Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người, cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna. Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: “Thưa Bà, này là Con Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”. Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.
Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, các Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến các phụ nữ Galilê. Họ chỉ đứng nhìn Thầy từ xa (Mt 27,55; Mc 15,40; Lc 23,49). Còn Tin Mừng Gioan lại mô tả nhóm phụ nữ đứng gần thập giá. Người phụ nữ đầu tiên được kể tên là thân mẫu Đức Giêsu. Mẹ đã theo Con đến tận núi Sọ, dám chứng kiến và cảm nghiệm mọi nỗi đau của Con. Mẹ can đảm nhận mình là mẹ của người tử tội, đang ở trong giây phút cuối đời, đang đối diện với cái chết. Người gần chết thường hay trối trăng một điều quan trọng, một điều cần phải làm sau khi họ nhắm mắt. Đức Giêsu trên thập giá cũng muốn để lại một lời trối. Từ trên cao, Ngài nhìn thấy thân mẫu của mình và người môn đệ mình yêu dấu đứng kề bên, Ngài muốn tạo một tương quan thân thiết giữa họ. Ngài nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” (Ga 19,26-27). Hai người không ruột thịt máu mủ, bây giờ thành mẹ con. Có người nghĩ chuyện Đức Giêsu làm ở đây cũng thường thôi. Vì biết mình sắp chết, nên Ngài giao phó Mẹ cho môn đệ, để anh này thay mình chăm sóc Mẹ cho tròn chữ hiếu. Thật ra lời trăng trối của Đức Giêsu mang tầm vóc lớn hơn nhiều. Chúng ta không rõ khi Ngài lên đường đi sứ vụ, ai đã lo cho Mẹ. Ngài để lại Mẹ ở nhà, và Ngài đòi các môn đệ cũng làm như thế. Không rõ lúc cuối đời, Ngài có thấy cần người chăm sóc Mẹ không? Dù sao trước khi Ngài nói với anh môn đệ: “Đây là mẹ của anh” thì Ngài đã giới thiệu anh với Mẹ: “Đây là con của bà.” Ngài xin Mẹ nhận anh này làm con và chăm sóc anh. Sau đó Ngài mới giới thiệu Mẹ với anh: “Đây là Mẹ của anh.” Người môn đệ đã nhận bà làm mẹ, và đã đón bà về nhà mình. Đức Giêsu đã làm xong chuyện cuối cùng mà Ngài phải làm, đó là tạo lập một tương quan mẫu tử giữa Mẹ và anh môn đệ. Với sự bình an thanh thản của người đã hoàn thành sứ mạng, Ngài nói: “Thế là đã hoàn tất !” (Ga 19,28.30). Có người nghĩ rằng Thầy Giêsu trên thập giá chỉ muốn nối kết Mẹ Ngài và người môn đệ Ngài mến thương. Đó là chuyện thuần túy riêng tư giữa hai người. Anh môn đệ này không đại diện cho các kitô hữu, nên cũng chẳng có tương quan nào giữa Mẹ Maria và chúng ta. Truyền thống Công giáo nghĩ không nghĩ như thế, nhưng coi cử chỉ trăng trối cuối cùng này của Đức Giêsu đã kết nên mối dây giữa Mẹ Ngài với mọi kitô hữu. Đức Giêsu đã chia sẻ tương quan làm con của Mẹ cho chúng ta. để chúng ta cũng có thể coi Mẹ Maria là Mẹ của mình. Đây là món quà quý giá Ngài ban cho ta lúc gần kề cái chết. Chẳng thấy Mẹ hay anh môn đệ nói gì sau lời của Đức Giêsu, nhưng chúng ta biết cả hai đã sống tương quan mới sau đó. Đức Maria đã trở nên mẹ của từng kitô hữu. Mẹ đã là môn đệ trung tín theo Con mình đến tận thập giá. Người môn đệ Chúa yêu đứng gần cũng theo Thầy đến cùng. Cả hai làm nên một gia đình thiêng liêng. Khi vào một nhà thờ Công giáo, chúng ta thấy lòng ấm lại, vì có sự hiện diện cảm thông của một Người Mẹ, Người đã ở với Đức Giêsu hơn ba mươi năm, đã sinh dưỡng, dạy dỗ, chở che, và làm cho Ngài lớn lên. Đức Maria là thành viên và là Mẹ của Hội Thánh, là người đứng dưới chân thập giá với nhóm phụ nữ ở Galilê, nhưng cũng là người có phúc hơn mọi phụ nữ, là người cầu nguyện với các môn đệ chờ Thánh Thần đến, nhưng cũng là người được Thánh Thần ngự từ lúc truyền tin. Chúng ta mong Chúa Giêsu cứ nói với Mẹ: “Đây là các con của Bà.” Và nói với chúng ta: “Đây là Mẹ của anh chị em.” Và chúng ta cũng mong Mẹ nhắc nhở chúng ta nhiều lần: “Hãy làm những gì Người bảo!”
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria, Chúng con tạ ơn Chúa Giêsu đã ban cho chúng con một người mẹ như quà tặng vô giá lúc Người sắp lìa đời. Mẹ được chọn làm thân mẫu của Chúa và được ban đầy ân sủng siêu phàm, khiến muôn thế hệ phải ngợi khen chúc tụng. Nhưng Mẹ cũng là tỳ nữ mọn hèn luôn mau mắn thi hành ý định của Thiên Chúa, dù Mẹ chẳng hiểu hết được mầu nhiệm cao sâu. Chúng con tưởng Mẹ sẽ đi trên con đường đầy hoa, nhưng thật ra Mẹ đã đi con đường của Chúa, con đường gập ghềnh và trắc trở, với lưỡi gươm sắc đâm thấu tâm hồn. Trong đời Mẹ có bao tiếng xin vâng trên môi, từ tiếng xin vâng đầu tiên đến tiếng xin vâng trên núi Sọ. Những tiếng xin vâng này hợp với tiếng xin vâng của Con Mẹ để Người đem ơn cứu độ cho chúng con.
Lạy Mẹ Maria,
là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng con. Mẹ đã sống trọn phận người như chúng con, và đã chiến thắng sau khi kết thúc cuộc đời trần thế. Mẹ hiểu chúng con cần lời cầu bàu của Mẹ biết bao đang khi phải chiến đấu giữa trần gian đầy sóng gió. Ước gì chúng con cũng có phúc vì đã tin như Mẹ, có phúc vì đã làm cho Con của Mẹ được sinh ra, và được lớn lên trong thế giới hôm nay. Amen. ---------------------------------
--Ngọc Yến, Vatican news “Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19, 25-27).
Chính đoạn Tin Mừng này chỉ cho thấy tước hiệu Đức Maria, Mẹ Hội Thánh. Ở đây, Chúa Giêsu ủy thác thánh Gioan cho Đức Mẹ như người con được tái sinh vào đời sống thiêng liêng mà chỉ có Mẹ mới làm được. Như thế đây không phải đơn giản là lòng sùng kính Mẹ, cầu nguyện với Đức Trinh Nữ với tước hiệu này, nhưng là tuân theo ý muốn của Chúa Giêsu, vì điều này được truyền lại cho chúng ta từ Kinh thánh: Chúa Giêsu, với những lời tuyên bố ngay lúc cận kề cái chết, xin Đức Maria chăm sóc mỗi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đòi hỏi mỗi người phải cảm thấy được ở trong mối tương quan tình con thảo với Mẹ.
Đức Maria trung tâm giáo lý về ơn Cứu độ
Lòng sùng kính đối với Đức Maria - giống như tôn kính Thánh giá và Bí tích Thánh Thể - luôn luôn là một trụ cột cơ bản của đức tin, nhưng với lễ nhớ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được thiết lập vào năm 2108, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn làm nhiều hơn nữa. Trước hết, ĐTC muốn làm thế nào để lòng sùng kính này có thể là điều tốt cho Giáo hội và có thể làm gia tăng ý nghĩa vai trò làm Mẹ trong Hội Thánh của Đức Maria, nhưng trên tất cả là đặt Đức Maria ở trung tâm giáo lý về ơn cứu độ. Thực tế, trong mối tương quan với Chúa Kitô, lòng đạo đức đối với Đức Maria xuất phát trực tiếp từ đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Bởi vì Chúa muốn Mẹ, một người phụ nữ, là Mẹ của Con Thiên Chúa, qua mẹ, con người có thể đạt tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Vai trò làm mẹ của Đức Maria bắt đầu bằng việc Truyền tin: Với lời xin vâng, Đức Mẹ ưng thuận để Chúa đi vào lịch sử. Và vì thánh ý Thiên Chúa, việc làm mẹ của Đức Maria không kết thúc dưới chân Thánh giá, mà trở nên vĩnh cửu. Hơn nữa, trong ngày Lễ Ngũ Tuần Mẹ còn hiện diện cùng với các tông đồ - các tín hữu đầu tiên chờ đợi Chúa Thánh Thần: đây là mối liên kết giữa việc kính nhớ Mẹ Hội Thánh với Lễ Chúa Thánh Thần mà Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn nhấn mạnh.
Lòng sùng kính Đức Trinh Nữ trong giáo huấn của các Giáo hoàng
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Hội Thánh có nguồn gốc xa xưa và đã hiện diện trong Giáo Hội thời của Thánh Augustinô và Thánh Leo Cả. Trong nhiều thế kỷ, lòng sùng kính Đức Mẹ với nhiều tước hiệu, nhưng với tước hiệu Mẹ Hội Thánh xuất hiện trong một số văn bản của các tác giả thiêng liêng và trong giáo huấn của ĐTC Benedict XIV và Leo XIII. Tuy nhiên, phải đợi đến ĐTC Phaolô VI mới có bước ngoặt; đó là ngày 21 tháng 11 năm 1964, khi kết thúc phiên thứ ba của Công đồng Vatican II, Đức Giáo hoàng tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria “Mẹ Hội Thánh”, nghĩa là của mọi Kitô hữu". Với quyết định này, ĐTC Phaolô VI lấy nội dung chủ yếu trong Tín điều của Công đồng Nicea năm 325 và trên hết là các quyết định của các giáo phụ Công đồng Êphêsô (430), xác định Đức Maria là "Mẹ Thiên Chúa". Trong Năm Thánh (1975), có Thánh lễ tạ ơn sùng kính Đức Maria, Mẹ Hội Thánh, sau đó lễ này được đưa vào Sách lễ Rôma, nhưng chưa phải là lễ nhớ bắt buộc trong lịch phụng vụ. Tuy nhiên, ở một số quốc gia - ví dụ Ba Lan và Argentina - và trong một số hội dòng, lễ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được đưa vào lịch riêng. Vào năm 1980 ĐTC Gioan Phaolô II đưa lòng sùng kính Đức Maria, Mẹ Hội Thánh vào trong kinh nguyện. Và đến ngày 11 tháng 02 năm 2018, kỷ niệm 160 năm lần đầu tiên Đức Trinh Nữ hiện ra tại Lộ Đức. Nhân dịp này, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ấn định lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội, được ghi vào Lịch Rôma và được cử hành hàng năm, vào thứ hai sau Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Với Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Đức Mẹ Lộ Đức truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh. Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Hội Thánh cử hành với niềm vui khôn tả, khởi đi từ: “Khi đón nhận Lời Chúa với tâm hồn trong trắng, Mẹ đã cưu mang Ngôi Lời trong cung lòng khiết trinh, và khi hạ sinh Đấng thiết lập Hội Thánh, Mẹ đã cộng tác trong việc khai sinh Hội Thánh. Khi đứng bên thập giá, Mẹ đón nhận lời trối đầy yêu thương của Con Chúa, và đã nhận tất cả mọi người làm con, những người được tái sinh vào đời sống siêu nhiên nhờ cái chết của Đức Kitô” (Kinh Tiền tụng: Đức Maria là khuôn mẫu và là Mẹ của Hội Thánh).
Trong ngày này Hội Thánh dâng lời ngợi khen tung hô Chúa, đồng thời tôn vinh Mẹ là Ðấng Tuyệt Ðẹp “Tota Pulchra”, vì Mẹ đã được Thiên Chúa Cha yêu thương và tuyển chọn làm Mẹ Chúa Con. Mẹ được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của tình thương Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết, khi đạp nát đầu con rắn đã cám dỗ Adong và Evà phạm tội.
Thiên Chúa là Cha nhân từ
Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có ? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?
Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?” Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).
Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Ðiều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Ðấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Ðó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).
Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).
Ðoạn sách Sáng Thế trên được gọi là "Tiền Tin Mừng" vì đó là lời loan báo đầu tiên về Ðấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).
Mẹ Hội Thánh
Đức Maria đã được Thiên Chúa tiền định từ muôn thủa trong yêu thương và chọn Mẹ làm Đấng cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và đồng hành cùng Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình cứu chuộc loài người, Mẹ đã cộng tác trong việc khai sinh Hội Thánh. Trong tình thương, Ngài đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Ngài, qua Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1 4-5). Do đó, Đức Maria là Mẹ chúng ta.
Thật hiển nhiên: “Lúc bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu nói với môn đệ Người yêu: Này là Mẹ con” (Ga 19, 26-27). Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Đức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu” (Sắc Lệnh về việc cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh). Vì thế, Mẹ là Mẹ Hội Thánh.
Hội Thánh cùng với Mẹ tiến bước
Trong diễn từ của Đức Giáo hoàng Phaolô VI ngày bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II – 21.11.1964 viết: “Thiên chức Thánh Mẫu đã làm cho Mẹ có những mối liên hệ đặc biệt với Chúa Kitô và hiện diện trong công trình cứu rỗi nhân loại do Chúa Giêsu Kitô thực hiện, cũng chính thiên chức đó tạo nên mối tương quan giữa Đức Maria và Hội Thánh; vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Kitô, Đấng đã nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng khiết trinh của Mẹ, Đấng là Đầu của Nhiệm thể là Hội Thánh. Vì thế Đức Maria, Mẹ của Chúa Kitô, cũng là Mẹ của tất cả các tín hữu và mục tử, nghĩa là của Hội Thánh”.
Vì là Mẹ của Hội Thánh, nên suốt cuộc đời Mẹ luôn là máng thông ơn Thiên Chúa xuống cho Hội Thánh. Để sống tốt hành trình dương thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, cầu xin Mẹ, để có thể khám phá ra niềm vui về sự dịu dàng của Thiên Chúa. Không ai đã bước vào mầu nhiệm sâu xa của việc nhập thể như Mẹ Maria. Toàn bộ cuộc sống Mẹ được hun đúc theo Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ minh chứng rằng tình yêu của Con Mẹ là vô cùng vô tận và mở rộng cho tất cả mọi người, không một ngoại lệ nào. Chúng ta hãy tiếp bước theo Mẹ.
Lạy Đức Mẹ Hội Thánh, xin cầu cho chúng con. Amen.
Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh với niềm vui khôn tả.
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan khi muốn thực hiện công việc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, “đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4,4), và Người Con đó “đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria” (Kinh Tin Kính).
Đức Mẹ Chúa Kitô
Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa không?Chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Chúa Kitô?
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria được gọi là Mẹ Chúa Kitô.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ”. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.
Đức Mẹ Hội Thánh
Hiến chế tín lý Lumen Gentium, số 53 của Công Đồng Vatican ô II viết: Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Giêsu, đã dâng Con lên Chúa Cha trong đền thánh, và cũng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng. Ngài thật là Mẹ chúng ta” (LG 61).
“Thật vậy, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a… được nhận biết và tôn kính với tư cách là Mẹ thật của Thiên Chúa là Đấng Cứu Chuộc… Mẹ cũng ‘thật là Mẹ các chi thể của Đức Ki-tô’… bởi vì đã cộng tác bằng đức mến để các tín hữu được sinh ra trong Hội Thánh, được làm chi thể của Đức Kitô là Đầu của Hội Thánh.” 525 “Đức Ma-ri-a,… Mẹ Đức Ki-tô, cũng là Mẹ… Hội Thánh” (x.GLHTCG số 963).
Công việc cứu chuộc vẫn tiếp tục trong Hội Thánh, là thân thể Chúa Kitô. Trong thân thể này, Ðức Maria có mặt như một chi thể trổi vượt, liên kết mật thiết với Ðầu, và hằng yêu thương, bảo vệ hướng dẫn các chi thể khác là các tín hữu, với lòng của người Mẹ hiền.
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống Giáo Hội lễ kính Mẹ
Việc sùng kính Mẹ vào thứ Hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc nhớ chúng ta rằng, sau khi Ðức Giêsu lên trời, Ðức Maria đã ở giữa các Tông đồ, như người Mẹ “giữa một đàn em đông đúc” của Ðức Giêsu (Rm 8,29), Con của Mẹ. Đức Mẹ cùng cầu nguyện với Hội Thánh sơ khai: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Ðức Giêsu, và với anh em của Ðức Giêsu” (Cv 1,14). Hơn nữa: “Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Người trong ngày Truyền Tin” (LG 59), và “ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2-4) trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sau cuộc đời trần thế, Ðức Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác để hưởng vinh quang thiên quốc. Mẹ là người đầu tiên được tham dự vào cuộc Phục Sinh của Con Mẹ, và như vậy Mẹ là dấu chỉ báo trước và bảo đảm cho các Kitô hữu được sống lại với Chúa Kitô. Mẹ ở trên trên vẫn tiếp tục thiên chức làm mẹ bằng việc chuyển cầu cho tới khi Hội Thánh đạt tới quê trời (LG 62).
Hội Thánh luôn dành cho Ðức Maria lòng yêu mến và tôn kính rất đặc biệt, vượt trên các thiên thần và các thánh. Mẹ là mẫu mực của Hội Thánh trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô” (GH 63). Là hình ảnh của Hội Thánh tại thế “Hội Thánh vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng” (GH 8) hướng nhìn lên Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, một phần tử ưu tú của mình, đã chiến thắng tội lỗi, nhờ hồng ân Chúa Kitô. Vì thế, Hội Thánh luôn luôn kiên trì và tin tưởng trong hành trình đức tin trên trần gian. “Ngày nay, trên trời Mẹ Ðức Giêsu đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr. 3,10).
Lạy Mẹ Hội Thánh, trong hoàn cảnh bi đát hiện nay, đầy đau khổ và lo lắng đang bao trùm cả thế giới vì đại dịch, chúng con cầu xin Mẹ, chúng con tìm nương ẩn dưới sự che chở của Mẹ. Xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan khốn khó, xin giải thoát chúng con khỏi mọi hiểm nguy.
Sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, mừng long trọng vào Chúa nhật sau lễ Thăng Thiên, Giáo Hội mừng lễ Mẹ Hội Thánh. Việc phụng vụ Hội Thánh mừng lễ này liền kề với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cho thấy Hội Thánh nhận thức được vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội.
Từ sau Công đồng Vatican II, hạn từ Mẹ Hội Thánh được sử dụng rộng rãi, không chỉ vì đây là gợi ý của Đức Phaolô VI, mà còn là một kinh nghiệm đức tin được soi dẫn qua dòng lịch sử Hội Thánh. Điều này cũng mặc nhiên nói cho các tín hữu về một viễn kiến đầy hy vọng mà sách Khải huyền đã nêu lên, trong một cuộc chiến không khoan nhượng giữa con rồng và người nữ. Người nữ ấy chính là hình ảnh Đức Maria, tượng trưng cho Hội Thánh.
Cơ sở cho kinh nghiệm đức tin này là đoạn Thánh Kinh mà chúng ta đọc và hôm nay. Hội Thánh đã được Chúa Giêsu thiết lập. Đã được khai sinh từ cạnh sườn bị đâm thủng, từ đó máu và nước chảy ra. Nhiều nhà thần học đã cho đây là hình ảnh tượng trưng cho giây phút Hội Thánh được sinh ra giống như trẻ sơ sinh được sinh ra từ cung lòng người mẹ. Máu và nước tượng trưng cho sự sống. Đó cũng là hình ảnh mang tính Thánh Thể của mầu nhiệm Hội Thánh, mà từ Thánh Thể, Hội Thánh được nuôi sống do chính Mình và Máu Chúa. Hội Thánh lại tiếp tục mọi ngày làm cho hình ảnh của hy tế Chúa Kitô được sống động qua việc hiện tại hóa mầu nhiệm yêu thương này trong mỗi thánh lễ cử hành.
Thế nên, một Hội Thánh non trẻ được Chúa Giêsu sinh ra và cưu mang, rồi trong giây phút Người chết trên thập giá đến việc trao phó thánh Gioan làm con Đức Mẹ, gợi lên cho chúng ta đầy hình ảnh mang tính biểu trưng về Hội Thánh. “Này là con Bà” và “Đây là mẹ con”, hai câu nói này hàm chứa một nội hàm sâu xa. Rằng Hội Thánh thực sự là con của Mẹ Maria. Chúa Giêsu chuyển giao Hội Thánh non trẻ và nhỏ bé ấy cho Đức Mẹ trông nom. Và “Đây là mẹ con”, đây thực sự là lời căn dặn, Hội Thánh chính là mẹ của chúng ta, Hội Thánh đó bao hàm tất cả mọi người chúng ta, những kẻ tin và cử hành mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô Con Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và Mẹ của mỗi chúng con. Xin ban ơn nâng đỡ Hội Thánh Chúa trong mọi cơn nguy khó, và cũng xin nâng đỡ đức tin cho mỗi người chúng con. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay xác nhận vai trò làm mẹ trong bình diện cứu độ của ân sủng đạt tới đỉnh cao, đó là lúc hy tế thập giá của Đức Kitô, cũng là mầu nhiệm vượt qua của Người, được hoàn tất.
Đọc kỹ đoạn tường thuật, thoạt đầu chỉ thấy đó là một sự lo lắng của Đức Giêsu dành cho mẹ mình, người mẹ mà Người để lại trong một nỗi đau khổ tận cùng. Thế nhưng, ý nghĩa bản tường thuật này có thể đi xa hơn vì hai lý do:
Thứ nhất “môn đệ thương mến” ở đây còn là một ẩn số, không chắc chắn là Gioan, theo các nhà Thánh Mẫu Học thì có thể là một biểu trưng (symbol): người được Chúa Giêsu yêu là nghe và tuân giữ Lời (x. Ga 14,21). Mặt khác, nếu trên thập giá, Đức Giêsu chỉ coi Gioan là một cá nhân, thì Đức Giêsu không phải lo, vì Gioan vẫn còn đầy đủ cha mẹ là ông bà Dê-bê-đê. Chính vì vậy, có thể hiểu hình ảnh “người môn đệ được Chúa yêu” là đại diện cho loài người nhận Đức Maria làm mẹ.
Thứ hai, trong thứ tự của lời trối, rõ ràng mang ý nghĩa Đức Giêsu chính thức đặt Đức Maria làm mẹ nhân loại hơn là một sự nhờ cậy “người môn đệ thương mến” nhận chăm sóc Đức Maria. Đức Giêsu nói với Đức Maria trước rồi nói với môn đệ sau. Theo lẽ thường nếu muốn gởi gắm Đức Maria cho “môn đệ thương mến” thì Đức Giêsu phải nói với “môn đệ thương mến” trước xem môn đệ có đồng ý không. Như vậy, nghĩa là Đức Giêsu trao cho Đức Maria một sứ mệnh là làm mẹ “môn đệ thương mến” đại diện cho các tín hữu, nghĩa là Đức Maria sẽ là Mẹ của chúng ta.
“Vai trò làm mẹ thật mới mẻ này” của Đức Maria, được thiết lập trong đức tin, là hoa trái của tình yêu “mới mẻ”, một tình yêu thấm sâu vào Mẹ dưới chân thập giá, qua việc Mẹ chia sẻ vào tình yêu cứu độ của Đức Kitô.
1. Giờ hiến tế: đặc trưng của sự hy sinh.
Việc Đức Giêsu ngỏ lời với Đức Maria dưới chân thập giá, đặt trong một hoàn cảnh hết sức rất long trọng được lồng trong cái chết của Đức Giêsu vào giờ Người được tôn vinh. Hôm nay, giờ Đức Giêsu đã đến, đó là “giờ” Người được tôn vinh vì Người đã vâng ý Cha mà chịu hiến tế hy sinh. Đức Maria được liên kết với giờ hiến tế này và trái tim Mẹ cũng chịu hiến tế như lời tiên báo của Simêon là “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Mẹ” (x. Lc 2,35). Điều này cũng cho thấy Đức Maria là “thiếu nữ Sion” nên cuộc đời của Mẹ sẽ mang dấu ấn của số phận dân Người. Vì là Mẹ Đấng Messia, Đức Maria nằm trong cuộc chiến, chia sẻ mọi đau khổ với con mình. “Lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” gợi lên lưỡi gươm trong sách ngôn sứ Ezechiel 14,17, cắt đứt Israel, chỉ còn để lại một “số sót”. Lưỡi gươm nói lên sự đau khổ nội tâm của người mẹ, đau khổ ở đây là đau khổ của người mẹ nhìn người ta ruồng bỏ con mình. Lưỡi gươm trong Ezechiel vừa cắt đứt Israel vừa sinh ra số sót; ngay dưới chân thập giá, Đức Maria là “Mater dolorosa” đau xót vì sự phủ nhận của nhân loại đối với Đức Giêsu, nhìn Con chết tức tưởi, sự cắt đứt này cũng làm cho Mẹ buốt xót, sinh ra “số sót” cho nhân loại, đó là những kẻ tin vào Đức Kitô. Lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ để Mẹ luôn chia sẻ khổ đau với Con, vừa đứng về phía những kẻ tin vào Đức Giêsu, ôm lấy tất cả vì Đức Giêsu đã gửi gắm tất cả cho Mẹ: “Này là Con của Mẹ”. Giờ phút hiến tế dưới chân thập giá là đỉnh điểm của lời “xin vâng”, và cả cuộc đời xin vâng của Đức Maria hướng về giờ phút hy sinh này. Cùng với Chúa Giêsu, Đức Maria đã chịu sát tế tâm hồn và làm cho lời “xin vâng” viên mãn khi Đức Giêsu kêu lên: “mọi sự đã hoàn tất”.
2. Đặc trưng hiện diện và hiệp thông cứu chuộc.
Đức Maria rõ ràng đã đóng vai trò trổi vượt trên bất cứ phàm nhân nào trong sự hiệp thông với Đức Giêsu cứu chuộc. “Hiệp thông cứu chuộc” không phải “tự thân cứu chuộc” mà là cộng tác hoặc tháp nhập vào sự cứu chuộc đó. Chỉ có một mình Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc duy nhất, nhưng khi sinh hạ Hội Thánh trên thập giá, Đức Giêsu không chỉ có một mình, mà Người còn có Đức Maria đứng dưới chân thập giá, để cùng chia sẻ sự đau khổ và giúp Người chấp nhận hiến dâng. Và sau hết là “hiệp thông cứu chuộc” vì Đức Maria đã tham gia vào công trình sinh hạ Hội Thánh.
Thánh Alberto Cả viết: “Đức Maria đã tham dự vào cuộc khổ nạn để cứu nhân loại. Khi mà những Tông Đồ và môn đệ bỏ trốn, thì Người ở lại đứng dưới chân thập giá và chịu trong lòng những vết thương Chúa Giêsu phải chịu ngoài thân; chẳng phải lúc đó lưỡi gươm đã đâm thấu qua tâm hồn Mẹ sao?”
Chính sự liên kết những đau khổ và ý chí Mẹ với những đau khổ và ý chí của Đức Giêsu, và cũng chính nhờ sự từ bỏ những quyền lợi của một người mẹ mà Đức Maria đã cùng với Đức Giêsu cứu chuộc nhân loại: Sự liên kết những đau khổ của Đức Maria với những đau khổ của Đức Giêsu đã làm cho người nên Mẹ đau thương cũng như Đức Giêsu đau khổ. Có thể nói, Đức Giêsu phải chịu những đau khổ nào trong thân xác và linh hồn thì Đức Maria cũng phải chịu những đau đớn ấy trong lòng người. Và cũng như Đức Giêsu đã muốn gánh chịu những đau khổ thể xác và tinh thần tới tột độ khả năng chịu đựng của Người, thì cũng như Người, Mẹ Người cũng phải chịu trong lòng tất cả những đau khổ mà trái tim vô nhiễm người có thể chịu được. Mặt khác, ý chí của Đức Maria vốn kết hiệp với ý chí của Con, tức là ý chí của người luôn kết hiệp với ý chí Thiên Chúa. Đức Giêsu nhập thể là để hồi phục vinh quang Thiên Chúa và cứu chuộc thế gian bằng cuộc khổ nạn – chết – phục sinh của Người. Và Đức Maria cũng muốn cho vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi của nhân loại nhờ cùng cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Đó là một sự tuân phục tuyệt đối… Ngoài ra, khi dâng hiến người Con thì cũng đồng nghĩa với việc “từ bỏ” quyền lợi của một người mẹ của người, vì con là lẽ sống của mẹ, lấy mạng sống của con thì chẳng khác nào huỷ lẽ sống của mẹ. Đó là sự dâng hiến cao cả trong việc hiệp thông cứu độ.
Sau cùng, trên thập giá, lúc Đức Giêsu tưởng chừng như đã bị bỏ rơi hoàn toàn, thậm chí Chúa Cha dường như vắng bóng, thì còn đó Mẹ Người đứng dưới chân thập giá như là một động lực cuối cùng nâng đỡ Người – Thiên Chúa Cha giờ này đang ở trong sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Thần vẫn phủ bóng trên Đức Maria để trợ lực Người trong giờ hiến tế…
Lạy Mẹ Maria là Mẹ chúng con, xin cho chúng con biết “xin vâng” như Mẹ trong mọi biến cố của cuộc đời, để cộng tác với Chúa trong việc sinh thêm nhiều con cái cho Giáo hội bằng đời sống chứng nhân truyền giáo của mình. Amen.
ĐTC Phanxicô đã quyết định thiết lập lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.
Trong sắc lệnh công bố hôm 3-3-2018, DHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích cho biết ĐTC đưa ra quyết định trên đây xét vì việc thăng tiến lòng sùng kính này có thể giúp gia tăng cảm thức của các vị mục tử, các tu sĩ và tín hữu về Mẹ Giáo Hội, cũng như lòng kính mến chân thành đối với Đức Mẹ.
Chính Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, ngày 21-11 năm 1964, khi bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là ”Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể dân Kitô giáo, các tín hữu cũng như các vị Chủ Chăn, họ gọi Đức Maria là Mẹ rất quí mến” và Ngài thiết định rằng ”toàn thể dân Kitô giáo ngày càng gia tăng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa dưới danh hiệu rất dịu dàng này”.
Sắc lệnh của Bộ Phụng tự khẳng định: Lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, do ĐGH Phanxicô ấn định, ”sẽ giúp chúng ta nhớ rằng đời sống Kitô, để tăng trưởng, cần phải ăn rễ sâu nơi mầu nhiệm Thánh Giá, nơi hy tế của Chúa Kitô trong Tiệc Thánh Thể, nơi Đức Trinh Nữ hiến dâng, Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Mẹ của những người được cứu chuộc”.
Vì thế, lễ này cần được ghi trong tất cả các lịch và sách phụng vụ để cử hành thánh lễ và phụng vụ các giờ kinh. Các văn bản phụng vụ liên hệ được đính kèm, sắc lệnh này và các bản dịch, được các HĐGM chấp thuận, sẽ được công bố sau khi Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích phê chuẩn. Tại những nơi nào lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Giáo Hội đã được cử hành theo luật riêng được phê chuẩn, vào một ngày khác, với bậc phụng vụ cao hơn, thì trong tương lai vẫn được cử hành theo cùng thể thức ấy”.
Theo quyết định trên đây, thứ hai 21-5-2018 sẽ là lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. (Rei 3-3-2018)
(Michael R. Heinlein //Văn Việt chuyển ngữ từ simplycatholic.com// https://hdgmvietnam.com/)
WHĐ (31-05-2020) – Vào ngày 11 tháng 2 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định thêm vào lịch chung Rôma một lễ mới về Đức Mẹ, lễ Đức Maria - Mẹ Giáo hội. Trước đây lễ này đã được cử hành ở cấp độ địa phương tại một số giáo phận và dòng tu. Bây giờ lễ này được cử hành trong toàn thể Giáo hội hoàn vũ, và được ghi trong Nghi thức Sách Lễ Rôma. Lễ mới này không có ngày cố định trong năm Dương lịch, vì nó phụ thuộc vào chu kỳ lễ Phục sinh. Lễ được cử hành vào ngày thứ Hai sau Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Người ta có thể tự hỏi danh hiệu mới này của Đức Maria có nghĩa gì? Và tại sao chúng ta mừng lễ này? Như câu thành ngữ cổ: “de Maria numquam satis” (về Đức Maria, thì nói không bao giờ đủ). Lý do theo nhà Thánh Mẫu học, Linh mục Hugh Rahner, SJ, giải thích là vì “bất cứ điều gì được nói về sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, đều có thể được áp dụng theo nghĩa rộng đối với Giáo hội, theo nghĩa hẹp hơn đối với Đức Maria, và theo một cách cụ thể đối với mọi tâm hồn tín hữu.”
Có nhiều ý nghĩa thần học từ việc thiết lập lễ nhớ này. Những ý nghĩa đó bắt nguồn từ việc nhận biết Giáo hội là Thân thể của Chúa Kitô và vai trò của Đức Maria trong đời sống các tín hữu.
Vai trò của Đức Maria
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chính thức dành cho Đức Maria danh hiệu “Mẹ Giáo hội” khi bế mạc kỳ họp thứ III của Công Đồng Vatican II, vào năm 1964. Truy nguyên về nguồn gốc từ thế kỷ thứ IV với Thánh Ambrôsiô, thì tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” gợi lên mẫu tính thiêng liêng của Đức Mẹ, một đặc tính gắn liền với bản tính của Giáo hội.
Phần lớn quan điểm Giáo hội học của Công Đồng Vatican II, đặc biệt trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), được phát triển nhờ sự nhận biết cách phong phú về quan điểm thần học của Thánh Phaolô. Trong đó, các tín hữu nhận biết sự liên kết giữa họ với Đức Kitô như là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài. Thánh Phaolô đã nói rõ ràng và hùng hồn về chân lý này, và đây cũng là chân lý mà Thánh Phaolô nhận biết trước tiên sau khi trở lại. Khi bị ngã xuống đất và bị mù lòa, Phaolô - Kẻ bắt bớ Kitô giáo lúc đó – nghe thấy một giọng nói hỏi mình: “Saul, Saul, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta? (Cv 9: 4). Qua câu nói này, rõ ràng Đức Kitô đã xác định mối hiệp nhất nên một giữa Ngài với những người theo Ngài. Cả hai cùng tạo thành một khối, một thể thống nhất – đó là những gì mà Thánh Augustinô sau này mô tả là “Chúa Kitô toàn thể” (totus Christus) – vì Đức Kitô và người được rửa tội là một thân thể.
Thánh Augustinô đã áp dụng chân lý này vào bối cảnh Thánh Mẫu học một cách rất thích hợp: Đức Maria là “mẹ của những chi thể thuộc về Đức Kitô... những ai tin vào Ðức Kitô, vì được kết hợp chặt chẽ với Người, nhất là trong Bí tích Thánh Thể, thì cũng kết hợp với nhau nhờ đức ái, tạo thành một thân thể duy nhất là Giáo hội, có Đức Kitô là đầu... Đức Maria đã sinh ra Người Con Một, và Giáo hội sinh ra những người mà nhờ Người Con Một mà nên một”.
Vì Đức Maria là mẹ của Đức Kitô, và chúng ta là chi thể của thân thể Đức Kitô – tức Giáo hội – nên chúng ta cũng là con của Đức Maria. Lễ nhớ mừng mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội được cử hành hàng năm là dịp để suy ngẫm về chân lý rất ý nghĩa này và những hệ lụy từ đó. Và cũng vì tầm quan trọng của mối liên hệ mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội mà những nghị phụ của Công Đồng Vatican II đã quyết định để phần suy tư dài về Đức Maria ở trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), chớ không tách ra để viết thành một tài liệu riêng về Đức Mẹ.
Mẫu gương và sự trợ giúp cho Giáo hội
Sự liên kết của Đức Maria với Con mình là không thể tách rời. Lễ nhớ mới này cũng thúc đẩy lòng sùng kính Đức Mẹ, bởi vì lễ này giúp chúng ta hướng về Đức Mẹ là mẫu gương cho cả nhân loại, đặc biệt là các tín hữu. Mẹ là chi thể “ưu tú nhất... và nguyên tuyền nhất của Giáo hội” (LG, số 53).
Thiên chức làm mẹ của Đức Maria được tìm thấy trong sự vâng lời, đức tin, đức cậy và đức ái của Mẹ. Những đặc điểm này là mảnh đất màu mỡ, ở đó Lời Chúa được gieo vào và trổ sinh sự sống dồi dào. Sự sống siêu nhiên đã đến với thế giới qua tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ. Đó là tiếng thưa đem lại sự sống mới cho thế giới. Do đó, Đức Maria là Evà mới. Như sự chết đã đến thế giới qua Evà củ thế nào, thì sự sống đã đến thế giới qua Evà mới như vậy.
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố rằng, “với mẫu tính trong Chúa Thánh Thần, Đức Maria ôm lấy từng người trong Giáo hội, và ôm lấy từng người qua Giáo hội. Theo nghĩa này, Đức Maria – Mẹ Giáo hội cũng là gương mẫu của Giáo hội” (Redemptoris Mater, số 47).
“Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.” (LG, số 61). Vì toàn bộ cuộc đời của Đức Maria là một niềm ước mong của các tín hữu, nên Đức Mẹ lôi cuốn chúng ta đến với ơn cứu rỗi. Đồng thời, qua tấm gương và sự chuyển cầu từ thiên đàng, Đức Mẹ giúp chúng ta vượt qua tội lỗi và biết làm điều tốt. Mẹ không mong muốn gì khác hơn, ngoài ước mong dẫn chúng ta đến với Con của Mẹ.
Sự mẫu mực trong đức vâng phục, đức tin, đức cậy và đức ái được tỏ bày nơi Đức Maria cũng cần được tỏ bày nơi các Kitô hữu. Hay nói một cách đơn giản như Chúa Giêsu: “Đúng hơn phải nói: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11:28).
Nhờ sự vâng lời của Đức Maria, Giáo hội có một gương mẫu để sống theo ý muốn của Chúa Cha. Nhờ đức tin của Mẹ, Giáo hội học được cách đưa Đức Kitô đến với thế giới. Nhờ đức cậy của Mẹ, Giáo hội học được cách trông cậy vào Chúa (xem Tv 130: 5). Và nhờ đức ái của Mẹ, Giáo hội học được con đường cứu rỗi.
Các Kitô hữu đã hướng về Đức Maria vì những ân sủng đặc biệt và sự chuyển cầu từ thiên đàng của Mẹ trong suốt nhiều thế kỷ, “đã được Giáo hội kêu cầu với nhiều danh hiệu như Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian” (LG, số 62). Việc thiết lập lễ Đức Maria – Mẹ Giáo hội mang đến một cơ hội nữa cho các chi thể trong thân thể Con của Mẹ, hân hoan kêu cầu trong tình yêu mẹ hiền của Mẹ - Đấng là gương mẫu và sự trợ giúp của chúng ta.
Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.
Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.
Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là „Mẹ đáng mến“ của Giáo hội.
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: „Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu“, tức Chúa Ki-tô.
Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.
Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn”. Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).
Suy niệm
Cuộc đời Đức Maria là cuộc đời của Bà Mẹ sống trong trăm nghìn đau khổ nối tiếp. Chính trong đau khổ Mẹ sống đức tin thông phần mầu nhiệm cứu độ của Con Mẹ.
Mẹ sầu khổ khi bạn đời Giuse cùng thề hứa trinh khiết chưa hiểu Mẹ khi Mẹ mang thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,27-38) theo ý Thiên Chúa. Khi Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Chúa vào đền thánh theo Luật của Môisê, Maria lo âu khi cụ già Simêon nói tiên tri về Chúa Giêsu Con Mẹ, còn Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu hồn bà, nhờ vậy mà ý nghĩ trong những tâm hồn khác được phơi bày” (x. Lc 2,33-35).
Mẹ sợ hãi, lo lắng, khổ đau khi cùng thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn qua Ai Cập tránh sự truy bức của Hêrôđê (x. Mt 2,13-14). Mẹ càng đau khi Con Mẹ ở lại Giêrusalem, khi hai bậc phụ huynh Giuse và Maria cứ tưởng con mình đã bị lạc mất vất vả tìm kiếm đến ba ngày (x. Lc 2,41-50). Mẹ ngạc nhiên đau khổ tột bậc khi nhìn Con Mẹ vác thập giá tiến lên núi Sọ trong cuộc hành trình cứu độ nhân loại. Nhất là còn gì đau đớn hơn khi Mẹ đứng dưới chân thập giá, nhìn Giêsu, Con Mẹ chết tả tơi, trần trụi trong tư cách tên tử tội (x. Ga 19,25-28). Khi hạ xác Con xuống khỏi cây thập giá, lòng Mẹ tan nát vì Mẹ chỉ còn ôm một cái xác lạnh ngắt, mình mẩy đầy vết thương bầm tím mà các bức tượng Pièta trong lịch sử đã diễn tả lại.
Khi Con Mẹ được các đồ đệ an táng trong huyệt đá, nấm mồ tuyệt vọng mang khoảng cách trời, đất (x. Ga 19,38-42) làm Mẹ cảm thấy mất tất cả…
Dưới chân thập giá Chúa Giêsu và trong mọi sầu khổ, Mẹ Maria ôm lấy tất cả mọi con cái nhân loại, tất cả đều được ủy thác cho Mẹ như Chúa đã uỷ thác Mẹ cho thánh Gioan (x. Ga 19,25-27). Mẹ đang đứng bên cạnh tất cả những ai đang đau khổ. Mẹ âm thầm chia sẻ và chịu đựng nỗi khổ đau của từng người như thể của riêng Mẹ với tình liên đới và cảm thông trong đau khổ.
Mẹ đau khổ, nhắc nhở chúng ta: Ðời của người Kitô hữu gắn liền với thập giá của Chúa Giêsu: “Hạt giống có mục nát đi mới sinh nhiều hoa quả” (Ga 12,24). Cùng với Mẹ, chúng ta tin tưởng như thánh Phaolô xác quyết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Người” (Rm 8,28).
Ý lực sống :
‘‘Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can” (Trích Ca Tiếp Liên Stabat Mater).
Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vì chính Mẹ đã sinh hạ Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh và trước khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phao-lô VI đã long trọng xác nhận danh hiệu này trong diễn từ đọc trước các nghị phụ Công Đồng Va-ti-ca-nô II ngày 21-11-1964, và quyết định: “Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.”
Trích diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI, dịp kết thúc khóa III Công Đồng Va-ti-ca-nô II, ngày 21-11-1964:
Khi suy xét những mối tương quan liên kết chặt chẽ Đức Ma-ri-a với Hội Thánh, để tôn vinh Đức Thánh Trinh Nữ và để an ủi mọi người chúng ta, chúng tôi công bố : Đức Ma-ri-a rất thánh là Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là của toàn dân Ki-tô giáo, cả tín hữu lẫn mục tử, vốn gọi Người là Mẹ rất mực yêu thương, và chúng tôi quyết định rằng : Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa mà dâng lên Người những lời khẩn nguyện.
Chư huynh đáng kính, đây không phải là danh hiệu lạ lẫm đối với lòng đạo đức của các Ki-tô hữu, mà trái lại, các tín hữu Ki-tô và toàn thể Hội Thánh vẫn thích kêu cầu Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu là Mẹ hơn các danh hiệu khác. Thật vậy, danh hiệu này dẫn đến lý do đích thực cho lòng sùng kính Đức Ma-ri-a, vì đặt nền vững chắc trên chính phẩm tước đã được ban cho Đức Ma-ri-a là Mẹ của Ngôi Lời Nhập thể.
Vì, cũng như thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a có những tương quan hết sức đặc biệt với Đức Ki-tô và làm cho Mẹ hiện diện trong công trình cứu độ loài người do Đức Ki-tô Giê-su thực hiện, thì cùng một cách ấy, những tương quan giữa Đức Ma-ri-a và Hội Thánh cũng đặc biệt phát sinh từ thiên chức làm Mẹ, bởi lễ Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Ki-tô, Đấng ngay khi nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng đồng trinh của Mẹ, đã lập tức liên kết thân mình mầu nhiệm của Người là Hội Thánh với bản thân Đấng là Đầu. Vậy Đức Ma-ri-a, với tư cách là Mẹ Đức Ki-tô, cũng phải được xem là Mẹ của mọi tín hữu và mọi mục tử, tức là của Hội Thánh.
Bởi thế, chúng ta có lý do để, dù bất xứng, dù yếu hèn, cứ lấy tinh thần đức tin và tình yêu con thảo mà đưa mắt sốt sắng nhìn lên Mẹ. Xưa kia Mẹ đã trao ban cho chúng ta Đức Giê-su là nguồn suối ân sủng từ trời, thì nay Mẹ không thể không đem lại cho Hội Thánh sự phù trợ từ mẫu của Mẹ, nhất là khi Hiền Thê của Đức Ki-tô đang hăng say nhiệt thành và nỗ lực chu toàn trọng trách mang ơn cứu độ cho mọi người.
Niềm tín thác này, chúng ta được khuyên dạy hãy bền lòng hơn nữa mà dưỡng nuôi và củng cố cho vững vàng, vì giữa Mẹ chúng ta trên trời với loài người vẫn có những mối ràng buộc hết sức chặt chẽ. Mặc dầu được Thiên Chúa ban dư đầy những hồng ân rất trọng đại và tuyệt vời để nên Thân Mẫu xứng đáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ vẫn rất gần gũi chúng ta. Mẹ là nữ tử của A-đam như chúng ta và do đó cũng là chị em với chúng ta vì cùng chung bản tính loài người. Thực ra, Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ nhờ công trạng sau này của Đức Ki-tô ; nhưng ngoài các ơn Chúa ban, Mẹ còn nêu gương đức tin hoàn hảo khiến Tin Mừng ca tụng : “Bà thật có phúc vì đã tin”.
Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn đệ hoàn hảo của Đức Ki-tô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Ki-tô rao giảng. Vì thế, khi quảng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời mà bắt chước Đức Ki-tô cách hoàn hảo.
Đức Maria luôn là Mẹ khả ái của Giáo Hội, là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta:
Dù ta đi suốt cuộc đời, Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
Dù ta đi trọn kiếp người, Cũng không đi hết những lời mẹ khuyên.
Mẹ hằng cầu xin tuôn đổ tràn đầy ân sủng Chúa Thánh Thần và hướng dẫn nhắn nhủ các môn đệ và dân Chúa tới gần Chúa Giêsu hơn.
Công Đồng Vaticanô II trong hiến Chế Lumen Gentium sau khi tuyên bố Đức Maria là “thành viên trổi vượt” là “kiểu mẫu” và ‘gương sáng” của Giáo Hội, Công Đồng dạy tiếp: “Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu (LG 53).
Khi mô tả những tình cảm con thảo của mình, Giáo Hội nhìn nhận Đức Maria là người Mẹ yêu quý nhất của mình, gián tiếp tuyên bố người là Mẹ Giáo Hội, vì những lý do sau:
- Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi nhận làm Mẹ Chúa Giêsu: “Đức Maria, với tư cách là Mẹ Đức Kitô cũng là Mẹ của tất cả mọi tín hữu và các chủ chăn, nghĩa là Mẹ Giáo Hội” (Đức Phaolô VI).
- Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô: “Đây là con Bà… Đây là mẹ con” (Ga 19,26-27).
- Mẹ là Mẹ Giáo Hội khi ở nhà Tiệc Ly, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính toà Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử toạ như sau: "Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Đức Mẹ là ai?" Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: "Thưa Cha, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa".
Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: "Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria". Liền sau đó, cử toạ liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Đàng, Mẹ là Đấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v...
Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nối tiếp: "Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn nói thêm về Đức Maria...". Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: "Tôi xin được nói với anh chị em Đức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Đàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria...".
Tước hiệu nói lên tương quan mẫu tử của Đức Maria với Giáo Hội.
Tước hiệu này ít được sử dụng trong quá khứ, nhưng mới đây trở nên phổ biến hơn trong những công bố của huấn quyền Giáo Hội và trong sự sùng kính của dân Kitô hữu. Đầu tiên, người tín hữu kêu cầu Đức Maria với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, “Mẹ tín hữu” hay là “Mẹ chúng con” để nhấn mạnh tới tương quan với từng đứa con của mình.
Về sau, do sự chú ý nhiều hơn tới mầu nhiệm Giáo Hội và mối tương quan của Đức Maria với Giáo Hội, nên Đức Trinh Nữ Rất Thánh bắt đầu được kêu cầu thường hơn là “Mẹ Giáo Hội”.
Trước Công Đồng Vat. II, kiểu nói này được huấn quyền Đức Lêo XIII sử dụng, quả quyết rằng Đức Maria “đúng thật là Mẹ Giáo Hội” (Acta Leonis XIII, 15, 302). Tước hiệu này về sau được sử dụng nhiều lần trong các bài giảng của Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI.
Cho dù tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” được gán cho Đức Maria mới đây thôi, nhưng tước hiệu ấy lại diễn tả tương quan mẫu tử giữa Đức Trinh Nữ Rất Thánh và Giáo Hội như nhiều bản văn Tân ước đã chứng minh.
Khởi từ ngày Truyền Tin, Đức Maria đã được kêu mời thuận ý khai mở Vương quốc cứu thế mà sau này sẽ xuất hiện với sự hình thành của Giáo Hội (Lc 2, 26-35).
Tại Cana (Jn 2, 2-11), khi xin Con mình thi hành quyền năng cứu thế của Người, Đức Maria đã góp phần cơ bản vào việc ghi dấu đức tin trong cộng đoàn các môn đệ đầu tiên và hợp tác trong việc khai mở Nước Chúa, một nước đặt “mầm giống” và “khởi điểm” nơi Giáo Hội (LG 5).
Trên Núi Sọ (Jn19, 27-27), Đức Maria kết hợp với hy lễ của Con và đã góp phần hợp tác mẫu tính của mình vào công trình cứu chuộc dưới hình thức của cơn đau đẻ, sinh ra nhân loại mới.
Khi nói lời: “Thưa Bà, nầy là con Bà” Đấng chịu đóng đinh tuyên bố Người là Mẹ không những đối với tông đồ Gioan mà còn với tất cả các môn đệ. Chính tác giả Tin mừng, khi nói Chúa Giêsu chết “để qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11, 52), đã chỉ rõ sự sinh ra Giáo Hội như là hoa quả của hy lễ cứu chuộc mà Đức Maria đã kết hợp với mẫu tính.
Về điểm này chúng ta cùng nhau chiêm ngắm sâu hơn về mẫu tính của Mẹ dưới chân Thập giá.
Chính lúc Đức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Đức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Đức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
Thánh sử Luca nhắc tới sự hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 1, 14; 2, 3-4). Như vậy Thánh sử nhấn mạnh vai trò người mẹ của Đức Maria trong Giáo Hội mới sinh; bằng cách so sánh vai trò đó với vai trò của Người khi sinh ra Đấng Cứu Thế. Chiều kích Mẹ như thế trờ thành một yếu tố cơ bản trong tương quan của Đức Maria với Dân mới được cứu chuộc.
Căn cứ theo Kinh Thánh, giáo huấn của các giáo phụ nhìn nhận chức làm Mẹ của Đức Maria trong công trình Chúa Kitô và do đó, trong công trình của Giáo Hội.
Theo thánh Irênê, Đức Maria “trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho toàn dòng giống loài người” (PG 7, 959), và lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ “tái sinh người ta trong Thiên Chúa” (PG 7, 1080). Điều đó được thánh Ambrôsiô lặp lại: “Một Trinh Nữ đã sinh ra Đấng cứu rỗi cho thế gian, một Trinh Nữ đã mang đến sự sống cho mọi sự” (PL 16,1198), và nhiều giáo phụ khác cũng lập lại khi gọi Đức Maria “Mẹ của sự cứu rỗi”.
Thời trung cổ, thánh Anselmô thưa với Đức Maria thế này: “Mẹ là Mẹ của sự công chính hoá và cả những kẻ được công chính hoá, là Mẹ sự hoà giải và cả những kẻ được hoà giải, là Mẹ sự cứu rỗi và cả những kẻ được cứu rỗi” (PL 158, 957), còn nhiều tác giả khác lại gán cho Người tước hiệu “Mẹ ân sủng” và “Mẹ sự sống”.
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội”
Như thế tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của người tín hữu Kitô, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống, thì thật chính đáng khi tuyên bố Người là Mẹ Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã muốn Công Đồng Vaticanô II tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể Dân Chúa, của người tín hữu và các mục tử của họ”. Chính Đức Giáo Hoàng thực hiện điều đó khi đọc bài diễn văn bế mạc khoá thứ 3 Công Đồng (21.11.1964), Người cũng bảo: “từ nay toàn thể dân Kitô hữu hãy tôn kính và kêu cầu Đức Trinh Nữ Rất Thánh với tước hiệu này”.
Tâm tình con thảo
Trong cuốn sách tựa đề “Đồng Hành” có thuật lại câu chuyện về cuộc đời của một nhà thừa sai Canada, Giám mục Emile Crôa, Ngài thú nhận: Ngay từ thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, phá phách và cứng đầu, lười biếng. Có một lần thầy giáo đã phải giận dữ thốt lên rằng: “Chưa bao giờ tao thấy một học sinh nào quá quắt như mày”. Ngày nọ, thay vì đến trường, tôi lại trốn học ra đồng. Cha tôi biết được, ông giận dữ và thay vì đưa tôi về nhà, ông lại dẫn tôi vào một nhà nguyện. Ông xô tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ đang mỉm cười và quát: “Thằng khốn nạn, qùy xuống”. Và rồi ông ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ và nói: “Xin Mẹ nhận lại thằng nhỏ này, vì quả thực con không còn biết phải làm gì với nó nữa. Xin Mẹ lo lắng cho nó để một ngày kia, nó khỏi trở thành một tướng cướp, bị treo cổ trên dây”.
Nhưng lời nói của cha tôi như một làn roi quất mạnh vào tôi. Tôi cảm thấy đau hơn tất cả các trận đòn từng bị đánh trước đây. Và nhìn lên Đức Mẹ đang mỉm cười tôi tự nhủ: “Nếu cha tôi đã phó thác tôi cho Đức Mẹ thì tôi phải minh chứng được Đức Mẹ đã làm điều gì đó tốt đẹp cho tôi’. Với sự trợ giúp của Đức Mẹ, Emile đã thay đổi, đi tu, thụ phong Linh mục, Giám mục và truyền giáo ở vùng thổ dân ngoại giáo ở Canada.
Kể lại câu chuyện này, đức cha không chỉ muốn dạy cho chúng ta cách thức hay nhất để chúng ta có thể dạy dỗ, uốn nắn sửa sai con cái, nhất là những đứa ngỗ nghịch, khó dạy hay bướng bỉnh quậy phá như Emile. Điều mà Chúa muốn xác tín với chúng ta cũng như với tất cả các gia đình Công giáo: “Mẹ Maria rất gần gũi, gắn bó và quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và cay cực của các gia đình”.
KẾT LUẬN
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của cộng đoàn Dân Chúa, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống… và là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta.
Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.
Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.
Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là „Mẹ đáng mến“ của Giáo hội.
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: „Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu“, tức Chúa Ki-tô.
Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.
Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.
Thần học gia Hugo Rahner cho biết rằng, cách hiểu về Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Giáo Hội như được trình bày ở trên bởi các Đức Thánh Cha, cũng đã có ngay từ thời các Giáo Phụ rồi.
Việc kêu cầu Đức Maria là Mẹ Giáo hội đứng trong mối liên hệ khắng khít với đặc tính nguyên thủy của chính Giáo hội với tư cách là Mẹ (Mater Ecclesia).
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist – (biên soạn, biên dịch và tổng hợp)
(Trích đoạn từ sách: “Theo Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu: Đức Mẹ là Mẹ, là thầy và là người biện hộ” của Cha Andrew Apostoli, CFR // Chuyển ngữ: Giới trẻ thừa sai Chúa Cứu Thế Miền Nam)
Đức Maria chính là Evà mới để đem sự sống của Chúa Giêsu cho chúng ta, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và là Mẹ Chúng ta.
Một Evà mới
Như là một “người nữ” ở trung tâm của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Đức Maria là “Evà mới”. Từ rất sớm, danh hiệu này được gán cho Đức Maria trong các tác phẩm của các Giáo phụ. Bản thân thánh Phaolô đã giới thiệu Chúa Giêsu như là một “Ađam mới” (Rm 5,14; 1 Cr 15,45). Đó là logic khi nhìn về Đức Maria như là “Evà mới” bởi vì vai trò của Mẹ là mang lại sự sống cho tất cả những đứa con trong tinh thần của Mẹ. Chúng ta cũng đề cập đến Hội Thánh như một “Evà mới”, bởi vì Hội Thánh chính là tân nương, là hiền thê của Chúa Giêsu, như Evà là hiền thê của Ađam.
Cái tên Evà có nghĩa là “Mẹ của sự sống” (x. St 3,20). Nhưng bởi vì Evà đã phạm tội cùng Ađam, tội lỗi của bà đã truyền lại, không phải sự sống mà là cái chết cho những người con của bà. Cái chết này là cả về thể chất và tâm linh. Cái chết về thể xác có nghĩa là cái chết của cơ thể. Trước khi phạm tội tổ tông truyền, tổ tiên của chúng ta đã được tận hưởng món quà của sự bất tử. Tuy nhiên, cái chết là một hình phạt cho tội lỗi của họ đã được truyền lại cho tất cả con cháu. Linh hồn sẽ lìa khỏi thân xác. Ngay cả sau cái chết của thể xác, linh hồn vẫn giữ hy vọng được tái hợp với thể xác trong Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu. Cái chết linh hồn có nghĩa là chúng ta, với tư cách là con cháu của Evà, được sinh ra mà không có ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể tự chuộc lại ân sủng mà chúng ta đã đánh mất bởi vì cái giá cứu chuộc quá lớn so với chúng ta. Lối vào Thiên Đàng sẽ đóng kín mãi mãi trừ khi có một điều gì đó xảy ra!
Nhưng đối với Đức Maria, Evà mới, mọi thứ đã đảo ngược hoàn toàn, bởi vì Mẹ đã thông phần vào công cuộc cứu độ của Con Thiên Chúa, chính là Ađam mới. Chúa Giêsu đã đến để mang đến cho chúng ta sự sống trọn vẹn: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Nhờ sự cứu chuộc của mình, Chúa Giêsu đã phục hồi cho chúng ta cuộc sống ân sủng đã mất thông qua Bí tích Rửa tội. Đồng thời, qua sự phục sinh thân xác của mình, Chúa Giêsu hứa rằng Ngài sẽ cho thân xác chúng ta sống lại khi trở lại trong vinh quang vào ngày sau hết. Bởi Đức Mẹ đã tham gia mật thiết vào chương trình cứu độ của Con Thiên Chúa, Mẹ đã mang lại sự sống thần linh cho những đứa con của mình.
Mẹ Hội Thánh
Là Evà mới, thực sự là Mẹ của sự sống, Đức Maria cũng là Mẹ của Hội Thánh. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta rằng, Hội Thánh là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Chúa Giêsu là đầu, trong khi chúng ta là những người đã được rửa tội, trở nên chi thể (x. Ep 5,23). Đầu và các chi thể tạo nên thân thể toàn vẹn của thân mình mầu nhiệm Chúa Giêsu. Ở Bêlem, Đức Maria đã hạ sinh Chúa Giêsu, đầu của chúng ta.
Trên đồi Canvê, Đức Maria trở thành mẹ một lần nữa. Chúa Giêsu đã chỉ ra cho ta biết khi Người nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” (Ga 19,26). Để có thể hiểu được mầu nhiệm này, chúng ta hãy xem xét cách mà Gioan mô tả cuộc khổ hình của Chúa Giêsu. Lúc chạng vạng tối, những tên lính Rôma đã đánh giập ống chân của hai tên trộm bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu. Cách duy nhất để thở được trên thập giá là dùng chân để nâng cơ thể lên, nên việc đánh giập ống chân phạm nhân là để họ chết nhanh hơn. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng để chắc chắn người đã chết, một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Thánh Gioan lúc này cho chúng ta thấy, máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người (Ga 19,31-34).
Từ rất sớm, các Giáo phụ đã nhìn máu và nước như là biểu tượng của việc khai sinh Hội Thánh. Đức Giêsu là Adam mới. Đức Maria, trong tư cách cá nhân là Evà mới, mẹ của các chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Hội Thánh cũng là một Evà mới, là hiền thê của Chúa Giêsu. Giống như cách mà tổ tiên Evà được tạo ra từ cạnh sườn Ađam trong vườn địa đàng thì Hội Thánh cũng được sinh ra từ cạnh sườn của Đức Giêsu trên cây thập giá tại đồi Canvê. Sách Sáng thế nói rằng, Chúa đã đưa Ađam vào một giấc ngủ sâu, lấy ra một trong những xương sườn và tạo thành Evà (x. St 2,21-22). Các Giáo phụ đã đối chiếu đến sách Sáng thế trong Kinh Thánh về cái chết của Đức Kitô. Theo quan điểm đó, Đức Giêsu (Ađam mới) đang trong giấc ngủ của tử thần trên thập giá, thì ngọn giáo của người lính đã làm cho máu và nước tuôn trào từ cạnh sườn Đức Giêsu và trở thành biểu tượng (việc khai sinh) Hội Thánh. Nước tượng trưng cho Bí tích Rửa Tội, cho chúng ta bắt đầu cuộc sống mới trong Chúa Kitô; Máu tượng trưng cho Bí tích Thánh Thể, tặng ban cho chúng ta chính mình Người, tác giả cuộc sống mới của chúng ta. Và đây cũng là hai bí tích lớn nhất, Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể diễn tả chính Hội Thánh.
Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen đã nói, Hội Thánh được sinh ra một cách mầu nhiệm từ cạnh sườn Chúa Kitô, đã có một cuộc hạ sinh thì phải có một người mẹ. Đức Maria đã ở dưới chân thập giá và nhận được từ Con một vai trò mới là mẹ sự sống: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” (Ga 19,26). Thưa Bà – Chúa Giêsu một lần nữa sử dụng danh hiệu đó để nói với mẹ mình, như cách Người đã làm ở tiệc cưới Cana. Có một lý do sâu xa cho việc Người sử dụng từ “Bà – người phụ nữ” mà chúng ta thấy khi đọc sách Sáng thế. Trong vườn địa đàng, Thiên chúa đã phán với con rắn rằng bởi nó mà Ađam (đầu tiên) và Evà (đầu tiên) đã phạm tội,
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3,15).
Lúc ở tiệc cưới Cana cũng như ở đồi Canvê, Chúa Giêsu đã gọi Mẹ mình là “thưa Bà”, chúng ta có thể kết luận rằng, Người đã xác nhận Đức Maria sẽ trở nên thù địch với tội lỗi (ma quỷ) và hậu duệ của Mẹ sẽ đối đầu với hậu duệ của tội lỗi (ma quỷ).
Trong cơn hấp hối, khi Đức Giêsu nói với Mẹ của mình rằng, “Thưa Bà, đây là con của Bà”, Ngài cũng đồng thời khẳng định rằng Đức Maria cũng là Mẹ của chúng ta. Khi sinh ra Chúa Kitô, Đấng là đầu của chúng ta, Mẹ Maria cũng ban cho chúng ta sự sống, vì cùng một sự sống trong Chúa Giêsu cũng hiện diện trong chúng ta, những người là chi thể của thân mình mầu nhiệm.
Mẹ chúng ta
Thánh Aelred thành Rievaulx, một tu sĩ dòng Xitô và là người cùng thời với Thánh Bernard thành Clairaux, đã chỉ ra cho chúng ta thấy vai trò thần linh của Đức Maria:
Chúng ta nợ Mẹ Maria sự tôn kính, vì Mẹ là Mẹ của Chúa chúng ta. Ai không tôn kính Người Mẹ thì làm mất lòng Người Con. Ngoài ra, Kinh thánh nói: Hãy tôn vinh cha và mẹ của bạn. . . Như chúng ta đã biết và tin tưởng, khi tất cả chúng ta chết đi trong tội lỗi, bóng tối và đau khổ. Trong cái chết, vì chúng ta đã mất Thiên Chúa; trong tội lỗi, vì sự tham lam của chúng ta; trong bóng tối, vì chúng ta không có ánh sáng của sự khôn ngoan, và do đó đã bị diệt vong hoàn toàn. Nhưng sau đó chúng tôi được sinh ra, tốt đẹp hơn nhiều so với Evà, nhờ Đức Maria, vì Chúa Kitô được Mẹ sinh ra. Chúng ta được phục hồi cuộc sống mới thay cho tội lỗi, sự bất tử thay cho sự chết, ánh sáng thay cho bóng tối. Mẹ là mẹ của chúng ta, mẹ của Nguồn Sống [Chúa Giêsu], mẹ của sự cứu chuộc [Chúa Giêsu], mẹ của ánh sáng [Chúa Giêsu]. Thánh Phaolô tông đồ nói về Chúa của chúng ta: “Người đã trở nên vì chúng ta, nhờ quyền năng của Chúa Cha, sự khôn ngoan và công chính, sự thánh thiện và sự cứu chuộc cho chúng ta. [Mẹ Maria] sau đó, với tư cách là mẹ của Chúa Kitô, là mẹ của sự khôn ngoan và công chính của chúng ta, về sự thánh thiện và cứu chuộc của chúng ta. Mẹ là Mẹ của chúng ta nhiều hơn mẹ của chúng ta. Được sinh ra từ Mẹ là tốt đẹp hơn, vì từ Mẹ sinh ra là sự thánh thiện, sự khôn ngoan, công chính, sự thánh hóa, sự cứu chuộc của chúng ta.
Tất cả chúng ta đã nhận được sự sống mới trong Chúa Kitô và Mẹ Maria đã thụ thai và sinh ra Người. Chính vì thế, ta có thể nói với Thánh Aelred rằng, cũng chính Đức Maria đã cho ta cuộc sống này, ngay từ lúc ta được chia sẻ sự sống với Đức Kitô từ Mẹ. Trong thân thể người, sự sống của Chúa Giêsu, đầu của chúng ta chảy vào chúng ta là chi thể của Người. Điều này làm cho Mẹ Maria đóng vai trò là một người mẹ của sự sống. Mẹ truyền sự sống cho chúng ta thông qua và trong Chúa Kitô, người sống trong chúng ta.
Ý chính: Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu là Đầu Hội Thánh, Mẹ cũng là Mẹï của toàn thân tức là Mẹ của Hôị Thánh và cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta.
I. CẦU NGUYỆN ĐẦU GIỜ.
Lạy Chúa Giêsu là con rất yêu dấu của Mẹ Maria, chúng con rất vui sướng vì được làm con củaChúa, con của Mẹ. Bài học hôm nay chúng con sẽ được tìm hiểu một số đặc ân Chúa đã ban cho Mẹ, nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con tập trung để học và hiểu về Mẹ như ý Chúa muốn.
II. DẪN VÀO LỜI CHÚA.
Mẹ Maria được nhiều người biết đến, yêu mến, tôn kính hết mực như vậy, đoạn kinh Thánh hôm nay sẽ nói lên điều chúng ta muốn tìm hiểu, chị mời các em đứng lên và lắng nghe.
III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA. Ga 19, 25- 27.
IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA:
Câu 1: Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những đặc ân nào?
- Các em nhớ lại nhé, ngày xưa A-đam và E-và đã phạm tội gì không? (tội không vâng lời Thiên Chúa mà ăn trái cấm).
-Tội đó gọi là tội gì? (tội tổ tông).
- Tội tổ tông có truyền lại cho chúng ta không? (có).
- Gọi là tội gì? (Tội tổ tông truyền).
Tất cả mọi người chúng ta sinh ra đều mắc tội này. Thế nhưng chỉ duy một mình Đức Maria được Thiên Chúa gìn giữ để không mắc tội này.
Đây là đặc ân Vô nhiễm nguyên tội mà Thiên Chúa ban cho Mẹ.(đặc ân này Hội Thánh mừng vào ngày 8 tháng 12).
Rồi khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người nhưng Ngài hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế.
Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria làm mẹ Chúa Giêsu bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Nên Mẹ Maria được Thiên Chúa ban đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa. (Tước hiệu này Hội Thánh mừng kính vào ngày 1 tháng 1 dương lịch)
Chúng ta cùng nhớ lại đoạn Tin Mừng Lc 1,26-38 đề cập về biến cố Thiên Thần truyền tin cho Đức Maria.
Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu bởi quyền phép của ai? (bởi quyền phép Chúa Thánh Thần).
Đây là đặc ân thứ ba mà Thiên Chúa ban cho Đức Maria: đặc ân trọn đời đồng trinh.
Rồi sau khi Mẹ chết Thiên Chúa đã đưa Mẹ cả hồn và xác Mẹ về trời.
Với cuộc sống tuyệt vời của Mẹ ở trần gian, Mẹ đã xứng đáng để được Thiên Chúa đưa về Trời cả hồn lẫn xác, Mẹ được tôn vinh bên cạnh Chúa Giêsu Phục Sinh, Con Mẹ, là Vua vũ trụ.
Câu 2 : Đức Maria đã cộng tác thế nào trong công trình cứu độ?
Với lời “xin vâng” trong ngày truyền tin, Mẹ đã dấn thân cộng tác trọn vẹn vào công cuộc cứu chuộc của Con mình. Mẹ đã chia sẻ cuộc sống với Chúa Giêsu, trong suốt cuộc đời của Chúa, Mẹ đã luôn hiện diện để theo dõi từng ngày từng giờ của Chúa, lúc thì Mẹ ở xa xa để theo dõi , lúc thì Mẹ ở ngoài chung với đám đông đến nỗi họ tưởng là Mẹ muốn tìm Chúa. Và đặc biệt những ngày khổ nạn của Chúa, Mẹ không ngớt rời xa, Mẹ luôn xin vâng Thánh ý Thiên Chúa trong suốt cuộc đời, Mẹ kết hợp với tất cả lòng mến yêu của Mẹ trong chương trình cứu độ của con Mẹ, Mẹ dâng lên Thiên Chúa từ niềm vui khi Chúa sinh ra cho đên giây phút cuối đời của Chúa trên Thánh Gía. Mẹ luôn xin vâng trong suốt cuộc đời Mẹ và thông phần xin vâng trong hành trình cứu thế của Chúa Giêsu Con rất yêu dấu của Mẹ.
Câu 3: Đức Maria có vị trí nào trong Hội Thánh?
Các em còn nhớ Hội Thánh được gọi là Dân Thiên Chúa, gồm nhiều người không phân biệt tuổi tác, màu da, trình độ… Trải qua đã hơn 2000 năm, Hội Thánh đã công hiến cho nhân loại rất nhiều vị Thánh để mọi người tôn kính và noi gương - ví dụ như Thánh Phan-xi-cô Xa-vi ê, Thánh Mô-ni-ca, Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng-Giêsu,….trong đó có cả các Thánh tử đạo Việt Nam nữa đấy các em.
Nhưng có một vị được mọi người vào mọi thời yêu mến, tôn kính và cố gắng noi theo đó là Mẹ Maria. Các em thấy không trong các gia đình, các dòng tu, các nhà thờ công giáo…. Nơi nào cũng có ảnh tượng Đức Mẹ với các tước hiệu khác nhau để tôn kính Mẹ( nào là Mẹ Hằng Cứu Giúp, Mẹ Vô Nhiễm, Mẹ Hồn xác lên trời, Mẹ ban ơn, Mẹ La Vang…)
Vì sao Hội Thánh lại tôn kính Mẹ đặc biệt như vậy? Chính vì Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu là Đầu Hội Thánh. Suốt cuộc đời Mẹ hoàn toàn vâng phục Thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã cộng tác tích cực vào công trình của Chúa Cứu Thế, Mẹ luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa nên Mẹ trở thành mẫu gương cho mọi tín hữu trong Hội Thánh, chính vì thế Mẹ Maria có chỗ đứng cao nhất trong Hội Thánh.
Câu 4 : Ta có bổn phận nào đối với Đức Mẹ?
Khi em ở nhà có mẹ, em thường vòi mẹ cho em điều này,đáp ứng cho em điều kia, sở dĩ như vậy là em tin tưởng, yêu mến mẹ, mẹ rất yêu thương em và luôn lo lắng cho em, có đúng vậy không nào?.
Chúng ta không chỉ có người mẹ ở trần gian, nhưng chúng ta còn có một người mẹ không ngừng yêu thương ta, luôn muốn điều tốt nơi ta và mãi mãi cầu bầu cùng Chúa cho ta. Do đó ta phải đặc biệt tôn kính, yêu mến, cầu xin với Mẹ.
Còn hơn thế nữa, em phải bắt chước các nhân đức của Mẹ, đi theo con đường Mẹ đã đi để được hạnh phúc muôn đời bên Mẹ.
Câu 5 : Mẹ Maria là tấm gương cho Hội Thánh thế nào?
Trong câu 3 chúng ta đã biết Mẹ Maria có chỗ đứng cao nhất trong Hội Thánh vì trong các con cái của Hội Thánh không thể có người con nào có những nhân đức tuyệt vời như Mẹ, không ai có lòng mến Chúa sâu thẳm như Mẹ… Mẹ là tấm gương phản chiếu đời sống Thiên Chúa nơi trần gian, chúng ta là con, chỉ một cách duy nhất đến với Chúa được đó là đi theo con đường Mẹ đi, làm với lòng mến như Mẹ.
-------------------------------
CÂU HỎI DÀNH CHO HỌC SINH
Bài 22: ĐỨC MARIA, MẸ HỘI THÁNH
“Này là Mẹ con”. (x. Ga 19, 25-27)
1-H. Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những đặc ân nào?
T. Thiên Chúa đã ban cho Mẹ những đặc ân này:
- Một là ơn vô nhiễm nguyên tội.
- Hai là ơn làm Mẹ Thiên Chúa.
- Ba là ơn trọn đời đồng trinh.
- Bốn là ơn được lên trời cả hồn lẫn xác.
2-H. Đức Maria đã cộng tác thế nào trong công trình cứu độ?
T. Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.
3-H. Đức Maria có vị trí nào trong hội thánh?
T. Đức Maria là Mẹ của Hội thánh, và của mỗi người chúng ta. Ngài đã làm Mẹ của Đầu là Đức Ki-tô, thì cũng làm Mẹ của toàn thân là Hội thánh. Mẹ là tấm gương hoàn hảo cho Hội thánh về đức tin và đức mến.
4-H. Ta có bổn phận nào đối với Đức Mẹ?
T. Ta phải đặc biệt tôn kính, mến yêu, cầu xin và trông cậy Đức Mẹ. Nhất là chúng ta bắt chước các nhân đức của Mẹ, đi theo con đường Mẹ đã đi, để được đến nơi Mẹ đã đến.
5-H. Mẹ Maria là tấm gương cho Hội thánh như thế nào?
T. Mẹ Maria là tấm gương hoàn hảo cho Hội thánh, về đức tin và đức mến, trong cuộc lữ hành trần gian hướng về vinh quang Nước Trời.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".
Ngoài chuyện chậm tin, chậm hiểu, các môn đệ còn có một điểm yếu là hay cãi nhau. Họ cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Người ấy sẽ là người đứng đầu trong Nước sắp tới của Đấng Mêsia. Tiếc thay trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại cãi nhau khi đang đi ngoài đường (c. 33). Tệ hơn nữa, họ cãi nhau ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ hai về cái chết và sự phục sinh sắp đến của mình (c. 31). Hẳn Thầy Giêsu rất đau vì thấy học trò của mình khá trần tục. Dù đang đi với Thầy trên cùng một con đường, nhưng họ vẫn để lòng mình theo đuổi vinh quang thế gian. Đức Giêsu quả là một bậc thầy về sự điềm đạm. Ngài đợi tới khi về nhà ở Caphácnaum mới gợi lại chuyện trên đường. Ngài làm như mình không rõ về đề tài câu chuyện: “Dọc đường anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Khi các ông mắc cỡ làm thinh, không dám nói ra chuyện cãi nhau (c. 34), Thầy Giêsu cũng chẳng nỡ ép các ông phải nói. Ngài ngồi xuống như một vị thầy bắt đầu giảng dạy (c. 35), gọi Nhóm Mười Hai lại - nhóm các nhà lãnh đạo tương lai của Giáo Hội - và đưa ra một nguyên tắc chi phối việc quản trị cộng đoàn: “Nếu ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết của mọi người và làm người phục vụ cho mọi người (c. 35). Câu nói trên của Đức Giêsu mở ra một cuộc cách mạng nơi tâm con người. Đức Giêsu không dạy ta lật đổ người đứng đầu để chiếm lấy quyền lực. Ngài cũng không đòi ta bỏ ước mơ làm lớn. Ngài dạy cho ta cách trở nên lớn lao thực sự trước mặt Thiên Chúa. Đó là trở nên người phục vụ mọi người, sống như Ngài đã sống: “Suốt đời Thầy đã sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 27). Nếu làm đầu mà phải phục vụ thì có ai muốn làm người đứng đầu nữa không? Lịch sử của nhân loại là lịch sử của những cuộc cãi nhau không ngớt giữa các quốc gia, các tôn giáo, các bộ tộc, và ngay trong giáo xứ, gia đình. Đề tài muôn thuở vẫn là quyền lực, chức tước, địa vị, tiếng tăm. Ai cũng muốn làm đầu, làm lớn để được phục vụ, để khỏi phải hầu bàn. Ước gì chúng ta hiểu rằng quyền uy chỉ là giấy phép để phục vụ. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài. Xin tha thứ cho con vì đã quá bận tâm đến những điều mình nói, đến ảnh hưởng của mình, đến những điều người ta nói và nghĩ về con. Xin tha thứ cho con vì muốn nên giống kẻ khác mà quên mất chính mình, vì khao khát có được những đức tính của họ, mà quên phát triển bản thân. Xin tha thứ cho con vì đã mất nhiều thời gian cho việc phô trương hơn là cho việc xây dựng bản thân. Xin cho con biết cởi mở với anh em; nhờ đó, Chúa có thể đến với con như đến với một người bạn. Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người” mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài vì con là con của Chúa và là anh em của mọi người. Amen. (Michel Quoist) ------------------------------
Thiên Chúa và thế gian. Hai nẻo đường. Thế gian chiều theo dục vọng. Ham muốn. Khoái lạc. Tiền tài. Danh vọng. Chức quyền. Tất cả dẫn đến xung đột. Từ ngay trong bản thân. Tranh chấp với tha nhân. Bất hoà bất ổn trong xã hội. “Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau”. Theo thế gian là chống lại Thiên Chúa. Vì thế gian đi đến kiêu ngạo. Thiên Chúa dẫn đến khiêm nhường. “Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên” (năm chẵn).
Người đi theo đường của Thiên Chúa chống lại thế gian chắc chắn sẽ gặp nhiều thử thách. “Con ơi, nếu con muốn dấn thân phụng sự Đức Chúa, thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách… Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục”. Nhưng nếu ta kiên trì Chúa sẽ đến cứu giúp ta “Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người….Vì Đức Chúa là Đấng nhân từ và hay thương xót: Người thứ tha tội lỗi và cứu vớt trong lúc gian truân” (năm lẻ).
Chính Chúa Giê-su xuống thế làm người nêu cho ta tấm gương luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Đi vào con đường khiêm nhường phục vụ. Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại”.
Các môn đệ của Chúa còn nặng thói thế gian. Nên “khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”. Chúa Giê-su dạy các môn đệ hãy từ bỏ thói thế gian. Đi vào con đường của Chúa. Đường của Chúa ngược hẳn với đường thế gian: “Ai muốn đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Khiêm nhường sẽ dẫn đến hạ mình. Yêu thích những điều hèn mọn và những người bé nhỏ. Con đường ấy dẫn đến Thiên Chúa. “Rồi Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Xin cho con biết chọn đi vào con đường của Chúa. Để con đạt tới chính Chúa.
Ở cuối văn kiện Tòa Thánh, các Ðức Giáo Hoàng thường ghi dòng chữ này cùng với chữ ký của mình: "Tôi tớ của các tôi tớ". Ðây là tinh thần mà Chúa Giêsu muốn tất cả các vị lãnh đạo trong Giáo Hội phải có, như được đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay: "Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người".
Cám dỗ về quyền hành và cám dỗ lạm quyền là sự kiện thường xuyên và mãnh liệt đối với con người mọi thời. Chính những cám dỗ ấy cũng đã xảy ra cho Nhóm Mười Hai Tông đồ. Thật vậy, vào chính lúc Thầy của các ông loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, thay vì dừng lại và chia sẻ với Thầy, hoặc nếu chưa hiểu thì trao đổi với Thầy để am tường hơn, các ông đã có thái độ ích kỷ, vụ lợi; các ông tưởng thời lập quốc của Ðấng Mêsia và ngày vinh quang của các ông đã tới, thế là các ông bắt đầu tranh cãi về địa vị với nhau. Chính các ông cũng cảm thấy sự tranh cãi như thế là đáng trách, bởi vì khi được Chúa Giêsu hỏi, các ông đã làm thinh.
Và rồi sự việc đã diễn biến không như các ông tưởng nghĩ, bởi vì đối với Chúa Giêsu, trong Nước Trời tồn tại ở trần gian này, cho dù vẫn có tôn ti trật tự, nhưng đó là một trật tự lạ lùng: Người làm lớn sẽ là người hầu hạ kẻ khác, người nhỏ nhất phải là đối tượng để được hầu hạ. Rốt cuộc, chúng ta có thể hầu hạ ai chính là vì chúng ta muốn hầu hạ Chúa Giêsu trong họ, và chúng ta có được hầu hạ ai, thì cũng chỉ vì họ đang hầu hạ Chúa Giêsu nơi chúng ta. Như vậy, điều quan trọng không phải là làm lớn hay làm nhỏ trong Nước Trời, chỉ có Thiên Chúa là nhân vật quan trọng trong Nước Trời, và làm lớn hay làm nhỏ, tất cả đều phục vụ Thiên Chúa mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn thường được dùng làm kim chỉ nam cho việc thi hành quyền bính trong Giáo Hội. Nếu mọi người, kẻ cầm quyền cũng như người dưới quyền đều hiểu và thực thi giáo huấn này, chắc chắn Giáo Hội sẽ trở nên thu hút hơn đối với nhân loại, nhất là đối với con người hôm nay đã quá mệt mỏi với những hình thức mị dân, lạm quyền, dua nịnh của giới lãnh đạo; người ta sẽ nhận ra nơi đó khuôn mặt của Chúa Kitô một cách rõ ràng hơn, một Chúa Kitô lãnh đạo bằng cách bị nộp, bị giết chết vì người khác.
Bao lâu xã hội loài người còn, thì bấy lâu bài học Chúa dạy hôm nay vẫn còn giá trị, bởi vì cám dỗ về quyền lực và lạm quyền đã ăn sâu trong mỗi người và trong mọi cơ chế xã hội. Nhưng để bài học ấy tác động mạnh mẽ và hữu hiệu, chúng ta cần nghĩ tới hình ảnh của Chúa, Ðấng lãnh đạo dân Chúa, nhưng đã trở thành tôi tớ cho mọi người.
Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn có ai biết, vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại.” Nhưng các ông không hiểu những lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. (Mc. 9, 30-32)
Chúng ta đang sống trong một xã hội cạnh tranh gay gắt, một thế giới mà con người giành giật nhau, tiêu diệt nhau khi người này làm trở ngại cho thành công của người kia. Điều đó được thấy rõ trong quảng cáo. Bạn có thể đọc trong mục rao vặt cúa những tờ nhật trình, những yêu cầu cần người đại loại như sau: “Cần một thanh niên năng nổ, chiến thắng.” Đây không phải là một thông tin của quân đội mà là của một xã hội bán những cái máy hút bụi. Người ta cần một thanh niên năng nổ, chiến thắng đối với những khách hàng tình cờ. Người thanh niên càng năng nổ, có tinh thần chiến thắng càng sẽ được tuyển vào làm trong công ty. Hoàn cảnh trong Phúc âm hôm nay cũng gần tương tự. Các tông đồ coi Nước Trời như chuyện buôn bán cạnh tranh vậy… thế là Chúa Giêsu phải lên tiếng can thiệp.
Đây là lần thứ hai, Chúa Giêsu có ý loan báo cho các ông về cái chết và phục sinh của Người. Giáo huấn này thật vô vị: Các ông chẳng hiểu, tệ hơn nữa, cũng chẳng thèm hỏi han gì. Lời Chúa chẳng vang dội trong tâm khảm các ông. Các ông bàn tán về đề tài các ông ưa thích: ai là người lớn hơn cả?
Về tới nhà
Về tới nhà, Chúa Giêsu ngồi xuống, quy tụ các môn đệ lại chung quanh Người. Lần này, Người muốn cho các ông phải hiểu. Người dùng chính lời lẽ của các ông để diễn tả: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” Các ông muốn làm người lớn, là người quan trọng trong Giáo hội, điều này chẳng phải là xấu. Các ông là người thế nào, có tham vọng làm lớn tới đâu, thì Chúa nhận như vậy thôi, nhưng Chúa Giêsu chỉ cho các ông phương thế làm lớn trong Giáo hội. Làm lớn, chính là trở nên người bé nhỏ; làm người quan trọng, chính là coi mình chẳng là gì; là ông chủ, thì phải làm người phục vụ; làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết.
Để cho các ông hiểu rõ sự nghịch lý này, Chúa Giêsu làm một dụ ngôn bằng động tác: Người đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy…” Em nhỏ ở đây, chính là biểu tượng của tất cả những gì bé nhỏ, hèn mọn, tùy thuộc, cần được người khác chăm sóc, mà không thể cho lại được cái gì.
Chúa Giêsu hàm ý rằng điều làm cho người ta nên cao cả là khả năng tiếp đón bản thân Người và khi người ta tiếp đón vì danh Người, một người yếu đuôí, vô phương tự vệ, thì khả năng đó còn lớn hơn nữa bội phần.
Ai trong anh em muốn làm người đứng đầu thì hãy tự mình phục vụ những người ít được kính nể, những người bị tước đọat nhất, hãy làm người phục vụ những người bé mọn nhất, và làm như thế vì danh Thầy, bởi lẽ Thầy yêu cầu như vậy.
Đã từ lâu, chúng ta rất quen với cụm từ: “Tôi tớ các tôi tớ” được ký bởi thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sau mỗi văn kiện hay tông huấn...
Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi người môn đệ của mình phải có và giữ được đức khiêm tốn khi nói: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.
Muốn làm lớn và trở thành người lãnh đạo là cái mộng của con người mọi thời không từ ai. Chính các môn đệ là những người được ở gần Đức Giêsu, nghe và chứng kiến những việc Ngài làm, tất cả toát lên sự khiêm nhường tột cùng. Tuy nhiên, các ông vẫn không thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của quyền lực đầy hấp dẫn đang mời gọi các ông qua con người có tên là Giêsu. Đấng mà các ông vẫn đang hy vọng được hưởng đặc quyền đặc lợi khi Ngài đứng lên lật đổ chế độ và thiết lập một vương quốc theo kiểu trần thế.
Vì thế, khi vừa nghe Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ hai, liền sau đó, các ông đã chăm chú vào chuyện bàn tán xem ai là người lớn nhất?
Lẽ ra, khi nghe thấy thầy của mình loan báo về cái chết sắp xảy đến, các ông phải là người an ủi, động viên, chia sẻ..., Không! đằng này sự vụ lợi, thực dụng và ích kỷ đã làm cho họ mờ mắt và vơi cạn đi sự cảm thông, các ông chỉ còn nghĩ đến mình mà thôi.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã làm đảo lộn suy nghĩ của các môn đệ khi nói: người làm lớn sẽ là người hầu hạ kẻ khác; muốn làm được điều đó, phải có tâm hồn trẻ thơ.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đức Giêsu dạy các môn đệ và cũng là chính mỗi người chúng ta một bài học về sự khiêm nhường và phục vụ. Người lãnh đạo thì phải phục vụ dân, không được lạm quyền, mỵ dân và a dua, nịnh hót, mà làm những việc bất nhất trái lương tâm. Cha mẹ thì phải yêu thương chăm sóc con cái. Con cái phải kính trọng cha mẹ, nhất là khi các ngài lớn tuổi.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa. Amen.
Sứ điệp: Lần thứ hai Chúa loan báo Chúa sẽ chịu khổ nạn và sẽ sống lại. Chúa mời gọi các môn đệ bắt chước Chúa trở nên tôi tớ phục vụ mọi người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa hoàn toàn quên mình để chỉ nghĩ đến con và yêu thương con. Vì yêu thương, Chúa hy sinh tất cả vì con, đến nỗi Chúa tự nguyện đón lấy mọi khổ đau và cả cái chết nữa. “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hy sinh mạng sống vì người mình yêu”. Con đang được sống trong tình yêu ấy. Con hết lòng cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, dù Chúa là Chúa của con, nhưng Chúa không khư khư ôm lấy địa vị của mình để thống trị con bằng quyền lực. Trái lại, Chúa đã tự nguyện trở nên đầy tớ để phục vụ con. Chúa muốn dùng tình yêu để chinh phục trái tim con.
Cũng như các tông đồ ngày xưa, con không thể hiểu được thái độ của Chúa. Và con lại càng không muốn chấp nhận những Lời Chúa dạy con phải trở nên đầy tớ phục vụ lẫn nhau. Xin Chúa chiếu soi để con hiểu được Lời Chúa. Xin giúp con biết quên mình để nghĩ tới người khác. Xin biến đổi tâm hồn con nên khiêm tốn và ban cho con một trái tim đơn sơ, nhỏ bé. Thái độ “kẻ cả” chỉ muốn thống trị, quyền lực, hưởng thụ, lấy mình làm trung tâm và bắt người khác phục vụ mình. Xin Chúa đừng để con rơi vào thái độ ấy. Xin cho con hiểu rằng chính khi con hiến thân là lúc con được lãnh nhận, chính khi con quên mình là lúc con gặp lại bản thân, chính khi con biết chết đi để sống cho Chúa và anh em là con được sống.
Lạy Chúa, xin cho mọi người trong gia đình con và cộng đoàn giáo xứ con biết sống khiêm tốn và hầu hạ lẫn nhau. Xin cho nhân loại hôm nay biết chấp nhận lối sống mới của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết”.
Khổng Tử đi ngang qua núi Thái thì gặp một phụ nữ đang khóc lóc thảm thiết bên mộ con. Thầy đến hỏi lý do tại sao bà ta khóc, thì được cho biết là bà khóc cho con, cho chồng và cho cả cha chồng đã bị cọp ở núi Thái bắt ăn thịt.
Khổng Tử bèn hỏi tại sao gia đình không dọn đi nơi khác, thì được bà thổ lộ là: “Ở đây không có hà chính” (hà chính ám chỉ sách lược quốc trị hà khắc, quan lại lộng quyền làm khổ dân chúng). Khổng Tử quay sang học trò và nói: “Hà chính mãnh ư hổ giã” (có nghĩa là sách lược quốc trị hà khắc còn ghê gớm hơn cọp). Bởi vì gia đình của người phụ nữ tránh chính sách làm khổ dân của vua quan đến lánh trong rừng thiêng nước độc chấp nhận ngay cả nguy hiểm với cọp dữ và cái chết.
Xã hội xưa là thế, chính sách hà khắc không làm cho an dân, dân không thể ấm no, nước không thể giàu. Người lãnh đạo có quyền bính trong tay phải lo chính sách an dân. Nếu người làm lớn chỉ lo công danh bổng lộc, thì xã hội vẫn còn những con người cùng đinh khốn khổ. Đất nước, xã hội còn đầy rẫy những bất công vì thiếu những người quản lý mang cái tâm vì nước vì dân. Trần gian là thế và sẽ mãi là thế, lịch sử đã chứng minh cho sự lặp đi lặp lại những bất công.
Chúa Giêsu đến trần gian loan báo nước Trời. Nước Trời bắt đầu được xây dựng bằng sự cải tạo con người và xã hội ngay ở trần gian.
Suy niệm
Các môn đệ tranh luận ai sẽ là người lớn nhất. Đức Giêsu hướng các môn đệ và qua các ông đến tất cả những ai có ý tưởng muốn có sự tham vọng làm lớn thì phải mang lòng khát khao phục vụ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9,35), Ngài hướng các ông trên con đường đi trên quyền lực không để tham vọng quyền thế thu vén cho bản thân, nhưng phải dấn thân vì mưu ích cho đồng bào dân tộc…
Thế giới hôm nay rất cần những người muốn đứng đầu theo tiêu chuẩn của Đức Giêsu đề ra, nghĩa là trong phục vụ khiêm hạ, hết lòng lo cho nước cho dân như hình ảnh của chính Đức Kitô phác họa và sống nêu gương khi rửa chân cho các môn sinh, Ngài kêu mời: “Các con gọi Thầy là Thầy và là Chúa thì đúng lắm. Vậy mà Thầy đã rửa chân cho các con. Các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,13).
Trong nước của Thiên Chúa, người lớn thì phải phục vụ, còn người bé nhỏ thì được đón tiếp nhân danh Thiên Chúa. Chúa Giêsu đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ và ôm hôn nó (x. Mc 9,36), cử chỉ này đều đi ngược phong tục Do Thái thời đó vì xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Hơn nữa, chúng không hiểu biết Lề Luật nên người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo. Đứa trẻ còn tiêu biểu cho những người đau khổ, cô thế cô thân, gặp thiếu thốn, có nhu cầu ủi an nơi chúng ta nhưng lại bị chính cộng đồng đã loại trừ. Tất cả những con người bé mọn luôn có trong trái tim của Thiên Chúa, dù bị anh em đồng loại bỏ rơi, Thiên Chúa vẫn ở bên và đỡ nâng.
Thật thế, Chúa làm cho thân phận bé mọn được tràn đầy ân sủng như chính Ngài dùng lời Kinh Thánh khẳng định: “Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21,16). Hơn thế nữa, người khiêm nhu bé mọn còn được Thiên Chúa đồng hóa trong thân phận của chính họ: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9,37).
Chúa Giêsu đã nói rõ: Sự tiếp rước anh em nghèo khó, những con người bé nhỏ, tầm thường không có danh tiếng, không của cải quyền thế, những kẻ cô thân cần sự giúp đỡ là làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-46), như Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Đi trên đường trần gian xây dựng nước Chúa, người làm lớn sống tinh thần phục vụ theo gương Thầy Giêsu như thánh Phaolô mời gọi: “Hãy sống trong tình yêu như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và cống hiến chính thân mình Người” (Ep 5,2).
1. Đức Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ Ngài là ai: Ngài là Đấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại. Các ông chẳng hiểu gì mạc khải đó vì các ông vẫn quan niệm về một Đấng Messia vinh quang hiển hách. Vì thế trên đường đi các ông tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất trong nước của Ngài. Về đến nhà, Ngài hỏi các ông trên đường đã tranh cãi với nhau về cái gì, các ông không dám trả lời. Nhân dịp này Ngài dạy các ông: Ai muốn làm lớn, phải làm đầy tớ mọi người. Rồi Ngài dẫn một trẻ nhỏ đến giữa các ông mà phán: “Ai đón nhận trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy và sống đơn sơ không tham vọng như nó là đón tiếp chính Thầy, và ai tiếp nhận Thầy là tiếp nhận Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
2. Tranh giành quyền lực là chuyện thường tình của thế gian, trong bất cứ lãnh vực nào cũng có chuyện người thủ lãnh, kẻ thuộc hạ, người làm lớn kẻ làm nhỏ, người ngồi trên kẻ ngồi dưới, người được danh dự kẻ bị quên lãng. Nhưng trong Giáo hội của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra nguyên tắc lãnh đạo: ai muốn làm người đứng đầu thì phỉ làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người. Đức Giêsu không chỉ phục vụ và hầu hạ, lại còn hầu hạ và phục vụ đến chết. Cái chết trên thập giá của Ngài là thể hiện tột cùng của lãnh đạo và phục vụ. Vì thế, người được đặt làm thủ lãnh để phục vụ phải là người sằn sàng chết cho mọi người. Qui luật này có giá trị cho mọi Kitô hữu. Làm môn đệ của Đức Giêsu là chọn lấy con đường phục vụ và phục vụ cho tới cùng.
Vì thế, ở cuối văn kiện Tòa Thánh, các Đức Giáo hoàng thường ghi dòng chữ này cùng với chữ ký của mình: “Servus servorum”: tôi tớ của các tôi tớ. Đây là tinh thần mà Đức Giêsu muốn tất cả các vị lãnh đạo trong Giáo hội phải có, như được đề cập trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.
3. Bác sĩ Elizabeth Couplaros là giáo sư về môn tâm lý trị liệu tại đại học Chicago, Hoa kỳ. Một trong những tác phẩm bán chạy nhất của bà có tựa đề “Sự chết và Chết”. Cuốn sách ghi lại sự phỏng vấn của tác giả với hàng trăm người đã từng bị bác sĩ tuyên bố là chết nhưng bỗng dưng sống lại. Có thể nói người chết sống lại này đều cho biết rằng trong khoảnh khắc mà bác sĩ gọi là chết ấy họ như sống lại cả quãng đời của họ, cứ như thế họ xem lại cuốn phim về cuộc đời của họ. Khoảnh khắc ấy có nghĩa gì không? Bác sĩ Couplaros đã nhận định như sau: “Khi bạn trải qua khoảnh khắc ấy, bạn chỉ thấy có hai điều quan trọng trong cuộc đời, một là bạn đã phục vụ; hai là bạn sống yêu thương, còn tất cả những điều mà chúng ta xem trọng như danh tiếng, tiền của, uy tín và quyền lực đều vô nghĩa”.
4. Một điều nghịch lý cần chấp nhận.
Chúa phán: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Để các ông hiểu rõ sự nghịch lý này, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn: Ngài đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp nhận một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”. Em nhỏ ở đây, chính là biểu tượng của tất cả những gì bé nhỏ, hèn mọn, tùy thuộc, cần được người khác chăm sóc, mà không thể cho ai được cái gì. Ngài hàm ý nói rằng điều làm cho người ta nên cao cả là khả năng đón tiếp bản thân Ngài và khi người ta tiếp đón vì danh Ngài, một người yếu đuối, vô phương tự vệ, thì khả năng đó còn lớn hơn nữa bội phần. Ai trong anh em muốn làm người đứng đầu thì hãy tự mình phục vụ những người ít được kính nể, những người bị tức đoạt nhất, hãy làm người phục vụ những người bé mọn nhất, và làm như thế vì danh Thầy, bởi lẽ Thầy yêu cầu như vậy.
5. Truyện: Cần tinh thần phục vụ.
Những thuộc viên cao cấp của Bà-la-môn ở Ấn Độ không bao giờ cúi xuống làm việc của người đầy tớ. Vì thế Shirman Naraayan sốc làm sao khi ông được giao nhiệm vụ mà ông thấy như mình bị hạ thấp khi ông dành thời gian làm tại trung tâm Grandhi (là một trung tâm tĩnh tâm của người Hindu).
Tốt nghiệp tiến sĩ tại trường Kinh Tế Luân Đôn, chàng thanh niên này đã đến tìm hướng đi cho tương lai. Chàng không biết rằng mọi người tại trung tâm này đều được giao nhiệm vụ cụ thể, và Shirman phải chùi nhà vệ sinh. Thấy bị xúc phạm ghê gớm, anh đi thẳng đến chỗ Grandhi và phàn nàn: “Tôi có bằng tiến sĩ. Tôi có thể làm được nhiều điều lớn lao hơn, tại sao lại bắt tôi phải phí thời gian và tài năng vào việc lau chùi phòng vệ sinh vậy”? Grandhi trả lời: “Tôi biết anh có thể làm được nhiều việc lớn, nhưng tôi cũng phải xem thử anh có đủ năng lực để làm những việc nhỏ không đã”.
Có thể bạn đủ năng lực để phục vụ Chúa một cách đặc biệt. Qua nền giao dục bạn hấp thụ và ân tứ bạn có được, có thể bạn có khả năng làm những công việc lớn lao và hiệu quả. Nhưng bạn có sẵn lòng khiêm nhường làm những việc của đầy tớ nếu Chúa giao công việc đó cho bạn không? Bạn có sẵn lòng lau chùi nhà vệ sinh hay rửa chân cho người khác không (Ga 13,14-15)? Đó mới thật sự là điều một môn đệ vâng lời cần làm.
1. Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ biết Ngài là ai: Ngài là Đấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại.
2. Do đã quen với quan niệm về một Đấng Messia vinh quang hiển hách, các môn đệ không hiểu gì cả. Nhưng không dám hỏi lại Chúa Giêsu. Và cũng vì đã quen với quan niệm thế tục ấy nên dọc đường các ông tranh luận xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời mà Chúa Giêsu thành lập.
3. Chúa Giêsu sửa dạy các ông: trong Nước Trời, đừng ai để ý tới địa vị lớn hoặc nhỏ. Điều thứ nhất phải để ý là phục vụ: càng có chức vụ cao thì càng phải phục vụ nhiều (để nhấn mạnh ý tưởng phục vụ, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ). Điều thứ hai phải để ý nữa là có thái độ tiếp đón mọi người không phân biệt gì cả, dù là một người hèn hạ, vô ích thì người môn đệ Chúa cũng phải tiếp đón (để nhấn mạnh ý tưởng tiếp đón, Chúa Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ, tức là một con người không mang lại lợi ích gì cho kẻ tiếp đón nó, mà còn mang tới phiền muộn).
B.... nẩy mầm.
1. Trong "nước trần gian", muốn thành đạt thì phải chứng tỏ cho người ta thấy mình là "người lớn", lớn về khả năng, lớn về trí óc, lớn về sức mạnh v.v. Còn trong Nước Trời, Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ mình tỏ ra là trẻ nhỏ, là đầy tớ. Để mở mang Nước Trời ở trần gian này, tôi phải có một lối sống hơi ngược đời như thế, vì "Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian".
2. "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy tức là đón tiếp chính mình Thầy". Những "trẻ nhỏ như thế này" là những người nghèo hơn tôi, kém thông minh hơn tôi, yếu hơn tôi, cư xử nói năng vụng về hơn tôi… Chính vì họ tệ hơn tôi nên tôi thường xua đuổi họ hoặc không thích ở gần họ. Nhưng như thế tức là tôi đã xua đuổi và thờ ơ với chính Chúa rồi.
3. Ngày xưa các môn đệ đã làm một chuyện lố bịch là mặc kệ Chúa mời gọi đi theo Ngài trên con đường thập giá, họ cứ tranh dành nhau địa vị và quyền lợi. Nhưng về sau khi hiểu lại, họ đã thay đổi hẳn: "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô". Phần tôi, tôi cứ tiếp tục việc làm lố bịch đó. Khi nào thì tôi mới hiểu lại và thay đổi đây?
4. Lạy Chúa Giêsu, Chúa là con đường của chúng con. Xin cho chúng con luôn đi theo con đường thập giá Chúa để mỗi ngày được nên giống Chúa hơn.
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con".
Sau khi Thầy Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục sinh lần hai, các môn đệ đã cãi nhau ngay ngoài đường xem ai là người lớn nhất. Như thế tham vọng cá nhân vẫn tồn tại cả nơi những người đã bỏ mọi sự mà theo Thầy (Mc 9, 33-37). Sau vụ tranh cãi có tính nội bộ trên, bài Phúc Âm hôm nay kể lại chuyện tranh cãi với người ngoài nhóm. Gioan, “con của Thiên Lôi”, là người khởi đầu câu chuyện. Thực ra ông chỉ là người nói lên phản ứng chung của các anh em. Họ bực bội vì có người “không theo chúng ta”, không ở trong nhóm, mà lại dám lấy Danh Thầy Giêsu để trừ quỷ (c. 38). Và thực sự người đó đã trừ được một cách thành công. Danh Giêsu có sức mạnh trừ quỷ, đó là điều không thể chối cãi. Nhưng đối với Gioan và các bạn của ông, chỉ những người trong nhóm mới có quyền dùng Danh ấy. Chính vì thế Gioan thú nhận, “chúng con đã cố ngăn cản…” Họ muốn độc quyền sử dụng Danh Thầy, nghĩa là muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu ai cũng lấy Danh Giêsu mà trừ quỷ, thì còn thế giá gì cho các ông! Chẳng rõ các môn đệ đã làm gì để ngăn cản người kia, Chỉ biết Thầy Giêsu không chấp nhận thái độ cấm đoán ấy (c. 39). Thầy bao dung và cởi mở hơn nhiều. Thầy có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Thầy mà trừ quỷ. Hẳn người ấy có niềm tin nào đó vào Thầy, vào quyền năng của Danh Thầy. Như thế anh ấy đã có tương quan ít nhiều với Thầy, dù không theo Thầy làm môn đệ chính thức trong nhóm. “Ai không chống chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Nguyên tắc này của Đức Giêsu khiến chúng ta có thêm nhiều bạn, và bớt số người mà ta nghĩ là kẻ thù. Nó khiến chúng ta ra khỏi sự lo sợ vì quyền lợi mình bị đe dọa, và tránh được những tranh chấp không đáng có. Thật ra thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ sự ích kỷ chứ không từ lòng đạo đức thực sự. Có thứ khép kín ích kỷ của một cá nhân, nhưng cũng có sự khép kín ích kỷ của một tập thể, một họ đạo, một dòng tu, một tôn giáo, một quốc gia. Đức Giêsu mời chúng ta vượt ra khỏi ranh giới của nhóm mình, để mở ra với thế giới, với các kitô hữu khác, với những người không tin. Chúng ta cần thấy những điều chân thiện mỹ nơi họ như những tia nắng đến từ Vừng Đông rực rỡ là Đức Giêsu, và cảm được mối dây thầm kín kết nối họ với Thiên Chúa. Cần tập nhận ra Đức Giêsu đang hiện diện và hoạt động ở những nơi, những tổ chức và những người mà ta không ngờ. Rao giảng Tin Mừng cho một người là nói với người ấy rằng anh đã quen biết Giêsu và Giêsu đã ở trong anh từ lâu. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài. Xin tha thứ cho con vì đã quá bận tâm đến những điều mình nói, đến ảnh hưởng của mình, đến những điều người ta nói và nghĩ về con. Xin tha thứ cho con vì muốn nên giống kẻ khác mà quên mất chính mình, vì khao khát có được những đức tính của họ, mà quên phát triển bản thân. Xin tha thứ cho con vì đã mất nhiều thời gian cho việc phô trương hơn là cho việc xây dựng bản thân. Xin cho con biết cởi mở với anh em; nhờ đó, Chúa có thể đến với con như đến với một người bạn. Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người” mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài vì con là con của Chúa và là anh em của mọi người. (Michel Quoist)
Con người nơi nào thời nào cũng mơ ước được khôn ngoan. Sách Huấn ca hôm nay cho thấy: Khôn ngoan làm cho con người nên cao trọng. Được sự sống. Được vinh quang. Người khôn ngoan sẽ lãnh đạo người khác. Dòng dõi sẽ trường tồn. Tuy nhiên để đạt tới khôn ngoan phải qua một cuộc thử luyện: “Vì ban đầu, khôn ngoan sẽ đồng hành với họ qua nẻo đường quanh co, giáng xuống trên họ hãi hùng run rẩy, và dùng kỷ luật của mình mà tôi luyện bao lâu chưa tin tưởng họ được,; rồi lại thử thách họ qua những phán quyết của mình” (năm lẻ).
Thánh Gia-cô-bê cho biết khôn ngoan chính là người biết từ bỏ ý mình để làm theo ý Chúa. Chúa làm chủ muôn vật muôn loài. Làm chủ cuộc đời chúng ta. Làm chủ cả linh hồn. Cả thân xác. Cả trí tuệ. Cả tài năng. Cả chương trình. Cả thời gian. Vì thế đừng tự mình toan tính gì. Khôn ngoan chính là biết tìm ý Chúa. Làm mọi sự theo ý Chúa. Muốn những gì Chúa muốn. Để Chúa điều khiển cuộc đời. “Thật vậy, các người chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi. Thay vì nói: “Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia”, thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự phụ như thế đều xấu” (năm chẵn).
Chúa Giê-su dạy ta biết khôn ngoan là đừng tìm theo ý mình. Chỉ làm vinh danh Thiên Chúa. Các tông đồ thiếu khôn ngoan. Vì bị tính tự ái, phe nhóm, độc quyền chi phối. Chỉ tìm thoả mãn tự ái của mình. Muốn độc quyền thuộc về Chúa và làm chứng về Chúa. Vì thế mà khép kín. Ích kỷ. Nghĩ cho bản thân. Không nghĩ cho Chúa. Cho Nước Chúa. Hẹp hòi. Không chịu mở rộng cánh cửa. Càng không mở rộng tâm hồn. Chúa đã chỉnh đốn các ông. Hãy khôn ngoan. Tìm ý Chúa chứ đừng tìm ý riêng. Tìm đồng thuận chứ đừng tìm đối nghịch. Tìm điểm chung chứ đừng tìm điểm riêng. Tìm hài hoà chứ đừng tìm khác biệt. Tìm hợp nhất chứ đừng tìm chia rẽ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Thật đơn sơ biết bao. Mà thâm sâu biết bao. Rộng mở. Mà khôn ngoan.
Lạy Chúa, xin ban cho con đức khôn ngoan. Để con biết phục vụ Chúa.
Disney và Roy là hai anh em, mỗi người có một biệt tài và họ đã sớm nhận ra tài năng của nhau. Disney là họa sĩ, còn Roy là một doanh nhân. Họ phân công với nhau: Roy lo sản xuất và tiêu thụ. Disney thì tập trung vào sáng tác. Nhờ sự hợp tác chặt chẽ này, hai anh em đã tạo được sự nghiệp lớn lao.
Nhận ra tài năng của người khác là việc ai cũng có thể làm, nhưng thành thật nhìn nhận tài năng và cùng cộng tác với người khác là điều không dễ thực hiện. Ðó cũng đã là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu. Họ khám phá có người nhân danh Chúa để trừ quỷ, nhưng người này lại không thuộc nhóm của họ, thế là họ ngăn cấm người ấy, Chúa Giêsu trả lời: "Ðừng ngăn cấm người ta... Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Qua suốt dòng lịch sử, đặc biệt từ Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội không ngừng đẩy mạnh sự hợp nhất giữa các Giáo Hội Kitô, hoặc trong chính nội bộ của mình. Nhu cầu của Giáo Hội thật đa diện, cần có sự đóng góp của nhiều người mới mong đáp ứng đầy đủ. Những khác biệt trong Giáo Hội là vẻ đẹp muôn mầu muôn sắc, nếu tất cả múc lấy nguồi suối từ Chúa Giêsu và sức mạnh từ Thánh Thần.
Ước gì lời Chúa hôm nay hun đúc chúng ta lòng mong muốn làm điều tốt cho người khác, tìm kiếm chân lý hơn là tìm cách thắng cuộc trong tranh luận. Xin Chúa Kitô là nguồn hiệp nhất trong Giáo Hội giúp chúng ta thành tâm hiệp nhất với nhau trong mọi việc.
Ông Gio-an nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy.” (Mc. 9, 38-39)
Có một lúc nào đó các tông đồ đã tranh luận với nhau để xem ai là người lớn nhất. Và đây lại một cuộc cãi cọ nữa, lần này với một người lạ mà Chúa đã lệnh cho thay vào chỗ Người. Chính Gioan là người đến kể lại cho Thầy về trường hợp người trừ quỷ lạ mặt đó. Ông Gioan này, một con người hiền dịu như thế, lại rất có thể nổi nóng, tàn bạo. Ta còn nhớ, một ngày nào đó, ông đã xin Chúa Giêsu cho lửa trời và sấm sét xuống tiêu diệt một làng của người Samari, vì họ đã không chịu tiếp rước các ngài. Ông không gớm cả những biện pháp mạnh. Ở đây, ông lại bực tức với một người ngoại nhập lấy danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ và được thành công. Thật là xì-căng-đan hết chỗ!
Vì “người ấy không theo chúng ta.” Người ấy không phải là người thuộc nhóm chúng ta và kìa anh ta tiếm quyền của chúng ta, dẫm chân lên những mảnh vườn của chúng ta. Đó là một sự lộn xộn mà anh ta xin Chúa Giêsu sửa sai. Vả lại các tông đồ cũng đã bắt đầu xen vào. Các ông đã ngăn cản anh lấy danh nghĩa Chúa mà hành đông và các ông đòi Chúa công nhận hành đông của các ông. Còn Gioan một phần nào như muốn nói: “Khỏi cần đi theo Thầy nữa, làm môn đệ Thầy mà làm chi, khi mà kẻ tới trước đều có thể hành động nhân danh Thầy.”
Đừng là ốc đảo
Phản ứng của Chúa Giêsu, đày lòng bao dung, đã phải làm cho các môn đệ thất vọng: Người lệnh cho các ông cứ để cho người lạ này trừ được bao nhiêu quỷ thì cứ làm, và công việc ấy biện minh cho con người anh: người mới gia nhập này tỏ cho thấy có nhiều dấu hiệu thiện chí, công việc anh làm đều hướng về Chúa Giêsu, và một khi ra đi rồi, chẳng lẽ anh lại đâm ra khinh rể và nhục mạ Người. Ở đây Chúa Giêsu xem ra lạc quan, sẵn sàng kết nạp mọi người ở ngoài, sẵn sàng tỏ thái độ dễ dàng để chiêu mộ những người theo. Thực tế mà nói, Chúa muốn cho các môn đệ thấy rằng thái độ của các ông là không có căn cứ, là hẹp hòi.
Chúa giải thích thêm bằng câu nói bất hủ: “Ai không chống lại tôi, là ủng hộ tôi.” Người truyền lệnh cho các ông phải vượt khỏi những cái nhìn hoàn toàn phàm trần và hẹp hòi của các ông, bỏ ra một bên tinh thần phe nhóm và cởi mở với tất cả mọi người thiện chí. Nhưng thái độ này của Chúa Kitô không phải là “ba phải” chút nào: khi phải chiến đấu chống sự ác, Người tỏ ra kiên quyết và Người sẽ tuyên bố: “Ai không cùng với chúng ta, là chống lại chúng ta.” Có nghĩa là trung lập khi phải đối phó với sự ác chính là đồng lõa với sự ác vậy.
Người ta thường so sánh khả năng làm việc nhóm giữa người Việt Nam và người Nhật Bản, kết quả như sau:
Cùng một công việc, một người Việt và một người Nhật, người Việt hơn hẳn người Nhật.
Hai người Việt làm việc với nhau và hai người Nhật làm với nhau, kết quả bằng nhau.
Ba người Việt làm việc chung và ba người Nhật làm việc chung, thì ba người Nhật hơn hẳn về chất lượng cũng như tinh thần cộng tác.
Tại sao vậy? Thưa không phải người Việt không nhận ra khả năng của nhau! Cả người Việt và Nhật đều nhận ra khả năng của người đối diện. Tuy nhiên, về sự trân trọng tài năng và sử dụng chất xám trong khi làm việc chung thì người Nhật bỏ xa chúng ta!
Đây cũng chính là tâm trạng, thái độ của các môn đệ khi thấy người khác làm việc tốt hơn mình, nhưng chỉ vì họ không thuộc về nhóm của các ông, nên các ông tìm cách ngăn cấm họ.
Với Đức Giêsu thì khác. Khi thấy thái độ kỳ thị của các ông, Ngài đã dạy cho họ bài học về sự hiệp nhất trong đa dạng khi nói: “Đừng ngăn cấm người ta… Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự đa dạng trong Vương Quốc của Đức Giêsu. Đồng thời cũng mời gọi các ông biết đón nhận những sự khác biệt đó như là một cơ hội để học hỏi và cùng nhau chung tay xây dựng Nước Trời.
Ngày nay, trong đời sống thường nhật, có lẽ nhiều khi chúng ta mong muốn được nhiều người tôn trọng mình và coi thường người khác. Hay có khi chúng ta tìm cách thổi phổng uy tín dởm của mình và luôn tìm cách đạp đổ danh thơm tiếng tốt của đối phương. Hoặc có những lúc chúng ta không ưa ai thì cho dù người đó có tốt lành, gương mẫu thế nào đi nữa, trước mắt và trong lối suy nghĩ của ta, họ chỉ là “con ông nọ, con bà kia ý mà”!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được trái tim rộng mở như Chúa, để chúng con biết nhìn thấy điều tốt đẹp nơi anh chị em của mình, và cùng nhau cộng tác nhằm góp phần xây dựng sự hiệp nhất cho Vương Quốc của Chúa trên trần gian. Amen.
Sứ điệp: Tin Mừng phải được rao giảng. Rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa không phải là đặc quyền của riêng ai, nhưng là sứ mạng của tất cả mọi người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay đã xác định rõ thái độ con phải có đối với việc loan báo Tin Mừng. Đang khi các tông đồ tỏ ra không bằng lòng về một người lạ mặt lấy Danh Chúa mà trừ quỷ, thì chính Chúa đã bênh vực người đó. Thông truyền cứu độ, đó là sứ mạng Chúa trao cho tất cả mọi người, không trừ ai. Và tiêu chuẩn để xác định một người thuộc về Chúa, đó là người ấy có hành động nhân danh Chúa hay không.
Lạy Chúa, mỗi khi nhận được tin vui về người thân, con chỉ muốn đến ngay với họ. Và nếu như họ chưa biết tin vui ấy, thì con muốn rằng chính con sẽ là kẻ báo tin vui cho họ. Tin vui càng lớn bao nhiêu, con càng muốn báo cho họ sớm bấy nhiêu. Nhưng tất cả các tin vui mà con vừa thưa với Chúa thật là tầm thường so với Tin Mừng mà Chúa đã đem đến cho loài người. Đây là tin trọng đại làm thay đổi số phận cả loài người. Tin trọng đại ấy khơi dậy trong tâm hồn con ước muốn được ra đi loan báo cho anh chị em con. Con muốn ra đi, thoát ly tất cả những cũ kỹ hư nát của nếp sống, muốn gội sạch lớp mốc đã phủ dầy theo ngày tháng, muốn trở thành một con người mới nhân danh Chúa. Ước mơ ấy bừng sáng trong con, hoàn toàn mới mẻ, cao thượng và mạnh mẽ.
Ước gì đó cũng là ước mơ của tất cả mọi người, đặc biệt là giới trẻ. Thay vì bỏ nhà đi hoang, sẽ lên đường rao giảng Nước Chúa. Con dâng lên Chúa ước nguyện đó, xin Chúa chúc phúc cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không chống đối các con, là ủng hộ các con”.
Hôm qua, Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ và tiếp đón. Hôm nay Ngài dạy bài học bao dung và hợp tác. Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Chúa Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Chúa Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.
- Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với nhũng nhóm khác. Phương châm của thế gian là "Ai không theo ta tức là nghịch với ta"
- Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, nhưng phải sẵn sàng hợp tác với tất cả mọi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là "Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta".
B.... nẩy mầm.
1. Kẻ thốt lên những lời sặc mùi đố kị này là ai? Cũng là kẻ một lần khác đòi khiến lửa trời xuống thiêu rụi một làng Samari không tiếp đón Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Đó chính là Gioan, "người môn đệ mà Chúa Giêsu thương yêu". Con người tự nhiên của Gioan vốn xấu như vậy. Nhưng nhờ tình thương của Chúa, sau này Gioan trở nên tốt, có thể nói là tốt hơn những môn đệ khác. Nhìn gương thánh Gioan, tôi không thất vọng về bản chất xấu xa của mình, nhưng tôi càng tin cậy vào tình thương có sức biến đổi tuyệt vời của Chúa.
2. Gioan cũng là một trong 3 môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu. Thế mà vẫn nặng đầu óc phe phái. Gioan đố kị với cả những người "nhân danh Chúa mà trừ quỷ", tức là những người làm việc tốt.
Thánh Gioan mà còn như thế thì huống chi là tôi. Tôi phải khiêm tốn thừa nhận trước Chúa và trước lương tâm rằng tôi đã nhiều lần đố kị ganh ghét các anh chị em tôi, ganh ghét không phải vì họ xấu mà chính vì họ tốt. Và tôi phải hết sức đề phòng không để cho khuynh hướng ganh ghét ấy khuynh đảo tôi nữa.
3. Tôi thường nhìn người khác một cách nghi kị và khắt khe. "Họ không ủng hộ tôi tức là họ chống đối tôi". Do cái nhìn ấy, nếp sống của tôi trở nên bi quan và khép kín. Hôm nay Chúa dạy tôi một cái nhìn rất bao dung và rất lạc quan "Ai không chống đối các con là ủng hộ các con". Chắc chắn với cái nhìn này đời tôi sẽ vui tươi hơn và tôi sẽ làm việc thoải mái hơn.
4. Truyện ngụ ngôn Ấn độ có kể như sau:
Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần gian.
Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác, đến: "Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng tốt". Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con không thể gặp được một con người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn".
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một con người thực sự xấu xa". Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm cắp… nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp.
Cho dù có vấp ngã, mọi người đều có lòng tốt". (Chờ đợi Chúa)
Hôm qua, Đức Giêsu dạy các môn đệ bài học phục vụ và tiếp đón. Hôm nay Ngài dạy bài học bao dung và hợp tác. Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Đức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Đức Giêsu chẳng những không ngăn cấm họ mà con sửa dạy các môn đệ của mình:
- Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là: “Ai không theo ta tức là nghịch với ta”.
- Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, nhưng phải sẵn sàng hợp tác với tất cả những người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là “Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta”.
Kẻ thốt lên những lời sặc mùi đố kỵ này là ai? Cũng là kẻ một lần khác đòi khiến lửa trời xuống thiêu rụi một làng Samari không tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ Ngài? Đó chính là Gioan. Ông cũng muốn độc quyền cho Chúa hay các Tông đồ mà thôi. Nhưng Chúa lại bảo: “Chớ ngăn cản họ...”(c.39). Chúa muốn nói rằng dù là ai mà nại vào danh Ngài tức là đã có lòng tin vào quyền của Chúa rồi. Vậy khi trừ được ma quỷ càng làm tăng giá trị đức tin nơi người đó và nạn nhân. Và đó là một vinh danh Thiên Chúa.
Ở đây, Chúa muốn dạy các môn đệ một bài học đừng ganh tị nhau trên con đường phục vụ Thiên Chúa. Mỗi người phải ý thức mình là một phần trong cơ thể. Tuy các chi thể khác nhau nhưng làm thành một thân thể duy nhất. Mỗi một chi thể phải làm xong, và làm hoàn hảo công tác của mình. Cho nên, hãy ý thức rằng những chức vụ khác nhau trong Giáo hội không phải là sự phân chia giai cấp mà là những công tác khác nhau của những cá nhân trong một tập thể Hội thánh Chúa phục vụ cho vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
Thần học mục vụ ngày nay có đề cập đến hai hạn từ “bao hàm” và “loại trừ”. Các môn đệ ngăn cản người ngoài nhóm lấy danh Chúa trừ quỷ thuộc hạng “loại trừ”, còn cung cách của Đức Giêsu là “bao hàm”, bao dung chấp nhận người ngoài nhóm lấy danh mình trừ quỷ, bởi vì nhân danh mình là một cách nào đó đã có liên hệ với mình. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Người mang tâm thức “loại trừ” thường mặc cảm tự ti, luôn sợ bất lợi cho mình hoặc phe nhóm mình. Vì thế, tốt nhất là ngăn cản, không muốn cho ai hành động. Còn người có khuynh hướng “bao hàm” sẵn sàng đón nhận những khác biệt, nhất là những khác biệt có thể mang lại lợi ích chung. Điều này càng đúng hơn cho thời đại hôm nay, vì thế giới ngày càng đa cực, đa diện hơn trong cách ứng xử, tiếp cận chân lý (5 phút Lời Chúa).
Sự cộng tác là cần thiết và ích lợi
Nhận ra tài năng của người khác là việc ai cũng có thể làm, nhưng thành thật nhìn nhận tài năng và cộng tác với người khác là điều không dễ thực hiện. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Đức Giêsu. Họ khám phá có người nhân danh Chúa để trừ quỷ, nhưng người này lại không thuộc nhóm của họ, thế là họ ngăn cấm người ấy. Đức Giêsu trả lời: “Đừng ngăn cấm người ta... Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Walt Disney và Roy là hai anh em, mỗi người có một biệt tài và họ đã sớm nhận ra tài năng của nhau. Disney là hoạ sĩ, còn Roy là một doanh nhân. Họ phân công với nhau: Roy lo sản xuất và tiêu thụ. Disney thì tập trung vào sáng tác. Nhờ sự hợp tác chặt chẽ này hai anh em đã được sự nghiệp lớn lao (Mỗi ngày một tin vui).
Vườn hoa Giáo hội Chúa thì muôn màu muôn vẻ, nhưng cùng góp chung tô điểm cho Nước Chúa thêm xinh đẹp rạng rỡ; cánh đồng truyền giáo bao la rất cần đến nhiều sáng kiến của từ các cá nhân, hội đoàn và các linh đạo hoạt động mới.
Là người con của Chúa trong lòng Giáo hội, chúng ta không ganh tị với việc thiện của người khác, không tự cho mình có đặc quyền lo việc Chúa, nhưng tất cả đều được mời gọi có những sáng kiến làm chứng cho Chúa và giúp đỡ tha nhân.
Ngoài ra, trong khi phục vụ Giáo hội, chúng ta phải đặc biệt tránh cái thành kiến, nó làm lệch lạc sự việc, nó chẳng khác gì cặp kính màu mà ta đeo trước mắt. Người đeo mắt kính tròng trắng sẽ thấy cảnh vật sáng sủa. Trái lại, với cặp kính màu hồng, cảnh vật cũng đượm màu hồng, nhưng với cặp kính đen, mọi sự sẽ ra u buồn đen tối.
Truyện: Bao dung và hợp tác
Truyện ngụ ngôn Ấn Độ có kể như sau: Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần gian.
Trước tiên thần gọi Durianna, một vua nổi tiếng tàn ác đến: “Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một người có lòng tốt”. Durianna đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: “Lạy Ngài, con không thể gặp được một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn”.
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng là quảng đại, bao dung, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: “Ngươi hãy đi tìm cho ta một con người thực sự xấu xa”.
Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: “Lạy ngài, con xin lỗi, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, tham lam, trộm cắp... nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp, vì cho dù vấp ngã mọi người đều có lòng tốt” (Góp nhặt).
Hôm qua, Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ và tiếp đón. Hôm nay, Ngài dạy bài học bao dung và hợp tác.
Chúng ta thấy phương châm của thế gian thường là "Ai không theo ta tức là nghịch với ta". Còn phương châm của Chúa Giêsu là: "Ai không chống đối Ta tức là ủng hộ Ta" (Mc 9,40).
1. Chúng ta đã biết Gioan là ai rồi! Gioan đã một lần đòi khiến lửa từ trời xuống để thiêu rụi một làng Samaria, khi họ không chịu tiếp đón Chúa và các môn đệ qua đó để lên Jêrusalem. Gioan tự phong cho mình là "người môn đệ được Chúa Giêsu thương yêu", thế nhưng tinh thần của Gioan vẫn còn khác xa với tinh thần của Chúa. Con người tự nhiên của Gioan là như thế, vẫn còn rất hẹp hòi và có nhiều hạn chế. Thế nhưng, nhờ tình thương của Chúa mà sau này Gioan được trở nên tốt, có thể nói là tốt hơn những môn đệ khác.
Nhìn gương của Gioan chúng ta sẽ không thất vọng về bản chất xấu xa của mỗi người chúng ta, nhưng thêm tin tưởng hơn vào tình thương có sức biến đổi tuyệt vời của Chúa. Phải nói rằng, chúng ta rất dễ bị cám dỗ để nhìn người khác với cặp mắt nghi kỵ và khắt khe. "Họ không ủng hộ chúng ta tức là họ chống đối chúng ta". Những cái nhìn như thế, chẳng những không đem lại niềm vui nào cho cuộc sống mà còn gây ra những hậu quả nhiều khi rất nặng nề làm cho cuộc sống trở nên như một hỏa ngục!
2. Hôm nay, Chúa dạy chúng ta phải có một cái nhìn bao dung và lạc quan "Ai không chống đối các con là ủng hộ các con" (Lc 9,50). Chắc chắn với cái nhìn này, cuộc sống của chúng ta sẽ vui tươi hạnh phúc và làm việc thoải mái hơn.
Người ta kể lại: hôm ấy một bác nông phu nọ đang cày ruộng, tình cờ có một người khách qua đường dừng lại hỏi.
- Thưa bác, người dân làng trước mặt tôi đây là người thế nào?
Không buồn dừng tay cày, cũng chẳng cần phải ngoảnh mặt lên nhìn người khách lạ, bác nông phu trả lời bằng một câu hỏi khác.
- Thế thì làng vừa đi qua ông đã gặp thấy những người như thế nào?
Người khách lạ vừa bâng quơ chỉ chỏ, vừa trả lời.
- Ôi thôi, toàn những người độc ác, ích kỷ, vô lương tâm.
Bấy giờ, bác nông phu mới dừng tay cày ngước mắt lên nhìn người khách lạ và nói.
- Rất tiếc, tôi cũng phải nói với ông rằng: những người trong làng trước mặt ông đây cũng y như thế thôi. Ông sẽ khám phá ra rằng, họ cũng là những người giống y như những người trong làng ông vừa mới đi qua.
Nghe vậy, người khách lạ bực mình phóng ngựa ra đi. Xế chiều hôm ấy, một người khách lạ khác cũng đi ngang qua lối ấy, thấy bác nông phu cày ruộng đang chuẩn bị ra về, khách qua đường dừng chân lịch sự hỏi: - Những người dân sống trong làng gần đây thế nào?
Bác nông phu cũng đáp lại bằng một câu hỏi y như bác đã hỏi người khách lạ ban sáng.
- Những người trong làng ông vừa đi qua thế nào?
Người khách lạ vui vẻ đáp:
- Họ thực là những người tốt lành, niềm nở, hiếu khách, tôi rất tiếc là phải sớm từ giã họ.
Bác nông phu liền bỏ cày, bỏ cuốc, tiến lại gần người khách qua đường vừa bắt tay vừa nói:
-Tôi rất mừng vì những người ông đã gặp, ước chi ông sẽ gặp được những người như thế trong làng gần đây.
Khách qua đường thứ hai mỉm cười, lại vẫy tay chào bác nông phu rồi ra đi tiếp vào làng.
Câu chuyện trên đây trích từ sách chuyện cổ của những người thổ dân Châu mỹ Latinh. Câu trả lời của hai người khách qua đường cho chúng ta thấy cái lợi, cái hại từ cái nhìn của chúng ta đối với cuộc sống. Nó chẳng khác gì những cặp kính màu mà ta đeo trước mắt. Người đeo mắt kính tròng trắng sẽ thấy cảnh vật sáng sủa. Trái lại, với cặp kính màu hồng, cảnh vật cũng đượm màu hồng, nhưng với cặp kính đen, mọi sự sẽ ra u buồn đen tối.
Chúng ta thường nghe nói: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Bao nhiêu sự giằng co căng thẳng, bao nhiêu sự hiểu lầm cay đắng, bao nhiêu đổ vỡ đau thương trong các quan hệ xã hội đã bắt nguồn từ cái nhìn chủ quan, hạn hẹp, còn quá lệ thuộc vào những thành kiến ích kỷ này. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta đừng quá dễ dàng để cho mình bị lôi cuốn vào những tình cảm, những xúc động của xác thịt làm lu mờ cả lý trí chúng ta và cho chúng ta biết quảng đại trong cách nhìn đối với tất cả mọi người để chúng ta thấy được những cái hay cái tốt của người khác hầu chúng ta có thể cùng nhau nắm tay xây dựng cho Chúa một xã hội tốt đẹp hơn.
Lạy Chúa, xin đừng để trái tim con khép lại trên chính mình,
nhưng biết sống quảng đại như Chúa,
biết vươn lên cao, vượt lên trên mọi tình cảm tầm thường
bằng một tâm tình bao dung tha thứ như Chúa. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa. "Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được? Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau".
Khi nghe một người chịu tháo khớp vì mắc bệnh tiểu đường, chúng ta chẳng ngạc nhiên mấy. Mất đi bàn chân mà kéo dài được sự sống thì còn hơn là giữ lại mà phải chết. Có bao nhiêu người chịu giải phẫu mỗi ngày. Họ chấp nhận cắt bỏ một phần thân thể bị hư hoại, để mong giữ lại được cả mạng sống. Tuy việc cắt bỏ luôn đi kèm với đau đớn và mất mát suốt đời, nhưng người ta vẫn vui vì thấy mình còn sống. Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm ta ngạc nhiên và không vui. Bài này có nhiều câu được lặp lại như một điệp khúc. ‘‘Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì anh hãy chặt nó đi… Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì anh hãy chặt nó đi… nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì anh hãy móc nó đi…” Có cần phải chặt tay, chặt chân hay móc mắt không? Có cần phải hiểu các câu này của Chúa theo nghĩa đen không? Nếu hiểu theo nghĩa đen, chắc khó mà có một kitô hữu lành lặn. Bởi vậy chúng ta thường dễ bỏ qua hay hiểu theo nghĩa bóng, và có nguy cơ làm yếu đi sứ điệp mà Đức Giêsu muốn chuyển tải. Giá Trị tối hậu mà Đức Giêsu muốn chúng ta coi trọng đó là Sự Sống vĩnh hằng, là Nước Thiên Chúa (cc. 43-47). Để có được Giá Trị này, ta phải chấp nhận hy sinh nhiều giá trị khác. Hơn nữa, chúng ta lại càng phải từ bỏ hy sinh những gì cản trở khiến ta không thể đạt tới mục đích mình theo đuổi. Tay, chân, mắt là những bộ phận rất quan trọng trong cơ thể. Chúng là những chi thể không thể thiếu để có một đời sống bình thường. Tuy nhiên, chúng có thể trở thành duyên cớ khiến ta vấp phạm, sa ngã. Sa ngã ở đây là thứ sa ngã đưa chúng ta vào cõi chết đời đời, nơi toàn bộ cuộc đời chúng ta bị đổ vỡ nát tan không sao hàn gắn. Vì cuộc đời của chúng ta là vô giá, một cuộc đời đã được chuộc bằng chính Máu Con Thiên Chúa, một cuộc đời mà chính chúng ta đã dày công xây đắp, nên việc cắt bỏ những điều phá hoại cuộc đời ấy là chuyện tự nhiên. Chặt tay, chặt chân hay móc mắt là những điều kinh khủng, gây đau đớn. Bị què tay, què chân hay chột mắt ở đời này là điều chẳng ai mong. Nhưng Đức Giêsu mời chúng ta nghĩ đến giá trị của đời sống vĩnh cửu, để có can đảm cắt đứt với những thụ tạo đang làm hư hỏng đời ta. Cắt đứt với một thói quen xấu lâu năm, hay cắt đứt tương quan tội lỗi với một người, những điều ấy nhiều khi còn khó hơn việc móc mắt hay chặt tay. Chúng ta chỉ có thể sống Lời Chúa hôm nay nếu chúng ta không bị hút bởi khoái lạc trần gian ngay trước mắt. Xin Chúa giúp ta thực hiện những cuộc giải phẫu mỗi ngày, để đau đớn của đoạn tuyệt hôm nay đem lại hạnh phúc trọn vẹn mãi mãi. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen. ---------------------------------
Cần biết phân biệt mục đích và phương tiện. Vì phương tiện là để sử dụng. Mục đích là để đạt tới. Phải dùng phương tiện để đạt tới mục đích. Không phải ngược lại. Đừng vì tiếc phương tiện mà để lỡ mục đích. Đừng dừng lại phương tiện. Nếu phương tiện cản trở. Phải mạnh dạn gạt bỏ. Để đạt tới mục đích.
Đời sau là mục đích. Đời này là phương tiện. Linh hồn là mục đích. Thân xác là phương tiện. Phải biết dùng đời này để đạt được đời sau. Phải biết dùng thân xác để đạt tới linh hồn. Hi sinh đời này sẽ đạt được đời sau. Hi sinh một phần thân thể, kể cả mạng sống, sẽ đạt được Nước Trời. “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt”.
Vì thế đừng cậy vào của cải. Đừng chiều theo dục vọng. Tất cả đều chóng qua. Phải mau sám hối. Đừng đợi đến lúc Chúa nổi lôi đình. Sẽ kinh khủng. Và không còn kịp nữa. “Đừng trì hoãn, hãy trở về với đức Chúa đi; đừng lần lữa hết ngày này qua ngày khác, vì thình lình Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ, và trong thời trừng phạt, con sẽ phải tiêu vong. Đừng cậy dựa vào của cải bất chính, vì điều đó chẳng ích gì cho con ngày con gặp bất hạnh” (năm lẻ).
Của cải là phương tiện chứ không phải mục đích. Của cải để sử dụng chứ không phải để tích trữ. Nếu không biết dùng của cải sẽ là bằng chứng tố cáo. Nhất là đừng chiếm đoạt của cải cách bất công. Bất công sẽ bị kết án. Bấy giờ sẽ phải than van khóc lóc. “Giờ đây, hỡi những kẻ giầu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người….Vàng bạc của các ngươi đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người…Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh” (năm chẵn).
Đừng vì thân xác mà mất linh hồn. Đừng vì vật chất mà mất Nước Trời. Hãy hi sinh thân xác để được linh hồn. Hãy quảng đại chia sẻ tài sản. Để mua lấy Nước Trời. Đó là thái độ khôn ngoan cần thiết.
Vào thời trước, có một đoàn thám hiểm từ Âu Châu lên đường đi tìm vùng đất mới. Vị trưởng đoàn cho mọi người biết hễ ai chạm đến vùng đất mới trước tiên, người đó sẽ làm chủ vùng đất ấy. Một người trong nhóm quyết chiếm vùng đất mới bằng mọi giá. Ông tận lực chèo thuyền, nhưng một chiếc thuyền bạn đã bắt kịp và đang tiến lên phía trước gần sát bờ. Là một con người có ý chí sắt đá và gan dạ, ông đã can đảm lấy chiếc rìu chặt đứt bàn tay trái của ông, rồi ném lên bờ. Thế là bàn tay ông đã chạm đến đất trước tiên, do đó vùng đất này thuộc về ông.
Câu truyện trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay: "Nếu tay con làm cớ cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục". Ðiều Chúa muốn nhấn mạnh ở đây là cần phải sẵn sàng hy sinh những gì gần gũi thân thiết nhất, hơn là phạm tội mất lòng Chúa. Như thế, việc chặt chân, chặt tay, móc mắt, không thể hiểu theo nghĩa đen được. Chúa không có ý bảo chúng ta hủy bỏ một phần thân thể, nhưng qua cách nói ấy, Ngài có ý nói rằng Nước Trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả để chiếm hữu, cho dù phải đau đớn như việc chặt chân, chặt tay. Chẳng hạn, hy sinh của cải vật chất cho sự sống và hạnh phúc của đồng loại, cũng đau đớn như hy sinh một phần thân thể, nhưng sẽ chiếm hữu được Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã nói: Ai cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ không nhà trú ngụ, người ấy sẽ được Nước Trời làm cơ nghiệp. Cũng vậy, chúng ta sẽ chiếm hữu Nước Trời, nếu chúng ta dám hy sinh của cải, sức lực để hỗ trợ Giáo Hội và phục vụ cho công cuộc truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, Ngài không chỉ hy sinh một phần nào thôi, mà là dâng hiến toàn thân Ngài. Mỗi ngày trong Thánh Lễ, chúng ta cử hành việc hy hiến của Chúa Giêsu, chúng ta hãy xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta cũng biết trao ban chính mình để làm vinh danh Chúa và đem lại hạnh phúc cho đồng loại.
“Ai cho anh em uống một chén nước lã vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em người đó không mất phần thưởng đâu. Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc. 9, 41-42)
Bài Phúc âm ngày hôm nay có vẻ như rất rời rạc. Tuy gồm những câu rời rạc, nhưng tất cả đều liên hệ tới việc gia nhập và đón nhận sư sống Nước Trời. Tiên vàn, đó là chuyện cho các môn đệ uống một chén nước. Trong cuộc đời truyền giáo, các môn đệ sẽ gặp phải những đắng cay, khó khăn và chống đối đủ thứ ngay cả từ nơi những người thân của mình. Nhưng cũng sẽ có những người tử tế sẽ đón tiếp các ông. Chúa Giêsu hứa trước với những tấm lòng hiếu khách này rằng lòng tốt của họ sẽ được trọng thưởng, cho dầu lòng tốt ấy chỉ được biểu lộ bằng một chén nước. Ở đây Chúa Giêsu muốn các môn đệ ghi lòng tạc dạ điều này là các ông được đồng hóa với Người: một việc nhỏ nhất người ta làm cho các ông, là một việc tốt người ta làm cho chính bản thân Người vậy.
Một thái độ triệt để
Về vấn đề gương xấu, Chúa Giêsu tỏ ra một thái độ cương nghị hiếm có, nếu không phải nói là một sự tàn bạo khác thường: phải chết và chặt chân chặt tay. Ý niệm về gương xấu của Người khác với của ta: Đối với chúng ta, chúng ta nghĩ đó là một cử chỉ, một lời nói đụng chạm mạnh đến ý kiến chung, xúc phạm đến những người lành; còn đối với Người thì gương xấu là những gì gây nguy hiểm cho phần rỗi của người ta, chẳng hạn như làm cho những tâm hồn đơn sơ phải lo lắng bối rối về lòng tin của họ đối với Chúa Kitô. Kẻ nào gây một gương xấu như thế, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Cái chết thể lý đối với người ấy còn ít nguy hiểm hơn là đe dọa, làm hại đức tin của người khác. Chúa Giêsu dùng hình ảnh dữ tợn này không phải để chỉ sự kết án và hành hình như vậy, nhưng để diễn tả cái trách nhiệm nặng nề đáng sợ mà người gây nên gương xấu phải gánh lấy.
Đức Kitô nói tiếp về gương xấu của bản thân mỗi người, nghĩa là sự đe dọa, làm hại cho phần rỗi do chính những phàn thân thể của mình gây nên như: tay, chân, mắt… Ở đây lệnh truyền vẫn còn mạnh mẽ: “Hãy chặt, hãy móc”. Tuy nhiên ai cũng biết những phần thân thể này quan trọng như thế nào đối với cuộc sống. Mất một chân, một tay, một mắt, đối với một người là mất đi một phần con người của mình, điều mà ai cũng cảm thấy rất xót xa. Phải mất mát, thiệt thòi sự sống như vậy, chỉ đến nước cùng, người ta mới đành phải chịu vậy mà thôi. Và y khoa góp phần xoa dịu nỗi đau phần nào cho con người kém may khi dự liệu những bộ phận giả thay thế.
Vậy mà Chúa lại lệnh cho phải bỏ đi phần mình gây gương xấu. Chắc chắn là tính cách triệt để này không thể được hiểu theo nghĩa đen, bởi lẽ những tín hữu chúng ta sẽ không muốn được liệt vào hàng những kẻ què cụt, đui mù.
Nhưng Chúa chỉ muốn chúng ta ghi tâm khắc cốt điều này là những thái độ nửa vời, không kiên quyết, khi sự sống Nước Trời bị đe dọa, đều là ngoài đề và không thể chấp nhận được.
Trong cuộc đời sứ vụ của Đức Giêsu, nhiều lần Ngài đã nói đến quy luật được và mất. Chẳng hạn như: hạt lúa mỳ có thối đi thì mới sinh bông hạt; muốn theo Chúa thì phải bỏ mình; con người có chịu đau khổ mới được vinh quang...
Thánh sử Máccô trình thuật bài huấn dụ của Đức Giêsu về cái được và mất như sau: cái được mà Đức Giêsu nói ở đây là Nước Trời; còn cái mất chính là tay, chân, mắt khi chúng gây dịp tội...
Ngài nói: nếu tay con làm cớ cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục; với con mắt, Ngài cũng nói như vậy...
Tại sao Đức Giêsu lại cất lên lời dạy dỗ các môn đệ mạnh mẽ như vậy? Thưa là vì tới giờ này, các ông vẫn còn đang hoang tưởng về thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu theo kiểu trần gian. Các ông không chú trọng đến cốt lõi của vấn đề và chẳng hề có cái nhìn Thiên Giới khi chứng kiến những dấu lạ của Đức Giêsu.
Nếu cứ để các môn đệ bám víu vào những chuyện trần tục, thì viên ngọc quý là Nước Trời làm sao các ông có được nếu không chấp nhận đánh đổi bằng những hy sinh. Vì thế, thà mất tất cả mà được hạnh phúc đời đời thì hơn là có mọi thứ mà mất sự sống trường sinh.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chú trọng đến sự sống mai hậu. Được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì? Ta lấy gì để bù lại? Bởi vì sự sống đời đời mới là nơi mối mọt không thể đục khoét. Còn danh dự, chức quyền, giàu có... chỉ là phương tiện, khi ta chết, nó chào và tiễn ta ngay tại nấm mồ, để lại nơi chúng ta hai bàn tay trắng!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu thấu quy luật được - mất khi kiếm tìm hạnh phúc đích thực là Nước Trời. Xin cho chúng con cũng sẵn sàng thà mất tất cả mà được Nước Trời thì cũng chấp nhận. Ước gì, sau cuộc đời tại thế, chúng con có được gia tài đích thực là Nước Trời làm gia nghiệp. Amen.
Sứ điệp: Chúa muốn ta sống thánh thiện. Ta phải can đảm hy sinh cắt đứt những dịp tội và không được lôi kéo kẻ khác vào tội lỗi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới thấy tội lỗi gây ra cho con sự đau khổ trầm luân biết bao. Thế nên Chúa đã hy sinh xuống thế làm người và chịu chết trên thánh giá để cứu con khỏi tội lỗi. Công ơn cứu chuộc của Chúa, con xin trọn đời ghi khắc trong tim.
Lạy Chúa, Chúa nhìn thấy con thiển cận và dại dột dường nào. Rất nhiều lúc, chỉ vì thú vui lợi lộc mau qua mà con đã liều mình lao vào tội lỗi. Những dịp tội ở gần bên cạnh con, ở ngay trong chính bản thân con. Dịp tội mang dáng vẻ quyến rũ, ngọt ngào, dễ thương, nhưng bên trong chất chứa đầy nọc độc giết người. Xin Chúa giúp con biết cảnh giác đề phòng những cạm bẫy của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Xin Chúa ban cho con sức mạnh để con chống trả những cơn cám dỗ. Và xin Chúa ban cho con lòng can đảm để con biết hy sinh khước từ những gì lôi kéo con xa Chúa. Nếu cần, xin Chúa dạy con hy sinh ngay cả sự sống của thân xác con.
Lạy Chúa, con xin cho mọi người Kitô hữu biết sống thánh thiện để lôi kéo nhân loại đi lên. Thế giới hôm nay đầy những gương xấu, người ta đua nhau phô bày tội lỗi để lôi kéo nhau vào tội lỗi và xô đẩy nhau xuống vực thẳm. Đời sống tội lỗi của con cũng đã góp phần làm ô nhiễm thế giới. Xin Chúa thương xót và tha thứ cho con. Xin giúp con biết thận trọng trong lời nói, việc làm, cách sống, để đừng tạo nên ảnh hưởng xấu nơi người khác, nhất là nơi giới trẻ. Xin Chúa giúp con biết làm gương sáng cho người khác và góp phần thánh hóa thế gian. Amen.
Ghi nhớ: “Thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục”.
Trong đoạn này, Mc gom chung những giáo huấn mà có lẽ ngày xưa Chúa Giêsu đã dạy trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, do đó ta không thấy được mối liên hệ mạch lạc giữa các ý tưởng.
Có cả thảy 3 giáo huấn:
1. Ai giúp đỡ môn đệ Chúa thì sẽ được Chúa thưởng, dù sự giúp đỡ đó rất nhỏ.
2. Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho "những kẻ bé mọn".
- "Những kẻ bé mọn" không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.
- Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc: "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi…"
3. Các môn đệ Chúa phải có "muối" trong mình (Nhóm CGKPV giải thích là "sự từ bỏ") và phải sống hoà thuận với nhau.
B.... nẩy mầm.
1. "Ai cho các con một ly nước lã…": Tục ngữ VN có câu "nước lã mà khuấy nên hồ", nghĩa là từ không có gì cả mà làm nên chuyện. Vậy cho "một ly nước lã" nghĩa là hầu như chẳng cho gì cả, thế mà Thiên Chúa vẫn kể và vẫn thưởng công. Giá trị của tấm lòng kẻ biết phục vụ là như thế.
2. Trong dụ ngôn về ngày phán xét chung, Chúa Giêsu cũng thưởng các kẻ lành vì những việc nhỏ mọn họ đã làm cho "những kẻ bé mọn". Như thế nghĩa là trước mặt Chúa, một việc nhỏ bé nhất làm cho một kẻ nhỏ bé nhất cũng có giá trị rất cao cả. Hay nói cách khác, dưới con mắt Chúa, không có việc làm nào vì tình thương mà nhỏ bé cả.
3. "Ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin vào Thầy, thà buộc thốt cối xay vào cổ nó…": Cớ vấp phạm là những lời nói và hành động nhiều khi rất vô tình. Ai ngờ hậu quả chúng gây ra cho người khác và cho chính mình lại to lớn như thế.
Tôi đâu có biết rằng một lời nói của tôi chỉ để chơi thôi nhưng làm cho anh chị em tôi đau lòng đến cả đêm không ngủ. Huống chi một lời nói vì nóng giận mà tôi không kềm lại được…
Chúa dạy tôi phải quan tâm tới anh chị em. Trước khi làm gì hay nói gì tôi cũng phải suy nghĩ xem lời nói và việc làm đó sẽ có tác động gì nơi người anh chị em tôi.
4. "Nếu tay con nên dịp tội, hãy chặt đi… Nếu chân con… Nếu mắt con… Thà có một tay… một chân… một mắt mà được vào Nước Thiên Chúa": Được vào Nước Thiên Chúa là điều quý giá nhất, so với nó không có hy sinh từ bỏ nào là quá đáng cả.
Hiện giờ tôi cần phải "chặt" cái gì?
5. Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống cả con tàu. (Trích "Phúc")
Trong đoạn Tin mừng này, Marcô gom chung những giáo huấn mà có lẽ ngày xưa Đức Giêsu đã dạy trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, do đó ta không thấy được mối liên hệ mạch lạc giữa các ý tưởng.
Tất cả có 3 giáo huấn:
- Ai giúp đỡ môn đệ Chúa thì sẽ được Chúa thưởng, dù sự giúp đỡ đó rất nhỏ.
- Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho “những kẻ bé mọn”.
- Các môn đệ Chúa phải có “muối” trong mình (Nhóm CGKPV giải thích là “sự từ bỏ”) và phải sống hòa thuận với nhau.
Hôm nay chúng ta chỉ chú trọng triển khai bài giáo huấn thứ hai của Đức Giêsu.
Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay: “Nếu tay con làm cớ cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục”. Điều Chúa muốn nhấn mạnh ở đây là cần phải sẵn sàng hy sinh những gì gần gũi thân thiết nhất, hơn là phạm tội mất lòng Chúa. Như thế, việc chặt chân, chặt tay, móc mắt không thể hiểu theo nghĩa đen được. Chúa không có ý bảo chúng ta hủy bỏ một phần thân thể, nhưng qua cách nói ấy, Ngài có ý nói rằng Nước trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả để chiếm hữu, cho dù phải đau đớn như việc chặt chân chặt tay.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải hy sinh cho thế gian, xác thịt và ma quỷ; đồng thời phải biết duy trì, bảo vệ và phát triển phẩm giá làm con cái Chúa, sống trong ơn nghĩa Chúa.
Xét ra Lời Chúa hôm nay cũng không xa thực tế lắm. Có người chỉ vì lòng tham của cải chứ không phải vì Nước trời mà đã dám hy sinh một phần thân thể. Họ dám hy sinh cái nhỏ để chiếm được cái lớn.
Đó là ông O’Neil, nhà thám hiểm đã tìm ra đất Ái Nhĩ Lan. Khi nhóm thám hiểm đến gần phần đất mới, vị thuyền trưởng tuyên bố: “Hễ ai chạm tay trước hết vào phần đất trên bờ thì người ấy làm chủ phần đất ấy”. Ông O’Neil quyết tâm chiếm cho bằng được. Ông chèo một chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Nhận thấy có kẻ khác vượt lên trên mình, ông quyết định lấy rìu chặt đứt cánh tay trái và liệng vào bờ, chạm đất trước hết, thắng cuộc.
Nhà thám hiểm cụt một tay để được một nước thế gian, thì trong việc chiếm lấy Nước trời, Chúa dạy chúng ta cũng phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì thân thiết và quý mến nhất.
Chúa cũng răn đe rất nghiêm ngặt những ai gây gương mù gương xấu “Thà buộc cối xay vào cổ người ấy mà ném xuống biển còn hơn”. Lời răn đe rất thẳng thắn và quyết liệt. Thớt cối xay nặng như thế mà kéo dìm một tội nhân dưới nước thì không thể nào ngóc đầu lên được: ý nói đến sự xấu xa, ghê tởm, nặng nề của tội làm gương xấu.
Trong bức thư của Lentulo, tổng trấn Do thái gửi cho hoàng đế Tibêriô, để diễn tả chân dung Chúa Kitô, có câu này: “Khi ông (Chúa Kitô) quở trách sửa phạt, thật cả là một sự ghê sợ; nhưng khi khuyên bảo dạy dỗ ông lại rất hòa nhã đằm thắm, làm cho thiên hạ tin phục say mê”.
Truyện: Trên một chuyến xe lửa, cha Bernard Vogan gặp một hành khách ăn nói rất ư tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vogan thò đầu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?” Cha Vogan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
Phải tránh dịp nguy hiểm đưa đến tội
Kinh thánh nói: “Ai thích sự nguy hiểm sẽ rơi vào sự nguy hiểm đó” (Gv 3,27): chơi với lửa có ngày sẽ bỏng, chơi với dao có ngày đứt tay, chơi với bùn có ngày lấm áo... Đó là kinh nghiệm ngàn đời của dân gian.
Chống lại chước cám dỗ là tốt, việc phải làm, nhưng cũng không nên gây ra dịp thuận tiện để cho cám dỗ ập tới. Tại sao không cố mà tránh cơ hội gây ra cám dỗ để khỏi bị mắc bẫy?
Chim ham mồi sa lưới Cá ham thính mắc câu, Con người phải nghĩ cho sâu, Đừng ham danh lợi, sắc hầu sa cơ. Tài danh là cạm giữa trời, Hồng nhan là bả những người tài hoa.
Truyện: Thuê tài xế lái xe
Có một người giàu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.
Người giàu nói: “Tôi không muốn có một tai nạn nào xảy ra trong khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.
Người tài xế thứ nhất tự nhủ: “Cái đó thì dễ ợt”. Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.
Người thứ hai thầm bảo: “Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc”. Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.
Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.
Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giàu lại bảo bác tài xế thứ ba rằng: “Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá (W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 19-20).
Những lời giáo huấn của Chúa trên đây thật đơn sơ và dễ hiểu.
1. Trước hết, Chúa đề cao những việc làm vì bác ái yêu thương.
Một hôm, có một phóng viên báo chí đến quan sát công việc của mẹ Têrêxa tại Calcutta. Thấy mẹ làm những công việc ghê tởm: cúi mình trước những người hấp hối, người phong cùi. Ông nói với mẹ:
- Nếu có ai cho tôi một triệu Mỹ kim, tôi cũng không đủ can đảm làm những việc ghê tởm như vậy.
Mẹ trả lời: “Tôi không làm vì tiền bạc. Tôi làm vì tôi nhìn thấy khuôn mặt của Chúa đau khổ nơi anh chị em tôi”.
Trước cuộc sống, không ai mà không có những nhu cầu cần được giúp đỡ bất kể người đó là ai. Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rộng tay giúp đỡ rất nhiều người. Ngài giúp đỡ một cách hết sức thiết thực. Bây giờ thì Chúa đã lên chốn vinh quang và Chúa đã để lại việc này cho chúng ta.
Một nhà truyền giáo kể lại một câu chuyện đẹp sau đây:
Một chị giáo viên vừa dạy các học sinh cấp I người Phi Châu về việc nhân danh Chúa Giêsu mà cho người ta một chén nước lạnh. Hôm ấy, chị đang ngồi trước hiên nhà, thì thấy một đám phu khuân vác người bản xứ đi vào làng. Họ vác những kiện hàng thật nặng. Ai nấy đều mỏi mệt, khát nước và ngồi bệt xuống đất để nghỉ ngơi. Họ là người của bộ tộc khác, và nếu họ xin nước nơi những người thường dân không theo Kitô giáo, thì họ sẽ được trả lời ngay: hãy tự đi tìm lấy mà uống, vì có một bức tường ngăn cách giữa chúng tôi và các anh. Thế nhưng, đang khi những người mệt mỏi kia ngồi đó và chị đang nhìn họ, thì có một nhóm em gái nhỏ người Phi Châu từ trường học đi ra, mỗi em đội trên đầu một vò nước. Cả bọn đều rụt rè, sợ sệt. Các em tiến đến gần những người phu khuân vác đang mệt mỏi nọ và quì xuống, đưa các vò nước cho họ. Những người khuân vác kia ngạc nhiên, đưa tay nhận lấy và uống ngon lành rồi sau đó trả vò lại. Các bé vội vàng chạy đến cô giáo và nói:
- Chúng em vừa nhân danh Chúa Giêsu cho những người khát uống.
Các bé gái đã tiếp nhận lời dạy dỗ ấy theo nghĩa đen của nó. Ước gì cũng có nhiều người làm như vậy. Chính những việc làm đơn sơ tỏ ra lòng tử tế là những việc hết sức cần thiết. Mahomet đã nói: “Đặt người lạc lối vào đúng con đường, cho một người khát uống nước, mỉm cười với anh em mình. Đó là đức bác ái”.
2. Giúp người thì sẽ được phần thưởng đời đời, nhưng còn việc làm gương mù gương xấu khiến cho một anh em yếu đuối vấp phạm thì sao? Chúa lên án với những lời hết sức nghiêm khắc.
Tại Palestine có hai loại cối: cối đá xay bằng tay mà phụ nữ dùng trong nhà. Và loại cối đá lớn đến nỗi phải cột một con lừa mới kéo nổi. Loại cối đá mà Chúa nói ở đây là loại lớn. Bị ném xuống biển với một thớt cối như thế cột vào người, chắc chắn không hy vọng trở về. Thật ra, đây là cách xử tử được áp dụng tại cả Rôma lẫn Palestine ngày xưa. Sử gia Josepthus kể rằng: lúc một số người Galilê thành công trong cuộc nổi dậy, họ bắt những người thuộc đảng Hêrôđê và ném họ xuống biển hồ theo cách này.
Tự mình phạm tội đã là chuyện khủng khiếp rồi, nhưng dạy kẻ khác phạm tội, lại càng tệ hại hơn. O. Henry, nhà văn Mỹ lừng danh về chuyện ngắn đã sáng tác câu chuyện về một em bé gái mồ côi mẹ như thế này:
Cha cô bé có thói quen mỗi khi đi làm về là ngồi ngay xuống ghế, mở cặp, lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ đặt gần lò sưởi. Một lần kia con ông là một bé gái mở cửa bước vào. Em xin ông chơi đùa với em một lát vì em cảm thấy rất cô đơn. Lần này cũng như lần khác ông bảo ông mệt lắm, hãy để cho ông yên. Và ông bảo em hãy ra đường mà chơi. Thế là em đi ra chơi ngoài đường, và chuyện không tránh được đã xảy ra là em đã trở thành một cô gái đứng đường. Thời gian trôi qua, ông bố chết và cô cũng chết. Linh hồn cô được đưa lên Thiên Đàng. Thánh Phêrô vừa nhìn thấy cô liền thưa với Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, đây là cô gái thật xấu nết. Con nghĩ phải đưa cô xuống hỏa ngục ngay.
Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn đáp:
- Không, hãy cho cô ấy vào.
Rồi đôi mắt ngài trở nên nghiêm nghị:
- Và con hãy đi tìm người cha đã từ chối không chịu chơi đùa với con gái nhỏ của mình, đuổi nó ra thiên đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục.
Thiên Chúa không nghiêm khắc đối với tội nhân, nhưng sẽ hết sức nghiêm khắc đối với những kẻ khiến người khác sa vào tội lỗi, dù kẻ đó vô tình hay cố ý, đã đặt một tảng đá làm cớ vấp chân trên lối đi của một người anh em yếu đuối hơn mình.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ. Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ". Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly.” Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ, và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới. Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng. Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu đã gia tăng đáng kể. Sống với nhau đến đầu bạc răng long lại trở thành một giấc mơ. Có mấy người Pharisêu đến hỏi Đức Giêsu về chuyện chồng ly dị vợ. Đức Giêsu hỏi ngược họ xem ông Môsê đã truyền dạy thế nào (c. 3). Những người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1) để cho thấy ông Môsê cho phép viết giấy ly dị và sau đó ly dị (c. 4). Dĩ nhiên, cho phép không phải là truyền dạy! Đức Giêsu đã trích sách Sáng Thế (2, 24) để nhấn mạnh sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng. “Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác (c. 8), mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động. Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (c. 6) và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa. Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 5). Đức Giêsu mới là Đấng đến để hoàn chỉnh Luật Môsê và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân. Trong xã hội, văn hóa và Do Thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Vì vợ là một thứ tài sản thuộc sở hữu của người chồng, nên thực tế chỉ vợ mới có thể phạm tội ngoại tình đối với chồng, và chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ. Đức Giêsu không chấp nhận chuyện coi vợ như một món hàng, mua về, thích thì dùng, không thích thì bỏ đi. Vợ đã trở nên xương thịt của chồng, ngang hàng với chồng, nên khi chồng thiếu chung thủy với vợ, ly dị vợ mà cưới vợ khác thì anh ta cũng phạm tội ngoại tình đối với vợ (c. 11). Hôn nhân không phải chỉ là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau. Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp. Ngài tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay. Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng mà hai bên được phép xé bỏ khi muốn. Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người thời nay. Khi thịnh vượng, lúc gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu, khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được, khi đời sống vợ chồng thành như hỏa ngục trần gian… khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau. Xin bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương, bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ… để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng mong manh của trời cao. Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng. Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc. Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng. Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ. Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen. -------------------------------
Trung tín là một phẩm chất cao quý của con người. Vì thế nó bao gồm nhiều phẩm chất khác.
Sách Huấn ca đưa ra ba phẩm chất. Trước hết cần có sự cẩn trọng. Đừng vội vàng trong chọn lựa bạn bè. Phải xem xét kỹ lưỡng. “Nếu con muốn làm bạn với ai thì hãy thử người ấy trước, nhưng đừng vội tin tưởng ngay. Vì có kẻ chỉ là bạn nhất thời, ngay con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn con nữa”. Kế đến cần có sự trung tín. Muốn có bạn tốt chính ta phải là bạn tốt. Muốn người trung tín với ta chính ta phải trung tín trước. “Vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế”. Trên hết phải kính sợ Chúa. Vì “những ai kính sợ Đức Chúa sẽ gặp được người bạn như vậy. Người kính sợ Đức Chúa thì điều khiển được tình bạn của mình”. Yêu mến Chúa sẽ biết trung tín với bạn bè (năm lẻ).
Thư Gia-cô-bê đề nghị hai phẩm chất khác. Trước hết là sự kiên nhẫn. Người trung tín là người kiên nhẫn vượt qua khó khăn. “Phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp”. Gióp đã gặp rất nhiều thử thách. Nhưng ông vẫn kiên trì vượt qua. Cuối cùng giữ được lòng trung tín với Chúa. Để trung tín cũng cần ngay thẳng. “Đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì khsc mà thề. Nhưng hễ “có” thì nói “có”. “Không” thì nói “không”. Trung tín thật thà thì ngay thẳng và đơn sơ. Quanh co phức tạp thường khó thật (năm chẵn).
Tuy nhiên sang đến tình yêu và hôn nhân thì còn đòi thêm phẩm chất tình yêu. Yêu đến độ trở nên một. Đó là ý định của Thiên Chúa: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Nếu yêu nhau thật sự hai người sẽ nên một. Nên một rồi không thể lìa xa nhau. Không thể sống thiếu nhau. Đó là tình yêu theo khuôn mẫu của Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nên không thể tách lìa. Thiên Chúa yêu con người nên luôn trung tín. Dù con người tội lỗi đến đâu Thiên Chúa vẫn tha thứ. Dù con người phản bội muôn ngàn lần, Thiên Chúa vẫn yêu thương. Cứu chuộc. Chết cho con người.
Trung tín giúp đạt tới tình yêu đích thực. Trung tín làm nên phẩm giá của con người có trách nhiệm. Trung tín giúp con người đạt tới Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta về những trang đầu tiên của lịch sử nhân loại, trong đó Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ để họ chung sống với nhau trong mối giây bất khả phân ly của đời sống đôi lứa. Có thể nói, đó là gia đình đầu tiên của lịch sử loài người. Chúa Giêsu đã nại đến sự kiện này để giải đáp vấn nạn của người Biệt phái: "Người ta có được phép rẫy vợ không?", và như vậy một cách nào đó, Ngài đã đề cập đến hôn nhân, đến giá trị và đòi hỏi của hôn nhân.
Trước hết, hôn nhân là một sự tự do trao đổi yêu thương giữa người nam và người nữ, một sự cam kết sống chung suốt đời. Chiếc nhẫn mà họ trao cho nhau trong ngày cưới là dấu chứng tình yêu, và từ ngày đó mọi hành vi đi ngược với lời cam kết đều bị coi là ngoại tình, bởi vì hôn nhân là do Thiên Chúa thiết lập và con người không thể phân ly những gì Ngài đã kết hợp.
Hôn nhân còn là một cộng đồng kết hợp hai tâm hồn và được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Hôn nhân là giây tình yêu liên kết hai người phối ngẫu, và tình yêu này phản chiếu tình yêu thần diệu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở: "Chồng hãy yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình đi". Trong đời sống hôn nhân, hai người nương tựa vào nhau, bổ túc và tài bồi lẫn nhau. Thiên Chúa thấy người nam ở một mình không tốt, Ngài đã dựng nên cho nó một người nữ, rút từ cạnh sườn người nam, và người nam sẽ bỏ cha mẹ để nên một với vợ mình, đó là hình ảnh của một tình yêu kết hợp. Nhờ tình yêu kết hợp trong hôn nhân, người nam và người nữ sẵn sàng chấp nhận việc sinh dưỡng và giáo dục con cái thành những đứa con ngoan của Thiên Chúa, của Giáo Hội, của gia đình và xã hội.
Nhưng một cuộc hôn nhân chỉ thành công khi người nam và người nữ thực tình yêu nhau, có sức hiến thân cho nhau, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách mà hoàn cảnh đè nặng trên con người, trong tâm tình chúc tụng tạ ơn. Thật vậy, việc cam kết trước bàn thờ là một lời khấn trọng thể, một lời hứa thánh thiêng đặt nền tảng trên tình yêu, tình yêu mà Thánh giá là biểu hiện rõ nét nhất, tình yêu mà Chúa Kitô hiến mình cho Giáo Hội đến cùng mức. Hôn nhân không phải luôn luôn là một khúc tình ca, một cuộc ve vãn suốt đời, nhưng là một cuộc sống chung nhiều khi khó khăn. Do đó chỉ có tình yêu đích thực khi đôi bạn có khả năng và muốn giữ lời gắn bó với nhau cho đến chết. Những hy sinh từ bỏ, sự trung tín qua những thử thách, những lần nhượng bộ, đều là bằng chứng của đức tin và sức mạnh nhận được từ Thánh Thần.
Chính vì những giá trị cao đẹp của hôn nhân như thế, nên thái độ của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân thật dứt khoát. Ngài xác định lại nền tảng thánh thiêng cũng như tính cách bất khả phân ly của giây hôn phối. Ngài mạnh mẽ lên án tội dâm bôn ngoại tình, cả việc rẫy vợ nữa, trừ phi là nố gian dâm, nhưng điều đó có lẽ không nhằm biện minh cho việc ly dị, mà chỉ là đuổi người vợ bất chính, hoặc là ly thân rồi sau đó không được tái hôn nữa. Như thế, chính nhờ Chúa Giêsu, hôn nhân đã được nâng lên hàng Bí Tích và mặc một sắc thái mới phản ánh vẻ đẹp ban đầu đã bị lu mờ vì tội lỗi nhân loại.
Chúng ta hãy cầu xin cho các gia đình được luôn gắn bó với nhau trong tình yêu thương hợp nhất, để làm chứng cho tình yêu duy nhất và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ nói thế là để thử Người.
“Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mc. 10, 2. 9)
Nền văn minh của chúng ta đã phát triển khả quan lãnh vực thực phẩm. Từ ngữ lương thực mau hư ngày xưa ám chỉ những thực phẩm rất dễ hư thối như: rau cỏ, trái cây, v.v….Thật là điều lạ: kỹ thuật tân tiến tìm cách bảo quản những thực phẩm dễ hư này bằng kỹ thuật đông lạnh, nhưng xã hội tiêu thụ thì lại làm cho những vật không hư hóa ra mau hư. Người ta nghĩ và làm ra những sản phẩm để rồi những sản phẩm ấy lại mau chóng được thay thế bằng những sản phẩm khác. Có những áo dài giấy, những tấn lưỡi dao bào, những bật lửa máy bị “đổ tháo đi.” Nền văn minh “sính-cái-mới”, thích-sắm-sửa, ưa-giục-bỏ! Cái não trạng tiềm ẩn ở bên dưới cách sống này có nguy cơ làm ô nhiễm những quan hệ của con người, làm cho những quan hệ ấy trở nên mau hư. Tình yêu giữa con người trở nên mau hư, hôn nhân, một vấn đề phải giục bỏ, bởi lẽ làm lại cuộc sống với một người khác thì dễ hơn là xây dựng lại những quan hệ đã sứt mẻ với người bạn đời của mình.
Câu trả lời của Chúa Giêsu
Câu hỏi của những người Pharísiêu phản ánh cái não trạng ưa tạm thời, thích mới nới cũ này. Cứ theo mặt chữ thì đây đúng là một câu hỏi của người tiêu thụ: “Thưa Thầy, người ta có được phép (dục) bỏ vợ mình không?” Nói cách khác, tình yêu con người có mau hư không? Câu hỏi thừa, vì luật Mô-sê đã có ghi khoản này cho cặp vợ chồng Do thái. Chỉ cần thời gian ăn xong một bữa cơm là có được tờ giấy ly dị. Phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là đưa những người chất vấn mình trở về với luật Mô-sê. Rồi Người giải thích điều luật cho phép đó bằng lời này: “Chính vì các ông lòng dạ chai đá …”
Chúa Giêsu sẽ khẳng định điều luật căn bản này, dựa vào sách Sáng Thế: “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ”. Có nghĩa là con người là một sinh vật có những quan hệ với nhau, rằng, để hiện hữu như là người, con người phải đồng-hiện hữu, nghĩa là cùng sống với người khác: “Không nên để con người sống một mình.” Con người cần một người khác để sống với. Và ước muốn này rất mạnh, thậm chí: ”người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình.”
Thiên Chúa muốn cho tình yêu vợ chồng lớn hơn cả tình yêu đối với cha mẹ nữa. Kết quả khác nữa là hai vợ chồng “sẽ thành một xương một thịt.”, nghĩa là “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Vì thế, không một quyền lực nào của loài người được phép phân ly hai người đã nhờ hôn nhân mà nên một. Cũng như chỉ có sự chết mới phá vỡ được sự duy nhất của con người thế nào, thì cũng chỉ có một sự chết mới cắt đứt được mối giây ràng buộc hai người nam nữ đã nên một mà thôi.
“Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
Nói về sự chung thủy trong hôn nhân Công Giáo, nhiều người đã không khỏi khó chịu và buông theo những lời chê bai như: Giáo Hội không thích ứng với thời đại; Giáo Hội là một bà già; Giáo Hội bảo thủ...
Khi nhận định như thế, người ta đòi Giáo Hội phải duyệt xét lại vấn đề hôn nhân. Một mặt họ muốn dễ dãi, không muốn ràng buộc. Mặt khác, người ta muốn coi đời sống hôn nhân như là một sự thỏa thuận thuần túy con người, tức là giảm thiêng.
Tuy nhiên, Giáo Hội từ bao đời vẫn luôn trung thành với Giáo Huấn của Đức Giêsu, người sáng lập nên Giáo Hội mà chúng ta là thành phần trong Giáo Hội ấy. Giáo huấn về hôn nhân được khởi đi từ ý định Thiên Chúa, vì thế, nó thuộc Thiên Luật: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phép phân ly”.
Nếu chỉ giải thích như thế, hẳn con người thời nay rất khó đón nhận. Nhưng cần thêm giáo huấn của thánh Phaolô để làm sáng tỏ ý định của Thiên Chúa: “Chồng hãy yêu thương vợ, như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình vì Giáo Hội”.
Thật vậy, Thiên Chúa không từ bỏ con người. Đức Giêsu không ly dị Giáo Hội của Ngài, mặc cho con người và Giáo Hội có những điều trái khuấy.
Sự trung thành trong hôn nhân được mời gọi diễn tả tình yêu giữa Thiên Chúa và Giáo Hội. Bí quyết của việc sống chung thủy, đó là sự tha thứ. Cần cảm nghiệm được sự tha thứ của Thiên Chúa cho mình, thì chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau và cùng nhau vượt qua thử thách để sống sự chung thủy trong đời sống hôn nhân.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta đều đã kết ước với Chúa. Chúa thuộc về ta và ta thuộc về Chúa. Chúa làm chủ và ta là thần dân của Ngài. Từ giao ước đó, chúng ta được mời gọi trung thành giữ giáo huấn của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, chúng ta đã bội ước và đã làm cho cuộc hôn nhân thánh của mình bị đứt đoạn.
Nguyên nhân làm cho sự trung thành của chúng ta gãy cánh, đó chính là những tội lỗi, ngờ vực và thiếu tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa khi chúng ta đi tìm những lợi lộc thấp hèn qua những thụ tạo do con người và ma quỷ tạo nên.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết yêu mến luật của Chúa và trung thành với giao ước mà chúng con đã ký kết với Ngài. Amen.
Sứ điệp: Hôn nhân là một giao ước tình yêu. Đây không phải chỉ là một giao ước đơn thuần của con người, nhưng chính là sự kết hiệp bất khả phân ly do Thiên Chúa thiết lập.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hơn bao giờ hết, nền tảng gia đình đang lung lay đến tận gốc rễ. Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông, con được biết có rất nhiều gia đình đang trong tình trạng tan vỡ: nào là vợ chồng ngoại tình không còn chung thủy với nhau, nào là con cái bỏ nhà ra đi, để rồi giờ này tâm hồn người cha đang đau khổ, trái tim nhiều người mẹ tan nát, và những đứa con không cửa không nhà, bơ vơ, lạc lõng giữa chợ đời. Chúng trở thành những thiếu niên phạm pháp, làm tệ nạn xã hội càng ngày càng tăng.
Lạy Chúa, tất cả chỉ vì thiếu bóng tình thương. Bởi không yêu thương nên vợ chồng mới hằn học, lạnh lùng với nhau, chửi rủa, đánh đập, xua đuổi nhau. Bởi không yêu thương nên con cái bất mãn và đi tìm tình thương nơi chốn giang hồ. Vậy xin tình yêu Chúa ngự trị trên tất cả mọi gia đình chúng con.
Xin Chúa giúp sức và nâng đỡ các vợ chồng biết trung thành với lời cam kết ban đầu, là yêu thương nhau trọn đời. Xin cho các bậc cha mẹ biết nêu gương sáng để giáo dục con cái. Xin cho sự hòa thuận luôn hiện diện trong mọi gia đình. Lạy Chúa, nhất là các bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào ơn gọi hôn nhân, xin cho họ biết ý thức, sáng suốt, để khi đặt viên đá đầu tiên xây dựng gia đình, họ kiến tạo được một mái ấm tình thương.
Lạy Chúa, con là một thành viên trong gia đình, xin cho con luôn là sợi dây tình thương nối kết để cuộc sống gia đình luôn bình an và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Hôm nay thánh Marcô cho chúng ta biết: Đức Giêsu đến Galilê, dân chúng tấp nập kéo đến nghe Ngài giảng. Và nhóm biệt phái đến hỏi thử Ngài: chồng có được phép rẫy vợ không? Chúa lại quay ra hỏi họ: Ông Maisen dạy họ làm sao? Họ thưa: Maisen cho phép họ ly dị vợ. Chúa liền bảo cho họ biết: tại vì lòng chai dạ đá của các ông mà ông Maisen phải buộc lòng cho phép họ làm như thế, chứ thực ra ngay từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên người nam, người nữ và kết hợp họ nên một. Đó là điều Thiên Chúa đã phối hợp thì loài người không được phân ly.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường đối ngược nhau về vấn đề ly dị này.
- Lập trường dễ dãi do rabbi Hillel đứng đầu chủ trương cho phép ly dị vì những lý do rất tầm thường.
- Lập trường khắt khe do rabbi Shammai đứng đầu chủ trương chỉ cho phép ly dị trong trường hợp ngoại tình.
Hôm nay khi người biệt phái đến hỏi Đức Giêsu xem họ có được phép ly dị không? Thay vì trả lời “Có” hay ”Không” – vì Đức Giêsu biết họ có ý gài bẫy Ngài sẽ phạm một trong hai tội: vi phạm Lề Luật hoặc đối đầu với Hêrôđê – thì Đức Giêsu lại nhắc cho họ điều căn bản là từ thuở ban đầu Thiên Chúa sáng tạo loài người có nam có nữ, chúc phúc cho họ để nên một với nhau và Ngài nhắc lại câu: “Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly”.
“Thuở ban đầu” – có nghĩa là từ ngàn đời trong ý định của Thiên Chúa đã muốn người nam và nữ kết hợp với nhau trong việc cộng tác sáng tạo và bất khả phân ly. Thế nhưng, vì ích kỷ mà con người phản bội dối gian nhau, thiếu tình thương và tha thứ cho nhau... dẫn đến đổ vỡ. Chính vì thế mà Maisen cho phép ly dị như một chọn lựa ngoài ý muốn để giải gỡ cho họ. Chúng ta cần dừng lại ở lời này của Đức Giêsu: Ông Maisen cho phép chứ không phải Thiên Chúa đã ban bố điều đó, và ông Maisen cho phép là vì lòng chai dạ đá của họ.
Như vậy, Đức Giêsu xác định rõ ràng về ý định của Thiên Chúa và nâng hôn nhân lên hàng bí tích. Ngài khẳng định khi hôn nhân thành sự là cả hai đã nên một xương một thịt và do Thiên Chúa kết hợp nên loài người không ai có quyền phân ly. Và hôn nhân là sự bình đẳng, bổ trợ cho nhau để cùng hướng tới sự cộng tác sáng tạo của Thiên Chúa.
Sự kỳ thị nam nữ trong luật Do thái
Sách Đệ nhị luật chương 24,1-3 có ghi: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, và sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. Ra khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, mà người chồng sau lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà, hoặc nếu người chồng sau đã lấy nàng làm vợ và chết, thì người chồng đầu tiên đã đuổi nàng đi không thể lấy nàng làm vợ một lần nữa, sau khi nàng đã ra ô uế”.
Chúng ta thấy ngay có sự kỳ thị nam nữ trong luật ấy. Người Do thái coi người nữ đứng hàng thứ sáu trong nhà, xếp sau cả vật nuôi của họ. Họ xem người nữ như một món đồ để thỏa mãn và lưu truyền nòi giống, thích thì giữ và chán thì bỏ.
Như vậy, ý định của Thiên Chúa là sáng tạo một người nam và một người nữ để thành một huyết nhục là khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ. Hiệu quả của khế ước này là sự trở nên làm một với nhau. Điều này chứng tỏ việc ly dị là phủ nhận khế ước tình yêu giữa nam và nữ, đồng thời cũng nói lên sự bất phục tùng ý định của Thiên Chúa. Tình yêu vợ chồng phải là tình yêu duy nhất và chung thuỷ: “Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly”.
Ngày nay, Giáo hội vẫn trung thành với giáo lý của Đức Giêsu và luôn khẳng định đặc tính “vĩnh viễn” của hôn nhân Công giáo. Không ai có quyền huỷ bỏ giao ước hôn nhân hợp pháp vì đây là luật của Chúa. Luật ly dị xem ra là một luật khắt khe và khó khả thi, nhưng với ơn Chúa trợ giúp, chúng ta có thể thực hiện được, và nhờ đó Giáo hội cũng như xã hội càng thêm vững chắc, gia đình dễ tìm được hạnh phúc.
Truyện: Án Tử trung thành với vợ
Án Tử, người nước Tề, là một người nổi tiếng thanh liêm và thuỷ chung. Xuất thân từ gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh tảo tần buôn bán để nuôi ăn học. Đỗ đạt làm quan, không bao giờ Án Tử quên ơn ấy của vợ.
Dù cuộc sống có đầy cạm bẫy, ông vẫn trung thành. Một hôm vua Cảnh Công đến thăm và ở lại dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà vừa già vừa xấu xuất hiện trong bữa tiệc. Án Tử liền giới thiệu đó là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng sốt, ông mới đề nghị với Án Tử: “Ôi, vợ khanh sao vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu khanh. Khanh nghĩ sao?”
Án Tử liền trả lời một cách dứt khoát không chút do dự: “Nhà tôi nay tuy đã già và xấu, nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao lâu nay kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ lúc già, lấy chồng lúc đẹp để nhờ cậy khi xấu. Nhà tôi thường nhờ cậy tôi như tôi đã từng nhờ cậy sự giúp đỡ của nhà tôi. Nay bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi mang tiếng là ăn ở bội bạc với nhà tôi.
Nói xong, Án Tử lạy hai lạy từ chối không nhận lấy con gái của vua.
Những người biệt phái phỏng vấn Chúa Giêsu về vấn đề li dị.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn đề này: lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép li dị vì những cớ rất tầm thường; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi Shammað) chỉ cho li dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép li dị.
Còn lập trường của Chúa Giêsu là tuyệt đối không được li dị: "Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân li".
Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân: phải yêu thương nhau ("luyến ái") và đồng tâm nhất trí ("nên một huyết nhục") với nhau.
B.... nẩy mầm.
1. Tình trạng li dị ngày càng gia tăng là biểu hiện của những tật xấu căn bản hơn của người thời nay, đó là không trung thành và hay thay đổi, sống theo sở thích hơn là theo trách nhiệm. Tình trạng li dị cũng cho ta hiểu rằng sống thủy chung với một tình yêu là điều rất khó.
Lạy Chúa, mới ngày nào con còn cảm thấy rất yêu mến Chúa, sao hôm nay lòng con đã bớt nồng nàn, và không biết mai ngày sẽ ra thế nào nữa! Phần Chúa thì muôn đời vẫn một mực yêu thương con. Xin gìn giữ con mãi mãi trong tình yêu thương của Chúa.
2. Đời sống độc thân của những người dâng mình cho Chúa là một dấu chỉ và một bằng chứng và một sự khích lệ cho những kẻ sống đời hôn nhân:
- dấu chỉ về một tình yêu hoàn toàn không vị kỷ
- bằng chứng rằng trung thành với tình yêu đã cam kết là một điều có thể
- vì là dấu chỉ và bằng chứng nên nó là một sự khích lệ.
Xin cho các Linh mục, tu sĩ sống đời tận hiến của mình một cách vui vẻ và trung thành.
1. Những người Pharisêu phỏng vấn Chúa Giêsu về vấn đề ly dị. Lập trường của những người Do Thái không thống nhất về vấn đề này, đôi khi còn trái ngược nhau nữa:
* Lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbit Hillel) cho phép ly dị vì những cớ tầm thường.
* Lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbit Shammai) chỉ cho ly dị trong những trường hợp ngoại tình.
Tuy khác nhau nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép ly dị.
Còn lập trường của Chúa Giêsu thì sao? Thưa là tuyệt đối không được ly dị: “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).
Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn dạy người ta cách để sống đời hôn nhân cho tốt đẹp: phải yêu thương nhau (luyến ái) và đồng tâm nhất trí (nên một huyết nhục) với nhau.
Án Tử, người nước Tề là một người nổi tiếng thanh liêm và thủy chung. Xuất thân từ gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh tảo tần buôn bán để lấy tiền cho ông ăn học. Đỗ đạt làm quan, không bao giờ Án Tử quên ơn ấy của vợ.
Một hôm, vua Cảnh Công đến thăm và ở lại dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà vừa già vừa xấu xuất hiện trong bữa tiệc. Khi Án Tử vừa giới thiệu người phụ nữ ấy là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng sốt, vua mới đề nghị với Án Tử:
- Ôi, vợ khanh sao vừa già lại vừa xấu. Quả nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu khanh. Khanh nghĩ sao?
Án Tử liền trả lời một cách dứt khoát không chút do dự:
- Nhà tôi nay tuy đã già và xấu, nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao lâu nay kể từ khi nàng còn trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ lúc già, lấy chồng lúc đẹp cốt để nhờ cậy khi xấu. Nhà tôi thường nhờ cậy tôi như tôi đã từng nhờ cậy sự giúp đỡ của nhà tôi. Nay bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi mang tiếng là ăn ở bội bạc với nhà tôi.
Nói xong, Án Tử lạy hai lạy từ chối không nhận lấy con gái của vua.
2. Chúng ta thấy tình trạng ly dị ngày càng gia tăng. Tình trạng ly dị cho chúng ta hiểu rằng, sống chung thủy với một tình yêu là điều rất khó.
Báo TUỔI TRẺ CHỦ NHẬT 9.1998 có đăng những lời tâm sự của một người con nói về người cha của mình: Tên anh là Roberto Mc Donald
Tôi mồ côi mẹ từ lúc lên 6. Cha tôi vừa là người cha cũng lại vừa là người mẹ. Do vậy, khi cha tôi nằm xuống vì chứng ung thư xương vào tuổi 75, thì tôi đâm ra ngã lòng tuyệt vọng thật sự!
Khi còn nhỏ, một ngày nọ, tôi nghe cha tôi sai người chị cả của tôi vào phòng ông để lấy một ít tiền từ một chiếc hộp màu đen. Tôi cứ thắc mắc mãi, tại sao tôi lại không được phép nhìn vào trong chiếc hộp ấy xem nó dựng cái gì mà có vẻ bí mật thế?
Năm tháng qua mau, tôi càng lớn lên thì cha tôi càng già yếu. Mái tóc ông bạc đi, khuôn mặt nhăn nheo và tấm thân bắt đầu gập lại. Tuy nhiên, nụ cười tươi vẫn cứ luôn đọng lại trong đôi môi của ông, và nó sẽ còn đó cho đến khi ông trút hơi thở cuối cùng. Khi dọn dẹp và lôi ra mọi thứ trong phòng ông, thật sự là tôi không còn nhớ đến chiếc hộp màu đen. Các thứ trong ngăn kéo đều đã được lấy đi, đồ đạc cũng được dọn bớt, căn phòng giờ đây trống vắng làm sao.
Khi mở đến chiếc tủ sau cùng, mắt tôi bỗng chạm phải chiếc hộp màu đen. Đó là một chiếc hộp dẹt bình thường bằng kim loại bọc da, các cạnh hộp đã rách và mòn đi rất nhiều. Nhẹ nhàng mở ra, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy mọi thứ bên trong.
Bên trong hộp chính là tất cả những gì thiêng liêng mà người cha thân yêu của tôi đã gìn giữ: Tờ hôn thú với chữ ký của mẹ, một tấm ảnh đẹp nhất của mẹ trong chiếc váy dài màu vàng mà cha thích nhất, một tấm ảnh chụp tôi lúc lên 5 với những lời đề tặng nguệch ngoạc của một đứa trẻ “Tặng ba và mẹ của con”. Hóa ra, tôi đã có mặt ở bên trong chiếc hộp màu đen, mẹ tôi cũng thế!
Tôi hình dung ra cha tôi đã nhiều lần lặng lẽ lôi chiếc hộp ra nhìn ngắm mọi thứ. Ông đã mỉm cười và nói thầm một mình. Tôi nghĩ rằng, cha đã thường làm như thế nhiều lần trong bao nhiêu năm trời qua, vì mọi thứ đều cũ kỹ sờn rách... Giờ đây chiếc hộp ấy đã thuộc về tôi. Khi tôi nhắm mắt xuôi tay, nó sẽ lại thuộc về các con tôi. Và ở bên trong, chúng cũng sẽ tìm thấy những gì thân thương nhất của tôi. Chúng sẽ có được một gia tài lớn ở bên trong chiếc hộp nhỏ màu đen, đó là tình yêu và niềm tin của tôi. Tôi tin chúng sẽ nhận ra rằng, điều quan trọng thật sự và duy nhất trong cuộc đời này chính là tình yêu mà chúng ta dành cho nhau...
Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu với trẻ em. Chắc các em còn nhỏ nên cần có người đưa các em đến với Ngài. Đó có thể là cha mẹ hay một người trong gia tộc. Những người đưa các em đến phải có lòng tin vào Đức Giêsu. Họ đưa con của họ đến gặp Đấng mà họ tin là Người của Thiên Chúa. Họ không mong Thầy Giêsu chữa bệnh hay cho con mình bánh kẹo. Điều họ mong là được Ngài chạm tay vào chúng (c. 13). Một cái chạm tay rất nhẹ của Thầy, một cái chạm nhẹ của Thiên Chúa. Họ mong có sự tiếp xúc giữa chính tay Thầy với thân xác con cái họ. Ơn phúc lành đến qua tay, qua sự tiếp xúc đơn sơ. Thầy Giêsu rất vui lòng làm chuyện đó. Nhưng các môn đệ lại không nghĩ như vậy. Họ nghĩ chơi với trẻ em chỉ tổ mất thì giờ, bị quấy rầy vì ồn ào, lộn xộn. Vả lại, trẻ em thì đâu có xứng đáng để được gặp Thầy. Bởi vậy họ đã ngăn cấm không cho các em đến với Đức Giêsu. Nói chung họ vẫn chưa hiểu ra bài học mới đây của Thầy (Mc 9, 36-37). Khi thấy các môn đệ ngăn cản, Thầy Giêsu đã nổi giận thực sự. Chắc Ngài giận vì không hiểu được sao các ông vẫn hẹp hòi đến thế, sao các ông vẫn chưa đổi được cái nhìn của mình về trẻ em. “Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng” (c. 14). Đây là một mệnh lệnh nghiêm chỉnh và có giá trị mãi. Trẻ em có chỗ trong trái tim Giêsu. Thầy Giêsu dù bận bịu nhưng vẫn có giờ cho các em gặp gỡ. Ngài không coi chuyện chơi với các em là phiền phức. Chúng ta chẳng những không được ngăn cản, mà còn phải giúp đưa các em đến với Thầy Giêsu. Chúng ta là cha mẹ, là thầy của các em, nhưng mặt khác chúng ta lại là học trò để học hỏi nơi các em. “Vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng” (c. 14). Chúng ta cần học nơi các em lòng biết ơn, sự cậy dựa và khiêm nhu. “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (c. 15). Như thế phải học cách đón lấy Nước Trời như trẻ thơ, nghĩa là đón lấy như một quà tặng mà mình không xứng, đón lấy với sự ngỡ ngàng, ca ngợi, tri ân. Hãy nhìn Thầy Giêsu bồng các em nhỏ trên cánh tay (c. 16; Mc 9, 36). Hãy nhìn nét mặt hạnh phúc của Thầy. Thầy chẳng những chạm đến các em, mà còn bồng các em. Thầy còn trịnh trọng chúc lành bằng cách đặt hai bàn tay trên các em. Rõ ràng Thầy Giêsu quý các em, và Ngài không muốn ta làm hư các em. Thế giới hôm nay có bao điều ngăn cản không cho trẻ em gặp Chúa. Bao trẻ thơ đã bị lạm dụng từ nhỏ, bị ngược đãi, bị bắt làm nô lệ, bị thất học, bị bỏ rơi, bị ném vào cuộc đời quá sớm. Bao trẻ thơ bị suy dinh dưỡng, bị bệnh tật và chết khi còn trong lòng mẹ. Bao trẻ thơ thèm được chút hơi ấm của tình thương gia đình. Nhất là có những trẻ em đã sớm mất tuổi thơ và dính vào thói hư của người lớn như nghiện ngập, phạm tội hình sự. Hãy giúp các em làm quen với Giêsu và đừng làm gương xấu cho các em. Hãy đón tiếp các em để gặp được chính Thầy Giêsu và gặp được chính Thiên Chúa (Mc 9, 37). Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng. Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc. Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng. Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ. Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen. -------------------------------
Thế gian trọng lớn khinh nhỏ. Đó là thú tính. Càng văn minh càng biết trân trọng những gì bé nhỏ. Càng thánh thiện càng biết sống bé nhỏ. Vì nhận biết con người thật của mình. Biết Thiên Chúa lớn lao. Biết mình bé nhỏ. Biết Thiên Chúa có tất cả. Mình chỉ là hư vô. Biết Thiên Chúa là Cha. Mình là con. Mình tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Từ mạng sống. Đến sức khoẻ. Tài năng. Hạnh phúc. Tất cả đều bởi Chúa. Vì thế cần sống tâm tình người con bé nhỏ.
Các môn đệ cũng theo thói đời, khinh thường trẻ nhỏ. Nhưng Chúa đã dạy các ông chân lý về Nước Trời. “Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy họ. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là chủa những ai giống như chúng”.
Sách Huấn ca dạy ta: Ta phải biết mình bé nhỏ. Vì Thiên Chúa tạo dựng ta từ hư vô. Từ bụi đất. Ta phải tạ ơn Chúa không ngừng. Vì Thiên Chúa nâng ta lên làm con cái, cho ta trổi vượt muôn loài. Ta phải tạ ơn Chúa. Vì Thiên Chúa ban cho ta trí khôn phân định phải trái. Phải biết ca tụng, tạ ơn Chúa. Và nhất là phải luôn tuân giữ lề luật và sống trong thánh ý Chúa: “Người đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người. Danh Thánh Người, chúng sẽ ca ngơi, những công trình vĩ đại của Người, chúng sẽ kể ra… Bổn phận đối với tha nhân, Người truyền cho ai nấy phải thi hành. Đường lối của chúng luôn luôn ở trước mặt Người, và không bao giờ giấu mắt Người được” (năm lẻ).
Khi biết mình hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa ta sẽ phó thác cho Chúa tất cả. Dù vui. Dù buồn. Dù đau yếu. Dù khoẻ mạnh. “Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca”. Người phó thác cho Chúa sẽ trở thành công chính. Lời cầu nguyện của người công chính sẽ được Chúa nhận lời. Tiên tri Ê-li-a hoàn toàn sống cho Chúa. Phó thác vào Chúa. Nên lời cầu của ngài rất có hiệu lực. “Ông Ê-li-a xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu xin cho đừng có mưa, thì đã không có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống, và đất đã trổ sinh hoa trái” (năm chẵn).
Hãy sống bé nhỏ. Như người con thơ dại đối với Thiên Chúa. Chúa là Cha nhân từ sẽ lo liệu cho ta mọi sự. Sẽ làm việc thay ta. Sẽ sắp xếp mọi sự thuận lợi cho ta.
Ðức Giáo Hoàng Piô X khi nhậm chức Giám mục giáo phận Mantova, Ngài đã nghĩ đến người mẹ hiền và trở về thăm mẹ như để nói lên lòng biết ơn. Trong câu chuyện thân mật với mẹ, Ngài vừa nói vừa khoe chiếc nhẫn Giám mục của mình: "Mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp không?"
Người mẹ mỉm cười đưa chiếc nhẫn cũ kỹ trên bàn tay đầy vết nhăn cho con xem và nói: "Nếu không có chiếc nhẫn này, thì đâu có chiếc nhẫn Giám mục của con".
Thật thế, nếu cha mẹ không để tâm giáo dục con cái, làm sao chúng có thể nên người, nhất là nên người con của Chúa được.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Chúa Giêsu rất thương mến trẻ em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem các trẻ em đến với Ngài. Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác giả đạo đức Do Thái, Chúa Giêsu đề cao trẻ em như kiểu mẫu đón nhận Nước Trời: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào". Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: "Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn".
Cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh dưỡng và giáo dục con cái, để chúng được hạnh phúc đời này, nhất là được hạnh phúc đời sau. Tuy nhiên, có những cha mẹ chỉ lo làm giàu, chứ không quan tâm xây dựng đạo đức cho con cái, cũng có những cha mẹ khoán trắng việc giáo dục đức tin của con cái cho các vị lãnh đạo tinh thần và thiêng liêng, mà quên rằng đó là nhiệm vụ trước tiên của cha mẹ do Bí tích Hôn phối và tình thương yêu đòi buộc. Con cái sống trong gia đình nhiều hơn các nơi khác, và cha mẹ cũng hiểu biết tính tình con cái hơn bất cứ ai khác, đó là những thuận lợi để cha mẹ góp phần vào việc giáo dục con cái.
Nhưng để có thể giáo dục con cái một cách hiệu quả, cha mẹ phải lo trau dồi kiến thức, cách riêng về tôn giáo, và sống đạo gương mẫu, sao cho con cái thực sự là nguồn hạnh phúc của gia đình và là triều thiên của chính cha mẹ.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả các cha mẹ. Xin Ngài soi sáng để các cha mẹ hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn, đồng thời nhiệt tâm giáo dục con cái và dẫn đưa chúng đến với Chúa.
Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” (Mc. 10, 13-15)
Trích đoạn Phúc âm này tưởng chừng tầm thường, nhưng không phải vậy. Trái lại, mấy câu vắn vỏi này là một mạc khải quan trọng về Thiên Chúa và mối quan hệ của Người với chúng ta. Suốt cuộc đời Người và khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu Kitô đã chỉ có một sứ mệnh duy nhất là làm cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa: “Sự sống đời đời, chính là họ nhận biết Cha và Đấng Cha sai.” Và Chúa đã thực hiện tốt sứ mệnh đó bằng việc làm cũng như bằng lời nói; tốt hơn nữa bằng những quan hệ giữa con người cũng như bằng những phép lạ của Người. Các Phúc âm phần lớn đều là tường thuật về những quan hệ của Chúa Giêsu với người ta. Trong mối quan hệ của Người với tha nhân, Chúa Giêsu tỏ ra hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc lập đối với dư luận quần chúng và người xung quanh. Các môn đệ thì muốn dân chúng ở xa Người, tạo nên một bức màn che chắn Người. Các ông làm như thể muốn sàng lọc những người có thể đến với Chúa Giêsu. Trước mọt dụng ý như thế, Chúa Giêsu bực mình, nặng lời khiển trách các ông… rồi Người gọi trẻ em đến với mình, đặt tay chúc lành cho chúng và ôm hôn chúng.
Lời mời gọi nên như trẻ thơ
Chúa Giêsu không đành đón tiếp các trẻ em như đón tiếp các người thu thuế và tội lỗi, Người đi xa hơn nhiều; Người lấy chúng làm gương mẫu cho những thính giả cúa mình: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” Nên giống như trẻ em, có nghĩa là gì? Chúng ta vốn nghĩ, trẻ em chẳng có chi hoàn hảo, chẳng có chi đáng bắt chước về mọi phương diện. Ông La Bruyère đã viết một cách cay nghiệt rằng: “Trẻ em là đồ ăn cắp, nói dối, chúng đã là những người lớn đấy.” Cũng không phải là chuyện trở lại vẻ hồn nhiên trong trắng của trẻ em như trở lại vẻ tinh tuyền ban đầu của nguyên tổ khi ở vườn địa đường. Kinh thánh không nhìn trẻ em ở khía cạnh này. Vả lại đòi hỏi một người lớn phải khổ sở vì không còn là một đứa trẻ nữa có lẽ đó là một yêu cầu có phần nào bệnh họan.
Tuổi thơ đồng nghĩa với tươi mát, hồn nhiên, đơn sơ. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận Nước Thiên Chúa với những tâm tình này, nghĩa là với niềm hân hoan vui sướng như được một cái mới, không tính toán, không hậu ý, nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng mình tùy thuộc vào Chúa và liên quan tùy thuộc đối với người khác. Tuy nhiên trong bất cứ trường hợp nào, ta không được là con người ấu trĩ và từ chối làm cho chính ta điều gì có thể làm được.
Bởi lẽ, tinh thần thơ ấu mà Chúa Giêsu đề nghị không phải là một sự “nhõng nhẽo”, ươn lười, nhưng là một tâm hồn rộng mở đón nhận lời Chúa với tinh thần đơn sơ vậy.
Nếu xét về đời sống thiêng liêng: Nước Trời là gia nghiệp của con người, thì đời sống tự nhiên, con cái là gia sản của các bậc cha mẹ.
Muốn cho gia sản ấy thực sự có giá trị và ý nghĩa thì phải lo giáo dục con cái cho đàng hoàng.
Giáo dục đúng thì sẽ được hưởng hoa trái của niềm vui. Giáo dục sai sẽ lãnh hậu quả buồn.
Hôm nay, người ta đem đến cho Đức Giêsu các trẻ em và xin Ngài đặt tay chúc lành cho chúng. Tuy nhiên, các môn đệ đã ngăn cản các bà mẹ khi các bà dẫn các trẻ em đến với Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lên tiếng quở trách các môn đệ và đề cao các em.
Qua hình ảnh, tính tình của trẻ em mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học quan trọng: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào”. Câu nói này vừa là một giáo huấn về sự chân thành, đơn sơ cần có đối với người môn đệ. Mặt khác, vừa là một mặc khải về quy luật tất yếu để được vào Nước Trời là trong sạch như trẻ thơ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc giáo dục con cái. Đồng thời cần phải làm gương cho con cái của mình noi theo.
Nhưng điều chính yếu mà Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta là: hãy sống những đặc tính của trẻ thơ thì sẽ được vào Nước Trời. Đặc tính ấy được thể hiện qua sự chân thành, không lươn lẹo, quanh co, không giam tham, hối lộ, vu vạ, cáo gian, không cướp của, giết người...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nêu gương sáng cho trẻ em và học được những bài học đơn sơ, trung thành, trong trắng để được vào Nước Trời. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu thương mến các trẻ em cách đặc biệt, vì Nước Trời thuộc về chúng. Muốn vào Nước Trời, tâm hồn chúng ta cần phải trở nên như trẻ thơ: cậy trông, phó thác và đơn sơ.
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của con, một đứa con nhỏ trong gia đình thật yếu ớt. Hơn nữa, một em bé trong xã hội có là gì đáng cho người khác quan tâm! Nhưng cũng em bé đó lại có vai trò quan trọng trong Nước Trời.
Chúa đã đề cao trẻ thơ như mẫu mực cho tất cả những ai muốn vào Nước Trời. Bởi vì, lạy Cha, nếu em bé lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ và gia đình, thì con cũng hoàn toàn lệ thuộc vào Cha trong tâm tình phó thác đơn thành.
Xin Cha giúp con nhận ra con người thật của mình: tự sức con, với tất cả mọi nỗ lực, không xứng đáng với ơn lành Cha ban. Cả đời con lập công cũng chẳng đáng Cha ban Nước Trời. Con biết mình yếu đuối như một trẻ thơ. Chính Chúa Giêsu cũng trở thành một trẻ thơ trước mặt Cha. Ngài sống với Cha trong tâm tình đơn sơ, cởi mở, phó thác, vâng phục hoàn toàn. Con nhìn thấy nơi trẻ thơ Giêsu một tấm lòng yêu mến đối với Cha. Xin Cha loại bỏ những gì làm con ảo tưởng mình là kẻ lớn: tự phụ, kiêu căng, ích kỷ… để chỉ giữ lại một điều duy nhất là: tin tưởng cậy trông nơi Cha.
Con biết Cha không thích những người mang thái độ của “kẻ cả”. Xin Cha thanh luyện con để tâm hồn con luôn trong sáng, để hình ảnh Cha không bị mờ đục nơi tâm hồn con. Xin Cha cúi xuống với con và dắt con đi trên đường về Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”.
1. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng ("đặt tay trên chúng").
2. Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là vì thời đó người do thái coi khinh trẻ nhỏ (do chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.
3. Phản ứng của Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai.
4. Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
B.... nẩy mầm.
1. "Thấy vậy Ngài bất bình": Chúa khó chịu và bất bình khi môn đệ Ngài đuổi xua trẻ nhỏ. Ngày nay Chúa cũng tiếp tục khó chịu và bất bình nếu Ngài thấy tôi có thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử và không rộng tay đón tiếp mọi người.
2. "Hãy để trẻ nhỏ đến với": Tôi nên hiểu "trẻ nhỏ" theo nghĩa rộng. Chúa bảo tôi hãy sống làm sao để tất cả mọi người đều có thể gần gũi tôi, hơn nữa đều cảm thấy thoải mái khi ở gần bên tôi. Nhất là những người "nhỏ bé", tức là kém cỏi, vụng về, chậm trí v.v.
3. "Nước Thiên Chúa là của những người giống như trẻ nhỏ". Trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ, trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế, trẻ nhỏ không tính toán lời lỗ thiệt hơn… Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là thần tượng, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay… Tôi đối với Chúa như thế nào? Có giống những nét trên của trẻ nhỏ không?
4. "Những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ", đó là tựa đề quyển sách của Mục sư Robert Fangum, một quyển sách bán chạy nhất tại Hoa kỳ trong thời gian gần đây. Tác giả viết "Những bài học chúng ta học được ở nhà trẻ đều là những điều chúng ta cần biết để sống hạnh phúc; nếu tất cả chúng ta đều trở lại nhà trẻ thì có lẽ thế giới này không hỗn loan như hiện nay." Những điều đó là gì?
- Hãy chia xẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đừng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.
- Lấy đâu thì trả lại đó, dọn dẹp những gì mình bày ra, và nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.
- Ra đường phải chú ý đến xe cộ qua lại, phải nắm tay nhau mà đi.
- Biết ngạc nhiên trước những mầu nhiệm của cuộc sống. (Chờ đợi Chúa)
Người Do thái có thói quen đem con mình đến với những người tốt lành có thế giá để họ chúc lành cho các em. Hôm nay người Do thái đem các trẻ nhỏ đến cho Chúa chúc lành, nhưng các môn đệ sợ chúng quấy rầy nên đuổi đi. Chúa không bằng lòng nên quở các ông, và bảo hãy để yên cho chúng đến với Ngài, vì Nước trời là của những người sống đơn sơ, vâng lời, trong sạch và hoàn toàn phó thác giống như chúng. Rồi Chúa ẵm chúng vào lòng và ban phúc lành cho chúng.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Đức Giêsu, để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng, chứng tỏ Đức Giêsu rất thương mến trẻ em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem các trẻ em đến với Ngài… Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác giả đạo đức Do thái, Đức Giêsu đề cao trẻ em như kiểu mẫu đón nhận Nước trời: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào”. Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: “Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”.
Những đức tính của trẻ nhỏ
Cám dỗ lớn nhất của con người là đam mê quyền lực, ai cũng mong muốn được ăn trên ngồi trốc, được mọi người tung hô kính trọng... để rồi từ đó làm mọi cách để đạt được mục đích chức quyền... Hình ảnh nên như trẻ nhỏ, nghĩa là phải biết sống tự hạ khiêm tốn, vì ai biết hạ mình xuống sẽ được tôn lên, còn ai kiêu ngạo thì tự đánh mất chính mình trong mắt mọi người.
- Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên tính đơn sơ chân thực, trẻ nhỏ không tính toán lợi hại hay những toan tính nham hiểm. Chúa cũng muốn mọi người chúng ta sống chân thành và ngay thẳng, không toan tính mưu lợi thấp hèn.
- Hình ảnh trẻ nhỏ còn nói lên tinh thần sống phó thác và tin tưởng nơi cha mẹ. Chúa mời gọi chúng ta biết sống đơn sơ phó thác nơi tay Chúa quan phòng.
- Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên sự trong sạch. Trẻ nhỏ như tờ giấy trắng, không có những đam mê xấu. Chúa cũng muốn chúng ta sống trong sạch trước mặt Người.
Một nhận xét bi quan đáng quan tâm
Có người đưa ra nhận xét: bản chất trẻ em hôm nay không khác gì trẻ em thời Đức Giêsu... Và có lẽ trẻ em thời nào cũng vậy: rất thiên thần. Tuy nhiên cách hành xử thì có lẽ đã khác đi rất nhiều: trẻ em hôm nay - quả thực - là không còn “thiên thần” mấy nữa... Và đây là điều người lớn chúng ta cần coi lại. Dù các em làm gì, nói gì... thì cũng chỉ là những gì các em nhìn thấy nơi người lớn. Còn nhỏ thì nhìn thấy nơi cha mẹ, anh chị... Lớn lên thì thấy nơi thầy cô, chú bác... Vào đời là những trải nghiệm học được từ trường đời... Trường đời càng ô trọc con người càng gian manh. Vì thế cần phải được giáo dục trong những môi trường tốt lành ngay từ còn nhỏ.
Cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh dưỡng và giáo dục con cái, để chúng được hạnh phúc đời này, nhất là được hạnh phúc đời sau. Tuy nhiên, có những cha mẹ chỉ lo làm giàu, chứ không quan tâm xây dựng đạo đức cho con cái, cũng có những cha mẹ khoán trắng việc giáo dục đức tin con cái cho những vị lãnh đạo tinh thần hay thiêng liêng, mà quên rằng đó là nhiệm vụ trước tiên của cha mẹ do Bí tích Hôn phối và tình thương yêu đòi buộc. Con cái sống trong gia đình nhiều hơn các nơi khác, và cha mẹ cũng hiểu biết tính tình con cái hơn bất cứ ai khác, đó là những thuận lợi để cha mẹ góp phần vào việc giáo dục con cái.
Nhưng để có thể giáo dục con cái một cách hiệu quả, cha mẹ phải lo trau dồi kiến thức, cách riêng về tôn giáo, và sống đạo gương mẫu, sao cho con cái thực sự là nguồn hạnh phúc của gia đình và là triều thiên của chính cha mẹ.
Hãy để cho trẻ nhỏ đến với Chúa
Một cách nào đó, chúng ta vô tình hay hữu ý đã ngăn cản trẻ nhỏ đến với Chúa khi:
- Ngay những ngày đầu trẻ được sinh ra, chúng ta bê trễ việc lo cho trẻ lãnh Bí tích Thánh tẩy làm con cái Chúa.
- Không tập tành cho con trẻ làm quen tiếp xúc và yêu mến Lời Chúa, kinh nguyện hằng ngày cùng những việc đạo đức ngay tại nơi gia đình.
- Không ngăn cản hoặc tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc với những thứ văn hóa xấu (bạo lực, phim ảnh, sách báo xấu, trò chơi thiếu lành mạnh), chính những thứ đó gián tiếp ngăn ngừa trẻ tiếp cận với Chúa.
- Không sống nêu gương đạo đức và thánh thiện cho trẻ.
- Đối với những người lớn, chúng ta không ngăn cản những sáng kiến riêng tư đơn sơ của họ trong việc gặp gỡ Thiên Chúa.
Truyện: Một thầy dạy bất đắc dĩ
Ông Tamba, một nhà trí thức tại Indonesia và cũng là một tín hữu Kitô đã kể lại như sau:
Tôi rất hãnh diện và tôi cho rằng tôi là người tín hữu duy nhất trong giáo xứ Palembang có được bằng tiến sĩ đại học Siuydaia, mà còn là chủ tịch hội luật gia, đồng thời là chủ tịch hội trí thức trong tỉnh nữa. Với tất cả những danh hiệu và chức vụ này tôi tưởng như chẳng ai bằng tôi. Thế nhưng, tôi lại bê trễ việc đạo vì quá bận rộn. Tôi không còn quan tâm gì đến việc cầu nguyện nữa.
Lúc ấy, Chúa sai một người thầy đến dạy tôi. Người thầy là đứa cháu trai mới có bốn tuổi. Tôi thường nói với cháu rằng, người tin Chúa phải cầu nguyện trước khi đi ngủ. Một hôm, cháu đến nhà tôi chơi và ở lại ngủ chung phòng với tôi. Khi tôi lên giường ngủ, cháu hỏi:
- Cậu ơi, sao cậu không cầu nguyện? Cậu cãi nhau với Chúa Giêsu rồi đấy à?
Câu hỏi ngây thơ của đứa cháu làm tôi tỉnh ngộ. Thật đúng là Chúa đã dùng một đứa bé mới có bốn tuổi làm nhân chứng cảnh tỉnh tôi và nhắc nhở tôi. Tôi đã lập tức cầu nguyện ngay trước mặt đứa cháu. Và từ đó tới nay, tôi không bao giờ quên cầu nguyện trước khi đi ngủ nữa.
Ông Tamba, một nhà trí thức tại Inđonesia và cũng là một tín hữu Kitô đã kể lại như sau:
- Tôi rất hãnh diện và tôi cho rằng, tôi là người tín hữu duy nhất trong giáo xứ Palembang có được bằng tiến sĩ đại học Siuydaia, mà còn là chủ tịch hội luật gia, đồng thời là chủ tịch hội trí thức trong tỉnh nữa. Với tất cả những danh hiệu và chức vụ này tôi tưởng như chẳng ai bằng tôi. Thế nhưng, tôi lại bê trễ việc đạo vì quá bận rộn. Tôi không còn quan tâm gì đến việc cầu nguyện nữa. Lúc ấy, Chúa sai một người thầy đến dạy tôi. Người này là đứa cháu trai mới có hai tuổi. Tôi thường nói với cháu rằng, người tin Chúa phải cầu nguyện trước khi đi ngủ. Một hôm, cháu đến nhà tôi chơi và ở lại ngủ chung phòng với tôi. Khi tôi lên giường ngủ, cháu hỏi:
- Cậu ơi, sao cậu không cầu nguyện? Cậu cãi nhau với Chúa Giêsu rồi đấy à?
Câu hỏi ngây thơ của đứa cháu làm tôi tỉnh ngộ. Thật đúng là Chúa đã dùng một đứa bé mới có hai tuổi làm nhân chứng cảnh tỉnh tôi và nhắc nhở tôi. Tôi đã lập tức cầu nguyện ngay trước mặt đưa cháu. Và từ đó tới nay, tôi không bao giờ quên cầu nguyện trước khi đi ngủ nữa.
2. Thứ đến là tính thật thà. Có lần Chúa Giêsu đã dạy: "Có thì nói có, không thì nói không" (Mt 5,37).
Nhà văn Pécaut, người Pháp, có kể lại một câu chuyện có thật và đầy xúc động, mà ông đã gặp một lần trong đời để rồi vẫn còn nhớ mãi, không thể nào quên được. Câu chuyện như sau:
Một hôm, tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trạc 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương, tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay:
- Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trở lại trả cho ông ngay.
Tôi nhìn thằng bé với một thoáng nghi ngờ. Nó vội nói:
- Thưa ông, cháu không phải là một thằng ăn cắp đâu ạ!
Quả vậy, gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng, và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa...
Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé, bé hơn, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống "thằng ăn cắp" như tạc. Nó thổn thức nói với tôi:
- Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu... cháu sợ rằng, anh cháu chết mất thôi..."
Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào:
- Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi...
Chúng tôi rời khỏi những khu phố giàu sang để lách vào những con hẻm lầy lội tối tăm của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại trước một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng.
- Thưa ông, xin ông lại gần cháu hơn một chút với...
Tôi tiến lại gần, quỳ một chân, cúi xuống đỡ lấy bàn tay nhỏ bé và lạnh ngắt. Em nói với tôi, ánh mắt lấp lánh niềm vui ngây thơ:
- Em cháu đã đưa chỗ tiền lẻ cho ông rồi phải không ạ? Ông thấy không, chúng cháu đâu có phải là những đứa lừa gạt và ăn cắp. Cháu chỉ có mình nó là em ruột, cháu bị tai nạn thế này, rồi đây... Ôi trời ơi, rồi đây em cháu sẽ ra sao đây?
Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em, và tôi hứa với em rằng, tôi sẽ hết lòng chăm sóc thằng bé thay cho em.
Tội nghiệp thằng bé, tôi biết vết thương rất trầm trọng, không còn có thể làm gì để kịp cứu chữa cho em. Thằng bé có lẽ đã cố gắng thoi thóp sống chỉ cốt để gặp được tôi, trăn trối một lời cuối cùng. Bây giờ thì em không còn rên rỉ đau đớn nữa, đôi mắt em liếc nhìn đứa em thân yêu rồi chớp chớp nhìn tôi với một vẻ bình thản gần như hạnh phúc...
Đấy, người bạn bé nhỏ của tôi đã chết như thế đấy. Thằng bé đã cho tôi biết thán phục và thương cảm trước một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực...