Chúa Giêsu hoạt động. 05/02 –Thánh Agata, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ. "Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".
* Agata là một thiếu nữ quê ở Xi-xi-li-a. Chị đã chịu tử đạo ở Catana, vào thời hoàng đế Đêxiô bách hại đạo (năm 251). Đồng bào của chị vẫn tin tưởng kêu cầu chị, nhất là những lúc núi lửa Étna hoạt động. Rồi việc tôn kính chị được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh, cả ở phương Đông lẫn phương Tây.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó.
Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.
sờ, mó, đụng, chạm, rờ… Xúc giác là một trong năm ngũ quan. Nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, có khi vẫn chưa đủ. Người ta còn muốn sờ thấy, xem đằng mặt, bắt đằng tay. Sờ là một cách kiểm chứng đôi khi được coi là đáng tin hơn thấy. Đức Giêsu phục sinh đã nói với các môn đệ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24, 39). Thánh Tôma xem ra thích kiểm chứng bằng đụng chạm: “…nếu tôi không đặt ngón tay tôi vào lỗ đinh, không đặt bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Đức Giêsu phục sinh đã chiều Tôma (Ga 20, 27). Thiên Chúa đã chiều nhân loại, khi cho Con Ngài làm người như ta, nhờ đó chúng ta có thể đụng chạm đến Thiên Chúa theo nghĩa đen. Thánh Gioan đã reo lên khi loan báo Tin Mừng này: “Điều vẫn có ngay từ lúc đầu, điều chúng tôi đã nghe, Điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và bàn tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1 Ga 1, 1). Bài Tin Mừng hôm nay là một bản tóm lược dài về quyền năng của Đức Giêsu. Quyền năng này được thi thố qua việc chữa bệnh. “Người ở đâu thì người ta cáng bệnh nhân đến đó. Người đi tới đâu…người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở chỗ công cộng” (cc. 55-56). Dân chúng tin vào sức mạnh xuất phát từ chính con người Đức Giêsu. Ở đây không phải là chuyện Ngài đụng chạm vào các bệnh nhân để chữa họ, mà là các bệnh nhân xin “ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và “bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi” (c. 56). Cái chạm của bệnh nhân là cái chạm của lòng tin vào Đức Giêsu. Nó giống với cái chạm của người phụ nữ bị băng huyết (Mc 5, 28). Không phải chỉ là chạm bằng tay, mà bằng cả con người. Nơi đáy lòng con người vẫn có khát khao được đụng chạm đến Thiên Chúa, cả nơi những người không tin có Ngài hay bướng bỉnh như Tôma. Truyền giáo là giúp người ta thực hiện ước mơ chính đáng: chạm đến Thiên Chúa. Nhà truyền giáo phải là người đã có kinh nghiệm chạm đến Thiên Chúa. Mong mỗi Kitô hữu trở nên một nhà truyền giáo nhờ đụng chạm đến Lời Chúa và các Bí Tích mỗi ngày. Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. Amen. (Thánh Âu-Tinh) ------------------------------
Thuở tạo thiên lập địa, quyền năng Thiên Chúa trổi vượt và chiến thắng. Chiến thắng bóng tối để sáng tạo ánh sáng. Chiến thắng khối hỗn mang để tạo dựng vũ trụ nên hình dạng tốt xinh. Chiến thắng khoảng không vô định hình để làm nên trật tự lạ lùng. Chiến thắng lớn lao nhất là ban sự sống cho muôn loài. Sự sống là một chiến thắng kỳ diệu. Đó là món quà quí giá nhất. Thiên Chúa ban cho muôn loài được tham dự vào sự sống của Người (năm lẻ).
Thời Cựu ước, quyền năng của Người bày tỏ ra trong sự hiện diện uy nghiêm. Khói tỏa mịt mù trong lều hội ngộ. Sức mạnh phi thường của Hòm Bia khiến cả quân thù cũng phải khiếp sợ. Thực ra trong Hòm Bia không có gì. Chỉ có hai bia đá làm bằng chứng giao ước (năm chẵn).
Đến thời sau hết, loài người được diễm phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa bằng xương bằng thịt trong Chúa Giê-su Ki-tô. Đó là Thiên Chúa vẫn tràn đầy quyền năng phép tắc. Quyền năng phép tắc thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Vì phải đối địch lại với ác thần. Cánh tay hùng mạnh của Ngài vẫn chiến thắng. Chiến thắng tội lỗi để tha thứ cho con người. Chiến thắng bệnh tật cho con người lành mạnh. Nhất là chiến thắng ác thần xua đuổi ma quỉ ra khỏi con người.
Nhưng còn hơn cả quyền năng phép tắc. Vì Thiên Chúa đến ở với con người, gần gũi con người. Con người có thể đụng chạm đến Người. Xưa kia Thiên Chúa uy nghi xa cách, con người chỉ “kính nhi viễn chi”. “Áo ngài mặc toàn oai phong lẫm liệt. Cẩm bào ngài khoác là muôn vàn ánh hào quang”. Nay thì con người có thể đụng đến gấu áo của Người. Và gấu áo tuy gần gũi nhưng vẫn có quyền năng chữa lành. Con người cảm thấy tình yêu thương của Chúa thật ấm áp. Chúa cảm thương. Chúa cầm tay người bệnh. Chúa vuốt ve vết thương của người bệnh phong. Chúa chúc lành trẻ em.
Xin cho con biết nối tiếp công trình của Chúa. Tiếp tục kiến tạo trần gian nên tốt đẹp. Tiếp tục bày tỏ quyền năng Chúa chống lại cái ác, cái xấu. Nhất là tiếp tục tình yêu thương của Chúa. Gần gũi những người đau yếu, bệnh tật, bị thần ô uế ám ảnh. Lạy Chúa, xin chiếu tỏa quyền năng của Chúa cho sự thiện hiển trị.
Tin Mừng hôm nay là một bản khái quát những hoạt động của Chúa Giêsu làm cho con người, những hoạt động này vừa nhiều vừa đa dạng, đến mức làm cho người ta có cảm tưởng Chúa Giêsu là một lương y đa khoa.
Nhìn vào cách thức hành động của Chúa Giêsu, con người thời nay có thể cho rằng Ngài làm việc thiếu khoa học. Dường như Chúa Giêsu không lên kế hoạch làm việc cho từng ngày, ngày nào của Ngài cũng chỉ theo một chương trình duy nhất, là rao giảng Tin Mừng và làm cho Nước Trời hiện diện cụ thể trong đời sống con người. Ðối tượng phục vụ của Ngài là người nghèo đủ loại, và nhu cầu của người nghèo lại cấp bách đến độ không thể dời lui dời tới hoặc giới hạn vào một số giờ nhất định. Sống với người nghèo và cho người nghèo là chấp nhận bị quấy rầy: quấy rầy vì những vấn đề của họ thật cấp thiết nhưng lại không dễ giải quyết, quấy rầy vì họ luôn ở cạnh chúng ta mà chúng ta không được phép quên đi.
Giáo Hội hôm nay muốn chọn người nghèo làm đối tượng ưu tiên để phục vụ như Chúa Giêsu ngày xưa đã làm, thì Giáo Hội cũng không thể quên sự quấy rầy của người nghèo và các vấn đề liên quan đến người nghèo. Nếu Giáo Hội có phải phân nhiệm cho ủy ban này, ủy ban khi lo từng vấn đề, nếu Giáo Hội có phải lên thời khóa biểu hằng ngày, thì tất cả chỉ vì muốn phục vụ người nghèo cho có kết quả hơn, chứ không phải để giảm bớt hoặc thoái thác công việc.
Chúa đã không phục vụ con người theo kiểu trưởng giả, gián tiếp, nhưng đã dấn thân phục vụ tất cả mọi người bất cứ giờ phút nào. Xin cho Giáo Hội và mỗi người chúng ta đừng phục vụ người nghèo trên môi miệng, trên giấy tờ hoặc trong tư duy, nhưng là phục vụ trong hành động cụ thể và mau mắn.
Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. (Mc. 6, 54-55)
Sách Sáng thế ký kể rằng lần đầu tiên ánh sáng chiếu dọi vào trái đất còn trống trải và mông lung. Ánh sáng là tốt đẹp, là phản ánh của Thiên Chúa. Ánh sáng cho sự sống, tô mầu cho vạn vật và con người, đem nguồn vui đến các tâm hồn.
Giờ đây Chúa Giêsu đang ở miền Ghê-nê-xa-rét, vùng dân ngoại mà người Do thái vẫn coi là chốn tối tăm, ở giũa những con người ốm đau tật nguyền. Người là ánh sáng trần gian và ánh sáng là sự sống.
Bệnh tật cho người ta kinh nghiệm về sự yếu đuối, sự bất lực của con người đối với người đau ốm. Những phù phép và mê tín dị đoan không làm cho người ta khỏi bệnh.Tình yêu thương mới có thể chữa lành khi người ta có khả năng tin tưởng vào tình yêu ấy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu chỉ dùng lời nói và sự hiện diện thể lý của Người mà chữa bệnh cho người ta. Người cầm tay hay chạm đến kẻ chết, kẻ chết sống lại. Chỉ cần biết rằng Người đang ở đó. Ngay cả hôm nay, Đức Kitô phục sinh vẫn đang ở giữa chúng ta, Người vẫn là ánh sáng duy nhất, là sự sống vĩnh hằng.
Người quan tâm đến chúng ta, Người yêu thương chúng ta… Ta hãy đến với Người cùng với những tầm thường, yếu đuối thể xác và tâm hồn của ta, giống như một đứa trẻ nương tựa vào cha mình, quẳng đi mọi lo âu để chỉ biết rằng cha đang ở đó.
Nếu ta tiếc rẻ không được sống vào thời đó để có thể chạm đến tua áo choàng của Người hầu được khỏi bệnh, là bởi ta thiếu lòng tin. Trong mỗi Thánh lễ, chúng ta đọc lời, “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.” Hoặc là chúng ta không biết mình mắc bệnh gì cần được chữa khỏi. Hoặc là chúng ta không tin vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa Giêsu.
Dẫu sao, hôm nay cũng như trong những ngày còn rao giảng Phúc âm, Chúa Giêsu đều nói với chúng ta rằng Cha chúng ta vẫn chăm sóc ta trong mọi giây phút cuộc đời, rằng phép lạ vẫn xảy ra thường ngày để chữa lành những tật bệnh của ta nếu ta biết chú ý đến tình yêu của Người. Đó là tình yêu khiến ta được an bình thanh thản, mang lại cho ta ơn lành mạnh tâm hồn, hơn là sức khỏe phần xác.
Mẹ Têrêxa Calcutta nổi tiếng trên khắp thế giới không phải ngài là một người giỏi giang, cũng không phải nơi mẹ có những điểm hấp dẫn về nhan sắc... Tuy nhiên, mẹ trở nên một người có thể làm đảo lộn thế giới chỉ vì tình yêu rất lớn của mẹ dành cho người nghèo và những người bện tật, đến nỗi có những ngày các nữ tu trong dòng của mẹ phải nấu thức ăn cho khoảng 7 ngàn người, và cả những người phải cung cấp lương thực, có lúc lên đến 9 ngàn người.
Chúng ta còn nhớ ngày mẹ lìa cõi trần, nhiều nguyên thủ quốc gia đã tuyên bố quốc tang, nhiều bài phát biểu bày tỏ sự ngưỡng mộ được phát đi với những lời lẽ hết sức xúc động như: “Từ nay, thế giới bớt tình thương hơn”; hay: “Hôm nay, người nghèo mất đi một người mẹ yêu thương, người bạn đồng hành...”.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng thuật lại cho chúng ta khái quát về những hoạt động của Đức Giêsu. Ngài làm việc không biết mệt mỏi, đi đến đâu là thi ân giáng phúc tới đó.
Đối tượng mà Đức Giêsu nhắm đến để phục vụ chính là những người nghèo. Vì họ mà Ngài chấp nhận quên ăn, quên ngủ, bất chấp bị quấy rầy, bởi Ngài thấy được những vấn đề cấp thiết mà họ đang mong đợi.
Ngày nay, Giáo Hội của Đức Giêsu, không có con đường nào khác để loan báo về Đức Giêsu tốt hơn cho bằng lựa chọn người nghèo, người sống bên lề, vùng biên của xã hội.
Nếu Giáo Hội quên đi điểm căn cốt, bản lề này, thì Giáo Hội đánh mất đi bản chất và ý nghĩa của sự hiện diện.
Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra là: trong khi phục vụ, chúng ta có thái độ nào với họ? Phải chăng là trưởng giả, hay chỉ phục vụ gián tiếp? Không! Phục vụ như Chúa, đến để phục vụ chứ không phải được phục vụ. Tinh thần Kitô giáo không chấp nhận phục vụ hình thức, hay trên môi miệng, hoặc chỉ dừng lại nơi tư duy mà không đi đến hành động cụ thể!
Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban cho chúng con mặc lấy tâm tư của Chúa. Sẵn sàng trở nên điểm tựa và niềm hy vọng cho những ai cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã chữa lành tất cả các bệnh nhân đến gặp Chúa. Chúa đang đi qua cuộc đời ta, cần phải biết gặp Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật diễm phúc cho con. Con là người phàm hèn đầy những giới hạn và tật nguyền nơi thân xác và trong linh hồn, nhưng con có Chúa là thầy thuốc tuyệt vời. Không ai đến với Chúa mà không được chữa lành. Đặc biệt tội lỗi đã làm cho con ra yếu đuối, tê bại, chết đuối trong bể khổ. Con muốn học ở nơi những người Ghen-nê-xa-rét mà mau mắn và tin tưởng đến cùng Chúa.
Trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội. Chúa hằng ban ơn sự sống đời đời cho con. Nhưng con lại dễ dàng chạy tìm an ủi và khoái lạc trần tục chóng qua. Trong khi ấy, chỉ mình Chúa mới ban cho con hồng ân được mạnh khỏe thiêng liêng và sống đời đời.
Con thành thật thưa cùng Chúa rằng: đức tin con còn quá yếu đuối. Con để cho tiếng nói của thế gian, xác thịt và ma quỷ lấn át mất tiếng Chúa. Vì quá yếu tin, nên con khó nghe được tiếng nói tình thương của Chúa. Con thấy chán ngán khi nghe Lời Chúa. Và con không thấy hấp dẫn đến cùng Chúa mỗi ngày.
Lạy Chúa, mọi người tật nguyền bệnh hoạn đã đến cùng Chúa và đã được chữa lành. Nay con đến với Chúa mang theo mọi tật nguyền của đời con. Xin Chúa cứu chữa con. Xin làm cho con nên mạnh mẽ nhất là về đàng thiêng liêng. Xin cho con cảm mến được sự thích thú khi dừng chân ngồi bên Chúa để nghe Chúa nói và để được chữa lành. Xin cho con hằng biết về bên Chúa để được Chúa gia tăng lòng mến Chúa mỗi ngày một nhiều hơn. Amen.
Ghi nhớ: ”Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh”.
Bác sĩ Longet người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm (và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á). Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân trong bệnh viện mình, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm…
Mỗi sáng, khi đi dự lễ bệnh nhân lương giáo ai muốn đi, ông đều cho đi. Mỗi chiều Chúa nhật, ông lại cho các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này, nơi nọ. Và mỗi tối, ông lần chuỗi chung với bệnh nhân Công giáo. Vì là người Pháp, ông chỉ thuộc các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng danh đủ để lần hạt chung với họ là những người khác quốc tịch.
Ít lâu sau, Longet trở về lại Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ nhất ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Suy niệm
Tin Mừng hôm nay nói về việc chữa bệnh của Chúa Giêsu, tại Giênêsarét. Theo thánh sử Luca, sự việc xảy ra sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi đám đông dân chúng hơn 5000 người, và Ngài đã khống chế sự dữ trên biển cả khi thuyền của các tông đồ bị chao đảo, bị sóng dập vùi…
Chứng kiến phép lạ hóa bánh ra nhiều của Ngài, dân chúng tìm đến với Chúa Giêsu để xin được chữa lành những căn bệnh… Họ đặt những bệnh nhân nằm la liệt bên các vệ đường, nơi mà Ngài sẽ đi ngang qua, được Ngài đặt tay trên mình hoặc được đụng chạm đến tua áo Ngài là họ được chữa lành. Trong văn hóa Sêmít, y phục tượng trưng cho chính bản thân con người. Khi đụng đến áo của người nào là ta tiếp xúc đến chính bản thân người đó. Qua đó, tác giả muốn khẳng định từ thân thể Chúa toát ra một uy quyền thần linh cứu độ (x. Mc 6,56) và ân sủng này vượt quá những điều trị thể lý thông thường.
Chúa Giêsu theo một chương trình duy nhất, là rao giảng Tin Mừng và làm cho nước Trời hiện diện cụ thể trong đời sống con người. Ðối tượng phục vụ của Ngài là tất cả mọi người, ưu tiên cho người nghèo, người đau khổ và nhu cầu của họ. Ngài đã thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ một cách hoàn hảo: Loan báo Tin Mừng bằng cả lời nói và hành động cụ thể cho thấy sức mạnh Tin Mừng: Ngài chữa lành mọi bệnh tật, khai trừ tội lỗi và giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ là ma quỷ.
Xin vì tình thương và lòng trắc ẩn của Chúa đã chạnh lòng thương dân Do Thái năm xưa, xin Chúa cũng thương chữa lành những căn bệnh thể lý và tinh thần của chúng ta hôm nay.
Ý lực sống
“Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).
1. Khi Chúa Giêsu vừa lên bờ đến miền dân ngoại là Ghenêxaret, người ta đã nô nức kéo nhau đến với Chúa. Khi người đi đến đâu thì người ta cũng khiêng những người bệnh tật đến đấy, xin cho chạm vào áo Người. Tất cả những ai được chạm vào áo Người đều được khỏi bệnh. Chúa Giêsu luôn tỏ ra yêu thương và quan tâm đến con người, nhất là những người đau khổ và yếu đuối. Không ai đến với Người mà phải thất vọng.
2. Sự hiện diện của Chúa Giêsu.
Chúng ta vẫn thường hát: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời, đâu có lòng từ bi, ở đấy có ân sủng Người...” Phải, nơi nào có Chúa, nơi đó có niềm vui, bình an, trông cậy và chữa lành. Cụ thể là như bài Tin Mừng hôm nay nói tới, Chúa Giêsu có mặt ở đâu, thì người ta chen nhau tới với Người để được ân sủng Người chữa lành. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là sự hiện diện của tình yêu và lòng bác ái. Ngài gần gũi và quan tâm đến con người, đặc biệt những người đau khổ và yếu đuối.
Thế nên, Chúa Giêsu mời gọi mọi người chúng ta sống chiều kích hiện diện đầy yêu thương, đem đến bình an và thực thi đức bác ái, hầu xoa dịu sự đau khổ của kiếp người. Chính sự hiện diện đó làm cho mọi người cảm kích mà chạy đến với Chúa, tựa như bông hoa tỏa hương thu hút muôn loài đến với nó.
3. Lúc bệnh và đau khổ là lúc người ta dễ hướng về Chúa.
Người hấp hối than thở với Cha sở rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình trên tay Ngài trên thành ghế. Người đó làm theo và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế (Góp nhặt).
4. ”Người ta cũng đặt kẻ đau ốm ở ngoài chợ và xin Chúa Giêsu cho họ được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì được khỏi” (Mc 6,56).
Ngày quốc tế bệnh nhân được thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập liên kết với ngày lễ kính Đức Mẹ tại Lộ Đức, nơi khách hành hương tuôn đến xin chữa bệnh và chứng kiến những phép lạ chữa lành. Chính Ngài cũng chứng nhận về những ơn lạ Thiên Chúa ban cho trong những đau đớn thương tích của Ngài. Kinh nghiệm được chữa lành như thế cũng là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, bởi mọi sự chữa lành đều phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nói cách khác, lòng thương xót là phương dược Thiên Chúa chữa lành mọi cơn đau đớn bệnh tật của con người. Bất cứ ai chạm đến Chúa đều được khỏi. Niềm tin vững mạnh đó càng thôi thúc bệnh nhân mọi thời nài xin Mẹ khẩn cầu Chúa thương chữa lành những ai đang đau đớn thể xác, tinh thần và linh hồn, những người đang đối mặt với bệnh tật. Tình yêu của Chúa chữa lành bệnh nhân, tình yêu của Mẹ khẩn nài cho bệnh nhân (5 phút Lời Chúa).
5. Tất cả đều cảm thấy “cần đến Chúa” cho nên họ đã đích thân đến với Chúa và Chúa đã không phụ lòng mong ước của họ.
Một ngày kia, có một nhà lãnh đạo Trung hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo nữa”?
Ông đáp: “Có ba lý do:
- Thứ nhất: Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư.
- Thứ hai: Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống chứ không cần một người đã chết.
- Thứ ba: Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm phán”.
6. Truyện: Hãy đến với Chúa ngay đi.
June là một em bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha của em là một mục sư. Mẹ em mỗi khi đi đâu thường cho em theo. Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền nói:
- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế? - Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:
- Không, bé ạ! - Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ. Ít tuần sau, người ta thấy ông tìm đến nhà thờ và xin theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.
Trong bốn câu rất ngắn gọn, thánh Mác-cô đã mô tả sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng:
- ”Họ rảo qua khắp vùng ấy, và nghe tin Ngài ở đâu thì bắt đầu cáng bệnh nhân tới đó”
-”Ngài đi tới đâu…người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Ngài cho ít là được chạm đến tua áo cuả Ngài. Và bất cứ ai chạm đến là được khỏi.”
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Có thể tìm được hai lý do để giải thích sự thu hút này:
- Dân chúng có những nhu cầu Chúa Giêsu có khả năng đáp ứng những nhu cầu đó.
Diễn viên Lê Công Tuấn Anh có tất cả những thứ mà bất cứ người trẻ nào cũng mơ ước. Nhưng anh cũng có những nhu cầu và những đau khổ thâm sâu mà không ai giúp anh được. Anh chết vì không tìm được Đấng giúp anh.
2. ”Bất cứ ai chạm đến đều được khỏi”. Nếu tôi thực sự chạm đến Chúa, chắc chắn tôi cũng được khỏi những bệnh tật linh hồn tôi.
3. Lúc bệnh tật và đau khổ là lúc người ta dễ hướng về Chúa nhất.
4. Người hấp hối than thở với Cha sở rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình trên tay Ngài trên thành ghế. Người đó làm theo và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế. (Góp nhặt)
5. Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó…và bấy cứ ai chạm đến Người thì đều được khoải” (Mác-cô 6,55-56)
Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ. Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.
Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng ngay đến câu chuyên về họa sỹ Holman Hunt. Ông đã vẽ một bức tranh trong đó Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Nhưng điểm khác thường ở đây là cánh cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có thể mở bên trong.
Đám đông dân chúng nay đã tự mở cánh cửa lòng mình cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, lòng con đầy dẫy những ích kỷ tự kiêu, đam mê….hay có khi mặc cảm, chống đối và than van. Xin cho con biết mở lòng để có thể chạm đến Chúa. (Epphata)
Tin Mừng hôm nay chỉ có bốn câu rất ngắn gọn, vậy mà thánh Marcô đã mô tả cho chúng ta thấy được sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng:
- Họ rảo qua khắp vùng ấy, và nghe tin Ngài ở đâu thì bắt đầu cáng bệnh nhân tới đó (Mc 6,55).
- Ngài đi tới đâu người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Ngài cho ít là được chạm đến tua áo cuả Ngài. Và bất cứ ai chạm đến là được khỏi (Mc 6,56).
1. Có thể tìm được hai lý do để giải thích sự thu hút này:
* Dân chúng có những nhu cầu và Chúa Giêsu có khả năng đáp ứng lại những nhu cầu đó.
Trong Tin Mừng chúng ta thấy có rất nhiều trường hợp như thế:
Viên trưởng Hội đường với đứa con gái sắp chết đang nằm trên giường. Họ cần đến Chúa.
Người đàn bà bị mắc bệnh bại huyết 12 năm, chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản mà vẫn không khỏi.
Viên bách quan đội trưởng với tên đầy tớ bị đau không thể nào chữa khỏi.
Tất cả đều cảm thấy cần đến Chúa cho nên họ đã đích thân đến với Chúa và Chúa đã không phụ lòng mong ước của họ.
Một ngày kia có một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô-giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô-giáo nữa? “
Ông đáp: “Có ba lý do: Thứ nhất: Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế. Chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư. Thứ hai: Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống chứ không cần một người đã chết. Thứ ba: Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm phán.
2. “Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó và bất cứ ai chạm đến Người thì đều được khỏi” (Mc 6,55-56).
Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ. Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.
Nếu đọc kỹ Tin Mừng chúng ta thấy chẳng một người nào tin tưởng tìm đến với Chúa mà lại phải về tay không. Rất nhiều người đã được những ơn ngoài sự mong ước của họ. Xin kể ra một vài thí dụ điển hình:
- Giakêu người thu thuế một con người chỉ mong được nhìn thấy Chúa thôi, thế mà Chúa đã đích thân đến tận nhà và Chúa bảo: ”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19,9). Thật là ngoài sự mong ước và tưởng tượng của ông.
- Bathôlômêo một người Pharisêu chính hiệu, đã lén lút tìm đến với Chúa ban đêm và chỉ sau một lần gặp gỡ, ông đã thay đổi hẳn. Trong cuộc xử án Chúa, đang lúc mọi người hăng say yêu cầu kết án thì một mình ông đứng ra bênh vực cho Chúa.
- Đẹp nhất là người trộm lành. Chỉ một lời van xin vậy mà anh đã chiếm được cả Nước Thiên Đàng.
Họa sỹ Holman Hunt đã vẽ một bức tranh rất lạ đời. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Điểm khác thường ở đây là cánh cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có thể mở từ bên trong. Ngụ ý ông muốn nói rằng, cho dù người bên ngoài có muốn vào thì cũng chẳng làm sao mà vào được nếu người ở bên trong không mở cửa cho.
Đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay thì không như thế. Họ đã mở toang cánh cửa lòng họ cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.
June là một em bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha của em là một mục sư. Mẹ em mỗi khi đi đâu, thường cho em theo. Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền hỏi:
- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?
- Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:
- Không, bé ạ!
- Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ. Ít tuần sau, người ta thấy ông tìm đến nhà thờ và xin theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.
Lạy Chúa, Xin ở lại với con, vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ. Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu đang gần đến. Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa để được yêu Chúa nhiều hơn. Amen.
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Thứ 3 TN - Tuần 5-2024: 6/2 Th. Phaolô Miki Điều chính yếu của Tin Mừng. 06/02 – Thứ Ba tuần 5 thường niên. – Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo. Lễ nhớ.
“Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".
* Ngày 05 tháng 02 năm 1597, hai mươi sáu Kitô hữu đã bị đóng đinh thập giá ở Nagasaki (Nhật Bản). Trong số đó có những nhà truyền giáo từ châu Âu đến như các tu sĩ dòng Tên và dòng Phanxicô, nhưng còn có cả các tu sĩ Nhật Bản, như thánh Phaolô Miki (sinh khoảng năm 1564/1566) và mười bảy giáo dân gồm: các giáo lý viên, các người thông ngôn, hai bác sĩ, và cả các trẻ em nữa. Tất cả đều tươi cười, nhiều người còn ca hát khi chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy". Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".
Trong Bài Tin Mừng hôm nay có năm từ truyền thống (cc. 3, 5, 8, 9, 13). Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm, truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo. Sông song với truyền thống này là điều răn của Thiên Chúa (cc. 8, 9) Đức Giêsu tố cáo người Pharisêu đã gạt bỏ, đã coi thường điều răn này chỉ vì muốn khư khư giữ lấy truyền thống của họ (cc 8, 9, 13). Đây là một điều đáng tiếc, vì mục tiêu của người Pharisêu không phải là hủy bỏ lời của Thiên Chúa (c. 13). Trái lại, họ muốn dân Do thái sống nghiêm túc hơn ơn gọi của mình, sống như một dân tộc thánh thiện giữa một xã hội vàng thau thời Đức Giêsu. Chính vì thế họ chẳng những muốn tuân giữ điều được viết trong Luật Môsê mà còn muốn sống theo những truyền thống dựa trên luật truyền khẩu được ban cho Môsê nữa. Họ đòi cả dân chúng cũng phải sống theo các luật về thanh sạch của các tư tế. Bởi vậy, họ than phiền chuyện vài môn đệ của Đức Giêsu đã không rửa tay trước khi ăn. Thật ra chẳng phải người Do thái nào cũng giữ luật rửa tay trước khi ăn. Các sách Cựu Ước cũng không hề đòi hỏi chuyện này (x. Lêvi 11-15). Đáng tiếc là khi tập trung vào chuyện sạch sẽ bên ngoài, người Pharisêu có nguy cơ bỏ rơi hay lơ là chuyện trong sạch nơi trái tim. Đây mới là điều quan trọng mà Đức Giê su muốn nhấn mạnh. Theo truyền thống hội đường Do Thái, có cả thảy 613 điều răn, 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Cả một rừng điều răn này chi phối toàn bộ đời sống của người Do thái giáo. Người Pharisêu cho rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ chu toàn hết mọi luật này. Còn Đức Giêsu coi sự thánh thiện nằm ở sâu nơi trái tim thuộc trọn về Chúa. Ngài trích lời của ngôn sứ Isaia (29, 13): “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.” Làm thế nào để trái tim của chúng ta gần với Chúa? Làm thế nào chúng ta khỏi trở thành những kẻ đạo đức giả? Làm thế nào chúng ta giữ luật Chúa và Giáo Hội với sự mềm mại, tự do, vui tươi? Ước gì từng hành vi giữ luật của ta được chi phối bởi trái tim đầy yêu mến. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ. Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện. Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con. Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen. -------------------------------
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình”. Thật trân trọng biết bao. Thật yêu thương biết bao. Nhưng cũng phải biết vị trí giới hạn. Dù được nâng lên hàng cao quí, con người cũng chỉ là bóng mãi mãi thuộc về hình. Hình có tồn tại thì bóng mới hiện hữu. Thiên Chúa như mặt trời tỏa ánh sáng. Con người chỉ như mặt trăng. Dù có đẹp đẽ sáng láng. Nhưng cũng chỉ sáng bằng ánh sáng mặt trời. Không có mặt trời mặt trăng chìm vào đêm tối (năm lẻ).
Nhưng con người không hiểu điều đó. Ngay từ khởi đầu bà Evà đã muốn thoát khỏi Thiên Chúa. Vì thế lâm vào khốn cùng. Các Pha-ri-sêu và Kinh sư cũng không hơn gì. Tuân giữ truyền thống của con người hơn tuân thủ Lời Chúa. Bóng muốn thoát khỏi hình sao được. Thế mà ở đây mặt trăng còn muốn lấn át mặt trời. Con người muốn lấn át Thiên Chúa khi đặt thói lệ của tiền nhân lên trên Lời Chúa dạy.
Thế giới hôm nay không khác gì. Người ta coi trọng con người hơn Thiên Chúa. Sợ hãi con người hơn Thiên Chúa. Chạy theo dư luận, lợi nhuận, chức quyền, danh vọng, và cả dục vọng. Nên phải chối từ Thiên Chúa. Con người muốn lấn át Thiên Chúa. Muốn tự mình trở thành mặt trời. Muốn điều hành cả vũ trụ lẫn Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng.
Hãy noi gương Sa-lo-môn, người khôn ngoan nhất trần đời. Khi xây xong ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ, Sa-lo-mon đã nhận biết đền thờ chẳng xứng đáng với Thiên Chúa: “Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây”. Ngôi nhà không chứa đựng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ấp ủ ngôi nhà. Sa-lo-mon giầu sang tuyệt đỉnh, quyền uy ngập trời. Nhưng ông không dám trông nom Thiên Chúa. Trái lại ông cầu xin Thiên Chúa “xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày”. Dù cao sang nhất trần đời nhưng ông không bao giờ dám ra lệnh cho Thiên Chúa. Trái lại ông luôn khiêm nhường cầu nguyện: “Xin Chúa đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi” (năm chẵn).
Con chỉ là bóng. Chính Chúa là hình. Xin cho con biết luôn đi theo Chúa, vâng nghe Lời Chúa, thực thi ý Chúa. Như bóng luôn đi theo hình. Có thế bóng mới tồn tại.
Nhiều tôn giáo lấy việc tẩy rửa làm một trong những nghi thức linh thiêng của Ðạo. Chẳng hạn người Ấn giáo tắm ở sông Hằng trước khi vào tế tự ở đền thờ, hoặc các thành viên Cộng đoàn Qumrân thời Chúa Giêsu lấy việc tắm rửa hằng ngày để diễn tả thái độ sẵn sàng của mình cho ngày Ðấng Mêsia đến; ngay cả Gioan Tẩy giả cũng coi việc dìm người xuống dòng sông Giođan rồi trồi lên khỏi nước như cử chỉ nói lên sự hoán cải tâm hồn, sẵn sàng gia nhập đoàn dân mới của Thiên Chúa khi Ngài ngự đến. Người Do thái còn đi xa hơn đến mức đưa nghi thức tẩy rửa ấy vào từng chi tiết đời sống thường ngày, như rửa tay trước khi ăn, rửa chén đĩa, bình lọ...
Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Ðối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa thực phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Ðấng Thánh. Ðây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho thái độ vụ hình thức ấy như sau: "Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm". Chúa Giêsu muốn cho thấy các việc làm bên ngoài ấy, dù có tính cách tôn giáo đến đâu, cũng không thể thay thế cho một việc khác quan trọng hơn. Ðiều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống phàm nhân với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
Chúa Giêsu nhắc đến trường hợp những người Do thái nhân danh tập tục dâng cúng một số của cải vào Ðền thờ, gọi là copan, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa, để rồi biện minh cho sự thiếu sót bổn phận đối với cha mẹ. Tập tục dâng cúng là do con người, thảo kính cha mẹ là lệnh truyền của Thiên Chúa, thế nhưng trong trường hợp vừa kể, vì tinh thần sống vụ hình thức, những người Biệt phái đã bỏ luật của Thiên Chúa để tuân giữ tập tục loài người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta trở về với điểm căn bản: hãy đặt Chúa vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Ngài. Chúa không chủ trương phá bỏ hình thức lễ nghi cơ cấu, nhưng chỉ muốn đặt chúng vào đúng vị trí. Xin cho chúng ta biết trân trọng và thực hiện điều chính yếu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, thay vì cứ loay hoay với những điều phụ thuộc do loài người đặt ra.
Vậy người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:
“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mc. 7, 5-6)
“Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta… Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của các ông”. Chúa Giêsu phản đối chính những tập tục và truyền thống của người Do thái, bởi vì những tập tục và truyền thống ấy đi tới chỗ che khuất đi tính đơn sơ mà Chúa đòi hỏi nơi con người.
Trong Kitô giáo phải chăng lời ăn tiếng nói và cách sống đạo của ta không làm mất đi vẻ đơn sơ trong sáng sao?
Đúng là chúng ta thường nói nhiều mà thực ra lại không sống thực điều răn của Chúa.
Chúa dạy ta trước tiên phải yêu mến Chúa Cha, yêu thương anh em và mọi người. Giáo hội tiên vàn là môi truờng thuận lợi nhất để Chúa dạy và ta thực hành điều răn này.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cũng tra vấn ta về cách ta thực hành những việc đạo đức, đọc kinh, xem lễ… về tất cả những việc ta làm cốt để cho yên lương tâm. Có những ngày có lẽ Chúa muốn nói với ta rằng: “Hãy ngưng lại đi thôi, lòng ngươi xa Ta rồi.”
Tôi sẽ trả lời Chúa rằng nếu tôi không làm những việc đạo đức ấy, tôi sẽ còn xa cách Chúa hơn. Đừng bắt người khác làm điều gì khi chính mình lại không sống sâu xa điều ấy. Đó mới chính là điều quan trọng.
Hãy hiểu rằng Chúa Giêsu không đòi hỏi tôi phải giữ đạo theo kiểu duy tâm, không việc làm, không cử chỉ.Tôi cần phải có những biểu tượng, những nghi thức. Nhưng tôi không được nấp sau những nghi thức này để mà không thực hành lòng yêu mến anh em, không lắng nghe Lời Chúa.
Những thực hành đạo đức này có thể là phương thế giúp ta lượng giá mình xem đã tìm kiếm Chúa thế nào, đã trung tín với Tình yêu của Người đến đâu.
Lạy Chúa, xin ban cho con Thần Khí Chúa, để Phúc âm Chúa nâng dậy đời con.
Tại đất nước Philippines hay tại Ấn Độ, người ta có thói quen ăn cơm bằng tay thay vì dùng muỗng nĩa như người Tây Phương hay đũa như người Việt Nam.
Khi dùng tay để ăn, họ buộc phải dùng tay phải để lấy cơm và thức ăn đưa vào miệng. Tay trái là điều cấm kỵ vì họ cho rằng tay trái là biểu tượng của sự dơ bẩn; hay tay trái là dấu chỉ của những người khó có thể được cứu độ! Chính vì vậy, mà những người thuận tay trái thường bị cho rằng sau này khó có thể được vào Nước Trời!
Tin Mừng thánh Máccô được trích đọc hôm nay ghi lại cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người Pharisêu về vấn đề rửa tay trước khi ăn.
Theo luật, buộc khách dự tiệc phải rửa tay trước khi ăn. Việc rửa tay trước khi ăn có ý nghĩa tôn giáo rất tốt lành, đó là ý muốn nói hay nhắc nhở mỗi người về sự trong sạch trong tâm hồn. Trước khi họ dâng lời chúc tụng, tạ ơn Chúa thì họ phải thanh tẩy tâm hồn cho xứng đáng. Còn về mặt xã giao, thì đây là biểu lộ sự kính trọng với người đồng bàn với mình.
Tuy nhiên, trải qua thời gian, khi người ta chỉ còn biết hình thức bên ngoài mà không hề khám phá hay sống ý nghĩa, giá trị bên trong, thì tập tục này trở nên thuần túy phô trương, hình thức. Chính vì lý do này mà khi thấy các môn đệ của Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn, nên những người Pharisêu đã thắc mắc!!! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại lời ngôn sứ Isaia nói về sự giả hình nơi những người này, vì họ chỉ thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ thì không. Vì thế, họ như cái thùng rỗng. Những lời dạy của họ trở nên trò hề khi họ chỉ cậy dựa vào tập quán của phàm nhân.
Ngày nay, nơi nhiều cộng đoàn, vẫn còn đó những lối suy nghĩ như những người Pharisêu khi xưa, đó là: tập trú vào hình thức bên ngoài quá nhiều mà không để ý đến ý nghĩa, sứ điệp ngang qua những hoạt động tôn giáo.
Nhiều khi chỉ biết đọc kinh mà không hề biết ý nghĩa của lời kinh! Hoặc nhiều khi giữ đạo từ nhỏ, nhưng nói về tinh thần huynh đệ, bác ái thì xem ra quá xa vời, bởi bấy lâu nay ta sống theo kiểu: “Đèn ai nấy rạng”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta thấy rằng: lời nói phải đi đôi hành động. Việc bề ngoài chỉ có giá trị khi nó được toát ra từ bên trong. Đừng chỉ lo loay hoay hình thức mà đánh mất đi nét đẹp của tâm hồn. Mất đi ý nghĩa này, mọi sự trở nên giả dối, trống rỗng và vô ích.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì đã dạy cho chúng con bài học về việc giữ luật. Xin cho chúng con ngày càng gắn bó với Chúa mật thiết để được sống trong tình yêu và chiếu tỏa tình yêu ấy cho tha nhân cách chân thành. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta yêu mến tôn thờ Thiên Chúa cách chân thành, tận đáy lòng. Đừng vì những thói quen tập tục của loài người mà coi thường những giới răn của Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Chúa là Đấng cao cả trổi vượt vô cùng, nhưng đồng thời Chúa cũng ở trong lòng con, sâu thẳm trong con hơn chính con. Chúa thấu suốt mọi tư tưởng, mọi tâm tình, mọi ước muốn và việc làm của con. Con có thể giả dối với người đời nhưng không thể giả dối đối với Chúa. Tất cả cuộc đời con luôn xuất hiện rõ ràng trước Nhan Thánh Chúa, con chẳng thể che giấu Chúa điều gì.
Vậy lạy Chúa, xin Chúa tha thứ những điều giả dối hời hợt nơi con. Đã bao lần con tôn kính Chúa ngoài môi miệng mà lòng con lại xa Chúa. Khi đọc kinh, dự lễ, làm việc đạo đức và bác ái, con đã làm một cách miễn cưỡng, làm vì thói quen, làm vì sợ dư luận chứ không làm vì lòng mến Chúa. Bề ngoài có lẽ con không có gì đáng trách. Nhưng Chúa thấu tỏ lòng dạ con chưa chân thành hết tình với Chúa. Xin Chúa giúp con canh tân tâm hồn để từ nay con luôn dành cho Chúa một tình yêu chân thành nồng nàn.
Chúa đã ban cho con trái tim để yêu thương, yêu mến Chúa và yêu thương nhau, nhưng con lại bóp nghẹt con tim để làm cho đời con ra như cái xác không hồn. Dòng máu yêu thương trong con đã thành khô cạn và con chết cứng trong bệnh hình thức. Xin Chúa sưởi ấm trái tim con. Xin Chúa thúc đẩy con chạy đến với bí tích Thánh Thể để con được kín múc tình yêu từ nguồn mạch yêu thương của trái tim Con Chúa. Xin Chúa lôi kéo lòng con lại gần lòng Chúa, để từ lòng Chúa, con ra đi gieo rắc tình thương. Amen.
Ghi nhớ: ”Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
1. Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Đối với người Do Thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng Thánh. Đây là điều tốt, nhưng người biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
2. Thực hành lề luật không có nghĩa là chỉ thi hành những nghi thức bên ngoài và coi đó là xong nhiệm vụ. Những hình thức bên ngoài là cần thiết, nhưng chúng chỉ là những yếu tố bổ sung và phụ thuộc, mà cái cần thiết nhất là tấm lòng. Hay nói cách khác, cần nhất là cái động lực thúc đẩy chúng ta làm: nếu động lực tốt thì việc làm sẽ tốt, nếu động lực xấu thì việc làm sẽ xấu. Nếu việc làm mà thiếu động lực tốt thì việc làm chỉ là giả tạo và người làm việc ấy chỉ là giả hình: “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ta” (Is 29,13).
3. “Dân này kính Ta bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày này người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả trái cây giả, gạo giả... Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều thứ giả khác: bẳng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả... Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây, Chúa Giêsu chỉ mới nói đến “Giả hình”. Ngày nay, còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”. “Giả hình” mà còn đáng trách thì giả nhân giả nghĩa còn đáng trách hơn chừng nào.
4. Chúa Giêsu khiển trách những người biệt phái và luật sĩ thờ phượng Chúa trên đầu môi chót lưỡi, còn tấm lòng lại xa cách Người. Họ chăm chăm tuân giữ các truyền thống xa xưa, còn điều răn yêu thương là cốt lõi cũa Lời Chúa dạy thì họ lại không tuân giữ. Chúa Giêsu cũng đả kích các nhà thông luật Do thái vì họ quá tôn trọng hình thức bề ngoài, qua đó, Người mời gọi chúng ta hãy sống thật với lương tâm của mình. Để sống đạo tốt, chúng ta cần chu toàn các lề luật của Giáo hội, nhưng đồng thời còn phải sống tình mến với Chúa và mọi người.
5. Những người giả hình này đáng người ta tặng cho cái nhãn hiệu “Tốt mã dẻ cùi”. Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu:
Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,
Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi.
Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, nhưng người ta không quí mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để chế riễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn vận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198).
6. Ngày nay thật đáng lo ngại là cho sự khủng hoảng đạo lý nơi nhiều gia đình. Có những người con chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Giá trị đạo đức bị đảo lộn bởi có những đứa con coi vật chất là trên hết, đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con, sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão mà quên rằng bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, và cầu nguyện xin lễ cho các ngài khi đã qua đời.
7. Truyện: Sư máy.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.
Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ có một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Chúa Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
Họ bám sát mặt chữ những quy của luật lệ về sự phân biệt cái gì là sạch cái gì là dơ và về những đòi buộc về rửa tay chân chén dĩa…
Chúa Giêsu nói đó mới chỉ là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”.
Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người mà thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho đền thờ, biệt phái và kinh sư dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cho cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo Lời Chúa.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Những sai lầm của biệt phái và kinh sư là những sai lầm mà chúng ta dễ mắc phải:
Dễ tưởng mình đã là người “công chính” rồi.
Từ đó dễ phê phán những người khác không được “công chính” như mình.
Thực ra, sống công chính là một mục tiêu phải phấn đấu suốt đời mà cũng chưa chắc đạt tới. Lời Chúa Giêsu khiển trách họ cũng là một lời khuyên chúng ta lo tu luyện bản thân hơn là để ý so sánh người khác.
+ Giữ hình thức bề ngoài dễ hơn sống tâm hồn bên trong. Rất tiếc nhiều người mới lo được vẻ bề ngoài thì đã vội tự mãn.
+ Corban là một cớ để người biệt phái dựa vào để tự chuẩn miễn những bổn phận quan trọng. Chúng ta cũng thường có những thứ Corban của chúng ta.
Nhiều khi chúng ta lấy cớ bận lo việc Chúa để trốn tránh bổn phận lo cho con người.
+ “Dân này kính Ta bằng môi miệng”.
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra ngay sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
2. ”Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6)
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả … thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả … Những thứ ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như quả, hoa, nến, nhang, đèn giả… mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu: trông thật hóa “dỏm”; trông xịn hoá “xoàng”. Vì thế mới có kẻ dở khóc dở cưòi.
Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (x. Mát Thêu 23,13-29). Và thánh Gioan đã lật tẩy:
“Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Gioan 2,4);
“Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, ngưòi ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu ngưòi anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ trông thấy” (1 Gioan 4,20)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp cho con biết thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). (Epphata)
Ngày xưa Chúa đã phê phán: ”Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày nay người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả. Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều những thứ giả khác: Bằng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả... Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa, nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cả những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây Chúa Giêsu mới chỉ nói đến “Giả hình”. Ngày nay còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”.”Giả hình” mà còn đáng trách thì “giả nhân giả nghĩa” còn đáng trách hơn chừng nào.
Sách cổ học tinh hoa có chép một câu chuyện xảy ra tại Hàn Châu.
Có một người bán trái cây đã tìm ra được một bí quyết giữ cho cam lâu ngày mà vỏ cam vẫn luôn đỏ hồng. Ông bán với giá rất đắt, thế mà thiên hạ vẫn tranh nhau mua. Có người mua được một trái đem về bóc ra mới vỡ lẽ ra bên trong chỉ là một trái cam thối. Người đó bèn đem trả lại cho người bán và mắng nhiếc thậm tệ.
Người bán cam cũng chẳng có vừa. Ông ta cười nói:
- Tôi làm nghề này đã lâu, tôi bán và người ta mua, không ai than phiền, chỉ có ông mới kêu ca. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng riêng gì tôi, ông thật chẳng chịu nghĩ cho đến nơi đến chốn. Này thử xem có người đeo hộ phú, hùng dũng như một quan võ, kỳ thực không biết người đó có giỏi được như Tôn Tần, Ngô Khởi không? Có người đội mũ cao, đóng đai dài, trông giống như một quan văn, nhưng liệu họ có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương mà không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn cao lương mỹ vị, oai vệ hách dịch vô cùng. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc, còn bề trong chẳng như hỏng nát là gì? Tại sao ông không chịu đi xét những hạng người ấy, mà lại đi xét quả cam của tôi.
Chúa Giêsu cũng đã nghiêm trách những thành phần lãnh đạo thời đại của Ngài. Ngài so sánh họ với mồ mả tô vôi, bên ngoài thì sơn phết bóng bẩy, nhưng bên trong chỉ là những xác chết hôi thối.
Lạy Chúa, xin giúp con biết thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật (Ga 4,23). (Epphata)
2. Còn về vấn đề truyền thống của tiền nhân thì Chúa muốn ta phải hiểu thế nào?
Xin đan cử một thí dụ:
Một nhà quí phái kia mở một bữa tiệc để thết đãi khách. Trong số những thực khách được mời tham dự bữa tiệc này có một bác nông dân. Sở dĩ bác nông dân này được mời vì bác là người giàu có trong vùng, lại có lòng tốt. Chính bác đã tặng cho nông dân ở trong vùng một số tiền lớn để xây cất một nhà thương.
Hôm ấy, trên bàn ăn người ta dọn ra món đầu tiên là cua nướng. Ngoài dĩa cua nướng dọn cho mỗi người, người ta còn để ở bên cạnh một ly nước nóng và một lát chanh tươi.
Vì là một nông dân, tính tình chất phác, không lễ nghi khách sáo, đàng khác có lẽ bác nông dân kia cũng đã đói, vì thế sau khi khai mạc bữa tiệc, bác đã cắm đầu cắm cổ ăn một hơi hết món cua nướng.
Ăn cua xong, thấy bên cạnh đó có một ly nước nóng và một lát chanh tươi, tưởng là để cho khách uống, nên bác nông dân vắt chanh vào nước rồi uống một hơi hết sức tự nhiên. Thực ra đây là những thứ để rửa tay, sau khi ăn món cua nướng.
Thấy bác nông dân ăn uống như thế, mọi người chung quanh đều trố mắt nhìn nhau rồi tủm tỉm cười với một sự khinh bỉ. Nhưng riêng với ông chủ nhà, khi thấy bác nông dân kia đã uống như thế, thì ông đã xử sự một cách hết sức khôn khéo. Ông cũng vắt chanh vào ly nước của ông và đưa lên uống, để bác nông dân không bị mất mặt trước những thực khách được mời hôm đó.
Thế là mọi người trong bàn tiệc hôm đó, không ai bảo ai, tất cả đều vắt chanh vào ly nước của mình, rồi bưng lên uống.
Một tập tục đã được bỏ qua. Như vậy, tập tục chỉ có giá trị tương đối. Tất cả những nghi thức bên ngoài chỉ có giá trị đích thực khi chúng hướng về Thiên Chúa, thể hiện được xã hội tính và tinh thần tôn trọng con người. Không vì những mục đích đó thì mọi nghi thức, tập tục, cung cách, chỉ là những sinh hoạt giả dối trống rỗng.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người ta xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
Lúc Người lìa dân chúng mà về nhà, các môn đệ hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn ấy.
Người liền bảo các ông: "Các con cũng mê muội như thế ư? Các con không hiểu rằng tất cả những gì từ bên ngoài vào trong con người không thể làm cho người ta ra ô uế được, vì những cái đó không vào trong tâm trí, nhưng vào bụng rồi xuất ra". Như vậy Người tuyên bố mọi của ăn đều sạch.
Người lại phán: "Những gì ở trong người ta mà ra, đó là cái làm cho người ta ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho ngươì ta ô uế".
Sách Lêvi chương 11 nói đến một số cấm kỵ về ăn uống dành cho người Do thái. Chỉ được ăn những con vật vừa có móng chẻ hai, vừa nhai lại. Bởi đó không được ăn thịt lạc đà, thỏ, heo (Lv 11, 3-8). Chỉ được ăn những con vật ở dưới nước nếu chúng có vây và có vẩy. Chỉ được ăn các côn trùng có cánh đi bằng bốn chân, nếu chúng có thêm càng để nhảy trên đất. Bởi đó được ăn dế, châu chấu, cào cào (Lv 11, 20-23). Nếu ai ăn những thức ăn bị cấm, người đó sẽ trở nên ô uế, không được tham dự những nghi lễ ở nơi thờ tự. Chúng ta không quên chuyện bảy anh em bị vua Antiôkhô ép ăn thịt heo, và họ đã chấp nhận cái chết hơn là vi phạm luật Chúa (2 Mcb 7). Ngày nay chúng ta ngạc nhiên về chuyện cấm đoán này, nhưng vấn đề ăn uống đã từng là chuyện nóng bỏng trong Giáo Hội sơ khai. Một câu hỏi đã khiến Giáo Hội phải suy nghĩ: Sau khi trở nên Kitô hữu, dân ngoại có phải giữ những cấm kỵ trên không? Công đồng đầu tiên chỉ cấm họ không được ăn huyết và thú chết ngạt (Cv 15, 20). Lập trường của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay rất khác thường. Ngài nói một nguyên tắc có vẻ như đi ngược với sách Lêvi: “Không có gì từ ngoài vào trong con người, lại có thể làm nó ra ô uế” (c.15), “Mọi thứ từ bên ngoài vào trong con người không thể làm nó ra ô uế” (c. 18). Đối với Đức Giêsu, chính cái xấu xa từ bên trong, từ trái tim con người, cái ấy mới làm cho con người nên ô uế. (cc. 15, 20, 23). Con người hôm nay dễ mắc bệnh tim mạch. Trái tim, một cơ quan nhỏ bé nằm ở bên trái lồng ngực, thường bị căng thẳng và quá tải, dẫn đến đột quỵ. Đức Giêsu mời chúng ta đi vào trái tim mình (c.21), khám phá ra thế giới tối tăm ẩn khuất của nó. Chúng ta có thể ngỡ ngàng khi thấy ở đó không có tình yêu bác ái vị tha, mà chỉ có những tình cảm hỗn độn của lòng vị kỷ (cc. 21-22). Đức Giêsu mời chúng ta nhận ra những cái ô uế từ ngoài đi vào bên trong trái tim (c. 19), và những ý định ô uế từ trong trái tim xuất ra ngoài. Những ý định này có thể biến thành hành động hết sức nguy hiểm. Vấn đề không phải là khám tim định kỳ hay khi thấy đau ngực. Vấn đề là thanh lọc trái tim khỏi những đam mê tội lỗi đang làm nó bị hư hỏng từ bên trong. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ. Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con. Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con. Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành, những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con. Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn. Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.
Giáo huấn của Chúa thật sâu xa. Vừa theo luật tâm lý, giúp ta hiểu cặn kẽ con người, giúp đánh giá chính xác hành vi. Vừa đưa ra chuẩn mực về đời sống đạo đức. Chúa không nhìn bên ngoài nhưng nhìn vào đáy sâu tâm hồn. Chúa dạy ta sống không phải bằng hình thức bên ngoài nhưng bằng tâm tình phát xuất từ đáy lòng. Nên hôm nay Chúa đưa ra chỉ dẫn tuyệt đối: Mọi sự tốt xấu đều từ trái tim mà ra.
Thật vậy Chúa dựng nên mọi sự đều tốt đẹp. Xấu xa là từ lòng người. Mọi trái cây đều tốt. Nhưng vì bà E-và ăn với ý đồ đen tối: muốn trở nên bằng Chúa. Chính ý đồ đen tối đã tẩm nọc độc vào trái cây. Khiến gây nên đau khổ chết chóc cho loài người (năm lẻ).
Người làm sao chiêm bao làm vậy. Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Với kẻ có tâm hồn xấu xa thì mọi sự bên ngoài dù có tốt đẹp cũng trở thành xấu xa. Còn với người có tâm hồn tốt lành thì mọi sự bên ngoài dù có xấu xa cũng trở thành tốt đẹp. Ta hãy nhìn gương các thánh tử đạo. Vua chúa xấu xa bắt đạo. Các ngài bị hành hạ bằng những hình khổ đáng ghê tởm. Nhưng đối với các ngài tất cả là ơn phúc. Bị bắt bớ là dịp được gặp Chúa. Bị hành hình là được chia sẻ với đau khổ của Chúa. Chịu chết là được về với Chúa. Những gì xấu xa đã trở nên tốt lành. Vì tâm hồn các ngài tốt lành.
Trái tim quyết định tất cả. Sa-lo-mon khôn ngoan nhất trần đời vì ông nhìn thấu tâm can con người. Vì thế mà phân biệt được phải trái. Vì thế mà xét xử công minh (năm chẵn).
Trái tim quyết định tất cả. Người khôn ngoan sẽ lo thanh tẩy trái tim hơn rửa bên ngoài chén đĩa.
Trái tim quyết định tất cả. Sự xấu chỉ xâm nhập nếu tôi cho phép. Vì thế tôi kiên quyết không thỏa hiệp với cái xấu. Để mọi cử chỉ lời nói của tôi đều tốt lành.
Khi bàn về chế độ ăn uống của các dân tộc và của cá nhân, những nhà văn hóa xã hội phải thú nhận không thể đưa ra một tiêu chuẩn chung để qui định đâu là thức ăn ngon, đâu là thức ăn dở, đâu là thức ăn sạch sẽ bổ dưỡng, đâu là cái bẩn thỉu và độc hại. Bởi vì, đối với dân tộc này, món óc khỉ chẳng hạn là một món ăn bổ dưỡng và sang trọng, nhưng đối với dân tộc khác, đó là một thức ăn của người còn mang nặng thú tính, chưa có nhân tính thuần thục. Người Do thái ngày xưa cũng tự qui định cho mình một số thức ăn được phép và một số thức ăn không được phép. Còn thái độ của Chúa Giêsu đối với vấn đề này như thế nào?
Trước hết, phải nhìn nhận rằng cả Chúa Giêsu lẫn người Do thái đều không đứng trên bình diện sinh học để cứu xét thức ăn sạch hay dơ, tốt hay xấu, nhưng cả hai phê phán giá trị thức ăn theo quan điểm luân lý. Người Do thái qui định một số thức ăn không được phép dùng, ban đầu có thể là do yếu tố vệ sinh, y học, nhưng về sau họ đánh giá theo một góc độ khác. Chẳng hạn người Do thái không ăn máu và những thú vật bị chết ngạt, vì họ cho rằng máu tượng trưng cho sự sống, mà sự sống là độc quyền của Thiên Chúa, do đó con người không được phép đụng tới. Quan niệm này tiếp tục tồn tại trong Giáo Hội Kitô tiên khởi và các tín hữu gốc ngoại giáo được yêu cầu nhượng bộ các Kitô hữu gốc Do thái ở điểm này.
Thắc mắc của các môn đệ và giải đáp của Chúa Giêsu được tác giả Marcô ghi lại ở đây, có lẽ phản ánh bầu khí tranh luận của Giáo Hội tiên khởi lúc ấy và hướng giải quyết vấn đề mà Giáo Hội dần dần phải theo, đó là mọi thức ăn đều thanh sạch; điều quan trọng hơn chính là tâm hồn con người, bởi vì thức ăn sạch, chén đĩa sạch, tay chân sạch có ích gì cho việc mưu cầu ơn cứu độ, nếu con người còn có tâm hồn lừa dối Thiên Chúa và phỉnh gạt người khác.
Có một lần Phêrô đã phản ứng như mọi người Do thái. Trong một thị kiến, Phêrô được lệnh phải giết và ăn các thú vật nằm trên tấm khăn lớn từ trời buông xuống, nhưng Phêrô lập tức từ chối vì cho đó là thức ăn dơ. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã sửa sai quan niệm của ông: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, thì con người chớ gọi là ô uế. Thật ra, thị kiến này chỉ có ý nghĩa tượng trưng: Phêrô được lệnh phải tiếp đón lương dân vào Giáo Hội, những người mà Do thái giáo cho là nhơ uế. Như vậy, khi trả lời cho câu hỏi về vấn đề sạch, dơ ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng người ta không thể đánh giá người khác dựa trên mầu da, chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, giai cấp, vì tất cả những điều ấy chỉ là những hình thức phụ thuộc; mỗi người sẽ bị Thiên Chúa đánh giá dựa vào tâm địa tốt hay xấu của mình và những hành vi xuất tự tâm địa ấy.
Từ chỗ không kỳ thị về các sự vật, Kitô giáo tiến tới chỗ không kỳ thị về con người. Bằng chứng là trong giáo lý Công giáo hiện nay, không hề có dị ứng trước các thực tế của nhân loại, cũng không đặt bảng phân loại con người để tiếp nhận và Giáo Hội hay lập thang giá trị để đáng giá các phần tử trong Giáo Hội. Trái lại Kitô giáo mang tinh thần đại đồng và phổ quát, xứng đáng được gọi là đạo Công Giáo.
Xin cho chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô, không bao giờ có óc kỳ thị đối với các thực tại cuộc sống cũng như đối với nhau.
Sau đó Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu rõ cho: không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ trong con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc. 7, 14-15)
Cái gì là dơ bẩn, là cái xấu ở ngoài bản thân ta, ta dễ có một nhận định khách quan và vô tư. Tuy nhiên, nhận định “từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu”, có lẽ ta không dễ vô tư hơn chuyện đả kích những tạp chí, phim ảnh và quảng cáo xấu đâu.
Đâu là cái xấu ẩn ngay trong lòng ta? Bảng liệt kê những cái xấu được Phúc âm hôm nay kể ra không soi sáng chúng ta bao nhiêu. Nó cũng chỉ kê ra sự việc. Thật quá dễ dàng và nguy hiểm.
Lòng dơ bẩn không chỉ là cái chúng ta hiểu là sự dơ bẩn, sự không thanh sạch mà thôi.Tất cả những gì khiến ta đi ngược, chống lại tình yêu đều là dơ bẩn. Xấu bẩn tự lòng ta, có nghĩa là, tất cả những tâm tình đi ngược lại với tâm tình của Chúa, tiếng nói nào bảo ta đó là tám mối phúc mà chủ trương ngược lại, hạnh phúc nào ta đang theo đuổi mà lại ngược chiều với hạnh phúc Chúa ban, thì tất cả đều là dơ bẩn.
Con người Chúa hiền lành và khiêm tốn. Nơi Người không chất chứa điều nham hiểm, ghen tương hay độc ác. Tâm hồn Chúa là biển cả mênh mang ngập tràn an bình thanh thản. Là tinh yêu vô biên không ngừng trao ban và dâng hiến, có khả năng tái tạo lại con người của ta.
Còn trái tim tội nghiệp của ta, nếu có thể tích lũy những điều ghê tởm, chính bởi tại tim ta hằng miệt mài kiếm tìm hạnh phúc và sự thập toàn. Không người và vật nào có thể lấp đầy khát vọng của lòng ta: hoặc là tâm ta từ chối, hoặc là chính người hay sự vật ấy khước từ ta.Đó là một tâm hồn không bao giờ thỏa mãn, chẳng lấy chi làm đủ nên đam ra dồ dại. Con người thường có bệnh “đau tim” rất nặng, thế mà lại chẳng có ai ở gần. Không có ai ở bên, không có lấy cả một hành động dịu hiền. Mà chỉ có trơ trọi một mình.
Lạy Chúa, xin cho phép chúng con được chiêm ngắm trái tim Chúa, được nhận ra vực thẳm vô biên vốn làm chúng con xa cách Chúa, và nỗi khát vọng cháy bỏng mà chỉ minh Chúa mới làm cho chúng con được thỏa mãn mà thôi.
Ở đời người ta hay nói: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”; hay: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường. Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu tuyên bố một sự thật, đó là: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7, 15).
Thật vậy, chính tận sâu thẳm cõi lòng, người ta mới thấy được cội rễ của sự thiện hay ác!
Khi nói về điều xấu xa xuất phát từ cõi lòng, Kinh Thánh kể ra 12 thứ tội được coi là khởi đi từ trong tâm con người: dâm bôn, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, giảo quyệt, phóng đãng, ghen bì, gièm pha, kiêu hãnh, bất lương.
Thật vậy, tâm của những người Pharisêu chính là tâm ác gian tà, vì thế họ luôn đối đầu với Đức Giêsu. Sự đối đầu của họ với Ngài chính là cuộc đối đầu về: lòng đạo đức đích thực và thái độ giả hình; giữa lương tâm và vụ hình thức; giữa công bằng và bất công; giữa lòng bác ái và sự ích kỷ.
Đức Giêsu thì coi trọng tình huynh đệ, người Pharisêu thì coi trọng hình thức; Đức Giêsu thì nhấn mạnh và tập trung vào chiều sâu nội tâm, trong khi họ lại coi trọng bề ngoài không khác gì cái máy! Đức Giêsu thì coi trọng con người, đặt con người vào trung tâm sứ vụ, còn những người Pharisêu thì coi trọng luật lệ, hình thức, đến nỗi khiến họ trở thành nô lệ cho luật.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết xác định nguyên nhân gây nên điều xấu là cõi lòng, ý hướng từ bên trong; đồng thời biết tập trung vào việc cốt lõi của Đạo Thánh chính là tình yêu thương. Không có tình yêu thương chủ đạo, chúng ta không thể gặp được Thiên Chúa là tình yêu, và gặp được con người là trung tâm của Tin Mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con một tâm hồn thánh thiện, đạo đức, để từ nơi đó phát xuất ra tình yêu thương chân thành. Amen.
Sứ điệp: Từ lòng người, phát xuất những ý định xấu. Và ý định xấu đưa đến hành động xấu. Muốn canh tân đời sống, phải bắt đầu từ việc canh tân tâm hồn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa đã thương xót cứu độ con. Con khâm phục công trình cứu độ của Chúa. Để chữa trị tận căn mọi sự xấu xa trên đời này, Chúa đã cho con hiểu rằng mọi sự xấu xa đều xuất phát từ trong tâm hồn mọi người chúng con. Chính vì vậy, Chúa đã rao giảng Tin Mừng để con ăn năn hối cải, thay đổi tâm hồn mà trở về với Chúa.
Lạy Chúa, Chúa trách người biệt phái giả hình vì họ lo sạch sẽ bề ngoài mà không chăm lo cho tâm hồn được trong sạch. Con cũng thật đáng Chúa trách vì con cũng thường lo cho nhà cửa, áo quần, xe cộ, được sạch sẽ tốt đẹp, mà chẳng chăm lo cho tâm hồn được trong sáng.
Xin Chúa giúp con nhận ra sào huyệt tội lỗi đang nằm trong chính lòng con. Xin Chúa chiếu soi ánh sáng vào nội tâm con để con nhận ra những tâm tình, tư tưởng và ý định xấu xa đang thúc đẩy con đi đến những hành động gian ác bất chính. Vì mầu nhiệm Chúa chịu chết trên thánh giá, xin Chúa thanh tẩy tâm hồn con, xin canh tân lòng trí con và ban cho con một quả tim mới, quả tim thanh sạch, khiêm tốn và biết yêu thương.
Đã nhiều lần con đến với Chúa nơi bí tích Giải Tội, nhưng cuộc đời con vẫn chưa thay đổi bao nhiêu, chỉ vì con chưa thành tâm thống hối sâu xa và chưa quyết tâm từ bỏ tội lỗi. Xin Chúa cho lòng con từ nay không còn vấn vương quyến luyến với tội lỗi. Xin Chúa giúp con mỗi ngày luôn biết hun đúc nhào nặn tâm hồn con theo tinh thần phúc âm, để con mang lấy những tâm tình, ý nghĩ, ước muốn thánh thiện như Chúa, và nhờ đó con có những hành động thánh thiện và một đời sống công chính. Amen.
Ghi nhớ: ”Những gì từ con ngùi ta xuất ra, đó là cái làm cho người ta ra ô uế”.
Tại phòng triển lãm, có mặt một nghệ sĩ lớn. Ông được đề nghị làm một cái gì đó để giúp vui cho khán giả. Ông đồng ý và hỏi xem mọi người muốn ông làm gì. Sau vài giây thinh lặng, một giáo sĩ già đề nghị: “Thưa ngài, ngài có thể đọc Thánh Vịnh 23 chứ?”.
Nhà nghệ sĩ thoáng ngỡ ngàng. Rồi ông nói: “Tôi sẵn sàng chiều ý ngài, với một điều kiện là khi tôi đọc xong, ngài cũng phải làm như tôi”. Giáo sĩ đáp: “Tôi à? Tôi đâu phải nhà hùng biện? Nhưng nếu ngài muốn, tôi xin sẵn lòng”.
Nhà nghệ sĩ bắt đầu đọc. Giọng điệu tuyệt vời. Khán giả ngây ngất. Và khi kết thúc, một tràng pháo tay như sấm vang dội khắp phòng.
Rồi đến lượt vị giáo sĩ. Âm giọng bình thường, điệu bộ không có. Khi ngài đọc xong, chẳng ai vỗ tay, nhưng mọi cặp mắt đều ướt lệ. Nhiều người gục đầu. Nhà nghệ sĩ bước tới, đặt tay trên vai vị giáo sĩ nói: “Thưa quý vị, lời tôi chỉ đi tới đôi tai quý vị, còn lời vị này đi vào con tim quý vị”.
Suy niệm
Ðức Giêsu và các môn đệ bị người biệt phái trách móc vì không rửa tay trước khi ăn. Ngài đã so sánh để họ thấy rõ cái dơ, cái sạch đích thực: Giữ gìn cho tâm hồn đơn sơ, trong trắng để không thoát ra những hận thù, ghen ghét làm dơ bẩn cuộc đời, còn việc giữ gìn của ăn, thân xác cho sạch sẽ là thứ yếu.
Điều quan trọng là thanh tẩy tâm hồn, rửa sạch trái tim. Cái cốt lõi của Lề Luật vẫn là tình yêu và từ tình yêu thể hiện ra cách sống bên ngoài. Cho nên, nếu giữ những việc, những điều lệ, tập tục do con người lập ra mà quên cái cốt lõi Lề Luật là mến Chúa yêu người là giả tạo hình thức và vụ lợi. Thiên Chúa muốn con người đặt tinh thần là trên hết, đặt tình yêu Chúa vào chỗ thứ nhất khi tuân giữ giới răn của Người. Chúa muốn con người đặt Lề Luật vào đúng vị trí của nó.
Kinh Thánh nhắc nhở dân Chúa phải tuân giữ các giới răn, các Lề Luật, các huấn lệnh. Nhưng Ðạo Chúa không phải chỉ giữ các mệnh lệnh hình thức bên ngoài. Mọi hành động của người theo Ðạo Chúa phải phát xuất từ đáy lòng tình yêu. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3).
Chúng ta luôn gồng mình sống với cái tôi, cái tôi được sơn phết lớp mặt nạ, lớp mặt nạ giả hình, dối trá, thiếu thành thật, là những điều chúng ta tự coi là đúng và đi lệch với Lề Luật của Thiên Chúa, theo lối suy nghĩ của con người. Cần trở về với trái tim qua lối sống tình yêu…
Như Lời Chúa kêu mời: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31), một trái tim được thanh tẩy theo luật tình yêu.
Ý lực sống: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi.
Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới” (Ed 36,25).
1. Sau khi nói về tính cách vụ hình thức, bây giờ Chúa nói về sự thanh sạch và ô uế. Chúa Giêsu dạy cho dân chúng biết không có gì bên ngoài nhập vào mà làm cho người ta nhơ bẩn, nhưng chính cái bên trong con người mới làm cho họ ra nhơ bẩn. Các môn đệ không hiểu lời Chúa nói, nên khi về đến nhà, các ông xin Chúa giải thích điều đó. Người bảo: mọi vật bên ngoài nhập vào con người không thể làm cho họ nhơ bẩn, vì nó không vào trong lòng họ được chỉ vào trong bụng rồi tống ra ngoài. Chính lòng con người mới làm cho họ nhơ bẩn, vì từ đáy lòng họ phát xuất ra những ý tưởng xấu xa, như trộm cướp, gian dâm, độc ác...
2. Các luật sĩ và biệt phái nhấn mạnh đến sự thanh tẩy phần xác hơn là thanh sạch phần hồn; họ đặt nghi thức bên ngoài lên trên nhiệm vụ bác ái và công bằng xã hội.
Họ tỉ mỉ giữ luật rửa tay, lau chén trước khi ăn, vì cho rằng tay bẩn, chén bẩn làm cho người ta ra ô uế, trong khi lại coi nhẹ chính cõi lòng, nơi chất chứa bao tâm tình ghen tuông, thù ghét đối với tha nhân và đủ thứ toan tính phạm tội.
Chúa Giêsu đặt sự thanh sạch tâm hồn lên trên sự thanh sạch thân xác. Vì chính từ cõi lòng, con người xây dựng cuộc sống luân lý mình. Tâm hồn trong sạch hay không, không phải vì do những hoàn cảnh phụ thuộc bên ngoài, nhưng do những quyết định trong thâm tâm mình.
3. Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ về dụ ngôn những cái thanh sạch và những cái ô uế: không phải từ cái bên ngoài vào trong con người, nhưng cái từ trong con người mà ra, mới làm cho con người ra ô uế. Chúa dựa vào hình ảnh của việc ăn uống và tiêu hóa để diễn tả: mọi sự Chúa tạo dựng cho con người đều tốt đẹp, nhưng do những tư tưởng, ý định và tâm tình bất chính của con người, làm biến đổi thành những cái xấu.
Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho các Tông đồ hiểu rằng khuôn khổ hẹp hòi của tôn giáo cũ không còn thích hợp với những đòi hỏi của một tôn giáo mới mà Người sẽ thiết lập. Bởi vì các ông sẽ được sai đi đến với mọi dân tộc, thuộc mọi nền văn hóa, rất khác biệt với môi trường Do thái. Khi đó các ông phải chú ý đến điều chính yếu, đừng lúng túng vì những cổ lệ là những cái làm cho người ngoại giáo thành tâm thiện chí, là những người không có tục lệ ăn uống giống như người Do thái, không thể nào gia nhập Giáo hội Chúa được.
4. Chúa Giêsu đã nói: không phải cái từ bên ngoài có thể làm cho người ta ra ô uế, mà chính là những cái phát xuất từ bên trong, từ lòng của con người như tham lam, tà dâm, giết người, trộm cắp, độc ác, xảo trá, ganh tị... Chính những cái đó mới làm cho người ta ra xấu xa ô uế.
Ngày xưa Đức Khổng Tử có dạy các môn đệ của mình, một câu rất vắn gọn nhưng rất xúc tích. Câu ấy như thế này: “Tư vô tà”: đừng nghĩ bậy.
Cổ nhân cũng thường hay nói đến chữ “Tâm”. Nếu con người có được cái tâm trong sáng thì cuộc sống ắt sẽ tốt đẹp, còn những kẻ “Tâm tà” thì dù cái mã bên ngoài có tốt đẹp đến đâu đi nữa sớm muộn rồi cũng bị lộ tẩy.
Người Tây phương cũng thường nói: “Tư tưởng của bạn thế nào thì hành động của bạn sẽ như vậy”.
5. Truyện: Lối hành xử của hai vị sư.
Truyện thiền kể: Một buổi chiều kia, sau trận mưa đầu mùa, cảnh vật tươi mát hẳn lên, thiên nhiên càng thêm hữu tình, hai nhà sư Tandan và Êkinô cùng xuống núi, thong dong tản bộ dọc theo con đường dẫn vào một ngôi đền ở làng quê.
Tới một khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh đẹp trong bộ Kimônô sặc sỡ và chiếc khăn quàng bằng lụa óng ả. Cô gái đứng bên vệ đường dáng vẻ băn khoăn vì không thể băng qua khúc đường lầy lội với một trang phục như thế. Nhà sư Tandan liền bảo:
- Đi lối này cô bé!
Rồi không để cô gái kịp xoay xở, Tandan nhanh tay bồng cô bé lên, bế cô gái qua vũng lầy và đặt cô xuống phía bên kia. Cô gái cúi đầu tỏ dấu cảm ơn, còn sư thì mỉm cười đáp lễ rồi tiếp tục cuộc đi dạo.
Thế nhưng, kể từ lúc ấy thì Êkino đổi hẳn thái độ. Anh không thèm nói một lời nào với người bạn nữa. Mãi cho đến khi hai người dừng chân trước một ngôi đền, thì lúc ấy Êkinô mới hậm hực nói với Tandan:
- Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là phụ nữ trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại dám làm như thế?
Tandan mỉm cười và thản nhiên đáp:
- Tôi đã bỏ nàng ở chỗ vũng lội rồi. Còn anh, sao anh vẫn mang nàng tới tận nơi đây?
Đúng là những cái bên ngoài không làm cho người ta ra ô uế, mà chính là cái phát xuất từ bên trong.
Sau khi tranh luận với những người Pharisêu về vấn đề sạch và dơ (Đoạn hôn qua Mác Cô 7,1-13). Chúa Giêsu dạy thêm cho đám đông dân chúng, và sau đó còn giải thích kỹ cho các môn đệ mình:
Cái có thể làm cho người ta ra ô uế không phải là cái từ bên ngoài mà vào cho bằng những cái từ trong lòng mà ra.
Như vậy tự bản chất, mọi thứ đều sạch.
Những thứ từ bên trong ra và làm cho người ta ra ô uế là những tư tưởng xấu như “tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc các, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kêu ngạo, ngông cuồng,”.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. ”Ngoài miệng thì niệm nam mô, trong lòng thì chứa bồ dao găm”, ca dao đã mỉa mai những ông “sư hổ mang” như thế. Thực ra, không chỉ những ông sư ấy, không chỉ những người biệt phái, mà tất cả mọi người đều phần nào như thế. Cái lòng mình tỏ ra bề ngoài luôn cách biệt với cái thực sự trong lòng mình. Vả lại, cố gắng tỏ ra tốt cũng là một điều cần cố gắng, vì không lẽ, mình cứ phô bày tất cả những cái xấu của mình để rồi sinh ra gương mù, gương xấu cho người khác sao?
Dù sao chúng ta không nên giả hình như những người Pharisêu:
Quen tỏ ra tốt riết rồi tưởng mình tốt thật và không còn cố gắng tu sửa bản thân.
Phê phán, chỉ trích, lên án những người khác.
2. Nếu cái “là” bên trong của mình được giống như cái “tỏ ra” bên ngoài thì thật lý tưởng. Đó chính là tình trạng “trong suốt” (transparent) rất đáng mơ ước. Để có thể “trong suốt”, ta phải thường xuyên đối chiếu hai cái “là” và “tỏ ra” ấy, để nhận thức sự cách biệt, rồi cố gắng xóa dần khoảng cách ấy.
3. Chúng ta hãy kiểm điểm theo bảng danh sách các thứ tội mà chính Chúa Giêsu đã liệt kê “tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc các, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kêu ngạo, ngông cuồng,”.
4. ”Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho người ta ra ô uế được, nhưng cái từ trong con người xuất ra làn cho người ta ra ô uế (Mác Cô 7,15)
Có hai vị thiền sư đi trên con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt khiến một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư được. Lập tức một vị sư đến bồng lấy cô và đưa qua đường. Vị sư khác lấy làm khó chịu, thốt lên: “Là người tu hành, sao anh lại bồng đàn bà trên tay?” Vị sư kia bình thản trả lời: “Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh, sao anh cứ mang cô ta mãi đến đây?”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con một lương tâm trong sáng, để con có thể nhìn mọi vẻ đẹp trong sự thanh cao của chúng. (Epphata).
Nói đến cái bên ngoài và cái bên trong thì quả thực có rất nhiều vấn đề để nói.
1. Đúng như là Chúa nói: không phải cái từ bên ngoài có thể làm cho người ta ra ô uế, mà chính là những cái phát xuất từ bên trong, từ lòng của con người như tham lam, tà dâm, giết người, trộm cắp, độc ác, xảo trá, ganh tị... Chính những cái đó mới làm cho con người ra xấu xa ô uế.
Người Tây Phương thường nói: “Tư tưởng của bạn thế nào thì hành động của bạn như vậy”.
Một buổi chiều kia, sau trận mưa đầu mùa, cảnh vật tươi mát hẳn lên, thiên nhiên càng thêm hữu tình, hai nhà sư Tandan và Êkinô cùng xuống núi, thong dong tản bộ dọc theo con đường dẫn vào một ngôi đền ở làng quê.
Tới một khúc đường quẹo, hai người gặp một cô gái xinh đẹp trong bộ áo Kimônô sặc sỡ và chiếc khăn quàng bằng lụa óng ả. Cô gái đứng bên vệ đường, dáng vẻ băn khoăn vì không thể băng qua khúc đường lầy lội với một trang phục như thế. Nhà sư Tandan liền bảo:
- Đi lối này cô bé!
Rồi không để cô gái kịp xoay xở, Tandan nhanh tay bồng cô gái lên, bế cô gái qua vũng lầy và đặt cô xuống phía bên kia. Cô gái cúi đầu tỏ dấu cám ơn, còn nhà sư thì mỉm cười đáp lễ rồi tiếp tục cuộc đi dạo.
Thế nhưng, kể từ lúc ấy thì Êkinô đổi hẳn thái độ. Anh không thèm nói một lời nào với người bạn nữa. Mãi cho đến khi hai người dừng chân trước một ngôi đền, thì lúc ấy Êkinô mới hậm hực nói với Tandan:
- Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là phụ nữ trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại dám làm như thế?
Tandan mỉm cười và thản nhiên đáp:
- Tôi đã bỏ nàng ở chỗ vũng lội rồi. Còn anh, sao anh vẫn mang nàng tới tận nơi đây?
Đúng là những cái bên ngoài không làm cho người ta ra ô uế, mà chính là cái phát xuất từ bên trong.
Khổng Tử ngày xưa có dạy các đệ tử của mình một câu, một câu rất vắn gọn nhưng rất xúc tích. Câu ấy như thế này: ”Tư vô tà”. Cổ nhân ngày xưa cũng thường hay nói đến chữ tâm. Nếu con người có được cái tâm trong sáng thì cuộc sống ắt sẽ tốt đẹp. Còn những kẻ tâm tà thì dù cái mã bên ngoài có tốt đẹp đến đâu đi nữa thì sớm muộn gì rồi cũng bị lộ tẩy.
2. Ngược lại, nhiều khi chúng ta thấy những cái bên ngoài xem ra chẳng ra gì nhưng bên trong lại là một kho vàng vô giá.
Trong mẩu chuyện ngắn với tựa đề Đồng vọng ngược chiều được đăng trong tuyển tập bốn mươi chuyện rất ngắn do hội Nhà văn xuất bản, tác giả Lã Thế Khanh đã kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa hai người mù: một bà lão ăn xin và một bé gái cũng ăn xin.
Bên một đống rác lớn, bà lão van vỉ xin khách qua đường giúp đỡ nhưng không có một hồi âm nào ngoài tiếng vo ve của mấy con nhặng xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá bánh. Bà lão vẫn tiếp tục van vỉ điệp khúc cũ, nhưng càng về sau càng thống thiết, những câu nói rời rạc như rãi chảy ra từ khuôn miệng dúm dó, xệch xạc của bà.
Trong khi đó, tại một gốc cây sếu già, một bé gái ăn xin mù lòa đang thiu thiu ngủ. Nó gối đầu trên một cái túi khâu bằng nhiều loại vải cũ, một cái bát sắt hoen dỉ thủng đáy nằm lăn lóc bên cạnh. Từ sáng sớm đến giờ chưa có gì trong bụng, nên cô bé đói rũ người. Nó hy vọng giấc ngủ sẽ xua tan cái đói. Nhưng cô bé bỗng giật thót người: có một bàn chân nào đó dẫm lên người nó. Đang lúc đói mệt, cô bé gầm lên:
- Mù à, người ta nằm đó mà dẫm lên?
Bà lão ăn xin lại van vỉ:
- Bà mù, bà mù thật cháu à. Thôi bà đã trót, cho bà xin.
Lặng đi một lát, cô bé đưa hai tay sờ mặt mình, từ hai hốc mắt của nó những giọt nước mắt mặn chát chảy ra, nó ngập ngừng:
- Cháu... Cháu xin lỗi bà, cháu không biết bà như thế.
Bà lão ngúc ngoắc đầu như thể chấp nhận, rồi tiếp tục đi về phía có đông người. Ngẫm nghĩ điều gì đó, cô bé lấy trong túi áo ra tờ giấy bạc hai trăm đồng mất góc, và nói một cách lễ phép:
- Bà ơi! Cháu biếu bà này!
Một làn gió thổi mạnh. Những chiếc lá từ trên cây rụng xuống rơi vào nón, làm bà lão tưởng là cô gái lừa dối mình, còn cô gái thì chờ mãi mà vẫn không thấy bà lão nhận tiền.
Nếu xét về cái vẻ bên ngoài thì hai nhân vật trong câu chuyện này chẳng có gì đáng nói. Hay nếu có phải nói trắng ra thì bên ngoài... rất bẩn, rất dơ. Thế nhưng, bên trong như thế nào thì tôi tưởng mọi người chúng ta đều thấy. Không thấy được bằng con mắt thịt nhưng thấy được bằng cái tâm của con người.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được. Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người. Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrô-Phênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà. Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó". Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái". Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi". Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
Để có được cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ, hai bên đã phải vượt qua nhiều đường ranh, nhiều rào cản. Đức Giêsu đã bỏ đất Ítraen để đến vùng Tia, vùng đất ô uế của dân ngoại. Người đàn bà dân ngoại đã vượt qua sự ngăn cách với người đàn ông Do thái. Qua câu đáp của bà, bà cũng vượt qua được sự lụy phục thường gặp nơi phụ nữ sống trong một nền văn hóa do đàn ông làm chủ ở thế kỷ đầu. Trong Tin Mừng Máccô, đây là phép lạ duy nhất nhắm đến dân ngoại. Rõ ràng Đức Giêsu không có ý làm phép lạ trừ quỷ này, Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu từ chối giúp bà ta, rồi lại đổi ý. Nhiều người không tin đây là cách cư xử vốn có của Đức Giêsu trước nỗi đau của trái tim người mẹ có đứa con bị quỷ ám. Tuy nhiên, nên nhớ rằng sứ vụ của ngài không bao gồm dân ngoại. Ngài chỉ được sai đến với dân Ítraen, để rồi chính môn đệ ngài sẽ chịu trách nhiệm đến với dân ngoại. Hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ. Bà nài xin ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái của bà, nhưng bà đã phải nghe một câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương. “Hãy để con cái ăn trước, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27). Đức Giêsu ví dân Do thái với những đứa con trong nhà, còn dân ngoại là mẹ con bà, được ví với những chó con. Con cái dĩ nhiên là có quyền ưu tiên rồi, được ăn bánh trước. Bánh của con cái đương nhiên không nên ném xuống đất cho chó con. Với người khác, câu trả lời gây sốc của Đức Giêsu có thể khép lại mọi hy vọng. Nhưng đối với bà, chính câu này lại mở ra niềm hy vọng mới. “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn cũng được ăn những mảnh vụn của lũ trẻ nhỏ” (c. 28). Bà khiêm tốn nhận mình là chó con, được nuôi trong nhà, nằm dưới gầm bàn lúc mọi người ăn uống, nên thỉnh thoảng cũng được đám con cái cho ăn những mảnh bánh vụn. Như thế những đứa con cũng chẳng giữ riêng tấm bánh cho mình. Chúng cũng biết chia sẻ, thậm chí cho mấy chú chó con. Hôm nay bà chẳng xin ngài cho tấm bánh trên bàn dành cho con cái, Bà chỉ xin ngài cho vụn bánh dành cho chó con nằm dưới bàn. Đức Giêsu hẳn hết sức bất ngờ với câu trả lời này, vừa tin tưởng, hy vọng, vừa khiêm tốn, khôn ngoan. Chính câu trả lời này đã chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý. “Vì bà nói thế, bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (c. 29). Phép lạ này rất “lạ” vì Đức Giêsu đã đuổi quỷ từ xa, và ngài cũng chẳng đưa ra một lời uy quyền nào để đuổi quỷ. Khi người mẹ này về nhà, thì thấy con gái mình đã được bình an. Chúng ta học được gì nơi cách cư xử của người phụ nữ? Chúng ta học được gì nơi thái độ của Đức Giêsu? Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề; có những lúc con muốn buông trôi, để mặc cho dòng đời đưa đẩy; có những khoảng thời gian dài, con như mảnh đất khô khan cằn cỗi. Xin cho con ánh sáng của Chúa để con biết lối mà đi. Xin cho con tấm bánh của Chúa để con có sức mà dấn bước. Xin cho con Lời của Chúa để con vững một niềm tin. Xin cho con sự sống của Chúa để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn, niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu, con thấy mình cần Chúa trong mỗi giây phút của cuộc đời. Ước gì ai gặp con cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen. --------------------------------------
Thiên Chúa tạo dựng tất cả vì con người và cho con người. Đặt mọi vật dưới chân con người. Cho con người đặt tên cho mọi sinh vật. Theo quan niệm Do thái, đặt tên trên ai là có quyền trên người đó. Thấy con người vẫn chưa vui, Thiên Chúa tạo dựng nên phụ nữ để làm bạn ngang hàng với người nam. Thuở ban sơ mọi thứ đều đẹp đẽ, ổn định trong trật tự: Thiên Chúa – con người – vạn vật. Mọi loài thanh thản an vui vì sống trong tự do, trong Thiên Chúa. Nam nữ không là đối tượng để chiếm đoạt hay thống trị. Nhìn nhau với tâm hồn thiên thần. Nên không hề xấu hổ (năm lẻ).
Nhưng ma quỉ đến phá vỡ tình trạng bình an trong tự do. Trật tự bị đảo lộn. Con người không còn vâng phục Thiên Chúa. Vạn vật nổi loạn muốn thống trị nhau. Nam nữ trở thành đối tượng chiếm đoạt. Nhìn nhau với ánh mắt thèm muốn. Vì thế trở thành ngẫu tượng. Sa-lo-mon khôn ngoan là thế mà cũng rơi vào lầm lạc khi để cho dục vọng chi phối. Để cho phụ nữ điều khiển. Vì thế rơi vào tôn thờ ngẫu tượng. Vì thế mất hết ơn nghĩa với Thiên Chúa. Mất hết quyền trên vạn vật. Đang là con cái trong nhà được ngồi trên bàn ăn bỗng nhiên trở thành chó con phải ngồi dưới gầm bàn. Đang tự do trở thành nô lệ. Đang giầu có bỗng mất tất cả (năm chẵn).
Muốn chuộc lại phải có đức tin mạnh mẽ. Như người phụ nữ Ca-na-an. Vượt qua hết mọi chướng ngại. Từ bỏ tất cả để trở về với Chúa. Tin nhận Chúa trên hết. Tất cả chỉ là phụ thuộc. Kể cả bản thân cũng chỉ là chó con dưới gầm bàn. Chúa là tất cả. Chúa là tuyệt đối. Nhờ đó thân phận được phục hồi. Từ chó con dưới gầm bàn trở thành con cái trong nhà. Được đồng bàn với Thiên Chúa. Được hưởng mọi ơn lành Chúa ban. Khi trật tự được vãn hồi, bình an trở lại. Ma quỉ phải ra đi. Bệnh tật chấm dứt. Và Thiên Chúa ngự trị.
Trong nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con" không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Chúng ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và như thế là đủ cho chúng ta.
Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà ta là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a. bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. (Mc. 7, 25-26)
Để hiểu rõ câu chuyện gặp gỡ này, đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái. Theo tâm thức của người Do thái, chuyện gặp gỡ một người ngoại là điều không ổn, cũng giống như ta gặp một người nào đó không cùng chủng tộc với ta vậy.
Nhưng ở đây lòng khiêm tốn tháo gỡ tất cả, bởi lẽ lòng khiêm tốn là cánh cửa mở rộng. Trước tấm lòng cởi mở của người phụ nữ này, tâm hồn của Chúa Giêsu cũng mở rộng ra. Bà ta không phải là thành phần của dân giao ước, nhưng lòng tin của bà tiếp nối lòng tin của Áp-ra-ham. Bà ta đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã làm thay đổi hoàn cảnh lịch sử lúc đó mà trở thành con cái của Chúa Cha. Nhờ Chúa Giêsu, Chúa Cha nhậm lời bà cầu xin. Thiên Chúa mở đường cho việc rao giảng tin mừng sau này.
Và để loan báo tin mừng này, chỉ cần yêu thương, trung thực cho đến cùng. Chỉ cần sống say mê nhiệt tình: khi người ta thực tâm thực tình để chỉ lo cho một chuyện, mọi chuyện khác đều thấy là tương đối thôi.
Qua bai Phúc âm hôm nay, Chúa muốn mở mắt mở lòng ta để hướng về thế giới những người ngoại. Họ là những con người biết thu lượm những mảnh vụn từ bàn ăn khi họ đòi hỏi ta phải tôn trọng sự thật, công bằng, khi họ lo lắng cho việc phục vụ những người nghèo, khi họ muốn dỡ đi những hàng rào ngăn cách do những đặc quyền đặc ân của ta đã dựng lên.
Cuộc sống của ta có loan báo điều mới lạ này không, một điều làm cho ta có được trái tim nhân lành, thực nhân lành, theo đúng nghĩa của lời “không có ai nhân lành cả trừ một mình Thiên Chúa”?
Trong đời sống đức tin của mỗi người, nhiều khi chúng ta phải mần mò đi trong đêm tối! Có những lúc tưởng chừng như Chúa đang bỏ rơi chúng ta! Có khi cuộc đời chúng ta đi vào ngõ cụt với biết bao thách đố mà chúng ta khó hòng vượt qua.
Tuy nhiên, khi chúng ta không còn biết cậy dựa vào ai, thì lúc đó Chúa có mặt và giải thoát chúng ta cách nhiệm mầu. Điều quan trọng là chúng ta có dám lỳ trong đức tin hay không mà thôi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại gương sáng của người đàn bà dân ngoại. Một mẫu gương về niềm tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Bà thừa biết mình là người dân ngoại, nên không thể có lý do gì để xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Thế nhưng, niềm tin và sự hy vọng đã làm cho bà vượt qua hàng rào ngăn cách đó, nên bà đã mạnh dạn đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà.
Quả thật, Đức Giêsu đã không chữa ngay, mà ngược lại, Ngài đã nói một câu rất nặng để thử thách đức tin của bà, Ngài nói: “Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà mà nén cho lũ chó con” (Mc 7,27). Người phụ nữ này đã không nản lòng, nhưng qua câu nói đó, bà lại càng khiêm tốn và đức tin mỗi lúc lại mãnh liệt hơn, bà thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”(Mc 7, 28).
Chính đức tin mãnh liệt như thế, nên phép lạ đã xảy ra. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và cứu thoát con gái bà khỏi Quỷ ám.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì, trung thành và vững tin nơi Chúa. Bởi lẽ đức tin chỉ có thể trưởng thành khi chúng ta trải qua đau khổ và được tôi luyện bằng nghịch cảnh. Nhờ thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời xứng đáng trở nên chứng nhân về niềm hy vọng cho con người hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa. Amen.
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông lấy hết sức lực, và la lớn: “Lạy Chúa”.
Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đau khổ vì hằng ngày chứng kiến cảnh quỷ dữ hành hạ con gái bà. Bà đã tìm thầy chạy thuốc khắp nơi rồi nhưng con bà vẫn không khỏi...
Chúa Giêsu đang ở vùng đất Tyrô và Siđon, rất xa quê hương bà. Thế nhưng bà đã tìm đến gặp Ngài. Tuy nhiên có sự ngăn cách giữa bà và Chúa Giêsu vì Người là người Do Thái mà người Do Thái lại không tiếp xúc với dân ngoại như bà, dòng giống Syrôphênixi. Tuy nhiên bà đến và phục lạy Ngài. Phục lạy là thái độ chỉ dành cho thần minh, như vậy có nghĩa là bà đã tôn vinh Ngài là vị thần.
Chúa Giêsu hiền lành, luôn chạnh lòng trước nỗi khổ của người dân (x. Mc 6,30-34) và sẵn sàng đáp trả… Thế nhưng Ngài có vẻ dửng dưng, thoái thác trước nỗi khổ tâm của người đàn bà đau khổ này. Thái độ của Chúa Giêsu đáp lại làm cho chúng ta bị “sốc”: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó” (Mc 7,27). Nhưng bà càng tỏ ra cương quyết và đặt trọn niềm phó thác vào tình thương cùng với quyền năng của Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái” (Mc 7,28).
Với cách đối xử có vẻ phân biệt chủng tộc, giai cấp… và dường như dửng dưng khinh miệt, nhưng trước niềm tin mạnh của bà, Ngài vẫn ban cho bà điều mà bà kêu xin. Ngài muốn dạy cho bà và qua đó cũng dạy cho chúng ta sự kiên nhẫn và khiêm nhường trong một đức tin vững mạnh trải qua gian nan thử thách.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin kiên trung, đức cậy trông vững vàng, để không khó khăn thử thách nào có thể tách chúng ta ra khỏi đức tin vào Ngài.
Ý lực sống: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 24,13).
1. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa trừ quỉ cho người đàn bà xứ Phênixi. Qua phép lạ này chúng ta thấy người đàn bà ngoại giáo này được Chúa chữa bệnh cho con bà nhờ bà có những đặc tính này:
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người Do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bằng những lời rất nặng “Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.
- Nhưng lòng tin kiên trì cùng với lòng khiêm nhường của bà đã biến bà thành “con cái trong nhà” nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lời bà xin.
2. Người đàn bà dân ngoại trong câu chuyện hôm nay có nhiều đức tính đáng chúng ta chú ý và bắt chước:
- Chúng ta thấy bà là người rất khiêm tốn, dám chịu nhận mình là “chó con: “Thưa Ngài đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn rơi xuống”.
- Bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước từ ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng. Lòng tin của bà không hề lay chuyển.
- Bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin lời Chúa nên bà ra về trong tin tưởng.
3. Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do thái giáo), lời trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
4. Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy, Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel’(Mt 8,10).
5. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. ”Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy, còn chúng ta thì sao? Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên nhiên học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết: “Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá”.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần: “Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng thấy mình còn dốt”.
Truyện: Giữ vững lòng tin sắt đá.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị linh mục Hungari và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa nhà khách được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các linh mục bầy ra để làm mê hoặc đám dân nghèo để giúp những người giầu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa”.
Vị linh mục cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”.
“Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuông sàn và chạy đến ôm vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bà bằng những lời rất nặng "Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con".
- Nhưng lòng tin kiên trì của bà đã biến bà thành "con cái trong nhà" nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lòng bà xin.
B.... nẩy mầm.
1. "Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết" Chúa Giêsu không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành.
Nhưng hình như môn đệ Chúa ngày nay không theo cùng một đường lối đó thích phô trương những sự "vĩ đại" của Giáo Hội, của nhà thờ, của tổ chức Giáo Hội, mà quên đi điều cốt yếu hơn là gieo niềm tin vào lòng người.
2. Đức tin của người phụ nữ Phênixi này là nguyên do khiến bà được ơn Chúa. Ta hãy nhìn lại đức tin của bà
- một đức tin khiêm tốn chịu nhận làm "chó con"
- một đức tin kiên trì dù bị từ khước ban đầu nhưng vẫn không nản lòng.
- một đức tin phó thác Chúa Giêsu bảo bà "cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi". Dù chưa thấy hiệu quả nhưng vì tin Lời Chúa, bà ra về.
3. Chính nhờ Chúa Giêsu đã thử thách đức tin của bà này bằng những lời rất nặng, nên Ngài mới biết được đức tin của bà rất mạnh.
Cũng vậy, đức tin của ta có được thử thách thì mới chứng tỏ là một đức tin thật.
Xin cho con kiên trì chịu đựng những thử thách về đức tin.
3. Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi
- Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân đáp
- Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. (Góp nhặt)
4. - Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.
- Thưa Ngài đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.
- Vì bà đã nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi (Mc 7,27-29)
Trong cuộc đối thoại thú vị ấy, người phụ nữ ngoại đạo đã dành phần thắng con gái chị được khỏi bệnh; và Chúa Giêsu cũng được lợi giúp một người thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Đúng là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía chị phụ nữ khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ; Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt trong cách làm việc.
Tôi chợt nghĩ đến những cuộc đối thoại hôm nay giữa các vị nguyên thủ quốc gia, giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em…
Lạy Chúa, xin cho loài người chúng con biết đối thoại để thế giới này hạnh phúc hơn. (Epphata)
1. Chúa Giêsu chữa bệnh cho người con gái của một phụ nữ Phênisi:
Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết” (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên văn học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết:
- Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần:
-Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại càng phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng tự thấy mình còn dốt.
Socrate đã nói rất có lý:
- Bậc hiểu biết cao nhất của con người là biết được rằng mình chưa biết gì cả.
Và Sénèque cũng đã viết:
- Đừng tưởng mình là khôn ngoan, mới là khôn.
Ở Hungary có câu châm ngôn rất đúng:
- Nếu anh thông minh, anh đừng khoe khoang.
Người ta thường nói: gà cục tác nhiều thì đẻ trứng ít.
Một hôm, Alcibiade khoe với Socrate là thầy dạy mình về những lãnh thổ mênh mông của ông chung quanh vùng Athènes. Socrate liền mở bản đồ ra hỏi:
- Hãy chỉ cho tôi biết Á Đông ở đâu?
Alcibiade chỉ đúng cái lục địa rộng lớn ấy.
- Đúng! bây giờ chỉ cho tôi biết Hy Lạp ở đâu?
Alcibiade vẫn chỉ đúng.
- Đâu là Péloponèse, Socrate vẫn hỏi.
Alcibiade cố gắng mãi mới tìm thấy cái chấm nhỏ trong bản đồ.
-Vịnh Attique ở đâu?
Alcibiade thấy vịnh Attique là một cái chấm nhỏ quá gần như không trông thấy, Socrate kết luận: - Đó, bây giờ hãy cho tôi biết phần đất rộng lớn của anh chỗ nào!
Alcibiade nhận ra lãnh thổ của mình không đáng một phần nhỏ nào trong bản đồ.
Như vậy, chúng ta thấy cuộc sống của mỗi người đâu có gì đáng tự hào mà phải khoe khoang, phô trương.
2. Người đàn bà trong câu chuyện hôm nay là tấm gương cho chúng ta về vấn đề này. Đối với Chúa quả là bà ta chẳng là gì. Chúng ta hãy xem cách bà đối thoại với Chúa, chúng ta sẽ thấy điều đó:
Trước hết chúng ta thấy bà là một người rất khiêm tốn: chịu nhận làm “chó con”
Thứ đến bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng, lòng tin của bà không hề lay chuyển.
Và cuối cùng, bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi”(Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin Lời Chúa nên bà ra về.
Trong cuộc đối thoại thú vị này, người phụ nữ đã dành được phần thắng: con gái của bà đã được khỏi bệnh, và Chúa Giêsu cũng được lợi: vì đã giúp được một người thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Đây quả là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía: Người đàn bà thì khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ, không có một chút phô trương tự mãn nào nơi người bà, còn Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt trong cách làm việc. Kết quả quá đẹp. Đẹp cả cho Chúa và đẹp cả cho người đàn bà.
Phần chúng ta không biết cho đến bao giờ chúng ta mới học được sự khiêm nhường của người đà bà này và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được sự hiền hòa như Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa được nghe.
Thánh nữ Syncletica nói: “Bảo tàng sẽ mất giá trị khi bị phơi bày, nhân đức khi phô trương cũng tan biến như vậy; sáp tan chảy lúc để gần lửa thế nào, thì linh hồn cũng bị hư hoại vì lời ca tụng và mất hết mọi thành quả lao nhọc của mình như vậy”.
Xem ra có vẻ rất khó, nhưng nếu chúng ta biết cậy dựa vào ơn của Chúa, tôi tưởng chúng ta có thể làm được.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của Thập Giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn. Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ. Xin làm cho chúng con biết trở nên giống Chúa mỗi ngày. Amen.
Trong bài phúc âm hôm nay, Thánh Mác-cô thuật lại cho chúng ta câu chuyện của một người đàn bà ngoại giáo đang khẩn xin Chúa Giê-su chữa cho con gái của bà đang bị quỷ ám. Đây là một lời khẩn cầu rất chính đáng của một người mẹ đang rất lo lắng, quan tâm đến người con gái nhỏ của mình. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su có vẻ làm chúng ta ngạc nhiên. Chúa đã thẳng thắn từ chối lời kêu xin của bà với những lời nói cứng rắn, khó nghe: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Qua lời này, Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh sứ mạng của Người là đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en (x. Mt 15, 24).
Chắc chắn người đàn bà kia hiểu được ẩn ý trong câu nói của Chúa vì bà biết rằng người Do Thái thường dùng hình ảnh “con chó” để nói về người ngoại giáo (x. 1 Sam 17, 43), còn họ luôn tự hào rằng mình là con cái Thiên Chúa. Trước những lời lẽ có chút “sỉ nhục” đó, bà vẫn hạ mình chấp nhận nhưng bà không từ bỏ để tiếp tục khẩn cầu lên Chúa và đòi chút quyền lợi cho đứa con gái: “chó con” có quyền ăn những miếng bánh vụn của đám trẻ nhỏ rớt xuống từ trên bàn. Chính sự kiên trì trong lời khẩn cầu tới Chúa mà bà đã được Người đáp lời. Chúa Giê-su đã trục xuất quỷ khỏi người con gái của bà. Niềm tin mạnh mẽ của bà nơi Chúa mặc cho Ngài thử thách đã giúp bà đạt được ước nguyện của mình (x. Mt 15, 28).
Mỗi chúng ta thử đặt mình vào vị trí của người đàn bà ngoại giáo này để xem phản ứng của chúng ta ra sao sau khi nghe lời từ chối chữa lành của Chúa Giê-su. Có thể nhiều người chúng ta sẽ bỏ đi vì cảm thấy mình bị Chúa coi thường, không để tâm đến. Cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta cũng sống xa Chúa như những người dân ngoại nhưng khi gặp những nghịch cảnh, đau khổ, bệnh tật hay một nhu cầu cần thiết… chúng ta thường chạy ngay đến Chúa để xin Người ban ơn, cứu giúp. Có thể Chúa vẫn thinh lặng, không nói lời nào và dường như Ngài chẳng đoái nhìn đến chúng ta. Nhưng chúng ta đừng từ bỏ mà hãy giữ vững niềm tin và tha thiết khẩn cầu lên Chúa. Chắc chắn Ngài sẽ rủ thương và đáp lại những ước nguyện của chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta về một người mẹ. Vậy, trước hết chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho từng người chúng ta quà tặng tuyệt vời là mẹ của chúng ta, là tất cả các phụ nữ trong cuộc đời của chúng ta: những người thân yêu, những người yêu mến chúng ta, những người chúng ta yêu mến, và nhất là Đức Maria. Nhận ra người này là ơn huệ Thiên Chúa ban cho người kia, sẽ giúp chúng ta vượt qua khó khăn, xung khắc và cả sự dữ cùng với những gì thuộc về sự dữ nữa (quên ơn, nghi ngờ, ham muốn, ghen tị, bạo lực…), để sống yêu thương, bao dung, tha thứ và hiệp nhất, ngay trong những lúc khó khăn nhất, những khác biệt và những khi thử thách nhất.
Chúng ta được mời gọi hình dung ra nỗi khổ của người mẹ được bài Tin Mừng hôm nay kể lại: bà là người Hi-lạp, gốc Phê-ni-xi, thuộc xứ Xy-ri, có đứa con gái bị quỉ ám; nhưng chắc chắn, không chỉ có người mẹ đau khổ, nhưng là cả nhà và những người thân quen. Dường như thời xưa, ma quỉ không có nhiều phương tiện, chỗ ẩn nấp hay mặt nạ hóa thân, nên hay ám người ta cách trực tiếp. Nhưng ngày nay, lối sống của loài người chúng ta đang cung cấp cho ma quỉ quá nhiều phương tiện, chỗ ẩn nấp và mặt nạ hóa thân: trò chơi đủ loại, phim ảnh, khoái lạc, bạo lực, gian dối, tiền bạc, danh vọng, phương tiện hưởng thụ… Vì thế, hơn bao giờ hết, trong hoàn cảnh hiện nay, có rất nhiều cha mẹ đau khổ vì con cái, không phải vì bị ma quỉ ám, nhưng bị ám, thậm chí “giam cầm” trong tâm trí bởi những điều xấu, những năng động xấu thuộc về ma quỉ, đó là lối sống vô trách nhiệm, vô ơn, đam mê phương tiện và thú vui, hưởng thụ, bạo lực, tự do luyến ái, vô kỉ luật, không có lí tưởng cao quí, mất hướng đi, không thao thức đi tìm ý nghĩa cuộc sống….
Cách ma quỉ ám người ta như thế còn nghiêm trọng hơn, là khi dằn vặt thân xác ở bên ngoài, nghĩa là bị quỉ ám trực tiếp như một số trường hợp mà các Tin Mừng kể lại hay như chúng ta thỉnh thoảng vẫn còn nghe nói ngày nay. Chúng ta, những người con, có bao giờ chúng ta thật sự đặt mình vào những những âu lo, những nỗi khổ của cha mẹ chúng ta chưa? Chúng ta, những người trẻ đang được huấn luyện, chúng ta có bao giờ cảm thông với những trăn trở và bận tâm của những người huấn luyện và những người các trách nhiệm chưa?
2. Lòng tin của Người Mẹ
Trở lại với người mẹ đau khổ trong bài Tin Mừng, chúng ta chắc chắn rất ngạc nhiên, khi nghe lời đáp của Đức Giê-su, khi bà mẹ xin Ngài trừ quỉ cho con gái bà:
Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con. (c. 27)
Thái độ của Đức Giê-su làm cho chúng ta kinh ngạc, nhưng lòng tin mạnh mẽ và khôn ngoan của bà mẹ cũng phải làm cho chúng ta ngạc nhiên không kém:
Lòng tin mạnh mẽ, vì bà kiên trì kêu xin (x. Mt 15, 21-28). Lòng tin khôn ngoan, vì bà dựa vào chính Lời Chúa để diễn tả lòng ước ao của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”! (c. 28) Trong lời nói tuyệt vời của người mẹ khiến Đức Giê-su phải động lòng này, chúng ta còn nhận thấy thái độ khiêm tốn không ghen tị: bà tự nhận mình là thân phận dân ngoại và không ghen tị với dân được chọn là Israel.
Khiêm tốn không ghen tị, đó chính là tâm tình sâu xa mà Chúa chờ đợi và Lời của Ngài muốn khơi dậy nơi bà, nơi mọi người chúng ta, khi trong lịch sử cứu độ, Chúa ưu tiên đi vào tương quan với một dân tộc, với một số người được tuyển chọn, để qua đó bày tỏ cho chúng hiểu, thế nào là tình yêu Thiên Chúa. Bởi lẽ tình yêu chỉ có thể được diễn tả và được hiểu trong tương quan đặc thù “một-một”. Và vì đó là tình yêu Thiên Chúa, nên mọi người được mời gọi “khiêm tốn không ghen tị”, mở lòng ra để đón nhận cũng một tình yêu thương xót như thế, được ban cho từng người, vốn là “những người ngoại”, như người phụ nữ có lòng tin mạnh mẽ. Kế hoạch yêu thương như thế của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Ki-tô, nơi Người, không còn phân biệt Do thái và dân ngoại, tự do và nô lệ, người nam và người nữ… Những gì Đức Giê-su thực hiện cho người mẹ đã loan báo sự hoàn tất này, sự hoàn tất mà chính Đức Giê-su sẽ thực hiện ngang qua mầu nhiệm Vượt Qua.
3. “Bà cứ về đi”
Cuối cùng, vẫn còn một điều phải làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa: lòng tin của người mẹ cứu được người con. Đức tin của người này cứu được người kia; chính vì thế chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người còn sống, cũng như cho người đã chết. Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta. Vì Chúa là tình yêu, Ngài cũng mến thương những người chúng ta thương mến trong Chúa.
Chân lí này được kể lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Đó là trường hợp bà góa thành Na-in có đứa con nhỏ chết sớm: vì thương người Mẹ đau khổ, mà Chúa đã cứu người con; đó là trường hợp những người khiêng kẻ bại liệt từ trên mái nhà thả xuống trước mặt Chúa: nhìn thấy lòng tin của họ, Ngài đã cứu chữa người bệnh; và còn nhiều trường hợp khác nữa, như người cha có đứa con gái nhỏ bị bệnh nặng sắp chết, như người chủ có anh đầy tớ bệnh liệt giường; và ơn cứu độ được ban cho cả nhà, nhờ vào hành trình đến với Đức Giê-su và tin vào Ngài của một mình ông Gia-kêu: “ Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19, 9). Cùng một lúc và thật là quảng đại, Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhà ông Gia-kêu.
Có thể nói, đây chính là một tin vui, là NIỀM VUI TIN MỪNG (Evangelii Gaudium). Và tin vui này đặc biệt có ý nghĩa đối với chúng ta và đem lại cho chúng ta niềm hi vọng khi chúng ta cầu nguyện cho nhau, nhất là cho những người thân yêu đã qua đời. Mỗi người chúng ta hãy khát khao và xin Chúa ban cho chúng ta ơn huệ lớn lao này, đó là xin Chúa cũng công bố rằng, ơn cứu độ đã đến cho gia đình và Gia Quyến của chúng ta, cho cả cộng đoàn, cho cả giáo xứ. Ơn cứu độ chính là ơn được giải thoát khỏi sự chết, để sống sự sống mới và sống sự sống mới này mãi mãi với Chúa và với nhau, nhất là với những người thân yêu của chúng ta, còn sống cũng như đã qua đời. Và Chúa đã làm cho ơn cứu độ đời đời trổ sinh hoa trái dồi dào ngay hôm nay.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng. Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả. Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.) Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật, ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù, hơn các em bị câm điếc. Thật khó làm cho các em câm điếc hiểu được chúng ta, và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả. Ðôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc. Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày, khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu. Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc. Ðức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh, và sợi dây đó được tháo cởi. Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng. Nói sao để người khác hiểu được mình, đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta. Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh... Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn: kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ... Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại. Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín. Epphatha, xin hãy mở miệng con để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình, hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ. Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi, thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai. Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình mà máy đột nhiên mất tiếng. Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa. Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai, nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này, nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác. Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe, hay lắm khi nghe điều người khác nói nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình. như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói. Nghe bằng tai, không đủ. Cần lắng nghe bằng cả trái tim. Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ. Epphatha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi, ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc, để nghe được cái tôi của anh em. Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại, vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo, chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận, để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình. Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em, đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho ai phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng kêu cho người chịu bất công. Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa, để đem cơm cho người đói đang chờ, và đem nước cho người họng đang khô, đem thuốc thang cho người đang đau ốm, đem áo quần cho người đang trần trụi, đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng, thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh, truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp, đem tự do cho những kiếp đọa đày.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm, đem an hòa cho những ai bất thuận, đem thanh bình cho kẻ sống âu lo, đem ủi an cho người đang sầu khổ, đem niềm vui cho những ai bất hạnh, đem vận may cho người gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ, đem may mắn cho những ai gặp được, giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ, cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ: giữa biển đời mang con tim núi lửa với đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả cho mọi người được hạnh phúc yên vui; còn phần con xin gởi hết nơi Ngài là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống. Ngài cho con tất cả niềm hy vọng để tin yêu và vui sống trọn đời. Amen. (NCĐ) --------------------------------
Con người có tương giao. Nhưng không phải tương giao nào cũng tốt. Vì thế tâm hồn cần có cánh cửa để đóng mở hợp lý. Mở ra với những tương giao tốt đẹp làm phong phú bản thân. Đóng lại với những tương giao nguy hiểm để bảo toàn tâm hồn.
Bà E-và không đóng mở hợp lý. Bà mở ra với loài rắn độc nguy hiểm. Bà lắng nghe những lời phỉnh nịnh đường mật. Bà mở sang thế giới tội lỗi. Nên thấy mình thật xấu xa. Khi mở sang thế giới ma quỉ, bà đóng lại tương giao với Thiên Chúa. Đóng lại cánh cửa ân phúc. Cắt đứt mối tình cha con. Và trốn tránh Thiên Chúa. Trốn tránh cả tha nhân bằng che phủ mình đi. Khi còn tương giao tốt đẹp với Thiên Chúa bà tự do và thành thực. Đến với Chúa và tha nhân làm phong phú và tươi đẹp nên không cần che giấu. Nhưng khi đóng chặt tâm hồn bà chìm trong tội lỗi. Thấy mình thật nghèo nàn nhơ uế. Không dám gặp gỡ. Trốn trong bụi rậm. Không còn chân thực. Nên phải che giấu (năm lẻ).
Đó cũng là trường hợp của Sa-lo-mon.Khi còn tương giao tốt đẹp với Thiên Chúa và toàn dân ông càng thêm phong phú. Nhưng khi đóng lại với Thiên Chúa ông trở nên nghèo nàn. Càng chiếm hữu thêm dục vọng và tà thần càng thấy trống rỗng, nghèo túng và khô cằn. Ông giống như manh áo rách. Ông đánh mất đất nước. Đánh mất dân chúng (năm chẵn).
Chúa Giê-su đến mở ra cánh cửa tâm hồn. E-pha-ta. Chúa đóng kín cánh cửa xấu xa. Giam kín ma quỉ và dục vọng. Để con người mở ra tiếp xúc với Thiên Chúa và tha nhân. Để lắng nghe và trao đổi. Để làm cho tâm hồn phong phú. Tương giao với Thiên Chúa là tương giao thân tình và quan tâm chăm sóc. Hãy chiêm ngắm Chúa “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Thật là thân tình. Thật là quan tâm chăm sóc. Cảnh tượng này gợi nhớ đến thuở tạo dựng Thiên Chúa nặn nên con người, thổi hơi vào lỗ mũi, ban sự sống cho con người. Hôm nay Chúa Giê-su ban sự sống mới. Sự sống trong tương giao. Con người mở ra để gặp gỡ Thiên Chúa và đồng loại. Để cho đi và lãnh nhận trong một trao đổi phong phú. Để dứt khoát với thái độ đóng kín vào bản thân đầy nghèo nàn, tù túng và tàn lụi. Để mở ra trong một đời sống mới phong phú, tự do và triển nở.
Michel-Angelo là một trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ vào và thốt lên: "Hãy nói đi".
Quả thật, lời nói là một trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời, là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống cùng và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong thế giới này cần phải được xác nhận bằng tiếng nói của chúng ta. Những người câm điếc một phần nào bị hạn chế trong sự liên lạc với thế giới xung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Nhưng đáng thương hơn, có lẽ là những người thấp cổ bé miệng, những người mà tiếng nói không được nhìn nhận, những người bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền sống của họ gần như bị khước từ.
Sống xứng với phẩm giá con người, đó là phải được có tiếng nói. Có lẽ đó cũng là điều mà Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể cũng muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống và cái chết của Ngài. Phép lạ chữa người câm điếc như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không chỉ là một chữa lành bệnh tật thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi nó biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Ephrata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa; để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Hằng Sống của Chúa, chính Ngài là lương thực mang lại sự sống đích thực cho chúng ta. Xin cho sự sống ấy tràn ngập tâm hồn chúng ta để chúng ta lớn lên trong tình yêu Chúa và không ngừng yêu thương, liên đới, chia sẻ với mọi người xung quanh.
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh ta. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. (Mc. 7, 32-33)
Các thánh sử thích những phép lạ chữa lành những người câm và điếc; ta đếm được ít nhất sáu câu chuyện được kể lại tỉ mỉ và Chúa Giêsu thì coi những phép lạ ấy như những dấu chỉ về Đấng Thiên sai đã được các ngôn sứ loan báo. Dầu sao đó cũng là những phép lạ nhỏ khi so sánh với những phép lạ về phục sinh và hóa bánh ra nhiều.
Maccô dùng lại chủ đề của Cựu ước vốn coi tật câm, điếc và sự thiếu lòng tin như có liên hệ với nhau. Ta thấy nhiều lần Chúa Giêsu than phiền về điều người ta có tai mà không nghe. Việc mở tai và tháo cởi cho lưỡi như thế không chỉ đơn thuần là việc chữa khỏi, mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn, nếu không các thánh sử đã chẳng gán cho một tầm quan trọng như thế trong các sách Phúc âm.
Trình thuật của Maccô hình như bắt nguồn từ nghi thức đầu tiên trong nghi lễ thọ giáo trong đó có việc đặt tay lên mặt, mũi, tai. Theo quan niệm của Kinh thánh, nước miếng được coi như hơi thở đã đông đặc lại nên có đặc tính ám chỉ ơn ban của Thần Khí thực hiện ơn tái tạo trong con người. Tác giả còn giữ tiếng “Eppheta” vì trong phụng vụ phép rửa lúc buổi đầu người ta đã giữ lại lời này.
Nên nhớ rằng ông Mô-sê có tật nói ngọng và Thiên Chúa đã chữa ông khỏi tật và nói: “Giờ đây, ngươi hãy ra đi, Ta ở với môi miệng ngươi và sẽ dạy cho ngươi biết phải nói gì” (Xh. 4, 10-12). Ngôn sứ I-sai-a kể lại việc Chúa kêu gọi ông như sau: “Một trong những thiên thần Xê-ra-phim bay đến với tôi, tay cầm một cục than hồng… cham vào miệng tôi và nói: khi cục than hồng này đã chạm tới môi ngươi, thì lỗi của ngươi được cất khỏi” (Is. 6,6). Giê-rê-mi-a trỏ thành ngôn sứ khi “Thiên Chúa giơ tay ra chạm vào miệng tôi và nói: đây Ta đặt lời Ta trong miệng ngươi.”
Người ta dùng những lối nói như trên để ám chỉ rằng người ngôn sứ không thể tự mình nói Lời-Cứu-độ được, rằng ông phải loan truyền điều ông nhận được từ AI đó.
Nếu Chúa không mở tai tôi, không tháo cởi cho lưỡi tôi, tôi sẽ không biết nghe, lại càng không biết loan báo Lời Chúa. Khi tôi trưởng thành, người ta đưa tôi đi chịu phép rửa tội, lúc ấy vú bõ tôi như đưa đến một người điếc và không có thể nói được; người ta đã xin linh mục nhân danh Chúa đặt tay trên người ấy.Phép lạ chữa người điếc và câm đã được lặp lại và một ngôn sứ khác đã gia nhập Giáo hội vậy.
Ngày nay, người ta nói nhiều về sự vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của con người. Họ đưa ra rất nhiều lý do để giải thích cho sự dửng dưng và vô cảm đang trở thành phổ quát trong xã hội hôm nay.
Nguyên nhân mấu chốt, căn bản có lẽ chính là thiếu sự nhạy bén!
Thật vậy, nếu người ta có một chút nhạy bén thì hẳn họ đã không hờ hững khi thấy một người phải đói lả trong khi mình lại quá dư thừa; hay thiếu trách nhiệm khi xả rác cách bừa bãi trong khi hằng đêm vẫn có những người phải thức trắng để dọn dẹp đường phố; hoặc vô tâm đến mất nhân tính khi cướp đi từng gói mỳ tôm, từng nắm gạo của những người vô gia cư, nghèo khổ, đói khát đang thoi thóp mong chờ chút lương thực cho ấm lòng...! Tệ hơn nữa, đó là nhiều khi chúng ta lại phủi tay đến lạnh lùng trước tấm lòng của những người làm việc tốt, để rồi tung ra những lời nói không thật gây nên một sự hoang mang làm cho người ta bị khổ tâm!
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu ra tay cứu chữa cho một người điếc và nói ngọng được nghe và nói rõ ràng. Đây là niềm vui mừng của người bị bệnh và cũng là niềm vui của những người đã dẫn anh ta đến gặp Đức Giêsu.
Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc lui lại các chương trước thì chúng ta sẽ thấy rõ giữa Đức Giêsu và những người Pharisêu luôn có sự đối kháng, và họ luôn cho rằng: Đức Giêsu lấy quyền của tướng Quỷ mà trừ Quỷ. Như vậy, họ không hề có chút nhạy bén với điều thiện, mà ngược lại, họ luôn lạnh lùng, vô cảm và vô tâm trước những nghĩa cử tốt lành của Đức Giêsu.
Lối sống và cái nhìn của những người Pharisêu khi xưa có thể cũng chính là quan điểm và lựa chọn của chúng ta! Nhiều khi vì thành kiến cá nhân, mà chúng ta không thể thấy được điều tốt nơi anh chị em mình. Lòng ích kỷ nơi bản thân nó đã làm cho lương tâm bị che khuất, sự thật bị bóp méo, vì thế, hậu quả chính là sự chia rẽ, bất công và không thể nhận ra chân lý.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tâm tình như đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là luôn biết ca ngợi và chúc tụng những điều tốt đẹp Chúa đã làm chung quanh và cho bản thân chúng con. Amen.
Sứ điệp: Bị khuyết tật về thể lý đã là một đau khổ, nhưng bị khuyết tật về tâm linh lại càng đau khổ hơn. Chỉ có Đức Kitô là thầy thuốc tuyệt hảo sẽ chữa lành mọi khuyết tật thể xác và tâm linh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người bị bệnh câm điếc giao tiếp rất vất vả, khó khăn. Họ chỉ có thể nói và nghe bằng dấu hiệu bàn tay. Còn con, con cám ơn Chúa vì được diễm phúc vẫn là người lành lặn về thể xác. Nhưng lạy Chúa, rất nhiều lúc con lại câm điếc về cuộc sống thiêng liêng. Vâng, con câm điếc vì chẳng nghe Chúa nói và cũng chẳng biết nói Chúa nghe. Vì mải mê lạc thú trần gian và đi tìm vui chơi giải trí, con chẳng còn giờ đến với Chúa. Tiền bạc danh vọng chi phối con, nên con không còn thiết tha với việc cầu nguyện. Con hững hờ trước việc đọc kinh, các buổi phụng vụ, con dửng dưng với bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.
Còn đối với những người chung quanh, nhiều lúc con cũng trở thành một kẻ câm điếc. Bên cạnh con, biết bao người đang cần đến con: cần một nụ cười, một lời thăm hỏi, hay một sự giúp đỡ nào đó. Thế mà vì ích kỷ khép kín, con đã bịt tai ngậm miệng. Con chỉ nghĩ đến con, chỉ lo cho gia đình con.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay con đến với Chúa, xin cứu chữa con khỏi căn bệnh trầm trọng đó. Xin Chúa mở tai con, để con lắng nghe tiếng Chúa, để con nghe được những nhu cầu của tha nhân. Xin cho con biết thương xót, biết lo lắng cho những ai ở gần con. Xin cho con biết sống yêu thương.
Xin Chúa dạy con biết lặng thinh khi không nên nói, và xin dạy con biết nói khi không được im lặng. Amen.
Ghi nhớ: ”Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.
Một phụ nữ có người bạn bị điếc. Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả lời: “Nhờ bạn viết thư cho Ann Landers, yêu cầu cho tôi bản kinh cầu nguyện cho người điếc”.
Và ngày sinh nhật của người điếc đó, bà Ann đã gửi tặng lời kinh như bà thỉnh nguyện. Trong đó có lời cầu như sau:
“Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi sung bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn khép kín!”...
Lời kinh trên đây cho chúng ta thấy nỗi khổ của kẻ điếc. Chúng ta thường nghĩ rằng người mù khổ hơn kẻ điếc. Nhưng Helen Keller vừa mù vừa điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời bị khóa chặt lại: mở radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, và cảm thấy cô đơn chán nản... (Câu chuyện theo Br. Thiện Mỹ, CMC).
Suy niệm
Chúa Giêsu dùng nước miếng để mở môi miệng, tai anh câm điếc, chúng ta cũng thấy cùng một cử chỉ khi Đức Giêsu chữa người mù ở Bétsaiđa trong Tin Mừng Marcô (x. Mc 8,23) và làm cho người mù từ mới sinh được sáng mắt trong Tin Mừng Gioan (x. Ga 9,6). Tác giả J.Potin nghiên cứu môi trường văn hóa trong Kinh Thánh xác nhận việc chữa lành bằng cử chỉ đụng chạm với nước miếng là: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Theo Đức Giêsu Lịch sử đích thực, Centurion, tr.172). Ngài dùng các phương thế bình dân để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa.
Thánh Bède le Vénérable nhìn cử chỉ của Chúa Giêsu làm cho anh chàng câm điếc đã xác tín: “Trong phép lạ này tỏ hiện hai bản tính trong Chúa Giêsu, đó là bản tính con người – Người ngước nhìn lên trời, Người xao xuyến, cầu nguyện. Tiếp theo lời quyền năng Thiên Chúa (Ephata - Hãy mở ra) và Ngài thực hiện cuộc chữa lành” (Theo Commentaire de l’évangile selon saint Marc).
Cuộc sống của chúng ta không chỉ điếc, mù, ngọng, câm về thể lý, như chúng ta thường thấy nơi các anh em khuyết tật với tất cả sự xót thương dành cho họ. Tuy nhiên, nơi con người nói chung tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, trải qua đường đời bao nhiêu sóng gió, nghịch cảnh, khiến sự thất vọng rơi vào cõi lòng của con người, khiến cho họ tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt. Đó là tình trạng câm, mù khi con người bị “bít kín” trước những sự việc của Thiên Chúa gợi mở và làm cho tương lai của con người. Còn nữa, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Thật thế, cuộc sống của chúng ta, như Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”. Hôm nay trước Ngài, chúng ta phải xin được Đức Giêsu “mở ra” để đón nhận mầu nhiệm nước Trời.
Ephata – Hãy mở ra:
Xin hãy mở miệng con, để con ca ngợi tình thương của Ngài, để con biết hỏi đường với Chúa và với anh em hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ, để con có thể hồn nhiên vén mở khám phá ra thế giới của mình, để con nhìn thấy tương lai, ơn gọi mà Chúa đã dành cho chúng con.
Xin mở mắt con để con biết nhìn kỳ công của Ngài, để con biết rằng Ngài đã thương con, mở mắt con để con biết nhìn vào tương lai với tâm tình xác tín Chúa dẫn con đi.
Xin mở tai con để con nghe lời Ngài - lời sự sống dẫn con đi trên khắp nẻo đường cuộc sống. Mở tai lắng nghe tiếng Chúa qua những giây phút thinh lặng. Chúng con thưa lên với Chúa như Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3,10).
Như anh chàng câm điếc được Đức Kitô đến và chữa lành, chúng ta cũng được Ngài đang đến bên cạnh, mời gọi tin và giơ tay chạm đến mỗi người: Ephata - hãy mở ra. Ngài khai thông mọi ngăn cách, cản ngăn vốn làm cho chúng ta ù tai, đau nhức để lắng nghe học hỏi thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời. Ngài mở môi, miệng lưỡi để chúng ta cất lời và tìm lại đời sống cầu nguyện, gắn bó thân tình với Thiên Chúa trong hành trình tiến vào tương lai... Chính lúc đó, tương lai của chúng ta đang mở ra, dù phải đối diện với bao nghịch cảnh, bao khốn khổ.
Ý lực sống: “Bấy giờ mắt kẻ mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm sẽ reo hò niềm vui. Nước sẽ phun lên trong sa mạc, khe suối tuôn chảy giữa vùng đất hoang vu… đất khô cằn có mạch nước trào ra” (Is 35,6-7a).
1. Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Chúa Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
3. Tâm lý người bị câm điếc.
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bầy hay diễn đạt một lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm, không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
3. Chúa Giêsu chữa người câm điếc.
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: “Epphata”: Hãy mở ra.
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh ta mong đợi.
4. Bệnh câm điếc thiêng liêng.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Epphata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa, để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
5. Tránh sự dửng dưng trong đời sống.
Trong truyện ngắn Máu Cá (tức máu lạnh), nhà văn Nguyễn Minh Châu kể chuyện một bà mẹ trẻ mất con ở ga Hàng Cỏ, kêu la thảm thiết, nhưng chẳng ai đoái hoài. Nhà văn xin một công an trực rao trên loa, người này cũng chẳng nói chẳng rằng. Cả ngàn người trên ga Hàng Cỏ như điếc, như câm trước nỗi khổ của người mẹ quẫn trí vì mất con! Bài Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu không dửng dưng trước đau khổ của con người, Ngài đã chữa lành cho người câm điếc. Lời tán dương của đám đông gợi nhớ lại lời kết luận của sách Sáng thế về công trình sáng tạo (St 1,31). Chúa Giêsu đến để phục hồi sự tốt đẹp của công trình sáng tạo: một thế giới trong đó mọi người tin nhận và sống tư thế con thảo của Cha trên trời, nhìn vào mặt người khác và nhận ra họ là anh em, chị em mình (5 phút Lời Chúa).
6. Hãy biết lắng nghe và chia sẻ.
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm cho chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
7.Truyện: Bức tường Bá Linh.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.
- Diễn ra “giữa miền Thập Tỉnh”, nghĩa là miền đất lương dân.
- Nạn nhân là một người câm và điếc, tức là một người mất khả năng tương giao với kẻ khác: người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được.
- Lúc chữa bệnh, Chúa Giêsu nói: Epphata (Hãy mở ra), tiếng nầy ngày nay được phụng vụ dùng lại trong bí tích Rửa tội. Khi đọc câu đó, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu nhằm giúp con người được sống sung mãn cương vị làm người của mình, trong đó khả năng tương giao rất quan trọng.
Có những người vì một lý do nào đó nên không “nói” lên được nỗi lòng của mình, và cũng không “nghe” được nỗi lòng của người khác. Có lẽ vì không có người tế nhị biết lắng nghe họ và không khéo léo khuyến khích họ nói.
2. ”Có mắt miệng không nhìn không nói; có mũi tai không ngửi không nghe” (Tv 115,5-6). Lời Thánh Vịnh này ám chỉ dân ngoại và những tượng thần của họ, không thấy những kỳ công của Thiên Chúa và không biết ngợi khen Ngài. Nhưng cũng đúng cho tôi nữa, vì nhiều khi tôi cũng như câm điếc đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy phán với miệng và tai con: Epphata.
3. Căn bệnh của anh này làm tôi nghĩ đến căn bệnh của rất nhiều người, nhất là những người sống trong xã hội ích kỷ ngày nay, đó là căn bệnh “đóng cửa”, đóng mắt, đóng tai, đóng tay, đóng lòng. Căn bệnh khiến người ta sống bên cạnh nhau mà không hề để ý tới nhau và quan tâm cho nhau.
4. ”Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Epphata”, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức, tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại” (Mc 7,34)
Khi sắm một bộ đồ mới, tôi không biết rằng có nhiều người đang mong bộ đồ cũ của tôi. Khi ngồi uống nước ngoài quán, tôi chẳng ngờ rằng có những người đang chờ tôi đứng lên để họ vét những giọt cuối cùng. Khi đổ thức ăn thừa vào thùng rác, tôi không biết là ngay lúc đó có biết bao con người đang chết dần vì đói.
Lạy Cha, xin hãy mở mắt con để con nhìn thấy những người khốn cùng trong xã hội. Xin hãy mở tay con để con đón nhận họ và nắm lấy tay mọi người (Epphata).
Có hai điều đáng cho chúng ta để ý suy nghĩ trong bài Tin Mừng hôm nay.
1. Trước hết là vấn đề biết ngạc nhiên trong cuộc sống
Tin Mừng ghi lại thái độ của dân chúng khi thấy Chúa làm phép lạ cho người câm điếc được khỏi như thế này: “Họ hết sức kinh ngạc” (Mc 7, 37).
Vâng! Biết kinh ngạc hay ngạc nhiên trong cuộc sống là dấu chỉ của một con người có đời sống nội tâm tốt. Họ sống với một tâm hồn phong phú.
Trước phép lạ Chúa Giêsu làm, dân chúng hết sức ngạc nhiên còn người Pharisêu và các luật sĩ chẳng những không biết ngạc nhiên, mà lại còn tìm cách chế giễu Chúa. Họ cho là Chúa đã lấy quyền quỷ vương mà trừ quỷ con.
Sự độc ác trong tâm hồn đã đánh mất sự nhạy bén về những gì tốt lành chung quanh họ.
Tâm hồn họ đã bị vẩn đục không còn trong trắng như tâm hồn của một đứa trẻ. Chúng ta thấy một bé có tâm hồn trong trắng là một con người luôn biết ngạc nhiên với những gì xảy ra chung quanh cuộc sống. Bé luôn hỏi mẹ: Tại sao thế? Tại sao con chó lại sủa? Vì nó giữ nhà. Tại sao con mèo lại kêu meo meo? Vì nó muốn làm cho con chuột sợ. Tại sao con chuột lại sợ con mèo? Và đủ thứ tại sao, nhiều khi làm cho bà mẹ phải lúng túng trước sự ngạc nhiên vì những câu hỏi của bé: hỏi gì mà hỏi lắm thế!
Biết ngạc nhiên là một phẩm chất của tâm hồn đơn sơ và Chúa rất thích những tâm hồn đơn sơ. “Nước Trời chỉ định cho những ai có tâm hồn đơn sơ như trẻ nhỏ” (Lc 18, 17).
2. Sau thái độ ngạc nhiên, dân chúng còn đưa ra một nhận xét rất đẹp về cuộc sống của Chúa Giêsu: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (Mc 7, 37).
“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”. Một nhận xét tự phát, một nhận xét về cuộc sống của Chúa thật chân thành không khách sáo.
Chúa làm việc gì cũng tốt đẹp cả. Lý do vì tất cả những gì Chúa làm, việc nào cũng mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Ngoại trừ những người chống lại Chúa vì sợ quyền lợi của mình bị thiệt thòi còn tất cả những ai có lòng chân thành tìm đến với Chúa đều cảm thấy Chúa thật tốt lành: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” (Mc 7, 37).
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta có được người ta nhận xét về chúng ta giống như ngày xưa người ta đã nhận xét về Chúa không? Hãy cẩn thận với những gì chúng ta làm cho người khác hôm nay. Đây là những vần thơ tôi đọc được từ Internet.
Nếu bạn gieo thành thật, bạn sẽ gặt lòng tin. Nếu bạn gieo lòng tốt, bạn sẽ gặt được thân thiện. Nếu bạn gieo khiêm tốn, bạn sẽ gặt cao thượng. Nếu bạn gieo kiên nhẫn, bạn sẽ gặt chiến thắng. Nếu bạn gieo cân nhắc, bạn sẽ gặt hòa thuận. Nếu bạn gieo chân chỉ, bạn sẽ gặt thành công. Nếu bạn gieo tha thứ, bạn sẽ gặt hòa giải. Nếu bạn gieo cởi mở, bạn sẽ gặt thân mật. Nếu bạn gieo chịu đựng bạn sẽ gặt cộng tác. Nếu bạn gieo niềm tin bạn sẽ gặt phép mầu.
Nhưng
Nếu bạn gieo dối trá, bạn sẽ gặt ngờ vực. Nếu bạn gieo ích kỷ, bạn sẽ gặt cô đơn. Nếu bạn gieo kiêu hãnh, bạn sẽ gặt hủy diệt. Nếu bạn gieo đố kỵ, bạn sẽ gặt phiền muộn. Nếu bạn gieo lười biếng, bạn sẽ gặt mụ mẫm. Nếu bạn gieo cay đắng, bạn sẽ gặt cô lập. Nếu bạn gieo tham lam, bạn sẽ gặt tổn hại. Nếu bạn gieo tầm phào, bạn sẽ gặt kẻ thù. Nếu bạn gieo lo lắng, bạn sẽ gặt âu lo. Nếu bạn gieo tội lỗi, bạn sẽ gặt tội lỗi.
Vì vậy hãy cẩn thận với những gì bạn gieo hôm nay, nó sẽ quyết định những gì bạn gặt vào ngày mai.
Thánh Pacôme, khi còn ngoại đạo, đã tự hiến mình trong đạo binh của hoàng gia. Một ngày kia, các binh sĩ trong đơn vị của ngài gặp phải hoàn cảnh cực kỳ đói khát sau khi phải đi bộ qua sa mạc dưới cái nắng chết người. Khi ngài và các binh sĩ vào thành Thèbes ở Ai Cập thì có nhiều người chạy lại bên họ, cho họ ăn và uống, cùng chăm sóc họ chu đáo, tận tình. Pacôme rất ngạc nhiên trước những sự chăm sóc bất ngờ và bất thường này. Pacôme cho tra hỏi xem những người tốt lành này là ai? Thì người ta trả lời Ngài: “Đó là những người Kitô hữu”.
Ngài bèn la lên: “Một tôn giáo dạy người ta cứu giúp những kẻ khốn khổ hoàn toàn xa lạ với mình là một tôn giáo chỉ có thể đến được từ vị Chúa chân thật!”
Sau biến cố này, Pacôme đã giã từ binh nghiệp và trở lại đạo Công giáo. Ngài trở thành một vị sáng lập các đan viện vĩ đại và một vị thánh lừng danh.
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa. đừng khép lại trên chính mình, nhưng quảng đại như Chúa. Xin cho con biết vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, và mọi trả thù ti tiện. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con. (Rabboni).
Trong tương quan giữa người với người hoặc giữa con người với Thiên Chúa, có những lúc vì quá yêu thương khi phải thấy người mình yêu đau khổ mà chẳng thể nói lên lời. Đó là kinh nghiệm mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Dưới sự soi sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng dành một chút khoảng lặng trong tâm hồn để cảm nhận tình yêu của Chúa dành cho mỗi người, qua đó giúp chúng ta sống sao cho đẹp lòng Chúa và ngày càng mến thương nhau hơn.
Các trình thuật của bốn thánh sử Tin mừng vẫn thường kể lại rất nhiều trường hợp Chúa Giêsu chữa bệnh cho con người. Tuy nhiên, nét đặc biệt trong Tin mừng hôm nay được thánh sử Mac-cô ghi lại thì không nhiều:“Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh. Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng” (Mc 7,32-35). Điều đáng lưu ý là sau một loạt các tác động: đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai, bôi nước miếng vào lưỡi, ngước mắt lên trời thì Chúa Giêsu còn “thở dài”. Tiếng thở dài này không phải là sự chán chường khi phải chữa bệnh vì chúng ta biết sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến thế gian là để cứu chữa và giải thoát con người khỏi tội và những hậu quả của nó. Đối với người Do Thái, sự câm điếc thể lý còn có thể được hiểu là sự câm điếc về đức tin khi họ là những người không nghe và không được biết mạc khải của Thiên Chúa. Trong khi đó, sứ mạng của Chúa Giêsu là “công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt” (Lc 4,18). Vậy, việc Chúa thở dài xem ra não lòng ấy thật ra là một lời cầu xin tha thiết với Chúa Cha khi chứng kiến cảnh con người đau khổ. Quả thế, trước đó, Chúa Giêsu đã “ngước mắt lên trời” (Mc 7,34), một thái độ diễn tả Người đang bước vào sự đối thoại đặc biệt với Chúa Cha. Ta có thể hình dung Chúa Giêsu đang than thở với Chúa Cha khi thấy con người vẫn cứ chìm ngập trong đau khổ. Thái độ ấy của Chúa Giêsu xuất phát từ một tấm lòng rung động trước sự khốn khó của con người, là đối tượng mà Thiên Chúa hết lòng yêu thương. Cảm xúc nghẹn ngào này của Chúa là kết quả của một tình yêu trọn vẹn giữa Con Thiên Chúa với nhân loại, là sự biểu lộ cho chính lời tự tình của Thiên Chúa với dân Người trong Cựu ước mà nay được bày tỏ qua Ngôi Lời nhập thể làm người: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11,8). Trong Cựu ước, rồi đến Tân ước cũng như cho đến tận cùng thời gian, Thiên Chúa vẫn luôn thổn thức và nghẹn ngào vì yêu thương con người, cho dẫu biết bao lần con người sa ngã trong tội lỗi hay thậm chí là khước từ Chúa!
Thật vậy, đọc lại câu chuyện của bài đọc thứ nhất, nếu ta đặt lòng cách sâu xa và cùng đi vào trong dòng tư tưởng nói trên, ta sẽ cảm nhận được sự nghẹn ngào của Chúa khi phải chứng kiến tội lỗi của vua Salomon mà từ đó đưa đến kết cục là vương quốc bị phân chia khi Chúa nói với Gia-róp-am: “Chúa là Thiên Chúa Israel phán thế này: “Đây, Ta sẽ phân chia vương quốc từ tay Salomon, và Ta sẽ cho ngươi mười chi tộc. Vì Đavít tôi tớ Ta và vì thành Giêrusalem mà Ta đã lựa chọn trong mọi chi tộc Israel, Ta sẽ dành cho Salomon một chi tộc” (1V 11,31b-32). Đọc rồi cảm để thấy nghẹn lòng bởi chắc chắn Thiên Chúa không vui gì khi phải nói như thế. Trước đó, Thiên Chúa đã nhiều lần nhắc nhở vua Salomon về những sai trái của ông, vậy mà ông này vẫn cứ chạy theo các thần ngoại, chai lì trong tội và chối bỏ Thiên Chúa. Nghe câu kết mà thấy xót xa cho một giao ước mà trong đó Thiên Chúa luôn thuỷ chung, còn con người thì hay bội tín: “Như thế, Israel lìa bỏ nhà Đavít cho đến ngày nay” (1V 12,19). Thật đau đớn biết chừng nào khi đã hết lòng khuyên lơn mà người mình yêu lại cứ trơ như đá và lì trong tội, nhất là Chúa chẳng vui gì khi thấy con người, vì xa rời Chúa, mà tiến dần đến đau khổ và bất hạnh. Thật ra, Chúa chẳng được gì khi con người đến hay không đến với Chúa, nghe hay không nghe Người chỉ dạy! Chỉ là đáng thương và đáng tiếc khi con người không chịu đến và không chịu nghe theo sự chỉ dạy của Chúa, là những sự hướng dẫn khôn ngoan và ân sủng để, như lời thánh Phaolô, con người nội tâm nơi chúng ta được vững vàng. Nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy, chúng ta sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa (x. Ep 3,16b-19). Vì yêu thương con người và muốn cho con người được hạnh phúc, Thiên Chúa đau buồn khi thấy con người đau khổ. Yêu thật nhiều mà cứ thấy người mình yêu phải khổ thì sao không nghẹn ngào cho nổi! Ai đã từng yêu chắc hẳn sẽ cảm nếm được phần nào cảm xúc nghẹn ngào này của Chúa!
Suy gẫm một chút về tiếng lòng yêu thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người và hằng ở cùng nhân loại, chúng ta được mời gọi trở về lòng mình để xét lại tương quan của mỗi người với Chúa và cách mà mỗi chúng ta đã sống với Người, Đấng yêu thương từng người chúng ta. Chúa vẫn chờ ta trong Bí tích Thánh Thể để ta rước Chúa vào lòng, để ta với Chúa được kết hợp nên một trong một tình yêu cao cả nhiệm mầu, để ta được Chúa làm cho nên thánh, làm cho đời sống tràn đầy sức mạnh mà trổ sinh hoa trái thánh thiện. Vậy, mỗi chúng ta đã đáp trả lại sự ước mong mãnh liệt này của Chúa mỗi ngày như thế nào? Nếu vì bận rộn công việc mưu sinh nên không thể dự lễ hằng ngày, vậy chúng ta có nhớ rước lễ thiêng liêng nhiều lần trong ngày để dù ở đâu hay làm gì, ta và Chúa vẫn không xa nhau? Trước mỗi chọn lựa trong ngày sống, Chúa ở bên ta cách đặc biệt qua sự hướng dẫn trong lương tâm để nhắc ta làm lành lánh dữ. Những lúc đó, ta có nhớ lời Chúa, có chịu nghe tiếng Chúa, có xin Chúa chỉ dạy hay thậm chí lại cố tình cho qua để làm mọi sự theo ý thích của bản năng xác thịt và những ham muốn đê hèn? Nghĩ lại những lúc chúng ta làm trái ý Chúa thì Chúa quả thật nghẹn ngào biết dường nào! Chúa vẫn nói và nói trong thinh lặng của tâm hồn; Chúa nói qua lời Chúa mà chúng ta nghe, học từ tấm bé và vẫn nghe khi chúng ta đọc lời Chúa hoặc tham dự thánh lễ; Chúa nói qua sự nhắc nhở của những người thân; Chúa nói qua các biến cố xảy ra trong cuộc đời, tỉ dụ như qua cái chết của Cha Giuse Trần Ngọc Thanh mà những ngày qua các trang mạng không ngừng đưa tin. Chúa vẫn không ngừng nói để nhắc con người xa tránh tội lỗi, để sống thánh thiện công chính mà tìm được hạnh phúc và nên người xây dựng hạnh phúc cho người khác! Chúa nói rất nhiều và Người vẫn cứ mãi nghẹn ngào để chờ đợi con người đáp lại tiếng Chúa mà sống sao cho tốt, sống sao cho xứng là con cái Chúa!
Tiếng nghẹn ngào của Chúa cũng nhắc mỗi chúng ta về sự nghẹn ngào của người thân yêu ngay trong gia đình của chúng ta. Thật vậy, chắc không thiếu những người cha và những người mẹ trong gia đình đang nghẹn ngào không thốt nên lời khi thấy những đứa con ngỗ nghịch bất hiếu; khi phải sống lây lất cho qua ngày với những người con thờ ơ, lãnh đạm và coi thường cha mẹ già yếu; khi phải thấy cảnh những người con tranh giành, xâu xé của cải của cha mẹ ngay lúc các ngài còn đang sống; hoặc khi phải chứng kiến cảnh con cái trong nhà thờ ơ với đời sống đức tin và trách nhiệm giáo dục đức tin cho con cháu;…Họ đau lòng không thốt nên lời khi phải thấy những người mà mình hết mực yêu thương đang phải đau khổ vì một đời sống xa vắng Chúa và cứ thế dần tuột dốc trên đường đưa tới tội lỗi và sự huỷ diệt. Thêm vào đó, ở đâu đó và ngay lúc này, bao trái tim của người vợ cũng đang nghẹn ngào không thốt nên lời vì phải sống với những người chồng ích kỷ, gia trưởng hoặc thiếu trách nhiệm. Họ nghẹn ngào vì ước ao được chồng tôn trọng, được chồng sẻ chia những bận rộn của cuộc sống gia đình, được có một người chồng gương mẫu trong trách nhiệm làm chồng và làm cha. Từ đây, cũng không thiếu những người chồng đang nghẹn ngào vì ước mong có được sự chung thuỷ của người vợ, ước mong vợ hết lòng yêu thương, quan tâm, chăm sóc cho chồng, cho con và cho gia đình. Rồi cũng lại có vô số những người con đang nghẹn ngào không thốt nên lời khi thấy cha mẹ không quan tâm đến niềm vui nỗi buồn và cuộc sống của con, thậm chí còn thường xuyên cãi vã, lời qua tiếng lại với nhau khiến bầu khí gia đình trở nên nặng nề đến phát chán! Tất cả những người cha, người mẹ, người vợ, người chồng, người con ấy đều mong ước có được hạnh phúc êm ấm. Họ ước ao mỗi người biết tôn trọng, biết quan tâm, biết chu toàn trách nhiệm, biết hết lòng yêu thương và quý trọng nhau. Đó là cách mà mỗi người đang cùng nhau cất đi những gánh nặng cho người thân yêu để làm vơi đi sự nghẹn ngào thẳm sâu trong lòng hầu gia đình được ngập đầy bầu khí yêu thương!
Mong sao mỗi người chúng ta, qua việc suy gẫm lời Chúa hôm nay, cảm nghiệm cách sâu hơn, mạnh hơn và chắc chắn hơn về tình yêu của Chúa dành cho mỗi người cũng như tình yêu của người thân thuộc dành cho chúng ta. Tình yêu ấy không ồn ào, không xa hoa, không hình thức bề ngoài nhưng cứ âm thầm ngay bên với sự thổn thức nghẹn ngào liên lỉ dành cho người hết lòng được yêu thương!
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thổn thức vì yêu khi thấy chúng con đau khổ và xa vắng Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được nỗi lòng sâu thẳm của Chúa để biết trở về và làm mới lại tương quan với Chúa sao cho sâu sắc và bền chặt hơn. Xin cho chúng con cũng nhận biết và cảm nghiệm được nỗi lòng nghẹn ngào vì yêu của cha mẹ, của vợ chồng và của con cái để biết quan tâm, lo lắng tận tình và nỗ lực xây dựng gia đình với tất cả tình yêu và trách nhiệm hầu mang hạnh phúc đến cho nhau. Amen.
Thực hành: Dành vài phút trước khi đi ngủ để suy gẫm về tình yêu của Chúa trong suốt cả ngày sống sắp qua.
Thứ 7 TN - Tuần 5-2024: Phép lạ Bánh hóa nhiều lần 2. 10/02 –Thánh Côláttica, trinh nữ. Lễ nhớ.
* Thánh nữ là em của thánh Biển Đức, nhà lập luật cho các đan sĩ Tây phương. Thánh nữ chào đời ở Nuốc-xi-a, nước Ý, khoảng năm 480. Thánh nữ sống đời thánh hiến ở chân núi Cátxinô, nơi thánh Biển Đức đã lập ra một đan viện nổi tiếng. Thánh nữ qua đời không bao lâu trước anh người (+ năm 547). Chính vì thế, các nữ đan sĩ Biển Đức tôn kính thánh nữ Côláttica như người mẹ tinh thần của mình.
Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến". Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no". Và người hỏi các ông: "Các con có bao nhiêu bánh?" Các ông thưa: "Có bảy chiếc". Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát. Các ông chia cho dân chúng. Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ. Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát. Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng. Số người ăn độ chừng bốn ngàn. Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðam-ma-nu-tha.
Thân xác có những nhu cầu cơ bản của nó. Nó biết đói, biết khát, biết mệt và có thế bị xỉu vì kiệt sức. Khi Đức Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi dân, Ngài cho thấy mình chẳng hề duy linh hay duy tâm chút nào. Tin mừng Máccô kể lại hai phép lạ bánh hóa nhiều. Lần đầu năm cái bánh và hai con cá cho năm ngàn người (Mc 6, 32-44). Bài Tin mừng hôm nay nói đến một phép lạ bánh hóa nhiều khác, bảy cái bánh và mấy con cá nhỏ cho bốn ngàn người ăn. Lần đầu Đức Giêsu chạnh lòng thương vì dân chúng bơ vơ như chiên không người chăn dắt (Mc 6, 34). Lần này ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ không có gì ăn (Mc 8,1). Đức Giêsu đã giải thích cặn kẽ các lý do khiến Ngài thương họ: vì họ đã ở với Ngài ba ngày rồi mà không có gì ăn (c.2), vì Ngài sợ họ sẽ bị xỉu dọc đường nếu nhịn đói mà về nhà, vì có một số người từ xa đến (c.3). Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến sức khỏe của đám đông. Họ đã theo Ngài, ở với Ngài và được ăn bánh tinh thần trong mấy ngày qua. Nhưng họ cũng cần tấm bánh vật chất cho thân xác. Có thực mới vực được đạo. Chính Đức Giêsu, chứ không phải các môn đệ, đã nhận ra điều ấy. Ngài gọi họ lại để nhắc họ về nhu cầu của đám đông (c.1). Bảy cái bánh được Đức Giêsu bẻ ra và trao cho các môn đệ. Các môn đệ lại làm cử chỉ như vậy cho đám đông. Bẻ ra và trao đi là những hành vi của bác ái, chia sẻ. Bẻ ra là chấp nhận bị vỡ, chẳng còn nguyên vẹn như trước. Trao đi là chấp nhận mất mát, chẳng còn giữ lại gì cho mình. Nhưng chỉ khi dám bẻ ra và trao đi mới đem lại hạnh phúc dư dật. Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ các Kitô hữu làm mỗi ngày, khi họ dám bẻ ra và trao đi tấm bánh của đời họ. Họ bỗng thấy mình sung mãn khi người khác được no nê. Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu, xin cho con biết nhạy cảm trước nỗi đau của con người, những trẻ em bất hạnh, những phụ nữ bị bạo hành, những người trẻ mất niềm hy vọng, những người già neo đơn. Trong cơn khủng hoảng hiện nay trên toàn cầu, có bao người thất nghiệp, bao người lâm cảnh đói ăn. Xin cho tim con chạnh lòng thương như Chúa, dám chấp nhận sống nghèo để giúp nhiều người thoát cảnh nghèo, dám chấp nhận liên đới và chia sẻ để thế giới được công bằng hơn. Ước gì khi thế giới ngưng chiến tranh và các cuộc chạy đua vũ trang, khi nước giàu chia sẻ cho nước nghèo, khi bất công và thù hận không còn thống trị, chúng con được hạnh phúc vì thấy Nước Chúa đã gần bên. Amen.
Ăn trái cấm, nguyên tổ thỏa mãn dục vọng. Nhưng lại bắt đầu những cơn đói khát. Đói khát sự hợp nhất. Tưởng rằng có tất cả nhưng bây giờ mất tất cả. Chia rẽ giữa con người với Thiên Chúa. Chia rẽ giữa con người với tạo vật. Chia rẽ giữa con người với nhau. Một cuộc trốn chạy Thiên Chúa. Đổ lỗi cho nhau và cho con rắn. Đói khát tình yêu. Không còn khả năng yêu mến Thiên Chúa. Nên phải ẩn trốn. Không còn tự nhiên yêu mến nhau vì tình yêu đã biến thành dục vọng thèm khát. Không còn yêu mến thiên nhiên vì đã có mối thù với con rắn. Đói khát hạnh phúc. Con người đánh mất hạnh phúc. Không còn thoải mái với chính mình. Phải lấy lá che thân cho khỏi xấu hổ. Hạnh phúc được ở với Thiên Chúa trở thành hình phạt giày vò. Hạnh phúc với thiên nhiên trở thành lời kết án. Hạnh phúc vợ chồng trở thành nỗi thèm khát. Hạnh phúc có con cái trở thành đau khổ. Hạnh phúc lao động trở thành án phạt vất vả. Đói khát sự sống. Trên hết là đánh mất sự sống. Bị đuổi ra khỏi vườn E-đen. Bị cấm đến gần cây trường sinh. Con người giờ đây đói khát sự sống. Nhưng cái chết cứ rình rập. Và nỗi sợ hãi cái chết trở thành một ách nô lệ đè nặng lên kiếp người (năm lẻ).
Đó là số phận của ông bà nguyên tổ. Đó cũng là số phận của vương quốc Israel. Gia-róp-am đói khát quyền lực. Nhưng khi vun đắp quyền lực bằng quay lưng lại với Chúa ông đánh mất tất cả. Và ông mau chóng đánh mất quyền lực. Vương quốc Israel mau chóng sụp đổ (năm chẵn).
Trái lại những người đói khát Lời Chúa lại được no đầy. Họ bỏ nhà cửa, công ăn việc làm, bỏ cả ăn uống nghỉ ngơi, để được gần Chúa và nghe Lời Chúa. Nên họ được tất cả. Chúa là nguồn mạch hợp nhất. Họ được kết hợp với Chúa, kết hợp với nhau và kết hợp với thiên nhiên vạn vật. Chúa là nguồn mạch tình yêu thương. Ở bên Chúa họ được tình yêu mến Chúa, yêu mến nhau và yêu mến mọi người. Cụ thể tỉnh yêu được tỏ lộ qua Lời Chúa giảng dậy, qua sự thân mật thân tình và qua sự quan tâm chăm sóc của Chúa. Chúa là hạnh phúc nên họ ngập tràn hạnh phúc đến quên ăn quên ngủ quên cả đường về. Ta thấy giống như thánh Phêrô trên núi Tabor. Họ được no thỏa sự sống. Vì họ được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống. Bên Chúa họ cảm thấy sự sống thật. Sự sống viên mãn. Họ được no thỏa. Đói trần gian. No thiên đàng.
Tin Mừng hôm nay nêu bật lòng quảng đại của Chúa Giêsu đối với con người. Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Ngài đã chạnh lòng thương xót họ. Mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối thực phẩm đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào những ý đồ ích kỷ, vụ lợi.
Một khía cạnh khác, đó là mọi hành vi của Chúa Giêsu đều bắt đầu từ sự thật của chính Ngài hay của những người khác. Chúa Giêsu đã không khởi sự phép lạ một cách mơ hồ, nhưng từ chính sự thật của con người, cho dù đó là sự thật yếu kém đến đâu đi nữa. Ngài đã làm phép lạ từ bảy chiếc bánh và mấy con cái và mấy con cá nhỏ. Hành vi của Chúa không phải là hành vi đột xuất, bởi vì Ngài vẫn tiếp tục phục vụ kẻ khác một cách quảng đại như thế ngay cả khi đã chết. Quả thật, các kiểu nói và từ ngữ trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính là các kiểu nói và từ ngữ được áp dụng cho Bí tích Thánh Thể, như "cầm lấy bánh", "dâng lời tạ ơn", "bẻ ra, trao cho các môn đệ". Như vậy, phải hiểu Bí tích Thánh Thể là một hành vi cứu giúp người đói khát, là sự nối dài hành vi quảng đại của Chúa Giêsu hôm nào, khi từ bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã cho đám đông ăn no nê chỉ vì Ngài yêu thương họ.
Ngày hôm nay, để nuôi sống nhân loại, Chúa Giêsu đã lấy chính Thịt Máu Ngài làm lương thực. Với lương thực này, Ngài tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát triển đến mức tối đa. Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Chúa Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo Hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Ðám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát hiện nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
Nếu không có tấm lòng yêu thương, thì chẳng những chúng ta không thể có sáng kiến trong việc cứu giúp người khác, mà còn biện hộ cho khả năng giới hạn của mình và đình hoãn việc trợ giúp. Những lúc ấy, Bí tích Thánh Thể chúng ta đón nhận mỗi ngày trở thành vô hiệu: thay vì là nguồn lương thực không bao giờ cạn thúc đẩy chúng ta quảng đại hiến tặng người khác, nó trở thành gia sản độc quyền và cằn cỗi của riêng chúng ta.
Xin cho chúng ta ngày càng có tấm lòng yêu thương của Chúa, để những người xung quanh chúng ta không còn bị đói khát vì sự ích kỷ của chúng ta.
Trong những ngày ấy, lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn!”.
Người truyền cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông. (Mc. 8, 1-2. 6)
Maccô vá Mat-thêu kể lại cho chúng ta hai phép la hóa bánh ra nhiều; có hai phép lạ chăng? Có thể, nhưng có lẽ đúng hơn chúng ta có ở đây bản trình thuật thứ hai về cùng một biến cố. Trình thuật này hình như bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời, từ cộng đoàn các Kitô hữu gốc Hy lạp. Trình thuật kể lại sự việc như đang xảy ra coi như không liên kết gì với những biến cố dã xảy ra trước vậy.
Dĩ nhiên là có vài dị điểm về những con số giữa hai bản trình thuật: bảy chiếc bánh thay vì năm, mấy con cá nhỏ thay vì năm, bảy giỏ thay vì mười hai, bốn ngàn người thay vì năm ngàn. Chúng ta còn gặp những dị biệt đáng ngại hơn khi đối chiếu với những Phúc âm nhất lãm khác, nếu ta coi những bản văn Phúc âm như những tài liệu “lịch sử” theo đúng nghĩa của thời nay. Các tác giả chép Phúc âm thực ra không mấy bận tâm trong việc kiểm chứng các nguồn tài liệu của mình theo kiểu phê bình lịch sử hiện đại: sự thật của Tin Mừng tiên vàn không phải là những sự kiện được kiểm nghiệm gắt gao theo khoa học, mà chỉ là sự thật về ơn cứu độ để loan báo cho mọi người.
Trong văn chương người ta cũng thường xử dụng kiểu này: một sự kiện cùng được nhiều nhân chứng kể lại, mỗi người từ một quan diểm, một góc cạnh khác nhau; từ đó mới có những bản không giống nhau lạ thường; thế nhưng bản này cũng như những bản kia cũng đều đúng, không ai sẽ có ý tưởng loại bỏ bản này hay bản kia, mỗi bản đều chứa đựng sự thật của mình.
Trong việc rao giảng Tin mừng, đường lối chủ trương của Matthêu không phải là của Maccô, cũng không phải là của Luca, càng không phải là của Gioan, thế nhưng chân lý các ngài rao giảng thì vẫn là một. Cùng phát sóng một chương trình, nhưng phát hình đen trắng khác xa với phát hình mầu, thế mà không một ai dám có ý tưởng khẳng định rằng chương trình này phóng khoáng, chương trình kia đúng. Tượng Đức Kitô do Bourgault điêu khắc không có nét giống với tượng điêu khăc của Rodin, thế mà tượng nào cũng gợi lên trong lòng người nhìn ngắm cùng một niềm tin, cùng một lòng yêu mến. Khi so sánh với nghi lễ Rôma, những cử hành phụng vụ cực kỳ long trọng thuộc nghi lễ Đông phương cho ta cảm tưởng như đến từ một thế giới thật khác lạ, nhưng đằng sau những nét văn hóa khác nhau của đôi bên, người ta mới thấy rõ cả hai cùng chung một niềMt.in, một phép rửa, một Thiên Chúa và đúng là một sự hài hòa tuyệt vời.
Mầu nhiệm Đức Kitô quả đúng là một mầu nhiệm phong phú khôn lường đến nỗi chỉ có một thánh sử mà thôi sẽ không bao giờ diễn đạt được hết, mà chỉ cho ta biết được một mặt nào của mầu nhiệm tuyệt vời đó mà thôi.
Khi kể về ơn gọi của Mẹ Têrêxa Calcutta với người nghèo, người ta không quên được sự kiện làm cho mẹ thay đổi ơn gọi. Từ một giáo viên dạy địa lý và là một nữ tu của Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto, mẹ đã trở thành một nữ tu khiêm tốn, chuyên phục vụ người nghèo khi quyết định rời bỏ dòng cũ để lập nên Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái với hy vọng xoa dịu nỗi khổ cho biết bao con người ngày đêm kêu cứu. Vì thế, mẹ đã trở thành người nổi tiếng về lòng bao dung, nhân hậu.
Nguyên nhân để mẹ trở thành vĩ nhân là vì mẹ đã cảm nghiệm sâu xa lời kêu cầu của Đức Giêsu trên Thánh Giá “Ta khát” qua hình ảnh của một người già nghèo khổ, trong sân ga tàu hỏa khi mẹ lên đường để đi chữa bệnh.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai. Qua phép lạ này, chúng ta thấy nổi bật lên sự quảng đại, lòng nhân hậu, thương xót của Đức Giêsu với đám đông dân chúng.
Thấy một đám đông đang theo mình, Đức Giêsu đã không thể yên vị được khi thấy họ vất vưởng và bụng đói, nên Ngài đã nói với các môn đệ: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn” (Mc 8, 2). Và Đức Giêsu đã làm phép lạ để nuôi dân chúng.
Hình ảnh thật đẹp về một Đức Giêsu: Ngài nhìn đám đông với một ánh mắt đăm chiêu, trìu mến và lộ rõ sự thao thức! Ngài nói với các môn đệ về nỗi thao thức của mình, rồi lường trước được những mối nguy hại khi họ bụng đói ra về! Và cuối cùng Ngài đã hành động để nuôi dân chúng.
Ngày hôm nay, vẫn có nhiều chương trình phúc lợi xã hội, nhưng không biết có phải là những chương trình được khởi đi từ tình thương hay là một dịp thuận tiện để những kẻ chuyên tham nhũng, bóc lột có cơ hội trục lợi cá nhân và đoàn thể khi nhân danh điều thiện???
Thật vậy, nếu mọi việc công ích, không được khởi đi từ lòng nhân hậu và tình thương thì sớm muộn gì nó cũng sẽ bị những ý đố đen tối, xấu xa xen vào và bị biến thái.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mặc lấy tấm lòng từ bi nhân hậu và thương xót của Chúa, để chúng con biết đem Chúa đến với anh chị em chúng con. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, vì Ngài chạnh lòng thương xót họ. Người Kitô hữu cũng có trách nhiệm cộng tác với Chúa Giêsu để nuôi sống nhân loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con dâng lời cảm tạ Chúa đã nuôi con mỗi ngày. Cơm gạo con ăn hàng ngày là ơn Chúa ban. Không những Chúa nuôi con phần xác mà Chúa còn dưỡng nuôi tâm hồn con bằng bánh Lời Chúa và bánh Thánh Thể.
Lạy Chúa, ngày xưa đứng trước đám đông dân chúng mệt lử, vì đói khát, các môn đệ biết rằng phải cứu giúp họ. Thế nhưng các ngài không có khả năng, không đủ phương tiện. Hôm nay, Chúa cũng sai con đến với người khác với hai bàn tay trắng. Con biết mình rất hạn chế khả năng và hạn hẹp lòng quảng đại. Tuy nhiên, với tất cả cố gắng và thiện chí, con đóng góp một mẩu bánh nhỏ. Phần còn lại, con tin Chúa sẽ lo liệu. Con chỉ có một mẩu bánh nhỏ như một lời chia sẻ ủi an, như một việc thiện giúp đỡ người khác, như một đồng bạc chia sẻ cho kẻ túng thiếu, như một lời kinh cầu cho những kẻ đau khổ… Một mẩu bánh ấy, con hiến dâng với cả tấm lòng và con tin Chúa sẽ thực hiện phép lạ làm no thỏa những đói khát của lòng người.
Lạy Chúa, con vui sướng được cộng tác với Chúa nuôi sống nhân loại. Những gì con đang có đều do Chúa thương ban. Con không muốn giữ riêng cho mình, nhưng muốn quảng đại trao tặng người khác. Xin Chúa ban cho con quả tim biết động lòng thương xót trước những thiếu thốn của anh chị em con. Lạy Chúa, của cải lương thực trần gian không thiếu, nhưng chúng con thiếu sự phân phối công bằng và thiếu lòng quảng đại xót thương. Xin Chúa làm cho nhân loại chúng con biết sống quảng đại, biết trao tặng, biết hiến dâng, biết để dành lại cho người khác phần của họ. Amen.
Vào thời Xuất hành khoảng năm 1250 trước Chúa Giêsu giáng sinh. Bấy giờ đoàn người Do Thái vừa ra khỏi đất Ai Cập màu mỡ. Họ theo Môisê vào nơi hoang địa trong hành trình về đất hứa chảy sữa và mật. Ở giữa sa mạc hoang vu, họ thiếu lương ăn nước uống. Họ kêu trách Môisê và ông kêu cầu Thiên Chúa, Ngài ban cho họ một thứ bánh là Manna.
Suy niệm
Dân Chúa hết lòng hết tâm đến nghe Lời, dù giữa cảnh đói khát… Nhìn thấy hoàn cảnh của họ, Chúa Giêsu gọi các môn đệ và bảo: “Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn…”.
Trước những người thiện tâm đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn thương họ… như Tin Mừng có ghi nhận lại: Chúa chạnh lòng thương giơ tay đụng và chữa lành anh cùi xin ngài (x. Mc 1,41) Chúa chạnh lòng thương đoàn dân bơ vơ đến nghe ngài (x. Mc 6,34). Chúa chạnh lòng thương hoàn cảnh của bà góa thành Naim mất con (Lc 7,13) và cho con bà sống lại, Chúa thổn thức lòng trước cái chết của bạn hữu Ladarô với lời than khóc của gia đình bạn hữu (x. Ga 11,33.38) và Ladarô được Chúa cho sống lại…
Chúa thương dân đói khát Ngài làm bánh hóa nhiều từ bảy chiếc bánh và vài con cá nhỏ cho bốn ngàn người ăn. Đây là phép lạ bánh hoá nhiều lần hai. Lần thứ nhất từ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người không kể đàn bà và con trẻ là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại (x. Mt 14,13-21; Mc 6,35-44; Lc 9,12-17; Ga 6,1-13). Riêng hai tác giả Matthêu và Maccô còn ghi nhận thêm phép lạ bánh hóa nhiều lần hai (x. Mt 15,32-38; Mc 8,1-10). Như vậy, chắc chắn sự kiện Chúa làm phép lạ cho dân chúng mang nội dung hết sức quan trọng và Giáo hội luôn xác tín đó là hình ảnh báo trước về Thánh Thể sẽ được dâng hiến cho muôn người.
Trong thánh lễ, Lời Chúa được giảng dạy và Thánh Thể nuôi dưỡng trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Cho nên, người ta không còn ngạc nhiên về vai trò đặc biệt nổi bật mà việc hóa bánh ra nhiều thể hiện trong đời sống của Đức Giêsu cùng với giáo huấn của Ngài.
Những người cất bước tìm nước Thiên Chúa và nghe lời giảng dạy, được Ngài thương, chăm sóc đỡ nâng, chữa lành mọi vết thương, cho đủ thỏa tất cả. Hơn nữa, Ngài trao ban Thánh Thể. Thật thế, chúng ta đến với Ngài, tôi và bạn sẽ cảm nghiệm được tình yêu bao la của Thiên Chúa, một tình yêu khiến chúng ta luôn vững vàng bước đi, đó là tình yêu được Thiên Chúa ban phát.
Xin cho chúng con một lòng khao khát tìm đến bên Chúa, lắng nghe lời giảng, được Ngài chạnh lòng thương và ban phát Thánh Thể hồng ân, như xưa Ngài ra tỏ tình thương qua phép lạ bánh hóa nhiều. Và từ lòng thương nơi Đức Giêsu, toả ban nguồn mạch của tình yêu thương. Chúng ta mở lòng lãnh nhận lòng yêu thương làm nên tính cách tình yêu nơi mỗi người chúng ta: Con tim biết rung động và chạnh lòng thương.
Ý lực sống: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói;
ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
1. Đã ba ngày đám dân chúng đi nghe Chúa giảng mà không có gì ăn, Đức Giêsu động lòng thương xót họ nên bảo các môn đệ lo cho họ ăn, vì sợ họ về mệt lả dọc đường. Các môn đệ thưa ở nơi hẻo lánh này không thể tìm đâu đủ bánh cho họ ăn vì các ông chỉ có bảy chiếc bánh và mấy con cá. Chúa liền bảo dân chúng ngồi xuống, rồi Người cầm lấy bánh và cá của các ông, tạ ơn, rồi trao cho các ông phân phát cho dân chúng ăn. Mọi người đều ăn no nê và còn dư bảy thúng. Số người ăn độ bốn ngàn.
2. Bài Tin Mừng hôm nay nêu bật lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu. Người tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Người không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm đâu ra của ăn. Sở dĩ Đức Giêsu đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Người đã chạnh lòng thương xót họ. Vì thế, mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào ý đồ ích kỷ, vụ lợi.
3. Chúa Giêsu làm phép bánh xong, Người không đích thân phân phát mà trao cho các môn đệ để các ông phân phát. Nghĩa là tuy Chúa có thể ban bánh cho lương dân, nhưng Người muốn chúng ta góp phần mình vào đó. Chính Chúa Giêsu đã bảo các ông hãy dọn ra cho đám dân chứ không nhờ ai khác. Như vậy, Chúa cũng bảo chúng ta phải có liên đới với những người chung quanh (nơi giáo xứ, trường học, nơi làm việc) cả tinh thần lẫn vật chất:
- Về tinh thần: có trách nhiệm về đức tin với cận nhân. Đó không phải là chuyện chỉ dành cho cha xứ, dành cho các giáo lý viên, mà là mọi người con Chúa đều mang trên mình sứ mạng phải truyền bá và làm chứng đời sống đức tin và đạo đức cho anh em.
- Về vật chất: biết chia sẻ cơm áo cho người thiếu thốn hơn mình. Đó không phải chỉ là việc những nhà từ thiện, những tổ chức cứu trợ, mà là trong khả năng chung tay đóng góp của mình.
4. Nhiều nhà chú giải còn gọi phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của tình thương. Vì thế mà phép lạ hóa bánh ra nhiều được coi như là hình ảnh của Bí tích Thánh Thể. Vì yêu thương mà Chúa đã lấy thịt máu mình để nuôi con người. Với lương thực này, Người tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát triển đến mức tối đa.
Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Đức Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Đám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát ngày nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
5. Truyện: Một nồi cháo đá tuyệt vời.
Một người lạ mặt đến gõ cửa nhà một bà góa nghèo để xin ăn. Nhưng bà góa nghèo này biết, trong nhà bà không có gì để ăn cả.
Người lạ mặt nói:
- Không sao, tôi có mang theo một hòn đá. Hòn đá này có thể biến nước lã thành một thứ cháo tuyệt vời. Vậy xin bà cho tôi mượn một cái nồi lớn.
Thấy người là mặt này có vẻ thành thật, bà góa kia đi lấy một cái nồi lớn, bắc lên bếp, rồi đổ nước đầy nồi. Nhóm bếp lên để nấu nồi nước xong, bà chạy qua các nhà hàng xóm báo cho họ biết về hòn đá lạ lùng của người lạ mặt đang ở nhà bà. Thế là người này truyền miệng người kia. Một lát sau, người ta kéo đầy đến nhà bà... đông quá đến nỗi không còn chỗ chứa. Trước những đôi mắt mở to vì tò mò, người lạ mắt lấy ra từ trong bị của ông một hòn đá, rồi trịnh trọng bỏ vào nồi nước lúc này đang sôi. Ông ta lấy chiếc đũa giá lớn, quậy nồi nước lên. Một lát sau, ông lấy một muỗm nhỏ, múc nước ở trong nồi, đưa lên miệng thổi cho nguội đi rồi nếm, vừa nếm ông vừa hít hà nói:
- Thật là tuyệt vời. Nhưng nếu giá có thêm một ít khoai bỏ vào nữa, thì còn tuyệt hơn nhiều
Nghe người lạ mặt nói thế, một người đàn bà có mặt lên tiếng:
- Nhà tôi có khoai.
Nói xong, bà vội chạy về nhà, đem đến một rổ khoai. Người lạ mặt cho những miếng khoai đã được gọt rửa, rồi xắt nhỏ, bỏ vào nồi cháo. Ông ngồi đó để quậy nồi cháo.
Một lát sau, ông lại lấy muỗm múc ra để nếm thử, rồi nói:
- Tuyệt lắm rồi. Nhưng giá có thêm một chút thịt thì ngon hơn nhiều.
Nghe nói thế, một bà có mặt ở đó, nhà làm thịt heo, chạy về nhà lấy ngay mấy miếng xương và mấy miếng thịt heo chưa bán hết đem tới.
Người lạ mắt bỏ những miếng xương và mấy miệng thịt kia vào nồi, rồi lại ngồi đó quậy nồi cháo một hồi lâu.
Trước những con mắt chờ đợi để xem sự lạ, người lạ mặt lại múc cháo nếm thử, rồi nói:
- Bây giờ thì chúng ta có thể thưởng thức nồi cháo này được rồi. Nhưng giá có thêm một ít hành ngò và một chút tiêu nữa thì tuyệt hảo.
Thế rồi người ta đã đem hành, ngò và tiêu đến. Sau khi đã bỏ những thứ này vào nồi cháo, người lạ mặt bảo bà góa chủ nhà:
- Hãy lấy bát múc cho mọi người ăn thử.
Trong khi mọi người đang vui vẻ nếm thử cháo đá, thì người lạ mặt đã lén đi mất. Vậy là nhờ mỗi người đóng góp một tí mà hôm đó mọi người đã có một món cháo ngon lạ lùng.
Trong các quyển Phúc Âm theo Thánh Matthêu và Thánh Maccô, có tới hai phép lạ hóa bánh ra nhiều, một xảy ra ở vùng đất Do Thái, một ở vùng đất lương dân. Phép lạ “lần thứ hai” này xảy ra ở vùng đất lương dân. Có vài chi tiết đáng lưu ý:
- Không nhắc tới những con cá, chỉ nói tới bánh thôi.
- Số lượng bánh ban đầu là 7 cái.
- Số người ăn là 4 ngàn.
- Số bánh dư là 7 giỏ.
Những con số 7 và 4 là những con số tượng trưng cho lương dân: các thành phố Hy Lạp có một hội đồng quản trị gồm 7 thành viên, người ngoại thường nói “4 phương trời”, “tứ hải giai huynh đệ”…
Như thế, ý nghĩa chính của phép lạ này là: Chúa Giêsu không chỉ ban lương thực cho người Do Thái mà còn cho lương dân.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Thấy dân chúng đói khát, Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài không muốn họ nhịn đói mà về, sợ họ bị xỉu dọc đường. Tấm lòng Chúa Giêsu là thế và mãi mãi là thế, ngày xưa là thế mà ngày nay vẫn là thế.
Lạy Chúa, con đang đói khát, con sắp xỉu dọc đường, xin nhìn đến con.
2. Phép lạ này là hình bóng của bí tích Thánh thể. Và như thế, qua phép lạ “lần thứ hai” này, Chúa Giêsu có ý muốn cho lương dân cũng được nuôi dưỡng bằng bí tích Thánh thể của Ngài. Nhưng thực tế là ngày nay, còn biết bao nhiêu người lương chưa được hưởng thứ lương thực tuyệt vời ấy!
Ý thức xã hội đã tăng nên ngày nay các Kitô hữu đã biết lưu ý đến những người nghèo đói vật chất. Nhưng chúng ta có biết xót xa khi thấy những người đói khát tinh thần, những người chưa được ăn bánh của Chúa không?
3. Chúa Giêsu làm phép bánh xong, Ngài không đích thân phân phát mà trao cho các môn đệ để các ông phân phát. Nghĩa là tuy Chúa có thể ban bánh cho lương dân, nhưng Ngài muốn chúng ta góp phần mình vào đó. Mỗi khi chúng ta xin Chúa điều gì thì đừng chờ Chúa làm tất cả mà hãy cùng làm với Chúa theo điều ta đã xin.
4. ”Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông”. (Mc 8,6)
Một lần nọ, khi dừng xe lại ở ngã tư vì đèn đỏ, tôi bất chợt thấy hai đứa trẻ nghèo ngồi bên vệ đường, bẻ đôi chiếc bánh cho nhau và cùng ăn cách ngon lành. Bỗng dưng tôi cảm thấy xúc động. Nhìn lại bản thân, tôi mới nhận ra rằng lâu này mình vẫn sống trong “tháp ngà” và bàng quan với mọi chuyện của “thiên hạ”. Chỉ tích lũy và thu vén cho bản thân hơn là cảm thông và chia xẻ với mọi người.
Tôi thực sự là kẻ nghèo và vẫn nghèo vì bao lâu nay chỉ biết thu vén và tích lũy mà không hề biết cho đi, dù chỉ là một ánh mắt trìu mến, một nụ cười cảm thông hay “bẻ đôi tấm bánh”.
Lạy Chúa, xin cho con thâm tín rằng mình chỉ thực sự hạnh phúc khi học biết “bẻ đôi tấm bánh” hay chia xẻ với mọi người anh em. (Epphata).
Theo Tin Mừng thánh Marcô và thánh Matthêô, thì có tới hai phép lạ hóa bánh ra nhiều, một xảy ra ở vùng đất Do Thái, một xảy ra ở vùng đất lương dân. Phép lạ “lần thứ hai” này xảy ra ở vùng đất lương dân.
1. Thấy dân chúng đói khát, Chúa Giêsu động lòng thương. Chúa thương dân của Người. Đây là một sự thật hết sức cảm động trong Tin Mừng.
Đã ba ngày họ theo Chúa mà quên cả ăn uống, thật là đáng phục; đáng phục vì họ ham nghe Lời Chúa giảng dạy đến quên cả ăn uống như vậy. Đáng phục hơn vì họ biết coi trọng đời sống tinh thần hơn cả đời sống vật chất. Đáng phục hơn nữa vì họ mê theo Chúa mà quên hết mọi sự.
Ngày nay, có nhiều người ở các nước Phương Tây, mỗi năm họ bỏ ra ít nhất một tuần để đến các tu viện xin tĩnh tâm; trong số đó có cả những người khác đạo và thậm chí còn có cả những người không có đạo nữa. Điều đó chứng tỏ cho chúng ta thấy, con người ngày nay đã bắt đầu cảm thấy đời sống tinh thần có một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống của con người.
Ở Việt Nam của chúng ta thì chưa được như vậy. Có nhiều người ngày nay vẫn còn quá coi trọng vật chất mà quên cả Chúa. Thật đáng tiếc hơn là đáng phục.
2. Chúa Giêsu làm phép bánh xong, Ngài không đích thân phân phát mà trao cho các môn đệ để các ông phân phát. Nghĩa là tuy Chúa có thể ban bánh cho lương dân, nhưng Ngài muốn chúng ta góp phần mình vào đó.
Một người lạ mặt đến gõ cửa nhà một bà góa nghèo để xin ăn. Nhưng bà góa này cho biết, trong nhà bà không có gì để ăn cả.
Người lạ mặt nói:
- Không sao, tôi có mang theo một hòn đá. Hòn đá này có thể biến nước lã thành một thứ cháo tuyệt vời. Vậy xin bà hãy cho tôi mượn một cái nồi lớn.
Thấy ngưòi lạ mặt nói có vẻ thành thật, bà góa kia đi lấy một cái nồi lớn, bắc lên bếp, rồi đổ nước đầy nồi. Nhóm bếp lên để nấu nồi nước xong, bà chạy qua các nhà hàng xóm báo cho họ biết về hòn đá lạ lùng của người lạ mặt đang ở nhà bà. Thế là người này truyền miệng người kia. Một lát sau, người ta kéo đầy đến nhà bà… đông quá đến nỗi không còn chỗ chứa. Trước những đôi mắt mở to vì tò mò, người lạ mặt lấy ra từ trong bị của ông một hòn đá, rồi trịnh trọng bỏ vào nồi nước lúc này đang sôi. Ông ta lấy chiếc đũa giá lớn, quậy nồi nước lên. Một lát sau, ông lấy một muỗm nhỏ, múc nước ở trong nồi, đưa lên miệng thổi cho nguội đi rồi nếm, vừa nếm ông vừa hít hà nói:
- Thật là tuyệt vời. Nhưng nếu giá có thêm một ít khoai bỏ vào nữa, thì còn tuyệt hơn nhiều.
Nghe người lạ mặt nói thế, một người đàn bà có mặt lên tiếng:
- Nhà tôi có khoai.
Nói xong, bà vội chạy về nhà, đem đến một rổ khoai. Người lạ mặt cho những miếng khoai đã được gọt rửa, rồi xắt nhỏ, bỏ vào nồi cháo. Ông ngồi đó để quậy nồi cháo.
Một lát sau, ông lại lấy muỗm múc ra để nếm thử, rồi nói:
- Tuyệt lắm rồi. Nhưng giá có thêm một chút thịt thì ngon hơn nhiều.
Nghe nói thế, một bà có mặt ở đó, nhà làm thịt heo, chạy về nhà lấy ngay mấy miếng xương và mấy miếng thịt heo chưa bán hết đem tới.
Người lạ mặt bỏ những miếng xương và mấy miếng thịt kia vào nồi, rồi lại ngồi đó quậy nồi cháo một hồi lâu.
Trước những con mắt chờ đợi để xem sự lạ, người lạ mặt lại múc cháo nếm thử, rồi nói:
- Bây giờ thì chúng ta có thể thưởng thức nồi cháo này được rồi. Nhưng giá có thêm một ít hành ngò và một chút tiêu nữa thì tuyệt hảo.
Thế rồi người ta cũng đã đem hành, ngò và tiêu đến.. Sau khi đã bỏ những thứ này vào nồi cháo, người lạ mặt bảo bà góa chủ nhà:
- Hãy lấy bát múc cho mọi người ăn thử.
Trong khi mọi người đang vui vẻ nếm thử cháo đá, thì người lạ mặt đã lẻn đi mất. Vậy là nhờ mỗi người góp một tí mà hôm đó mọi người đã có một món cháo ngon lạ lùng.
Với quyền phép của Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể từ không làm ra bánh và cá để cho dân chúng ăn. Thế nhưng, Ngài đã không muốn làm như thế, mà Ngài đã dùng mấy chiếc bánh và mấy con cá có sẵn của con người.
Nhiều nhà chú giải còn gọi phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ của tình thương. Vì thế mà phép lạ bánh hóa nhiều được coi như là hình ảnh của Bí tích Thánh Thể là Bí Tích Tình yêu. Vì yêu thương mà Chúa đã lấy thịt máu mình để nuôi con người.
Xin Chúa cho chúng ta biết quảng đại chia sẻ với những anh chị em chúng ta để qua đó chúng ta được xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
Niềm vui biết chia sẻ là niềm vui được nhân gấp đôi và của cải được chia sẻ là của cải còn mãi.
Đã ba ngày rồi, đám đông dân chúng ở với Chúa để nghe Chúa giảng dạy. Họ đói. Chúa biết điều đó và Ngài không muốn để họ ra về với trái tim căng tràn sức sống bên cạnh chiếc bao tử rỗng không. Chúa muốn dân được bồi bổ cả phần xác, sau khi đã được nuôi dưỡng về tâm linh. Chúa muốn dân ăn no trước khi giải tán họ. Nhưng Chúa không một mình cho họ ăn. Chúa cần sự cộng tác từ các môn đệ và chính dân chúng. Chúa chờ đợi nỗ lực của các môn đệ. Chúa đón nhận bảy chiếc bánh họ tìm được.
Chúa và người hợp lực, phép lạ được xảy ra. Chúa cùng người hoạt động, thành công và hữu hiệu. Không chỉ con người cần đến Chúa. Chúa cũng muốn con người biết rằng Ngài cần đến họ. Ngài cần họ mở lòng để Lời hằng sống có thể đi vào và biến đổi cuộc đời họ. Chúa cần họ đóng góp thời gian, tiền bạc, khả năng… Chúa đã ban để cộng tác vào kế hoạch yêu thương của Ngài. Ngày nay và mãi về sau, Chúa cũng cần những đôi chân, bàn tay, ánh mắt, khối học và con tim của nhiều người để Lời có thể được vang xa và thấm sâu nơi từng trái tim nhân loại.
Chúa cũng đang cần tôi cộng tác với Ngài. Rất có thể Chúa đang hỏi tôi: Con có mấy cái áo để chia sẻ cho người không có? Con có bao nhiêu thời gian để lắng nghe tâm tư của một người đau khổ? Con có đủ sức để giúp một bà lão qua đường? Con có sẵn lòng đem Tin Mừng cho những người nghèo khổ? Con có bao nhiêu thời gian cho việc phục vụ gia đình, giáo xứ hoặc cộng đoàn con?
Lạy Chúa Giêsu, con vui vì Chúa vẫn cần đến con dù con là kẻ tội lỗi và bất xứng. Con cám ơn Chúa đã quảng đại và kiên nhẫn chờ đợi phần đóng góp của con trong việc của Chúa. Xin ban ơn giúp sức và uốn nắn con mỗi ngày, để con luôn sẵn lòng đóng góp thời gian, sức khỏe, của cải, tài năng cho kế hoạch của Chúa. Amen.