên đàng. Hạnh phúc đã được nếm cảm trong giây phút hiện tại rồi trước khi được hưởng trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có sự hiện diện của Cha và Con, Người môn đệ còn có Thánh Thần ở với và ở trong mình (Ga 14, 16-17). Như Cha đã sai Con, nay Cha lại sai Thánh Thần (c. 26). Thánh Thần sẽ là thầy dạy và là người gợi cho các môn đệ nhớ lại và hiểu thấu những gì Đức Giêsu đã làm (x. Ga 2, 22; 12,16). Vậy nơi tâm hồn người môn đệ, có sự hiện diện của cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Một thiên đàng nho nhỏ ngay ở đời này! Muốn cho thiên đàng ấy tồn tại, cần giữ các điều răn của Thầy Giêsu với rất nhiều tình yêu. Hãy yêu bằng hành động hơn là bằng cảm xúc. và để cho tình yêu Giêsu chi phối mọi chi tiết của đời ta. Cầu nguyện:
Ngài đã xuống tận đáy lòng con, xin cho con chỉ tập trung vào tận đáy lòng con. Ngài là thượng khách của lòng con, xin cho con bước vào nhà là chính đáy lòng con. Ngài chọn cư ngụ trong lòng con, xin cho con biết ngồi yên ngay tại đáy lòng con. Duy Ngài ở lại trong con, xin cho con biết chìm sâu xuống tận đáy lòng con. Duy Ngài hiện diện trong lòng con, xin cho con biết xóa mình khi Ngài ở bên con. Khi con đã gặp Ngài, không còn con và Ngài nữa. Con chẳng là gì cả, và Ngài là tất cả. Amen. (Theo Swami Abhisiktananda)
Con người thiện chí. Nhưng dễ rơi vào những điều hão huyền. Dân chúng và các tư tế đền thờ thần Dớt tại Ly-cao-ni-a là một bằng chứng. Họ nghĩ tưởng về thần thánh theo phạm trù khái niệm họ tự đặt ra. Quả quyết Phao-lô và Bar-na-ba là thần Dớt và thần Hẹc-mét. Trong khi đó không tin lời của chính đương sự nói. Nên Phao-lô khuyên nhủ họ phải từ bỏ những điều hão huyền để trở về với Thiên Chúa là đường ngay nẻo chính.
Thực ra không ai có thể biết Thiên Chúa. Trừ khi Thiên Chúa tỏ mình cho. Thiên Chúa vượt xa mọi tầm hiểu biết của con người. Vượt xa mọi khái niệm của con người. Vượt xa mọi điều con người có thể suy nghĩ và mường tượng ra. Nhưng Thiên Chúa cũng không thể tỏ mình cho bất cứ ai. Thiên Chúa không tỏ mình một cách vô lý cưỡng ép. Nhưng chỉ có thể tỏ ra với những điều kiện phải có. Điều kiện đó là tình yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ những ai yêu mới đón nhận được Thiên Chúa. Không phải yêu lý thuyết nhưng là yêu thực sự cụ thể. Đó là tuân giữ giới răn như Chúa Giêsu đòi hỏi: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ đượ Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”. Thiên Chúa tình yêu tỏ mình ra cho người có tình yêu. Và chỉ người có tình yêu mới hiểu và đón nhận được Thiên Chúa là Tình Yêu.
Còn hơn cả tỏ mình ra, Thiên Chúa sẽ ở lại và kết hợp với ta trong tình yêu. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Đó chính là lúc ta cảm nhận được tình yêu thực sự. Đó chính là ta đón nhận được tình yêu thực sự. Tình yêu cụ thể. Tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tình yêu tuyệt hảo giữa Cha và Con trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần.
Ta hãy từ bỏ những điều hão huyền. Lối sống hão huyền. Mơ ước hão huyền. Tình yêu hão huyền. Hạnh phúc hão huyền. Yêu mến và tuân giữ Lời Chúa ta sẽ có tình yêu thực sự. Được Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu đến ở với ta, ta sẽ cảm nhận được tình yêu thực sự. Sẽ có niềm vui chan chứa. Sẽ hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.
Hôm nay, bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc là những lời tâm sự của Chúa Giêsu cho các tông đồ trong một khung cảnh hết sức quan trọng là bữa tiệc ly của Chúa với các môn đệ trước khi thực hiện biến cố vượt qua. Cấu trúc của toàn chương 14 này của Phúc Âm thánh Gioan được xoay quanh ba câu hỏi của các tông đồ. Câu hỏi thứ nhất là của tông đồ Thomas: “Thầy đi đâu chúng con không biết thì làm sao chúng con biết đường đi?” Và câu hỏi thứ hai của tông đồ Philípphê: “Lạy Thầy, xin chỉ cho chúng con nhìn thấy Thiên Chúa Cha và thế là đủ cho chúng con rồi.”
Trong Phúc Âm Chúa Nhật hôm qua chúng ta đã nghe những lời Chúa Giêsu trả lời cho hai câu hỏi trên và từ đó chúng ta được Chúa cho biết mục đích của đời sống con người là gì và đâu là con đường để đạt tới mục đích đó. Con đường đó không là gì khác hơn là chính Chúa Giêsu Kitô, Ðấng mạc khải Thiên Chúa Cha cho con người và dẫn đưa con người về cùng Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã quả quyết mạnh mẽ với các tông đồ: “Thầy là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, và hôm nay chúng ta đọc và Suy niệm những câu kế tiếp, trong đó chúng ta sẽ nghe thấy những câu Chúa Giêsu trả lời cho câu hỏi thứ ba của tông đồ Giuđa Tadeo: “Lạy Thầy, tại sao Thầy lại tỏ mình ra cho chúng con mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Xem ra như Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của Giuđa Tađeo nhưng Chúa nhắc tới thái độ tự nguyện tự quyết của kẻ muốn theo Chúa: “Ai lắng nghe lời Thầy, ai yêu mến và tuân giữ lời Thầy thì người đó là kẻ yêu mến Thầy, và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”.
Qua câu trả lời này chúng ta hiểu về những giới hạn trong mạc khải của Chúa và từ phía con người chấp nhận hay không chứ không phải từ Thiên Chúa, là Ðấng muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Con người chúng ta có tự do khước từ ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, giới hạn tác động cứu rỗi của Thiên Chúa. Quả thật đây là một mầu nhiệm, mầu nhiệm của sự tự do con người và sự hữu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Con người cần được trợ giúp để quyết định cho đúng và nguồn trợ lực đến từ Chúa Thánh Thần là Ðấng tiếp tục soi sáng cho các tông đồ, hướng dẫn họ đến sự thật trọn vẹn mỗi ngày một hơn. Và cũng qua đoạn Phúc Âm trên chúng ta thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn những ai yêu mến Người là một sự hiện diện Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con trong tình thương của Chúa. Xin cho con luôn sống theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để mọi nơi và mọi lúc con luôn được lớn lên trong tình yêu Chúa và anh chị em chung quanh.
Chúng ta không xét đến những bất trung của chúng ta đối với Chúa. Chúng ta phạm pháp, phạm giới luật nhiều và cũng không thấy một thứ trung thành với Thiên Chúa, chỉ có bề ngoài, thứ trung thành lắt léo khi giữ luật: luật nói gì thì tôi làm thế, luật cấm gì thì tôi không thể dám làm, nếu không tôi mắc lỗi nặng.
Nếu chúng ta trở về với trọng tâm của Tin mừng, chúng ta sẽ thấy một hướng khác, điều quan trọng nhất là cần liên đới với Thiên Chúa như điều răn nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Chính tình yêu là trung tâm sự liên kết với Thiên Chúa. Không có tình yêu này, sự nhận thức của chúng ta về Thiên Chúa sẽ bất chính, như thấy Thiên Chúa là Đấng báo oán quá trớn và công thẳng quá độ.
Quá nhiều Kitô hữu còn sợ Thiên Chúa theo lối giữ lời Chúa vì sợ Thiên Chúa báo thù, chứ không vì yêu mến Chúa. Không có lòng yêu mến, những đòi hỏi thánh thiện trở thành gánh nặng không thể chịu nổi: Đó là ách quá nặng làm cho tâm thần bấn loạn.
Trái lại, nếu những liên kết với Chúa được xây dựng trên tình yêu, tình yêu này sẽ thúc đẩy sống trung thành bền vững. Thiên Chúa sẽ đáp lại lòng trung thành này bằng ở lại với người ấy: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Thiên Chúa không áp đặt sự hiện diện của Ngài. Ngài không đến như kẻ đi nghỉ mát. Nhưng Ngài đến ở với tấm lòng ưu ái nồng nàn, đó là nơi tình yêu và lòng trung tín gặp nhau, sống với nhau.
Một đứa trẻ sẽ cảm thấy bị áp đặt sống trong một gia đình khi nó không có lòng yêu mến, cũng thế, chúng ta sẽ thấy bị bó lòng phải giữ giới răn Chúa, khi chúng ta chưa yêu mến Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta biết đáp lại bằng một tình yêu cụ thể trước khi Ngài đến. Như vậy, khi chúng ta tin tưởng yêu mến và trông cậy Ngài, Ngài đã ở trong chúng ta rồi. Thực vậy, đức tin, đức cậy và đức ái là ba nhân đức đối thần, là của cải của Thiên Chúa ban cho chúng ta, cho chúng ta thấy hình ảnh Ngài trong chúng ta.
Sau những ngày bố ráp căng thẳng, ông và một số anh em bị bắt giữ. Một viên công an nói với các tu sĩ bằng một giọng đắc thắng: “Trong những ngày qua chắc các ông đã cầu nguyện nhiều để thoát khỏi tay chúng tôi. Nhưng các ông thấy đó, làm sao có thể thoát khỏi tay chúng tôi được”. Nghe thế, vị tu sĩ điềm nhiên trả lời: “Quả thật chúng tôi đã cầu nguyện nhiều, nhưng chúng tôi không cầu nguyện để thoát khỏi tay các ông, mà để được ở trong tay Chúa”.
Để được ở trong tay Chúa, để được ở với Chúa, để được Chúa cư ngụ trong tâm hồn, đó là mục đích của cuộc sống đức tin mà người Kitô hữu phải không ngừng theo đuổi. Đó cũng là một trong những ý tưởng nổi bật trong Tin mừng Gioan. Những môn đệ đầu tiên đã đến xem nơi Chua Giêsu cư ngụ và đã ở lại với Ngài. Chúa Giêsu đã kêu gọi họ trước tiên là đến và ở với Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay cũng muốn đào sâu ý tưởng ấy. “Ai yêu mến Ta, Ta sẽ yêu mến nó và sẽ tỏ mình ra cho nó”. Trong Cựu ước, Đền thờ vốn được quan niệm như nơi cư ngụ của Thiên Chúa. Nhưng với Chúa Giêsu, Đền thờ Thiên Chúa từ nay sẽ là tâm hồn con người; từ nay nhờ phép rửa, người Kitô hữu trở thành đền thờ của Chúa. Nhưng sự hiện diện ấy của Thiên Chúa, người Kitô hữu chỉ cảm nhận được khi họ yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ giới răn của Ngài. Sự hiện diện ấy, người Kitô hữu chỉ có thể làm lan tỏa chung quanh bằng việc tuân giữ giới răn của Chúa Giêsu, nghĩa là sống theo Ngài, sống với Ngài, sống bằng chính sức sống của Ngài.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở người Kitô hữu về sứ mệnh làm chứng cho sự hiện diện của Chua trong trần thế. Người ta không thể cho đi điều mình không có. Nguyên tắc này càng đúng hơn trong đời sống đức tin: người Kitô hữu sẽ không là chứng nhân sự hiện diện của Chúa, nếu cuộc sống của họ không có sức tỏa lan sự hiện diện ấy. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta cách làm chứng cho sự hiện diện ấy, đó là tuân giữ các giới răn của Ngài. Khi những người ngoài nhìn vào cộng đoàn Kitô tiên khởi, họ đã phải thốt lên: “Kìa xem họ yêu thương nhau dường nào! Đó cũng là thách đố đang được đặt ra cho người tín hữu chúng ta: chúng ta phải sống thế nào để sự hiện diện của Chua không chỉ giới hạn trong nơi thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống chúng ta nữa.
“Chúng tôi không cầu nguyện để thoát khỏi tay các ông, mà để được ở trong tay Chúa”. Ước gì, qua cuộc sống mỗi ngày, chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Chúa, và đáp trả tình yêu ấy bằng những cố gắng sống yêu thương, quảng đại để sự hiện diện và tình yêu của Chúa cũng được người khác cảm nhận.
Trong tình yêu, hẳn ai cũng hiểu rằng: “Yêu ai thì đều muốn cho người mình yêu được hạnh phúc và tìm mọi cách để cho người yêu của mình được hài lòng...”.
Đây là tình yêu tự nhiên của con người dành cho nhau. Nhưng tình yêu giữa ta và Chúa thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ: nếu ta nói mình yêu Chúa, thì Lời Chúa phải ở trong ta và sẽ chi phối mọi lời nói, hành động và việc làm của ta.
Vì thế, Đức Giêsu nói: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Như vậy, yêu mến Chúa là giữ lời Chúa truyền, và người yêu mến Thiên Chúa thì sẽ được: “Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy".
Khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu Ngài bằng một tình yêu đơn sơ chân thành. Tình yêu của người con đối với người cha. Tuy nhiên, để tình yêu được nên trọn, chúng ta còn phải có chiều kích thứ hai, đó là yêu tha nhân như Chúa yêu. Tức là yêu hết mọi người không phân biệt. Yêu người thương mình và yêu cả người ghét mình. Chỉ có tình yêu như thế, mới đem lại cho ta hạnh phúc thực sự. Ngược lại, nếu chỉ yêu kẻ làm ơn cho mình, thì phải chăng là thứ tình yêu tự nhiên thuần túy.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy làm mới lại tình yêu của mình với Chúa. Tức là lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm định luật và tiêu chuẩn để ta yêu và yêu bằng tình yêu của chính Chúa. Sống và giữ Lời Chúa cách trung thành, không bóp méo và ngụy biện hay lấy Lời Chúa làm bình phong cho những hành động đen tối của mình.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa đem lại cho chúng con niềm vui và bình an đích thực. Xin Chúa ban cho chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Chúa, để Lời Chúa trở thành lẽ sống và lý tưởng vươn tới sự hoàn thiện của chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu chứng tỏ tâm tình yêu mến Chúa Cha qua việc luôn vâng phục và thi hành Thánh Ý Chúa Cha. Ngài cũng đang mời gọi chúng ta: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi con yêu mến Chúa. Nhưng đối với Chúa, tình yêu không chỉ là một cảm xúc mau qua, mà còn phải được chứng tỏ qua việc thi hành Ý Chúa. Chính Chúa đã yêu mến Chúa Cha và thi hành Ý Chúa Cha. Chúa cũng mời gọi con yêu mến Chúa và chứng tỏ tình yêu ấy bằng việc thi hành Ý Chúa. Còn ai không giữ Lời Chúa tức là không yêu mến Chúa. Vâng, con hiểu rằng tuân giữ Lời Chúa và yêu mến Chúa liên kết với nhau và làm nên đời sống Kitô hữu.
Lạy Chúa, nhiều lần con cảm thấy tâm hồn thật sốt sắng, tâm trí lâng lâng bay bổng, tưởng chừng như đang say đắm trong tình yêu mến Chúa hết lòng hết sức. Thế nhưng, những giây phút ấy qua đi, tâm hồn con không còn những xúc cảm nồng nàn nữa. Nhưng con biết đó chưa phải là yêu mến Chúa thật. Dù con không có những rung cảm sốt sắng ấy, con cũng sẽ cố gắng luôn thi hành Ý Chúa, tuân giữ Lời Chúa, để chứng tỏ lòng mến Chúa đích thật. Biết bao lần con đã sốt sắng nồng nàn, nhưng con lại cứ sống theo ý con, coi thường Lời Chúa, không đón nhận Thánh Ý Chúa. Xin Chúa đừng để con yêu mến Chúa cách hời hợt giả tạo như vậy. Xin đừng để con ảo tưởng.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì được biết Chúa và yêu mến Chúa. Yêu mến Chúa là hạnh phúc của con. Và con sẽ cố gắng trung thành tuân giữ Lời Chúa mỗi ngày. Qua việc giữ Lời Chúa, xin Chúa ban cho con niềm vui chân thật vĩnh cửu. Amen.
Ghi nhớ: “Ðấng Phù Trợ mà Cha sẽ sai đến, Người sẽ dạy các con mọi điều”.
Thánh Phanxicô Assisi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một người bạn, có lẽ anh đã gặp nhiều thử thách trong đời, vì thế anh chia sẻ với Phanxicô rằng anh không thể nào yêu mến Thiên Chúa được.
Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què ngồi bên lề đường. Ngài dừng lại hỏi người hành khất: “Này anh, nếu tôi chữa cho anh thấy được và đi được thì anh có yêu mến tôi không?”.
Người hành khất trả lời: “Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài, mà tôi còn xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài”. Nghe câu trả lời của người hành khất, thánh Phanxicô quay sang nói với người bạn: “Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được mà còn hứa với tôi như thế huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn, Ngài còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh, vậy mà anh lại không yêu mến Chúa sao?”.
Suy niệm
Yêu là tuân giữ Lời của Thầy: Tình yêu không dừng lại ở cái nhìn thấy hay chỉ là tình cảm suông hoặc xúc động thuần túy như là một cảm xúc chỉ lưu lại ở trong trái tim. Tình yêu là nội lực và luôn thúc đẩy dẫn tới hành động. Tình yêu không có hành động là tình yêu không sức sống, là tình yêu lý thuyết, tình yêu chết… Hành động là bằng chứng của tình yêu đích thực như thánh Grégôriô le Grand đã khẳng định: “Bằng chứng của tình yêu là chứng nhân qua những công trình. Không bao giờ tình yêu của Thiên Chúa cư ngụ trong nhàn rỗi. Khi tình yêu hiện hữu, tình yêu luôn làm những sự việc lớn lao”.
Yêu thương là giữ các giới răn, là chúng ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Người theo Chúa Kitô làm thành đạo của tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay cao.
Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ các giới răn của Thầy. Ai giữ các giới răn của Thầy mới là người yêu mến Thầy”, giới răn mà Ngài mời gọi tuân giữ, theo văn mạch của Tin Mừng Gioan, Ngài vừa trao ban cho các môn đệ, và qua các ông cho tất cả chúng ta qua mọi thời đại: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34), và Ngài nhắc lại rất trang trọng trong Gioan 15,12. Đức Kitô nhấn mạnh: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Cho nên, yêu thương anh chị em và tất cả những người lân cận là người giữ giới răn Chúa và thật sự yêu mến Ngài. Mến Chúa dẫn đến yêu anh em, thánh Gioan diễn giải nhân quả sự yêu mến này rõ hơn nữa khi xác tín: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Đức Giêsu khẳng định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy” (Ga 14,21). Sự yêu mến và giữ giới răn làm thành mối tương quan thẳm sâu giữa Chúa Giêsu với chúng ta: Tình yêu gắn bó và tình yêu Thầy - Trò cấu tạo nên tương quan với Chúa Cha trong chính Chúa Giêsu.
Xin cho chúng con, một tình yêu sắt son, theo lệnh truyền của Đức Kitô: Yêu Chúa là tuân giữ Lời, là sống bằng con tim với đời, với anh em bằng một tình yêu sắt son và mãnh liệt. Tình yêu được biểu hiện cụ thể qua hành động tuân giữ giới răn trong sự tự nguyện.
Ý lực sống: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, phải chăng là gian truân, khắc khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta…” (Rm 8,35-37).
1. Đức Giêsu tiếp tục cho các môn đệ biết hoàn cảnh sinh hoạt sau khi Ngài ra đi: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh mối liên kết giữa lòng yêu mến và sự trung thành với giáo huấn của Ngài. Không thể nói yêu Ngài nếu không nghe lời Ngài. Không thể thì hành Lời Ngài trọn vẹn nếu không vì yêu Ngài. Tình yêu biểu hiện cụ thể qua hành động tuân giữ trong sự tự nguyện.
Điều khát mong của Đức Giêsu được bầy tỏ qua lời trăng trối: “Hãy yêu thương nhau”. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, chúng ta có thể yêu người khác như chính mình.
2. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”.
Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là bằng chứng của lòng yêu mến Chúa và được Chúa yêu thương. Đức Giêsu nhắc lại cách tích cực về điều kiện để được Chúa yêu mến và tỏ mình cho, đó là tuân giữ Lời Chúa. Kiểu nói “ở lại” diễn tả hiệu quả của sự liên hệ mới: không chỉ đơn thuần là sự kết hợp với Chúa Giêsu, nhưng còn sát nhập những kẻ giữ Lời Chúa vào trong mối liên hệ mới với Chúa Cha nữa. Như vậy, Ngài trả lời cho ông Giuđa biết: Chúa tỏ mình ra cho hết bất cứ ai tuân giữ Lời Chúa, chứ không chỉ riêng các môn đệ.
3. Trong cuốn sách “The living stone” có một câu chuyện như sau: Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy sắp lìa trần, ngài cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Hãy hành động vì yêu mến”.
Chúa Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản: “Ai nghe và giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Chúa Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính... Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người yêu sẵn sàng cho đi tất cả vì người yêu, chứ không dừng lại ở những rung động của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (Mỗi ngày một tin vui).
4. Tình yêu không bao giờ chỉ là một thứ tình cảm thuần túy, nhưng tình yêu đòi buộc phải có hành động. Chẳng ai có thể nói “yêu” người khác mà không có bất cứ một ‘hành động” nào để biểu lộ tình yêu của mình. Mà “hành động” ở đây có nghĩa là tất cả con người của mình, cả hồn lẫn xác, cả khối óc và con tim, cả tình cảm cũng như việc làm. Chúng ta có thể tìm thấy gương mẫu diễn tả tình yêu bằng “hành động” như vậy nơi Chúa Giêsu. Ngài yêu mến Chúa Cha bằng việc vâng lời chấp nhận nhập thể, chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá. Trước lúc chia ly các môn đệ, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi các ông phải diễn tả tình yêu của mình bằng hành động cụ thể, đó là: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”(Ga 14,23).
5. Yêu là tuân giữ Lời của Chúa: Tình yêu không dừng lại ở cái nhìn thấy hay chỉ là tình cảm xuông hoặc xúc động thuần túy như là một cảm xúc chỉ lưu lại ở trong trái tim. Tình yêu là một nội lực và luôn thúc đẩy dẫn tới hành động. Tình yêu không có hành động là tình yêu không sức sống, là tình yêu lý thuyết, tình yêu chết... Hành động là bằng chứng của tình yêu đích thực như thánh Grégoire le Grand đã khẳng định: “Bằng chứng của tình yêu là chứng nhân qua những công trình. Không bao giờ tình yêu của Thiên Chúa cư ngụ trong nhàn rỗi. Khi tình yêu hiện hữu, tình yêu luôn làm những sự việc lớn lao”.
6. Khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu Ngài bằng một tình yêu đơn sơ chân thành. Tình yêu của con người đối với người cha. Tuy nhiên, để tình yêu được nên trọn vẹn, chúng ta còn phải có chiều kích thứ hai, đó là yêu tha nhân như Chúa yêu. Tức là yêu hết mọi người không phân biệt. Yêu người thương mình và yêu cả người ghét mình. Chỉ có tình yêu như thế, mới đem lại cho ta hạnh phúc thực sự. Ngược lại, nếu chỉ yêu kẻ làm ơn cho mình, thì phải chăng là thứ tình yêu tự nhiên thuần túy.
7. Truyện: Thánh Phanxicô Assisi và người bạn.
Thánh Phanxicô Assisi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một người bạn, có lẽ anh đã gặp nhiều thử thách trong đời, vì thế, anh chia sẻ với Phanxicô rằng anh không thể nào yêu mến Thiên Chúa được.
Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què ngồi bên lề đường. Ngài dừng lại hỏi người hành khất: “Này anh, nếu tôi chữa cho anh thấy được và đi được thì anh có yêu mến tôi không”?
Người hành khất trả lời: “Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài, mà tôi còn xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài”.
Nghe câu trả lời của người hành khất, thánh Phanxicô quay sang nói với người bạn: “Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được mà còn hứa với tôi như thế huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mặt mũi lành lặn, Ngài còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh, vậy mà anh không yêu mến Chúa sao”?
Đoạn Tin Mừng này là một bài giáo lý về Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ… Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến… Đấng phù trợ, là Cha Thầy mà Cha Thầy sẽ đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Như thế, giáo lý cơ bản về Chúa Ba Ngôi trong đoạn này là:
- Chúa Cha là Đấng sai Chúa Con đến với loài người.
- Chúa Con vâng lời Chúa Cha đến với loài người để dạy loài người những lệnh truyền.
- Chúa Thánh Thần lại được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, để dạy loài người hiểu sâu hơn những lệnh truyền của Chúa Con.
- Thái độ con người phải có đối với Ba Ngôi: Yêu mến Chúa Con nên tuân giữ những điều Ngài dạy. Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ làm điều đó. Kết quả: Ba ngôi sẽ ““yêu mến”, “tỏ mình ra” và “ở trong” người ấy.
B. Nẩy mầm …
1. Làm Kitô hữu là được gia nhập gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương và chăm sóc chúng ta. Đó là một vinh dự và là một hạnh phúc to lớn. Cám ơn Chúa.
2. Thái độ đối xử đúng nhất của Kitô hữu với Ba Ngôi Thiên Chúa là “nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ”, vì thế tỏ ra mình yêu mến Thiên Chúa, và được Ngài yêu mến, tỏ mình ra và ở trong ta.
3. Hai cha con thoả thuận: ông sẽ mua cho cậu một chiếc xe đẹp hơn nếu cậu cạo râu, cắt tóc dài và đọc Thánh kinh mỗi ngày. Xe mua về, cậu đọc sách nhưng không cắt tóc và cạo râu. Khi ông đe dọa, cậu nói: “Con đang đọc về Chúa Giêsu, Ngài để tóc dài và râu dài”. Ông bố nói: “Đúng, Ngài đã để râu và tóc, nhưng Ngài luôn thi hành ý Cha”. (Góp nhặt).
4. Trong cuốn sánh 'The Living Stone' có một câu chuyện như sau: Jonathan là được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thần khả kính. Ngày vị thần sắp lìa trần, ông gọi Jonathan về để gặp lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối của ông chỉ vỏn vẹn có mấy chữ “Hãy hành động vì lòng yêu mến”.
Chúa Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản “Ai nghe và giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Chúa Giêsu không đòi hỏi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính… Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình yêu, sẵn sàng cho đi tất cả vì người mình yêu, chứ không dừng lại ở những rung động ở thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (Mỗi ngày một niềm vui).
5. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại nơi người ấy”.
Mỗi lần, bạn ấy xin cha mẹ đi chơi, chúng tôi đều cười nhạo: “Lớn rồi mà còn xin với xỏ. Mình trưởng thầnh rồi, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm tuỳ ý”. Bạn ấy đã giải thích một cách đơn sơ nhưng hợp lý hợp tình: “Hẳn ba má không cần tôi xin, nhưng chắc chắn ba má tôi rất vui khi tôi xin phép như vậy. Tôi làm thế để được làm con và làm con thảo của ba mẹ tôi”.
Hẳn Chúa cũng rất vui khi tôi quan tâm lắng nghe và tuân giữ lời Ngài, để Ngài có thể đưa tôi vào sự hiệp thông tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết yêu mến và thực hành Lời Chúa để luôn được hiệp thông với Ngài. (Epphata)
Hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi.
1. Sách Giáo Lý Chung số 234 dạy: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Đây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo “phẩm trật các chân lý đức tin” (DCG 43). “Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mặc khải, để giao hòa và kết hợp với Người những ai từ bỏ tội lỗi” (DCG 47).
Làm Kitô hữu là được gia nhập gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương và chăm sóc chúng ta. Đó là một vinh dự và là một hạnh phúc to lớn. Chúng ta hãy hết lòng cảm tạ ơn Chúa.
Thái độ đối xử đúng nhất của Kitô hữu với Ba Ngôi Thiên Chúa là nghe các giới răn Chúa truyền và tuân giữ.
Trong cuốn sách Tảng Đá Sống Động “The living stone”, có một câu chuyện như sau: Gionathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thần khả kính. Ngày vị thần sắp lìa trần, ông gọi Gionathan về để gặp lần cuối. Gionathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời trăn trối của ông chỉ vỏn vẹn có mấy chữ “Hãy hành động vì lòng yêu mến”.
Chúa Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản “Ai nghe và giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,23). Chúa Giêsu không đòi hỏi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính. Tuy nhiên, một tình yêu đúng nghĩa là một tình yêu luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình yêu, sẵn sàng cho đi tất cả vì người mình yêu, chứ không dừng lại ở những rung động có tính cách xác thịt đầy lòng vị kỷ của mình (Mỗi ngày một niềm vui).
2. “Ai yêu mến Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại nơi người ấy” (Ga 14,23).
Thánh Phanxicô Assisi có lòng yêu mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một người bạn, người này nói với thánh nhân rằng, ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được.
Đang khi hai người đi đường thì gặp một hành khất vừa mù, vừa què. Thánh nhân hỏi người hành khất:
- Nếu tôi chữa cho anh để anh thấy và đi được thì anh có yêu mến tôi không?
Người hành khất trả lời:
- Thưa Ngài, không những tôi yêu mến Ngài mà xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ Ngài.
Nghe câu trả lời của người hành khất, thánh nhân quay sang người bạn đang đứng bên Ngài nói:
- Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được, thế mà còn hứa với tôi như thế, huống hồ là anh, không những anh được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn, Ngài lại còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh. Vậy mà anh lại không yêu mến Ngài sao?
Yêu Chúa, đó là bổn phận của mỗi người chúng ta. Nhưng thế nào là yêu Chúa?
Yêu mến Chúa không phải chỉ là làm một số việc đạo đức bên ngoài như đọc kinh dâng lễ, còn cuộc sống thì sao cũng được. Yêu Chúa như thế chưa đủ mà còn phải sống nữa.
Một người thanh niên có lòng yêu mến cha mẹ nên mỗi lần, bạn ấy đi đâu bạn ấy đều xin phép cha mẹ. Một số bạn bè thấy thế liền cười nhạo:
- Lớn rồi mà còn xin với xỏ. Mình trưởng thành rồi, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm tuỳ ý.
Người bạn ấy đã giải thích một cách đơn sơ nhưng hợp lý hợp tình như thế này:
- Hẳn ba má đã không cần tôi xin, nhưng chắc chắn ba má tôi sẽ rất vui khi tôi xin phép như vậy. Tôi làm thế để được làm con và làm con thảo của ba mẹ tôi.
Hẳn Chúa cũng rất vui khi chúng ta biết quan tâm lắng nghe và tuân giữ lời Ngài, để Ngài có thể đưa chúng ta vào sự hiệp thông sâu xa với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa! Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Augustinô)
Chúa nói với các tông đồ qua bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy ai kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy cũng yêu mến, và tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14, 21). Qua đó chúng ta thấy rằng:
-Giới răn Chúa truyền ban xuống cho con người chúng ta để chúng ta thực hiện mà sống tốt hơn thì làm sao chúng ta nhớ hết được. Nhưng mà Chúa đã nói một cách rất rõ ràng và hết sức quá ngắn gọn với chúng ta là chỉ có: “Mến Chúa, yêu người” (Mt 22, 34 – 40) thôi mà.
-Tuân giữ giới răn Chúa truyền: Chúa dạy “Mến Chúa, yêu người” là bản tóm tất cả lề luật Chúa ban như thế. Điều đó mặc dù rất đơn sơ, giản dị, rất dễ hiểu, nhưng khi đem ra thực hiện trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy bản thân mình không làm nổi hết được.
Như vậy, dù chúng ta có hiểu, hay không hiểu, có hiểu ít hay là hiểu nhiều, có thực hiện được bao nhiều phần trăm, hay không thực hiện được điều Chúa nói hôm nay đây, là do bản tính con người chúng ta là thụ tạo, quá yếu đuối, quá tội lỗi, quá bất tài…. Chúng ta vẫn biết khi chúng ta tuân giữ lời Chúa nói thì phần lợi thuộc về chúng ta, Chúa sẽ ở với chúng ta, và có Chúa là chúng ta có tất cả (St Têrêsa Avila), chúng ta sẽ được hạnh phúc: “Ông Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian? Chúa Giêsu trả lời: Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy” (Ga 14, 22 – 23). Còn khi chúng ta không thực hiện lời Chúa dạy, chứng tỏ chúng ta không yêu mến Chúa, không thuộc về Chúa, làm sao Chúa gìn giữ, bảo vệ, chở che chúng ta được: “Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy” (Ga 14, 24). Vì thế, chúng ta cần phải nỗ lực, phải cố gắng vượt qua chính bản thân mình hơn nữa để thực hiện lời Chúa dạy.
Chúa ban giới luật của Chúa cho chúng ta và Chúa biết khả năng của chúng ta có giới hạn đủ điều, và nếu không có ơn Chúa thì không thể làm được gì, vì thế, có Đấng mà Chúa nói sau này sẽ được Chúa Cha sai đến với chúng ta nhân danh Chúa, chính Người sẽ dạy chúng ta mọi điều và nhắc nhở chúng ta tất cả những điều Chúa dạy để chúng ta sống tốt, sống theo ý Chúa. Đấng đó chính là Đấng Phù Trợ, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa: “Lời mà các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 25 – 26). Khi chúng ta đã có Chúa Thánh Thần ở với chúng ta, vậy chúng ta hãy ra sức cộng tác với Chúa Thánh Thần để Ngài giúp chúng ta hiểu và tuân giữ các lệnh Chúa truyền, ngõ hầu chúng ta thuộc về Chúa, và được ở với Chúa và Chúa ở với chúng ta.
Lạy Chúa phục sinh, Đấng cầu bầu cùng Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, xin Chúa giúp chúng con biết thể hiện lòng yêu mến Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, hết ý chí ngang qua việc chúng con sống đoàn kết yêu thương nhau, một lòng một ý giúp nhau nên thánh, xin cho chúng con biết sống trung thành với Chúa, mặc cho đời có thăng trầm đổi thay gì đi chăng nữa. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 5 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chỉ có Chúa mới làm cho chúng ta nên một lòng một ý, xin Chúa cho tất cả chúng ta biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng ta vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật.
Yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để chiến thắng cùng với Đấng chiến thắng, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Đấng Mêsia chiến thắng khải hoàn, ta sẽ thấy một người cưỡi ngựa xuất hiện trên trời. Phải đọc các ngôn sứ mới hiểu nhân vật này là ai. Người khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: Lời của Thiên Chúa. Người đạp trong bồn đạp nho chứa thứ rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa Toàn Năng. Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: Vua các vua, Chúa các chúa.
Yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để trở thành thụ tạo mới trong công trình sáng tạo mới, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Ghêgôriô Nítxê nói về: Trưởng Tử trong tạo thành mới… Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới.
Yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để luôn tìm kiếm vinh danh Chúa hơn, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ, ông Phaolô nói: Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ những cái hão huyền, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 113B, vịnh gia kêu xin: Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng lạy Chúa, xin đừng, nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương. Sao chư dân lại nói: Thiên Chúa chúng ở đâu?
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều. Thánh Thần sẽ dạy, sẽ làm cho nhớ lại mọi điều, mà Đức Giêsu đã nói. Đức Giêsu đã nói gì? Người nói về một tạo thành mới, một sự sống mới sinh ra không bởi khí huyết, nhưng, bởi Thiên Chúa. Sự sống mới được cưu mang nhờ đức tin, được đưa ra ánh sáng nhờ phép rửa tái sinh, được Mẹ Hội Thánh dùng lời giáo huấn mà nuôi dưỡng, có lương thực là bánh bởi trời, và gia tài sản nghiệp là hạnh phúc thiên đàng. Đây là ngày Chúa đã làm ra, là ngày khởi đầu một cuộc sáng tạo mới, là ngày Thiên Chúa làm ra trời mới, đất mới: Trời là cung lòng tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Đức Kitô; và đất là tâm hồn thiện hảo, làm trổ sinh nhiều gié lúa trĩu hạt. Trong cuộc sáng tạo mới này, mặt trời là đời sống trong sạch; tinh tú là các nhân đức; khí trời là cách ăn nết ở quang minh chính đại; biển khơi là sự khôn ngoan, thông biết sâu thẳm; và cây sinh trái nhờ việc tuân giữ giới luật yêu thương của Chúa. Đây là ngày Chúa đã làm ra: làm tiêu tan mọi nỗi đau đớn do cái chết gây ra, là ngày sinh ra Vị Trưởng Tử trong số những kẻ chết. Đấng vốn là Con Một Thiên Chúa, mà đã làm người vì ta, nên đã làm cho ta trở thành anh chị em của Người, và thành con cái của Cha trên trời. Nếu chúng ta tin nhận Thiên Chúa là Cha, thì, chúng ta cũng phải nhìn nhận nhau là anh chị em. Chỉ có Chúa mới làm cho chúng ta nên một lòng một ý, xin Chúa cho tất cả chúng ta biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng ta vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy".
Con người thời nay gần như có mọi sự. Nhưng tiếc thay nhiều người lại không có một điều rất quan trọng, đó là bình an ở nơi tâm hồn. Nhiều người bị mất ngủ, căng thẳng, suy sụp, chán đời, tự tử. Có người rơi vào tình trạng nghiện ngập, bạo hành hay trụy lạc. Gia đình cũng chẳng bình an khi gặp cảnh xung đột, ly dị, ngoại tình. Con người nôn nóng đi tìm bình an. Có người tìm đến những giáo phái, liệu pháp tâm lý hay đơn giản là tập thở. Bình an phải chăng chỉ là kết quả của cố gắng từ phía con người? Tự sức con người có thể tạo ra bình an cho mình, gia đình và thế giới không? Khi thấy các môn đệ xao xuyến và sợ hãi trước việc Thầy sắp ra đi, Đức Giêsu đã nói câu mà chúng ta không ngừng lặp lại trong mỗi Thánh lễ. “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (c. 27). Bình an là quà tặng cao quý của Thầy Giêsu khi Thầy sắp trở về với Cha qua cái chết thập giá (c. 28). Bình an cũng là quà tặng của Chúa Giêsu phục sinh khi Ngài hiện ra cho các môn đệ đang đóng cửa vì sợ hãi: “Bình an cho anh em” (Ga 20, 19.21.26). Như thế các môn đệ vẫn phải luôn bình an trước và sau cái chết của Thầy. Đời sống Kitô hữu được bình an không phải vì không gặp sóng gió, nhưng là bình an giữa những sóng gió. “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33). Bình an của chúng ta dựa trên chiến thắng của Đức Giêsu. “Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu chúng ta” (Rm 8, 37). Đức Giêsu nhìn nhận thế gian có khả năng ban cho chúng ta bình an. Nhưng Ngài phân biệt thứ bình an ấy với thứ bình an của Ngài. Chúng ta tự hỏi mình có tìm bình an dựa trên sự vững bền mong manh của tiền bạc, sắc đẹp, chức quyền, tài năng, tri thức không? Sự bình an mà chúng ta nhận được và trao cho nhau trong mỗi Thánh lễ có thật sự gây âm vang trong cuộc sống đời thường của ta không? Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông, giữa những sôi nổi của thành công và ê chề của thất bại, xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu. Giữa những đam mê quay cuồng, giữa những khát khao thèm muốn và những trói buộc của sợ hãi, âu lo, xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu. Giữa lúc bị cuộc đời từ khước, giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông, chẳng có ai để cậy dựa, xin trở về với cõi riêng bên Giêsu, để một mình ở đó, trầm lắng và bình an. ---------------------------------
Cuộc đời luôn có mâu thuẫn. Vì thế phải chiến đấu. Như Chúa Giê-su.
Mâu thuẫn đi – đến. Chúa ra đi nhưng không vắng mặt. Mà để hiện diện. Vắng mặt thể lý. Nhưng hiện diện mầu nhiệm. Hiện diện bí tích. Hiện diện thực sự tích cực hơn.
Mâu thuẫn thế gian - Chúa Cha. Chúa đi vì Thủ lãnh thế gian đến. Không phải Chúa chịu thua ác thần. Nhưng chỉ vì muốn làm trọn thánh ý Chúa Cha.
Mâu thuẫn chiến đấu - bình an. Từ bỏ thế gian để làm theo ý Chúa Cha. Đây là cuộc chiến đấu quyết liệt. Vì trong thế gian có ta. Ý riêng của ta giống với thế gian. Trái với ý Cha. Chỉ khi từ bỏ chính mình ta mới bình an.
Mâu thuẫn biến động - bất biến. Cả thế gian xao động. Toa rập nhau chống lại Chúa. Từ vua chúa đến thượng tế. Từ dân chúng đến môn đệ. Và ý riêng. Chúa Giê-su giữ tâm hồn bất biến. Luôn kết hợp với Chúa Cha. Luôn vâng lời Cha.
Chúa đạt đến bình an. Chúa để lại bình an đó cho ta. Bình an là chính Chúa. Vì thế ta phải chiến đấu để đạt tới Chúa. Như thánh Phao-lô vượt qua mâu thuẫn.
Đi – đến. Khi Chúa còn ở dương gian, thánh nhân chưa hề gặp Chúa. Nhưng khi Chúa đã ra đi, thánh nhân gặp Chúa sống động, mãnh liệt. Thay đổi cả cuộc đời.
Thế gian – Nước Trời. Hôm nay người ta đã ném đá. Để ngài thoi thóp ngoài thành. Nhưng ngài không sợ đau khổ, vất vả. Vì ngài làm theo ý Chúa.
Chiến đấu – bình an. Thánh nhân đã chiến đấu quyết liệt. Với ác thần. Với công việc. Với thiên nhiên. Với chính mình. Để đạt tới bình an trong tâm hồn.
Biến động – bất biến. Cuộc đời ngài đầy xáo động. Vì vua chúa kết án. Vì thượng tế tố cáo. Vì dân chúng hành hung. Nhưng tâm hồn ngài bất biến. Giứ được tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến.
Xin cho con nhận được bình an của Chúa. Cho con biết vượt qua mọi mâu thuẫn trong đời. Để con đạt tới chính Chúa. Là nguồn bình an đích thực.
Các môn đệ ngày xưa đã được nghe Chúa Giêsu chia sẻ tâm tình của Ngài khi Ngài cùng với các ông ngồi bên cạnh nhau trong bữa tiệc ly. Chúng ta cũng đã nghe lại những lời thân thương đó mỗi khi chúng ta cùng với Ngài và với nhau dâng Thánh Lễ. Giáo Hội đặt để những lời thân thương ấy sau kinh Lạy Cha và trước khi chúng ta đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta chứng minh được bao bọc trong bình an của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhất là chúng ta đã dọn lòng mình đủ để có Chúa ngự trong lòng chúng ta.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu thực sự tin rằng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô không chấp nhất gì tội lỗi của chúng ta mà dựa trên đức tin của Giáo Hội, của cộng đoàn dân Chúa đã ban cho chúng ta, cho Giáo Hội được ơn hiệp nhất và bình an. Chắc chắn là Giáo Hội rất rõ điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng". Và chúng ta cũng phải hiểu được điều đó để hân hoan với bình an mà Chúa ban cho chúng ta. Thế gian là gì trong nhãn quan của thánh Gioan.
Thế gian là ma quỉ, là mãnh lực của ma quỉ, là thế giới của ma quỉ, là tất cả những con người và những sinh hoạt đồng lõa với ma quỉ. Bình an của thế gian này ban tặng là bình an có được do vũ lực, do đàn áp, do chiến tranh, do mưu mô xảo quyệt, do tội ác, do chiếm đoạt và đe dọa, mong manh biết bao sự bình an tạm bợ này, chỉ cần một vài thay đổi rất ư là đơn giản thì cũng đủ để cho người ta mất đi bình an và lại rơi vào hoảng sợ, vào dằn vặt. Ma quỉ và đồng lõa của ma quỉ vốn dĩ rất quen thuộc với chiến lược trở mặt như trở bàn tay, và vì thế không ít những người trở thành nạn nhân của sự bình an do chúng tạo nên. Còn bình an của Chúa ban cho lại là sự bình an của những người được tha thứ tất cả. Bình an của một con người thấy thanh thản trong thân xác và nhẹ nhàng trong tâm hồn. Bình an của một cuộc đời có Thiên Chúa. Sự bình an bất chấp những khó khăn, bất chấp mọi thử thách. Sự bình an của một con người không thấy hổ thẹn gì khi ngước mắt nhìn lên trời, đưa mắt nhìn chung quanh và nhắm mắt lại nhìn vào chính mình.
Lạy Cha chí thánh, là con người ai cũng khao khát bình an và có rất nhiều người thấy hãnh diện vì sự an toàn nhất thời họ có được ở trần gian này, khi họ dựa cậy vào quyền lực hoặc là do một con người hay của một nhóm người, thực tế cho thấy bình an ấy quá mong manh. Các con cảm tạ Cha vì sự bình an ban cho chúng con qua Chúa Giêsu và với tác động của Chúa Thánh Thần. Sự bình an của Ðấng bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ mặc, bị coi là điên khùng và bị treo lên giữa những tử tội trộm cướp, ngày thứ ba Ngài đã sống lại. Chúng ta thật hạnh phúc vì có được sự bình an ấy.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em”. Các bạn hãy suy nghĩ xem những lời chúc đó có ý nghĩa gì? Có phải như những lời chúc đầu năm mới, chúc Giáng sinh, chúc Phục sinh hay những ngày lễ kỷ niệm? Đó là kiểu chào, không còn gì hơn nữa sao? Nếu như thế, chúng ta chưa hiểu rõ những lời của Chúa. Ơn bình an của Chúa không phải như món quà gói gọn im lìm. Ơn bình an là sức mạnh hoạt động mạnh mẽ, nghĩa là: Thầy ban cho anh em sức mạnh bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em sức hoạt động bình an của Thầy. Anh em sẽ làm chứng và sống thực hiện sự hòa giải, hòa hợp để đem lại bình an. “Phúc cho ai hoạt động cho bình an”.
Nhưng người ta có thể trách Chúa rằng: Ngài trao trách nhiệm hòa bình cho chúng tôi, Ngài bắt chúng tôi thừa kế và ban phát hòa bình, còn Ngài lại ra đi, Ngài để lại cho chúng tôi lời cam kết ban hòa bình. “Thầy sẽ ra đi”.
Sự ra đi của Đức Giêsu, sự xa cách của Người là để thực hiện một sự hiện diện thiêng liêng có mặt ở khắp mọi nơi, cho hết mọi người. Ơn bình an của Người là một cách Đức Giêsu tiếp tục với chúng ta thực hiện công cuộc cứu độ của Người.
Ngài ở với chúng ta bằng cách hiện diện thiêng liêng này, còn có ý tôn trọng tự do của chúng ta. Người hành động nơi chúng ta như cha mẹ đối với con cái, từ từ trao trách nhiệm và tự do cho con cái. Chúng xa cha mẹ mà vẫn được cha mẹ nâng đỡ, chở che và yêu mến.
Mỗi buổi họp các tín hữu, mỗi lúc dự Thánh lễ, Đức Giêsu đều ban bình an cho chúng ta. Người không áp đặt chúng ta nhận bình an, nhưng Người chỉ cho chúng ta thấy rằng sự hiện diện của Người ở trần gian tùy thuộc vào sự nhiệt tâm hăng hái của chúng ta, ra công xây đắp hòa bình. Sự biểu dương của hoàng tử hòa bình được chiếu sáng qua những cuộc hòa giải tốt của chúng ta, và qua những tấm lòng khoan dung tha thứ mau lẹ của chúng ta.
“Bất thần tôi cảm thấy xao xuyến lo âu khi nghĩ đến những người Công giáo Đức. Tôi không biết họ cảm nghĩ thế nào, khi chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Tôi cảm thấy nhu cầu cần phải dâng việc rước lễ để cầu nguyện cho nước Đức. Tôi hiểu rằng chúng ta cần phải cầu nguyện cho sự canh tân luân lý và tinh thần của xứ sở đã từng sống dưới sự cai trị của Đức Quốc Xã”.
Những dòng tâm sự trên đây được trích từ Nhật ký thiêng liêng của một người đàn bà Pháp được xem là người đã khởi xướng phong trào Pax christi – Hòa bình của Chúa Kitô. Sinh trưởng trong một gia đình trưởng giả, nhưng bà Marc đã có một đức tin sốn động và nhiệt thành. Trong thời Đức Quốc Xã chiếm đóng Pháp, dưới sự hướng dẫn của cha linh hướng, bà đã bắt đầu viết nhật ký thiêng liêng và chính những trang nhật ký này đã làm phát sinh một phong trào về sau được gọi là “Hòa bình của Chúa Kitô”. Cuối năm 1944, vào giữa lúc thế chiến thứ hai còn sôi động, bà xác tín rằng cần phải cầu nguyện cho sự hoán cải của nước Đức. Ý tưởng này không được nhiều người đón nhận, bởi vì chiến tranh vẫn còn sôi sục và người ta khó chấp nhận tinh thần hòa giải. Tuy nhiên, bà vẫn kiên trì trong việc thành lập một phong trào cầu nguyện cho nước Đức được ơn trở lại. Sau khi nước Đức đầu hàng, phong trào đã lan rộng tại nhiều nước Âu châu. Ngoài mục đích cầu nguyện và gây ý thức về hòa bình, phong trào còn đưa ra những sáng kiến về hòa bình. Từ 50 năm qua, đóng góp lớn lao nhất của phong trào này không chỉ là cổ võ cho hòa bình thế giới, mà thiết yếu là làm cho thế giới hiểu được hòa bình mà Chúa Kitô mang lại cho con người.
“Hòa bình của Chúa Kitô”. Quả thực chỉ có Chua Kitô mới đem lại hòa bình đích thực cho con người. “Ta để lại bình an cho các con, Ta ban bình an của Ta cho các con”. Sự bình an mà Chua Kitô đem lại cho con người không giống như bình an hay hòa bình mà thế gian hứa hẹn. Sau thế chiến thứ II quả thực ở quy mô thế giới tiếng súng đã hầu như im bặt. Tuy nhiên lịch sử cho thấy: sau thế chiến thứ II, nhân loại vẫn chưa có hòa bình đích thực, lò thuốc súng vẫn còn đó, chiến tranh bằng những súng đạn không diễn ra giữa hai khối kình chống nhau nhưng lửa hận thù lại bùng nổ ở những nơi khác.
Hòa bình mà Chúa Kitô đem lại cho con người trước tiên và thiết yếu là bình an trong tâm hồn. Hòa bình đó, bình an đó chỉ có khi con người chiến thắng được kẻ thù khủng khiếp nhất là tính tham lam, ích kỷ, hận thù. Bom đạn có im tiếng, nhưng bao lâu lòng tham lam, ích kỷ, hận thù vẫn còn sôi sục trong tâm hồn con người, thì bấy lâu chiến tranh vẫn còn đó.
Chúa Giêsu là nguyên ủy của hòa bình. Ngài đã thực sự chiến thắng được kẻ thù căn cội và khủng khiếp ấy bằng cả cuộc sống hiến thân và hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Chỉ Ngài mới có thể đem lại hòa bình đích thực cho nhân loại. Người kitô hữu tin như thế và họ đón nhận sức sống thần linh của Ngài để nhờ đó cũng chiến thắng được kẻ thù căn cội của hòa bình là ích kỷ, tham lam, hận thù.
Hòa bình của Chúa Kitô, đó là hồng ân cao cả mà chúng ta phải không ngừng cầu xin và đó là hòa bình mà chúng ta luôn được mời gọi thể hiện bằng cuộc sống quảng đại, yêu thương và tha thứ.
Bình an là thứ mà con người mọi thời, mọi nơi, từ già đến trẻ, từ người có quyền lẫn người bình dân, ai ai cũng mong muốn và khao khát chiếm hữu cho kỳ được.
Tuy nhiên, bình an mà con người tìm kiếm ở đây, chính là thứ bình an trong trạng thái: không chiến tranh; không bị áp bức, bóc lột; không ốm đau bệnh tật; không tai nạn rủi ro...
Nhưng điều con người ước mong đó chỉ là thứ bình an bề ngoài, nó không có chiều sâu và không chi phối hạnh phúc vĩnh cửu. Nó cũng không thể thiết thực và tồn tại với thời gian. Bởi vì, sự bất ổn trong xã hội cũng như tâm lý bất an của con người luôn hiện diện và đeo bám chúng ta cách song song.
Vì thế, chiến tranh vẫn còn đó từ thời Đức Giêsu cho tới ngày nay. Con người vẫn phải chịu cảnh đau khổ, tai ương, đối xử bất công... Nhân loại cũng luôn phải đối diện với những căn bệnh thế kỷ mới của thời đại, gây nên sự chết chóc, tang thương...
Như vậy, nếu chỉ mong được bình an hòng tránh khỏi những điều bất trắc trên thì nó không đảm bảo hạnh phúc cho chúng ta. Còn bình an mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ:
Nếu muốn được bình an thực sự, trước tiên phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới cảm nghiệm được sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Bởi lẽ: bình an của Đức Giêsu chính là bình an ngay trong những khổ cực đau thương, bách hại, mất mát và ngay trong những hiểu lầm oán ghét, bất công... Như vậy, ơn bình an này chính là ân huệ đức tin và hệ quả của bình an chính là đem lại ơn cứu chuộc cho con người chứ không phải đem lại cho con người sự an tâm, đảm bảo phần xác.
Sự điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống tình trạng bình an của Chúa ngay trong những trái ngang của cuộc đời và xã hội. Tức là, cho dù cuộc sống có bất công, con người có tàn nhẫn, đâu khổ có dồn dập, kẻ thù có lộng hành, sự ác có chiến thắng, thì với chúng ta, những người tin Chúa, chúng ta hãy nhìn tất cả chiều kích đó dưới con mắt đức tin và tâm niệm rằng: tất cả đều sinh ích cho người có lòng yêu mến Chúa, và với ân sủng của Chúa, thì Ngài có thể biến từ sự dữ trở nên sự lành.
Có được tâm tình đó, chắc chắn chúng ta có được sự an bình thư thái, và bình an của Chúa sẽ ngự trị nơi tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, ơn ban bình an của Chúa là quà tặng vô giá Chúa ban cho các môn đệ và cũng cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con luôn được ở trong sự bình an đó hôm nay và mãi mãi. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ. Đây là sự bình an siêu nhiên, tức là ơn cứu độ đến từ Chúa Cha. Chỉ những ai tin tưởng và thi hành ý Chúa Cha mới nhận được sự bình an này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước giờ phút Chúa đi vào khổ nạn, Chúa nhìn thấy tâm hồn các tông đồ xao xuyến sợ hãi. Chúa cũng đang nhìn thấy mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày đầy những gian nan thử thách, những vất vả khổ đau, những lo lắng căng thẳng, nhất là những đam mê tội lỗi. Tất cả đang làm con sợ hãi xao xuyến. Chúa đã thương ban bình an cho các tông đồ, thì giờ đây xin Chúa cũng thương ban bình an cho đời sống con.
Trong giờ phút khổ đau nhất, tâm hồn Chúa vẫn tràn ngập bình an, bởi vì Chúa luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha và biết rằng mình đang thực hiện Thánh Ý Chúa Cha. Vâng, đó chính là sự bình an mà Chúa muốn ban cho con. Con tin tưởng Chúa Cha luôn yêu thương và gìn giữ con. Như thánh Phao-lô, con tuyên xưng rằng: ai có thể tách con ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Trong mọi thử thách ấy, con sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến con. Con tin chắc rằng không có gì tách được con ra khỏi tình yêu của Chúa Cha thể hiện nơi cuộc sống của Chúa.
Xin Chúa cũng giúp con theo gương Chúa luôn thi hành Ý Chúa Cha, để nhờ đó mà được bình an trong mọi giây phút. Trong mọi việc, con chỉ mong tìm một phần thưởng duy nhất là biết mình đang làm theo Ý Chúa Cha. Con quyết tâm xa tránh tội lỗi là căn nguyên làm cho tâm hồn con rối loạn. Nhưng lạy Chúa, con quá yếu đuối, xin Chúa giúp con. Amen.
Hôm ấy trên con tàu lênh đênh giữa biển, hành khách truyện vãn với nhau, trong đó có bàn về Thiên Chúa. Trong số những người có mặt, có một vị vô thần. Ông này tìm mọi lẽ bác bỏ Thiên Chúa. Lời ông nói, lý ông đưa ra khá mạnh, khiến một số thính giả xiêu lòng. Thình lình có cơn bão lớn khiến con tàu muốn đắm. Người ta thấy mất ông vô thần. Họ bảo nhau đi kiếm thì thấy ông đương quỳ cầu nguyện trong phòng rửa mặt.
Một người hỏi khích ông: “Ông cầu nguyện với ai? Ông là người vô thần cơ mà?”. Ông khiêm nhường đáp: “Người ta chỉ vô thần khi bình an thôi”.
Suy niệm
Các tông đồ xao xuyến, sợ hãi trước sự loan báo ra đi bước vào cuộc khổ nạn của Thầy. Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ bàng hoàng xao xuyến. Chúa Giêsu hứa ban sự bình an: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Sự bình an không phải là tâm trạng tâm lý khoan khoái, sung sướng của con người về mặt tâm lý, hay vui sướng vật chất, cũng không phải là không có chiến tranh. Sự bình an đích thực mà Chúa Giêsu trao ban là ân huệ lớn lao từ nơi Chúa Cha. Ân huệ này chính là ơn cứu độ, ơn giải thoát ta khỏi sợ hãi và nô lệ tội lỗi khi được sống trong sự thật và ánh sáng của Chúa như cụ Simêôn đã cảm thấy toại nguyện, nên bộc phát cầu nguyện: “Xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ” (Lc 2,29-30).
Lời hứa “bình an” và hiệu quả cũng được Thiên Chúa trao ban cho những người tin, để sống với biết bao biến cố thăng trầm, để vượt qua những lo lắng nho nhỏ hàng ngày, để chiến đấu với những sự việc gây hoảng loạn trong đời. Bình an cũng là niềm hy vọng cho thời đại hôm nay trên bình diện rộng lớn quốc gia và thế giới đang trong khủng hoảng và sợ hãi trước bóng ma của bạo lực khủng bố, tranh chấp tôn giáo, chủng tộc, ý thức hệ… Ngôi nhà chung của nhân loại cần bình an của Chúa mang lại như lời hứa của Đức Kitô: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Xin ban cho mỗi người chúng ta, gia đình, khu xóm, giáo xứ sự bình an đích thực trong tâm hồn. Ðể cuộc sống của chúng ta không bị chao đảo, xao xuyến trước những thử thách khó khăn và được sống trong sự bình an của Chúa. Vì, “Chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14).
Ý lực sống: “Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em”. (Cl 3,15)
1. Khi nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bầu khí chuẩn bị chia tay – bữa tiệc ly – các môn đệ tỏ ra đau buồn và xao xuyến. Nhận thấy rõ như vậy, Ngài đã an ủi, khích lệ bằng cách dạy các ông phải bình tĩnh, và Ngài sẽ ban cho tâm hồn các ông được hưởng bình an của Chúa.
Trong lúc đang hoang mang sợ hãi như thế mà Đức Giêsu lại nói: “Thầy để lại sự bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Như thế, thứ bình an này hẳn là đặc biệt.
2. Bình an ở đây không phải là hòa bình, một tình trạng không chiến tranh, tranh chấp, cũng không phải là tâm trạng của người hết căng thẳng về tâm lý, hoặc tâm trạng khoan khoái thoải mái, sung sướng... là những trạng thái thuộc lãnh vực tự nhiên.
Theo ngôn ngữ của thánh Gioan, bình an, sự thật, ánh sáng, sự sống, niềm vui... là những từ diễn tả nhiều khía cạnh khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu từ Chúa Cha mang đến cho loài người. Ân huệ này chính là giải thoát, ơn cứu độ. Việc Đức Giêsu chịu chết để đem lại ơn giải thoát, việc Ngài phục sinh đem lại sự sống đời đời: đó là ân huệ lớn lao, là bình an mà Ngài ban nhằm trấn an các môn đệ (Trần Hữu Thành).
3. Nếu hiểu bình an là không có chiến tranh, tranh chấp, thì loài người chúng ta cũng không nhận được bình an của Chúa. Theo sự phát giác của một số sử gia, thì khoảng 150 năm trước Chúa Giêsu và từ Chúa Giêsu tới nay, thế giới mới thực sự hưởng thái bình hơn kém 300 năm, còn lại trên 3000 năm đã xẩy ra biết bao cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Ai cũng trông mong bình an, mà đâu có bình an.
Thực ra, khởi điểm của sự bình an đó là chính đời sống của mỗi người chúng ta, một đời sống hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình. Do đó, để có được bình an của Chúa là khi chúng ta sống theo điều răn của Chúa, chu toàn bổn phận của mình, và nếu chúng ta có bình an nơi mình, chúng ta sẽ có bình an với người khác. Nói khác đi, bình an trong gia đình và hòa bình trên thế giới là phản ánh của bình an nội tâm.
4. Là nguyên ủy của sự bình an, dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ rao giảng và thể hiện sự bình an mà thôi. Nhưng hòa bình hay bình an mà Chúa Giêsu mang đến như Ngài xác nhận trong bài Tin mừng hôm nay không phải là thứ hoà bình thế gian ban tặng. Hòa bình hay bình an của thế gian thường chỉ là hai chữ bình an đồng nghĩa với an phận, với trốn tránh, với thỏa hiệp. Hòa bình hay bình an Chúa Giêsu mang đến chỉ có thể có được bằng một giá đắt: nó đòi hỏi sự chiến đấu, chấp nhận mất mát, có khi cả mạng sống mình. Hòa bình hay bình an ấy chỉ có khi con người có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Lương tâm tôi không trách cứ tôi điều gì”. Chỉ khi lương tâm không trách cứ chúng ta điều gì, lúc đó chúng ta mới có được bình an hay hòa bình thực sự trong tâm hồn (Mỗi ngày một tin vui).
5. Michael Jackson, một danh ca nhạc rock nổi tiếng, đã đạt tới đỉnh cao danh vọng. Ước mơ của anh là được sống tới 105 tuổi, nên anh chẳng ngại thuê trực thăng đem khí oxy từ đỉnh núi cao về rồi bơm đầy phòng kính nơi anh ở để tránh mọi sự ô nhiễm. Liệu anh có thật sự an toàn và bình an trong căn phòng của mình?
Con người luôn khao khát được sống bình an và đã tìm kiếm bình an bằng tất cả những gì mình có. Tuy nhiên, họ chỉ có được sự bình an cách tương đối mà thôi. Bề ngoài trông họ có vẻ bình an, nhưng thật ra, bên trong tâm hồn, họ lại đầy những lo lắng và khổ đau. Đức Giêsu cho thấy chỉ Người mới có thể đem lại bình an đích thực cho con người, một thứ bình an nội tâm sâu xa. Bình an đó chỉ có khi con người biết cậy nhờ ơn Chúa giúp, để chiến thắng được kẻ thù lớn nhất là tính tham lam, ích kỷ, xấu xa, tội lỗi của mình.
6. Nếu chỉ mong bình an hòng tránh khỏi những bất trắc trong cuộc sống thì không đảm bảo hạnh phúc cho chúng ta. Còn bình an mà hôm nay Chúa Giêsu trao cho các môn đệ thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ: Nếu muốn được bình an thực sự, trước tiên phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới cảm nghiệm được sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Bởi lẽ: Bình an của Chúa Giêsu chính là bình an ngay trong những khổ cực đau thương, mất mát và ngay trong những hiểu lầm oán ghét, bất công... Như vậy, ơn bình an này chính là ân huệ đức tin và hệ quả của bình an chính là đem lại ơn cứu chuộc cho con người chứ không phải đem lại cho con người sự an tâm, đảm bảo phần xác.
7. Truyện: Bình an của Đức Giáo hoàng Gioan 23.
Ông Giacôbo Veisu, một nhà điêu khắc nổi tiếng của Italia đã viết hồi ký về những giây phút cuối đời của Đức Gioan 23 kể lại như sau:
Vào ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo dài, Linh mục Cabovila, bí thư riêng của Đức Thánh Cha, đến bên giường bệnh, hôn tay Ngài và hỏi xem Ngài cảm thấy thế nào. Đức Thánh Cha Gioan 23 trả lời:
- Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và bình an như thể tôi đang ở trong tay Chúa, nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo.
Linh mục Cabovila thưa:
- Xin Cha đừng lo, những người phải lo là chính chúng con đây. Chúng con đã nói chuyện với bác sĩ.
Đức Thánh Cha Gioan 23 ngắt lời:
- Họ đã nói những gì với con?
Linh mục bí thư nghẹn ngào nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, con muốn nói với Cha một sự thật. Hôm nay là ngày của Chúa, hôm nay là ngày Cha sẽ được về Thiên Đàng!
Nói xong, Linh mục bí thư quì gối xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy có một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng nói ôn tồn:
- Hãy ngước mắt nhìn lên! Bình thường người thư ký của Cha rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng sao bây giờ lại trở thành mềm nhũn như thế. Cha đã nói với Người Bề Trên của Cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng Linh mục!
Vâng đó là thứ Bình an đích thực mà Chúa ban cho những ai tin Chúa.
Những Lời này Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong hoàn cảnh Ngài sắp ra đi chịu nạn chịu chết. Trong lúc các ông đang hoang mang sợ hãi như thế mà Chúa Giêsu lại nói “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Như thế, thứ bình an này hẳn là đặc biệt.
Nó không giống thứ “Bình an mà thế gian ban tặng.”
Nó dựa trên căn bản là lòng yêu mến đối với Chúa, và niềm tin tưởng rằng Chúa đi rồi cũng sẽ trở lại.
Suy gẫm
1. Bình an của Chúa Giêsu mang đến không phải là thứ bình an mà thế gian ban tặng. Bình an của thế gian thường chỉ là đồng nghĩa với an phận, với trốn tránh, với thoả hiệp. Bình an của Chúa mang đến chỉ có thể có được bằng một giá đắt đỏ: Nó đòi hỏi sự chiến đấu, chấp nhận mất mát, có khi cả hy sinh mạng sống mình nữa. Bình an ấy chỉ có khi con người có thể thốt lên như Thánh Phaolô: “Lương tâm tôi không trách tôi điều gì.”
2. Còn gì quý hơn một cuộc sống mà tâm hồn luôn an bình thư thái. Bởi thế chúng ta có thể đề ra cho mình cả một chương trình sống mà mục tiêu là tạo dựng và gìn giữ bình an trong tâm hồn:
Làm tất cả những gì có thể mang lại bình an cho mình và cho anh chị em. Tránh gây ra xung đột, va chạm. Tìm cách giải hóa và hòa giải các mầm mống có thể gây bất an. Nhất là tránh tội lỗi là thứ làm xáo trộn mình nhiều nhất.
3. Một lần được phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêsa trực diện với một kẻ hỏi cắc cớ: “Bà yêu thương người nghèo điều đó rất tốt. Nhưng còn biết bao nhiêu người giàu có của Vatican và Giáo Hội thì sao?”
Mẹ nhìn thẳng vào người phỏng vấn và nói: “Thưa ông, ông không phải là người hạnh phúc. Có những điều đang sâu xé ông. Ông không có một chút bình an trong lòng.”
Lời đó làm ông xụ mặt, và mẹ tiếp tục khiến ông thêm quặn đau: “Ông nên có niềm tin tưởng.”
- Làm thế nào tôi có được niềm tin? - Ông nên cầu nguyện. - Nhưng tôi không thể cầu nguyện.
- Tôi sẽ giúp ông. Nhưng phần ông, ông nên cho những người xung quanh nụ cười. Một nụ cười làm ông gần những người khác. Nó mang sự thật về Thiên Chúa vào cuộc sống của chúng ta.
4. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng.”
Michael Jackson, một ca sỹ nhạc rock, anh đã đạt tới đỉnh cao danh vọng. Bây giờ ước mơ của anh là được sống tới 105 tuổi. Vì thế, anh chẳng ngại thuê trực thăng đem khí Oxi từ đỉnh núi cao, bơm đầy phòng kính nơi anh ở, để tránh mọi sự ô nhiễm.
Tôi tự hỏi: “Liệu anh có thật sự an toàn nơi phòng kín?”
Vâng, lạy Chúa, có nhiều lần con tự trấn an mình bằng những gì mình có, con chiếm hữu và lo giữ lấy. Trước bạn bè, con giả vờ như rất an tâm giữa những tiếng ồn ào, huyên náo; nhưng thật sâu bên trong lại chẳng an tâm. Xin ban cho con bình an của Chúa, thứ bình an mà không đau khổ nào có thể chạm tới, bình an của một tâm hồn luôn sống trong sự thật.
Hôm nay, chúng ta suy niệm về sự bình an Chúa ban.
1. Bình an của Chúa Giêsu mang đến không phải là thứ bình an mà thế gian ban tặng. Bình an của Chúa chỉ có khi con người có thể thốt lên như Thánh Phaolô “Lương tâm tôi không trách tôi điều gì” (1Cr 4,4).
Một người hành khất có dáng vẻ băn khoăn tiều tụy lạ thường. Sau manh áo rách rưới, ông còn đeo trên cổ một Thánh Giá vàng mà ai cũng có thể trông thấy.
Ngày ngày, ông ta tới xin ăn trước cửa một nhà thờ ở Paris. Người quen thuộc nhất của ông là một Linh mục trẻ. Vị Linh mục thường đến dâng lễ ở nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, Linh mục thường có thói quen hỏi han và giúp đỡ người hành khất này.
Bỗng một hôm, vị Linh mục không thấy người ăn xin ấy trước cửa nhà thờ nữa. Ngài đã tìm đến để thăm và giúp đỡ người hành khất này đang lúc ông ta lên cơn rét run, vì bệnh tật và đói ăn.
Cảm động trước nghĩa cử của Linh mục, người hành khất đã kể lại cuộc đời mình cho Linh mục nghe. Ông tâm sự rất thật, không giấu diếm điều gì. Ông nói:
- Lúc cách mạng bùng nổ thì tôi đang làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồng chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng, tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng đã đến và đã bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con bị bắt giữ và bị kết án tử hình. Chỉ có người con trai duy nhất là thoát được.
Nghe tới đây, vị Linh mục cảm thấy choáng váng mặt mày. Nhưng rồi ngài cũng cố gắng lấy lại được vẻ bình tĩnh. Người hành khất khều khào nói tiếp:
- Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Quả thật, tôi là một con quái vật khát máu. Nhưng sau đó tôi bỗng ân hận. Tôi bị lương tâm giày vò. Tôi không thể nào có được sự bình an trong tâm hồn nữa và tôi bắt đầu đi lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm để cố quên đi tội ác của mình… Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh gia đình họ trong túi áo này đây. Cây Thánh Giá treo ở đầu giường kia là của người chồng. Còn Thánh Giá bằng vàng tôi đeo đây là của người vợ… Xin Chúa tha thứ cho tôi.
Nghe xong những lời tâm sự và cũng là những lời tự thú trên đây, vị Linh mục trẻ quỳ gối xuống cạnh giường người hành khất đang hấp hối. Và thay cho một công thức giải tội, ngài nói:
- Tôi chính là người con trai còn sống sót của gia đình. Đại diện cho gia đình tôi và với tư cách là một Linh mục, tôi tha tội cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. (Người hành khất lạ thường)
Vâng, phải sống với một “Lương tâm không trách móc điều gì”, chúng ta mới có sự bình an của Chúa.
2. Thật chẳng có gì quý hơn một cuộc sống mà tâm hồn an bình thư thái. Muốn có được sự bình an đó, chính chúng ta phải tạo ra.
Lịch sử kể lại, Purna là một môn đệ của Đức Thích Ca. Một hôm, anh xin thầy cho anh được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Thấy môn sinh của mình có thiện chí nhưng Đức Phật vẫn sợ, sợ anh ta không kham nổi những thử thách tại nơi đó.
Đức Thích Ca cho anh biết:
- Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?
Purna thưa:
- Nếu thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây vẫn còn tốt lành, vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng võ lực, đánh đập và ném đá con.
Đức Thích Ca tiếp lời:
- Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?
Purna thưa:
- Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa- Ranta còn tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con.
Nghe môn đệ nói như thế, Đức Phật không khỏi ngạc nhiên, Ngài hỏi tiếp:
- Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?
Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp:
- Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người thật tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này.
Nghe vậy, Đức Thích Ca bảo:
- Purna, con đã tu tâm dưỡng tánh đến nơi đến chốn để có được sự ôn hoà, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bản tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.
Khi Chúa yêu mến và thực hiện trọn vẹn thánh ý của Chúa Cha, Chúa cảm thấy Chúa được bình an: “Nhưng để thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy” (Ga 14, 31a). Vì thế mà Chúa ban bình an cho con người chúng ta trên trần gian này không như thế gian ban tặng. Điều ấy có nghĩa là bình an mà Chúa Cha ban cho Chúa và rồi Chúa lại ban bình an ấy cho chúng ta khi chúng ta biết thực hiện điều Chúa truyền dạy: “Chúng ta có bình an đích thực là khi chúng ta thực hiện lời Chúa” (Ste Magarita Maria). Đàng khác: “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1, 19 – 20), bình an đó cũng xuất phát từ thập giá, từ cái chết và phục sinh của Chúa, cho nên bình an ấy là bình an đích thực, có căn nguyên, có nguồn gốc từ Thiên Chúa, cho nên bền vững, trường tồn, không thay đổi, không một ai lấy mất đi được.
Trong cuộc sống hàng ngày, những gì mà xảy ra như ý muốn của mình thì chúng ta cảm thấy cuộc này dễ thương vì nó ưu đãi mình, chúng ta cảm thấy mình bình an, không phải lo toan, bận tâm suy nghĩ. Do vậy ngày xưa các tông đồ theo Chúa, các ngài thấy Chúa của các ngài quá quyền uy trong lời nói và việc làm, cho nên các ngài cảm thấy hãnh diện, bình an, tin tưởng, phó thác. Nhưng hôm nay Chúa lại nói: “Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin” (Ga 14, 28 – 29), Chúa nói về cuộc ra đi của Chúa về với Chúa Cha, mà về với Chúa Cha thì Chúa phải chịu chết trên thập giá, sống lại để cứu con người chúng ta rồi Chúa mới trở về trời. Các tông đồ không hiểu nên các ngài hoang mang, lo lắng, xao xuyến, sợ hãi: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27b).
Lòng các tông đồ băn khoăn, xao xuyến, lo lắng, sợ hãi đã cho chúng ta thấy bản chất tính thận phận con người của các ngài. Các ngài theo Chúa mà lòng còn trĩu nặng kiếp bụi trần sự tham, sân, si, so đo, tính toán thiệt hơn tương lai ở trần thế (xMc 9, 33 – 37). Vì thế, Chúa dạy các ngài hãy tin tưởng nghe lời Chúa, yêu mến Chúa, làm theo ý Chúa và Chúa vẫn luôn ở với các ngài mọi nơi, mọi lúc, cho dù Chúa có đi, Chúa vẫn trở lại với các ngài, hướng các ngài về cuộc sống mai sau, lúc đó các ngài sẽ được ở với Chúa mãi mãi. Do đó, dù là quyền cao chức trọng, dù là bổng lộc dồi dào sung túc, dù là phú quý sinh lễ nghĩa, dù là uy quyền kinh thiên động địa ở cuộc sống này…, tất cả là tro bụi, là hư vô chẳng là gì với đối Chúa, là trống rỗng, thùng không đáy kêu to: “Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy” (Ga 14, 30). Như vậy, Chúa dạy các tông đồ từ trái tim, từ tình yêu của Chúa, để rồi qua đó chúng ta thấy rất nhẹ nhàng, rất chân tình và lời ấy sẽ đi sâu vào trong lòng, vào cuộc sống của các ngài. Chúng ta hãy sống như các tông đồ ngày xưa, nghĩa là sống thật với Chúa, để Chúa thương xót chúng ta như thương xót các ngài.
Lạy Chúa hằng sống của con người chúng con, nhờ Chúa sống lại, chúng con được Chúa cho trở thành con người mới để chúng con được sống muôn đời, xin cho chúng con luôn cậy trông tin tưởng vào Chúa, chắc chắn Chúa sẽ cứu chúng con sau này. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 5 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ mầu nhiệm Đức Kitô sống lại, Chúa đã tái tạo chúng ta, cho chúng ta được hưởng sự sống muôn đời, ước gì chúng ta đừng nghi hoặc, nhưng, luôn luôn tin cậy vững vàng sẽ thấy Chúa thực hiện những gì Chúa đã hứa.
Tin cậy vững vàng sẽ thấy những gì Chúa đã hứa, trong khi trông đợi ngày chiến thắng vinh quang, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Cuộc chiến thắng cuối cùng và cuộc xét xử, vào thời sau hết, sự dữ sẽ bị đánh bại, kẻ chết sẽ phục sinh, và thế giới của chúng ta sẽ phải nhường chỗ cho một thế giới mới. Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết. Bấy giờ Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ. Rồi Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa.
Tin cậy vững vàng sẽ thấy những gì Chúa đã hứa, trong khi không ngừng gắn bó mật thiết với Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Syrilô Alêxanria nói về: Thầy là cây nho, anh em là cành… Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em: Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Chính Thầy đã cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại.
Tin cậy vững vàng sẽ thấy những gì Chúa đã hứa, trong khi can đảm loan báo những kỳ công Chúa đã làm cho ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói: Hai Tông Đồ tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 144, vịnh gia kêu xin: Lạy Chúa, kẻ hiếu trung phải nói lên rằng: Triều đại Ngài vinh hiển. Để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang. Triều đại Ngài: thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đức Kitô phải chịu khổ hình, và từ cõi chết sống lại, rồi mới được hưởng vinh quang dành cho Người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Theo Chúa trong đau khổ, ta sẽ được ở với Chúa trong vinh quang. Bình an Chúa ban tặng không như bình an của thế gian. Để có được bình an của Chúa, ta phải thông phần vào những đau khổ của Đức Kitô, phải gắn bó với Người trong tình yêu, và nhờ kết hợp với Người, ta được thông phần bản tính của Người, do được thông ban Thánh Thần, vì Thánh Thần của Đức Kitô liên kết ta với Người. Những ai đến gắn bó với cây nho là Đức Kitô, thì đó là do ý thức tự nguyện; còn Người liên kết với ta, thì đó là do bản chất yêu thương của Người. Một khi được tháp nhập vào Đức Kitô, ta phải luôn gắn bó với lệnh Người truyền và ân cần duy trì địa vị cao quý của mình, nghĩa là, đừng bao giờ để cho Thánh Thần hằng ngự trong chúng ta phải buồn, dù chỉ một chút thôi, vì nhờ Thánh Thần, mà ta biết được rằng: có Thiên Chúa ngự trong ta. Như rễ cung cấp sức sống cho cành nho thế nào, thì Ngôi Lời, Con Một của Thiên Chúa, cũng chuyển thông cho ta bản tính của Người, cũng là của Chúa Cha, khi rộng ban Thần Khí cho những ai kết hợp mật thiết với Người nhờ đức tin. Người nuôi dưỡng ta, cho ta thêm sốt sắng đạo đức và cho ta hiểu biết mọi nhân đức cùng mọi điều thiện hảo, để ta luôn sống bình an trong Người. Nhờ mầu nhiệm Đức Kitô sống lại, Chúa đã tái tạo chúng ta, cho chúng ta được hưởng sự sống muôn đời, ước gì chúng ta đừng nghi hoặc, nhưng, luôn luôn tin cậy vững vàng sẽ thấy Chúa thực hiện những gì Chúa đã hứa. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy. "Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như nhành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi. "Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được. Đây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy".
Cây nho là một cây quen thuộc trên đất Palestin. Người ta trồng nho để ăn trái hay làm rượu. Đức Giêsu đã từng thấy những cây nho với những cành nho trĩu quả. Ngài muốn dùng hình ảnh này để nói lên tương quan giữa Ngài với môn đệ. “Thầy là cây nho, anh em là cành” (c. 5). Cành sống được, sinh trái được, là nhờ còn gắn liền với cây. Dòng nhựa nguyên từ cây sẽ nuôi sống cành. Như cành không tự mình sinh trái được (c. 4), người môn đệ cũng chẳng làm gì được nếu không gắn bó với Thầy (c. 5). Có một lối nói đặc biệt để diễn tả sự gắn bó này: ở lại trong. Cụm từ này được nhắc lại sáu lần như một điệp khúc (cc. 4-7). “Anh em hãy ở lại trong Thầy”: một lời kêu mời tha thiết của trái tim. Thầy Giêsu như xin các môn đệ đừng quay lưng trước tình yêu, vì tình yêu cần được đáp trả mới nên trọn vẹn. “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (c. 4). Cành nho không có tự do để chọn ở lại hay không ở lại. Chỉ con người mới có thể tự nguyện ở lại hay cố tình từ chối. Nhưng ở lại trong Thầy cũng có nhiều cấp độ. Chắc chúng ta đã ở lại trong Chúa Giêsu phục sinh đến một mức nào đó. Và cây đời của chúng ta đã sinh hoa trái ít nhiều. Nhưng chúng ta vẫn cần ở lại hơn để có trái nhiều hơn. Càng ở lại sâu, càng có trái nhiều, trái ngon, trái tồn tại mãi (cc. 5.8.16). Trái tỷ lệ thuận với việc chúng ta ở lại trong Chúa. Nét đặc sắc làm nên đời người Kitô hữu chính là chuyện của cây và cành. Cây và cành cùng sẻ chia một dòng nhựa sống. Kitô hữu không chỉ sống với Giêsu, sống như Giêsu, sống cho Giêsu, mà còn sống trong Giêsu, sống sự sống của Chúa Giêsu phục sinh. Chưa sống trong Giêsu, chưa thực sự là Kitô hữu. Chúng ta cũng không quên vai trò của Thiên Chúa Cha người trồng nho. Cây nho Giêsu được Cha vun trồng chăm bón. Các cành nho không sinh trái thì bị Cha chặt đi. Các cành đã sinh trái thì được Cha cắt tỉa để sinh trái hơn (c. 2). Cha cắt tỉa không vì độc ác, nhưng vì yêu, vì muốn điều tốt hơn cho cành nho. Chữ hơn giúp chúng ta hiểu được những cắt tỉa đau đớn trong đời mình. Có thể nói chính Đức Giêsu cũng đã được Cha cắt tỉa qua khổ đau, nhục nhã và cái chết kinh hoàng. Không phải vì Ngài chưa thanh sạch, nhưng để Ngài giống và gần ta hơn. “Điều làm Cha được tôn vinh là anh em sinh trái nhiều” (c. 8). Vinh quang của Cha không nghịch với sự triển nở thật sự của con người. Sự èo uột, cằn cỗi của chúng ta mới là nỗi nhục cho Thiên Chúa. Hãy sinh trái nhiều nhờ chấp nhận những cắt tỉa của Cha qua lời của Giêsu. Cầu nguyện:
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa. Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến. Con cần được thêm sức mạnh để khỏi ngừng lại dọc đường. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời. Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện. Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen. (Cha Piô) -------------------------------
Cây nho là hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh. Để diễn tả Dân Chúa, nhà Ít-ra-en. Nhưng Chúa Giê-su dùng cây nho để nói lên đời sống thiêng liêng thâm sâu nhiệm mầu.
Trước hết đó là đời sống kết hợp với Chúa. Hình ảnh cây nho và cành nho nói lên cuộc kết hợp thâm sâu. Nên một. Không chỉ là hình thức. Nhưng còn là sự sống. Cành và cây không chỉ liền lạc với nhau mà còn sống nhờ cùng một dòng nhựa, một sự sống. Sự sống từ thân cây chuyển sang cành cây. Thiên Chúa ban cho ta sự sống của Người.
Kế đến là đời sống kết hợp với anh em. Cây nho và cành nho là một toàn thể. Tất cả các cành, cùng với gốc rễ và thân, tạo thành một cây nho duy nhất. Sống bằng một dòng nhựa duy nhất. Dân Chúa là một cộng đồng. Không thể có tính cá nhân ích kỷ. Phải có hiệp thông. Với Chúa. Và với anh em.
Sau cùng là kết quả của đời sống kết hợp. Trổ sinh hoa trái. Cây cung cấp nhựa sống. Nhưng cành trổ sinh hoa trái. Để hoa trái tốt đẹp đòi hai điều kiện. Cành phải gắn chặt với thân. Và không được phung phí nhựa vào những cành lá dư thừa. Như thế bên trong ta phải kết hợp mật thiết với Chúa. Bên ngoài phải cắt tỉa những gì dư thừa. Thanh luyện những ô uế. Để sinh nhiều hoa trái.
Cộng đoàn tín hữu sơ khai là một Dân Mới của Chúa. Dân cũ chỉ có người Do thái. Dân Mới gồm cả người gốc Do thái và người gốc dân ngoại. Dân cũ là cây nho. Nhưng Dân Mới có Chúa Giê-su là cây nho thật. Dân cũ sống bằng Lề Luật. Dân Mới sống bằng Thánh Thần của Chúa Giê-su. Dấu chỉ của dân cũ là phép cắt bì. Dấu chỉ của dân mới là phép rửa trong Thánh Thần. Dân cũ cho rằng tự mình nên công chính bằng Lề Luật. Nhưng thực ra đó là những cành nho không gắn liền với thân nho. Nên không sinh hoa kết quả. Dân mới được thành hình và được sống nhờ kết hợp với Chúa Giê-su. Chính trong Chúa Giê-su mà dân mới sinh nhiều hoa trái. Điều đó được chứng nghiệm. Vì dân ngoại chỉ cần chịu phép rửa là nhận được Thánh Thần. Không cần đến phép cắt bì.
Nền văn minh kỹ thuật làm phát sinh nơi con người một não trạng kiện toàn duy vật. Người ta đánh giá con người với những tiêu chuẩn của sự sản xuất và hiệu năng. Con người được nhìn qua lăng kính của những sản xuất và chiếm hữu vật chất, như đồng lương, cái nhà, chiếc xe. Não trạng ấy không chừng áp dụng vào việc đánh giá sự sống còn của xã hội. Hình ảnh của những cành nho phải sinh trái trong Tin Mừng hôm nay phải chăng không củng cố cho cái nhìn ấy. Phải chăng một Giáo Hội có sức sống không là một giáo hội có nhiều tín hữu, có nhiều cơ sở vật chất, có nhiều hội dòng, có nhiều phong trào, có nhiều hoạt động và nhất là có nhiều quan hệ tốt với thế quyền.
Thật ra, người ta không thể đánh giá về sự sống bằng số lượng. Những con số không thể nói hết về một thực tại vô cùng thâm sâu về huyền nhiệm và sự sống, nhất là sự sống của Giáo Hội. Người ta không thể đo lường sự sống của Giáo Hội bằng hiệu năng và những con số. Trong Giáo Hội, không ai có thể đi tìm hiệu năng bằng những phương pháp và các phương tiện riêng của mình. Ðể trở nên phong phú trong Giáo Hội, cần phải chấp nhận hai điều kiện được chính Chúa Giêsu đưa ra: một là ở lại trong Ngài, hai là chịu cắt tỉa. Ở lại trong Ngài, với kiểu nói này, Chúa Giêsu muốn nói đến sự kết hiệp thâm sâu giữa Ngài và Giáo Hội.
Nếu Giáo Hội tìm cách thay thế sự kết hiệp thâm sâu này bằng những cố gắng liên kết với quyền bính thế trần, Giáo Hội có thể có một chỗ đứng thế giá trong trần thế, Giáo Hội có thể mua được nhiều đặc ân đặc quyền hay bất cứ một dễ dãi nào mà thế quyền có thể ban tặng. Nhưng một khi đã sống bên ngoài sự sống của Chúa Giêsu, Giáo Hội chỉ còn là những cành nho khô héo. Những thành quả đạt được bằng sự liên kết, thỏa hiệp với quyền bính sẽ chỉ là những trái trăng héo úa, nếu ở lại trong Chúa Giêsu, Giáo Hội cũng phải chấp nhận bị cắt tỉa. Sức sống và sự phong phú đích thực của Giáo Hội lúc đó sẽ không phải là những con số của những gì có thể đếm được mà chính là những mất mát, thử thách, bách hại, những chướng ngại thập giá. Sức sống của Giáo Hội được thể hiện trước tiên qua những cắt tỉa ấy.
Thánh Phaolô là hiện thân của một sức sống như thế, Ngài đã phải chịu cắt tỉa ngay trong cộng đoàn Giêrusalem. Ngài bị cô lập và nhìn với con mắt nghi ngờ. Ngài bị xem như một con người nguy hiểm gieo rắc những tư tưởng đe dọa những giá trị được củng cố, đảo lộn những cái khoen đã cắm rễ sâu, phá hoại sự an toàn có sẵn. Suốt một cuộc đời ra đi không ngừng, thánh nhân là đối tượng của không biết bao nhiêu bách hại, nhưng Ngài không sống theo luận lý của con người. Thập giá là một hiếu kỳ đối với người Do Thái và là một điều ngu xuẩn đối với người Hy Lạp, nhưng với ngài, nó sẽ là khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Với ngài, người chỉ biết có một Chúa Kitô chịu đóng đinh, "sống" là chính Chúa Kitô. Mất mát, khổ đau, thử thách, thập giá là chìa khóa để đọc được ý nghĩa và sự phong phú đích thực của Giáo Hội, nó cũng là chìa khóa để nhìn vào những bách hại và thử thách mà một số tín hữu Kitô đang phải trải qua trong cuộc sống của mình.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh nâng đỡ các tín hữu Kitô để họ trở thành đuốc sáng cho mọi người trong giai đoạn hiện nay.
Dụ ngôn cây nho là một phần của bài nói sau bữa tiệc ly. Tin mừng thánh Gio-an đã ngăn chặn sự xa lìa của những kẻ theo Người, có thể vì cái chết trên thập giá của Người hay khi Người lên trời. Người cho họ thấy về sự sống của Người là sự sống cho những kẻ còn hiệp thông với Người, như nhựa cây là sức sống từ thân cây tới những cành, sự sống đó sinh nhiều hoa trái. Điều kiện “ở lại trong Thầy” không phải hiểu như trong hộp kín, dưới sự che chở cô độc, nhưng ở trong một năng lực lớn mạnh. Những cành từ chối không tiếp nhận phát triển, không đáp ứng với nhựa sống vươn lên, sẽ gặp nguy cơ chết khô. Cuộc tranh đấu để sống chỉ nguy hiểm đối với những cành tự tách mình lìa khỏi cây. Người ta gọi nó là tội.
Bao lâu còn nhựa sống lưu thông, bấy lâu sự chết vẫn không đột nhập được.
Trong thời đại chúng ta, thuyết đa dạng là một gương mù thường xuyên. Người ta dễ dàng theo lối sống khô khan, tà giáo và cả vô tín ngưỡng. Phụng vụ khác nhau biết bao từ xứ này qua xứ khác, một linh mục tự diễn cách tự do một số công thức đã xưa rồi. Biết bao tín hữu cố chấp phản đối những cơ cấu tổ chức, đi tới chỗ chỉ trích gay gắt và bi quan, như nói: “Giáo hội đi theo quỷ”.
Không, Giáo hội sẽ tiến theo đường lối của mình băng qua một thế giới và một thời đại đầy khó khăn, như cành cây nho bò leo xoắn xít để đeo bám những đường quanh co của lâu đài và phát sinh ra những đường nét trang trí cho ngôi nhà khô khan bằng những mầu sắc xanh tươi sống động. Đức tin không bảo thủ như những chùm nho đông đặc khô cứng, nhưng sống động nhờ giá trị chiến đấu, nơi người quyết chí hiệp nhất với Đức Kitô. “Ở lại trong Thầy” không phải ẩn mình, khép kín, che thân, nhưng chính là biểu dương sức sống Người đã thông ban cho chúng ta để sinh nhiều hoa trái. Những cây nho sẽ bị ném vào lửa là những cành sợ khô không tiến lên, không leo lên …
Cây nho dẫn chúng ta đến trước chén rượu nho mà linh mục dâng lên và thánh hiến trên bàn thờ. Nó đã bằng lòng đổ nước ra khi chịu gieo xuống đất, chịu cắt tỉa, chịu gặt hái, chịu ép nén đến cùng cực để cho chúng ta có rượu lễ hôm nay. Người tín hữu chúng ta đã sẵn sàng mạo hiểm bắt tay vào việc, liều mạng tới đâu? Chúng ta xum họp quanh bàn thờ để uống với tâm tình ích kỷ hay đón nhận nhựa sống làm cho mình và mọi người lớn lên trong nước trời không?
Có một dạo phong trào trồng nho đã nở rộ tại một số tỉnh dọc theo duyên hải miền Trung. Cây nho không còn là một thứ cây xa lạ đối với nhiều người Việt Nam nữa. Cây có trái là chuyện thường, nhưng cây phải bị cắt tỉa mới có thể đâm chồi, trổ hoa và sinh trái, đó là hình ảnh đặc trưng của cây nho. Thật thế, với đôi mắt không chuyên môn, khi nhìn vào thân nho bị cắt tỉa, có lẽ ai cũng phải xót xa, có lẽ người ta sẽ nhìn vào người trồng nho như một con người nhẫn tâm, vì người trồng nho xem ra cắt tỉa cây nho không chút tiếc xót. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, người ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy từ những cành trơ trụi những mần non nhú ra và hoa cũng bắt đầu xuất hiện.
Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh để nói về những thực tại Nước Trời. Nhưng trong các hình ảnh ấy, cây nho hẳn phải chiếm một chỗ ưu việt: ưu việt vì cây nho là giống cây phổ thông nhất của miền Palestina, ưu việt vì trong Cựu ước cây nho vốn được xem là biểu trưng của dân riêng. Nhưng như các tiên tri đã nhiều lần lên tiếng tố cáo: thay vì sản xuất rượu ngon, cây nho Israel chỉ mang lại thứ rượu đắng của bất trung và phản bội. Tiếp tục truyền thống tiên tri, Chua Giêsu cũng lấy lại hình ảnh cây nho, nhưng cây nho chính là Ngài. Lòng tín trung mà Thiên Chúa hằng chờ đợi nơi Israel nay Ngài đã tìm thấy nơi cây nho đích thực là Chúa Giêsu. Một giao ước mới phát sinh, bởi vì lòng trung tín của Chua Giêsu được diễn ta trong sự vâng phục và vâng phục cho đến chết trên Thập giá, không phải là cố gắng thuần túy của con người, mà chính là lòng thủy chung của Con Thiên Chúa trong chừng mực của con người. Cây nho của giao ước mới mang lại những trái trăng xum xuê có tên là tình yêu. Đó là kết quả của sự cắt tỉa: cây nho không thể sinh hoa kết trái nếu không bị cắt tỉa, tình yêu sẽ không là tình yêu đích thực và phong phú nếu không được cắt tỉa khỏi những ngọn ngành thừa thãi của ích kỷ.
Giáo Hội – Israel mới chính là cây nho của Chúa. Lịch sử cho thấy có lúc xem ra Giáo Hội bị cắt tỉa một cách tàn nhẫn, nhưng cũng chính những lúc đó Giáo Hội mang lại nhiều hoa trái hơn cả. Những cuộc bách hại đẫm máu lại là những cắt tỉa làm cho Giáo Hội sinh được nhiều hoa trái nhất. Đó là cái nhìn chúng ta phải có để nhìn vào Giáo Hội: sức sống của Giáo Hội có khi không chỉ được nhìn thấy và đánh giá qua những biểu giương bên ngoài, hoa trái của Giáo Hội có khi không phải là một chút dễ dãi đạt được do một sự thỏa hiệp nào đó. Giáo Hội chỉ có thể mang lại hoa trái đích thực khi chấp nhận được cắt tỉa khỏi những phù phiếm rườm rà của thế tục. Cơ cấu hữu hình có thể bị phá vỡ, cơ sở vật chất có thể bị cướp mất, những quyền cơ bản nhất gắn liền với tư do tôn giáo có thể bị tước đoạt, đôi tay hoạt động có thể bị khóa chặt: đó có thể là những cắt tỉa cần thiết để cây nho Giáo Hội trổ sinh hoa trái dồi dào.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào Giáo Hội và cuộc sống đức tin của chúng ta với một cái nhìn bình thản và tin tưởng. Mỗi kitô hữu là một ngành nho gắn liền với cây nho là chính Chua Giêsu. Để được gắn liền với Ngài và trổ sinh hoa trái chúng ta không thể không chịu cắt tỉa khỏi những gì nghịch với Tin mừng và cốt lõi của Tin mừng là tình yêu. Sự cắt tỉa nào cũng làm chúng ta đau đớn, mất mát nào cũng làm chúng ta tiếc xót, nhưng vì đã được sống theo Tin mừng, chúng ta hãy xem như một lợi lộc cao quí nhất khi bị cắt tỉa và mất mát. Hoa trái phát sinh từ những cắt tỉa và mất mát ấy sẽ mãi mãi tồn tại. Vả lại ngay trong cuộc sống này, giá trị của con người không được đo lường bằng những gì nó thu tích, mà bằng chính những gì nó hy sinh và cho đi.
Khi nói đến cây nho, chúng ta nghĩ ngay đến bà con nông dân khu vực duyên hải Miền Trung Việt Nam, bởi vì nơi đây, phong trào trồng nho đã trở thành nghề chính của người dân. Khi trồng nho, người ta phải chăm bón, và nhất là cắt tỉa đúng quy cách mới mong một vụ mùa bội thu. Nếu không biết chăm bón đúng cách và không dám cắt tỉa, cây nho sẽ không sinh trái hay chỉ sinh ra những trái sâu xi, sần sùi, èo ọt...
Hôm nay, Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để nói lên mối tương quan giữa Ngài với dân và đồng thời cũng nói lên thực tại Nước Trời ngang qua hình ảnh cây nho và cành nho.
Cây nho là thứ cây trồng chủ yếu của người Palestina thời Đức Giêsu. Cây nho còn là biểu trưng của chính dân Iraenl. Vào thời Cựu Ước, các tiên tri đã lên tiếng cảnh tỉnh dân chúng khi mượn hình ảnh cây nho không trái hay cho ra những loại rượu đắng chát không đạt tiêu chuẩn để nói lên sự thờ ơ, bất trung, phản bội của dân với Thiên Chúa.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng dùng lại hình ảnh cây nho để nói lên sự gắn bó và hệ quả của nó trong tương quan giữa Ngài với ta. Vì vậy, Ngài đã ví mình là cây nho, chúng ta là cành nho. Đồng thời, Ngài cũng tiên báo, muốn được sinh hoa trái thiêng liêng, ắt phải cắt tỉa những cành ích kỷ, vụ lợi, giả hình, kiêu ngạo, gian dối, bất công..., để từ đó nảy thêm những mầm nho mới và sẽ sinh ra hoa trái của chân thực, nhân từ, bao dung, khiêm nhường, từ bi, nhân hậu...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy kết hợp với Chúa như cành nho với thân nho, như hình với bóng, để sự sống của ta là của Chúa và hoa trái được sinh ra chính là hoa trái cùng dòng giống với Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là cây nho, chúng con là cành. Xin cho chúng con mãi mãi được gắn bó với Chúa như cành liền cây, để chúng con được ơn cứu chuộc và chia sẻ hoa trái cứu chuộc đó cho anh chị em xung quanh. Amen.
Sứ điệp: Dụ ngôn cây nho và cành nho cho thấy rằng để được sống và trổ sinh hoa trái, người Kitô hữu phải liên kết mật thiết với Chúa Kitô. Đón nhận Lời Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa, đó là những điều kiện để đời sống người tín hữu sinh nhiều hoa trái.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chính vì Chúa muốn con sống cuộc sống của Chúa, mà Chúa đã thông ban cuộc sống của Chúa cho con. Và Chúa thông ban liên lỉ, để cuộc sống của con đích thực là cuộc sống đón nhận từ nơi Chúa. Chính nhờ tiếp nhận sự sống từ nơi Chúa, mà con trở thành người Kitô hữu, người có Chúa Kitô, người sống cuộc sống của Chúa Kitô.
Chính sự sống của Chúa trong con làm cho các đau khổ, các nghịch cảnh, các khó khăn trong đời sống hằng ngày có một giá trị tích cực, nhờ đó cuộc sống con sinh nhiều hoa trái hơn.
Khi con tách lìa khỏi Chúa, khi con phạm tội, lúc ấy con chết vì thiếu sức sống của Chúa. Bề ngoài, tuy vẫn là Kitô hữu, vẫn tham gia các sinh hoạt trong xứ đạo, nhưng vì con để cho tội lỗi, ích kỷ ngăn cách con với Chúa, nên con đã trở thành những cành nho khô héo.
Xin Chúa giúp con xác tín điều quan trọng này, và cho con biết quý trọng sự sống mà con đã lãnh nhận nơi Chúa, để con luôn luôn kết hiệp với Chúa, siêng năng và sốt sắng lãnh nhận Mình Máu Chúa, đọc và Suy niệm Lời Chúa để Lời Chúa thanh luyện con người và cuộc sống của con.
Lạy Chúa, chỉ vì muốn cho con được sống mà Chúa kêu mời con kết hợp với Chúa. Con cảm nhận tình yêu cao vời của Chúa dành cho con. Xin Chúa cho con luôn sống xứng đáng với tình yêu thương vô cùng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái”.
“Nếu con muốn đạt tới Thượng Đế, con phải biết hai điều này. Điều thứ nhất là mọi cố gắng để đạt tới Ngài đều hoài công”.
“Còn điều thứ hai?”.
“Con phải hành động như thể con nên một với Thượng Đế” (Một phút minh triết, nên một).
Suy niệm
Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và Thiên Chúa Cha được Ngài nhấn mạnh là người trồng nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho” (Ga 15,1). Hình ảnh cây nho và các cành nho được Chúa Giêsu nhấn mạnh như biểu tượng cho sự gắn bó thầy - trò, sự gắn bó qua Thầy với Thiên Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,5). Như thế, người gắn bó với thầy, được biểu tượng bằng hình ảnh sống động của cành cây nho, theo cái nhìn của người trồng nho là những nhánh được chọn từ một số nhánh khỏe nhất, được cắt tỉa, được nuôi dưỡng khi gắn bó với thân nho qua nhựa sống nuôi từ gốc.
“Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi…” (Ga 15,2). Đó là hình ảnh những người được xem gắn bó với Thầy, mang danh là môn đệ Chúa Kitô, nhưng không có tinh thần gắn bó với Chúa Kitô. Họ là những người môn đệ, Kitô hữu “hữu danh vô thực” như thánh Phaolô có nói về một tình trạng tương tự như vậy trong Do Thái giáo (x. Rm 2,17-23). Còn số phận của những kẻ đứng bên ngoài Thầy: “Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi”. Thánh Vịnh có nói về số phận của kẻ không gắn bó với Thầy: “Kìa ai xa Chúa, sẽ mai một hết… “ (Tv 73,27).
“Cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15,2b). Cành sinh trái là cành luôn gắn bó với thân, được nuôi sống bởi nhựa đến từ gốc cây nho. Thật thế, như hình ảnh cành nho liên kết với thân nho, chúng ta cũng vậy nếu “gắn liền với” hay “ở lại trong” Đức Kitô, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài vì: “Cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho” (Ga 15,4). Cho nên, Tagore luôn cảm nghiệm: “Con nhìn nhận Chúa chính nguồn tình yêu” (Mong chẳng còn gì).
Cành đơm trái được nuôi sống và gắn liền với thân nho, phải luôn được cắt tỉa, là một điều kiện cần thiết để nho sinh nhiều hoa trái. Hình ảnh cắt tỉa cây nho luôn mang hai ý nghĩa cho người gắn bó với Đức Kitô như cành liên kết với thân nho:
Chịu cắt tỉa trong đau thương để cùng tham dự vào sự chết và vinh quang của Chúa Giêsu, như thánh Phaolô nhấn mạnh: “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). Khi được cắt tỉa, đau thương nhưng với Đức Giêsu là “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4,13). Bị cắt tỉa đau thương góp phần sinh hoa trái: “Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10).
Cắt tỉa những lá già, những cành phụ không cần thiết là chiết bỏ những tật hư đam mê xấu, để dành sức sống thẳng tiến trong Chúa Kitô như thánh Clément d'Alexandrie nhận định: “Cây nho không được cắt tỉa trở nên hoang dã, Ngôi Lời là một thanh kiếm cắt tỉa những cành um tùm: Thanh kiếm bẻ gãy những dục vọng để không còn sa ngã và để sinh hoa trái”.
Cắt tỉa để gắn bó với Thầy. Thật thế, chính nhờ sức sống của Thầy chảy trong con người tôi, như nhựa nuôi sống cành nho, như thánh Phaolô cảm nghiệm: “Tôi sống không phải là tôi sống, nhưng là Chúa Giêsu Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Ý lực sống: “Như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21).
1. Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất cụ thể, rất đẹp để dạy chúng ta một bài học quí giá, đó là cây nho. Ngài tự ví mình là cây nho và chúng ta là cành nho. Hình ảnh này nói lên ý nghĩa cửa sự hiệp thông, liên đới và hỗ tương giữa cây và cành nho, và giữa các cành với nhau, tức là giữa Thiên Chúa với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.
2. Vườn nho hay cây nho là hình ảnh rất quen thuộc của người Do thái. Cây nho cho họ thứ rượu hằng ngày và trở thành thức uống không thể thiếu trong các bữa tiệc. Hình ảnh vườn nho hay cây nho cũng được ví như nhà Israel dưới ngòi bút của các tiên tri Isaia, Giêrêmia và Ezékiel. Dân Israel là vườn nho của Chúa trồng lên và chăm sóc bảo vệ chúng, lắm khi chúng đã trở nên tan hoang và nho dại.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng lấy lại hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tương quan của Ngài với các môn đệ. Như cành lìa cây sẽ bị héo khô và chết vì mất nguồn sống, thì những ai tách lìa khỏi sự sống duy nhất là Đức Kitô sẽ hư mất đời đời. Cành nho sống được là nhờ hút nhựa sống từ thân cây, nhưng không phải hút để ra lá mà là để sinh hoa trái.
3. Nếu Đức Giêsu sinh sống ở Việt nam, Ngài sẽ không nói: “Thầy là cây nho”, nhưng sẽ dùng một loại cây quen thuộc hơn: “Thầy là cây mít, là cây ổi, là cây xoài... còn anh em là cành”, để diễn đạt hình ảnh cây và cành có cùng sự sống, luân lưu chung dòng nhựa cây. Ngài cũng đã dùng một động từ để chỉ sự kết hợp này: “ở lại trong Thầy”. Động từ ấy được lặp đi lặp lại sáu lần trong bài Tin Mừng như lời mời gọi thiết tha, như tiếng van nài khẩn thiết, bởi vì Ngài biết rằng đời ta chỉ có giá trị, sinh hoa trái tốt lành khi ở lại trong Ngài. Muốn sinh hoa trái tốt tươi, cây nho phải được cắt tỉa. Cũng vậy, ta phải vui vẻ để cho Chúa Cha cắt tỉa, cắt đi cái tôi muốn bành trướng cách lộ liễu, tỉa bớt cái bản ngã muốn âm thầm vươn cao, lấn át Chúa và người lân cận (5 phút mỗi ngày).
4. Một sự thật hiển nhiên là cành nho bị cắt đứt lìa thân cây chắc chắn sẽ héo khô và chết, vì nhựa sống của cành nho không tự có mà là nhựa sống được truyền từ cây sang cành. Khi sử dụng hình ảnh cây nho – cành nho này, Đức Giêsu khẳng định sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện hữu của con người. Chỉ có Thiên Chúa mới tự hữu, còn con người chỉ hiện hữu lệ thuộc vào sự sống của Thiên Chúa. Cụ thể, sự sống tâm linh của các tín hữu sẽ không còn khi tách lìa với Đức Kitô là “sự sống” như Người từng tuyên bố: “Thầy là sự sống”. Như vậy, không thể có Kitô hữu nào mà lại không kết hợp với Đức Giêsu, đặc biệt kín múc sự sống của Người từ việc cầu nguyện, lãnh các bí tích, đặc biệt là bí tich Thánh Thể.
5. “Cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15,2b). Cành sinh trái là cành luôn gắn bó với thân, được nuôi sống bởi nhựa đến từ gốc cây nho. Thật thế, như hình ảnh cành nho liên kết với thân nho, chúng ta cũng vậy nếu “gắn liền với” hay “ở lại trong” Đức Kitô, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài vì: “Cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho” (Ga 15,4). Cho nên thi sĩ Tagore luôn cảm nghiệm: “Con nhận Chúa chính nguồn tình yêu”(bài thơ Mong chẳng còn gì).
6. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “người thuộc về Đức Kitô”. Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên là phải sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài. Muốn thế thì đương nhiên phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy... Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ây là cành nho khô, sớm muộn cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.
7. Truyện: Kết hợp với Đức Kitô.
Văn hào kiêm triết gia nổi tiếng người Ấn độ Rabindranath Tagore đã viết như sau: “Trên bàn tôi là sợi dây guitar, tôi xoay nó qua lại theo các chiều khác nhau, nó không bị ràng buộc chi cả. Vì nó được cuộn tròn nên khi tôi xoắn đầu này thì đầu kia cũng bật dậy, sợi dây dẫy nảy trong tay tôi, mà chẳng phát ra một âm thanh nào. Hiện tượng này biến mất khi tôi buộc nó vào chiếc đàn guitar, hai đầu bị gắn chặt để sợi dây căng thẳng, rồi với đầu ngón tay, tôi gảy nhẹ vào sợi dây và lạ thay, một âm vang nổi lên hầu như du dương. Đây chính là lúc sợi dây được tự do để tạo nên nốt nhạc.
Cũng thế, trong cách trồng cây cà chua, cây yếu ớt ngã xoài trên mặt đất, nhiều khi lá bị héo úa dập nát. Nhưng nếu cây được cột vào một cọc dựng đứng, mọi phần tử của cây được phơi ra ánh nắng, cây sẽ mơn mởn và đâm nhiều bông trái. Chính vì bị ràng buộc mà cây đã có nhiều triển vọng sinh hoa kết quả” (Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 39).
Chúng ta cần lặp lại lời Đức Giêsu đã nói với chúng ta: “Không có Thầy, các con không làm được gì” (Ga 14,5). Chúng ta sống được là nhờ có ơn Chúa, mọi sự phải nằm trong Chúa. Đời sống thiêng liêng của chúng ta chỉ có thể phát triển được khi có ơn Chúa nâng đỡ; ngoài Chúa ra không ai có thể giúp đỡ chúng ta làm được việc gì sinh ơn ích cho phần rỗi chúng ta.
Bài giáo lý về Dụ ngôn cây nho. Về sự sống trong Chúa Giêsu.
Dụ ngôn cây nho chúng ta một cách vừa cụ thể vừa dễ hiểu nhưng lại rất sâu sắc về cuộc đời Kitô hữu:
Kitô hữu nếu muốn sống phong phú thì phải sống trong Chúa Giêsu và sống bằng sức sống của Ngài “Thầy là cây nho, các con là nhành… Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiếu trái.”
Kitô hữu cũng phải chấp nhận để cho mình “được Cha Thầy tỉa sạch” bằng những việc xảy ra không đúng ý mình làm cho mình đau khổ.
Chúa Giêsu còn hứa một điều rất tốt đẹp: “Nếu các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin thì sẽ được.”
Suy gẫm
1. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “Người thuộc về Đức Kitô.” Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên phải là cuộc sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài. Muốn thế thì đương nhiên phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy… Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ấy là cành nho khô, sớm muộn gì thì cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.
2. Cắt tỉa: cuộc đổi đời nào cũng được đánh giá bằng những cái mất và những cái được. Tuy nhiên với con mắt đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất… Đức Hồng y Etchegaray có lần đã nói “Đứng trước cánh rừng, chúng ta không nên dừng lại ở tiếng ngã đổ của cây rừng, nhưng hãy lắng nghe âm thanh của những mầm non đang mọc lên.”
3. Thánh Anphongxô đã được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư. Thánh Inhaxiô được cắt tỉa khi bị thương què chân trong một trận chiến. Các Ngài mất một điều nhưng được lại nhiều điều khác quý hơn.
4. “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”
Mỗi ngày đọc báo, nghe đài, xem truyền hình tôi lại nghe thấy vụ giết người dã man; những thảm họa của chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, hạt nhân; những cái chết đầy thương tâm do các căn bệnh thế kỷ gây ra như Sida, Ebôla… Đâu đâu cũng thấy tang thương và chết chóc.
Có lần tôi đã phải bàng hoàng sửng sốt trước mẩu tin: “Một thanh niên đã chỉa súng bắn chết bố mẹ chỉ vì ông bà không cho cậu ta tiền tiêu vặt.”
Tại sao cuộc sống hôm nay lại có nhiều tội ác đến thế? Nguyên nhân chính phải chăng là vì con người xa lìa Thiên Chúa, chạy theo cuộc sống vật chất, do đó trở nên thoái hóa, buông thả, vô đạo. Đức tin khô héo rồi chết đi.
Lạy Chúa, xin cho con biết lưu lại trong Chúa qua cuộc sống yêu thương và phục vụ.
Hôm nay chúng ta suy niệm về sự sống trong Chúa Giêsu.
1. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “người thuộc về Đức Kitô”. Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên phải là cuộc sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài.
Một nhà truyền giáo sống tại Phi Châu, một lục địa còn sống rất xa đối với ánh sáng văn minh hiện đại.
Tại một trung tâm truyền giáo mà vị thừa sai kia làm việc, người ta mới mua được một máy điện nhỏ, để cung cấp điện cho trung tâm.
Vì nghe thấy tiếng máy nổ, một số những người sống chung quanh trung tâm, kể cả con nít lẫn người lớn, đã kéo nhau đến để xem tiếng nổ kia là gì.
Khi đến trung tâm, họ vô cùng ngạc nhiên, vì không hiểu tại sao lại có những chiếc đèn, dài có, tròn có, treo ngược ở trên trần nhà và đang tỏa sáng. Họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy nhà truyền giáo thắp sáng những ngọn đèn này mà không cần phải mồi lửa cho chúng. Họ chỉ thấy ngài sờ vào một cục gì đó ở trên tường, thế là ngọn đèn bỗng sáng trưng.
Một người trong nhóm đến xem, thấy ở trong góc nhà có một cái bóng đèn dài người ta bỏ đi đang nằm ở đó. Anh đánh bạo xin nhà truyền giáo.
Tưởng là người này xin bóng đèn kia về nhà trưng chơi, nên ông đồng ý.
Ít ngày sau, trong dịp đi thăm các gia đình, nhà truyền giáo ghé vào nhà của người hôm trước đã xin bóng đèn. Vừa bước vào trong căn nhà lụp sụp, nhà truyền giáo đã thấy ngay cái bóng đèn điện mà ngài cho hôm trước, được treo ở trên xà nhà, bằng một sợi giây. Ngài còn đang tủm tỉm cười về ý nghĩ thật đơn sơ của người dân ở đây, thì chủ nhà lên tiếng;
- Thưa Cha, sao bóng đèn cha cho con chẳng sáng gì cả. Phải thắp sáng nó như thế nào hở cha?
Nhà truyền giáo phá lên cười rồi giải thích:
- Để cho đèn này sáng, cần phải có một dòng điện, phát ra từ một máy phát điện. Dòng điện này được dẫn đến bóng đèn bằng một dây kim loại. Ở đây không có điện, đàng khác bóng đèn này hư rồi, nên làm sao sáng được.
Ngày xưa, khi giảng về sự cần thiết phải liên kết với Chúa, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho và cành nho.
Ngày nay, nếu Chúa có trở lại trần gian này để giảng cho chúng ta về đề tài phải liên kết với Ngài, có lẽ Ngài sẽ không dùng hình ảnh cây nho và cành nho nữa, mà có thể Ngài dùng hình ảnh bóng đèn điện, với máy phát điện.
Điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua hình ảnh cây nho và cành nho được thuật lại trong Tin Mừng hôm nay, đó là chúng ta phải liên kết với Ngài để sức sống của Thiên Chúa được chuyển thông đến chúng ta. Đừng để bất cứ thứ gì cản ngăn sự chuyển thông đó.
2. Liên kết bằng cách nào đây?
Chúng ta có thể và phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy… Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ấy là cành nho khô, sớm muộn gì thì cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.
Hơn nữa, để cây nho được sai trái thì Chúa bảo cần phải cắt tỉa. Thánh Anphongsô đã được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư. Thánh Ingatiô được cắt tỉa khi bị thương què chân trong một trận chiến.
Cắt tỉa là bị chặt đi, mất đi nhưng thử hỏi có cuộc đời nào mà chẳng được đánh giá bằng những cái mất và những cái được không. Tuy nhiên, với con mắt đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất….Đức Hồng Y Etchegaray có lần đã nói: “Đứng trước cánh rừng, chúng ta không nên dừng lại ở tiếng ngã đổ của cây rừng, nhưng hãy lắng nghe âm thanh của những mầm non đang mọc lên. (Mỗi ngày một tin vui).
Nếu Thánh Anphongsô đã không được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để cho Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư, cũng như thánh Ignatiô không bị cắt tỉa bằng việc bị thương què chân trong một trận chiến, thì chưa chắc gì các ngài đã tìm ra lý tưởng để đi theo. Chính nhờ sự cắt tỉa đớn đau đó mà các ngài đã nhận ra tiếng Chúa mời gọi và đã đi theo Chúa, làm cho cuộc đời của mình đẹp hơn nhiều. Như vậy, các Ngài mất một điều nhưng được lại nhiều điều khác còn quý hơn.
Bài thơ của Tagore
Chỉ mong Ngài lấy đi Mong chẳng còn gì thuộc về con, Mong chẳng còn gì là của con. Để con được trắng tay, Con chỉ còn Ngài để giữ lấy, Con được chọn Chúa mãi là của con. Chỉ mong Ngài xóa đi Mong chẳng còn gì để chiếm hữu, Mong chẳng còn gì ràng buộc con. Để con được ngước lên Con tìm được Ngài là chân lý. Con được cùng Chúa đồng hành luôn. Chỉ mong Ngài cất đi, mong chẳng còn gì để nắm giữ, mong chẳng còn gì mà tự tôn. Để con chỉ biết yêu, Yêu một mình Ngài trọn đời con.
Chúa dùng một hình ảnh rất cụ thể và đơn giản trong cuộc sống mà ai trong chúng ta cũng hiểu, đó là hình ảnh cây nho và nhành nho. Cây no được sống trên trần gian này là phải có người trồng nó. Vì thế Chúa mới nói:
-Thầy là cây nho: Cây nho là chỗ dính chặc và cũng là chỗ bám vào của các nhành nho để rồi các nhành nho mới sống, mới ra lá xanh tươi và đươm hoa kết trái. Chúa chính là nguồn sống của chúng ta bằng việc Chúa nuôi chúng ta bởi nguồn dưỡng chất là lời Chúa và Thánh Thể Chúa. Nhờ nguồn dưỡng chất đó (Lương thực thiêng liêng), chúng ta sống và lớn lên trong niềm tin và tình yêu của Chúa. Đàng khác, Chúa muốn chúng phải là những người con của Chúa thực thụ chứ không phải là trên danh nghĩa, chữ viết đâu. Nghĩa là chúng ta phải sống đạo, phải luyện tập các nhân đức, mặc dù chúng ta yếu đuối, nhưng không được buông xuôi, phải cố gắng lên. Nếu không, chúng ta sẽ như những nhành nho khô héo, không sinh trái thì sẽ bị ông chủ chặt vứt ra bên ngoài rồi cho vào lửa thiêu đốt nó đi: “Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như nhành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15, 6). Còn nếu chúng ta thực hiện việc sống đạo Chúa, Chúa sẽ giúp chúng sống hoàn thiện bản thân, từng ngày sẽ bỏ đi các tính hư tật xấu, đam mê xác thịt để chúng ta trở nên con người mới của Chúa: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15, 5). Vì thế, chúng ta đừng tự ý sống lìa xa Chúa bao giờ, phải ở lại trong Chúa, phải tựa nương vào Chúa thì hơn.
-Các con là nhành: Nhành nho sống được là nhờ cây nho, chúng ta sống và hoạt động được là nhờ có Chúa. Chúa là nguyên lý và là hồn sống của chúng ta trong cuộc sống trần gian này. Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được: “Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy” (Ga 15, 4). Do đó, biết được mối dây liên kết chúng ta với Chúa, chúng ta cần phải cộng tác với ơn Chúa thật là nhiều thì Chúa mới chúng ta luôn là người con ngoan đạo, hiền lành của Chúa. Một khi được như vậy rồi, chúng ta kêu cầu Chúa điều gì, Chúa sẽ nghe và ban ơn cho chúng ta: “Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được. Ðây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy” (Ga 15, 7 – 8). Đây là điều quả là quá hạnh phúc cho chúng ta, chúng ta cần phải theo Chúa suốt cuộc đời của mình.
-Chúa Cha là người trồng nho: Chính Chúa Cha vì yêu chúng ta khi chúng ta là tội nhân thì Chúa Cha sai Chúa xuống với chúng ta, ở với chúng ta và Chúa vì vâng lời Chúa Cha, Chúa cũng như yêu thương chúng ta, Chúa mới chấp nhận chịu chết trên thập giá, sống lại để cứu chúng con khỏi chết muôn đời. Dó đó, Chúa Cha là nguồn gốc của tất cả mọi sự trong thế giới hữu hình và vô hình. Chúng ta vâng lời Chúa Cha trong mọi sự thì chúng ta mới thể hiện mình là con thảo của Chúa.
Lạy Chúa của chúng con, khi chúng con ở trong Chúa, sống những điều Chúa dạy, Chúa sẽ rất hài lòng về chúng con, Chúa sẽ ngự trong lòng chúng con, vì vậy, chúng con cần phải cầu nguyện cho người tội lỗi rất nhiều để họ cũng trở về với Chúa và được chúng con. Xin Chúa ban ơn, giúp chúng con đi trong ánh sáng của Chúa, xin đừng để chúng con lầm đường lạc lối, lìa bỏ Chúa bao giờ. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 5 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa yêu thích những tâm hồn thanh khiết, và làm cho con người tội lỗi lại trở nên tinh tuyền. Chính Chúa đã giải cứu chúng ta thoát khỏi cảnh tối tăm lầm lạc, thì xin cũng đừng để chúng ta lìa bỏ ánh sáng chân lý Chúa bao giờ.
Đừng lìa bỏ ánh sáng chân lý Chúa bao giờ, để xứng đáng trở thành công dân của trời mới đất mới, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Trời mới, đất mới, thành thánh Giêrusalem tiêu biểu cho Hội Thánh đã đạt tới vinh quang, quy tụ dân đã được thánh hiến. Thành Thánh từ trời xuống, vì đây là một cộng đoàn do Thiên Chúa thiết lập và đón nhận sự sống từ Thiên Chúa. Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ, và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.
Đừng lìa bỏ ánh sáng chân lý Chúa bao giờ, để trở nên ánh sáng cho trần gian, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích thư gửi cho Điônhêtô nói về: Các Kitô hữu sống giữa thế gian… Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Ai đến với tôi, sẽ tìm được ánh sáng soi đường và dẫn tới chân lý, sẽ tìm thấy hy vọng được sống và tìm được sức mạnh.
Đừng lìa bỏ ánh sáng chân lý Chúa bao giờ, để được trẩy lên đền thánh Giêrusalem mới, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói: Người ta quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận: bắt dân ngoại chịu phép cắt bì. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 121, vịnh gia cho thấy: Ta vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa. Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Ai ở lại trong Thầy, thì sinh nhiều hoa trái. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Ở lại trong Đức Kitô, sẽ sinh nhiều hoa trái, ở trong thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian, mà là, thuộc về Đức Kitô. Các Kitô hữu theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn, cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình, mà như, những khách ngoại kiều. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng, phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng, quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ sống trong xác thịt, nhưng không, theo xác thịt. Họ sống ở trần gian, nhưng, họ là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng, cách sống của họ vượt trên những đòi hỏi của luật pháp. Họ yêu thương mọi người, nhưng, mọi người lại ngược đãi họ. Họ bị giết, mà vẫn, được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại, làm cho nhiều người nên giàu có. Họ thiếu thốn mọi thứ, nhưng lại, dư dật mọi sự. Họ bị sỉ nhục, nhưng, giữa những sỉ nhục, họ lại được vinh quang. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng; bị trừng phạt như những kẻ bất lương, họ vẫn kiên trì làm điều thiện... Các Kitô phải sống trong tình trạng như thế, để bước theo Đức Kitô và bắt chước Đức Kitô, hầu, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, như lời mời gọi của Đức Kitô: hãy trở nên ánh sáng cho trần gian. Chúa yêu thích những tâm hồn thanh khiết, và làm cho con người tội lỗi lại trở nên tinh tuyền. Chính Chúa đã giải cứu chúng ta thoát khỏi cảnh tối tăm lầm lạc, thì xin cũng đừng để chúng ta lìa bỏ ánh sáng chân lý Chúa bao giờ. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn".
Kitô giáo gắn liền với thánh giá. Kitô hữu suy tôn thánh giá, hôn kính thánh giá. Thánh giá không chỉ có mặt trong nhà thờ hay trên các đồ thánh, mà còn đi suốt hành trình cuộc đời của một tín hữu, từ giếng nước rửa tội đến khi ra nghĩa trang. Thánh giá nhắc cho ta về một cái chết khủng khiếp và bi đát, nhưng đời Kitô hữu lại không bao giờ là cuộc đời buồn. Ngược lại, niềm vui tươi tắn là nét đặc trưng của Kitô giáo. Trước khi bước vào cái chết, Đức Giêsu đã nói về niềm vui của mình: “Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (c. 11). Trong Tin Mừng Gioan ba lần Thầy Giêsu nói đến niềm vui trọn vẹn. “Con nói những điều này lúc còn ở thế gian để họ được hưởng niềm vui trọn vẹn của con” (Ga 17,13). Thầy Giêsu còn thúc giục các môn đệ hãy xin Cha nhân danh Thầy: “Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16, 24). Rõ ràng Thầy Giêsu quan tâm đến niềm vui nơi tâm hồn người môn đệ. Niềm vui của họ bắt nguồn từ niềm vui sâu kín trong lòng Thầy. Thầy Giêsu tặng cho họ niềm vui của chính mình, và Ngài muốn niềm vui đó phải được trọn vẹn ngay từ đời này, bất chấp mọi đe dọa, bách hại, hiểm nguy, thống khổ. Nỗi buồn và khóc than của thập giá rồi sẽ đến, “nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16, 20). Thầy Giêsu là người có niềm vui trong tâm hồn, vì Thầy luôn ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, Đấng sai Thầy. Để được ở lại trong hạnh phúc của tình yêu ấy, Thầy đã một mực tuân giữ các lệnh truyền của Cha (c. 10b). Thầy Giêsu cũng mong các môn đệ giữ các lệnh truyền của Thầy, để họ được ở lại trong tình yêu của Thầy (c. 10a). Vì lệnh truyền của Thầy Giêsu là lệnh truyền Thầy nhận từ Cha, nên ai giữ lệnh Thầy truyền cũng được hạnh phúc ở lại trong tình yêu của Cha và Con. Con người hôm nay khao khát một niềm vui trọn vẹn. Và con người tưởng mình có thể tìm được bằng việc thỏa mãn những đòi hỏi ích kỷ của mình. Nhưng tiếc thay khoái lạc vô độ chỉ đem lại sự buồn chán và nô lệ. Chỉ tình yêu biết trao đi mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy Giêsu! Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy! Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu. Rồi chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc ngay trong cuộc sống đầy nước mắt ở đời này.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng. Nụ cười ấy hòa với niềm vui của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu, có những niềm vui Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại. Xin dạy chúng con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều màu hồng. Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con. Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Chúa Giêsu không bảo ta hãy yêu Chúa. Nhưng bảo ta hãy ở lại trong tình yêu của Chúa. Ở lại trong tình yêu là lời mời gọi tha thiết hơn nhiều, thân thiết hơn nhiều. Yêu ở đây không phải là một tình cảm, một thái độ, nhưng là một đời sống. Ở trong tình yêu là sống trong tình yêu. Sống nhờ tình yêu. Sống cho tình yêu. Tình yêu của Chúa là một bầu trời. Thiên Chúa ấp ủ ta trong tình yêu. Ta hít thở tình yêu. Ta hấp thụ tình yêu. Ta lớn lên trong tình yêu. Ta hạnh phúc trong tình yêu.
Chúa có kinh nghiệm vì đã ở lại trong tình yêu của Chúa Cha. Ở lại trong tình yêu của Chúa Cha làm cho Chúa được phong phú, được bình an và vui tươi vì tràn ngập hạnh phúc. Nên Chúa muốn ta cũng ở trong Chúa để được sống, được phong phú, được bình an và được vui tươi hạnh phúc như thế. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy… như Thầy ở lại trong tình thương của Cha”.
Ở lại là một kết hợp sâu xa. Kết hợp đó khiến ta nên một với Chúa. Chúa sống trong ta. Chúa biến đổi ta. Để ta suy nghĩ như Chúa. Nói năng như Chúa, Hành động như Chúa. Cũng như Chúa nên một với Chúa Cha. Nên không làm theo ý mình. Nhưng làm theo ý Cha. Người nói là nói lời đã nghe nơi Chúa Cha. Người làm là làm theo ý Chúa Cha.
Khi ta hoàn toàn ở lại trong Chúa, hoàn toàn kết hợp với Chúa, hoàn toàn nên một với Chúa, ta sẽ có niềm vui tràn đầy. Niềm vui đó chính Chúa đã cảm nghiệm khi ở trong Chúa Cha, nên Chúa truyền lại cho ta để ta cũng được hưởng niềm vui trong Chúa: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh emđược hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”.
Ở trong tình yêu Chúa biến đổi ta cho ta được sống và được phong phú. Chứ không phải nhờ những nghi thức bên ngoài như phép cắt bì. Chính vì thế các Tông đồ đã quyết định bỏ phép cắt bì với những luật lệ của người Do thái. Chỉ trong tình yêu Chúa Kitô ta được biến đổi nên người mới. Được sống. Được hạnh phúc. Và tràn đầy niềm vui
Chúng ta tiếp tục những tâm sự của Chúa Giêsu trao gửi cho chúng ta sau khi đã cùng nhau suy nghĩ về hình ảnh cây nho và cành nho mà Ngài đã dùng để kêu gọi chúng ta gắn bó với Ngài nơi Tin Mừng hôm qua. Hôm nay cũng vậy, Chúa Giêsu muốn chúng ta noi gương Ngài như Ngài đã giữ luật truyền của Chúa Cha và ở lại trong Chúa Cha, thì chúng ta cũng hãy giữ luật truyền của Ngài để được ở trong Ngài. Chính vì được ở trong nhau như thế đã làm nên niềm vui và niềm vui của chúng ta được trọn vẹn vì tất cả chúng ta đều có Thiên Chúa ở với mình. Thiên Chúa có niềm vui hoàn hảo, niềm vui viên mãn, niềm vui tràn đầy cho tất cả những ai yêu mến và ở trong Ngài.
Những lời của Chúa Giêsu mời gọi các đồ đệ hãy suy nghĩ nghiêm chỉnh về thái độ sống của mình. Mỗi đồ đệ Chúa đã được chọn, được huấn luyện sống tình thương theo mẫu gương của Chúa. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, lời Chúa luôn mời gọi, khuyến khích, và ân sủng không thiếu cho những ai cầu xin để được nâng đỡ.
Lạy Chúa, xin thương giúp mỗi người chúng con chừa bỏ khuyết điểm của mình. Xin cho chúng con mỗi ngày một sống tình yêu thương của Chúa nhiều hơn. Xin thương ban cho toàn thể Giáo Hội Chúa ơn hiệp nhất và bình an.
Mới đây, nhân kỷ niệm 50 năm ngày thế chiến thứ II chấm dứt, Đức Gioan Phaolô đã mạnh mẽ kết án các ý thức hệ độc tài và kêu gọi thế giới rút ra bài học từ cuộc chiến dã man ấy. Ngài mời gọi mọi người hướng nhìn về bao nhiêu trại tập trung trên thế giới, đó là biểu trưng của những hậu quả tàn khốc do các ý thức hệ độc tài.
Nhân loại có lẽ vẫn chưa học được bài học từ thế chiến thứ hai. Ngày nay nhiều cuộc xung đột đẫm máu vẫn còn xâu xé nhiều miền trên thế giới. Đức thánh cha đặc biệt kêu gọi giới trẻ hãy từ bỏ những ý thức hệ bạo động, những hình thức chủ nghĩa quốc gia quá khích và những hình thức bất khoan dung, vì đó là con đường dẫn đến chiến tranh. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha tựu trung là một lời kêu gọi học sống yêu thương.
Tin mừng hôm nay là một bài học về yêu thương. Lý luận của Chúa Giêsu thật rõ ràng: Chúa Cha đã yêu mến Chúa Con, Chúa Con đã ở trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Cha. Nhưng Chúa Con cũng đã yêu thương các môn đệ bằng chính tình yêu này và các môn đệ cũng có thể ở lại trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Con. Như vậy đối với Chúa Con: yêu thương và vâng phục là một. Chúa Con yêu mến Chúa Cha bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài, các môn đệ cũng phải yêu mến Chua Con bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Do đó yêu thương thật sự và trọn hảo là sẵn sàng hy sinh quan điểm của mình để tin tưởng người khác, nhưng không phải do sợ hãi hoặc tính toán, mà là để làm theo ý muốn và ước nguyện của người mình yêu. Không có sự kết hợp của hai ý muốn, tình yêu sẽ không bao giờ được trọn vẹn. Sự tuân phục lẫn nhau là tiêu chuẩn đích thực của một tình yêu trưởng thành.
Xét cho cùng, một tình yêu đích thực đòi hỏi phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đó cũng là nền tảng của một xã hội tốt đẹp. Giềng mối của mọi đố kỵ, chia rẽ dẫn đến bạo động, hận thù và chiến tranh chính là thái độ bất khoan dung. Khi không chấp nhận để người khác có một suy nghĩ khác với mình, một niềm tin và một cách sống khác với mình, người ta sẽ tìm cách hạn chế tự do hoặc loại trừ người khác.
Hãy thay đổi tâm lòng, hãy mang lấy một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương, biết tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, đó là điều mà chúng ta phải cầu xin trong cuộc sống mỗi ngày.
Những lời của Đức Giêsu là một mặc khải đem lại vui mừng cho chúng ta: “Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được đầy tràn”. Thường thường mặc khải cho thấy chúng ta là bạn của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, không phải để mang hạnh phúc đến cho chúng ta. Tin mừng chỉ trao cho ta một tấm vé nhỏ in câu: “Cười đi Chúa yêu bạn đấy”, rồi lại để cho chúng ta rơi vào buồn chán, buồn tủi.
Thế là khiến ta mỉm cười … một nụ cười chế diễu, ngây ngô, vô hạn. Tình yêu Thiên Chúa đem lại cho chúng ta có vẻ vô ích, hư thực, dường như tình yêu trong tiểu thuyết nực mùi nước hoa hồng.
Chúng ta bị cản trở khi tìm hiểu thực chất của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta, bởi vì chúng ta không thấu triệt được, không kết hợp được với tình yêu Thiên Chúa, dù có cố gắng tìm tòi với bao mồ hôi, với những lý sự vụn vặt và công sức mạo hiểm. Cho dù có những ông bác học, ông Mỹ, ông Pháp tài giỏi đến đâu muốn giúp chúng ta hiểu thấu tình yêu Thiên Chúa, thì tình yêu đó vẫn quá xa ta, vẫn vô nghĩa và chẳng giúp được gì.
Tình yêu của Thiên Chúa được thấu hiểu tường tận, tình yêu mà Chúa Cha ban cho ta, sẽ trở nên nguồn vui vô tận. Bởi vì đây là tình yêu bác ái giúp chúng ta đi tới kết hợp với Thiên Chúa trong sự toàn thiện bản tính loài người chúng ta, dẫn chúng ta đến kết quả mỹ mãn, làm chúng ta hoàn hảo trọn vẹn.
Nếu chúng ta hiểu được mặc khải mà Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta nên bạn hữu của Ngài, tham dự vào gia nghiệp của Ngài, chúng ta sẽ càng hy vọng trở nên tốt hơn, hạnh phúc hơn, lúc đó chúng ta sẽ trung thành hơn với tình yêu của Thiên Chúa.
Tới lúc đó, những khô khan và nghi ngờ sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ vui mừng xưng hô lên rằng: Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu này trở thành sinh lực dồi dào và gắn bó chặt chẽ Thiên Chúa với chúng ta. Lúc đó niềm vui của chúng ta được trọn vẹn.
Đau buồn, trăn trở, xao xuyến và lưu luyến trước sự ra đi vĩnh viễn của người thân là lẽ thường tình. Nhất là sự ra đi ấy lại là cái chết. Vì thế, trước sự chia lìa đó, người ta thường trăn trối cho nhau những lời tâm huyết phát xuất từ đáy lòng. Người trăn trối thì thỏa lòng, người đón nhận thì trân trọng và coi đây như lời thiêng liêng nên tìm mọi cách để thi hành.
Hôm nay, Đức Giêsu biết mình sắp rời bỏ thế gian để về với Chúa Cha, nên trong tình nghĩa thầy trò và nhất là vì sứ vụ chuyển trao, nên Đức Giêsu đã có những lời trăn trối với các môn đệ: “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến các con như vậy”. Tiếp theo, Ngài căn dặn các ông: “Nếu anh em giữ giới răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”.
Đến đây, chúng ta liên tưởng đến những lời truyền dạy của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Như vậy, với văn mạch, chúng ta có thể hiểu rằng: lệnh truyền yêu thương là điều Đức Giêsu mong muốn nơi các môn đệ của mình... Ngài cũng muốn các ông trải dài lệnh truyền ấy không chỉ bằng lời nói, mà là hành động.
Tuy nhiên, suốt hơn hai ngàn năm qua đi, sự giàu có, quyền lực và thực dụng... đã làm cho con người ngày càng xa rời nhau khi sự phân biệt giàu nghèo được thiết lập ngay tại tâm can của con người. Vì thế, người ta không ngừng củng cố uy tín bằng quyền lực mà quên đi tình thương. Sự liên đới trong tinh thần trách nhiệm phải chăng là điều xa xỉ, quan điểm chụp giật là đề tài được nhiều người lựa chọn! Bởi vì mục đích của họ là thỏa mãn cái bụng, củng cố cái ghế, chứ không phải sống và thi hành tâm tư lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thế nên, xã hội và con người hôm nay nhiều khi không màng chi đến tín nghĩa, ân tình và lòng từ bi thương xót... Lời trăn trối của Đức Giêsu khi xưa phải chăng đã đi vào quên lãng?
Không! Nếu con người và xã hội hôm nay không chấp nhận đi vào mối tương quan với Thiên Chúa, thì chúng ta, những người Kitô hữu, mỗi người không thể thờ ơ trước lời trăn trối đầy yêu thương của Đức Giêsu được. Bởi lẽ đây là điều căn bản thể hiện căn tính của người Công Giáo. Mất đi bản chất này, chúng ta không còn là Kitô hữu đúng nghĩa!
Lạy Chúa Giêsu, những lời trăn trối của Chúa hôm nay đã làm cho mỗi người chúng con phải tự cật vấn lương tâm mình, để sống sao cho phù hợp với tư cách người môn sinh của Chúa trong thế giới hôm nay. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy sống trọn vẹn tình yêu, theo mẫu mực tuyệt hảo như Thiên Chúa yêu thương. Ta hãy giữ giới răn của Chúa Giêsu để sống trong tình yêu của Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, không có lời mời gọi nào êm dịu và ngọt ngào cho bằng tiếng gọi của tình yêu. Sự ngọt ngào ấy còn tuyệt diệu hơn nữa khi có tiếng gọi của tình yêu từ chính Chúa.
Nhưng lạy Chúa, từ vườn địa đàng, nơi phủ ngập tình yêu của Chúa, tổ tiên loài người đã đánh mất tình yêu. Lòng con người hóa nên chai cứng và thù hận đã bóp nghẹt con tim. Tình trạng ấy đang ảnh hưởng trên đời sống con hôm nay.
Lời Chúa đã đánh thức tình yêu con sống dậy, và hướng dẫn con biết sống trong tình yêu của Chúa. Tình yêu ấy cần được sống trong đời thường. Tình yêu ấy sẽ biến đổi con thành người sống trong thuận hoà. Tình yêu ấy luôn ẩn dấu trong trái tim để hướng dẫn con sống đời yêu thương cụ thể. Tình yêu ấy lắng đọng trong đôi mắt để con nhìn người khác là anh em. Tình yêu ấy luôn ngập tràn trên môi miệng để con biết nói lời dựng xây, biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn với kẻ khác. Tình yêu ấy luôn hiện diện trên đôi tay để con biết sẵn sàng cho đi những nghĩa cử cao đẹp. Và tình yêu ấy luôn tiến bước trên đôi chân để con sẵn sàng đi đến với mọi người.
Lạy Chúa, xin dạy con sống tình yêu chia sẻ như Chúa, để đời con tràn đầy niềm vui hạnh phúc, vì “kẻ cho thì có phúc hơn người nhận”. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy ở trong tình yêu của Thầy, để niềm vui của các con được trọn vẹn”.
1. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy ở lại trong tình thương của Ngài: Ngài yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Chúa Cha đã yêu Ngài. Tất cả những gì Đức Giêsu lãnh nhận từ nơi Cha, Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình. Đức Giêsu dạy chúng ta biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.
2. Có một tác giả đã viết trong một bài ca của ông như sau: “Dù anh lấy bầu trời làm giấy, lấy nước biển làm mực, đốn cây rừng làm bút viết, và dùng con người trên thế giới trải qua mọi thời đại làm người viết, thì anh cũng không bao giờ diễn tả hết được tình yêu Thiên Chúa”. Đây là một kiểu nói có tính cách khoa đại, nhưng không phải là không đúng sự thật, vì Kinh Thánh nói: “Từ muôn thưở Chúa đã yêu con”, “Chúa yêu con từ khi con chưa có tuổi, từ khi chưa có sao trời”. Nếu xét về hiện hữu thì con người chẳng hơn gì sự có mặt của muôn tinh tú trong thái dương hệ bao la này. Nhưng vũ trụ bao la ấy một ngày kia sẽ trở về hư không như lời Kinh Thánh: “Trời đất này sẽ qua đi”. Nhưng khi mọi sự qua đi, thì chính con người sẽ tồn tại mãi mãi, tồn tại cả xác lẫn hồn (Lm Phạm Văn Phượng).
3. ”Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”(Ga 15,9).
Theo kinh nghiệm, hễ đã yêu thương ai, hẳn chúng ta muốn sống bên cạnh người ấy để chia sẻ và lấy sở thích của người ấy làm của mình. Tình yêu giữa con người với nhau còn như thế, huống nữa là tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Đức Giêsu đã rất mực yêu thương các môn đệ, Ngài muốn họ luôn ở với Ngài cũng như Ngài hằng ở với Thiên Chúa; Ngài muốn họ thực hành Lời Ngài cũng như Ngài luôn vâng phục lệnh truyền của Cha Ngài. Đó là điều được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay (Mỗi ngày một tin vui).
4. Ở lại trong tình yêu là luôn hướng về nhau: Nghĩa là dù phải “xa mặt nhưng không cách lòng”, không gian địa lý hay thời gian cách biệt cũng không thể tách rời hai con tim đang hướng về nhau. Cũng thế, khi Kitô hữu yêu mến Đức Kitô thì luôn luôn nhớ và kết hiệp với Người mọi nơi mọi lúc trong mọi sinh hoạt của cuộc sống.
Ở lại trong tình yêu là giữ lời nhau: Khi yêu nhau thật lòng người ta không quản ngại thực hiện những gì đòi hỏi phải có dành cho nhau; cam kết những ràng buộc trong tình yêu..
Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Con khi phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các con hãy vâng nghe lời Người”. Kitô hữu không thể nói yêu Chúa mà không giữ giới răn của Chúa. Kitô hữu yêu Chúa là làm theo ý Chúa và giữ điều răn Chúa. Bởi vì như Đức Giêsu đã nói rõ điều kiện: “Nếu các con giữ điều răn của Thầy, các con ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10).
5. Trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu biết rằng mình chẳng còn ở lại một cách hữu hình với các môn đệ được bao lâu nữa, do đó, để tránh cho các môn đệ cảnh xa mặt cách lòng, Đức Giêsu mời gọi và truyền dạy các ông một phương cách mới để duy trì tình yêu đối với Ngài, đó là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài như Ngài đã tuân giữ các lệnh truyền của Chúa Cha và luôn kết hợp với Ngài. Đức Giêsu chia sẻ cho các môn đệ kinh nghiệm sống của Ngài với Chúa Cha, và lấy đó làm lý tưởng cho cuộc sống đức tin của các môn đệ trong thời gian sau biến cố Phục sinh, thời gian của sự dấn thân làm chứng cho Ngài. Người làm chứng cho Chúa phải sống kết hợp với Chúa, tuân giữ các lệnh truyền của Ngài, và quan trọng nhất là lệnh truyền: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
6. Như Đức Giêsu đã mời gọi: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy”, đó là cội nguồn của tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Đức Giêsu tuôn chảy đến nhân loại: Tất cả những gì Đức Giêsu lãnh nhận từ nơi Cha. Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình. Và nhân loại cũng phải trao cho nhau như Đức Giêsu đã truyền: Biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.
7. Truyện: Hãy học biết yêu thương.
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện diện của Thiên Chúa. Một hôm anh ta tìm đến một tu sĩ nổi tiếng và đạo đức, anh hỏi: - Ngài có tin Thiên Chúa không?
- Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
- Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
- Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
- Nhưng làm sao cảm nhận được như thế?
- Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nhận được Chúa, và những hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi rồi hỏi tiếp:
- Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
- Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
Chúa Giêsu dạy: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, Các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy.”
Suy gẫm
1. Tôi yêu Chúa. Nhưng tôi không luôn yêu Ngài. Tình yêu của tôi đối với Ngài lúc có lúc không, có khi nồng nàn, có khi lạnh nhạt. Nghĩa là tôi chưa ở lại trong tình yêu của Ngài. Muốn ở lại tôi phải làm theo Lời Chúa dạy “Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy.”
2. Hễ đã yêu thương ai, hẳn chúng ta muốn sống bên cạnh người ấy để chia sẻ và lấy sở thích của người ấy làm sở thích của mình. Tình yêu giữa con người với nhau còn như thế, huống chi là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Chúa Giêsu rất mực yêu thương các môn đệ, Ngài muốn họ ở với Ngài cũng như Ngài hằng mơ ước với Thiên Chúa; Ngài muốn họ thực hành Lời Ngài cũng như Ngài luôn vâng lệnh truyền của Chúa Cha.
3. “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.” Năm 1963, tại Washington, 200.000 người lắng nghe Martin Luther King. Vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel Hoà Bình nói chuyện: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và những người chủ nô sẽ ngồi với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi ước mơ một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao…”
Ông ra sức thực hiện ước mơ ấy, biết bao khó khăn thử thách, ghen tương đố kỵ đã đổ xuống trên đầu ông, nhưng ông vẫn kiên quyết thực hiện hoài bão này.
Năm 1968, Martin Luther King đã gục dưới lằn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng công trình của ông vẫn được tiếp tục, bởi ước mơ của ông đã trở thành ước mơ của hàng triệu người trên thế giới.
Lạy Chúa, xin cho con biết ở lại trong tình thương của Chúa.
4. Tin Mừng hôm nay là một bài học về yêu thương. Lý luận của Chúa Giêsu thật rõ ràng: Chúa Cha đã yêu mến Chúa Con. Chúa Con đã ở trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Cha. Nhưng Chúa Con cũng đã yêu thương các môn đệ bằng chính tình yêu này và các môn đệ cũng có thể ở lại trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Con. Như vậy đối với Chúa Con: yêu thương và vâng phục là một. Chúa Con yêu mến Chúa Cha bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài, các môn đệ cũng phải yêu mến Chúa Con bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Do đó yêu thương thật sự và trọn hảo là sẵn sàng hy sinh quan điểm của mình để tin tưởng người khác, nhưng không phải do sợ hãi hoặc tính toán, mà là để làm theo ý muốn và ước nguyện của người mình yêu. Không có sự kết hợp của hai ý muốn, tình yêu sẽ không bao giờ được trọn vẹn. Sự tuân phục lẫn nhau là tiêu chuẩn đích thực của một tình yêu trưởng thành.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến lần thứ nhất, đã nhập thể làm người và qua đó trao ban cho chúng con niềm vui ơn cứu độ. Chúng con thật vui mừng vì có Chúa ở cùng chúng con. Chúng con thật hạnh phúc vì có Chúa luôn đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Qua Bí tích Thánh Thể, Chúa đến và lưu lại trong tâm hồn chúng con. Chúng con xin hết lòng cảm tạ, tri ân tình yêu cao sâu mà Chúa đã dành cho chúng con.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng chúng con tôn thờ, xin cho chúng con lưu lại trong Chúa để chúng con được tắm gội trong tình yêu của Chúa. Nhờ vậy mà chúng con được đổi mới cuộc đời, đổi mới cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa. Xin cho chúng con cũng mặc lấy tâm tình của Chúa để chúng con biết yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương chúng con. Xin giúp chúng con biết đến với mọi người trong tinh thần yêu thương và phục vụ. Xin giúp chúng con đừng sống ích kỷ, đừng quá tham lam mà đánh mất tình bạn hữu, mà làm mất vẻ đẹp của phẩm giá làm người nơi chúng con.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết biến niềm vui có Chúa thành một đời sống chứng nhân cho Chúa giữa trần gian. Và xin cho chúng con biết sống khiêm tốn, thánh thiện, gương mẫu để mai sau chúng con được thấy Chúa, được ở bên Chúa, và được hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời. Amen
1. Lý luận của Chúa Giêsu thật rõ ràng: Chúa Cha đã yêu mến Chúa Con. Chúa Con đã ở trong tình yêu này bằng cách tuân giữ những lệnh truyền của Chúa Cha. Chúa Con cũng đã yêu thương các môn đệ bằng chính tình yêu này, và các môn đệ cũng có thể ở lại trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Con. Như vậy, đối với Chúa Con: yêu thương và vâng phục là một. Do đó, yêu thương thật sự và trọn hảo là sẵn sàng hy sinh quan điểm của mình để tin tưởng người khác, nhưng không phải do sợ hãi hoặc tính toán, mà là để làm theo ý muốn và ước nguyện của người mình yêu. Không có sự kết hợp giữa hai ý muốn, tình yêu sẽ không bao giờ được trọn vẹn. Sự tuân phục lẫn nhau là tiêu chuẩn đích thực của một tình yêu trưởng thành.
Tình yêu đòi hỏi phải chấp nhận thói quen của người mình yêu. Khi ta quen và chấp nhận những chi tiết nhỏ trong cuộc sống của người khác, tức là ta đã thực sự yêu người đó. Tình yêu là sự thừa nhận của ta đối với thói quen của người khác. Nấc thang cao nhất trong tình yêu chính là thừa nhận và chấp nhận thói quen của người mình yêu.
Đây là câu chuyện xảy ra tại Belfast bên xứ Iceland:
Một linh mục công giáo, một mục sư tin lành, và một giáo trưởng Do thái, đang tranh luận rất sôi nổi về vấn đề thần học. Thình lình một Thiên Thần hiện ra giữa họ và nói:
- Thiên Chúa chúc lành cho các ngươi. Các ngươi hãy nói lên một ước nguyện về hòa bình và Thiên Chúa toàn năng sẽ chấp nhận.
Thế là vị mục sư tin lành liền khẩn cầu:
- Xin Chúa cho tất cả mọi người Công Giáo biến khỏi mảnh đất thân yêu này thì hòa bình sẽ trở lại tức khắc.
Vị Linh mục công giáo thì cầu nguyện:
- Xin đừng để cho một người Tin Lành nào còn có mặt trên mảnh đất Iceland thân yêu này, và hòa bình sẽ trở lại.
Vị giáo trưởng Do thái thì lại cúi đầu thinh lặng. Thấy thế Thiên Thần liền hỏi:
- Còn ngươi, hỡi giáo trưởng, ngươi không có ước nguyện nào ư?
Ông ta liền thưa:
- Vâng, tôi không có điều gì để xin nữa. Tôi chờ cho lời cầu của hai vị này được Chúa chấp nhận là tôi mãn nguyện rồi.
Tình yêu đòi hỏi phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đó cũng là nền tảng của một xã hội tốt đẹp. Giềng mối của mọi đố kỵ, chia rẽ dẫn đến bạo động, hận thù và chiến tranh chính là thái độ bất khoan dung.
2. Trái lại nếu con người biết tôn trọng những khác biệt của người khác, thì cuộc sống giữa người với người chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn.
Đức Giám Mục Helder Camara, vị tông đồ nổi tiếng của người nghèo xứ Brasil, đã ghi lại trong tập thơ của Ngài mang tựa đề “Có muôn ngàn lý do để sống” câu chuyện sau đây:
Bên cạnh nhà tôi có một con sáo, quanh năm ngày tháng sống giữa trời. Tôi vẫn có thói quen nói chuyện với nó. Một hôm, tôi hỏi sáo có nơi ngủ không. Nó ngạc nhiên trả lời:
- Có chứ, màn là trời, chiếu là đất, có bao giờ thiếu đâu.
Với những đòi hỏi của trí khôn, con người muốn biết mọi chuyện, tôi mới tò mò hỏi nó:
- Thế thì những lúc mưa gió, sáo trú ẩn mình nơi đâu?
Sáo nhanh nhẩu trả lời:
- Bộ ông nghĩ là thỉnh thoảng tôi không cần tắm gội sao?
Tôi hỏi nó có đói không. Con chim chỉ mỉm cười đáp:
- Điều tôi muốn là được hót. Tôi sinh ra để hót mà.
Nói thế rồi nó cất tiếng hót như sau:
- Hỡi loài người kiêu ngạo, hãy nói cho ta biết đi, liệu các ngươi không chết sao?
Có lần, tôi nài nĩ con sáo nhận món quà tôi biếu, đó là khúc bánh mì kẹp thịt. Thế là sáo lại được dịp cười nhạo sự ngây ngô của tôi. Nó bảo:
- Ông không biết loài sáo chúng tôi không ăn bánh mì và thịt như các ông à?
Một lần khác tôi hỏi sáo có cầu nguyện không? Nó không hiểu được câu hỏi của tôi. Nó chỉ cười và nói:
- Có mấy chú nhóc con lấy đá ném tôi. Nhưng tôi bay đi, tôi cười và tôi hót.
Ngày kia, tôi có ý nghĩ đưa con sáo vào bệnh viện nhờ các bác sĩ khám bệnh và chữa trị cho nó. Nhưng tôi chợt nhận ra rằng nó chỉ là một con chim.
Nguyên nhân của những nỗi bất hạnh nơi con người là việc con người không biết chấp nhận tư tưởng, hành động và cách sống của nhau.
Ai cũng muốn người khác phải suy nghĩ, hành động và sống như mình. Ý thức hệ nào cũng tự cho mình là ưu việt và muốn áp đặt trên mọi người bằng mọi cách.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết thay đổi tấm lòng, mang lấy một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương, biết tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, để chúng con góp phần vào việc kiến tạo nên một thế giới, trong đó mỗi người chúng con biết sống quảng đại với nhau hơn. Amen.
Chúa Cha yêu mến Chúa vì Chúa là Con Một của Chúa Cha, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời, khi mà vũ trụ đất trời này chưa có như ngày hôm nay. Chúa Cha yêu mến Chúa bằng một mối tình hiền phụ cho nên Chúa Cha trao phó vào tay Chúa mọi quyền hành trên trời dưới đất, trong thế giới hữu hình và vô hình. Đàng khác Chúa Cha yêu mến Chúa và trao phó tất cả mọi sự trong tay Chúa vì Chúa đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 13, 17) bằng việc Chúa vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha để mà xuống thế làm người, chịu nạn, chịu chết trên cây thập giá, sống lại, cứu chúng ta khỏi chết đời đời. Do đó Chúa Cha luôn luôn ở với Chúa: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con” (Ga 15, 9).
Chính Chúa vì yêu thương và vâng lời Chúa Cha như thế, để rồi Chúa cũng yêu con người chúng ta khi mà con người chúng ta nô lệ cho tội lỗi và Chúa đã bỏ ngai vàng địa vị của một Thiên Chúa cao sang, uy quyền, vinh hiển (xPl 2, 6 – 11), đến ở với chúng ta, hiến dâng mạng sống để giải thoát chúng ta khỏi ràng buộc bởi tội lỗi, phục hồi chức vị làm con Chúa cho chúng ta và nhờ đó chúng ta được tự do hoàn toàn của một người con được ở trong nhà của Chúa. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải tuân giữ những lệnh Chúa truyền thì chúng ta mới được ở lại trong tình yêu của Chúa và Chúa sẽ đến cư ngụ trong chúng ta. Chúng ta làm như vậy là chúng ta bắt chước Chúa khi Chúa sống với Chúa Cha: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn” (Ga 15, 10 – 11), chúng ta sẽ làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự.
Như vậy, Chúa Cha yêu mến Chúa, Chúa yêu mến Chúa Cha. Chúa giữ lời Chúa Cha. Chúa được ở trong Chúa Cha. Chúa dạy chúng ta cũng phải sống theo mẫu gương của Chúa như thế để chúng ta được ở trong Chúa, và rồi qua đó chúng ta thấy:
-Tình yêu là mối dây liên kết Chúa với Chúa Cha, chính tình yêu thúc đẩy hành động, thúc đẩy sự hiệp nhất vì tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8).
-Để bảo vệ tình yêu, chúng ta phải có sự vâng phục, và khi sống vâng phục như thế, cuộc đời chúng ta sẽ có niềm vui, vì chúng ta được ở trong Chúa, và nếu chúng ta xin ơn, Chúa sẽ ban cho chúng ta.
Khi chúng ta thực hiện lời Chúa thì chúng ta chẳng phải tìm lời Chúa ở đâu cho xa xôi, vì khi Chúa chịu chết và sống lại rồi, lời Chúa ở ngay chúng ta đây: “Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng” (Rm 10, 8). Chúng ta hãy cố gắng thực hiện lời Chúa dạy, Chúa sẽ nâng đỡ chúng ta.
Lạy Chúa, Đấng phục sinh, xin Chúa ban ơn cho chúng con, giúp chúng con sống bền đỗ với Chúa đến cùng. Xin Chúa gìn giữ và giúp chúng con làm phát triển tình yêu Chúa đến với mọi người qua cách sống yêu thương phục vụ, làm các việc lành phúc đức cho anh chị em của chúng con, không phân biệt một ai, nhất là giúp nhũng chị em nghèo khổ, túng thiếu, đói khát, bệnh tật, ốm đau….Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 5 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã thương thánh hóa chúng ta là những người tội lỗi, đã giáng phúc cho chúng ta là những người bất hạnh, xin Chúa gìn giữ những ơn Chúa đã ban và củng cố những việc Chúa đã làm, chúng ta là những kẻ nhờ tin, mà được nên công chính, xin Chúa ban sức mạnh giúp chúng ta bền đỗ đến cùng.
Nhờ tin, mà được nên công chính, xin bền đỗ đến cùng, để được tiến vào thành đô Giêrusalem mới, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Thành Giêrusalem mới, những hình ảnh Kinh Thánh thường dùng để kể lại các cuộc thần hiện, thì ngôn sứ Êdêkien dùng để mô tả Giêrusalem sau ngày phục hưng. Sách Khải Huyền dùng các hình ảnh này để cho thấy trước công trình tạo dựng cuối cùng sẽ thành công rực rỡ như thế nào. Sau khi đau khổ, tội lỗi, chết chóc được chấp nhận và thay hình đổi dạng nhờ Chúa Kitô, thì kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện mỹ mãn. Hỡi Giêrusalem, quảng trường của ngươi được dát bằng vàng y, khắp nơi trong thành vang tiếng ca hoan hỷ. Mọi nhà sẽ cùng hát: Một ánh sáng rạng ngời sẽ chiếu soi khắp mười phương đất.
Nhờ tin, mà được nên công chính, xin bền đỗ đến cùng, để được dự tiệc vui muôn đời, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Gauđenxiô Bơrétsia nói về: Thánh Thể, cuộc Vượt Qua của Chúa… Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Thầy, và Thầy sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Thầy, cũng sẽ nhờ Thầy mà được sống như vậy. Đây là Mình Thầy, hy sinh vì anh em.
Nhờ tin, mà được nên công chính, xin bền đỗ đến cùng, để loan truyền và hát mừng những kỳ công Chúa đã làm cho ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ, ông Giacôbê nói: Tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 95, vịnh gia kêu xin: Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa làm. Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh!
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng, và chúng theo tôi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Hãy ở lại trong tình thương của Thầy, để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. Chiên Chúa thì nghe tiếng Chúa, thì ở lại trong tình thương của Chúa: Tình thương của người hy sinh tính mạng vì người mình yêu. Một người đã chết vì mọi người, nay cũng chính Người đó, trong Mầu Nhiệm Bánh Rượu: khi được sát tế, thì bồi dưỡng; khi được tin kính, thì tác sinh; khi được thánh hiến, thì thánh hóa những người lãnh nhận. Người là Tạo Hóa và là Chúa Tể vạn vật, Đấng từ ruộng đất làm ra cơm bánh, rồi lại, làm cho bánh đó trở nên chính Mình Người; rồi Người đã làm cho nước hóa thành rượu, thì cũng làm cho rượu trở nên Máu Người. Đó là Cuộc Vượt Qua của Chúa như Người đã nói, nghĩa là, Chúa đã đi qua “cái mà”, nhờ Người, đã trở thành thực tại thiên giới, khi Người đi qua, và làm cho thành Mình và Máu Người. “Cái mà” chúng ta lãnh nhận, đó là Mình của Đấng là Bánh Bởi Trời và là Máu của Cây Nho Thánh. Chúng ta được mời gọi chung hưởng niềm vui của Chúa, niềm vui mang ơn cứu độ của Chúa đến cho tất cả mọi người, để tất cả đều có thể hát lên một bài ca mới, hát mừng những kỳ công Chúa đã làm cho chúng ta. Chúa đã thương thánh hóa chúng ta là những người tội lỗi, đã giáng phúc cho chúng ta là những người bất hạnh, xin Chúa gìn giữ những ơn Chúa đã ban và củng cố những việc Chúa đã làm. Nhờ tin, mà chúng ta được nên công chính, ước gì chúng ta bền đỗ đến cùng. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau".
Tôn giáo nào cũng dạy người ta phải yêu nhau. Từ bi hỷ xả của Phật giáo hay tứ hải giai huynh đệ của Khổng giáo. Đức Giêsu đã coi việc yêu thương nhau là một điều răn, một lệnh truyền. Nhưng lệnh truyền này có nét mới mẻ: “Anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (c. 12). Nét mới mẻ và đáng sợ nằm ở chữ như. Chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Đức Giêsu soi sáng ý nghĩa của chữ như trong câu sau, khi Ngài nói đến tình yêu của mình đối với các môn đệ: “Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (c. 13). Chết cho các bạn của mình là hành vi lớn nhất của tình yêu. Thập giá là biểu hiện của tình yêu lớn nhất, tình yêu hiến mạng. Đức Giêsu đòi buộc các môn đệ phải yêu nhau đến mức đó. Người Kitô hữu được mời gọi yêu nhau đến mức đó. “Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình yêu của của Thầy” (c. 9). Có một dòng suối tình yêu chảy tràn từ Cha đến Thầy Giêsu, và từ Thầy Giêsu đến với các môn đệ. Ở lại trong tình yêu của Thầy chính là để cho dòng suối đó tiếp tục chảy, qua tình yêu giữa các môn đệ với nhau. Dòng suối ngừng chảy sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp. Giữa Thầy Giêsu và các môn đệ không phải chỉ có tình Thầy trò, mà còn có tình bạn thân thiết (c. 14). Một đặc tính của tình bạn là dám chia sẻ cho nhau những điều riêng tư. Thầy Giêsu cho các môn đệ biết việc mình làm, và biết những gì Thầy đã nghe được từ nơi cung lòng Cha (c. 15). Như thế đời sống thầm kín giữa Thầy với Cha, Thầy đã vén mở. Thầy Giêsu sống như một người bạn bên cạnh các môn đệ. Và Ngài cũng muốn họ sống như những người bạn bên nhau. Dám sống cho nhau và dám chết cho nhau. Chỉ khi họ sống với nhau như những người bạn đích thực, các môn đệ mới thật là bạn của Giêsu (c. 14). Tình bạn đối với Giêsu khiến ta có tình bạn đối với nhau. Tình bạn ta có đối với nhau minh chứng về tình bạn ta đang có với Giêsu. Trong đời thường, chúng ta ít có cơ hội hy sinh mạng sống cho nhau. Nhưng chúng ta lại có rất nhiều cơ hội hy sinh những điều đáng quý khác, như thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, uy tín, quyền lợi, dự tính, ảnh hưởng… Những hy sinh này đụng đến cái tôi của ta và làm ta đau nhói. Mong các Kitô hữu biết yêu nhau để người ta biết chúng ta là ai (Ga 13, 35). Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu. Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa. Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng. Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau. Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ. Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen. ---------------------------------
Đơn sơ, rõ ràng và cụ thể. Đó là Lời Chúa. Là Luật Chúa. Là Luật Mới: Yêu Thương. Đơn sơ vì vắn gọn và tập trung vào một điểm. Rõ ràng vì ai cũng hiểu được và làm được. Cụ thể vì chính Chúa đã thực hành trước khi truyền dạy cho ta. Yêu thương nhưng phải yêu thương như Chúa yêu thương. Có 3 điểm.
Chúa nâng ta lên. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Tôi tớ được nâng lên ngang hàng với chủ nhân. Môn sinh được nâng lên thành bạn hữu của Thầy. Ở mức cao nhất. Vì được cùng Thầy chia sẻ tâm tư tình cảm. Kể cả chương trình hành động.
Chúa chết vì ta. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã làm như vậy.
Chúa tuyển chọn và sai ta đi. “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái”. Đó là tình bạn ở mức độ cao. Tin tưởng. Đồng hoá. Coi người bạn là đại diện cho mình. Cũng như Chúa Cha và Chúa Con là một.
Thật đáng mừng. Vì các môn đệ và các tín hữu đầu tiên đã thực hành Giới Luật Yêu Thương của Chúa. Đã coi nhau là bạn hữu. Kể cả người dân ngoại. “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết”. Đã hi sinh tính mạng cho nhau. “Ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Vì anh em mà chấp nhận hiểm nguy, kể cả hi sinh tính mạng. Đã tin tưởng, cắt đặt và sai đi. Cộng đoàn đặt tay sai Ba-na-ba và Phao-lô đi. “Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhát trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em”.
Các ngài đã thực hành Giới Răn Mới của Chúa. Vì thế cộng đoàn tràn đầy niềm vui: “họ vui mừng vì lời khích lệ đó”. Ta hãy Yêu Thương Như Chúa. Sẽ được niềm vui. Và đem niềm vui cho mọi người.
Hôm qua, lời Chúa đã mặc khải cho chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chúng ta phải trung thành với Đấng đã đặt hy vọng nơi chúng ta.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết rõ phải đáp trả tình yêu của Chúa: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Phẩm chất của tình yêu Kitô hữu là nên giống tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu của chúng ta phải đối chiếu với cách thức của Đức Giêsu yêu thương chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.
Tình yêu của Kitô hữu là tặng ban sự sống, thời giờ và công việc, tình cảm và lợi ích của mình cho người khác. Tình yêu Kitô hữu hoàn thành trong sự hy sinh trọn vẹn đời mình cho người khác.
Chúng ta có thể thực hành tình thương người dần dần theo từng giai đoạn. Bắt đầu chúng ta thử thực hiện giúp đỡ người chung quanh chúng ta mỗi ngày mỗi tốt hơn. Thứ đến chúng ta tìm hiểu và liệt kê những điều họ cần thiết để tìm cách giúp đỡ họ mạnh sức hơn. Rồi sẽ đến ngày chúng ta hy sinh cả những lúc nghỉ ngơi, những việc riêng tư.
Tới ngày đó, chúng ta sẽ thực hiện được lời thánh Phao-lô: “Chúng tôi hoàn tất trong thân xác chúng tôi điều còn thiếu trong đau khổ của Đức Kitô”. Chúng tôi thực hiện hình ảnh của Đức Kitô đã khẳng định mình là tôi tớ mọi người.
Trong Thánh lễ tạ ơn này, chúng ta cử hành cuộc tưởng niệm tình yêu của Chúa để làm sống lại những cử chỉ trong bữa tiệc ly, những cử chỉ đó bầy tỏ rõ rằng phẩm chất tình yêu của Đấng cứu độ đã ban cho chúng ta: “Này là Mình Thầy, này là Máu Thầy đã bị nộp vì anh em”.
Cách đây không lâu, Soko Asara, thủ lãnh giáo phái “Chân lý tối thượng” đã bị bắt giữ vì can tội chủ mưu phóng hơi ngạt giết hại 11 người và làm bị thương trên 5.000 người trong một hệ thống đường ngầm tại Tokyo, Nhật Bản. Vị thủ lãnh giáo phái này thường xuất hiện trong một chiếc xe mầu trắng sang trọng. Mười ngàn tín hữu tại Nhật Bản và một số nước khác đã sụp lạy khi ông đi qua, họ uống cả nước tắm gội của ông. Tại một trung tâm của giáo phái nằm dưới chân núi Phú Sĩ vốn là biểu trưng của thanh bình, cảnh sát đã khám phá cả một kho vũ khí hóa học có khả năng sát hại hàng chục triệu người. Đó là sự thật mà cảnh sát Nhật đã nắm bắt được từ giáo phái vốn tự xưng là “Chân lý tối thượng”. Tựu trung, sát hại là khẩu hiệu hàng đầu do vị thủ lãnh giáo phái này truyền đi và được các tín đồ của ông răm rắp tuân theo.
Con người vốn khao khát đi tìm chân lý: nơi nào có người dấy lên tự xưng được giác ngộ và tìm thấy chân lý, nơi đó có những tín đồ chạy theo. Trong lịch sử nhân loại đã có biết bao người tự xưng là bậc thày như thế. Đã có những bậc thày xoa dịu được nỗi khổ đau của nhân loại, nhưng cũng không thiếu những bậc thầy mà sự xuất hiện chỉ là cơn ác mộng cho nhiều người.
Chúa Giêsu cũng xuất hiện như một bậc thày. Ngài cũng quy tụ một số môn đệ. Thế nhưng trong lịch sử nhân loại chưa từng có một bậc thày nào đã có cuộc sống và cung cách hành xử như Ngài, cũng như chưa từng có một bậc thày nào đã tự xưng mình là chân lý như Ngài; chân lý ấy được mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài chính là tình yêu.
Tin mừng hôm nay cũng như bao trang Tin mừng khác bộc bạch một cách trong suốt trái tim của bậc thày này. Điệp khúc gói trọn lời trăn trối của Ngài là: “Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”. Như Ta đã yêu thương các con, đó là mức độ của một tình yêu đích thực và đặc điểm của một giáo huấn chân thật. Chúa Giêsu quả thật đã yêu thương các môn đệ và yêu thương đến cùng, đó là tình yêu cao cả nhất của người thí mạng sống mình vì bạn hữu.
Cái chết của Chua Giêsu trên Thập giá là mạc khải tối thượng về Thiên Chúa và về con người. Qua cái chết ấy Chúa Giêsu mạc khải cho nhân loại rằng chỉ có một Thiên Chúa và Thiên Chúa đó yêu thương con người. Qua cái chết ấy Chúa Giêsu cũng đồng thời mạc khải cho nhân loại rằng con người chỉ có một ơn gọi, đó là sống yêu thương, càng sống yêu thương, con người càng đến gần chân lý và càng trở thành bạn hữu của Thiên Chúa.
Chân lý không phải chỉ để tin nhận, mà thiết yếu là để được thực thi, và như Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Ai thực thi chân lý thì đến cùng ánh sáng”. Thật thế, ai sống yêu thương, người đó sẽ hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, phẩm giá của con người và chắc chắn sẽ cảm nhận được sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa. Trái lại, ai nuôi dưỡng hận thù, xúc phạm đến tha nhân, người đó cũng chối bỏ chân lý về con người và về Thiên CHúa, đồng thời cũng giam hãm mình trong tăm tối của cô đơn.
Nguyện xin Đấng là chân lý ban cho chúng ta ánh sáng và sức sống thần linh của Ngài, để chúng ta luôn tiến bước trong cuộc sống với niềm tin tưởng lạc quan. Xin cho các Kitô hữu xác tín rằng chỉ bằng cuộc sống yêu thương, chúng ta mới thực sự làm chứng cho chân lý.
Yêu và muốn được yêu chính là nhu cầu của con người. Nếu vắng bóng tình yêu, con người chỉ còn có cách đối xử với nhau như loài vật. Họ sẽ cắn xé nhau chỉ để đảm bảo việc sinh tồn mà thôi.
Thấy được tầm quan trọng của tình yêu giữa người với người, và cũng thấy được sự cao quý của tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Hơn thế nữa, cần phải làm cho bản chất của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống của người môn đệ, nên Đức Giêsu đã truyền và dạy cho các ông bài học yêu thương khi nói: “Anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em”.
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn cho những ai tin và tiếp bước thì cũng được hòa vào và đi trong đường lối yêu thương của Thiên Chúa để được hạnh phúc. Đồng thời cũng cần sống và diễn tả tình yêu ấy cho người khác.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy yêu thương nhau bằng một tình yêu không phân biệt hay loại trừ. Yêu mà không mong đền đáp, nhưng yêu một cách vô vị lợi, luôn chia sẻ, cảm thông và tha thứ với mọi hoàn cảnh. Sẵn sàng phục vụ như một người tôi tớ... và cuối cùng, coi sự sống của mình là sự sống của người khác, nên nếu cần, chấp nhận hy sinh cho người khác như Đức Giêsu đã hiến mạng vì bạn hữu của mình.
Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi yêu như Chúa, chúng con hiểu cả! Nhưng sống điều mình hiểu thật là không dễ chút nào! Xin Chúa ban cho chúng con quả tim, đôi mắt, đôi tai, đôi tay và đôi chân của Chúa, để chúng con can đảm thực thi lệnh truyền yêu thương của Chúa trong niềm tin, lòng mến và sự phó thác. Amen.
Sứ điệp: Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh là đỉnh cao chói sáng của tình yêu Chúa Giêsu trao ban cho nhân loại. Nay Chúa mời gọi ta suy ngắm. Hãy cảm nghiệm tình yêu cao cả đó để hợp nhất yêu thương nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thuộc lòng mười điều răn, con hiểu rằng mến Chúa yêu người là điều cốt lõi. Nhưng trong thực tế đời thường, con lại đối xử với nhau không theo tiêu chuẩn tình yêu. Lòng con đầy ích kỷ, tham vọng, và được che đậy cách khéo léo. Gia đình con chưa thực sự hiệp nhất trong tình yêu Chúa. Bầu khí gia đình chưa thật sự trên thuận dưới hoà, con cái chưa thảo hiếu, vợ chồng chưa thương yêu nhau.
Xin ánh sáng của Chúa Phục Sinh chiếu dọi vào tâm hồn con. Xin Chúa sưởi ấm và biến đổi tâm hồn con, xin làm cho tình yêu đích thực ngự trị và tỏa sáng trong con. Xin cho con biết cảm thông, biết chia sẻ, biết đón nhận nhau, biết cho đi... Nhất là xin cho con biết hy sinh đến độ quên mình như Chúa. Nhờ đó, ánh sáng vinh quang của mầu nhiệm Phục Sinh sẽ tỏa chiếu rạng ngời trong con.
Xin Chúa cho con biết sống mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh trong từng suy nghĩ, trong từng lời nói, trong cách sống, để con chết đi cho hận thù, ích kỷ, vụ lợi. Và xin cho ánh sáng vinh quang Phục Sinh chiếu tỏa qua nụ cười cảm thông, qua ánh mắt đón nhận nhau, qua sự phục vụ quên mình. Xin cho con ý thức rằng yêu thương anh em bằng tình yêu Chúa là con đang hòa điệu với nhịp đập của trái tim Chúa và là dấu chứng cho mọi người nhận ra Chúa là tình yêu. Amen
Ghi nhớ: “Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau”.
Khi người ta hỏi cha Phêrô (Abbé Pierre), người được người Pháp yêu mến nhất trong thế kỷ XX (cha giúp đỡ anh em bất hạnh đầu đường xó chợ có công ăn việc làm để mưu sinh): Nếu mai đây ngài mất đi, người ta nên ghi lại điều gì về cuộc đời ngài. Cha trả lời liền không ngần ngại: “Xin đề trên mộ tôi câu này: Nơi yên nghỉ của một người đã cố gắng yêu thương”.
Mục sư Martin Luther King người đã xả thân tranh đấu cho dân da đen được bình đẳng như người da trắng tại Hoa Kỳ, được giải thưởng Nobel Hòa bình. Cũng vì tinh thần dấn thân, vì quyền lợi của người da đen mà ông đã bị ám sát. Trong quyển nhật ký của Luther King đã viết những dòng sau đây: “Tôi rất hãnh diện, nếu ngày tôi qua đời ai đó sẽ kể lại rằng Martin Luther King là người đã cố gắng sống và yêu thương”.
Suy niệm
Lời mời gọi của Chúa Kitô dành cho những ai bước đi theo Ngài: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9c). Dịch sát theo nguyên tự Hy Lạp là: “Hãy ở trong tình yêu vốn thuộc về Thầy” (xe lu Abel, Gl:ammaire du treo biblique 33r Rem.I) nghĩa là “trong tình yêu Thầy dành cho anh em”. Yêu Ngài, gắn bó với Ngài thúc đẩy theo mệnh lệnh của Ngài thực thi điều răn quan trọng nhất: “Ðây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Từ ngữ trung tâm của lời Chúa truyền là “tình yêu” (tiếng Hy Lạp: agape), và tình yêu cũng là từ chìa khóa của chuyển động tuần hoàn vòng tròn. Tác giả A. Marchadour đưa ra một nhận xét: “Trong trường hợp này, hoàn trả và tặng đáp lễ, luật của tình yêu, luôn hướng về một đối tượng khác với người đã trao tặng. Sự đáp trả của Đức Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha lại hướng về các môn đệ. Cũng thế sự đáp trả của các môn đệ đối với tình yêu của Đức Giêsu dành cho mình lại hướng về anh em” (Tin Mừng theo thánh Gioan, Centurion, trang 202).
Tình yêu trao ban cho anh em mà Đức Giêsu muốn người môn đệ thực hành luôn mang những đặc tính tiệm tiến:
- Yêu như Chúa yêu: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống... và sai Con Một Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,8-11). Tình yêu chia sẻ ấy đã được thánh Gioan tông đồ mô tả: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì, đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16), yêu như thầy: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Yêu tận cùng bằng hy sinh bản thân và cho đến chết.
- Yêu đến tận cùng như Chúa Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Ngài đã thực hiện chính sự hy sinh cao độ như các tông đồ xác tín: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6.8; Ep 5,2; 1Ga 3,16). Thánh Gioan diễn giải: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16). Bằng việc làm cụ thể, đòi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết.
- Tình yêu phải được thể hiện trong việc làm như Chúa Giêsu truyền là: “Nếu như các con giữ điều răn của Thầy”. Thánh Gioan diễn giải: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,16-18).
Theo lệnh truyền của Thầy, chúng ta cùng tiến bước vào thế giới mang tâm tình: “Chúng ta được đặt để vào trong trái đất này một không gian nhỏ bé, để chúng ta có thể học hỏi được việc mang lại những tia sáng của tình yêu” (William Blake).
Ý lực sống: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18).
1. Trước khi từ biệt các môn đệ thân yêu để đi vào cuộc tử nạn. Đức Giêsu đã nói với các ông mệnh lệnh cuối cùng của Ngài, và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Ngài: “Đây là điều răn của Thầy, các con hãy yêu thương nhau”. Đó là câu mở đầu của bài Tin Mừng, và cũng là câu cuối cùng của bài Tin Mừng, Chúa nhắc lại: “Điều Thầy truyền cho các con là hãy yêu thương nhau”. Rõ ràng Đức Giêsu muôn dạy các môn đệ và chúng ta hãy yêu thương nhau.
2. Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy yêu thương nhau bằng một tình yêu không phân biệt hay loại trừ. Yêu mà không mong đền đáp, nhưng yêu một cách vô vị lợi, luôn chia sẻ, cảm thông và tha thứ với mọi hoàn cảnh. Sẵn sàng phục vụ như người tôi tớ... và cuối cùng, coi sự sống của mình là sự sống của người khác, nên nếu cần, chấp nhận hy sinh cho người khác như Đức Giêsu đã hiến mạng vì bạn hữu của mình.
3. Tình yêu trao ban cho anh em mà Đức Giêsu muốn người môn đệ thực hành luôn mang những đặc tính tiệm tiến:
- Yêu như Chúa yêu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con (Ga 15,12) hoặc “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống... và sai Con Một Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1G 4,8-11).
- Yêu đến tận cùng như Đức Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13). Thánh Gioan diễn tả: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16).
- Tình yêu phải thể hiện trong việc làm: “Nếu các con giữ điều răn của Thầy”. Thánh Gioan diễn tả: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,16-18).
4. Hy sinh cho người thân yêu là một đòi hỏi thường tình của tình yêu. Hy sinh cho người xa lạ là điều đáng khâm phục, và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người khác được sống quả là một diễn tả tuyệt vời của tinh yêu.
Ai đã có dịp đọc cuốn tiểu thuyết “Anh phải sống” của Khái Hưng mới thấy thấm thía lời Đức Giêsu đã day. Nội dung cuốn tiểu thuyết nói về việc hai vợ chồng nọ quá nghèo, nên phải đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trên đường về, họ gặp trời giông bão. Họ bị nước cuốn trôi đi. Họ bám được vào một khúc cây nhưng khúc cây quá nhỏ chỉ đủ cho một người bám. Họ không thể kéo dài mãi tình trạng hai người cùng bám vào một khúc cây. Kéo dài thêm thì sẽ chết cả hai. Trước tình trạng đó, đòi hỏi họ có một sự lựa chọn. Người chồng bảo người vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo cho các con”. Người vợ cũng bảo người chồng “anh phải sống”. Cuối cùng, người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
5. Tin Mừng hôm nay cũng hướng chúng ta về hình ảnh yêu thương tuyệt vời này: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người yêu”. Chúa Giêsu đã cứu thoát nhân loại bằng cách hiến mạng sống mình qua cái chết trên Thập giá như một biểu lộ tột cùng của tình yêu. Một Thiên Chúa quyền năng có thể cứu nhân loại mà không cần phải nhập thể làm người và chết trên Thập giá. Thế nhưng, Ngài đã chọn phương thế này vì Ngài muốn cho con người có được cảm nghiệm sâu xa về tình yêu của Ngài theo cách thế loài người, đó là hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
6. Tóm lại, tình yêu không thể diễn tả được hết bằng ngôn từ, nhưng là sự cảm nhận rất riêng của mỗi người trong sự rung cảm của trái tim mà không bị lệ thuộc của bất cứ ranh giới nào. Tuy nhiên, người môn đệ có một tiêu chuẩn để diễn tả tình yêu đích thật, là tuân giữ điều răn yêu thương của Chúa dành cho tha nhân, yêu thương một cách vô vị lợi, không so đo tính toán hơn thiệt, mà là “yêu như Chúa đã yêu” khi sẵn sàng hy sinh cả tính mạng vì bạn hữu.
7. Truyện: Sẵn sàng chết cho người khác.
Một vị đạo sĩ kia kể rằng: Ngày nọ, ông từ trên núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường, ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với ngưới Tây Tạng đồng hành:
- Chúng ta mau lại giúp đỡ người gặp nạn đó!
Nhưng người Tây tạng trả lời:
- Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chúng ta đang bị giá lạnh đe dọa.
Nhưng vị đạo sĩ nói:
- Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa thì chúng ta cũng nên chết vì đã giúp ngưới khác, đó là điều tốt đẹp hơn.
Nói rồi, vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ đem người đó xuống núi, trong khi người Tây tạng đã bỏ xuống trước. Đi được một quãng, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành Tây tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta quá mệt ngồi nghỉ và bị lạnh cóng chết lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, nhờ đó mà ông thoát chết vì lạnh.
Lòng “yêu mến nhau” mà Chúa muốn các môn đệ mình phải vươn tới là những mức độ sau đây:
- “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con.”
- “Không có tình yêu nào lớn hơn bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.”
Suy gẫm
1. “Yêu thương,” “Tình gia đình,” “Huynh đệ,” “Chia sẻ,” “hiệp thông…” là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính con cũng rất nhiều lần nói như thế. Từ nay con muốn nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm tin, cùng lý tưởng với con.
2. Yêu thương, nếu chỉ là một cảm giác dễ chịu thì chưa phải là tình yêu thật. Tình yêu thật phải cho được, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng đúng nghĩa. Bởi thế Chúa Giêsu nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.”
3. “Không có tình yêu nào lớn hơn bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” Câu Tin Mừng này khiến tôi liên tưởng đến một chuyện tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tựa đề: “Anh phải sống.” Hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi đi. Chỉ có một khúc cây đủ cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo cho các con.” Người vợ cũng bảo người chồng “anh phải sống.” Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và cho con.
4. “Điều Thầy truyền dạy cho anh em là hãy yêu thương nhau.” Từ 23 tháng chạp đến tết, đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn lên vì chuẩn bị cầu phúc. Trong những ngày này, Lỗ Tấn gặp thím Tường Lâm. Thím là một nông dân cần cù. Chồng trước thì chết sớm, chồng sau chết vì thương hàn, thằng con nhỏ thì bị chó sói vồ… Họ còn đồn rằng mai sau thím sẽ bị cưa đôi để chia cho hai con ma chồng. Thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng nói thím là đồ ô uế. Chủ nhà không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân đèn… Thím từ từ suy sụp và sinh hoảng loạn.
Lỗ Tấn thấy thím tóc trắng tóa, tay sách cái làn tre, trong có cái bát mẻ không đựng gì, tay kia cầm cây gậy trúc đầu toe tóe, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm gọi tên con mình…
Tiết trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết vào lúc giao thừa đến, pháo nổ vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy vậy quát lên: “Tại sao chết vào lúc tao đang cầu phúc?”
Lạy Chúa, có nhiều người bên con vẫn đang âm thầm đau khổ chỉ vì những suy nghĩ, lời nói và hành động thiếu yêu thương của con, xin giúp con hiểu và thực thi giới răn yêu thương của Ngài.
5. Tin Mừng hôm nay bộc bạch một cách trong suốt trái tim của bậc Thầy. Điệp khúc gói trọn lời trăn trối của Ngài là: “Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con.” Như Ta đã yêu thương các con, đó là mức độ của một tình yêu đích thực và đặc điểm của một giáo huấn chân thật. Chúa Giêsu quả thật là yêu thương các môn đệ và yêu thương đến cùng, đó là tình yêu cao cả của người thí mạng sống mình vì bạn hữu.
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá là mạc khải tối thượng về Thiên Chúa và về con người. Qua cái chết ấy, Chúa Giêsu cũng đồng thời mạc khải cho nhân loại rằng chỉ có một Thiên Chúa và Thiên Chúa đó yêu thương con người. Qua cái chết ấy Chúa Giêsu cũng đồng thời mạc khải cho nhân loại rằng con người chỉ có một ơn gọi, đó là sống yêu thương, càng sống yêu thương, con người càng đến gần chân lý và càng trở thành bạn hữu của Thiên Chúa.
Chân lý không phải chỉ để tin nhận, mà thiết yếu là để được thực thi, và như Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Ai thực thi chân lý thì đến cùng ánh sáng.” Thật thế, ai sống yêu thương, người đó sẽ hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, phẩm giá của con người và chắc chắn sẽ cảm nhận được sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa. Trái lại, ai nuôi dưỡng hận thù, xúc phạm đến tha nhân, người đó cũng chối bỏ chân lý về con người và về Thiên Chúa, đồng thời cũng giam hãm mình trong tăm tối của cô đơn.
Nguyện xin Đấng là chân lý ban cho chúng ta ánh sáng và sức sống thần linh của Ngài, để chúng ta luôn tiến bước trong cuộc sống với niềm tin tưởng lạc quan. Xin cho các Kitô hữu xác tín rằng chỉ bằng cuộc sống yêu thương, chúng ta mới thực sự làm chứng cho chân lý.
Hôm nay, chúng ta suy niệm về việc Kitô hữu phải yêu mến nhau.
1. Những tiếng “Yêu thương”, “Tình gia đình”, “Huynh đệ”, “Chia sẻ”, “hiệp thông”…là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính chúng ta cũng rất nhiều lần nói như thế. Ước gì từ nay chúng ta nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm tin, cùng lý tưởng với chúng ta.
2. “Điều Thầy truyền dạy cho anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17).
Chúa muốn thế, nhưng hình như còn rất nhiều người chưa sống được như thế.
Đây là một câu chuyện đã xảy ra ở bên Trung quốc, một quốc gia có truyền thống của Đạo Khổng, đạo luôn khuyên dạy mọi người hãy sống với nhau như anh em một nhà (tứ hải giai huynh đệ).
Mỗi năm, cứ vào khoảng từ 23 tháng chạp đến tết, là đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn lên vì đó là thời gian chuẩn bị cầu Phúc. Năm đó, trong khoảng thời gian này, Lỗ Tấn gặp thím Tường Lâm cứ lang thang ở ngoài đường giữa lúc trời lạnh giá. Thím là một nông dân cần cù. Chồng trước thì chết sớm, chồng sau chết vì thương hàn, thằng con nhỏ thì bị chó sói vồ… Dân chúng đã không thương thì chớ lại còn bày chuyện nói rằng, mai sau thím sẽ bị cưa đôi để chia cho hai con ma chồng. Bị dân làng nghĩ như thế cho nên thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng nói thím là đồ ô uế. Chủ nhà không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân đèn… Sống trong hoàn cảnh như thế, thím từ từ suy sụp và sinh hoảng loạn. Rồi một hôm kia thím bỏ nhà ra đi.
Lỗ Tấn nhìn thấy tóc thím trắng xóa, tay thím xách cái làn tre, trong có cái bát mẻ không đựng gì, còn tay kia thì cầm cây gậy trúc đầu toe tóe, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm gọi tên con mình. Không chịu nổi tiết trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết vào lúc giao thừa đến, pháo nổ vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy vậy, không những đã không thương còn quát lên: “Tại sao chết vào lúc tao đang cầu phúc?”.
Vâng! nếu chúng ta không cẩn trọng có thể cũng có lúc chúng ta cũng chẳng kém ác tâm vô cảm như thế với những anh chị em của chúng ta.
+ Trái lại, nếu người ta biết yêu thương nhau thực sự như Chúa mong muốn, thì hạnh phúc chẳng cần đi tìm, tự nhiên nó sẽ đến.
Một vị đạo sĩ kia kể rằng, ngày nọ, ông từ trên núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường, ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:
- Chúng ta mau lại giúp đỡ người gặp nạn đó!
Nhưng người Tây Tạng trả lời:
- Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chúng ta đang bị giá lạnh đe dọa.
Nhưng vị đạo sĩ nói:
- Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa thì chúng ta cũng nên chết vì đã giúp người khác, đó là điều tốt đẹp hơn.
Nói rồi vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ đem người đó xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống trước. Đi được một quãng, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành người Tây Tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta mệt quá, ngồi nghỉ và bị lạnh cóng chết lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, nhờ đó mà ông đã thoát chết vì lạnh.
3. Chúa còn nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Yêu thì phải hy sinh. Một vị Giám mục kia nói: “Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả. Và hy sinh không vì tình yêu là hy sinh thừa”.
Hồi còn học ở Tiểu chủng viện, tôi có được xem một cuốn phim mà nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ nội dung của nó. Cuốn phim có tựa đề là “Anh phải sống”. Nội dung cuốn phim nói về việc hai vợ chồng nọ quá nghèo, nên phải đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trên đường về, họ gặp trời giông bão. Họ bị nước cuốn trôi đi. Họ bám được vào một khúc cây nhưng khúc cây quá nhỏ chỉ đủ cho một người bám. Họ không thể kéo dài mãi tình trạng hai người cùng bám vào khúc cây này. Kéo dài thêm thì sẽ chết cả hai. Trước tình trạng đó, đòi hỏi họ phải có một sự lựa chọn. Người chồng bảo người vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo cho các con”. Người vợ cũng bảo người chồng “anh phải sống”. Cuối cùng, người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và cho con.
Vâng, yêu thương là hy sinh, yêu thương chính là quên mình.
Hãy biết yêu như Chúa để chúng ta được xứng đáng là môn đệ của Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con yêu thương nhau”. (Ga 13,35).
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8), vì thế mà Chúa dạy chúng ta trong cuộc sống đời này là chúng ta hãy yêu thương nhau. Chúng ta hãy yêu thương nhau, bởi đây là lệnh truyền của Chúa. Lệnh truyền buộc chúng ta phải thực hiện chứ không phải như lời khuyên để rồi chúng ta có thực hiện hay không là tùy ý chúng ta: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15, 12). Đàng khác, vì đây là lệnh truyền cho nên nó rất quan trọng với chúng ta, nó là cuộc sống của chúng ta, nó làm nên bản chất của người tín hữu chúng ta là tình yêu, do vậy mà thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói ngài là tình yêu của Chúa.
Chúng ta yêu mến nhau theo mẫu gương tình yêu của Chúa, nghĩa là:
-Hy sinh mọi sự cho người mình yêu, cầu nguyện, giúp đỡ, cho đi, trao ban, chia sẻ, tha thứ, cảm thông…nhất là ngay cả mạng sống là quí giá nhất của đời người không gì sánh ví được, chúng ta cũng phải hy sinh cho anh chị em của chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13).
-Khi thương nhau thì coi nhau, gọi nhau là bạn hữu. Bạn hữu được xem như là bạn nối khố, nghĩa thiết, bình đẳng, không được coi bạn mình là tôi tớ. Bởi vì chúng ta là tôi tớ tội lỗi, bất xứng, nô lệ mà Chúa thương chúng ta, Chúa bỏ qua tất cả để nâng chúng ta lên bạn hữu của Chúa, và tất cả những gì Chúa nghe biết nơi Chúa Cha, Chúa đều cho chúng ta biết để mà chúng ta sống tốt hơn: “Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga 15, 14 – 15).
-Một khi là bạn hữu của nhau, chúng ta mong muốn cho bạn của mình gặp nhiều điều tốt đẹp, thành công trong cuộc sống. Chính Chúa thương chúng ta, Chúa luôn tạo điều kiện cho chúng ta làm việc thiện, việc lành, việc tốt. Đây là những hoa trái tồn tại cho phần rỗi linh hồn chúng ta sau này. Đặc biệt, vì chúng ta là thụ tạo bất toàn, chúng ta cần cầu xin Chúa thương chúng ta hơn. Do đó, nếu chúng ta cầu xin Chúa Cha nhân danh Chúa thì Chúa sẽ ban cho chúng ta. Nhưng để Chúa nhận lời thì chúng ta phải yêu thương nhau thì Chúa mới ban ơn cho: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau” (Ga 15, 16 – 17).
Lạy Chúa phục sinh của chúng con, xin Chúa ban ơn giúp chúng con ăn ở thế nào cho phù hợp với danh nghĩa là Kitô, là con cái của Chúa được Chúa cứu chuộc bằng giá máu của chính Chúa, đó là Chúa giúp con sống yêu thương nhau như Chúa đã truyền dạy chúng con hôm nay là thương người anh chị em mình như chính mình. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 5 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta được hoan hỷ mừng Mầu Nhiệm Vượt Qua, xin Chúa cho chúng ta biết ăn ở thế nào cho phù hợp với mầu nhiệm đó, để Đức Kitô sống lại luôn giữ gìn và cứu độ chúng ta.
Ăn ở cho phù hợp với Mầu Nhiệm Vượt Qua, kín múc sự sống từ nơi Thiên Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Sông có nước trường sinh, sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa và Con Chiên như từ một nguồn suối luôn đầy tràn. Sẽ không còn đêm tối nữa, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên các tôi tớ Người, và họ sẽ hiển trị đến muôn đời muôn thuở. Ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên sẽ đặt ở trong thành, và các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người.
Ăn ở cho phù hợp với Mầu Nhiệm Vượt Qua, hiệp nhất với nhau trong cùng một thân thể, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, chân phước Ixaác, Viện Phụ Đan Viện Sao Mai nói: Chúa Kitô là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc… Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, ai nấy liên đới với nhau như những bộ phận của cùng một thân thể. Trong Đức Kitô, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và trong Người, anh em được sung mãn. Chính Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh, Người là khởi nguyên, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự, Người đứng hàng đầu.
Ăn ở cho phù hợp với Mầu Nhiệm Vượt Qua, cậy trông vào Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ nói: Thánh Thần và chúng tôi quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 56, vịnh gia kêu xin: Lạy Thiên Chúa, trước mặt chư dân, con dâng lời cảm tạ. Con an lòng, lạy Thiên Chúa, con vững dạ an lòng, này con xin đàn hát xướng ca. Thức dậy đi, hồn tôi hỡi, thức dậy đi, hỡi đàn sắt đàn cầm, tôi còn đánh thức cả bình minh.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau. Đức Giêsu gọi chúng ta là bạn hữu của Người, và cho chúng ta được trở nên nghĩa tử của Chúa Cha, vì thế, Người mời gọi chúng ta hãy yêu thương nhau, bởi vì, tất cả chúng ta đều là con cùng một Cha trên trời. Trong Đức Kitô, chúng ta được nên một với nhau và nên một với Thiên Chúa. Nếu không có đầu thì chẳng có thân; nếu không có Thiên Chúa thì chẳng có đầu, chẳng có thân, cũng chẳng có Đức Kitô toàn thể. Bởi vậy, tất cả cùng với Thiên Chúa là một Thiên Chúa, nhưng Con Thiên Chúa kết hợp với Thiên Chúa theo bản tính, theo ngôi vị; còn thân thể kết hợp với Đức Kitô theo bí tích. Đức Kitô là Con Thiên Chúa vì được Thiên Chúa sinh ra, còn chúng ta là các chi thể của Người, là do được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử. Nhờ Thần Khí, Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ, làm Con Người, Đầu của chúng ta, thế nào, thì cũng nhờ Thần Khí đó, từ giếng nước thánh tẩy, chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa, thân mình của Người như thế. Người hoàn toàn vô tội thế nào, thì chúng ta cũng được tha mọi tội lỗi như thế. Người mang lấy mọi tội lỗi của toàn thân vào thân xác mình, mà đem lên cây thập giá thế nào, thì nhờ ơn tái sinh, Người cũng ban cho thân mình ơn này: là không còn bị hạch tội nào nữa. Chúng ta được hoan hỷ mừng Mầu Nhiệm Vượt Qua, ước gì chúng ta biết ăn ở thế nào cho phù hợp với mầu nhiệm đó, để Đức Kitô sống lại luôn giữ gìn và cứu độ chúng ta. Ước gì được như thế!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước. Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lại lời Thầy đã nói với các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng tuân giữ lời các con. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những điều đó, bởi vì họ không biết Đấng đã sai Thầy".
Khi Đức Giêsu còn sống bên các môn đệ, chưa xảy ra chuyện các môn đệ bị thù ghét một cách nghiêm trọng. Nhưng khi Tin Mừng Gioan được viết gần xong, thì chuyện đó đã xảy ra rồi. Các Kitô hữu gốc Do thái đã bị trục xuất ra khỏi hội đường, và người Rôma đã bách hại các Kitô hữu không nương tay. Bài Tin Mừng hôm nay là một lời tiên báo của Đức Giêsu về số phận của các Kitô hữu, trong mọi thời đại. Đức Giêsu đã nói đến việc mình tự nguyện hy sinh mạng sống, vì Ngài là Mục tử nhân lành muốn bảo vệ đàn chiên (Ga 10, 11. 17-18). Ngài sẽ phải chiến đấu gay gắt để chống lại sói dữ hay kẻ trộm. Đức Giêsu cũng nói đến việc Ngài sẽ hy sinh mạng sống cho bạn hữu của mình là các môn đệ (Ga 15, 12-13). Ngài sẽ xung đột với tên Thủ lãnh thế gian (Ga 14, 30). Thế gian là một thế lực thù ghét và âm mưu chống lại Ngài. Một số nhà lãnh đạo Do thái giáo đã đứng hẳn về phía thế gian ấy. Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá là đỉnh điểm của sự thù ghét. Thủ lãnh thế gian đã có được một chiến thắng tạm thời. Nhưng chính sự thua cuộc của Đức Giêsu lại vén mở tình yêu Thiên Chúa, và là khởi đầu cho một chiến thắng vẻ vang hơn, chiến thắng chính Tử thần. Những môn đệ Đức Giêsu cũng phải chia sẻ số phận của Thầy. Không phải các môn đệ luôn luôn được thế gian đón nhận. “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” (c. 20). “Nếu thế gian ghét anh em, hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước khi nó ghét anh em” (c. 18). Bị ghét bỏ, bị bắt bớ, bị giết hại: đó là thân phận của Thầy Giêsu, và của những học trò đi theo Thầy, mãi đến tận thế. Nếu thế gian có thái độ thù nghịch với các Kitô hữu, lý do là vì họ không thuộc về thế gian, và đã được tách khỏi thế gian (c. 19). Tuy nhiên, họ vẫn không bị cất khỏi thế gian (Ga 17, 15), mà còn được sai vào trong thế gian để biến đổi thế gian đó (Ga 17, 18). Chính cái thế giằng co thuộc về bản chất của người Kitô hữu: vừa ở trong thế gian, lại vừa không thuộc về nó, vừa được chọn ra khỏi thế gian, lại vừa được sai vào trong nó, đã đưa người môn đệ vào những thách đố khôn lường. Theo một nghiên cứu năm 2002 của nhà báo người Ý, ông Antonio Socci, có khoảng 70 triệu người Kitô hữu chết vì đức tin trong 20 thế kỷ qua. Nhưng chỉ riêng trong thế kỷ 20, đã có hơn 45 triệu người bị chết. Chúng ta không kiểm chứng được nghiên cứu của ông này, nhưng chúng ta biết cuộc bách hại các Kitô hữu vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Xin được ơn thuộc trọn về Giêsu dù phải lội ngược dòng với thế gian. Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen. ---------------------------------
Ta thường băn khoăn bực dọc không hiểu tại sao người ta o ép người có đạo, gây khó dễ cho sinh hoạt đạo, tịch thu tài sản đất đai của Giáo hội. Ta đau buồn vì thấy tại nhiều nơi trên thế giới cuộc bách hại vẫn tiếp diễn. Các nhà thờ bị đốt phá. Các thừa sai bị giết chết. Các tín hữu chịu đối xử bất công. Ta thắc mắc tại sao người ta gian dối không bao giờ nói sự thật. Giáo hội bị vu khống là theo nước ngoài, là đi với thực dân phản bội dân tộc. Nhà thờ không được xây dựng vì không có nhu cầu. Linh mục không được bổ nhiệm vì lý do an ninh.
Thực ra sau cùng chỉ còn một cuộc chiến giữa Thiên Chúa và ma quỉ. Giữa những người tin Chúa và những tay sai của ma quỉ. Hôm nay Chúa Giê-su nhắc nhở ta điều đó. Đừng băn khoăn thắc mắc làm gì. “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.
Vậy nếu ta bị ghét bỏ, bị đối xử bất công thì đừng lạ và cũng đừng buồn. Vì đó là dấu hiệu ta thuộc về Chúa. Đó là dấu hiệu ta không thuộc về thế gian. “Vì Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em”.
Trái lại khi nào ta được thế gian ưu đãi yêu chiều hãy lo sợ. Đừng tưởng rằng như thế là thuận lợi cho việc truyền giáo, là vinh danh cho Chúa, là phát triển Giáo hội. Ông Lưu bách Niên, chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo Trung quốc đã nói: Chúng tôi vẫn có đức tin. Chúng tôi mới làm cho Giáo hội phát triển. Đó là dấu hiệu ta thuộc về thế gian. Lời Chúa hôm nay cảnh báo ta: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó”.
Thánh Phao-lô là người hiểu rõ điều đó hơn ai hết. Vì theo Chúa Giêsu ngài đành mất tất cả những ưu quyền đặc lợi trước kia. Thuộc về Chúa Kitô, ngài không còn sống theo xác thịt nữa, chỉ tuân theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Nên ngài không vào Axia hay Bithynia, nhưng lại vào Ma-kê-đô-nia.
Một cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng sẽ được bình an và hoan lạc. Dù bị thế gian ghét bỏ, bạc đãi. Dù gặp rất nhiều nghịch cảnh trên đời. Niềm bình an hoan lạc vì biết mình thuộc về Chúa, được sống trong Chúa và có Chúa trong mình.
Với cuộc thăm viếng các nước Hy Lạp, Siri và Malta (từ ngày 4 đến 5/05/2001), Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã muốn đi lại cuộc hành trình của thánh Phaolô tông đồ. Ðặc biệt tại Siri, Ðức Thánh Cha đã sống lại một trong những cảnh sống động nhất trong lịch sử Giáo Hội là cuộc trở lại của thánh Phaolô.
Sách Tông Ðồ Công Vụ thuật lại rằng: "Lúc ấy, Saolô vẫn còn hằm hằm giết các môn đệ của Chúa, nên đã tới gặp thượng tế xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Damasco để, nếu thấy những người theo đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem. Vậy, đang khi ông đi đường đến gần Damasco, thì bỗng nhiên có một luồng sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: "Saolô, Saolô, tại sao ngươi bách hại ta?" Ông hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Người đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại". Kinh nghiệm này cho thánh Phaolô xác tín lại chính vì Chúa Kitô mà các tín hữu Kitô bị bách hại. "Nếu thế gian có ghét các con, thì hãy biết ra họ đã ghét Thầy trước". Nếu Chúa Giêsu là đối tượng của những chống đối, loại trừ, và cuối cùng là thập giá, thì bị bách hại là phần số tất yếu của các tín hữu Kitô. Những hình thức và cường độ bách hại có khác nhau qua những thời đại và xã hội, nhưng lý do bị bách hại vẫn không thay đổi. Chính vì Chúa Kitô mà các tín hữu bị bách hại. Nơi họ, mầu nhiệm bách hại của Chúa Kitô vẫn tiếp tục tái diễn. Nếu các thủ lãnh Do Thái Giáo nhân danh đạo giáo và cấu kết quyền lực của đế quốc để loại trừ Chúa Giêsu, thì qua các thời đại và ở bất cứ nơi đâu Giáo Hội có mặt, bản án dành cho Giáo Hội vẫn luôn mang tính tôn giáo. Hoàng đế Nêron của đế quốc Lamã đã ra lệnh tàn sát các tín hữu Kitô bởi vì niềm tin của họ là một đối đầu và thách thức cho thứ tôn giáo đang được áp đặt trên toàn đế quốc.
Nếu giáo huấn và cuộc sống của Chúa Giêsu là một đe dọa cho trật tự mà Do Thái Giáo đã thiết lập, thì niềm tin của các tín hữu tiên khởi cũng là một đe dọa không kém cho quốc giáo của đế quốc Lamã. Nhìn vào lịch sử của Giáo Hội tại Việt Nam, người ta thấy rằng lý do của những cuộc bách hại cũng tương tự. Những vua chúa Việt Nam cũng ban hành các dấu chỉ cấm đạo và bách hại các tín hữu Kitô, là bởi vì họ xem Kitô giáo như một tà đạo, nguy hại cho đạo giáo vốn đang được thực hành trên đất nước.
Tựu trung, nếu các tín hữu Kitô có bị bách hại là bởi vì niềm tin Kitô luôn là thách đố và tra vấn cho lương tâm con người. Nhìn lại các cuộc bách hại đã và đang diễn ra trong các chế độ toàn trị, người ta cũng thấy rằng chính vì chủ trương duy vật vô thần mà các chế độ độc tài bách hại Giáo Hội. Chính vì đến để làm chứng và nói lên sự thật mà Chúa Giêsu đã bị chống đối, khước từ và loại trừ. Ngày nay, bất cứ ai sống cho sứ mạng ấy, dù đang sống trong xã hội nào cũng đều bị bách hại cách này hay cách khác. Năm 1968, khi Ðức Phaolô VI công bố thông điệp Sự Sống Con Người, trong đó ngài lên án não trạng chống lại sự sống của con ngườ thời đại, người ta đã có lý để gọi ngài là một người dám chống lại cả thế giới.
Sống cho sự thật, làm chứng cho sự thật, dám nói lên sự thật là chấp nhận bị tẩy chay, bị loại trừ, bị bách hại. Một số phận như thế lại càng rõ nét hơn trong một chế độ xây dựng trên dối trá, lừa bịp. Trong một chế độ như thế, những ai trung thành với Chúa Giêsu, Ðấng đã bị bách hại vì sự thật, chắc chắn không thể không bị bách hại.
Xét cho cùng, sống đạo, dù trong xã hội và hoàn cảnh nào cũng đều chấp nhận lội ngược dòng. Và lội ngược dòng có nghĩa là sẵn sàng mất tất cả, ngay cả mạng sống của mình để không đánh mất chính bản thân.
Tin mừng Đức Giêsu Kitô gây ra nhiều chia rẽ, nhiều xâu xé. Người đã loan báo sự chia rẽ trong cùng một gia đình như anh sẽ nộp em vì danh Ngài. Nhưng sự xâu xé sâu xa nhất ở trong nội tâm mỗi người chúng ta khi chúng ta cảm xúc trước lời Ngài. Lời Ngài gây ra sự chia rẽ giữa những thành phần yêu đương nhất trong gia đình, nghề nghiệp, xã hội, đức tin, chúng ta thử cố gắng giải quyết để duy trì quân bình giữa các thành phần này.
Nhưng có lúc dù cố gắng giải mã thế nào, chúng ta vẫn có thể phản bội đối với phe này hoặc phe kia. Lời Chúa tuyên bố hôm nay cảnh giác chúng ta và mời gọi chúng ta biết phán đoán sáng suốt về tương quan của chúng ta với thế gian.
Một điều làm tôi càng ngày càng bức xúc là: Làm thế nào những Kitô hữu không khó chịu về mình không còn là Kitô hữu nữa? Sao những người Kitô hữu không biết hàn gắn sự đổ vỡ trong xã hội.
Có thể do hoàn cảnh của chúng ta quá lệ thuộc vào thế gian hơn vào Đức Giêsu Kitô, quá chú ý theo lối suy nghĩ của xã hội hơn những chân lý của lời Chúa.
Chúng ta là hạng người bị quay theo chiều gió, trôi theo giòng nước. Chúng ta để bao nhiêu giờ đi tìm kiếm những lệ thuộc và những cổ động ủng hộ của những người khác. Đây có lẽ có một cơn khủng hoảng tôn giáo tận gốc mà Giáo hội phải vượt qua do những tín hữu chủ trương lối sống vô thưởng vô phạt. Ai cũng biết rằng chính lẽ ra Kitô hữu mỗi ngày phải nên mới: “Nhật nhật tân, hựu nhật tân”.
Chúng ta cần cân nhắc những giá trị này: Nếu tôi thuộc về thế gian, tôi được thế gian yêu thích, tôi sẽ không là kiểu người ngoại lệ. Trái lại, nếu tôi thuộc về Đức Kitô, thì ngay lập tức, lời Đức Kitô sẽ áp dụng cho tôi: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em”, vì anh em đảo ngược những tư tưởng và lối sống thế gian của họ.
Tác giả Tacitus của Đế quốc Rôma vào thế kỷ thứ nhất, trong tập sử ký của ông có ghi lại cuộc bách hại đầu tiên mà Giáo Hội phải trải qua như sau: “Rôma năm 64, Hoàng đế Néron, để dẹp bỏ tiếng đồn tố cáo ông là người đã nổi lửa đốt thành Rôma, đã ra lệnh lùng bắt những người mà dân chúng gọi là Kitô hữu. Một đám đông vô kể bị bắt giữ vì bị tố cáo không những đã gây ra cuộc hỏa hoạn, mà lại còn thù nghịch với các thần minh và nhân loại. Tất cả đã bị đem ra chế diễu và bị hành hạ cho đến chết: một số bị gói trong những mảnh da thú và quăng cho chó cắn xé; một số khác bị thiêu sống, như thế khi màn đêm vừa buông xuống, người ta dùng họ như những bó đuốc để soi sáng ban đêm; nhiều người khác bị đóng đinh cách dã man. Cảnh tượng ấy diễn ra trong các vườn thượng uyển cuả Néron cũng như tại Hí trường, nó dã man đến nỗi đã làm cho dân chúng xúc động và thêm bất mãn.
Trên đây là trang sử đầu tiên trong lịch sử các cuộc bách hại Giáo Hội đã trải qua từ 2.000 năm nay. Ở đâu có Giáo Hội, ở đó có bách hại. Thánh Gioan khi ghi lại đoạn Tin mừng hôm nay cũng nhìn thấy trước mắt cảnh tàn sát dã man mà các tín hữu tiên khởi đã trải qua dưới thời Néron. Cũng như các tín hữu tiên khởi, chúng ta được Giáo Hội cho lắng nghe chính những lời loan báo của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã bị bách hại cho đến chết, do đó tất cả những ai làm môn đệ Ngài cũng không thể không đi con đường ấy. Đó là một tất yếu: dù sống trong hoàn cảnh hay xã hội nào, bị thế gian thù ghét là phần số của người Kitô hữu. Điều đó không nên làm cho người Kitô hữu phải ngạc nhiên, bởi vì cuộc sống của họ là một cuộc sống đi ngược dòng. Bị thế gian thù ghét không phải là điều bất thường đối với thân phận làm kitô hữu; cái bất thường trong thân phận Kitô hữu chính là cuộc sống dễ dãi, thỏa hiệp, chạy theo dòng thác của thế tục.
Một sử gia khác của Đế quốc Rôma vào thế kỷ 1 là Plinus cũng phải ngạc nhiên không hiểu tại sao các Kitô hữu phải bị ghen ghét và bách hại. Trong một lá thư thỉnh ý trình lên Hoàng đế Trajanus, với tư cách là toàn quyền Bithinia, ông đã viết: “Tâu bệ hạ, thần thấy có nhiệm vụ phải thỉnh ý bệ hạ, bởi vì vấn đề của các người Kitô hữu đang lan rộng, thần phải xử trí thế nào. Cho đến nay thần tưởng đã làm đúng khi tha bổng những người đã chối bỏ mình là Kitô hữu, nếu sau khi được xét xử, họ cầu khẩn với các thần mình, dâng hương và rượu trước ảnh của bệ hạ mà thần cho đặt vào giữa các thần minh, và nhất là phỉ báng ông Kitô. Không thể cưỡng bách những người Kitô hữu đích thực làm một điều như thế. Qua những cuộc tra hỏi, sai lầm duy nhất của các Kitô hữu là tụ họp lại trong một ngày nào đó khi mặt trời vừa lên để ca hát chúc tụng ông Kitô như một Thiên Chúa. Trong những cuộc tụ họp như thế dường như họ thề quyết không làm điều ác, mà trái lại trở thành những công dân tốt, thanh liêm và đáng trọng nể”.
Quả là “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng”. Chứng từ trên đây của Plinus cho thấy cho dẫu có quyết tâm sống như những công dân tốt, các Kitô hữu vẫn bị nghi ngờ và bị bách hại. Tình trạng này dường như xảy ra trong bất cứ thời đại và xã hội nào. Lý do duy nhất để các Kitô hữu hiểu được tại sao họ bị bách hại chính là lời của Chúa Giêsu: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó đã ghét Ta trước”. Đó là chìa khóa để chúng ta hiểu được vị thế của Giáo Hội trong thế gian, một thế gian được Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Con Một Ngài, nhưng cũng là một thế gian đang bị sức mạnh của tăm tối lôi kéo. Sứ mệnh của Giaó Hội và của mỗi kitô hữu là chống lại sức mạnh tăm tối ấy và do đó bị ghen ghét, bách hại là điều không thể tránh khỏi.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức sâu sắc về danh hiệu Kitô của chúng ta. Mang danh hiệu Kitô là tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Thập giá của Chúa Kitô, nhưng chúng ta tin chắc rằng nhờ tham dự vào mầu nhiệm khổ nạn và Thập giá ấy mà chúng ta góp phần vào việc cứu rỗi và canh tân thế giới. Khổ đau mà các Kitô hữu đang phải gánh chịu vì Danh Chúa Giêsu là hạt giống trổ sinh những hoa trái của niềm tin.
Người Công Giáo mọi thời, mọi nơi luôn gặp phải những thử thách, bắt bớ. Thực trạng này càng rõ rệt hơn nữa trong những năm gần đây: nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân bị bắt, giết chết cách tàn nhẫn ác ôn...!
Tại sao vậy? Thưa, chỉ vì người Kitô hữu mãi mãi là khách lạ trên cuộc đời này khi không chịu khuất phục những điều gian dối, bất nhân trái với luân lý và giá trị Tin Mừng... Vì thế, việc bắt bớ, loại trừ là điều mà những kẻ chống đối Giáo Hội luôn nhắm tới chúng ta.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng cảnh báo cho các môn đệ biết trước những đau khổ mà các ông sẽ phải chịu vì danh Ngài. Đồng thời, Ngài cũng đưa ra một quy luật: “Tôi tớ không trọng hơn chủ được”; “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước”; “Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng bắt bớ anh em”.
Tuy nhiên, mỗi người chúng ta khi đứng trước thử thách, đau khổ, bách hại... cần phải có thái độ:
Thứ nhất: Thiên Chúa luôn thanh luyện con người bằng thử thách để xứng với vinh quang mà Ngài sẽ ban cho sau những khổ đau ấy. Bởi vì: nếu ta cùng lao khổ với Người thì cũng được vinh hiển với Người (x. Rm 8, 17). Những bất hạnh, mất mát và thiệt thòi ở đời này không đáng là gì so với vinh quang sẽ tỏ hiện mai sau (x. Rm 8, 18).
Thứ hai: chỉ những ai bền đỗ đến cùng trong thử thách mới được cứu độ (x. Mt 10, 22). Triều thiên sự sống chỉ có thể trao ban ở cuối đường cho những ai trung thành (x. Kh 2, 10).
Thứ ba: cần có thái độ như thánh Phaolô: mọi sự đều mưu ích cho con cái Chúa (x. Rm 8, 28) và Ngài không thử thách quá sức chịu đựng của con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức sâu sắc về danh hiệu Kitô hữu của mình. Khi mang danh hiệu này, chúng ta thuộc về Đức Kitô, được thông phần đau khổ với Ngài và được vinh hạnh cùng Ngài cứu chuộc thế giới ngang qua những đau khổ mà chúng ta phải chịu vì danh Đức Giêsu. Vì thế: những trái khuấy dồn dập tư bề; những đau khổ về tinh thần lẫn thể xác như: bị bắt bớ, đánh đập và ngay cả cái chết... chúng ta hãy vui mừng hân hoan, bởi lẽ, lúc đó, chúng ta được trở nên giống Đức Giêsu hơn bao giờ hết và thật vinh hạnh vì được thuộc về Ngài chứ không thuộc về thế gian.
Lạy Chúa Giêsu, vì danh Chúa, nhiều khi chúng con bị khổ cực đắng cay. Xin Chúa ban sức mạnh, để chúng con trung thành vác thập giá hằng ngày cho nên. Amen.
Sứ điệp: Người an phận không thể là môn đệ của Đức Kitô. Muốn là môn đệ của Đức Kitô, con người phải dám chấp nhận bị thế gian thù ghét.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người ta thường nói “Sự thật mất lòng”. Chúa đã thấm thía kinh nghiệm này, Chúa bị ngược đãi, bị chết trên thánh giá, chẳng phải vì Chúa gian ác, nhưng chính vì Chúa là Đấng công chính.
Chúa là chân lý và là Đấng công chính, Chúa đã không thỏa hiệp với giả dối, với những bê bối của trần thế, Chúa chết vì lòng thù hận của những kẻ giả dối: vì Chúa dám nói thẳng nói thật những giả hình của nhóm biệt phái và nhóm kinh sư, vì Chúa dám dùng dây thừng dẹp cảnh trục lợi, buôn gian bán lận trước đền thờ Giêrusalem. Chúa chết vì không mị dân: Chúa không chiều theo thị hiếu của dân chúng, không làm phép lạ cho vua Hê-rô-đê được thỏa tính tò mò.
Lạy Chúa, Chúa dạy con muốn là một Kitô hữu, con không được sống an phận. Muốn nên công chính, con cũng phải bước theo Chúa là chân lý, phải sống thẳng thắn theo gương của Chúa dù có bị thế gian thù ghét loại trừ.
Có những lúc con thuộc về trần thế. Khi con nịnh bợ người khác để cầu lợi, khi con ngại nhắc nhở nhau vì sợ mất lòng, khi con nể nhau mà làm điều sai trái phiền lòng Chúa... Đó là những lúc con bỏ Chúa mà thỏa hiệp với trần thế.
Lạy Chúa, dù con còn yếu đuối, xin Chúa vẫn thương đón nhận con vào nhóm môn đệ của Chúa. Từ nay con quyết sống thẳng thắn, nói thật, làm đúng, để đáng là môn đệ của Chúa. Xin thêm sức cho con để con biết sống theo gương thẳng thắn của Chúa, nhất là khi con cố gắng mà không tránh khỏi những phật lòng phiền luỵ. Xin Chúa nâng đỡ con. Amen.
Ghi nhớ: “Các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian”.
Một triết gia nổi tiếng, mỗi khi dạy học, thường bắt học sinh trả tiền. Ngày đó, có một thanh niên nghèo đến xin làm đệ tử. Ông hỏi: “Anh có gì trả cho tôi không?”.
Chàng thanh niên khôn ngoan đáp: “Con sẽ cho thầy cả con người của con”.
Ông thầy nhìn anh rồi nói: “Được, tôi nhận anh. Nhưng anh phải cố gắng mỗi ngày để thăng tiến hơn con người hiện tại của anh”.
Những ai muốn tận hiến cho Chúa cũng phải cố gắng mỗi ngày để nên giống Đức Kitô hơn. Nên giống Chúa Kitô trong đau khổ và trong phục sinh...
Suy niệm
Khi bước theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, người môn đệ đã chấp nhận dấn thân vào sứ mạng thầy uỷ thác, Chúa Giêsu cho các ông thấy một viễn ảnh chẳng mấy tốt đẹp: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị thế gian bắt bớ và ghét bỏ”. Nếu Chúa Giêsu bị hiểu lầm, chống đối, thù ghét... thì số phận của những người theo Ngài cũng giống như vậy. (x. Mc 13, 9-13; Mt 10, 17-22; Lc 21, 12-19). Như thầy, các môn sinh sẽ lãnh lấy phần thua thiệt để phải hy sinh cả mạng sống. Ðiều này không chỉ xảy ra trong Giáo hội thời sơ khai, nhưng mãi mãi cho đến hôm nay vẫn luôn còn bị bách hại.
Dù trước viễn ảnh đen tối, các môn đệ của Chúa Giêsu không thất vọng chùn chân, ngay sau đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa hứa ban bình an và niềm vui cho những ai theo Ngài. Ngài đã khẳng định sẽ soi sáng và nâng đỡ cho những ai đang đối mặt với thử thách.
Trong ý nghĩa mầu nhiệm thập giá, thánh Phêrô kêu mời tất cả các Kitô hữu hãy vui mừng khi tham dự vào đau khổ của Đức Kitô: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Ngài tỏ hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỉ” (1Pr 4, 12-13). Cho nên, trong đau khổ thử thách tâm trạng của Phaolô: “Tôi vui mừng chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích thân thể Người là Giáo hội” (Cl 1, 24). Sự trung thành anh dũng và vui mừng khi chịu thử thách của các môn đệ là lời giới thiệu hùng hồn đậm nét về Thiên Chúa: Trong cái chết tủi nhục của Chúa Giêsu trên thập giá, viên lãnh binh đã tuyên xưng: “Ông này thật là Con Thiên Chúa” (Mc 15, 19).
Chúng ta tin và đi theo Chúa, chúng ta cũng sẽ gặp nhiều gian nan, thử thách và đau khổ. Nhưng Ðức Giêsu đã đối mặt với thử thách, đau khổ, cái chết và Ngài đã chiến thắng. Ngài cũng cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng những thử thách, bách hại khi chúng ta vững tin vào Ngài và can đảm chấp nhận bị ngược đãi, bị thua thiệt, bị mất mát vì Ngài. Như thánh Phaolô đã xác tín: Chúng ta cùng chịu đau khổ với Ngài để được vinh quang với Ngài.
Ý lực sống: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô; tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 19-20).
1. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đức Giêsu bị ngược đãi và bị bắt bớ vì Ngài không thuộc về thế gian. Người môn đệ của Chúa cũng không thuộc về thế gian nữa. Vì thế, họ cũng sẽ bị thế gian ghét bỏ và ngược đãi như Chúa. Chúng ta tin và đi theo Chúa, chúng ta cũng sẽ gặp nhiều gian nan, thử thách và đau khổ. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và Ngài cũng cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng. Quan trọng là chúng ta có tin vào Ngài và can đảm chấp nhận bị ngược đãi, bị thua thiệt, bị mất mát vì Ngài hay không?
2. Đức Giêsu đã báo trước cho các môn đệ: “Thế gian sẽ thù ghét các con”. Lời Chúa nói lúc nào cũng đúng cho thời bấy giờ và sau này. Lý do thế gian ghét chúng ta vì chúng ta không thuộc thế gian cũng như Chúa không thuộc về thế gian. Họ ghét Chúa thì các môn đệ cũng bị ghét lây. Ca dao Việt nam có câu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.
Nhân tình thế thái thời Đức Giêsu cũng không ra khỏi cái lẽ thường ấy. Chính vì thế, Đức Giêsu đã cảnh tỉnh các môn đệ: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.
3. Từ ngữ “thế gian” mang hai ý nghĩa: thứ nhất, chỉ nhân loại cách chung, ví dụ: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình cho thế gian”. Thứ hai thế gian là “là những người không chấp nhận Đức Giêsu và thù ghét Ngài. Đây là ý nghĩa trong đoạn Tin Mừng này.
Đức Giêsu phân tích cho các môn đệ hiểu tình cảnh của các ông giữa một thế giới thù nghịch với Chúa: thế gian ghét Chúa thì cũng ghét ai theo Chúa. Sự hiện diện của Chúa phân tách thế giới thành sáng và tối, và Ngài trở thành cớ cho những kẻ ở trong bóng tối ghét bỏ Ngài và những người sống theo ánh sáng, bởi vì ánh sáng phơi bầy công việc gian tà của họ.
4. Nếu các tín hữu Kitô có bị bách hại là bởi vì niềm tin Kitô là thách đố và tra vấn cho những lương tâm con người. Nhìn lại các cuộc bách hại đã và đang diễn ra trong các chế độ toàn trị, người ta cũng thấy rằng chính vì chủ trương duy vật vô thần mà các chế độ độc tài bách hại Giáo hội. Chính vì đến để làm chứng và nói lên sự thật mà Đức Giêsu đã bị chống đối, khước từ và loại trừ. Ngày nay, bất cứ ai sống cho sứ mạng ấy, dù đang sống trong xã hội nào cũng đều bị bách hại cách này hay cách khác.
Năm 1968, khi Đức Phaolô VI ra thông điệp ”Sự Sống Con Người”, trong đó Ngài lên án não trạng chống lại sự sống của con người thời đại, người ta đã có lý để gọi Ngài là một người chống lại cả thế giới.
5. Có một điều hiển nhiên đó là: làm người chẳng ai muốn mình bị thù ghét. Thế nhưng, một điều khác hiển nhiên không kém, đó là một khi đã đi theo Đức Kitô để thuộc về Ngài thì: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15, 20). Đó là một thực tế phũ phàng không có lựa chọn nào khác... Dĩ nhiên, Đức Kitô không chọn cách sống để bị thù ghét, mà là chọn sự thật, một sự thật đến từ Chúa Cha, và cũng trong chính sự thật ấy người ta đã ghét Ngài: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19).
Mang thân phận là Kitô hữu, chúng ta phải đối diện với sự thù ghét của thế gian, nếu không chúng ta chỉ là Kitô hữu “hữu danh vô thực”. Vấn đề không phải sống làm sao để đừng bị ghét, mà phải ứng phó với thực tế ấy như thế nào? Đức Kitô vẫn yêu thương con người đến cùng. Ngài sẵn sàng đón nhận sự thù ghét, chấp nhận chết để thực hiện ơn tha thứ, kể cả với kẻ ghét mình. Đó cũng là con đường Ngài mời gọi chúng ta bước theo, nếu muốn thành môn đệ của Ngài, là Kitô hữu thực thụ (5 phút mỗi ngày).
6. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức sâu sắc về danh hiệu Kitô hữu của mình. Khi mang danh hiệu này, chúng ta thuộc về Đức Kitô, được thông phần đau khổ với Ngài và được vinh hạnh cùng Ngài cứu chuộc thế giới ngang qua những đau khổ mà chúng ta phải chịu vì danh Đức Giêsu. Vì thế, những trái khoáy dồn dập tư bề, những đau khổ về tinh thần cũng như thể xác như: bị bắt bớ, đánh đập và ngay cả cái chết... chúng ta hãy vui mừng hân hoan, bởi lẽ vì được thuộc về Ngài chứ không thuộc về thế gian.
7. Truyện: Những cuộc bách hại đầu tiên.
Tác giả Tacitus của đế quốc Rôma vào thế kỷ thứ nhất, trong tập sử ký của ông có ghi lại cuộc bách hại đầu tiên mà Giáo hội phải trải qua. Rôma năm 64, hoàng đế Néron, để dẹp bỏ tiếng đồn tố cáo là người đã nổi lửa đốt thành Rôma, ông đã ra lệnh lùng bắt người mà dân chúng gọi là Kitô hữu.
Một đám đông vô kể bị bắt giữ vì bị tố cáo không những đã gây ra cuộc hỏa hoạn, mà còn thù nghịch với các thần minh và nhân loại. Tất cả đã bị đem ra chế diễu và bị hành hạ cho đến chết: một số bị gói trong những mảnh da thú và quăng cho chó cắn xé; một số khác bị thiêu sống, khi màn đêm vừa buông xuống, người ta dùng họ thế cho những bó đuốc để soi sáng ban đêm; nhiều người khác bị đóng đinh cách dã man.
Cảnh tượng ấy diễn ra trong các vườn thượng uyển của Néron cũng như tại hý trường, nó dã man đến nỗi đã làm cho dân chúng xúc động và thêm bất mãn.
Đề tài giáo lý về cuộc sống của Kitô hữu trong thế gian.
Trong Tin Mừng của Gioan, chữ thế gian mang 2 nghĩa:
- Thứ nhất chỉ nhân loại cách chung: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Người cho thế gian.” Trong đoạn này chữ thế gian không theo nghĩa này;
- Thứ hai “thế gian” là những người không chấp nhận Chúa Giêsu và thù ghét Ngài. Đây là ý nghĩa trong đoạn Tin Mừng này.
Vào thời Thánh Gioan viết Tin Mừng, các Kitô hữu sống giữa những người thù ghét Chúa Giêsu và những người Kitô hữu;
a/ các tín đồ Do Thái giáo thù ghét họ, coi họ là đồ phản lại đạo Do Thái;
b/ Đế quốc Rôma cũng thù ghét họ vì nếp sống của họ không giống như những người khác: Không mê tín dị đoan, không thờ Hoàng đế La Mã…
Chúa Giêsu đã cho các môn đệ mình biết trước tình trạng đó. Ngài an ủi họ, đồng thời dạy họ cách sống giữa một thế gian thù nghịch như thế:
- “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ ghét Thầy trước.”
- “Vì các con không thuộc về thế gian… nên thế gian ghét các con.”
- “Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt Thầy thì họ sẽ bắt bớ các con.”
Suy gẫm
1. Chúa Giêsu đã cho họ biết trước rằng làm môn đệ Ngài thì phải chấp nhận bị thế gian thù ghét. Nhưng thực tế, chúng ta một mặt tránh làm những gì khiến thế gian thù ghét mình, mặt khác còn tìm cách để thế gian yêu thương chiều chuộng mình. Hẳn là chúng ta không nên cố tình chọc tức thế gian, nhưng không nên quên Lời Chúa nói: Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
2. “Vì các con không thuộc về thế gian… nên thế gian ghét các con.” Người thế gian coi tiền bạc trọng hơn đạo đức, lọc lừa nhiều hơn là chân thật, ai cũng ích kỷ lo cho bản thân, thậm chí chà đạp lên người khác… Kitô hữu không thể sống như họ, cho nên bị họ thù ghét. Vậy, nếu vì phải sống theo lý tưởng tốt đẹp của mình mà bị thế gian thù ghét, chúng ta hãy chấp nhận.
3. “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước.” Chúng ta còn chấp nhận bị thế gian thù ghét vì lý do chúng ta làm môn đệ Chúa, chúng ta phải vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.
4. “Giả như anh em thuộc về thế gian, thế gian yêu thích những gì thuộc về nó. Nhưng anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian nên thế gian ghét anh em.”
Khi còn là sinh viên, tôi thực sự ngoan đạo, sống trung thực và nghĩ đến người khác. Nhưng sau khi ra trường, đi làm và tiếp xúc với nhiều hạng người, dần dần đã quen với cách sống vụ lợi, không thật với lòng mình.
Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng này, tôi giật mình tự hỏi mình còn là Kitô hữu nữa không? Vâng người Kitô hữu phải có cuộc sống khác: phải yêu thương, bác ái, vị tha…
Quả là khó để trở lại, vì một phần “Tôi” quá lớn, phần khác nếu tôi không hoà theo lối sống của giới làm ăn, không làm hài lòng cấp trên thì sẽ bị tẩy chay, trừ khử.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con cách thức sống Lời Chúa trong môi trường con hiện nay.
Chúa Giêsu cho mọi người biết: “Vì các con không thuộc về thế gian… nên thế gian ghét các con” (Ga 15,19).
Chúng ta không nên cố tình chọc tức thế gian, nhưng đừng quên Lời Chúa: Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian (Ga 17,16). Chúng ta là những người đang sống trên đất.
Đây mời anh chị em nghe một đoạn trích thư gửi cho Điônhêtô mô tả về chân dung người Kitô hữu thời đó:
Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một nếp sống khác lạ.
Giáo Lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người khác.
Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tùy theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin.
Họ sống ở quê hương mình mà như những khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như những người khác, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, và quê hương nào cũng là đất khách đối với họ.
Họ lập gia đình và sinh con đẻ cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ.
Họ sống trong xác thịt, nhưng không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian nhưng họ là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ vượt trên những đòi hỏi của luật pháp.
Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được nhìn nhận, lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi thứ, nhưng lại dư dật mọi sự.
Họ bị sỉ nhục, nhưng giữa những sỉ nhục, họ lại được vinh quang. Danh thơm của họ bị chà đạp, nhưng bằng chứng về đời sống công chính của họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng.
Khi làm điều thiện, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất lương. Khi bị trừng phạt, họ vui mừng như được sống. Người Do Thái giao chiến với họ như với ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, và những kẻ ghét họ không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ.
Tôi xin nói đơn giản như sau: hồn ở trong xác thế nào, thì các Kitô hữu sống giữa thế gian cũng thế. Linh hồn ở khắp các chi thể thế nào thì các Kitô hữu cũng ở mọi thành thị trên thế giới như vậy. Linh hồn ở trong thân xác nhưng không do thân xác, thì các tín hữu cũng ở trong thế gian nhưng không bởi thế gian. Linh hồn vô hình được gìn giữ trong thân xác hữu hình, thì người ta nhìn thấy các Kitô hữu sống trong thế gian, nhưng không thấy lòng đạo đức của họ.
Xác thịt thù ghét và gây chiến với linh hồn, dù linh hồn không làm hại gì cho xác thịt, mà chỉ ngăn không cho nó hưởng lạc thú; thế gian cũng ghét các Kitô hữu như vậy, dù họ không gây thiệt hại gì cho nó, mà chỉ chống lại các lạc thú.
Linh hồn yêu thân xác, nhưng thân xác và các chi thể lại ghét linh hồn; các Kitô hữu cũng yêu những kẻ ghét mình. Linh hồn bị giam giữ trong thân xác, nhưng thực ra chính linh hồn lại chứa đựng thân xác; các Kitô hữu cũng bị giam giữ trong thế gian như trong tù, nhưng chính họ lại chứa đựng thế gian.
Linh hồn bất tử ở trong nhà tạm phải chết; các Kitô hữu sống giữa những thực tại hay hư nát như khách lữ hành, đang khi đợi chờ sự trường tồn trên thiên quốc. Nhờ ăn uống kham khổ, linh hồn nên tốt hơn; nhờ chịu cực hình, các Kitô hữu ngày một thêm đông nhân số.
Thiên Chúa đã đặt các Kitô hữu vào tình trạng như thế, thì họ không nên trốn tránh...
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Cha Piô:
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa. Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến. Con cần được thêm sức mạnh để khỏi ngừng lại dọc đường. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời. Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện. Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa, và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn.
Bản tính của con người chúng ta bẩm sinh là tội lỗi. Chúng ta như những đứa bé bị bỏ bên vệ đường, lõa lồ, máu me be bét, chẳng một ai qua lại thèm trông đến, chúng ta cất tiếng khóc của một sự thất vọng, cô quạnh. Trong lúc như thế, Chúa đã cứu chúng ta. Chúa đưa chúng ta về ở trong nhà của Chúa để Chúa cứu chữa, chăm sóc chúng ta, cho chúng ta được lớn lên trong tình yêu của Chúa. Như vậy, Chúa chính Chúa đã chọn gọi chúng ta ra khỏi thế gian: “…. nhưng các con không thuộc về thế gian, vì chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian….” (Ga 15, 19). Do đó, chúng ta tuy sống ở trần gian, sinh hoạt ở trần gian, nhưng chúng ta là người có đạo, chúng ta không thuộc về thế gian, chúng ta chỉ thuộc về Chúa mà thôi.
Chúa thuộc về Chúa Cha, Chúa là con của Chúa Cha, Chúa làm theo thánh ý của Chúa Cha, chứ không làm theo ý của Chúa và ý của trần gian. Ý của Chúa Cha thuộc thế giới thần linh, giúp con người chúng ta sống tốt để hưởng sự sống đời đời trong thế giới thần thánh đó. Còn ý của loài người thuộc thế giới vật chất, trần gian, hư vô, tro bụi, ý này không đem lại cho con người chúng ta có được sự sống đời đời sau này và dễ làm con người chúng ta hư vong, suy đồi. Vì thế, khi chúng ta chối từ những lời mời mọc của thế gian, không làm theo ý của nó, thế gian sẽ ghét con người chúng ta, và vì ghét như vậy, cho nên họ sẽ bắt bớ, tù đầy, và giết chết chúng ta. Điều này, chính Chúa của chúng ta khi vâng lời Chúa Cha đến trần gian và bị thế gian đối sử như thế. Chúa báo trước cho chúng ta biết để chúng ta không bị khủng hoảng, không bị sốc, không bị mất đức tin khi những điều ấy xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta là tôi tớ của Chúa, Chúa bị như thế, thì chúng ta cũng sẽ bị như vậy: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước. Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó…. nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lại lời Thầy đã nói với các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng tuân giữ lời các con. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những điều đó, bởi vì họ không biết Ðấng đã sai Thầy” (Ga 15, 18 – 21).
Chúa chọn chúng ta ra khỏi thế gian bằng phép Thánh Tẩy. Khi chúng ta theo Chúa, mọi nguyên nhân mà thế gian đối sử tệ bạc với chúng ta là từ Chúa: “ Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những điều đó, bởi vì họ không biết Ðấng đã sai Thầy” (Ga 15, 21), nhưng nếu chúng ta bền đổ đến cùng, chúng ta sẽ được cứu độ: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10, 22). Do đó, chúng ta sống trung thành với Chúa, đừng bao giờ chúng ta tự ý tách rời Chúa, mà phải luôn làm theo ý Chúa.
Lạy Chúa phục sinh, nhờ ơn Chúa mà chúng con được tái sinh, được nên công chính, được thông phần vào sự sống vĩnh cửu của Chúa, xin Chúa thương ban ơn nâng đỡ, phù trì và đưa chúng con vào sự sống bất diệt sau này. Amen.
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Bảy Tuần 5 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Tẩy mà cho chúng ta được tái sinh và thông phần vào sự sống của Chúa, giờ đây chúng ta được trở nên công chính, đáng hưởng phúc trường sinh bất tử. Xin Chúa thương nâng đỡ phù trì, đưa chúng ta vào cõi vinh quang bất diệt.
Thông phần vào sự sống của Chúa, giữ vững niềm cậy trông, mong đợi Đấng sẽ ngự đến, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Khải Huyền nói về: Chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, dựa vào lời ngôn sứ và hy vọng vào hạnh phúc tương lai, Dân Thiên Chúa tiến về Thành Thánh để gặp Đấng là Đầu và Cuối, là Sao Mai sáng ngời. Chính Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đavít, là Sao Mai sáng ngời. Thần Khí và Tân Nương nói: Xin Ngài ngự đến! Ai nghe, hãy nói: Xin Ngài ngự đến! Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến! Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Hãy lắng tai và đến với Ta.
Thông phần vào sự sống của Chúa, bằng cách giữ vững lòng tin khi gặp đau khổ, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói về: Tiếng reo mừng Alêluia trong Mùa Phục Sinh… Ưu sầu của anh em sẽ biến thành hoan lạc. Anh em sẽ buồn sầu than khóc, còn thế gian thì sẽ vui mừng, nhưng ưu sầu của anh em sẽ biến thành hoan lạc.
Thông phần vào sự sống của Chúa, làm cho mọi người nhận biết và được thông dự vào sự sống của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật một thị kiến: Một người miền Makêđônia đứng đó, mời ông Phaolô rằng: Xin ông sang Makêđônia giúp chúng tôi! Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 99, vịnh gia kêu gọi: Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ, vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo. Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế, chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn anh em khỏi thế gian. Chúng ta thuộc về Đức Kitô, thuộc về thượng giới, chính vì thế, chúng ta sẽ bị thế gian bách hại, nhưng, hãy cứ vững tin vào Chúa, bởi vì, ưu sầu của chúng ta sẽ biến thành niềm vui. Niềm hoan lạc vĩnh cửu của chúng ta trong cuộc đời mai sau sẽ là ngợi khen Thiên Chúa. Lời ngợi khen của chúng ta vang tiếng reo vui, còn lời cầu nguyện lại vọng tiếng than thở. Chúng ta được hứa cho điều chúng ta chưa có, mà Đấng đã hứa là Đấng trung thực, nên chúng ta vui mừng vì hy vọng. Chúng ta than thở vì ước mong, kiên trì ước mong quả là điều tốt, cho tới khi, nhận được điều Chúa hứa, lúc đó, tiếng than thở qua đi, chỉ còn lời ngợi khen liên lỉ. Cuộc Thương Khó của Chúa tỏ cho chúng ta thấy đời sống khó khăn hiện tại, vì phải vất vả gian lao và cuối cùng phải chết; còn sự sống lại hiển vinh của Chúa lại tỏ cho chúng ta thấy đời sống chúng ta sẽ được lãnh nhận. Hãy ca ngợi bằng cả con người chúng ta, nghĩa là, không phải chỉ có miệng lưỡi và tiếng nói, mà còn cả lương tâm của chúng ta, đời sống của chúng ta, hành động của chúng ta cũng ca tụng Thiên Chúa. Ai không ngừng sống tốt, người ấy vẫn hằng ca tụng Thiên Chúa. Nếu chúng ta không bỏ đời sống tốt lành bao giờ, thì dù miệng chúng ta có lặng thinh, thì đời sống chúng ta vẫn hô to, và Thiên Chúa vẫn lắng tai nghe tiếng lòng chúng ta. Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Tẩy mà cho chúng ta được tái sinh và thông phần vào sự sống của Chúa, ước gì Chúa thương nâng đỡ phù trì, đưa chúng ta vào cõi vinh quang bất diệt. Ước gì được như thế!