Khi ấy, Chúa Giêsu lên thuyền sang bờ bên kia, đến miền Giêrasa, thì gặp hai người bị quỷ ám từ các mồ mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua đường ấy. Và chúng kêu lên rằng: "Lạy Ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao?". Cách đó không xa có một đàn heo lớn đang ăn. Các quỷ nài xin Người rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi ra khỏi đây, thì xin cho chúng tôi nhập vào đàn heo". Người bảo chúng rằng: "Cứ đi". Chúng liền ra khỏi đi nhập vào đàn heo. Tức thì cả đàn heo, từ bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước. Các người chăn heo chạy trốn về thành, báo tin ấy và nói về các người bị quỷ ám. Thế là cả thành kéo ra đón Chúa Giêsu. Khi gặp Người, Họ xin Người rời khỏi vùng của họ.
Theo cha Gabrielle Amorth, vị trừ quỷ chính của giáo phận Rôma, “số người bị quỷ ám đã gia tăng rất nhiều.” Trong vòng tám năm, chính cha đã trừ cho hơn hai mươi ngàn trường hợp. Con số kinh khủng này hẳn là một nhắc nhở cho những ai nghĩ rằng quỷ vắng bóng trong thế giới của khoa học kỹ thuật, quỷ chỉ là huyền thoại của thế giới cách đây hai ngàn năm thời Đức Giêsu, hay quỷ ám thật ra chỉ là bệnh thần kinh vào thời y khoa chưa phát triển. Trong cuộc hội kiến vào tháng 8-1986, Đức Gioan Phaolô đã nói sự hiện diện của quỷ trong thế giới “ngày càng trở nên ghê gớm hơn khi con người và xã hội quay lưng với Thiên Chúa.” Tin Mừng hôm nay là trình thuật đầu tiên về trừ quỷ của thánh Mátthêu. Chuyện này đã được Máccô kể lại với nhiều chi tiết hấp dẫn hơn (Mc 5, 1-20). Nhưng trong Mátthêu, khuôn mặt Đức Giê su lại nổi bật hơn nhiều. Ngài đã cùng với các môn đệ qua bờ bên kia sau khi gặp cơn bão biển. Khi Ngài đến vùng đất của người Gađara, ở phía đông nam Hồ Galilê, hai người bị quỷ ám từ mồ mả đi ra, đến gặp Ngài (c. 28). Mồ mả là nơi dành cho người chết, nơi bị coi là nhơ uế, nơi của thần dữ. Có hai nét giúp ta nhận ra sự hiện diện của quỷ nơi những người bị ám. Họ rất dữ tợn đến nỗi không ai dám qua lại con đường ấy (c. 28). Họ nhận biết ngay Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (c. 29). Sức mạnh kinh khủng và sự hiểu biết lạ lùng là thế mạnh của thần dữ. Nhưng đây cũng là điểm yếu của quỷ khi đứng trước Đức Giêsu. Chính vì thế chúng hoảng sợ khi thấy mình bị đe dọa: “Chưa tới lúc mà ông đã đến đây hành hạ chúng tôi sao?” Đức Giêsu đến sớm quá và khiến cho quyền lực của chúng phải sụp đổ. Khi đọc bài Tin Mừng này, chúng ta thường có nhiều câu hỏi. Tại sao quỷ lại xin nhập vào đàn heo? Tại sao Đức Giêsu lại đồng ý? Đàn heo chết đuối thì quỷ ra sao? Phải đền người chủ đàn heo thế nào? Mátthêu có vẻ không quan tâm đến những câu hỏi ấy. Điều ông quan tâm là làm nổi bật quyền năng của Đức Giêsu. Chỉ một lời Ngài phán: “Đi !” là đuổi được quỷ ra khỏi hai người. Nước Trời đến đem lại bình an cho hai người quỷ ám ở trong mồ mả, và cho những ai qua lại lối đi ấy. Không thấy các người dân ngoại chăn heo kêu ca về chuyện mất đàn heo, nhưng họ lại trở nên những người loan báo cho dân thành về mọi chuyện. Tiếc là dân thành đã không muốn đón tiếp Ngài. Quỷ hấp dẫn con người bằng quyền lực và tri thức của chúng. Nhưng thực sự chúng là kẻ thù không đội trời chung của con người. Chúng phân ly con người, đẩy người sống vào mộ người chết, biến con người thành mối đe dọa cho con người (c. 28). Chúng thích có mặt ở đàn vật ô uế, thích gieo vãi sự ô uế khắp nơi (c. 31). Xin Chúa cho ta thấy được sự lộng hành của quỷ dữ trong thế giới hôm nay. Và xin Chúa cứu ta khỏi nanh vuốt của ác thần. Cầu nguyện:
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin ; vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống ; vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống ; vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong... Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha. Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Tại sao ma quỷ vẫn còn hiện diện. Và tiếp tục hoành hành? Vì sự thoả hiệp của ta. Ma quỷ như loài ký sinh trùng. Chỉ sống được nhờ vào cơ thể người khác. Cơ thể đó trở thành đau bệnh. Như hai người bị quỷ ám ở Ga-đa-ra. Họ mất hết nhân tính. Hung hăng như loài thú dữ. Họ ở trong mồ mả. Vì họ thuộc thế giới kẻ chết. Và sẽ phục vụ đắc lực để mở rộng thế giới chết chóc đang phát triển trong chính bản thân họ. Chúa Giê-su đến cứu con người. Xua đuổi ma quỷ. Cho con người trở lại nhân tính. Trở lại sự sống. Bắt ma quỷ phải trở về nơi của chúng. Đó là súc vật. Là dơ bẩn. Là chết chóc. Nhưng buồn thay. Thay vì đón nhận Chúa để xua đuổi ma quỷ. Họ đón nhận ma quỷ nên từ chối Chúa. Họ chấp nhận con cái phải chết. Để bảo vệ được tài sản. Ma quỷ vẫn còn đất dung thân. Vì họ đã thoả hiệp với chúng.
Không thoả hiệp. Đó là điều A-mốt luôn cảnh báo dân. “Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm điều dữ”. Tại sao? Vì hai lý do: “Rồi các ngươi sẽ được sống và như vậy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh sẽ ở cùng các người”. Và làm điều lành, theo A-mốt, là thực thi công lý: “Hãy ghét điều dữ và chuộng điều lành, nơi cửa công, hãy thiết lập công lý”. Ghét điều dữ. Tìm điều lành. Ở với Thiên Chúa. Như thế mới có sự sống. Thoả hiệp. Sẽ không có Chúa. Sẽ chết. Ma quỷ đang làm điều dữ. Đó là bất công. Gian ác. Hãy làm cho công lý toả rạng. Có Thiên Chúa. Có sự sống (năm chẵn).
Thoả hiệp. Đó là điều ta thường làm. Như tổ phụ Áp-ra-ham. Khi đã có I-xa-ác rồi vẫn muốn giữ Ít-ma-en ở trong nhà. Xa-ra không chịu vì ghen tức. Nhưng Thiên Chúa cũng không chịu thái độ thoả hiệp đó. Vì hai lý do. I-xa-ác đến từ lời hứa của Thiên Chúa. Ít-ma-en là toan tính của con người. I-xa-ác là con của người vợ chính thức trong hôn nhân tự do. Ít-ma-en là con của người nô lệ trong dục vọng của con người. Thiên Chúa dạy Áp-ra-ham phải để Ít-ma-en ra đi. Đó là tôn trọng Thiên Chúa và tin tưởng vào lời hứa của Người. Đó là tách bạch rõ ràng tự do và nô lệ, con chính thức và con ngoại hôn. Không thoả hiệp nhập nhằng. Ý định của Thiên Chúa không thể pha trộn dục vọng của con người. Con cái tự do không thể sống chung với con cái nô lệ (năm lẻ).
Chúng ta sẽ sống thế nào. Chọn Thiên Chúa. Chấp nhận thiệt thòi vật chất. Hay chọn vật chất. Sống chung với ma quỷ. Để Thiên Chúa ra đi?
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai mẫu người, hai cách thức Chúa đến với họ.
Mẫu người thứ nhất có thể thấy được nơi hai người bị quỷ ám. Họ là những con người bị đẩy ra bên lề xã hội và chính họ cũng không làm chủ được trí khôn của mình nữa, họ không còn sống như một người bình thường và bị người ta xa lánh. Chúa Giêsu đến với họ một cách bất ngờ, họ chưa kịp xin Chúa chữa lành; vả lại họ cũng không thể xin, vì lúc đó họ đang bị quỷ ám. Thế nhưng, Chúa đã chữa lành họ, Ngài cho phép quỷ nhập vào đàn heo gần đó. Một phép lạ xẩy ra làm rúng động những người dân trong thành.
Mẫu người thứ hai là dân cư miền Gađara. Những người này có đời sống vật chất đầy đủ và tiện nghi, nhưng dường như không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa đến với họ qua dấu lạ chữa lành hai người bị quỷ ám mà từ lâu họ đã chối từ, và sự kiện đàn heo bị quỷ nhập lao xuống biển chết chìm. Chúa Giêsu đã thực hiện dấu lạ để kéo chú ý của người dân trong thành về việc Chúa đến, nhưng họ đã bỏ mất cơ hội để tiếp xúc với Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Bởi vì, như Tin Mừng kể lại, sau khi gặp Ngài, họ xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Họ làm thế vì sợ phải gánh chịu những thiệt hại vật chất do sự hiện diện của con người lạ lùng này. Những lợi lộc hay những thiệt thòi vật chất có thể làm cho con người khép kín tâm hồn, trở nên mù quáng trước sự hiện diện yêu thương, bình an và cứu rỗi của Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta một tâm hồn thanh thoát, biết mở rộng để đón nhận những dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, để sẵn sàng đến gặp Chúa, sống với Chúa và trở thành dụng cụ hữu hiệu của Chúa cho những người xung quanh.
Khi Đức Giêsu sang bờ bên kia, và đến miền Ga-đa-ra, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. Và kìa, chúng la lên rằng: “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi có can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đến đây làm khổ chúng tôi sao?” (Mt. 8, 28-29)
Phép lạ kỳ cục
Phép lạ vừa được kể lại cho chúng ta có thể bị chúng ta coi như hơi kỳ quặc. Lúc ấy Chúa Giêsu muốn giải thoát cho hai người bị quỷ ám. Hai người này đã khuấy động đời sống dân làng vì không ai dám lại gần họ và qua lại lối ấy. Thật là ý tưởng ngộ nghĩnh khi cho bọn quỷ nhập vào bầy heo và khiến chúng lao xuống biển! Chẳng lẽ Chúa Giêsu không có thể làm cách khác sao? Tại sao Chúa đã không đơn giản ra lệnh cho các thần ô uế buộc chúng phải cút đi ngay? Khi cho quỷ nhập vào bầy heo. Người đã làm cho dân chúng nơi đó phải sợ hãi. Những người chủ bầy heo hẳn đã phát điên lên khi nhìn đoàn vật chết chìm dưới biển. Kết cục là họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Phép lạ này có lẽ hơi lạ thường, nhưng lại bao hàm một giáo huấn mà ta cần phải suy nghĩ.
Phải biết trả giá
Chúa có ý dạy ta điều này: để giải thoát con người khỏi sự dữ, đôi khi Chúa đòi người ta phải trả giá một chút cho ơn giải thoát ấy. Chắc chắn những người dân làng ấy mong cho hai người bị quỷ ám kia được cứu thoát. Nhưng muốn cho điều ấy xảy ra, mà họ đã không sẵn sàng chịu tốn công tốn của một chút.
Ta có thể có được vô số những áp dụng cho hôm nay. Ta mong được Chúa cứu ta khỏi sự dữ tiềm ẩn trong ta. Mà ta có sẵn sàng thực hiện những cố gắng cần thiết để góp phần vào việc này không? Ta mong muốn cho thế giới hôm nay người ta sống công bình với nhau hơn. Nhưng ta có bằng lòng xả thân chịu khổ để chiến đấu cho công bình không? Ta mong cho trên mặt đất này, không còn người nào phải chịu cảnh đói ăn thiếu mặc. Nhưng ta có vui lòng chia sẻ cơm áo, của cải của ta và sẵn sàng từ bỏ một nếp sống tiện nghi thái quá không?
Ta phải ý thức rõ ràng điều ấy. Nhiều điều không được thực hiện, nhiều điều vẫn không có, bởi tại ta không chịu “chi trả” đó thôi.
Trong sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 26 tại Madrid, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã viết: “Có một xu hướng duy đời (laïciste) mạnh mẽ muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống con người và xã hội, toan tính kiến tạo một ‘thiên đường’ không có Thiên Chúa. Nhưng kinh nghiệm dạy rằng một thế giới không có Thiên Chúa là ‘một hỏa ngục’ trong đó, trổi vượt những ích kỷ, chia rẽ trong các gia đình, oán thù giữa cá nhân và các dân tộc, thiếu tình thương, niềm vui và hy vọng”. Và trong thông điệp “Spe Salvi” Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã quả quyết: “Một nền nhân bản vắng bóng Thiên Chúa sẽ là một nên nhân bản phi nhân” (Thông điệp Spe Salvi, số 78).
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu xua đuổi ma quỷ ra khỏi hai chàng thanh niên ở Giêrasa. Sau đó, ma quỷ đã xin Đức Giêsu cho nhập vào đàn heo và lao xuống biển. Thấy thế, những người chăn heo chạy chốn và báo tin cho những người trong thành về sự kiện vừa mới diễn ra trước mắt họ, vì thế, dân trong thành đã ra đón Ðức Giêsu, nhưng khi gặp Ngài, họ đã xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ.
Những gì xảy ra thời Đức Giêsu khi xưa, thì trong xã hội hôm nay cũng đã, đang và sẽ xảy đến với chúng ta. Thật vậy, vẫn còn đó những cám dỗ về tiền tài, danh vọng và xác thịt do ma quỷ gây nên. Vẫn còn đó những thửa đất và môi trường thuận lợi cho ma quỷ hoành hành. Những thửa đất đó là: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, bất nhân nơi nhân tâm của con người.
Bên cạnh đó, hình ảnh chốn chạy của những người chăn heo vẫn còn tái diễn nơi những người thiếu trách nhiệm, sống vô kỷ luật và tán tận lương tâm. Và, vẫn còn đó hình ảnh những người sẵn sàng tin Chúa, nhưng không chấp nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời như dân thành khi xưa đã mời Chúa ra khỏi nơi ở của họ.
Những thứ mà con người hôm nay hay lựa chọn thay cho những giá trị Tin Mừng là: tiền bạc bất chính, danh vọng hư ảo, hận thù ghét ghen, ma men tối ngày, ma đề triền miên, ma xác thịt , quỷ dâm loạn ... Mỗi lần chúng ta lựa chọn các điều xấu xa như thế, ấy là lúc hình ảnh những người trong thành ra đón Chúa nhưng lại không thích Chúa ở lại trong thành của họ vì biết bao điều khuất tất họ đang làm lại tái diễn cách sống động nơi chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết chọn Chúa, đi theo Chúa và sống những giá Tin Mừng trong cuộc đời. Xin Chúa cũng giúp chúng con vượt qua được những cơn cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Amen.
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng uy quyền mạnh mẽ giải thoát ta khỏi ách thống trị của quỷ dữ. So với sự tự do và bình an của Chúa đem lại, sự thiệt hại vật chất dù lớn đến đâu cũng chẳng đáng kể là bao.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhìn vào hai người bị quỷ ám ở miền Ga-da-ra, con nghĩ đến thân phận tội lỗi của đời con. Cũng như họ, thân xác và linh hồn con mòn mỏi vì sống trong cô đơn, oán giận, tăm tối, sống tách biệt và gây sợ hãi cho nhiều người chung quanh.
Nhưng lạy Chúa, cũng như họ, con dám đứng ra để đón tiếp Chúa, vì con tin Chúa là Đấng quyền năng. Chỉ có Chúa mới có thể giải thoát con khỏi ách thống trị của quỷ dữ. Con tin Chúa sẽ đem lại cho con tự do và sự bình an sâu thẳm. Chính Chúa sẽ trả lại cho con một đời sống trong niềm vui và tình yêu. Con sẽ không còn là người làm cho người khác kinh hãi và xa lánh nữa.
Xin Chúa đừng xa lánh con, nhưng hãy đến ở bên con, nâng đỡ con, và ban cho con sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Bởi vì con tin rằng: nếu con biết cậy dựa nơi quyền năng Chúa, nếu con mở lòng đón nhận ơn Chúa, thì con sẽ loại trừ được quỷ dữ của đam mê dục vọng, con sẽ chiến thắng được quỷ dữ của tính mê nết xấu.
Lạy Chúa Giêsu, để được sống trong tự do và bình an, con biết sẽ phải hy sinh. Nhưng dù có thiệt hại về vật chất lớn lao như dân thành Ga-da-ra, con vẫn hân hoan vui sướng, vì biết rằng tự do và bình an Chúa ban cho con vẫn quý hơn bội phần. Xin đừng để con vì nuối tiếc những sự trần gian, mà để cho quỷ dữ thống trị mãi mãi. Lạy Chúa, xin thương xót con. Amen.
Một thanh niên say rượu, đi ngang qua đám đông đang nghe giảng. Anh muốn tỏ ra “ta đây” và làm cho nhà giảng thuyết mất mặt: “Chào, này ông bạn ơi, về nhà đi thôi, đừng giảng nữa, ma quỷ chết hết rồi!”.
Vị giảng thuyết lạnh lùng nhìn anh nói: “Ma quỷ chết rồi à? Vậy là từ nay anh mồ côi rồi!”. Chàng ta xấu hổ lủi mất dạng, trong khi đám đông được trận cười khoái chí.
Suy niệm
Những trang đầu của Kinh Thánh cho biết: Ma quỷ đã giăng bẫy lôi kéo nguyên tổ Ađam và Eva chống lại Thiên Chúa và gây nên hậu quả của tội bất tuân - tội nguyên tổ làm con người chịu biết bao đau khổ và phải chết... Quyền lực của bóng tối, sự dữ bao trùm…
Trong Tin Mừng hôm nay, hai người bị ma quỷ ám hại rất đau khổ: Vốn là người bình thường, trở thành rất hung bạo, quấy phá đến nỗi không ai dám đến gần và qua lại nơi họ trú ẩn. Hình ảnh đó cho thấy ma quỷ chính là nguyên nhân gây nên đời sống bất ổn trong tâm hồn của người bị nó ám và cho cả người chung quanh, nên họ phải luôn sống trong tình trạng lo sợ.
Đức Giêsu ra lệnh cho quỷ xuất khỏi hai người và cho nó nhập vào đàn heo khi chúng xin, và cả đàn lao xuống biển, Ngài minh chứng cho mọi người biết quyền năng của Ngài trên mọi ác thần... đàn heo của họ quỷ đã nhập vào lao xuống biển. Như thế Đức Giêsu đã chứng minh cho họ biết rằng Satan phải vâng lệnh Ngài, rút lui về sào huyệt của nó, để không còn tung hoành trên mặt đất làm hại ai nữa. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, biển là sào huyệt của ác thần, của ma quỷ, như lời thánh Gioan nói về ngày cánh chung, ngày Đức Giêsu toàn thắng sự dữ: “Biển đã trả lại những người chết trong nó; tử thần và âm phủ hoàn lại những người chết chúng giam giữ” (Kh 20,13). Và “tôi thấy một trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã qua, và biển không còn nữa” (Kh 21,1).
Việc Ngài đến để tiêu diệt quyền lực của ma quỷ, vốn luôn mai phục trong tâm hồn của con người khi gây bất an, chia rẽ, lòng tham muốn lợi lộc của cải trần gian…
Chúng ta tin và xin quyền năng của Đức Giêsu đến để trục xuất quỷ dữ ra khỏi tâm hồn chúng ta.
Ý lực sống:
“Chúa Con có cho các ngươi được tự do thì các ngươi mới đích thực là tự do” (Ga 8,36).
Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại là Ghêrasa. Sức mạnh của quỉ dữ thật lớn, nhưng Chúa Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỉ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người: dân chúng chạy ra xem và yêu cầu Ngài rời khỏi xứ sở họ, một phần vì sợ uy quyền Chúa đã trừ ma quỉ dữ tợn, phần khác cũng vì sợ bị thiệt hại vật chất.
Qua bài Tin mừng trên, nhiều người trong chúng ta không khỏi thắc mắc tự hỏi ma quỉ là gì? Nó có thật không? Nó từ đâu đến? Sao nó lại có ác ý gây sự với người tốt bụng và làm những điều xấu xa để phá rối thế gian? Ai là người có quyền lực trừ khử được nó?
Theo thần học và giáo huấn của Hội thánh thì quỉ Satan là một thiên thần Thiên Chúa tạo dựng. Lúc đầu, Satan là một thiên thần tốt lành, nhưng sau đó nó sa ngã vì tính kiêu ngạo, bất tuân phục đối với Chúa và đã bị Thiên Chúa tống xuống hỏa ngục. Quỉ Satan tìm mọi cách để quyến rũ con người xa lìa và chống lại Thiên Chúa, nhưng chính nó đã lôi kéo nguyên tổ chúng ta là ông Adong và bà Evà. Những quyền năng của quỉ Satan không phải là vô hạn, vì nó cũng chỉ là một loài thụ tạo từ Thiên Chúa mà ra, nó không thể chiến thắng Thiên Chúa để làm chủ thế gian và ngăn chặn việc xây dựng Nước trời. Mặc dù Satan hoành hành, thù nghịch với Thiên Chúa, và mặc dù nó đã gây ra nhiều tai hại cho con người và xã hội, nhưng nó đã bị đánh bại ngay từ thuở ban đầu như đã được mạc khải trong sách Sáng thế hay trong thư thứ nhất của thánh Gioan. Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá huỷ công việc của ma quỉ.
Trong việc Chúa chữa lành cho người bị quỉ ám này, chúng ta thấy có hai cách thức hành xử của hai hạng người khác nhau: đó là hai người bị quỷ ám và dân thành Ghêrasa.
Hạng người thứ nhất: có thể thấy được nơi hai người bị quỉ ám. Họ là những người bị đẩy ra bên lề xã hội và chính họ cũng không làm chủ được trí khôn của mình nữa, họ không còn sống như một người bình thường và bị người ta xa lánh. Chúa Giêsu đến với họ một cách bất ngờ, họ chưa kịp xin Chúa chữa lành; vả lại họ cũng không thể xin, vì lúc đó họ đang bị quỉ ám. Thế nhưng, Chúa đã chữa lành họ, Ngài cho phép quỉ nhập vào đàn heo gần đó. Một phép lạ xảy ra làm rúng động những người dân trong thành.
Hạng người thứ hai là dân thành Ghêrasa, họ đã không nhìn nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế qua những dấu lạ mà Người đã làm. Trái lại, họ lại mời Người đi nơi khác, vì sợ bị thiệt thòi tài sản và sợ bị người Do thái quấy nhiễu; vì sợ sệt, an phận thủ thường và vì lòng ích kỷ, họ từ chối tin nhận vào Thiên Chúa và sự cứu rỗi. Người dân thành Ghêrasa chỉ nhìn thấy những mối lợi nhỏ nhặt trước mắt, mà họ không nhìn thấy được món lợi lớn lao hơn, đó là sự sống vĩnh cửu trong Nước trời. Có một điều đáng để chúng ta lưu ý là chính Satan nhìn nhận Chúa Giêsu và kính sợ Người, thì trong khi đó chúng ta là con cái của Thiên Chúa, thế mà có nhiều người lại từ chối tin nhận Người. Trong trường hợp này, chính quỉ Satan đã làm chứng tá cho chúng ta về sự hiện hữu của Chúa nơi trần gian (Mỗi ngày một tin vui).
Dù cho quyền năng của Thiên Chúa có hoàn toàn chiến thắng thế lực của ma quỉ, thì Ngài cũng đành bó tay trước sự tự do của con người. Cả dân chúng miền Ghêrasa đến đón Chúa Giêsu, nhưng không phải để đón tiếp mà để xin Ngài đi nơi khác. Con người nhẫn tâm chối từ Thiên Chúa vì con người còn quyến luyến của cải, còn tiếc rẻ miếng mồi ngon của quỉ dữ. Họ sợ phải hy sinh, Chúa Giêsu còn ở đàng xa mà họ đã mất đàn heo, thì một khi Ngài ở gần họ, có lẽ họ sẽ phải mất tất cả.
Truyện: Chiến thuật của ma quỉ
Rowlan Hill, một nhà giảng thuyết trứ danh, trong một bài giảng đã kể câu chuyện như sau: Ngày nọ, tôi xuống phố, thấy một bầy heo chạy theo một người. Tôi thấy lạ nên để ý xem. Lạ hơn là bầy heo theo người đó vào lò sát sinh.
Tôi thắc mắc hỏi người đó làm cách nào mà dụ bầy heo tài tình như vậy. Ông bèn đáp: “Ngài không thấy đó sao? Tôi mang theo rổ đậu, thỉnh thoảng vãi mấy hạt xuống đường. Thế là bầy heo tham ăn cứ chạy theo tôi”. Rồi ngài giảng tiếp: “Tôi nghĩ ma quỉ cũng áp dụng chiến thuật đó. Nó mang theo rổ đậu, rải trên đường trần và đám đông xô nhau chạy theo, đến tận lò sát sinh vĩnh hằng”.
Phép lạ này mặc khải uy thế của Đức Chúa Giêsu chế ngự một đối thủ còn đáng gờm hơn nữa, đó là quỷ dữ.
Đối với người Do Thái, heo là giống ô uế. Miền đất Ghêrasa này đầy heo vì đó là vùng của dân ngoại, nơi ngự trị của ma quỷ.
Sức khống chế của ma quỷ rất mạnh, đến nỗi chúng đã lôi hai nạn nhân của chúng sống trong mồ mả, và “chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua lại đường ấy”.
Nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng hoàn toàn: cả đàn heo (do quỷ nhập) đã nhào xuống biển chết chìm trong đó.
Cũng nên chú ý phản ứng của dân miền đó: Họ nhận biết uy quyền của Chúa Giêsu, nhưng vì tiếc của, họ xin Ngài rời miền của họ.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Cũng như dân miền Ghêsara, tôi vẫn biết rằng uy quyền Chúa vượt hơn uy quyền của ma quỷ. Thế nhưng tôi muốn tiếp tục sống dưới quyền của ma quỷ, sống với “bầy heo” còn hơn là đi theo Chúa mà phải từ bỏ.
2. Rowlan Hill, một nhà giảng thuyết trứ danh, trong một bài giảng đã kể chuyện sau: ngày nọ, tôi xuống phố, thấy một bầy heo chạy theo một người. Tôi thấy lạ nên để ý xem. Lạ hơn là bầy heo theo người đó vào lò sát sinh! Tôi thắc mắc hỏi người đó làm cách nào mà dụ bầy heo tài tình vậy. Ông đáp: Ngài không thấy đó sao ? Tôi mang theo rổ đậu, thỉnh thoảng vãi mấy hạt xuống đường. Thế là bầy heo tham ăn chạy theo”. Rồi Ngài giảng tiếp: “tôi nghĩ ma quỷ cũng áp dụng chiến thuật đó. Nó mang theo rổ đậu, rải trên đường trần và đám đông xô nhau chạy theo, đến tận lò sát sinh vĩnh hằng”.
3. Thái độ dân miền Ghêrasa cho ta thấy thêm được rằng không phải Chúa Giêsu lúc nào cũng đáng yêu và được người ta thích đến gần đâu. Có nhiều lúc người ta thấy Chúa đáng sợ và người ta không muốn Chúa đến gần mình. Nhất là khi Chúa đòi người ta phải từ bỏ, khi Ngài muốn trục xuất một tên quỷ dữ thường trú bấy lâu nay ra khỏi người ta. Tôi tự hỏi: hiện giờ đối với tôi Chúa đáng yêu hay đáng sợ ? Tôi muốn Chúa đến với tôi hay tôi xin Ngài tránh xa tôi ?
1. Câu chuyện Chúa Giêsu cho quỉ nhập vào đàn heo, đã gây nên nhiều thắc mắc: tại sao Chúa lại để cho người ta thiệt hại cả đàn heo như thế? Các thánh Giáo phụ đã bàn cãi rất nhiều về vấn đề này. Sở dĩ người ta đặt ra vấn đề này là vì người ta nhìn sự việc dưới lăng kính vật chất. Còn nếu nhìn theo góc nhìn giá trị thì sự việc sẽ khác hoàn toàn. Sự việc giải thoát cho hai con người bất hạnh cũng như giải thoát cho cả vùng khỏi nỗi khiếp sợ triền miên do ma quỉ gây ra, so với sự thiệt hại vật chất thì có đáng là bao.
Là những con người có lương tri, chẳng lẽ chúng ta lại dám đem giá trị của một linh hồn bất tử của con người ra mà so sánh với giá giá trị của một bầy heo sao! Có khi nào chúng ta lại phàn nàn rằng mất bầy heo để phục hồi tâm trí cho hai người đáng thương kia và trả lại sự an bình cho cả một vùng đất sống của bao nhiêu người là giá quá đắt? Nói vậy, không có nghĩa là chúng ta khuyến khích hoặc dung thứ cho những hành vi đối xử tàn ác với thú vật, nhưng chỉ có nghĩa là chúng ta phải bảo tồn ý thức về giá trị quân bình trong cuộc sống.
2. Bài Tin Mừng hôm nay còn một điểm mà chúng ta phải lưu ý: Đó là lời tuyên xưng của ma quỉ và phản ứng của dân thành Garada.
a- Rõ ràng là ma quỉ đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, trong khi người Do thái lại cho Chúa nói phạm thượng khi Ngài tự xưng mình như thế. Đây không phải là lần duy nhất ma quỉ tuyên xưng như vậy. Một câu hỏi có thể đặt ra tại đây: Tại sao họ lại từ chối không chịu tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa như vậy? Có nhiều lý do, nhưng xét cho cùng thì cũng chỉ vì quyền lợi vật chất riêng tư của họ mà thôi. Thường có quyền thì có lợi. Nếu dân chúng bỏ họ mà theo Chúa hết thì điều mà họ lo là họ sẽ mất quyền và cũng như mất lợi (mất uy tín, mất danh vọng ăn trên ngồi trước). Họ tiêu diệt Chúa Giêsu vì niềm tin độc thần thì ít mà vì quyền lợi thì nhiều.
b- Dân chúng xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Khi những kẻ chăn heo chạy về thành phố thuật lại sự việc đã xảy ra, thì dân thành đã xin Chúa Giêsu rời khỏi xứ họ tức khắc. Thánh Matthêô không nêu lên lý do tại sao họ làm như thế, tuy nhiên cứ theo phản ứng đầu tiên ấy, thì có lẽ bởi vì họ nghĩ: nếu ông ta tiếp tục làm các phép lạ như thế giữa họ, thì chắc họ sẽ còn phải hấng chịu nhiều thiệt hại hơn nữa. Họ từ chối Chúa vì quyền lợi vật chất. Rõ ràng ở đây tính vị kỷ của con người được biểu lộ thật rõ ràng. Đối với họ, hai người được phục hồi lý trí chẳng có gì quan trọng, điều quan trọng đối với họ là bày heo đã chết. Thường thường người ta nói rằng: “Tôi chẳng cần bận tâm đến chuyện gì xảy ra cho người khác chừng nào quyền lợi, tiện nghi và sự thoải mái của tôi vẫn được bảo toàn”.
Người Do thái cũng như dân ngoại từ chối Chúa Giêsu chỉ vì quyền lợi vật chất. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Có khi nào vì quyền lợi vật chất mà ta từ chối Chúa hay từ chối lời Chúa không? Có khi nào ta chọn quyền lợi vật chất hơn chọn Chúa không?
Một anh thợ mộc nọ đã có bốn con, nhà nghèo, đến nói với tôi rằng: con muốn chuyển gia đình đến một nơi khác làm ăn, hy vọng sẽ khá hơn. Nhưng con cứ do dự hoài. Bởi vì chỗ con định đến lại xa nhà thờ, ở giữa dân ngoại. Nếu con ra đi thì con cái con sẽ không có chỗ học giáo lý và cả gia đình cũng sẽ khó mà đến nhà thờ ngày Chúa nhật được.
Một chọn lựa khó khăn, mà ai trong chúng ta cũng có thể gặp hàng ngày. Chọn tham dự thánh lễ hay coi một cuốn phim hay. Chọn giữa sự tha thứ và hận thù. Chọn giữa một buổi đi chơi với bạn bè hay đi học giáo lý. Trong cuộc sống, tôi thường chọn Chúa hay chọn quyền lợi riêng tư của tôi?
Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng: “Chúng con phải lựa chọn”. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Thành công hay thất bại là tùy ở những chọn lựa mỗi ngày của ta.
Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn, vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), nhà vua nói:
- Con muốn chọn cái nào?
Ngần ngừ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.
Vua cha hỏi:
- Tại sao con lại chọn thanh kiếm?
Hoàng tử cầm thanh kiếm lên chỉ vào vương miện, đáp:
Chúa thương những người nghèo, những người đau ốm bệnh tật, nhất là những người bị quỷ ám. Đây là những người kém may mắn trong cuộc sống, bởi họ mất mát và chịu quá nhiều thiệt thòi so với những người khác. Do đó, họ rất mặc cảm, tự ti, chưa kể họ bị mọi người bỏ rơi, bị mọi người xa tránh. Bản thân họ thấy mình cô đơn, hẩm hiu, bị hất hủi và chúng ta cảm thấy thương họ thật. Nhưng đối với Chúa, họ lại chiếm một chỗ đặc biệt trong trái tim của Chúa. Chúa thương họ là như vậy đó.
Hai người bị quỷ ám hôm nay đau khổ vô cùng, bởi vì quỷ dữ đã chiếm lĩnh toàn bộ con người của họ, khiến cho họ trở thành hung dữ và bị mọi người xa tránh, họ bị đau khổ chồng chất lên đau khổ: “Khi ấy, Chúa lên thuyền sang bờ bên kia, đến miềm Giêrasa, thì găp hai người bị quỷ ám từ các mồ mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua lại đường ấy” (Mt 8, 28).
Chúa thấy nguyên nhân của đau khổ và bị mọi người xa tránh là do quỷ dữ, cho nên, mặc dù nó năn nỉ Chúa: “Và chúng kêu lên rằng: Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao? “ Mt 8, 29), nhưng Chúa vẫn nhất quyết trục xuất nó ra khỏi hai người này. Và khi nó thấy không thể làm lung lay được quyết định của Chúa, nó xin Chúa cho nó nhập vào đàn heo gần đó, Chúa đã cho phép, và trong tích tắt, đàn heo này đã lao xuống biển và đã chết hết. Hai người bị bị ám đã trở lại bình thường. Dân làng kéo ra và gặp thấy như vậy, họ kính sợ Chúa nhưng họ lại mời Chúa rời khỏi vùng của họ (Mt 8, 30 – 34).
Qua phép lạ Chúa chữa hai người bị quỷ nhập hôm nay, chúng ta thấy:
-Chúa sẵn sàng ban ơn, cứu chữa chúng ta khi chúng ta kêu xin Chúa. -Chúa dạy chúng ta, con người chúng ta là quan trọng nhất. -Chúa thương người đau khổ và Chúa dạy chúng ta cũng phải thương họ. -Vật chất tuy quan trọng, nhưng sự quan trọng đó là thứ yếu. -Đừng vì ham mê của cải vật chất mà bỏ Chúa’ -Muôn ngàn súc vật, chim trời, động vật, cá biển là của Chúa, Chúa lấy đi, Chúa sẽ cho lại.
Lạy Chúa, cuộc sống chúng con yên ả, chúng con giữ đạo rất tốt, nhưng khi có một ai đó đụng đến chúng con, nhất là đụng chạm đến của cải vật chất của chúng con thì chúng con sẽ phản ứng liền tức khắc, có khi chúng con phản ứng thái quá, đôi lúc chúng con mất cả đức tin luôn. Trong khi đó môi miệng chúng con luôn đọc kinh, luôn kêu xin, luôn khẩn cầu Chúa không khi nào ngừng, còn hành động của chúng con thì giả hình, giả bộ để đánh lừa người khác là chúng con sống tốt lành đạo đức theo ý Chúa. Do đó, lòng đạo đức và cách hành xử của chúng con không đi đôi với nhau mà là ngược nhau. Xin Chúa là Đấng chúng con yêu mến hết lòng, Chúa chẳng cần chúng con dâng gì cho Chúa cả, Chúa muốn chúng con có một tấm lòng tư bi nhân hậu gống như Chúa để chúng con yêu thương những người anh chị em chúng con đang đau khổ trong cuộc sống mà cầu nguyện, chia sẻ, cứu giúp anh chị em của chúng con và chúng con cũng biết tôn thờ Chúa trên tất cả mọi sự trong đời chúng con. Amen.
Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng thì cũng là lúc ma quỷ phá hoại Chúa một cách dữ dội nhất.
Ma quỷ phá Chúa bằng cách ám hại rất nhiều người con cái Chúa và nói những câu nói làm ảnh hưởng đến sứ mạng cứu thế của Chúa như trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước kỳ hạn sao?” (Mt 8, 29). Một khi mọi người qua lời nói của ma quỷ biết Chúa là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, họ sẽ bắt Chúa lên làm vua. Lên làm vua, Chúa sẽ không thể đi đó đây để rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo được. Điều này họ đã làm với Chúa rồi: “Dân chúng thấy phép lạ Chúa Giêsu làm thì nói: Hẳn ông này là một vị tiên tri, Đấng phải đến thế gian! Nhưng Chúa biết họ sắp đến bắt Chúa đem đi mà tôn lên làm vua, nên Chúa lại lánh mặt đi, đi lên núi một mình” (Ga 6, 14 – 15).
Những người bị quỷ ám hại, họ thật là đau khổ vì nằm dưới sự thống trị của ma quỷ, họ bất lực, vô phương cứu chữa. Chúa thương cách riêng những người này và Chúa đã cứu chữa họ. Một cách rõ ràng nhất là ma quỷ nhập vào hai người mà suốt ngày nó nhốt họ ở trong mồ mả, hung dữ, quấy phá dân làng. Khi thấy Chúa, nó hoảng sợ, nó la lên: “Khi Ðức Giêsu sang bờ bên kia, và đến miền Gađara, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy. Và kìa, chúng la lên rằng: “Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?” (Mt 8, 28 – 19). Nó xin Chúa cho nó nhập vào đàn heo gần đó. Chúa đồng ý. Nó liền xuất ra và nhập vào đàn heo, tức thì đàn heo, từ bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước.
Hai người bị quỷ ám bây giờ trở thành hai con người bình thường, đó là niềm vui của họ và cho cả dân làng vì con đường qua lại hàng ngày của dân làng không còn bị quấy phá để mà sợ hãi nữa. Cuộc sống của những người ở hai đầu con đường này an bình, giao thương thông thoáng.
Thế mà dân làng khi nghe các người chăn heo chạy về báo tin việc ấy, cả làng ra đón Chúa. Khi gặp Chúa rồi, họ xin Chúa rời khỏi vùng của họ. Dường như họ không cần Chúa nữa. Dường như họ coi trọng vật chất hơn Chúa, và sự mất mát của cải hơn là mất Chúa. Dường như họ chưa thấy sự sống của hai người bị quỷ ám là quan trọng. Họ chưa thấy khi Chúa ở đó, Chúa đã đem lại cuộc sống bình an cho họ, họ không còn phải sợ hãi như lúc trước nữa: “Bọn quỷ nài xin Người rằng: “Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo kia”. Người bảo: “Ði đi!” Chúng liền ra khỏi hai người đó và nhập vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết. Các người chăn heo chạy trốn vào thành, kể lại mọi sự, và những gì đã xảy ra cho những người bị quỷ ám. Và kìa, cả thành ra đón Ðức Giêsu, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ” (Mt 8, 30 – 34).
Lạy Chúa, tội lỗi, ma quỷ làm cản trở con đường chúng con đến với Chúa và với anh chị em chúng con. Khi chúng con không thể đến với Chúa, chúng con trở nên hung dữ, độc ác và là nỗi sợ hãi cho anh chị em chúng con. Xin Chúa cứu chúng con qua các Bí tích của Chúa, để nhờ đó, con đường chúng con đến với Chúa được Chúa nối kết lại và rồi chúng con sẽ đến với anh chị em chúng con bình an hơn “Có Chúa là có tất cả”. Amen
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Tư Tuần 13 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã rủ lòng thương nhận chúng ta làm nghĩa tử, để chúng ta trở thành con cái ánh sáng, xin đừng để chúng ta sa vào cảnh tối tăm lầm lạc, nhưng gìn giữ chúng ta luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa.
Luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa, Chúa sẽ gìn giữ che chở người Chúa chọn, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Samuen Quyển II nói về: Khởi đầu triều đại vua Đavít. Điều ngôn sứ Samuen loan báo cho vua Đavít, nay Thiên Chúa thực hiện: Vua có một tư tưởng chính trị lớn khi mở đầu triều đại, đó là chinh phục một thành mới, sẽ trở thành thủ đô, độc lập đối với tất cả các chi tộc, chẳng bao lâu sẽ trở thành biểu tượng của cộng đoàn. Vua chúa trần gian cùng nổi dậy, vương hầu khanh tướng rập mưu đồ chống lại Đức Chúa, chống lại đấng Người đã xức dầu phong vương. Chính Ta đã đặt vị quân vương Ta tuyển chọn lên trị vì Xion, núi thánh của Ta. Sao chư dân lại ồn ào náo động? Sao vạn quốc dám bày kế viển vông?
Luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa, Chúa sẽ thực hiện điều Người đã hứa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích sách Đường Trọn Lành, thánh Têrêxa nói: Xin làm cho triều đại Cha mau đến… Đấng đã biết cho con cái mình của lành của tốt, lại thúc giục chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ cửa. Càng bền chí tin tưởng, trông cậy vững vàng, ước mong tha thiết, ơn lành ta nhận được càng phong phú dồi dào. Thường ta phải than van hơn nhiều lời, khóc lóc hơn lý sự.
Luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa, Chúa sẽ can thiệp cho ta như đã giải thoát bà Xara khỏi cảnh hiếm muộn, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Sáng Thế, bà Xara nói: Con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế cùng với Ixaác, con trai tôi. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 33, vịnh gia cho thấy: Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa Cha đã tự ý dùng lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người. Trong bài Tin Mừng, thánh Mátthêu tường thuật: Chưa tới lúc mà Ngài đã đến đây làm khổ loài ma quỷ chúng tôi. Chúa đã dùng lời chân lý mà sinh ra ta, và Chúa cũng đã dùng Lời Chúa mà xua trừ những thế lực làm hại ta. Không kính sợ Chúa, ta sẽ sợ hãi mọi điều; Kính sợ Chúa, ta sẽ không còn sợ bất cứ điều gì nữa, bởi vì, Chúa sẽ giải thoát những ai kính sợ Người; ai kính sợ Người, chẳng thiếu thốn chi. Đavít kính sợ Chúa, nên, Chúa đã hứa cho dòng dõi ông lên trị vì Xion, núi thánh của Chúa. Ápraham kính sợ Chúa, nên, Chúa đã nói với ông: Tất cả những gì Xara nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính nhờ Ixaác mà ngươi sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho ta biết kính sợ Người, như con thơ kính sợ Cha hiền, kính sợ vì yêu mến, bởi vì, điều cao quý nhất trong Nước Trời, đó là sự bình an vĩnh viễn, là lòng mãn nguyện, khi mọi người tôn kính, ngợi khen, chúc tụng danh Chúa. Nơi đó, Người không còn bị xúc phạm, vì ai nấy đều yêu mến Người. Chính linh hồn cũng chỉ còn biết yêu mến Người, và không thể ngừng yêu mến Người, vì đã biết Người. Đó là cách ta phải yêu mến Người ở đời này. Tuy hiện nay, ta chưa yêu mến Người cách hoàn hảo và hồn nhiên, nhưng, ta sẽ yêu mến Người cách trọn hảo hơn, nếu, ta thật sự biết Người. Chúa đã rủ lòng thương nhận chúng ta làm nghĩa tử, để chúng ta trở thành con cái ánh sáng, ước gì ta luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Ước gì được như thế!