Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 6-2025

Thứ bảy - 31/05/2025 01:08
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 6-2025
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS Xếp gọn trong Tuần 6-2025
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày mùa PS
Xếp gọn trong Tuần 6-2025
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2 PS –Tuần 6/2025 - 26/05 Thánh Philipphê Nêri 3
Lời Chúa: Ga 15, 26-16, 4. 4
Suy niệm 1: Làm chứng về Thầy. 4
Suy niệm 2: Làm chứng cho sự thật 6
Suy niệm 3: Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. 7
Suy niệm 4: Trách nhiệm với Đức Kitô. 8
Suy niệm 5: Thập Giá và Đức Kitô. 9
Suy niệm 6: Loan báo là làm chứng. 10
Suy niệm 7: Làm chứng cho Đức Kitô. 11
Suy niệm 8: Thần Khí sự thật 12
Suy niệm 9: Các con sẽ làm chứng cho Thầy. 14
Suy niệm 10: Chúa Thánh Thần đến. 16
Suy niệm 11: Đấng Phù trợ. 18
Suy niệm 12: Thần Chân Lý sẽ làm chứng về Thầy. 20
Suy niệm 13: Làm chứng về Thầy. 21

Thứ 3 PS –Tuần 6/2025. 23
Lời Chúa: Ga 16, 5b-11. 23
Suy niệm 1: Có lợi cho anh em.. 23
Suy niệm 2: Đấng bảo vệ. 25
Suy niệm 3: Hoạt Động Của Thánh Thần. 26
Suy niệm 4: Sứ mạng của Chúa Thánh Thần. 27
Suy niệm 5: Ðấng Phù Trợ sẽ đến. 28
Suy niệm 6: Sống nhờ Thần Khí 29
Suy niệm 7: Chúa Thánh Thần sẽ đến. 30
Suy niệm 8: Chúa Thánh Thần là Đấng tố cáo thế gian. 32
Suy niệm 9: Chúa Thánh Thần là Đấng chứng minh thế gian sai lầm.. 34
Suy niệm 10: Thầy đi là có lợi cho chúng con. 37
Suy niệm 11: Đấng bảo trợ sẽ đến. 38

Thứ 4 PS –Tuần 6/2025. 39
Lời Chúa: Ga 16, 12-15. 39
Suy niệm 1: Toàn bộ sự thật 40
Suy niệm 2: Sự thật toàn vẹn. 42
Suy niệm 3: Cảm nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục sinh. 43
Suy niệm 4: Đấng Mặc Khải 44
Suy niệm 5: Sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. 45
Suy niệm 6: Sự thật sẽ giải thoát chúng ta. 46
Suy niệm 7: Thần Chân lý dạy sự thật 47
Suy niệm 8: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. 48
Suy niệm 9: Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con tất cả sự thật 50
Suy niệm 10: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy Kitô hữu. 52
Suy niệm 11: Dẫn ta đến là sự thật toàn vẹn. 54
Suy niệm 12: Chúa Thánh Thần dạy chúng ta biết sự thật 56
Suy niệm 13: Tới sự thật toàn vẹn. 57

Thứ 5 PS –Tuần 6/2025. 59
Lời Chúa: Ga 16, 16-20. 59
Suy niệm 1: Nỗi buồn trở thành niềm vui 59
Suy niệm 2: Hiện diện phục sinh. 61
Suy niệm 3: Nỗi buồn sẽ thành niềm vui. 62
Suy niệm 4: Không thấy rồi lại thấy. 63
Suy niệm 5: Mầu nhiệm cao cả. 64
Suy niệm 6: Chúa luôn yêu ta. 65
Suy niệm 7: Nỗi buồn sẽ trở thành niềm vui 66
Suy niệm 8: Ðược Sống. 67
Suy niệm 9: Nỗi buồn sẽ thành niềm vui 69
Suy niệm 10: Niềm vui Phục sinh tràn ngập tâm hồn. 71
Suy niệm 11: Buồn vui của cuộc sống Kitô hữu. 73
Suy niệm 12: Để niềm vui của các con tồn tại 75
Suy niệm 13: Nỗi buồn trở thành niềm vui 77

Thứ 6 PS –Tuần 6/2025. 78
Lời Chúa: Ga 16, 20-23a. 78
Suy niệm 1: Lòng anh em sẽ vui 79
Suy niệm 2: Tầm nhìn phục sinh. 81
Suy niệm 3: Tình yêu và đau khổ. 82
Suy niệm 4: Cưu mang: Cứu độ. 83
Suy niệm 5: Niềm vui của các môn đệ. 84
Suy niệm 6: Niềm vui trọn vẹn. 85
Suy niệm 7: Chịu đau khổ với Chúa, chia sẻ sự sống lại với Chúa. 86
Suy niệm 8: Được mời gọi theo đường thập giá Chúa mỗi ngày. 86
Suy niệm 9: Qua đau khổ đến vinh quang. 88
Suy niệm 10: Sống vui mừng vì sẽ được về trời 90
Suy niệm 11: Buồn vui của người Kitô hữu. 91
Suy niệm 12: Không ai lấy được niềm vui của chúng ta. 93
Suy niệm 13: Niềm vui không mất được. 95

Thứ 7 PS –Tuần 6/2025 - 31/05 Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét 96
Lời Chúa: Lc 1, 39-56. 96
Suy Niệm 1. Maria ở lại độ ba tháng. 97
Suy Niệm 2. Thân mẫu Chúa đến với tôi 99
Suy Niệm 3. Đức Mẹ Thăm Viếng. 101
Suy Niệm 4. Đức Mẹ Đi Thăm Viếng. 103
Suy Niệm 5. Thăm viếng bác ái và truyền giáo. 106
Suy Niệm 6. Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Êlisabeth. 107
Suy Niệm 7. Người phụ nữ diễm phúc. 110
Suy Niệm 8. Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth. 111
Suy Niệm 9. Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ. 113
Suy Niệm 10. Đức Maria vội vã lên đường. 115
Suy Niệm 11. Cuộc viếng thăm tình yêu. 117
Suy Niệm 12. Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời 120
Suy Niệm 13. Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth. 121
Suy Niệm 14. Thăm viếng yêu thương phục vụ. 124
Suy Niệm 15. Ðức Maria thăm viếng bà Êlisabeth- 126
Suy Niệm 16. Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth. 127
Suy Niệm 17. Mẹ Maria gặp gỡ chị họ Elisabeth. 133
Suy Niệm 18. Cuộc gặp gỡ lịch sử. 135
Suy Niệm 19. Không khiêm nhường, không biết tạ ơn! 137
Suy Niệm 20. Cuộc viếng thăm đầy ân sủng. 140
Suy Niệm 21. Niềm vui có Chúa. 141
Suy Niệm 22. Chia Sẻ Niềm Vui 143
Suy Niệm 23. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân. 145
Suy Niệm 24. Thương thì Thăm.. 148
Suy Niệm 25. Tình khúc ngợi khen. 151
Suy Niệm 26. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế. 155
Suy Niệm 27. Đức Maria Viếng Thăm Bà Êlisabét 157
Suy Niệm 28. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn. 163
Suy Niệm 29. Đức Mẹ Thăm Viếng. 166
Suy Niệm 30. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?. 168
Suy Niệm 31. Thân mẫu Chúa đến với tôi 170
Suy Niệm 32. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng. 171
Suy Niệm 33. Đức Maria thăm viếng. 174
Suy Niệm 34. Lên đường vì yêu. 177
Suy Niệm 35. Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét 179
Suy Niệm 36. Thăm viếng với niềm vui 180
Suy Niệm 37. “Mẹ sống để phục vụ, Mẹ đi để trao Chúa Giêsu”. 181
Suy Niệm 38. Niềm vui thăm viếng. 183

---------------------------------
 

Thứ 2 PS –Tuần 6/2025 - 26/05 Thánh Philipphê Nêri

Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.
26/05 – Thứ Hai tuần 6 Phục Sinh. – Thánh Philipphê Nêri, linh mục. Lễ nhớ.
"Thần Chân lý sẽ làm chứng về Thầy".

* Sinh năm 1515 tại Phirenxê, thánh nhân đến Rôma và dấn thân lo cho thanh thiếu niên. Người đi vào con đường trọn lành và lập một hội chuyên phục vụ người nghèo. Lãnh chức linh mục năm 1551, người lập Dòng Ô-ra-toa, chuyên lo cầu nguyện và làm việc bác ái trong giới thanh thiếu niên, các bệnh nhân, các tù nhân. Nét nổi bật trong đời của thánh nhân là người yêu thương tha nhân cách thiết thực, đơn sơ và vui vẻ. Người qua đời năm 1595.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Ga 15, 26-16, 4


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy. Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu.
Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con".

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Làm chứng về Thầy


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Chúng ta thường cầu xin Chúa Thánh Thần
trước một cuộc tĩnh tâm, một hội nghị hay một cuộc gặp gỡ tìm ý Chúa.
Thánh Thần cho ta ánh sáng để quyết định.
Nhưng Thánh Thần cũng là Đấng ban sức mạnh đỡ nâng,
nhất là lúc Giáo Hội gặp gian nan thử thách.
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của sự bách hại.
Các môn đệ sẽ bị ghét bỏ, bắt bớ (Ga 15, 18-20).
Hơn nữa, họ còn bị trục xuất khỏi hội đường và bị giết (Ga 16, 2).
Sau khi Đức Giêsu về trời, ai sẽ là người đứng ra bảo trợ họ?
Ai sẽ là người giúp họ can đảm để làm chứng cho Đấng phục sinh?
Đức Giêsu trả lời: chính Thánh Thần, Đấng mà Ngài sai đến từ nơi Cha.
Thánh Thần từ từ tỏ mình ra như một Đấng, một ngôi vị có thực,
đang hiện diện trong lòng từng Kitô hữu và trong cộng đoàn.
Thánh Thần là Đấng ở với anh em,
ở giữa anh em và ở trong anh em (Ga 14, 16-17).
Như thế Đức Giêsu thực sự chẳng lìa xa chúng ta.
Ngài vẫn hiện diện liên tục bên chúng ta, nhờ Thánh Thần Ngài sai đến.
Giáo Hội sơ khai đã có kinh nghiệm sâu xa về Đấng Bảo trợ này,
đặc biệt trong giai đoạn bị bách hại.
Stêphanô là người đầy Thánh Thần (Cv 6, 5).
Khi ông tranh luận với những người Do thái cứng lòng,
Thánh Thần đã ban cho ông lời lẽ khôn ngoan không ai địch nổi (Cv 6, 10).
Trong Thánh Thần, ông đã làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh,
Đấng đang đứng bên hữu Thiên Chúa (Cv 7, 55-56).
Chính lời chứng này đã đưa ông đến cái chết tử đạo đầu tiên.
Cái chết của Stêphanô nhắc ta nhớ lời hứa của Đức Giêsu.
Giờ bị thẩm tra là giờ thánh, giờ làm việc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Khi đứng trước các nhà lãnh đạo, Đức Giêsu khuyên ta đừng lo phải nói gì,
“vì trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết điều phải nói” (Lc 12,12),
đến nỗi “không phải chính anh em nói,
mà là Thần khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10, 20).
Cái chết của bất kỳ vị tử đạo nào cũng là một sự kết hợp diệu kỳ
giữa lời chứng bằng máu của họ với lời chứng của Thánh Thần ở trong họ.
“Người sẽ làm chứng về Thầy, anh em cũng làm chứng
vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27).
Chẳng bao giờ các Kitô hữu hết gặp khó khăn khi còn sống ở đời này,
hết phải làm chứng cho Đức Giêsu trước một thế giới thù nghịch.
Chẳng phải bách hại chỉ có dưới thời các vua triều Nguyễn.
Cuộc sống tiện nghi, dễ chịu thời nay cũng là một thứ bách hại nhẹ nhàng,
khiến nhiều Kitô hữu bị vướng vào và dễ dàng bước qua thập giá.
Xin Thánh Thần thêm sức cho ta khi ta phải lội ngược dòng.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu,
xin ban cho con
một thời để yêu và một thời để sống;
để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,
để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý
và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,
và dám chết vì những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống
để mỗi giây phút sống
con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu
để từng giây phút yêu,
con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối cùng,
xin cho con biết hòa nhập cả hai nên một:
để sống là yêu và yêu là sống,
vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống
cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen. (NNS)
 
---------------------------------

 

Suy niệm 2: Làm chứng cho sự thật


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Vệ và Thần Chân Lý. Hai chức năng quan trọng và rất cần thiết cho thời đại chúng ta.

Chúng ta cần Đấng Bảo Vệ vì chúng ta không ngừng bị tấn công. Mà không có phương tiện gì chống trả hay tự vệ. Chúa Giê-su đã từng bị tấn công rồi. Sau đó Giáo hội liên tục bị như thế. Bắt bớ 3 thế kỷ ở Rô-ma. Bắt bớ 3 thế kỷ tại Việt nam. Ngày nay các thừa sai vẫn bị giết. Nhiều cộng đoàn Kitô hữu vẫn bị ngược đãi. Ngày nay các cuộc tấn công còn tinh vi bạo tàn hơn nữa. Vì không tấn công thể lý nữa, nhưng tấn công luân lý. Người ta tố cáo Giáo hội ngược đãi trẻ em. Trọng nam khinh nữ. Ràng buộc lương tâm khiến con người không được hạnh phúc…

Chúng ta cần Thần Chân Lý vì kẻ tấn công nguy hiểm nhất chính là sự gian dối. Những đánh tráo khái niệm. Những từ ngữ hoa mỹ phỉnh gạt. Phá thai thì gọi là pro choice. Tôi có quyền lựa chọn nhưng sao không cho bào thai có quyền được sống.

Sự thật trần gian đã khó biết. Sự thật Nước Trời còn khó nhận hơn. Và Chúa kêu gọi chính chúng ta phải cùng với Thần Chân Lý làm chứng cho sự thật. Sự thật về Thiên Chúa, về Nước Trời có thực sự chiếu tỏa nơi ta hay không? Ta có sống thật vui tươi vì cảm nghiệm hạnh phúc Nước Trời trong một đời sống quên mình, nghĩ đến người khác không?

Cộng đoàn tín hữu sơ khai đã sống sự thật theo Thần Chân Lý. Nên thánh Phao-lô không còn tha thiết gì với những gì xưa kia ngài coi là lợi lộc nữa. Sau khi gặp Chúa Giê-su Phục sinh ngài chỉ còn biết một mình Chúa và coi đây là mối lợi lớn lao nhất. Ngài đi tìm dấu vết những người tin Chúa để cùng hợp đoàn với họ. Ngài không còn sống theo xác thịt nữa, chỉ theo Thần Chân Lý hướng dẫn.

Bà Ly-đi-a cũng để cho Thần Chân Lý hướng dẫn nên gặp được Phao-lô, gặp được Lời Chúa. Từ đó bà không coi trọng việc buôn bán vải điều nữa. Nhưng dành hết tâm trí sức lực vào đức tin, thực hành đức bác ái, mong được đón tiếp các tông đồ, phục vụ anh chị em.

Ta hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần đến trong ta và trong xã hội hôm nay. Ta hãy kiên quyết sống theo ơn Chúa Thánh Thần. Sống và Bảo vệ Chân Lý.

 ---------------------------------
`
 

Suy niệm 3: Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong thế gian, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần là một sự hiện diện vô hình và chứng tá của Chúa Thánh Thần cho Chúa Giêsu được thể hiện, được nhìn thấy nơi chứng tá của các môn đệ cho Chúa. Và như vừa nói trên, chứng tá này không phải là điều dễ dàng. Ðây là con đường nhỏ hẹp, gặp nhiều gian nan, thử thách. Theo Chúa đích thực làm cho ta ra khỏi thế gian và vì thế mà bị thế gian ghét bỏ, khai trừ. Nhưng trong những lúc gian nan thử thách như vậy, trong những giây phút cảm thấy trống rỗng và đau khổ trong cuộc đời của người đồ đệ, Chúa Thánh Thần, Ðấng an ủi, Ðấng bảo trợ, mà Chúa Giêsu sai xuống từ Thiên Chúa Cha, Ðấng ấy sẽ đồng hành với các môn đệ và trợ giúp họ, để các ngài được luôn trung thành làm chứng cho Chúa. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống của các môn đệ là nền tảng vững chắc cho niềm hy vọng của đồ đệ giữa những thử thách trên trần gian. Và chúng ta nhìn thấy điều này khi đọc qua những trang sách Tông Ðồ Công Vụ, sau khi được Chúa Thánh Thần ngự xuống, các tông đồ như được biến đổi hoàn toàn, từ lo sợ chạy trốn, chuyển sang can đảm, sẵn sàng hy sinh và cương quyết phục vụ. Trong lúc gặp thử thách, trước mặt những người quyền thế ngăn cấm không được làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, các tông đồ can đảm trả lời công khai: "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người".

Người Kitô hôm nay, đồ đệ của Chúa Giêsu, cần xét lại thái độ sống chứng nhân của mình. Có hai thái cực cần tránh đi, không thể có thái độ vênh vang tự đắc, cũng không được qụy lụy chiều theo qui mô của kẻ chống đối Chúa, cần sống khiêm tốn nhưng đồng thời can đảm mạnh mẽ trong việc phục vụ, chấp nhận phiền phức mà trong lòng vẫn vui tươi. Ðây là kinh nghiệm sống chứng nhân của thánh Phaolô tông đồ khi ngài tâm sự trong thư thứ hai Corintô chương 4, câu 7 và các câu tiếp theo như sau: "Thiên Chúa làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên dung mạo Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình sành để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp, gian nan nhưng không tuyệt vọng, bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để sự sống của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình của chúng tôi".

Tóm lại, làm chứng cho Chúa Giêsu, chúng ta không nên chờ đợi sự dễ dàng nhưng phải sẵn sàng mang lấy cuộc thương khó của Chúa Giêsu nơi thân mình, sẵn sàng đón nhận sự chống đối thù hận của những kẻ không biết Thiên Chúa Cha và cũng không biết Chúa Giêsu Kitô. Trong sự yếu đuối mỏng dòn của chính bản thân, chúng ta luôn cảm nghiệm sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện qua chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta. Chính Ngài làm chứng cho Chúa Giêsu và chúng ta cần để mình chìm sâu trong sức mạnh của Ngài để cùng với Ngài làm chứng cho Chúa.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã mời gọi chúng con làm chứng cho Chúa. Xin thương ban ơn nâng đỡ chúng con, nhất là trong những lúc gian nan thử thách, tin tưởng vào Lời chúa và với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng con muốn làm chứng cho Chúa và chứng tỏ cho anh chị em biết rằng chúng con biết Chúa và yêu mến Chúa thực tình. Chính vì biết Chúa và yêu mến Chúa thật tình nên chúng con dấn thân làm chứng cho Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 4: Trách nhiệm với Đức Kitô


Toàn bộ Tin mừng thánh Gio-an được coi như một vở kịch trình bày một phiên tòa với những ngôn từ: Chứng nhân, quan án, trạng sư, bảo trợ, bào chữa, tố cáo, chiến thắng … Đấng Bảo trợ đến tố cáo và xét xử thế gian vì họ tố cáo và xét xử sai lầm về Đức Giêsu. Thần chân lý đến với những dấu chỉ và công việc đầy nhân ái, nhưng người Do thái không biết đón nhận Ngài. Họ từ khước ánh sáng và họ bị kết án ở trong tối tăm. Chính họ đã kết án Đức Giêsu là sự sáng, nhưng Thánh Thần, Đấng bào chữa cho Đức Giêsu sẽ chỉ cho Giáo hội biết đến cùng Đấng có lý.

Nhờ Ngài làm chứng và soi sáng cho chúng ta, là những Kitô hữu, biết nhận ra trách nhiệm của mình đối với Đức Kitô, để trở nên giống hình ảnh Đức Kitô đi loan báo Tin mừng cho thế giới. Mỗi Kitô hữu phải là hình ảnh của Đức Kitô hiện diện trong thế giới, vì Đức Kitô sống lại không còn là Đức Giêsu đi lại cô độc ở Ga-li-lê và cầu nguyện cô đơn trong nơi thanh vắng của núi rừng hoang địa. Người chỉ hiện diện nơi các chứng nhân của Người. Đức Kitô cần nhờ các tín hữu để nói với thế gian như Người đã nói với Phao-lô: “Sao ngươi bắt Ta?”. Đức Giêsu sẽ không làm được gì nếu Người chỉ ở trên trời ngự trên ngai tòa bên hữu Đức Chúa Cha. Vì thế, cần phải thêm rằng Người đang hoạt động trên trái đất cùng với những ai đi rao giảng lời Ngài (Mc. 16, 19-20). Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Người cần có những kẻ được cứu chuộc. Đức Giêsu đã sai Thánh Thần đến như đã hứa ở bài này, cần có nhiều người đón nhận Ngài và với Ngài trở nên những chứng nhân làm chứng cho Đức Giêsu trước mặt loài người (Cv. 5, 32).

Như thế Tin mừng thánh Gio-an thúc đẩy chúng ta hiện tại hóa lời luận chứng xưa thành lời chứng mãi mãi, để làm sống lại vở kịch đầy xung đột giữa ánh sáng và tối tăm, sự sống và sự chết, chân lý và giả dối, đồng thời không ngừng đặt chúng ta trước giờ Đức Kitô bị kết án, bị giết chết, này trở nên Đấng phán xét và sống lại, trở nên Đấng Kitô đang hiện diện trong các kẻ tin nhờ Thánh Thần.

LP.

---------------------------------

 

Suy niệm 5: Thập Giá và Đức Kitô


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tại một trung tâm truyền giáo bên Italia, người ta đọc thấy một bài thơ với nội dung như sau: Bạn thân mến, tôi đã tìm một Thập giá. Một hôm tại tiệm bán đồ cổ, tôi đã mua được một tượng Đức Kitô, đây là Đức Kitô tuyệt đẹp nhưng sứt mẻ và bơ vơ vì bị tách lìa khỏi Thập Giá. Tôi chợt nghĩ không chừng bạn đang có một Thập giá, nhưng là một Thập giá trơ trụi không có Đức Kitô. Đức Kitô của tôi không có nơi ngơi nghỉ vì thiếu Thập giá, còn Thập giá của bạn thì lại thiếu Đức Kitô. Đức Kitô không Thập giá và Thập giá không Đức Kitô. Tôi xin đề nghị với bạn: tại sao chúng ta không liên kết cả hai lại? Tại sao bạn không trao Thập giá trống trơn của bạn cho Đức Kitô? Bạn chỉ có một thập giá đơn độc trống rỗng lạnh giá vô nghĩa, một Thập giá không có Đức Kitô. Hẳn bạn đã hiểu đau khổ như thế là vô lý, tôi không hiểu được tại sao bạn lại chịu đau khổ như thế từ bao lâu nay. Một thập giá không có Đức Kitô là một tra tấn, là nguyên nhân dẫn đến thất vọng. Giờ đây bạn đã có liều thuốc trong tay, bạn sẽ không còn đơn phương chịu đau khổ nữa. Bạn hãy trao cho tôi Thập giá trống không của bạn, tôi sẽ trao cho bạn Đức Kitô sứt mẻ của tôi. Bạn hãy trao Thập giá và hãy đón nhận Đức Kitô, rồi bạn sẽ thấy mọi sự đổi thay, bạn sẽ không còn đơn độc trong đau khổ, bởi vì trong Thập giá của bạn có Đức Kitô.

Bách hại, khổ đau là phần số gắn liền với ơn gọi Kitô hữu. Trong những giây phút cuối cùng ngồi bên các môn đệ, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc tử nạn của Ngài, mà còn báo trước những khổ đau mà họ sẽ trải qua vì mang Danh Ngài. Ngài sẽ tiếp tục hiện diện ấy càng rõ nét hơn qua chính những khổ đau mà các môn đệ Ngài sẽ trải qua. Một cách nào đó, vụ án của Chúa Giêsu sẽ tiếp tục trong chính các môn đệ của Ngài. Thế gian đã kết án Chua Giêsu và do đó trút hận thù lên các môn đệ của Ngài. Thật ra, không phải thế gian xét xử Chua Giêsu, mà chính Ngài xét xử thế gian. Cuộc tử nạn và cái chết của Chua Giêsu là một tố cáo về chính tội ác của thế gian. Qua cuộc tử nạn dưới nhiều hình thức mà các môn đệ Đức Kitô phải trải qua trên khắp thế giới và suốt lịch sử nhân lọai, sự xét xử của Chúa Giêsu đang tiếp diễn, tội ác của con người được tiếp tục phơi bày qua những khổ đau mà các môn đệ Đức Kitô phải gánh chịu vì niềm tin của họ.

Nhưng Chúa Giêsu không đến để luận phạt thế gian. Ngài đến để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cuộc tử nạn và cái chết của Ngài mạc khải cho nhân lạo gương mặt yêu thương của Thiên Chúa, và ngày nay qua cuộc tử nạn của các môn đệ Ngài, gương mặt yêu thương của Thiên Chúa lại tiếp tục được sáng tỏ. Qua cuộc tử nạn ấy, con người mới nhận thấy rằng chỉ có tình yêu mới thắng được hận thù, chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Tình yêu chiến thắng hận thù, tình yêu mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, tình yêu ấy người môn đệ chỉ có thể múc lấy từ Đức Kitô mà thôi. Ngài là Đấng Phục Sinh, Ngài đang hiện diện trong tâm hồn các môn đệ Ngài. Hãy để cho Ngài được hiện diện và đồng hành với ta, hãy để cho Ngài được tiếp tục dự phần vào thập giá của ta mỗi ngày, khi ấy cuộc sống sẽ mãi mãi có ý nghĩa, khổ đau sẽ có sức thanh luyện, và tình yêu sẽ chiến thắng hận thù.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 6: Loan báo là làm chứng


Trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã để lại cho chúng ta một phương châm thực hành như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).

Bài trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đức Giêsu trước khi trở về với Chúa Cha, Ngài đã giới thiệu Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý, là Đấng Bảo Trợ sẽ đến với các môn đệ.

Khi giới thiệu Chúa Thánh Thần như thế, Đức Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ rằng: khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm chứng và giúp các ông hiểu được tất cả những gì Đức Giêsu đã làm và những lời Ngài đã dạy trước đó. Mặt khác, Chúa Thánh Thần sẽ ban ơn phù trợ, để các ông can đảm làm chứng và sẵn sàng đón nhận tất cả mọi khổ đau vì Đức Giêsu.

Thật vậy, nếu không có Chúa Thánh Thần, các môn đệ vẫn là những con người khờ dại, kém tin và sợ sệt thủa nào. Tuy nhiên, khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên những người can đảm, uyên thâm, mạnh mẽ và dám chấp nhận tất cả, kể cả cái chết để làm chứng cho điều mình loan báo là có thật, đáng tin. Các ông đã thực hiện lời nói đi đôi với hành động.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sẵn sàng can đảm loan báo lời Chân Lý, chấp nhận mọi thử thách đau thương để Lời Chúa được lan rộng khắp nơi. Tin và sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần còn là một lời mời gọi chúng ta từ bỏ con đường, cách sống và hành vi cũ, chấp nhận lột xác, trở nên con người mới để được biến đổi như các môn đệ khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần trên chúng con. Xin cho chúng con được ơn biến đổi. Can đảm làm chứng và loan báo Lời Chân Lý của Chúa đến với muôn dân. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7: Làm chứng cho Đức Kitô


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Kitô hữu là người được kêu gọi làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người trong mọi nơi mọi lúc. Chính Chúa Thánh Thần sẽ nâng đỡ và an ủi chúng ta trong sứ mạng làm chứng này.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi Chúa bị bắt và bị đóng đinh, các môn đệ yêu dấu đã bỏ trốn. Các ngài không có đủ can đảm theo Chúa để biện hộ cho Chúa, các ngài đã trở về nhà tìm nơi an thân ẩn náu. Và ngay cả khi Chúa sống lại, hiện ra và cùng ăn uống với các ngài, các ngài vẫn chưa vững vàng tin vào Chúa và làm chứng cho niềm tin ấy.

Mãi cho tới lúc Chúa ban Thánh Thần xuống, các ngài mới mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Từ lúc đó, cái chết cũng không thể ngăn cản bước chân rao giảng của các ngài.

Lạy Chúa, Chúa cũng thương cho con được tham dự vào ba chức năng: tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa như các tông đồ xưa. Xin cho con luôn xác tín rằng con là một ánh đèn chiếu sáng, một sứ giả loan truyền tình thương, một nhân chứng Tin Mừng  của Chúa.

Vậy lạy Chúa, xin tha thứ cho con, vì đã bao lần con sống bê tha, tội lỗi, không những không làm chứng cho Chúa, mà lại làm người khác mất niềm tin vào Chúa. Xin ban cho con sức mạnh của Chúa Thánh Thần, để cho dù con bé nhỏ, nghèo hèn yếu đuối, con vẫn cố gắng sống thánh thiện hơn, biết quảng đại yêu thương, biết cho đi cách vô vị lợi. Xin giữ con đừng bao giờ kiêu căng cậy vào tài sức của mình, nhưng luôn tin tưởng vào quyền năng hoạt động của Chúa Thánh Thần. Amen.

Ghi nhớ: “Thần Chân lý sẽ làm chứng về Thầy”.

---------------------------------

 

Suy niệm 8: Thần Khí sự thật


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Cha Paul Wharton có kể lại câu chuyện: Một chàng thanh niên trẻ đến xin học một người thợ cả tài năng chuyên làm những bức tranh kiếng màu như chúng ta thường thấy tại các nhà thờ ở Âu Mỹ. Sau thời gian thụ huấn cần thiết, người học trò vẫn không thể đạt được những tác phẩm mang dấu ấn như thầy. Anh nghĩ có lẽ dụng cụ làm việc của thầy đặc biệt hơn nên anh xin thầy cho mượn dụng cụ của thầy.

Sau bảy tuần lễ, chàng trai đến nói với sư phụ: “Thưa thầy, con không thể làm được bất cứ tác phẩm nào đẹp đạt được với những dụng cụ mà thầy đưa”. Vị sư phụ điềm đạm trả lời: “Không phải dụng cụ của thầy mà con cần để làm nên tác phẩm, nhưng đó là “spirit of the mastes you need” chúng ta có thể hiểu rằng đó là “tinh thần, linh hồn, nghị lực” của người thầy mà người học trò cần thiết phải có” (Theo Discipleship, Stories and Parables, Paulist Presse).

Suy niệm

Ðấng Phù Trợ là Ngôi Ba Thiên Chúa, còn gọi là Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Linh, Thần Khí Thiên Chúa... Chính Ngài khởi xướng tất cả mọi công trình của Thiên Chúa. Ðấng Phù Trợ làm cho thế giới hiểu công trình cứu độ phục sinh của Ngôi Lời (x. Ga 14,26). Cho nên, Chúa Giêsu khi rời các tông đồ, Ngài xin Thần Khí của Cha xuống trên các ông: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ… Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,16-17), các môn đệ trở nên khí cụ của Thần Khí thi hành sứ vụ của Đức Kitô giao.

Chúa Thánh Linh luôn ở trong người môn đệ, thánh Phaolô nhấn mạnh người môn đệ có Thần Khí như cây tươi tốt kết tinh hoa trái. Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ… (x. Gl 5,22-23).

Để sống sứ vụ Thiên Chúa ủy thác tiếp tục các công trình của Đức Kitô và là công cụ của Chúa Thánh Thần. Thần Khí Thiên Chúa ban cho chúng ta những ân huệ thiêng liêng còn gọi là đặc sủng. Các ơn này được ngôn sứ Isaia loan báo: Ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn sức mạnh, ơn thông hiểu, ơn kính sợ Thiên Chúa (x. Is 11,2). Thánh Phaolô nói đến quyền năng, biết bao đa dạng của các ân sủng mà Thần Khí tác động khi nói các đặc sủng của Thánh Linh nơi nhiều hoạt động khác nhau (x.1Cr 12,4-11). Thánh Thần còn giúp người tín hữu sống hơi thở bằng lời cầu nguyện dâng lên Chúa Cha (x. Rm 8,26-27), giúp chúng ta có những tâm tình cầu nguyện và sống như Ngôi Lời như chúng ta đã chứng nghiệm được lời cầu nguyện thánh hiến (x. Ga 16) và phút cam đảm dứt khoát của Ngài bước vào cuộc thương khó phục sinh (x. Ga 16-18)

Hôm nay và qua mọi thời đại “hơi thở” của Thiên Chúa luôn luôn tác động, như không khí cho chúng ta thở, nếu không thở chúng ta sẽ chết:

“Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi
Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104,29-30).

Không tiếp nhận Thánh Thần, chúng ta sẽ trở nên khô héo, như cây không tiếp nhận nước, ánh sáng. Nước, lửa (ánh sáng) gió và khí là những hình ảnh loan báo về Thánh Thần.

Ý thức về Thần Khí Chúa trong đời sống, chúng ta không để Thánh Thần bị lãng quên như thực tế chúng ta thấy trong cách sống niềm tin của người Kitô hữu. Chúng ta xác tín hơn tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, một thụ tạo có được Thần Khí Thiên Chúa như thánh Phaolô chia sẻ: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

Chính trong yêu thương tràn ngập Thần Khí, chúng ta được Thiên Chúa ở cùng: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta” (1Ga 3,24).

Ý lực sống:

“... Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật trọn vẹn” (Ga 16,13).

---------------------------------

 

Suy niệm 9: Các con sẽ làm chứng cho Thầy


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Do thái giáo coi Đức Giêsu là một kẻ lộng ngôn phạm thượng và các Kitô hữu là những người phản bội Do thái giáo. Do đó họ giết Đức Giêsu, bắt bớ các Kitô hữu. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho các môn đệ biết: “Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa”.

Nhưng đồng thời Đức Giêsu trấn an họ: Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến. Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ: Ngài sẽ che chở và bênh vực các môn đệ trong cơn bắt bớ và Chúa Thánh Thần là Đấng làm theo đúng ý Chúa Cha.

2. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Parakletos chữ Hy lạp, chỉ một nhân vật có thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá này đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình sẽ đổi khác rất nhiều.

Có Đấng Parakletos (Đấng Phù Trợ) đứng bên cạnh thì môn đệ của Chúa không còn phải bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ nữa. Đấng Phù Trợ sẽ:

Hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn,
An ủi trong những lúc đau buồn,
Che chở họ những khi họ bị nguy hiểm,
Vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ,
Dạy cho họ biết cách làm, cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ,
Và cuối cùng, là đích thân bảo vệ họ (Carolô).

3. Đức Giêsu hứa sẽ gửi Đấng phù trợ đến. Nhưng công việc của Đấng phù trợ sẽ không là gì khác ngoài việc làm chứng về Đức Giêsu. Để rồi một khi  lòng tin vào Đức Giêsu được vững mạnh, các Tông đồ sẽ là nhân chứng của Thầy. Họ sẽ làm chứng không những về các hành động của Đức Giêsu mà còn cả ý nghĩa các việc làm của Ngài nữa. Đấng phù trợ là Thần Chân lý đến từ Cha, sẽ cho họ thấy công việc phải làm và con đường phải đi. Chắc chắn họ sẽ không tránh khỏi sự bách hại.

Đức Giêsu biết trước điều này, Ngài không ra tay ngăn cản, nhưng chỉ tiên báo cho họ biết, bởi vì có Đấng phù trợ ở với họ và sự bách hại sẽ là lời chứng hùng hồn nhất. Trong bách hại, người môn đệ sẽ tỏ lòng trung thành đối với Thầy. Nhờ bách hại, họ sẽ trở nên giống Thầy, Đấng đã bị bắt bớ và bị giết trên Thập giá (Mỗi ngày một tin vui).

4. Chúng ta thấy, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện xuống, cuộc đời của các Tông đồ đã thay đổi toàn diện, từ những người chậm hiểu, hèn nhát, hám danh, ham sống sợ chết, Chúa Thánh Thần đã biến đổi các ông thành những chứng nhân nhiệt thành, tận tâm, can trường, coi thường gian ngay, không thể làm thinh không nói những điều đã nghe, đã biết. Mọi gian khổ, đe đọa, tù ngục, không làm cho các ông thoái lui; trái lại, hết mọi Tông đồ đều lấy máu đào làm chứng cho lời các ông truyền giảng và sẵn sàng chết để tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô. Như vậy, muốn làm chứng về Đức Giêsu, phải có kinh nghiệm bản thân về Ngài, và dựa vào quyền năng của Thánh Thần.

5. Nói đến truyền giáo, chúng ta thường nghĩ đến các linh mục thừa sai đến rao giảng Tin Mừng cho chúng ta. Nhưng sứ mạng truyền giáo bắt nguồn từ Chúa Cha khi sai Con Một Ngài là Đức Giêsu loan báo cho nhân loại biết  tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, để “ai tin thì được cứu độ” (x. Ga 3,36).

Để chứng thực cho sứ mạng của mình, Đức Giêsu nói Ngài có Thánh Thần làm chứng. Quả thật, Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, làm chứng bằng cách tác động bên trong con người giúp họ hiểu biết và đón nhận Tin Mừng cứu độ của Chúa Cha được Đức Giêsu loan truyền. Hạnh phúc cho Hội Thánh khi được Thiên Chúa không chỉ cứu độ nhưng còn tuyển chọn để tham dự vào sứ mạng truyền giáo của Thiên Chúa. Chỉ trong Chúa Thánh Thần, Hội thánh mới có khả năng thực hiện sứ mạng ấy (5 phút Lời Chúa).

6. Tóm lại, làm chứng cho Đức Giêsu, chúng ta không nên chờ đợi sự dễ dàng nhưng phải sẵn sàng mang lấy cuộc thương khó của Đức Giêsu nơi thân mình, sẵn sàng đón nhận sự chống đối thù hận của những kẻ không biết Thiên Chúa Cha và cũng không biết Đức Giêsu. Trong sự yếu đuối mỏng dòn của chính bản thân, chúng ta luôn cảm nghiệm sức mạnh của Thiên Chúa được thể hiện qua chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện trong chúng ta. Chính Ngài làm chứng cho Đức Giêsu và chúng ta cần để mình chìm sâu trong sức mạnh của Ngài để cùng với Ngài làm chứng cho Chúa.

7. Truyện: Cần spirit of master trong tác phẩm.

Cha Paul Wharton có kể lại câu chuyện: Một chàng thanh niên trẻ xin học một người thợ cả tài năng chuyên làm những bức tranh kiếng mầu như chúng ta thấy tại các nhà thờ Âu Mỹ. Sau thời gian thụ huấn cần thiết, người học trò vẫn không thể đạt được những tác phẩm mang dấu ấn như thầy. Anh nghĩ có lẽ dụng cụ làm việc của thầy đặc biệt hơn nên anh xin thầy cho mượn dụng cụ của thầy.

Sau bảy tuần lễ, chàng trai đến nói với sư phụ: “Thưa thầy, con không thể làm được bất cứ tác phẩm nào đẹp đạt được với những dụng cụ mà thầy đưa”. Vị sư phu điềm đạm trả lời: “Không phải dụng cụ của thầy mà con cần để làm nên tác phẩm, nhưng đó là “spirit of master you need”, chúng ta có thể hiểu đó là “tinh thần, linh hồn, nghị lực” của người thầy mà người học trò cần phải có (Theo Discipleship, Stories and Parables, Paulist Presse).

---------------------------------

 

Suy niệm 10: Chúa Thánh Thần đến


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Đề tài giáo lý về Chúa Thánh Thần.

Do Thái coi Đức Giêsu là một kẻ lộng ngôn phạm thượng và các Kitô hữu là những người phản bội Do Thái. Do đó họ giết Chúa Giêsu và bắt bớ các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã báo trước điều đó cho các môn đệ biết: “Người ta sẽ loại bỏ các con ra khỏi hội đường. Đã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa.”

Nhưng đồng thời Chúa Giêsu chấn an họ: Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến.

Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ: Ngài sẽ che chở và bênh vực các môn đệ trong cơn bắt bớ.

Ngài là Thần Chân Lý: Ngài sẽ soi sáng giúp các môn đệ làm chứng cho những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Đấng làm theo đúng ý Chúa Cha.

Suy gẫm

1. “Đấng phù trợ” dịch từ chữ hy lạp Parakletos, chỉ một nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình đổi khác rất nhiều: đối với người bị cáo thì người này bớt sợ và an tâm hơn vì đã có người hỗ trợ tinh thần mình, đồng minh với mình, giúp mình biết trả lời sao cho khéo léo, và khi cần thì đích thân lên tiếng bênh vực mình. Đối với quan tòa thì sự hiện diện của Parakletos bên cạnh bị cáo cũng khiến họ phải nể nang hơn, xét xử khoan hồng hơn.

Thánh Kinh cũng dùng chữ này theo nghĩa rộng, vượt qua khỏi khung cảnh toà án, áp dụng cho nhiều hoàn cảnh khác trong cuộc đời. Thí dụ ngôn sứ Đanien Parakletos bà Susanna khi bà bị hai ông già dê âm mưu kết án oan; Chúa Giêsu là Parakletos của người phụ nữ ngoại tình khi chị bị lôi ra xử án ném đá vì phạm tội ngoại tình.

Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Các môn đệ của Ngài sẽ bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ. Thế gian cũng sẽ thù ghét họ, gài bẫy hại họ, làm khó dễ họ, thậm chí còn bắt bớ họ. Nhưng thực ra các môn đệ không bơ vơ vì đã có Chúa Thánh Thần đứng bên cạnh để:

- Hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn.
- An ủi họ trong những lúc đau buồn.
- Che chở họ trong những khi nguy hiểm.
- Vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ.
- Dạy họ cách làm cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ.
- Đích thân bênh vực họ.

Và chúng ta đã thấy, Chúa Thánh Thần đã đóng vai Parakletos một cách hữu hiệu thế nào đối với các tông đồ khi các Ngài sống và hoạt động giữa thế gian.

Bài Tin Mừng nhắc chúng ta nhớ đến một Đấng Parakletos mà chúng ta vẫn hằng có sát bên cạnh mình thế mà chúng ta thường quên, đó là Chúa Thánh Thần. Chúng ta quên Ngài đến nỗi nhiều khi chúng ta đọc hay hát kinh Chúa Thánh Thần mà vẫn không nghĩ tới Ngài. Và bởi vì quên Ngài, không nghĩ tới Ngài nên chúng ta thường bị rơi vào tình trạnh cô đơn, buồn chán, lo âu, sợ sệt, ngã lòng…

2. “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.”

Sau những ngày làm đầy tớ cho một gia đình quý tộc, Sophie Berdanska phải thất nghiệp, đói rách, lanh thang. Nàng được một gia đình Do Thái thuê về chăm sóc cho mấy đứa con nhỏ của họ. Nhưng ngay hôm đầu tiên, khi biết nàng là người Công giáo, ông chủ đặt điều kiện là “Nàng không được giảng đạo” cho các con ông. Nàng nhận lời và bắt đầu công việc của mình bằng hết khả năng. Có điều trên cổ nàng luôn đeo một chiếc huy chương của cha nàng để lại, bên trong có nhét một mảnh giấy nhỏ, mà nàng nhất định không cho ai coi. Rồi đến khi lũ trẻ lâm bệnh, nàng ra sức chăm sóc, phục vụ. Lúc chúng được lành bệnh thì cũng là lúc nàng ngã bệnh và từ trần. Giờ đây người ta có thể đọc tấm giấy nhỏ trong tấm huy chương: “Khi người ta cấm tôi nói về đạo của tôi, tôi quyết sống đạo đức trước mặt họ như một chứng từ hùng hồn nhất.” Bàng hoàng rồi cảm phục, gia đình người chủ Do Thái xin nhận Bí tích Thánh Tẩy.

Lạy Chúa, xin giúp con can đảm sống đạo trước mặt mọi người như một chứng từ hùng hồn.

---------------------------------

 

Suy niệm 11: Đấng Phù trợ


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Chúa Giêsu nói với chúng ta về Chúa Thánh Thần.

1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng chữ Parakletos để chỉ Chúa Thánh Thần. Parakletos chữ Hylạp, chỉ một nhân vật có thế giá đến đứng bên cạnh người bị cáo trong một phiên tòa. Khi nhân vật thế giá này đến đứng bên cạnh người bị cáo thì tình hình sẽ đổi khác rất nhiều.

Có Đấng Parakletos (đấng Phù trợ) đứng bên cạnh thì môn đệ của Chúa sẽ không còn phải bơ vơ giữa thế gian, như những con chiên giữa bầy sói dữ nữa. Đấng Phù Trợ sẽ:

Hỗ trợ tinh thần khi họ cảm thấy cô đơn.
An ủi họ trong những lúc đau buồn.
Che chở họ những khi họ bị nguy hiểm.
Vạch cho họ thấy những cạm bẫy xảo quyệt mà thế gian giăng ra hại họ.
Dạy cho họ biết cách làm, cách nói để khỏi bị thế gian bắt bẻ.
Và cuối cùng, là đích thân bênh vực họ.

2. Và chúng ta đã thấy, Chúa Thánh Thần đã đóng vai Parakletos một cách hữu hiệu như thế nào cho các tông đồ khi các Ngài sống và hoạt động giữa thế gian.

Chúa Thánh Thần làm những việc nhiều khi chúng ta không thể hiểu nổi.

Tại một tỉnh thuộc miền Trung Ấn Độ, một tín hữu Kitô có tên là Sacdu-Sundasi tự nguyện tham gia công tác truyền giáo bằng cách phổ biến sách Tin Mừng. Ngày kia, trên một chuyến xe lửa, anh can đảm lấy ra một số sách Tin Mừng của thánh Gioan đựng trong cặp và trao cho hành khách không phải là Kitô hữu cùng đi trên xe. Một hành khách, thay vì chỉ từ chối không nhận, lại còn giận dữ chộp lấy một quyển Tin Mừng xé nát ra và quăng những mảnh giấy vụn qua cửa sổ. Thiện chí truyền giáo của Sacdu tưởng chừng như tan biến theo gió. Nhưng cũng vào lúc ấy, có một người tình cờ đi dọc theo đường ray, anh ta tò mò cúi xuống nhặt mảnh giấy bị gió cuốn trước mặt, và anh đọc được hàng chữ “Bánh Hằng Sống” được in bằng tiếng địa phương. Tuy không hiểu rõ những chữ trên có ý nghĩa gì nhưng anh cứ giữ lấy mảnh giấy để dò hỏi các bạn quen biết. Một trong bọn họ bảo: Đây là mảnh giấy trong sách đạo Kitô, anh không nên đọc nó nếu không muốn bị ô uế.

Suy nghĩ trong khoảnh khắc, người đã nhặt được mảnh giấy, nói:

- Tôi không sợ bị ô uế, ngược lại, tôi muốn đọc trọn quyển sách mang dòng chữ tuyệt vời này.

Sau đó, anh tìm mua một quyển Tân Ước và được chỉ chỗ của câu trong mảnh giấy lời Đức Giêsu tuyên bố: “Ta là Bánh Hằng Sống”. Anh say mê đọc và thấy con tim được chiếu sáng. Rồi sau khi lãnh nhận phép thanh tẩy, chính anh đã trở nên một giáo lý viên.

Người đã ghi lại câu chuyện trên ghi chú: qua Chúa Thánh Thần, mảnh giấy nhỏ đã thực sự trở nên Bánh Hằng Sống cho anh.

3. Chúa Giêsu nói “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15,27).

Có nhiều cách làm chứng, nhưng cách làm chứng “Bằng cuộc sống” là hữu hiệu nhất và cũng phổ thông nhất. Ai cũng có thể làm được.

Đây là một câu chuyện đã xảy ra trong một giáo xứ ở một vùng sâu vùng xa. Khi về nhận xứ, linh mục chánh xứ được biết ở đây có nhiều người đã được ơn trở lại với Chúa. Trong một buổi họp mặt tại nhà thờ, sau khi giảng, vị linh mục hỏi mọi người:

- Ở đây ai là người có nhiều công nhất trong việc giúp cho anh chị em trở thành con cái của Chúa? Rồi ngài gợi ý: Người đó có thể là một bà mẹ, là người rao giảng, là giáo viên, là người hàng xóm của anh chị em. Và bây giờ tôi mời anh chị em đứng lên và tiến đến bắt tay người nào có ảnh hương nhất đối với anh chị em trong việc đem Đức Kitô như là Đấng cứu Độ đến với mình.

Sau lời của vị linh mục hầu như mọi người đổ dồn cặp mắt về phía một cụ già đã ngoài 75 tuổi ngồi bên phải vị linh mục. Bà cụ chưa bao giờ nói trước công chúng. Bà cũng không phải là một nhà giảng thuyết, hoặc một người làm việc trong nhà thờ, bà cụ chỉ là một người mẹ, một người vợ Công giáo đầy lòng tin, hết lòng tận tụy với bổn phận hằng ngày mà thôi.

Thế mà cả một chuỗi dài những người nối tiếp nhau tiến đến bắt tay bà cụ. Họ nói:

- Cuộc sống âm thầm, tận tụy, đầy lòng tin của cụ, những hành động và chứng từ của cụ đối với Chúa Giêsu đã đưa dẫn chúng tôi đến với Đức Kitô Đấng cứu Độ.

Chính nhờ đời sống tươi đẹp, thánh thiện đó mà người phụ nữ Công giáo này đã đưa nhiều người đến với Đấng Cứu Thế có thể hơn cả một nhà giảng thuyết tài giỏi.

Lạy Chúa Thánh Thần,
xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng con
đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn,
vào những lối mòn quen thuộc,
nhưng xin canh tân
và tái tạo chúng con mỗi ngày. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 12: Thần Chân Lý sẽ làm chứng về Thầy


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa từ Chúa Cha mà đến trong thế gian với con người chúng ta. Sau khi chịu chết và sống lại, Chúa lại về với Chúa Cha. Tiếp đó là Chúa Thánh Thần sẽ đến với chúng ta. Chúa Thánh Thần cũng từ Chúa Cha mà đến: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Khi Ðấng Phù Trợ đến, Ðấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con, Người là Thần Chân lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15, 26). Như vậy, Chúa Cha là nguồn gốc của tất cả mọi sự trên trần gian này. Chúa Cha, Chúa, và Chúa Thánh Thần là một trong suy nghĩ, lời nói và việc làm. Do đó, nếu chúng ta yêu mến Chúa thì chúng ta cũng yêu mến Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta tin Chúa thì chúng ta cũng tin vào Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta đừng có tư tưởng là phân rẽ giữa Chúa Cha, Chúa và Chúa Thánh Thần ra, để mà chính Ba Ngôi mâu thuẫn tự tại với nhau vì chúng ta, giống như cách mà chúng ta thường hay làm trong cuộc đời đầy tội lỗi này với những người khác.

Chúa Thánh Thần đến để giúp chúng ta nhớ lại những lời mà chính Chúa đã dạy chúng ta. Ngài sẽ làm chứng về Chúa là Thiên Chúa thật làm người, giúp con người trần gian làm theo ý Chúa, sống tốt để được Chúa ban ơn phần rỗi. Đồng thời Chúa Thánh Thần sẽ ban ơn sức mạnh, giúp chúng ta cộng tác với Ngài để làm chứng cho Chúa, vì chúng ta là con cái của Chúa, được Chúa yêu thương nâng đỡ cho sống gần gũi với Chúa, bây giờ chúng ta cần làm chứng về Chúa như chính Chúa đã nói: “Và các con cũng sẽ làm chứng, vì các con đã ở với Thầy từ ban đầu” (Ga 15, 27).

Sứ mạng của Chúa Thánh Thần ở tràn gian này là tiếp tục sứ mạng của Chúa, Ngài cũng khổ sở như Chúa, vì trần gian này quá phúc tạp, con người làm khổ nhau, hay thay lòng đổi dạ, khó dạy bảo, ngang bướng, chai lì, biếng nhát, nhất là bách hại những người làm chứng cho Chúa mà như Chúa đã báo trước trong bài Tin Mừng hôm nay. Do đó mà Chúa Thánh Thần hàng ngày phải vất vả vì họ: “Thầy đã nói với các con điều đó để các con khỏi vấp ngã. Người ta sẽ loại các con ra khỏi hội đường. Ðã đến giờ kẻ giết các con tưởng làm thế là phụng sự Thiên Chúa. Họ sẽ làm những điều đó cho các con, vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy. Nhưng Thầy đã nói với các con như vậy, để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại là Thầy đã bảo các con” (Ga 16, 1 – 4). Vì thế mà Chúa Thánh Thần ban nhiều ơn đỡ chúng ta, giúp chúng ta không bị vấp ngã, bỏ cuộc, buông xuôi, nhưng luôn trung thành chu toàn sứ mạng Chúa trao phó.

Thật sự Chúa nói những người trần gian làm các điều đó đối với chúng ta là do họ không biết Chúa Cha, cũng không biết Chúa, cũng không biết Chúa Thánh Thần. Cái không biết của họ là họ không muốn biết, vì họ cố chấp, sợ làm theo ý Chúa thì họ sẽ không còn được hưởng thụ, không được giết người, không còn được người khác phục vụ mình, không được nhiều vợ… Rồi còn phải sống yêu thương, chia sẻ, tha thứ, biết hy sinh cho người khác…Bởi thế họ sẽ chết trong tội của họ, chúng ta hãy cầu nguyện nhiều cho họ để Chúa thương cứu chữa họ, giúp họ xa tránh con đường gian ác tội lỗi này. Vì vậy mà chúng ta càng tạ ơn Chúa và càng quý trọng hơn nữa sứ mạng Chúa trao phó, mà chu toàn đàng hoàng để mong Chúa vui lòng mà cứu giúp mọi người.

Lạy Chúa, Alleluia, chúng con vui mừng vì Chúa đã sống lại từ cõi chết và mang niềm hy vọng cho chúng con sau này chúng con cũng được chia sẻ vinh quang phục sinh của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết nỗ lực cộng tác với Chúa Thánh Thần để mang Tin Mừng Chúa đến cho mọi người trên trần gian này, dù chúng con có bị bách hại. Xin Chúa cũng thương những người bách hại các chứng nhân của Chúa để Chúa có cách cứu chữa những người anh chị em này của chúng con.

---------------------------------

 

Suy niệm 13: Làm chứng về Thầy


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Philípphê Nêri hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa nâng lên hàng chư thánh hiển vinh tất cả những ai trung thành phụng sự Chúa. Xin Chúa cử Thánh Thần đến đốt lửa yêu mến trong lòng chúng ta, như xưa Người đã hun đúc tâm hồn thánh Philípphê Nêri một cách lạ lùng.

Sinh năm 1515 tại Phirenxê, thánh nhân đến Rôma và dấn thân lo cho thanh thiếu niên. Người đi vào con đường trọn lành và lập một hội chuyên phục vụ người nghèo. Lãnh chức linh mục năm 1551, người lập dòng Ôratoa, chuyên lo cầu nguyện và làm việc bác ái trong giới thanh thiếu niên, các bệnh nhân, các tù nhân. Nét nổi bật trong đời của thánh nhân là người yêu thương tha nhân cách thiết thực, đơn sơ và vui vẻ. Người qua đời năm 1595.

Thánh Thần đốt lửa yêu mến trong lòng chúng ta, để ta sống điều răn mới, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ nhất của thánh Gioan nói về: Điều răn mới: Yêu thương hết mọi người, đó là điều răn mới Chúa Giêsu đã dạy và còn tiếp tục dạy chúng ta. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng. Căn cứ vào điều này chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Chúa Kitô, đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.

Thánh Thần đốt lửa yêu mến trong lòng chúng ta, để chúng ta vui mừng khi sống yêu thương nhau, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Autinh kêu gọi: Anh em hãy vui luôn trong Chúa… Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hòa. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em. Thiên Chúa là nguồn hy vọng, xin Người ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin.

Thánh Thần đốt lửa yêu mến trong lòng chúng ta, để chúng ta sẵn sàng làm chứng cho Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Chúa mở lòng cho bà Lyđia để bà chú ý đến những lời ông Phaolô nói. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 149, vịnh gia kêu xin: Chúa mến chuộng dân Người. Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, ngợi khen Người trong cộng đoàn những kẻ hiếu trung! Hỡi Ítraen, nào hoan hỷ, vì có Chúa là Đấng tạo thành ngươi. Con cái Xion, hãy nhảy mừng, vì được Chúa làm Vua hiển trị.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thần Khí sự thật sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng về Thầy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thần Khí sự thật sẽ làm chứng về Thầy. Thần Khí sự thật làm chứng cho Đức Kitô và ta cũng phải làm chứng cho Đức Kitô. Làm chứng bằng cách sống giới răn yêu thương của Chúa cách vui mừng hân hoan, như chính Đức Kitô đã làm gương cho ta: Con Một Thiên Chúa đã làm cho muôn người trở nên con Thiên Chúa. Người đã dùng máu mà mua lấy cho mình một đàn em: Bị chối bỏ, Người đã đón nhận họ; bị bán đi, Người đã cứu chuộc họ; bị làm nhục, Người đã tôn vinh họ; bị giết chết, Người đã cho họ sống. Vậy, ta hãy vui lên trong Chúa, chứ không theo thế gian, hãy vui lên trong sự thật, chứ không phải trong sự gian tà; hãy vui lên trong niềm hy vọng đạt tới phúc trường sinh, chứ không phải trong cảnh phù vân chóng tàn. Như thế, hãy ta vui lên: dù đang ta ở đâu và sống trong hoàn cảnh nào, Chúa vẫn ở kề bên, chúng ta đừng lo lắng gì cả, cứ mạnh dạn sống và làm chứng cho tình yêu Chúa. Chúa nâng lên hàng chư thánh hiển vinh tất cả những ai trung thành phụng sự Chúa. Ước gì Thánh Thần đến đốt lửa yêu mến trong lòng chúng ta, như xưa Người đã hun đúc tâm hồn thánh Philípphê Nêri một cách lạ lùng. Ước gì được như thế!

---------------------------------
 

Thứ 3 PS –Tuần 6/2025

Hoạt động của Thánh Thần.
27/05 – Thứ Ba tuần 6 Phục Sinh.
“Nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con”.

 

Lời Chúa: Ga 16, 5b-11


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Bây giờ Thầy về với Đấng đã sai Thầy, mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu.
Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con: Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con.

Khi Người đến, Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Có lợi cho anh em


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Người Pháp vẫn thường nói: ra đi là chết một chút.
Cuộc chia ly nào cũng đem lại những mất mát buồn phiền.
Khi biết mình sắp phải chia tay Thầy,
các môn đệ cũng không tránh khỏi tâm trạng đó (c.6).
Gần ba năm sống bên Thầy, tuy ngắn ngủi nhưng có bao là kỷ niệm.
“Bây giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy” (c. 5).
Thầy Giêsu đã an ủi bằng cách nói rằng mình đi để dọn chỗ cho họ.
Rồi Thầy trò lại được chung sống bên nhau (Ga 14, 1-3).
Chuyện Thầy về với Cha lẽ ra phải làm họ vui sướng,
vì Thầy được Cha tôn vinh (Ga 14, 28).
Nhưng lý do chính khiến Thầy ra đi là nhằm lợi ích cho môn đệ.
“Nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em;
nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (c. 7).
Rõ ràng sau khi Đức Giêsu chết, phục sinh, hiện ra nhiều lần và lên trời,
sau khi các môn đệ không còn thấy Ngài nữa,
thì Đấng Bảo Trợ bắt đầu đóng một vai trò quan trọng.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, sẽ làm công việc của một người Thầy.
“Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại
mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26).
Thầy Thánh Thần giúp ta hiểu được và đến được với Thầy Giêsu.
Thánh Thần như người phụ đạo, tiếp nối việc giảng dạy của Thầy Giêsu.
Thánh Thần còn là người làm chứng cho Thầy Giêsu nữa,
để các môn đệ cũng can đảm trở nên chứng nhân cho Thầy (Ga 15, 26-27).
“Thầy đi thì có lợi cho anh em” (c.7).
Khi Đức Giêsu hoàn tất phần công việc Cha giao cho mình (Ga 17, 4; 19, 30),
Ngài chuyển giao mọi việc còn lại cho Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ.
Ngài tìm điều có lợi hơn cho sự lớn lên của các môn sinh,
dù Ngài rất yêu họ và muốn được sống gần họ (Ga 13, 1; 17, 24).
“Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14, 18).
Đức Giêsu đến với môn đệ bằng việc sai Thánh Thần.
Đúng là họ sẽ chẳng bao giờ mồ côi, vì họ đã có một Đấng Bảo Trợ.
Trong cuộc sống lắm khi người Kitô hữu thấy Chúa Kitô như vắng mặt.
Buồn chán, thất vọng, xao xuyến, sợ hãi, khô khan chiếm lấy lòng mình.
Không phải lúc nào cũng thấy Chúa gần bên, ấm áp và thân thiện.
Những lúc khó khăn đó lại có thể là dịp để ta tập yêu Ngài cách nhưng không,
tin Ngài chỉ tìm điều có ích hơn cho ta,
và kiên nhẫn đợi chờ quà tặng bất ngờ do Ngài gửi đến.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Thánh Thần,
xin Ngài hãy đến như cơn gió mát
thổi vào đời con,
thổi vào Giáo Hội,
thổi vào thế giới,
để đem lại cho chúng con
sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.
Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong
chảy vào đời con,
chảy vào Giáo Hội,
chảy vào thế giới,
để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi,
và làm bật dậy
những mầm xanh sự sống nơi chúng con.
Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng
chiếu sáng đời con,
chiếu sáng Giáo Hội,
chiếu sáng thế giới,
để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm,
nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng,
đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 2: Đấng bảo vệ


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Các môn đệ đã từ bỏ tất cả để gắn bó với Chúa Giê-su. Nay Người ra đi hỏi sao các môn đệ không buồn phiền lo lắng. Nhưng Chúa Giê-su quả quyết: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Vệ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”.

Chúa Giê-su ra đi thì có lợi. Vì các môn đệ từ nay không sống bằng thế giới khả giác nữa, nhưng đi vào thế giới siêu nhiên mầu nhiệm. Ánh mắt dõi theo Chúa trong ngày lễ Thăng Thiên sẽ hướng về nội tâm, để họ kết hợp với Chúa Giê-su vinh hiển trong thế giới thần linh. Đó là thế giới của mầu nhiệm Ba Ngôi. Và biểu hiện mạnh mẽ qua Chúa Thánh Thần.

Ngôi Lời nhập thể hữu hình trong thời gian phải chịu những giới hạn của con người. Nay Người ra đi về thế giới thần linh. Để quyền năng của Người thể hiện qua Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự sống của Chúa Giê-su. Là Thần Khí Đức Ki-tô.

Đấng Bảo Vệ đến bảo vệ các môn đệ. Điều đó thể hiện cụ thể trong bài sách thánh hôm nay. Người bảo vệ Phao-lô và Si-la tuy bị đánh đập nhưng không phải chết. Tuy bị giam cầm nhưng tâm hồn vẫn tự do và vui tươi. Vẫn ca hát và dậy dỗ, khuyên nhủ và rao giảng. Cửa sắt và gông xiềng chẳng đủ sức trói buộc các ngài.

Thần Chân Lý đến cho thế gian thấy sự sai lầm. Thế gian cụ thể qua viên cai ngục. Sau biến cố động đất và cửa ngục cùng gông xiềng bật tung ra, viên cai ngục nhận biết mình tội lỗi vì đã không tin Chúa. Nên quì sấp mặt xin Phao-lô tha tội. Ông muốn sống công chính khi trả về cho Chúa quyền năng trên cuộc đời minh. Nên ông tuân phục Thiên Chúa. Và ông tránh án phạt. Vì không tin Chúa là đi vào sự chết. Chỉ tin Chúa mới đem đến sự sống. Ông đã hỏi Phaolô: “Tôi phải làm gì để được ơn cứu độ”. Thánh Phaolô đã vạch cho ông con đường sự sống: “Phải tin vào Chúa Giêsu”.

Tạ ơn Chúa Giêsu hiển vinh đã ban Đấng Bảo Vệ và Thần Chân Lý đến. Xin Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trong con. Để con được bình an hoan lạc. Và luôn sống theo sự thật của Chúa.

---------------------------------

 

Suy niệm 3: Hoạt Động Của Thánh Thần


Sách Công vụ Tông đồ kể lại rằng trong dịp lễ Ngũ tuần khi người Do thái tự khắp nơi tuôn về Yêrusalem để mừng lễ, các Tông đồ lúc đó đang tề tựu một nơi, thì bỗng từ trời một tiếng ào ào như thế cuồng phong thổi đến, vang khắp cả nhà, hết thảy họ được đầy Thánh Thần và nói được các thứ tiếng tùy theo Thần Khí ban cho họ. Phêrô đã mạnh mẽ rao giảng về Đức Giêsu thành Nazaret vừa bị Hội đồng Do thái kết án và đống đinh Thập gía, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Nghe Phêrô giảng, có khoảng 3000 người đã hối cải và xin chịu thanh tẩy.

Lời giảng của Phêrô đạt được kết quả như vậy là nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng đã tác động trên người nghe lẫn người giảng, một công việc đã được Chúa Giêsu tiên báo trước khi Ngài từ giã các môn đệ như được tường thuật trong Tin mừng hôm nay: “Khi Đấng Phù trợ đến, Ngài sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt”.

Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã hiện thực trong đám đông Do thái vào dịp lễ Ngũ tuần. Việc làm của họ một lần nữa được Phêrô nhắc lại và nhờ Thánh Thần họ đã hiểu thế nào là tội, là sự công chính, là án phạt. Việc làm ngày hôm trước Lễ Vượt qua, họ tưởng là phụng sự Thiên Chúa mà kỳ thực họ đã lầm vì đã giết chết Đấng thánh của Thiên Chúa được sai đến để cứu dân. Về phần Chúa Giêsu Ngài bị giết chết, nhưng đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu đi đến tận cùng của việc bị kết án, thì cũng là lúc con người nhận ra sự công chính nơi Ngài. Viên bách quản đã thốt lên: “Người này thật là Con Thiên Chúa”, và đám đông chứng kiến cảnh tượng ấy đã đấm ngực mà lui về. Cái chết của Ngài là một chiến thắng tội lỗi và sự chết, để những ai bước theo Ngài không còn lo âu thất vọng, nhưng phấn khởi vui mừng vì một ngày kia cũng được thông phần vinh quang với Ngài.

Kitô hữu ngày nay cũng được đón nhận Thánh Thần và được Ngài cho biết về tội lỗi, về sự công chính, về án phạt. Tuy nhiên hiểu biết mà thôi chưa đủ, mà còn phải hành động nữa. Chính hành động đã dẫn họ đến miền đất của công chính hay án phạt 3000 người Do thái trở lại vào dịp lễ Ngũ tuần không phải là những người vô tội. Trong nhóm họ, nhiều người đã kết án Chúa Giêsu, nhưng không vì thế mà bây giờ họ không còn lối thoát. Thánh Thần đã mở lối cho họ hiểu biết, Ngài cũng vạch đường cho họ bước theo.

Như người Do thái, nhiều lần chúng ta đã nhiệt tâm hành động và cứ tưởng như thế là tôn vinh Thiên Chía. Chỉ khi đối diện với Thần Chân Lý, chúng ta mới nhận ra điều sai lầm của chúng ta. Xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta luôn đi trong chính lộ và mau mắn chỗi dậy mỗi khi chúng ta lầm lỗi.

---------------------------------   

 

Suy niệm 4: Sứ mạng của Chúa Thánh Thần


Các nhà tu đức thường đưa ra lời mời gọi đến mỗi người tín hữu là: mỗi tối, hãy dành ra ít phút, lắng đọng trước nhan Thiên Chúa để hồi tâm. Tại sao vậy? Thưa, hồi tâm là một phương pháp rất có ích cho đời sống thiêng liêng, nó giúp cho đương sự nhớ lại những điều tốt – xấu đã làm trong ngày. Tốt thì phát huy, xấu thì loại trừ. Các thánh là những người đã đi theo con đường này.

Hôm nay, Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ ra đi, nhưng Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến để làm chứng cho Ngài, và Chúa Thánh Thần sẽ đến để thực thi sứ vụ là tố cáo thế gian vì đã không tin nhận Đức Giêsu. Người cũng tố cáo những điều sai lỗi mà thế gian đã làm.


Nói cách khác, Người đến làm cho Lời của Đức Giêsu được bừng sáng lên, đồng thời cũng làm cho sự xấu xa, tội lỗi bị lên án.

Ngày nay, qua tiếng nói Lương Tâm và nơi các dấu chỉ, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và thúc dục mỗi người biết làm lành, lánh dữ. Tuy nhiên, vì còn mang nặng tính tự kiêu, ích kỷ và bảo thủ, nên nhiều khi chúng ta đã bỏ qua tiếng nói của Lương Tâm, không đón nhận Chúa Thánh Thần vì lý do sợ Chân lý, sợ Sự Thật. Như thế, đôi khi vẫn cứ đi sai đường trệch lối mà không biết, nhưng cũng không thiếu những lúc ta cố tình không chịu biến đổi, dẫu biết điều đó là không đúng, là sai.

Vì thế, việc hồi tâm là điều cần thiết. Bởi lẽ, trong thinh lặng nội tâm, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết được đâu là điều tốt nên làm và đâu là điều xấu cần tránh.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy chiếu soi ngọn lửa Chân Lý vào trong tâm hồn chúng con, để chúng con cam đảm quay lưng lại với điều xấu. Xin cũng giúp sức cho chúng con biết can đảm, yêu mến, lựa chọn những điều tốt và làm theo. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy niệm 5: Ðấng Phù Trợ sẽ đến


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa  Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ sẽ giúp các môn đệ tin vào Chúa Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến để cứu độ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường nói: xa mặt cách lòng, thân xác xa nhau thì tâm hồn cũng xa nhau. Tuy nhiên nhiều lúc chúng con thấy thân xác sống bên nhau mà lòng dạ vẫn xa cách nhau, và ngược lại chính lúc thân xác xa cách nhau thì tâm hồn lại cảm thấy gần gũi và quí mến nhau hơn. Khi cha mẹ còn đang sống, con cái thường hất hủi thờ ơ, nhưng khi cha mẹ qua đi rồi, con cái mới thấy cần và quý mến cha mẹ hơn.

Lạy Chúa, nhờ kinh nghiệm ấy, con hiểu được Lời Chúa nói: Chúa ra đi thì có lợi hơn. Khi  Chúa còn sống trong thân xác, người Do Thái vẫn thường chống đối Chúa, và ngay cả môn đệ vẫn chẳng tin vào Chúa. Nhưng sau khi Chúa chịu chết, nhờ Chúa Thánh Thần hiện diện và tác động, các môn đệ tin vào Chúa hơn, và người Do thái theo Chúa nhiều hơn.

Ngày nay đôi mắt con chẳng còn được thấy Chúa, nhưng Chúa vẫn ở gần con, Chúa Thánh Thần vẫn ở bên con và lôi kéo lòng con lại gần Chúa. Con xin Chúa ban Chúa Thánh Thần cho con như lời Chúa đã hứa để Người yên ủi dạy dỗ con. Con hứa sẽ để lòng con gần Chúa bằng cách siêng năng cầu nguyện hằng ngày.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin soi sáng tâm hồn và đốt lửa yêu mến trong trái tim  con. Xin Chúa giúp con ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn. Xin Chúa bênh vực, bảo vệ con trước sức tấn công của quỷ dữ hằng muốn lôi kéo con xa Chúa Giêsu và chống lại Người. Giữa một thế giới đang muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, xin Chúa giúp con luôn trung thành với Chúa Giêsu. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không đến với các con”.

---------------------------------

 

Suy niệm 6: Sống nhờ Thần Khí


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Khi Nansen lần đầu tiên thám hiểm Bắc Cực, ông đem theo một con chim bồ câu khỏe mạnh, có đôi cánh dài. Sau hai năm làm việc giữa băng tuyết, ông viết một lá thư, buộc vào chân chim và thả nó ra. Con chim chao liệng mấy vòng rồi bay thẳng về phương Nam, vượt hàng ngàn dặm giữa đại dương và cuối cùng đến bên đầu giường vợ của nhà thám hiểm. Nhờ đó, bà biết được chồng mình vẫn bình an.

 Thánh Linh cũng tựa như chim bồ câu, một loại bồ câu thần thiêng, báo cho ta biết Chúa Kitô vẫn đang sống và hành động giữa thế giới này.

Suy niệm

Ðức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể thực hiện chương trình tình yêu của Thiên Chúa đem ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài tiếp tục mạc khải cho các đồ đệ về Chúa Thánh Thần và vai trò của Người trong chương trình cứu độ.

Đức Giêsu nhấn mạnh Ðấng Phù Trợ ở lại (menei) với các môn đệ (Ga 14,17; 16,8) như Ngài đã ở lại (emeinen) trên Đức Giêsu (Ga 1,32). Ngài là Đấng Phù Trợ ở giữa các môn đệ để thay thế sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Sự hiện diện của Ngài bảo đảm cho họ sẽ không mồ côi (Ga 14,15-18; 16,7-8). Các môn đệ tin vào Chúa Giêsu, nên được đón nhận Ngài (Ga 7,39; 14,12-14). Còn thế gian không thể nhận lấy Đấng Phù Trợ vì họ không tin vào Chúa Giêsu. Khi Thần Chân Lý đến, thế gian sẽ bị hạch hỏi về sự cứng lòng đó.

Chúa Thánh Thần biến đổi và hướng dẫn các môn đệ đến chân lý vẹn toàn (x. Ga 16,13), và dẫn dắt các ông đi trong con đường thần thiêng của đức tin, để rồi ra đi làm chứng cho Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu ra đi để làm lợi cho chúng ta – Thần Chân Lý đến…

Kể từ khi khai sinh trong Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần, Giáo hội của Đức Kitô luôn đứng vững và phát triển dưới sự hướng dẫn, tác động của Chúa Thánh Thần như lời Chúa Giêsu truyền: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Chúa Thánh Thần soi sáng trí lòng, sưởi ấm tâm hồn, thúc giục chúng ta làm điều lành, tránh điều xấu, điều dữ như thánh Phaolô nhấn mạnh: “Hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6). Ngay khi được rửa tội, Thánh Thần triển khai các hành động của Người như một hạt giống nhỏ bé trong tim chúng ta. Hạt giống ấy sẽ lớn lên dần dần trong âm thầm thinh lặng, nhưng chắc chắn sẽ kết quả. Thánh Thomas tiến sĩ nhấn mạnh rằng: “Chúa Thánh Thần được trao ban đến để cư ngụ trong chúng ta và làm cho chúng ta nên mới”.

Xin ngự đến, lạy Thánh Thần sáng tạo,
Ðến viếng thăm và tuôn đổ ơn trời
Xuống cõi lòng và tâm trí bề tôi
Là sản phẩm do tay Ngài mà có.
(Thánh Thi Kinh Chiều I Lễ Hiện Xuống)
Xin Thần Khí ở cùng chúng ta luôn mãi...

“Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25).

Ý lực sống:

“Ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14).

---------------------------------

 

Suy niệm 7: Chúa Thánh Thần sẽ đến


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đang lúc buồn sầu, rồi nghĩ đến giây phút Thầy trò chia ly, lại nghe nói đến những sự bách hại  mai ngày, các Tông đồ thêm chán nản. Đức Giêsu thương hại, nhìn các ông và hứa sẽ sai Thánh Thần đến ủng hộ các ông. Vì Đức Giêsu về trời là điều kiện phải có để Thánh Thần đến. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giêsu loan báo về việc Chúa Thánh Thần đến ở với các Tông đồ để an ủi, soi sáng và ban thần lực cho các ông.

2. Về phương diện tự nhiên, “đi là chết trong lòng một ít” (Xuân Diệu). Cuộc ra đi nào ít nhiều  cũng thế cả, buồn cho người ở cũng như người đi. Nhưng nếu sự ra đi ấy có ích và nhất là cần thiết thì Đức Giêsu khuyên chúng ta chấp nhận sự ra đi đó. Đàng khác, có sống thì phải có chết, có đoàn tụ có ngày cũng chia ly, đó là qui luật của cuộc sống, chính  Đức Giêsu cũng nếm cảm và kinh qua qui luật đó. Nhưng Chúa chết là để sống lại, ra đi là để đoàn tụ: “Thầy về cùng Cha, “Để Thầy ở đâu các con sẽ ở đó với Thầy”.

Hơn nữa, Ngài còn nói với các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con, vì nếu Thầy không ra đi  thì Đấng Bảo Trợ không đến với các con”, Đấng Bảo Trợ Chúa nói đây là Chúa Thành Thần. Chúa Thánh Thần đến soi sáng, trợ giúp và thúc đẩy các Tông đồ minh chứng về Đức Giêsu và tiếp tục sứ mạng của Ngài.

3. Động từ “ra đi” trong bản văn Tin Mừng được nhắc đến nhiều lần, nhưng mang hai ý nghĩa khác nhau. Trước hết, “ra đi” là đi về cùng Chúa Cha; thứ đến, “ra đi” là không còn ở với các môn đệ một cách thể lý nữa. Có “ra đi” thì có trở về. Thầy Giêsu, sau cuộc Khổ nạn và Phục sinh, sẽ đến với các môn đệ nhưng đó là sự hiện diện mới mẻ, thiêng liêng hơn và cũng thân mật hơn, thâm sâu hơn. Thầy sẽ gửi Thánh Thần đến dạy dỗ các môn đệ, cho các ông biết rằng từ nay Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đến, ngự trị nơi tâm hồn con người. Thánh Thần cũng sẽ đến làm chứng về Thầy Giêsu, soi sáng cho các môn đệ hiểu được những lời Thầy mình dạy ngày nào. Rốt cùng, đặt thế gian trước sự lựa chọn hoặc tin vào Đức Giêsu để được cứu rỗi, hoặc cứng lòng ở lì trong tội lỗi (5 phút Lời Chúa).

4. Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm:

- Chúa Thánh Thần đến sẽ làm chứng về Đức Giêsu là Đấng công chính, và như vậy Người cũng chứng thực về tội lỗi của những  người từ chối và giết Đức Giêsu.

- Chúa Thánh Thần cũng dùng những dấu lạ để làm chứng về sự công chính của Đức Giêsu: là Đấng đã tử nạn, phục sinh và lên trời.

- Chúa Thánh Thần cũng làm chứng cho sự thật  là ma quỉ và tay sai sẽ bị xét xử và luận phạt, vì Thập giá của Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ.

5. Một nguyên tắc triết lý rất cơ bản là “Errare humanum est”, nghĩa là đã là người thì thế nào cũng có sai lầm. Cho nên nhận ra những sai lầm của mình là một điều cần thiết và rất hữu ích để còn có thể sửa sai, để ngày càng hoàn thiện chính mình. Từ đó lời khuyên thứ nhất của đoạn Tin Mừng này là mỗi người chúng ta hãy khiêm tốn ý thức mình không phải là hoàn hảo, mình còn nhiều sai lầm, mình cần tự nhận ra những sai lầm ấy.

Trong bài hát về Chúa Thánh Thần, có câu: “Thánh Thần khấn xin Ngài đến, hồn con đang mong chờ Ngài... Ngài ơi, xin Ngài mau đến chiếu sáng tối tăm u mê sai lầm, Ngài ơi xin Ngài mau đến hiển linh Ngài ơi”. Lời khuyên thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta phải nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng thì mới thấy rõ và đúng những sai lầm của mình.

6. Ngày nay, qua tiếng nói Lương tâm và nơi các dấu chỉ, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và thúc dục mỗi người biết làm lành lánh dữ. Tuy nhiên, vì còn mang nặng tính tự kiêu, ích kỷ và bảo thủ, nên nhiều khi chúng ta đã bỏ qua tiếng nói của Lương tâm, không đón nhận Chúa Thánh Thần vì lý do sợ Chân lý, sợ Sự thật. Như thế, đôi khi vẫn cứ đi sai đường trệch lối mà không biết, nhưng cũng không thiếu những lúc ta cố tình không chịu biến đổi, dẫu biết điều đó là không đúng, là sai.

Vì thế, việc hồi tâm là điều cần thiết. Bởi lẽ, trong thinh lặng nội tâm, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta biết được đâu là điều tốt nên làm và đâu là điều xấu nên tránh.

7. Truyện: Con hiểu làm sao được.

Chú bé bị mù từ bẩm sinh. Nhờ cuộc giải phẫu, mắt chú được trông thấy những cảnh vật chúng quanh sao mà đẹp thế. Chú liền nói với mẹ: “Sao bao lâu nay mẹ không nói cho con hay đất trời đẹp quá”. Bà mẹ bật khóc nói: “Con ạ, mẹ đã cố gắng nói cho con hay đấy chứ, nhưng lúc đó con làm sao hiểu được”!

Nếu Thánh Linh không gỡ màn che, mở con mắt tâm linh cho ta, thì ta cũng chẳng thấy sự hiện diện của Chúa (Góp nhặt).

---------------------------------

 

Suy niệm 8: Chúa Thánh Thần là Đấng tố cáo thế gian


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Tiếp theo bài giáo lý về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Đấng tố cáo thế gian.

Vì là Thần chân Lý, Chúa Thánh Thần sẽ tố cáo thế gian về tất cả những gì sai lầm của nó:

“Về tội lỗi”: người Do Thái coi Chúa Giêsu là kẻ lộng ngôn phạm thượng, Chúa Thánh Thần sẽ chứng minh Chúa Giêsu là Đấng công chính của Thiên Chúa.

“Về án phạt”: Thượng hội đồng Do Thái đã xử án chết cho Chúa Giêsu và nhiều người Do Thái cho rằng án xử ấy là đúng bởi vì được xử bởi một cơ quan có thẩm quyền. Chúa Thánh Thần sẽ chứng minh án xử đó là bất công.

Suy gẫm

1. Trong bài Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu nói Chúa Thánh Thần là Parakletos của các tông đồ và của chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết tiếp một vai trò nữa của Chúa Thánh Thần: Ngài là “kẻ chứng minh thế gian sai lầm,” nghĩa là vạch cho con người thấy những sai lầm của mình.

Chúa Thánh Thần sẽ vạch cho thấy 3 thứ sai lầm:

Sai lầm thứ nhất là “về tội lỗi”: đối với người Do Thái xưa, đó là tội đã không tin Chúa Giêsu, còn đối với chúng ta ngày nay, chúng ta đã tin Chúa nhưng nhiều khi chúng ta không sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Mỗi người đều có tội, đều có nhiều tội, nhưng lắm khi tự mình không thấy tội mình, do đó cần phải có người vạch ra cho ta thấy, người đó là Chúa Thánh Thần.

Sai lầm thứ hai là “về sự công chính”: Đối với người Do Thái, họ đã không nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng công chính nên đã giết Ngài. Đối với chúng ta ngày nay, đây là thứ sai lầm khi nhận định về Chúa. Rất nhiều khi chúng ta nhận định sai về Chúa: bóp méo hình ảnh của Chúa theo sở thích chủ quan của mình. Thí dụ:

- Kẻ cố chấp miệt mài trong tội thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng nhân hậu vô cùng;

- Kẻ khắt khe hay lên án người khác thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng công minh nhất định sẽ trừng phạt người tội lỗi;

- Kẻ đang dan díu trong tình yêu ngang trái thì cái phao của họ là “Thiên Chúa là tình yêu” để tự an ủi: Yêu nhau thì có tội gì đâu…

Sai lầm thứ 3 là “về việc xét xử”: ngày xưa Thượng hội đồng Do Thái đã xử án chết cho Chúa Giêsu và nhiều người Do Thái cũng cho rằng án ấy là đúng bởi vì được xử bởi một cơ quan có thẩm quyền. Đây là một thứ sai lầm do dự và do dư luận. Chúng ta ngày nay nhiều khi cũng dựa vào dư luận để có thành kiến không đúng về người khác.

2. Một nguyên tắc triết lý cơ bản là “Errare humanum est” nghĩa là đã là người thì thế nào cũng có sai lầm. Cho nên nhận ra những sai lầm của mình là một điều cần thiết và rất hữu ích để còn có thể sửa sai, để ngày càng hoàn thiện chính mình. Từ đó lời khuyên thứ nhất của đoạn Tin Mừng này là mỗi người chúng ta hãy khiêm tốn ý thức mình không phải là hoàn hảo, mình còn nhiều sai lầm, mình cần tự nhận ra những sai lầm ấy.

Trong bài hát về Chúa Thánh Thần có câu: “Thánh Thần khấn xin ngự đến, hồn con đang mong chờ Ngài… Ngài ơi xin Ngài hãy đến chiếu sáng thế gian u mê sai lầm, Ngài ơi mau đến hiển linh Ngài ơi.” Lời khuyên thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta phải nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng thì mới thấy rõ và đúng cái sai lầm của mình.

3. Chú bé bị mù từ bẩm sinh. Nhờ cuộc giải phẫu, mắt chú dần dần sáng ra. Ngày nọ, mẹ dẫn chú ra đường và mở mắt che, chú say sưa ngắm nhìn trời đất. Chú kêu lên: “Mẹ ơi, sao bao lâu nay mẹ không nói cho con hay đất trời đẹp như thế này.” Bà mẹ bật khóc nói: “Con ạ! Mẹ đã cố gắng nói cho con hay đấy chứ, nhưng lúc đó con làm sao hiểu được.”

Nếu Thánh Linh không gỡ màn che, mở con mắt tâm linh cho ta, thì ta cũng chẳng thấy sự hiện diện của Chúa.

---------------------------------

 

Suy niệm 9: Chúa Thánh Thần là Đấng chứng minh thế gian sai lầm


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Trong bài Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu nói Chúa Thánh Thần là Parakletos (Đấng Bào chữa) của các tông đồ và của chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết thêm một vai trò khác nữa của Chúa Thánh Thần: Ngài là “kẻ chứng minh thế gian sai lầm”, nghĩa là vạch cho con người thấy những sai lầm của mình.

Chúa Thánh Thần sẽ vạch cho ta thấy 3 thứ sai lầm:

- Sai lầm thứ nhất là “về tội lỗi”: Với người Do Thái xưa là tội đã không tin Chúa Giêsu, với chúng ta ngày nay, là tin nhưng không sống xứng đáng với niềm tin của mình.

- Sai lầm thứ hai là “về sự công chính”:

Với người Do Thái xưa là tội không nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng công chính nên đã giết Ngài. Với chúng ta ngày nay, là nhiều khi chúng ta có những ý nghĩ sai về Chúa, bóp méo hình ảnh của Chúa theo sở thích chủ quan của mình. Thí dụ kẻ cố chấp miệt mài trong tội thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng nhân hậu vô cùng; kẻ khắt khe hay lên án người khác thì dựa vào quan niệm Thiên Chúa là Đấng công minh nhất định sẽ trừng phạt người tội lỗi; kẻ đang dan díu trong tình yêu ngang trái thì cái phao của họ là “Thiên Chúa là tình yêu” để tự an ủi: Yêu nhau thì có tội gì đâu…

- Sai lầm thứ 3 là “về việc xét xử”: xưa thượng hội đồng Do Thái lên án xử tử Chúa và nhiều người Do Thái cũng cho rằng, án ấy là đúng bởi vì được xử bởi một cơ quan có thẩm quyền. Đây là một thứ sai lầm dựa vào dư luận. Còn chúng ta ngày nay là nhiều khi chúng ta dựa vào những dư luận sai lầm để có thành kiến không đúng về người khác.

2. Cái nguy của ngày xưa cũng như ngày nay là nhiều người không nhận ra được những sai lầm của mình.

Trong những câu chuyện của người Da Đỏ xưa tại Châu Mỹ người ta còn giữ lại câu chuyện này.

Có một anh nông dân chất phác nọ, ngày kia lượm được quả trứng chim phượng hoàng. Lòng tốt thôi thúc anh đi tìm tổ chim phượng hoàng để trả lại. Không tìm được, anh đem trứng đó đặt vào ổ vịt. Vịt nở trứng và trứng phượng hoàng cũng nở. Phượng hoàng con sống giữa đàn vịt, lặn lội trong nước, ăn uống, đi đứng, kêu cạp cạp... tất cả đều giống như bao con vịt chung quanh.

Phượng hoàng con không bao giờ đặt vấn đề mình là ai. Nó cứ nghĩ, mình là vịt như bao con vịt khác và hành động giống như vịt vậy. Ngày này qua ngày khác, phượng hoàng con sống kiếp vịt! Nhưng một ngày kia, trong một lần đi ăn chung với các bạn, phượng hoàng con bỗng nhìn lên trời và thấy một phượng hoàng nghiêng cánh bay lượn qua lại... Phượng hoàng ở dưới đất bỗng cảm thấy mình như muốn bay lên cao, bay nghiêng như vậy. Nhưng khi nó vừa vỗ cánh muốn bay lên cao thì mấy con vịt đứng bên cạnh mắng nó rằng:


- Đừng làm kiểu muốn bắt chước kẻ khác. Mày chỉ là một con vịt mà thôi, không thể bay cao như con phượng hoàng đang bay lượn trên kia được đâu.

Thế là con phượng hoàng lạc loài sống và chết trong xác tín sai lầm: “Mình chỉ là con vịt”

Thái độ của chúng ta đối với chính mình nhiều khi cũng như thế. Mình sai nhưng không biết là mình sai, không thấy được cái sai lầm của mình.

3. Và còn có một thái độ nguy hiểm hơn nữa đó là nhiều khi đã được soi sáng để nhận ra những sai lầm của mình nhưng lại không dám đối mặt với chúng và không dám can đảm sửa lại.

Nhà hiền triết Mạnh Tử sang nước Tề. Một hôm nhân cuộc nói chuyện thân tình, ngài đánh bạo hỏi vua Tề Tuyên Vương mấy câu:

- Giả sử có người bầy tôi nhà vua đem đời sống của vợ con gửi gắm một người bạn thân, nhờ trông nom giúp để sang chơi nước Sở có việc. Tới khi về mới hay bạn để vợ con mình đói rét, người ấy phải xử trí thế nào?

Tuyên Vương đáp:

-Tuyệt giao ngay.

Mạnh Tử lại hỏi:

- Giả sử có người làm quan sĩ sư (coi việc hình ngục) không chăm nom mỗi thuộc viên để hình ngục sai lầm, công việc lộn xộn, nhà vua xử sao?

- Đuổi cổ đi!

Mạnh Tử luôn dịp hỏi thêm một câu nữa:

- Thế làm vua một nước mà không lo việc triều chính để đến nỗi ở trong nước không bình trị thì trách nhiệm về ai và nên xử ra sao?

Tề Tuyên Vương nghe nói, ngoảnh ngay sang tả hữu, nói lảng qua việc khác, vừa có ý chữa thẹn, vừa tránh không trả lời.

Giả như Chúa hỏi chúng ta “Thế làm cha… làm mẹ một gia đình mà không lo cho gia đình để đến nỗi gia đình không còn giữ được thế giá gia phong, không còn giữ được phẩm chất đạo đức của gia đình nữa thì trách nhiệm về ai và nên xử ra sao?

Lạy Chúa, trong cuộc đời đã có nhiều lần Chúa soi sáng cho chúng con nhưng chúng con cũng giả điếc làm ngơ như thế. Xin Chúa tha thứ cho chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 10: Thầy đi là có lợi cho chúng con


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa về với Chúa Cha là Đấng đã sai Chúa xuống trần gian. Chúa về nơi Chúa phát xuất ra. Khi Chúa nói ra đều này, các tông đồ buồn lắm, vì các ngài sắp chia tay với Thầy chí thánh quyền năng trong lời nói việc làm của các ngài: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Bây giờ Thầy về với Ðấng đã sai Thầy, mà các con không ai hỏi Thầy: Thầy đi đâu? Nhưng vì Thầy đã nói với các con điều đó, nên lòng các con tràn ngập u sầu” (Ga 16, 5 – 6). Nhất nữa, qua ba năm sống với Chúa, theo Chúa, gắn bó với Chúa như cá nước nước thì làm sao sống được nếu không có Chúa đây? Chúa đi rồi thì tương lai của các ngài sẽ như thế nào, ai là chỗ dựa tiếp theo cho các ngài dường như là sứ mạng của Chúa vẫn còn dang dở? Lại nữa, Chúa về cùng Chúa Cha, là Chúa về với sự công chính, và các con không thấy Thầy (Ga 16, 10), Chúa đạt đến tầm vóc của sự viên mãn, của sự thánh thiện vô cùng, tốt lành vô cùng, đang khi đó các ngài còn bất toàn tội lỗi, chưa đâu vào đâu cả, nên sao mà không u sầu buồn bã được: “Chúa hỏi: Việc gì thế? Các ông thưa: Sự việc liên can đến ông Giê-su quê thành Na-da-rét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Ít-ra-en” (Lc 24, 19 – 20).

Dầu Chúa biết các tông đồ buồn bã như vậy đó, Chúa vẫn nói, vì khi Chúa nói ra tuy các ngài có buồn trước mắt, nhưng rất có lợi cho tương lai, vì rằng Chúa nói: “Dầu vậy Thầy phải nói sự thật cho các con: Thầy đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thầy không đi, thì Ðấng Phù Trợ sẽ không đến với các con, nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Người đến với các con” (Ga 16, 7). Như thế, khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài tiếp tục sứ mạng của Chúa, các tông đồ hãy yên lòng mà cộng tác với Ngài.

Sứ mạng của Chúa Thánh Thần là làm cho mọi người nên công chính, sống thánh thiện, nếu con người trần gian chúng ta phải biết hết lòng cộng tác với Ngài để thực hiện lời Chúa dạy. Còn nếu từ chối, không cộng tác với Chúa Thánh Thần thì chính sự từ chối của con người chúng ta sẽ tố cáo tội lỗi chai lì ngang bướng của chúng ta, tố cáo tội không tin vào Chúa, tố cáo những hành vi đen tối, ám muội, tố cáo họ không biết khổ chế mà chỉ biết nuông chiều thân xác quá đáng, để cho dục vọng thống trị chứ không dùng lời Chúa dạy để cưỡng lại… Và cuối cùng là bị xét xử, nhận án phạt để rồi không một ai có thể bênh vực được cho con người chúng ta: “Khi Người đến,Người sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử” (Ga 16, 8 – 11).

Như vậy, Chúa Thánh Thần không gì khác hơn là dùng lời mà chính Chúa đã dạy để làm biến đổi con người chúng ta thành con người mới của Chúa, sống theo ơn phục sinh mà Chúa đã ban. Đồng thời, ngài cũng giúp chúng ta làm đẹp trần gian này, cuộc sống này để trần gian đây, cuộc sống đây trở thành trời mới đất mới, nơi Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.

Lạy Chúa phục sinh của chúng con, Đấng ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, xin Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba tình yêu của Chúa thương ban ơn giúp chúng con thực hiện lời Chúa dạy là chúng con hãy sống yêu thương nhau để mọi người biết chúng con là môn đệ của Chúa, nhờ đó mà chúng con loan truyền Chúa một cách dễ dàng thuận lợi hơn, và anh chị em của chúng con dễ tin vào Chúa hơn. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 11: Đấng bảo trợ sẽ đến


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 6 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua, Chúa đã làm cho tâm hồn chúng ta được tươi trẻ lại, và chan chứa niềm vui vì được làm con Chúa, xin Chúa cho chúng ta hằng giữ mãi niềm vui Chúa ban, và nắm chắc hy vọng được phục sinh vinh hiển.

Nắm chắc hy vọng được phục sinh vinh hiển, khi thực thi thánh ý Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ nhất của thánh Gioan nói về: Thực hiện thánh ý Thiên Chúa, biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu và thi hành những điều Người muốn thì tồn tại mãi mãi. Thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi. Kẻ nào yêu thế gian, thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha.

Nắm chắc hy vọng được phục sinh vinh hiển, khi hiệp nhất nên một trong Đức Kitô, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Syrilô Alêxanria nói: Đức Kitô là mối dây hợp nhất… Chỉ có một tấm bánh, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể. Tất cả chúng ta cùng nhau chia sẻ một tấm bánh và một chén rượu. Lạy Thiên Chúa, Ngài nhân hậu đối với kẻ khó nghèo, kẻ cô thân, Ngài ban cho nhà cửa.

Nắm chắc hy vọng được phục sinh vinh hiển, khi hết lòng tin tưởng Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 137, vịnh gia kêu xin: Lạy Chúa, Ngài ra tay uy quyền giải thoát con. Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy sẽ sai Thần Khí sự thật đến với anh em; Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em. Đức Kitô ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ đến, và Người sẽ dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là: Đức Kitô là mối dây hợp nhất, tất cả chúng ta được kết hợp với thân thể Đức Kitô nhờ thông phần Mình Thánh Người, nhờ mầu nhiệm này, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Dothái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa. Chúng ta vì đã nhận được cùng một Thần Khí, nên, tất cả chúng ta cũng được hòa nhập với nhau và với Thiên Chúa. Quả thế, dù chúng ta là nhiều cá thể, và dù Đức Kitô có cho Thần Khí của Chúa Cha và của Người ngự trong mỗi chúng ta, nhưng, cũng chỉ có một Thần Khí duy nhất và bất khả phân chia. Thần Khí ấy thu lại thành một: những con người tách biệt, riêng rẽ, và làm cho tất cả kết thành một thực thể duy nhất trong Người. Cũng như, Mình Thánh ngự trong những ai, thì quyền năng của Mình Thánh, làm cho những người ấy, trở nên một thân thể, nên, khi Thần Khí duy nhất và bất khả phân chia của Thiên Chúa, ngự trong mọi người, thì, cũng làm cho mọi người được nên một theo Thần Khí. Vì Thần Khí duy nhất, lưu lại trong chúng ta, nên, Thiên Chúa duy nhất là Cha của mọi người sẽ ở trong chúng ta; Người sẽ nhờ Con của Người, mà dẫn đưa mọi loài thông phần Thần Khí, đến chỗ hợp nhất với nhau và với Người. Nếu chúng ta vứt bỏ lối sống theo xác thịt, mà vâng theo luật của Thần Khí, thì, chúng ta đã được biến đổi sang bản tính khác, mà trở nên đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa. Bởi đấy, chúng ta không chỉ là người trần gian, mà còn, được gọi là con Thiên Chúa và là người thiên giới nữa, vì chúng ta đã được thông phần bản tính Thiên Chúa. Nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua, Chúa đã làm cho tâm hồn chúng ta được tươi trẻ lại, và chan chứa niềm vui vì được làm con Chúa, ước gì chúng ta hằng giữ mãi niềm vui Chúa ban, và nắm chắc hy vọng được phục sinh vinh hiển. Ước gì được như thế!

---------------------------------

 

Thứ 4 PS –Tuần 6/2025

Cảm nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục sinh.
28/05 – Thứ Tư tuần 6 Phục Sinh.
“Thần Chân lý sẽ dạy các con biết tất cả sự thật”.

 

Lời Chúa: Ga 16, 12-15


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được.
Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.
Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: “Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Toàn bộ sự thật


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em,
nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.”
Ðức Giêsu khi sắp về với Cha,
đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ.
Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói,
nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố hiểu.
Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần...
Ðức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở.
Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất:
Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều (Ga 14,26).
Ngài cũng chẳng phải là Ðấng Bảo Trợ duy nhất
vì còn một Ðấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài (x. Ga 14,16).
Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật,
sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người.
Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt
các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật.
Vì lợi ích của họ, Ðức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7),
để nhường chỗ cho Ðấng Cha và Ngài sai đến.
Ðức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng
là đưa con người đến với Cha và Con là Ðức Giêsu.
Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình,
nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Ðức Giêsu.
Cha cũng chẳng tim mình.
Cha chẳng giữ gì làm của riêng.
“Mọi sự Cha có đều là của Thầy” (c.15)
Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con.
Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha.
Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,
Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi,
chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng.
Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia.
Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ
Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình,
và sống trong hạnh phúc viên mãn.
Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương,
nhưng thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín.
Thế giới ấy vươn ra ngoài mình,
để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công trình sáng tạo.
Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người.
Con yêu loài người đến độ dám sống và chết cho họ.
Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để ủi an nâng đỡ.
Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người.
Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại
đi vào thế giới thần linh của mình,
để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con.
Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ.
Chúng ta tự hỏi mình có sẵn sàng mở ra
để Chúa đi vào thế giới của mình
và để mình đi vào thế giới của Chúa không?
 
Cầu nguyện:

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy niệm 2: Sự thật toàn vẹn


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su không thể nói hết. Vì quá sức chịu đựng của các tông đồ. Các ngài không thể nhớ hết. Và càng không thể hiểu nổi. Nhưng Thần Chân Lý sẽ đến và sẽ dẫn các ngài đến chân lý vẹn toàn.

Tiếng nói của Chúa Thánh Thần là tiếng nói thiêng liêng trong tâm hồn. Ai lắng nghe sẽ thấu hiểu những chân lý cao siêu. Và sự thật toàn vẹn sẽ vô cùng phong phú.

Chúa Giê-su là Ngôi Lời. Nên từ cử chỉ, lời nói, hành động, và toàn bộ cuộc sống, cái chết, phục sinh của Người đều là lời, là chân lý vô cùng phong phú, sâu xa. Thánh Gio-an chỉ sống sau các tông đồ khác khoảng gần 30 năm, nhưng Tin mừng Gio-an đã vô cùng sâu sắc và phong phú. Thánh nhân cho biết ngài chỉ viết ra những điều giúp người ta tin thôi. Nếu phải viết hết mọi điều thì thế gian không đủ chỗ chứa.

Thánh Thần sẽ dẫn ta đến chân lý vẹn toàn. Thánh Phao-lô có thể hiểu điều đó xuyên qua thất bại hôm nay. Đến A-the-na là thủ đô của sự khôn ngoan, Phao-lô đã vận dụng trí thông minh, sự khôn ngoan của người Hi lạp và kiến thức quảng bác của ngài về văn chương triết học Hi lạp để thuyết phục Hội đồng A-re-o-pa-go. Nhưng ngài đã thất bại. Bẽ bàng, ngài bỏ A-the-na đi Co-rin-tô.

Tại Co-rin-tô, ngài đã nhận ra không thể dùng sự khôn ngoan của người đời, nhưng phải dùng sự điên rồ của thánh giá: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa.… nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm….Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí (1Cr 2, 1-13).

Lạy Chúa xin ban Thánh Thần cho chúng con, để chúng con biết sự thật toàn vẹn của Chúa.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 3: Cảm nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục sinh


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong một tập truyện ngắn, nhà văn Hy lạp Nikos Kazanzakis có kể lại cuộc gặp gỡ giữa một linh mục Chính thống tên là Manassê và một ẩn sĩ. Hai vị đàm đạo với nhau suốt ngày mà câu chuyện vẫn không chấm dứt. Vị ẩn sĩ có thói quen nhắm nghiền đôi mắt trong khi nói chuyện. Thấy thế linh mục Manassê liền đề nghị ông hãy mở mắt ra, có mở mắt, ông mới thấy những kỳ công của Chúa. Nghe thế, vị ẩn sĩ trả lời: “Nhưng tôi nhắm mắt lại là để thấy Đấng đã thực hiện những kỳ công ấy”.

Chỉ với đôi mắt đức tin, con người mới cảm nhận và nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ trong Tin mừng hôm nay, được trích từ những lời giã biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trong Bữa Tiệc ly trước khi Ngài đi vào cuộc tử nạn. Chúa Giêsu xem cuộc tử nạn của Ngài như một cuộc ra đi trở về cùng Chúa Cha, vì sứ mệnh của Ngài đã hoàn tất. Nhưng sự ra đi của Ngài không phải là một vĩnh viễn từ giã cõi đời, mà là một hiện diện mới, và Thánh Thần chính là Đấng sẽ làm chứng về sự hiện diện mới ấy của Chúa Giêsu.

Chỉ trong Thánh Thần, nghĩa là trong đức tin, con người mới cảm nhận được sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu, chỉ trong Thánh Thần, con người mới hiểu biết về Chúa Giêsu. Đó là cảm nghiệm mà các môn đệ Chúa Giêsu có thể có được từ sau lễ Ngũ tuần. Trước đó, Chúa Giêsu phục sinh đã nhiều lần hiện ra cho các ông, nhưng sự hiểu biết của các ông về mầu nhiệm của Ngài vẫn còn bị giới hạn. Chỉ sau khi Thánh Thần hiện xuống, các môn đệ mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh và chân lý của Ngài mới sáng tỏ trong tâm hồn các ông. Chúa Giêsu đã khẳng định vai trò giáo dục của Thánh Thần khi Ngài nói với các môn đệ: “Khi Thần Chân lý đến, Ngài sẽ đưa các con vào tất cả sự thật”.

Chúa Giêsu là Lời trọn vẹn của Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa đã nói với nhân loại qua người Con Một của Ngài, nhưng lời ấy con người chỉ có thể đón nhận và lãnh hội trong và nhờ Thánh Thần mà thôi. 2.000 năm qua, Thánh Thần đã không ngừng hướng dẫn và soi sáng để Giáo Hội đào sâu giáo huấn của Chúa Giêsu. Cũng chính Thánh Thần ấy qua phép rửa ban cho mỗi kitô hữu ơn hiểu biết về chân lý cứu rỗi và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh.

Thánh Phaolô, tuy chưa từng được sống với Chúa Giêsu, nhưng nhờ Thánh Thần đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đấng Phục sinh, đến nỗi đã thốt lên: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. Chính do Thánh Thần tác động, con người mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh, cho nên thánh Phaolô khuyên chúng ta đừng dập tắt Thánh Thần. Đừng dập tắt Thánh Thần có nghĩa là luôn biết lắng nghe tiếng nói của Ngài trong đáy thẳm tâm hồn chúng ta. Là đền thờ của Thánh Thần, cho nên từ trong tâm hồn, chúng ta luôn nghe đuợc tiếng nói của Ngài. Đừng dập tắt Thánh Thần có nghĩa là luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận sự hiện diện và tác động của Ngài trong mọi biến cố cuộc sống. Điều đó cũng có nghĩa là luôn nhìn vào cuộc sống bằng cái nhìn của lạc quan, tin yêu và hy vọng.

Nguyện xin Thánh Thần ban cho chúng ta một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương và hy vọng, để cuộc sống chúng ta trở thành dấu chứng cho sự hiện diện của Đấng Phục sinh.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 4: Đấng Mặc Khải


Đức Giêsu Kitô, khi tiếp xúc với các tông đồ đã biết rõ sự yếu đuối của con người và sự khó hiểu của loài người về mặc khải của Thiên Chúa. Vì thế, ngày hôm nay, Đức Giêsu loan báo cho chúng ta về Tin mừng này là “Thánh Thần sẽ đến dẫn đưa anh em đến sự thật toàn vẹn … Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.

Đức Giêsu đã hứa với chúng ta rằng chúng ta sẽ được dẫn tới sự thật toàn vẹn có phải để chúng ta biết được mọi bí mật trong vũ trụ? Có phải cho chúng ta một kiến thức bách khoa không? Có phải không có chi vượt ra ngoài sự hiểu biết của chúng ta không? Tôi không tưởng như vậy. Bài Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chiều kích khác, đó là sự thật toàn vẹn về một người. Chân lý của giáo lý Công giáo chỉ cho chúng ta biết, người đó chính là Đức Giêsu, Đấng làm chứng về Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Đức Giêsu còn làm chứng rằng đời sống của chúng ta được mời gọi đến sự sống đời đời sau cái chết. Người lấy chính bản thân mình làm chứng rằng hiến mạng sống mình cho người khác là phương thế biến đổi đời sống diệt vong này ra đời sống trường sinh bất diệt. Theo giáo lý, tin là tin vào một người chân thật, lời chứng của họ mới chân thật. Người ta không tin những nguyên lý, những mầu nhiệm, những chân lý suông. Tin là tin vào một người. Mặc khải của Thiên Chúa chính là mặc khải về một người đã hành động đầy nhân ái đối với con người.

Điều quan trọng là chúng ta gắn bó liên kết nhiều với Đấng của công thức đức tin, chứ không phải công thức tín lý làm cho có đức tin như chúng ta tưởng. Chúng ta không bao giờ tới được Đấng mà các nhà thần học chôn vùi trong hàng ngàn từ ngữ.

Trong Thánh lễ, chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa đã cho chúng ta được tới với Ngài trong đức tin, và hãy cảm tạ Ngài vì đã ban tặng Thần khí của Ngài mặc khải cho chúng ta Đấng lạ lùng này là Đức Giêsu Kitô. Người là chân lý, là sự thật. Trong người chúng ta có thể hãnh diện biết bao.

C.G

 ---------------------------------

 

Suy niệm 5: Sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn những môn đệ của Chúa Giêsu đến sự thật trọn vẹn. Chúa Giêsu dùng từ ngữ “hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn” để nói lên một trong những trách vụ của Chúa Thánh Thần. Ðây không có nghĩa là Chúa Thánh Thần mạc khải thêm cho các môn đệ Chúa Giêsu biết những sự thật mới mẻ về Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần không mạc khải thêm những điều mới. Mạc khải của Chúa Giêsu đã trọn vẹn nhưng các môn đệ chưa lãnh hội trọn vẹn hết mọi sự được, cần nhờ đến Chúa Thánh Thần để được dẫn sâu vào trong các sự thật của Chúa, để hiểu mỗi ngày một hơn mạc khải của Chúa. Ðây không phải là vấn đề về số lượng nhiều hay ít những sự thật của Chúa, nhưng là vấn đề về phẩm chất, về mức độ lãnh hội sự thật nơi các môn đệ. Các ngài cần đào sâu hơn giáo huấn của Chúa Giêsu, cần được hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn, cần hiểu sâu xa hơn về mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, nhờ qua Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu biết các môn đệ còn là những người có những giới hạn và cả những tật xấu nữa, và do đó đang cần đến sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần biết là chừng nào để có thể làm chứng cho Chúa cách đáng tin.

Chúa hứa sẽ trao ban Chúa Thánh Thần xuống khi đã về cùng Thiên Chúa Cha vừa đồng thời mời gọi các ông hãy chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận Chúa Thánh Thần. Hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi từng cá nhân của các tín hữu cũng như trong cộng đoàn Giáo Hội không đi ngược lại việc làm của Chúa Giêsu, nhưng làm cho công việc đó được đón nhận cách sâu xa hơn và như thế, có thể nói là Chúa Thánh Thần làm Chúa Giêsu Kitô được vinh hiển, được nhiều người biết đến mỗi ngày một hơn.

Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta mỗi ngày một hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, mỗi ngày một trở nên người Kitô trung thực hơn, mỗi ngày một chiến thắng nhiều hơn trên tội lỗi.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin thương ngự xuống trên chúng con và hướng dẫn chúng con trên con đường hiểu biết và yêu mến Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn.

---------------------------------

 

Suy niệm 6: Sự thật sẽ giải thoát chúng ta


Ngày nay, con người khao khát sự thật biết là chừng nào! Tuy nhiên, con người cũng rất sợ sự thật và ngại khi nghĩ hay nói về nó??

Khao khát, bởi vì chỉ có sự thật chân tình, người ta mới có thể ngồi lại với nhau, mới có thể cùng nhau giải quyết vấn đề cho tốt.

Người ta sợ sự thật, bởi vì sự thật sẽ làm cho những người ưa sống hình thức, hào nhoáng, giả tạo bị phanh phui, bóc trần.

Người ta ngại sự thật, bởi vì khi đối diện với sự thật, họ phải thay đổ lối sống và cách nghĩ.

Tuy nhiên, cái khó là: nhiều khi không biết đâu là thật, đâu là giả, nên có những sự kiện tưởng chừng như là thật thì lại là giả; đôi khi cái tưởng là giả thì hóa ra lại là thật.

Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho các môn đệ biết Chúa Thánh Thần chính là Đấng sẽ giúp cho các ông biết đâu là sự thật trong mầu nhiệm cứu độ, để các ông cứ theo sự hướng dẫn của Người mà tiến bước thì sẽ được cứu độ.

Cuộc đời của Đức Giêsu đã hoàn toàn đứng về phía sự thật, và Ngài không ngần ngại tuyên bố: “Tôi đến trong thế gian để làm chứng cho sự thật. Chính vì điều này mà tôi đã đến”. Ngài cũng kêu gọi: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Chính vì thế, từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các môn đệ, các ông mới hiểu đúng sứ mạng của Đức Giêsu là: đến để cứu chuộc chứ không phải vì chính trị!

Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, nhiều khi cũng chẳng khác gì các môn đệ khi xưa. Có những lúc chúng ta uốn nắn Lời Chúa và phỏng chiếu dưới cái nhìn thiển cận của mình. Lấy Lời Chúa làm bình phong để hỗ trợ cho sự gian dối hay những mục đích phần xác hơn là phần hồn. Những lúc như thế, ấy là lúc chúng ta không đứng về phía sự thật và không sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Mong sao, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thần thật dồi dào, phong phú. Đây là một hồng ân, và cũng là trách nhiệm đòi chúng ta phải đứng về phía sự thật, làm chứng cho sự thật, dầu có phải chết.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con can đảm lựa chọn sự thật và trung thành đi theo sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy niệm 7: Thần Chân lý dạy sự thật


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu sẽ ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội, để Chúa Thánh Thần soi sáng Giáo Hội thấu hiểu giáo huấn và sứ mạng của Chúa Giêsu. Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần sẽ làm cho chương trình cứu độ của Chúa Ba Ngôi được trọn vẹn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, để con có thể lãnh nhận trọn vẹn công cuộc cứu độ, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho con. Chúa mặc khải cho con biết Thánh Thần là Thầy dạy con, giúp con hiểu tất cả giáo huấn của Chúa và đưa con vào sự thật toàn vẹn. Nhờ Chúa Thánh Thần, con nhận ra Chúa là Thiên Chúa, và Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất với nhau.

Vì yêu thương chúng con, Chúa Cha đã trao ban Con Một là chính Chúa, và cũng vì yêu thương chúng con nên Chúa ban Thánh Thần cho chúng con. Chúng con xin cảm tạ tình thương của Chúa. Chúng con được Thiên Chúa trân trọng yêu thương, trong khi chúng con chỉ là những thụ tạo của Chúa, những thụ tạo đã hơn một lần chối từ tình yêu của Chúa.

Xin Chúa Thánh Thần giúp con ngày càng khám phá ra Chúa, thấu hiểu Chúa nhiều hơn, cảm nghiệm được tình yêu bao la thầm lặng của Chúa. Với ơn Phục Sinh giao hòa, con được Chúa ban Thánh Thần. Người luôn hiện diện trong tâm hồn và cuộc sống con. Con muốn trở nên người học trò của Chúa Thánh Thần, luôn ham thích lắng nghe và thực thi những lời Người dạy bảo, những lời của chân lý. Lời của Người âm thầm trong con, xin cho con biết lắng nghe. Và đừng để con cố tình gạt bỏ tiếng nói của Người trong linh hồn con. Amen.

Ghi nhớ: “Thần Chân lý sẽ dạy các con biết tất cả sự thật”.

---------------------------------

 

Suy niệm 8: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Tại Mamrê, dưới cây sồi, tổ phụ Abraham khi nghỉ ngơi giữa cơn nóng ngặt của mùa hè thiêu đốt đã được gặp Thiên Chúa: “Ðức Chúa hiện ra với ông Abraham tại cụm sồi Mamrê... Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất thờ lạy” (St 18,1-2). Ba người mà Abraham thờ lạy là Thiên Chúa Ba Ngôi, theo các nhà chú giải Thánh Kinh, và thái độ thờ lạy chỉ dành duy nhất cho Thiên Chúa, ông đã mời Ngài vào viếng thăm: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài” (St 18,3). Ba Ngôi đã viếng thăm “túp lều bé nhỏ của đôi vợ chồng già” và chúc lành cho Sara - người vợ son sẻ không con giữa lúc tuổi già đã xế bóng về chiều với lời hứa sang năm bà sẽ sinh con.

Lời chúc lành đó đã thành hiện thực, Sara sinh con trai là Isaac và bà đã hân hoan tuyên tín: “Thiên Chúa đã làm cho tôi cười” (St 21,6). Sara cười vui sướng sau bao năm sầu não vì sự son sẻ tủi nhục của mình, niềm vui này là kết quả từ sự viếng thăm của Thiên Chúa…

Suy niệm

Chúa Ba Ngôi đã viếng thăm tổ phụ Abraham mà Sara vợ ông đã ca tụng là trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo: Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng - Đấng tạo thành trời đất…; là Con - Đấng cứu chuộc… và Thánh Thần - Đấng Thánh hóa. Chúng ta còn xác tín tuy Ba Ngôi nhưng cùng một bản tính Thiên Chúa và chỉ có một Thiên Chúa duy nhất.

Tertullianô - một văn sĩ Công giáo nổi tiếng thời các giáo phụ đã suy gẫm về Chúa Ba Ngôi: “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần gắn bó với nhau như là nguồn suối, dòng sông và hồ” (hồ được dẫn nước từ nguồn qua sông). Lời suy gẫm về Ba Ngôi Thiên Chúa đưa tôi chìm đắm trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con” (Ga 16,15). Cách diễn tả của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tất cả từ nơi Cha như là nguồn, đều thuộc về Con như biểu tượng của dòng sông và Người lãnh nhận để ban phát là Thánh Thần ẩn dụ dưới hình ảnh hồ ân sủng ban phát nước hằng sống.

Thiên Chúa Ba Ngôi luôn hiện hữu giữa chúng ta vì: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8) như thánh Gioan đã khẳng định. Ba Ngôi đã hợp nhất trong tình yêu cho nên Ba Ngôi cũng gợi cho chúng ta đi vào tình yêu vĩnh cửu này. Thiên Chúa không ở xa chúng ta, Ngài không chỉ ở trong tín điều hay ở bầu trời xa xăm mà Ngài ở bên và trong mỗi chúng ta qua Ngôi Hai nhập thể, chính Ngôi Con biểu lộ tình yêu của Chúa Cha và cùng Cha ban phát Thánh Thần, nguồn tình yêu cho nhân loại. Ngôi Hai mời gọi chúng ta đi vào sự hiệp nhất và gắn bó với tình yêu Cha - Con “để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21).

Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Ba Ngôi, con người được mời gọi đến với tình yêu, đổi mới chính mình trong tình yêu hiệp nhất và tương trợ lẫn nhau. Tình yêu đã liên kết Ba Ngôi thành một Thiên Chúa duy nhất và tình yêu này cũng làm cho chúng ta thông hiệp với đời sống Thiên Chúa và với anh em, hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26-27). Chính vì thế, các tín hữu của cộng đoàn tiên khởi đã sống trong sự hiệp nhất tuyệt vời mà thánh Luca đã ghi nhận: “hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện.... các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến”... (Cv 2,42.44-47). Đó là hình ảnh sống động phác họa từ tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.

Mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, mỗi lần ca tụng kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính... chúng ta ý thức không chỉ tuyên xưng trên môi trên miệng mà là từ sâu thẳm của tâm hồn, chúng ta mời Ngài vào viếng thăm để nơi đó diễn ra sự hội ngộ đặc biệt như trong túp lều của Abraham: Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ làm cho chúng ta cười như Sara đã cười...

Ý lực sống:

“Lòng tin kính trước sau chẳng đổi
Chúa là Cha tuyệt đối quang vinh
Ngôi Hai Con Một hiển linh
Thánh Thần do bởi mối tình Cha Con…”

(Thánh Thi Kinh Sáng Lễ Chúa Ba Ngôi).

------------------------------

 

Suy niệm 9: Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con tất cả sự thật


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đức Giêsu đã nói trước với các Tông đồ và đồng thời cũng là lời hứa với các ông, là Ngài sẽ sai Chúa Thánh Thần, là Thần Chân lý đến để tiếp tục giảng dạy cho các ông và cho cả thế giới biết tất cả sự thật về Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy về sư phạm của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta hiểu biết, huấn luyện ta lớn lên. Điều này giúp chúng ta tin tưởng vào ơn phù trợ và ơn soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để nhờ đó chúng ta ý thức và sốt sắng hơn trong việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.

2. Đức Giêsu là mạc khải trọn vẹn về Chúa Cha. Nhưng các môn đệ Người có khả năng tiếp nhận trọn vẹn mạc khải ấy hay không là một chuyện khác. Người xác nhận rằng các ông chưa “có thể chịu nổi” sự thật toàn vẹn. Người hứa rằng Thần Khí sự thật, tức Chúa Thánh Thần, sẽ đến – nhưng không phải để trao “cú một” nguyên gói sự thật, mà là để “dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Như thế, việc khám phá sự thật là một quá trình cần phải được tiếp tục không ngừng trong sự dẫn dắt của Thánh Thần; và thái độ đứng đắn của người môn đệ Chúa Giêsu là khiêm tốn, ngoan ngoãn lắng nghe sự dẫn dắt – thường một cách rất tế nhị và từ những phía rất bất ngờ - của Chúa Thánh Thần. Thái độ hãnh thắng, tự mãn, coi mình hoàn toàn đúng và kẻ khác hoàn toàn sai... chắc chắn không phải là thái độ của một người ở trong Thần Khí sự thật (5 phút Lời Chúa).

3. Chúa Thánh Thần đến hướng dẫn những môn đệ của Đức Giêsu đến sự thật toàn vẹn. Đức Giêsu dùng từ ngữ “hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn” để nói lên một trong những trách vụ của Chúa Thánh Thần. Đây không có nghĩa là  Chúa Thánh Thần mạc khải thêm cho các môn đệ Chúa Giêsu biết  những sự thật mới mẻ về Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần không mạc khải thêm những điều mới. Mạc khải của Đức Giêsu đã trọn vẹn nhưng các môn đệ chưa lãnh hội trọn vẹn hết mọi sự được, cần nhờ đến Chúa Thánh Thần để được dẫn sâu vào trong các sự thật của Chúa, để hiểu mỗi ngày một hơn mạc khải của Chúa. Các ngài cần đào sâu hơn giáo huấn của Đức Giêsu, cần hướng dẫn đến sự thật toàn vẹn, cần hiểu sâu xa hơn về mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, nhờ qua Thánh Thần. Đức Giêsu biết các môn đệ còn là những người có những giới hạn và cả những tật xấu nữa, và do đó đang cần đến sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần biết là chừng nào để có thể làm chứng cho Chúa cách đáng tin.

4. Chỉ trong Chúa Thành Thần, nghĩa là trong đức tin, con người mới cảm nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu, chỉ trong Thánh Thần, con người mới có thể hiểu biết về Đức Giêsu. Đó là cảm nghiệm mà các môn đệ Đức Giêsu có thể có được từ sau lễ Ngũ tuần. Trước đó, Đức Giêsu phục sinh đã nhiều lần hiện ra cho các ông, nhưng sự hiểu biết của các ông về mầu nhiệm của Ngài vẫn còn bị giới hạn. Chỉ sau khi Thánh Thần hiện xuống, các môn đệ mới cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu Phục sinh và chân lý của Ngài mới sáng tỏ  trong tâm hồn các ông. Đức Giêsu đã khẳng định vai trò giáo dục của Chúa Thánh Thần khi Ngài nói với các môn đệ: “Khi Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ đưa các con vào tất cả sự thật (Mỗi ngày một tin vui).

5. Ngày nay đối với chúng ta, đời sống chúng ta luôn luôn cần đến sự giúp đỡ, hướng dẫn và giữ gìn. Ai sẽ giúp chúng ta điều đó? Thưa là Chúa Thánh Thần. Ngài không hiện diện giữa chúng ta  theo kiểu Đức Giêsu đã hiện diện giữa các Tông đồ, nhưng Ngài ở trong lòng chúng ta, để thực hiện nơi chúng ta những gì Đức Giêsu đã thực hiện nơi các Tông đồ lúc Ngài còn tại thế. Ngài soi sáng trí khôn chúng ta, Ngài sưởi ấm cõi lòng chúng ta, Ngài thúc giục chúng ta làm điều lành và tránh điều xấu.

6. Truyện: Giêsu ông là ai?

 “Giêsu, ông là ai”? Đó là câu hỏi của nhân vật Giuđa Iscariot trong tác phẩm “Giêsu, ông là ai” của nhà văn Dominico Donrio. Câu chuyện được mở ra với bầu khí chờ đợi Đấng Messia của dân Israel. Khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa, Gioan đã loan báo về Người; lúc đó, Đức Giêsu biến mất. Mọi người đổ xô đi tìm Người. Chính quyền thì lùng bắt để giết đi. Quân cách mạng thì tìm để tôn vinh. Trong khi ấy, Đức Giêsu lại âm thầm đến với cộng đoàn Esseniens, nơi Giuđa Iscariot là thủ lãnh.

Họ hiểu Ngài, đón Ngài, nhưng họ lại không thể chấp nhận Ngài, vì không chịu nổi những gì Ngài nói, cách Ngài xử thế và Giáo lý Ngài truyền dạy.

“Giêsu, Ngài là ai”? là câu hỏi của các môn đệ và của người đương thời. “Giêsu, Ngài là ai”? cũng là câu hỏi cho tôi khi đối chất với lời Ngài, nhất là khi giáo lý của Ngài đòi tôi phải lội ngược dòng.

Lạy Chúa, chỉ trong Chúa Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu và tin vào lời Chúa, một hiểu biết mang lại sức mạnh cho các ông  đón nhận mầu niệm Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Và con cũng thế, sẽ chẳng hiểu được lời Ngài dạy trong cuộc sống, nếu không có thần khí của Ngài hướng dẫn. Nguyện xin Thánh Thần Chúa tỏa trên chúng con (Epphata).

 ------------------------------

 

Suy niệm 10: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy Kitô hữu


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Phân tích

Tiếp bài giáo lý về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy Kitô hữu. Ngài sẽ dạy Kitô hữu biết sự thật, sự thật vẹn toàn.

Suy gẫm

1. “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con nhưng bây giờ chúng con không chịu nổi. Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt chúng con đến sự thật vẹn toàn.” Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dạy chúng ta biết về Chúa Thánh Thần: sau khi vạch cho chúng ta thấy những sai lầm của mình, Chúa Thánh Thần còn hướng dẫn chúng ta đến sự thật, sự thật vẹn toàn:

Xã hội chúng ta đang sống là một xã hội nhiều gian dối, ngay cả mỗi người đối với bản thân mình mà cũng thường tự dối gạt mình: mình xấu mà nghĩ mình tốt, mình sai mà nghĩ mình đúng. Tất cả những sự dối trá đều gây hại, ngược lại, sự thật thì có lợi, nhưng lời Chúa nói “Sự thật sẽ giải thoát chúng con.” Bởi thế, mỗi người chúng ta cần phải biết sự thật, nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, xin Ngài cho ta hiểu rõ hơn con người của mình như thế nào, còn những gì yếu kém cần sửa đổi.

2. Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật, không phải chỉ sự thật về bản thân mình như vừa nói trên, mà còn là sự thật toàn vẹn.

Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay “Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi.” Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh cách môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút là các môn đệ không chịu nổi nên Chúa Giêsu không nói nữa.

Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu của Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại “Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?” Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói tới chính là chén đắng.

Một lần khác Chúa Giêsu mở miệng nói mình sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết, thì Thánh Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là màu nhiệm đau khổ của Thập Giá.

Trong đêm Thứ Năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô một lần nữa không chịu nổi nên cự nự “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con.” Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ.

Tóm lại sự tật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm hạ, phải chịu đau khổ, phải chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng tất cả các lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy; và khi đó, nhờ sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu:

Một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công Vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân hiểm nguy vì loan báo Tin Mừng, Ngài nói: “Tôi sung sướng vì được thông phần khổ nạn của Đức Giêsu Kitô trong thân xác tôi.” Ngài còn nói: “Vinh dự của ta là Thập Giá Đức Kitô,” cái Thập Giá mà những người trí thức Hy Lạp nói là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.

3. “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào thần khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đên sự thật toàn vẹn.”

“Giêsu, ông là ai?” Đó là câu hỏi của nhân vật Giuđa Itcariốt trong tác phẩm “Giêsu, ông là ai?” của nhà văn Dominico Donrio. Câu chuyện được mở ra với bầu khí chờ đợi Đấng Messia của dân Ítraen. Khi Đức Giêsu đến chịu phép rửa, Gioan đã loan báo về Người, lúc đó Đức Giêsu biến mất. Mọi người đổ xô đi tìm Người. Chính quyền lùng bắt để giết đi. Quân cách mạng thì tìm để tôn vinh. Trong khi ấy Đức Giêsu lại âm thầm đến với cộng đoàn Esseniens, nơi Giuđa Itcariốt làm thủ lĩnh. Họ hiểu Ngài, đón Ngài, nhưng lại không thể chấp nhận Ngài, vì không chịu nổi những gì Ngài nói, cách Ngài sử thế và giáo lý Ngài tuyền dạy.

“Giêsu, Ngài là ai?” là câu hỏi của các môn đệ và những người đương thời. “Giêsu, Ngài là ai?” cũng là câu hỏi cho tôi khi đối chất với lời Ngài, nhất là khi giáo lý của Ngài đòi tôi phải lội ngược dòng.

Lạy Chúa, chỉ trong Chúa Thánh Thần các môn đệ mới hiểu và tin vào Ngài, một hiểu biết mang lại sức mạnh cho các ông đón nhận mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Và con cũng thế, sẽ chẳng hiểu được lời Ngài dạy trong cuộc sống, nếu không có Thần Khí của Ngài hướng dẫn. Nguyện xin Thánh Thần Chúa toả trên chúng con.

------------------------------

 

Suy niệm 11: Dẫn ta đến là sự thật toàn vẹn


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúa Giêsu tiếp tục dạy chúng ta về Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là Thầy dạy. Ngài sẽ dạy Kitô hữu biết sự thật, sự thật vẹn toàn.

“Thầy còn nhiều điều muốn nói với anh em nhưng bây giờ anh em không chịu nổi. Khi nào Thần Chân lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt anh em đến sự thật vẹn toàn” (Ga 16,12-13). Sự thật mà Chúa Thánh Thần dẫn ta đến là sự thật toàn vẹn.

Chúng ta thấy trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu chỉ mới hé mở ra một chút vậy mà các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu không nói nữa.

Thí dụ như trong đêm thứ năm trước khi đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô không chịu nổi nên cự nự: “Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con” (Ga 13,8). Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn mà các môn đệ phải chấp nhận là chính số phận của Thầy mình, phải tự khiêm hạ, phải chịu đau khổ, phải chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng tất cả các lần kể trên Chúa Giêsu đã không nói hết ý mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi.

Nhưng rồi khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy; và khi đó, nhờ sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu nữa.

Một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt và bị giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra thượng hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân hiểm nguy vì loan báo Tin Mừng, Ngài nói: “Tôi sung sướng vì được thông phân khổ nạn của Đức Giêsu Kitô trong thân xác tôi”. Ngài còn nói: “Vinh dự của ta là Thập Giá Đức Kitô”. Thập Giá mà những người trí thức Hylạp nói là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm thì thánh Phaolô lại coi là vinh dự.

2. Chúa còn quả quyết: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,12). Người sống trong sự thật sẽ luôn được Chúa soi sáng.

Một bác nông dân nọ, sau một đêm ngủ say, sáng ra mới hay đã bị kẻ trộm dắt mất con ngựa duy nhất trong chuồng. Đây lại là con ngựa nổi tiếng là khôn, vừa chạy nhanh, vừa cày giỏi, lại vừa dai sức. Bác nháo nhác vội vã đi truy tìm thì cuối cùng, gặp được con vật yêu quý ở một xóm chợ chuyên buôn bán ngựa. Bác khăng khăng đòi bắt ngựa về, nhưng tên bán ngựa quát tháo bảo đó là ngựa hắn đã nuôi từ lâu, hôm nay mới đem ra chợ bán. Hắn cho rằng, bác nông dân đã cố tình nhìn lầm để vơ vào cho mình những gì không phải là của mình.

Hai bên giằng co cãi đi cãi lại mãi cũng chẳng đi đến đâu cho nên họ bèn kéo nhau đến quan trên nhờ minh xét. Quan trên hình như đã bị hối lộ mua chuộc nên mới hạch hỏi:

- Lão bảo con ngựa này là của lão thế thì lão có thể cho biết một chi tiết nào làm chứng rằng, con ngựa này thật sự là của lão không? Lão mà khai man thì bị nghiêm phạt đấy nhé!

Thấy tình thế bất lợi cho mình, bác nông dân khôn ngoan ngẫm nghĩ một hồi rồi nẩy ra một diệu kế. Bác bất ngờ lấy hai tay bịt luôn hai mắt con ngựa rồi bảo tên trộm:

- Con ngựa này có một mắt bị tật. Nếu anh khai với quan là đã từng nuôi nó từ bé thì ắt hẳn anh phải biết rõ nó bị tật ở mắt nào! Bây giờ thì anh nói đi: con ngựa này bị tật bên mắt nào?

Tên trộm đâm ra ngẩn ngơ, đành nói liều:

- Nó bị tật ở mắt bên trái!

Bác nông dân liền cười thật to:

- Sai rồi, mắt trái của nó làm gì có tật!

Vừa nói bác vừa buông bàn tay đang bịt mắt trái con ngựa để quan trên có thể thấy rõ con mắt bên trái không hề có tật gì cả.

Tên trộm biết đã bị hố, cố vớt vát gân cổ lên cãi:

- Ấy tôi quên, con mắt bên phải nó mới bị tật cơ!

Bác nông dân lại càng cười to hơn nữa, vừa nói vừa buông nốt bên tay còn lại:

- Anh lại nói sai nữa rồi, mắt phải con ngựa cũng có thương có tật gì đâu. Thật ra, bẩm quan trên, con ngựa này tôi nuôi từ bé, hai mắt nó đều lành lặn. Đích thị tên này là kẻ đã trộm ngựa của tôi đêm qua. Xin quan trên minh xét!

Đám đông những người hiếu kỳ cùng kéo lên cửa quan, đã theo dõi đầu đuôi câu chuyện, giờ đây hiểu ra, bèn vỗ tay hoan hô bác nông dân tài trí. Thế là quan đành phải xử thắng cho bác nông dân, còn tên trộm thì bị bắt giam để trừng trị tức khắc.

Quả đúng là điều gì đã gian dối thì dù có quanh co lấp liếm thế nào đi nữa rồi cũng sẽ bị đưa ra ánh sáng của chân lý vẹn toàn!

Chúa Giêsu đã nói: “Sự Thật sẽ giải phóng anh em” – Hãy can đảm sống theo sự thật, chúng ta sẽ luôn có sự bình an trong tâm hồn.

 ------------------------------

 

Suy niệm 12: Chúa Thánh Thần dạy chúng ta biết sự thật


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Con người chúng ta có giới hạn trong khả năng tiếp nhận những lời dạy của Chúa, bởi vì tội lỗi đã làm chúng ta ra u tối, đầu óc chúng ta suy nghĩ, phán đoán hay lệch lạc, có khi không chuẩn xác chút nào. Có lẽ sự dữ, sự ác, sự xấu chúng ta dễ thuộc dễ nhớ, nhưng còn sự lành, sự thiện , sự tốt chúng ta khó nằm lòng. Trẻ em mà nghe người lớn chửi thề nói tục là nó thuộc và nói lại được ngay, nhưng dạy nó kêu Chúa, làm dấu thánh giá, đọc kinh thìdạy lâu lắm nó mới nhớ và mới thuộc. Do đó, Chúa mới nói: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được” (Ga 16, 12). Vì thế, chúng ta cần phải cầu xin Chúa Thánh Thần đến để soi sáng, mở lòng, soi trí để chúng ta hiểu lời Chúa, thuộc lời Chúa và đem ra thực hiện trong cuộc sống.

Thật là chính đáng khi Chúa ban Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta. Chúng ta tạ ơn Chúa vì do Chúa thương chúng ta nên chúng ta mới được như thế. Chúa Thánh Thần đến, Ngài sẽ dạy chúng ta biết lời Chúa, biết sự thật. Sự thật đó là biết Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người vì yêu chúng ta và cứu chúng ta, và đồng thời chúng ta là con cái của Chúa, sống trong gia đình của Chúa là Giáo Hội, chúng hãy yêu thương nhau: “Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật …” (Ga 16, 13). Và khi chúng ta biết như vậy thì: “Sự thật sẽ giải thoát các con” (Ga 8, 32).

Chúa Thánh Thần không dạy những gì mới, theo ý riêng của Ngài, mà: “…vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai” (Ga 16, 13). Như vậy, rất dễ dàng cho chúng ta trong việc nhớ lại những gì Chúa dạy và thực hiện mà sống tốt hơn: “Nhưng Đền Thờ Chúa muốn nói ở đây chính là thân thể Người. Vây, khi Chúa từ cõi chết sống lại, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa đã nói” (Ga 2, 21 – 22), chính Chúa Thánh Thần đã làm điều này cho các tông đồ ngày xưa và cho chúng ta ngày hôm nay.

Như vậy, những suy nghĩ và việc làm của Chúa Thánh Thần cũng chính là của Chúa Cha và của Chúa, vì Ba Ngôi là một Chúa mà thôi. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương phục vụ của chúng ta. Từ đó, danh Chúa được lang rộng khắp nơi, và đến với mọi tâm hồn con người nơi trần thế: “Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con” (Ga 16, 14 – 15). Vì thế, chúng ta càng phải tin tưởng phó thác đi theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để xây dựng Nước Chúa ngay tại cuộc sống hiện tại này ngày càng phát triển hơn và hướng đến hạnh phúc đời sau.

Lạy Chúa phục sinh của chúng con, xin cho chúng con luôn làm theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chúng con sống tốt theo thánh ý Chúa và làm sáng danh Chúa khi chúng con sống yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, nhất là giúp những người nghèo, đau yếu, bất hạnh, đó cũng là cách chúng con làm chứng nhân cho Chúa. Amen.

 ------------------------------

 

Suy niệm 13: Tới sự thật toàn vẹn


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 6 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta đem lòng tin kính cử hành mầu nhiệm Đức Kitô Con Chúa phục sinh, xin Chúa nhậm lời chúng ta khẩn nguyện, mà cho chúng ta được cùng thần thánh đón mừng Người giáng lâm vinh hiển.

Được cùng thần thánh đón mừng Đức Kitô giáng lâm vinh hiển, nếu biết tin tưởng vào Đức Kitô, và đề phòng tên phản Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ nhất của thánh Gioan nói về: Tên phản Kitô, một khi Thiên Chúa đã nói hết với ta qua Con của Người rồi, thì phải coi chừng những ai rêu rao có những điều mặc khải mới. Phần anh em, dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa, vì dầu của Người dạy anh em mọi sự. Anh em hãy vui mừng hoan hỷ vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em: chính Người ban cho anh em mưa đầu mùa, bởi vì Người thành tín.

Được cùng thần thánh đón mừng Đức Kitô giáng lâm vinh hiển, nếu biết giữ vững lòng tin tưởng cậy trông vào Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Lêô Cả nói về: Từ khi Chúa sống lại cho tới lúc Người lên trời… Thầy đi dọn chỗ cho anh em, rồi Thầy sẽ trở lại. Thầy sẽ đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em.

Được cùng thần thánh đón mừng Đức Kitô giáng lâm vinh hiển, nếu biết nhận ra và ca tụng tình yêu lòng thương xót của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ, ông Phaolô nói: Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 148, vịnh gia kêu xin: Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa. Ca tụng Chúa đi, tự cõi trời thăm thẳm, ca tụng Người, trên chốn cao xanh. Ca tụng Chúa đi, mọi sứ thần của Chúa, ca tụng Người, hỡi toàn thể thiên binh!

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Chúa sẽ không để chúng ta mồ côi, Đấng Bảo Trợ sẽ ở cùng chúng ta, giúp chúng ta kiên vững và vượt qua những gian truân thử thách, phần của chúng ta là: cứ giữ vững lòng tin tưởng cậy trông nơi Người. Khi Đức Giêsu sống lại, Người đã đồng hành với môn đệ, nhờ đó, các thánh Tông Đồ và tất cả các môn đệ trước kia vừa run sợ vì Chúa chịu chết trên thập giá, vừa nghi ngờ không tin Người sống lại, thì nay, trước sự thật hiển nhiên, họ nên vững vàng mạnh mẽ, đến nỗi, sau khi Chúa lên trời cao thẳm, chẳng những họ không buồn sầu chi hết, mà lại, được chan chứa niềm vui. Đấng Bảo Trợ sẽ dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn, để chúng ta hiểu được: lý do tại sao các môn đệ đã vui mừng khôn tả như thế, vì trước mặt đông đảo các môn đệ, bản tính nhân loại của Đức Kitô đã vượt lên trên mọi loài thụ tạo thiên giới, trên các bậc thiên thần và được nâng cao hơn các tổng lãnh thiên thần. Không vật cao siêu nào có thể giới hạn mức siêu thăng của bản tính ấy, vì xưa bản tính nhân loại nơi Chúa Con đã được phối hợp với bản tính Chúa Cha hằng hữu, thì nay, một khi được rước lên đồng hiển trị với Chúa Cha, bản tính ấy cùng được ngự ngai tòa vinh hiển với Người. Đức Kitô đã đi dọn chỗ cho chúng ta, nếu chúng ta tin tưởng tiếp bước theo Người, chúng ta sẽ được cùng hiển trị với Người.  Chúng ta đem lòng tin kính cử hành mầu nhiệm Đức Kitô Con Chúa phục sinh, ước gì chúng ta được cùng thần thánh đón mừng Người giáng lâm vinh hiển. Ước gì được như thế!

---------------------------------
 

Thứ 5 PS –Tuần 6/2025

Nỗi buồn sẽ thành niềm vui.
29/05 – Thứ Năm tuần 6 Phục Sinh.
“Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”.

 

Lời Chúa: Ga 16, 16-20


Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha”.
Bấy giờ trong các môn đệ có mấy người hỏi nhau: “Điều Người nói với chúng ta: “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy”, và “Vì Thầy về cùng Cha”, như thế có ý nghĩa gì?” Họ nói: “Lời Người nói 'Một ít nữa' có ý nghĩa gì? Chúng ta không biết Người muốn nói gì?”
Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: “Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Nỗi buồn trở thành niềm vui


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong bầu khí của bữa Tiệc Ly,
Thầy Giêsu nói với các môn đệ một câu đối với họ là khó hiểu:
“Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy,
rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (c. 16).
Câu này có thể dễ hiểu với chúng ta
vì chúng ta biết rõ cái chết trên thập giá đang chờ Thầy Giêsu.
Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi,
cái chết này sẽ khiến các môn đệ không còn được thấy Thầy nữa.
Chúng ta cũng biết rằng chỉ một thời gian ngắn sau,
Thầy Giêsu lại được phục sinh, và đã hiện ra cho các môn đệ thấy.
Mất Thầy là một thử thách lớn trong đời người môn đệ.
Thầy là chỗ dựa, là lý do khiến họ chấp nhận cuộc sống bấp bênh này.
Chính Thầy đã gọi, đã kéo họ ra khỏi gia đình và nghề nghiệp ổn định
để lang thang đó đây, sống nhờ lòng tốt của những người nghe giảng.
Gần ba năm sống bên Thầy, chia sẻ ngọt bùi, thành công thất bại,
tình Thầy trò gần gũi như tình bạn hữu.
Bây giờ mất Thầy, họ sẽ đi đâu và đi với ai?
Cái chết trên thập giá của Thầy là đại tang của một người thân.
Nỗi đau này được nhân lên nhiều lần
vì họ đã không dám có mặt để lo liệu việc mai táng.
“Anh em sẽ khóc lóc và than van… Anh em sẽ buồn phiền…” (c.20).
Khi tảng đá đã khép kín ngôi mộ, chẳng còn thấy Thầy nữa,
khi thế gian và thủ lãnh của nó hả hê vui sướng vì chiến thắng,
liệu các môn đệ có vượt qua được nước mắt đau đớn này không?
“Ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… (c. 16)
và nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (c. 20).
Anh em sẽ lại thấy Thầy lúc Thầy hiện ra gặp anh em sau phục sinh,
lúc Thầy sai Thánh Thần đến ở với và nâng đỡ anh em,
và nhất là lúc Thầy đồng bàn với anh em trong bữa tiệc Thiên quốc.
Khi gặp lại Thầy và nhận ra Thầy đang sống,
thế nào anh em cũng hết phiền muộn đắng cay.
Nỗi buồn của anh em tan biến khi anh em biết rằng
Thầy mới là người chiến thắng.
Đời sống người Kitô hữu đan xen giữa vui với buồn.
Có lúc thấy mất Chúa và mất hướng, thấy thất vọng và buồn chán.
Chúng ta phải chia sẻ cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa mỗi ngày.
Nhưng rồi ngày nào đó, Chúa lại đến thăm, lại tỏ mình, lại vỗ về an ủi.
Niềm vui trong ta như sống lại với bao hy vọng dâng trào.
Chỉ xin đừng bỏ đi khi thấy Chúa vắng bóng và thất bại trong đời ta.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.

Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.
 
-------------------------------

 

Suy niệm 2: Hiện diện phục sinh


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trước khi chịu khổ nạn. Chúa Giê-su loan báo cho các tông đồ: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.Anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui”. Khi Chúa chịu chết và an táng trong mộ, các tông đồ không còn trông thấy Thầy. Không phải chỉ không trông thấy, mà còn có tâm hồn trống rỗng, cô đơn, tuyệt vọng. Trái lại thế gian đắc thắng vui cười. Chúa đã chết. Đó là thắng lợi của trần gian. Họ niêm phong cửa mộ. Cắt đặt lính canh. Đắc thắng.

Nhưng khi Chúa phục sinh, các tông đồ lại tràn ngập niềm vui. Vui vì được gặp lại Chúa. Nhưng ở một chiều kích khác. Hai môn đệ đi đường Em-mau đi bên Chúa suốt mấy tiếng đồng hồ. Nhưng không nhận biết Chúa. Họ nhìn thấy nhưng không nhận ra. Trái lại khi Chúa đã biến đi rồi thì họ lại thấy Chúa, nhận ra Chúa đang hiện diện. Không thấy Chúa bằng đôi mắt thể xác. Họ thấy Chúa bằng ánh mắt nội tâm. Vì Chúa vắng mặt. Nhưng lại hiện diện tràn đầy. Đó là hiện diện phục sinh. Họ đã chết. Nhưng nay sống. Sống mãnh liệt. Sống phong phú. Đó là đời sống đức tin.

Chính ánh mắt nội tâm đó. Chính sự hiện diện phục sinh đó. Chính đời sống đức tin đó làm cho các tín hữu sơ khai. Dù bị bắt bớ, bị xua đuổi, kể cả bị giết chết, mà vẫn bình an. Và như thánh Phao-lô, bị chống đối mà vẫn bình tĩnh. Bị đánh đập mà vẫn kiên cường. Bị nhục mạ mà vẫn vui tươi. Vì có Chúa ở cùng. Chúa phục sinh luôn ở bên các ngài.

Đó là sức sống mới. Sức sống của Chúa phục sinh. Sức sống tràn trào thôi thúc các ngài đi rao giảng, làm chứng về Chúa. Hàng ngày phải lao động sinh nhai. Cuối tuần vẫn hăng say rao giảng: “Ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều. Mỗi ngày sa-bát, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do thái, lẫn người Hy-lạp”. Bị chống đối nơi này thì đi nơi khác. Bị người này chống đối thì rao giảng cho người khác. “Bởi họ chống đối và nói lọng ngôn, nên ông giũ áo mà bảo họ: “Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại”.

Xin cho con cảm nhận được sự hiện diện phục sinh của Chúa. Để con có niềm vui tươi hăng hái làm chứng cho Chúa.

 -------------------------------

 

Suy niệm 3: Nỗi buồn sẽ thành niềm vui.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Kinh điển Phật giáo có ghi lại câu truyện như sau: Một người đàn bà nọ có đứa con độc nhất trên đời đã bị chết. Trong niềm đau tột cùng, người đàn bà đem đứa bé đến nhà những người láng giềng và xin họ vui lòng chỉ cho biết có thứ thuốc nào có thể làm cho con bà sống lại, nhưng ai ai cũng chỉ biết lắc đầu và cảm thông mà thôi. Nhưng cuối cùng có người mách cho người đàn bà biết có một vị lương y có thể cải tử hoàn sinh cho đứa bé, người đó chính là Đức Thích Ca.

Người đàn bà khốn khổ tìm đến Đức Thích Ca và khẩn cầu Ngài ban cho một liều thuốc. Đức Thích Ca liền nói: “Ta cần có một ít hạt cải”. Nghe thế, người đàn bà liền vội vã đi tìm hạt cải và đem lại cho Đức Thích Ca. Nhưng vừa thấy những hạt cải, Ngài lại bảo: “Hãy đi mời những gia đình nào không có tang chế đến lấy những hạt cải này. Tin lời Đức Phật, người đàn bà đi gõ cửa từng nhà để mời gọi mọi người lấy hạt cải, nhưng tất cả đều từ chối, vì thật ra không ai mà lại không có người thân đã ra đi.

Khi người đàn bà trở về nhà thi đêm đã bắt đầu xuống, bà đến ngồi bên xác con và nhìn ra phố phường đang lên đèn. Nhưng càng về khuya, ánh sáng càng tắt dần, và cuối cùng đêm đen dầy đặc bao trùm vạn vật. Lúc bấy giờ người đàn bà mới suy nghĩ: đời là thế: sinh ra, đau khổ rồi chết. Nghĩ thế, bà đứng dậy đem xác con vào rừng và chôn cất.

Đau khổ và tận cùng là cái chết, đó là phần số của kiếp người mà khi nhập thể làm người, Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi, Chúa Giêsu đã ba lần chính thức loan báo về cuộc tử nạn mà Ngài phải trải qua. Nhưng xem ra các môn đệ Ngài không hiểu được và cũng không muốn chấp nhận tại sao một số phận nghiệt ngã như thế lại có thể xẩy ra cho Thày mình, một người có quyền phép trên cả sự chết và nhất là đang trên đường tiến đến một tương lai sáng lạn. Trong những giờ phút cuối cùng còn ngồi bên các ông. Chúa Giêsu lại nói đến cái chết của Ngài, nhưng lần này Ngài nói đến cuộc tử nạn ấy như một cuộc ra đi: ra đi mà không vĩnh biệt, do đó, Chúa Giêsu đã nói: “Một ít nữa, các con sẽ không thấy Thày, rồi một ít nữa, các con sẽ lại thấy Thày”. Một lần nữa, loan báo cái chết, Chúa Giêsu cũng báo trước sự Phục sinh của Ngài: các môn đệ sẽ buồn sầu vì cái chết của Ngài, nhưng rồi niềm vui của họ sẽ gấp bội khi Ngài sống lại. Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu gắn liền với đau khổ và niềm vui của các môn đệ; đúng hơn, cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu chiếu dọi ánh sáng và mầu nhiệm khổ đau của con người.

Kitô giáo không chối bỏ thực tại của khổ đau, nhưng trong cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Kitô giáo không còn nhìn vào khổ đau như một ngõ cụt của cuộc sống, trái lại, trong ánh sáng Phục sinh của Chúa Giêsu, cuộc sống vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống. “Một ít nữa, các con sẽ không thấy Thày, rồi một ít nữa, các con sẽ lại thấy Thày”. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy Ngài ngay cả trong những lúc tăm tối nhất của cuộc sống. Thấy được Ngài bám chặt lấy Ngài, thì cho dù khổ đau có chồng chất, con người vẫn thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Ngài cũng có nghĩa là nhận ra khuôn mặt của Ngài trong những anh em đang đau khổ chung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với những người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và niềm vui Phục sinh sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta.

 -------------------------------

 

Suy niệm 4: Không thấy rồi lại thấy


Nhiều mâu thuẫn nảy sinh trong đoạn Tin mừng này. Đức Giêsu nói: “Ít lâu nữa anh em sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu nữa anh em sẽ lại thấy Thầy. Thầy về cùng Chúa Cha”. Phải nghĩ gì về ẩn ngữ này? Đức Giêsu đi du lịch một thời gian ngắn ư? Sự vắng mặt của Người giống như một cuộc hành trình đến miền nhiệt đới ư? Hay lời Người như trò chơi hú tim của trẻ em, lúc ẩn, lúc hiện bất ngờ ư? Những lời này tàng chứa một mặc khải phong phú. Hôm nay, chúng ta nghe biết sự mặc khải trọn vẹn về sinh lực của Đức Kitô: Thầy về cùng Cha. Đức Kitô đang chuẩn bị sẵn sàng khởi hành về Đấng là nguồn sự sống, nguồn sinh lực.

Cuộc sống của Đức Kitô không ngừng ra đi và trở về. Không đi bằng con đường đất đá, nhưng bằng con đường huyền diệu sâu thẳm và gắn bó mộ mến. Đức Giêsu càng ngày càng hiệp thông sâu xa vào kế hoạch của Cha Người. Đó là con đường hiệp thông thực hiện cứu độ để lật ngược lại sức nặng bất phục tùng của con người.

Tuy nhiên, trở về cùng Cha, Đức Giêsu vẫn không xa lìa chúng ta. Càng hiệp thông với Chúa Cha sâu thẳm bao nhiêu, Đức Giêsu càng ban tặng sự sống dồi dào. Vì Chúa Cha là nguồn sự sống, đã ban sự sống lại và sự sống vinh quang cho Chúa Con để Chúa Con làm cho mọi người được sống và sống lại với Người.

Chúng ta cũng được mời trở về cùng Chúa Cha để tham dự vào chính nguồn sống đó. Nhờ đó, chúng ta càng ngày càng thực hiện được sứ vụ từ Chúa Cha trao cho để trở nên người thông truyền sự sống của Chúa Cha và ra đi hiệp thông với người khác trong Chúa Con.

Thánh lễ lôi cuốn chúng ta vào dòng sống trở về này. Trong dòng sống này chúng ta được liên kết với Đức Kitô, để thấy được nguồn vui về cùng Chúa Cha đang chờ đợi chúng ta ở tột đỉnh con đường trở về của Chúa Con.

C.G

-------------------------------

 

Suy niệm 5: Mầu nhiệm cao cả


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Chúa Giêsu mạc khải trước cho các môn đệ về mối tương quan mới cần phải có giữa Chúa và các ông trong mầu nhiệm vượt qua. Sự hiện diện mới của Chúa Phục Sinh với các môn đệ đòi hỏi các ngài phải có cái nhìn mới đối với Chúa và có thái độ sống mới. Sống thấy niềm vui vì xác tín có Chúa luôn hiện diện bên cạnh, cả trong những lúc gian nan bị thử thách, bị bách hại. Lời quả quyết của Chúa Giêsu: “Ít lâu nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu nữa các con sẽ lại thấy Thầy” loan báo trước về thực tại mới sau biến cố vượt qua của Chúa. Trong vòng ba năm theo sống bên cạnh Chúa Giêsu, các môn đệ đã trông thấy Chúa Giêsu, nhưng có thể nói là các ông chưa thực sự thấy Chúa, vì các ông không hiểu được Chúa thực sự là ai. Ðức tin chưa được trọn vẹn, các ông còn cần Chúa Thánh Thần đến trợ giúp để được đưa vào trong sự thật trọn vẹn để hiểu thấu đáo hơn, để được thấy Chúa Phục Sinh. Khi nghe Chúa loan báo người sắp ra đi chịu khổ nạn thì các ông buồn. Những kẻ thù của Chúa khi giết chết Chúa trên thập giá thì vui mừng tưởng rằng mọi sự việc sẽ chấm dứt từ đây. Phần Chúa Giêsu, người báo trước cho các môn đệ là mọi sự sẽ được đổi mới, Chúa vẫn sống, sẽ đến với các ông, sẽ hiện diện với các ông cách mãnh liệt, vững chắc hơn nữa.

Chỉ “ít lâu nữa, các con lại thấy Thầy”, đây là mầu nhiệm cao cả của đời sống Kitô. Chúng ta sẽ không thấy được Chúa Giêsu, không thể tin nhận Người cho đến khi nào được Chúa Thánh Thần soi sáng để thấy Chúa, hiểu và tin nhận Chúa. Cần phải có sự thay đổi nội tâm, có cái nhìn mới về Chúa Giêsu, phải có niềm vui đích thực. Các tông đồ được mời gọi nâng tâm hồn lên, vượt qua được những cảm giác thường tình, để có thể khám phá ra Chúa Giêsu hiện diện một cách mới mẻ trong cuộc đời các ông, và từ đó nếm hưởng niềm vui đích thực, không phải niềm vui thế gian ban cho, nhưng là niềm vui từ Chúa, niềm vui mà không quyền lực thế gian nào có thể lấy mất đi được. Cần phải bước vào trong mối tương quan mới với Chúa Giêsu. “Các con cũng vậy, bây giờ các con lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, lòng các con sẽ vui mừng và niềm vui của các con không một ai lấy mất được”. Ðó là vì Chúa Giêsu hiện diện cách mới mẻ trong đời sống các môn đệ. Các ông phải thay đổi để đón nhận sự hiện diện mới mẻ này: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng”. Chúng ta phải thể hiện và phải sống làm sao để cho thế gian, cho anh chị em chung quanh được trông thấy những sự thật chúng ta đang có trong tâm hồn mình, do sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn mình.

Lạy Chúa, xin hãy đến ngự trong con, cho con được sống mối tương quan mới với Chúa và sống vững mạnh trong niềm vui, mọi nơi và mọi lúc.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 6: Chúa luôn yêu ta


Có một câu chuyện kể rằng: đêm nọ, có một người thấy giấc mơ lạ. Anh ta thấy mình đang đi trên bãi biển với Chúa. Những lúc vui, thành công, anh thấy có hai đôi chân in trên cát, một của Chúa và một của anh. Nhưng những lúc anh gặp khó khăn, đau buồn thì khi nhìn lại, anh chỉ còn thấy một đôi chân!

Anh trách Chúa rằng: “Tại sao những lúc khó khăn, thất bại, Chúa lại bỏ con?”

Chúa trả lời: “Ta không bỏ con đâu, vì những lúc đó, Ta đã cõng con trên vai, vì thế, con chỉ còn thấy có một đôi chân của Ta nữa mà thôi’”.

Hôm nay, các môn đệ biết Đức Giêsu sắp rời xa mình, nên các ông buồn sầu và lo lắng! Nhưng Đức Giêsu đã trấn an các ông và báo cho các ông về sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần. Đây là niềm vui vô cùng to lớn, bởi vì nhờ Người, mà các ông hiểu được con người, lời giảng dạy và sứ vụ của Đức Giêsu đúng theo chương trình và ý định của Thiên Chúa Cha. Như vậy, sự ra đi của Đức Giêsu sẽ đem lại cho các môn đệ niềm vui trọn vẹn qua Chúa Thánh Thần.

Trong đời sống đức tin của mình, nhiều khi chúng ta cũng cảm thấy Chúa như xa dần chúng ta! Nhất là khi túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bị hiểu lầm, vu vạ cáo gian hay cô đơn... Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta vững tin rằng, Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Thật vậy, những khi ta rối trí ngã lòng và cảm thấy lạc lõng, chúng ta hãy tin tưởng rằng: lúc đó chúng ta đang được Chúa bồng ẵm trên tay, để chỉ còn có một đôi chân của Chúa mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vững tin vào Chúa, dù cuộc đời lắm nỗi khổ đau. Xin cho chúng con hiểu rằng, những lúc đó Chúa đang gần chúng con hơn cả, và xin cho chúng con được gần Ngài nhờ niềm tin. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7: Nỗi buồn sẽ trở thành niềm vui


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu đã trở thành ý nghĩa cho thời gian. Thời gian có Ngài hiện diện là thời gian của niềm vui. Vì vậy, thời gian của người tín hữu sẽ trở thành u buồn nếu vắng bóng Người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời con được dệt thành từ bao nhiêu biến cố. Mỗi sự việc xảy ra tạo nên những tâm trạng khác nhau. Có lúc con cảm thấy thật dễ chịu sung sướng vì cuộc đời hợp ý con. Nhưng rất nhiều khi con chán nản, thời gian sao nặng nề căng thẳng quá.

Tuy nhiên, lạy Chúa Giêsu, khi con sống trong tình yêu Chúa, thì thời gian con sống trở thành nhẹ nhàng hạnh phúc. Vì lúc ấy con sống trong tình mến Chúa, và lòng yêu mến ấy sẽ hóa giải tất cả. Bất cứ lúc nào Chúa cũng vẫn hiện diện trong cuộc đời con, nhưng nhiều lúc con đã khước từ lời mời gọi yêu thương của Chúa để đi theo những mời mọc của ma quỷ và thế gian. Lúc đó, cuộc sống của con vắng bóng Chúa và mất đi niềm vui hạnh phúc. Cuộc đời trở nên vô nghĩa.

Ngày xưa, Chúa đã trở thành niềm vui và sự nâng đỡ ủi an cho các môn đệ. Vì thế, khi vắng bóng Chúa, các ông đã buông xuôi thất vọng. Hôm nay, Chúa đã phục sinh và vẫn hiện diện trong cuộc đời con, giúp con biết luôn tìm sống theo thánh ý của Chúa, như một niềm vui tràn đầy trong tâm hồn. Và mặc dù bề ngoài con thiếu thốn hoặc mất mát tất cả, nhưng tâm hồn con vẫn có Chúa hiện diện, thì con tin rằng con vẫn còn tất cả, cuộc đời vẫn reo vui phấn khởi và tràn đầy ý nghĩa. Amen.

Ghi nhớ: “Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”.

---------------------------------

 

Suy niệm 8: Ðược Sống


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Vào tuần thánh năm 1980, Đài Phát thanh Vienne nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô nước Áo. Cô phát biểu: “Sau khi bác sĩ chẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra trong đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy”.

Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và cây viết. Cô giải thích: “Không ai có thể nói cho tôi biết chắc một trăm phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên vẫn luôn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa”.

Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi: “Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng. Thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?”.

Cô gái mỉm cười nói: “Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài đã cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi” (Trích “Món quà giáng sinh”).

Suy niệm

Trước viễn cảnh cuộc khổ nạn, Ðức Giêsu báo cho các môn đệ sự ra đi của Ngài làm cho các ông lo buồn. Sự lo buồn nơi các tông đồ thật dễ hiểu vì đây là tâm trạng tự nhiên của con người khi phải xa cách người Thầy yêu mến. Các ông lo vì Người đã nói đến sự thương khó mà Ngài đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19) và bây giờ là gần kề: “Một ít nữa… các con sẽ không thấy Thầy”. Vì người ta sẽ bắt Ngài, giết trên thập tự rồi chôn vùi trong mồ và các ông không thể thấy Ngài được nữa!

Vì thế Ðức Giêsu nói: “Anh em sẽ khóc lóc than van, còn thế gian sẽ vui mừng”. Trước cái chết trên thập giá của Ðức Giêsu, các môn đệ buồn sầu vì sự thất bại của Thầy, còn thế gian hân hoan vì tưởng rằng mình đã chiến thắng. Nhưng “ngày thứ ba Người sẽ sống lại” và sự chết sẽ không làm chủ được Ngài.

Cho nên, Ngài nhấn mạnh: “Rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy”, “một ít nữa” này rõ ràng là “ngày thứ ba”. Chiến thắng của thế gian không phải là chiến thắng cuối cùng và thất bại của Ðức Giêsu cũng không phải là thất bại sau hết. Nơi tận cùng của cái chết là bắt đầu đi vào cuộc sống và chiến thắng vĩnh cửu: Ngài toàn thắng tội lỗi, sự chết và phục sinh vinh quang.

Với sự hiện diện của Ðức Giêsu Phục Sinh, các môn đệ sống niềm vui vô bờ bến: Nước mắt trở nên tiếng cười... Chỉ sau khi Chúa Phục sinh hiện ra với các ông, “các ông vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20) thì đúng như lời Chúa đã nói trước: “Nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Khi sinh con, người đàn bà lo buồn… nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui… Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (Ga 16,21-22). Các ông cảm nghiệm sâu xa sự sống đời đời và được hưởng sự sống đó do Đấng Phục Sinh mang lại.

Giữa những đau khổ lớn lao của cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhờ tin vào Đấng đã chết và phục sinh, sẽ tìm thấy niềm vui. Những đau khổ tham dự vào mầu nhiệm thập giá với Chúa Kitô, dẫn tới niềm vui phục sinh, niềm vui đích thực sẽ không thể mất đi và cũng không bao giờ tàn lụi: Đó chính là niềm vui vì được sống, được sống đời đời do Chúa Phục Sinh mang lai…

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 125,5).

Ý lực sống:

“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,24b).

 ---------------------------------

 

Suy niệm 9: Nỗi buồn sẽ thành niềm vui


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Sau khi loan báo về Chúa Thánh Thần sẽ đến, về hoạt động của Người, Đức Giêsu cũng loan báo về việc Người sẽ trở lại để khích lệ các môn đệ. Ngài nói: “Ít lâu nữa các con sẽ không còn trông thấy Thầy”. Nghĩa là:

- Người báo tin về sự tử nạn mà Ngài sắp chịu. Vì thế, các môn đệ sẽ không còn trông thấy Người nữa.

- Người loan báo về sự Phục sinh và sự trở lại của Người trong vinh quang. Vì thế, các môn đệ sẽ thấy Chúa, không bằng khả giác nhưng bằng đức tin.

2. Trước viễn cảnh cuộc khổ nạn, Đức Giêsu báo cho các môn đệ sự ra đi của Ngài làm cho các ông buồn. Sự lo buồn nơi các Tông đồ thật dễ hiểu vì đây là tâm trạng tự nhiên của con người khi phải xa cách người Thầy yêu mến. Các ông lo vì Người đã nói đến sự thương khó mà Ngài đã ba lần báo trước và bây giờ là gần kề: “Một ít nữa... các con sẽ không thấy Thầy”. Vì người ta sẽ bắt Ngài giết trên thập tự rồi chôn vùi trong mồ và các ông không thể thấy Ngài nữa.

Vì thế Đức Giêsu nói: “Các con sẽ khóc lóc than van, còn thế gian sẽ vui mừng”. Trước cái chết trên thập giá của Đức Giêsu, các môn đệ buồn sầu vì sự thất bại của Thầy, còn thế gian hân hoan vì tưởng rằng mình đã chiến thắng. Nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại và sự chết sẽ không làm chủ được Ngài.

Cho nên Ngài nhấn mạnh: “Rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy”, “một ít nữa” này rõ ràng là “ngày thứ ba”. Chiến thắng của thế gian không phải là chiến thắng cuối cùng và thất bại của Đức Giêsu cũng không phải là thất bại sau hết. Nơi tận cùng của cái chết là bắt đầu đi vào cuộc  sống và chiến thắng vĩnh cửu: Ngài toàn thắng tội lỗi, sự chết và phục sinh vinh quang (Lm Vinh Sơn).

3. “Nhưng nỗi buồn của các con biến thành niềm vui”.

Với sự hiện diện của Đức Giêsu Phục sinh, các môn đệ sống niềm vui vô bờ bến: nước mắt trở nên tiếng cười... Chỉ sau khi Chúa Phục sinh hiện ra với các ông, “các ông vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,20) thì đúng như lời Chúa đã nói trước: “Nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Khi sinh con, người đàn bà lo buồn... nhưng khi sinh rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui... Các con cũng vậy, bây giờ các con lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, lòng các con sẽ vui mừng; và niềm vui của các con không ai lấy mất được” (Ga 16,21-22). Các ông cảm nghiệm sâu xa sự sống đời đời và được hưởng sự sống đó do Đấng Phục sinh mang lại.

4. Kitô  giáo không chối bỏ thực tại của đau khổ, nhưng trong cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu, Kitô giáo không còn nhìn vào đau khổ như một ngõ cụt của cuộc sống, trái lại, trong ánh sáng phục sinh của Đức Giêsu, cuộc sống vẫn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống. “Một ít nữa, các con sẽ không thấy Thầy, rồi một ít nữa, các con sẽ thấy Thầy”. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy Ngài ngay cả những lúc tăm tối của cuộc sống. Thấy được Ngài, bám chặt lấy Ngài, thì cho dù khổ đau có chồng chất, con người vẫn thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua của Ngài cũng có nghĩa là nhận ra khuôn mặt của Ngài trong những anh em đau khổ chung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với những người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Đức Giêsu và niềm vui Phục sinh sẽ tràn ngập tâm hồn chúng ta (Mỗi ngày một tin vui).

5. Tóm lại, lời Chúa hôm nay là một lời nhắn nhủ đầy yêu thương, nhắc cho chúng ta nhớ mình chỉ là lữ khách sống tạm ở trần gian, như bông hoa sớm nở chiều tàn. Cuộc đời chúng ta ngắn ngủi lắm, chúng ta phải luôn sống tốt lành để được chết lành, chúng ta phải biết từ bỏ mình để gặp gỡ lại mình trong cõi vĩnh phúc.

6. Truyện: Niềm vui trong tình yêu Chúa.

Vào tuần thánh năm 1980, đài phát thanh Vienne nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo quốc. Cô phát biểu: “Sau khi bác sĩ chẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên tôi cũng cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra trong đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ánh chính sự đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách  yêu thích nỗi đau khổ ấy”.

Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và cây viết. Cô giải thích: “Không ai có thể nói cho tôi biết chắc 100 phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên vẫn luôn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa”.

Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi: “Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng. Thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này”?

Cô gái mỉm cười nói: “Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống”.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 10: Niềm vui Phục sinh tràn ngập tâm hồn


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

1. Ngày sống của mỗi người đều có 24 tiếng, thế nhưng thời gian có ý nghĩa và độ dài khác nhau tùy từng người: người đang chờ đợi sẽ thấy thời gian trôi quá chậm, còn kẻ đang sợ hãi thì thời gian lại đến quá nhanh. Cũng vậy, người đang trĩu nặng buồn phiền, thời gian dài lê thê, còn kẻ đang hưởng niềm vui, thời gian lại ngắn ngủi mau qua.

“Một ít nữa, các con sẽ không thấy Ta, và một ít nữa, các con sẽ thấy Ta.” Chúa Giêsu cho các môn đệ biết sẽ có một khoảng thời gian, họ sẽ không thấy Ngài vì Ngài về cùng Cha. Cũng chung một thời gian, nhưng các môn đệ sẽ khóc sẽ than, còn thế gian sẽ vui mừng. Thật ra, thời gian tự nó chẳng có ý nghĩa gì, nó chỉ là thước đo của lịch sử. Thời gian chỉ có ý nghĩa và giá trị khi con người đặt tình cảm vào đó. Quá khứ qua rồi nhưng có thể sống lại trong tình cảm; tương lai chưa đến nhưng đã thành tựu trong dự kiến bằng các hy vọng hoài bão. Bởi thế, thời gian có thể là linh dược, hay độc dược: một kỷ niệm, một viễn ảnh sáng lạn vẫn luôn là liều thuốc làm phấn khởi lòng người.

Chúa Giêsu có thời gian của Ngài. Ngài kêu gọi các môn đệ đến với Ngài. Nhưng tới lúc Ngài phải từ giã các ông, các ông sẽ buồn sầu, tuy nhiên đó cũng là lúc để các ông nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã nói, và nỗi buồn sẽ trở thành niềm vui, khi Ngài trở lại. Như thế, Chúa Giêsu đã trở thành ý nghĩa của thời gian: thiếu vắng Ngài, các môn đệ u sầu, nhưng có Ngài, các ông mừng vui.

Chúa Giêsu vẫn hiện diện trong thời gian, và tình yêu của Ngài trải dài trong lịch sử. Con người sở dĩ chưa gặp được Ngài vì còn chạy theo thú vui chóng qua mà chưa sống cho vĩnh cửu. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tìm kiếm Chúa Giêsu để Ngài trở thành ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Có Ngài, mọi u buồn sẽ trở thành niềm vui, được sống trong tình yêu của Ngài, chúng ta sẽ quên đi mọi nhọc nhằn của thời gian.

2. Kinh điển Phật Giáo có ghi lại câu chuyện: một người đàn bà nọ có đứa con độc nhất qua đời, trong niềm đau tột cùng, người đàn bà đến hàng xóm và khẩn cầu: “xin vui lòng chỉ cho tôi bất cứ thứ thuốc nào để làm cho nó sống lại.” Nhưng ai cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Cuối cùng có một người mách cho người đàn bà biết có một vị lương y có thể cải tử hoàn sinh đứa bé đó được, đó chính là Đức Phật Thích Ca.

Người đàn bà mang đứa bé đến cầu khẩn với Ngài và xin ban cho đứa bé một liều thuốc. Đức Phật Thích Ca liền nói: “Ta cần một ít hạt cải.” Người đàn bà liền tìm một ít hạt cải mang lại cho Đức Phật. Nhưng vừa thấy, Đức Phật nói với người đàn bà: “Hãy đi mời nhà nào không có tang chế và hãy uống lấy những hạt cải này.”

Tin lời Đức Phật, người đàn bà đi gõ cửa từng nhà mời uống lấy những hạt cải này, nhưng tất cả đều từ chối vì thật ra không có nhà nào mà lại không có người đã ra đi. Khi người đàn bà trở về nhà, trời đêm đã buông xuống, bà đến ngồi bên xác con và nhìn ra phố phường đang lên đèn, càng về khuya màn đêm càng tối và đêm đen bao trùm vạn vật. Lúc ấy, người đàn bà mới bắt đầu nghĩ: đời là thế, sinh ra đau khổ rồi chết, vì thế bà đứng dậy mang xác con vào rừng chôn cất.

Như vậy con người được sinh ra rồi chịu đau khổ tận cùng là cái chết. Đó là số phận của kiếp người mà khi Nhập Thể Con Thiên Chúa cũng không thoát khỏi. Chúa Giêsu đã ba lần chính thức loan báo về cuộc khổ nạn Ngài đã trải qua, nhưng xem ra các môn đệ của Ngài không hiểu được và cũng không chấp nhận được, vì tại sao số phận nghiệt ngã như thế lại xảy ra với Thầy mình, một người có quyền phép trên cả sự chết và đang trên đường tiến tới một tương lai sáng lạn.

Trong những giờ phút cuối cùng ngồi bên các ông, Chúa Giêsu nói đến cái chết một lần nữa, nhưng lần này Ngài nói đến cuộc tử nạn ấy như là cuộc ra đi, ra đi mà không vĩnh biệt. Do đó, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy ra đi, anh em sẽ buồn rầu, nhưng niềm vui của họ gấp bội khi Ngài sống lại” (Ga 16, 20).

Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu gắn liền với sự đau khổ và niềm vui của các môn đệ, đúng hơn cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu chiếu dọi ánh sáng vào mọi khổ đau của con người. Kitô giáo không chối bỏ cái chết và sự đau khổ, nhưng qua cái chết và sự Phục sinh của Đức Kitô, Kitô giáo không còn nhìn cái chết và đau khổ như một ngõ cụt của cuộc sống. Trái lại, trong ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô, cuộc sống con người mang một ý nghĩa thật tuyệt vời, mặc cho bao đau khổ mà con người vẫn phải trải qua “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi một ít nữa các con sẽ xem thấy Thầy” (Ga16, 16).

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Ngài, có nghĩa là cả những lúc tăm tối nhất của cuộc đời, họ vẫn nhận thấy được Ngài, bám chặt lấy Ngài để tiến bước, cho dẫu đau khổ như thế nào đi chăng nữa, con người vẫn tìm được ý nghĩa đích thực cho cuộc sống. Tham dự vào mầu nhiệm của Ngài cũng có nghĩa là nhìn thấy người anh em đang đau khổ ở xung quanh chúng ta. Sự cảm thông phục vụ đối với người đau khổ sẽ cho chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu và niềm vui Phục sinh tràn ngập tâm hồn chúng ta.

---------------------------------

 

Suy niệm 11: Buồn vui của cuộc sống Kitô hữu


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chủ đề bài Tin Mừng hôm nay nói về những buồn vui của cuộc sống người Kitô hữu.

“Chúng con sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của chúng con sẽ biến thành niềm vui” (Ga 16,20). Chỉ khi nào ở trên trời thì chúng ta mới có thể hoàn toàn vui thôi, còn bao lâu còn ở lại trần gian thì vui buồn lẫn lộn. Và những vui buồn ở đời này có những tính chất khác nhau và những hậu quả khác nhau.

Có những cái vui không trọn vẹn, như lời một bản thánh ca lấy ý từ sách Giảng viên: “Hoa nào không phai tàn, trăng nào không khuyết, ngày nào mà không có đêm, yến tiệc nào không có lúc tàn”.

Có những niềm vui chẳng mấy chốc lại biến thành nỗi buồn. Đó là những thú vui tội lỗi. Thí dụ cái vui của thằng con hoang đàng trong sách Tin Mừng: Khi nó ngụp lặn trong những cuộc trụy lạc thì nó vui, nhưng sau khi cuộc trụy lạc tàn và khi đã hết tiền, nó rơi vào một sự trống rỗng, một nỗi buồn mênh mông.

 Có những nỗi buồn cứ càng ngày càng buồn thêm, không dứt. Đó là cái buồn do hậu quả của một việc làm sai quấy. Thí dụ như cái buồn của Giuđa khi đã phản bội, đã bán đứng Thầy mình. Giuđa buồn đến nỗi phải đi thắt cổ chết. Hay những nỗi buồn của những người ở trong hoả ngục: Họ phải buồn muôn đời muôn kiếp vì họ biết rằng, họ đã mất Chúa muôn kiếp muôn đời.

Một hôm sau khi cầu nguyện, một Linh mục xin Chúa cho được tra vấn một tên quỷ:

- Nhân danh Thiên Chúa, ta hỏi ngươi: Đâu là nơi mà ngươi cho là hạnh phúc nhất?

Tên quỷ thẳng thắn trả lời:

- Dĩ nhiên là ở Thiên Đàng. Ôi! Được nhìn thấy Chúa là tất cả niềm hoan lạc rồi. Với Chúa thời gian chỉ là mùa xuân vĩnh cửu. Nếu ngài lấy mọi vẻ đẹp của muôn vàn châu báu trên trần gian và mọi tinh tú trong vũ trụ rồi đem so sánh với vẻ đẹp của Chúa, thì tất cả cũng chỉ là con số không.

Vị linh mục thắc mắc:

- Ngươi đã được hưởng tất cả những thứ đó, tại sao ngươi lại đánh mất phúc Thiên Đàng?

Tên ma quỷ trả lời một cách hằn học:

- Chỉ vì chúng tôi kiêu ngạo phản loạn. Khổ nỗi là bây giờ đã quá muộn để hối hận.Tất cả chỉ còn là oán thù. Lúc này dù phải chịu mọi cực hình hỏa ngục gom lại cho riêng tôi, tôi cũng sẵn sáng đón nhận, miễn là sau đó tôi được hưởng lại Thiên Đàng trong giây lát. Nhưng đã quá muộn rồi.

2. Nhưng điều đáng chú ý hơn cả là việc Chúa Giêsu nói đến những thứ buồn sẽ biến thành niềm vui.

“Ít lâu nữa các con sẽ không thấy Thầy”. Đó là cái buồn vì không được thấy Chúa.

“Nhưng rồi ít lâu nữa chúng con sẽ lại thấy Thầy… nỗi buồn của chúng con sẽ biến thành niềm vui”: nỗi buồn xa Chúa đã biến thành niềm vui khi các ông gặp lại Chúa Phục Sinh.

Còn đối với chúng ta thì sao? Không phải cái vui nào cũng nên tìm kiếm, và không phải cái buồn nào ta cũng phải tránh xa.

Đối với những thứ vui chóng tàn, chúng ta đừng quá bám víu, để khi nó tàn chúng ta không bị thất vọng. Chuyện đứa con hoang đàng là một thí dụ.

Đối với những thứ vui mà chẳng mấy chốc sẽ biến thành nỗi buồn, ta cũng đừng nên mất công tìm kiếm. Thí dụ Giuđa vui khi nhận được tiền nhưng chẳng mấy chốc tiền đã làm cho Giuđa tuyệt vọng.

Có những việc làm mà hậu quả sẽ để lại những nỗi buồn dai dẳng, chúng ta đừng bao giờ làm.

Nhưng chúng ta hãy biết buồn khi lỡ phạm tội, buồn để sám hối ăn năn, buồn để quay gót trở về với Chúa. Có thể nói đây là nỗi buồn thánh vì nỗi buồn này sẽ biến thành niềm vui.

 “Anh em sẽ lo buồn nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui”.

Milton đã có lần tâm sự: “Mù không phải là khổ, không chịu được cảnh mù mới là khổ”.

Phải biết biến nỗi buồn thành niềm vui.

Một nhà truyền giáo kể lại câu chuyện như sau:

Có một cụ già vừa mới trở lại đạo Công giáo, mỗi ngày cụ đến nhà thương để đọc Kinh Thánh cho các bệnh nhân nào muốn nghe. Thế nhưng, một ngày nọ, cảm thấy có gì không ổn trong mắt, cụ đi khám tại bác sĩ chuyên về khoa mắt và đã biết rằng, mình không còn sử dụng đôi mắt được lâu nữa, vì sắp bị mù mà không còn cách chi để chữa nữa.

Từ đó, người ta không thấy cụ đến nhà thương nữa. Có người nói là đã thấy cụ đi một mình lên núi. Nhiều tuần lễ sau, bỗng nhiên người ta lại thấy cụ trở lại nhà thương và tiếp tục đọc Kinh Thánh như trước.

Trả lời cho những người thắc mắc là cụ đã làm gì trên núi trong những ngày qua, cụ nói:

- Tôi tìm đến nơi thanh vắng để học thuộc lòng các sách Tin Mừng khi tôi còn thấy được, để sau này khi bị mù, tôi vẫn còn có thể đọc Kinh Thánh cho các bệnh nhân nghe”.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 12: Để niềm vui của các con tồn tại


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Đứng trước lời nói của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay với các tông đồ: “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha” (Ga 16, 16), các tông đồ không hiểu và rồi có ba thắc mắc mà các ngài hỏi nhau. Chúng ta thấy như sau:

1-Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy.

2-Một ít nữa các con sẽ thấy Thầy.

3-Vì Thầy về cùng Chúa Cha.

Như thế là có ý nghĩa gì?

Khi các ngài thấy những vấn đề các ngài không hiểu đó thật rộng lớn, khó giải đáp cho thỏa đáng, nên các ngài tự mình an ủi là chỉ hiểu theo kiểu nhỏ bé hơn và dễ tiếp nhận hơn. Đó là: “Một ít nữa có ý nghĩa gì?” (Ga 16, 17 – 18).

Như vậy:

-Hiện tại các tông đồ đang nghe Chúa nói đây, đang nghe Chúa dạy dỗ đây, nhưng trong những ngày mai sắp tới đây, Chúa vâng lời Chúa Cha để Chúa đi vào cuộc khổ nạn, chết tức tửi một cách tủi nhục trên thập giá, các tông đồ sẽ không thấy Chúa nữa. Vì thế mà Chúa đã nói: “Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy “ là như vậy.

-Tiếp đến, sau khi Chúa chết chưa đủ ba ngày, Chúa sẽ sống lại: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ lão, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Các tông đồ sẽ được thấy Chúa. Vì thế mà Chúa đã nói: “Một ít nữa các con sẽ thấy Thầy “ là như thế.

 -Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa còn ở lại với các tông đồ bốn mươi ngày nữa để tiếp tục an ủi, dạy dỗ các ngài, và sau đó Chúa rời các ngài lên trời, về với Chúa Cha, là Đấng đã sai Chúa thế làm người ở với con người chúng ta để cứu độ chúng ta. Vì thế mà Chúa đã nói: “Vì Thầy về cùng Chúa Cha” là như vậy.

Vì thế cụm từ: “Một ít nữa” nghĩa là thời gian không xa, rất gần sẽ xảy ra những gì Chúa đã loan báo, mặc dù đối với Chúa là không có thời gian, thời gian ở trong Chúa, Chúa là chủ thời gian, để qua đó mà các tông đồ hãy chuẩn bị tinh thần, tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa.

Thật sự, trước khi về trời, Chúa đã trao ban sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ain tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ, còn ai không tin, sẽ bị kết án” (Mc 16, 15 – 16), đề rồi các tông đồ khi thực hiện sứ mạng cao cả này, các ngài bị thế gian bách hại. Chẳng những thế mà khi Chúa chịu nạn chịu chết, các tông đồ cũng phải chịu đau khổ nhiều vì mất Chúa, đôi lúc các ngài đau mà nước mắt chảy ngược vào bên trong con người của các ngài: “Chúa Giêsu nhận thấy họ muốn hỏi Người, nên Người bảo họ: Các con hỏi nhau vì Thầy đã nói: Một ít nữa các con sẽ không thấy Thầy, rồi lại một ít nữa các con sẽ thấy Thầy. Thật, Thầy bảo thật với các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu; nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16, 19 – 20). Sau những giai đoạn gian nan thử thách vì trung thành với Chúa, các ngài sẽ được Chúa thưởng công. Đó làđược vui mừng ở với Chúa mãi mãi.

Lạy Chúa phục sinh của chúng con, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã cho chúng con được tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Chúa, xin Chúa, xin Chúa cho chúng con luôn sống trong tâm tình vui mừng vì Chúa sống lại và cho chúng con cũng được sống lại với Chúa sau này. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 13: Nỗi buồn trở thành niềm vui


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm Tuần 6 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã cho Dân Chúa được tham dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua, xin Chúa cho chúng ta được luôn luôn hoan hỷ vui mừng vì Ðức Kitô sống lại.

Luôn hoan hỷ vui mừng vì Ðức Kitô sống lại, cố gắng sống tốt lành để mỗi ngày trở nên giống Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ nhất của thánh Gioan nói về: Chúng ta là con Thiên Chúa, đời sống các con cái Thiên Chúa sẽ như thế nào, điều đó chỉ được bày tỏ cho chúng ta khi Đức Kitô xuất hiện, nhưng, ngay từ bây giờ, sức mạnh của Lời Người giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào, đến nỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.

Luôn hoan hỷ vui mừng vì Ðức Kitô sống lại, giữ vững niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Lêô Cả nói về: Chúa lên trời tăng thêm đức tin cho chúng ta… Chúng ta có một vị Thượng Tế cao cả ngự bên hữu ngai Đấng uy linh trên trời. Chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm. Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín.

Luôn hoan hỷ vui mừng vì Ðức Kitô sống lại, hân hoan loan báo Tin Mừng cứu độ cho tất cả mọi người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Ông Phaolô ở lại nhà họ, cùng làm việc và thảo luận tại hội đường. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 97, vịnh gia cho thấy: Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân. Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy sẽ lại đến với anh em, và lòng anh em sẽ vui mừng. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. Nỗi buồn sẽ trở thành niềm vui, vì Chúa sẽ lại đến, lòng chúng ta sẽ vui mừng. Chúa sống lại đã là lý do vui mừng cho ta thế nào, thì Chúa lên trời và Người sẽ trở lại cũng là đề tài hoan hỷ cho ta như vậy. Chúng ta vui mừng, bởi vì, bản tính yếu hèn của ta nơi Đức Kitô, được đưa lên cao: hơn, các đạo binh trên trời, hơn, tất cả các phẩm thiên thần, hơn, tất cả các quyền thần, để cùng hiển trị với Đức Kitô. Nhờ các công trình Chúa xếp đặt như vậy, ta được xây dựng trên nền móng vững chắc, để, một khi, không còn thấy những điều lạ lùng kinh ngạc nữa, mà đức tin vẫn không suy giảm, đức cậy không lung lay, đức ái không lạnh nhạt, thì, tình thương của Thiên Chúa lại càng tỏ ra diệu kỳ. Sức mạnh của những bậc thượng trí, ánh sáng của những tâm hồn tín trung là đây: tin không do dự những gì mắt phàm không xem thấy, và trông cậy không nao núng những gì tầm nhìn không tới được. Các thánh Tông Đồ trước kia, dù đã được bấy nhiêu phép lạ củng cố, bao lời giáo huấn chỉ dạy, mà vẫn khiếp sợ trước Cuộc Thương Khó của Chúa, và đã do dự không chịu tin Chúa đã sống lại thật, thì, nhờ Mầu Nhiệm Chúa Lên Trời, các ông đã tiến bộ, đến nỗi, tất cả những gì đã làm cho các ông khiếp sợ đều biến thành niềm vui. Khi không còn nhìn thấy Đức Kitô nữa, thì, tâm trí các ông dễ dàng nhìn ngắm Đấng: khi xuống trần không rời xa Chúa Cha, và khi lên trời cũng chẳng lìa bỏ các môn đệ. Đấng rời xa các môn đệ theo nhân tính, lại bắt đầu, hiện diện cách khôn tả theo thần tính. Chúa đã cho Dân Chúa được tham dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua, ước gì ta được luôn hoan hỷ vui mừng vì Ðức Kitô sống lại. Ước gì được như thế!

---------------------------------
 

Thứ 6 PS –Tuần 6/2025

Tình yêu và đau khổ.
30/05 – Thứ Sáu tuần 6 Phục Sinh.
“Niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được”.

 

Lời Chúa: Ga 16, 20-23a


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui.
Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn, vì giờ đã đến, nhưng khi đã sinh con rồi, thì bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn đau, bởi vì đã có một người sinh ra đời.
Các con cũng thế, bây giờ các con buồn phiền, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được. Và trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1: Lòng anh em sẽ vui


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Hiếm khi một đoạn Tin Mừng ngắn
mà lại có nhiều từ nói đến niềm vui, nỗi buồn như vậy.
Khi sắp bước vào cuộc Khổ nạn,
Đức Giêsu không giấu các môn đệ về những thử thách đang chờ họ.
Khóc lóc, lo buồn, than van là những điều họ sẽ phải trải qua (c. 20).
Nhưng tâm trạng đó chỉ là tạm thời.
Niềm vui khi thấy Thầy phục sinh mới là điều còn mãi (c. 22).
Không có một Kitô giáo buồn.
Niềm vui là một trong những nét đặc trưng của Kitô giáo,
bởi lẽ Kitô giáo phát sinh từ Tin Mừng rộn rã, từ tiếng reo Halleluia:
Đức Kitô đã sống lại rồi và đang ở giữa cộng đoàn tín hữu.
Niềm vui ấy vẫn được diễn tả qua nhiều hình thức,
qua tiếng chuông chiều cao vút của nhà thờ,
qua các bài thánh ca dìu dặt đưa hồn bay lên gặp Đấng Tuyệt đối,
qua những nụ cười tươi và tà áo muôn màu của giáo dân đi lễ mỗi Chúa nhật.
Nhưng niềm vui không chỉ có ở nơi nhà thờ, mà còn ở mọi nơi.
Niềm vui trên khuôn mặt một nữ tu cúi xuống vết thương của người phong.
Niềm vui háo hức của một thanh niên bỏ tất cả để xin vào nhà Tập.
Niềm vui bình an của những vị tử đạo Việt Nam trên đường ra pháp trường.
Không thể hình dung một Kitô giáo mà không có niềm vui.
Kitô giáo buồn thì chẳng phải là Kitô giáo nữa.
Thế giới hôm nay có quá nhiều cách để làm cho người ta vui.
Niềm vui dường như có thể mua được bằng tiền.
Người ta tưởng càng sở hữu nhiều, càng hưởng thụ nhiều thì càng vui.
Nhưng chính lúc đó người ta lại rơi vào sự buồn chán.
Thế giới hôm nay là một thế giới buồn.
Ba mươi ngàn người Nhật tự tử trong một năm.
Hiện nay ở Hàn Quốc đang lan rộng tình trạng tự tử tập thể.
Khi đời sống vật chất quá đầy đủ, thừa mứa,
người ta lại không biết mình sống để làm gì.
Kitô giáo phải có khả năng đem lại niềm vui cho thế giới,
không phải thứ niềm vui rẻ tiền, vì mua được một trận cười thâu đêm,
nhưng là thứ niềm vui của người tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống.
Người mẹ phải chịu buồn phiền, đau đớn khi sinh con,
nhưng sinh rồi thì vui sướng, chẳng còn nhớ đến chuyện vượt cạn (c. 21).
Kitô giáo không né tránh đau khổ, cũng không tìm con đường diệt khổ,
nhưng đón lấy đau khổ và tìm thấy ý nghĩa của nó trong tình yêu.
Như người mẹ chịu đau để đứa con chào đời,
người Kitô hữu vui sướng vì thấy hoa trái của những gian truân thử thách.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.

Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy niệm 2: Tầm nhìn phục sinh


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giêsu phục sinh mở ra một thế giới mới và vì thế mở ra một tầm nhìn mới. Thế giới bị phân đôi thành thượng giới và hạ giới. Chúa Giêsu về trời hiển trị. Nhưng các môn đệ còn ở lại trần gian. Chúa như vắng mặt khỏi trần gian. Quyền lực thế gian thống trị thế giới. Sự ác lộng hành. Sự thiện bị áp chế. Thế gian reo cười đắc thắng. Các môn đệ Chúa phải khóc lóc than van.

Nhưng giữa tình trạng tồi tệ đến tuyệt vọng đó, Chúa lại nhóm lên niềm hi vọng. Ta hi vọng vì tuy Chúa vắng mặt nhưng vẫn ở với ta. Dù thế gian toàn quyền thống trị thế giới, nhưng Chúa vẫn âm thầm ở bên cạnh con cái của Người như lời Chúa nói với thánh Phaolô: “Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với anh”. Thế gian hung hăng nhưng Chúa dịu hiền. Thế gian ồn ào nhưng Chúa lặng lẽ. Thế gian tấn công nhưng Chúa che chở. Thế gian hủy diệt nhưng Chúa xây dựng. Thế gian giết chết nhưng Chúa cứu sống. Giữa những hỗn loạn ngay tại dinh quan thống đốc Ga-li-on, Phao-lô đã thoát đi bình an.

Ta còn hi vọng hơn nữa vì Chúa cho biết đau khổ chính là mảnh đất tốt cho cây sự sống mọc lên và kết trái hạnh phúc. Đau khổ là lưỡi cày cày xới ruộng đất cho phì nhiêu. Buồn phiền là phân bón cho cây sự sống lớn mạnh. Khóc lóc phát sinh nước mắt tưới cho hạnh phúc kết trái. Rồi đau khổ sẽ qua. Hạnh phúc sẽ đến. Bấy giờ “nỗi buồn biến thành niềm vui”. Tất cả những gian nan thử thách ở đời này giống như giây phút người phụ nữ sinh con. Khi đến giờ thì rên la đau đớn. Nhưng khi sinh con rồi thì hạnh phúc chứa chan. Sẽ đến ngày Chúa “xé bỏ chiếc khăn che phủ muôn dân… sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người,… sẽ xóa sạch nỗi ô nhục của dân Người”. Đau khổ là điều kiện phát sinh và là tường thành chắc chắn cất giấu kho tàng hạnh phúc, không ai có thể lấy mất được.

Khi ban cho ta niềm hi vọng hạnh phúc, Chúa mở ra một tầm nhìn mới về thế giới hôm nay. Đó là tầm nhìn phục sinh giúp ta nhìn thấy thế giới vô hình. Nhìn thấy tương lai tươi sáng qua hiện tại tăm tối. Nhìn thấy những hạt lúa vàng trên đống bùn đen lầy lội. Nhìn thấy hạnh phúc thiên đàng qua đau khổ trần gian.

Các thánh là những người có một tầm nhìn phục sinh sắc bén, nên có những thái độ ứng xử siêu thoát. Các thánh tử đạo đi ra pháp trường như đi dự tiệc. Các thánh tông đồ hân hoan vì đã bị đánh đập nhục mạ. Chân phước Mẹ Têrêxa Calcutta cám ơn người nghèo vì người nghèo cho Mẹ cơ hội phục vụ Chúa. Sống mầu nhiệm phục sinh ta hãy có tầm nhìn phục sinh. Sẽ thay đổi cuộc đời. Sẽ cho ta niềm hi vọng.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 3: Tình yêu và đau khổ.


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong bài xã luận của bán nguyệt san Công giáo Italia, số tháng 3/1993 có ghi lại gương hy sinh của một người mẹ trẻ tên là Carla Levati, qua đời khi mới chỉ được 28 tuổi. Khi mang thai đứa con thứ hai, Carla được các bác sĩ cho biết chị bị viêm cột sống mà một cuộc chữa trị có thể phương hại trầm trọng đến mạng sống của thai nhi. Với sự đồng ý của chồng, chị Carla chấp nhận đau khổ và ngay cả cái chết, miễn là đứa con được sinh ra lành mạnh. Nhưng vì quá đau đớn, người mẹ đã qua đời 8 tiếng đồng hồ sau khi đứa con chào đời ngày 26/1/1993.

Cái chết của chị Carla đã gây nhiều phản ứng sôi nổi tại Italia. Những tờ báo lớn xuất bản tại Rôma xem sự hy sinh của chị như một hành động hy sinh cao cả chứ không mù quáng. Nguyên tắc của chị Carla tuân theo chính là tình yêu: chỉ tình yêu mới có thể thúc đẩy người mẹ hy sinh mạng sống mình vì đứa con. Nguyên tắc âý không chỉ bắt nguồn từ Tin mừng, mà còn là một đòi hỏi của tình mẫu tử. Người mẹ là người trao ban sự sống bằng chính đau khổ của mình và nếu cần chết đi để cứu mạng sống của con mình.

Ý nghĩa cao cả nơi cái chết của chị Carla có thể giúp chúng ta đi sâu vào Tin mừng hôm nay. Thật thế, chính Chúa Giêsu đã nhận chân ý nghĩa cao cả nôĩ đau đớn của người đàn bà trong khi sinh con. Niềm đau đớn ấy mang một ý nghĩa cao cả đến độ đã được Chúa Giêsu mượn để nói lên chính cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Có đau đớn trong khi sinh con, người đàn bà mới cảm nhận được niềm vui khi đứa con chào đời; có trải qua khổ nạn, Chúa Giêsu mới đi vào vinh quang Phục sinh; và từ nỗi đau khổ được chấp nhận trong tinh thần phó thác hiến dâng, người môn đệ Chúa Kitô mới cảm nhận được niềm vui tái sinh.

Tin mừng hôm nay mời gọi chúng nhìn vào những biến cố cuộc sống với cái nhìn đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tìm thấy được ý nghĩa cao cả của hy sinh; chỉ trong đức tin đau khổ mới mang ý nghĩa của hy sinh và trở thành biểu tỏ của tình yêu. Kitô giáo không phải là một tôn giáo đề cao đau khổ; Kitô giáo không tuyên xưng một Thiên Chúa chỉ biết vui lòng khi thấy con người đau khổ. Kitô giáo thiết yếu là đạo của tình yêu. Chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống: chỉ có tình yêu được cảm nhận trong mọi hoàn cảnh cuộc sống mới có thể khiến cho người hy sinh ngay cả mạng sống mình: chỉ có tình yêu mà con người không ngừng trao ban cho người khác mới thực sự đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 4: Cưu mang: Cứu độ


Để hiểu tầm mức lời này của Đức Giêsu, chúng ta cần tới kinh nghiệm của chúng ta về dự tính, về sinh trưởng và về khởi sự. Cái đà khởi đầu cuộc hành trình xuất phát từ miền phấn khởi, từ mơ ước, chúng ta xây dựng những phương trình đẹp, chỉ huy những giai đoạn thi công, kế hoạch. Chúng ta hình như làm chủ được vận mệnh.

Các tông đồ đã phân phối khi Chúa biến hình lúc đầu sứ vụ truyền giáo, lúc đầu đi chữa các bệnh nhân. Nước Thiên Chúa chẳng bao lâu nữa được thiết lập.

Nhưng sự khó khăn cũng bắt đầu khi bắt tay vào việc: Những vất vả khó nhọc, những bất lực, những hố sâu lòng người. Dù gặp đau khổ, chúng ta cảm thấy vẫn phải cố gắng hy sinh sức lực và mạng sống để đạt tới đích. Đức Giêsu đã biết phải trả giá thế nào để thực hiện kế hoạch cứu độ thế giới, và đến giờ phút treo trên thập giá, Người đã gục đầu xuống. Những kẻ chưa hiểu được công cuộc cứu độ, Đức Giêsu đã tiên báo cho chúng ta biết: Đó là một công việc rất khó khăn. Nhưng Tin mừng đã bảo đảm rằng: mặc dầu có cực khổ, khó khăn, kế hoạch cứu độ của Chúa vẫn được hoàn tất khi đã đặt kế hoạch ban sự sống, thì Người phải thực hiện cho đến cùng.

Theo ý nghĩa đó, hôm nay chúng ta hiểu được sứ điệp đầy hy vọng này là mọi đau khổ được tận hiến đều dẫn đến vui mừng như đau khổ của người mẹ sinh đứa con ra chào đời, cũng thế, mọi kế hoạch được tận tâm thực hiện đều mang lại thành công tốt đẹp, đem lại sự sống.

Muốn thúc đẩy con người tiến đến một đời sống phát triển tươi đẹp, phải mở cho họ thấy chân trời vô tận, nhưng đừng quên rằng hiện tại phải gian lao cùng khổ. Tóm lại hoạt động đem ơn cứu độ đến cho con người sẽ phải cưu mang nhiều giai đoạn đau khổ nhọc nhằn.

Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống kinh nghiệm những giai đoạn đó để tham gia vào công việc cứu độ, dù vì thế mỗi người chúng ta phải thiệt thòi đến mạng sống.

CG.

---------------------------------

 

Suy niệm 5: Niềm vui của các môn đệ


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ðoạn Phúc Âm vừa đọc nối tiếp với đoạn Suy niệm hôm qua về mối tương quan mới cần phải có giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Người đồ đệ cần khám phá ra Chúa Giêsu với đôi mắt đức tin và sống kết hiệp khắng khít mỗi ngày một hơn với Người. Sự sống kết hiệp với Chúa là nền tảng vững chắc với niềm vui không bao giờ mất đi nơi tâm hồn người đồ đệ.

Suy niệm bài Phúc Âm vừa đọc lại trên, chúng ta hãy đào sâu thêm về niềm vui mà Chúa muốn trao ban cho mọi đồ đệ của Người. Ðể được hưởng niềm vui của Chúa, người đồ đệ phải thực hiện một điều kiện căn bản, liên kết với cuộc khổ nạn của Chúa để được ân sủng Chúa thanh luyện. Trong khung cảnh những lời tâm sự mạc khải về cuộc ra đi, tức cuộc vượt qua của Người, Chúa Giêsu long trọng loan báo: “Thật, Thầy bảo thật các con, các con sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng”.

Khóc lóc và than van là hành động của một người thương khóc cái chết của những người thân yêu nhất. Dùng hai từ này để diễn tả hoàn cảnh các môn đệ sắp trải qua, Chúa Giêsu như muốn mạc khải cho các ông về cái chết sắp đến của Người, vừa đồng thời hé mở cho các ông nhìn thấy mối liên hệ của cuộc đời các ông với cuộc vượt qua của Người. Ðây là điều mà sau này thánh Phaolô tông đồ dùng một từ ngữ khác để diễn tả, mang lấy cuộc Thương Khó của Chúa nơi mình, hoàn tất nơi mình những gì còn thiếu trong sự Thương Khó của Chúa là chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Chúa. “Chúng con sẽ khóc lóc và than van vì Chúa sắp chịu chết trên thập giá tủi hổ”. Trong khi đó thì thế gian, tức những kẻ thù của Chúa Giêsu vui mừng, vì họ nghĩ rằng đã loại trừ được một đối thủ, có những lời nói phơi bày tật xấu của họ và không ngừng quấy rầy lương tâm họ.

“Các con sẽ khóc lóc và than van”, lời cảnh tỉnh này còn nhắc cho các môn đệ sự thử thách họ sẽ trải qua trong cuộc khổ nạn và chịu chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúa bị bắt, các ông chạy tán loạn. Chúa bị treo chết trên thập giá và an táng trong mồ, các ông lo sợ, ẩn mình trong phòng, đóng kín cửa; vài người khác thất vọng bỏ về quê. Làm môn đệ của Ðấng chịu đóng đinh không phải là chuyện dễ dàng, êm xuôi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”; “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Nhưng cái chết của Chúa Giêsu chỉ là một giai đoạn dù là giai đoạn không thể tránh né được, Chúa chết đi để rồi sống lại, Chúa ra đi để rồi trở lại, Chúa phục sinh trở lại gặp các môn đệ và biến đổi nỗi buồn thành niềm vui: “Thầy sẽ gặp lại các con và lòng các con sẽ vui mừng và niềm vui của các con không ai có thể lấy mất đi được”.

Niềm vui của các môn đệ đến từ Chúa, do Chúa ban cho, chứ không do những nguyên do nào khác. Nền tảng của niềm vui trong cuộc đời của các môn đệ là sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh trong chính cuộc đời họ. Chúa Phục Sinh đến với các môn đệ phục hồi niềm tin đã bị lung lay chao đảo. Chúng ta cần làm sao để Chúa Phục Sinh có thể đến và hiện diện luôn mãi trong cuộc đời.

Lạy Chúa, xin đến ngự trong con, ban tràn đầy Thánh Thần tình yêu giữa Cha Con, kết chặt con vào Chúa để con được sống an vui mãi mãi, dù giữa những khó khăn thử thách.

Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con luôn.

---------------------------------

 

Suy niệm 6: Niềm vui trọn vẹn


Một người phụ nữ đang mang thai, bà ta sẽ rất sợ hãi khi biết sắp đến giờ bà sinh. Bà thấu được những cơn đau dữ dội, xé lòng mà mình sẽ phải gánh chịu! Tuy nhiên, niềm vui khôn tả sẽ ập đến với bà khi mắt bà nhìn thấy đứa con của mình cất tiếng khóc chào đời.

Thấy được tâm trạng các môn đệ đang hoang mang lo lắng vì sắp phải lìa xa mình, Đức Giêsu đã trấn an các ông và vén mở cho các ông thấy niềm vui sẽ nên trọn: “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được”.

Trong đời sống đức tin của chúng ta, cũng có những lúc đi trong đêm tối của cô đơn, ốm đau, bệnh tật. Những lúc đó, chúng ta chán nản và muốn buông xuôi. Nhưng như bà mẹ mệt nhọc lúc mang thai và đau đớn khi sinh hạ, sau đó, bà sẽ vui mừng khi thấy con mình chào đời. Hình ảnh này cũng là hình ảnh của cuộc đời đức tin nơi chúng ta.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có cái nhìn của đức tin và hy vọng trong nguồn ơn cứu độ, bởi vì: sau khi mưa trời lại sáng; thất bại là mẹ thành công; và nếu ta cùng chết với Đức Giêsu thì cũng được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đón nhận những đau khổ, chấp nhận hy sinh, để từ đó, một ngày kia, chúng con được chan chứa niềm vui vì thập giá sẽ nở hoa cứu độ. Amen.

Ngọc Biển SSP

---------------------------------

 

Suy niệm 7: Chịu đau khổ với Chúa, chia sẻ sự sống lại với Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Để được hạnh phúc có con thơ, người mẹ phải trải qua những giây phút đau đớn lúc sinh nở. Người Kitô hữu cũng phải can đảm chấp nhận cùng chịu đau khổ với Chúa, mới hy vọng có niềm vui được chia sẻ sự sống lại với Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con những niềm vui lớn lao của ngày mùa, sau khi chúng con đã trải qua những tháng ngày gian khổ trên nương đồng. Chúa đã ban cho chúng con được hưởng bao thành  quả sau những ngày vất vả học hành. Vâng, đó là những kinh nghiệm quý giá giúp con hiểu về mầu nhiệm đau khổ. Con tin rằng những đau khổ, hy sinh, cố gắng trên con đường theo Chúa, là dấu hiệu loan báo niềm vui tràn đầy và hạnh phúc đời đời mà Chúa đã dành sẵn cho những môn đệ tín trung.

Xin cho con xác tín rằng: “sau cơn mưa trời lại sáng”, và cơn mưa giông gió ấy sẽ giúp cho bầu trời trong lành hơn, giúp cho đất đai mầu mỡ hơn và giúp cho vạn vật tươi tốt hơn. Chính cuộc đời của Chúa Giêsu Con Chúa, đã là một bằng chứng cụ thể. Ngài đã chấp nhận mọi nỗi đau đớn, tụi nhục, gian khổ, nhưng sau cùng Ngài đã phục sinh vinh hiển, đồng thời Ngài cũng phục sinh toàn thể nhân loại chúng con nữa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con sức mạnh của Chúa để con kiên tâm bền chí mà vững bước qua gian lao thử thách theo Chúa đến cùng. Xin giúp con nhận ra giá trị đích thực của những hy sinh từ bỏ, để con biết mau mắn đón nhận đau khổ trong cuộc sống. Xin đừng để con sống buông xuôi, trái lại xin cho con biết lội ngược dòng để đến cùng Chúa là nguồn suối hạnh phúc đích thực. Amen.

Ghi nhớ: “Niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được”.

---------------------------------

 

Suy niệm 8: Được mời gọi theo đường thập giá Chúa mỗi ngày


(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Người thanh niên hỏi Giuse thành Arimathê, người đã táng xác Chúa Giêsu: “Bây giờ ngôi mộ ông cho mượn đã được trả lại. Ông định làm gì với ngôi mộ đó?”.

Giuse nhìn anh một lúc rồi nói: “Khi nghe Ngài sống lại, tự nhiên là tôi chạy đến mộ. Ngài không còn ở đó. Ngài đã trả lại ngôi mộ cho tôi. Nên điều tôi sẽ làm sau đó là: Tôi đặt một ghế băng dưới gốc cây, đối diện với ngôi mộ trống. Buổi chiều, tôi tới ngồi đó và suy nghĩ: “Giêsu Nadarét đã ngủ trong ngôi mộ này và Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết. Giuse Arimathê cũng sẽ nằm trong ngôi mộ này, và điều Chúa sẽ làm cho ta là gì?”. Chúa Giêsu đã nói: “Ta sống và ngươi sẽ sống”. Tôi có thể tin vào lời đó”.

Suy niệm

Bằng hình ảnh tâm trạng vui buồn của người phụ nữ trước và sau lúc sinh con được Ðức Giêsu dùng để báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài. Qua đó Ngài khẳng định: xuyên qua thập giá đau khổ, mới đến vinh quang phục sinh.

Như hai môn đệ ngay trong ngày Chúa Phục sinh, bước nhanh trên con đường hướng về Emmaus, một làng cách Giêrusalem chừng 11 cây số. Họ buồn sầu chán nản và than thở: “Chúng tôi đã hy vọng chính Ngài sẽ giải thoát dân Israel! nhưng”... (x. Lc 24,13-25), Chúa Giêsu Phục sinh mà họ không nhận ra, qua Kinh Thánh bắt đầu từ ông Môisê, tới các ngôn sứ, đã giải thích: “Ðấng Thiên Sai đã chẳng phải chịu những hình khổ ấy trước khi bước vào vinh quang của Ngài sao?” (x. Lc 24,26-27). Qua đó, Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy rõ mầu nhiệm sự chết và sự sống là nền tảng của cuộc sống của người tin vào Ngài.

Người môn đệ Chúa Kitô, cũng được mời gọi bước trên con đường thập giá theo Chúa trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng sẽ đối diện với thử thách gian nan đau khổ đó là hành trình thập giá, nhưng nếu chúng ta kiên tâm và can đảm vượt qua trong niềm tin vào Đấng Phục Sinh, chúng ta sẽ chiến thắng cùng với Ðức Giêsu và đạt được niềm vui vĩnh cửu.

Thật thế, chỉ có Ngài, Đấng đã chết và phục sinh mới có thể đem lại ý nghĩa cho đời sống của những ai đang mệt mỏi, buồn rầu và tuyệt vọng… Hai địa điểm “ưu tiên” chúng ta có thể gặp gỡ Đấng Phục Sinh để biến đổi đời sống mình: Lời Chúa và Thánh Thể” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI).

Ý lực sống:

“Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16,20).

---------------------------------

 

Suy niệm 9: Qua đau khổ đến vinh quang


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Tâm trạng vui buồn của người phụ nữ trước và sau lúc sinh con được Đức Giêsu dùng để báo cho các môn đệ về viễn tượng Khổ nạn và Phục sinh của Ngài. Một lần nữa Đức Giêsu khẳng  định chân lý “qua đau khổ đến vinh quang”.

Trên con đường theo Chúa, chúng ta cũng sẽ gặp nhiều gian nan đau khổ, nhưng nếu kiên tâm và can đảm vượt qua, chúng ta sẽ chiến thắng cùng với Đức Giêsu và đạt được niềm vui bất diệt.

2. Trước khi bước vào cuộc tử nan, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ khóc lóc và than vãn”, lời cảnh tỉnh này còn nhắc cho các môn đệ sự thử thách họ sẽ trải qua trong cuộc khổ nạn và chịu chết trên thập giá của Đức Giêsu. Chúa bị bắt, các ông chạy tán loạn, Chúa bị treo trên thập giá và an táng trong mồ, các ông lo sợ, ẩn mình trong phòng, đóng kín cửa; vài người khác thất vọng bỏ về quê. Làm môn đệ của Đấng bị đóng đinh không phải là chuyện dễ dàng, êm xuôi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”.

Nhưng cái chết của Đức Giêsu chỉ là một gian đoạn dù là giai đoạn không thể tránh né được. Chúa chết đi để sống lại. Chúa ra đi để rồi trở lại. Chúa Phục sinh trở lại gặp các môn đệ và biến đổi nỗi buồn thành niềm vui: “Thầy sẽ gặp lại các con và lòng các con sẽ vui mừng và niềm vui của các con không ai có thể lấy mất đi được”.

3. Bằng hình ảnh tâm trạng vui buồn của người phụ nữ trước và sau sinh con được Đức Giêsu dùng để báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn và Phục sinh của Ngài. Qua đó, Ngài khẳng định: “xuyên qua thập giá đau khổ, mới đến vinh quang phục sinh.

Như hai môn đệ trong ngày Chúa phục sinh, bước nhanh trên con đường hướng về Emmaus, một làng cách Giêrusalem chừng 11 cây số. Họ buồn sầu chán nản và than thở: “Chúng tôi đã hy vọng chính Ngài sẽ giải thoát dân Israel, nhưng...” (x.Lc 24,13-25), Chúa Giêsu Phục sinh mà họ không nhận ra, qua Kinh Thánh bắt đầu từ ông Maisen, tới các tiên tri, đã giải thích: “Đấng Thiên sai đã chẳng phải chịu những hình khổ ấy trước khi bước vào vinh quang của Ngài sao” (x.Lc 24,26-27). Qua đó, Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy rõ mầu nhiệm sự chết và sự sống lại là nền tảng của cuộc sống của người tin vào Chúa.

4. “Nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui”. Đó là lời Đức Giêsu nói với các môn đệ, một lời khích lệ, một lời tiên báo, một lời hứa và cũng là lời bảo đảm chắc chắn. Thực vậy, khi Chúa chết, các môn đệ buồn phiền, nhưng khi Chúa sống lại, hiện ra với các ông, các ông vui mừng. Hai môn đệ trên đường đi Emmaus, sau khi gặp được Chúa đã phấn khởi vui mừng chạy về Giêrusalem báo tin cho các môn đệ khác. Cô Maria Madalena sau khi gặp được Chúa cũng vui mừng chạy về  báo tin Thầy đã sống lại. Nỗi buồn chia tay nay lại trở thành niềm vui. Lời Chúa báo trước đã thành sự thật: “Bây giờ các con buồn sâu, nhưng khi Thầy gặp lại các con, lòng các con sẽ vui mừng”.

5. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào những biến cố cuộc sống với cái nhìn đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tìm thấy  được ý nghĩa cao cả của hy sinh: chỉ trong đức tin, đau khổ mới mang ý nghĩa của hy sinh và trở thành biểu tỏ của tình yêu Kitô giáo không phải là một tôn giáo đề cao đau khổ; Kitô giáo không tuyên xưng một Thiên Chúa chỉ biết vui lòng khi thấy con người đau khổ. Kitô giáo thiết yếu là đạo của tình yêu. Chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống; chỉ có tình yêu được cảm nhận trong mọi hoàn cảnh cuộc sống mới có thể khiến cho người hy sinh ngay cả mạng sống mình; chỉ có tình yêu mà con người không ngừng trao ban cho người khác mới thực sự đem lại ý nghĩa cho cuộc sống (Mỗi ngày một tin vui).

6. Chân lý “qua thập giá tới vinh quang” là bất biến. Và niềm vui chỉ thật sâu sắc và trọn vẹn sau khi đã kinh qua những nỗi ưu phiền. Niềm vui cao quí nhất dành cho những ai theo Đức Giêsu chính là sau khi trung tín vượt qua cuộc lữ hành trần thế, được gặp Đức Giêsu và hưởng niềm vui Phục sinh trong Nước Trời. Đó là niềm vui vĩnh hằng không ai có thể cướp mất được. Niềm vui mà thánh Phaolô từng nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).

7. Truyện: Qua đau khổ tới vinh quang.

Có một người nọ luôn tỏ ra khó chịu, không thể nhìn bất cứ cái gì đẹp đẽ và khỏe  mạnh. Một hôm đi ngang qua một vùng gần sa mạc, ông thấy một cây dừa non tươi tốt. Ông ta liền nhặt một cục đá khá nặng và đặt vào giữa đọt cây dừa rồi ra đi với nụ cười khoái trá đầy vẻ độc ác.

Cây dừa đã vùng vẫy tìm cách vứt hòn đá đi, nhưng mọi nỗ lực đều vô ích. Cây dừa bèn đổi chiến thuật bằng cách đâm rễ thật sâu xuống tới những mách nước ngầm dưới lòng đất. Sức sống đến từ lòng đất và hơi ấm mặt trời từ trên cao xuống đã làm cho cây dừa trở thành một cây dừa có sức mạnh nâng cả tảng đá lên cao.

Sau nhiều năm tháng trôi qua, người đàn ông kia trở lại với ước muốn hằn học rằng sẽ được nhìn thấy cây dừa oằn mình dưới sức nặng của viên đá. Cây dừa đã cúi sâu cho ông ta xem viên đá vẫn còn nguyên trong đọt non của mình và nói:

- Tôi cám ơn ông, chính viên đá tai ác của ông đã làm cho tôi trở nên mạnh mẽ và trưởng thành.

---------------------------------

 

Suy niệm 10: Sống vui mừng vì sẽ được về trời


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

Các môn đệ được Chúa căn dặn: “Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con” (Ga 16,7). Đó là một cuộc biệt ly. Có cuộc biệt ly nào mà không buồn, không xót, không thương. Cuộc chia ly ở đâu đâu cũng buồn khổ hết. Chia ly ở bên đường, bến đò, ga xe, phi trường, nghĩa địa... đều da diết, đều chết đi trong lòng một ít, và đối với các tông đồ hẳn không phải là ít, vì họ đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.

Trở đi mắc núi, trở về mắc sông. Giờ đây, Chúa ra đi, đi sang một thế giới khác hẳn. Chúng ta thử tưởng tượng các môn đệ lúc ấy bơ vơ biết như thế nào. Cùng lắm họ mới theo đạo Chúa được ba năm. Với ba năm theo Chúa chập chững, giờ đây mất Chúa. Kẻ âm người dương. Từ đây một người Do Thái với 33 tuổi tên là Giêsu, sẽ biến khỏi sân khấu lịch sử của nhân loại, với không gian, thời gian khí hậu của miền Palestin. Cho nên các tông đồ buồn khổ là phải lẽ. Từ đây, lấy ai làm trụ cột mà dựa dẫm, lấy đâu làm nơi nương tựa cho những ngày mệt mỏi đời tông đồ. Chính Chúa Giêsu đã thấy họ buồn và Chúa xác nhận rằng: “Vì Ta đã nói thế nên ưu phiền tràn ngập lòng các ngươi” (Ga 16, 6) Đúng như một kiểu nói:

Mù sương cuộc sống não nề

Thầy đi con ở buồn về ai mang.

Đó là một nỗi buồn nhân loại thấm thía. Nhưng Chúa Giêsu nói rằng phải vượt qua như thế như nỗi buồn khổ của một người mẹ sinh con. Giây phút chờ đợi đứa con ra đời với biết bao nhiêu là lo lắng hồi hộp, cho sự sống cả mẹ lẫn con và cho cả tương lai đứa con... Nhưng khi đứa con ra chào đời thì nó trở thành niềm vui tràn ngập vì đã cộng tác vào chương trình sáng tạo và tiếp tục dòng dõi nhân loại. Người mẹ vui hẳn lên vì tương lai huy hoàng đang chờ đón con mình, và tương lai của người mẹ như được bảo đảm hơn vì có thêm gậy chống cho tuổi đời.

Cũng tương tự như thế, các môn đệ buồn rầu trước cuộc ra đi của Đấng đã chịu đóng đinh vì mình. Họ lo âu cho tương lai đời họ sẽ đi về đâu, số phận của họ sẽ xoay vần ra sao. Nỗi lo âu có trên một phạm vi nhân loại rất là hữu lý, có vẻ là khôn ngoan, lo xa nữa. Nhưng Chúa nói đó chỉ là nỗi lo âu tạm bợ thôi. Cũng như xưa kia các môn đệ lo lắng làm sao ra của ăn nơi hoang địa, thì Chúa đã ban bánh hóa ra nhiều 2 lần. Nơi Vườn Cây Dầu, các môn đệ lo sợ sống những giây phút căng thẳng... Nhưng rồi Chúa đã Phục Sinh hiện đến giữa họ, ban an bình, lấy lại niềm tin hy vọng. Nay niềm vui chưa trọn thì Chúa lại về Trời. Sự vui qua sự sầu lại tới là thường thế đó.

Nhưng các môn đệ đâu có ngờ Chúa về Trời mà vẫn còn ở lại với họ và những người kế tiếp họ cho đến tận thế. Ngài vẫn sống, nhưng sống cách thiêng liêng vượt trên mọi điều kiện không gian, thời gian. Chính nhờ đó các môn đệ không còn cảm thấy lo sợ và họ còn vui mừng đón nhận cái chết như chính Chúa nữa, vì họ biết có phần tốt nhất đang dành cho họ trên Trời.

Đời sống người Kitô hữu luôn luôn bao gồm những lúc chờ đợi với ít nhiều buồn thảm và những lúc gặp gỡ vui mừng. Như một đợt sóng có lúc hạ xuống. Đời sống con cái Chúa cũng bồng bềnh trong đau khổ và niềm vui như vậy. Xin đừng quên Lời Chúa: “Nỗi vui mừng của các con không ai giật mất được” (c.22). Niềm vui của chúng ta là niềm vui đã được Chúa cứu chuộc, không còn bị án nào nữa. Chúng ta đã được gia nhập vào Giáo Hội cùng phép Rửa Tội, được Chúa huấn luyện bằng Lời Chúa, được Ngài nuôi dưỡng bằng Mình Máu Ngài. Mỗi ngày sống chúng ta vui mừng vì sẽ được về gần trời.

------------------------------

 

Suy niệm 11: Buồn vui của người Kitô hữu


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúng ta tiếp tục Suy niệm về những buồn vui của người Kitô hữu.

Chúa Giêsu đã có một nhận xét rất cụ thể và rất hay về vấn đề này: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đã đến giờ của mình; nhưng khi sinh rồi thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã được sinh ra trong thế gian” (Ga 16,21). Đây là một kinh nghiệm cụ thể về việc cưu mang sinh sản. Chúa muốn mời gọi mỗi người chúng ta phải trải qua cưu mang và sinh sản ấy.

“Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (Ga 16,22).

Cách đây không lâu, tạp chí Truyền giáo có đăng một mẫu chuyện ngắn về một bé gái Phi Châu đã chết vì bệnh bạch hầu lúc 13 tuổi. Khi xem lại các đồ dùng quen thuộc của em, cha mẹ em đã đọc được những dòng nhật ký cuối cùng, của em như sau:

“Lạy Chúa, con đang được giải thoát. Trong bóng tối dày đặc của khổ đau và buồn chán, con thoáng thấy bàn tay Chúa đang vẫy gọi con. Nó vụt qua như một tia lửa yếu ớt nhưng cũng đủ chiếu sáng và sưởi ấm lòng con và chẳng ai dành dật được nó khỏi con”.

Thông thường, đau khổ được coi là hình phạt dành cho những kẻ gây ra tội ác. Nếu hình phạt chưa đến với họ, thì đời con đời cháu sẽ phải gánh chịu: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, “Cha ăn nho xanh, con ghê răng” (Ed 18,2).

Chúa Giêsu đã có cái nhìn lạc quan hơn về đau khổ. Với Ngài, đau khổ không hướng về quá khứ, nhưng mở cửa cho tương lai. Con người không tuyệt vọng trong đau khổ, nhưng hy vọng vui mừng vì thành quả của đau khổ.

2. Trước nỗi buồn của các môn đệ vì sự ra đi của Ngài, Chúa mời gọi các ông đừng lắng đọng trong buồn phiền khổ sầu, nhưng hướng về niềm vui tương lai.

Lời nhắn nhủ của Chúa xưa cho các tông đồ cũng là lời được gửi đến cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay: Nếu chỉ ngồi đó mà than trách hoặc đặt câu hỏi thì đau khổ vẫn mãi còn đó nhưng nếu biết hướng về Thập Giá, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa và giá trị của đau khổ. Thập Giá sẽ là ánh sáng soi đường chúng ta trong những tăm tối cuộc đời, và qua Thập Giá, chúng ta sẽ tới được Ánh Sáng.

Tại một miền quê bên Mỹ vào thời lập quốc, có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang vì tội ăn trộm cừu. Dân trong làng đã mở tỏa án để xét xử.

Sau khi nghị án, mọi người đồng ý cho khắc trên trán của mỗi tội nhân hai chữ viết tắt S.T có nghĩa là “kẻ ăn trộm”.

Một trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự xỉ nhục đã trốn sang một vùng khác để quên đi dĩ vãng của mình. Nhưng anh ta không thể xóa nhòa được hai chữ viết tắt trên trán. Bất cứ người nào gặp anh ta, họ cũng tra hỏi anh ta về ý nghĩa của hai chữ ấy. Lại một lần nữa không chịu nổi sự nhục nhã, anh ta lại rời bỏ nơi mình đang cư ngụ để tiếp tục sống lang thang. Cuối cùng, vì mòn mỏi trong cay đắng anh ta đã bỏ mình nơi đất khách quê người.

Nếu người anh đã bị xỉ nhục gặm nhấm đến nỗi phải chạy trốn suốt cả cuộc đời thì người em lại tự nhủ:

“Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì tội ăn trộm mấy con cừu. Tôi phải ở lại đây và tôi phải tái tạo sự tin tưởng nơi những người chung quanh cũng như nơi chính mình”.

Với quyết tâm đó, anh ta đã ở lại trong xứ sở của mình. Không bao lâu anh đã xây dựng được một sự nghiệp lớn và tạo được danh thơm tiếng tốt cho chính mình.

Nhưng dù năm tháng có qua đi, hai chữ S.T vẫn còn ghi trên trán anh. Ngày kia, có người lạ mặt hỏi một cụ già về ý nghĩa của hai chữ ấy. Cụ già suy nghĩ một lát rồi trả lời:

- Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ ấy. Nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng, hai chữ ấy có nghĩa là “Thánh thiện”

Một thi sĩ Ấn Độ đã viết:

“Hãy tin nơi bạn, vì bạn là hình ảnh của Thiên Chúa.

Hãy tin ở ngày hôm nay, vì mỗi phút chứa đựng một dịp may để phụng sự Chúa.

Hãy tin ở những người chung quanh mình, vì bạn hữu là điều quan trọng cho một cuộc sống hạnh phúc.

Hãy tin ở hiện tại, vì hôm qua đã qua đi và ngày mai sẽ không bao giờ đến.

Hãy tin ở tình yêu của Chúa, vì Ngài tha thứ cho bạn và bạn cũng hãy tha thứ cho chính mình”.

Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, và Ngài mời gọi chúng ta cũng đừng thất vọng về mình. Mỗi may mắn là dịp để chúng ta cảm tạ và chúc tụng Chúa. Mỗi thất bại và đau khổ là khởi đầu cho một nguồn ơn dồi dào hơn. Bởi vì trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa luôn yêu thương ta. Amen.

 ------------------------------

 

Suy niệm 12: Không ai lấy được niềm vui của chúng ta


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúng ta khóc là do buồn phiền sầu muộn, và vì sầu buồn phiền muộn nên chúng ta khóc. Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa có nói: “Thứ ba ai khóc lóc ấy là phúc thật, vì chứng sẽ được an ủi vậy” (Mt 5, 5).

Chúa tạo dựng nên chúng ta là để chúng ta được hưởng hạnh phúc chứ không phải để chúng ta khổ đau, khóc lóc, buồn sầu. Buồn sầu, khóc lóc do tội lỗi, do con người chúng ta tạo ra cho nhau. Chúng ta là con cái của Chúa, chúng ta không được làm khổ người anh chị em của chúng ta. Chúng ta phải luôn đem niềm vui cho người khác chứ không phải đem lại nỗi buồn cho họ. Cho nên, khi chúng ta ở nơi đâu trong trời đất này, chúng ta sẽ là niềm vui cho chỗ đấy. Như vậy, chúng ta phải sống theo ý Chúa thì lúc đó chúng ta sẽ là niềm vui, hạnh phúc cho người khác. Người trần gian không giống như chúng ta đâu. Họ luôn gây khổ đau, buồn sầu cho người khác, vì họ không sống theo như ý Chúa muốn. Nhất là họ sẵn sàng đạp lên người khác, vì danh lợi thú, vì những ai dám đụng đến quyền lợi của họ.

Mặc cho lòng người không ai dò thấu, mặc cho người trần gian có gây ra baođau khổ cho chúng ta khi chúng ta sống theo thánh ý của Chúa. Chúng ta hãy đón nhận, không một chút than van, kêu ca, oán hờn trách móc, không manh động dã tâm mưu mô xảo quyệt trả thù. Nếu họ có vả má bên này, chúng ta cũng đưa má bên kia cho họ luôn. Nếu họ kiện đoạt áo ngoài, chúng ta cũng đưa luôn áo trong luôn. Ai xin thì hãy cho, đừng có đòi lại …(xLc 6, 27 – 35). Vì rồi mọi sự sẽ qua đi, Chúa vẫn ở với chúng ta, nâng đỡ chúng ta, ủi an chúng ta và ban cho chúng ta có niềm vui sau này. Chính các tông đồ ngày xưa cũng như thế. Khi Chúa chịu chết, các ngài phải lẫn trốn vì sợ người Do Thái bắt bớ, giết chết các ngài như Chúa. Khi Chúa về trời, các ngài vâng theo lệnh truyền của Chúa ra đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi, các ngài bị người đời ghen ghét, bách hại, giết chết, các ngài chấp nhận với một lòng tha thứ cho người làm hại các ngài và bây giờ các ngài đang hưởng niềm vui đời đời trên thiên đàng. Niềm vui này, không ai lấy được của các ngài, vì Chúa đã ban để thưởng công lòng trung thành của các ngài với Chúa: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: Thật, Thầy bảo thật các con: các con sẽ than van khóc lóc, còn thế gian sẽ vui mừng. Các con sẽ buồn sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ trở thành niềm vui. Người đàn bà khi sinh con thì lo buồn, vì giờ đã đến, nhưng khi đã sinh con rồi, thì bà mừng rỡ, không còn nhớ đến cơn đau, bởi vì đã có một người sinh ra đời. Các con cũng thế, bây giờ các con buồn phiền, nhưng Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và niềm vui của các con không ai sẽ lấy mất được. Và trong ngày đó các con sẽ không còn hỏi Thầy điều gì nữa” (Ga 16, 20 – 23a).

Phần chúng ta, một khi chúng ta sống như các tông đồ của Chúa, nghĩa là chúng ta chấp nhận những điều khổ đau, trái ý cực lòng ….được xem như là Chúa gởi đến, tuy chúng ta có buồn, nhưng chúng ta tin rằng những nỗi buồn sầu sẽ qua đi và Chúa ban niềm vui hạnh phúc cho chúng ta.

Lạy Đấng hằng sống vĩnh cửu của chúng con, xin Chúa cho chúng con và mọi người trên thế giới được hưởng niềm vui ơn cứu độ từ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa để chúng con vui vẻ và có nghị lực đón nhận những thánh giá Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con trong sự vâng phục và trung thành vác theo Chúa đến cùng. Amen.

------------------------------

 

Suy niệm 13: Niềm vui không mất được


(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 6 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ mầu nhiệm Đức Kitô sống lại, Chúa đã tái tạo chúng ta trong Bí Tích Thánh Tẩy, cho chúng ta được hưởng sự sống muôn đời, xin Chúa hướng lòng chúng ta lên cùng Đấng đang ngự bên hữu Chúa, để trong ngày Người trở lại, chúng ta được mặc áo trắng tinh tuyền theo Người vào hưởng phúc trường sinh.

Hướng lòng lên cùng Đấng đang ngự bên hữu Chúa, để yêu như chính Người đã yêu, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích thư thứ nhất của thánh Gioan nói về: Yêu thương anh em như Con Thiên Chúa đã yêu thương, muốn yêu thương như Đức Kitô, phải minh chứng bằng hành động. Vào ngày sau hết, đó sẽ là dấu để Thiên Chúa nhận ra ai là kẻ thuộc về Người. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em.

Hướng lòng lên cùng Đấng đang ngự bên hữu Chúa, để giữ vững niềm trông cậy khi chịu thử thách, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Lêô Cả nói về: Hai cuộc sống: Phêrô và Gioan… Thiên Chúa, nguồn mọi ân sủng, là Đấng đã kêu gọi chúng ta vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô, Người sẽ cho những kẻ phải chịu khổ ít lâu được nên hoàn thiện, vững vàng. Đấng đã làm cho Đức Giêsu trỗi dậy, cũng sẽ làm cho chúng ta được trỗi dậy với Đức Giêsu.

Hướng lòng lên cùng Đấng đang ngự bên hữu Chúa, để can đảm loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Công Vụ Tông Đồ: Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được, vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 46, vịnh gia kêu xin: Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu. Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đức Kitô phải chịu khổ hình, và từ cõi chết sống lại, rồi mới được hưởng vinh quang dành cho Người. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Niềm vui của anh em, không ai lấy mất được. Niềm vui của chúng ta sẽ không bị ai lấy mất, nếu, niềm vui của chúng ta xuất phát từ Chúa, từ việc chúng ta bước theo Chúa trong đau khổ, để được ở với Người trong vinh quang. Trong cõi đất dành cho kẻ chết, dĩ nhiên, phải chịu những nỗi khốn khó của thế gian này; còn trong cõi đất dành cho người sống, sau này sẽ được thấy những phúc lộc Chúa ban. Chúng ta sẽ được giải thoát khỏi những thử thách của cuộc đời này, và sẽ được hưởng hạnh phúc trong cuộc sống mai sau. Hội Thánh đã rao giảng về Ngôi Lời, Đấng đã có lúc khởi đầu, Đấng hướng về Thiên Chúa và Hội Thánh cũng đã rao giảng về những mầu nhiệm cao siêu khác liên quan đến thần tính của Đức Kitô, đến Ba Ngôi Thiên Chúa... Những chân lý này, từ bây giờ cho tới khi Chúa đến, chúng ta chỉ thấy lờ mờ như trong một tấm gương. Chính Đức Giêsu Phục Sinh sẽ phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên mặt đất, để ai nấy tùy theo khả năng, mà có thể đến đón nhận, vì thế, Người đã khuyến khích thánh Phaolô: Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được, vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này. Nhờ mầu nhiệm Đức Kitô sống lại, Chúa đã tái tạo chúng ta trong Bí Tích Thánh Tẩy, cho chúng ta được hưởng sự sống muôn đời, ước gì chúng ta biết hướng lòng lên cùng Đấng đang ngự bên hữu Chúa, để trong ngày Người trở lại, chúng ta được mặc áo trắng tinh tuyền theo Người vào hưởng phúc trường sinh. Ước gì được như thế!

---------------------------------
 

Thứ 7 PS –Tuần 6/2025 - 31/05 Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét

Nhận ra dấu chỉ của Chúa.
31/05 – Thứ Bảy tuần 6 Phục Sinh – ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT. Lễ kính.
"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?"

 

Lời Chúa: Lc 1, 39-56


Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.
"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Maria ở lại độ ba tháng


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Từ Nadarét, Chị Maria đã phải đi 160 cây số
để đến nhà ông bà Dacaria.
Ngày nay, người ta cho rằng nhà của ông bà tư tế này là ở En Kerem,
một ngôi làng nằm trên đồi, vây bọc bởi những cây ô liu và vườn nho,
cách Giêrusalem 6 cây số về hướng tây.
Cuộc hành trình vất vả, dài như cuộc hành hương lên Đền Thánh.
Chị Maria không đi một mình,
chắc Chị đi với một người bà con.
Hơn nữa, chị đi với Giêsu đang lớn lên trong lòng Chị.
Khi nghe sứ thần nói bà chị họ Êlisabeth già nua đang mang thai,
Maria thấy mình có bổn phận phải vội vã lên đường.
Chị muốn đem đến cho bà Êlisabeth sự hiện diện của Chị.
Một sự hiện diện khiêm tốn và lịch sự.
Chị đã mở lời chào khi vừa bước vào nhà ông bà tư tế Dacaria.
Chúng ta không rõ Maria đã chào như thế nào,
nhưng lời chào của Chị đã làm bật dậy nơi bà Êlisabeth
một chuỗi những âm vang mạnh mẽ và bất ngờ.
Tai vừa nghe lời chào của cô em Maria,
Êlisabeth thấy thai nhi trong lòng mình nhảy lên vì vui sướng (cc. 41, 44).
Lập tức bà được đầy tràn Thánh Thần.
Thánh Thần đã khiến bà nhận ra những mầu nhiệm lớn lao
đang diễn ra trong cuộc hạnh ngộ ở đây, vào giây phút này.
Êlisabeth lớn tiếng ca ngợi Maria là người phụ nữ diễm phúc nhất.
Maria có phúc vì được chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu độ (c. 42),
và vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với mình (c. 45).
Ngỡ ngàng và ngây ngất trong hạnh phúc, Êlisabeth kêu lên:
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa của tôi đến với tôi thế này?” (c. 43).
Như thế mầu nhiệm ẩn kín nơi Chị Maria, bà Êlisabeth đã biết.
Ngược lại, khi thấy bà chị họ của mình mang thai,
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần đã nói với mình.
Một sự hiện diện mang tính phục vụ.
Maria đã ở với bà Êlisabeth độ ba tháng để giúp bà trong lúc sinh nở.
Tất cả những việc trong nhà, hẳn chị Maria đã tận tâm chu tất.
Khi Chị nhận mình là nữ tỳ của Chúa (Lc 1, 38),
khi bà Êlisabeth gọi Chị là Mẹ của Chúa tôi (c. 43),
thì Chị lại trở nên nữ tỳ phục vụ bà chị họ cao niên.
Sự hiện diện của Chị đem lại cho cả nhà niềm vui và hạnh phúc.
Giêsu vẫn lớn lên từng ngày trong Chị, và Chị cảm nhận điều đó.
Lời ca Magnificat chẳng phải chỉ được cất lên một lần.
Lời ngợi khen ấy thấm nhuần cuộc sống của Chị.
Mãi mãi Chị là nữ tỳ hèn mọn được Thiên Chúa cúi xuống (c. 48).
Và Chị biết mình cũng phải cúi xuống để phục vụ tha nhân.
Mọi cuộc gặp gỡ của chúng ta hằng ngày đều có tính linh thánh.
Trong niềm vui của Thánh Thần, ta vừa cho đi, vừa nhận lãnh,
vừa ngợi khen Chúa, vừa phục vụ con người.
Ước gì chúng ta thấy mình lớn lên nhờ dám mở ra để gặp gỡ.
 
Cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2. Thân mẫu Chúa đến với tôi


--‘Manna’

Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Đấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
và chị cưu mang Đấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc tính của một người phục vụ tốt?
Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện đó?

Cầu Nguyện

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 3. Đức Mẹ Thăm Viếng


--GM GB. Bùi Tuần

1. Mấy ngày nay tôi đau nhiều. Đêm rồi, những cơn đau làm tôi không sao ngủ được. Tôi nghĩ tới lễ Đức Mẹ đi thăm Bà Elisabét (31.5.2014). Tôi lần chuỗi mân côi, và nói với Đức Mẹ: “Mẹ ơi, con đau lắm, đứng lên không được. Xin Mẹ thương con. Mẹ có thể đến thăm con, được không?”. Tôi nói như thế nhiều lần. Rồi lại lần chuỗi.

2. Một lát sau, tôi cảm thấy có một sự gì lạ xảy ra trong tôi. Tôi dần dần như được trầm mình vào một dòng nước thiêng liêng. Dòng nước thiêng liêng ấy rửa tôi khỏi tình trạng lo âu. Tôi cảm thấy tâm hồn được bình an nhẹ nhàng. Tôi thấy mình thực bé nhỏ, hèn mọn, yếu đuối. Đột nhiên, tôi nhớ lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Với lời đó, Chúa dạy tôi và các môn đệ Chúa hãy là hạt lúa gieo vào lòng đất, để chịu chết đi, thì mới được cùng với Chúa cứu các linh hồn.

3. Khi đề cập đến việc cứu các linh hồn, tự nhiên tôi được một ánh sáng thiêng liêng cho thấy: Hiện nay rất nhiều người đang bị quỷ Satan khống chế, xiềng xích, lôi kéo từ tội nọ sang tội kia. Để sau cùng phải sa xuống hoả ngục. Cứu được chỉ một người ra khỏi quyền lực Satan đã là chuyện không dễ chút nào, phương chi cứu nhiều người. Ngay để cứu chính mình cũng là việc không tự mình làm được. Dứt khoát phải nhờ vào Chúa. Mà, để được Chúa cứu, thì hãy khiêm nhường. Hết sức khiêm nhường.

4. Tôi như thiếp đi. Rồi tỉnh lại. Tôi nhận ra là Đức Mẹ đã đến thăm tôi. Tôi không nhìn thấy Đức Mẹ. Nhưng chính ở sự Đức Mẹ đến một cách kín đáo tế nhị, mà tôi càng mến phục sự khiêm nhường của Đức Mẹ.

Tôi cảm được sự khiêm nhường của Mẹ là một vẻ đẹp và là một hương thơm, dấu chỉ tình yêu cứu độ của Mẹ.

5. Việc Đức Mẹ thăm tôi đã qua rồi. Tôi hết lòng cảm tạ Mẹ. Có hai điều Mẹ để lại trong tôi một cách đặc biệt.

Điều thứ nhất là cảnh nhiều người thời nay bị Satan khống chế.

Chính tôi đã thấy và đang thấy cảnh đó. Thực là ghê gớm. Phúc Âm kể lại một người bị quỷ ám xin Chúa cứu. Chúa hỏi quỷ tên là gì? Nó thưa: Tên tôi là đạo binh.Chúa bắt quỷ phải ra khỏi người đó. Chúng nhập vào đàn heo gần đấy. Đàn heo rất đông từ sườn đồi lao mình xuống vực thẳm (x. Lc 8,26-33). Tôi dám nói là hiện nay các đạo binh quỷ nhập vào một người, một gia đình hay một cộng đoàn cũng đang xảy ra, tuy dưới hình thức nhẹ hơn. Chúng vẫn còn đó. Những người bị ác thần nhập nhiều khi cảm thấy rất khổ, muốn thoát, nhưng không tự mình thoát được. Đức Mẹ dạy tôi là các con của Mẹ hãy sống như hạt lúa gieo vào lòng đất, làm của lễ hy sinh, để cùng với Chúa Giêsu mà cứu họ.

6. Điều thứ hai là sự nhiều môn đệ Chúa thời nay đang dần dần coi thường đức khiêm nhường.

Đúng lý ra, người môn đệ của Chúa phải luôn coi mình làkẻ được Chúa sai đi, vì thế phải quan tâm làm tốt những gì Chúa muốn mình làm vì lợi ích các linh hồn. Sống như thế đòi phải rất khiêm nhường. Nhưng thực tế đang xảy ra khác. Nhiều người môn đệ Chúa lại tự đánh giá mình theo những gì mình biết làm, theo khả năng của mình, như mọi người trong xã hội mình sống, chứ không như Chúa muốn. Do đó, họ coi cạnh tranh uy tín, địa vị là bình thường, coi đấu tranh giành thắng lợi cả trong lãnh vực tôn giáo cũng là chuyện hãnh diện, coi tìm vinh quang cho cá nhân mình cũng là làm cho Chúa.

7. Những điều trên đây được Mẹ nhắc nhủ cho tôi. Tôi nhận biết là đạo đức đang xuống dốc ở ngoài đời cũng như ở trong đạo. Tôi quyết sửa ngay nơi bản thân tôi. Nhưng thú thưc tôi chưa làm đủ, làm đúng như Chúa muốn. Tôi sám hối và cầu xin Mẹ thương thêm sức cho tôi. Đức Mẹ thôi thúc tôi hãy tận dụng thời gian còn lại để cùng với Chúa cứu các linh hồn. Nếu chần chừ, tưởng chừng mọi sự sẽ êm xuôi cả, chẳng có gì xấu sẽ xảy ra đâu, thì ai biết được những bất ngờ có thể xảy ra!

8. Khi tôi đang ngồi viết gần xong bài này, thì tôi nghe còi xe cứu hoả rú. Từ xa rồi gần lại. Tôi mở cửa đi ra, thì thấy xe cứu hoả đang ở sân Toà Giám Mục. Tôi hoảng sợ. Hỏi ra, thì biết dân xung quanh thấy khói đen bốc ra từ một căn phòng khu nhà góc Toà Giám Mục. Họ gọi xe cứu hoả. Đúng là đang có cháy do chập điện. May mà kịp cứu. Tôi nghĩ tới những bất ngờ.

9. Thực sự tôi đang thấy những bất ngờ đau đớn đang xảy ra đó đây trên thế giới, trong khu vực, trên Quê Hương và ngay tại địa phương bé nhỏ này. Bất ngờ này kéo theo bất ngờ khác. Tôi hỏi Đức Mẹ, thì Mẹ cho tôi nhớ lại tất cả những gì Đức Mẹ đã cảnh báo ở Fatima. Sẽ có những cơn đau đớn bất ngờ khủng khiếp xảy ra, nếu người ta không sám hối và khiêm nhường tỉnh thức.

Tôi cầu xin Mẹ thương đến viếng thăm Đất Nước Việt Nam yêu dấu của tôi. Xin Mẹ ban cho tất cả đồng bào tôi được yêu thương nhau, biết bảo vệ và phát triển những giá trị đạo đức thiêng liêng cao quý.

Lạy Mẹ, xin đến cứu con khỏi mọi tội lỗi.

---------------------------------

 

Suy Niệm 4. Đức Mẹ Đi Thăm Viếng


--GM GB. Bùi Tuần

Phụng vụ Hội Thánh định ngày 31 tháng 5, để kính nhớ biến cố Đức Mẹ Maria đi thăm viếng bà thánh Isave.

Hằng năm, đến lễ này, tôi thường làm ba việc sau đây:

1/ Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà thân mẫu của Gioan Baotixita. Nhờ cuộc viếng thăm này, Gioan Baotixita được thánh hoá, sau này trở thành người dọn đường cho Đấng Cứu thế.

2/ Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà mẹ già Isave. Nhờ đó Mẹ làm gương cho muôn đời: về sự người trẻ, dù chức cao quyền trọng, nên biết cộng tác với người già, trong chương trình cứu độ.

3/ Nguyện cầu Mẹ vẫn tiếp tục đi thăm các con cái Mẹ, nhất là thăm những đứa con nghèo túng, bệnh tật, lầm lạc, thiếu mọi phương tiện để hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra..

Tôi xin phép triển khai đôi chút ba việc kể trên.

Thánh hoá Gioan Baotixita.

Phúc Âm thánh Luca thuật lại: “Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Giacaria, và chào bà Isave. Bà Isave vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng bà Isave như nhảy lên và bà được tràn đầy Thánh Thần. Bà liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này. Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng chị nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,39-45).

Rõ ràng, bà Isave đã được Chúa soi sáng cho biết người em họ còn rất trẻ của mình mới nhận một vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Chúa. Chúa soi sáng cho bà qua một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là bào thai bà đang mang bỗng nhảy mừng, khi Đức Mẹ vừa cất tiếng chào.

Tôi thấy các dấu chỉ trên đây đều xảy ra một cách rất âm thầm. Sự hiểu được ý nghĩa các dấu chỉ này cũng rất âm thầm. Tất cả diễn ra trong bầu khí thanh vắng của nội tâm. Nếu nội tâm không có sự thanh vắng, chắc chắn những ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần sẽ không thể được nội tâm đón nhận.

Xin cảm tạ Chúa đã cho Đức Mẹ và bà thánh Isave một thanh vắng êm đềm trong nội tâm sâu thẳm và nhạy bén.

Xin cảm tạ Chúa vẫn ban cho thời này những nội tâm như thế theo gương Đức Mẹ và bà thánh Isave.

Những việc thánh hoá như thánh hoá Gioan Baotixita vẫn được Chúa làm trong thời nay, cũng vẫn một cách âm thầm lặng lẽ như xưa.

Thế nhưng, thời nay, tại nhiều nơi, việc thánh hoá, thánh hiến, đang có vẻ đóng khung vào những cơ chế mang nặng hình thức, như lễ nghi rườm rà, y phục nhất định, kinh sách dài dòng, hát xướng huyên náo. Thêm vào đó là những tổ chức đón tiếp, trình diễn, mừng chúc, tiệc tùng, tặng quà, trong bầu khí náo động nhộn nhịp, ồn ào. Những khung cảnh như vậy có thể tốt với nhiều điều kiện. Nhưng xem ra đang có chiều hướng phát triển theo tinh thần thế tục. Nếu cứ vậy, thì sẽ không còn sự thanh vắng nội tâm cần thiết. Thay vào đó sẽ là một “sự thánh hoá, thánh hiến” ồn ào, hội nhập vào sự ồn ào của một thế giới hướng ngoại rất xa lạ với sự thánh hoá thực chất của Phúc Âm.

Cộng tác giữa trẻ với già.

Kinh Thánh tả việc Đức Mẹ đi viếng bà Isave là một cuộc “lên đường vội vã” (Lc 1,39). Người vội vã lên đường chính là một người phụ nữ rất trẻ, mới mang thai Chúa Cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần.

Với niềm tin như thế, Đức Mẹ có thể tự hào, tự đắc, tự tin. Nhưng không. Đức Mẹ đã vội vã lên đường. Hướng đi là tìm đến người chị họ Isave. Bà Isave là người đàn bà mà chính thiên sứ Gabriel gọi là “đã già rồi” (Lc 1,36), nhưng mới được thụ thai con trai nhờ ơn Chúa thương ban.

Khi nhìn những bước đi thầm lặng, vất vả, vội vã của người phụ nữ trẻ Maria, Mẹ Đấng Cứu thế, tôi rất xúc động. Mẹ băng qua bao nhiêu dặm đường, để lên vùng núi, tìm thăm người chị họ đã già. Những bước đi vội vã đó đáng trân trọng hơn muôn vàn quà tặng.

Nhưng khi thấy trong giây phút vừa gặp nhau, người chị họ già lại là người chúc khen người em họ còn trẻ, tôi bàng hoàng bỡ ngỡ. Thánh Isave đã mở lòng Maria, để từ đó trào ra những lời tạ ơn Chúa.

Hình ảnh cuộc gặp gỡ thân thiết giữa một bà mẹ trẻ và một bà mẹ già là một gợi ý. Đối với tôi, đó là một gợi ý về sự cộng tác giữa trẻ và già. Hai bên cùng tự do cộng tác, không do áp lực nào. Nhưng cả hai cùng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Hai bên nói đây không phải chỉ hiểu về hai cá nhân. Nhưng cũng được hiểu về cả một thế hệ đi sau và thế hệ đi trước.

Sự cộng tác này hiện nay trở nên cần thiết, khi nhiều tổ chức xem ra đang có nguy cơ phá sản về kỷ cương, và các giá trị đạo đức truyền thống.

Mẹ tiếp tục đi thăm.

Để cứu nguy, nhiều nơi đang phát động việc hành hương đến những nơi Đức Mẹ hiện ra. Người ta vẫn tin những nơi đó linh thiêng. Vì những nơi đó được Đức Mẹ viếng thăm. Tôi rất hoan nghênh những cuộc hành hương đó.

Nhưng, khi suy gẫm về biến cố Đức Mẹ đi thăm viếng bà thánh Isave, tôi vẫn nghĩ rằng: Đức Mẹ có tấm lòng muốn chia sẻ Tin Mừng, muốn hướng về những người khác, muốn lên đường, ra đi cứu độ. Vì thế, tôi thường cầu xin Đức Mẹ thương đến thăm tôi, khi tôi không thể đi hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra. Tôi cũng xin điều đó cho mọi người, không phân biệt họ là ai.

Tôi rất xác tín sự Đức Mẹ có lòng thương xót đặc biệt đối với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị trói buộc vào những hoàn cảnh éo le không sao gỡ được. Tôi xin Mẹ đoái thương đến thăm họ.

Hiện nay, nhiều người không công giáo và công giáo, hoặc công giáo bê bối, vẫn thích mang giữ ảnh tượng Mẹ trong nhà và trong mình. Hiện tượng đó cho phép tôi nghĩ rằng: Đức Mẹ đang tìm cách đến thăm từng gia đình và từng người. Thăm một cách lặng lẽ, nhưng thân mật. Từ đó, nhiều người nhận thức dần dần về một thế giới thiêng liêng. Đồng thời họ khát mong gặp được một Đấng thiêng liêng, để đời mình khỏi mất hướng.

Tôi hy vọng những con cái Mẹ cảm nhận được điều đó, để biết bước theo Mẹ và thay Mẹ đến thăm cứu giúp những người đang chìm dần xuống cảnh khổ nguy.

Để kết, tôi xin phép kể một câu chuyện nhỏ:

Một bà mẹ đi chợ, một tay xách giỏ, một tay ẵm đứa con nhỏ . Ở một góc chợ, có một bà lão ăn mày, hai tay giơ lên, miệng nài khẩn kẻ qua người lại. Bà mẹ bồng con đứng lại, rút ở giỏ ra chiếc bánh và ít tiền. Bà không đưa trực tiếp cho bà ăn mày. Nhưng trao cho đứa con đang bồng trên tay. Bà ngồi xuống, bảo con đưa bánh và tiền cho bà lão ăn mày. Đứa bé vâng lời thực hiện từng chi tiết mẹ dạy. Làm xong, đứa bé tỏ vẻ vui mừng hớn hở. Nó làm thay cho mẹ nó.

Bà mẹ đó đã nói với tôi: Bé của con làm thay cho con. Nhưng con cũng làm thay cho Đức Mẹ. Lời đơn sơ đó đủ nói cho tôi sứ mạng mà Mẹ Maria đang trao cho con cái Mẹ trong cuộc sống hôm nay. “Hãy thay Mẹ đi thăm viếng những người khốn khó”. Việc thăm viếng này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Yếu tố quan trọng nhất của mọi cách thăm viếng theo gương Mẹ là tấm lòng tế nhị, nhạy bén và thương cảm trong Chúa Giêsu.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5. Thăm viếng bác ái và truyền giáo


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Việc Đức Maria thăm viếng gia đình ông Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét vừa có tính cách bác ái vừa là truyền giáo. Truyền giáo là cùng với Chúa Giêsu đến chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kẻ khác và phục vụ họ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã đem Chúa đến gia đình ông Gia-ca-ri-a. Cuộc thăm viếng này không những đem lại niềm vui, mà còn đem ân sủng của Chúa xuống trên gia đình người chị họ neo đơn, nhờ đó mà Thánh Gioan Tiền Hô được tẩy sạch tội lỗi, nhảy mừng trong lòng bà Ê-li-sa-bét.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng con rất thường gặp gỡ, thăm hỏi nhau. Bạn bè tri kỷ thỉnh thoảng tâm sự với nhau, bên ly cà phê nóng, bên ly rượu lai rai..., rồi những dịp ma chay cưới hỏi trong xóm trong làng. Thế nhưng con tự hỏi: những khi gặp gỡ kẻ khác, không biết con đã thực sự đem lại niềm vui và ơn thánh của Chúa cho kẻ khác chưa. Con chỉ có thể đem Chúa đến cho kẻ khác khi con có Chúa ở trong mình theo cung cách của Đức Mẹ. Chúa ở trong cung lòng của Đức Mẹ vừa là Thiên Chúa quyền năng, vừa là người con rất thân thiết. Lạy Chúa, khi rước Chúa mỗi ngày, con có Chúa ở trong tâm hồn con. Xin Chúa cho con đón nhận Chúa với tất cả tấm lòng. Đối với con, không những Chúa là Thiên Chúa của con mà còn là Đấng thân yêu nhất, là Đấng mà con có thể hiến dâng cả cuộc sống, có thể hy sinh từ bỏ tất cả những gì ngăn cản con sống với Chúa. Xin Chúa sống trong con như Đấng con quý mến nhất, yêu thương nhất.

Con tin rằng khi đó con có thể đem Chúa đến với người mà con gặp gỡ, để chính họ cũng đón nhận được chính Chúa. Xin Chúa dạy con đem Chúa đến với kẻ khác bằng thái độ yêu thương, phục vụ, chân thành và khiêm hạ giúp đỡ tha nhân. Amen.

Ghi nhớ: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”

---------------------------------

 

Suy Niệm 6. Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Êlisabeth


--GM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan

Anh chị em thân mến,

Chúng ta đang đứng trước một cuộc thăm viếng vừa là chuyện của cuộc đời thường, mà cũng là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu vừa đầu thai trong lòng mẹ đã đi thăm vị Tiền Hô tương lai của mình. Cả hai còn trong lòng mẹ mà đã biết nhau. Đức Giêsu đem Thánh Linh đến, Gioan Tẩy Giả trong lòng đã nhảy mừng chào đón Người.

Nhưng hôm nay nhân ngày lễ hành hương kính Mẹ, tôi muốn anh chị em ngắm nhìn dung mạo và tâm hồn Mẹ, người tín hữu đệ nhất của Tân Ước trước mầu nhiệm đi viếng này, và đây là bài học quý giá cho cuộc đời tín hữu của chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay làm nổi bật những thái độ tâm hồn của Đức Mẹ như sau:

Mẹ là người có một Đức tin sâu thẳm.
Mẹ là người có tâm hồn nghèo khó tuyệt vời.
Mẹ là người có con tim tràn đầy tình chia sẻ.

1. Đức tin sâu thẳm của Đức Mẹ.

Trong lời chào mừng được Thánh Linh soi sáng của bà Êlisabeth, ta thấy một lời tán dương thật bất ngờ: “Phúc cho em là người đã tin rằng, Chúa đã thực hiện những gì người đã nói với em” (Lc 1,45).

Chúa đã nói gì với Đức Mẹ? Đó là lời sứ thần chuyển đến cho Mẹ trong giờ truyền tin: “Thánh Thần Chúa ngự xuống trên bà, và quyển năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh mà bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Đây là cuộc thụ thai nhiệm mầu, người trần không ai hiểu được. Tiếng xin vâng của Đức Mẹ lúc đó là cả một niềm tin sâu thẳm vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ ôm ấp thánh ý Chúa vào lòng và nguyện cầu cho thánh ý đó trọn vẹn nơi mình. Tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là một quyết định vào đời trong Đức Tin, là tiếng nói “có”, không do dự với Thiên Chúa trước một tương lai đang mờ mịt. Con thuyền đời của Mẹ ra khơi mà không nghĩ gì đến sóng gió ba đào, có thể chờ đợi mình. Tiếng Xin Vâng của Mẹ là cả một niềm tin yêu, phó thác cả tương lai mình cho Thiên Chúa. Là sẵn sàng cho gươm đâm thâu trái tim, là chứng kiến và hiệp thông với sự hy sinh của người con yêu trên thập giá.

Tại nhà bà Êlisabeth, Mẹ nhận được một lời tán dương: “Em có phúc”, không phải vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà là Mẹ đã tin, đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa dẫn dắt mình qua những nẻo đường mới lạ.

Cuộc sống của người tín hữu đúng nghĩa là sống trong thánh ý Thiên Chúa, là bước đi trong Ánh sáng của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, mà nhiều lúc ta thấy không giống với lý luận của người đời, nhiều lúc phải dám nói như thánh Phaolô: “Sự khôn ngoan của người đời là sự dại dột trước mặt Thiên Chúa”. Cuộc đời đầy gian nan, đầy thập giá, người đời coi đó là vô phúc, là thiếu khôn ngoan, thì người tín hữu phải đánh giá đó là của lễ Tình yêu theo Tin Mừng, Chúa mời gọi ta dâng hiến.

Để đạt tới hạnh phúc như vậy, ta cần phải học cho được tâm hồn nghèo khó của Đức Mẹ.

2. Tâm hồn nghèo khó của Mẹ.

Tâm hồn nghèo khó là bài học đầu tiên Chúa dạy các môn đệ Ngài: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

Tại nhà bà Êlisabeth, Mẹ đã thể hiện tâm hồn nghèo khó đó như thế nào. Tinh thần hay tâm hồn nghèo khó thì khác với sự thiếu thốn về vật chất mà ta thường coi là bất hạnh. Cùng với tâm hồn nghèo khó là tâm hồn khiêm tốn, nhận ra mình là tạo vật do Chúa dựng nên từ chút vật liệu tầm thường là bùn đất, tro bụi. Nếu chúng ta có trở nên người may mắn, thông minh, tài giỏi, giàu sang hay quyền thế, tất cả đều do Chúa ban cho. Đừng tự mãn như là tự mình tạo nên được. Philatô nói với Chúa: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”, Chúa đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”.

A đam - Evà đã lầm, khi thấy mình được tự do nói “không” hay nói “có” với Thiên Chúa, bèn quên đi hồng ân đầy tình thương đó, không chịu nghe lời chỉ bảo của Ngài, để theo Satan ăn trái cấm mong được quyền hành như Ngài. Cứ ăn bừa trái cấm, ăn rồi mới thấy mình trần truồng, nghĩ là không còn chi nữa. Mất Chúa là tai hoạ lớn nhất,khủng khiếp nhất cho con người.

Trong bài ca tạ ơn tại nhà bà Êlisabet, Mẹ dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, khi bà Êlisabet ngợi khen Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, lập tức Mẹ lại xưng mình là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Mẹ đang nhìn thấy Chúa dẹp tan  người lòng trí kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, bắt người giàu có trở thành tay không. Đó là những kẻ cứ tưởng mình là chúa của mình.

Bài học khiêm nhường của tâm hồn nghèo khó là bài học cứu độ cho con người, và khi Chúa Kitô muốn dâng một của lễ xoá tội trần gian, Ngài đã hạ mình vâng lời Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập tự.

Muốn làm con Chúa, muốn có hạnh phúc Nước Trời, ta cần suy gẫm và cầu xin Đức Mẹ dạy bảo cho chúng ta biết bài học của Chúa Kitô: Sống hiên lành và khiêm nhường trong lòng. “Hãy học cùng Ta,vì Ta hiền lành và  khiêm nhường trong lòng” đó là hạnh phúc thật.

3. Con tim tràn đầy chia sẻ của Đức Mẹ.

Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta không bỏ qua được tâm hồn nghèo khó đi đôi với con tim tràn đầy tình chia sẻ của Đức Mẹ. Làm người ai mà không cần đến tình thương. Tham lam, ích kỷ đang làm hao mòn tình thương trên mặt đất nầy.

Từ Nazaret đến Ain Karim, Mẹ đã lên đường mang theo Chúa Giêsu cùng đi với Mẹ. Trước hết thì Mẹ với tư cách là bà con, Mẹ muốn chia vui khi nghe Tin Mừng thiên thần báo thụ thai cách lạ lùng, trước đó 6 tháng. Mẹ cũng hiểu ý Chúa quyền năng muốn mời gọi Mẹ mang theo sứ mệnh mừng vui và bình an cho chị họ mình, khi Mẹ lên đường có  Chúa đi theo. Một hoạt động mang tính nhiệm mầu và bác ái.

Cuộc gặp gỡ người ta quen nói là mẹ gặp mẹ, con gặp con và Thánh Linh thì hoạt động. Bà Êlisabet được đầy Thánh Thần và chào mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Gioan thì nhảy mừng trong dạ mẹ, còn Đức Mẹ không ngớt lời ngợi khen Thiên Chúa.

Thiên Chúa tình yêu đang ở giữa lòng Mẹ. Tình yêu đó đang đốt nóng cõi lòng Mẹ, và mọi cử chỉ, hành động của Mẹ đều chan chứa tình yêu.

Mầu nhiệm này cũng là biến cố có liên hệ đến cuộc sống của chúng ta hôm nay. Mỗi người tín hữu vẫn cưu mang Chúa trong cuộc đời đức tin của mình. Sống ở đâu chúng ta cần biết biểu lộ tình yêu để làm chứng cho Chúa ở trong chúng ta và chúng ta là môn đệ Chúa, mọi sự bắt nguồn từ tình yêu.

Gia đình  Kitô giáo nào cũng phải là mẫu mực của sự thuận hoà, đầm ấm vì có Chúa tình yêu luôn hiện diện trong gia đình của mình. Và đàng khác nhiệm vụ khẩn trương mà mỗi Kitô hữu không thể quên là phải biết giới thiệu Thiên Chúa Tình Yêu cho biết bao người thành tâm thiện chí muốn biết Chúa.

Chúng ta đến Tàpao xin nhiều ân huệ của Mẹ, xin đừng quên điều Chúa nhăn nhủ: Hãy loan báo Tin Mừng Tình Yêu cho người nghèo khó. Xin Mẹ ban cho chúng ta ân huệ đó.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7. Người phụ nữ diễm phúc


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

A- Phân tích (Hạt giống...)

Đức Mẹ Maria được bà Êlisabét gọi là người có phúc nhất trong tất cả các phụ nữ. Qua đoạn Phúc Âm này, ta có thể thấy được một số lý do khiến Đức Mẹ diễm phúc như thế:

- Vì Mẹ có đức tin vững mạnh: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”.

- Vì Mẹ luôn có Chúa Giêsu trong mình

- Vì Mẹ biết quan tâm mang hạnh phúc đến cho người khác

- Vì Mẹ biết sống như một “người nghèo của Thiên Chúa”: “Kẻ đói nghèo Ngài ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”.

B- Suy gẫm (... nẩy mầm)

1. Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.

Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)

2. “Bà Maria lên đường, vội vã đến miền núi, vào một thành thuộc chi tội Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét.” (Lc 1,39-40)

Mẹ Maria ơi! Ngày xưa Mẹ thật đơn sơ và dễ thương khi hăng hái lên đường giúp bà Êlisabét. Những bước chân nhẹ nhàng, đầy niềm vui phục vụ. Rồi ngày Mẹ lo lắng sợ hãi đem trẻ Giêsu trốn sang Ai cập. Những bước chân nặng nề, cuống cuồng vì tai họa trần gian… Và con không cảm nhận hết tâm trạng của Mẹ khi theo sau Chúa Giêsu trên đường lên núi Sọ. Nhìn những giọt máu của con mình cùng cái chết dành cho loại tử tội xấu xa, những bước chân nhục nhã, đau khổ… Thánh giá Mẹ vác quá nặng mà Mẹ vẫn vượt qua và bước tới.

Con cũng biết “Tin” là “Bước đi”. Nhưng nhiều khi con chới với, con ngã lòng, con chưa có sức bước trong sự dẫn dắt tuyệt vời của Thiên Chúa. Con chưa tin đủ.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con xác tín rằng những bước chân vui buồn khấp khểnh ở đời này, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh hôm nay sẽ làm nên lối nhỏ dẫn lên Trời nếu con bước với lòng phó thác, tin yêu. (Hosanna)

---------------------------------

 

Suy Niệm 8. Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Vừa mang thai Đức Giêsu, Đức Maria đã vội vã đi thăm bà Elizabeth. Đức Mẹ vừa vào nhà thì việc lạ đã xảy ra: hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth! Được Chúa Thánh Thần soi sáng bà đã cất tiếng ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Lãnh sứ mạng sinh Chúa Cứu Thế, Đức Maria đã nghĩ ngay đến người khác. Mẹ đem Chúa đến cho thân nhân, Mẹ thực thi bác ái trọn hảo. Và theo lời bà Elizabeth, Mẹ nêu gương lòng tin tuyệt vời vào Lời Chúa phán hứa. Chính nhờ niềm tin vững mạnh đó mà Mẹ đã được Thiên Chúa chọn sinh Đấng Cứu Thế.

Phải có tinh thần biết chia sẻ cho người khác

Sau khi đón nhận tin cưu mang Đấng Cứu thế, Đức Maria đã vội vàng đi thăm gia đình Giacaria để chia sẻ niềm vui trong gia tộc. Mẹ ra đi loan truyền niềm vui cho bà chị họ và đem Đấng Cứu Thế đến cho Gioan Tẩy giả. Vì thế, thai nhi nhảy mừng trong lòng mẹ như là lời đáp trả được đón nhận niềm vui cứu độ mà Tin mừng đã trình bày. Maria đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho chính Mẹ niềm vui, niềm vui chờ đón Con Mẹ khi dấn thân phục vụ mà Mẹ đã biểu lộ qua lời ca Magnificat.

Con người không những cần được cung cấp của ăn thức uống cho thân thể, nhưng còn phải được chia sẻ tâm tình trong cuộc sống. Đúng là: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chúng ta cũng phải theo gương Đức Mẹ mà biết chia sẻ cho người khác vì như người ta nói: “Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, còn nỗi buồn mà được chia sẻ thì được giảm đi một nửa”.

Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng

Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi cho mình nữa.

Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niềm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tín về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà bây giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong kinh ngợi khen Magnificat.

Đức Maria, mẫu gương của bác ái

“Đức Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia sẻ vui buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến ba, bốn ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.

Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, lại phải mất ba bốn ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái dặm trường. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của bác ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Đức Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.

Truyện: Lòng bác ái của bác sĩ Longet

Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.

Được hỏi tại sao ông quý mến bệnh nhân như thế?

Bác sĩ Longet đáp:

- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.

Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ; bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở Giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.

---------------------------------

 

Suy Niệm 9. Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ


--Lm Giuse Đinh Tất Quý

A. Thánh Luca thuật lại một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: người mẹ già và người mẹ trẻ.

- Người mẹ trẻ là người đến thăm. Người đó chính là Đức Maria, người đang mang Chúa Giêsu trong lòng, người được gọi là người “có phúc hơn mọi người nữ”, và là người có một niềm tin tuyệt vời.

- Người mẹ già là người được thăm: Đó là bà Êlizabeth. Bà cũng đang cưu mang. Người con bà cưu mang là người con của ân sủng. Người mẹ già và cả con người con của mình đều cảm thấy được diễm phúc trước sự xuất hiện của người mẹ trẻ “Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy! Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng chị”.

+ Cuộc viếng thăm mà thánh Luca thuật lại là cuộc viếng thăm tuyệt đẹp: dẹp trong ý nghĩa và đẹp trong thành quả.

Đẹp trong ý nghĩa bởi vì đây là cuộc viếng thăm của hai người mẹ đang cưu mang trong mình những con người thánh.

Và đẹp trong thành quả vì cuộc viếng thăm này đã đem lại những kết quả tuyệt vời: Gioan Tẩy giả được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ và Mẹ Maria đã để lại cho hậu thế một bài ca, một bài ca thánh, có một không hai trong Lịch sử ơn Cứu độ, để nói lên tâm tình tạ ơn và ca tụng lòng nhân từ của Thiên Chúa

+ Chúng ta cầu xin cho cuộc viếng thăm này trờ thành mẩu mực cho các cuộc viếng thăm nhau của chúng ta.

B. Quả vậy khi nhìn vào cuộc sống xô bồ ngày nay, chúng ta thấy chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống nơi thành thị. Có khi hai người ở sát nhà nhau mà không gặp nhau suốt cả tháng trời. “Tình nghĩa láng giềng” ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng”, và “sống chết mặc bây”. Linh mục Azevedo nhận xét: ngay cả những tu sĩ ở cùng một cộng đoàn mà nhiều khi chỉ “sống bên cạnh nhau” chứ không phải “sống với nhau”. Câu chuyện Đức Mẹ lặn lội đường xa đến thăm và giúp đỡ bà Êlisabeth là một lời nhắc nhở những người sống cạnh nhau hãy nhớ đến nhau.

Hơn nữa khi chúng ta thăm nhau, thử hỏi chúng ta đã đem lại được gì tốt đẹp cho những người chúng ta viếng thăm hay chỉ là những chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc là ngồi lê đôi mách. Việc thăm viếng nhau như thế chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm dịp tội cho nhau và là dịp để nói xấu người khác.

 Có lẽ chúng ta cũng phải thành thực kiểm tra lại những cuộc thăm viếng của chúng ta xem: Tôi có mang Chúa đến cho người tôi thăm viếng hay không? Những điều tôi nói có phải là Tin Mừng khiến người được tôi thăm cảm thấy được bình an và hạnh phúc hơn không?

Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ.

Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:

- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.

Ông ta trả lời hững hờ:

- Tôi đã quen sống như vậy rồi.

- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.

Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?

Ông la trả lời cộc lốc:

- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.

Tôi hỏi ông:

- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?

- Dĩ nhiên.

Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:

- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng.

Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.

Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.

-------------------------------

 

Suy Niệm 10. Đức Maria vội vã lên đường


--Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên

George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.

Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.

Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?".

Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống".

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.

Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Isave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.

Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.

Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.

Tưởng niệm biến cố Mẹ lên đường đến viếng thăm bà Isave trong ngày cuối tháng hoa này, mỗi người Kitô chúng ta được mời gọi để tin tưởng hơn bao giờ hết sự hiện diện đầy ưu ái của Mẹ có sức mang lại cho chúng ta niềm vui, sự can đảm để tiếp tục dấn bước trong cuộc lữ hành trần gian này.

Những lúc mệt mỏi trong cuộc sống, những lúc tối tăm bao trùm cuộc sống, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ. Một vài Kinh Kính Mừng mà chúng ta có thể chỉ đọc một cách máy móc, đó chính là những giây phút chúng ta đến ngồi bên Mẹ. Ðó không là những phút giây vô ích, trái lại sự thanh thản của Mẹ, lòng quảng đại của Mẹ sẽ là nguồn nâng đỡ chúng ta.

(Trích trong ‘Lẽ Sống’)

-------------------------------

 

Suy Niệm 11. Cuộc viếng thăm tình yêu


--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tin mừng ngày Lễ Thăm viếng cho chúng ta chân dung của hai người mẹ diễm phúc nhất trần gian: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Isave, mẹ Gioan Tiền Hô.

Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui, diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần tác động trên Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Isave. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15). Đó là một Lễ Ngũ Tuần đầu tiên mà bà Isave nói dưới tác động của ThánhThần. Đức Maria đã tiếp đón một cách đơn sơ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cung lòng Mẹ. Cuộc gặp gỡ ngoại hạng này cũng như sáng ngày Phục Sinh, bí mật nầy của Thiên Chúa được giao phó cho phụ nữ trong niềm hân hoan vui sướng chỉ có thể đến từ Chúa Thánh Thần.

Thánh Luca thích nói rằng Thánh Thần sẽ “được đổ tràn đầy trên mọi xác thịt”, khi trích dẫn những lời của tiên tri Gioel. Bà Isave trở thành nữ tiên tri. Bà kêu lên, bằng giọng của lời tung hô phụng vụ : “Maria, em thật có phúc giữa tất cả phụ nữ và hoa trái lòng em được chúc phúc”.

Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.

Đức Maria đã đi thăm người chị họ Isave. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.

Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang và giữa hai giao ước cũ và mới.

- Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ơ lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Isave được ơn Thánh Thần  đã xưng tụng Đức Maria  là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.

- Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, thì con trẻ Gioan trong lòng mẹ Isave nhảy mừng vui sướng.

- Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.

Cuộc viếng thăm của Đức Maria là cuộc viếng thăm của tình yêu.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Đức Phật nói: “Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”. Ngài gọi cái khổ ấy là “ái biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.

Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.

Khi đến thăm bà Isave, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Isave vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Isave, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Isave là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.

Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Isave  đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.

Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con yêu dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn 2000 năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.

Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.

Có đôi bạn trẻ yêu nhau đã nhiều năm nhưng hai gia đình không chấp nhận vì vấn đề tôn giáo. Cô gái là con của gia đình đạo đức. Chàng trai là con gia đình theo đạo ông bà. Nhà gái muốn con rễ theo đạo mới gã con gái. Nhà trai không chấp nhận vì họ quan niệm, con trai theo đạo là bỏ tổ tiên ông bà. Khi đến thăm gia đình chàng trai, qua vài câu chuyện mở đầu, tôi thắp mấy nén nhang trước bàn thờ tổ tiên với lòng thành kính. Hai ông bà quá đổi nhạc nhiên: Cha xứ Nhà thờ mà thắp nhang trước bàn thờ ông bà mình ư? Tôi giải thích cho họ về đạo hiếu về việc thắp nhang của người kitô hữu. Họ nhận ra là lâu nay họ hiểu lầm về đạo Công giáo nên không cho con theo đạo. Hai ông bà vui mừng và sẵn sàng cho con trai gia nhập đạo. Hạnh phúc đến với đôi bạn trẻ ấy. Niềm vui bừng lên khi mọi khúc mắc được giải toả.

Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.

Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẽ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.

Đức Maria viếng thăm, phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Isave. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương  cho mọi tín hữu noi theo Mẹ. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẽ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của con cái Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ  những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 12. Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời


--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Nói và viết về Mẹ còn gì hạnh phúc bằng? Ngôn từ của thế gian vẫn chỉ có giới hạn không thể diễn tả nổi những điều con người muốn nói về Mẹ, đặc biệt người Mẹ ấy lại cao trọng hoàn toàn hơn bất cứ người Mẹ nào ở trần gian. Mẹ có tên là Maria, người nữ tỳ của Thiên Chúa. Tên Maria bao hàm tất cả những gì đẹp nhất, cao quý nhất mà từ ngữ của con người xem ra không đủ để diễn tả toàn vẹn  về Mẹ.

“Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét” (Lc 1, 39-40). Nói lời xin vâng cùng Thiên Chúa, Mẹ Ma-ri-a đã rất tế nhị, vội vàng lên đường, vượt đồi, qua núi, đến xứ Giu-đê-a, để chia vui với bà chị họ của Mẹ là bà Ê-li-sa-bét cũng đang mang thai con trong lúc tuổi già.Cái thai đã được 6 tháng: “…Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 36-38). Mẹ Maria lòng hân hoan, dạ đơn thành, đã quên hết sự mệt nhọc vì đường xa, khó khăn để tới với bà chị họ yêu quí, để chia sẻ hồng ân vô biên Thiên Chúa đã ban cho Mẹ và bà Ê-li-sa-bét: “Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 40-45).

Mẹ được ân phúc như lời chào của bà Ê-li-sa-bét không chỉ có nghĩa là Mẹ làm Mẹ của Chúa Giêsu về mặt thể lý, nhưng qua cung lòng trinh khiết, không vương tì ố, Mẹ trở nên đền thờ Thiên Chúa, Mẹ thông ban Thần khí là chính Thần khí của Chúa Giêsu. Ma-ri-a trước khi cất cao lời ca ngợi hồng ân vô biên của Thiên Chúa đã đoái thương Mẹ và bà chị họ Ê-li-sa-bét, Chúa Thánh Thần đã tỏ lộ cho bà Ê-li-sa-bét hiểu rõ rằng người phụ nữ đang ở trước mặt mình không chỉ là người em họ của mình nhưng đó chính là Mẹ của Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43). Phần Mẹ Ma-ri-a, Mẹ cũng nhận ra rằng đứa con đang trong lòng dạ của bà chị họ Ê-li-sa-bét, không phải là một đứa con bình thường, nhưng là một quà tặng quí giá, vị tiền hô Thiên Chúa ban tặng để Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Điều này đã xẩy ra sau đó 30 năm bên bờ sông Giođan, khi Gioan chỉ cho nhân lọai thấy Đấng Cứu Thế: “Đây Chiên thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Mẹ cất tiếng ca tạ ơn Thiên Chúa qua kinh “Magnificat “. Đây mãi mãi nói lên tâm tình sâu kín của tâm hồn cầu nguyện của Mẹ. Mẹ đã ca ngơi hồng ân của Thiên Chúa. Một hồng ân vô giá của Thiên Chúa trao ban nhưng không cho Mẹ và cho nhân lọai. Tất cả đều là ân sủng. Thiên Chúa đi tìm những gì nghèo hèn và yếu kém để nâng dậy và bù đắp. Mãi mãi Mẹ và nhân lọai ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa vì ơn cứu độ chứa chan nơi Chúa Giêsu.

Cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng của Mẹ Ma-ri-a và bà chị họ Ê-li-sa-bét có tính cách hết sức lịch sử trong cuộc hành trình đức tin để nhận lãnh ơn cứu độ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cung lòng khiết trinh của Mẹ đã thúc đẩy Mẹ đem niềm vui tới cho bà chị họ và nhân lọai qua thánh Gioan Tiền Hô đang được bà Ê-li-sa-bét cưu mang. Đây là sự chia sẻ, sự quan hệ giữa người với người. Đi thăm viếng là ra khỏi nhà mình, nhưng ý nghĩa quan trọng là ra khỏi chính bản thân của mình, quên mình, quảng đại chia sẻ tình thương và đến với con người. Đây cũng là ý lực giúp chúng ta ra khỏi cái vỏ an toàn, sự ích kỷ, để co cụm lại trong con người của mình, để vượt qua mọi trở ngại, mọi thử thách, đến với mọi người để cảm thông, phục vụ, hy sinh loan báo Tin Vui, giới thiệu Đức Kitô cho nhân lọai, cho con người. Và như thế, cuộc gặp gỡ của Mẹ và bà Ê-li-sa-bét mang ý nghĩa thật cao cả, tuyệt vời.

Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ đã mau mắn ra khỏi nhà, ra khỏi chính mình để quảng đại đến và ở lại phục vụ bà chị họ Ê-li-sa-bét, để cùng với bà chị họ, ca ngợi, tạ ơn hồng ân tuyệt vời Thiên Chúa đã làm cho Mẹ, cũng như cho bà chị họ. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 13. Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth


--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Nghe các bài đọc Lời Chúa trong Thánh lễ kính Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth hôm nay, chúng ta như nghe được tiếng reo vui và những nụ cười hân hoan mừng rỡ, niềm hân hoan và tiếng reo mừng này là tiếng reo mừng của Dân Chúa sau hàng ngàn năm mong đợi lời Chúa hứa nay đã được thực hiện.

Trước hết là niềm hân hoan sung sướng của hai bà mẹ: Bà Maria và Bà Elizabeth, Tin mừng cho thấy: Trong những ngày ấy, Maria vội vã lên đường ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giudea và vào nhà ông Zacaria – Elizabeth. Cụm từ trong những ngày ấy, nói lên sư sốt sắng hân hoan của mẹ ngay sau biến cố truyền tin thưa tiếng xin vâng, biến cố ấy đem lại cho mẹ niềm hân hoan hạnh phúc vì mẹ biết rằng đã đến thời Thiên Chúa viếng thăn Dân Người, và lời của các tổ phụ, các ngôn sứ nay đang được thực hiện nơi cung lòng của mẹ, vì mẹ vừa cảm nhận một mầm sống mới nảy sinh trong lòng mẹ chính là Con Thiên Chúa. Niềm vui ngâp tràn trong lòng mẹ, đây không chỉ là niềm vui riêng của mẹ, mà còn là niềm vui của cả dân tộc và của cả nhân loại, vui vì Đấng Cứu Độ đã đến, Mẹ vui mừng hân hoan vì Thiên Chúa không còn ở xa, nay Ngài đã đến và ở trong tâm hồn Mẹ, Mẹ vui vì mẹ có Chúa trong tâm hồn.

Một khi có Chúa trong tâm hồn, thì người ta không thể ngồi im và giữ riêng cho mình, cũng vậy, khi có Chúa, Mẹ Maria đã muốn đem Chúa đến cho người khác, qua thái độ vội vã của mẹ, chúng ta nhận ra điều đó. Đồng thời, với một tâm hồn nhạy bén, Mẹ biết rằng người chị em của mình cũng đang tràn ngập niềm vui mừng vì: Chúa đã cất đi nỗi tủi nhục cho bà, cho bà Elizabet được mang thai khi tuổi đã cao. Chính vì thế, niềm vui của cả hai người phụ nữ như đã đan quyện vào nhau ngay khi họ vừa gặp nhau, vừa cất lời chào nhau, Bà Elizabet cũng đã được Thánh Thần soi sáng và nhận ra ân lộc đầy tràn mà Chúa ban cho cô em gái mình là Maria, bà đã cất lời ca tụng mẹ: Em thật có phúc hơn mọi người nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc, còn Mẹ Maria thì cất lên lời ngợi khen: Linh Hồn tôi ngợi khen Đức Chúa.

Cũng nhờ Ơn Thánh Thần soi sáng, mà lần đầu tiên, Bà Elizabét đã gọi em của mình là Mẹ Thiên Chúa: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi? Đây là một chức vị vô cùng cao trọng mà Chúa ban cho Đức Maria, nay được bà Elizabet xưng tụng. Bà Elizabet cũng cho thấy niềm vui sướng ấy còn lan tỏa đến Gioan, lúc đó còn đang là một thai nhi ở trong lòng bà cũng đã nhảy lên vì vui sướng. Theo các thánh giáo phụ, thì cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ, song cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con và là cuộc gặp gỡ giữa Thiên chúa và Dân Người, cuộc gặp gỡ đem lại ơn cứu độ. Cùng với lời xưng tụng Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, Bà Elizabeth còn ca tụng mẹ Maria: Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện. Tất cả những lời ca tụng của bà Elizabeth dành cho Mẹ cũng là lời tuyên xung ca tụng của toàn thể giáo Hội và nhân loại tôn vinh mẹ.

Lời reo vui của hai người phụ nữ này đã được tiên tri Sophonia tiên báo: Reo vui lên hởi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào nhà Israel hỡi vì Đức Chúa đã rút lại án phạt, đã đẩy lui quân thù, Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa. Vị Tiên tri đã nhìn thấy trước ngày này, ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa, ngày Ngài viêng thăm để đem ơn cưu độ cho dân Người đem lại an vui và hạnh phúc cho xứ sở.

Cùng những lời ca ngợi và tâm tình dạt dào niềm vui của Elizabeth, Đức Maria đã diễn tả niềm vui sâu thẳm của Mẹ qua lời kinh Ngợi khen. Mẹ nhìn nhận tất cả những những sự lạ lùng đang diễn ra trong cuộc đời Mẹ là bởi quyền năng Thiên Chúa và tình thương của Ngài đang bao phủ cuộc đời Mẹ: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi. Mặc dù được bà Elizabet goi mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Đức Maria chỉ dám khiêm nhường nhận mình là thân phận nữ tỳ hèn mọn, không dám mơ tưởng ước muốn điều gì, tất cả những gì đang xảy ra là vì Chúa đã ghé mắt đến Mẹ, Mẹ ý thức rất rõ rằng, chính vì được Chúa nhìn tới, được Chúa yêu thương nên Mẹ trở nên đáng yêu trước mặt Chúa, và được mọi người khen ngợi.

Mừng lể Đức Maria đi thăm bà elizabeth hôm nay, chúng ta được mời gọi nhìn vào tấm gương của Mẹ, Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc đem Chúa đến cho tha nhân, một khi đã gặp Chúa, một khi có Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng được mời gọi, hay nói đúng hơn được thúc đẩy để ra đi, để lên đường trở thành người đem Chúa đem niềm vui đến cho người khác. Chúng ta được mời gọi sống làm sao để mọi người gặp gỡ tiếp xúc với chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang ở trong tâm hồn chúng ta, trở thành người đem niềm vui và hạnh phúc đến cho người khác. Chúng ta sẽ không thể đem niềm vui đến cho người khác khi chúng ta không thực sự vui, cũng vậy chúng ta không để đem hạnh phúc và bình an đến cho người khác khi tâm hồn và cuộc sống chúng ta không hạnh phúc không bình an.

Để có sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn, thì điều cần thiết trước tiên đó phải là một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn ngay thẳng trong lời nói và hành động; kế đến, đó phải là một tâm hồn có Chúa: Chúa chỉ cư ngụ trong tâm hồn của những người khiêm nhường thực sự, dám mở rộng cánh cửa tâm hồn để cho Chúa đi vào, dám nuôi dưỡng để cho Ngài lớn lên trong tâm hồn của mình. Chúa đang chờ đợi để được bước vào tâm hồn mỗi người, qua việc rước lễ mỗi ngày, qua việc lắng nghe và gẫm suy Lời Chúa, Chúa sẽ đến ở với chúng ta và biến cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta ngập tràn niềm vui hạnh phúc và bình an, và thúc đẩy chúng ta đem niềm vui và bình an đến cho anh chị em mình.

Ngày nay do bận rộn với công việc, hầu như con người đánh mất thói quen thăm viếng nhau, giúp đỡ nhau, mừng lễ Mẹ đi thăm viếng bà Elizabet, là dịp để chúng ta nhìn lại các mối tương quan họ hàng bạn bè, để biết dành cho nhau những phút giây thân tình, hãy đến với nhau bằng sự chân thành và quảng đại, hãy dành cho nhau những tình cảm thân thiện, để góp phần làm cho bầu khí gia đình, lối xóm, xứ đạo mỗi ngày thêm ấm cúng thân tình hơn.

Xin Đức Mẹ giúp chúng ta cũng có được cái nhìn nhạy bén của trái tim, nhận ra những nhu cầu của anh chị em, và quảng đại giúp đỡ chia sẻ. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 14. Thăm viếng yêu thương phục vụ


--Lm. Anmai, C.Ss.R

Thăm viếng! Một nhu cầu hết sức tự nhiên, hết sức bình thường của con người và chuyện bình thường như thế thì có gì đâu để mà nhớ, để mà mừng. Mỗi một cuộc thăm viếng mang ý nghĩa, mang niềm vui, mang ý nghĩa khác nhau nhưng cuộc thăm viếng của Đức Trinh Nữ Maria hết sức đặc biệt để rồi ngày hôm nay Giáo Hội mừng kính cuộc thăm viếng của Mẹ. Cuộc thăm viếng của Mẹ được trọn vẹn niềm vui bởi vì Mẹ đã lên đường một cách vô vị lợi và Mẹ đã mang Chúa đến cho người khác.

Thánh Sử Luca ghi lại rất ngắn gọn: “Khi ấy, bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1, 39). Đơn giản thế thôi: đi đến miền núi. Ngày hôm nay đi lên miền núi cũng là một điều khó khăn huống hồ gì thời của Đức Mẹ. Nếu như tính toán về phương tiện đi lại, điều kiện vật chất thì chẳng ai dại gì mà đi đến cái vùng núi xa xôi hẻo lánh như vậy. Vượt trên cách trở của địa lý và vượt trên sự tính toán thường tình của con người, Mẹ Maria đã ra đi và ra đi một cách “vội vã”. Thánh Sử thêm chữ “vội vã” như muốn nói về lòng hăng say, nhiệt tình của Mẹ dù là lên núi khó khăn cách trở. Nếu lên núi với cái bộ mặt ũ rũ, với cái thái độ lề mề chậm chạp chắc có lẽ là chán lắm, đàng này Đức Mẹ đã “vội vã”!

Một cách diễn tả đơn sơ, vài ba hàng ngắn gọn, chúng ta nhận ra Đức Maria đã đi thăm bà chị họ mình với một tâm tình hết sức là dễ thương, nhiệt tình, chịu thương, chịu khó …

Đặc biệt hơn các cuộc thăm viếng khác ở chỗ là vừa vào nhà, bà Êlisabét nghe tiếng Bà Maria chào thì bỗng dưng đứa con trong bụng nhảy lên. Không chỉ đứa con trong bụng nhảy lên mà mẹ nó được “đầy Thánh Thần”. Đến đây thì quá rõ, chẳng còn gì phải bàn cãi nữa, cuộc thăm viếng của Đức Mẹ quả thật là hết sức đặc biệt và đầy ý nghĩa.

Cuộc thăm viếng của Mẹ vốn đã có ý nghĩa nhưng với xã hội ngày hôm nay, ý nghĩa ấy lại càng được nhân lên gấp bội vì lẽ ngày hôm nay, người ta tính toán với nhau nhiều quá, người ta đã khép lòng lại với anh chị em đồng loại nhiều quá! Và có đi thăm đi chăng nữa cũng chỉ với cái hình thức của con người, của cuộc đời là “có qua có lại mới toại lòng nhau” chứ không còn mang ý nghĩa vô vị lợi như Mẹ nữa. Hơn nữa, khi Mẹ thăm viếng, Mẹ đã không chỉ tung hô Chúa, giới thiệu Chúa mà còn mang Chúa lại cho người khác. Và trong cuộc đời, nếu nhìn kỹ một chút, nếu chìm lắng một chút: có Chúa là có tất cả.

Và thử dừng lại một chút để nhìn lại cuộc đời của Mẹ. Đâu phải bỗng dưng hay vô tình mà Mẹ có Chúa và Mẹ mang Chúa cho người khác. Nếu như Mẹ không có Chúa thì làm gì Mẹ có thể mang Chúa cho người khác, Mẹ chia sẻ niềm vui có Chúa trong đời Mẹ cho người khác được.

Điểm này trong cuộc thăm viếng của Mẹ hết sức quan trọng: muốn mang Chúa, muốn giới thiệu Chúa cho người khác thì trong mình, trước tiên phải có Chúa. Và muốn có Chúa như Mẹ, cần và cần lắm đời sống chiêm niệm, đời sống đơn sơ hoàn toàn tín thác cho Chúa.

Nếu như Đức Maria ồn ào náo động như nhiều người Do Thái cùng thời với Mẹ thì làm sao mà Mẹ có Chúa được? Nếu như Đức Maria trông chờ vào Đấng Mêsia như nhiều người Do Thái thời ấy trông chờ thì làm sao mà Mẹ cưu mang Đấng Cứu Độ trần gian thật được? Và nếu như Đức Maria là người sống bề ngoài, sống cái bề nổi của cuộc đời thì làm sao mà Mẹ khiêm tốn sống trong sự quan phòng của Chúa được.

Nơi Mẹ Maria, có một dấu ấn hết sức đặc biệt đó là Mẹ hết sức quảng đại. Chúng ta, ngày hôm nay, nhiều khi cứ vun vén cho bản thân mình với lối sống đậm chất của ích kỷ, của vun vén nên hình ảnh quảng đại của Mẹ ngày hôm nay cũng là một bài học hết sức to lớn của mỗi người chúng ta. Khi Mẹ cho đi niềm vui thì niềm vui của Mẹ không chỉ nhân hai, nhân bốn mà nhân đến vô cùng.

Thế nên, cuộc thăm viếng của Mẹ hôm nay không chỉ mang niềm vui cho gia đình Êlisabét mà còn mang lại niềm vui cho những ai tự xưng mình là con của Chúa, là con của Mẹ.

Nếu là con của Mẹ thật thì mỗi một cuộc thăm viếng của ta cũng phải giống như Mẹ, nghĩa là cuộc thăm viếng ấy hoàn toàn vô vị lợi và cuộc thăm viếng ấy mang Chúa cho người khác. Có quá đáng chăng khi nói rằng thăm viếng vô vị lợi và có Chúa thì cuộc thăm viếng ấy mới có ý nghĩa và mang niềm vui trọn vẹn. Nếu thăm viếng mà ẩn ý dưới một nguồn lợi nào đó hay là cuộc thăm viếng ấy mình chỉ đi tìm mình thì cũng vui lắm nhưng nó chưa tròn vẹn và chưa mang ý nghĩa cao đẹp như Mẹ.

Thi thoảng có dịp nhìn lại cuộc thăm viếng của Mẹ để ta soi chiếu những cuộc thăm viếng của ta. Xin Mẹ nâng những cuộc thăm viếng của chúng ta thêm tầm cao lên một chút, thêm ý nghĩa lên một chút. Xin Mẹ soi sáng, giúp đỡ chúng ta có những cuộc thăm viếng tròn vẹn ý nghĩa như cuộc thăm viếng của Mẹ với gia đình Êlisabét xưa vậy.

-------------------------------

 

Suy Niệm 15. Ðức Maria thăm viếng bà Êlisabeth-


-L.P

Thánh Luca chỉ tường thuật biến cố xảy ra bên ngoài thôi, nhưng ta cần phải chiêm ngắm đức bác ái của thiếu nữ Maria 16 tuổi đã hăng hái lên đường đến chào mừng và giúp đỡ bà chị già 60 tuổi mới được làm mẹ. Suốt dọc đường ba ngày trên lưng lừa từ Nadaret đến Aim-Karen, Maria con người giản dị duyên dáng cất tiếng hát bài ca Manhiphicat (Magnificat) của bà Anna, mẹ ngôn sứ Samuel, làm bài ca của mình, qua tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa đã để lại một mầu nhiệm nói lên hành động của Thiên Chúa gắn liền với đức tin của chúng ta, dẫn chúng ta vào ơn cứu độ. Cần thiết chúng ta phải đặt mình vào địa vị của bà Êlisabét để Đức Maria đến thăm hỏi chúng ta. Điều đó khó khăn lắm không? Ngài tốt đến độ đến thăm ai chẳng sợ lặp lại câu: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội!”

Nơi nhiều người chỉ thấy thoáng qua, thấy rung động chút ít trước sự kiện siêu nhiên; không được thường xuyên trong sáng; đôi khi bác ái, thương cảm. Nhưng chưa đủ. Một tâm hồn chân thành với mình và với người khác phải được mở ra trước ơn Thiên Chúa, ta thấy rõ điều đó nơi Thánh Phaolô. Khi còn là kẻ bách hại, ông đã hoạt động chân thành đến điên cuồng. Khi trở lại, ông càng thầm tín mạnh mẽ hơn nữa để hoạt động cho Chúa và cho dân được tuyển chọn, ông đã dương cao chính nghĩa của người Nadaret. Trước một tâm hồn chân thành, dù là thứ chân thành xấu, Thiên Chúa không thể từ bỏ. Thiên Chúa bắt đầu cảm hóa họ. Đức Maria cũng tham gia can thiệp. Mẹ đến đóng ấn trên những công trình Thiên Chúa và giúp những công trinh đó phát triển. Điều đó rất cần... Chúng ta cần suy nghĩ để thấy rằng tất cả chúng ta một phần nào giống như bà già Êlisabét, đầy thiện chí, đầy ham muốn tốt, nhưng lại cằn cõi và lo sợ...

Ước chi Đức Maria đến can thiệp cho, ước chi cuộc thăm viếng của Mẹ tăng cường cho những cố gắng của chúng ta, biết chạy đến xin mẹ cứu giúp! Người ta nói Mẹ là tình yêu tuyệt diệu. Con tim con sẽ luôn luôn kêu khấn Maria như mẹ của mọi thiện chí...

Vậy chúng ta với tất cả niềm tin mời Mẹ đến vì hy vọng rằng Mẹ làm cho đời sống đức tin của chúng ta sinh hoa trái. Chúng ta tuyên xưng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, không phải là một Thiên Chúa xa xôi, bắt chúng ta mang gánh nặng giơí răn, nhưng là Thiên Chúa rất nhỏ bé đang chờ đợi giúp làm cho đức thành tín lớn lên trong chúng ta. Đức Maria cũng mang đến cho chúng ta một kho tàng là nhận biết Đức Giê-su là Chúa. Mong chúng ta mở lòng ra đón nhận và đừng bao giờ từ chối cuộc thăm viếng của Mẹ Maria. Đừng bao giờ!

-------------------------------

 

Suy Niệm 16. Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth


--Lm. Phêrô, CMC

I. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ

Từ thế kỷ VI, bên Giáo hội Đông phương, thánh truyện Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth theo Thánh sử Luca (1:39-56) được đọc ngày thứ Sáu sau Chúa nhật III mùa Vọng nhưng chưa phải là lễ, đến sau thì mừng lễ vào ngày 2 tháng 7.

Bên Tây phương, năm 1263, Dòng Phanxicô khởi xướng mừng lễ này. Năm 1386, Công đồng Prague nước Áo công nhận lễ này do mỹ ý của Đức Cha Gioan Jenstein, Tổng Giám mục thành Prague mừng lễ vào ngày 28 tháng 4 với hai lý do:

1. Xin ơn hiệp nhất Giáo hội trong thời kỳ có sự tranh chấp giữa Giáo hoàng giả Clementê III tại Avignon (Pháp) với Đức Urbanô VI tại Rôma.

2. Mừng lễ này ngoài mùa Chay, và trong mùa Phục sinh sau lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3.

Năm 1389, Đức Urbanô VI chuẩn bị thành lập lễ này trong khắp Giáo hội để công bố Năm Thánh 1390. Nhưng chưa kịp thi hành thi ngài băng hà ngay năm đó. Đức Bônifaciô IX lên nối quyền liền thi hành quyết định của vị tiền nhiệm, năm 1401 ngài thành lập lễ này vào ngày mùng 2 tháng 7 hàng năm trong khắp Giáo hội. Năm 1441, Công đồng Basel (Thụy Sĩ) xác nhận lễ này. Đức Sixtô IV soạn kinh Nhật tụng đặc biệt. Đức Thánh Piô V đưa lễ này vào sách kinh Phụng vụ. Năm 1608 Đức Clêmentê VIII đặt kinh Phụng vụ và lễ như ngày nay. Năm 1969, Đức Phaolô VI đổi sang ngày 31 tháng 5 sau ngày lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3, và trước lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả ngày 24 tháng 6.

II. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ

Lễ Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth liên quan tới lễ Thiên sứ Gabrie truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai Chúa Giêsu, vì sau khi chịu thai Chúa, Đức Mẹ từ Nazareth miền Bắc, hối hả đi thăm viếng Thánh Elizabeth ở Ain Karim, một thành nhỏ bé miền Nam, cách Giêrusalem chừng 5 miles về phía tây. Trong biến cố này có ba nhân vật tỏ ra thái độ rõ rệt:

1. Thánh Elizabeth được ơn Thánh Linh soi sáng nhận biết chức phẩm cao sang của Đức Mẹ, đã khiêm hạ nói: "Bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa tôi đến với tôi?" (Lc 1:43).

2. Thánh Gioan Tẩy giả còn là thai nhi cũng nhận biết Chúa Giêsu trong lòng Đức Mẹ nên đã nhảy mừng (Lc 1:44).

3. Đức Mẹ nhận thấy Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ đã sớm làm những việc lạ lùng và, Mẹ được đặc ân cao cả nên Mẹ đã khiêm hạ cất tiếng cao rao chúc tụng Chúa (Lc 1:46-55). Chỉ có Chúa Giêsu âm thầm trong cung lòng Đức Mẹ, không tỏ ra dấu hiệu nào. Coi như Chúa thụ động nhưng lại rất chủ động trong biến cố Thăm viếng này. Chúa thường giấu ẩn uy quyền của Người để tỏ cho chúng ta biết quyền lực của Người vô hình, chuyển động mọi sự, điều khiển mọi sự cách kín đáo. Thế nhưng ảnh hưởng quyền lực của Người rất sống động và sâu rộng. Người làm cho thai nhi Gioan được khỏi tội Nguyên tổ trong lòng Thánh Elizabeth. Đó là phép lạ đầu tiên trong ơn thánh mà Chúa âm thầm làm ngay khi còn trong cung lòng Mẹ Maria.

Một trong những mầu nhiệm cao siêu của Kitô giáo là việc hợp nhất Chúa làm trong chúng ta và cách bí nhiệm Người thăm viếng chúng ta:

a) Bề trong do Chúa Thánh Linh và ơn thánh của Người;

b) Bề ngoài do các Nhiệm tích, nhất là Nhiệm tích Thánh Thể. Chúng ta hãy niềm nở mật thiết tiếp rước Chúa mỗi khi Người thăm viếng linh hồn chúng ta, nhất là khi chúng ta rước lễ.

III. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ

Bài đọc I: Sôphônia 3:14-18.

Dưới thời vua Josia (640-609), nước Giuđêa lâm cảnh hỗn loạn về tôn giáo và xã hội, nhưng tiên tri loan báo án phạt sẽ chấm dứt và Giuđêa sẽ được hưởng cảnh thanh bình: "Hãy vui lên! Hãy hoan hỉ trong lòng, hỡi nữ tử Sion, vì vua ngươi ở giữa ngươi. Người là anh hùng vạn thắng. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui".

Sự vui mừng ngày Đức Mẹ viếng thăm bà Elizabeth cũng như sự vui mừng cảnh thanh bình nước Giuđa thời tiên tri Sôphônia (Zephania), vì Mẹ Maria cưu mang thai nhi Giêsu trong cung lòng Mẹ như Hòm bia Tân ước có Thiên Chúa ở giữa dân Người. Thai nhi Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth (Lc 1:41) như vua David nhảy mừng trước hòm bia (2 Sm 6:12). Bà Elizabeth ca tụng Mẹ Maria (Lc 1:41) như vua David ca tụng Obed-Edom (2 Sm 6:12). Mẹ Maria ở lại nhà bà Elizabeth ba tháng (Lc 1:56) như hòm bia lưu lại ba tháng tại nhà Obed-Edom (2 Sm 6:11).

Bài đọc II: Rôma 12:9-16.

"Hãy yêu mến nhau tha thiết. Hãy làm tôi Chúa với lòng nhiệt thành và tâm thần sốt sắng. Hãy chia sẻ cho người túng thiếu. Hãy ân cần cho khách đỗ nhà. Hãy vui với người vui". Đó là những nét đặc sắc của tình bác ái nổi bật trong truyện Đức Mẹ thăm viếng, và là những đặc tính tươi đẹp của các môn đệ của Chúa Kitô.

Phúc âm: Luca 1:39-56.

Mẹ Maria vội vã đi thăm bà Elizabeth để chia sẻ niềm vui cả hai được mang thai cách lạ và để giúp đỡ bà chị họ trong tuổi già. Thánh sử Luca không nói tên địa danh mà bà Elizabeth ở là thành Ain-Karim miền phụ cận Giêrusalem, mà chỉ nói: "Một thành xứ Giuđa miền sơn cước". Những bước gót sen của Mẹ Maria trong dịp này đã được tiên tri Isaia diễn tả: "Đẹp thay trên các núi non, chân người sứ giả, kẻ loan báo bình an, kẻ loan tin mừng, kẻ loan báo ơn cứu độ và nói với Sion: Thiên Chúa của ngươi là Vua" (Is 52:7).

Mang thai nhi Giêsu, Mẹ Maria là một dụng cụ ban phúc lành cho bà Elizabeth và thai nhi của bà. Qua lời chào của Mẹ Maria, lời tiên tri của thiên thần được thực hiện: "Từ trong lòng mẹ, nó sẽ được đầy tràn Thánh Thần" (Lc 1:15). Nhận biết Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria, bà Elizabeth lên tiếng ca khen Mẹ và Con lòng Mẹ, rồi bà tỏ ra vinh dự được Mẹ Chúa đến viếng thăm. Lời ca khen của bà Elizabeth vọng vang lời thượng tế ca ngợi bà Giuđitha: "Phúc cho con nơi Đấng tối cao, hơn mọi người nữ" (Gđt 13:18). Bà Giuđitha, chém đầu tướng Holoferne để giải cứu dân của bà, là hình ảnh Mẹ Maria trong nhiệm cuộc giải thoát nhân loại (Lc 24:21).

Bà Elizabeth xác nhận hiệu quả lời chào của Mẹ Maria: "Thai nhi trong lòng bà nhảy mừng". Hai lời bà chúc tụng Mẹ Maria:

Lời 1: Về điều Thiên Chúa đã làm cho Mẹ (Lc 1:42). Lời này giống như là một phụ nữ ca ngợi Mẹ (Lc 11:27).

Lời 2: Mẹ diễm phúc vì Mẹ tin (Lc 1:45). Lời này giống như lời Chúa khen tặng Mẹ vì Mẹ nghe và giữ lời Chúa (Lc 1:28).

Mẹ Maria nhận biết điều lạ lùng đã xảy ra nơi Mẹ, nên Mẹ cất tiếng ngợi khen Chúa: "Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại. Danh Người là Thánh" (Lc 1:49). Mẹ Maria trở về nhà, sau khi bà Elizabeth hạ sinh Gioan Tẩy giả, vì khi Mẹ đi thăm bà thì bà đã có thai được sáu tháng (Lc 1:36) và Mẹ ở lại nhà bà ba tháng (Lc 1:56).

IV. LỜI CÁC THÁNH

- Thánh Ambrosiô: Mẹ lên đường không phải vì không tin lời sứ thần báo cho Mẹ, mà vì hối hả ước ao làm ơn cho gia đình bà chị. Sung sướng vì được làm cho người khác sung sướng, và tận lực thi hành đức ái.

- Thánh Augustinô: Qua Mẹ, tình thương đổ xuống người cơ khổ, ân sủng đổ xuống những kẻ vô ơn, và ơn tha thứ được ban phát cho những người tội lỗi.

- Thánh Phêrô Kim Ngôn: Mẹ Thiên Chúa đã khám phá ra ân sủng, để cung cấp ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ phát sinh ơn sủng. Đó là một ân sủng dư dật để độ phúc cho mỗi người chúng ta, để trào đổ dạt dào sóng dư ân sủng đó xuống mọi thụ tạo.

- Thánh Ilđêphong: Lạy Mẹ, trong hết mọi ân sủng Chúa đã định ban cho loài người, không có ơn nào mà Chúa không muốn đổ xuống qua tay Mẹ, vì Chúa đã ký thác cho Mẹ hết báu tàng, hết mọi phú quí về ơn sủng Người ban.

- Thánh Germanô: Ôi Maria, không ai được cứu độ nếu không nhờ Mẹ; không ai được hưởng ơn trời nào nếu không có Mẹ.

- Thánh Đamascenô: Mẹ là Thánh đô rộng mở đón tiếp hết những ai cầu xin Mẹ. Hỡi các con Mẹ hãy đến mà lãnh nhận tràn đầy ơn sủng vượt trên mọi khát vọng của các con.

- Lạy Mẹ Chí Thánh Thiên Chúa, xin mở tình thương cho chúng con, vì Mẹ là ơn độ phúc của cả nhân loại.

- Thánh Đamianô: Mẹ là kho báu chứa gồm hết mọi thánh ân. Lạy Mẹ là hy vọng của chúng con, chúng con biết hết mọi báu tàng tình thương của Chúa đều ở trong tay Mẹ.

- Thánh Bênađô: Chúa đã tàng trữ nơi Mẹ Maria toàn thể mọi ơn sung mãn, nên chúng ta có được hy vọng nào, ân sủng nào, ơn cứu độ nào là đều lãnh nhận từ tay Mẹ.

- Chúng ta hãy đi tìm ân sủng, và hãy nhờ Mẹ mà tìm. Cứ xin điều gì là Mẹ được điều ấy. Không bao giờ Mẹ có thể bị từ chối.

- Mẹ Maria được tặng ban cho thế giới di chuyển tình thương để qua Mẹ các ân sủng được liên tiếp trao ban từ trời cao xuống cho nhân loại.

- Thánh Albertô: Mẹ là Đấng quản thủ kho báu của Chúa Giêsu.

- Thánh Bonaventura: Mẹ gồm chứa báu tàng của Thiên Chúa là Chúa Giêsu và cùng với Chúa gồm chứa nguyên ủy và nguồn mạch hết mọi ân sủng.

- Lý do nào đã thúc đẩy Mẹ hối hả đi thăm nhà Gioan Tẩy giả nếu không phải là đức ái thiêu đốt tâm hồn Mẹ.

- Lời của Mẹ có mãnh lực lớn lao biết bao, vì Mẹ vừa mới nói, Chúa Thánh Thần liền xuống đầy lòng bà Elizabeth.

- Thánh Bênađinô: Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần.

- Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ.

- Thánh Laurensô Brinđisi: Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ.

- Thánh Anphong: Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy giả Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình ông nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, ngày Lễ Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là Lễ Mẹ ban ân sủng.

V. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI

- Đức Phaolô VI: Lễ Thăm viếng nhắc nhớ việc Rất Thánh Trinh Nữ Maria đang cưu mang Con Mẹ đi viếng thăm, giúp đỡ bà Elizabeth, và công bố lòng xót thương của Thiên Chúa cứu chuộc.

- Đức Gioan Phaolô II

1. Mẹ Maria hiện diện một cách linh thiêng giữa chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ với cùng một cặp mắt mà bà Elizabeth đã nhìn xem Mẹ khi Mẹ vội vã tới viếng thăm bà, và nghe lời Mẹ chào bà thì bà nói: "Ngay lúc tiếng em chào vừa đến tai chị, thì hài nhi trong dạ chị liền nhảy mừng" (Lc 1:44). Niềm vui bà Elizabeth cảm thấy nêu bật ân huệ có thể ẩn chứa trong lời chào mừng, khi lời chào đó do một tấm lòng tràn đầy Thiên Chúa. Những bóng tối của tình trạng cô độc đè nén một tâm hồn, thường có thể bị tia sáng một nụ cười và một lời nói âu yếm phá tan.

2. Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: "Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm" (Lc 1:45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin". Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ".

- Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn "mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả hữu = impossible" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.

Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.

- Công đồng Vatican II

Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Đức Maria đã vội vã đến thăm bà Elizabeth, và được bà ấy chào mừng là người có phúc, vì đã tin vào sự Cứu rỗi Chúa đã hứa, và vị Tiền hô nhảy mừng trong lòng mẹ.

-------------------------------

 

Suy Niệm 17. Mẹ Maria gặp gỡ chị họ Elisabeth


--Đaminh Trần văn Chính

Vào một buổi chiều hôm đó trong nhà thờ, đầy nghẹt những người cùi hủi. Đức cha Maigret đứng bên bàn thờ quay xuống hỏi họ:

Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng và phục vụ các con. Thì đây tôi xin giới thiệu: cha Đamien (Joseph Damien de Veuster 1840-1889 người Bỉ. Ngài đã đến và sẽ ở lại để chăm sóc, phục vụ và chia sẻ với các con từ nay cho đến chết. Các con có vui mừng không?

Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng bên cạnh Đức giám mục mà chẳng hiểu tí gì! Rồi họ từ từ tiến lên cung thánh, họ đến bên cha, sờ vào mặt, vào tay và vào áo cha…Cha hỏi Đức giám mục: Họ làm gì vậy?. Đức cha giải thích: Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người từ nơi phương xa, chẳng có bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ và lại đẹp trai nữa, không bệnh tật gì mà tự nguyện đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin vào mắt mình nên họ mới xúm lại sờ mó vào người cha xem thử cha có thực sự bị bệnh phong cùi như họ không? Rồi họ nói với nhau rằng: “Không, cha không bệnh tật gì và cha đẹp trai quá!”.

Vào năm 1873, cha Đamien đã tự tình nguyện ra đảo Molokai, nơi mà chính quyền Hawaii thời đó “thu gom” những người  bất hạnh bị bệnh cùi hủi ra sống ở đảo nhằm cách ly, tránh sự lây lan cho xã hội. Vì thế họ bị bỏ mặc, sống lạc loài và cô đơn trên đảo, không nhận được bất cứ một sự chăm sóc nào về thể xác cũng như tâm linh!

Cha Đamien đã đến và biến đổi một trại cùi hiu quạnh bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài thành một trung tâm sinh hoạt yên vui như một gia đình lớn.

Và rồi sau mười sáu năm tận tình phục vụ những anh chị em cùi, cha đã bị lây bệnh và qua đời vào năm 1889. Vì thế cha được mệnh danh là “Tông Đồ người cùi”.

(Ngài được phong chân phước ngày 04/06/1995 và được phong hiển thánh ngày 11/10/2009).

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ đi thăm viếng gia đình bà Elisabet. Chúng ta thấy theo tường thuật của Phúc Âm, thì ngay sau khi nói lời “xin vâng” để chương trình cứu thế của Thiên Chúa được bắt đâu thực hiện thì Đức Mẹ đã “vội vã” lên đường đên thăm gia đình người chị họ. Đây không phải là một cuộc thăm viếng bình thường, mà là chuyến đi mang niềm vui của ơn cứu độ đến cho tha nhân. Niềm vui này thật quan trọng và lớn lao đến nỗi bà chủ nhà Elisabet, khi thấy Đức Maria đến đã phải thốt lên rằng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm viếng tôi”. Và Gioan tuy chỉ là một thai nhi cũng đã vui mừng mà nhảy lên trong dạ mẹ. Như vậy chúng ta thấy, khi nhận được niềm vui của Tin Mừng cứu độ, Mẹ đã không giữ lại cho riêng mình mà đã vội vã lên đường đi chia sẻ niềm vui ấy cho mọi người.

Với tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế, thì lẽ ra người phải đến chăm nom, phục vụ và ngợi khen Đức Mẹ phải là bà Elisabet. Nhưng vì lòng khiêm nhường, Đức Mẹ đã không quản ngại đường xá xa xôi vất vả, và không phải là không có những mối nguy hiểm trên đường! Nhưng Mẹ vẫn đến để thăm viếng phục người chị em này.

Noi gương Đức Mẹ, chúng ta là những người được mệnh danh là “người có Chúa” tức những Ki-tô hữu thì cũng phải có bổn phận đem Chúa đến giới thiệu cho tha nhân. Nhưng trước hết hãy học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường và yêu thương. Bởi chỉ có thực sự khiêm tốn và yêu thương chân thành chúng ta mới có thể đem Tin Mừng cứu độ cho tha nhân được.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta biết thể hiện những hành động yêu thương quí mến mọi người mà chúng ta gặp gỡ, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Chúng ta có thể trao cho họ những nụ cười tươi thắm, những lời nói nhỏ nhẹ chân thành, những ánh mắt thiện cảm nhân từ… Như thế là chúng ta đã mang niềm vui, an bình đến cho mọi người, và nhất là chúng ta đã thể hiện được là người có Chúa Ky-tô đang ngự trị nơi tâm hồn của chúng ta.

3. Cầu Nguyện:

Lạy Chúa, còn biết bao người chưa nhận biết Chúa. Xin ban Thánh Thần thức tỉnh tâm hồn họ để nhờ đó họ nhận ra chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ trần gian mà họ phải tôn thở, kính mến để cuộc sống dương gian này mang lại ý nghĩa thực sự cho họ, và cũng xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết bổn phận mình là Ky-tô hữu, thì phải đem Chúa đến cho mọi người và đem mọi người về cho Chúa, bằng đời sống yêu thương, bác ái, hy sinh và phục vụ của mình. Amen.

4. Sống Lời Chúa:

Mỗi ngày cố gắng hy sinh làm việc thiện, có ý cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo.

-------------------------------

 

Suy Niệm 18. Cuộc gặp gỡ lịch sử


--JM. Lam Thy DVD

Đúng vào ngày kết thúc Tháng Hoa kính Đức Mẹ (31/5), Giáo Hội cử hành lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Ê-li-sa-bét. Vì sao có cuộc thăm viếng này? Vì khi truyền tin cho Đức Maria là Ngôi Lời sẽ Nhập Thể trong cung lòng của Đức Mẹ, sứ thần có báo cho Mẹ một tin vui: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.” (Lc 1 38). Bà Ê-li-sa-bét là chị họ của Đức Maria, vì thế Đức Mẹ “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa” (Lc 1, 39) để viếng thăm và ở lại với người chị họ 3 tháng.

Xét theo sự giao tế của con người, khi thấy chị em có tin vui thì đến chia vui là chuyện bình thương. Tuy nhiên, nếu để ý một chút sẽ thấy bà Ê-li-sa-bet với Đức Maria chỉ là chị em họ, mà con đường từ nơi Đức Maria tới nơi bà Ê-li-sa-bét phải vượt qua một chặng đường đồi núi chập chùng rất dài (đi bộ phải mất 2 – 3 ngày đường), đầy khó khăn nguy hiểm, đó sẽ là trở ngại lớn khiến khó lòng thực hiện được ý định viếng thăm nhau. Vậy mà Đức Mẹ vẫn “vội vã” tới thăm, điều này cho thấy phải có một động lực rất mạnh thúc đẩy Mẹ lên đường. Không những thế, Mẹ còn ở lại chăm sóc người chị họ cho tới khi bà mãn nguyệt khai hoa. Như vậy thì cuộc thăm viếng lịch sử này đã hàm chứa 2 chiều kích nền tảng của Ki-tô Giáo: Chia sẻ và Phục vụ trong Yêu thương.

1- Chia sẻ: Trước khi có cuộc thăm viếng của Đức Maria, thì đã có cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đến trao ban Con Một của Người cho nhân loại trong cung lòng của Đức Mẹ. Chính Chúa Giê-su là Đấng cứu độ và giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời. Người mang lại nguồn ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa cho những ai tin tưởng và đón nhận tình yêu của Người. Khi Đức Mẹ “xin vâng” thì cũng là lúc Mẹ được tràn đầy Thánh Thần, và chính đó là động lực thúc đẩy Mẹ thể hiện việc đem Tình Yêu chia sẻ cho tha nhân. Nói cách khác là ngay từ lúc này, Đức Mẹ đã thi hành sứ vụ “đi khắp tứ phương loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15) như về sau Đức Giê-su Thiên Chúa hằng giảng dạy và sai phái các môn đệ của Người.

Đức Maria viếng thăm là đem Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, cũng là Con của Mẹ đến với gia đình bà Ê-li-sa-bet. Và vì thế, nên bà E-li-sa-bét mới nói: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1, 43-45). Vì yêu thương, nên dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi đầy cam go, nguy hiểm, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm người chị họ. Chính tình yêu đã thúc đẩy bước chân Mẹ. Quả thật hình ảnh cao đẹp này cũng đã được tiền định từ trước, nên ngôn sứ Xô-phô-ni-a mới viết “Thánh vịnh mời gọi Si-on vui mừng” (xc bài đọc 1 hôm nay: Xp 3, 14-18a) và ngôn sứ I-sai-a hết lời ca tụng: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin Mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ.” (Is 52, 7).

Đến như Bài ca Ngợi Khen (Magnificat) tuy là lời Đức Mẹ chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, nhưng đó lại là Tin Mừng đem đến cho mọi người, nếu biết tin yêu và vâng phục thánh ý của Thiên Chúa (như Đức Mẹ) và hân hoan vui mừng đón nhận (như hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét và thai nhi Gio-an Bao-ti-xi-ta). Thật thế, “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”

2- Phục vụ: Nếu chỉ tới thăm rồi về ngay thì chưa đủ, mà Đức Mẹ còn “ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.” Khi Đức Mẹ tới viếng thăm thì bà chị họ đã có thai được 6 tháng, bây giờ Mẹ ở lại thêm 3 tháng nữa, tức là ở lại với người chị họ tới ngày bà sinh con. Rõ ràng Đức Mẹ ở lại chỉ với mục đích duy nhất là để giúp đỡ, chăm sóc thai phụ trong những ngày cuối thai kỳ. Người phụ nữ có thai rất cần có người ở liền bên phục vụ, mà người đó phải là phụ nữ, bởi có những việc người chồng không thể làm được. Hành động phục vụ của Đức Mẹ chính là vâng phục tuyệt đối thánh ý của Thiên Chúa (“những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta.” – Lc 1, 2), mà khi Người Con của Mẹ trưởng thành đã giảng dạy và thực hiện (“Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em… Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” – Mt 20, 26).

Trong cuộc sống xô bồ ngày nay, chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống ở thành thị. Có khi sống liền vách với nhau mà cũng không hề có được tình nghĩa “tối lửa tắt đèn có nhau, bán anh em xa mua láng giềng gần”! Tình nghĩa láng giềng ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng, sống chết mặc bay”. Ngược lại, có những người thăm viếng nhau hàng ngày, mỗi ngày bỏ rất nhiều thời giờ để nói chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, đơm điều đặt chuyện. Việc họ thăm viếng chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm cớ cho nhau phạm tội (dèm pha, nói xấu, thậm chí còn xúc xiểm gây thù chuốc oán người khác). Ấy mới chỉ là nói về việc thăm viếng nhau đã khan hiếm như thế, thì không hiểu việc yêu thương phục vụ sẽ còn khó kiếm đến như thế nào!

Như vậy thì cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Mẹ dành cho gia đình ông Da-ca-ri-a là khởi đầu cho Giao Ước Mới đem Tin Mừng đến cho nhân loại. Đức Maria thăm viếng vừa để chia sẻ Tin Mừng vừa để phục vụ anh em, đã thể hiện cụ thể và sinh động nhất tình cảm “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12, 30-31). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương tuyệt vời cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm viếng nhau, chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa đến phục vụ cho tha nhân luôn luôn và mãi mãi phải là sứ vụ của con cái Chúa, không thể khác hơn.

“Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, ngay khi còn cưu mang Thánh Tử Giê-su, Thánh Mẫu Maria đã được Cha soi sáng và người đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Ðức Maria ngợi khen Cha muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giê-su Ki-tô Con Cha là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Cha hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-sa-bét).

-------------------------------

 

Suy Niệm 19. Không khiêm nhường, không biết tạ ơn!


--Jos. Vin. Ngọc Biển SSP

Ngày 04-10-2006, giáo dân của Giáo Phận Bắc Ninh tập trung rất đông đủ tại nhà thờ Chính tòa Giáo Phận để cử hành thánh lễ An táng cho Đức Cha Giuse Nguyễn Quang Tuyến. Trong phần tiễn biệt, người ta rất ấn tượng với những dòng di chúc của Đức Cha. Nói đúng hơn, đây là lá thư mục tử cuối cùng của cuộc đời ngài trên dương thế. Tâm thư này được viết trước khi lên bàn mổ để các bác sĩ thực hiện ca phẫu thuật mà ngài đã được báo cho biết là 95% sẽ chết, chỉ có 5% là sống sót.

Trong bức tâm thư đó, ngài viết cho mọi thành phần trong gia đình Giáo Phận. Tuy nhiên, người ta chú tâm hơn với phần viết cho các nữ tu của Tu hội Con Đức Mẹ Hiệp Nhất. Nội dung đại khái như sau: “Các con yêu quý, khi ở trong Giáo Phận, cha thấy các con thua kém chị em của các hội dòng khác. Bởi vì họ trổi trang hơn chúng con về nhiều mặt, nào là: kiến thức, khả năng mục vụ, giáo tiếp, nhan sắc… Tuy nhiên, cha nhận thấy nơi chúng con tấm lòng đơn sơ, chân thành. Đây chính là nét đẹp nơi tâm hồn chúng con. Cha thiết nghĩ có khi lớ ngớ như chúng con lại dễ vớ Thiên Đàng nhanh hơn cha”.

Khi viết cho các nữ tu như vậy, có lẽ Đức Cha muốn nói lên một điều, đó là Chúa thương những người hiền lành, đơn sơ, chân thành, nhất là khiêm nhường.

Tại sao vậy? Thưa, bởi vì người khiêm nhường là người thuộc về Thiên Chúa, nên dễ dàng đi vào mối tương quan mật thiết với Người.

Ngược lại, người kiêu ngạo là người không thuộc về Thiên Chúa, và đương nhiên, không thể hiệp thông được với Người. Nói cách khác, khiêm nhường là con đẻ của Thiên Chúa. Kiêu ngạo là con đẻ của ma quỷ. Chính vì vậy mà Thiên Chúa bênh đỡ và bảo vệ người khiêm nhường, còn kẻ kiêu ngạo thì sẽ bị Người tiêu diệt như lời thánh Phêrô đã nói: “Thiên Chúa chống lại kiêu kiêu ngạo” (1 Pr 5,5).

1. Mẹ Maria, Người Nữ Tỳ khiêm hạ

Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ Đức Maria viếng thăm bà Êlisabeth hôm nay làm toát lên vẻ đẹp của sự chia sẻ và khiêm nhường nơi Mẹ Maria.

Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Luca giới thiệu cho chúng ta một người phụ nữ tuyệt vời: ngài là người tràn đầy ân sủng; là người có phúc hơn hết mọi người phụ nữ và nơi cung lòng của ngài sẽ xuất hiện Đấng Cứu Chuộc mà muôn dân mong đợi.

Tuy nhiên, với những ơn cao trọng lớn lao như vậy, tác giả lại cho thấy được xảy ra nơi một Nữ Tỳ hèn mọn và rất đỗi khiêm nhường, người đó chính là Mẹ Maria.

Thật vậy, chắc chắn Mẹ là người biết rõ Người Con mà mình đang cưu mang là ai? Người Con ấy quyền thế cao sang biết chừng nào? Hơn nữa, lời ca tụng của bà chị họ là Êlisabeth lại càng làm nên sự uy nghi, tự hào, bà nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ […] Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi” (x. Lc 1, 42-43)

Tuy nhiên, Mẹ Maria đã không tự kiêu để nhận những vinh dự đó về cho mình, ngược lại, Mẹ đã dâng nó lại cho Thiên Chúa trong tâm tình khiêm nhường của một người nữ tỳ hèn mọn.

Quả thật, nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ được những ơn cao trọng có một không hai trong lịch sử nhân loại như vậy, Mẹ phải hãnh diện đến tự kiêu. Nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ biết mình có phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian, ắt Mẹ sẽ vỗ ngực xưng tên để huênh hoang, tự đắc với đời. Và như một hệ quả, nếu không khiêm nhường tuyệt đối, Mẹ sẽ phá hoại chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong sự kiêu ngạo.

Vì thế, nơi Mẹ Maria, Mẹ đã đón nhận hồng ân của Thiên Chúa trong tâm thế của một người môn đệ, một nữ tỳ khiêm nhu. Điều này đã được chứng minh khi Mẹ cất lên lời kinh Magnificat để ca ngợi Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu mà Người đã làm trên phận nữ tỳ hèn mọn của mình.

Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ lội ngược dòng lịch sử cứu độ để nhận thấy bàn tay uy quyền và thương xót của Thiên Chúa đã cứu và giải thoát dân khỏi biết bao nguy biến.

Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ Maria đã gia nhập vào dòng người thánh thiện để ca ngợi sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, khi Người đưa cánh tay mạnh mẽ để hạ gục kẻ kiêu căng, truất bỏ những người quyền thế, để người giàu có trở về tay không, còn người nghèo khổ, thấp hèn lại được đầy dư.

Cuối cùng, cất lên lời kinh Magnificat, Mẹ Maria đã cùng với muôn người ngóng trông ơn cứu độ để cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa, bởi vì Người đã thực hiện lời hứa với các Tổ phụ và Tiên tri khi trao ban Con Một của Người xuống trần gian cứu chuộc con người.

2. Sứ điệp Lời Chúa

Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta cũng cùng nhau lội ngược dòng để đọc lại lịch sử cuộc đời của mình dưới tâm thức của người thụ ơn, để thấy được những điều kỳ diệu mà Chúa đã làm trên cuộc đời chúng ta.

Những ơn đó là: ơn được sinh ra làm người trong một gia đình. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Được lớn lên với biết bao ân cần, lo lắng của mọi người mà Chúa gửi đến để chăm sóc cho ta. Ngài cũng cứu chúng ta biết bao lần qua những cơn bạo bệnh. Ngài che chở ta và giải thoát ta khỏi biết bao nguy biến, tai ương… nhất là ơn được sống tới ngày hôm nay. Rồi sức khỏe, trí thông minh, và rất nhiều khả năng khác mà Thiên Chúa không ngừng ban cho chúng ta…

Tuy nhiên, khác với Mẹ Maria, nhiều khi chúng ta chưa đủ nhạy bén hay vô tình mà quên đi nghĩa vụ của người thụ ơn với Thiên Chúa. Hoặc cũng có lúc chúng ta có thái độ giảm nhẹ mầu nhiệm để thay vào đó là khái niệm tự nhiên có, nên việc biết ơn có vẻ cũng vì đó mà bị giảm nhẹ theo!

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể do sự kiêu ngạo, lạnh nhạt, khô khan, nên chưa khiêm nhường đủ để nhận ra ân sủng của Thiên Chúa trên cuộc đời mình.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta khi đứng trước hồng ân lớn lao như vậy, hãy có tâm tình của Mẹ Maria để cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Người đã làm trên và trong cuộc đời chúng ta. Đồng thời, noi gương Mẹ, mỗi người cũng hãy chia sẻ niềm vui với những anh chị em xung quanh, nhất là sẵn sàng giúp đỡ những ai cần đến chúng ta, để vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người hôm nay cũng là những mối ưu tư và lo lắng của chúng ta.

Mặt khác, luôn sống tâm tình khiêm nhường và tín thác nơi Thiên Chúa, biết nhạy bén như Mẹ Maria để không chỉ bản thân mình cần cám ơn, chúc tụng Thiên Chúa, nhưng chúng ta còn làm những bổn phận đó trong tư cách là dân Thiên Chúa khi cảm tạ và chúc tụng thay cho người khác.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, đường lối khiêm nhường là cách thức Thiên Chúa thể hiện quyền năng. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương khiên nhường của Đức Trinh Nữ Maria để sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa và để thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng con.

Xin cũng cho chúng con biết quan tâm, lo lắng cho mọi người, nhất là những người khổ đau, nghèo đói đang cần đến chúng con. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 20. Cuộc viếng thăm đầy ân sủng


--Jos. Vin. Ngọc Biển SSP

Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến…

Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.

Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét… Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.

Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.

Qua mỗi ngày sống, mong sao mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 21. Niềm vui có Chúa


--Nữ đan sĩ Maria Maximiliano Kolbe
Xp 3,14-18a; Rm 12,9-16b; Lc 1,39-56

(http://hoidongxitothanhgia.com/)

Khát vọng niềm vui ẩn chứa nơi tâm hồn con người. Ai ai cũng mong có được niềm vui hoàn hảo, trọn vẹn và bền vững. Nhưng niềm vui ở đâu nếu không phải ở nơi những con người có Chúa trong lòng, những người gặp Chúa trong cuộc đời? Niềm vui đó được thể hiện rõ nét nhất nơi Đức Maria trong ngày Đức Maria đi thăm người chị họ Ê-li-sa-bét mà bài Tin Mừng hôm nay thuật lại.

1. Niềm vui có Chúa

Đức Maria đã được sứ thần mời gọi “Mừng vui lên”. Hôm ấy, Mẹ càng vui vì có Chúa trong lòng mình. Mẹ vui vì cảm nhận được tình yêu thương của Chúa trên cuộc đời Mẹ cũng như trên dân tộc của Mẹ. Mẹ vui vì Chúa đã làm cho Mẹ bao điều cao cả, đến nỗi hết mọi đời sẽ khen Mẹ có phúc (Lc 1,48-49).

Niềm vui được manh nha từ trong Cựu ước. Bài đọc thứ I ghi lại lời mời gọi, qua đó loan báo niềm vui: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi… Đức vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3,14-15). Niềm vui được loan báo này đã thành hiện thực qua Đức Maria. “Đức vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” ấy chính là Đức Giêsu đang ngự trong lòng Đức Maria.

Đứng trước ân huệ lớn lao là được cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, Mẹ chỉ biết dâng lời chúc tụng Chúa bằng bài ca “Ngợi khen” (Magnificat), mà chúng ta hát trong giờ Kinh Chiều. Ngày xưa, dân Ít-ra-en vui mừng ca tụng Chúa qua những thánh vịnh, thánh thi vì họ thấy Chúa hiện diện giữa họ, yêu thương họ (Tv 33; 149 …).

2. Niềm vui chia sẻ Niềm vui

 Khi có Chúa trong mình, có niềm vui trong mình, Đức Maria vội vã lên đường để chia sẻ niềm vui đang trào tràn với người chị họ Ê-li-sa-bét (Lc 1,39). Mẹ đã không quản ngại, dù đường xa cách trở, dù núi non cheo leo. Mẹ chia sẻ niềm vui vì mình được cưu mang Chúa, là Chúa Tể muôn loài, lại là Đấng cứu chuộc mọi sinh linh. Mẹ chia sẻ niềm vui với người chị họ cao niên. Chị là người hiếm muộn mà Chúa đã cho chị mang thai và sắp được làm mẹ, sắp rửa được tủi nhục không con theo quan niệm thời ấy giờ.

Mẹ đã cảm nghiệm được niềm vui yêu thương nên Mẹ sống quảng đại. Mẹ đến để phục vụ, chăm sóc người chị trong những ngày sắp mãn nguyệt khai hoa. Tình bác ái này được thánh Phao-lô nói đến trong bài đọc II, trích từ thư Rôma chương 12: chúng ta phải yêu thương nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với nhau, cầu nguyện cho nhau, sốt sắng phục vụ Chúa, ngay cả người bắt bớ mình, mình cũng phải chúc lành. Chân phước Tê-rê-sa Calcutta qua kinh nghiệm phục vụ, trao ban của ngài, cũng đã nói: “Ai trao ban cách vui vẻ là trao ban nhiều hơn thế”.

3. Niềm vui đón nhận

Bà Ê-li-sa-bét vui vì bà biết đón nhận niềm vui từ người em họ, bà vui vì được người em họ của bà đến viếng thăm, vui vì em đến chăm sóc mình trong lúc thai nghén. Niềm vui to lớn nhất là được Đức Maria đem Chúa đến cho gia đình mình, vui vì Chúa đến cư ngụ trong nhà của mình. Niềm vui của bà được lan truyền qua người con trong bụng, khiến người con ấy tuy chưa chào đời mà đã nhảy mừng. Niềm vui bà Ê-li-sa-bét có được, bà nhận ra được Chúa đến nhà bà là nhờ Chúa Thánh Thần ban cho bà (Lc 1,41), vì như chân phước Phao-lô VI đã viết: “Nơi chính Thiên Chúa, tất cả đều là niềm vui bởi tất cả đều là ân ban (Tông huấn Gaudete in Domino 9/5/1975).

Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống niềm vui và trao ban niềm vui. Vì Kitô hữu là người có Chúa Kitô. Chúng ta vui vì có Chúa trong mình, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình dương thế. Chúng ta vui vì có những anh chị em Kitô hữu khác cùng sống với chúng ta trong cuộc đời, có người bạn đường chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kiếp người với chúng ta. Đó cũng là dịp để chúng ta thực tập, thi thố, trao ban niềm vui cho những người chúng ta gặp gỡ. Đồng thời chúng ta cũng biết ơn đón nhận tình thương, niềm vui từ anh chị em trao ban cho chúng ta.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 22. Chia Sẻ Niềm Vui


--Radio Veritas Asia

--‘Suy Niệm Lời Chúa’

Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elizabeth.

Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.

Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước Thiên Chúa.

Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp gỡ.

Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria. Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác".

Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay, các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập niềm vui.

Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: "Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa". Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: "Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!"

Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt lên kinh Magnificat: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa". Lời kinh tuyệt vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa trong giờ Kinh Chiều của mình.

Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến con mình và nói lên cho mọi người biết: "Này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi". Truyền thống Công Giáo cho rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.

Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay, mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.

-------------------------------

 

Suy Niệm 23. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân


--JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Ta học được những gì trong việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét? Thăm viếng có phải là một việc mà tình yêu đòi buộc phải có không?

2. Thăm viếng cũng là dịp đem Chúa đến cho người khác. Nhưng đem Chúa đến cho người mình thăm viếng bằng cách nào?

3. Giữa những hành động cụ thể biểu lộ yêu thương đích thực, và những lễ tế, kinh kệ làm theo thói quen, Thiên Chúa ưa chuộng cái nào?

Suy tư gợi ý:

1. Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương

Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Êlisabét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả. Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Êlisabét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Êlisabét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.

Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế!

Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói: «Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ», ngài gọi cái khổ ấy là «ái biệt ly khổ». Tục ngữ có câu: «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!» (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.

2. Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương

Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui theo mà «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Êlisabét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu chẳng những mang niềm vui, mà còn biến đổi hai mẹ con bà Êlisabét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.

Như thế, đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.

Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Có những người nói về Chúa rất nhiều và rất hay, nhưng họ không thật sự có Chúa trong bản thân họ. Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Êlisabét đâu! Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.

3. Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng

Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Do tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.

Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.

Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta. Khi ta đến với họ, Ngài cũng muốn ta coi họ như hiện thân của Ngài, nghĩa là như chính bản thân Ngài.

Ngài đã chẳng từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.

-------------------------------

 

Suy Niệm 24. Thương thì Thăm


--Trầm Thiên Thu

Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, năm A

Người ta thăm viếng nhau vì quý mến, vì thương yêu, vì tình cảm, chứ chẳng ai ghét nhau mà lại đến thăm nhau. Thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,... Nói chung, quá trình đó được bắt đầu từ đức ái: Thương thì Thăm.

Để có thể thăm viếng nhau như vậy, người ta phải có lòng khiêm nhường, như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mân Côi, chúng ta cầu xin: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được lòng khiêm nhường”. Quả thật, đức khiêm nhường rất quan trọng vì đó là nên tảng của mọi nhân đức.

Đức Maria là thôn nữ nghèo, nhưng nhu mì và dễ thương vì luôn sống khiêm nhường, và là thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Thiên Chúa.

Sứ thần Gáprien truyền tin vui nhưng Nàng Maria lại bối rối. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Cô Maria, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “hoảng hồn”, nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Cô, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời chứng minh một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là người chị họ Êlidabét, vì “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Thở phào nhẹ nhõm, Đức Mẹ Ô-kê ngay lập tức (Lc 1:38) mà không chút đắn đo. Phúc chồng lên phúc!

Thuở xưa, Thiên Chúa cũng đã động viên các cô gái: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là bắt đầu có sự can đảm, có can đảm là có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi.

Khi “không sợ” thì người ta có thể làm được nhiều thứ. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực hiện đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo. Nhưng Thánh Phaolô cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái có nhiều dạng và nhiều mức độ, cần phải can đảm thực sự mới có thể thực hiện. Không dễ đâu!

Thánh Phaolô giải thích thêm về đức ái: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng phải vậy thôi, và đọc kỹ từng chữ, chúng ta sẽ thấy “nhức đầu” đấy, chứ không đơn giản như chúng ta thường nghĩ.

Thánh sử Luca cho biết rằng, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45). Cái PHÚC không đâu xa, mà do mình, nếu thực sự TIN. Tuy nhiên, tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!

Lúc đó, Đức Maria chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55) độc đáo:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Thánh Luca cho biết rằng “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).

Khi Đức Maria thụ thai, Chị Êlisabét đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vị chi là Chị Êlisabét đã đến lúc khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, rất cần sự giúp đỡ của người khác. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về hai chữ T quan trọng trong cuộc sống: Thăm (viếng) và Thương (yêu).

Lạy Thiên Chúa từ ái, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con một Người Mẹ tuyệt vời, xin giúp chúng con biết noi gương và yêu mến Mẹ luôn luôn. Xin biến đổi chúng con để mỗi chúng con sớm trở nên khí cụ bình an của Ngài.

Lạy Mẹ nhân lành, chúng con xin tận hiến cuộc đời cho Mẹ, xin thương hướng dẫn và che chở chúng con trong mọi hoàn cảnh, và xin dẫn đưa chúng con về với Chúa. Xin Mẹ đoái thương nước Việt Nam bé nhỏ của chúng con, nhất là trong hoàn cảnh có nguy cơ chiến tranh Biển Đông hiện nay. Xin Mẹ ngăn tay kẻ thù và biến đổi tà tâm thành thiện tâm, xin cho Nước Việt và thế giới được hưởng tự do, công lý và hòa bình đích thực của Thiên Chúa.

Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

 -------------------------------

 

Suy Niệm 25. Tình khúc ngợi khen


--Trầm Thiên Thu

TRINH NỮ XIN VÂNG VÌ MẾN CHÚA
MẸ HIỀN PHỤC VỤ BỞI YÊU NGƯỜI

Cuộc đời Đức Mẹ là một Tình Khúc Ngợi Khen không ngừng du dương tán tụng hồng ân Thiên Chúa. Vừa được trở thành Mẹ Thiên Chúa và biết tin người chị họ cũng đã được diễm phúc làm mẹ được nửa năm, Đức Maria liền vội vã lên đường đi thăm chị và cùng chia sẻ niềm vui lớn lao trong tâm tình chị em.

Thánh Bênađinô nói: “Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần. Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ”. Còn Thánh Laurensô Brinđisi cho biết: “Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ”.

Đặc biệt hơn, Thánh Anphong Ligôri cho biết: “Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy Giả, Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, lễ Đức Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là lễ Đức Mẹ Ban Ân Sủng”. Ôi, thật kỳ diệu và thú vị biết bao!

Với kinh nghiệm cuộc sống, ai cũng biết rằng thăm viếng là một cách giao tiếp phổ biến trong xã hội đời thường. Chắc chắn không ai lại không một lần thăm viếng người khác, có thể chỉ là hỏi thăm bình thường hoặc chuyện vãn khi nhàn rỗi, đặc biệt là những cuộc thăm viếng dành cho người già, bệnh nhân, trẻ mồ côi, người nghèo, tù nhân, nạn nhân,...

Có thể khác nhau về mức độ khi thăm viếng nhau, nhưng điều cốt lõi cần thiết vẫn phải là vì đức ái, như Thánh Phaolô khuyên: “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:16). Chỉ vì đức ái mà hành động thì chuyện nhỏ cũng trở nên giá trị trước mặt Thiên Chúa, không vì đức ái mà chỉ vì “lấy lòng” hoặc “che mắt thế gian” thì chuyện lớn cũng không có giá trị gì đối với Thiên Chúa. Có thể nói rằng, ở cấp quốc gia và về lĩnh vực chính trị, có thể có gì đó gọi là “giả hình” khi người ta có những cuộc viếng thăm với danh nghĩa là “chính thức”, bởi vì đó là những cuộc thăm viếng nhau theo lời mời chứ không tự ý. Tất nhiên ở đây phải được hiểu với nghĩa tương đối.

Tương tự, trong cuộc sống đời thường và bình dân, người ta chỉ thăm viếng nhau vì quý mến nhau, thương yêu nhau, thân thiện với nhau, chứ chẳng có ai ghét nhau mà lại đến thăm nhau. Khi thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,... Nói chung, quá trình đó cần phải được bắt đầu từ đức ái: thấy thương thì thăm (4T) và thân tình thì thăm (4T), và hai điều đó đúc kết thành 4T: Tình Thương Thành Thật.

Một loạt mẫu tự “tê”, có thể là “tê” bình thường mà cũng có thể là “tê” thật, bởi vì thực hành được 4T đó không hề đơn giản. Để có thể thăm viếng nhau chân tình, người ta phải có lòng khiêm nhường thực sự, đúng như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mân Côi: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được LÒNG KHIÊM NHƯỜNG”. Điều cầu xin đó thực sự cần thiết, bởi vì đức khiêm nhường rất quan trọng và là nên tảng của mọi nhân đức, là viên đá góc của tòa nhà nhân đức. Đức khiêm nhường là “ông vua” đối nghịch với “quỷ vương” là thói kiêu ngạo.

Là tín nhân Công giáo, ai cũng biết rằng Đức Maria là một thôn nữ nghèo, nhưng sống nhu mì và dễ thương, bởi vì thục nữ Maria luôn sống khiêm nhường, đồng thời còn là một thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế. Đức Mẹ là một con người vô cùng đặc biệt, Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ để làm gương sáng cho chúng ta soi vào hằng ngày.

Nàng Maria vô cùng bối rối khi được Sứ thần Gáprien truyền Tin Vui. Biết thế nên Sứ thần liền trấn an: “Thưa bà Maria, XIN ĐỪNG SỢ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Đức Mẹ còn rất trẻ nhưng được tôn xưng là “bà”, chứng tỏ Đức Maria rất đáng kính trọng: “Đức Nữ rất đáng kính chuộng, Đức Bà là Đấng trọng thiêng, Đức Bà là Đấng đáng tôn trọng” (Kinh Cầu Đức Bà). Vừa nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “giật thót mình”, thế nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời sứ thần còn dẫn chứng cụ thể về một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là bà Êlidabét (Isave), người chị họ của Đức Maria. Sứ thần xác định rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Thế thì không có gì lo lắng nữa, cũng chẳng đắn đo chi cả, Đức Mẹ chấp nhận ngay (Lc 1:38). Nhân đức chồng lên nhân đức, ân phước chồng lên ân phước. Quả thật, Trinh Nữ Maria vượt trên cả sự tuyệt vời!

Từ thuở xa xưa, chính Thiên Chúa cũng đã từng động viên các cô gái trẻ: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, ĐỪNG SỢ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là lúc chúng ta bắt đầu có sự can đảm, có can đảm thì có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Thật kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi, liên lỉ tác động để hướng chúng ta về Thiên Chúa.

Lòng can đảm rất cần thiết. Khi có lòng can đảm, người ta có thể làm được nhiều thứ, như Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi làm gì cũng được”. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực thi đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo – và cả trong đời thường, bởi vì ai cũng muốn yêu và được yêu. Thế nhưng phải luôn cảnh giác, bởi vì Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái đa dạng và có nhiều mức độ, phải thực sự can đảm mới có thể thực hiện. Không dễ chút nào cả, coi bộ “căng” dữ nghen!

Không chỉ có vậy, Thánh Phaolô còn giải thích thêm về đức ái: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17). Xem ra có vẻ “dài dòng”, nhưng phải vậy thôi, và nếu để ý mà “nuốt lấy” từng chữ, từng ý, có thể chúng ta sẽ cảm thấy “nhức đầu” chứ chẳng đơn giản như chúng ta tưởng đâu!

Trình thuật Lc 1:39-56 kể lại cuộc thăm viếng của Đức Maria dành cho Bà Chị Êlidabét, Giáo Hội gọi đó là lễ Đức Mẹ Thăm Viếng (Visitatio Mariæ). Có điều đặc biệt: Lễ này không chỉ được mừng kính trong Công giáo Rôma, mà cả trong Chính Thống, trong một phần Anh giáo và Tin Lành.

Thánh sử Luca cho biết rằng, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria VỘI VÃ lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được ĐẦY TRÀN THÁNH THẦN, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật CÓ PHÚC vì đã TIN rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).

Thật lạ lùng, cái PHÚC chẳng ở đâu xa xôi mà ở rất gần, ngay trong mỗi con người, tức là do chính mình – nếu thành tâm TIN thực sự. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý lời của Thánh TS Teresa Avila: “Tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo”. Kể ra cũng nhiêu khê, một khoảng rất mong manh giữa TIN và TƯỞNG, rất dễ lầm tưởng đấy!

Hai chị em cùng hân hoan hàn huyên tâm sự. Sau khi nghe Chị Isave bày tỏ niềm hạnh phúc vì “được Mẹ Thiên Chúa đến thăm”, Đức Maria vang lời chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55), một bài Thánh Ca độc đáo, bất hủ, không tín nhân nào lại không biết.

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Trong bài Thánh Ca này, Lòng Chúa Thương Xót đã được Đức Mẹ đề cập chứ không phải ngày nay mới được nói tới – từ khi Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh Nữ tu Faustina và thiết lập lễ Lòng Chúa Thương Xót (CN II PS). Và Thánh sử Luca cho biết rõ ràng: “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).

Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng khi Đức Maria thụ thai, bà chị Êlisabét cũng đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vậy là bà chị Êlisabét sắp đến ngày khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, thế nên rất cần sự giúp đỡ của người thân. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về điều kỳ diệu trong cuộc sống: Tình Yêu Thương. Vâng, đức ái (đức mến, tình mến, lòng mến) vô cùng quan trọng – quan trọng cả đời này và đời sau (x. 1 Cr 13:13). Tình Yêu Thương bất tử, còn mãi mãi…

Cùng với Đức Mẹ, ước gì cuộc đời của mỗi chúng ta luôn là bản Tình Khúc Ngợi Khen kính dâng Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.

Lạy Thiên Chúa là tình yêu vĩnh hằng, thật diễm phúc khi chúng con được Ngài trao ban một Người Mẹ tinh tuyền là Đức Trinh Nữ Maria. Xin giúp chúng con biết noi gương và yêu mến Đức Mẹ, biết nhìn mọi người bằng ánh mắt nhân ái. Xin Chúa biến chúng con thành khí cụ bình an trong Đại Gia Đình Đa Đồng Đường của Ngài.

Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng con xin chúc tụng Mẹ và tận hiến cuộc đời cho Mẹ. Xin Mẹ đồng hành, hướng dẫn và che chở chúng con suốt đời, xin dẫn chúng con về gặp Con Yêu của Mẹ. Xin Mẹ thương Nước Việt bé nhỏ của chúng con và những đất nước gặp hoạn nạn – tinh thần và thể lý. Xin Mẹ biến đổi tà tâm thành thiện tâm để cả thế giới cùng tận hưởng nền tự do đích thực, vui sống trong công lý và hòa bình viên mãn của Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 26. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế


--Lm. Hồng Phúc

Chỉ còn mấy hôm nữa là đến Lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thể xác để đón mừng Chúa. Chúa chỉ đi vào lịch sử có một lần, nhưng Chúa còn đến trong tâm hồn chúng ta nhất là trong những kỷ niệm này.

Thánh Phaolô nói: Ngài đến sinh ra bởi một người Nữ (Gal. 4, 4). Nhân vật nêu gương cho chúng ta hơn cả trong việc chuẩn bị đón ngày Chúa đến là Đức Mẹ, người Nữ diễm phúc được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Loài người không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Trời và đất đã gặp nhau trong cung lòng Trinh nữ. Mẹ đã trở nên Hòm bia thánh mang ơn cứu độ cho nhà Israen. Luca viết: “Maria chổi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi” đến thăm bà chị họ Isave. Mẹ đến mang tình bác ái, giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ. Mẹ đến mang ơn cứu độ cho Gioan mà cuộc đời sẽ mật thiết liên hệ với con Mẹ.

Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ như cảm động nhận ra Đấng đến với mình. Thiên thần đã loan báo: “Từ trong lòng mẹ, trẻ ấy sẽ được đầy Thánh Thần” (Lc. 1, 15). Con hân hoan thì Mẹ cũng vui mừng vì được “Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, như “song lộc triều nguyên” dâng lời cảm tạ.

Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” – Magnificat (Lc. 1, 46-56).

Tất cả sự cao trọng của Mẹ, như lời Bà Chị nói, là “đã tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Mẹ sống nội tâm, luôn luôn đón nhận Lời Chúa, mau mắn thi hành trong tinh thần đức Tin và phó thác. Đó là bài học cho chúng ta khi suy niệm đoạn Phúc âm “Thăm viếng” này.

Đức Mẹ và Thánh Giuse đang ở Nagiaret, một làng bé nhỏ miền Bắc Do-thái. Mẹ mong chờ ngày con sinh ra như các bà mẹ mong chờ con, nhưng Mẹ càng mong chờ và Mẹ biết rằng con đến là ơn cứu độ đến với nhân loại. Mẹ sống hoàn toàn phó thác và trông cậy vì Mẹ biết rằng 800 năm về trước, nhà tiên tri Michê (trong bài đọc I) đã tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ ở Bêlem, một thị trấn miền Nam cách đó đến 4, 5 ngày đàng. Nhưng, việc Chúa thì Chúa lo. Và Chúa đã dùng một ông vua chọc trời khuấy nước, ra một sắc lệnh kiểm kê dân số, một sắc lệnh có tính cách phô trương nhưng ngầm thực hiện ý nhiệm của Thiên Chúa.

Giuse và Đức Mẹ thuộc chi họ Đavit quê ở Bêlem nên phải về đó khai sổ bộ. Thế là hai ông bà lên đường. Có lẽ Giuse kiếm được con lừa và ngồi trên lưng lừa do Giuse hướng dẫn, Mẹ ra đi, cà tật cà tang, hướng về Giêrusalem. Đường dài 150 cây số.

Mỗi khi có dịp về xứ Giuđêa, mọi người Do-thái đạo đức đều ghé qua Giêrusalem kính viếng Đền thờ. Hai ông bà hẳn cũng đã làm như vậy, rồi trực chỉ Bêlem cách thủ đô 8 cây số về phía Nam.

Trời đã về chiều. Luca viết: “không có chổ cho hai ông bà trong quán trọ” (2, 7). Quán trọ ở đây theo tập tục Do-thái, là một khu vườn có giếng nước trong có căn nhà lộ thiên cho du khách nghèo ngủ qua đêm. Giuse thấy không tiện để Đức Mẹ trong quán công cộng vào một lúc quan trọng nhất của đời người đàn bà, nên đã tìm về những hang đá tự nhiên ở ngoại ô, nơi có các mục đồng hay lùa chiên vào nghỉ đêm.

“Trong lúc đang ở đó thì Maria sinh hạ con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (2, 6). Mẹ làm lấy mọi tác động, vì Mẹ cưu mang con nhiệm lạ thì cũng sinh con mà không tổn thương sự khiết trinh, cũng như ngày kia, Con Mẹ sẽ ra khỏi mồ đóng ấn niêm phong. Rồi Mẹ đặt con nằm trong máng cỏ gối quì thờ lạy, làm cái việc xa xưa nay chưa ai từng làm là thờ lạy Con. Vì “Mẹ sinh ra Con nhưng Con là Cứu Chúa của Mẹ”. (Thánh Ephrem).

Lạy Chúa, xin đến lại trong tâm hồn con, để con được đón Chúa bằng bàn tay dịu hiền, bằng trái tim nồng cháy của Mẹ.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 27. Đức Maria Viếng Thăm Bà Êlisabét


--Lm Fx Vũ Phan Long Ofm

1.- Ngữ cảnh

Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, tác giả Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (Lc 1,5-25), loan báo Đức Giêsu chào đời (1,26-38) và Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (1,39-56). Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết cc. 24-25 với cc. 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay tác giả Lc dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét để liên kết truyện hai lời loan báo cách chặt chẽ hơn. Câu truyện ở 1,5-24a được tiếp nối với 1,57-66.

Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh Đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”) tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của Yhwh (Đức Chúa) với Israel để nói về Đức Maria lúc này: người được coi như là Hòm Bia Giao ước.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức Maria gặp bà Êlisabét (1,39-41);
2) Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (1,42-45):

3.- Vài điểm chú giải

- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (42): Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào như thế: bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18).

- đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng … Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (41.42.43): Tác giả Lc đã dựa vào 2 Sm 6 (vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem), 1–2 Sb và sách Giuđitha để viết 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).

2 Sm 6

Lc 1,39-56

Trong xứ Giuđa (2)
Trong xứ Giuđa
Dân vui
Êlisabét và con vui
Đavít nhảy mừng
Gioan nhảy mừng (44)
Dân reo
Êlisabét reo, anephônêsen (42)
Vào nhà Ôvết Êđôm (10)
Vào nhà Dacaria (40)
Hòm Bia: nguồn phúc  (11-12)
Maria:nguồn phúc (41.44)
Bởi đâu tôi được Hòm Bia Đức Chúa đến nhà tôi? (9)
Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi? (43)
Ở nhà Ôvết Êđôm ba tháng (11)
Ở với bà Êlisabét độ ba tháng (56)

- Kêu lớn tiếng (42): Động từ anephônêsen (“reo”) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1 Sb 16,45.42) và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sb 15,28 và 2 Sb 5,13).

- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gđt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:

Gđt 13,18-19

Lc 1,42

Bà được chúc phúc…
Em được chúc phúc…
giữa tất cả các phụ nữ
hơn mọi người phụ nữ
Và Đức Chúa là Thiên Chúa
Và quả lòng dạ em cưu mang
được chúc phúc (eulogêmenos)
được chúc phúc (eulogêmenos)

- Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm tác giả Lc nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabrien hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):

- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin:
30 ngày x 6 = 180 ngày

- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời:
30 ngày x 9 = 270 ngày

- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:
= 40 ngày

Tổng cộng: = 490 ngày
= 70 tuần 7 ngày.

Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Ít-ra-en”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (3,1).

- Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5).

4.- Ý nghĩa bản văn

Trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét, tác giả Lc cho thấy kinh nghiệm của một người phàm lần đầu tiên hiểu ra điều gì đã xảy ra cho Đức Maria và phản ứng khi hiểu được điều ấy. Ở tại trung tâm, có Thiên Chúa và hoạt động của Người đối với Đức Maria, nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã được thực hiện.

* Đức Maria gặp bà Êlisabét (39-41)

Khi đã được biết rằng người chị họ của mình đã mang thai trong tuổi già, Đức Maria đã vội vã đi lên miền núi. Chuyến đi không dễ dàng, nhưng người vẫn vội vã. Có thể nói, với cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, chuyến đi dài được tác giả của tác phẩm hai tập là Lc và Cv trình bày dọc theo tác phẩm, đã bắt đầu. Con Thiên Chúa từ trời đã xuống trần gian, rồi Người đi từ Nadarét lên Giêrusalem, còn các môn đệ của Người sẽ đi từ Giêrusalem, qua Samaria, và đến tận cùng trái đất, tất cả các đấng đều vội vã, dù gặp biết bao khó khăn.

Là Hòm Bia của giao ước mới, Đức Maria mang trong lòng mình “Con Đấng Tối Cao” (1,32), là Đấng mạc khải, là nguồn ơn phúc, là nguyên do đưa lại niềm vui. Đức Maria vội vã đưa Đức Kitô đến với những người khác. Đức Maria đi trong tư cách là người tin vào lời Thiên Chúa qua trung gian sứ thần Gabriel.

* Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria  (42-45)

Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với bà Êlisabét nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa người với sứ thần Gabriel: cả hai vị đều nhận định người đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên người. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người cùng với hoa quả lòng người. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho người có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, cũng là

Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của bà Êlisabét là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.

Bà Êlisabét diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. TrongCựu Ước, có hai người phụ nữ được chào bằng những lời này, đó là bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). Các bà đã đánh bại các đoàn quân áp bức dân các bà. Kinh Thánh không tường thuật những gì các bà đã làm hầu chuẩn nhận cho chiến tranh, nhưng để cho thấy Thiên Chúa có thể làm những việc kỳ diệu bằng cách dùng những con người không phù hợp về phương diện loài người, những con người không có uy lực. Khi ghi nhận bà Êlisabét chào Đức Maria như vậy, tác giả Lcbảo chúng ta rằng Đức Maria thuộc về một hạng người, tuy bị coi là không phù hợp, lại được Thiên Chúa dùng mà đưa lại ơn cứu độ cho chúng ta. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm một việc phi thường nhất trong lịch sử: Ngài ban cho chúng ta Con của Ngài.

Nếu Đức Maria được như thế, thì chỉ do cốt yếu và trước tiên Mẹ là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Người, quyền năng của Người. Đức Maria đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Israel mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.

Bà Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (c. 43). Lời này cũng được lấy từ Cựu Ước. Đavít dùng những lời này khi Hòm Bia Giao ước được di chuyển về Giêrusalem. Ông đã reo lên: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2 Sm 6,9). Có những chi tiết khác liên kết cuộc viếng thăm của Đức Maria với Hòm Bia Giao ước. Cả Đức Maria và Hòm Bia ở lại “ba tháng” trong miền Giuđê; Hòm Bia được đón tiếp trong niềm vui và lễ mừng, và đưa phúc lành đến gia đình đã nhận lấy Hòm Bia (2 Sm 6,10-11); khi Đức Maria vào nhà Dacaria, trẻ Gioan (đại diện cho dân Cựu Ước đang trông chờ Đấng Mêsia) đã nhảy lên vui sướng.

Phần Đức Maria, người vẫn tiếp tục sống thân phận nữ tỳ: không chỉ đến thăm bà Êlisabét, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ.

+ Kết luận

Bà Êlisabét gặp Đức Maria. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của một con người với mẹ của Đức Chúa như tác giả Lc mô tả, hoàn toàn đơn giản và thanh thoát. Cuộc gặp gỡ này chan hòa niềm tâm tình phấn khởi và niềm vui tươi hân hoan. Bà Êlisabét tự giới thiệu cho chúng ta như là người đã tôn kính Đức Maria trước tiên. Bằng những lời “em được chúc phúc”, “Thân Mẫu Chúa tôi”, “em thật có phúc”, bà phác họa những đường nét chính của dung mạo Đức Maria: công trình của Thiên Chúa nơi người, tương quan của người với Chúa Giêsu Kitô, thái độ của người đối với Thiên Chúa. Tất cả những điều này, bà Êlisabét hiểu được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng. Cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội cho phép bà có một kinh nghiệm hết sức mạnh mẽ và một niềm vui thật chan hòa.

Một điều quan trọng hơn nữa, đó là khi giới thiệu tư cách đặc biệt của Đức Maria, bà Êlisabét không ngờ đang đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Đức Maria đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.

Đàng khác, tác giả Lc muốn chúng ta thấy Đức Maria như là Hòm Bia Giao ước. Thiên Chúa đã chọn không ở trong một tòa nhà, nhưng ở trong lòng dạ một người phụ nữ.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của bà Êlisabét (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; bà Êlisabét đã gọi người là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Người ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Đức Maria tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?

2. Đức Maria được bảo là “có phúc”  vì người đã tin rằng lời Chúa hứa với người sẽ được hoàn tất (c. 45). Thiên Chúa đã hứa biết bao điều qua các ngôn sứ? Khi thấy rằng các lời hứa của Thiên Chúa chậm được thể hiện, dân nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã đặt niềm tin tưởng vào chính họ, nên đã kết thúc trong thất bại. Đức Maria “có phúc” vì đã tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ biết rằng cho dù bề ngoài thế nào, Lời Chúa sẽ được thực hiện.

3. Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (1,32), Con Thiên Chúa (1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như bà Êlisabét đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Êlisabét chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà bà Êlisabét. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.

4. “Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, người đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của người; sau đó, những gì người đã lãnh nhận, người đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con của người nơi mình, còn bàn thờ người đã thiết lập là tấm lòng của người. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân người, sức mạnh của người, toàn thân người, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô” (CP. Têrêsa Calcutta).

5. Có Chúa trong mình không chỉ là đặc ân dành riêng cho Đức Maria. Mỗi cộng đoàn và mỗi người trong chúng ta phải trở thành như Đức Maria, một “Hòm Bia Giao ước”. Nhiệm vụ của chúng ta là mang Chúa đến cho người khác. Một điều có thể bảo cho biết là chúng ta đang là một “Hòm Bia Giao ước”, đó là niềm vui. Bất cứ đi đâu, Đức Maria đều tuôn đổ niềm vui (x. Lc 1,41.42.45-48). Sự hiện diện của chúng ta có đưa niềm vui đến cho người khác không?

---------------------------------

 

Suy Niệm 28. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn


--‘Tin Mừng Chúa Nhật’

Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không, nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.

Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”. Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”, danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm: “Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ thành sự thật”.

Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của Đức Maria:

Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.

Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để mà từ chối.

Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.

Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.

Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.

Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ.

Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.

Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.

Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.

Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.

Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ. Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương Mẹ tự tình phục vụ như thế?

Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường, tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu cho chúng ta!

Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.

---------------------------------

 

Suy Niệm 29. Đức Mẹ Thăm Viếng


--Trầm Thiên Thu(từ CatholicCulture.org)

Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng nhắc nhở chúng ta về các sự thật và sự kiện này: Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Êlidabet ngay sau khi được Sứ thần truyền tin; Thánh Gioan Tẩy giả khỏi tội Nguyên tổ khi còn trong lòng mẹ, lúc Đức Mẹ cất tiếng chào; Elizabeth's proclaiming of Mary – theo linh hứng của Chúa Thánh Thần – là Mẹ thiên chúa và “được chúc phúc giữa các phụ nữ”; Thánh ca siêu phàm Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Chúa) trở thành một phần trong lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội. Sự Thăm Viếng thường được mô tả trong nghệ thuật và là mầu nhiệm trung tâm trong các sự sùng kính của Thánh Phanxicô Salê.

LỊCH SỬ

Lễ này kính chào Đức Mẹ đã mang trong lòng chính Vua Trời Đất, Đấng Tạo Tác thế gian, Con Thiên Chúa, Mặt Trời Công Chính. Đức Maria được diễm phúc làm “Mẹ Thiên Chúa” và nhận biết hồng ân xuống trên Thai nhi Gioan, Đức Mẹ đã thốt lên lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-49).

Lễ này có nguồn gốc từ Thời Trung Cổ, được Dòng Phanxicô duy trì từ trước năm 1263, và mau chóng lan truyền khắp Giáo hội hoàn vũ. Trước đây, lễ này kính vào ngày 2 tháng Bảy. Nay được cử hành vào khoảng giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả, phù hợp với trình thuật Phúc Âm. Một số nơi mừng lễ này theo thực tế và thánh hóa các thai nhi. Phụng vụ sử dụng màu Trắng.

Theo Sách lễ năm 1962 thời Chân phước GH Gioan XXIII, hôm nay là lễ Đức Maria Trinh Vương và Thánh nữ Aurelia Petronilla. Ngày nay, lễ Đức Maria Trinh Vương được cử hành vào ngày 22 tháng Tám. Thánh Aurelia Petronilla được Thánh Phêrô, giáo hoàng tiên khởi, hướng dẫn vào đức tin. Bà qua đời sau ba ngày từ chối kết hôn với Flaccus, một nhà quý tộc ngoại giáo. Không có chứng cớ lịch sử về việc bà tử đạo, nhưng một bức bích họa (fresco) thời sơ khai cho thấy bà chịu tử đạo. Ngày nay, lễ Thánh Aurelia Petronilla không còn trong lịch phụng vụ.

THĂM VIẾNG

Cuộc thăm viếng bắt đầu: “Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1:39). Như một bài thơ trữ tình mở đầu cách diễn tả của Thánh sử Luca về cuộc thăm viếng. Chúng ta có thể cảm thấy ấm lòng và thánh thiện, lòng yêu thương gấp rút đã thúc đẩy Thục Nữ Maria băng qua núi đồi để đến với người chị họ. Trái tim Đức Mẹ đã đập nhịp đập của Đức Kitô.

Nhiều phụ nữ, nếu đang mang thai, sẽ từ chối đi trên con đường gập ghềnh để có thể bày tỏ lòng tử tế với người khác. Họ sẽ nói rằng họ có trách nhiệm với chính mình và thai nhi trước khi làm điều gì hoặc đến với người khác, sợ “động thai”. Nhưng Mẹ Thiên Chúa không đắn đo những điều như vậy. Thánh Êlidabet cũng sẽ sinh con, và dù Con Trẻ trong lòng Đức Mẹ là Thiên Chúa, Đức Mẹ vẫn không thể làm ngơ nhu cầu cảu Thánh Êlidabet – hầu như không thể tin được đối với chúng ta, nhưng đó là tính cách của Đức Mẹ.

Đức Mẹ chào Chị Êlidabet, và vừa nghe lời chào, con trẻ Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Ngay cả trước khi sinh ra, sự hiện diện của Ngài đã đem lại Sự Sống.

Làm sao Thánh Êlidabet biết điều gì đã xảy ra với Đức Mẹ? Điều gì làm Thánh Êlidabet nhận biết Cô em họ cũng đang mang thai như mình, là Mẹ Thiên Chúa? Thánh Êlidabet biết điều đó nhờ con trẻ trong lòng mình, khi con trẻ nhảy mừng trong lòng. Nếu chúng ta thực hành việc suy niệm này, chúng ta sẽ có kinh nghiệm như Thánh Êlidabet.

Nếu Đức Kitô lớn lên trong chúng ta, nếu chúng ta bình an, hồi tưởng, vì chúng ta cho rằng điều đó quan trọng, Ngài sẽ lớn mạnh trong chúng ta; nếu chúng ta nhiệt thành, “vội vã” đến nơi nào đó theo sự thúc giục trong lòng, vì chúng ta tin Chúa Giêsu muốn chúng ta có mặt ở nơi đó, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta được thúc đẩy càng ngày càng nhiều để mà hành động theo sự thúc đẩy theo xung động tình yêu của Đức Kitô. Chúng ta sẽ có câu trả lời theo các xung động này, chúng ta sẽ được đánh động và vui mừng.

Thánh Êlidabet là bổn mạng các thai phụ. Biểu tượng: Thánh Êlidabet chào mừng Cô em Maria, một phụ nữ luống tuổi đang mang thai Thánh Gioan Tẩy giả, Thánh Êlidabet đồng hành với Thánh Dacaria.

Những việc cần làm:

– Đọc Lc 1:39-47, câu chuyện về Cuộc Thăm Viếng. Suy niệm những lời trong kinh Magnificat và kinh Kính Mừng, hai lời cầu nguyện của lễ này. Với những người có con cái, tùy theo tuổi tác, hãy tổ chức một buổi cầu nguyện chung, và rồi cùng thảo luận về ý nghĩa hai lời cầu nguyện này như một gia đình.

– Lễ này nhắc chúng ta sống bác ái với những người hàng xóm và với mọi người. Hãy giúp đỡ mẹ (dù đang mang thai hay không), hãy giúp đỡ người già và các bệnh nhân, nếu có thể thì hãy mời một người nghèo đến cùng dùng bữa với gia đình,...

---------------------------------

 

Suy Niệm 30. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?


--Lm. Micae Võ Thành Nhân

Sau biến cố thiên thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Đức Mẹ biết là Đức Mẹ sẽ cưu mang Đấng Cứu Thế chuộc tội cho nhân loại, Đức Mẹ lên đường, vượt núi, băng rừng, lội nước, trải qua bao khó khăn, gian nan, vất vả, trắc trở, khắc nghiệt.... để thăm người chị họ của Mẹ là bà Isave đang mang thai thánh Gioan Tẩy giả sáu tháng (xLc 1, 26 – 38).

Chúng ta tự hỏi: Tại sao Đức Mẹ với phận là một nữ nhi lá ngọc cành vàng, liễu yếu đào tơ, thân gái dặm trường, và quan trọng nhấtlúc này Đức Mẹ đã là Mẹ Thiên Chúa rồi mà Đức Mẹ lại chẳng ngại ngùng để đến thăm người chị họ của Mẹ như vậy?

-Trước hết, Đức Mẹ muốn chia sẻ niềm vui quá lớn lao này cho người chị họ của mình; bởi bao người thiếu nữ Sion trải qua nhiều thế hệ mơ ước làm mẹ Đấng Cứu Thế mà không được, và cũng có lẽ Đức Mẹ và bà thánh Isave vừa là bà con ruột thịt, vừa là đôi bạn tri âm tri kỷ. Nhưng trọng tâm của cuộc thăm viếng này là tình yêu thương của Mẹ dành cho bà chị họ của Mẹ. Mẹ thương chị họ của Mẹ như thể thương thân: “Mến Chúa yêu người” (xLc 10, 25 – 28).

- Đức Mẹ muốn đến thăm bà thánh Isave trước, vì bà đang cưu mang thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Chúa mà như thiên thần Gabriel đã báo tin khi truyền tin cho Mẹ. Lúc này mọi người dương gian, ai cũng cần có Mẹ và có Chúa, ai cũng ước mơ Mẹ đem Chúa đến cho bản thân mình, nhưng Mẹ lại chọn đi thăm người chị họ của Mẹ trước, chẳng phải là Mẹ thiên vị, cũng chẳng phải là Mẹ tò mò xem lời thiên thần nói có đúng hay không: “Kìa bà Isave, người họ hàng với bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai; bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 36 – 37). Ở đây, Mẹ muốn đến thăm và đem Chúa cho tất cả mọi người dương thế đang mong chờ Đấng Cứu Thế. Nhưng Mẹ vẫn là một con người, Mẹ vẫn bị giới hạn trong không gian và thời gian, và cũng giống như chúng ta thường nói "Lực bất tòng tâm”, vì vậy, Mẹ suy nghĩ, Mẹ chọn lựa và Mẹ quyết định đi thăm người chị họ và thánh Gioan Tẩy Giả, để rồi sau này, thánh Gioan Tẩy giả cũng giống như Mẹ; thánh nhân đem Chúa đến cho con người chúng ta, chúng ta lại đem Chúa đến cho người khác, người khác lại đem Chúa đến cho người khác nữa. Như thế, người đi trước đem Chúa đến cho người đi sau, và sẽ tiếp tục kéo dài mãi trong Giáo Hội cho đến ngày tận thế.

Lạy Chúa, thế giới ngày hôm nay cần có Chúa và Mẹ hơn bao giờ hết, vì vậy noi gương Mẹ, chúng con cần đem Chúa và Mẹ đến cho anh chị em của chúng con. Nhưng để đem Chúa đến cho anh chị em của chúng con, chúng con cần phải có Chúa ở với chúng con trước. Chúng con phải tuân giữ lời Chúa và rước Chúa vào lòng mỗi ngày: “Ai giữ lời của tôi, thì Cha của tôi và tôi sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23). Như thế, anh chị em của chúng con một khi có Chúa và Mẹ ở cùng, chúng con sẽ sống yêu thương nhau hơn, sẽ bớt đi hận thù, chia rẻ, chiến tranh, chết chóc....và khi chúng con sống yêu thương nhau, chúng con sẽ làm cho danh Chúa được rạng ngời hơn. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 31. Thân mẫu Chúa đến với tôi


--Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Khi Thánh Mẫu Maria vừa cưu mang Chúa Giêsu, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm viếng bà Êlisabét. Xin Chúa cho chúng ta hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Maria ngợi khen Cha muôn đời. Trong khoảng thời gian giữa Lễ Truyền Tin và Lễ Sinh Nhật thánh Gioan Tẩy Giả, Hội Thánh mừng Lễ Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét. Lễ này mừng biến cố hai bà mẹ gặp nhau, nhưng nhất là, mừng Chúa Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ gặp gỡ vị Tiền Hô của mình trong lòng bà Êlisabét. Lễ này tràn ngập niềm vui của Bài Thánh Ca “linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”.

Hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để nhảy mừng vì được Chúa thương tình đoái đến ta, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Diễm Ca nói: Người yêu của tôi đến. Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần liền kêu lớn tiếng rằng: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi. Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.

Hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để ngợi khen những kỳ công Chúa đã làm cho ta, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách thánh Bêđa Khả Kính nói: Đức Maria ngợi khen Đức Chúa hoạt động nơi Người… Em thật diễm phúc vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã cho em biết. Bấy giờ bà Maria nói: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Xin hãy đến mà nghe tôi kể việc Chúa đã làm để giúp tôi.

Hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để vững dạ an lòng vì Chúa đang ngự giữa ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách ngôn sứ Xôphônia nói: Đức Vua của Ítraen đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Trong bài Đáp Ca, ngôn sứ Isaia cho thấy: Giữa Xion, Đức Thánh của Ítraen quả thật là vĩ đại! Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Đức Mẹ đồng trinh Maria, Mẹ thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã cho Mẹ biết. Trong bài Tin Mừng, bà Êlisabét nói: Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Mẹ thật diễm phúc vì đã tin, và Mẹ đã không giữ niềm hạnh phúc cho riêng mình, nhưng, đã mau mắn ra đi loan truyền và kể lại những kỳ công Chúa đã làm cho Mẹ, hầu, tất cả những ai tin, thì cũng được phúc như Mẹ. Trong Kinh Magnificat, Mẹ đã tuyên xưng những ơn riêng Chúa đã ban cho Mẹ cách đặc biệt, sau là, kể ra những ơn chung Thiên Chúa không ngừng ban cho nhân loại đến muôn đời. Thần trí Mẹ hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Mẹ không kể gì là do công trạng riêng, vì cho tất cả sự cao trọng của mình, là do bởi ơn Chúa, Đấng quyền năng đã nâng ta: từ chỗ nhỏ bé thấp hèn, nên mạnh mẽ cao sang. Mẹ dạy ta biết mau mắn đón nhận đức tin và kêu cầu danh Chúa, để ta được thông phần sự thánh thiện và được hưởng ơn cứu độ. Bài Thánh Ca của Mẹ được đọc vào giờ Kinh Chiều thật là thích hợp, vì tâm trí ta sau một ngày làm việc mệt mỏi và ngổn ngang trăm mối, lúc sắp được nghỉ ngơi, có thể hồi tâm để cùng nhau suy gẫm, hầu, nhắc ta năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng sốt mến, và năng suy niệm các gương lành của Mẹ mà thêm vững mạnh trên đường nhân đức. Khi Thánh Mẫu Maria vừa cưu mang Chúa Giêsu, Cha đã soi sáng cho Mẹ đi thăm viếng bà Êlisabét. Ước gì ta hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Mẹ ngợi khen Cha muôn đời. Ước gì được như thế!

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 32. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng


-- Lm. Anthony Trung Thành

Lịch sử cứu độ là lịch sử của những cuộc viếng thăm. Đó là những cuộc viếng thăm giữa Thiên Chúa và dân Người. Thật vậy, sau khi hoàn tất công trình tạo dựng, Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng luôn viếng thăm để ban ơn và có khi để khiển trách, trừng phạt con người. Khi Adong Evà phạm tội, Ngài viếng thăm để ra hình phạt đồng thời để hứa ban Đấng Cứu Độ (x. St 3,1-24). Rồi, Ngài viếng thăm dân Ngài qua các ngôn sứ và các vị lãnh đạo dân Do Thái: Ngài viếng thăm và thi ân giáng phúc cho ông Ab-ra-ham và hứa sẽ làm cho dòng dõi ông nên đông đúc như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển (x. St 22,17); Ngài viếng thăm Mô-sê qua bụi gai bốc cháy để truyền lệnh cho ông giải thoát dân Is-ra-el ra khỏi đất Ai-cập (x. Xh 3, 1-12); Ngài ở với ngôn sứ Giê-rê-mi-a để cứu sống và giải thoát (x. Gr 15,20) và Ngài luôn đồng hành với các ngôn sứ để truyền cho họ nói Lời của Ngài cho dân chúng; Cuối cùng, chính Ngài đã viếng thăm nhân loại qua chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Qua đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã viếng thăm gia đình ông Gia-ca-ri-a qua trung gian Đức Maria. Cuộc viếng thăm này có hai chiều kích đặc biệt: chiều kích thứ nhất là chiều kích chia sẻ. Mẹ Maria mang Chúa đến để chia sẻ với bà chị họ. Nhờ đó, Thánh Gioan Tẩy Giả được khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ trong lòng Bà Ê-li-sa-bét. Chính bà Ê-li-sa-bét đã vui mừng thốt lên rằng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 43-45). Chiều kích thứ hai là chiếu kích phục vụ. Tin mừng cho biết, Mẹ Maria“ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Khi Mẹ đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét thì bà đã cưu mang Gioan được sáu tháng. Mẹ ở lại đó ba tháng, tức là những tháng cuối cùng trước khi bà Ê-li-sa-bét hạ sinh. Đây là những ngày tháng khó nhọc vất vả nhất của người phụ nữ mang thai. Mẹ biết được như vậy, nên Mẹ đã tự nguyện ở lại đó để chăm sóc, phục vụ, giúp đỡ bà chị họ. Điều đó thể hiện tinh thần thăm viếng mang chiều kích phục vụ của Mẹ.

Về phần Đức Giêsu, sau thời gian sống ẩn dật tại làng quê Na-za-rét, Ngài bắt đầu hành trình truyền giáo là bắt đầu những cuộc viếng thăm: Ngài đi khắp mọi nơi và gặp gỡ mọi người để biến đổi và chữa lành họ; Ngài viếng thăm ông Gia-kêu khi ông đang ngồi trên cây sung; Ngài viếng thăm ông Lê-vi tại bàn thu thuế; Ngài viếng thăm gia đình La-za-rô và cho ông đã chết Bốn ngày được sống lại; Ngài viếng thăm và chữa lành cho mẹ vợ của ông Phê-rô…Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma qủi kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người (x. Cv 10, 36-38). Tin mừng còn cho biết: Nhờ Ngài mà kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, kẻ mù được xem thấy, kẻ câm nói được, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo khó được nghe Tin mừng. Chắc chắn Mẹ Maria cũng đồng hành với Chúa Giêsu trên mọi nẻo đường truyền giáo để thăm viếng, an ủi tất cả mọi hạng người trong xã hội. Đặc biệt, Mẹ có mặt tại tiệc cưới Cana để khẩn cầu Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu ngon giúp cho gia chủ trong lúc bế tắc. Mẹ hiện diện dưới chân Thánh giá để lãnh nhận sứ mạng làm Mẹ loài người. Sau khi về trời, Mẹ còn thăm viếng loài người bằng những lần hiện ra nơi này nơi khác như ở Lộc Đức, ở Fatima, ở Lavang…Còn Đức Giêsu, sau khi Phục Sinh, Ngài còn hiện ra nhiều lần nhiều nơi để viếng thăm và cũng cố đức tin cho các Tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên. Có thể nói, những cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và của Đức Maria là mẫu mực cho các cuộc viếng thăm giữa con người với nhau qua mọi thời đại. Đó là những cuộc viếng thăm đem lại niềm vui, tình thương và ơn cứu độ.

Các Tông đồ lãnh nhận sứ mạng Đức Giêsu trao phó, tiếp tục ra đi đến với muôn dân. Sách Công vụ Tông đồ kể lại các sinh hoạt của Giáo hội sơ khai cho chúng ta thấy điều đó. Các Ngài ra đi khắp mọi nơi để thăm viếng, rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu đã chết và sống lại. Riêng Thánh Phaolô, sau khi trở lại, Ngài đã thực hiện nhiều cuộc hành trình truyền giáo đến với dân ngoại. Nhờ đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập. Từ đó tới nay, Giáo hội không ngừng ra đi để thăm viếng muôn dân: Đó chính là sự “ra đi” của các nhà truyền giáo, các giám mục, linh mục, tu sỹ và giáo dân. Đặc biệt, từ thời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho tới nay, các Đức Giáo Hoàng thường thực hiện những cuộc thăm viếng mang tính quốc tế: Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã có 129 cuộc viếng thăm ngoài thành Rôma. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến viếng thăm một ngôi đền Hồi giáo ở Syria; viếng thăm vùng Thánh Địa Giêrusalem... Các cuộc viếng thăm của Ngài ảnh hưởng đến việc hòa giải các dân tộc và tôn giáo. Đức Giáo hoàng Benedictô XVI và Đức Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục ra đi. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường quan tâm đặc biệt đến các vùng ngoại vi. Ngài đã đến với những người tị nạn tại đảo Lampedusa, trại tù Casal del Marmo…Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy “ra đi” để đem Tin mừng đến với với những người bần cùng nhất, những người sầu khổ, những người còn trong bóng tối tội lỗi. Chính vì thế, các cuộc viếng thăm của Ngài không những đem lại sự hòa hợp các dân tộc mà còn đem lại niềm vui và sự an ủi cho những người thấp cổ bé miệng trong xã hội.

Viếng thăm cũng là bổn phận của mỗi người chúng ta hôm nay: Viếng thăm để thực hiện bổn phận truyền giáo; Viếng thăm để thực hiện bổn phận liên đới giữa chúng ta với các mối tương quan như ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn hữu. Chúng ta hãy bắt chước gương viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và Đức Maria. Hãy có những cuộc viếng thăm tha nhân một cách vô vị lợi. Hãy viếng thăm tha nhân khi vui cũng như lúc buồn như lời Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Hãy viếng thăm tha nhân trong sự thành thật không giả hình, viếng thăm trong tình yêu thương huynh đệ: “Đức ái không được giả hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau” (Rm 12, 9-11); “Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà” (Rm 12, 13). Đặc biệt, chúng ta hãy siêng năng viếng thăm những người nghèo đói, bệnh tật, cô thế cô thân, những kè tù đày... để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho họ. Vì khi chúng ta thăm viếng họ là chúng ta đang thăm viếng Chúa. Tin mừng theo Thánh Mathêu, chương 25, Đức Giêsu đã đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” Ngài nói thêm: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”

Ước mong rằng, ngày lễ Mẹ Thăm Viếng hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta luôn biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, đem niềm vui có Chúa và tinh thần phục vụ cho họ như gương mẫu của Đức Maria. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 33. Đức Maria thăm viếng.


Ngày lễ này đã được Đức Urban VI thiết lập vào năm 1389, vào khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với những chi tiết Phúc Âm. Ngày lễ hôm nay ghi nhớ việc Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Elizabeth, lúc ấy đã cao niên và đang có thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui về những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai chị em. Ngày lễ này - nhằm ngày kết thúc tháng Năm kính Mẹ – cho chúng ta thấy tinh thần chiêm niệm, sự phục vụ, và đức khiêm nhượng thẳm sâu của Mẹ, dạy chúng ta biết mỗi khi đi đâu, chúng ta cũng phải theo gương Mẹ Maria, trở nên một nguồn vui cho toàn thể nhân loại.

Phục vụ vui tươi.

Hãy đến mà nghe, hỡi tất cả các bạn là những người kính sợ Chúa, tôi sẽ kể cho các bạn những điều Người đã làm cho tôi.1 Đó là những lời trong Ca Nhập Lễ hôm nay.

Ngay sau ngày Truyền Tin, Đức Maria lập tức đi thăm bà Elizabeth tại miền đồi núi xứ Giuđêa, cách Nazareth chừng bốn năm ngày đàng. Thánh Luca viết: “Trong những ngày ấy, Maria vội vã ra đi lên miền đồi núi, đến một thành xứ Giuđêa”. Sau khi được sứ thần cho biết về việc bà Elizabeth có thai, Đức Trinh Nữ đã vội vàng ra đi để phụ giúp những công việc cho bà chị họ. Không ai buộc Mẹ phải đi: Thiên Chúa, qua sứ thần, cũng không đòi Mẹ phải làm như thế, và cả bà Elizabeth. Đức Maria có thể ở nhà để bắt đầu chuẩn bị cho Con Mẹ, Đấng Cứu Độ, sắp chào đời; nhưng Mẹ đã hân hoan, vội vã lên đường để đến giúp đỡ bà Elizabeth.

Chúng ta đồng hành với Đức Maria trong lời cầu nguyện, và thân thưa với Mẹ bằng những lời trong bài đọc Một hôm nay: Reo vui lên! Nữ Tử Sion! Hãy hò la, hỡi Israel! Hãy vui mừng, hãy hoan hỉ hết lòng, nữ tử Jerusalem!… Có ở giữa ngươi, Giavê Thiên Chúa của ngươi. Anh hùng vạn thắng! Vì ngươi, Người hân hoan vui sướng. Với ngươi, Người làm mới lại Tình Yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui.

Thật dễ dàng tưởng tượng ra niềm vui chan chứa và những ước vọng vĩ đại nơi tâm hồn Đức Maria. Thiên thần đã cho Mẹ biết, Này đây chị họ bà là Elizabeth đã cao niên và đã có thai. Đó là cuộc mang thai kỳ diệu và liên quan đến biến cố Đấng Cứu Thế sẽ đến. Sau lộ trình dài, Đức Maria đã đến nhà ông Giacaria và chào bà chị họ. Và khi bà Elizabeth vừa nghe lời chào của Đức Maria, hài nhi liền nhảy mừng; và Elizabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Cả gia đình được biến đổi vì sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lời chào của Mẹ thật hiệu quả: làm cho bà Elizabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Qua lời tiên tri trên môi miệng của Mẹ, Mẹ đã làm tuôn trào một dòng ân thánh cho người chị họ như từ một nguồn suối… Thực vậy, nơi đâu Đấng ‘Đầy Ơn Phúc’ đặt chân đến, mọi sự đều được chan chứa niềm hân hoan.6 Ảnh hưởng tuyệt vời này Chúa Giêsu đã thực hiện qua Đức Maria, Đấng ngay từ đầu đã liên kết với công trình cứu độ và niềm vui được Chúa Kitô đem đến cho trần thế.

Ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng hôm nay cho chúng ta nhìn thấy một khía cạnh trong đời sống nội tâm của Đức Maria, đó là tinh thần khiêm nhượng phục vụ và tình yêu vô vị kỷ dành cho những ai cần đến sự trợ giúp của Mẹ. Biến cố trong mầu nhiệm thứ hai Mùa Vui của chuỗi Mân Côi mời gọi chúng ta hãy hiến thân mau mắn, vui tươi, và chân thành cho người chung quanh. Nhiều khi sự phục vụ tốt nhất chúng ta có thể thực hiện là chia sẻ với họ niềm hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn chúng ta. Nhưng chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này khi chúng ta sống thân mật với Chúa, qua việc trung thành giữ trọn những giờ cầu nguyện trong ngày sống. Việc kết hợp với Thiên Chúa và thực hành các nhân đức siêu nhiên luôn luôn kéo theo niềm hứng thú thực hành các nhân đức nhân bản: Đức Maria đem niềm vui đến cho gia đình bà chị họ, bởi vì Mẹ ‘mang’ Chúa Kitô.8 Chúng ta ‘mang’ Chúa Kitô trong lòng, và với Người là niềm vui chứa chan, đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, dù khi làm việc, hoặc khi viếng thăm bè bạn hoặc những ai đang yếu đau hay không? Sự hiện diện của chúng ta có làm cho người khác vui tươi hay không?

Tìm Chúa Giêsu qua Mẹ Maria.

Khi Đức Maria đến, bà Elizabeth được tràn đầy Thánh Thần và đã reo lên: Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và Con trong lòng em đang cưu mang cũng đầy phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe lời em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.

Bà Elizabeth không những chúc tụng mà còn giải thích vì sao Đức Maria lại là người diễm phúc: đó là vì Hoa Trái trong lòng Mẹ, Người Con của Mẹ muôn đời được chúc phúc. Thử nghĩ về những lần chúng ta lặp lại lời ấy khi lần chuỗi: Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ! Chúng ta có đọc những lời ấy vui tươi như bà Elizabeth hay không? Những lời ấy như một soi động liên kết chúng ta với Mẹ trên trời, khi chúng ta làm việc, đi lại, hoặc nhìn lên ảnh tượng Mẹ.

Đức Maria và Chúa Giêsu luôn luôn cận kề bên nhau. Những việc kỳ diệu nhất Chúa Giêsu đã thực hiện, ngày xưa cũng như hiện nay, luôn luôn trong sự hợp nhất thân mật với Mẹ Người, Đấng Trung Gian Mọi Ơn. Công đồng Vatican II đã nói, Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô tử nạn.

Hôm nay, một lần nữa chúng ta lại ý thức rằng mỗi lần gặp Mẹ Maria là chúng ta lại hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nếu tìm kiếm Mẹ Maria, bạn sẽ gặp được Chúa Giêsu. Và bạn sẽ biết hơn về những gì trong trái tim của một Thiên Chúa tự hạ, Đấng đã sẵn sàng cho chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày. Tặng ân lớn lao nhất Thiên Chúa ban cho nhân loại - để chúng ta được hiểu biết và yêu mến Người - đã khởi đầu từ đức tin của Mẹ Maria, và hôm nay điều ấy đã được bà Elizabeth minh chứng. Sự tràn đầy ân sủng mà sứ thần loan báo là Quà-Tặng-chính-Thiên-Chúa. Đức tin của Mẹ Maria, được bà Elizabeth chúc tụng trong ngày Thăm Viếng, đã nói lên Đức Trinh Nữ Nazareth đã đáp lại ân huệ này như thế nào. Đức Trinh Nữ Maria, người thưa lời fiat trọn vẹn và vô điều kiện, đã xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà ông Giacaria với tư cách Mẹ Thiên Chúa. Đây là khám phá của bà Elizabeth, cũng là của chúng ta; và đó là điều chúng ta cảm thấy luôn luôn lạ lùng.

Bài ca Magnificat.

Đặc trưng của mầu nhiệm Mân Côi này là bầu khí mừng vui lan tỏa: mầu nhiệm Thăm Viếng là mầu nhiệm của niềm vui. Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng mẹ; bà Elizabeth, mừng vì được làm mẹ, đã cất lời chúc tụng Thiên Chúa; và trước những lời ca ngợi của bà chị họ, Đức Maria đã nâng tâm hồn lên Thiên Chúa trong bài ca Magnificat, một bài ca chan chứa niềm vui ơn cứu độ. Mái nhà ông Giacaria và bà Elizabeth toát lên tinh thần Cựu Ước với vẻ thánh thiện, trong khi Đức Maria mang trong lòng mình Mầu Nhiệm khởi đầu Tân Ước. Magnificat là bài ca của thời đại Đấng Cứu Thế, gồm chứa cả niềm phấn khởi của Israel xưa và nay… Lời kinh Magnificat của Đức Maria thực sự đã trở thành lời nguyện của Giáo Hội qua mọi thời gian.

Đây là bối cảnh giúp chúng ta nhận thức ý nghĩa đầy đủ về điều kín nhiệm Mẹ Maria đang ấp ủ trong tâm hồn. Mầu nhiệm lớn lao được sứ thần tỏ cho Mẹ đã được thể hiện qua bài ca Magnificat. Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và tâm trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi. Những lời ấy tràn đầy sự cao quí và nói lên sự kết hợp mật thiết với Đấng Cứu Độ, đó là tấm gương phản chiếu linh hồn Đức Maria.

Cùng với bài ca hân hoan và khiêm nhượng này, Đức Trinh Nữ Maria còn để lại cho chúng ta một lời tiên tri. Mẹ nói, Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi là người diễm phúc. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu ‘Mẹ Thiên Chúa,’ và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó. Nhất là từ khi công đồng Êphêsô, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn kính Đức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu, cầu khẩn và noi gương đúng như lời Mẹ đã tiên báo: ‘Muôn thế hệ sẽ khen tôi là người diễm phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.’

Trong cuộc đời mình, Đức Maria không nổi bật về những việc kỳ vĩ: Phúc Âm không đề cập đến bất cứ một phép lạ nào Mẹ đã thực hiện khi còn tại thế, và chỉ ghi lại vắn tắt về những lời Mẹ đã nói ra. Đời sống bên ngoài của Mẹ giống như mọi bà mẹ khác trong các gia đình. Tuy nhiên, lời tiên tri phi thường của Mẹ đã được ứng nghiệm từng chữ. Ai có thể kể được tất cả những lời ca tụng, những lời kêu cầu Mẹ, những đền thánh, những bia tạ ơn, những việc sùng kính đối với Mẹ? Suốt hai mươi thế kỷ, Mẹ đã được mọi người xưng tụng ‘diễm phúc’: các nhà trí thức, những người mù chữ, các bậc vua chúa, những quân nhân, các nhà kinh doanh, nam và nữ, trẻ em và người cao niên… Chúng ta cũng đang làm ứng nghiệm lời tiên tri của Mẹ ngay lúc này, khi từ thâm tâm, chúng ta thưa cùng Mẹ: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.

Chúng ta đã kêu cầu Mẹ một cách đặc biệt trong tháng Năm, nhưng tháng Năm không thể chấm dứt. Nó phải tiếp tục mãi trong cuộc đời chúng ta. Lòng sùng kính và yêu mến của chúng ta đối với Mẹ không thể nhạt nhòa nơi tâm hồn chúng ta. Đúng hơn, nó phải tăng tiến và biểu hiện qua đời sống chứng nhân, theo gương Mẹ Maria, ‘tên của một loài hoa tuyệt đẹp mà tôi vẫn reo lên mỗi sáng và mỗi chiều tối’ – như thi sĩ Dante đã nói lên (Paradiso, 23, 88). Khi tìm ra Mẹ Maria, chúng ta cũng tìm thấy Chúa Giêsu.

Magnificat anima mea Dominum! – Linh hồn tôi ngợi khen Chúa – tâm hồn Mẹ đã tôn vinh Thiên Chúa khi cưu mang Người trong lòng, và bước đi với Người.

Ôi lạy Mẹ! Ước chi chúng con cũng được như Mẹ: vui mừng trong Chúa và chiếm hữu được Người.

---------------------------------

 

Suy Niệm 34. Lên đường vì yêu


--Lc 1,39-56

Hôm nay, Giáo hội kỷ niệm cuộc thăm viếng của Đức Maria đến với bà chị họ E-li-za-beth. Ngay khi nhận được lời truyền tin của Sứ thần, Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu thế, và người chị họ của Mẹ cũng đang cưu mang một người con trai do quyền năng và tình thương của Chúa ban cho, Mẹ đã vội vã lên đường đi thăm bà chị ho của mình, một cuộc thăm viếng thánh thiện và mang nhiều ý nghĩa cao quý.

Vấn đề được đặt ra là tại sao Đức Maria lại vội vã lên đường trong cuộc thăm viếng này như thế? Có phải Đức Maria muốn ra đi để xác minh lời Sứ thần nói về bà E-li-za-beth có đúng sự thật hay không? Câu trả lời chắc là không, vì Đức Maria đã tin ngay từ đầu rồi. Bởi thế mà bà E-li-za-beth mới nói với Đức Maria rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45). Mẹ không bao giờ nghi ngờ bất cứ điều gì Chúa đã nói với Mẹ qua miệng của Sứ thần cả. Vậy thì có phải Đức Maria muốn gặp bà chị họ để khoe niềm vinh dự là mình được chọn là Mẹ Đấng Cứu thế không? Cân trả lời cũng là không phải thế. Vì Mẹ là một người rất khiêm hạ, tự xưng mình mình là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38). Cho nên, đối với Mẹ chắc không hề có chuyện đi khoe khoang hay kiếm tìm vinh dự cho mình. Ta thấy rõ là khi Đức Maria được bà E-li-za-beth ngợi khen “em thật có phúc” và “bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm”, thì Đức Maria đã quy những lời tán dương, ca ngợi ấy về Thiên Chúa ngay lập tức: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà E-li-za-beth trở thành một dịp cho hai bà mẹ diễm phúc ca tụng Thiên Chúa hết lòng. Ai cũng nhận ra được rằng, mình đã được Thiên Chúa yêu thương cách lạ lùng, vượt sức tưởng tượng hay ước muốn: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1, 49). Hai bà mẹ cảm nghiệm niềm hạnh phúc đã ngập tràn trong tâm hồn và không còn dám ước mơ gì hơn, bởi lẽ Thiên Chúa đã đong đầy tâm hồn của các ngài những niềm vui thánh thiện.

Cuộc ra đi vội vã của Đức Maria đến nhà bà E-li-za-beth chỉ đơn thuần là một cuộc thăm viếng như bao cuộc thăm viếng khác mà thôi. Đức Maria ý thức rằng, người chị họ E-li-za-beth đang rất cần sự trợ giúp vì bà E-li-za-beth mang thai trong lúc tuổi già và sắp sinh con. Đức Maria vội vã đến với bà E-li-za-beth chỉ vì muốn giúp người chị họ của mình một tay trong lúc sinh con mà thôi. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang đầy tình tương thân tương ái trong đó. Đó cũng là bài học cho chúng ta hôm nay. Chúng ta có ý thức sự bối rối, neo đơn của người khác để sẵn sàng và vội vã đến với họ không? Hay trong xã hội náo nhiệt này, chúng ta chỉ biết sống cho mình: “đèn nhà ai nấy sáng” hay “sống chết mặc bây”.

Cuộc thăm viếng của Đức Maria còn là việc mang Chúa đến cho gia đình bà E-li-za-beth nữa. Như xưa, Hòm Bia Thiên Chúa lưu lại 3 tháng tại nhà ông Ôveđ Êđom và Chúa đã ban cho gia đình ông rất nhiều phúc lộc, thì việc lưu lại 3 tháng của Đức Maria với Chúa Giêsu trong lòng cũng mang lại bình an và niềm vui cho gia đình ông Dacaria rất nhiều. “Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào , thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43-44). Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng cứu thế của Ngài trước khi sinh ra: Ngài đã thánh hoá Gio-an Tẩy giả ngay lúc còn trong bụng mẹ. Và Gio-an cũng đã thi hành sứ vụ tiền hô của mình là nhảy mừng khi Đấng Cứu Thế đến.

Cuộc thăm viếng của Đức Maria đến với bà E-li-za-beth là lời mời gọi chúng ta hãy nhìn lại chính mình: Chúng ta có biết mang Chúa, mang bình an và niềm vui đến cho những người chúng ta gặp gỡ không? Mục đích những cuộc thăm viếng của tôi đến với người khác là gì? Có cần thiết cho tôi và cho họ không…?

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy cho chúng con biết quan tâm đến người khác và không ngừng khao khát mang Chúa đến cho người khác với tâm hồn thanh khiết như Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng biết trở thành những sứ giả mang bình an, niềm vui và hạnh phúc đến cho những người chúng con gặp gỡ. Amen

---------------------------------

 

Suy Niệm 35. Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét


Nghe tin bà Êlisabét mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ Maria đã vội vã lên đường thăm viếng chị mình. Lý do để mẹ thăm viếng có lẽ rất đơn giản như cách người ta vẫn làm: vừa là để chia vui với chị, vừa để giúp đỡ người chị của mình. Con đường Mẹ phải đi khá dài, khoảng 160 cây số, từ miền quê Nadarét phía Bắc lên miền núi Giuđê phía nam. Người ta ước chừng nếu đi bộ thì khoảng 5-6 ngày. Đó quả là một hành trình nhiều gian khó đối với một người phụ nữ mang thai và thời gian đi với Mẹ chắc cũng sẽ kéo dài hơn.

Chúng ta có thể dễ dàng mường tượng niềm vui diễn ra như thế nào khi hai bà mẹ cùng mang thai này gặp gỡ nhau. Nhưng ở đây, tác giả Tin Mừng còn cho chúng ta thấy một niềm vui sâu xa hơn: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên và bà được đầy Thánh Thần.” Ta tự hỏi khi gặp bà Êlisabét, Mẹ đã chào hỏi thế nào? Tin Mừng không nói rõ, nhưng có lẽ Đức Maria cũng chỉ chào hỏi thông thường như người Do Thái vẫn làm khi gặp gỡ nhau: “Shalom!”, có nghĩa là cầu chúc“bình an”  Nhưng ở đây lời chào của Mẹ không đơn giản là cầu mong bình an, lời chào ấy còn làm cho bà Êlisabét tràn đầy Thánh Thần và đứa con trong bụng nhảy lên vui mừng. Do đâu lời chào của Mẹ làm sao lại có sức mạnh của ân sủng lớn lao đến như vậy?

Khi nói lời “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận sứ mạng cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa. Một khi Mẹ để cho Ngôi Lời chiếm ngự tâm hồn và chính máu thịt Mẹ lại đang nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế, thì mọi lời nói, mọi hành động của Mẹ, dù đơn sơ nhỏ bé nhất, cũng đã trở thành quà tặng mang lại điều kỳ diệu. Một khi tâm hồn trong tình trạng ân sủng, chứa chan ơn cứu độ, thì trong mọi tương quan, bất kỳ lời nói và hành động nào của Mẹ cũng đều mang hoa trái của ân phúc cho những người Mẹ gặp gỡ.

Như thế việc Mẹ Maria thăm viếng bà Êlisabét không chỉ đơn giản là một bài học nhân bản về lòng quảng đại, sẵn sàng giúp đỡ khác. Qua cuộc thăm viếng này, Mẹ Maria đã chỉ ra cho chúng ta con đường để trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô: đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa và lên đường chia sẻ niềm vui cứu độ với tha nhân.

Hai bà mẹ trong Tin Mừng hôm nay, Đức Maria và bà Êlizabét, hớn hở mừng vui, không phải vì được những thứ vật chất để đổi đời, nhưng vì nhận được ân phúc của Chúa, tức là được chính Chúa ngự trong tâm hồn. Những người có Chúa ở cùng, thì biết cách trao tặng chính mình và sống hướng về người khác. Mẹ Maria và bà Êlizabét “hớn hở mừng vui”, nhưng cả hai lại không nói về ơn phúc của chính mình, mà nói về ơn phúc của người khác, vui với niềm vui của người khác. Bà Êlizabét nói về ơn phúc của em mình và ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Còn Đức Maria, sau những lời ngợi khen của bà Êlizabét, Mẹ đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa thay cho cả nhân loại, cho những ai đang khiêm tốn đợi trông ơn cứu độ:

“Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.”

Lạy Ngôi Lời nhập thể,
xin hãy đến ở cùng chúng con,
để cuộc đời chúng con đầy tràn niềm vui của ơn cứu độ;
xin biến đổi chúng con thành con người mới trong Chúa,
nhờ đó chúng con có khả năng trao tặng chính mình,
và công bố Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 36. Thăm viếng với niềm vui


“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả.” (Lc 1,49)

Suy niệm: “Các cuộc thăm viếng luôn để lại niềm vui, nếu không phải lúc đến, thì cũng lúc ra về” (Ngạn ngữ Bồ Đào Nha). Chắc chắn cuộc thăm viếng của Đức Ma-ri-a ở Ain-Karim đem lại niềm vui lớn lao cho bà Ê-li-sa-bét khi mới đến, cũng như trong suốt thời gian ba tháng sau đó. Khi mới gặp Đức Ma-ri-a, Bà Ê-li-sa-bét đã kêu lớn tiếng, cảm thấy vinh dự được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm mình. Niềm vui ấy đạt đến đỉnh điểm khi thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ, được “giáp mặt” thai nhi Giê-su, được ơn khỏi tội nguyên tổ từ giây phút đặc biệt này. Niềm vui ấy tiếp tục lan tỏa trong mái nhà ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét ba tháng ròng rã khi Đức Ma-ri-a mang danh phận là Mẹ Thiên Chúa, nhưng sống phận nữ tì phục vụ bà mẹ Ê-li-sa-bét trong những ngày chuẩn bị sinh nở người con đầu lòng của mình.

Mời Bạn: Có lẽ thời gian bên gia đình, điện thoại, máy vi tính, thư giãn, tán gẫu… chiếm khá nhiều quỹ thời gian của bạn. Bạn cũng hãy sắp xếp để quan tâm hơn đến bao người đang cần sự viếng thăm thân tình của bạn: người cao tuổi, bệnh nhân, người nghèo… trong giáo xứ.

Sống Lời Chúa: Mỗi tuần tôi dành một giờ đi thăm viếng những người “bé nhỏ” (người nghèo, người đau ốm, neo đơn…) đang cần sự thăm viếng, nâng đỡ, khích lệ của tôi để sống niềm tin.

Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ nêu gương cho con khi danh là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại sống phận nữ tì của Ngài qua việc thăm viếng phục vụ bà Ê-li-sa-bét. Xin cho con nhạy bén trước nhu cầu của những người chung quanh, để con vui vẻ, sẵn lòng dành thời gian thăm viếng họ. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 37. “Mẹ sống để phục vụ, Mẹ đi để trao Chúa Giêsu”


Con Thiên Chúa, từ ngày truyền tin, lại còn là con Đức Maria. Hồng ân ấy, Đức Maria không giữ cho riêng mình, Người đã vội vã lên đường, đi thăm người bà con để chia sẻ cho nhau.

Biến cố gặp gỡ giữa Maria và Elisabeth đã làm nổi bật lên hai đặc trưng: Đức tin và sự trao ban – phục vụ.

1. Đặc trưng niềm tin

Với khoảng cách giữa Nazareth và Ain Carem (khoảng 100km) với liên lạc thời đó, tin tức về một phụ nữ mang thai ở cách xa nhau như thế, Maria chỉ biết được nhờ tin vào Lời Chúa qua miệng thiên sứ Gabriel mà thôi. Niềm tin của Đức Maria được khẳng định khi Mẹ thưa “xin vâng” một cách dứt khoát và điều này được chính bà Elisabeth đã thốt lên lời ca ngợi “phúc cho bà là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).

Từng câu từng chữ trong lời ca tụng của bà Elisabeth đều mang đầy ý nghĩa, nhưng điều bà nói cuối cùng mới thực quan trọng: “Em thật có phúc, vì đã tin…” (Lc 1,49). Câu nói này có thể đặt cận kề với tước hiệu “đầy ơn phúc” trong lời chào của thần sứ.

Qua lời chào của thiên sứ Gabriel và lời tán dương của bà Elisabeth dành cho Đức Maria, cho thấy chân lý về Đức Maria hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ vì Mẹ đã tin. Công đồng Vaticano II dạy: “Phải bày tỏ sự vâng phục của đức tin (Rm 16,26; 2Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa mạc khải, nhờ đó con người hoàn toàn tự nguyện phó thác vào Thiên Chúa”. Cách diễn tả đức tin này đã được Đức Maria thực hiện nơi bản thân mình cách trọn vẹn. Giây phút quyết định là lúc truyền tin, và các lời của bà Elisabeth: “Em thật có phúc vì đã tin” được áp dụng vào giây phút chính xác đó . Với cả lý trí và ý chí, Đức Maria đã đáp lại tiếng Chúa bằng cả con người trọn vẹn đầy nhân tính và nữ tính, và lời đáp trả của đức tin này bao hàm một sự cộng tác hoàn hảo với hồng ân trợ lực của Thiên Chúa và một sự sẵn sàng trọn vẹn cho hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng dùng hồng ân của mình làm cho đức tin luôn hoàn hảo.

2. Đặc trưng đức ái (trao ban và phục vụ)

Việc Đức Maria vội vã ra đi đến Ain Carem khi vừa được báo tin là người chị họ trong lúc tuổi già đã mang thai được sáu tháng, được thôi thúc bởi ba động lực là để chia sẻ niềm vui, trao ban “ân sủng” và tinh thần đức ái: Đức Maria đến chia sẻ niềm vui kép đôi vì vừa được cưu mang Chúa Giêsu, vừa vui mừng cho bà Elisabeth được Thiên Chúa cất đi nỗi nhục son sẻ của bà; Đức Maria đến để đem Chúa Giêsu đến cho Gioan được nhảy mừng và bà Elisabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần; và Đức Maria đến để giúp đỡ bà Elisabeth trong thời kỳ thai nghén. Tất cả được gói gọn trong một động lực duy nhất là đức ái tuyệt hảo của Mẹ Con Thiên Chúa.

Niềm vui trước hết và trên hết mà Đức Maria muốn chia sẻ chính là niềm vui được Thiên Chúa cứu độ. Được cứu độ là niềm vui lớn nhất mà bao thế hệ đợi chờ, chính vì thế mà Đức Maria, người được cứu độ đầu tiên, tràn ngập niềm vui, vừa cất tiếng chào thì Gioan trong dạ bà Elisabeth cũng nhảy lên vui sướng vì ơn cứu độ đã đến. Đức Maria mang đến cho gia đình bà Elisabeth ân sủng của Thiên Chúa, vì Mẹ tràn ngập ân sủng, nên ân sủng đó trào tràn trên bà Elisabeth làm cho bà cất lớn tiếng và ca ngợi Mẹ Thiên Chúa.

Đức Maria mang trong mình Đấng là ân sủng và được bao quanh bằng ân sủng của Thánh Thần, Mẹ hiểu rõ bản chất của ân sủng không cho phép tích trữ và giữ lấy như của riêng, mà cần phải trao ban, ân sủng không dừng lại nơi Mẹ mà được tặng ban cho con cái loài người. Thật vậy, nếu ân sủng là để phân phát, thì người làm đầu chỉ có thể là để phục vụ (x. Mt 23, 11), và thế giới ân sủng còn là thế giới của tình thương.

Tình thương bao la và cao thượng vốn được xây dựng trên hy sinh và dâng hiến. Nơi đó, không chờ đợi để nhận lãnh hay để được phục vụ, mà là luôn tìm cách trao ban, chia sẻ và hiến tặng.

Tóm lại, qua biến cố Đức Maria thăm viếng bà Êlizabeth, Chúa muốn dạy chúng ta sống tinh thần của Mẹ Maria là sống trong ơn nghĩa của một tâm hồn đầy Chúa, cưu mang Chúa trong trái tim mình, để rồi mau mắn đem Chúa đến cho tha nhân. Đặc biệt cụ thể hoá việc làm chứng cho Chúa qua chính đời sống phục vụ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin phó thác, để chúng con biết xin vâng như Mẹ Maria; xin cũng tăng thêm cho chúng con đức ái, để chúng con biết sống trao ban và phục vụ như Mẹ Maria. Nhờ đó, cùng với Mẹ Maria, chúng con xứng đáng là những người con thảo của Cha trên trời. Amen.

---------------------------------

 

Suy Niệm 38. Niềm vui thăm viếng


--Huệ Minh

Sau khi sứ thần Gabrien cho biết Đức Mẹ được chúc phúc và cưu mang con Thiên Chúa, Đức Mẹ vui mừng khi người chị họ của mình là bà Êlisabét cũng được chúc phúc. Đức Mẹ đã vội vã lên đường đến thăm chị họ của mình.

Động lực thúc đẩy Đức Mẹ lên đường là do lòng yêu mến và tình người của Đức Mẹ. Khi đã có lòng yêu thương thì có gian nan, xa xôi thì cũng điều vượt qua. Đức Mẹ biết chị họ đã già, lại có thai lần đầu tiên và được sáu tháng nên rất cần người giúp đỡ. Đức Mẹ đã đến ở và giúp người chị của mình. Học nơi mẹ, chúng ta đừng có thái độ làm ngơ hờ hững với anh em họ hàng của mình. Chúng ta hãy yêu thương, quan tâm giúp đỡ khi họ cần vào lúc thuận tiện có thể. Nhờ đó, chúng ta được thêm niềm vui và anh em mình cũng được hạnh phúc như Đức Mẹ vậy.

Chuyến viếng thăm của Đức Mẹ có bao nhiêu mục đích, song mục đích chính yếu vẫn là chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Dacaria. Gioan vui mừng nhảy lên trong lòng mẹ nhờ gặp gỡ được Đấng Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ. Bà Êlizabeth kêu lớn tiếng và nói: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em cưu mang cũng được chúc phúc... Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em, sau lời chào của Đức Mẹ.

Đức Mẹ không những đem niềm vui cứu độ đến cho gia đình Dacaria mà còn ở lại với bà Êlizabeth độ 3 tháng để giúp đỡ, sẻ chia, an ủi, bởi hơn bao giờ hết, những ngày tháng sắp sinh nở, và sau khi sinh nở, cần thiết biết bao sự giúp đỡ của người khác. Đức Mẹ đã làm như thế để Êlizabeth hoàn toàn có thể yên tâm trong việc cộng tác phần mình vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: "Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm" (Lc 1, 45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin". Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ".

Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn "mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1, 14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả hữu" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.

Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.

Đức Mẹ đi thăm chị họ của mình cũng có thể nói là Mẹ ra đi truyền giáo. Theo Tin Mừng viết thì Đức Mẹ đi một mình. Nhưng với niềm tin của chúng ta, Đức Mẹ đi cùng với Thiên Chúa vì Mẹ đã được Thiên Chúa chúc phúc, được tuyển chọn, là người của Chúa, thuộc về Chúa và cũng đang cứu mang Con Một Thiên Chúa. Như vậy trên đường đến thăm chị họ, Đức Mẹ luôn có Chúa đi cùng. Đức Mẹ đi trong niềm vui và mang niềm vui đến cho mọi người. Niềm vui ấy được thể hiện nơi thai nhi của bà Êlisa bét: “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”(x Lc 1,44). Chúng ta hãy bắt chước Mẹ lên đường trong niềm tin rằng chúng ta không bao giờ đi một mình, chúng ta luôn có Chúa thân hành và hiện diện.

Hình ảnh vui tươi phục vụ và nhất là niềm vui mang Chúa đến cho mọi người nơi Mẹ gợi cho chúng ta một cung cách sống quảng đại, yêu thương và dấn thân phục vụ. Noi gương Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi ra đi mang Chúa đến cho mọi người, như lời của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: Đức Maria, trên con đường đi thăm viếng bà Elizabeth, đã trở nên ngôi nhà tạm sống động, vì Mẹ đang cưu mang trong cung lòng mình Con Thiên Chúa”. Để có thể thực hiện được điều này, mỗi người chúng ta cần phải có Chúa trong mình, cần phải sống kết hiệp với Chúa, trở nên những ngôi nhà tạm sống động của Chúa. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng cần phải biết siêng năng lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, để có thể lắng nghe và nhận ra được thánh ý Chúa trên cuộc đời mình, từ đó hăng say cất bước ra đi mang niềm vui đến cho mọi người.

Qua cuộc viếng thăm ấy, Đức Mẹ cảm thấy vô cùng hạnh phúc không gì diễn tả nổi. Đức Mẹ đã cất cao bài “Magnificat”. Một bài ca vang mãi muôn đời. Bài hát mà Giáo Hội đã làm lời kinh trong phụng vụ. Cùng với Giáo Hội chúng ta hãy hát lên và sống bài ca ấy. Bài ca của niềm vui trọn vẹn và đích thực. Niềm vui vì nhìn thấy được công trình cứu chuộc của Thiên Chúa; vui vì tìm được nguồn chân lý, công bằng và sự thật và vui vì con đường đến với Thiên Chúa còn có rất nhiều người cùng đi.

Thăm viếng người khác một cách chân thành với mục đích đem yêu thương, an vui, hạnh phúc đến cho họ là một trong sứ điệp quan trọng của lời Chúa hôm nay. Muốn có thể đem yêu thương, an vui hạnh phúc cho người khác, đòi các tín hữu phải là người có niềm vui cứu độ. Xin Chúa cho các tín hữu luôn biết mở lòng ra cho Chúa đến để khi tâm hôn có Chúa chúng ta có thể bắt chước Đức Mẹ đem niềm vui cứu độ đến với tha nhân.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây