Theo sách Sáng thế, chương 1, chúng ta được biết Thiên Chúa đã dựng nên trời đất vạn vật từ HP1
Theo sách Sáng thế, chương 1, chúng ta được biết Thiên Chúa đã dựng nên trời đất vạn vật từ hư vô theo chương trình rất khôn ngoan của Ngài. Đây là một mô hình tuyệt hảo mà Thiên Chúa đã thiết lập:”Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,25; 1,31). Ngài còn dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, và sáng tạo con người có nam có nữ (St 1,27), Ngài còn ban phúc lành và nói với họ:”Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật trên mặt đất…” (x. St 1,28-31) Trong việc dựng nên con người, Kinh Thánh còn cho biết: Thiên Chúa dựng nên con người đầu tiên bằng bùn đất và được gọi là Adong. Thiên Chúa phán:”Người nam ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18). Thiên Chúa đã dựng nên một người nữ là Evà ; đồng thời tác hợp cho họ nên đôi vợ chồng đầu tiên trong nhân loại. Đây là mô hình đầu tiên mà Thiên Chúa muốn xây dựng gia đình theo mô hình kiểu mẫu đó. Adong và Evà đã thành lập một gia đình và hai người có nhiệm vụ phải cộng tác với nhau để làm cho ngôi nhà hôn nhân được tốt đẹp và bền vững. II. CỘNG TÁC TRONG VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Khi thanh thiếu niên nam nữ đến tuổi yêu đương thì họ đi tìm người yêu. Lúc đầu họ yêu nhau bằng tình yêu lãng mạn, mông lung, sau đó chuyển sang tình yêu dựa trên tình cảm sâu đậm, và sau cùng họ đi đến tình yêu lứa đôi. Họ muốn tìm hiểu nhau, kết hợp với nhau khăng khít và tiến tới hôn nhân, để ăn đời ở kiếp với nhau. Thiết lập một giao ước hôn nhân là ký kết một hợp đồng xây dựng gia đình và gia đình này được ví như một ngôi nhà, một ngôi nhà chung, trong đó mỗi người đóng một vai trò, một nhiệm vụ phải gánh vác, phải làm tròn như người ta nói: Đàn ông dựng nhà Đàn bà xây tổ ấm. Xây dựng được một ngôi nhà là chuyện dễ nhưng làm cho ngôi nhà trở thành một tổ ấm là một chuyện vô cùng khó khăn. Có biết bao ngôi nhà đã biến thành bãi tha ma lặng lẽ. Mọi người trong gia đình đã biến thành khách vãng lai, lạnh lùng khi phải tiếp xúc với nhau. Mọi người phải công nhận rằng vợ chồng có đời sống tâm lý khác biệt và những khả năng khác nhau. Mỗi người mạnh về một phương diện và phải làm theo khả năng đó, chẳng vậy mà người ta đã phân biệt giữa “dựng nhà” và “xây tổ ấm” đó sao ? Người ta ví hôn nhân chỉ là chiếc hộp rỗng, cần phải bỏ vào cái gì thì cái hộp rỗng mới đầy được. Chả vậy mà cố vấn hôn nhân, ông Allan Peterson đã nói:”Đa số người kết hôn tin vào một huyền thoại: cuộc hôn nhân ấy là một cái hộp đen chứa mọi vật mà người ta khao khát: đời sống lứa đôi, sự thỏa mãn về tình dục, sự thân mật, tình bạn… “Sự thật là cuộc hôn nhân ấy lúc bắt đầu là một cái hộp rỗng. Bạn phải bỏ vào một cái gì đó trước khi bạn có thể lấy ra một cái khác. Trong hôn nhân không có tình yêu, tình yêu ở trong hai người và hai người đặt tình yêu vào hôn nhân. Không có chuyện tình lãng mạn trong hôn nhân; người ta phải pha trộn sự thơ mộng vào hôn nhân của họ. “Một đôi tân hôn phải học nghệ thuật ấy và hình thành thói quen cho nhau, yêu nhau, phục vụ nhau, ngợi khen nhau để giữ cho cái hộp được đầy. Nếu bạn lấy ra nhiều hơn bạn bỏ vào, cái hộp sẽ rỗng không” . Nhưng một vấn đề phải được đặt ra là phải chăng chỉ có một trong hai người “bỏ vào” còn người kia thì không quan tâm vun quén. Hôn nhân là công việc mà cả hai người cùng thực hiện ! Truyện: Những mảng bị cắt của bức hình Một cô giáo bảo các em học sinh của mình lấy kéo cắt mỗi người một phần của một bức tranh lớn có giấy phủ bao bên ngoài. Cô nói:”Các em đem phần tranh của mình về nhà, nhưng đừng nhìn trộm trong đó. Rồi ngày Chúa nhật sắp đến, các em sẽ đem lại đây”. Ngày Chúa nhật đến, các học sinh đem phần tranh của mình đến, để lắp lại bức tranh. Khi ráp lại với nhau, bức tranh còn trống một lỗ. Một em đã quên đem phần của mình theo. Cô giáo ôm em mắt đầy lệ và nói:”Lan, cô vui vì em đã quên mang phần của em. Bởi vì việc em quên đã cho chúng ta một bài học về vai trò quan trọng của mỗi người chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được Chúa kêu gọi, để làm chứng cho Ngài bằng một cách đặc biệt duy nhất nào đó. Và nếu chúng ta quên làm, thì chương trình của Chúa cũng sẽ bớt hoàn mỹ, giống như bức tranh này vậy”. Đúng thế, mỗi người trong chúng ta có một vai trò riêng biệt trong chương trình của Thiên Chúa. Nếu chúng ta quên làm, hay tệ hơn, nếu chúng ta cố ý không làm, thì chương trình đó sẽ bớt hoàn mỹ. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ này cho con người, và Ngài muốn con người góp phần của mình vào đó, để làm đẹp thêm thế giới vu trụ này, làm đẹp cho gia đình mà Thiên Chúa đã thiết lập. Trong việc xây dựng gia đình, cả hai vợ chồng phải hợp tác xây dựng hạnh phúc. Thực ra, hạnh phúc không phải là cái gì tiền chế có sẵn, khi thành lập gia đình thì Thiên Chúa ban cho ngay. Trái lại, hạnh phúc phải là thành quả của sự cố gắng giữa hai người biết cùng nhau xây dựng qua bao gian khổ. Nhưng vấn đề đặt ra là Hạnh phúc hệ tại luôn được thỏa mãn hay là cố gắng làm thỏa mãn người khác ? Cuộc sống chỉ là tương đối. Tôi không thể làm người bạn đời trọn vẹn hạnh phúc. Người bạn đời cũng chẳng thể cho tôi mọi ước mơ. Vì cả hai đều yếu đuối và mắc nhiều lỗi lầm, cả hai không là thiên thần mà là người. Là người nên tôi không thể làm thỏa mãn người được. Không làm thỏa mãn người được cũng có nghĩa là người cũng chẳng thể làm thỏa mãn được tôi. Như thế, hạnh phúc là cùng nhau lắng nghe tiếng hót của con họa mi. Cùng chịu giá lạnh của mưa. Chịu khổ của bão. Hạnh phúc trong hôn nhân là cùng nhau góp một ước mơ. Cùng nhau gánh nỗi đau của đời. Cái chua của chanh. Cái ngọt của đường làm nên ly nước mát chứ không riêng của đường, không hẳn chỉ là chanh” (Nguyễn tầm Thường, Nước mắt và hạnh phúc, tr 26). Trong hạnh phúc hôn nhân, hy sinh và đau khổ không bao giờ có thể vắng bóng như không bao giờ có hoa hồng mà không có gai. Càng hy sinh nhiều thì tình yêu càng thắm thiết, càng trong sáng và bền chặt. Chính tình yêu hy sinh đã đem hạnh phúc đến cho gia đình. Chúng ta hãy đọc một đoạn văn của nữ văn sĩ Túy Hồng viết về tình yêu đó: “Tôi nguyện với tình yêu, lúc quay lưng xô ngã cuộc đời người con gái, tôi sẽ từ bỏ tất cả, xa sân khấu, lui khỏi địa vị một ngôi sao để làm một người tầm thường. Tôi sẽ từ giã sự nghiệp đang lên, hy sinh cả danh vọng để trọng nghĩa làm vợ. Một người đàn bà không thể vừa giỏi bên ngoài, vừa giỏi bên trong được. Vì chàng tôi phải ly thân với nghệ thuật. Tên tuổi tôi phải chết cho lòng thành quấn quít bên chàng…” (Túy Hồng, Lòng thành, Sàigòn, 1964, tr 82). Yêu thương là cốt tủy của hôn nhân, thiếu yêu thương thì hôn nhân sẽ trở nên hỏa ngục trần gian : “Cái giầu của đời sống là yêu thương và cái nghèo của cuộc đời là ích kỷ” (A. Vinet). Vì thế, muốn có hạnh phúc hôn nhân, chúng ta phải tiêu diệt ngay bóng ma của gia đình là tính ích kỷ bằng ánh sáng của yêu thương, của hy sinh và xả kỷ. Thi hào R.Tagore đã nói lên sự cần thiết của hy sinh trong việc mưu cầu hạnh phúc cho hôn nhân và gia đình: “Tôi nằm ngủ và tôi mơ thấy rằng: đời là thú vui, Nhưng khi tỉnh dậy, tôi thấy đời là phục vụ, Tôi đã phục vụ và tôi cảm thấy rằng: phục vụ là hạnh phúc”. Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim phát Đà lạt
Con người được Thiên Chúa dựng nên có nam có nữ và cho họ kết hợp với nhau thành đôi vợ HP2
Con người được Thiên Chúa dựng nên có nam có nữ và cho họ kết hợp với nhau thành đôi vợ chồng. Chúng ta có thể tìm được tư tưởng này trong Thánh Kinh. Sách Sáng thế, đoạn I, câu 27-28 đã cho chúng ta biết:”Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Người… có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên chúa phán với họ:”Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất”. Qua đoạn II, câu 18-24, Thiên Chúa lại phán:”Con người ở một mình không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó… Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt vào… làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói:”… Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi ! Nàng sẽ được gọi là đàn ba, vì đã được rút từ đàn ông ra. Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai thành một xương một thịt”. Đọc hai đoạn văn trên chúng ta thấy vị trí cao cả của con người trên bậc thang tạo dựng. Lý do: con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính Người đã tác thành cho người nam người nữ đầu tiên nên vợ nên chồng:”Ngài đã dẫn bà Evà tới cho Adong”. Rồi Người chúc phúc cho đôi vợ chồng đầu tiên này:”Hãy sinh sản cho đầy mặt đất và hãy làm chủ lấy địa cầu”. Cả hai sẽ bổ túc cho nhau, tương trợ lẫn nhau, vì “con người ở một mình không tốt”. Sự kết hợp vợ chồng ở trên mọi kết hợp khác:”Người đàn ông đã lìa bỏ cha mẹ mình mà gắn bó với vợ”. Và bền chặt không gì có thể phân chia, bởi vì “cả hai đã thành một xương một thịt với nhau”. Những người biệt phái đến hỏi thử Chúa Giêsu rằng:”Người ta có được phép bỏ vợ không” ? Chúa Giêsu đã lặp lại đoạn Kinh Thánh trên đây, sau đó đưa ra kết luận:”Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly” (Mt 19,6).
II. HIỆN TƯỢNG PHÁ RÀO. 1. Hàng rào của ngôi nhà Thông thường ngôi nhà nào cũng phải có hàng rào bao quanh. Hàng rào có thể được làm bằng những vật liệu thô sơ, kiểu dáng đơn sơ. Cũng có những hàng rào được xây dựng kiên cố bằng những vật liệu cứng rắn với những nét mỹ thuật. Tuy thế, hàng rào nào cũng chỉ có mục đích chỉ rõ ranh giới chủ quyền của chủ nhà với các người khác. Khi hàng rào được dựng nên thì tức khắc có “lệnh giới nghiêm”, nghĩa là có lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Không ai được vượt qua hàng rào này khi không có lý do chính đáng. Mọi việc ra vào đều phải qua cửa chính.. Ai không thi hành lệnh giới nghiêm ấy đều là kẻ gian. 2. Hàng rào hôn nhân Xây dựng hôn nhân, xây dựng gia đình cũng như xây dựng một ngôi nhà , cũng có một hàng rào, nhưng là một hàng rào vô hình. Cũng có lệnh giới nghiêm, nghĩa là vợ chồng phải thương yêu nhau, đùm bọc nhau không được chia sẻ tình yêu cho người thứ ba nữa. Ai vượt qua hàng rào này là phá bỏ lòng trung tín. Hàng rào này có ý giúp cho tình yêu vợ chồng thêm bền chặt, không có tình yêu từ trong vọt ra ngoài và cũng không cho tình yêu ở ngoài lọt vào trong. Ai không thi hành nghiêm luật này thị bị coi là người hai lòng , một con người giả dối như dân gian đã mô tả: Hai tay cầm hai quả hồng Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai. Nằm đêm vuốt bụng thở dài Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều.
3. Hiện tượng xé rào Ngày nay hiện tượng phá rào xẩy ra thường xuyên. Như chúng ta đã nói: hàng rào là để bảo vệ cho ngôi nhà, không cho người ở trong đi ra, kẻ ở ngoài đi vào. Nếu hàng rào bị xé rách thì đó là một hiện tượng không lành mạnh: nếu ở trong đi ra là dấu chỉ ngươi trong nhà đi ra một cách lén lút, vụng trộm, không ngay thẳng vì nếu ngay thẳng thì phải đi qua cửa chính. Hoặc người ở ngoài chui vào qua lỗ rách thì chỉ là kẻ ăn trộm vì không có lý do gì xé rào chui vào như con chó. Cũng vậy, ngôi nhà hôn nhân có hàng rào bảo vệ, che chở cho mọi người trong nhà. Lúc đó gia đình sẽ được yên ổn. Nhưng nếu chồng hoặc vợ có mối tình vụng trộm, lén lút như chồng thì đi kiếm một cô gái non, vợ thì đi kiếm một chàng trai tơ, thì lúc đó tình yêu vợ chồng sẽ trở nên nhạt nhẽo, lỏng lẻo, hai người ở trong tình trạng mà nhà nho gọi là:”Đồng sàng dị mộng”. Một thi sĩ đã diễn tả tâm trạng đó qua mấy câu thơ như sau: Từ đấy thu rồi thu lại thu Lòng tôi vẫn giá đến bao giờ ? Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ Người ấy cho nên vẫn hững hờ. Hiện tượng này được gọi là ngoại tình. Viện ngôn ngữ học định nghĩa ngoại tình là:”Có quan hệ yêu đương bất chính khi đã có vợ hay có chồng”. Có hai thứ ngoại tình: ngoại tình trong tư tưởng và ngoại tình trong hành động. Về vấn đề ngoại tình trong tư tưởng thì chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu dạy:”Các con đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho các con biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 27-28). Hiện tượng xé rào thì ngày nay xẩy ra như cơm bữa. Người ta thích tìm của lạ. Vợ chồng ở với nhau đã quá quen nên người ta thích có cảm giác mới lạ: Cam ngon quít ngọt đã từng Thèm quả khế rụng trên rừng chưa ăn. Trong hoàn cảnh này, gia đình chưa đến độ tan vỡ, nhưng nếu tình trạng “Chồng ăn chả, vợ ăn nem” cứ xẩy ra hoài hoài thì nguy cơ gia đình tan vỡ không còn xa. Một khi hàng rào của ngôi nhà bị phá hủy thì đó là dấu chỉ ngôi nhà không còn được sử dụng nữa, ngôi nhà đã bị bỏ hoang. Hàng rào không còn ý nghĩa gì đối với ngôi nhà. Cung thế, một khi người ta ly dị nhau là hàng rào hôn nhân đã bị phá đổ, gia đình tan vỡ, những lời hứa trong nghi lễ hôn phối đã bị xúc phạm và trở nên vô nghĩa. Và lúc đó người ta chỉ còn biết than van như mấy lời trong một bài hát:”Thôi, thôi anh đừng đến nữa. Thôi, thôi đừng nói làm gì. Tình anh gian dối quá. Tình anh đã lỗi thề. Anh về xây duyên mới. Còn tôi ôm vết thương tình”.
III. HÃY CỦNG CỐ HÀNG RÀO HÔN NHÂN. Để củng cố hàng rào hôn nhân, anh chị hãy yêu nhau như Chúa Giêsu đã yêu Hội thánh và hãy ghi khắc thật sâu sứ mạng, qua sự kết hợp của anh chị, người đời có thể nhận ra một cách cụ thể, sự kết hợp giữa Chúa Giêsu và Hội thánh. Nhờ xác tín như thế, anh chị sẽ cảm thấy một hối thúc, phải yêu không phải chỉ thể xác của nhau, mà là toàn diện con người của nhau. Và anh chị hãy ý thức rằng Thiên Chúa quan phòng dường như qui định rằng: tình yêu vợ chồng đích thực chỉ có thể được khám phá và lớn lên qua những thử thách và những khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta có thể so sánh tình yêu vợ chồng với cây nho: càng đâm rễ sâu trong vùng đất có nhiều sỏi đá, cây nho càng sản xuất rượu ngon. Chúng ta cũng có thể so sánh tình yêu vợ chồng với một thân cây mà rễ nó đâm sâu dưới đất đá thì tình yêu đó sẽ đứng vững trước sóng gío không làm nó bị bật gốc. Anh chị hãy cố tạo lại cho mình những đặc điểm của người tình. Chị hãy biết hấp dẫn anh bằng sự chăm sóc thể xác cũng như tinh thần của mình. Nếu sao lãng bổn phận này, có thể chị đã tạo căn cớ để mất anh vĩnh viễn. Còn anh cũng đừng quá tiết kiệm những lời yêu thương với chị, những cử chỉ tỏ ra anh biết ơn sự săn sóc ân cần của chị và biết chia sẻ với chị gánh nặng sinh sản và giáo dục. Cuối cùng, anh chị cần dứt khoát loại trừ mọi mầm mống phản loạn, có thể gây đổ vỡ cho hạnh phúc gia đình. Mọi tâm tư và tình cảm của anh, hãy dồn cả cho chị và chỉ một mình chị. Phần chị, cũng hãy làm như thế đối với anh. Mọi cái bóng dáng gọi là người thứ ba, phải loại bỏ, ngay khi vừa ló dạng.
Truyện: Tình son sắt Cuộc sống gia đình của một vị tướng (xin giấu tên) ở Philippines, đang trôi qua trong bầu khí đầm ấm, thương yêu và đạo đức. Bỗng một hôm, bác sĩ cho biết, bà nhà mắc bệnh phong cùi, phải đưa vào trại cùi, cách ly mọi người càng sớm càng tốt.
Thực là một tin sét đánh ! Từ nay, vợ chồng sẽ phải sống xa nhau ! Mấy ngày sau, vị tướng buồn khổ đưa vợ vào trại phong. Nhưng vì quá yêu thương người bạn trăm năm, ông đã nghĩ ra diệu kế: ông giao nhà cửa cho con cái, chấp nhận hy sinh những tiện nghi sẵn có. Ông thuê một căn nhà nhỏ trước mặt trại cùi. Ban sáng trước khi đi làm, ông ghé thăm vợ, chiều về, ông ghé vào an ủi, đưa tin tức cho vợ biết về con cái, bạn bè, rồi cùng nhau đọc kinh cầu nguyện. Lúc đầu không ai biết rõ, dần dần người ta mới để ý, tìm hiểu và sau cùng ai cũng cảm phục. Làm sao họ trung thành với nhau như thế ! Không một tai họa nào có thể chia rẽ mối tình của hai người. Mười mấy năm trôi qua, bệnh bà tới lúc khỏi hẳn, vị tướng sung sướng lái xe đưa vợ về nhà, xum họp lại với con cháu bạn bè. Quả thực đôi vợ chồng này đã thề hứa và trung thành với lời hứa lúc cử hành nghi lễ hôn phối:”Chúng tôi sẽ giữ lòng chung thủy với nhau, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọn nhau suốt đời”. Anh chị hãy xa tránh những nguy cơ trực tiếp dẫn tới sự phản bội, tốt nhất là theo phương pháp của các cụ xưa:”Đào vi thương sách”. Ngoài ra, ý chí và sự trợ giúp của Chúa là hai điều kiện không thể thiếu. Có hai điều kiện này, hạnh phúc của anh chị sẽ bền chặt. Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim phát Đà lạt Đà lạt
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA Chúng ta đọc: Mt 22,34-40; Mc 12,28-31; Lc 14,16-24.
Qua cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và người luật sĩ về giới răn trọng nhất, Chúa Giêsu đã xác HP3
Qua cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và người luật sĩ về giới răn trọng nhất, Chúa Giêsu đã xác nhận tình yêu là căn bản cho mọi cuộc sống tôn giáo. Nói tới giới răn thì chúng ta phải hiểu là toàn thể các giới răn Cựu ước. Nguyên luật Do thái có 613 điều luật, chia ra 248 điều tích cực và 365 điều tiêu cực. Xét về sự quan trọng, người ta lại chia các điều luật đó ra nhiều hạng: khinh giới và trọng giới, đại giới và tiểu giới. Nhưng các người biệt phái lại không đồng ý với nhau về giới luật nào trọng nhất. Vì thế, người luật sĩ mới đến dò xem Chúa cho biết điều luật nào là trọng nhất. Chúa Giêsu đã trả lời ngay cho luật sĩ:”Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn. hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. Chúa Giêsu bảo: Hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Nói như thế không chỉ có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải xử đối với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi. Chứng tỏ rằng yêu mến tha nhân là muốn hội nhập tha nhân vào con người của mình đến mức cả hai người chỉ còn là một đối tượng tình yêu duy nhất và một tâm hồn duy nhất (Cv 4,32). Nếu Chúa Giêsu bảo: Yêu tha nhân như chính mình, điều đó chứng tỏ rằng mỗi người phải “yêu mình” trước, phải yêu mình trước đã rồi với tình yêu ấy mới yêu kẻ khác vì bác ái phải phát xuất từ mình. Như vậy, “Yêu mình” là một điều hợp lý và cần thiết, không ai cấm điều đó, nhưng vấn đề được đặt ra là yêu mình đến mức nào ? Yêu mình thế nào mới phải phép ? Đó là vấn đề “Tự ái” mà chúng ta sẽ đề cập dưới đây. II. NÓI VỀ TÍNH TỰ ÁI. 1. Thất tình trong đời sống Khi nói đến chữ “thất tình”là người ta nghĩ ngay đến khuôn mặt buồn so của một anh chàng đánh mất tình yêu, không còn được thương nữa. Anh ta trở nên chán đời không con muốn sống nữa. Thương cho những người thất tình vì cuộc đời của họ trở nên u buồn đen tối. Thế nhưng, ngày xưa chữ “thất tình” còn có nghĩa khác nữa, đó là bảy giai điệu tình cảm luôn rung lên phừng phực trong “trái tim” con người; hay bảy thứ tình cảm luôn chế ngự cõi lòng chúng ta. Bảy giai điệu ấy là: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố và dục. Có nghĩa là : mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét và muốn. Bảy thứ tình cảm này luôn tả xung hữu đột chiếm ngự lòng chúng ta, nhiều phen làm cho chúng ta khốn đốn. Trong bảy thứ tình cảm đó, có lẽ yêu là hoạt động mạnh nhất và quan trọng nhất, nó chi phối toàn bộ cuộc sống của ta. Không ai là không yêu, chữ yêu lúc nào cũng bàng bạc ở mọi nơi và trong mọi lúc. Vậy người ta yêu những gì ? Thực ra, đối tượng của tình yêu thì rất rộng chẳng thiếu thứ gì. Trước hết là yêu mình, tiếp đến là yêu người, rồi tới yêu đời và những thứ lỉnh kỉnh khác nữa như yêu tiền, yêu quyền, yêu sắc, yêu thanh, yêu hình, yêu bóng v.v…. Hôm nay chúng ta chỉ bàn tới phạm trù thứ nhất là yêu mình, vì tình yêu phải bắt đầu từ mình trước đã. Nếu diễn tả hành động yêu mình bằng chữ nho, thì phải dùng hai chữ… “Tự ái”. 2. Vậy tự ái là gì ? Theo Hán Việt từ điển của Nguyễn quốc Hùng, thì tự ái có nghĩa là lòng yêu chính mình, cho mình là hay là tốt. Còn theo Việt nam Từ điển của Lê văn Đức, thì tự ái có nghĩa là thương mình, quá nghĩ về mình rồi sinh hờn mát mỗi khi bị đụng chạm đến. Trong thực tế, người bình dân thường hiểu tự ái là đùng đùng nổi giận khi bị… chạm nọc, chứ không phải chỉ hờn mát mà thôi. Nếu theo nghĩa chữ tự ái là yêu mình thì có gì là xấu đâu, ai chẳng yêu mình vì yêu mình chính là bản năng tự nhiên mà Thiên Chúa đã phú ban cho con người ta. Nhưng có một nỗi khổ: khi đã yêu mình thì đều muốn vơ vét về cho mình những cái hay, những cái tốt, những cái lợi… Và hễ kẻ nào đụng chạm đến, thì lập tức lòng tự ái hay thói yêu mình nổi lên đùng đùng, cùng với cơn giận phừng phực nổi dậy, kèm theo những phản ứng khó lòng mà lường nổi… Vì tự ái, vì yêu mình, nên chúng ta không thể bỏ qua một sự khinh bỉ nào của người khác. Và hơn thế nữa, khi lòng tự ái đã bị sỉ nhục, thì người ta khó có thể tha thứ. 3. Tự ái trong đời sống hằng ngày Lòng tự ái đi theo con người như hình với bóng, nó làm khổ chúng ta, không ai diệt được nó và nó chỉ hết hiện hữu khi chúng ta ra đi khỏi đời này. Có người còn nói bạo mồm hơn:”Tự ái còn hoạt động 15 phút sau khi con người đã nhắm mắt lìa đời”. Chúng ta hãy xem một số người đã phát biểu thế nào về tính tự ái sau khi đã có kinh nghiệm về nó: “Càng thêm tuổi, các đam mê càng lụi tàn, nhưng lòng tự ái thì khác, nó sẽ chẳng bao giờ chết”. “ Người ta chỉ có thể làm tổn thương lòng tự ái, chứ không giết chết được nó”. “Lòng tự ái là một con thú kỳ dị, nó có thể ngủ yên trong cơ thể của những kẻ tàn bạo nhất, nhưng một khi đã thức tỉnh dậy, nó sẽ đả thương cho đến chết chỉ vì một trầy trụa nho nhỏ”. Có người cho rằng tự ái là biết tự trọng và bảo vệ danh dự của mình thì là điều tốt chứ sao lại xấu ? Đúng thế, nếu biết bảo vệ cái “danh dự thật” thì là điều tốt, nhưng bảo vệ cái “danh dự ảo” thì làm sao ? Trong thực tế, chúng ta thấy nhiều người chỉ vì “tự ái ảo” mà bảo vệ cái “danh dự ảo”, cái danh dự mình tưởng là có, nhưng thực sự lại chẳng có, hay vì “tự ái vặt” bởi những lý do nhỏ mọn không đâu, cũng đùng đùng nổi giận, la hét, quát tháo, đánh đập người ta… Như vậy thì tự ái tốt làm sao được ? Trong đời sống xã hội, những người có quyền, có thế dễ bị chạm tự ái vì coi mình là trên hết, nói gì cũng hay, làm gì cũng đúng, không muốn người ta góp ý về những việc làm sai trái của mình. Nếu ai nói đến thì họ sẽ có những phản ứng quá mạnh, làm tổn thương và gây hại cho kẻ “lỡ” xúc phạm đến họ. Trong lịch sử đã xẩy ra rất nhiều những trường hợp như thế. Truyện: Hán Vũ Đế bị chạm tự ái Hán Vũ Đế ngày kia sai đại tướng Lý Lăng đem quân đi đánh Hung Nô. Trong thời gian đầu, Lý Lăng thắng lớn, tin chiến thắng báo về triều đình, Hán Vũ Đế rất hài lòng. Các quan đại thần đua nhau ca tụng Vũ Đế là minh quân, biết chọn tướng tài, khen Lý Lăng là anh hùng. Thế rồi Lý Lăng tiến quân quá sâu vào nội địa Hung Nô, bị quân Hung Nô bao vây. Vũ Đế sai cận thần Lý Quảng Lợi đem binh vào đất Hung Nô tiếp viện cho Lý Lăng. Nhưng Lý Quảng Lợi bất tài, khiếp nhược, bị quân Hung Nô đánh tan tành, đành phải rút về. Lý Lăng bị bao vây cho đến lúc lương tận, hết cả tên bắn, phải đầu hàng Hung Nô. Tin Lý Lăng đầu hàng Hung Nô về tới triều đình. Vũ Đế nổi giận. Các quan đại thần chê Lý Lăng bất trung, kết Lý Lăng vào tội phản quốc. Riêng có quan thái sử Tư Mã Thiên, trước mặt Hán Vũ Đế, đã lên tiếng bênh vực Lý Lăng. Tư Mã Thiên nói: - Đại tướng Lý Lăng không bất tài, không bất trung và công bình, nhưng Hán Vũ Đế cho rằng Tư Mã Thiên có ý chê trách mình sai lầm trong việc dùng Lý Quảng Lợi cầm quân đi tiếp viện. Bị chạm tự ái, Vũ Đế bèn nổi giận, ghép Tư Mã Thiên vào tội khi quân, ra lệnh tống ngục và sau đó bắt Tư Mã Thiên chịu cái tội tàn tệ nhất thời đó đối với những người trí thức, đó là tội “hủ hình”, tức là bị … thiến. Năm ấy Tư Mã Thiên mới khoảng bốn mươi tuổi. Bị hoạn, ông quyết định tự tử, nhưng sau đó đã nghĩ lại: - Mình có chết đi cũng chẳng ai thương tiếc, mình chẳng là cái thớ gì hết trong xã hội này, mạng sống của mình có mất đi cũng chỉ như “chín con trâu đị mất một sợi lông” mà thôi. Rồi ông nhủ thầm: - Mình chết thực là vô ích, chi bằng cố sống những năm cuối cùng của cuộc đời mà làm một công trình để lại cho hậu thế. Nghĩ như thế, Tư Mã Thiên bỏ ý định tự vận, ông phấn phát tinh thần và dẹp hết buồn rầu, tủi hận sang một bên để chuyên tâm vào việc biên soạn bộ Sử Ký. Ông hoàn thành bộ Sử vĩ đại này trước khi chết. Bộ Sử của ông hiện nay được gọi là “Sử Ký Tư Mã Thiên”, bộ Sử vĩ đại nhất, giá trị nhất của Trung Hoa mà cho tới nay vẫn chưa có bộ Sử mới nào hơn được. 4. Tự ái trong đời sống hôn nhân. Trong đời sống gia đình chỉ có vợ chồng và mấy đứa con thế mà cũng trở nên một xã hội phức tạp. Gia đình được xây dựng bởi những con người khác nhau, khác nhau về văn hóa, giáo dục, phong tục, kinh tế, nhất là khác nhau về tâm lý mà người ta đã đưa ra 5 định luật tâm lý trong đời sống hôn nhân. Vì những khác biệt đó mà những mối bất hòa, những va chạm xẩy ra như cơm bữa giữa vợ chồng với nhau. Đúng vậy, đối đầu với thực tế, người ta thấy “đời không như mơ”. Và hơn nữa, có “ở trong chăn mới biết chăn có rận”, sống gần nhau người ta mới khám phá ra những nết xấu của nhau. Lúc này người ta không còn coi nàng như công chúa nữa, và chồng cũng không được coi như hoàng tử nữa, và người vợ dám thẳng thừng phát biểu mà không ngượng miệng: Ngày xưa em coi anh như giàn thiên lý Bây giờ em coi anh như con khỉ leo cây. Chính những khuyết điểm bị khám phá đã châm ngòi cho những mối bất hòa âm thầm, đôi khi đi đến chỗ bùng nổ. Những mối bất hòa này có thể gây nguy hại cho sự bền vững của cuộc sống hôn nhân. Nếu không biết kìm hãm tự ái thì sự đổ vỡ chẳng còn xa. Truyện: Thách thức Trong báo “Phụ nữ chủ nhật” tác giả Ánh Ngọc có một bài viết mang tựa đề “Thách thức”. Đại khái câu chuyện như sau: Anh dẫn xe ra khỏi cửa rồi mà chị vẫn còn chạy theo níu áo: Nè, có “ngon”thì đánh tui đi ! Đánh đi ! Chớ đừng có nói rồi không dám làm ! Và thế là “bốp ! Bốp !... Chị bị hai bạt tai in dấu trên gò má một cách … ngon ơ ! Trong khi anh đã cố nhịn bằng cách lấy xe đi khỏi nhà để dằn cơn nóng giận trong một trận cãi vã. Trước khi đi anh nói thòng một câu cho đỡ quê:”Cô mà nói nữa là coi chừng ăn đòn” ! Bị chạm tự ái vì câu hăm dọa ấy, chị đã chạy theo và thách thức, đẩy anh vào cái thế “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với vợ mình. Sự thực thì nhiều ông chồng đánh vợ chỉ vì bất đắc dĩ mà thôi, chứ họ cũng ý thức:”Mình là đàn ông, có sức khỏe, giỏi thì đánh với mấy tay ngang cơ ! Chớ còn đánh đàn ba chân yếu tay mềm thì hèn lắm… Vợ chồng nào mà chẳng có chuyện cãi nhau. Tức quá thì dọa cho bả ngán. Ai dè mấy bả thách lại mình và còn nhấn mạnh “nói mà không làm là kẻ… tiểu nhân”! Thế là vì tự ái đầy mình, nên chồng mới quyết giữ thể diện bằng cách chứng tỏ “quân tử nhất ngôn”. Vậy là nhiều bả bị ăn đòn lãng xẹt. III. PHƯƠNG PHÁP HÃM DẸP TỰ ÁI Có nhiều cách để chữa trị tính tự ái hão, tự ái vặt, chúng ta tạm đưa ra hai cách, đó là phải tự biết mình và phải biết kìm hãm. 1. Phải tự biết mình. Câu hỏi được đặt ra: Tôi là ai ? Một câu hỏi mà các triết gia xưa nay không ngừng tự vấn bản thân mình. Nhiều triết gia cổ đại như Socrates đã khẳng định rằng biết mình chính là một trong những cái biết làm nền tảng cho mọi sự hiểu biết. Ông đã mở đầu triết thuyết của ông bằng câu: “Connais toi, toi même”: bạn hãy biết chính minh bạn. Và trong binh pháp, Tôn Tử đã đưa ra một nguyên tắc bất hủ:”Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng”: biết minh biết người, trăm trận trăm thắng. Biết mình là một điều rất khó bởi vì ai cũng nghĩ rằng mình đang biết mình nhưng thực tế chẳng biết gì, hoặc biết lờ mờ và một điều chắc chắn là mình chỉ biết rất ít, không nắm trọn được chân lý và chỉ biết một cách phiến diện. Để nói lên sự hiểu biết phiến diện của con người, người Ấn Độ đã có một câu chuyện u mặc nói về người mù sờ voi. Truyện: Những người mù rờ voi Xưa kia có một ông vua ngồi buồn, cho bắt tất cả người mù trong thành đem về hợp lại một chỗ. Vua cho đem ra một con voi, bảo các anh mù rờ vào, và tả lại cho nghe họ đã hình dung con voi ra sao ! Sau khi mọi người đã rờ xong. Vua kêu hỏi từng người. Họ thưa: - Voi giống như cái nồi lớn (Đó là những người rờ trúng cái đầu) - Voi giống như cây cột tròn (Đó là những người rờ trúng cái chân) - Voi giống như cái chổi (Đó là những người rờ trúng cái đuôi). … Mỗi người đều tưởng rằng mình đã hình dung rõ con voi với những bộ phận mà họ đã rờ trúng. Rồi thì không một ai chịu nhận của ai, đều cho cái thị kiến của mình là đúng. Ban đầu còn cãi nhau, sau chửi nhau om sòm, và rốt cùng xăng tay đánh nhau tơi bời… Nhà vua thấy vậy ôm bụng cười vang. (UDANA). (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, tr 92). Trong đời sống vợ chồng cũng thế, không ai nắm trọn được chân lý, mỗi người chỉ biết một phần, còn phần khác thì phải dành cho người khác. Mọi người chỉ như những anh mù sờ voi, sự hiểu biết còn rất hạn chế, nên không bao giờ dám nhận là mình biết đúng hoàn toàn, còn có cái sai. Biết được như vậy vợ chồng khỏi cãi nhau vì tự ái. 2. Phải biết kìm hãm. Khi bị chạm tự ái, chúng ta không thể để cho cơn giận được tự do bốc lên, rất nguy hiểm ! Chúng ta phải dùng phương pháp “án binh bất động” hoặc theo phương pháp “hoãn binh chi kế”… Nếu để cho cơn giận tự do bốc lên thì sẽ không kìm hãm được nữa. Chúng ta hãy bắt chước ông Nguyễn đình Giản ngày xưa: ở bàn làm việc, ông luôn để sẵn một cốc nước lã. Khi gặp một việc trái ý, cơn giận bốc lên, ông liền cầm cốc nước, uống từ từ từng ngụm cho đến khi hết cốc nước ông mới nói. Bên Tây phương cũng có một câu chuyện tương tự nói lên phương pháp “hoãn binh chi kế” có hiệu quả như thế nào. Truyện: Thứ thuốc rất linh. Có một cặp vợ chồng già, thường xuyên cãi vã với nhau. Người hàng xóm thấy vậy bèn góp ý:”Vị ẩn sĩ sống trên núi chế biến được một thứ thuốc rất linh, giúp cho nhiều gia đình được êm ấm”. Bà vợ nghe lời người hàng xóm, lên núi tìm vị ẩn sĩ. Sau khi nghe trình bầy, vị ẩn sĩ bèn trao cho bà một chai thuốc khá to và nói: - Đây là một loại thuốc gia truyền rất hiệu nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ cần uống một ngụm, ngậm trong miệng, không được nuốt và cũng chẳng được nhổ ra, cho đến khi ông không còn nói nữa, rồi mọi chuyện sẽ được ổn thỏa. Bà vừa về tới nhà, thì ông liền quát tháo. Nghe vậy, bà liền hớp một ngụm thuốc, giữ trong miệng, đúng như lời căn dặn của vị ẩn sĩ. Thấy vợ không đáp lời, một lúc sau ông cũng thinh lặng. Bà vợ hết sứ vui mừng: - Đúng là loại thuốc gia truyền. Linh thật… Và cứ thế, cứ thế… Từ đó hai ông bà dần dần trở lại cuộc sống êm ấm và hạnh phúc của thời còn trẻ. Thứ thuốc gia truyền ấy, chẳng có gì khác hơn là nước lã mà thôi. KẾT LUẬN Để dẹp được tính tự ái vốn sẵn nằm trong con người, chúng ta hãy suy niệm đoạn thánh thi của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Philipphê:”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chất trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Ngoài ra chúng ta hãy suy niệm lời Chúa Giêsu phán:”Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29). Nếu suy niệm gương khiêm nhường và hiền lành của Chúa Giêsu chắc chắn chúng ta sẽ tránh được tính tự ái hão, tránh được sự nóng giận, nhất là chúng ta sẽ không vội vàng có những hành động trả đũa trước những lời bình phẩm có tính cách xúc phạm với ý nghĩ rằng: ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, ấy là thầy ta vậy (Viết theo chuyện phiếm của Gã Siêu). Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim Phát Đà Lạt
Nơi những trang đầu của Sách Thánh, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa đã tạo dựng người nam giống HP4
Nơi những trang đầu của Sách Thánh, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa đã tạo dựng người nam giống hình ảnh Ngài. Ngài cho người nam sống trong địa đàng, đầy cây trái thơm ngon, đầy mọi giống vật béo tốt, đầy đủ mọi sự. Thế nhưng, người nam cảm thấy cô đơn, không hạnh phúc vì không tìm được cho mình một người bạn đồng hành. Thiên Chúa đã cho người nam ngủ li bì, rồi rút một cái xương sườn của ông ra, lắp thịt vào. Thiên Chúa đã làm nên một người nữ từ cái xương sườn của người nam và dẫn đến với ông. Người nam vui sướng đón nhận người nữ làm trợ tá của mình. Đây là một đôi vợ chồng đầu tiên của nhân loại: ông Adong và bà Evà. Rồi sách Thánh nói tiếp:”Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Như vây, vợ chồng như đũa có đôi, không còn bị lẻ loi, không còn cô đơn nữa. Vì thế vợ chồng phải luôn khăng khít với nhau, đùm bọc lẫn nhau làm thành một tổ ấm , tránh được sự cô đơn. Đồng thời, muốn tránh sự cô đơn, vợ chồng phải có sự đối thoại trong cuộc sống hằng ngày. II. NÓI VỀ SỰ CÔ ĐƠN. 1. Cô đơn là gì ? Cô có nghĩa là lẻ loi Đơn có nghĩa là một mình. Như vậy, cô đơn là trạng thái của một người, không có ai thân, không nơi nương tựa. Một tác giả đã viết về sự cô đơn như sau:”Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, muốn nhận mà không có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ chẳng bao giờ đến. Như hai bờ sống nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng xa cách bởi giòng sông, nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng. Bởi đó, vợ cô đơn bên chồng, con cái cô đơn bên cha mẹ. Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn. Tôi cô đơn khi tôi bị vây bọc bởi những con sông thờ ơ, những mây mù ảm đạm. Tôi có thể cô đơn vì tôi không đến với những người khác (Lẽ sống, tr 38). Gới trẻ hay thấy mình cô đơn vì chưa tìm được đối tượng của tình yêu. Thực ra, sự cô đơn đây chỉ là nỗi buồn vu vơ, nhẹ nhàng và lãng mạn vì chưa tìm được một người để chia sẻ tâm tình. Vì thế, họ thích đọc những bài thơ , hay hát những bài có vẻ sướt mướt như một nhạc sĩ nào đó đã viết:”Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn”. Họ phóng chiếu tâm tình của mình lên người khác và tưởng ai cũng cô đơn giống như mình: Hai người sống giữa cô đơn Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi. 2. Cô đơn là điều đáng sợ. Khi chúng ta hỏi nhau:”Điều gì đáng sợ nhất” ? Dường như chúng ta đều không tránh khỏi lúng túng. Chúng ta cảm thấy có biết bao điều đáng sợ trên đời này, Chúng ta còn nhớ đến những tác phẩm văn học đã đọc ? Tôi rất nhớ truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao, trong đó có một câu tả tâm trạng Chí Phèo khi ốm lăn quay sau một trận rượu say khướt:”Cô đơn, cái này đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau”. Thì ra, theo Nam Cao, cô đơn là điều đáng sợ nhất. Triết gia hiện sinh người Pháp, ông Jean Paul Sartre, trong cuốn tiểu thuyết tựa đề là “Bức tường”, đã đặt vào môi miệng của anh Pierre, con người cô đơn bệnh hoạn cảm thấy ngăn cách không hiểu được thái độ sống của người tình mình là cô Agatha những lời tâm sự đầy cay đắng như sau: “Có một bức tường ngăn cách giữa chúng tôi, tôi nhìn thấy và nói chuyện hằng ngày với cô, nhưng xem ra cô đang sống bên kia bức tường. Tôi thắc mắc không biết có cái gì ngăn cách giữa tình yêu của chúng tôi hay không” ? Trong cuốn tiểu thuyết vừa kể, Jean Paul Sartre đã mô tả một cách tài tình sự cô đơn không đối thoại được với nhau giữa người với người. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho chính con người thời nay, cho chính chúng ta trong giờ phút này. Sự thiếu thông cảm, thiếu đối thoại giữa người với người có lẽ không do nguyên nhân khác biệt văn hóa, chủng tộc cho bằng sự nghi kỵ, thái độ ích kỷ của con người. Sống trong cô đơn thiếu thông cảm, con người không thể phát triển hết tài năng của mình, không thể sống trọn cuộc sống và chắc chắn là không thể sinh hoa trái.
III. CÔ ĐƠN VÀ ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG. 1. Lý do của sự cô đơn. Thiên Chúa đã dựng con người có nam có nữ cho họ được kết hợp với nhau để trở nên một xương một thịt, họ sống với nhau như đũa có đôi, như răng với lợi, tại sao vợ chồng sống bên nhau mà lại có thể cô đơn được ? Trên nguyên tắc là không có cô đơn trong đời sống vợ chồng, vì họ đã trở nên một xương một thịt, một lòng một ý, nhưng trong thực tế, có nhiều lý do khiến vợ chồng vẫn cảm thấy cô đơn: đồng sàng nhưng dị mộng, sống gần kề nhau mà lòng vẫn nghìn trùng xa cách. Chúng ta có thể đưa ra một vài lý do: * Tình yêu đã nhạt nhòa. Khi mới quen biết nhau người ta yêu nhau say đắm, nhưng khi sống trong gia đình, va chạm vào thực tế, với biết bao khó khăn, người ta mới bừng tỉnh, tình yêu bị giảm sút không còn thắm thiết như thưở ban đầu như thi sĩ Hồ Dzếnh nói: Tình chỉ đẹp khi còn dang dở Đời mất vui khi đã vẹn câu thề. Ông Chamfort cũng phụ họa theo:”Hôn nhân là mồ chôn tình yêu”. Dĩ nhiên, không phải lấy nhau rồi thì hết yêu nhau, nhưng chỉ có nghĩa là tình yêu sẽ giảm sút đi. Vì thế mới có người nói:”Phải rửa tội cho tình yêu mỗi buổi sáng, và phải cưới nhau lại mỗi ngày”. * Có sự hiện diện của người thứ ba. Đôi lúc vợ hoặc chồng không còn trung tín với hôn ước đã ký với nhau trong lễ Hôn phối để xẩy ra cảnh éo le:”Ông ăn chả, bà ăn nem”. Lúc ấy, tâm tinh hoặc tư tưởng của vợ hoặc chồng đã hướng về một đối tượng khác, làm cho cuộc sống vợ chồng trở thành tẻ nhạt và cô đơn. * Thiếu sự hòa hợp tâm lý. Tâm lý nam nữ đã khác nhau, kèm theo sự khác biết về văn hóa, phong tục, chủng tộc, sở thích, tôn giáo… làm cho người ta không hiểu nhau, không thông cảm với nhau, nhiều khi tình trạng trở nên căng thẳng khẩn trương. Do đó, cần có sự tìm hiểu để tránh những xích mích, những va chạm, bất hòa để tiến đến sự hòa hợp với nhau. * Thiếu tinh thần bao dung. Ai cũng có lập trường riêng, một đường hướng riêng cần phải bảo vệ. Nếu hai vợ chồng có hai đường hướng riêng khác biệt nhau, không nhường nhịn nhau, không dung hòa để đi một cái gì chung nhất thì không bao giờ đi đến chỗ hiệp nhất được, nhất là khi tự ái dâng lên cao. Nhường nhịn là giải pháp tốt nhất. Truyện vui: Ai quyết định ? Khi đến dự tiệc mừng lễ Vàng hôn phối của một đôi vợ chồng già rất hạnh phúc, một thanh niên thành thật hỏi ông cụ: - Thưa cụ, cháu thấy gia đình cụ thật hạnh phúc. Xin cụ cho biết bí quyết nào đã giúp cho hai cụ trong suốt cuộc đời hôn nhân sống hạnh phúc như vậy ? Cụ già vui vẻ trả lời: - Chả nói giấu gì cháu, bí quyết hạnh phúc của tôi là: cái gì cả vợ chồng nhất trí thì quyền quyết định là tôi. Còn cài gì hai người không nhất trí thì vợ tôi quyết định. 2. Giải pháp cho sự cô đơn Chúng ta tạm đưa ra hai giải pháp để giải tỏa sự cô đơn trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong đời sống vợ chồng , đó là giải pháp tự nhiên và giải pháp siêu nhiên. a) Giải pháp tự nhiên: ĐỐI THOẠI Đối thoại là chiều kích hiện sinh không thể thiếu trong cuộc đời con người. Cái tôi luôn hướng đến người khác ngoài tôi ra, để đối thoại, để phát triển chính minh, vì: Người ta có miệng có môi, Khi buồn thì khóc, khi vui thì cười. Trên bình diện suy tưởng tự nhiên, chúng ta có thể áp dụng hai chia sẻ sau đây: - Trước hết là tư tưởng của triết gia Ferdinand EBNER, một triết gia Kitô, như sau: Lời nói và tình thương là hai phương thế để đối thoại với người chung quanh. Lời nói và tình thương đi đôi với nhau… Tình thương giúp ta tìm ra lời nói đúng… Lời nói mà không có tình thương, là lạm dụng, dễ làm mất lòng. - Thứ đến là câu cách ngôn truyền thống khôn ngoan Do thái: Đó là Thiên Chúa đã ban cho con người hai lỗ tai và một cái miệng. Điếu này có nghĩa là để đối thoại với nhau, con người cần lắng nghe nhiều trước khi nói. Tổng kết lẽ khôn ngoan con người về đối thoại, chúng ta có thể nói: cần lắng nghe trước, nói sau, nhưng trong mọi sự phải có tình thương là linh hồn cho thái độ lắng nghe cũng như thái độ nói ra. Tình thương là linh hồn cho mọi hoạt động của con người. Và đặc biệt, đối với Kitô hữu, tình thương đó phải là tình thương bác ái, là chính Chúa Kitô, là những tâm tình của Chúa Giêsu Kitô. b) Giải pháp siêu nhiên: LỜI CHÚA Thiên Chúa đã dựng nên người nam người nữ cho họ không khăng khít với nhau trong gia đình, trên nguyên tắc, gia đình phải là tổ ấm, trong đó vợ chồng, cha mẹ, con cái sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau, sống trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm, nhưng trong thực tế, nhiều gia đình đã biến tổ âm thành ngục tù nơi giam hãm các thành viên, hoặc như một chiếc quán trọ trong đó người ta chỉ ở tạm thời, không chút quyến luyến. Truyện: Cảm nhận của Maxim Gorki. Khi văn hào Maxim Gorki của Nga viếng thăm Mỹ quốc, ông được bạn bè đưa đến một khu giải trí nổi tiếng ở California. Họ muốn ông chứng kiến cảnh trùng trùng điệp điệp của những đám đông đến đây giải trí. Mỗi ngày ông được đi xem một cảnh quan. Hôm thì cảnh từng đoàn người nhào lộn với các trò chơi trên không trung. Hôm thì cảnh đua thuyền trên mặt hồ. Hôm thì viếng thăm các bảo tàng viện nổi tiếng. Hôm thì lại đi xem các đoàn xiếc, các vũ nữ trình diễn. Tóm lại, những người Mỹ muốn cho ông khách đến từ một nước xã hội chủ nghĩa thưởng thức được tất cả những trò giải trí tại một quốc gia được xem là văn minh nhất thế giới. Sau một tuần lễ hướng dẫn vị thượng khách du ngoạn và giải trí, người ta hỏi cảm tưởng của ông. Thinh lặng một lúc, ông phát biểu:”Các ông phải là những người buồn bã lắm”. Thế giới càng văn minh, khoảng cách giữa con người cũng được rút vắn lại. Tuy nhiên, mâu thuẫn thay, con người ngày nay càng cảm thấy cô đơn. Những phương tiện giải trí mỗi ngày một gia tăng và tối tân là để lấp đi nỗi cô đơn trong lòng người. Khi tâm hồn càng trống rỗng thì con người càng tìm mọi cách để lấp đầy nó. Sự thiếu thông cảm, thiếu đối thoại giữa người với người có lẽ không do nguyên nhân khác biệt văn hóa chủng tộc cho bằng do sự nghi kỵ, do thái độ ích kỷ của con người. Để giải thoát con người khỏi cảnh cô đơn, Đức Giêsu từ lâu đã mạc khải một bí quyết qua dụ ngôn được kể lại nơi Tin mừng thánh Gioan đoạn 15 nói về cây nho và cành nho. Suy gẫm về dụ ngôn này, chúng ta thấy dụ ngôn cây nho và cành nho của Đức Giêsu mạc khải cho con người bí quyết sống hiệp thông, sống yêu thương với nhau để sinh hoa trái, để sống trọn cuộc sống của mình. Bí quyết đó là sống kết hợp với Đức Kitô. Thiên Chúa là Tình yêu, là sự hiệp thông. Thiên Chúa muốn cho con người sống hiệp thông với Ngài để có thể sống hiệp thông với nhau trong tình yêu thương. Ông Raoul Follereau, tông đồ của những kẻ nghèo hèn, nhất là những người bị bệnh cùi bị loại ra bên lề xã hội đã nhận xét như sau:”Không có Thiên Chúa hiện diện giữa con người thì con người khó mà đối thoại với nhau, nhìn nhau như là anh chị em”. Đó là bí quyết để con người thoát ra khỏi cô đơn và sống hiệp thông hiệp nhất với nhau. Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim phát Đà lạt
Từ trước tới nay, Chúa Giêsu nói rất nhiều về Chúa Cha, và chỉ cuối đời Ngài mới nói nhiều về HP5
Từ trước tới nay, Chúa Giêsu nói rất nhiều về Chúa Cha, và chỉ cuối đời Ngài mới nói nhiều về Chúa Thánh Thần. Ngài mạc khải từ từ trong Phúc âm cho đến ngày Ngài giã biệt các Tông đồ ra đi. Ngài nói:”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được trao cho Thầy. Vậy các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,16-19). Hôm nay Chúa Giêsu chính thức mạc khải cho chúng ta một điều hết sức quan trọng và vĩ đại, đó là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm lớn lao và sâu thẳm, trí khôn không thể hiểu, trí tưởng tượng không thể hình dung ra. Chúng ta tin vì chính Chúa Giêsu đã mạc khải và Ngài xuống thế gian cũng nói cho chúng ta biết rằng ;”Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Chúng ta chỉ biết Thiên Chúa là một trong bản thể, nhưng là Ba trong Ngôi vị riêng biệt: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha là Đấng tạo thành trời đất hữu hình và vô hình; Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế; Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống, được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Hằng ngày mỗi khi cầu nguyện hay làm việc gì, chúng ta đều làm dấu Thánh giá để tuyên xưng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Khi suy tưởng về Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy Ba Ngôi cùng cộng tác điều hành vũ trụ trong sự thống nhất và chúng ta có cảm tưởng các Ngài sống trong một gia đình, và chúng ta cũng được ở trong gia đình Thiên Chúa. Hôm nay hai anh chị cử hành lễ nghi Hôn phối để chính thức thiết lập một gia đinh công giáo. Gia đình công giáo luôn có đặc tính vững bền, chứ không phải tạm thời, nghĩa là có tính cách vững bền, không có ly dị. Nhân dịp này tôi muốn anh chị hay bắt chước đời sống của Chúa Ba Ngôi đễ làm cho gia đinh luôn vững chắc, không gì có thể lay chuyển nổi. Khi nói đến tính cách vững bền của gia đình, tôi liên tương đến cái “Kiềng ba chân”, như trong câu ca dao tục ngữ dưới đây: Dù ai nói ngả nói nghiêng Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân. II. TẢN MẠN VỀ CÁI KIỀNG. Giới trẻ thời nay rất khó hiểu câu tục ngữ này, vì thời nay đời sống văn minh hơn, nhiều tiện nghi hơn, đã có bếp ga, bếp điện rồi không mấy người còn dùng kiềng để thổi nấu nữa. Muốn dễ hiểu hơn, chúng ta phải trở về đời sống nông thôn miền Bắc cách đây 50,60 năm thì mới hiểu được cái kiềng như thế nào. Ngày xưa, kinh tế còn yếu kém, người dân quê phải nấu cơm bằn rơm, rạ, lá cây hay củi. Muốn nấu cơm, người ta đúc ba “hòn đầu rau” bằng đất, hơi cong cong, xếp cho ba đầu chụm vào nhau để có thể bắc nồi niêu lên trên, rồi đun rơm củi vào. Vì ba hòn đầu rau riêng rẻ nên người ta có thể xê dịch: dịch ra hay dịch vào tùy nồi niêu to hay nhỏ. Bao giờ cũng phải có ba hòn đầu rau thì mời có thể bắc nồi niêu lên được, không bao giờ dùng hai hoặc bốn. Vì vậy dân gian mới có câu: Thế gian một vợ một chồng Chẳng như vua bếp hai ông một bà. Những nhà khá giả hơn không dùng hòn đầu rau mà dùng kiềng để đun bếp. Kiềng có 3 chân bằng sắt được nối kết với nhau bằng một vòng sắt bên trên để làm cái bệ đỡ nồi niêu, rồi đem rơm củi vào đun như thường. So sánh việc dùng ba hòn đầu rau và cái kiềng thì dùng kiềng tiện lợi hơn nhiều. Nếu dùng hòn đầu rau thì không vững chắc vì một đàng hòn đầu rau dễ bị vỡ, đang khác có thể chuyển dịch: gặp nồi to thì xê dịch rộng ra, gặp nồi nhỏ thì dịch gọn vào, nhiều lúc sơ ý nồi niêu có thể bị sụp đổ. Nếu dùng kiềng ba chân thì vững chắc, nồi niêu không bị sụp đổ vì chân kiềng không di chuyển được, gặp nồi to hay nồi nhỏ cũng thế. Các bà nội trợ miền quê đều muốn có một cái kiềng để nấu bếp vì nó gọn gàng và vững chắc. III. GIA ĐÌNH VÀ CÁI KIỀNG. Khi trai gái thương yêu nhau, người ta muốn kết hợp với nhau để thành lập một mái ấm gia đình. Ngạn ngữ Pháp có câu:”Gia đình là nền tảng xây dựng xã hội”. Đức Giáo hoang Gioan Phaolô II cũng chủ trương như thế trong tông huấn Familiaris Consortio. Nền tảng vững chắc thì ngôi nhà mới vững được, mà nền tảng là tình yêu mà vợ chồng xây dựng trên đó. Khi nói về gia đình, người ta thường hiểu phải có ba thành phần, đó là người cha, người mẹ và con cái, giống như ba chân của một cái kiềng. Ba thành phần ấy tạo thành một gia đình, nhưng chưa có thể là mái âm. Muốn thành mái ấm mỗi thành viên trong đó phải chu toàn trách nhiễm của mình. 1. Người cha trong gia đình. Người ta nói:”Kim chỉ phải có đầu”. Như thế người cha phải là gia trưởng. Gia trưởng, theo nghĩa tích cực là người chỉ đạo, hướng dẫn con thuyền gia đình lướt qua mọi giông tố, mọi phong ba để cập bến bình an và hạnh phúc. Theo luật quốc tê, thuyền trưởng không được rời tầu thuyền trước người khác cuối cùng. Cũng vậy, gia trưởng không được “ngã tay chèo” dù bất kỳ ở trong tình thế nào. Đó mới là người chồng, người cha đầy trách nhiệm. chứ không ích kỷ tìm bình an cho riêng mình. Gia trưởng phải là người gương mẫu bởi vì đầu không xuôi thì đuôi không lọt được, đầu tầu mà không chuyển thì các toa tầu đứng yên một chỗ. Người Việt nam còn nói thêm:”Nhà dột từ nóc”, nếu nóc nhà mà dột thì cả nhà đều bị dột . Người Tây phương cũng có câu tục ngữ:”Piscis e capite vivit et a capite faetet” (Cá sống tự đầu và cá thối cũng tự đầu). Đây là kinh nghiệm của Tây phương, nhưng người Việt chúng ta cũng chẳng thiếu kinh nghiệm đó, nhất là các bà nội trợ khi đi chợ mua cá. Thánh Phaolô viết:”Người chồng là đầu người vợ”(Ep 5,23). Thánh nhân cũng biết đầu thì rất hay và cũng rất dở theo kiểu nói của Tây phương “Cá thối tự đầu”, nên ngài còn điểm thêm mấy chữ khác nữa vào câu nói trên: Người chồng là đầu người vợ “như Chúa Giêsu là đầu Hội thánh”. Do đó, ta có thể kết luận:”Người chồng là đầu sống của người vợ”, nghĩa là làm cho người vợ sống, chứ không làm cho nó hư đi, như cá thối tự đầu vậy. Người chồng là người đầu điều khiển gia đình, nếu đầu đã thối thì điều khiển làm sao ? Chính thầy Hêli không biêt dạy con (vì không có mẹ ?) mà con hư đi nên Chúa phạt. 2. Người mẹ trong gia đình. Người ta nói:”Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Lập được một gia đình là một chuyện dễ, còn biến gia đình thành một tổ ấm là một việc khó, mà công việc đó người ta gán cho đàn bà bởi vì “đàn bà xây tổ ấm”. Như vậy, hạnh phúc gia đình liên hệ phần lớn đến đàn bà. Ông Joseph de Maistre đã nói:”Công lao của người đàn bà là tề gia nội trợ, làm thế nào cho chồng con được vui sướng”. Vì thế, người vợ là một nội tướng rất quan trọng, lo sắp xếp mọi công việc trong gia đình:”Nếu anh tìm thấy một gia đình hạnh phúc, anh nên tin rằng ở đó có một người đàn bà biết quên mình” (René Bazin). Người vợ cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp của chồng. Có người nói rằng: Không có thành công nào của chồng mà không có bóng dáng của người vợ. Vì vậy bà vợ phải biết khích lệ chồng trước những nản chí do thất bại trong công việc làm ăn của chồng. Ông Nixon, tổng thống nước Mỹ, sau lần thất cử tranh chức tổng thống, đã thoái chí, nhất quyết bỏ đường chính trị, nhưng nhờ người vợ khích lệ, mà ông đã lấy được tự tin, và đã trở thành tổng thống nước Mỹ. Ngoài ra, bà cũng phải lưu ý đến việc giáo dục con cái vì gia đình là trường học đầu tiên của đứa trẻ mà người mẹ là cô giáo đầu tiên dạy cho đứa trẻ những bài học đầu tiên về nhân bản và tôn giáo. 3. Con cái trong gia đinh. Người ta nói: “Con có cha mẹ đẻ, chẳng ai ở lỗ nẻ chui lên”. Câu tục ngữ có ý nói: con cái phải nhớ công sinh thành của cha mẹ, nhất là của người mẹ chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm. Đã là con thì phải có hiếu với cha mẹ. Hiếu thảo là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời. Hiếu đây không phải chỉ là một tâm tinh, nhưng người ta đã nâng chữ “hiếu” lên thành một đạo, mà người con phải chu toàn: Một lòng thờ mẹ kính cha Chon trọn chứ hiếu mới là “đạo con”. Cha mẹ bao giờ cũng muốn cho con cái trở nên đứa con ngoan hiền, phải được giáo dục tốt, nhưng ngày nay giới trẻ vin vào câu tục ngữ:”Con hơn cha là nhà có phúc” để rồi coi thường cha mẹ, không muốn cho cha mẹ dạy dỗ nữa, nói chung là không muốn vâng lời cha mẹ nữa. Nhưng sự hiểu biết của giới trẻ còn rất hạn hẹp, rất nông cạn, chưa hiểu câu tục ngữ này:”Bảy mươi chưa đui chưa què, chớ khoe mình lành”, nghĩa là chớ chủ quan tự phụ, còn phút chót cũng có thể gặp rủi ro, không nói mạnh được. Người ta còn nói: Khôn đâu đến trẻ, Khỏe đâu đến già. Vì thế, giới trẻ phải học thuộc lòng câu tục ngữ này:”Bảy mươi còn học bảy mươi mốt” nghĩa là luôn khiên tốn học hỏi người hơn mình. Chắc chắn cha mẹ có nhiều kinh nghiệm trường đời hơn con cái, cho nên cũng cần được cha mẹ dạy dỗ chỉ bảo thêm. Truyện: Phượng hoàng dạy con. Phượng hoàng là một loài chim thích trú ẩn trên đồi núi cao. Cặp mắt nó có sức mạnh phi thường, dù ánh sáng mặt trời chói lọi chừng nào, cứ nhìn chăm chăm chẳng nhíu mắt. Loại chim này xây tổ trong những kẽ đá nằm trên chót núi, mục đích tập luyện con nó sống vừa kín đáo, vừa cao thượng. Ngày đêm tận tụy chăm nom săn sóc đàn chim con, triệt để bảo vệ con lúc bị thù địch tấn công, hãm hại, phá phách. Thánh Giêrônimô nói: giống phượng hoàng này có thuật dạy con thật gắt gao: khi mặc trời mọc lên sáng chiếu, nó để con nó nằm trên đôi cánh, chăm chăm ngó mặt trời, nhìn thẳng vào ánh sáng. Con nào nhắm mày nhíu mặt thì bị bỏ rơi xuống, kể như không phải là con. Vì các lẽ đó, phượng hoàng được gọi là vua các loài chim. Các nhà chuyên môn về giáo dục thường lấy mẩu chuyện phượng hoàng để tượng trưng người mẹ biết bảo tồn nền giáo dục cho con cái. Như ở trên chúng ta đã nói “Kiềng ba chân” biểu tượng cho sự vững chắc. Nếu trong gia đình, mọi thành phần ý thức về vai trò của mình mà làm tròn trách nhiệm của mình thì gia đình ấy vững chắc. Nếu một thành phần nào thiếu trách nhiệm của mình trong việc xây dựng gia đinh thì chiếc kiềng chỉ còn có hai chân, thậm chí còn một chân thì gia đình làm sao đứng vững được, sẽ bị sụp đổ, đó là gia đình xèo xóe tối ngay: Nhà kia lỗi đạo con khinh bố Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Gia đình Thánh gia với ba thành phần: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse đã trở thành tấm gương sang chói cho các gia đình noi theo, trong đó mỗi thanh phần đã làm tròn trách nhiệm của mình một cách tuyệt hảo. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ:”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá HP6
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ:”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Theo văn mạch của câu Tin mừng trên thì sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi theo con đường thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo. Đây là lời Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ, là những người đã chọn lựa bước đi theo Ngài. Lời mời gọi này có ý gợi lên sự tự do quyết định của người được mời, vì một đàng Chúa tôn trọng quyền tự do của con người, đàng khác con người tự chịu trách nhiệm về quyền lựa chọn của mình. Một khi con người quyết tâm chọn Chúa để trở thành môn đệ đích thực thì cần phải thực thi những điều kiện sau đây: - Phải từ bỏ mình: tức là phải khước từ lòng tự ái, sự nuông chiều bản thân và từ bỏ mọi thói hư tật xấu. - Phải vác thập giá mình: tức là phải hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa trong mọi sự. - Theo Thầy: nghĩa là ta trở thành môn đệ của Thầy, để cộng tác vào công việc xây dựng Nước Trời. Như vậy, từ bỏ chính mình cũng có nghĩa là vác thập giá mình, tức là chấp nhận đồng số phận tôi tớ với Thầy trong cuộc sống và cái chết. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống. Đau khổ không là một đầy đọa mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang phải chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hợp với Chúa mật thiết hơn (Mỗi ngày một tin vui). Những người sống trong bậc tu trì cũng như những người sống trong bậc hôn nhân đều có thập giá riêng của mình. Không ai có thể trốn thoát khỏi thập giá, mà đã nói đến thập giá là phải nói đến đau khổ. Phương pháp là cho đau khổ bớt đi vẻ ghê rợn của nó, thậm chí còn làm cho đau khổ thành niềm vui thì cần phải có tình yêu. Tình yêu sẽ hóa giải tất cả. Tình yêu và thập giá luôn đi đôi với nhau như hai chị em sinh đôi.
II. YÊU VÀ ĐAU KHỔ. 1. Các bạn trẻ định nghĩa về tình yêu. Thực ra, chưa có một câu định nghĩa về tinh yêu lam cho nhiều người thỏa mãn. Người ta chỉ có thể định nghĩa được một khía cạnh nào của tình yêu, vì tình yêu chỉ có thể cảm nghiệm được, chú không để diễn tả bằng lời nói: Làm sao định nghĩa được tình yêu, Bởi ai hiểu được sao trời lại xanh ? (Hồ-Dzếnh) Tuy nhiên, có một số bạn trẻ đinh nghĩa rất văn tắt theo cái nhìn của họ, dĩ nhiên cũng chỉ ở dưới một số khía cạnh nào đó. Họ cho là: - Yêu là đau khổ. - Yêu là hy sinh. - Yêu là phục vụ. - Yêu là cho đi, là dâng hiến. - Yêu là chết trong long một ít.
2. Một số tác giả nói về tinh yêu. “Yêu tức là đã ký kết với đau khổ” (Bà de Cohin). “Yêu là khổ, nhưng không yêu cang khổ hơn” (Tục ngữ Nga). “Yêu là đau khổ, mà không yêu là chết” (Hyppolite Taine). “Tình yêu chỉ đẹp là những mối tình kết thúc trong đau khổ. Mối tình không đau khổ là mối tình giả tạo (Ronsard) “Tình yêu sống đươ6c nhờ đau khổ, sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết mòn” (Bà De Girardin). 3. Các bạn trẻ nghĩ thế nào ? Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, giới trẻ rất thích ngâm nga bài hát “Sang ngang”, có lẽ là của nhạc sĩ Đỗ Lễ ! Trong bài hát có những câu rất mùi vị, rất gợi cảm hợp với tâm lý của những anh chị tuổi “teen” đang đi tìm người yêu. Trong đó có những câu rất da diết, làm cho người nghe phải mủi lòng: “Nếu biết rằng tình là dây oan, nếu biết rằng hợp rồi sẽ tan”, rồi sau cùng đi đến kết luận:”Thì dương gian đừng có chúng mình”. 4. Lập trường của chúng tôi. Chúng tôi xác nhận rằng:”Yêu là đau khổ, là hy sinh” như một số ban trẻ đa nói. Chính vì vậy, trước khi kết hôn, các bạn trẻ hãy suy nghĩ cho kỹ để bước vào đời hôn nhân một cách sáng suốt và tự tin, và sau khi đã kết hôn rồi thì phải cố mà chịu. Vì vậy, ông Thomas Fuller đã khuyên:”Trước khi kết hôn, hãy mở mắt to ra. Và sau ngày cưới hãy cố nhắm mắt lại”. Tình yêu và đau khổ như mặt phải và mặt trái của một thực tại, đã có bên này thì phải có bên kia, chẳng có đồ vật nào chỉ có mặt phải, mà không có mặt trái, ví dụ: đồng tiên luôn luôn phải có hai mặt. Cũng thế, hễ yêu là phải khổ, không khổ cách này thì khổ cách khác, hai đặc tính đó vương vấn quần quít vào nhau như keo sơn. Ông Xuân Diệu, một nhà thơ lãng mạn, thế mà cũng phải công nhận:”Yêu là chết trong lòng một ít” bởi vì “cho thì nhiều mà lấy lại chẳng bao nhiêu”. Triết gia Hypolite Taine cũng xác nhận:”Yêu là đau khổ, nhưng không yêu là chết”. Một đồ vật chỉ có mặt phải hay mặt trái, sẽ không phải là một đồ vật hiện thực. Cũng vậy, yêu mà vắng đau khổ là yêu giả yêu hờ. Đau khổ mà không yêu là đau khổ hỏa ngục, chết chóc. Chính vì thế, người nào chỉ xây dựng tình yêu trên mơ mộng, thực tế sẽ cho thấy rằng “Hôn nhân là một cuốn tiểu thuyết, mà trong cuốn tiểu thuyết đó, vai chính đã chết ngay từ lúc chưa đọc “(Meisseln). Nghĩa là họ sẽ vỡ mộng thảm thương. Trước mắt họ, hạnh phúc sẽ vắng bóng cho đau khổ hiện nguyên hình, khống chế và hành hạ họ tàn nhẫn, bởi vì theo họ “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, đời hết vui khi đã vẹn câu thề”. Có người còn mỉa mai hơn nữa:”Đàn ông có hai ngày vui “ngày cưới vợ và ngày đưa vợ đi chôn”. Lý do, chưa lấy nhau, cái gì của họ cũng thấy hữu duyên, hữu tình, nhưng lấy nhau rồi, duyên tình biến mất, để người này trở thành cái nợ của người kia (Hồng Nguyên, Tâm sự với em ngày thành hôn, tr 67).
III. CHẤP NHẬN TÌNH YÊU VÀ THẬP GIÁ. Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta mẫu gương san lạn về “tinh yêu và thập giá’. Hai bề mặt của con tim này “tình yêu và thập giá” đã được Đức Kitô chuẩn ấn bằng suốt cuộc đời của Ngài ở trần gian này. Vì yêu chúng ta, “Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chếtvà chết trên thập giá” (Pl 2,8) và “Ngài là Đấng không bao giờ biết đến tội, mà vì ta, Thiên Chúa đã làm cho thành sự tội, ngõ hầu trong Ngài, ta được trở thành sự công chính của Thiên Chúa” (2Cr 5,21). Để chứng tỏ cho mọi người biết rằng “Ngài đã yêu họ đến cùng” (Ga 13,1), Đức Kitô đã bước vào đoạn đường quyết liệt của tình yêu. Hủy mình vì họ. Ngài đã tự nguyện đổ máu ra trên thập giá, để đem lại bình an cho muôn vật dưới đất cũng như trên trời. Chính nhờ sự chết của Ngài, con người được giao hòa với Thiên Chúa, và trở thành thánh thiện, tinh tuyền, vô phương trách cứ trước nhan thánh Ngài’(x. Cl 1,20-22). Như vậy, chúng ta phải xác định lại vấn đề “Yêu và đau khổ”trong cuộc sống và không bao giờ được nói là “nếu biết rằng đau khổ”, bởi vì chữ “nếu” bao hàm ý nghĩa thoái thác. Trái lại, chúng ta phải xác tín dứt khoát yêu và đau khổ là hai thực tại gắn liền với nhau. Càng yêu nhiều càng khổ nhiều, và càng khổ nhiều, tình yêu càng tinh túy đậm đà. Theo kinh nghiệm của nhiều người, ở đâu có tình yêu chân thật và nồng nàn, thì ở đấy không còn đau khổ nữa. Thánh Augustinô đã có kinh nghiệm về vấn đề này nên đã đưa ra một nguyên tắc bất hủ:”Ubi amatur, non laboratur. Si laboratur labor amatur”: nghĩa là ở đâu có yêu thương ở đấy chẳng còn lao nhọc, mà giả có lao nhọc, thì lao nhọc cũng biến thành yêu thương. Chúng ta thấy kinh nghiệm này đã được đúc kết trong kho tàng văn chương bình dân Việt nam. Một người vợ yêu gia đình, yêu chồng, yêu con đã không ngần ngại hy sinh, dâng hiến cả sức khỏe, sắc đẹp và thời giờ của mình cho hạnh phúc gia đình mà vẫn cảm thấy hãnh diện nói với chống: Một ngày ba buổi trèo non, Còn gì mà đẹp, mà dòn hỡi anh ! Một ngày ba buổi trèo đèo, Vì ai vú xếch, lưng eo hỡi chàng ? Hiểu như thế, và nếu chúng ta can đảm đem ra thực hiện những điều đó, cuộc sống yêu đương trong nôi ấm gia đình sẽ không còn những đe dọa đổ vỡ. Bởi vì, gian truân, đau khổ và thử thách đã mất đi tính chất phá hủy, để trở thành phương tiện nuôi lớn tình yêu. Và qua tình yêu, hạnh phúc sẽ ngự trị. Khi lập gia đình, các bạn trẻ hãy hiểu biết và chấp nhận “tình yêu và thập giá”. Vợ chồng sẽ là thập giá của nhau. Nếu biết vui lòng chấp nhận và vác thập giá của nhau trong tin yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và sẽ giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc gia đình. Truyện: Làm phép thập giá. Vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, cha sở kêu gọi giáo dân: khi quí vị đến nhà thờ đi chặng đàng Thánh Giá tưởng niệm sự chết và đau khổ của Chúa Giêsu, mỗi người nên làm một cây thập giá bằng bất cứ vật liệu nào tượng trưng cho sự đau khổ của mình trong cuộc đời đang phải chịu.. Sau chặng đàngThánh giá yêu cầu quí vị mang lên nhà thờ cho tôi làm phép. Mọi người đều mang lên đủ loại thập giá. Ông trùm bước lên tay không, cùng với vợ. Khi cha sở hỏi, thập giá của ông đâu, ông chỉ ngay vào bà vợ và nói:”Thưa cha, đây là thập giá của con”. Cha sở cũng làm phép, nhưng sau đó liền bảo ông rằng:”Bây giờ ông hãy ôm lấy thập giá và hôn lên cây thập giá của ông đi”. Lm Giuse Đinh lập Liễm Giáo xứ Kim phát Đà lạt
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Mt 19,3-6; Cl 3,12-17.
Những người biệt phái luôn chống đối Chúa Giêsu, họ muốn cho Ngài bẽ mặt một phen. Vì vậy HP7
Những người biệt phái luôn chống đối Chúa Giêsu, họ muốn cho Ngài bẽ mặt một phen. Vì vậy, hôm nay họ đến chất vấn Ngài về vấn đề ly dị:”Những người biệt phái đến gần Chúa Giêsu để thử Ngài: Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không” (Mt 19,3) ? Sở dĩ có câu chất vấn này là vì khi đó có hai lập trường chống đối nhau: - Lập trường của phái Hillel thì rộng rãi, cho phép ly dị một cách dễ dàng. - Lập trường của trường phái Shammai thì khắt khe hơn, chỉ chấp nhận ly dị trong rất ít trường hợp. Biệt phái biết vấn đề này gay go nên đem ra gài bẫy Chúa Giêsu. Theo họ nghĩ: Ngài trả lời thế nào cũng có thể bị kết án: hoặc quá rộng rãi hoặc quá hẹp. Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích hai đoạn trong sách Sáng thế (St 1,27; 2,24). Đó là những lời thiết lập định chết đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế, dứt khoát là không được ly dị, bởi vì:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Những người biệt phái chưa chịu thua. Họ trích một câu trong Đnl 24,1, nội dung là cho phép ly dị với điều kiện phải viết chứng thư cho người vợ bị ly dị. Chúa Giêsu đã trả lời cho họ biết việc ly dị là một thể chế loài người tạo ra, lý do: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Maisen đã cho phéùp các ông rẫy vợ, chứ thưở ban đầu không có như thế đâu ”(Mt 19,8). Điều này cho thấy rằng con người ích kỷ, nghĩa là đặt sự thỏa mãn của lòng mình trên hết, trên cả ý muốn của Thiên Chúa nữa, nên họ đã bất trung với Chúa và vì vậy, họ bất trung với nhau trong đời sống hôn nhân. Theo lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng tránh những va chạm, xích mích, những mối bất hòa ngấm ngầm hay bùng nổ để cho gia đình được luôn bền vững.
II. TẢN MẠN VỀ BÁT BÚN RIÊU. Món ăn đặc thù miền quê. Miền quê có một món ăn rất đặc thù, đó là bún riêu cua. Khi nói bún riêu là nói chung chung, có nhiều cách biến chế, còn nói “bún riêu cua” thì chỉ nấu bằng cua rốc thôi. Người ta có thể nấu bún riêu giả, không cần cua rốc, người ta có thể nấu trứng với nõn tôm, ăn cũng ngon, nhưng không thú vị bằng bún riêu cua, món ăn này mới thật là bún riêu “gin”. 2. Cách nấu canh bún riêu cua. Khi nấu canh cua, người làm bếp phải lưu ý đến một số điều để có thể nấu được một cục riêu to mà không sợ vỡ: - Khi xé cua xong, cần rửa sạch cua bằng nước pha chút muối. Làm như thế có hai cái lợi: canh không có mùi hôi và giúp cho có cục riêu to. Sau đó, đem giã rồi vắt lấy nước cốt đem nấu. - Lửa đun phải liu riu, không được to vì nếu lửa to sẽ làm tan cục riêu. - Không được quấy vì cục riêu sẽ tan ra, và nếu cho cả bún vào mà quấy thì bún và riêu sẽ thành một cục, khó ăn lắm. - Phải nhẹ nhàng trong lúc múc riêu cũng như lúc di chuyển kẻo làm tan cục riêu. 3. Cách ăn bún riêu. Bún riêu cần phải ăn nóng mới ngon, để nguội sẽ tanh, khó ăn. Nên thêâm vào một ít gia vị như chanh, ớt, rau muống chẻ, rau chuối, rau riếp, rau thơm… các gia vị này làm tăng sự hấp dẫn của bát canh bún riêu cua, ăn vào thấy ngon miệng.
III. SUY TƯ VỀ BÁT BÚN RIÊU CUA. 1. Bát bún riêu và gia đình Nếu đem bát bún riêu so sánh với gia đình thì không xứng đáng, nhưng dù sao nó cũng gợi lên cho chúng ta một vài tư tưởng để suy nghĩ, rồi áp dụng. Khi về miền quê, ai cũng muốn được thưởng thức bát bún riêu, một món ăn rất dân dã nhưng nó lại làm cho người ta khoái khẩu, thích thú. Phải chăng bát bún riêu cua là hình ảnh của một gia đình hạnh phúc. Các bạn trẻ nam nữ vào tuổi “teen” đang đua nhau đi tìm người yêu để lập gia đình. Ai cũng ước ao lập được một gia đình hạnh phúc. Nhưng khi lập gia đình ai cũng lo, không biết tương lai sẽ rao sao, không biết gia đình có được bền vững không, có được hạnh phúc không, kẻo lại xẩy ra cảnh: Anh đi đường anh, Tôi đi đường tôi, Tình nghĩa đôi ta có thế thôi. (Thế Lữ) 2. Cục riêu cua và sự bền vững. Muốn cho cục riêu lớn và không vỡ, trong quá trình thổi nấu, người làm bếp phải kiên nhẫn giữ cho lửa không lớn, không được quấy hay không được lắc mạnh. Trong gia đình cũng thế, muốn cho gia đình được yên vui đầm ấm, mọi ngươi có thể sống hòa hợp với nhau, cần tránh những va chạm không cần thiết, tránh mọi xích mích, những mối bất hòa ngấm ngầm , nhất là những bất hòa bùng nổ. Có hai loại bất hòa: một là bất hòa ngấm ngầm, hai là bất hòa bùng nổ. Mối bất hòa ngấm ngầm thì rất nhiềâu, tuy nó không làm cho gia đình lộn xộn mất an vui, mất bình yên nhưng nó làm cho gia đình trở nên tẻ nhạt, mất sự đầm ấm thân mật. Còn mối bất hòa bùng nổ thì làm cho gia đình lộn xộn, hoang mang, lo lắng vì nó đưa đến chỗ chửi mắng om sòm, đập phá, và có khi đánh nhau nữa, mang tai mang tiếng với hàng xóm. Vì thế người ta mới nói: Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê. Nếu chồng giận mà vợ cũng sùng lên thì sẽ có chiến tranh: không chiến tranh bằng miệng thì chiến tranh bằng chân tay, đôi khi dùng đến cả võ khí gây thương tổn cho thân xác. Có trường hợp chồng tức giận đập phá, vợ cũng không chịu thua, sẵn sàng tuyên chiến:”Mày đập thì tao cũng đập” Kết quả sau trận chiến thì chiến trường không có xác chết mà chỉ thấy xác bát đĩa nằêm ngổn ngang ! Vì thế người ta khuyên: Chồng giận thì vợ phải lùi, Chồng giận vợ giận thì dùi nó quăng. 3. Phương pháp giữ cho gia đình được bền vững. Muốn cho gia đình khỏi tan vỡ , chúng ta hãy thực hiện lời Chúa đã dạy:”Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29-30). . Ai cũng ưa chuộng người hiền hòa, nhịn nhục, dễ thương, ưa những người biết “yêu nhau chín bổ làm mười”. Không ai chê người biết nhịn nhục, người ta phải thán phục những con người đó, vì họ đã chế ngự được con người mình, đã thắng được tính tự ái có sẵn trong con người. Họ đã thực hiện được lời thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlôssêâ về vấn đề gia đình:”Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia”(Cl 3,12-13). Trong sự nhịn nhục, cần nhất là phải làm chủ được cái miệng bởi vì cái miệng có thể gây ra nhiều tai họa không thể lường được như người ta đã nói:”Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”: Bệnh theo miệng mà vào, tai họa do miệng xuất ra. Truyện: Cứ khóc thôi. Một bà mẹ dặn con gái trước khi về nhà chồng: - Đây là lời khuyên mà bà cố đã dành riêng cho bà ngoại, bà ngoại đã dành cho mẹ và bây giờ mẹ truyền lại cho con, con ráng nhớ kỹ, nghe không ? - Dạ. - Không bao giờ cãi nhau, muốn gì thì cứ khóc thôi, nghe chưa ? Đó là thứ vũ khí mạnh nhất đối với đàn ông. Đúng như một nhà tâm lý nói:” Át xít làm cháy được kim khí Kim khí làm cháy được trái tim đàn bà Nhưng nước mắt đàn bà làm cháy được trái tim đàn ơng”. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Trong bài giảng trên núi (Mt 5,1-7, 23) Đức Giêsu tuyên bố Hiến chương Nước Trời, rồi dạy HP8
Trong bài giảng trên núi (Mt 5,1-7, 23) Đức Giêsu tuyên bố Hiến chương Nước Trời, rồi dạy cho những người muốn làm công dân Nước Trời biết cần phải có những đức tính và những điều kiện nào. Bài Tin mừng hôm nay là phần kết của bài giảng trên núi. Trong đoạn này, Chúa Giêsu nhắc lại một điều cơ bản: phải đem ra thực hành những điều đã nghe:”Không phải những người nói: Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha Thầy trên trời mới được vào Nước Trời”(Mt 14,21). Nhằm diễn tả giá trị của việc thực thi Lời Chúa để được vào Nước Trời và để thành môn đệ chân chính, thì Chúa Giêsu đã ví với việc xây nhà: Kẻ nghe và thực hành thì giống như người xây trên nền đá vững chắc, kẻ chỉ nghe nhưng không thực hành thì giống như người xây nhà trên cát. Như vậy, Chúa Giêsu có ý nói với các thính giả vừa nghe bài giảng trên núi của Ngài để xác định rằng, người môn đệ nghe lời Chúa giảng mà đem ra thực hành, thì xứng đáng là người khôn ngoan, biết lo cho được sống hạnh phúc và phải coi những người như vậy là người khôn khéo, biết đặt nền móng vững chắc mà xây dựng nhà, mưa to gió lớn không làm đổ được tòa nhà thiêng liêng ấy, vì xây trên sự thực hành giáo huấn của Chúa. Nếu chỉ nghe mà không tuân giữ, thì người đó là kẻ dại dột, như kẻ xây dựng nhà cửa trên bãi cát, khi có mưa to gió lớn, tức là khi gặp thử thách thì tòa nhà thiêng liêng của họ sẽ bị sụp đổ. Từ việc suy niệm Lời Chúa trong việc xây dựng ngôi nhà thiêng liêng, chúng ta liên tưởng đến những ngôi nhà vật chất đang được xây dựng để ở, rồi từ đó chúng ta suy luận ra nền tảng của những ngôi nhà gia đình và phải xây dựng gia đình trên nền tảng nào.
II. NỀN TẢNG CỦA NGÔI NHÀ 1. Cần nền móng vững chắc. Khi xây dựng một ngôi nhà, người ta phải chú trọng tới cái móng. Nềân móng có chắc thì ngôi nhà mới vững được. Nhiều khi phải xây nhà trên những vùng đất yếu, người ta phải gia cố nền móng đến mức tối đa, nhiều khi rất tốn kém. Nhà càng cao thì móng càng phải vững chắc. Chúng ta thấy có những ngôi nhà cao tầng sau khi xây xong thì bị lún, bị nghiêng, có khi bị sụp đổ nữa, đóù là vì nên móng chưa vững chắc. Nói về nền móng ngôi nhà sách Hán Hậu thư có viết:”Nền không chắc mà tường cao… thì sự đổ nát đã nằm sẵn trong đó rồi”. 2. Gia đình và nền móng xã hội. Gia đình là yếu tố cần thiết để xây nên xã hội. Gia đình có vững chắc thì xã hội mới đứng vững được. Vì thế ngạn ngữ Pháp có câu:”Gia đình là nền móng xây đắp xã hội”. Trong tông huấn Familiaris consortio, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng khẳng định:”Gia đình là nền móng của xã hội”. Chính vì vậy, Liên hiệp quốc đã chọn năm 1994 làm ngày quốc tế về gia đình. Lý do chính là vì ngày nay gia đình đang xuống cấp một cách trầm trọng, ly dị tràn lan khắp nơi. Người ta không còn nhìn ra giá trị cao quí của gia đình nữa. Nhiều người coi gia đình chỉ là một “tổ hợp tình yêu”, ăn chia sòng phẳng theo nguyên tắc “hay thì ở, dở thì đi”. Việc xây dựng gia đình rất quan trọng vì không những nó chỉ liên quan tới cá nhân, gia đình mà đến cả xã hội nữa. Vì vậy, mọi người phải nỗ lực giúp cho việc xây dựng gia đình được bền vững, nhất là vợ chồng: “Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”(Tục ngữ).
III. NỀN TẢNG CỦA GIA ĐÌNH Xây dựng gia đình được ví như xây dựng một ngôi nhà. Ngày xưa, xã hội ta còn ở trong tình trạng khó nghèo, việc xây dựng được một ngôi nhà là một việc rất quan trọng, rất khó. Người dân quê đã nói lên cái khó khăn ấy: Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà, Trong ba việc ấy thật là khó thay ! (Ca dao) Chính vì khó khăn nên muốn xây dựng được một ngôi nhà, người ta phải chắt chiu từng đồng, gom góp từng chút vật liệu, phải chuẩn lâu dài, dồn mọi nỗ lực vào việc xây dựng: “Một năm làm nhà, ba năm sắm sửa” (Tục ngữ). Cũng thế, thành lập một gia đình không phải là một chuyện dễ. Phải dành một thời gian nghiên cứu, học hỏi, suy nghỉ, bàn hỏi trước khi đi đến quyết định cuối cùng. Vậy muốn lập gia đình, người ta phải đặt vấn đề nền tảng. Phải xây dựng gia đình trên nền tảng nào mới vững chắc ? Phải chăng nền tảng hôn nhân là tiền tài, danh vọng, sắc dục hay tình yêu ? Chúng ta có thể khẳng định rằng tiền tài, sắc dục hay danh vọng không thể là nền tảng của hôn nhân được, vì tất cả những cái đó không có nền tảng vững chắc, nay còn mai mất. Kinh nghiệm cho hay , đời người lên voi xuống cho là chuyện thường xẩy ra. Nếu những cái đó không còn nữa thì gia đình sẽ ra sao ? Loại trừ những cái khác ra, chỉ còn lại tình yêu vì Tình yêu vững bềân và nó nằêm ở trong tầm tay của ta. Không gì có thể phá vỡ được tình yêu của ta ngay trong những đau khổ hay trong gian nan thử thách . Có biết bao nhiêu người dám hy sinh vì tình yêu, đau khổ, thiếu thốn không làm cho họ sờn lòng: Đi đâu cho thiếp đi cùng, Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam. Có những đôi vợ chồng thương yêu nhau thực sự, họ biết hy sinh tất cả vì tình yêu đôi lứa, vì hạnh phúc của con cái, có khi phải hy sinh cả mạng sống mình, như lời Chúa Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng mối tình của người chết vì người yêu”(Ga 15,13). Truyện: Anh phải sống. Trong cuốn truyện Anh phải sống của Khái Hưng và Nhất Linh, ta thấy vợ chồng thương yêu nhau thực sự, vợ chồng nhường phần sống cho nhau còn mình thì sẵn sàng chết. Chúng ta hãy xem một đoạn đối thoại giữa hai vợ chồng Lạc và Thức đang lúc vớt củi giữa dòng sông. Mấy phút sau chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh tay rời rã. Vợ khẽ hỏi: - Có bơi được nữa không ? - Không biết. Nhưng một mình thì bơi được. - Em buông ra cho mình vào nhé ? Chồng cười: - Không, cùng chết cả. Một lát, một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày. Chồng lại hỏi: - Lạc ơi, liệu có bơi được nữa không ? - Không !... Sao ? - Không. Thôi đành chết cả đôi. Bỗng lạc run run khẽ nói: - Thằêng Bò ! cái Nhớn ! cái Bé !... Không !... Anh phải sống.
IV. ĐỪNG BẮT CÁ HAI TAY. Có những người tham lam, khi lập gia đình, họ muốn được tất cả. Họ muốn được tình yêu trọn vẹn cộâng với tiền tài, danh vọng, sắc dục. Những người chủ trương như thế thì không bao giờ được hạnh phúc, vì không bao giờ có đủ những cái họ muốn. Những hạng người nay bị thiên hạ gọi là hạng người “Bắt cá hai tay”. Tục ngữ có câu “bắt cá hai tay”. Câu này chỉ những người tham lam, mưu nhiều việc cùng một lúc, hy vọng hỏng việc này thì còn việc kia. Nhưng trong thực tế, những người như vậy chẳng đi đến kết quả nào, công việc của họ chỉ thu lấy thất bại. Vì thế, người ta nói: Thôi đừng bắt cá hai tay Cá thì xuống biển, chim bay về ngàn. Để minh họa cho điều đó, người Trung hoa mới có câu truyện “ăn phía đông, ở phía tây”: Truyện: Ăn bên đông, ngủ bên tây. Ngày xưa, ở nước Tề có một cô gái tướng mạo rất đẹp đã đến tuổi lập gia đình. Một hôm, có một người giầu có ở phía đông nhà của cô gái sai người đến dạm hỏi, nói: - Công tử nhà tôi cũng tài giỏi như người khác mà trong nhà lại có điều kiện tốt, nếu lấy công tử thì có thể hưởng thụ phú quí. Người nghèo khó ở phía tây nhà của cô gái cũng sai người đến nói chuyện cầu hôn, nói: - Chàng trai này nhân phẩm tốt, vừa tài giỏi vừa đẹp trai, thật là trong trăm có một, chỉ là gia đình nghèo một chút mà thôi, tối hôm qua nhà không có lương thực. Ôâng bố nói với cô gái: - Con muốn lấy nhà nào thì không cần nói, chỉ cần dùng tay ra hiệu là được, tay trái thì phía đông, tay phải thì phía tây. Cô gái cười nhạt nhẽo, từ từ đưa ra tay trái, tiếp theo lại đưa ra thay phải. Hai cái miệng già kinh ngạc nói: - Làm như thế thì coi sao được ? Cô gái đàng hoàng thư thả nói: - Như vậy mà ba má chưa rõ ràng sao ? Con muốn đến nhà phía đông ăn cơm, và qua nhà phía tây ngủ qua đêm… Bố mẹ cô gái cuống cả lên: - Như vậy làm sao mà được chứ ? ( Nghị Văn Loại Tụ, Nhân Tài dịch) Cô gái này đúng là bắt cá hai tay, giầu sang cũng muốn, đẹp trai cũng muốn. Nếu cô muốn lấy chồng vừa giầu, vừa có danh vọng, vừa đẹp trai, vừa yêu mình thì phải lấy tới 4 ông chồng thì mới được. Muốn cho đời sống gia đình được bền vững, thiết tưởng không có gì là nền tảng vững chắc cho bằng tình yêu, vì tình yêu nằm trong tầm tay của mình. Tình yêu sẽ làm được tất cả, sẽ làm cho gia đình trở nên một tổ ấm yêu thương, nơi mọi thành viên trong gia đình qui tụ lại để cùng nhau xây đắp một gia đình hạnh phúc. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Chúng ta vừa mừng lễ Giáng Sinh, và nhìn vào hang đá, chúng ta thấy một em bé đang nằm giữa HP9
Chúng ta vừa mừng lễ Giáng Sinh, và nhìn vào hang đá, chúng ta thấy một em bé đang nằm giữa thánh Giuse và Đức Maria , cùng mấy con bò lừa. Nếu hỏi em bé đó là ai thì các muc# đồng sẽ trả lời cho chúng ta là Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta theo lời Thiên thần đã báo cho họ biết. Thực vậy, Thánh Gioan Tông đồ đã cho chúng ta biết:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai con của người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3.16-17). Theo thánh Gioan, Thiên Chúa vì yêu thương thế gian đã ban cho thế gian một Người Con yêu quí để cứu chuộc nhân loại. Người Con ấy là Đức Giêsu mà Ngài đang nằm trong hang đá kia. Ngài là quà tặng của Thiên Chúa ban cho loài người. Đây là một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa ban cho loài người một cách nhưng không. Chúng ta phải trân trọng món quà này và phải cảm tạ Chúa Cha về hồng ân ấy. II. NÓI VỀ QUÀ TẶNG. 1. Nguyên nhân của quà tặng. Theo tâm lý chung, những người yêu nhau thì muốn sống bên nhau. Nếu vì hoàn cảnh không thể sống gần nhau thì họ nói:”Tuy cách mặt mặt nhưng gần lòng”(Tục ngữ). Người ta còn tặng nhau những món quà, để qua món quà tặng đó, người ta có thể nhớ đến nhau, coi như người yêu đang hiện diện bên cạnh. Người ta có thể tặng nhau món quà có vẻ lãng mạn như bông hoa “păng xê” ép trong quyển sách, hoặc cụ thể như một chiếc khăn tay thêu đẹp, hay một chiếc bút. Như vậy, món quà luôn diễn tả và gửi gắm tình yêu của người cho vào trong đó. Còn biếu xén thì thường không là quà tặng mà coi như món nợ phải trả, có đi thì phải có lại bằng một cách nào đó. 2. Giá trị của quà tặng. Giá trị của quà tặng thường không nằm ở trong quà tặng mà nó nằm ở trong tim của người tặng. Càng yêu nhau, món quà càng có giá trị. Chính vì thế, bà Marguerite nói rất có lý:”Tôi không nhìn cái giá trị của tặng vật mà tấm lòng của người tặng”. Ca dao tục ngữ Việt nam cũng nói lên điều đó: “Vật khinh nhưng hình trọng” Hoặc: “Của một đồng công một nén”. (Tục ngữ) Như thế, thái độ của người cho mới là quan trọng: cho đi với tất cả lòng thương mến, không đòi hỏi thì quà tặng đó mới có giá trị:”Hai lần thích thú, nếu đồ vật trao tặng không cần phải đòi hỏi” (Publilius Syrus). Ngược lại, của cho đi vì lòng thương hại hay cho đi vì bất đắc dĩ thì món quà ấy chỉ có giá trị rất nhỏ, vì đó chỉ là của bố thí. 3. Số phận của quà tặng. Quà tặng nằm trong tay người được trao tặng, dưới quyền xử dụng của họ. Họ muốn dùng thế nào cũng được. Họ có thể trân trọng, nâng niu bao bọc quà tặng, hoặc bỏ bê hoặc liệng đi cũng được. Cho nên, thái độ của người nhận cũng rất quan trọng. Họ có thể nhận với tấm lòng biết ơn hay vô ơn. Nếu nhận với tấm lòng biết ơn sẽ làm hài lòng người cho; ngược lại, nhận với sự hững hờ càng làm buồn lòng người ban tặng. III. ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG CỦA CHÚA CHA. Như ở trên , thánh Tông đồ Gioan đã nói:”Thiên Chúa vì yêu thương đã ban Con Một của Người cho thế gian”. Nói đến chữ “Ban” là đã nói lên một món quà tặng của người trên dành cho người dưới một cách nhưng không . Loài người không có quyền đòi hỏi mà chỉ biết nhận do lòng thương yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsulà món quà tặng của Chúa Cha cho loài người và mọi người chỉ biết cúi đầu trân trọng đón nhận với lòng biết ơn . Ông Ovide đã nói rất đúng:”Cấp bậc của kẻ cho đánh giá trị của tặng vật” (Ovide). Tuy thế, có nhiều người không thèm đón nhận, họ có thái độ dửng dưng hay từ chối. Những người Do thái, đặc biệt là các thượng tế, luật sĩ và biệt phái, đã không thiếp nhận, họ đã chống đối và tìm cách giết đi. Trước tòa án Philatô họ đã hô to:”Giết đi, giết đi, đóng đinh nó vào thập giá”. Họ đã từ chối quà tặng vô điều kiện của Thiên Chúa, từ chối Đấng Cứu Thế đến để chuộc tội cho họ. Và như vậy, Thiên Chúa sẽ phải xứ đối với họ như thế nào ? Ngày nay, sau 2000 năm rao giảng Tin Mừng, vẫn còn rất nhiều người từ chối Đức Giêsu, không những là những người vô thần mà ngay cả các Kitô hữu, những người đã được rửa tội, đã có đức tin, đã được giá máu Chúa cứu chuộc. Tuy họ không tuyên bố là họ từ chối Chúa Giêsu, nhưng cách sống của họ biểu lộ sự chống đối đó.
IV. VỢ CHỒNG LÀ QUÀ TẶNG CỦA THIÊN CHÚA. Anh A là quà tặng của Thiên Chúa. Anh có nhận thấy như vậy không ? Thiên Chúa đã ban cho anh một tình yêu để cho anh yêu và anh thấy chị B hợp với anh, chị đã trở nên đối tượng tình yêu của anh, và anh đã tìm được đối tượng của tình yêu. Như vậy, chị B là quà tặng của Thiên Chúa ban cho anh. Ngược lại, anh A cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho chị B. Chị đã tìm được đối tượng của tình yêu. Hai người nhận được hai quà tặng và quà tặng sẽ tùy thuộc vào người nhận. Món quà tượng trưng tình yêu của anh chị hôm nay là chiếc nhẫn mà hai anh chị xỏ vào tay nhau, vừa xỏ vào vừa đọc:”Hãy nhận chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và trung thành của nhau”. Chiếc nhẫn chỉ là một vật bằng kim khí, tuy nó quí thật, nhưng tự nó chẳng có ý nghĩa gì, nhưng hôm nay nó lại có ý nghĩa khi hai người nói lên: Nó là bằng chứng của tình yêu và lòng trung thành. Hôm nay lễ thành hôn, hai anh chị vinh dự được lãnh nhận quà tặng của Thiên Chúa. Đây là một hồng ân Chúa ban cho anh chị. Vậy anh chị phải tỏ lòng biết ơn Chúa và phải trân trọng giữõ lấy quà tặng kẻo Chúa buồn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, quà tặng này phải đựa bảo vệ với bất cứ giá nào, có khi phải hy sinh tính mạng. Truyện: Trung thành giữ quà tặng. Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh, là người tuyệt đẹp và có đức hạnh. Ông lúc tuổi trẻ hàn vi lắm. Một khi bệnh nặng tưởng đã sắp chết, ông gọi Lư Thị đến bảo rằng: - Tôi bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ, không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế với người chồng sau. Tư Thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ý tỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có chết, cũng không chí lấy ai nữa. Không bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh. Sau ông thi đỗ, làm quan đến chứa Tể tướng. Ôâng một niềm yêu mến, kính trọng Lư Thị vô cùng, không hề lấy người tì thiếp nào nữa. Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư Thị có tính hay ghen. Chính vua Đường Thái Tôn, muốn thử Lư phu nhân, một hôm cho hoàng hậu gọi vào bảo: - Theo phép thường các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một mỹ nhân. Lư Thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận, mắng rằng: - Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết. Rồi sai người đưa cho một chén rượu, giả làm chén thuốc độc, phán rằng: - Đã vậy thì phải uống chén thuốc độc này. Lư Thị không ngần ngại chút nào, uống hết ngay. Vua thấy thế, nói: - Ta cũng phải sợ, nữa là Huyền Linh. (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 2, tr 36-37) Thiên Chúa đã phán:”Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”(Mt 19.6). Đó là lệnh truyền, không phải là lời khuyên. Khi Thiên Chúa yêu, Ngài yêu cho đến cùng (Ga 13.1). Bởi đó, yêu thương là bài học không có ngày ra trường, nó theo ta suốt cả đời. Bài học này không có chứng chỉ xác nhận, vì có ai chỉ yêu thương một lần là xong ? Ôâng Poppée nhận định:”Khi yêu đương thì người ta tràn đầy mơ mộng, nhưng khi lấy nhau người ta sẽ thức tỉnh”. Đó là một thực tế không thể phủ nhận. Vì thế, sự chung thủy vợ chồng là hết sức cần thiết, nó giúp nhau vượt qua sóng gió cuộc đời. Muốn giữ được lòng chung thủy, chúng ta cần có lòng trung tín với Chúa và với nhau. Hãy cầu xin Chúa là nguồn tình yêu, sẽ gìn giữ anh chị thủy chung trong tình yêu vợ chồng, hôm nay và mãi mãi: Mong sao nghĩa thủy tình chung Cho thuyền cập bến, gương trong ngàn đời. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt.
Sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con HP10
Sau khi quở trách Phêrô vì đã ngăn cản Ngài đi con đường thập giá, Chúa Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai làm môn đệ Ngài đều phải đi theo:”Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”. Đây là lời Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ là những người đã chọn lựa bước đi theo Ngài. Lời mời gọi này có ý gợi lên sự tự do quyết định của người được mời, vì một đàng Chúa tôn trọng tự do của con người, đàng khác con người tự trách nhiệm về quyền lựa chọn của mình. Một khi đã quyết tâm chọn Chúa để trở thành môn đệ đích thực thì cần phải thực thi hai điều kiện: 1. Phải từ bỏ chính mình: tức là phải khước từ lòng tự ái, sự nuông chiều bản thân và từ bỏ mọi thói hư tật xấu nghĩa là phải từ bỏ “cái tôi” giả tạo của mình. 2. Phải vác thập giá mình: tức là phải hòan tòan tuân phục thánh ý Chúa trong mọi sự. Hai điều kiện từ bỏ mình và vác thập giá mình có thể liên kết và hoán đổi cho nhau: đã từ bỏ mình thì phải hy sinh tức là vác thập giá, mà vác thập giá thì đương nhiên thì phải từ bỏ mình để tuân theo thánh ý Chúa. Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thóat khỏi thập giá trong cuộc sống (…). Đau khổ không phải là một đầy đọa mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hiệp với Chúa mật thiết hơn (Mỗi ngày một tin vui). Mỗi Kitô hữu chúng ta đều là môn đệ của Chúa vì đã được chịu phép Rửa tội; và Kitô là người đã được mang tên Chúa và thuộc về Ngài nên cũng phải đi theo con đường của Ngài để được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Những người dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì phải từ bỏ mình và vác thập giá mình đã đành, cả những người sống trong bậc vợ chồng cũng phải sống như thế tuy hòan cảnh có khác nhau. Nếu vợ chồng biết từ bỏ mình, biết tiêu diệt cái tôi ích kỷ của mình để sống cho nhau thì cuộc sống gia đình sẽ được êm ấm và đem lại hạnh phúc cho mọi ngưởi trong gia đình và cho cả xã hội.
II. LÒNG TỰ ÁI CỦA CON NGƯỜI. 1. Con người, trung tâm của vũ trụ ? Trên trần gian này, mọi người đều yêu mình và những cái thuộc về mình, không ai ghét bản thân mình cả (x. Ep 5, 29). Do đó, ai cũng có lòng tự ái. Chính từ ngữ “Tự Aùi” thì không có gì xấu vì tự ái lã tự yêu mình, mà bác ái là phải phát xuất từ mình trước, nhưng vì người ta lạm dụng nên thường nó có ý nghĩa không tốt. Khi đứa bé còn rất nhỏ, xem ra nó đã có “tự ái” ! Trông thấy cái gì của người ta nó cũng đòi, đòi cho bằng được, mà không được thì khóc ! Phải chăng, tuy chưa có ý thức, đứa bé đã có “tính tự ái”, bởi vì nó tự coi nó như trung tâm, mọi người phải phục vụ nó. Và như vậy tự ái đây đã kèm theo khuynh hướng vị kỷ. Sau này khi lớn lên, có ý thức, ai cũng vẫn cho mình là nhất, là trung tâm, là cái rốn của vũ trụ. Người ta, dầu là một kẻ tầm thường đến bực nào, bao giờ cũng cho ý kiến mình là quan trọng hơn tất cả. Cái “Tôi” có phải là dễ ghét đâu theo như lời của Pascal. Nó là chữ “dễ yêu” nhất trong đời. Nhưng, vì ta đã quá nâng niu chiều chuộng nó… mà thành ra cách xử kỷ tiếp vật trong đời ta gây ra không biết bao nhiêu sự vụng về, ân hận, đau khổ, tai ương… Và cũng chính vì thế, mà Blaise Pascal tiên sinh mới thốt ra câu nói chua cay này:”Cái tôi đáng ghét”: (Le Moi est haissable) (Cf nguyễn duy Cần, Thuật xử thế của người xưa, 1970, tr 17). 2. Tự ái trong đời sống hằng ngày. Ai cũng có kinh nghiệm về vấn đề này. Thuở nhỏ, ta là người rất thích tranh cãi. Tính hiếu thắng xui ta bao giơ cũng không chịu nhịn một ai cả, dầu trong một lời nói tầm thường cũng vậy. Trong những cuộc cãi vã không bao giờ ta chịu nhượng ai một lời. Rủi mà lời nói mình không được người để ý đến hoặc bị ruồng rẫy, bỏ qua, thì không gì bực tức và buồn khổ bằng. Đến tuổi thanh xuân vì khí huyết bồng bột nên không chịu coi vào đâu những ý kiến của các bậc cao niên dầy kinh nghiệm hơn. Ý kiến của cha mẹ cũng không bằng ý kiến của mình. Cha mẹ có khuyên bảo thì chỉ trả lời là “đã trưởng thành, biết rồi, nói mãi”. Cha mẹ có thể khuyên dạy con bằng những lời khuyên của một mục sư đối với đứa con 15 tuổi của ông: - Từ 15 đến 20 tuổi: cha cho phép con tin rằng “con thông minh hơn cha”. - Từ 20 đến 25 tuổi: con cũng có quyền tin rằng “con thông minh bằng cha”. - Nhưng bắt đầu từ 25 tuổi sắp lên, cha bắt buộc con phải nhìn nhận sự “thông minh của cha hơn con nhiều một cách tuyệt đối vậy”. Đến tuổi trưởng thành và cao niên, con người vẫn còn coi mình hơn tất cả. Không ai muốn nhận mình là quấy cả. Dầu là tay đại gian đại ác như Tào Tháo cũng không chịu nhận mình là gian ác. Tào Tháo thường xưng mình là vì dân vì nước; mà Lưu Bị cũng tin mình vì dân vì nước. Godse, ngưới ám sát Gandhi mà thiên hạ phần đông nguyền rủa, vẫn tươi cười trước khi chịu tử hình.
3. Sự hiểu biết thì phiến diện. Chúng ta không phải là chân lý. Chúng ta cũng không thể nắm chắc được chân lý mà chỉ là trên đường đi tìm chân lý, và như vậy sự hiểu biết của mình không thể là tuyệt đối. Có nhiều con đường đi tìm chân lý và mỗi người chỉ có thể nắm được một phần của chân lý, tùy theo trình độ của mình. Vì thế trong khi bàn bạc, tranh luận, chúng ta cũng phải để ý đến cái trình độ của kẻ khác. Dẫu nguời ấy có ngu si vụng dại đến đâu, phải biết cho họ cũng có cái lý của họ, hoặc trình độ hiểu biết của họ chỉ đến ngần ấy là cùng.
Truyện: Bài nào cũng đúng. Một hiền giả Aán độ, ngày kia, xem bài các đệ tử phê bình về một bài thơ của mình. Có hai người đệ tử, trước khi trình cho thầy bài luận của mình, lại đổi cho nhau xem trước. Họ bèn cãi nhau không ai chịu nhận bài của bạn mình là đúng. Thế rồi, họ bảo nhau để coi thầy sẽ phán đoán cách nào. Ôâng thầy xem đến bài của từng người, đều gật đầu khen phải cả. Đến lượt hai người này, thầy cũng gật đầu khen đúng nữa. Một người liền đứng lên phản đối: - Thưa thầy, bảo rằng bài của các bạn con đều đúng, thì con không dám cãi, vì con không được biết họ nói gì trong đó. Chớ như đối với bài của anh này, thì con chắc chắn không thể nào thầy cho là đúng được, trong khi thầy cũng nhận cho bài của con cũng đúng nữa. Hai chủ trương của chúng con quả quyết không thể bên nào dung được bên nào: hễ anh ấy phải, thì con quấy, mà con phải thì anh ấy quấy. Ông thầy mỉm cười, ôn tồn bảo: - Hai trò đều bàn đúng cả đấy. Sở dĩ trò này nói vầy là tại cái trình độ hiểu biết của nó chỉ đến đó là cùng. Sao có thể bảo nó nói sai hay hiểu sai cho được ! Bài thơ của thầy như vầng Thái Dương, hoa nào cũng nhờ ánh Thái Dương mà nở, nhưng cây nào nở hoa nấy: cây này không nở hoa kia, mà cây kia không thể nở hoa nọ được… Sao có thể bảo bài của người này phải mà bài của kẻ kia quấy ! Khi đã ý thức được rằng không ai nắm trọn vẹn chân lý mà chỉ nắm được một phần, còn phần khác phải dành cho người khác. Do đó, không bao giờ được bắt ép người khác phải theo ý kiến của mình, không được quyền coi chỉ có ý kiến của mình là đúng, còn người khác là sai quấy. Để diễn tả tư tưởng này, người Aán độ mới chế ra được câu chuyện thầy bói rờ voi.
Truyện: Mù rờ voi. Xưa kia có một ông vua ngồi buồn, cho bắt tất cả người mù trong thành đem về hợp lại một chỗ. Vua cho đem ra một con voi, bảo các anh mù rờ vào, và tả lại cho nghe họ đã hình dung con voi ra sao ? Sau khi mọi người đã rờ xong. Vua kêu hỏi từng người. Họ thưa: - Voi như cái nồi lớn (Đó là những người rờ trúng cái đầu). - Voi giống như cây cột tròn (Đó là những người rờ trúng cái chân). - Voi giống cái chổi ( Đó là những người rờ trúng cái đuôi) … Mỗi người đều tưởng rằng mình đã hình dung rõ con voi với những bộ phận mà họ đã rờ trúng. Rồi thì không một ai chịu nhận của ai, đều cho cái thị kiến của mình là đúng. Ban đầu còn cãi nhau, sau chửi nhau om sòm, và rốt cùng xăng tay đánh đá nhau tơi bời… Nhà vua thấy vậy ôm bụng cười vang (Sách UDANA) Quả thực đây là bức hí họa tài tình, vì nó thu hẹp được một cách đầy đủ cả một tấn bi-hài-kịch của nhân lọai từ xưa đến nay. Nhất là ngày nay, thiên hạ đang xâu xé nhau như lũ người mù trên đây để giành lẽ phải về mình mà không ai chịu dung tha ai cả. Vậy chứ chiến tranh ý thức hệ là gì, nếu không phải vì ai ai cũng đều cho cái lẽ phải của mình là tuyệt đối. (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1972, tr 91-92)
KẾT LUẬN. Trong đời sống gia đình cũng thế, vợ chồng không phải lúc nào cũng có sự hiểu biết như nhau, mỗi người chỉ nắm được một phần chân lý nên phải tôn trọng sự hiểu biết của người khác, không được dùng áp lực mà bắt người khác phải theo ý kiến của mình. Muốn cho gia đình được yên vui đầm ấm cần phải có sự nhường nhịn nhau vì người ta thường nói:”Một sự nhịn, chín sự lành”(Tục ngữ), Nhường nhịn nhau cũng đồng nghĩa với từ bỏ mình và vác thập giá mình như bài Tin mừng chúng ta vừa nghe đọc. Từ bỏ mình là gì nếu không phải là từ bỏ “cái tôi” ? Tác giả André Sève trong cuốn Sương mai có viết: Từ bỏ mình… vác thập giá… là khoái khổ sao ? Không. Cần phải từ bỏ mình, thẳng thắn mà tuyên bố tiêu diệt “Cái Tôi” của chúng ta. Thế nhưng không phải tiêu diệt “cái tôi tốt lành”, “cái tôi” chân thật. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con:”Đó là cái tôi, thánh Gioan Thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta trở nên bất hạnh đối với chúng ta, khô khan đối với tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với các công việc của Chúa”(André Sève, Sương mai, tr 209). Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Những người biệt phái luôn theo sát Chúa Giêsu mà tìm mọi cơ hội để bắt bẻ Ngài. Ở đây những HP11
Những người biệt phái luôn theo sát Chúa Giêsu mà tìm mọi cơ hội để bắt bẻ Ngài. Ở đây những người biệt phái đặt ra câu hỏi về việc ly dị để gài bẫy Ngài:”Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng” (Mt 19,3) ? Đặt ra câu hỏi đó vì ông Maisen cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị. Sở dĩ có luật cho ly dị là vì sự cứng lòng của họ mà ông đã viết ra điều đó. Chúa Giêsu muốn nêu ra tính tạm thời của luật Maisen qui định việc ly dị như thế là vì sự bướng bỉnh cứng đầu, thiếu quảng đại của dân Do thái, khiến không thể qui định được ý muốn của Thiên Chúa, trong lúc chưa thể làm khác thì ông cho phép làm thủ tục ly dị như vậy đó thôi. Để kiện tòan Lề Luật trong lãnh vực này, Chúa Giêsu đã trưng dẫn ra câu Kinh Thánh nói về sự vĩnh viễn của hôn phối:”Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình và hai người sẽ nên một huyết nhục”(St 2,24). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo một người nam và một người nữ, nhưng việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục là khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ. Hiệu quả của khế ước này là sự trở nên làm một với nhau. Điều này chứng tỏ việc ly dị là phủ nhận khế ước tình yêu giữa nam và nữ, đồng thời cũng nói lên sự bất phục tùng ý định của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Giêsu xác định là Thiên Chúa không cho phép ly dị vì:”Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, lòai người không được phép phân ly”(Mt 19,6).
II. TỪ NGỮ LÀ VÀ TRỞ NÊN. Ngày nay tiếng Anh rất thịnh hành, ai biết tiếng Anh đi đâu cũng được vì dễ giao dịch. Vì vậy người ta học tiếng Anh rất nhiều. Động từ mà người mới học tiếng Anh là động từ TO BE có nghĩa là LÀ hay THÌ như Iam, you are, he is… Rồi học thêm nữa chúng ta có động từ TO BECOME có nghĩa TRỞ NÊN. Hôm qua, tình cờ tôi đọc trên một tấm ảnh cưới có câu này bằng tiếng Anh:”Vì thế người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và luyến ái vợ mình, và cả hai trở nên một thân xác”(Mt 19,6): And the two shall become one flesh. Trong câu này người ta không dùng động từ TO BE mà dùng TO BECOME: trở nên. Đúng thế, quen quá rồi, nghe không biết bao nhiêu lần. Nhưng chính vì quá quen, ta đã không hiểu được nội dung Lời Chúa. Ta cứ nghĩ NÊN MỘT có nghĩa là khi kết hôn, lập tức hai vợ chồng đã LÀ một, THÀNH một. Nhưng không phải thế. Không phải LÀ (to be) một, mà TRỞ NÊN (to become) một. Và động từ TRỞ NÊN đã cung cấp một cách nhìn rất khác về hôn nhân. Động từ TRỞ NÊN diễn tả một quá trình, một họat động chứ không phải một tình trạng tĩnh. Như thế, không phải cứ nói lời giao ước hôn nhân xong và sau đêm tân hôn, hai người đã nên một hòan tòan. Nhưng ngày kết hôn mới là khởi điểm cho một hành trình, để mỗi ngày đôi vợ chồng nên một với nhau nhiều hơn: nên một trong tâm tư tình cảm, nên một trong ý hướng cuộc sống, nên một trong trách nhiệm gia đình, nên một trong cảm thức đức tin… Một hành trình dài. Thật dài, Suốt cả cuộc đời.
III. MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH DÀI. 1. Hôn nhân chưa vẹn tòan. Chưa ai có cuộc hôn nhân hòan hảo mà còn phải kiện tòan, mỗi ngày phải làm cho vững chắc và phong phú hơn. Có người mừng lễ bạc, lễ vàng hôn phối mà vẫn chưa sống đời hôn nhân cho đầy đủ. Họ còn phải nỗ lực hòan hảo hóa đời hôn nhân vì hôn nhân luôn ở thể động, ở thể chuyển dịch. Trong tiệc cưới, chúng ta thường chúc cô dâu chú rể:”Trăm năm hạnh phúc, đầu bạc răng long, đa tử đa tôn, đa phú quí, làm ăn phát tài, giầu sang mãi mãi…” Trong những lời chúc ấy, có lẽ câu “Trăm năm hạnh phúc” được nhiều người ưa thích nhất. Cầu mong hạnh phúc thì ai cũng muốn, nhưng để có được hạnh phúc quả thật không dễ chút nào. Bởi hôn nhân không phải là chuyện tháng ngày, mà là chuyện cả một đời. Rất cần có sự cố gắng, keo sơn, chung thủy, nhịn nhịc và tha thứ cho nhau. Có một câu thơ khá phổ biến, như một điệp khúc dễ thương:”Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai”. Trước đây, vợ chồng thường xưng hô với nhau:”Mình ơi mình”, còn ngày nay, các bạn trẻ lại thi vị gọi người bạn đời là:”Một nửa mình của tôi ơi”.
2. Hôn nhân là khởi điểm. Ý thức rằng hôn nhân mới là khởi đầu cho một chuyến đi xa, ta sẽ không ngỡ ngàng và thất vọng khi khám phá mình và người bạn đời tuy đã nên một nhưng vẫn còn là hai trong quan điểm, trong cách sống, trong công việc… Không ngỡ ngàng và thất vọng, nhưng bình tĩnh và kiên tâm tháo gỡ những khó khăn dị biệt. Khi yêu nhau, người ta phải hy sinh. Đó là qui luật của muôn đời. Chúa Giêsu phán:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”(Ga 15,13). Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng nói:”Yêu và hy sinh là một, không hy sinh thì chưa gọi là yêu”. Đức Gioan-Phaolô II đã khẳng định trong Tông huấn về Gia đình:”Chỉ có tinh thần hy sinh cao cả mới gìn giữ và kiện tòan sự hiệp thông gia đình”. Trong một số tiệc cưới, thay vì chỉ cắt bánh ngọt, đôi tân hôn đã lặp lại phong tục của người Việt, là cho nhau nếm muối mặn và gừng cay, để diễn tả những cay đắng mà cả hai sẽ phải đương đầu. Vì thế mới có câu ca dao: Tay bưng bát muối chấm gừng Gừng cay, muối mặn xin dừng bỏ nhau.
3. Hôn nhân là một hành trình dài. Ý thức rằng hôn nhân là một hành trình dài sẽ thúc đẩy người ta ĐI TỚI và ĐI MÃI. Ngỡ tưởng rằng cứ lấy nhau là hòan tòan nên một để tạo cho người ta tâm lý dừng chân hưởng thụ. Đang khi đó, cha Ruy MERMET nói:”Hôn nhân không phải là một món tiền bỏ vào ngân hàng và mỗi tháng cứ đến lĩnh tiền lời, nhưng hôn nhân là kiến trúc cần xây dựng mỗi ngày”. Tác giả Nguyễn tầm Thường đã viết trong tác phẩm Nước mắt và Hạnh phúc rằng:”Tình yêu không tách rời khỏi thời gian, mà thời gian thì luôn đổi mới, bởi thế, tình yêu không thể chọn lựa một lần là xong, cưới nhau một lần là đủ, tình yêu cần rửa tội mỗi ngày, cưới nhau mỗi sáng”. Cố vấn hôn nhân Allan Peterson nói:”Đa số người kết hôn tin vào một huyền thọai : cuộc hôn nhân ấy là cái hộp đẹp chứa mọi vật mà người ta khao khát: đời sống lứa đôi, sự thỏa mãn về tình dục, sự thân mật, tình bạn. “Sự thật là cuộc hôn nhân ấy lúc bắt đầu là một cái hộp rỗng. Bạn phải bỏ vào một cái gì đó trước khi bạn có thể lấy ra một cái khác. Trong hôn nhân không có tình yêu, tình yêu ở trong hai người và hai người đặt tình yêu vào hôn nhân. Không có chuyện tình lãng mạn trong hôn nhân; người ta phải pha trộn sự thơ mộng vào hôn nhân của họ. “Một đôi tân hôn phải học nghệ thuật ấy và hình thành thói quen cho nhau, yêu nhau, phục vụ nhau, ngợi khen nhau để giữ cho cái hộp được đầy. Nếu bạn lấy ra nhiều hơn bạn bỏ vào, cái hộp sẽ rỗng không”. Chúng ta có thể kết luận: Sự nên một trọn vẹn chỉ có trong Thiên Chúa, tuy Ba Ngôi riêng biệt nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng sự hiệp nhất trong Thiên Chúa Ba Ngôi để hướng đời sống hôn nhân về đó và cố gắng kết hợp với nhau nên một. Nếu muốn có sự kết hiệp mật thiết trong hôn nhân, chúng ta hãy kết hiệp với Chúa. Nếu chúng ta kết hiệp với Chúa thì chúng ta cũng sẽ kết hiệp với nhau, đặc biệt là Thánh Thể. Thánh Thể Chúa sẽ nối kết hai người lại với nhau vì hai người cùng chịu một Chúa Kitô là mối giây liên kết các tín hữu. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt.
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Ep 5,2a. 25-32.
Khi ở trong tù, thánh Phaolô đã viết nhiều thư mục vụ gửi cho các giáo đòan. Những thư gửi HP12
Khi ở trong tù, thánh Phaolô đã viết nhiều thư mục vụ gửi cho các giáo đòan. Những thư gửi cho giáo đòan Êphêsô cũng nằm trong hòan cảnh đó. Những bức thư này nhằm triển khai mầu nhiệm ơn cứu độ được thực hiện nơi Đức Kitô, đồng thời cũng nói lên mầu nhiệm kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Ngòai ra, ngài còn khuyên nhủ mọi người trong giáo đòan hãy hiệp nhất, xứng với đời sống mới, đời sống kết hợp với Đức Kitô qua những tương quan cụ thể trong đời sống hằng ngày: giữa cộng đòan Kitô hữu, trong gia đình, trong xã hội. Trong đọan văn chúng ta vừa nghe 5,23-32, thánh Phaolô đối chiếu hôn nhân với mầu nhiệm Đức Kitô và Hội thánh: tình yêu của Đức Kitô đối với Hội thánh là nền tảng và là khuôn mẫu của đôi vợ chồng. Tương quan giữa vợ chồng phải là dấu chỉ và là cách trình bầy mầu nhiệm Đức Kitô và Hội thánh (x. 1Cr 7,1-14; Cl 3,18-19) Đức Kitô yêu thương Hội thánh là thân thể của Người, nên Người cũng yêu thương mỗi chi thể trong thân thể đó. Cũng vì thế, người chồng phải yêu thương vợ là thân thể của mình , nhưng còn vì vợ là chi thể trong thân thể mầu nhiệm. Chúng ta cũng nên lưu ý: khi nghe đọc câu 22:”Người làm vợ hãy phục tùng chồng như tùng phục Chúa”. Có lẽ câu này làm cho chúng bị “sốc”. Đây là cách diễn tả của thánh Phaolô có tính cách phản ánh văn hóa thời đại ngài, nhưng chúng ta không nên nhân danh phong trào đấu tranh cho nữ quyền mà coi thường giáo huấn của ngài. Đã và đang có những mô hình văn hóa khác nhau trong vấn đề tình nghĩa vợ chồng. Ngày nay, các mô hình ấy khác biệt nhau tùy nơi: ở các nước kinh tế phát triển hay ở thế giới thứ ba, trong giới trung lưu hay bình dân. Tiến bộ hơn, chính mỗi cặp vợ chồng phải tìm xem đâu là quân bình cho mình, và khi đưa ra những sáng kiến của mình thì nên theo cung cách nào, như uy tín bẩm sinh, và khả năng của mỗi bên cho phép (Chú thích của bản dịch Phụng vụ giờ kinh). Người Việt nam chúng ta ngày xưa có chủ trương là “Phu xướng phụ tùy”: chồng nói thì vợ làm theo, nhưng đối với chúng ta , dù bên “xướng” hay bên “tùy”, thì đàng này hay đàng kia đâu phải vì thế mà sẽ cảm thấy mình hơn hay kém, bởi vì lý tưởng của mỗi bên là trở nên “Tôi tớ” (Mc 9,35). Cho nên thánh Phaolô nói:”Chồng là đầu của vợ” thì không có ngĩa là “đầu” thì ăn trên ngồi trước như một ông chủ hay một thủ trưởng, mà là người hỗ trợ và phục vụ cho vợ.
II. CÁCH MẠNG TRÊN THẾ GIỚI. Trên thế giới ngày nay, ta hay nghe tin cách mạng xẩy ra ở nước này nước nọ để thay đổi triều đại, thay đổi chế độ hay thay đổi chính quyền hiện thời. Từ xưa đến nay cách mạng đã từng xẩy ra mọi nơi như cơm bữa. 1. Cách mạng là gì ? Cách mạng hay cách mệnh là sửa đổi một chế độ chính trị cũ cho tốt đẹp hơn, hoặc thay đổi chế độ cũ bằng chế độ mới, người mới với võ lực. Theo nguyên tắc thì cách mạng thay cái cũ bằng cái mới với điều kiện là cái mới phải tốt hơn. Nhưng trong thực tế thì chúng ta đã biết các cuộc cách mạng trên thế giới đã như thế nào …
2. Có mấy lọai cách mạng ? Thường chúng ta thấy có hai lọai cách mạng. Nếu cách mạng bằng võ lực thì ta gọi là “cách mạng đỏ”#. Ví dụ: cách mạng Pháp năm 1789, cách mạng tháng 10 Nga, cách mạng tháng 8 của ta lật đổ chế độ cũ và thay bằng một chế độ mới. Còn cách mạng êm thắm không dùng võ lực thì người ta gọi là “cách mạng xanh”, ví dụ: cuộc cách mạng kỹ thuật thế kỷ 19, cách mạng khoa học, cách mạng xã hội. Thậm chí còn có cả cuộc cách mạng bản thân. Cuộc cách mạng này đòi hỏi con người phải canh tân cách sống, phải lột bỏ con người cũ xấu xa mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn.
3. Có cách mạng hôn nhân không ? Câu hỏi này sẽ được mỗi người suy nghĩ và trả lời. Ta chỉ thấy rằng người Pháp nổi tiếng là “ga-lăng” nhất thế giới cũng phải sáng chế ra một bi hài kịch với ba màn sau đây: - Lúc đầu là thời quân chủ: lúc này thì em nói anh nghe, anh nói thì em nghe. - Sau đó là thời dân chủ: lúc này anh nói anh nghe, em nói em nghe. - Kết cuộc là cách mạng bùng lên: anh và em cùng nói một lúc để cho hàng xóm nghe chơi (Hồ Ngọc, Tình yêu và gia đình, tr 120). Theo kiểu ví von của người Pháp ta thấy thời gian khủng hỏang làm tan cửa nát nhà, vợ con chia lìa thường xẩy ra vào năm thứ 7 và thứ 10 sau khi lấy nhau. Đó là kết quả khảo cứu của nhà gia đình học Brent C. Miller. Vào khỏang thời gian nói trên, nghĩa là khi đứa con đầu lòng bắt đầu cắp sách đi học, là vợ chồng lủng củng dữ dội nhiều hơn bao giờ hết. Thêm vào đó, những lo lắng về công ăn việc làm cũng như lo lắng cho con cái làm cho họ không còn phút nào để nghĩ đến nhau nữa về phương diện tình dục lẫn tình yêu (Sđd, tr 132). Vậy phải tìm ra giải pháp nào hữu hiệu để tránh những cuộc khủng hỏang trong gia đình nhằm tránh được những cuộc ly dị có thể xẩy ra ? Người Ả rập có câu ngạn ngữ óai oăm này:”Phải đánh vợ mỗi buổi sáng, nếu không có lý do thì vợ nó cũng biết tại sao” ! Trong thế giới A#rập, đặc biệt là những người Hồi giáo, người đàn bà còn bị coi nhẹ, đôi khi còn bị khinh miệt, không có quyền hành gì trong gia đình, người đàn bà chỉ được đem về để phục vụ cho đàn ông. Ra đường phải che kín mít từ đầu đến chân. Riêng phụ nữ ở Afganistan phe Taliban không cho phụ nữ đi học và làm việc tại các cơ quan, xí nghiệp. Theo giáo lý của Hội thánh Công giáo thì người nam và người nữ phải được bình đẳng trên phương diện nhân quyền, nhân phẩm. Chính bí tích Hôn phối đã nói lên đặc tính này:”Họ không còn phải là hai mà là một xương một thịt”(Mc 10,8). Vì thế, thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô:”Chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình”(Ep 8,28-29).
III. VỢ CHỒNG PHẢI ĐƯỢC BÌNH ĐẲNG. Linh mục Bernard Tari, nhà luân lý học nổi tiếng người Đức, đã kể rằng: Kỷ niệm đẹp nhất về việc tông đồ trong đời tôi là lần giải tội đầu tiên. Hôm đó, một người đàn ông đến xưng với cha về một thứ tội dường như không có trong danh mục của bản hướng dẫn xét mình. Người đó xưng thú rằng mình đã không vâng lời vợ. Lần đầu tiên nghe thứ tội lạ lùng như thế, vị Linh mục mới hỏi hối nhân: - Từ trước đến nay tôi chỉ nghe nói rằng người vợ phải phục tùng chồng, sao ông lại xưng thú rằng ông đã không vâng lời vợ ? Người đàn ông giải thích: - Thưa cha, con có tội, là bởi vì vợ con có lý mà con vẫn không chấp nhận điều đó. Nghe thế, vị Linh mục hỏi hối nhân: - Ôâng có chấp nhận việc đền tội bằng cách trở về nói với vợ ông rằng bà ta có lý không ? Chấp nhận sự có lý của người vợ không phải chỉ là một việc làm đơn giản. Đó là đòi hỏi cốt yếu của một cái nhìn đúng đắn của người chồng đối với vợ mình. Tình yêu vợ chồng đích thực chỉ có thể được xây dựng trên sự bình đảng mà thôi. Đó là điều mà thiết tưởng những người chồng trẻ nên tâm niệm mỗi ngày (D. Wahrheit, Cẩm nang hạnh phúc gia đình Kitô, tr 34-35).. Cuộc sống hôn nhân đích thực chỉ có thể xây dựng trên tình yêu mà thôi. Mà nói đến tình yêu thì phải nói đến tôn trọng Bình đẳng. Tại sao tôi cưới vợ ? Câu trả lời đúng đắn là: vì tôi yêu thương, và tôi muốn sống hòan tòan và trọn vẹn cho vợ tôi. Yêu thương thiết yếu có nghĩa là muốn điều thiện hảo cho người mình yêu thương. Yêu thương là sống cho và hy sinh tất cả vì người mình yêu thương. Đó phải là tâm niệm của những người chồng trẻ. Một tâm niệm như thế sẽ khiến cho người chồng gạt bỏ được cái tư tưởng muốn chiếm đọat và làm chủ vợ mình. Một tâm niệm như thế sẽ giúp họ chấp nhận những khác biệt hay cả những khuyết điểm của người vợ. Nếu được như thế thì sẽ không bao giờ có cuộc cách mạng trong gia đình. Để kết luận, chúng ta hãy đọc lại và suy niệm đọan thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Colossê:”Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nahu, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái, đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14). Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt.
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Mc 10,2-12. Ep 21-23.
Ai cũng biết , Đức Giêsu đến không phải để phá bỏ lề luật Cưu ước, mà là để kiện tòan. Bài Tin HP13
Ai cũng biết , Đức Giêsu đến không phải để phá bỏ lề luật Cưu ước, mà là để kiện tòan. Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe thuật truyện Đức Giêsu trình bầy quan điểm của Ngài về luật ly dị và đa thê của thời Maisen. Ngài khẳng định rằng:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, lòai người không được phân ly”(Mc 10,9). Những người biệt phái luôn theo sát Đức Giêsu mà tìm mọi cơ hội để bắt bẻ Ngài. Ở đây, họ đặt câu hỏi về luật ly dị để gài bẫy Ngài, câu hỏi đó là:”Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng”(Mc 10,1). - Nếu trả lời không được phép ly dị thì Đức Giêsu sẽ bị kết án là người đi ngược với Maisen vì Maisen (Mt 24,1) cho phép người ta, khi người vợ làm điều ô nhục, viết tờ ly hôn với hai người làm chứng để ly dị vợ mình; đồng thời cũng gây mâu thuẫn với vua Antipas vì ông này đã ly dị vợ chính thức để cưới lấy nàng Hêrôđia vợ của anh mình. - Nếu trả lời được phép ly dị thì Đức Giêsu sẽ bị gán cho là người theo môn phái tự# do, lãng mạn, cho bất cứ lý do gì cũng là cớ ô nhục để ly dị , và như vậy là phá vỡ chương trình ban đầu của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã thẳng thừng trả lời:”Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Maisen đã viết ra điều luật đó”. Trả lời như vậy là Ngài muốn nêu ra tính tạm thời của luật Maisen: sở dĩ Maisen qui định việc ly dị như thế là vì sự bướng bỉnh cứng đầu và thiếu quảng đại của dân Do thái, khiến không thể qui định theo ý muốn của Thiên Chúa được, trong lúc chưa thể làm khác, thì ông phải cho phép làm thủ tục ly dị như vậy đó thôi. Đức Giêsu đã trưng ra hai câu Thánh Kinh để nói lên tính cách đơn hôn và vĩnh hôn của hôn nhân: “Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ”(St 1,27) và “Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ, để luyến ái vợ mình và cả hai người sẽ trở nên một huyết nhục”(St 2,24). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo một người nam và một người nữ, nhưng việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục là khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ. Hiệu quả của khế ước này là sự trở nên làm một với nhau. Điều này chứng tỏ việc ly dị là phủ nhận khế ước tình yêu giữa người nam và nữ, đồng thời cũng nói lên sự bất phục tùng ý định của Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã kết luận:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, lòai người không được phân ly”.
II. NÊN MỘT NHƯ THẾ NÀO. 1. Cần có sự khác biệt. Muốn có sự kết hợp, cần phải có sự khác biệt. Sự khác biệt cần thiết cho sự kết hợp. Muốn có một bó hoa muôn mầu sắc, cần phải có những bông hoa khác nhau về mầu sắc, kiểu dáng, kích cơ , hương thơm… Theo ý nghĩa đó, khác biệt tự nó đã có giá trị. Người nam và người nữ có những đặc tính khác nhau. Phái nam gọi là phái mạnh, phái nữ gọi là phái yếu (dĩ nhiên có người khỏe như voi !). Phái nam có những cấu tạo sinh lý khác với phái nữ, ví dụ: nam tu nữ nhũ… nhìn vào mặt thi biết ngay là nam hay nữ. Về phương diện tâm lý thì cũng rất khác nhau, trong lớp giáo lý hôn nhân chúng ta đã đề cập đến 5 định luật tâm lý như định luật ưu tiên, định luật phân cách… Ở đây ta đặc biệt nói về sự kết hợp tinh thần nghĩa là về phương diện tâm lý.
2. Khuynh hướng “tôi hóa tha nhân”. Người ta có khuynh hướng “tôi hóa tha nhân”. Tôi hóa tha nhân là bắt tha nhân phải nên giống như mình. Người ta không thể tôi hóa được người khác. Bắt người khác phải giống mình là hủy diệt tự do và bản tính của người đó, càng bắt họ giống mình bao nhiêu thì sự hiện diện của họ càng mất đi bấy nhiêu. Người ta chỉ có thể tìm đến sự “hòa đồng” chứ không thể tìm được sự “đồng nhất” giữa hai người hay nhiều người, vì mỗi người là một cá vị, có những đặc tính riêng. Hòa đồng đây chính là sự hợp nhất. 3. Hợp nhất trong sự song hành. Ai đã có dịp đi xe hỏa hay xem xe hỏa sẽ nhận thấy: con tầu lăn bánh trên hai đường ray. Hai đường ray phải cách nhau một khỏang cách đều đặn, nghĩa là hai đường ray phải đi song song với nhau (= song hành), nếu hai đường ray chập vào nhau thì xe sẽ bị lật, hoặc hai đường ray lìa xa nhau thì xe cũng bị đổ. Vậy điều kiện để xe có thể đi được là hai đường ray cứ phải đi song song. Cũng thế, vợ chồng là hai thực thể khác nhau, không thể đồng hóa nhau mà chỉ có thể hòa đồng hay hòa hợp. Khổng Tử nói:”Hòa nhi bất đồng”, nghĩa là chồng vẫn là chồng, vợ vẫn là vợ mà chỉ có thể dung hòa ý kiến để tiến tới một sự hòa hợp như một ly nước chanh đường. Thi sĩ Tản Đã Nguyễn khắc Hiếu khi nhìn vào bức ảnh chụp của mình đã nói một câu rất triết lý: Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai. Người Việt chúng ta hay dùng chữ MÌNH.. Chữ “mình” ở đây chỉ về ta hay chỉ về người khác ? Có thể chỉ cả hai, tùy theo trường hợp. Ví dụ: Chồng nói với vợ: Hôm nay mình hơi khó chịu, mình hãy đi mua cho mình một liều thuốc cảm. Cùng một chữ mình mà có thể hiểu về chồng mà cũng có thể chỉ về vợ. Cả hai người cùng hợp nhất trong một chữ “mình”. Truyện: chung chân chung tay. Chuyện kể: có một cặp vợ chồng tàn tật kia, họ có thể đi bằng đôi chân chung với nhau như bình thường. Anh chồng tên là Randy, mất chân phải trong một tai nạn xe hơi. Chị vợ, Susan Foster, phải cắt chân trái vì ung thư xương. Cả hai cùng đồng lòng áp dụng phương pháp rất độc đáo: “Phương pháp dây thừng”. Họ dùng thừng buộc chặêt thân mình lại với nhau, chồng sử dụng chân trái, vợ sử dụng chân phải, sau ba tháng kiên nhẫn tập luyện, họ đã đi được như người bình thường. Đồng thời, họ còn có thể làm việc bên nhau trong một dây chuyền lắp ráp xe hơi ở nước Anh.
III. DUNG HÒA THẾ NÀO ? 1. Nhẫn nhục chịu đựng.
Trong cuộc sống gia đình không ai có thể kiếm được người bạn đường hòan tòan giống như mình, vì bá nhân bá tính, không ai giống ai, như người ta nói: Sống mỗi người một nết, Chết mỗi người một tật, Bệnh mỗi người một chứng, Thuốc mỗi người một thang. Trong bài thánh thư hôm nay, thánh Phaolô khuyên tín hữu Eâphêsô là vợ hãy phục tùng chồng. Phục tùng chồng là phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng đáp lại, chồng cũng phải thương yêu vợ như Đức Giêsu thương yêu Hội thánh của Người (x. Ep 5,21-33).
2. Biết nhận lỗi mình. Người ta thường nói:”Nhân vô thập tòan”, đến bậc thánh nhân cũng còn nhiều điều sai lỗi, ai dám nói là mình hòan hảo ? Thánh Gioan tông đồ nói:Ai bảo rằêng mình không có tội thì sự thật không có trong người ấy”. -Trong những sai lỗi trong ngày, vợ chồng thường không ai chịu nhận lỗi về mình, người nào cũng đưa mọi lý lẽ ra mà bênh vực cho lập trường của mình, không ai chịu ai, nên người ta mới nói: Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay (tục ngữ) - Có người chỉ nhận một nửa tội lỗi về mình hay ít hơn, nên đã nói: Lỗi tại tôi, lôi thôi tại bà. - Một số người khác thì sẽ dùng kế họach dung hòa, họ sẽ nói: Tại anh tại ả Tại cả hai bên Hai bên cùng tại.
Truyện vui: ăn vụng xôi. Hai vợ chồng có tính hay ăn vụng. Một hôm vợ nấu một chõ xôi cho việc cúng giỗ. Khi chõ xôi gần chín, hơi bốc lên nghi ngút, mùi thơm của xôi hấp dẫn. Nhìn chung quanh không thấy có ai, cô vợ mở vung bốc một nắm xôi nóng hổi, đứng nấp vào đàng sau cánh cửa mà ăn. Ông chồng trên nhà xuống, thấy mùi xôi hấp dẫn quá, nhìn chung quanh không thấy ai, bèn mở vung bốc một năm xôi và cũng đứng nấp sau cánh cửa mà ăn. Nhưng khi vừa mở cánh cửa ra, gặp ngay bà vợ cũng đang ăn vụng xôi, liền nói: - Ủa, mẹ mày cũng ăn vụng à ? Thế là hai vợ chồng chỉ biết nhìn nhau cười với một cái nhìn thông cảm và hiểu biết. Thiên Chúa muốn kết hợp vợ chồng nên một. Chữ “nên một” đây có ý nói đến sự hòa đồng giữa vợ chồng. Muốn có sự hòa hợp ấy cần phải có sự từ bỏ ý riêng. Từ bỏ ý riêng mình là một hy sinh lớn nhưng nó đưa đến hiệu quả tốt đẹp như người ta nói: Một sự nhịn, chín sự lành. Muốn cho đời vợ chồng được trên thuận dưới hòa, trong ấm ngòai êm, thiết tưởng không gì bằng thực hiện Lời Chúa Giêsu đã dạy:”Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Đọan Tin mừng chúng ta vừa nghe là lời Đức Giêsu cầu nguyện cho những kẻ tin vào Ngài nhờ HP14
Đọan Tin mừng chúng ta vừa nghe là lời Đức Giêsu cầu nguyện cho những kẻ tin vào Ngài nhờ lời rao giảng và giáo huấn của các môn đệ, nghĩa là Chúa cầu nguyện cho hết mọi thành phần trong Hột thánh. Mục đích Đức Giêsu cầu nguyện là để mọi người tin vào Ngài được hiệp nhất với nhau. Chính sự hiệp nhất này là sức mạnh và có tính thuyết phục thế gian tin vào Đức Giêsu là Đấng Cứùu thế. Có một chân lý của Đạo mà ai cũng biết, đó là mầu nhiệm “một Chúa Ba Ngôi”, ở đâu có Cha là có Con và Chúa Thánh Thần. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã dâng lên Cha một lời cầu thiết tha cho sự hiệp nhất của các tông đồ, của mọi tín hữu trong mọi thời và mọi nơi. Chúa nói:”Lạy Cha, xin cho tất cả nên một, như Cha ỡ trong Con, để cho họ được hòan tòan nên một như chúng ta là một”, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”. Đức Giêsu đã làm cho mọi tín hữu thành chỉ thể Ngài, mỗi người có khả năng riêng, đòan sủng riêng, nhưng tất cả là để xây dựng cho cộng đòan là Hội thánh (x. 1Cr 12,4-27). Là người Kitô hữu, chúng ta có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu đến tận cùng trái đất. Bài Tin mừng hôm nay cũng trao cho vợ chồng sứ mạng giữa trần gian là làm chứng cho sự hiệp nhất của Chúa và Hội thánh; một điều kiện để thế gian tin rằng “Cha đã sai Con”, để thế gian tin rằng “Cha đã yêu thương họ như đã yêu Con”. “Nên một” là một lý tưởng của đôi vợ chồng. Nhưng để có sự “hòa hợp nên một”, Hội thánh khuyên vợ chồng:”Yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời”. Tôn trọng sự khác biệt giữa mỗi phái, sự hòa hợp chỉ nên một tập hợp phong phú khi âm là âm và dương là dương. Đàn ông phát huy nam tính: chủ gia đình, cột trụ cho vợ con; là người vợ trở thành trái tim của gia đình, lửa mến ấm cúng của gia thất.
II. HÒAN CẢNH CỦA MỖI GIA ĐÌNH. Hòan cảnh gia đình càng ngày càng phức tạp và khó khăn do áp lực của cuộc sống. Một năm chỉ có bốn mùa xuân hạ thu đông, chia đều thành quí. Nhưng một đời hôn nhân lại có hơn bốn mùa. Còn có mùa “giông bão”, mùa “hạn hán”, mùa “gió chướng”. Đối với nhiều đôi, đông hạ thì quá dài mà xuân thu lại quá ngắn. Khi nói về người đàn bà trong gia đình, tôi thấy trong báo “Tuổi trẻ cười” có một câu hỏi xem ra cũng hay hay:”Phụ nữ là mùa gì” ? - Thưa giáo sư, người ta thường ví phụ nữ là “mùa xuân”, còn bản thân tôi với những đụng chạm thực tế, tôi thấy phụ nữ là “mùa nắng”, quan niệm của tôi có sai không ? Theo giáo sư, phụ nữ là gì nếu không phải là mùa xuân ? Giáo sư trả lời: - Nếu tôi nhớ không lầm thì chẳng có ai dại dột ví tòan bộ cuộc đời của phụ nữ là mùa xuân. Những nhà thơ lãng mạn, những nhạc sĩ trữ tình, những nhà văn ướt át thì cũng chỉ ngợi ca , ví von cái… quãng đời giữa của phụ nữ (khỏang từ mười mấy đến hăm mấy) là tuổi thanh xuân, thời xuân sắc, thuở xuân tình vv… Việc bạn cho phụ nữ là mùa nắng thì không có gì sai pháp luật, và còn làm cho tôi nhớ đến câu ngạn ngữ của Sudan:”Phụ nữ như là cái mền trong mùa hè, đắp thì nóng, mà mở ra thì… lạnh”. Riêng tôi, tôi ví phụ nữ cả … bốn mùa gộp lại, đến mức dù có một trạm khí tượng thủy văn với hàng tỉ thiết bị tiên tiến vẫn không thể nào… dự báo được (Tuổi trẻ cười, số 133, th 2/95, tr 8). Trong gia đình, vợ chồng luôn bị thử thách trước sự hiệp nhất, nguy cơ chia rẽ luôn rình chờ. Vợ chồng phải đề cao cảnh giác. Tuy không dùng lời nói để gây chiến tranh với nhau, nhưng những cử chỉ hằng ngày cũng có thể tạo ra một cuộc chiến phá vỡ sự hiệp nhất để đi đến sự chia lìa. Truyện: vợ chồng câm. Anh câm chị cũng câm, thế mà vẫn tìm hiểu nhau và đi đến hôn nhân như mọi người khác ! Không những thế, gia đình còn làm ăn khấm khá và dần dần sinh được 6 người con. Xóm giềng thấy thế ai cũng mừng cho gia đình câm và rỉ tai nhau:”Câm cũng khổ và cũng hay, khỏi có lời qua tiếng lại, cũng chẳng phải nghe tiếng nặng tiếng nhẹ, bớt được nhiều vụ va chạm xích mích”. Ai ngờ đâu, con người có thật lắm cách để bầy tỏ tình cảm của mình ! Vợ chồng câm mà vẫn cơm không lành, canh không ngọt. Cả hai cùng đưa nhau ra tòa ly dị. Thiên hạ hiếu kỳ lại được dịp đi xem. Tòa chấp thuận cho ly dị nhau và quyết định mỗi bên phải nuôi 3 đứa, cứ mỗi tháng hai bên gặp nhau một lần để cho con cái thăm bố mẹ và anh chị em thăm nhau. Thế nhưng vẫn không xuôi, lại cùng nhau ra tòa lần nữa, vì mấy lần gặp nhau cả hai vợ chồng vẫn có chuyện xích mích trong lúc con cái thì tíu tít vui vẻ. Tòa xử:”Từ đây 3 tháng mới gặp nhau một lần”. Được một thời gian, gia đình câm ấy lại… dắt nhau ra tòa ! Vì vợ chồng vẫn tiếp tục sinh sự. Tòa án phải đi đến một giải pháp sau hết:”Từ đây, con đi thăm mẹ và anh chị em thì bố đừng đi theo; mà con đi thăm bố và anh chị em thì mẹ phải ở nhà. Chừng ấy mới yên được”. (Trên đường lữ hành tr 207-208).
III. PHẢI HÀN GẮN LẠI NHỮNG ĐỔ VỠ. 1. Hàn gắn vật chất. Đồ vật được dùng lâu dễ bị hư hỏng: bị vỡ, bị thủng, bị rách. Đồ dùng bị hỏng là do thời gian qúa lâu, hoặc ta vô ý hay cố tình làm hỏng. Không có đồ dùng nào dễ bị hỏng mà dùng được mãi. Đồ dùng hỏng cũng có cấp độ: hoặc hỏng nặng, hoặc hỏng vừa, hoặc hỏng sơ sơ. Khi đồ dùng đã bị hư hỏng ai cũng muốn sửa chữa ngay bằng cách hàn gắn lại. Nếu bị hư hỏng nặng, đồ dùng bị bỏ đi; nếu hỏng vừa thì có thể sửa chữa được, nếu hỏng sơ sơ thì càng dễ sửa. Sửa chữa càng sớm càng tốt. Kết quả của sự hàn gắn sau khi đã sửa chữa thì có thể dùng lại được, nhưng không chắc chắn bằng lúc còn lành lặn và cũng không đẹp bằng lúc trước.
2. Hàn gắn tinh thần. Nếu đồ dùng bị hư hỏng mà người ta còn sửa chữa để dùng, huống hồ những vết thương lòng còn quan trọng gấp mấy sao lại không sửa ? a) Những va chạm trong đời sống vợ chồng. Trong đời sống vợ chồng, có rất nhiều mối bất hòa có thể đi đến chỗ xung đột, mất hạnh phúc. Những mối bất hòa ấy do nhiều nguyên nhân: kinh tế, xã hội, tâm lý. Nhưng nếu để ý kỹ đến trạng thái của sự bất hòa xung đột giữa vợ chồng, chúng ta sẽ thấy có hai lọai khác nhau: - Một là sự bất hòa bùng nổ. - Hai là sự bất hòa ngấm ngầm. Thường thì những cuộc bất hòa bùng nổ do các nguyên nhân tài chính tiền bạc hoặc những sai phạm rõ rệt của vợ hoặc chồng như cờ bạc, lăng nhăng. Bản chất của lọai này thường sôi động ầm ĩ, nhưng nếu giải quyết xong, hoặc qua cơn sóng gió thì trời lại yên, gia đình lại trở về mức bình thường. Lọai bất hòa thứ hai mang bản chất nhẹ nhàng hơn, sâu kín hơn, âm thầm hơn và có khi lại gây đau khổ trường kỳ cho vợ chồng mà một trong những nguyên nhân chính là nguyên nhân tâm lý, nghĩa là những khác biệt về tâm lý nam nữ. b) Phải hàn gắn vết thương lòng. Khi vợ chồng đã va chạm nhau nặng thường để lại những dấu ấn trong tâm hồn. Nếu va chạm nặng thì để lại một vết thương lòng, mà nếu không biết hàn gắn lại thì sẽ đi đến chỗ tan vỡ, sau này khó hàn gắn: Khi tình yêu một lần phản bội Hết mong được nở lại hoa yêu. (Xuân Diệu) Oâng La Rochefoucauld cũng nói như thế:”Khó mà yêu thương được lần thứ hai người mà mình đã hết yêu thương”. Tuy nhiên, không phải hòan tòan thất vọng, nếu cố gắng vẫn có thể cứu vãn được tình thế: Tuy rằng đá nát thì thôi Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng. (Ca dao)
IV. NHỮNG PHƯƠNG CÁCH HÀN GẮN. Có nhiều cách hàn gắn, mỗi trường hợp lại có những cách thế khác nhau, nhưng ở đây chúng tôi chỉ đưa ra ba phương cách mà ai cũng có thể áp dụng được. 1. Nhận lỗi và xin lỗi. Nhận lỗi là bước đầu để đi đến hòa giải. Thực ra ai cũng có lý và ai cũng muốn bênh vực lý của mình, nhưng phải nói rằng lý của chúng ta còn phiến diện, chỉ đúng một phần nào, trong khi đó lý của người khác cũng có tính cách thuyết phục. Lúc đó tốt hết thi cứ nói: Tại anh, tại ả, tại cả hai bên. Truyện: Phong tục người Dahomey. Người xứ Dahomey có phong tục đáng khen ngợi: khi hai vợ chồng giận nhau, mỗi người ngồi một góc nhà. Sau một lúc, người chồng đứng dậy nói với vợ: - Tôi là một đứa điên. Lúc sau, người vợ cũng đứng dậy nói với chồng: - Tôi là một đứa điên. Sau cùng, cả hai vợ chồng ra giữa nhà và nói: - Chúng ta là những người điên. Rồi hai người nhìn nhau thông cảm tặng cho nhau những nụ cười khả ái, duyên dáng tươi vui và bầu khí hòa bình đã trở lại.
2. Nhường nhịn nhau. Nhường nhịn là chìa khóa thành công trong đời sống chung, đặc biệt là trong đời sống gia đình. Người ta thường nói:”Một sự nhịn chín sự lành”, vợ chồng nhường nhịn nhau chẳng có gì là đáng xấu hỏ vì người ta thường nói:Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Trong cuộc sống vợ chồng, ai cũng có lý và ai cũng muốn bảo vệ cái lý của mình và bắt đối phương phải chấp nhận lý ấy, điều đó chỉ đưa đến xung đột không giải quyết được gì cả. Nhường nhịn là giải pháp tối ưu. Truyện: ai cũng có lý. Ở Đông phương, trong vô số truyền thuyết về Hotgia Nacretdin, có một câu chuyện như sau: Đi qua một làng nọ, nghe thấy tiếng cãi cọ của một cặp vợ chồng, người thông thái bèn gọi người chồng ra và nói nhỏ một câu vào tai ông ta. Ông này gật đầu đồng tình và thôi không cãi nhau với vợ nữa. Sau đó, Hotgia Nacretdin lại thầm thì với người vợ khiến bà này nở một nụ cười tươi rói. Nhà thông thái có câu “thần chú” gì mà tài tình vậy ? Thực ra thì ông chỉ nói mỗi câu đối với cả hai người:”Tôi biết ông (bà) có lý. Nhưng ông (bà) là người thông minh nên thừa biết rằng khó mà thuyết phục một kẻ ngu ngốc, vậy nên nhường nhịn ông (bà ) ấy. (Kiến thức gia đình, số 104, tr 55).
3. Yêu thương và tôn trọng nhau. Tôn trọng theo nguyên ngữ La tinh, bởi động từ Respicere, có nghĩa là “nhìn vào”. Như vậy, tôn trọng là nhìn một người với tất cả hiện trạng của họ và như một cá vị độc nhất. Nói cách khác, tôn trọng là nhận định người khác, cũng có thể tiến triển như chính mình. Tôi muốn người tôi yêu lớn lên, phát triển, không phải để làm lợi cho tôi, nhưng cho chính người tôi yêu. Tôi yêu nàng và cảm thấy là một với nàng, nhưng vì nàng là nàng, chứ không phải là điều tôi muốn nàng trở thành, để làm lợi cho tôi. Tình yêu, như thế, thật vô vị lợi. Đức Kitô cũng đã yêu ta bằng tình yêu đó, Ngài đã cứu ta, đã cho ta tất cả, nhưng chẳng lấy lại gì. Khi cứu chuộc, Ngài cũng không áp đặt, nhưng hòan tòan tôn trọng con người của chúng ta , tự do của ta. Truyện: Tìm ra khía cạnh tốt. Mới đây, một viên giám đốc của một hiệu buôn lớn có nói rằng: một trong những điều khó chịu thuộc nghề của ông là phải nghe lời than phiền liên lỉ của khách hàng. Lúc nào họ cũng thấy khuyết điểm trong việc tiếp khách, trong hàng hóa và thấy các cô bán hàng thiếu lễ độ. Một hôm, có một thiếu phụ muốn gặp ông ta. Ông ta tự nghĩ: lại phiền trách. Nhưng lần này ông ta lầm to. Người đàn bà nói với ông: - Tôi đến để thưa với ông là tôi rất thích đến mua hàng ở tiệm này. Tôi mới đến đây, và tôi nghĩ nếu tất cả đồng bào trong thành phố này đều tử tế lịch sự như các cô bán hàng của ông, thì tôi thấy sống ở đây rất dễ chịu (cf J. Keller, Just for today). Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết quên đi những lỗi lầm mà chỉ thấy cái hay, cái tích cực của người khác. Xin Chúa giúp chúng ta dùng nhiều thời giờ để phô bầy sự thiện ra , hơn là để phiền trách những sai lầm. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Bài Tin mừng chúng vừa nghe là phần mở đầu một bài giảng dài của Chúa Giêsu. Bài giảng này HP15
Bài Tin mừng chúng vừa nghe là phần mở đầu một bài giảng dài của Chúa Giêsu. Bài giảng này thường được gọi là “Bài giảng trên núi” hay “Hiến chương Nước Trời”, vì hôm ấy Chúa Giêsu ngồi trên đám cỏ xanh của núi đồi, giữa đám đông dân chúng. Ngài giảng dạy cho họ biết: muốn được hạnh phúc thật của Ngài thì phải làm gì ? Ngài nói rõ cho biết có 8 đức tính, hay 8 cách, hay 8 phương thế để được hưởng hạnh phúc, cho nên, chúng ta gọi là “Tám mối phúc thật”. Chúng ta có thể qui tất cả 8 đức tính ấy vào một đức tính căn bản là:”Tâm hồn khó nghèo”. Người có tâm hồn khó nghèo là người được xét cả về mặt tiêu cực lẫn tích cực. * Về mặt tiêu cực: là người không màng đến hay cậy dựa vào tiền bạc, của cải, danh lợi, lạc thú trần gian, ăn thua hơn thiệt ở đời này… * Về mặt tích cực: là người chỉ ao ước sống tốt theo thánh ý Thiên Chúa và được hưởng những ơn lành của Thiên Chúa (nói cách khác: được sống trong Nước Trời). Vì căn bản hạnh phúc là có tâm hồn nghèo khó, nên có thể nói: hạnh phúc đích thực của Kitô hữu là vứt bỏ hết những gì mình có, để được lấp đầy bằng chính Chúa. Vậy hạnh phúc là gì ? Xét cho cùng, hạnh phúc là được sống đúng bản chất của mình. Con chim ở trong lồng son không hạnh phúc, nó chỉ hạnh phúc khi được bay nhảy thỏai mái như chim. Con cá chỉ hạnh phúc khi được bơi lội như cá. Bản chất con người là được Thiên Chúa tạo dựng và được trở về với Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu dạy rằng hạnh phúc của con người là được ở trong Nước Thiên Chúa.
II. THẾ NÀO LÀ HẠNH PHÚC ? Thực ra, cho đến ngày nay chưa có câu định nghĩa nào thỏa đáng cho vấn đề hạnh phúc. Theo tự điển Đào duy Anh: hạnh phúc là vận may phúc tốt. Mọi sự được như ý. Theo triết gia Emmanuel Kant, hạnh phúc là sự thỏa mãn của tất cả mọi thị dục hay xu hướng. Alphonse Karr lại có định nghĩa rất thi vị: Hạnh phúc là một ngôi nhà lợp tranh, đầy rêu phủ và có giàn hoa bao bọc chung quanh. Nhưng phải đứng bên ngòai mà nhìn vào, đi vào bên trong sẽ không thấy gì nữa. Còn nhà đạo diễn Roger Vadim, chồng của Brigitte Bardot, lại định nghĩa một cách rất dí dỏm: Hạnh phúc là một vật không có. Tuy nhiên, một ngày kia nó cũng thôi không có nữa. Còn chúng ta coi hạnh phúc là trạng thái hòan tòan mãn nguyện trong tâm hồn. Sở dĩ chúng ta nói đến sự thỏa mãn trong tâm hồn vì hạnh phúc có hai lọai: * Hạnh phúc khả giác: là tất cả những gì ta có thể nếm thử, sờ mó, nhìn xem, rung động hay khóai cảm… Phần đông khi nói đến hạnh phúc đều hình dung và quan niệm nó dưới góc cạnh này. * Hạnh phúc tinh thần hay luân lý: những ai làm việc thiện hay có khả năng thắng vượt những khó khăn và chịu đựng hòan cảnh. Quả vậy, mỗi khi làm xong một việc thiện, thường tự nhiên ta cảm thấy vui vui. Đó là hạnh phúc của hiền nhân quân tử, có thể chấp nhận cái nghèo mà vẫn lấy làm vui… Hạnh phúc là một khát vọng tự nhiên và chính đáng của con người. Tuy nhiên, mỗi người quan niệm và đi tìm nó một khác: giữõa hạnh phúc khả giác và tinh thần, đối tượng và mức độ khác nhau. Đi xa hơn, hạnh phúc và tinh thần của Tám mối phúc thật lại còn khác nhau hơn nữa, trong cả nội dung lẫn hình thức. Hạnh phúc phần đông lòai người là theo đuổi hạnh phúc khả giác. Hạnh phúc này không phải hòan tòan xấu và bị cấm đóan, vì đó là những niềm vui tự nhiên thông thường của con người. Chính Chúa Cứu thế cũng đã chia sẻ thứ hạnh phúc này với người trần thế khi dự tiệc cưới tại Cana, và trả lại sự sống cho người góa phụ thành Naim. Nhưng cũng lại chính Ngài đã mở cho ta con đường đi vào hạnh phúc trường cửu, phổ quát. Đó là con đường Tám mối phúc thật, dành cho mọi người thành tâm thiện chí không một hạn định, với một điều kiện duy nhất là chấp nhận lời mời sống theo Hiến chương Nước Trời đã được ban hành sau bài giảng trên núi.
III. HẠNH PHÚC CỦA CHÚNG TA. Ngày nay vì tinh thần cá nhân ích kỷ, người ta quan niệm hạnh phúc một cách lệch lạc. Họ coi hạnh phúc chỉ là thỏa mãn các nhu cầu vật chất như tiền của, danh vọng, sắc dục. Chúng ta phải nhận rằng những thứ đó có thể góp phần vào trong việc tạo dựng hạnh phúc cho chúng ta, nhưng như thế chưa đủ. Nói cách khác, chỉ những cái đó có thể tạo cho con người được hạnh phúc tròn đầy chưa ? Theo giáo sư Robert trường đại học Jale, thì tiền bạc không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người. Trong một bài viết đăng trên báo, giáo sư Robert trích dẫn kết quả một cuộc nghiên cứu được thực hiện trên tòan quốc Hoa kỳ hồi năm 1993. Cuộc thí nghiệm này cho thấy rằng hạnh phúc gia tăng theo tỉ lệ nghịch với lợi nhuận, những người có lợi nhuận thấp nhận thấy hạnh phúc hơn là những người có lợi nhuận gia tăng. Tại các nước tiên tiến, người giầu càng cảm thấy ít hạnh phúc, dĩ nhiên tiền là phương tiện cần thiết để mang lại cho con người cuộc sống xứng với phẩm giá con nguời. Nhưng ngòai tiền của ra còn có những yếu tố khác quan trọng hơn để mang lại hạnh phúc cho con người. Theo giáo sư Robert, các mối qun hệ tốt của con người với người khác mới là chìa khóa mang lại hạnh phúc đích thực. Thật thế, con số bạn hữu của một người chỉ là chỉ số cho thấy sự hài lòng của con người hơn là của cải vật chất. Ngòai giờ bỏ ra để trau dồi tình bạn bè sẽ cảm thấy thỏa mãn với cuộc sống hơn là người chỉ biết suốt ngày lo làm giầu. Tình bạn là nhu cầu tự nhiên của con người và ngay cả với thú vật. Những con khỉ bị cách ly thà hy sinh thức ăn hơn là cái nhìn của một con khỉ khác. Chối bỏ nhu cầu về sự hiện diện của người khác, con người dễ rơi vào rối lọan tâm lý. Một cuộc nghiên cứu mới đây cũng cho thấy rằng, tại các nước tiên tiến con số những người bị khủng hỏang tinh thần ngày càng gia tăng, con số thanh niên tự tử trong các thập niên vừa qua gia tăng tại hầu hết các nước tiên tiến. Vì thế giáo sư Robert khẳng định: Tình bạn và các mối quan hệ hài hòa giữa con người với người khác là yếu tố quan trọng nhất mang lại hạnh phúc cho con người. Chắc chúng ta đồng ý với khẳng định của giáo sư Robert ! Tình bạn và các mối quan hệ với người khác là rất quan trọng. Không lạ gì người ta gọi vợ chồng là “bạn trăm năm” hay “bạn đường” hay có thể gọi một cách thân mật là “bạn nối khố” nữa. Vợ chồng có quan hệ tốt với nhau thì đời sống tâm lý trở nên quân bình và đem lại hạnh phúc cho nhau. Tình nghĩa vợ chồng không phải chỉ keo sơn như tình bạn giữa Lưu Bình và Dương Lễ mà còn phải gắn bó bền chặt với nhau đến nỗi không thể chia lìa được vì cả hai đã trở thành một xương một thịt rồi. Cầu chúc anh chị luôn thương yêu nhau, gắn bó với nhau và coi nhau như một tặng phẩm quí giá mà Chúa ban cho anh chị, để anh chị có thể có cái cảm nghiệm của thi sĩ Hàn mạc Tử: Người đi, một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ. Anh chị hãy luôn ở bên nhau, cố gắng bảo về bằng bất cứ giá nào tặng phẩm mà Chúa đã ban cho anh chị để cùng nhau tận hưởng hạnh phúc lứa đôi. Truyện vui: Cái gì quí nhất ? Ngày xưa, ở vương quốc nọ, có vị vua đánh chiếm được một thành phố. Trước khi tiến vào cai trị, nhà vua đưa ra một mệnh lệnh: Tha chết cho tất cả đàn bà trong thành, hẹn ngày mai, trước khi trời sáng, mỗi người có thể đem theo một vật gì quí giá nhất của mình để rời khỏi thành phố. Rạng sáng hôm sau, nhà vua nhìn thấy tất cả đàn bà trong thành đều vác trên vai một bao vải thật to, thật nặng, nặng đến nỗi họ không thể đi được mà chỉ lê từng bước mệt nhọc. Vị vua quí trọng phụ nữ này tò mò, sai lính ra tìm hiểu vật họ vác là gì. Thì ra đó là qúi… ông chồng của họ. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo Xứ Kim phát, Đà lạt
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Mt 11, 28-30 và 1Pr 3,8-9.
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta không cảm thấy vất vả, mang gánh nặng, chịu gian HP16
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta không cảm thấy vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, tù bản thân đến gia đình và xã hội ? Thường tình khi gặp gian nan thử thách buồn phiền, con người hay tìm giải sầu cách tự nhiên trong men rượu, cà phê, thuốc lá, hay tệ hơn nữa trong xì ke ma túy. Có một cách thanh tao hơn để con người giải sầu là tìm đến bạn hữu chân tình để tâm sự cho vơi đi những nỗi buồn phiền. Lời Chúa trong bài Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta được yên ủi vô cùng. Chúa giới thiệu cho chúng ta một phương thế siêu nhiên để vượt qua những thử thách buồn phiền, để được an bình vui tươi trong tâm hồn, đó là đến với Chúa:”Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”(Mt 11,28). Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “gánh” chỉ luật lệ và “mang lấy ách”nghĩa là học với ai. Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy học với Ngài và đón nhận luật của Ngài. - Đến với Chúa để học cách sống của Ngài. - Đến với Chúa để sống như Ngài giảng dạy. - Đến với Chúa để đón nhận tình thương của Chúa: vì Ngài là nguồn an ủi. Chúa Giêsu phán bảo ta:”Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Câu này có nghĩa là hãy học với Chúa. Đây là kiểu nói bóng các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (Hc 51,31; Is 55, 1). Chúng ta sẽ học nới úa Giêsu những gì ? Chúng ta sẽ học được nơi Ngài đức tính hiền lành và khiêm nhương. Nghĩa là Bất bạo động, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới giữa mọi người đặc biệt là những người bé mọn, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, kỳ thị và bị đàn áp. Đồng thời hãy giữ luật của Ngài vì luật của Ngài là luật yêu thương. Bởi thế, ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ gặp được bình an.
II. NGƯỜI ĐỜI VỚI SỰ HIỀN LÀNH. Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính dễ xử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi lại còn giận cá băm thớt. Hành động theo tính nóng nảy có phải là phản ứng của người quân tử không ? Người ta đã từng nói:”No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ông Nguyễn đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu sau đây: TẢO CẤP TẮC BẠI SỰ”: Nóng tính thì hỏng việc. Hơn nữa ông để sẵn một bình nước, mỗi khi gặp một điều trái ý, thấy trong mình lửa giận bốc lên, ông liền cầm uống từ từ, từng hớp nhỏ, cho đến khi lấy lại được hòa khí trong tâm hồn mới thôi. Ông Tô đông Pha nói:”Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt ắt là phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tình có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ có hòai bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”. Nhận xét những cái ở đời , ta thấy biết bao cái mềm thì còn tồn tại mà cái cứng rắn thì mất. Cái đòn gánh không bao giờ cứng mà mềm mới dễ gánh và không bị gẫy. Cái lò xo có sức chịu đựng được sự dồn ép mà không gẫy, khi hết sự# dồn ép thì lại giãn ra như thường. Văn Vương Trung nói:”Lửa bốc lên cao, nước chảy xuống thác, thế mà bao giờ lửa cũng thua nước”. Người ta sợ lửa hơn là sợ nước, thế mà chết cháy ít, chết đuối vẫn nhiều. Nước mát, lửa nóng, thế mà lửa vẫn sợ nước vì người ta đã lấy nước trị lửa trong các đám cháy. Trong Tám mối phúc thật, chúng ta đọc thấy:”Ai hiền lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy”. Đất nói đây là lòng người. Chiếm được lòng con người là cái khó và khó hơn hết, có thể chinh phục chiếm được đất đai, tiền của, địa vị, song chiếm được lòng con người ta, khiến họ yêu mến, kính phục, tận tình, là điều khó. Các cuộc cách mạng liên miên ở nhiều nơi, và những hận thù, cãi cọ, kiện tụng, kêu trách, là dấu chưa chinh phục và làm chủ được lòng người. Hòang đế Napoléon đã chiếm được nhiều đất đai, đã thắng những trận oanh liệt, nhưng một nhà viết sử nói:”Có lẽ trên đời, không có ai bị nhiều người ghét như Napoléon”. Không đánh đông dẹp bắc, không tuyên truyền rầm rộ, chẳng đổ của ra lấy lòng, không nịnh nọt a dua, người hiền lành chinh phục lòng người cách dễ dàng: ai cũng mến, thích lui tới, bè bạn. Ta chẳng thấy là gì ? Cha mẹ hiền lành con cái yêu mến, thầy hiền làm học sinh thích thụ nghiệp, mẹ chồng hiền lành con gái thích làm dâu, chủ hiền lành đầy tớ thích giúp việc, người hiền lành có lắm bạn bè. Sự hiền lành như mật ngọt thu hút lôi cuốn, như nam châm kéo mạnh. Chống tàn bạo, vũ khí, thông minh, thế lực, không ai chống kẻ hiền lành. Truyện: Phải sống dễ thương. Vua Friedrich Wilhelm cai trị nước Phổ vào khỏang đầu thế kỷ 18. Ông nổi tiếng là người nóng nảy khó tính. Ông không thích những nghi thức rườm rà. Ông chỉ thích đi dạo một mình giữa các đường phố Berlin. Thích sống đơn giản, nhưng ông lại rất nhạy cảm đối với bất cứ một sự xúc phạm vô tình nào của thần dân. Nếu chẳng may có người nào chạm đến ông giữa đám đông, ông sẽ không ngần ngại dùng gậy đập túi bụi vào người đó. Thành ra, khi thấy đức vua đang đi đến, mọi người đều tìm cách lẩn tránh. Lần kia, khi ông đang đi giữa phố Berlin, một người đàn ông đang đi tới, bỗng lẩn tránh đi nơi khác. Vừa ngạc nhiên,vừa bực tức vì dân chúng lẩn tránh mình, vua Friedrich mới chận người đàn ông lại và hỏi lý do tại sao ông ta lẩn tránh đi nơi khác. Người đàn ông luống cuống mãi, cuối cùng đành phải thú nhận rằng sở dĩ ông ta lẩn tránh nhà vua là vì sợ hãi. Nghe đến đó, vua Friedrich nổi tam bành, ông túm lấy vai ngừơi đàn ông đáng thương vừa lắc mạnh, vừa thét lên:”Tại sao ngươi dám sợ ta. Ta là vua của ngươi. Ngươi phải yêu mến ta. Ngươi phải yêu mến ta, người có biết điều đó không”? Chỉ có con người mới biết yêu bởi vì chỉ có con người mới có tự do. Không ai có thể cưỡng bách người khác phải yêu mình… Tạo dựng con người có tự do, Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do ấy. Ngài không cưỡng bách con người phải yêu mến Ngài, nhưng chỉ mời gọi và tỏ tình. Bằng công cuộc tạo dựng, bằng cuộc sống và cái chết của Con Một Ngài, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người. Ngài mời gọi con người… Tình yêu luôn đi bước trước. Bước trước ấy là một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một món quà, một nghĩa cử (Lẽ sống, tr 258). Trong đời sống gia đình, vợ chồng hãy theo gương Chúa Giêsu và sống dịu hiền khiêm nhường, nhất là người chồng. Tính tình người chồng bao giờ cũng nóng nảy, cần phải kìm hãm, thay vào đó cần phải ăn nói nhẹ nhàng chứ không dám nói là “dịu dàng”, chính những lời nói nhẹ nhàng đó sẽ thấm nhập vào lòng vợ và sẽ khiến vợ phải yêu mình, chứ không thể dùng bạo lực hoặc mánh khóe mà làm cho vợ yêu mình được. Khi chọn người chồng, bao giờ người vợ cũng nhằm tránh người chồng vũ phu mà muốn chọn cho mình một người chồng dịu hiền, biết thương vợ thương con, biết ăn nói dễ thương. Ước vọng này của các cô gái sắp lấy chồng đã được gói ghém trong câu ca dao được truyền tụng từ ngày xưa: Chẳng tham ruộng cà ao sâu, Tham vì anh tú rậm râu mà hiền. Mạnh Tử cũng khẳng định rằng: Trời cũng yêu thương và phù hộ, gia ân cho những người hiền lành: ”Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân” Đạo trời không riêng một ai, luôn gia ân cho kẻ hiền lành. Thánh Phanxicô Salêsiô là một con người nóng nảy như “Năm Lửa”, sau một thời gian dài luyện tập, đã trở nên một vị Giám mục hiền lành, chính sự hiền lành của Ngài đã lôi kéo được nhiều người lạc giáo trở về với Giáo hội, chính ngài đã nói lên cái kinh nghiệm của mình:”Tất cả đều được chinh phục bởi dịu hiền, chứ không phải bạo lực”. Người đời xưa nay vẫn ca tụng người hiền lành, ví người hiền lành như hoa chi hoa lan, tỏa hương thơm ra để mọi người chung quanh cũng được thơm lây: Người hiền khác thể chi lan Gần hơi cho lắm lại càng thơm lây. (Ca dao) Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
I. CHÚA GIÊSU GỌI BỐN TÔNG ĐỒ ĐẦU TIÊN. Chúng ta đọc: Mt 4,18-22; Mc 1,14-20.
Theo thói quen của các bậc thầy trong xã hội ngày xưa, trong đạo cũng như ngòai đời, mỗi ông HP17
Theo thói quen của các bậc thầy trong xã hội ngày xưa, trong đạo cũng như ngòai đời, mỗi ông thầy đều có đệ tử, có môn sinh để truyền bá tư tưởng và cách sống của mình. Đức Giêsu cũng theo thói quen ấy, khi đi rao giảng Tin mừng, Ngài cũng chọn cho mình một số đệ tử nồng cốt mà ta gọi là Tông đồ. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu cho chúng ta biết, khi thấy hai anh em ông Anrê và Phêrô đang thả lưới dưới biển, vì các ông làm nghề chài lưới, Đức Giêsu chỉ kêu gọi vắn tắt:”Hãy theo Ta”, tức thì hai ông bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Rồi đi xa hơn một chút nữa, Chúa lại thấy hai anh em ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đang vá lưới trên thuyền, Ngài cũng gọi hai ông và họ đã bỏ cha và các người làm công trên thuyền mà đi theo Ngài. Lời kêu gọi của Chúa mãnh liệt thật. Chỉ một lời gọi vắn tắt mà khiến các ông bỏ mọi sự mà đi theo. Bỏ mọi sự là một hy sinh lớn, thế mà các ông đã dám hy sinh đến thế. Các ông đã trở nên nhưng Tông đồ nhiệt thành được sai đi, cộng tác với Chúa để rao giảng Tin mừng.
II. CHÚA GIÊSU CŨNG KÊU GỌI CHÚNG TA. Ngày nay Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục mời gọi chúng ta làm Tông đồ cho Ngài bởi vì cánh đồng truyền giáo còn rộng bao la bát ngát. Làm tông đồ là mẫu số chung nghĩa là mọi người được kêu gọi làm tông đồ, còn phương cách thực hiện việc tông đồ thì mỗi người mỗi khác. Việâc tông đồ thật đa dạng. Chúa gọi nhiều người làm tông đồ trong đời sống Linh mục và tu trì, nhưng đây chỉ là con số nhỏ, còn tuyệt đại đa số là được kêu gọi sống đời hôn nhân ở ngòai đời. Cảnh sống của hai hạng người thì khác nhau vì ở hai môi trường khác biệt. Như vậy, sống đời hôn nhân cũng là một ơn gọi và ai cũng có trách nhiệm phải sống trong ơn gọi của mình. Hôm nay Chúa gọi “hai anh chị” làm tông đồ của Chúa trong đời sống hôn nhân. Chắc chắn anh chị không nghe thấy tiếng Chúa gọi vì Chúa không hiện ra kêu gọi anh chị như Ngài đã gọi các tông đồ xưa, nhưng Ngài đã kêu gọi anh chị bằng những phương tiện rất thông thường. Đó là “Tình yêu”. Chúa cho anh chị gặp nhau, yêu thương nhau và muốn cho hai con tim kết hợp với nhau thành một để thành một gia đình. Anh chị yêu nhau, đó là tiếng Chúa gọi đấy. Và tiếng gọi của tình yêu thì rất mạnh, không gì có thể cản nổi.
Truyện: Trương Chi và Mỵ Nương. Trong kho tàng văn chương bình dânViệt nam, có câu chuyện Trương Chi và Mỵ Nương mà nhiều người đã biết: Ngày xưa có một ông quan thừa tướng sinh được người con gái tên là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt trần. Nàng ở cấm cung trong ngôi lầu cạnh bờ sông. Bấy giờ có một chàng trai con nhà thuyền chài tên là Trương Chi, ngày ngày đến thả lưới kiếm ăn trên khúc sông đó. Chàng ta thường vừa buông lưới vừa hát. Tiếng hát rất hay, khiến cho Mỵ Nương ở trong lầu xao xuyến say mê. Một dạo, Trương Chi đi đánh cá ở một khúc sống khác. Không được nghe tiếng hát, Mỵ Nương sinh ra sầu não. Nàng bồn chồn trông đợi. Tiếng hát vẫn vắng lặng và nàng bắt đầu ốm. Thừa tướng vội cho mời các lương y đến xem mạch bốc thuốc. Thuốc uống đã nhiều mà bệnh Mỵ Nương vẫn không chuyển. Sau thừa tướng hỏi dò những người hậu hạ Mỵ Nương, mới biết là con mình ốm tương tư. Các lương y khuyên thừa tướng cho gọi anh lái đò đến… Và cậu chuyện vẫn còn dài dài…
Chúng ta thử hỏi tại sao Mỵ Nương lại ốm tương tư ? Tại sao nàng lại trở nên xanh xao vàng vọt và quên ăn quên ngủ? Thưa chỉ vì tiếng hát của Trương Chi. Tiếng hát kia chẳng còn là tiếng hát cho dẫu điêu luyện đến đâu, nhưng đã thành tiếng gọi với cô và cho cô. Tiếng gọi rơi vào tầng sâu tâm hồn, làm rung lên những âm thanh có khi cả đời chỉ một lần cảm nếm. Người ta bảo ấy là tiếng gọi của tình yêu. Câu chuyện tình thật đẹp nhưng cũng chỉ là minh họa cho một tiếng gọi mà bình thường người con trai và cô con gái nào cũng một lần rung động, Và giả như không có thì thật là uổng ! Tiếc chết đi được ! Hôm nay Chúa đã gọi hai anh chị. Anh chị không nghe thấy tiếng Chúa gọi bằng lỗ tai nhưng bằng con tim bởi vì tiếng gọi lại không có âm thanh, chỉ có thể cảm nghiệm được âm thanh đó bằng con tim khối óc. Khi anh chị thương yêu nhau, đó là lúc Chúa đang gọi hai anh chị đấy. Anh chị đáp lại tiếng Chúa mà kết hợp với nhau để tạo nên một gia đình Kitô hữu, làm cho xã hội thêm phát triển và làm cho Giáo hội được thêm phong phú.
III. HÃY SỐNG ƠN GỌI HÔN NHÂN. Chúng ta đã khẳng định rằng: ai cũng có ơn gọi và ai sống theo ơn gọi thì hạnh phúc. Chúng ta đã có một gia đình gương mẫu để làm mô hình cho đời sống chúng ta, đó là gia đình thánh gia thất, Đức Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse. Các ngài đã thực sự sống đời gia đình ở ngòai đời, tại làng Nazareth. Cuộc sống của các Ngài giống hệt cuộc sống của chúng ta, mỗi phần tử sống theo phận vụ và chức năng của mình để chuẩn bị cho Đức Giêsu thi hành sứ mạng cứu thế. Thật là một gia đình hạnh phúc. Anh chị em đang sống trong cuộc sống gia đình. Mỗi gia đình có những sắc thái đặc thù không ai giống ai, nhưng mỗi gia đình phải sống cái nếp sống gia đình Kitô hữu giống như gia đình Thánh gia. Mỗi người hãy sống trong vị trí của mình và làm trọn phận sự được trao phó như chương trình Đức Khổng Tử đã đề ra:”Quân, thần, phụ,# tử”. Vua phải sống cho ra vua, tôi phải sống cho ra tôi, cha phải sống cho xứng danh là cha và con phải sống xứng phận làm con. Nếu mỗi người biết chu tòan nhiệm vụ của mình một cách hòan hảo thì gia đình đó hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc không phải là cái gì tiền chế. Không phải kết hôn xong là đã có hạnh phúc ngay, Chúa không cho ngay đâu, Chúa chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho vợ chồng. Cha mẹ hoặc bất cứ ai cũng không thể ban tặng được, cũng không thể mua sắm được mà là cái mà mỗi người phải nỗ lực làm ra, nó là cái sản phẩm của con người. Người ta nói: “Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu” Trồng dưa được dưa, trồng đậu thì được đậu. Vì thế, Kinh thánh nói:”Ai gieo giống nào, sẽ gặt được giống ấy”(Mt 6,7). Alphonse Karr nói:”Hạnh phúc là một ngôi nhà lợp tranh, đầy rêu phủ, và có giàn hoa bao bọc chung quanh. Nhưng phải đứng bên ngòai mà nhìn vào. Đi vào bên trong sẽ không thấy gì nữa”. Sự thật thì phần lớn chúng ta – nếu không là tất cả – đang sống hạnh phúc, mà không ý thức điều đó thôi. Muốn có hạnh phúc thì đừng đứng núi này trông núi kia. Ông Lâm ngữ Đường , tác giả cuốn sách “Sống đẹp” có viết:”Một đặc tính của lòai người là mơ tưởng. Sống trong thế giới thực, họ mơ tưởng đến thế giới mộng. Ai cũng đứng núi này trông núi nọ. Thế giới này giống như một quán cơm. Ai muốn món nào thì gọi món ấy. Nhưng ai cũng nghĩ rằng món người bên cạnh gọi thì ngon hơn món mình gọi. Ai cũng thèm làm một người khác”. Napoléon thì thèm César César thì thèm làm Alexandre Alexandre thì thèm làm Hercule Nhưng Hercule thì lại chỉ có trong… thần thọai, trong ảo tưởng. Đúng là: Xưa nay thế thái nhân tình Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Sau thời gian đi rao gỉng Tin mừng, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về vùng Cêsarê-Philipphê HP18
Sau thời gian đi rao gỉng Tin mừng, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về vùng Cêsarê-Philipphê để nghỉ ngơi vì đây là nơi thuận tiện cho việc tĩnh dưỡng và thầy trò có thể hàn huyên thân mật. Nhân dịp này, Chúa Giêsu muốn biết dân chúng nhận thức về Ngài như thế nào, nên đã hỏi các ông:”Dân chúng bảo Thầy là ai” ? Các ông thưa ngay:”Người thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác lại cho là Eâlia, còn người khác thì cho là một trong các tiên tri thời xưa đã sống lại”. Ngài lại hỏi các ông:”Phần các con, các con bảo Thầy là ai” ? Phêrô thưa rằng:”Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu chấp nhận lời tuyên xưng ấy nhưng lại ngăn cấm các ông, không cho các ông nói với người khác về điều ấy. Tại sao Chúa Giêsu lại ngăn cấm ? Thưa vì danh hiệu “Đấng Kitô” hay Messia lúc đó còn rất hàm hồ đối với người đồng hương và ngay cả với các môn đệ của Ngài. Người ta sẽ hiểu lầm Chúa Giêsu là Đấng Messia đầy quyền năng và sức mạnh sẽ giải phóng dân tộc Israel khỏi ách đô hộ của người Rôma; và như vậy rất nguy hiểm và có thể phá vỡ công cuộc cứu chuộc của Ngài. Nhưng tiếp theo đó, Ngài tuyên bố thẳng thừng:”Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”. Lời tuyên bố này làm cho các ông phân vân, khó hiểu, nó đi ngược với quan niệm của mọi ngươi# xưa nay. Tại sao Ngài lại phải chết ? Nếu Ngài phải chết thì làm sao Ngài có thể trở nên Messia được ? Làm sao Ngài có thể giải phóng Israel được ? Trước những suy nghĩ của các ông, Chúa Giêsu lạ bồi thêm:”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”. Trước lời tuyên bố này, Chúa Giêsu muốn bảo cho những người muốn làm môn đệ của Ngài thì phải thực hiện hai điều kiện: từ bỏ mình và vác thập gia mình hằng ngày. II. VÁC THẬP GIÁ VỚI CHÚA. Chúa mời gọi chúng ta hãy theo Chúa, hãy làm môn đệ của Ngài. Thực thế, qua bí tích rửa tội, chúng ta đã thề hứa tin theo Chúa, mà theo Chúa là làm môn đệ của Ngài. Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi cho tín hữu Galát nói rằng:”Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27). Mặc lấy Đức Kitô, hay mặc lấy chiếc áo trắng rửa tội là mang lấy Thánh giá giống như Ngài. Đau khổ của thập giá tự bản chất là hình phạt bởi tội (St 3,16-19). Nhưng qua Đức Kitô, đau khổ đã trở nên giá cứu chuộc nhân loại, thập giá trở thành Thánh giá. Do đó, trong bí tích rửa tội, linh mục làm dấu Thánh giá trên trán người được rửa tội. Đây là một sự thực hành mà Giáo hội mượn từ quân đội Rôma. Khi một người đã trở nên một người lính Rôma, anh bị đóng ấn bởi dấu hiệu của hoàng đế trên trán để chứng tỏ bây giờ anh phải phục tùng hoàng đế. Dấu hiệu Thánh giá là dấu hiệu bề ngoài của một người thuộc về Đức Kitô, mang lấy Thánh giá như Chúa Kitô. Thánh giá với tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh là một hình ảnh giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa của sự đau khổ. Chúng ta giữ thân xác khổ đau của Chúa Giêsu trên thập giá để nhắc nhở chúng ta đừng quên rằng nhờ sự đau khổ của Chúa Giêsu mà chúng ta được ơn cứu rỗi và cùng chia sẻ sự sống lại với Ngài. Nói đến thập giá ta nghĩ đến ngay hình ảnh cây Thập giá Chúa Giêsu vác lên đỉnh đồi Calve trong ngày thứù Sáu Tuần thánh và cũng chính cây Thập giá đó Chúa đã chịu treo lên. Quả thật Thập giá là “một ô nhục đối với người Do thái và ; là điều điên rồ đối với dân ngoại giáo”(1Cr 1,23). Thế mà Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vác lấy cái ô nhục đó ! Thế nhưng, đối với Thiên Chúa đó là dấu chỉ của sự chiến thắng tình yêu Thiên Chúa, là ngọn cờ chiến thắng khải hoàn trên sự chết. Vâng, đó chính là dấu chỉ của giới luật tình yêu mà Đức Kitô đã loan báo: Tình yêu con người dành cho Thiên Chúa và dành cho nhau. Chính tình yêu này đúc kết nên Thập giá mà những ai muốn làm môn đệ Chúa phải vác lấy.
III. VÁC THẬP GIÁ TRONG GIA ĐÌNH. Thập giá ở rải rác khắp nơi, nơi bản thân từng người cũng như nơi cộng đồng, cách riêng nơi cộng đồng gia đình. Chúng tôi muốn nói đến cộng đồng tình yêu hay là mái ấm gia đình. Trên nguyên tắc, trong mái ấm gia đình người ta có thể tìm được sự thoải mái, niềm vui và hạnh phúc, nhưng trong thực tế, mấy ai tìm được những mái ấm gia đình như thế ? Nhiều người đã coi mái âm gia đình như những ngôi nhà hoang lạnh, hay như chốn ngục tù vĩ đại, trong đó giam hãm vợ chồng con cái. Người ta không thể tìm được những người hoàn toàn hợp với mình bởi vì bá nhân bá tính, sống mỗi người một nết, chết một người một tật. Do đó, trong đời sống chung, mỗi người sẽ trở nên thập giá của nhau. Và mỗi người phải vác thập giá của người khác. Truyện: Hôn thánh giá. Đây là một câu chuyện vui: người ta kể một cha giải tội, sau khi nghe hối nhân thú tội, ngài khuyên lơn rất nhiều về đời sống gia đình, phải chấp nhận những nết xấu của nhau… Mỗi người là thánh giá của nhau. Sau cùng, ngài ra việc đền tội cho hối nhân:”Về nhà con hôn Thánh giá hai lần”. Sau khi ra khỏi tòa giải tội, hối nhân trở về nhà. Bỗng dưng ông ôm chầm lấy vợ và trao cho vợ hai cái hôn thắm thiết. Bà vợ ngạc nhiên, thấy chồng có cái gì khang khác, mới hỏi lý do. Ông ôn tồn nói rõ nguyên nhân sự việc. Thật lạ lùng. Sau khi nghe chồng kể xong, lẽ ra bà vợ phải trách móc, đay nghiến ông chồng như thường khi, vì ông dám coi bà là “thánh giá”, là gánh nặng, thậm chí là của nợ của đời ông. Ngược lại, bà ôm lấy chồng và trao hai nụ hôn cháy bỏng đáp trả, khiến ông chồng cũng ngạc nhiên không kém. Người ta yêu nhau, người ta xây dựng tổ ấm gia đình, nhưng dưới mái ấm ấy những người “yêu nhau” không thể tránh được những va chạm, những mối bất hòa bùng nổ hay ngấm ngầm khi phải chung đụng với nhau lâu dài trong đời sống vợ chồng. Ai mà không biết có những ông, những bà suốt ngày cứ cằn nhằn nhau, chê trách nhau, kể cả chửi bới “người mình yêu” từ nhà vọng ra vườn, từ sân vọng vào trong nhà. Người ta tìm ra được những câu chửi nhau thậm tệ, bởi móc cả từ ông bà tổ tiên ra để mà chửi cho đã cái lỗ miệng, như tôi đã nghe được ông chồng chửi vợ thật độc đáo:”Tiên sư cha con đĩ mẹ mày”! Người ta coi nhau như Thánh giá, thánh giá này quá sức nặng, quá sức chịu đựng, làm cho nhiều người sống ngày nào là phải kéo lê đời mình ngày ấy. “Thánh giá” do “người yêu mình” tạo ra, làm cho cả hai (chứ không phải người “vác thánh gia” mà thôi) phải sống trong chán chường, đắng cay, chua chát. Gia đình do những người “yêu nhau” như thế quản lý, không còn là gia đình đúng nghĩa. Thay vì tổ ấm, gia đình trở thành nhà tù trói buộc, tra tấn nhau. Ngày nay người ta ly dị rất nhiều. Người ta ly dị như vậy có lẽ vì người ta không dám chấp nhận vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Nhiều người giữa đường đứt gánh vì họ sợ chịu khó, sợ thập giá. Càng sợ thập giá thì thập giá càng đè lên vai họ, họ không thể tránh được thập giá vì Chúa Giêsu đã nói:”Sự khó ngày nào đủ cho ngày đó”. Trong gia đình, Chúa muốn cho vợ chồng cùng chung vai sát cánh mà vác thập giá trong sự tin tưởng và phấn khỏi bởi vì phải “per crucem ad lucem”, ai mà không biết. Chúa Giêsu cũng chỉ chiếm được vinh quang khi đã chết và sống lại. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng trong việc vác thập giá ấy không phải chỉ có hai vợ chồng vác mà còn thêm người thứ ba nữa, đó là Chúa Giêsu, Ngài không đi đàng trước mà chỉ đi phía sau mà hỗ trợ, Chúa cùng vác với vợ chồng, vợ chồng càng yếu, Chúa càng phải tiếp sức nhiều hơn. Trong một bức ảnh, tôi thấy người ta vẽ hình hai vợ chồng đang gắng sức vác cây thập giá lên dốc, nhưng Chúa Giêsu đang đi đàng sau cùng vác đỡ để khuyến khích vợ chồng. Như vậy, cây thập giá của gia đình luôn phù hợp với sức chịu đựng của hai người. Không bao giờ Chúa trao cho cây thập giá nặng quá đâu. Hãy vui vẻ mà vác. Đừng bao giờ phàn nàn vì cây thập giá của mình nặng quá, muốn cho cây thập giá nhẹ hơn. Truyện: Cưa bớt cây thập giá. Một đoàn người vác thập giá của mình, bước đi cực nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè nặng trên vai. Có một người vác một cây thập giá khá dài, không chịu được, ông cưa bớt đi một khúc. Sau cuộc hành trình gian truân, đoàn người đến trước một vực thẳm: tại đây không có một cây cầu nào để sang bên kia, là nơi được sống cạnh Chúa, và hưởng niềm vui muôn đời. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đặt cây thập giá của mình bắc qua vực thẳm, lạ lùng thay chúng vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với sự tuyệt vọng. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt.
Hôm nay những người biệt phái muốn gài một cái bẫy về hôn nhân và hy vọng rằng Chúa Giêsu sẽ HP19
Hôm nay những người biệt phái muốn gài một cái bẫy về hôn nhân và hy vọng rằng Chúa Giêsu sẽ phải một phen bể mặt. Họ đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không”(Mt 19,3) ? Tại sao người biệt phái lại hỏi Chúa Giêsu như vậy ? Để trả lời, chúng ta phải chú ý tới hai điểm: - Luật phép Do thái thời đó chỉ nhận sáng kiến ly dị của người chồng mà thôi. - Có hai lập trường chống đối nhau về vấn đề ly dị. Theo luật Maisen thì được phép ly dị (Đnl 24,1-4). Nhưng không xác định lý do ly dị, vì thế có sự bất đồng giữa những người theo phái phóng khóang và phái nghiêm khắc. Lập trường của phái Hillel thì rất rộng, cho phép ly dị một cách dễ dàng, như khi người vợ nấu một món ăn không ngon, cũng đủ lý do để ly dị. Còn phái Shammai thì nghiêm khắc, khắt khe hơn, chỉ chấp nhận ly dị trong ít trường hợp như khi người vợ ngọai tình. Biệt phái biết vấn đề này gay go đem ra gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng Ngài chỉ trả lời bằng cách trưng hai đọan trong sách Sáng thế (St 1, 27 và 2,24). Đó chính là những lời thiết lập định chế đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế, dứt khóat là không được ly dị:”Sự# gì Thiên Chúa đã phối hợp, lòai người không được phân ly”. Biệt phái còn dựa vào một câu trích trong sách Đệ nhị luật (Đnl 24,1) để nói rằng ông Maisen đã cho phép ly dị vợ với điều kiện phải viết chứng thư đưa cho người vợ bị ly dị. Nhưng Chúa Giêsu cho biết: bản chất của nó không phải là thiết lập nhưng chỉ là lời cho phép chuẩn miễn trong hòan cảnh dân còn lòng chai dạ đá, nghĩa là chưa nhận rõ ý Chúa. Vì thế Ngài nói:”Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Maisen mới cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có như thế đâu” (Mt 19,8). Điều này cho thấy rằng con người vì ích kỷ, nghĩa là đặt sự thỏa mãn của lòng mình trên hết, trên cả ý muốn của Thiên Chúa nữa, nên họ đã bất trung với Chúa. Và vì vậy, họ bất trung với nhau trong đời sống hôn nhân.
II. TỪ NGỮ LÀ VÀ TRỞ NÊN. Tôi học tiếng Anh từ lâu, lúc ở trung học và đại học. Mấy chục năm nay không dùng đến nên đã quên rất nhiều. Hôm nọ thầy Nguyễn mạnh Sơn dạy tiếng Anh cho một số em trong giáo xứ, tôi thấy các em học động từ TO BE. Hôm qua, tôi tình cờ đọc thấy trên một tấm ảnh cưới có câu này bằng tiếng Anh, trích trong Phúc âm theo thánh Matthêu:”For this cause a man shall leave his father and mother, anh cleave to his wife, and the two shall become one flesh” (Mt 19,5) ; Vì vậy người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và luyến ái vợ mình, và cả hai trở nên một thân xác. Trong câu này tôi thấy Chúa Giêsu không dùng động từ TO BE (là), mà# lại dùng TO BECOME (trở nên). Đúng thế, quen quá rồi. Nghe không biết bao nhiêu lần, nhưng vì quá quen, ta không hiểu được đúng nội dung Lời Chúa. Ta cứ nghĩ NÊN MỘT có nghĩa là khi kết hôn, lập tức hai vợ chồng LÀ một, THÀNH một. Nhưng không phải thế. Không phải LÀ (to be), mà là TRỞ NÊN (become) một. Và động từ TRỞ NÊN đã cung cấp một cách nhìn rất khác về hôn nhân. Động từ “TRỞ NÊN” diễn tả một quá trình, một hoạt động chứ không phải ở tình trạng tĩnh. Như thế, không phải cứ nói lời giao ước kết hôn xong, và sau đêm tân hôn, hai người đã nên một hoàn toàn. Nhưng ngày kết hôn mới là khởi điểm cho một cuộc hành trình, để mỗi ngày đôi vợ chồng nên một với nhau nhiều hơn: nên một trong tâm tư tình cảm, nên một trong ý hướng đời sống, nên một trong trách nhiệm gia đình, nên một trong cảm thức đức tin… Một cuộc hành trình dài. Thật dài. Suốt cả cuộc đời.
III. HÔN NHÂN MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH. Ta có thể gọi hôn nhân là một cuộc hành trình của cuộc sống lứa đôi. Khi nói tới hành trình thì người ta nghĩ ngay đến việc di chuyển từ điểm này sang điểm khác, từ nơi này sang nơi khác để đi tới đích. Bao lâu người ta còn trên đường hành trình thì người ta chưa tới đích. Vậy nếu hôn nhân là một cuộc hành trình thì người ta còn phải đi mãi, bởi vì hôn nhân chưa hoàn toàn và hôn nhân chỉ là khởi điểm của cuộc hành trình, một cuộc hành trình dài dài. 1. Hôn nhân chưa vẹn toàn. Hôn nhân là một cuộc kết hợp khăng khít giữa người nam và người nữ. Hôn nhân là cuộc đời “hai trong một”. Nhưng ai dám nói là vợ chồng đã có một cuộc kết hợp nên một hoàn toàn như sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh ? Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 trong tông huấn về những bổn phận của gia đình Kitô hữu đã nhấn mạnh như sau:”Nhờ tính cách bí tích của hôn nhân, đôi bạn được liên kết với nhau một cách chặt chẽ không thể tháo gỡ được. Khi người này thuộc về người kia, họ thực sự biểu lộ tương quan giữa Đức Kitô với Hội thánh của Ngài, qua dấu chỉ bí tích (Familiaris Consortio, số 13). Bên cạnh đó, HĐGMVN qua thư mục vụ năm 2002 về Thánh hóa gia đình cũng đã chỉ rõ:”Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu nhau và nên một với nhau mà vẫn hoàn toàn tôn trọng sự khác biệt giữa các ngôi vi”(TMV 2002,6). Chưa ai có cuộc hôn nhân toàn vẹn mà còn phải kiện toàn, mỗi ngày phải làm cho vững chắc và phong phú hơn. Có người mừng lễ bạc, lễ vàng hôn nhân mà vẫn chưa sống đời hôn nhân cho đầy đủ. Họ còn phải nỗ lực hoàn hảo hóa hôn nhân vì hôn nhân luôn ở thể động, ở thế chuyển dịch, chứ không ở thể tĩnh.
2. Hôn nhân là khởi điểm. Ý thức rằng hôn nhân mới là khởi đầu cho một chuyến đi xa, ta sẽ không ngỡ ngàng và thất vọng khi khám phá mình và người bạn đời tuy đã nên một nhưng vẫn cứ là hai trong quan điểm, trong cách sống, trong công việc… Không ngỡ ngàng và thất vọng, nhưng bình tĩnh và kiên tâm tháo gỡ những khó khăn dị biệt. Người ta thường nói:”Vợ chồng như đũa có đôi” để minh họa cho sự hiệp nhất, gắn bó, nương tựa giữa hai người bạn đời trong đời sống hôn nhân gia đình.. Và chúng ta cũng biết đến một câu thơ khá phổ biến, như một điệp khúc dễ thương:”Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”. Trước đây, vợ chồng thường hay xưng hô với nhau:”Mình ơi mình!...”, còn ngày nay, các bạn trẻ có một cách nói khác xem ra thi vị hơn, gợi cảm hơn, ví von hơn, để gọi người bạn đời của mình:”Một nửa của tôi ơi!” Quả vậy, đời sống hôn nhân mà các bạn trẻ đang bước vào được đánh dấu như một biến cố vĩ đại và một sự thay đổi quan trọng vào bậc nhất trong đời sống của hai người. Bởi vì, nhờ ơn huệ và hiệu lực kỳ diệu của bí tích hôn phối được cử hành hôm nay, hai bạn sẽ “không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt”(x. Mt 19,6), và “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Điều đó có nghĩa là bắt đầu từ nay, hai người sẽ hiệp nhất trong tình yêu, trong cuộc sống nhờ giao ước hôn nhân Kitô giáo (Trần cao Khải).
3. Hôn nhân là một cuộc hành trình dài. Ý thức rằng hôn nhân là một cuộc hành trình dài sẽ thúc đẩy người ta ĐI TỚI và ĐI MÃI. Ngỡ tưởng rằng cứ lấy nhau là hoàn toàn nên một để tạo cho người ta tâm lý dừng chân hưởng thụ. Đang khi đó, nói như cha RUY MERMET:”Hôn nhân không phải là món tiền bỏ vào ngân hàng và mỗi tháng cứ đến lãnh tiền lời, nhưng hôn nhân là kiến trúc cần xây dựng mỗi ngày”. Cố vấn hôn nhân Allan Peterson nói:”Sự thật LÀ HÔN NHÂN LÚC ĐẦU LÀ MỘT CÁI HỘP RỖNG. Bạn phải bỏ vào một cái gì đó trước khi bạn có thể lấy ra một cái gì khác… Đôi hôn nhân phải học gnhệ thuật yêu và hình thành thói quen trao tặng cho nhau, phục vụ nhau, ngợi khen nhau để giữ cho cái hộp được đầy. Nếu bạn lấy ra nhiều hơn bạn bỏ vào, cái hộp sẽ rỗng không. Không thể có người bỏ vào còn người kia thì lại vun quén. Hôn nhân là công việc mà cả hai người cùng thực hiện. Phải có hai người mới nhảy được điệu tăng-gô”. Truyện: cùng chết cả gia đình. Người ta kể rằng: trong một trận lụt, cả gia đình cùng tìm lối thoát chết. Họ cột chặt vào nhau, để khi sống, sống với nhau, để khi tìm đường sống trong dòng nước khỏi lìa nhau, và có chết thì cũng cùng chết với nhau. Đau đớn thay, người ta đã vớt được xác cả gia đình gồm 8 người. Có kẻ cho rằng 8 người ấy cột chặt vào nhau để khỏi trôi ai khi chạy lụt. Có kẻ lại cho rằng, họ cột vào nhau như thế để người ta dễ vớt xác họ hơn. Có người cho rằng họ muốn cùng sống cùng chết với nhau… Tuy vì gì đi nữa, gương sống và gương chết của họ là biểu chứng hùng hồn của tình yêu gia đình, của quan niệm gia đình trong lòng dân Việt, nét tinh hoa văn hóa của dân tộc chúng ta. KẾT LUẬN. Khi chấp nhận sống ơn gọi hôn nhân theo thánh ý Thiên Chúa, các bạn trẻ sẽ phải phấn đấu không ngừng và nỗ lực bền bỉ trong việc hoàn thiện sự hiệp thông tình yêu, nhờ đó hai người hiệp nhất nên một và trở# nên dấu chỉ sống động về tình yêu hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây được coi là ơn gọi căn bản, nền tảng đối với những ai muốn sống và trung thành với giao ước hôn nhân Kitô hữu của mình. Trong hôn nhân Kitô giáo, sự kiện “hai người nên một” đã diễn tả ý nghĩa sâu xa của thực tại hiệp thông tình yêu giữa Ba Ngôi Vị Thiên Chúa, như Tông huấn vễ những bổn phận của gia đình Kitô hữu đã khẳng định:”Thiên Chúa là Tình yêu và nơi chính mình Người, Người đang sống mầu nhiệm hiệp thông giữa các Ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Người, và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chua ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người” (Familiaris consortio, số 11). Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Mt 19,3-9 ; Mc 10,1-12.
Người biệt phái luôn luôn chống đối Chúa Giêsu, họ tìm mọi dịp gài bẫy Ngài để cho Ngài phải HP20
Người biệt phái luôn luôn chống đối Chúa Giêsu, họ tìm mọi dịp gài bẫy Ngài để cho Ngài phải mất mặt với dân chúng. Vì thế, hôm nay những người biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề ly dị, vì đây là vấn đề gay go khó giải quyết:”Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không” (Mt 19,3) ? Họ hỏi như vậy vì theo luật ông Maisen thì người ta được phép ly dị (Đnl 24,1-4). Chúng ta nên biết rằng thời đó ở Do thái có hai lập trường. Lập trường của trường phái Hillel thì rộng rãi, cho phép ly dị một cách dễ dàng ví dụ như khi người vợ nấu món ăn không ngon, cũng có đủ lý do để ly dị. Còn lập trường của trường phái Shammai thì khắt khe hơn, chỉ chấp nhận ly dị trong ít trường hợp như khi người vợ ngoại tình. Cái bẫy này tạo ra sự gay go cho Chúa Giêsu. Do đó, Ngài trả lời thế nào cũng có thể bị kết án: hoặc quá rộng hoặc quá hẹp. Để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích hai đoạn trong sách Sáng thế (St 1,27 và 2,24). Đó là những lời thiết lập định chế đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế, dứt khoát là không được ly dị. Bởi vì:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Những người biệt phái chưa chịu thua. Họ trích một câu trong sách Đệ nhị luật (Đnl 24,1), nội dung là cho phép ly dị với điều khiện phải viết chứng thư đưa cho người bị ly dị. Đức Giêsu đã trả lời cho họ biết: sở dĩ có tình trạng đó là vì ly dị là một thể chế loài người tạo ra “vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Maisen cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có như thế đâu”. Điều này cho thấy rằng con người vì ích kỷ, nghĩa là đặt sự thỏa mãn của lòng mình trên hết, trên tất cả ý muốn của Thiên Chúa, và vì vậy, họ bất trung với nhau trong đời sống hôn nhân. Nhìn vào những tai hại do hậu quả của việc ly dị trong hôn nhân, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã khôn ngoan đặt luật đơn hôn và vĩnh hôn cho hôn nhân, để bảo vệ hạnh phúc cho hôn nhân và gia đình, đồng thời đem lại trật tự cho xã hội loài người.
II. TÌNH HÌNH HÔN NHÂN HIỆN NAY. Ai cũng phải công nhận gia đình ngày nay đang sa sút trầm trọng, hôn nhân bị tan vỡ, xã hội bị lung lay. Ai cũng biết gia đình là nền tảng của xã hội mà nếu nền tảng không vững thì ngôi nhà xã hội đứng vững thế nào được. Lý do của sự sa sút ấy là do người ta khinh thường hôn nhân, hoặc đầu độc hôn nhân bằng những tư tưởng phóng khoáng, bằng những phim ảnh đồi trụy khiến người ta coi hôn nhân như chiếc áo, muốn thay đổi lúc nào tùy ý theo nguyên tắc: hay thì ở, dở thì đi. Nhận thấy mối nguy hiểm đó, Liên hiệp quốc đã chọn năm 1994 làm năm quốc tế về gia đình. Giáo hội cùng đồng hành với Liện hiệp quốc trong vấn đề này. Hôn nhân tại Việt nam chúng ta xưa nay được trân trọng, nhưng ngày nay, theo nếp sống Tây phương, hôn nhân đang đà tuột giốc. Tệ nạn ly dị lan tràn, càng ngày càng tệ hại hơn.
III. HÔN NHÂN VỚI NGƯỜI VIỆT NAM. Đa số người Việt nam vẫn còn nhìn hôn nhân bằng cái nhìn mang nhiều tính chất thần thiêng và thánh thiêng. Khi bàn về hôn nhân, phần đông người Việt nam cho rằng hôn nhân của họ là do trời cao đã xếp đặt, thúc đẩy, và tạo cơ hội để họ nối kết với nhau. Theo quan niệm của nhân gian, ông Tơ bà Nguyệt là hai vị thần lo việc cưới hỏi. Vị thần lấy dây xích thằng buộc vào ai thì người ấy chịu, không thể cưỡng lại được. Do đó, ông Tơ bà Nguyệt là những hình ảnh thực tế hóa của suy luận tâm linh về ý nghĩa tiền định trong hôn nhân đối với người Việt nam. Từ quan niệm Trời xếp đặt, người Việt nam mới dùng từ như định mệnh, thiên duyên, duyên phận hay duyên kiếp.
IV. ĐẠO VỢ CHỒNG. Bên ngoài những thủ tục, hình thức nặng nề, phiền toái của người Việt nam mà họ cho là đạo đức, hôn nhân của người Việt nam có rất nhiều điểm tương đồng với quan niệm hôn nhân của những dân tộc chịu ảnh hưởng Kitô giáo. Khi đề cập tới hôn nhân theo nhãn quan tôn giáo, phần đông người Việt nam tuy không dùng từ ngữ “bí tích” hoặc “ơn gọi” để nói về cuộc sống này, nhưng vẫn coi hôn nhân như một sự ràng buộc tinh thần. Ngoài ra, những hành động của đời sống hôn nhân được coi như một đạo lý sống, gọi là ĐẠO VỢ CHỒNG, ĐẠO PHU THÊ, giống như đạo TRUNG với vua, HIẾU với cha mẹ. Đạo là đường, đường thì dẫn tới đích. Vậy đạo vợ chồng là đường đưa con người đến đích, mà đích điểm của hôn nhân là HẠNH PHÚC. Đúng như văn hào Honoré de Balzac nói:”Hôn nhân là đường đưa ta tới thiên đàng hay địa ngục”. Ta có thể tìm thấy tính cách thánh thiêng hay tính chất tôn giáo trong bất cứ đám cưới nào tại Việt nam. Trong ngày thành hôn, cô dâu chú rể đến nhà thờ, đến chùa, thánh thất hay bàn tờ tổ tiên tại tư gia để nhờ cả người chết về chứng giám cho lời hôn thê của đôi bạn trẻ và được các ngài chúc phúc cho (ta gọi là lễ Gia tiên). Oâng bà tổ tiên luôn nhắc nhở chúng ta hãy giữ trọn đạo vợ chồng, không được chồng chung vợ chạ, không được lìa bỏ nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Hãy theo lời khuyên của người xưa:”Tào khang chi thê bất khả hạ đường”. Đạo lý hôn nhân của người Việt nam nếu được phân tích một cách kỹ lưỡng và khách quan, nó cũng diễàn đạt cùng một tư tưởng mà Kitô giáo đã quan niệm về hôn nhân: Đạo vợ chồng không phải cá tôm, Đang mua mớ nọ lại chồm mớ kia. Theo Kitô giáo, cuộc sống hôn nhân bắt nguồn từ Thượng Đế. Thánh Kinh Kitô giáo kể rằng: trong buổi đầu tạo dựng, Thượng Đế đã tạo dựng con người bằng bùn đất, thổi sinh khí vào và làm cho sinh động. Sau đó, Ngài cho Adong ngủ say, lấy một xương sườn của ông làm nên Evà, rồi dẫn đến trước mặt Adong, khiến ông sửng sốt thốt lên:”Đây là xương của xương tôi, thịt của thịt tôi”(St 2,23). Thượng Đế đã chúc phúc cho sự kết hợp giữa hai người khi nói với họ:”Hãy sinh sản ra nhiều trên mặt đất và hãy thống trị trái đất”(St 1,28). Có lẽ do lời chúc phúc này mà người Việt nam cho việc đông con, nhiều cháu là hoa trái tốt của hôn nhân. Vì vậy, ngày xưa, trong ngày đầu năm người ta thường chúc nhau: đa tử, đa tôn, đa phú quí. Bức tranh sáng tạo, và đôi vợ chồng đầu tiên của lịch sử nhân loại đó, sau này đã được Đức Kitô vẽ lại khi trả lời những tranh biện của người Do thái đương thời về luật ly dị. Lợi dụng dịp này, Ngài đã tái xác định giá trị tinh thần của hôn nhân, và nói với họ rằng từ đầu Thượng Đế đã không có ý định cho phép con người ly dị. Rồi Ngài khẳng định:”Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”(Mt 19,6). Điều Đức Kitô trả lời cho người Do thái, cũng chính là tư tưởng về đạo sống vợ chồng của người Việt nam, đó là “nhất phu nhất phụ” – một vợ một chồng. (x. Trần mỹ Duyệt, Bí quyết hạnh phúc của hôn nhân, tr 26-29)
Truyện: Thủy chung với vợ. Vua Cảnh Công có cô con gái yêu, muốn gả cho Aùn Tử. Một hôm vừa đến ăn tiệc nhà Aùn Tử, thấy vợ Aùn Tử, hỏi: - Phu nhân đấy phải không ? Aùn Tử thưa: - Vâng phải đấy. Vua nói: - Ôi ! Người trông sao vừa già, vừa xấu ! Quả nhân có đứa con gái trẻ đẹp muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao ? Aùn Tử đứng dậy thưa rằng: - Nội tử tôi nay thật già và xấu, nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu kể từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy, cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nhà vua tuy muốn ban ơn chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn oở bội bạc với những điều nột tử tôi đã nhờ cậy tôi bấy lâu nay. Nói đoạn, Án Tử lậy hai lậy, xin từ không lấy. (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, quyển hạ, tr 87-88). Án Tử là cái gương chung thủy cho mọi người soi, ông đã thực hiện được lời khuyên bất hủ của người xưa:Tào khang chi thê, bất khả hạ đường”. Ông đã thực hiện được cái đạo vợ chồng một cách tốt đẹp: Đạo vợ chồng khó lắm ai ơi, Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay. Đạo vợ chồng chẳng dễ đổi thay, Dẫu làm võng giá hay rủi ăn mày cũng cứ theo nhau. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
I. TRÊN ĐƯỜNG ĐI EMMAU. Chúng ta đọc: Lc 24,13-35.
Câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmau trong bài Tin mừng hôm nay chỉ được một mình Luca kể HP21
Câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmau trong bài Tin mừng hôm nay chỉ được một mình Luca kể lại, để thấy rằng Đức Giêsu muốn hướng dẫn các môn đệ đã vì cớ vấp phạm của thập giá mà mất niềm tin thì nhờ Kinh Thánh và việc bẻ bánh mà củng cố niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục sinh. Sau khi Đức Giêsu chịu chết, đến ngày thứ ba, các môn đệ tỏ ra hoang mang, buồn rầu, chán nản, không còn gì bảo đảm cho tương lai nữa, vì thế có ông muốn bỏ về quê cũ là làng Emmau: một ông tên là Cléophas và một ông nữa là một môn đệ nào đó. Hai ông bàn luận với nhau về cái chết của Đức Giêsu. Các ông không thể hiểu được ý nghĩa cái chết của Ngài vì mầu nhiệm đó còn che mắt các ông. Chỉ nhờ Kinh Thánh các ông mới có thể hiểu được. Đức Giêsu hiện ra đồng hành với các ông với tư cách là một khách bộ hành. Ngài bắt chuyện với các ông: - Các ông có chuyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy ? Mộât người tên là Cléophas trả lời: - Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những việc vừa xẩy ra trong thành mấy ngày nay. Đức Giêsu làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi: - Việc gì thế ? Các ông cho biết là các ông thất vọng về ông Giêsu Nazareth. Oâng là một tiên tri có uy quyền mà người ta đã giết chết mà nay đã ba ngày rồi mà không có tin tức gì cả. Chỉ có mấy phụ nữ đến thăm mồ mà không thấy xác Ngài và được thiên thần cho biết là Ngài đang sống. Mấy đồng nghiệp của chúng tôi cũng thấy như vậy, còn họ thì không gặp Ngài. Lúc bấy giờ, Ngài mới dùng Kinh Thánh mà giải nghĩa cho các ông:”Đấng Kitô phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang”. Như vậy, bài tường thuật này muốn nói rằng: Chúa Giêsu Phục sinh vẫn đang sống. Ngài ở kề bên chúng ta. Ngài vẫn ĐỒNG HÀNH với chúng ta trong cuộc sống.
II. NHỮNG BẠN ĐỒNG HÀNH. 1. Trên đời cần có bạn. Sách Giảng viên khẳng định rằng đời cần có bạn bè, trách sự cô đơn, cô độc:”Khốn cho kẻ chỉ có một mình, khi ngã xuống nó sẽ không có ai nâng” (Gv 4,10). Bất kỳ ai cũng có lúc ngã. Thánh Phaolô cũng nói:”Ai đang đứng, ý tứ kẻo ngã” và tục ngữ Việt nam cũng nói:”Khỏe như voi không coi cũng ngã”. Vì thế, trong cuộc đời phải có “Chị ngã em nâng”. Đôi khi người ta cũng cần ở một mình, bởi vì linh hồn đòi hỏi sự cô tịch, để giữ được tính cách cá nhân của nó. Nhưng chúng ta không thể sống cô đơn được. Trong thực tế, trong cuộc sống chúng ta cần đến người khác để nâng đỡ, xác nhận, khích lệ, đồng hành với chúng ta. Họ nuôi dưỡng và hỗ trợ chúng ta theo hàng trăm cách thức khác nhau. Ngày nay, con người được giáo dục theo chủ nghĩa cá nhân, hậu quả là người ta cảm thấy đời sống cộng đồng là khó khăn. Trong thế giới hiện nay, có quá nhiều nỗi cô đơn. Nhiều người đang kêu gào một người bạn, một người đồng hành, theo nghĩa thuộc về nhau (McCarthy).
2. Từ ngữ “Bạn đồng hành”. Từ ngữ “Bạn Đồng hành” phát xuất từ tiếng La tinh: CUM, nghĩa là cùng với, và PANIS, nghĩa là bánh. Như vậy, hiểu theo từng chữ, “Bạn đồng hành” nghĩa là một người nào đó mà chúng ta chia sẻ bánh. Không phải bất cứ ai bạn cũng mời vào nhà uống trà. Đó là một người có quan hệ với bạn. Và mối quan hệ này được đào sâu thêm, nhờ việc chia sẻ đồ ăn và thức uống với nhau. Như vậy, từ ngữ “Bạn đồng hành” hay “Bạn đường” càng thích hợp cho đời sống vợ chồng, hai người cùng chia sẻ với nhau cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. 3. Tình bạn cần thiết. Người đời cần có bạn bè để chia vui sẻ buồn, để nâng đỡ nhau khi gặp khó khăn trắc trở, nên người ta mới kết nghĩa vườn đào như tình kết giao giữa tay ba Lưu Bị – Trương Phi – Quan vân Trường trong Tam quốc chí. Họ đã uống máu ăn thề, coi nhau như anh em ruột thịt, thề sống chết có nhau; như mối tình keo sơn giũa Jonathan và Đavít trong Thánh Kinh. Trong văn chương Việt nam, ai mà không biết tình bạn kết giao giữ Lưu Bình và Dương Lễ !
III. BẠN ĐƯỜNG VÀ HẠNH PHÚC. 1. Hạnh phúc là mục tiêu của con người. Mục đích cuộc sống con người là đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là đối tượng của mọi cuộc tìm kiếm. Hạnh phúc thì có đấy, nhưng con đường dẫn tới hạnh phúc thì nhiều vô kể, ai thích đường nào thì theo đường nấy. Do đó, Tây phương có câu ngạn ngữ:”Tous les chemins conduisent à Rome”: tất cả mọi con đường đều dẫn tới Rôma. Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là con đường nào ? Mỗi người phải chọn cho mình một con đường thích hợp. 2. Con đường dẫn tới hạnh phúc. a) Con đường độc thân. Có người chọn con đường độc thân để tiến tới hạnh phúc. Họ có thể sống ở ngoài đời hay sống trong đời tu trì. Những người sống độc thân trong đời sống tu trì là những người có một cái nhìn siêu nhiên cao quí: có Chúa là có tất cả, mà Chúa là hạnh phúc, thì khi tìm đến Chúa là tìm đến hạnh phúc. Phải chăng lời nói của đại thi hào Nguyễn Du trong “Đoạn trường tân thanh” đã mô tả được cái nhìn sâu sắc đó: Tu là cõi phúc, tình là giây oan. b) Con đường hôn nhân. Tuyệt đại đa số con người trong thế giới này chọn chung một con đường dẫn tới hạnh phúc: con đường hôn nhân. Hôn nhân là con đường. Con đường này có thể dẫn tới hạnh phúc nhưng cũng có thểâ dẫn tới bất hạnh:”Hôn nhân là con đường đưa ta tới thiên đàng hay địa ngục” (Honoré de Balzac). Ta cũng có thể nói: Hôn nhân là một cuộc hành trình tiến tới hạnh phúc. Không phải kết hôn là có hạnh phúc ngay mà chỉ là bước khởi đầu của cuộc hành trình đi tới hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc không phải là cái gì tiền chế đã có sẵn, mà mỗi người phải tạo ra bằng nỗ lực của mình. Cuộc hành trình còn kéo dài, còn nhiều gian khổ, còn nhiêu gian lao thử thách. Trong cuộc hành trình này con người muốn có bạn đường cho khỏi bị lẻ loi như Kinh thánh nói:”Vae soli” (Gv 4,10). Muốn có bạn đường thì phải KẾT BẠN. Ta nói anh A đi kết bạn, cô B đã kết bạn, có nghĩa là anh A đã lấy vợ, cô B đã có chồng, đã có gia đình. Khi đã kết bạn với nhau thì người ta sẽ trở nên BẠN TÌNH – BẠN ĐƯỜNG – BẠN ĐỜI – BẠN NỐI KHỐ. Vì thế, vợ chồng đã trở nên bạn tình, bạn đời và bạn đường với nhau. Nếu hỏi anh ấy có khỏe không ? chị sẽ trả lời BẠN TÔI khỏe lắm thay vì tiếng Nhà tôi hay Chồng tôi. Chữ BẠN đây đã trở nên bạn tình, bạn nối khố rồi. Tuy là bạn nhưng vẫn có những gì riêng tư, không thể có sự đồng nhất được, chỉ hy vọng có sự hòa hợp. Như vậy trong cuộc hành trình đi tìm kiếm hạnh phúc, không thiếu gì những vật cản đường, nó làm cho cuộc sống trở nên nặng nề, khó chịu như Alexandre Dumas fils đã nói:”Sợi dây xích của hôn nhân quá nặng nề đến nỗi phải hai người, có khi ba để mang lấy”. Tuy gian lao có nhiều, đau khổ cũng cũng không thiếu, con người có thể vượt qua được như nhà chí sĩ Nguyễn bá Học đã nói:”Đường đi khó không khó vì ngăn sống cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Trước những khó khăn trong đời sống gia đình, vợ chồng cần có sự nhịn nhục chịu đựng, càng nhịn nhục gia đình càng hạnh phúc. Nhịn nhục có nhiều cái lợi. Đừng coi nhịn nhục là hèn nhất, trái lại phải coi là một hành vi anh hùng:”Nhịn mày tốt tao, làm sao mà thiệt”.
Truyện vui: Ai quyết định ? Một anh chàng mới lấy vợ đến hỏi một ông đã có lễ vàng lễ bạc với vợ: - Thưa ông, vì sao ông bà sống hạnh phúc với nhau tuyệt vời như vậy ? Ôâng già trả lời: - Chẳng giấu gì cậu: khi việc gì mà cả hai người nhất trí thì tôi quyết định. Còn việc gì không nhất trí thì người quyết định là… bạn tôi. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Pl 2,6-11 ; Ga 3,16-17.
Đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe là một bản tụng HP22
Đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe là một bản tụng ca lòng từ bi bao la của Thiên Chúa đối với loài người khi Ngài sai Con của Ngài xuống thế cứu độ trần gian (Pl 2,6-11). Đức Giêsu vốn dĩ ngang hàng vớùi Thiên Chúa, được hưởng mọi sự vinh quang của một vì Thiên Chúa, đã tự nguyện trút bỏ mọi vinh quang đó, xuống thế làm người, trở nên một con người hèn hạ nhất, sống vâng lời cho đến chết và chết trên cây thập giá. Ta thử hỏi: vì lý do nào mà Chúa đã xuống thế làm người chịu chết chuộc tội cho chúng ta ? Có lẽ không có câu trả lời nào xác đáng hơn khi nói:”Vì yêu thương chúng ta”. Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,10), đồng thời Ngài cũng nói:”Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu”(Ga 15,13). Cũ#ng giống tư tưởng của thánh Phaolô, thánh Gioan tông đồ cũng nói lên việc Thiên Chúa Cha trao ban Con Một của Ngài cho thế gian cũng do tình yêu, khi Ngài nói:”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ”(Ga 3,16-17). Trở lại ngược dòng lịch sử, ta được biết từ ngàn đời Chúa đã thương ta nên đã dựng nên ta theo hình ảnh của Ngài. Vì đã dựng nên ta theo hình ảnh của Ngài nên Ngài cũng yêu luôn hình ảnh của Ngài, và hình ảnh của Ngài dễ thương biết bao ! Do vậy, con người phải được coi là dễ thương. Oâng Adong thật dễ thương trước mặt Chúa vì Thánh kinh nói:”Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp”. Thiên Chúa lại dựng nên cho ông một người nữ là bà Evà. Bà này cũng thật dễ thương làm cho ông say mê. Thiên Chúa đã ban bà này cho ông để làm vợ. Như vậy cả hai người dễ thương. Họ thương yêu nhau và suốt ngày quấn quít bên nhau. Nhưng sau khi phạm tội, ông bà nguyên tổ mất đi vẻ dễ thương thuở ban đầu. Phải nói là ông bà đã trở nên dễ ghét trước mặt Chúa. Tuy thế, Thiên Chúa vẫn yêu thương, yêu đến nỗi sai Con Ngài xuống trần để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ, và sau cùng đã lấy máu mình mà rửa sạch tội lỗi của họ. Do con người được rửa sạch nhờ cái chết của Đức Giêsu, từ đây con người lại trở nên dễ thương trước mặt Chúa.
II. NÓI VỀ NÉT DỄ THƯƠNG. 1. Theo quan niệm người đời. a) Con người dễ thương. Con người được đánh giá là “linh ư vạn vật”. Người là con vật thượng đẳng vì có hồn có xác. Vì thế, xem hình dáng bên ngoài đã thấy dễ thương theo quan niệm của xã hội ta ngày xưa: Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má núm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. Có những nét dễ thương lộ ra bên ngoài, ai cũng thấy, nhưng cũng có những nét hấp dẫn dễ thương tiềm ẩn bên trong mà người ta không trông thấy. Tuy thế vẫn cảm thấy có một cái gì quyến rũ, dễ thương: Người xấu duyên lặn vào trong, Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài. Có những người tài sắc không có, không có gì là sắc xảo, nhưng con người đó vẫn dễ thương như họ cư xử mềm mỏng, ăn nói dịu dàng lịch thiệp, nhịn nhục, biết lắng nghe, biết phục vụ, biết nở nụ cười… Vì thế: Cô kia mặt nhọ như niêu, Mẹ chồng cô vẫn thương yêu quá chừng. b) Con người dễ ghét. * Xét về bản tính con người thì người ta thường cho là tốt. Mạnh Tử đã thay cho mọi người mà ca tụng bản tính con người:”Nhân chi sơ tính bản thiện”. Nhưng cũng có người có cái nhìn bi quan về con người, họ chủ trương ngược lại, họ cho bản tính con người là xấu. Đại diện cho quan niệm này là Mặc Tử khi ông nói:”Nhân chi sơ tính bản ác”. * Còn về phương diện cái nhìn thì phần lớn cho là con người dễ thương. Cũng có người chủ trương ngược lại, họ cho là con người dễ ghét. Đại diện cho quan niệm này là ông Diogène. Oâng này là một triết gia hơi khác thường, thích sống trong cái thùng rỗng, ăn uống đạm bạc. Oâng bất mãn với xã hội, đánh giá là họ sống không xứng đáng với con người, nên đang giữa trưa, ông cầm đèn ra phố chợ. Lấy làm lạ, người ta hỏi ông:”Oâng đi tìm gì” ? Oâng trả lời:”Tôi đi tìm người”. Tại sao ông Diogène lại đi tìm người ? Ngoài phố thiếu gì người mà phải đi tìm ? Thực ra ông muốn đi tìm mộ con người, mà theo ông, con người này phải sống xứng danh là con người. Câu trả lời của ông có một ý nghĩa sâu xa: ông cho là họ sống như lũ chó, không xứng đáng với con người “linh ư vạn vật”.
2. Theo quan niệm của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cho rằng không có ai là người dễ ghét mà chỉ có những người dễ thương. Có lần Ngài và các môn đệ đi Giêrusalem, phải đi ngang qua vùng Samaria mà người ta không chịu đón tiếp mà còn tỏ vẻ khinh khi. Điều này làm cho các môn đệ tức giận. Các ông xin Chúa cho phép các ông sai lửa trên trời xuống đốt cháy cái lũ dân đáng ghét này. Nhưng Ngài đã ngăn cản các ông vì Ngài thấy họ không đáng ghét chút nào, đối với Ngài họ vẫn dễ thương (x. Lc 9,54). Nếu không có tâm hồn cao thượng thì Maria Mađalena, tông đồ Phêrô và Giuđa thật đáng ghét vì họ là những người tội lỗi, những tên phản bội. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thấy họ dễ thương và tạo điều kiện cho họ sám hối để trở nên con người thánh. Sách Huấn ca so sánh con người khôn ngoan và ngu đần. Sách thánh nói:”Người khôn ngoan nói ít cũng gây được thiện cảm, lời hoa mỹõ của kẻ ngu đần chỉ là thứ đổ đi”(Hc 20,13). Lời nói của người khôn ngoan dễ gây được thiện cảm, nghĩa là lời nói của họ mặn mà, duyên dáng, hấp gẫn, dễ nghe làm hài lòng người ta, giống như câu ca dao Việt nam:”Một thương tóc bỏ đuôi gà, hai thương ăn nói mặn mà có duyên”.
III. QUAN NIỆM CHỦA CHÚNG TA. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải có những mối quan hệ, không ai có thể sống đơn độc lẻ loi, cần phải có người khác để chia sẻ cả tinh thần lẫn vật chất vì “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Trong khi tiếp xúc với người khác, chúng ta thấy có những người rất có duyên, có người lại vô duyên, có người dễ thương, có người dễ ghét. Như vậy trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy những người chung quanh mình là những người dễ thương hay dễ ghét. 1. Tùy theo quan niệm của mỗi người. Cùng một con người mà đối với người này thì dễ thương mà đối với người khác thì lại dễ ghét . Tại sao lại có tình trạng đó ? Chúng ta có thể trả lời: tùy theo lập trường, thái độ và tâm trạng của mỗi người. Kinh thánh nói rằng:”Ai gieo gì thì gặt nấy”(Gl 6,7). Gieo gió thì gặt được bão, Gieo ghen ghét thì sẽ gặp ghen ghét, Gieo yêu thương thì sẽ gặt được yêu thương. Người sống bên cạnh ta sẽ dễ thương hay dễ ghét, phần lớn là do hình ảnh ta sẵn có đối với họ.Tha nhân là phản ảnh tâm trạng của ta. Giống như khi soi gương, hình ảnh ta tốt xấu thế nào thì trong gương cũng tốt xấu như vậy. Trông trăng mà thẹn với trời, Soi gương mà thẹn với người trong gương. Truyện: Mất búa. Có người đánh mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, hành động, không một tí gì, là không rõ ra một đứa ăn trộm búa cả. Được một lúc, người ấy bới trong hố, lại thấy cái búa. Thì hôm sau, trông đứa con nhà láng giềng, ngôn ngữ, cử chỉ lại không một tí gì là giống đứa ăn trộm búa cả. (Liệt Tử, trong Cổ học tinh hoa, tập 1, của Nguyễn văn Ngọc, tr 55)
2. Trong đời sống vợ chồng. a) Thuở ban đầu. Lúc mới yêu nhau, tình yêu dâng lên phơi phới, người ta có khuynh hướng tuyệt đối hóa người yêu. Nơi người yêu, cái gì cũng tốt, cái gì cũng dễ thương vì tất cả mọi cái đều được tha thứ. Tình yêu làm cho mọi sự nên tốt: Chồng yêu cái tóc nên dài, Cái duyên nên mặn, cái tài nên khôn. Hoặc người ta thi vị hóa sự vật: Mắt em là một dòng sông, Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em. (Xuân Diệu) b) Lúc ở với nhau. Người ta nói: Ở trong chăn mới biết chăn có rận. Khi ở với nhau, người ta có dịp khám phá nhau, các nết xấu từ từ lộ ra. Các nét dễ thương ngày xưa biến dần. Những va chạm, những nỗi bất hòa tiếp diễn, thay vào những nét dễ thương là những nét dễ ghét. Bởi vì: Yêu nhau quả ấu cùng tròn Ghét nhau quả bồ hòn cũng méo. Để giữ vững tình yêu vợ chồng, để củng cố cho gia đình vững chắc, người ta khuyên vợ chồng: “Hãy rửa tội cho tình yêu mỗi ngày và hãy cưới nhau lại mỗi buổi sáng”. Làm như thế hy vọng vợ chồng còn yêu nhau mãi, những nét dễ thương vẫn còn nối dài, vợ chồng sẽ cùng nhau xây dựng tổ ấm hạnh phúc. Truyện: Méo miệng. Sau khi đem vợ ra khỏi phòng cấp cứu, người chồng trẻ vội đưa nàng đến ngay thẩm mỹ viện quen biết để xin bác sĩ giải phẫu chỉnh hình cho cô. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ đồng ý giải phẫu ngay lập tức. Thế là bác sĩ và y tá nhào ngay vào việc trong suốt 4 tiếng đồng hồ. Tai nạn xe hơi đã khiến một phần mặt cô rách nát, nhưng nhờ tài khéo léo, bác sĩ đã cứu cô khỏi sẹo. Nhưng khi chữa đến miệng thì bác sĩ đành chào thua. Giải phẫu xong, bác sĩ cho mời người chồng vào thăm vợ. Hai người cầm tay nhau nghẹn ngào. Quay sang bác sĩ, người vợ ấp úng hỏi: - Miệng tôi mãi mãi như thế này phải không ? Bác sĩ gật đầu: - Một sợi gân miệng của cô đã bị cắt đứt. Tôi e rằêng, miệng cô… Người chồng vội ngắt lời: - Miệng em nay trông duyên hẳn ra ! Rồi chàng cúi xuống, hôn lên miệng vợ. Bác sĩ đứng gần đấy đã trông thấy, và ông làm chứng rằng: - Chàng đã cúi xuống, méo miệng, rồi âu yếm hôn nàng…cho nàng niềm xác tín bốn làn môi ấy vẫn còn hòa điệu sắt cẫm. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Đọc sách Sáng thế, chúng ta được biết Thiên Chúa đã chọn ông Abraham làm tổ phụ một dân HP23
Đọc sách Sáng thế, chúng ta được biết Thiên Chúa đã chọn ông Abraham làm tổ phụ một dân tộc đông như sao trời cát biển. Để được làm một tổ phụ lớn lao như thế, ông còn phải bị thử thách. Cuộc thử thách đó là rời bỏ quê hương đến một nơi xa lạ mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho. Rời bỏ quê hương yên lành mà đến một nơi chưa quen biết, quả là một cuộc phiêu lưu vì không biết tương lai sẽ ra sao, chỉ còn biết phó thác cho Thiên Chúa. Cuộc phiêu lưu ấy bắt đầu với việc Thiên Chúa kêu gọi đích danh ông Abraham. Đức Chúa phán với ông Abraham:”Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi”(St 12,1-2). Được lệnh lên đường, ông Abraham đã 75 tuổi tức tốc lên đường. Ông đã đem theo vợ là bà Sara, cháu là ông Lót, và mọi tài sản đã gây dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại Khanan. Họ ra đi đến đất Canaan. Như chúng ta thấy, ở bước đầu của mọi cuộc phiêu lưu đều có sự tự do, lựa chọn và đoạn tuyệt. Cuộc phiêu lưu không phải được thực hiện với sự mù quáng hoặc không hiểu biết gì. Trước tiếng gọi của Thiên Chúa, Abraham đã biết trước cuộc ra đi mang tính cách nguy hiểm, bấp bênh và mơ hồ vì không biết Canaan như thế nào, nhưng Abraham đầy lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, cứ cất bước lên đường, còn tương lai sẽ trao phó cho Chua.
II. HÔN NHÂN LÀ MỘT CUỘC PHIÊU LƯU ? Cuộc ra đi của Abraham đến xứ sở mới làm cho ta liên tưởng đến việc kết hôn:”Người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình”(St 2,24). Ra đi là chết trong lòng một ít vì đòi có sự đoạn tuyệt. Đó cũng là tiếng gọi mà tất cả chúng ta đã nghe vào lúc hứa hôn. Mọi cuộc hôn nhân, ở bước đầu là sự đáp trả trước một lời mời nọc, mời mọc lao vào một cuộc phiêu lưu, chẳng còn giấu diếm gì, đi đến một xứ sở mà mình chưa biết và nơi đó, chúng ta biết chứ, mình sẽ phải băng qua hoang mạc… Đức tin là hành động nền tảng cho mọi ơn gọi vợ chồng. Đón nhận người kia từ tay Thiên Chúa đòi hỏi phải có sự tự do, sự đón tiếp và quyết tâm, nhưng cũng bao hàm một sự xâu xé, một nguy cơ. Trong hôn nhân không bao giờ có “Bảo-hiểm-cho-đời-sống”, vì không có gì để bảo đảm là nó sẽ thành công cả…
III. TẢN MẠN VỀ HÔN NHÂN. 1. Phiêu lưu là gì ? Phiêu lưu là bị gió dập sóng dồi, là trôi dạt theo sóng gió, là lênh đênh không biết về đâu như “phiêu lưu đất khách quê người”. Còn theo nghĩa rộng thì phiêu lưu là làm một việc nguy hiểm, không chắc thành công mà còn có hại, ví dụ: Hãy đặt kế hoạch hẳn hoi, không nên phiêu lưu như vậy. 2. Hôn nhân và lựa chọn. Mỗi người phải lựa chọn cho mình một cuộc sống thích hợp. Lựa chọn đã bao hàm sự tự do, mà tự do lựa chọn là một cuộc phiêu lưu, vì không bao giờ người ta nắm chắc được tương lai như 2 với 2 là 4. Nhưng không vì thế mà người ta không dám dấn thân chọn lựa sau khi đã suy xét cẩn thận, có đủ lý do để hành động theo sự lựa chọn đó, vì phiêu lưu không đồng nghĩa cới liều lĩnh: Một liều ba bảy cũng liều Cầm bằng con trẻ chơi diều đứt dây. Nếu chỉ chọn cho mình một nghề nghiệp thì sự lựa chọn đó ít nguy hiểm vì ta có thể thay đổi mà không ảnh hưởng sâu xa tới đời sống. Nhưng nếu lựa chọn cho mình một hướng đi cho cả cuộc đời thì sự lựa chọn đó càng nguy hiểm, phải dấn thân bước lên như ngày thụ phong Linh mục, ngày khấn dòng, ngày kết hôn. Sống là phải lựa chọn. Cuộc sống bầy ra trước mắt chúng ta nhiều con đường, nhiều lý tưởng, nhiều giá trị. Vấn đề là ta phải lựa chọn cho đúng đường mà đi, nếu không sẽ phải hối hận suốt đời.
Truyện: Lựa chọn sai lầm. Người ta kể một giai thoại về Hoàng đế Charles Quint của Đức như sau: Sau nhiều năm tận tụy hy sinh phục vụ Hoàng đế, một vị trung thần của ông ngã bệnh và đang phải chiến đấu với tử thần. Để tỏ lòng biết ơn và cảm mến đối với một con người đã suốt đời trung thành với mình, Hoàng đế đã đích thân đến bên giường của ông. Cầm tay vị trung thần, Hoàng đế nói: - Khanh đã hết lòng phục vụ trẫm, nay trẫm xin được đền đáp. Khanh hãy cho trẫm biết khanh mong ước điều gì, trẫm sẽ thỏa mãn yêu cầu của khanh. Trong hơi thở đứt quãng, vị trung thần tâu: - Thần ước ao được nhận từ tay bệ hạ một ân huệ. Đôi mắt Hoàng đế như sáng lên. Ôâng hỏi nhanh: - Khanh cứ nói, ân huệ gì trẫm cũng ban cho khanh. Người hấp hối nói một cách chua xót: - Xin bệ hạ ban cho thần được sống thêm một ngày, chỉ một ngày mà thôi. Nghe xong lời cầu khẩn của vị trung thần, Hoàng đế lắc đầu nói: - Trẫm đã được xem là quân vương quyền thế nhất trên thế gian này, nhưng điều khanh xin hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của trẫm. Sự sống thì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban mà thôi. Trong tiếng thở dài, vị trung thần mới thốt lên: - Thật là vô ích cho tôi, vì tôi đã điên rồ đến độ không biết dành nhiều thời gian hơn để phục vụ Chúa mà lại hoang phí thời giờ để phục vụ các vua chúa trần gian. Tôi đã không biết chọn lựa cho đúng, tôi đã lựa chọn sai lầm.
3. Lựa chọn là một mối lo. Hôn nhân là một việc quan trọng vì nó là một khúc quặt có liên hệ đến cả cuộc đời, ai mà không lo ? Trong xã hội nông nghiệp của ta ngày xưa, người ta cũng nói lên mối lo đó: Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà, Trong ba việc ấy thật là khó thay. a) Cha mẹ lo: Mỗi khi liệu cho con cái đi lấy vợ lấy chồng, người ta thường dùng từ “LO” thay cho từ “cưới”, ví dụ: cuối năm nay tôi sẽ “lo” cho cháu. Lấy vợ lấy chồng là truyện vui vẻ hỉ hoan, tại sao lại gọi là LO ? Gọi là lo vì trong việc cưới xin có đủ mọi thứ phải lo như ta đã có kinh nghiệm để tránh được cảnh “ma chê cưới trách”. Người ta nói: Thật là lo bảy lo ba, Lo cau đều quả, lo trà đậm hương. Cưới về lo tủ, lo giường, Tết lo đỗ đường để gói bánh chưng. b) Cô gái lo. Người con gái bị thua thiệt, phải lệ thuộc vào đàn ông, mình không có quyền quyết định nên lo lắng cho tương lai: Lênh đênh một chiếc thuyền tình Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu ? Nếu gặp được người chồng tốt thì được nhờ, bằng không thì đành chịu cho số phận dun dủi, chỉ biết thở than trong lo âu: Thân em như giếng giữa đàng, Người khôn rửa mặt, người quàng rửa chân. c) Hai người cùng lo. Hôn nhân là một cuộc lựa chọn gay gắt, mà lựa chọn là dấn thân. Dấn thân hay nhập cuộc là thân phận của con người. . Dấn thân không có nghĩa là liều lĩnh, không biết suy tư, tính toán , trái lại phải tìm hiểu, đắn đo, suy nghĩ, bàn hỏi với những người khôn ngoan đầy kinh nghiệm để can đảm bước vào cuộc sống hôn nhân. 4. Hôn nhân và thề hứa. Khi thề hứa không ai có thể hoàn toàn nắm chắc tương lai của mình, bởi vì hoành cảnh, tính tình, tình cảm có thể thay đổi. Vậy có nên thề hứa chăng , nhất là phải thề hứa thương yêu nhau và trung thành với nhau suốt đời ? Hay thề hứa và thêm vào đó một hoặc những điều kiện ? Chẳng hạn: “Anh sẽ yêu em mãi mãi nếu…” Nhưng chúng ta thường biết trong đời sống không như vậy. Ta luôn luôn hứa, từ những việc nhỏ đến những chuyện quan hệ, lớn lao. Không thể có đời sống xã hội nếu luôn luôn hứa hẹn với điều kiện. Đối với những người yêu mến nhau thì thề hứa là chuyện hết sứ hiển nhiên… (Cf Nguyễn hồng Giáo, báo Nhà Chúa, 1971) Giờ đây trước mặt cộng đoàn giáo xứ và hai họ, hai người hãy thề hứa một cách dứt khoát nhận nhau làm vợ làm chồng và hứa yêu thương và trung thành với nhau mãi mãi suốt đời. Lời hứa ấy phải vô điều kiện. Đi kèm theo với lời hứa ấy là trao cho nhau chiếc nhẫn kỷ niệm: nói lên tình yêu và lòng chung thủy. Nếu để hai chiếc nhẫn kề nhau thì nó sẽ giống hình cái còng số 8 nối kết hai người lại với nhau một cách vĩnh viễn. 5. Hôn nhân và tử đạo. Phụng vụ Chính thống giáo tuyệt vời của bí tích hôn phối nói lên điều đó qua nghi thức đội “mũ miện”. Mỗi người (chồng và vợ) nhận một vương miện. Mũ miện trong Giáo hội Chính thống là dấu chỉ của sự vinh quang, vương quyền của Thần Khí và cũng là dấu chỉ của việc tử đạo luôn đi kèm. Khi người nam và người nữ được kiên kết với nhau qua bí tích Linh mục ban cho họ, nghi thức này đến nhắc nhở họ rằng mỗi người phục vụ sự thánh thiện của người kia, và đòi họ phải dâng hiến, tự trao ban. Linh mục đọc trong khi đặt mũ miện lên đầu người chồng sắp cưới:”Tôi tớ của Thiên Chúa ông X nhận nữ tì của Thiên Chúa Y làm mũ miện, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Linh mục lại đọc trong khi đội mũ miện lên đầu người vợ sắp cưới:”Nữ tì của Thiên Chúa Y, nhận tôi tớ X của Thiên Chúa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Mỗi người nhận mũ miện nhân danh người kia, với ý nghĩa là mỗi người sẽ là triều thiên tử đạo cho người kia và không được tách sự đau khổ với vinh quang. Sau đó đôi vợ chồng đầu đội mũ miện theo sau Linh mục, đi vòng quanh sách Tin mừng ba lần để chỉ là từ nay cuộc sống chung của họ sẽ đặt Đức Kitô và Tin mừng của Ngài làm trung tâm. Đôi tân hôn uống cùng một chén của cuộc sống chung, và cộng doàn hát:”Oâi ! Lạy các thánh tử đạo, những vị đã chiến đấu anh dũng mà nay đã được đội mũ triều thiên trên trời, xin cầu Thiên Chúa đến cứu linh hồn chúng tôi”. Đôi vợ chồng bây giờ đã trở thành một “Giáo hội vi mô theo lời của thánh Gioan Kim khẩu, được dành riêng để biểu lộ – cũng như Thánh Thể – “mối tình lớn” của Thiên Chúa cứu nhân độ thế (Georgette Blaquìere, Dám sống tình yêu, tr 94-95) KẾT LUẬN Mẹ Maria đã làm một cuộc phiêu lưu (Lc 1,26-38) khi thưa câu “Xin vâng”. Nghe đơn giản nhưng cả là một cuộc mạo hiểm táo bạo, một cuộc phiêu lưu đúng nghĩa. Phiêu lưu ở chỗ nào ? - Giải thích thế nào cái bào thai trong bụng ? Không khéo sẽ bị ném đá. - Phiêu lưu vì tương lai mịt mờ vô định: Gái đồng trinh – chưa ăn ở với đàn ông mà lại sinh con - Đứa con ấy lại là Con Đấng Tối Cao ? Cứ như chuyện cổ tích ! Thế mà Mẹ Maria đã dám “Xin vâng” và dấn bước trong tin tưởng phó thác. Hãy theo gương Đức Mẹ mà tiến lên. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Qua đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Matthêu ghi lại cho chúng ta việc Đức Giêsu, sau HP24
Qua đoạn Tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Matthêu ghi lại cho chúng ta việc Đức Giêsu, sau khi sống lại, đã hiện ra với mười một Tông đồ ở nơi đã được chỉ định trước, để trao sứ mạng Tin mừng và rửa tội cho muôn dân nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói với các ông:”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Đây là nền tảng cho việc rao giảng mà các ông lãnh nhận. Các Tông đồ không làm những việc tầm thường, nhưng thi hành một công việc phát xuất từ quyền năng Chúa Kitô. Câu này cũng có giá trị tương đương với câu Chúa Giêsu đã nói khi Ngài hiện ra ở nhà Tiệc ly:”Cũng như Cha Thầy đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”(Ga 20,21). Thi hành sứ mạng Chúa trao, các Tông đồ đi rao giảng Tin mừng, tức là thâu tập các môn đệ từ muôn dân. Dạy dỗ cho họ những điều cần thiết và rửa tội cho họ “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Rửa tội nhân danh Ba ngôi Thiên Chúa có nghĩa là được thánh hiến để thuộc trọn về Ba Ngôi. Vì vậy việc Chúa Giêsu truyền làm phép rửa tội là điều kiện cần thiết để nên môn đệ của Chúa Kitô. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn nhất trong đạo, cho đến muôn đời không ai có thể hiểu được. Chúng ta chỉ biết cúi đầu tỏ lòng cung kính và tỏ lòng yêu mến Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống người Kitô hữu. Khi nói đến mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta liên tưởng đến đời sống cộng đồng. Thiên Chúa Ba Ngôi là một cộng đồng nguyên thủy hòa hơp yêu thương. Thiên Chúa Cha yêu thương đã sinh ra Chúa Con, và trong tình yêu thương của Chúa Cha và Chúa Con đã làm phát sinh ra Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi cộng tác với nhau mật thiết: Chúa Cha dựng nên trời đất vạn vật, Chúa Con xuống thế làm người chịu chết chuộc tội cho thiên hạ, Chúa Thánh Thần thánh hóa Giáo hội và các tín hữu (Kinh Tin kính). Cả Ba Ngôi cùng sinh hoạt để yêu thương và giúp đỡ con người. Cộng đồng Ba Ngôi nguyên thủy phải là kiểu mẫu cho cộng đồng Kitô hữu đầu tiên. Sách Công vụ tông đồ còn ghi lại cảnh sống hòa hợp yêu thương của họ khiến cho dân ngoại ngạc nhiên và thèm muốn. Mọi người sống trong yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thông cảm với nhau, chia vui sẻ buồn với nhau. Có người bán cả gia tài của mình đem dâng cho các Tông đồ để cùng chia sẻ cho người nghèo khó để không ai bị túng đói. Sống trong cảnh đó mọi người phải ca tụng: Xinh thay là cảnh anh em, Cùng nhau vui sống dịu êm một nhà. (Tv 132,1) Gia đình cũng là cộng đồng căn bản và phải mô phỏng mô hình cộng đồng nguyên thủy của Chúa Ba Ngôi. Công đồng Vatican 2 xác định”Gia đình là nền tảng của xã hội (MV). Gia đình là các nhân tố cấu thành xã hội. Nếu mỗi gia đình biết sống hòa hợp với nhau thì xã hội sẽ có sự hài hòa êm thắm, không bị xáo trộn bới những xung khắc trái ngược.
II. NÓI VỀ SỰ HÒA HỢP. 1. Hòa hợp là gì ? Theo tự điển Đào duy Anh thì “Hòa hợp là cùng hòa thuận không cạnh tranh xung đột”. Hay chúng ta cũng có thể nói: hòa hợp là biến các yếu tố khác biệt thành một cái gì dung hợp nhau, không còn sự dị biệt đối kháng. Ta có thể đưa ra một ví dụ cụ thể: trong một ly nước chanh đường, ta có chanh chua, đường ngọt. Theo nguyên tắc thì chua và ngọt là hai chất đối kháng nhau, nhưng nếu cho cả hai chất hòa lại với nhau thì lại thành một ly nước chanh ngon, bổ dưỡng và giải khát. Nếu ta cho thêm vào một cục nước đá, một chút muối cho đậm đà, một chút dầu chuối cho thơm thì sẽ trở thành một ly nước chanh tuyệt vời. Nghe đến cũng phải chảy nước miếng.
2. Hòa hợp và hợp nhau. Theo nhà tâm lý học Nguyễn đình Xuân, ta cần phân biệt “hợp nhau” với “hòa hợp nhau” Đó là hai khái niệm riêng biệt. Hợp nhau là thích nhau (ví dụ: người hiền lành thì thích và hợp với người hiền lành). Trong khi đó “hòa hợp nhau” là chấp nhận nhau để hòa nhập với nhau, bù trừ cho nhau, nên có thể người hiền lành lại chấp nhận cưới một người có tính nóng nảy. Hai người sống với nhau ít khi nổi xung, bởi vì người hay nóng luôn luôn được tính hiền lành của người kia làm nguội đi các cơn thịnh nộ vô lý… (Nguễn đình Xuân, Tâm lý học Tình yêu gia đình, 1993, tr 112) 3. Hòa hợp và hy sinh. Muốn có sự hòa hợp thì cần phải có sự từ bỏ. Đã muốn hòa hợp thì không có tranh chấp thắng bại, bên thắng bên thua, mà phải cố gắng đi đến chỗ dung hòa. Từ bỏ thì phải nhịn nhục, mà nhịn nhục cũng là một hy sinh lớn. Có hy sinh mới có sự hòa hợp. Truyện: Ngọc trai. Chúng ta có biết con ngọc trai không ? Ngọc trai đã phải chịu đựng đau đớn biết bao nhiêu khi có những hạt cát rơi vào. Nhưng rồi mặc cho nỗi đau dầy vò, ngọc trai vẫn can trường bọc lấy những hạt cát để từng ngày tạo nên những viện ngọc tuyệt với. Ngọc trai là loài động vật có hai mảnh vỏ. Một đôi vợ chồng cũng như con ngọc trai vậy. Người vợ và người chồng như hai mảnh vỏ ngọc trai gắn kết với nhau để rồi một ngày tạo ra một viên ngọc trai quí. Khi có vật lạ rơi vào bên trong, nếu hai mảnh vỏ trai chỉ làm điều đơn giản là đẩy nó ra bên ngoài, hoặc tách rời ra và không phối hợp với nhau sẽ không bao giờ có những viên ngọc trai quí báu. Đầu tiên, chúng phải biết chấp nhận những điều khó chịu như những hạt cát, và rồi tận dụng những hạt cát đó để tạo ra một cái gì đó tuyệt vời hơn. Cuộc sống hôn nhân cũng thế. Muốn có sự hòa hợp cũng cần có thử thách. Phải qua thử thách mới có sự thành công vì không ai có thể chỉ “ngồi mát ăn bát vàng” được. Thành công phải được mua bằng gian khổ. Thiên Chúa quan phòng dường như qui định rằng: tình yêu vợ chồng đích thực chỉ có thể được khám phá và lớn lên qua những thử thách và khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta có thể so sánh tình yêu vợ chồng với cây nho: càng đâm rễ sâu trong vùng đất có nhiều sỏi đá, cây nho càng sản xuất rượu ngon. Chúng ta cũng có thể so sánh tình yêu vợ chồng với một thân cây mà rễ nó đâm sâu dưới đất đá thì tình yêu đó sẽ đứng vững trước sóng gió không làm nó bị bật gốc.
4. Hòa hợp và hòa giải. Trong Tám mối phúc thật, Chúa Giêsu phán:”Phúc cho ai có tinh thần hiếu hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Người hiếu hòa là người không ưa chiến tranh, và sở dĩ có chiến tranh là vì có tranh chấp. Nếu không giải quyết được tranh chấp thì chiến tranh sẽ xẩy ra. Trong một cộng đoàn không bao giờ thiếu vắng những tranh chấp vì “bá nhân bá tính”, ai cũng muốn làm theo ý mình chỉ vì tính tự ái. Muốn giải quyết được tranh chấp cần có sự hòa giải. Hòa giải là giải quyết sự việc theo cách hòa bình. Giải quyết vấn đề khó khăn để hai bên được hòa thuận, không còn xung khắc nữa. Trong đời sống gia đình, gia đình không thể nào tránh được xung khắc, mâu thuẫn. Chính vì thế mới có sự tranh chấp. Vợ chồng phải vượt qua sự tranh chấp để đi đến Hòa thuận. Người ta thường nói:”Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Mọi việc lớn việc nhỏ, việc gì rồi cũng qua và gia đình hòa thuận sẽ đem lại hạnh phúc.
Truyện: Vợ chồng hòa giải. Ngày xưa người Roma xem định chế hôn nhân là điều quan trọng cho sinh hoạt chính trị, xã hội. Do đó, họ rất quan tâm đến việc bảo toàn gia đình. Khi hai vợ chồng bất hòa và như vậy có thể gây nguy hại cho đời sống gia đình, người ta khuyên họ đến trình giện Nữ thần Hòa giải. Nghi thức diễn ra trước nữ thần rất đơn giản: mỗi người có thể trình bầy lý lẽ, phơi bầy những bất công mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói một lúc, hễ ai ngắt lời người kia hoặc cả hai đều nói một lúc thì điều đó được coi như một phạm thánh. Nghi thức này có thể mang lại những kết quả phi thường: sau khi trình bầy lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, bác bỏ mọi lời buộc tội, hai vợ chồng thường làm hòa với nhau trước mặt vị thần. Những người thời xưa đã có kinh nghiệm nhiều về đời sống gia đình. Hạnh phúc không phải tự nhiên mà có. Không ai có thể đem hạnh phúc đến cho chúng ta. Mỗi người phải tạo ra hạnh phúc, vì thế, hạnh phúc phải được vợ chồng trả bằng giá đắt: Vợ chồng là nghĩa tào khang, Chồng HÒA vợ THUẬN nhà thường yên vui, Sinh con mới ra thân người Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Matthêu ghi lại phần đầu bài giảng trên núi của HP25
Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Matthêu ghi lại phần đầu bài giảng trên núi của Đức Giêsu nói về những mối phúc thật như là một Hiến chương Nước Trời. Khi Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng thì có đông đảo dân chúng từ khắp nơi tuốn đến nghe Ngài giảng. Thánh Matthêu dùng từ “đông đảo” có ý nói lên tính cách phổ quát của sứ điệp và giáo huấn của Đức Kitô, đồng thời cũng ghi lại hình ảnh toàn dân tập hợp lại lúc ban lề luật trên núi Sinai, và như vậy“đoàn lũ đông đảo” ở đây là hình ảnh dân mới của Đức Giêsu tuyển chọn tức là Giáo hội. Đức Giêsu lên núi, ngồi xuống giảng dạy cho dân theo kiểu các bậc thầy. Thánh Matthêu lại dùng từ “núi” nói lên mức quan trọng của bài diễn văn này. Đức Giêsu nói với tính cách như một người có quyền, vì Ngài là Tiên Chúa, và đồng thời cũng nhắc lại việc ban lề luật trên núi Sinai (Xh 24,9). Chúng ta có thể gọi bài diễn từ này là “Hiến chương Nước Trời”. Bản Hiến chương này gồm có 9 mối phúc, nhưng thánh Matthêu qui vào 8 mối phúc vì cái phúc cuối cùng chỉ diễn giải và áp dụng mối phúc thứ 8. Trong tám mối phúc này, hôm nay chúng ta chỉ nói tới mối phúc thứ 7 là xây dựng hòa bình:”Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”(Mt 5,9). Đây là một đức tính có tính cách xã hội, vì thế nó không chỉ nhằm tới thái độ nội tâm như các mối phúc khác, song là một hành vi bên ngoài. Làm một con người hiền hòa, yêu mến, thuận hòa bất cứ nơi nào có bất hòa ngự trị (x. Mt 5,23-24). Lời hứa được gọi là con Thiên Chúa có nghĩa là trở thành con Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Chúa hòa bình (2Cr 13,11). Do đó mà ai gây bất hòa, gây chia rẽ là gây chiến tranh, và ai gây ra chiến tranh thì không đáng được gọi là con Thiên Chúa, không được hưởng mối phúc mà Chúa ban cho kẻ hiếu hòa. Trong bài này, chúng ta sẽ đề cập tới một vấn đề đang nóng bỏng, đó là CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH.
II. CHIẾN TRANH TRÊN THẾ GIỚI. 1. Thống kê. Theo sự khám phá của một sử gia thì trong khoảng 5700 năm (tức từ năm 3600 trước TC đến năm 1970) thế giới chỉ hưởng thái bình có 292 năm, còn lại 5278 năm phải chịu 14.531 cuộc chiến lớn nhỏ, sát hại 3,5 tỉ người. Riêng thế chiến thứ hai giết hại 60 triệu ngườ, không kể nhưng người bị thương, những người mất nhà mất của. Như vậy chiến tranh hoặc lớn hoặc nhỏ không khi nào ngưng xẩy ra trên thế giới. 2. Các loại hình chiến tranh. a) Trận địa chiến và du kích chiến. * Trận địa chiến là chiến tranh qui mô ký kết giữa hai phe, có chuẩn bị cho cuộc chiến, bên nào mạnh thì thắng do võ khí tối tân và tài chỉ huy, như trận Waterloo do Napoléon chỉ huy. * Du kích chiến là thứ chiến tranh không qui mô, không qui ước, luôn đánh lừa hoặc lợi dụng yếu tố sơ hở hoặc bất ngờ để diệt đối phương. Thứ chiến tranh này thường dùng cho kẻ yếu. Tuy thế, thứ chiến tranh du kích này rất khó tiêu diệt. b) Chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh. * Chiến tranh nóng là thứ chiến tranh được thực hiện giữa hai bên đối đầu bằng võ khí. Thứ chiến tranh này thực sự gây tại hại về người và của. Thứ chiến tranh này thường chỉ kéo dài một thời gian khi một bên thua một bên thắng hay hai bên ký hòa ước ngưng chiến thì chiến tranh mới chấm dứt. * Chiến tranh lạnh là thứ chiến tranh không dùng đến võ khí mà dùng đến đòn cân não. Hai bên luôn căng thẳng với nhau, âm thầm chuẩn bị chiến tranh. Người ta phập phồng lo sợ không biết khi nào chiến tranh xẩy ra. c) Chiến tranh khủng bố. Đúng ra, đây không phải là chiến tranh như chúng ta thường hiểu, nhưng trong thực tế, khủng bố làm cho nhiều người chết như trong chiến tránh nóng và làm cho người ta nơm nớp lo sợ, không bao giờ được yên ổn, vì cái chết có thể ập tới bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Người ta dự đoán rằng sẽ không có chiến tranh nguyên tử giữa các quốc gia, nhưng sẽ có khủng bố khắp nơi mà hậu quả của nó cũng tàn khốc, không khác gì chiến tranh thông thường.
III. CHIẾN TRANH TRONG GIA ĐÌNH. Thử hỏi: Ngoài xã hội đã có nhiều cuộc chiến tranh, còn trong gia đình có chiến tranh không ? Điều đó không ai chối cãi được, không gia đình nào có thể tránh được chiến tranh không lớn thì nhỏ, tuy không dùng đến võ khí. 1. Lý do chiến tranh. Trong đời sống vợ chồng, có rất nhiều mối bất hòa có thể đi đến chỗ xung đột, gây mất hạnh phúc. Những mối bất hòa ấy do nhiều nguyên nhân như vấn đề kinh tế tài chính, vấn đề xã hội và vấn đề tâm lý nam nữ khác nhau. Nhưng nếu để ý kỹ đến trạng thái của sự bất hòa xung đột giữa vợ chồng, chúng ta thấy có hai loại bất hòa khác nhau: - Bất hòa bùng nổ. - Bất hòa ngấm ngầm. a) Bất hòa bùng nổ. Thường thì những cuộc bất hòa bùng nổ do nguyên nhân tài chính hoặc những sai phạm rõ rệt của vợ hoặc chồng như cờ bạc, lăng nhăng. Bản chất của loại này thường sôi động. Aàm ĩ, khó kìm hãm được như vợ chồng chửi nhau ỏm tỏi, đập phá hoặc dùng đến võ khí “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân”, Tuy sôi nổi như thế, nếu giải quyết xong, hoặc qua cơn sóng gió thì trời lại yên, gia đình lại trở về mức bình thường. b) Bất hòa ngấm ngầm. Loại bất hòa này mang bản chất nhẹ nhàng, sâu kín hơn, âm thầm hơn và có khi lại gây đau khổ trường kỳ cho vợ chồng mà một trong những nguyên nhân chính đó là sự khác biệt nhau về tâm lý mà vợ chồng chưa tìm hiểu được nhau, hoặc biết mà không thông cảm. Đây là trường hợp mà công nương Diana và thái tử Charles nước Anh đã mắc phải. Nói về những định luật khác biệt giữa nam và nữ, chúng ta thấy có 5 định luật về sự khác biệt ấy, ở đây chúng ta chỉ nói tới định luật phân cách. Theo định luật phân cách: Nơi người nam: trái tim có nhiều ngăn Nơi người nữ: trái tim chỉ có một ngăn. Đối với người nam, trái tim có 4 ngăn: . Ngăn 1: dành cho chị và các con, anh rất yêu chị. . Ngăn 2: dành cho công việc. Đôi khi anh say mê công việc mà không lo cho vợ con. . Ngăn 3: dành cho lý tưởng. Anh thích tham gia chính trị, xã hội, đoàn thể… . Ngăn 4: dành cho giải trí. Đôi khi các ngăn này như biệt lập với nhau, khiến chị không hiểu anh nổi. Ai không ước mong được làm thái tử Charles và công chúa Diana của nước Anh ? Họ phải sống hạnh phúc lắm chứ ? Không ! Họ đã ly dị, gây scandal lớn cho nước Anh. Tại sao họ ly dị ? Vì Charles quá đam mê trong những trò chơi thể thao và mối quan tâm về môi sinh đến độ quên đi những chiều chuộng, săn sóc công chúa Diana đang chờ đợi nơi ông. Nhưng thiết tưởng người ta cũng cần hiểu biết rằng thái tử Charles muốn thể hiện nhân cách của ông qua những hoạt động ấy. Oâng muốn cho mọi người thấy mình là người đàn ông dũng mạnh và là con người biết lo cho đại sự. Hẳn hơn ai hết ông cũng mong được người vợ chia sẻ những sở thích và thể thao của ông. 2. Các loại chiến tranh. a) Chiến tranh nóng Khi vợ chồng bất hòa với nhau đến độ bùng nổ trong lời chửi rủa, đập phá, đánh đập. Có khi đuổi nhau cả ngoài đường, mọi người đều hay biết. Thứ chiến tranh này ít khi xẩy ra. b) Chiến tranh lạnh Đây là một thứ chiến tranh thường xẩy ra trong các gia đình ngay trong các gia đình được coi là hạnh phúc. Làm sao có thể thấy được một gia đình mà vợ chồng hoàn toàn đồng ý với nhau về mọi vấn đề trong cuộc sống ? Nếu có khác nhau, ắt có va chạm, nếu có va chạm, ắt có chiến tranh. Nhiều khi vợ chồng tức bực làm vẻ lạnh nhạt với nhau, không thèm chào hỏi, không thèm nói chuyện, bầu khí gia đình trở nên tẻ nhạt và buồn thảm. Tình trạng này kéo dài thì có thể biến gia đình thành một bãi tha ma cô tịch.
IV. KÝ HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH. Muốn kết thúc chiến tranh, thì một bên thắng, một bên thua hoặc ký kết một hòa ước với nhau. Như thế chẳng ai thắng, chẳng ai thua.Trong gia đình cũng thế, muốn được trên thuận dưới hòa hãy giải hòa giữa hai vợ chồng, phải từ bỏ tính tự ái, tính vị kỷ để chỉ nghĩ đến hạnh phúc chung là gia đình. Vợ chồng phải ý thức rằng chẳng ai là người hoàn thiện, ai cũng còn lầm lỗi hay thiếu sót và phải công nhận lời thiên hạ nói:”Tại anh, tại ả, tại cả hai bên”. Truyện: Cái bánh và chiếc lá khô. Người Ấn độ có câu chuyện ngụ ngôn như sau: một hôm cái bánh ướt và chiếc là khô rủ nhau hành hương đi thánh địa Benares. Biết rằng gió và mưa là những kẻ thù có thể làm hại mình, chúng đã cẩn thận vạch ra một chương trình hành động để tự vệ: khi gặp gió thổi đến thì cái bánh ướt sẽ che cho chiếc lá khô khỏi bị bay; còn khi gặp mưa thì chiếc lá khô sẽ che cho cái bánh ướt khỏi bị nhão. Kế hoạch tiến hành thành công. Nhưng một hôm trời vừa gió lại vừa mưa, không đứa nào che cho đứa nào nữa. Chiếc là bị gió thổi đi mất, còn cái bánh bị mưa làm tan rã. Nếu trong gia đình vợ chồng người nào cũng khăng khăng giữ phần thắng về mình, chỉ lo cho cá nhân mình, chỉ biết tìm hạnh phúc cho riêng mình thì gia đình sẽ tan rã. Hãy lo bảo vệ nhau, lo cho hạnh phúc của nhau, bỏ đi tất cả những gì làm cho gia đình trở nên lỏng lẻo, thì gia đình sẽ bền chặt và hạnh phúc. Hãy nhớ lại lời khuyên của thánh Phêrô: “Tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa để đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc”(1Pr 3,8-9). Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Chúng ta vừa được nghe đoạn Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió trên biển cả HP26
Chúng ta vừa được nghe đoạn Tin mừng thuật lại việc Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió trên biển cả theo lời cầu cứu của các môn đệ Ngài. Chúa Giêsu để cho sóng gió xẩy ra để thử thách niềm tin của các môn đệ, và trình bầy sứ vụ cứu thế của Ngài, đồng thời cũng là dịp củng cố niềm tin cho các môn đệ Ngài. Biển, theo quan niệm người Do thái, là nơi hỗn mang. Từ# đó phát xuất những sức mạnh đối nghịch với Thiên Chúa và con người. Việc Chúa dẹp yên sóng gió trên biển tỏ bầy quyền năng của Chúa trên sự dữ. Trên biển trần gian này, không thiếu gì nhữmg sóng gió của gian nan thử thách làm cho con người phải chao đảo, nhưng tất cả những sự dữ đó không thể vượt quá quyền năng của Thiên Chúa. Việc Chúa Giêsu nằm ngủ gợi đến sự vắng bóng của Chúa. Chúa nằm ngủ trên thuyền là hình bóng Hội thánh tại thế: vẫn có Chúa hiện diện nhưng bề ngoài chúng ta không cảm thấy. Sự hiện diện của Chúa nơi Hội thánh chỉ có thể nhìn thấy qua các biến cố và qua con mắt đức tin. Cuộc đời của từng người chúng ta đôi lúc như thiếu vắng Chúa, nhất là tnhững cơn gian nan thử thách. Chúng ta có cảm giác như mình bị bỏ rơi và muốn thưa với Ngài:”Lạy Chúa, Chúa ở đâu”? Nhưng Chúa chỉ trả lời trong ơn thánh và đức tin:”Ta vẫn ở bên con. đừng sợ”. Việc Chúa truyền cho sóng gió phải yên lặng gợi lên cho chúng ta ý tưởng rằng Chúa là Đấng toàn năng trên mọi tạo vật. Mọi loài, mọi vật phải vâng phục Ngài. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, chúng ta hãy kêu cầu Chúa, Ngài sẽ đến giúp như xưa Chúa đã đáp lời kêu cứu của các môn đệ mà truyền cho sóng gió phải yên lặng. Có Chúa trong đời ta còn sợ gì ? Truyện: Thi sĩ Lord Tennyson. Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ đối với Đức Kitô. Sau mấy giây thinh lặng, người bạn hỏi:”Anh có khi nào nghĩ về Đức Kitô không”? Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ tỏa hương bên đường, nói:”Như mặt trời đối với đóa hoa thế nào, thì Đức Kitô đối với tôi cũng vậy”(Góp nhặt).
II. CÁNH BUỒM TRƯỚC GIÓ. 1. Tức cảnh sinh tình. Trong Thánh lễ buổi sáng, tôi đã được chia sẻ bài Tin mừng này, trở về nhà, tình cờ tôi được xem một tấm ảnh chụp mầu một còn thuyền đang lướt sóng trên biển cả vào một buổi chiều với một cánh buồm căng gió. Đó là bức ảnh nghệ thuật tuyệt đẹp, muốn xem mãi. Sau này có dịp ra Vũng tầu, tôi cũng có dịp xem tận mắt một cánh buồm lướt sóng trên biển cũng vào một buổi chiều tà. Cảnh vật này này làm tôi nhớ đến bài hợp xuớng “ Rakhơi” của nhạc sĩ Hải Linh mà tôi đã có dịp điều khiển dàn hợp xuớng Thông reo, vừa ngâm nga, vừa xem cảnh, thật là thú vị. Ngày nay, khoa học tiến bộ hơn, đời sống giầu có hơn nên người ta thường dùng máy nổ chứ không dùng cánh buồm nữa. Tuy thế, ngày nay người ta vẫn còn tổ chức đua thuyền buồm, một cuộc thi rất đẹp mắt. Ngoài ra, môn thể thao lướt ván vẫn còn cần đến cánh buồm.
2. Một mối liên tưởng. Đúng là “Tức cảnh sinh tình”. Đứng trước một cảnh vật tuyệt đẹp, người nghệ sĩ không thể nào ngăn được những cảm hứng gợi lên trong tâm hồn, tôi đã sáng tác bài “Cánh buồm trước gió”. Và cũng trong dịp đó, tôi lại phải chứng kiến cảnh một gia đình tan vỡ, chồng một nơi, vợ một nẻo, con cái bơ vơ không có chỗ nương tựa. Trước cảnh cánh buồn căng gió và một gia đình tan vỡ, tôi tự nhiên nảy ra một vài tư tưởng mà tôi muốn trình bầy ra dưới đây: * Gia đình là chiếc thuyền . Tôi coi gia đình là chiếc rhuyền lênh đênh trên biển đời với một chiếc buồm căng gió đang ra khơi. Thuyền chỉ có thể lướt trên mặt nước nhờ cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ có tác dụng khi có gió thổi. * Cánh buồm là sự cố gắng. Tôi coi cánh buồm là sự cố gắng không ngừng của vợ chồng. Sự cố gắng của vợ chồng phải đồng đều. Thiếu cố gắng là không có cánh buồm hay buồm bị gẫy. Buồm phải luôn vươn lên đón gió, tức là vợ chồng vừa cố gắng, vừa đón nhật sự trợ giúp của Chúa. * Gió là ơn Chúa trợ giúp. Thánh Phaolô khi bị cám dỗ quá sức đã cầu khẩn Chúa trợ giúp, Chúa đã trả lời:”Ơn Ta đã đủ cho con”. Ơn Chúa ban cho chúng ta khi nào cũng đầy đủ, tùy theo công việc và tùy theo hoàn cảnh. Có hai thứ ơn Chúa: - Ơn thánh hoá: được ban cho ta khi ta sạch tội trọng, có ơn nghĩa cùng Chúa. - Ơn trợ giúp (ơn hiện sủng): khi nào Chúa cũng ban đầy đủ, nếu cần Chúa ban thêm cho từng trường hợp. * Tương quan giữa buồm và gió: Gió chỉ có tác dụng với thuyền khi buồm được căng lên. Nếu buồm không được căng lên thì gió chỉ đi qua, không thể làm cho thuyền di chuyển được. Cũng thế, ơn Chúa xuống nhiều trên ta mà ta không cố gắng tận dụng thì ơn Chúa sẽ qua đi một cách vô ích, không ảnh hưởng gì tới cuộc sống gia đình. * Hai mái chèo: Ngoài cánh buồm ra, chiếc thuyền còn được hỗ trợ bằng hai mái chèo. Khi buồm không thuận gió, người ta dùng đến hai mái chèo để đẩy con thuyền đi. Hai vợ chồng được ví như hai mái chèo: trong cơn gian nan thử thách, không thuận buồm xuôi gió, vợ chồng phải gồng mình lên mà chèo chống. Nhưng cứ yên trí, Chúa ngồi ở đàng lái mà lèo lái con thuyền gia đình ta đi đến đích bình an.
III. SÓNG GIÓ VÀ CON THUYỀN. Ai cũng phải công nhận đời sống gia đình rất phức tạp, cuộc sống gia đình không phải lúc nào cũng gặp cảnh thuận buồm xuôi gió: “Duyên đằng thuận nẻo gió đưa”(Kiều) nhưng có những lúc gió chuớng, có những con sóng tạt vào thuyền, đó là những lúc bị gian nan thử thách, mấy gia đình mà được bình an thoải mái. Người Ả rập có kinh nghiệm về vấn đề này khi nói:”Hôn nhân là một cái bao trong đó có 99 con rắn và một con lươn, ai có thể thọc tay vào đó” ? Phụ hoạ vào đó, ông Ben Jonson nói:”Hôn nhân là một cuộc xổ số”. Tuy thế, muốn cho gia đình được bằng an hạnh phúc, không phải là một điều khó lắm. Người ta tường nói: mỗi công việc đều có phương pháp của nó. Một hình ảnh đẹp gợi lên cho tôi ý tưởng đó. Tôi thấy một mẫu ảnh giấy vẽ cảnh hai vợ chồng đang cùng nhau vác cây thập giá lên dốc, có vẻ khó khăn lắm, nhưng có Chúa Giêsu,với hình bóng mờ mờ, đi đàng sau đang nâng thập giá lên. Tấm ảnh ấy có ý nói rằng: hôn nhân được coi như là một thập giá Chúa trao cho mà vợ chồng đang phải khó nhọc vác đi lên, nhưng họ không cô đơn lạc lõng vì có Chúa đang nâng đỡ. Nhưng nếu gia đình nào không chịu vác thập giá: hoặc vợ hoặc chồng hoặc cả hai không chịu vác hay cưa bớt cây thánh giá đi, thì gia đình đó sẽ thất bại.
Truyện: Cưa bớt thập giá. Một đoàn người vác thập giá của mình, vác đi cực nhọc dưới sức nặng của cây thập giá đè trên vai. Có một người vác một cây thập giá khá dài, không chịu được, ông cưa bớt đi một khúc. Sau cuộc hành trình gian truân, đoàn người đến trước một vực thẳm: tại đây không có một cây cầu nào để sang bên kia, là nơi được sống cạnh Chúa, và hưởng niềm vui muôn đời. Sau một lúc do dự, không ai bảo ai, mỗi người đều đặt cây thập giá của mình bắc qua vực thẳm. Lạ lùng thay, chúng vừa khít với bề ngang của vực thẳm, chỉ riêng cây thập giá bị cưa bớt cho đỡ nặng là hụt, và người vác nó phải đứng lại bên kia với niềm tuyệt vọng (Thiên Phúc). Đọc xong câu chuyện ngụ ngôn trên, chúng ta thấy Chúa đã cân sức của từng người, có sức vác bao nhiêu thì Chúa trao cho bấy nhiêu, cứ bằng lòng với hoàn cảnh của mình, đừng đứng núi nọ mà trông núi kia cao. Ai trong chúng ta đã không một lần gặp đau khổ, thất vọng trong cuộc sống. Được tạo dựng để sống hạnh phúc nhưng đau khổ đã trở thành người bạn của cuộc sống. Điều đau khổ hơn nữa là chúng ta không thể hiểu được nguồn gốc của đau khổ. Đức Kitô đã đến trong thế gian. Ngài đã sống như một con người đau khổ:”Đức Giêsu Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một mẫu gương cho anh em dõi bước theo Ngài”(1Pr 2,21). Chết treo trên thập giá, Ngài đã biến thập giá thành chiếc cầu nối giữa sự chết và sự sống. Qua cái chết của Ngài, ánh sáng đã chiếu dọi vào từng nỗi khổ đau của con người:”Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách”(Dt 2,18). Từ nay, thập giá không còn là chướng ngại trong cuộc sống, nhưng là con đường dẫn đến sự sống đích thực. Muốn có một gia đình hạnh phúc, chúng ta phải: - Cộng tác với ơn Chúa: Chúa không hành động một mình, cần phải có sự cộng tác của ta. Thánh Augustinô đã nói:”Khi dựng nên con, Chúa không cần đến con, nhưng Chúa không thể cứu con nếu con không cộng tác”. - Gia đình phải luôn cầu nguyện nhất là khi gặp những sự khó khăn. Hãy noi gương các môn đệ kều cầu Chúa cứu giúp khi gặp sóng gió bão táp, nhất là khi con thuyền sắp chìm. Chúa vẫn luôn ở kề bên chúng ta. Hãy lấy con mắt đức tin mà tìm ra Ngài. “Lạy Chúa, con biết rằng Chúa không bao giờ gửi đến cho con một cây thập giá nặng hơn sức mạnh, và dài hơn đôi vai của con. Thế nhưng, đã không biết bao nhiêu lần, con đã vội ném thập giá. Xin ban thêm sức mạnh để con vui vẻ tiến buớc theo Chúa. Amen (TP).
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2,6-8)
Trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô tông đồ khuyên nhủ các tín hữu hãy yêu thương HP27
Trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô tông đồ khuyên nhủ các tín hữu hãy yêu thương nhau, đừng ganh tị, hãy khiêm nhường, hãy tìm ích chung, hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô đã có. Và thánh nhân cảm nghiệm lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta, nên đã viết bài thánh ca này mà chúng ta trích một đoạn để ca ngợi lòng thương yêu sâu thẳm của Đức Giêsu trong việc Ngài bỏ mọi vinh quang trên trời, xuống mặc thân nô lệ phàm nhân và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta vừa qua mùa Giáng sinh. Trong suốt thời gian này chúng ta đã kỷ niệm việc Ngôi Hai xuống thế làm người, mầu nhiệm nhập thể. Chúng ta không thể hiểu được tại sao Ngôi Hai Thiên Chúa bỏ mọi sự cao sang của mình, xuống thế làm người, một con người rốt hết, để sống với chúng ta ? Ngài đã trở thành Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta chỉ biết đấy là mầu nhiệm. Chúng ta cũng sắp bước vào mùa chay, trong thời gian này chúng ta lại tiếp tục suy niệm việc Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại bằng cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Thiên Chúa thiếu gì cách cứu chuộc loài người mà lại chọn cái chết ô nhục trên thập giá như vậy ? Đó là một mầu nhiệm. Như vậy, chúng ta thấy trong đạo có ba mầu nhiệm chính và lớn lao là: - Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, - Mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, - Mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc. Chúng ta không thể hiểu được những mầu nhiệm lớn lao ấy, chúng ta chỉ tin vào Chúa mạc khải và chỉ biết rằng vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã hành động như vậy ; đồng thời cũng dạy chúng ta một bài học là biết yêu thương phục vụ nhau bằng cách VÉT CẠN con người của mình, quên mình đi để mưu cầu hạnh phúc cho người khác.
II. THƯỚC ĐO TÌNH YÊU. 1. Vét cạn bản thân. Tình yêu lớn lao và cao cả nhất là cho đi tất cả mà không cần tính toán so đo, không cần phải đền trả. Đó là “vét cạn” con người của mình mà phục vụ người khác. Đó là gương mẫu của Đức Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà đã bỏ tất cả để phục vụ loài người. Tinh thần ấy đã được thực hiện cao điểm ở trên thập giá:”Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”. Tình yêu lớn lao tỷ lệ thuận với việc “vét cạn” chính bản thân mình. Tình yêu đích thực được đo bằng mức độ quên mình, vét cạn chính mình. Càng quên mình bao nhiêu, tình yêu càng vĩ đại bấy nhiêu. Thế mà người ta quên mất. Một tác giả nhận xét rằng:”Ngày nay, ngườii ta dạy dỗ người trẻ về mọi kỹ thuật tình ái, nhưng điều cốt lõi nhất là tình yêu, người ta bỏ qua”. Nhưng tôi phải nói thêm: Đâu phải người ta không nói về tình yêu, quá nhiều là đàng khác, nhưng cái cốt lõi là QUÊN MÌNH, người ta không dám nói. Khi nói tới tinh thần hy sinh xả kỷ trong sự vét cạn bản thân, tôi có hai hình ảnh này để gợi ý và suy nghĩ: a) Bà goá bỏ tiền vào hòm. Người đàn bà ấy nghèo nhất, bỏ vào hòm ít nhất, bà chỉ bỏ vào đó có hai đồng kẽm, trị giá bằng ¼ đồng bạc Roma. Nhưng bà lại là người giầu có nhất, vì theo sự đánh giá của Đức Giêsu, bà đã bỏ vào hòm tiền nhiềâu hơn hết (Mc 12,43) . Tại sao vậy ? Bởi vì Chúa không chú ý đến số lượng mà chỉ chú trọng tới “chất lượng”, như người ta thương nói:Người ta thèm lòng chứ không thèm thịt”. Do đó, bà goá này thành người giầu có nhất vì đã “vét cạn chính mình”, đã dâng cho Thiên Chúa tất cả những gì mình có để sinh sống. Nhờ đó, bà có tất cả vì Thiên Chúa là tất cả. b) Ống sáo của Tagore. Nói đến đây, tôi liên tưởng đến cái ống sáo của thi sĩ Tagore. Có những người đã biến đời mình thành ống sáo đơn sơ, nhưng vì Thiên Chúa đặt môi vào nên ống sáo rung lên những giai điệu tuyệt vời. Mà để là ống sáo, điều kiện tiên quyết là phải rỗng. Những con người ấy đã vét cạn chính mình để đong đầy Thiên Chúa.
2. Tình yêu vô điều kiện. Khi nói về tình yêu đích thực, người ta muốn thêm vào một từ:”vô điều kiện”. Tình yêu đích thực phải luôn là vô điều kiện. Chúng ta vẫn yêu, nhưng yêu bằ#ng tình yêu có điều kiện. Ví dụ chúng ta yêu nhau vì người ta có chức quyền, tiền của hay sắc đẹp... Chúng ta yêu nhau theo nguyên tắc:”DO ut DES” nghĩa là tôi cho anh để anh cho lại tôi, như vậy hai bên cùng có lợi. Tình yêu loại này mà chúng ta sử dụng hằng ngày rất tự nhiên và bình thường, không có gì là xấu. Nhưng đó là tình yêu còn ở mức độ thấp. Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, mà là cho đi chính mình. Yêu thương là tận hiến. Nhưng chúng ta không thể nói được rằng chúng ta cho đi chính mình hoặc tận hiến, nếu chúng ta là nô lệ của sự vật, của người khác hay chính bản thân mình. Nếu chúng ta chỉ nỗ lực tìm kiếm, cung cấp cho mình cái gì đó đem lại tiện nghi dễ dãi, chúng ta sẽ không thể tận hiến được. Tình yêu thương đích thực không làm cho chúng ta trở thành nghèo nàn đi, mà khiến chúng ta được tự do thật sự. Nhưng nếu muốn cho đi để hy vọng được nhận lại, chúng ta chẳng nhận được gì hết. Cần phải biết cho đi cách nhưng không. Nếu chúng ta thành thật cho đi mà không chờ đợi gì cả, chúng ta sẽ nhận được tất cả. Khi đó, giữa chúng ta và ngườikhác sẽ phát sinh một cuộc thi đua, và chúng ta sẽ hiểu rằng tình yêu thương đích thực là như thế (Adani). Trong đời sống hằng ngày, chúng ta vẫn sử dụng thứ tình yêu có điều kiện này, mặc dầu không nói ra nhưng ai cũng phải công nhận rằng đây là tình yêu có điều kiện. Nhưng trong đời sống hôn nhân thứ tình yêu này rất nguy hiểm bởi vì nếu những điều kiện này không còn nữa thì gia đình sẽ ra sao, vì hôn nhân được xây dựng trên tình yêu mà ? Khi tiền của không còn nữa thì tình yêu sẽ ra sao , có bị cạn vơi đi không ? Lúc đó nguời ta sẽ nói: Bây giờ gạo hết tiền không Anh ơi ở lại mà trông lấy hòm. Bao giờ tiền có gạo còn Thì tôi trở lại trông hòm cho anh. (Ca dao) Duyên sắc có thể giữ mãi được nét thanh xuân của mình không, hay sẽ phải mai một với tuổi già như “mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi”, chắc chắn sắc đẹp sẽ phải giảùm sút và sẽ biết mất với thời gian, lúc ấy tình yêu sẽ gặp nguy cơ: Còn duyên kẻ đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. (Ca dao) Tình yêu của Thiên Chúa không như thế. Đó là một tình yêu vô điều kiện. Chúa yêu ta khi ta còn là tội nhân, còn là đứa con hoang đàng... Và tình yêu ấy gọi mời ta hoạ lại trong cuộc sống: vét cạn chính mình để đong đầy Thiên Chúa. Tập sống quên mình để viên mãn yêu thương.
III. TÌNH YÊU VỢ CHỒNG. Muốn cho đời sống vợ chồng càng bền chặt, càng hạnh phúc, sự hy sinh quên mình đóng một vai trò quan trong. “Bá nhân bá tính”, vợ chồng cũng thế, mỗi người một tính nết, không ai giống ai. Cho nên, nhịn nhục, dung hoà là điều cần thiết. Đã là vợ chồng thì kông nên “đối đầu” mà hãy “đối thoại” với nhau, để tìm ra tiếng nói chúng, và để có sự hiệp nhất yêu thuơng. trong cuộc sống lứa đôi, hãy áp dụng phương châm này:”Chuyện to hóa thành bé, chuyện bé hoá thành không” thì hạnh phúc mới bền lâu được. Thi sĩ Xuân Diệu có viết: Dù tin tưởng chung một đời một mộng, Em là em, anh vẫn cứ là anh”. Do đó, hôn nhân là một lựa chọn hy sinh. Không mấy khi đòi hỏi hy sinh mạng sống, nhưng “yêu là chết trong lòng một ít”, mỗi bên phải biết hy sinh một chút bằng cách từ bỏ ý riêng của mình . Về vấn đề này, tôi thấy Túy Hồng viết rất hay: “Tôi nguyện với tình yêu, lúc quay lưng xô ngã cuộc đời người con gái, tôi sẽ từ bỏ tất cả, xa sân khấu, lui khỏi địa vị một ngôi sao để làm một người tầm thường. Tôi sẽ từ giã sự nghiệp đang lên, hy sinh cả danh vọng để trọng nghĩa làm vợ. Một người đàn bà không thể vừa giỏi bên ngoài, vừa giỏi bên trong được. Vì chàng tôi phải ly thân với nghệ thuật. Tên tuổi tôi phải chết cho lòng thành quấn quít bên chàng...” (Trích trong “Lòng thành”, Truyện hay của Túy Hồng, Sàigòn 1964, tr 82). Người đàn bà Việt nam có truyền thống hy sinh cho gia đình, họ dễ dàng quên thân mình để mưu cầu hạnh phúc cho gia đình, cho chồng và cho con cái. Câu thơ dưới đây đã diễn tả được tâm lý của một người thôn nữ đơn sơ mộc mạc trước việc hy sinh bản thân cho gia đình: Vì chàng thiếp phải bắt cua, Những như thân thiếp, thiếp mua ba đồng. Vì chàng thiếp phải long đong, Những như thân thiếp cũng xong một bề (Ca dao) Truyện: chùm nho. Vào thời các vị tu hành sống trong rừng, trong sa mạc Ai cập và lo phụng sự Chúa bằng đọc kinh cầu nguyện và ăn chay, có một vị tên là Josephus. Có một người biếu thầy Josephus một chùm nho ngon. Josephus đọc bài Phúc âm sáng hôm ấy và nhớ lời dạy:”Con phải thương yêu anh em như chính mình”. Thế là thay vì ăn chùm nho, thầy đem chùm nho ấy đến biếu một thầy ẩn tu khác không xa chỗ thầy ở là bao. Sau dăm bảy bữa, một thầy ẩn tu khác đến gõ cửa thầy Josephus và biếu thầy chùm nho hôm trước. Thầy Josephus đuợc biết: chùm nho đã được chuyền đi hết mọi thầy ẩn tu trong vùng từ thầy này chuyển qua thầy khác và sau cùng lại chuyề#n lại cho thầy (W. Diamond, Đồng cỏ non, tr 133). Chúng ta hãy xin ơn quảng đại cho vợ chồng theo kinh của thánh I-nha-xi-ô: “Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết tận lực mà không chờ một phần thưởng nào khác, ngoài sự nhận biết con đã làm theo thánh ý Chúa thôi”. Amen. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Để cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ đi rao HP28
Để cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng để lôi kéo nhiều người tin theo Chúa. Chúa Giêsu cũng trông thấy trước cuộc sống cộng đồng của các môn đệ, cũng như các cộng đồng khác, sẽ nảy sinh sự bất đồng đưa tới sự chia rẽ. Trước nguy cơ ấy, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các ông để các ông hiệp nhất nên một như Ngài và Chúa Cha là một. Số người tin theo Chúa càng ngày càng đông, nguy cơ chia rẽ lại càng lớn; vì thế, không những Ngài cầu nguyện cho các môn đệ, mà còn cầu nguyện cho các kẻ tin vào Ngài nhờ lời rao giảng và giáo huấn của các môn đệ, nghĩa là cầu nguyện cho hết mọi thành phần trong Hội thánh. Mục đích Chúa Giêsu cầu nguyện là để mọi người tin vào Chúa Giêsu được hiệp nhất với nhau. Chính sự hiệp nhất này là sứ mạng và có tính cách thuyết phục thế gian tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Chúa Giêsu cầu nguyện cho Hội thánh được hiệp nhất trong tình yêu. Khi các Kitô hữu hiệp nhất với Chúa Kitô, thì được tham dự nhờ tình yêu hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, và trở thành dấu hiệu tuyệt vời bầy tỏ cho thế giới thấy thời kỳ cánh chung đã điểm, và Thiên Chúa đã chính htức sai Con Một Người đến thế gian mới thực hiện được việc tốt đẹp như vậy. Qua nhận thức trên, chúng ta có thể kết luận: - Yêu thương nhau là dấu chỉ của sự hiệp nhất và cũng là chứng tá có tính cách thuyết phục nhất, có giá trị tông đồ. - Được làm con Chúa qua bí tích rửa tội, chúng ta được hiệp nhất với nhau trong tình huynh đệ. - Chúng ta càng nỗ lực thánh hóa bản thân, chúng ta càng có gía trị để thánh hóa tha nhân, và đó là cách chúng ta sống hiệp nhất huynh đệ. Chúa Giêsu cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh hiệp nhất nên một trong một ngôi nhà chung. Ai cũng muốn được ở trong nhà và coi nhà là nơi ở vững chắc và vĩnh viễn cho mình chứ không phải như quán trọ. Một chàng trai và một thiếu nữ yêu nhau, họ muốn kết hợp với nhau nên một làm nên một xương một thịt và được ở trong một mái nhà ấm cúng. Ước vọng ấy đã được biểu lộ ra trong câu ca dao: Anh còn son, em cũng còn son, Ứớc gì ta được làm con một nhà. (Ca dao) Từ ngữ “một nhà” gợi lên một ý tưởng là một chỗ ở có tường kín, có mái che để ngôi nhà được ấm cúng, nhưng ở thì cũng có nhiều cách ở: có người khôn ngoan biết biến ngôi nhà thành “Mái ấm”, có người dại dột biến nó thành “Quán trọ”.
II. MÁI ẤM GIA ĐÌNH Ai cũng muốn cho mình có một ngôi nhà để ở, không phải ở nơi đầu đường xó chợ. Có biết bao trẻ em lang thang trên hè phố mà không có một nơi để nương thân trong khi trời mưa gió, sương tuyết lạnh lùng. Ước vọng duy nhất của chúng là có được một mái ấm gia đình. Có nhưng người tuy có nhà ở đấy, nhưng lại biến nó thành một ngôi nhà lạnh lẽo, buồn thiu, thiếu hơi ấm tình người. Người ta muốn cho mình thực sự phải có một mái ấm. Vậy mái ấm là gi ? Truyện: Mái ấm gia đình. Mới đây một tờ báo ở Luân đôn, thủ đô nước Anh, đã gửi câu hỏi:”Mái ấm gia đình là gì? Theo anh chị” , tới 1000 người. Có 800 người đã trả lời, tập trung vào các ý lớn sau đây: 1. Mái ấm: một thế giới xung đột khép lại, một thế giới tình thương mở ra. 2. Mái âm: nơi chuyện nhỏ là quan trọng, chuyện quan trọng là chuyện nhỏ. 3. Mái ấm: vương quốc của cha, thế giới của mẹ và thiên đàng của con cái. 4. Mái âm: nơi chúng ta cằn nhằn nhiều nhất nhưng được đối đãi tốt nhất. 5. Mái ấm: trung tâm của tình thương mà mọi lời ước nguyện của con tim quyện vào đấy. 6. Mái ấm: nơi dạ dầy chúng ta ăn 3 lần mỗi ngày và tâm hồn ăn ngàn lần mỗi ngày. 7. Mái ấm: nơi duy nhất trên trần gian mà mọi lỗi lầm và thất bại của con người được che đậy Dưới lớp áo bác ái êm dịu. (Giám mục Tone, Góp nhặt, tr 125-124) Vợ chồng đã thành lập gia đình thì phải cùng nhau đi theo một con đường dẫn tới hạnh phúc. Con đường dẫn tới hạnh phúc là con đường một chiều, không có lối rẽ, không có nẻo xuôi nẻo ngược, như Saint-Exupéry nói:”Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng”. Nhưng trong thực tế, rất nhiều gia đình đã có con đường chia thành hai lối với hai nẻo ngược xuôi: - Nẻo xuôi yêu đương. - Nẻo ngượùc đau thương. Khi vợ chồng thương yêu nhau thì mọi sự đều tốt đẹp vì “Yêu nhau chín bổ làm mười”, cuộc sống trôi chảy đều hòa, đúng là “duyên đằng thuận nẻo gió đưa” (Kiều), lúc đó con đường vợ chồng đi là con đường bằng phẳng:”Nẻo xuôi yêu đương”. Nhưng khi đã hết yêu thương thì những mối bất hòa xẩy ra như cơm bữa, ngấm ngầm hay bùng nổ. Con đường dẫn tới hạnh phúc bị bế tắc và dẫn đến nẻo ngược đau thương. Khi thương nhau, người ta có ngàn cách tỏ lòng yêu thương, nhưng khi ghét nhau, người ta cũng có ngàn cách trách tội nhau. Chính vì có sự đi ngược chiều như vậy nên nhà văn hào Honoré de Balzac mới nói:”Hôn nhân là đường đưa ta thới thiên đường hay đưa tói địa ngục”. Từ đó người ta không con mái âm gia đình nữa mà đã trở thành quán trọ bên đường.
III. QUÁN TRỌ BÊN ĐƯỜNG. Như ông De Balzac nói, khi nào hôn nhân dẫn ta lên thiên đàng thì gia đình đúng là mái âm, còn khi hôn nhân dẫn ta tới địa ngục thì đúng là quán trọ bên đường. Trong thực tế, không phải lúc nào hôn nhân cũng dẫn ta tới thiên đàng bởi vì người ta không còn yêu nhau nữa, những bất hòa bùng nổ, gia đình không còn là mái ấm nữa, không còn là nơi mong trở về, không còn là nơi để chia sẻ nữa, mà nó sẽ trở nên cái gì nếu không phái là cái QUÁN TRỌ, nơi mà mỗi người một góc, việc ai nấy làm, không cần để ý đến ai. Sự tan vỡ sẽ nới rộng ra từ đấy. Nhất là khi người vợ dám ngang nhiên nói: Lòng em như quán bên đàng Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi. (Ca dao) Lúc gia đình đã trở thành quán trọ thì tội nghiệp cho những đứa con vô tội, chúng phải ở trọ ngay chính trong gia đình mình. Chúng bơ vơ mồ côi ngay khi cha mẹ còn sống, lạc lõng để rồi có khi buông trôi tất cả, đi tìm quên lãng. Ngoài ra ngày nay còn một nguyên nhân khủng khiếp khiến người ta phá vở mái âm, đó là các dạng gia đình kiểu mới. Trong cuốn “Làn sóng thứ ba” tác giả Alvin Toffler cho thấy các dạng gia đình mới trở thành những hiện tượng quần chúng tại các nước Aâu Mỹ. Hiện tượng đó có chiều hướng tăng, và có thể nói được đây không còn chỉ là cơn khủng hoảng và là sự tan vỡ của gia đình. Nhất là khi kiểu gia đình truyền thống đang biến hóa để trở thành “câu lạc bộ” tình yêu, gặp gỡ dễ dàng và bỏ nhau cũng dễ dàng. Hoặc trở thành những “Tổ hợp tình yêu”, ăn chia sòng phẳng, của cải chia đều. Hiện nay trên thế giới có độ 40% vụ các đôi hôn phối ly dị, có nơi tới 50 hay 60%. Người ta không còn tin vào sự vững bền của hôn nhân. Họ sống trong tình trạng lo sợ bấp bênh, không biết có nên lập gia đình hay không, và nên lập gia đình dưới dạng thức nào. Một cuộc thăm dò mới đây tại Pháp cho thấy quá nửa số thanh niên nam nữ được hỏi đã cho biết họ rất sợ hôn nhân. Họ thích yêu nhau, nhưng họ không thích đi tới hôn nhân. Bởi vì họ thấy cuộc sống hôn nhân gia đình càng ngày càng phức tạp, số các đôi hôn nhân không được hạnh phúc càng ngày càng tăng. Vì thế đã nảy sinh ra nhiều dạng hôn nhân: 1. Hôn nhân không giấy tờ. 2. Hôn nhân giữa hai người cùng phái tính. 3. Gia đình một mẹ một con. 4. Gia đình một cha một con. 5. Gia đình hai vợ chồng không con. 6. Gia đình mẹ và con nuôi. 7. Gia đình cha và con nuôi. 8. Gia đình những con mồ côi sống chung. (Công giáo và dân tộc, số 955, tr 5) Khi mái ấm gia đình trở thành quán trọ thì gia đình còn ý nghĩa gì nữa ? Quán trọ chỉ dành cho khách không nhà và chỉ ở một thời gian ngắn, rồi không tha thiết gì đến nó nữa. Cái “Quán chiều” gợi lên cho ta một cảm giác mông lung, bơ vơ, lạc lõng, phảng phất một nỗi buồn man mác như Đặng đình Hồng mô tả quán chiều bằng mấy vần thơ: Cho xin bát nước cô hàng, Uống vào kẻo nữa dậm đàng còn xa. Thưa cô: tôi khách không nhà, Quán chiều là chốn thiết tha tôi ngồi. Ngày nay, đối với nhiều gia đình, từ ngữ “mái ấm” không còn ý nghĩa gì nữa, họ đang ở trong nhà mà luôn có cảm giác là ở trong quán trọ; mà đã là quán trọ thì không bao giờ ở vĩnh viễn; vì thế, gia đình sẽ tan vỡ và sẽ đi đến chỗ ly dị. Ly dị không những tai hại cho vợ chồng mà còn cho con cái. Trong một buổi“diễn đàn” của những trẻ em bất hạnh, các em đã thổ lộ nguyện vọng của mình:”Chúng cháu muốn được che chở, được sống trong tình yêu thương của mọi người, được học hành để trở nên người hữu ích cho xã hội. Chúng cháu muốn đừng bao giờ các bậc cha mẹ sinh thành lại bỏ rơi chúng cháu”. Những người ly dị nghĩ thế nào về câu nói của thánh Phaolô tông đồ:”Ai không săn sóc người thân, nhất là sống trong cùng một nhà thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin”(1Ti 5,8). Vậy mái ấâm hay quán trọ ? Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Đoạn Tin mừng hôm nay nói về vấn đề ly dị:”Những người Pharisêu đến gần Chúa Giêsu để thử HP29
Đoạn Tin mừng hôm nay nói về vấn đề ly dị:”Những người Pharisêu đến gần Chúa Giêsu để thử Ngài “Thưa Thầy, có được phép rẫy vô mình vì bất cứ lý do nào không” ? Đây là câu hỏi hóc búa vì lúc đó tại Do thái co hai lập trường về vấn đề ly dị: - Lập trường của trường phái Hillel thì rộng rãi, cho phép ly dị một cách dễ dàng. Ví dụ người vợ nấu một món ăn không ngon, cũng đủ lý do để ly dị. - Còn lập trường của trường phái Shammai thì khắt khe hơn, chỉ chấp nhận ly dị trong rất ít trường hợp. Chúng ta cũng cần nhớ rằng luật pháp Do thái thời đó chỉ nhìn nhận sáng kiến của người chồng mà thôi. Biệt phái biết vấn đề này gay go nên đem ra gài bẫy Chúa Giêsu bằng cách dùng lối “song đao luận” , thế nào cũng bị kết án: hoặc quá rộng rãi hoặc quá hẹp. Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích hai đoạn trong sách Sáng thế (St 1,27; 2,24). Đó chính là những lời thiết lập định chế đơn hôn và vĩnh hôn. Như thế, dứt khoát là không được ly dị, bởi vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Còn việc ông Moisen cho phép ly dị chỉ là thể chế loài người lập ra “vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Moisen mới cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có như thế đâu”. Điều này cho thấy rằng con người vì ích kỷ, nghĩa là đặt sự thỏa mãn của lòng mình trên hết, trên cả ý muốn của Thiên Chúa nữa, nên họ đã bất trung với Chúa, và vì vậy, họ bất trung với nhau trong đời sống hôn nhân. Ly dị là một tai họa lớn cho gia đình và xã hội. Ly dị làm cho gia đình tan vỡ để lại bao cảnh thương tâm cho xã hội cũng như Giáo hội mà không gì có thể bù đắp được. Nói về vấn đề này, tôi nhớ ngay đến câu ca dao người ta thường nói: Một liều ba bảy cũng liều, Cầm bằng con trẻ chơi diều đức dây.
II. CÂU CHUYỆN THẢ DIỀU. Nhân đọc bài Tin mừng nói về việc ly dị, tôi liên tưởng đến thú chơi diều xưa và nay, nhất là cảnh chơi diều ở miền Bắc ngày xưa. Ngày xưa, mỗi kỳ hè đi về miền quê nghỉ mát, tôi được xem thấy những con diều bay bổng trên cao với tiếng sáo vi vu êm dịu, thật là thơ mộng. Những em bé say sưa nhìn con diều của mình bay tít trên cao, cao đến độ không nhìn thấy. Thế mà cánh diều vẫn còn đó vì em bé còn cầm chiếc dây nhỏ nối với cánh diều. Tuy không thấy cánh diều nhưng em bé tin chắc rằng cánh diều vẫn còn vì vẫn còn sợi dây nối với diều. Ngày nay các em vẫn chơi diều đủ mọi kiểu dáng, đủ mầu sắc nhưng không còn tiếng sáo vi vu như ngày xưa nữa. Nhân nói về thú chơi diều, tôi có một vài ý nghĩ: 1.. Con diều và gió: Làm sao con diều có thể bay lên được ? Đó là nhờ sức gió. Gió đưa con diều lên, gió càng mạnh, con diều lên càng cao. Nếu gió đưa mạnh quá thì con diều bị đứt dây và sẽ rơi xuống. 2. Con diều và sợi dây: Nhưng nếu chỉ có gió thôi thì con diều có thể tự cất mình lên được không ? Chắc chắn là không ! Vì nếu tung con diều lên trước gió, con diều sẽ rơi xuống. Muốn cho con diều cất lên cao, cần có điều kiện gì nữa ? Thưa, đó là sợi dây. Gió thổi con diều, sợi dây ghì lại, nhờ đó con diều mới có thể cất lên cao, và cứ ở trên cao bao lâu còn gió thổi. Có một sự bất hợp lý giữa gió và sợi dây ! Gió có tác động thổi con diều lên còn sợi dây lại ghì con diều xuống, một đàng đẩy lên, một đàng kéo xuống, nhưng chính nhở sự giằng co ấy mà con diều mới có thể cất cánh. Đây là một sự bất hợp lý nhưng là một sự bất hợp lý cần thiết
III. THẢ DIỀU VÀ HÔN NHÂN. Đến đây, chúng ta thử đưa ra một vài so sánh để áp dụng vào đời sống hôn nhân, hy vọng có thể rút ra được một vài chi tiết ứng dụng vào trong đời sống gia đình. 1. Hôn nhân và con diều. Tình yêu là một cái gì rất ngọt ngào và cũng cay đắng, điều này chúng ta đã từng có kinh nghiệm. Hôn nhân cũng thế thôi. Vì vậy, ông J.F. Régnard nói:”Hôn nhân êm dịu nhất thì luôn là cái gông cùm”. Nhà hiền triết Socrate diễn tả tư tưởng này rất rõ ràng:”Những thanh niên đi tìm hôn nhân có khác nào những con cá đậu trước đầu lờ… Tất cả đều hăm hở mà chui vào, trong khi đó không biết bao nhiêu kẻ đang vùng vẫy một cách tuyệt vọng để thoát ra”. Biết như thế nhưng ai cũng muốn kết hôn, không muốn sống độc thân. Mặc dầu”Kẻ độc thân là một con công, đính hôn: một con sư tử, thành hôn: một con lừa” (Ngạn ngữ Tây ban nha), dù sao “Hôn nhân là một tai vạ, nhưng là một tai vạ cần thiết”(Ménandre). Khi nói tới hôn nhân, tôi liên tưởng tới con diều. Chơi diều là một thứ tiêu khiển tao nhã và có nghệ thuật, phải nâng niu làm cho con diều được vươn lên không trung để khoe hình dáng, mầu sắc nhất là được nghe những tiếng sáo vi vu phát ra từ con diều. Không ai ghét thú chơi diều. Tuy nhiên chơi diều đôi lúc cũng gặp những sự cố bất ngờ. Cũng thế, không ai ghét hôn nhân. Hôn nhân vẫn đẹp, vẫn cao quí, vẫn hấp dẫn. Không thiếu gì những người ca tụng hôn nhân bằng những hình ảnh, bằng những từ ngữ rất đẹp, rất mỹ miều. Chắc chắn cô dâu chú rể hôm nay cũng đang ngước mắt lên trời nhìn những cánh diều hôn nhân đang bay lượn làm đẹp mắt người xem, làm vui tai người nghe bằng những âm thanh ngọt ngào quyến rũ. Vâng, hãy làm cho những cánh diều hôn nhân bay lượn mãi trên không trung để làm cho cuộc đời mãi thêm đẹp đẽ hấp dẫn. 2. Gió và tình yêu. Gió không biên cương nên lúc nào cũng là khởi đầu, mà cũng không ai thấy gió, chỉ thấy sự hiện diện của nó. Tình yêu cũng thế, tình yêu có thể gõ cửa ngõ hồn ta vào những giờ không nhất định. Có khó gì đâu một buổi chiều: Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu. (Xuân Diệu) Tự bản tính con diều là theo gió mà bay. Trời càng rộng, gió càng lộng thì con diều lên càng cao. Trong hôn nhân, chúng ta có thể ví tình yêu với gió, hôn nhân với con diều. Muốn cho con diều cất lên không trung thì cần có gió. Và gió là điều kiện tối thiết, không có gió thì con diều vô phương cất cánh lên. Cũng thế, con diều hôn nhân cần có gió tình yêu. Hôn nhân cần phải có tình yêu, nếu không thi “Hôn nhân không tình yêu là ngày không có rạng đông”(Alphonse Karr). Khi nào ngưng gió thì con diều sẽ rơi xuống, hôn nhân phải có tình yêu nâng đỡ, khi nào tình yêu hết, hôn nhân cũng kết thúc và tan vỡ:” Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé”(Hồ xuân Hương). Chúng ta phải công nhận rằng tình yêu là nền tảng của hôn nhân. Nền tảng vững thì tòa nhà vững, nền tảng yếu thì tòa nhà sụp đổ. Tình yêu là nền tảng vững chắc cho nên hôn nhân cũng vững chắc. Nếu lấy chức quyền, danh vọng, tiền của, sắc dục làm nền tảng cho hôn nhân thì chắc chắn gặp nguy hiểm vì tất cả những thứ đó rất mong manh, nay còn mai mất, vô phương cứu chữa. Chức quyền, danh vọng hay tiền của đâu có vững chắc ? Thời thế thay đổi, địa vị con người cũng thay đổi, nay có thể là ông lớn, mai có thể là thằng nhỏ, nhân tình thế thái đổi thay khiến người “lên voi xuống chó” là lẽ thường. Sắc dục cũng không có thể là nền tảng của hôn nhân, bởi vì nhan sắc bị hủy diệt theo thời gian, càng già càng xuống cấp với da mồi tóc bạc, lưng còng, mắt mờ, còn hàm răng thì”chiếc rụng, chiếc gẫy chiếc lung lay”(Nguyễn Khuyến). Còn nhan sắc thì được chồng ưa thích, chiều chuộng, khi đã xuống cấp thì: Còn duyên anh cưới ba heo, Hết duyên, anh đánh ba hèo đuổi đi. (Ca dao) Gió phải luôn có để giữ cho con diều được đứng vững. Nếu gió mạnh quá sẽ làm cho con diều đứt dây. Ở đây chúng ta muốn đề cập đến “Tình yêu không biến giới” hay “Tình yêu không giới hạn”. Người ta hiểu lầm câu nói của thánh Augustinô:”Mức độ của tình yêu là không có mức độ nào” hay “Giới hạn của tình yêu là không có giơi hạn”. Tình yêu không giới hạn đây không có nghĩa là yêu bừa bãi, yêu vô kỷ luật, yêu ai thì yêu, muốn yêu thế nào cũng được. Nhưng tình yêu không biên giới đây phải nhằm vào “chiều sâu” của tình yêu, nghĩa là yêu nồng nàn say đắm, yêu với tất cả con người mặc dầu phải hy sinh đau khổ như Chúc Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của người chết cho bạn hữu”. 3. Sợi dây và hôn nhân. Con diều được bay lên cao không những phải nhờ sức gió mà còn phải nhờ sợi dây ràng buộc. Ngày nào nó rũ bỏ sợi dây để mà lên cao thêm (đứt dây) tức là ngày nó tự rơi xuống vực sâu. Cái dại khờ của con diều là chỉ biết gió và cứ lên mãi mà không hiểu rằng sợi dây ràng buộc lại cần thiết cho nó khỏi bị rơi xuống. Bất cứ một tổ chức nào cũng cần phải có luật lệ hay nội qui để mọi người theo đó mà xây dựng. Nếu không có luật lệ thì sẽ xẩy ra cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược, tổ chức đó không có sự hiệp nhất sẽ dẫn đến sự tan rã. Hôn nhân cũng phải có luật để nhờ đó vợ chồng xây dựng gia đình, biến gia đình thành một mái ấm yêu thương. Chúng ta còn nhớ hôn nhân công giáo có hai đặc tính, đó là ĐƠN HÔN và# VĨNH VIỄN, nghĩa là không chấp nhận chế độ đa thê hay đa phu, và không chấp nhận ly dị. Còn một số luật khác nhưng đây là hai luật căn bản không có thể châm chước được. Nhiều người chống đối hai luật này. Người ta cho rằng luật này có tính cách vô nhân đạo, gây khó khăn cho gia đình, làm mất hạnh phúc của người ta. Nhưng thực ra, điều luật này lại bảo đảm cho hạnh phúc gia đình, nó khiến cho người ta kiên nhẫn vượt qua mọi khó khăn để giữ vững gia đình, làm cho xã hội thêm vững chắc, vì hôn nhân gia đình là nền tảng của xã hội. Người ta cố gắng biến gia đình thành mái ấm yêu thương chứ không biến thành quán trọ. Lời Chúa vẫn luôn có giá trị:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp loài người không được phân ly” (Mt 19,6 ; Mc 10,9). Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Thánh Gioan cho biết khi mới khai mạc công cuộc truyền giáo, Chúa Giêsu và các môn đệ được HP30
Thánh Gioan cho biết khi mới khai mạc công cuộc truyền giáo, Chúa Giêsu và các môn đệ được mời dự tiệc cưới của người bà con tại Cana, cả Đức Mẹ cũng được mời tham dự. Tiệc cưới bao giờ cũng vui tươi với tiếng đàn tiếng ca, với bao nhiêu lời chúng tụng tốt đẹp cho cô dâu chú rể, chúc cho họ được trăm năm hạnh phúc. Rượu là một thành phần không thể thiếu được trong tiệc cưới vì rượu làm cho khách dự tiệc thêm hứng khởi như Sách thánh đã nói:”Vinum laetificat cor” (Tv 103,15 ; Eccli 31,35). Đang dự tiệc mà thiếu rượu thi thật là nhục nhã và khổ tâm cho gia chủ. Nhưng may thay, Mẹ Maria có mặt ở dưới bếp và Ngài biết rõ sự cố xẩy ra vì Ngài thấy người ta xì xèo, bàn tán xôn xao và nỗi lo lắng hiện ra trên nét mặt gia chủ và những người phục vụ. Không cần phải ai nhờ vả, Mẹ Maria đã nhanh chân lên nhà trên, ghé vào tai Đức Giêsu và nói:”Họ hết rượu rồi”. Mẹ đã xin thì Chúa Giêsu không thể từ chối nên Ngài đã làm phép lạ cho nước hóa thành rượu. Rượu mới này vừa ngon lại vừa dồi dào, mọi người tha hồ chén tạc chén thù Qua sự cố này, chúng ta thấy tiệc rượu bao giờ cũng vui, hết rượu thì lo buồn và có thêm rượu thì lại vui. Biến cố này hé mở cho chúng ta thấy đời sống hôn nhân gia đình bao giờ cũng khởi đầu bằng sự vui mừng, nhưng trong quá trình của cuộc sống rượu tình đôi lúc cũng bị vơi, có lúc cạn kiệt bởi những sự va chạm, xích mích và những bất hòa làm cho gia đình phải chao đảo cóù khi đi đến chỗ tan vỡ. Nhưng nếu biết chịu đựng lẫn nhau, biết dung hòa những quan điểm khác nhau làm nên một sự hiệp nhất thì đời sống gia đình lại trở nên vui tươi đầm ấm.
II. PHẢI TẬP THÍCH NGHI. Trong đời sống hôn nhân, không bao giờ vợ chồng có cùng một tính khí, một ước vọng hay một quan điểm bởi vì “bá nhân bá tính”, làm sao có thể có sự đồng nhất được mà chỉ có sự hòa hợp, hòa đồng với nhau. Ngoài ra, nếu hai người có một tính khí như nhau, một ước vọng, một sở trường sở đoản như nhau thì đời sống sẽ mất vui đi vì cần phải có sự đa dạng, cần có sự bổ túc cho nhau để làm nên một cái gì mới. Có người hỏi một bà: - Trong cuộc sống 20 năm của ông và bà, bà cảm thấy có những gì chung nhất? Bà vợ suy nghĩ một hồi lâu rồi trả lời: - Điểm chung nhất là chúng tôi cưới cùng ngày, cùng tháng, cùng năm. Như vậy, không ai giống ai, mỗi người có một thế giới riêng. Thế giới của chồng thì khác với thế giới của vợ, và ngược lại, thế giới của vợ chắc chắn phải khác với thế giới của chồng. Chính vì vậy người ta mới nói: Thế gian được vợ hỏng chồng, Có đâu lại được cả ông lẫn bà. (Ca dao) Khi học về tâm lý hôn nhân, chúng ta đã được học 5 định luật về sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà. Chỉ còn có một cách là hai vợ chồng phải bổ túc cho nhau để làm nên sự hòa hợp chứ không bao giờ có sự đồng nhất cả. Truyện: Con thằn lằn. Bỏ xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê người quả là một lý tưởng đáng ca ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên thiếu nữ tây phương chán cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong xã hội dư dật, đã tình nghuyện sang các nước thuộc thế giới thư ba để phục vụ. Một thanh niên nọ đã xin đến Aán độ để phục vụ người nghèo. Ra đi hồ hởi bao nhiêu, giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và tất cả đều làm anh chán nản: từ khí hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất là những khuôn mặt xem ra rất bí hiểm đối vói anh. Nhưng điều làm cho anh mất hết kiên nhẫn lại là một điều không đáng quan tâm mấy. Người ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện nghi lắm, anh dọn dẹp và sắp xếp lại cho tươm tất.. Duy chỉ có một chướng ngại mà anh không thể vượt qua để có thể sống bình thản. Đó là sự hiện diện của một con thằn lằn. Anh tìm mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng vô ích. Đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật, anh đành phải nghĩ đến chuyện làm quen với nó. Dần dần, con thú đã trở thành một người bạn của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi con vật đã trở thành thân thiết với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều đức tính trong đó quan trọng hơn cả đó là tài săn muỗi của nó. Sự hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám phá được một chân lý trong cuộc sống: những khó khăn không đến từ môi trường chung quanh, mà chính là bản thân của anh. (Lẽ sống tr 64-65). Miền Hậu giang của chúng ta bị lũ lụt hằng năm mà không thể nào tránh được. Người ta phải tìm cách sống chung với lũ. Đã không chống lại được thì phải tìm mọi cách để sống chung với lũ mà mình không bị thiết hại. Đã không chống lại được thì phải tìm cách thỏa hiệp. Chúng ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du:”Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, như để nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng của chúng ta. Khi chúng ta vui, chúng ta cảm thây như cảnh vật chung quanh cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn thấy u ám, Lắm khi những vấn đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại cảnh, từ những người khác, mà chính từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta thường được chúng ta nhìn thấy nơi tất cả mọi người chung quanh, cảnh vật chung quanh chỉ là phản ảnh cái tâm trạng của anh. Trái lại, khi chúng ta vui, chúng ta sẽ cảm thấy như mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả thật, chúng ta đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy lại cho chúng ta. Những khó khăn xẩy ra cho chúng ta nhiều khi không phải do người khác hay ngoại cảnh gây nên mà do chính lòng chúng ta đã tạo nên nó. Cho nên, người xưa dạy:”Tiên trách kỷ, hậu trách bỉ”: trước tiên phải trách mình, sau mới trách người. Như thế, chính mình là nạn nhân của những sai lệch mình tạo ra. Chúng ta không thể theo chủ trương của những người theo thuyết hiện sinh vô thần được và ông tổ của họ là Jean Paul Sartre. Không hiểu ông Sartre có cái nhìn thế nào mà dám tuyên bố một câu xanh rờn:”L’enfer, c’est les autres”: tha nhân là hỏa ngục đối với tôi. Nhưng ta có thể hỏi ngược lại: tha nhân là hỏa ngục của ông hay ông là hỏa ngục của tha nhân ? Thưc ra, thiên đàng hay hỏa ngục ở ngay chính trong lòng mình: hễ mình nghĩ thế nào thì chính mình sẽ ra thể ấy. Truyện: Phải sửa lòng mình trước. Có một chàng thanh niên khao khát trở thành một thánh nhân. Chàng xin vào một dòng tu. Không mấy chốc, chàng khám phá ra tính tình nóng nảy của mình. Nhưng thay vì tìm căn nguyên nơi mình, chàng qui trách cho những người chung quanh. Tha nhân đã trở thành hỏa ngục đối với chàng. Sau cùng, không còn chịu nổi đời sống tập thể nữa, chàng nghĩ có thể tìm thấy sự yên tĩnh trong sa mạc. Thế là chàng đã lên đường tìm đến một nơi hoang vu vắng vẻ để cắm lều sống đời ẩn sĩ. Mà thật thế, chàng đã tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn. Tuy nhiên, sự bình an trong cô quạnh ấy không kéo dài được. Ma quỉ đã kéo đến và chúng đã gây xáo trộn trong căn lều xinh xắn của chàng. Không còn giữ được bình tĩnh, chàng đã nổi cơn tam bành và đạp đổ tất cả… Sau cơn giận dữ, trở lại trạng thái bình thường, chàng mới hồi tâm suy nghĩ: Tôi đã bỏ lại tu viện các anh em của tôi, nhưng tôi lại mang chính tôi vào sa mạc. Không phải anh em tôi là căn nguyên của đau khổ của tôi, nhưng tính tình của tôi mới là đầu mối của mọi đổ vỡ… Trong việc thích nghi với hoàn cảnh sống, sự nhịn nhục là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được. Muốn dung hòa được sự khác biệt thì cần phải từ bỏ mình, chịu nhìn nhận quan điểm của người khác, còn nếu cứ khăng khăng giữ lấy quan điểm của mình thì không bao giờ có sự dung hòa được. Vì thế người ta mới nói: Nhẫn thị thân chi bảo, bất nhẫn thân chi vong, Thiệt nhu thường tại khẩu, xỉ chiết chỉ vị cương. (Sách Cảnh Hành lục) Nghĩa là: Nhịn là của báu của thân mình, Chẳng nhịn là vạ của thân mình. Lưỡi mềm vẫn còn nơi miệng, Răng gẫy chỉ vì cứng. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Sau khi Đức Giêsu được các môn đệ tuyên xưng rõ ràng Ngài là Đ61ng Thiên Sai: ”Thầy là Đấng HP31
Sau khi Đức Giêsu được các môn đệ tuyên xưng rõ ràng Ngài là Đ61ng Thiên Sai: ”Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằngsống”(Mt 16,16). Thì Ngài tiết lộ cho các ông biết Ngài đang tiến về Giêrusalem để chịu khổ nạn. Thánh Phêrô không thể nào chấp nhận được việc làm của Ngài nên nên sau khi quở trách Phêrô vì đã cản ngăn Ngài đi theo con đường thập giá, Đức Giêsu nói thêm rằng con đường ấy là con đường mà bất cứ ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải đi theo:”Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”(Mt 16,24). “Nếu ai muốn theo Thầy…”: Chúa không ép ta theo Ngài, Chúa không buộc ta bỏ mình và vác thập gia. Ngài chỉ mời ta thôi và cho ta tự do. Nếu ta muốn theo thì hãy bỏ mình và vác thập giá, nếu không thì thôi. Nhưng vì thương ta, nên Ngài cho biết những sự lợi hại: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đánh mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”, và “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình thì được ích gì”? Chúa không bảo chúng ta đi tìm thập giá, nhưng là hãy vác lấy thập giá mình. Một cách nào đó, không ai có thể thoát khỏi thập giá trong cuộc sống (…). Đau khổ không phải là một đầy đọa mà con người phải gánh chịu, mà là một phương thế nên thánh. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá. Ai trong chúng ta cũng đang chịu một đau khổ nào đó. Ước gì khổ đau thanh luyện chúng ta để mỗi lúc được kết hợp với Chúa mật thiết hơn (Mỗi ngày một tin vui).
II. THẬP GIÁ TRONG CUỘC ĐỜI. 1. Ai cũng có thập giá. Thập giá được hiểu là nhữngg đau khổ mà con người phải gánh chịu trong đời sống hằng ngày. Ai mà không có đau khổ ? Chỉ ai được hưởng hạnh phúc tuyệt đối rồi mới không còn đau khổ, mà hạnh phúc tuyệt đối này chỉ có trên thiên đàng. Trong kinh Lạy Nữ Vương, ta thấy có tư tưởng coi thế gian là thung lũng nước mắt (vallum lacrimarum), là chốn khách đầy. Đức Phật Thích Ca gọi đời là “bể khổ”. Thi sĩ Nguyễn gia Thiều diễn tả tư tưởng ấy trong cái nhìn yếm thế về cuộc đời: Trắng răng đến thuở bạc đầu, Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần. (Cung oán) Đức Giêsu cũng khuyên hãy chấp nhận đau khổ, nhưng phải bình tĩnh đừng lo lắng quá, hãy tin tưởng vào Chúa quan phòng bởi vi “Sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày đó”. 2. Chấp nhận hay từ chối. Đứng trước thập giá của cuộc đời, mỗi người có một thái độ: có người chấp nhận, có người từ chối. Người biết chấp nhận thì nhìn đời với con mắt lạc quan, không coi đời là bể khổ mà chỉ coi đời có những đau khổ cần phải vượt qua, đôi lúc coi đau khổ là cần thiết vì nó là lò luyện đức luyện tài: Nếu phải đường đời bằng phảng cả, Anh hùng ào kiệt có hơn ai. (Phan bội Châu) Hoặc: Bốn mùa ví những xuân đi cả, Góc núi ai hay sức lão tùng. (Nguyễn công Trứ) Còn những người không biết chấp nhận mà phải chịu đựng một cách miễn cưỡng thì họ nhìn đời với cặp mắt bi quan, chỉ biết than thân trách phận, chống trời chống người, . Họ không biết thoát ra hay sống chung với đau khổ mà chỉ than van như những người hiện sinh vô thần: Tại sao tôi sinh ra trong đau khổ, sống đau khổ rồi chết cũng đau khổ ? Không tìm ra được câu giải đáp nên họ kết luận: Đời là phi lý. 3. Cách vác thập giá. Có hai cách vác thập giá: một là tự nguyện, hai là miễn cưỡng. Thái độ tự nguyện sẽ làm cho thập giá trở nên nhẹ nhàng, còn thái độ miễn cưỡng thì làm cho thập giá càng nặng thêm, mặc dầu thập giá đó đều bằng nhau. Truyện: Hai cách vác thập giá. Thầy Napoléon Almoint đã kể câu chuyện vui sau đây: Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với hai trong số muôn vànmôn đệ của mình, và Ngài đưa họn đến một đầu đường, rồi trao cho mỗi người một cây thập giá giống nhau và nói: - Mỗi người các con hãy vác lấy thập giá này đi đến cuối đường trước mặt, Thầy sẽ đợi các con ở đó. Nói xong, Chúa biến đi. Hai đồ đệ bắt đầu vác lấy thập giá mình. Người thứ nhất vác lấy thập giá mình cách nhẹ nhàng, chân rảo bước ngày càng nhanh, xem ra như không có vấn đề gì cản trỏ hay gây phiền phức cho anh cả. Nội trong ngày, anh đã đến cuối đường và gặp Chúa Giêsu đang chờ sẵn nơi đó. Người thứ hai, mãi sang chiều ngày hôm sau mới đi trọn con đường. Có vẻ anh rất mệt mỏi, không còn vác nổi mà chỉ còn biết kéo lê cây thập giá. Thập giá của anh xem ra mỗi lúc một nặng thêm. Anh gần như kiệt sức. Vừa gặp Chúa, anh phàn nàn ngay: - Chúa đối xử bất công quá. Chúa cho con cây thập giá rất nặng. Còn anh kia, Chúa cho cây thập giá nhẹ hơn, nên anh đã đến trước con từ lâu rồi. Gương mặt vui tươi của Chúa bỗng trở nên nghiêm nghị. Chúa đáp: - Này con, Ta không đối xử bất công đâu. Hai cây thập giá giống nhau và nặng bằng nhau. Con đừng trách thập giá nào nhẹ nó trở nên nặng là vì trong tâm hồn con. Ngay từ lúc đầu, trong suốt thời gian đi trên quãng đường Ta chỉ, con luôn luôn than phiền, trách móc, thập giá nặng, và càng than phiền, thì thập giá càng trở nên nặng nề. Người bạn đồng hành với con đã đến trước vì lúc nào trong tâm hồn cũng tràn đầy yêu thương. Thình yêu làm thập giá trở nên nhẹ nhàng (R. Veritsa, Aùnh sáng thế gian, tr 68-69).
III. NGHỆ THUẬT VÁC THẬP GIÁ. 1. Phải vui tươi lên. Tôi phải vui cười, không phải vì”cuộc đời chẳng qua là trò phường chèo, không co chi là nghiêm trang, đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi” (Nguyễn văn Vĩnh). Cũng không phải là “cười, kẻo chết đến mà chưa được cười”(La Bruỳere). Tôi phải cười, vì đã có lời Chúa phán với tôi: Hãy vui lên, hãy hát lên”(Mt 5,12). Và lời thánh Phaolô:”Hãy vui lên, hãy vui lên nữa”(Pl 4,4) 2. Tôi sẽ mỉm cười. Một chị nữ tu nọ gặp nhiều thử thách, nào là va chạm trong cuộc sống chung đụng với chị em, nào là khi công việc không thành công liền bị phê bình chỉ trích thế này thế khác… Những thử thách ấy lắm lúc làm chị nản lòng thối chí. Nhưng sau những phút suy niệm Lời Chúa trước Chúa Giêsu Thánh Thể, chị đã quyết tâm sống can đảm, chị làm việc vì Chúa, chị tìm kiếm thánh ý Chúa, không sợ dư luận bàn tán vào ra. Chị chọn một câu châm ngôn rất đơn sơ:”Tôi sẽ mỉm cười”. Sáng vùa thức dậy, chị nói ngay:”Hôm nay tôi sẽ mỉm cười”. Trước mọi hoàn cảnh khó khăn, chị tự nhủ:”Tôi sẽ mỉm cười”. Từ đó công việc hóa ra nhẹ nhàng, mọi người chung quanh chị cũng được thoải mái vui tươi. Người nữ tu mỉm cười đó, chính là thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, quan thầy các xứ truyền giáo. 3. Ảnh hưởng của nụ cười. Có một thanh niên đang đi trên đường phố, bỗng gặp thấy một thiếu nữ khá xinh đi ngược chiều. Không biết cô ấy đã nghĩ điều gì vui trong lòng mà tự nhiên cô nở một nụ cười thật tươ, đúng vào lúc chàng trai kia đi qua. Bốn mắt giao nhau. Chàng trai cảm thấy vui sướng vì nghĩ rằng người đẹp chú ý đến mình. Lòng chàng trai cảm thấy rộn ràng, sảng khoái. Chàng vừa bước đi vừa huýt sáo nho nhỏ…Về đến nhà, anh nhìn thấy sách vở của mình nằm lộn xộn trên bàn, bút viết mỗi nơi mỗi chiếc. Hai đứa em ngỗ nghịch đã phá phách lúc anh vắng nhà đấy mà ! Thường ngày thì nỗi đứa chắc đã nhận được một, hai cái tát tai rồi, nhưng hôm nay, vì đang vui, nên anh biết tự chủ, dằn được cơn nóng giận. Anh yên kặng xếp lại sách vở cho ngăn nắp. Hai cậu em, thấy anh mình hôm nay tỏ vẻ nhịn nhục, nên hối hận> Chiều đó, hai cậu tự động học bài, làm bài, không chờ mẹ phải thúc giục như mọi ngày. Bà mẹ cũng ngạc nhiên khi thấy các con mình hôm nay ngoan quá, nên muốn nấu mon canh sao cho thật ngon để chiêu đãi cả nhà. Oâng bố mọi khi đi làm về thường hay cằn nhằn, hoặc lớn tiếng về những chuyện không đâu, như để bù trừ những nhọc nhằn vất vả phải gánh chịu suốt cả ngày. Nhưng hôm nay, khi bước vào nhà, nghe tiếng con trẻ học bài, nhìn sang thấy vợ vừa nhặt rau vừa tủm tỉm cươi, ông liền cảm thấy lòng thư thái, an vui. Buổi tối hôm ấy, mọi gnười đếu thấy bầu khí gia đình ấm áp, hạnh phúc, nhưng không ai biết tại sao. Sáng hôm sau, hai cậu bé đi học. Đến lớp, thầy giáo hỏi câu nào hai cậu đều trả lời trôi chảy câu đó. Thầy giáo tỏ vẻ hài lòng, và bỗng nhiên, bài giảng của thầy hôm ấy thật là sôi nổi, hào hứng. Thỉnh thoảng, thầy còn thêm vào vài câu chuyện cụ thể làm ví dụ, nên cả lớp đều chăm chú lắng nghe, không còn ai ngủ gà ngủ gật như trước nữa. Bọn trẻ tự nhủ: thầy giáo dạy tận tâm như thế mà lâu nay chúng mình biếng nhác quá, làm phiền lòng thầy. Thôi, yư nay, chúng mình phải chăm chỉ hơn mới được. Thế là ngay chiều hôm ấy lại có thêm mấy chục gia đình cảm thấy bầu khí gia đình bỗng trở nên vui tươi hạnh phúc và rộn ràng vì tiếng trẻ học bài. (Góp nhặt 4, tr 108). Đọc xong câu chuyện này, chúng ta nhận thấy hạnh phúc gia đình và xã hội có thể được bắt nguồn từ một cử chỉ rất đơn sơ nhỏ bé như một nụ cười của một cô gái không quen bắt gặp trên đường phố. Một nụ cười tự nhiên mà còn có ảnh hưởng sâu rộng khó lường như thế, thì một nụ cười siêu nhiên sẽ có giá trị lớn biết bao ! Có lẽ chỉ kh nào vượt khỏi phạm trù thời gian và không gian, chúng ta mới thấy được hết hậu quả của nụ cười thấm nhuần tình thương Kitô giáo. Người ta nói:”Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” thì biết rằng nụ cười đem đến cho người ta nhiều lợi ích như thế nào cả về phương diện thể xác, cả về phương diện tâm linh. Nếu chúng ta nở được một nụ cười trong lúc gặp đau khổ thì nụ cười ấy đáng giá biết bao trước mặt Thiên Chúa “Đấng làm cho tuổi xuân ta được vui tươi”. Khi gặp đau khổ trong gia đình, vợ chồng hãy cố nở một nụ cười như thánh nữ Têrêsa Hài đồng, thì chắc chắn sự đau khổ ấy sẽ được giảm đi hoặc biến mất. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Trong thư mục vụ gửi cho tín hữu Ephêsô và Colossê, thánh Phaolô luôn chú trọng tới đời sống HP32
Trong thư mục vụ gửi cho tín hữu Ephêsô và Colossê, thánh Phaolô luôn chú trọng tới đời sống gia đình và khuyên nhủ tín hữu hãy yêu thương nhau, nhất là đối với vợ chồng. Ngài khuyên mọi người hãy yêu thương nhau theo khuôn mẫu tình yêu của Chúa:”Anh em hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ”(Ep 5,2a). Mgài khuyên vợ chồng hãy yêu thương nhau như tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Vợ chồng đã trở nên một thân xác, một tinh thần thì không còn lý do nào mà không yêu nhau nữa vì “có ai ghét thân xác mình đâu”? Nếu vợ chồng không yêu thương nhau là đã tự mâu thuẫn. Điều đó không hợp lý. Tuy vợ chồng đã thành một xương một thịt nhưng mỗi người vẫn là một nhân vị, một cá nhân đặc thù với những khuynh hướng, ước vọng và tính tình khác nhau. Chính vì sự khác biệt của mỗi cá nhân mà đời sống chung mới có những va chạm, những xích mích, những bất hòa ngấm ngầm hay bùng nổ. Muốn cho đời sống gia đình được hài hòa, dễ chịu, chỉ còn một cách là chịu đựng lẫn nhau và đừng để ý đến những chuyện lặt vặt trong đời sống hôn nhân.
II. AI CŨNG CÓ LÝ. Muốn có đời sống cộng đồng thì phải có nhiều người qui tụ lại bởi vì một cây không làm nên khu rừng. Cộng đoàn là tập hợp nhiều cá nhân làm nên một cái gì chung nhất. Cộng đoàn được coi như một vườn hoa muôn mầu sắc. Mỗi hoa có một vẻ đẹp riêng, không hoa nào giống hoa nào. Nếu cả vườn chỉ có một thứ hoa, một mầu hoa thì vườn hoa sẽ mất đẹp đi. Muốn có vườn hoa hấp dẫn thì cần phải đa dạng. Cũng thế, trong một cộng đoàn phải có nhiều người và mỗi người có một tính tình khác nhau, bổ túc cho nhau để làm nên một cái gì hài hòa dễ chịu. Người ta thương nói: Sống mỗi người một nết, Chết mỗi người một tật. Nếu “sống mỗi người một nết” thì sẽ gây ra những va chạm vì tính khí người này không hợp với người kia. Theo tâm lý chung, ai cũng muốn làm theo sở thích của mình và ai cũng có cái lý riêng của mình và muốn bảo vệ nó đến cùng, mặc dầu lý ấy ít được thuyết phục, đôi khi còn trở nên “lý cùn”nữa.
Truyện: Ai cũng có lý. Cách đây không lâu, tại nhà của một quan tòa ở Milanô, bên Italia, đã xẩy ra một câu chuyện như sau: Có hai người tranh chấp với nhau lâu ngày. Người thứ nhất trình bầy câu chuyện và tự biện hộ cho mình. Anh vừa dứt lời thì quan tòa dõng dạc tuyện bố:”Anh có lý”. Đến lượt người thứ hai phân trần, anh cũng đưa ra mọi lý lẽ để làm nghiêng cán cân công lý về phía mình. Sau khi nghe anh trình bầy dong dài, quan tòa cũng tuyên bố:”Anh có lý”. Cậu con trai nhỏ của quan tòa theo dõi câu chuyện từ đầu. Nó ngạc nhiên vô cùng làm thế nào cả hai đều có lý cả ? Quan tòa cũng đưa ra phán quyết về nhận xét của con mình như sau:”Con cũng có lý”. (Lẽ sống, 259-260) Mỗi người chúng ta ai cũng có lý của mình, nhưng có lẽ chúng ta không muốn nhận ra phần có lý của người khác, cũng như chính phần lỗi của mình. Và đó chính là nguyên nhân của mọi bất hòa. Người ta thương nói:”Nhân vô thập toàn”, điều đó ai cũng phải công nhận, nhưng cũng không có ai là người xấu hoàn toàn. Nếu chúng ta biết khiêm tốn nhận ra những giới hạn của mình và chấp nhận giá trị của người khác, thì chúng ta có lẽ sẽ không bất mãn về người khác cũng như đối với chính mình. Cuộc sống chỉ có thể thở được nếu mỗi người chúng ta biết cử xử bằng sự cảm thông và tha thứ.
III. BỎ QUA NHỮNG CHUYỆN LẶT VẶT. Trên nguyên tắc sống trong những cộng đoàn lớn thì sẽ có nhiều va chạm hơn vì “bá nhân bá tính”, nhưng trong thực tế, đời sống gia đình lại xẩy ra nhiều sự va chạm hơn. Ở trong cộng đoàn lớn, nhiều người thì có nhiều va chạm nhưng lại dễ giải tỏa hơn, còn trong đời sống gia đình, chỉ có vợ chồng và mấy đứa con mà những xích mích, va chạm, bất hòa xẩy ra như cơm bữa và khó có điều kiện giải tỏa vì hai người luôn phải sống bên nhau, phải giáp mặt nhau hằng ngày. Trong đời sống gia đình đôi lúc gặp những khó khăn lớn hoặc gặp một tai họa ghê gớm thì cùng nhau tìm cách đối phó, nhưng rồi lại để cho những lo lắng nhỏ mọn vô lý thắng mình làm cho mình phải đau khổ.
Truyện: Đô đốc Byrd. Đô đốc Byrd cũng nhận thấy điều đó trong những đêm ở Nam Cực lạnh buốt sương và tối như âm phủ. Oâng nghe bọn tùy tùng phàn nàn về những chuyện lặt vặt hơn là về những việc lớn.Họ vui vẻ chịu hết mọi nguy hiểm, khổ sở, vì thời tiết lạnh tới 45 độ dưới số không. Nhưng ông đã thấy hai người sống mà giận nhau đến nỗi không thèm nói với nhau nửa lời, chỉ vì người này nghĩ người kia lấn sang chỗ để đồ của mình chừ#ng vài phân. Một người nữa không chịu ăn, nếu không tìm được chỗ khuất để khỏi trông thấy một tín đồ kỳ cục, cứ mỗi miếng ăn thì nhai đủ 28 lần rồi mới nuốt. Đô đốc có thể nói thêm rằng:”Những chuyện vụn vặt trong hôn nhân có thể làm cho người ta gần hóa điên, và có thể sinh ra năm chục phần trăm bệnh đau tim ở đời này”. Đó chính là ý kiến của nhà chuyên môn: như ông tòa Joseph Sabath ở Chicago, một người đã rán điều giải trên 90.000 vụ ly hôn, ông tuyên bố:”Phần nhiều những cặp vợ chồng xin ly dị đều do truyện lặt vặt hết”. Oâng F.S.Hogan chưởùng lý New York nói:”Già nửa các vụ xử trong tòa đại hình đều do những nguyên nhân rất nhỏ: thách dọa nhau trong quán rượu, kẻ ăn người ở gây gỗ nhau, một câu xỉ nhục, một lời nói mất lòng, một hành vi thô lỗ, những cái lăng nhăng đó, đưa tới ẩu đả và án mạng. Rất ít người tàn ác xấu xa lắm. Một nửa những đau đớn của ta là bởi lòng tự ái bị tổn thương nhẹ, hoặc lòng kiêu căng bị kích thích nhục nhã”. Vậy phải tập thói quen bỏ qua, và coi thường những chuyện lặt vặt để nó khỏi làm ta điên đảo. Nên nhớ rằng: “Đời chúng ta chẳng sống được bao lâu, hơi đâu mà chấp nhất những chuyện nhỏ nhen không đáng kể”. Trong đời sống cộng đồng cũng như trong đời sống gia đình, không thể nào tránh được những sự va chạm bởi những ý kiến khác nhau và có khi còn chống đối nhau, bí quyết để tìm sự hài hòa và làm cho cộng đoàn được vui tươi đầm ấm thì chỉ có một cách là nhịn nhục, chịu đựng lẫn nhau. Người ta thường nói:”Một sự nhịn chín sự lành”, càng nhịn được bao nhiêu càng thành công bấy nhiêu. Nhịn nhục không phải là thái độ của con người hèn yếu, mà trái lại, là thái độ của những tâm hồn cao thượng, của những bậc anh hùng biết thắng được tính tự ái của mình.
Truyện: Ai quyết định ? Trong ngày mừng lễ Kim khánh hôn phối của một ông cụ, một anh thanh niên đến hỏi xem cụ có bí quyết nào mà sống hạnh phúc trong 50 năm như vậy. Oâng cụ tươi cười xoa tay nói: - Bí quyết hả ? Tôi chỉ có bí quyết đơn sơ này thôi: Khi hai người nhất trí về công việc gì thì người quyết định là tôi, còn nhữ#ng việc gì hai người chúng tôi chưa nhất trí, thì người quyết định là vợ tôi ! Ôâng cụ này lạc quan thật ! Oâng không ngần ngại nói lên sự thật và chẳng nghĩ ngợi gì vì ông biết hành động theo sự khôn ngoan của người xưa:”Tránh voi chẳng xấu mặt nào” ! Vợ chồng có nhịn nhục nhau thì cũng chẳng đi đâu mà thiệt, lại còn làm tăng hạnh phúc cho gia đình, nêu gương sáng cho con cháu nữa. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Lc 22, 33 ; Ep 4,1.
Phêrô là một Tông đồ rất nhiệt thành, hăng say và bộc trực. Ông hay nói hay làm. Vì là con người HP33
Phêrô là một Tông đồ rất nhiệt thành, hăng say và bộc trực. Ông hay nói hay làm. Vì là con người bộc trực ít suy nghĩ, có sao nói vậy, nên ông hay lỡ lời. Vì thế, nhiều lúc Chúa khen ngợi ông vì ông nói hay, nói đúng, có lúc Chúa quở trách ông vì nói dở. Nhưng dù sao lời nói và thái độ của ông cũng biểu lộ tính ngay thẳng, lòng nhiệt thành và yêu mến Chúa hết tình. Trong tình Thầy trò, Chúa Giêsu đã tiên báo cho ông biết trước: ông bị ma qủi thử thách nặng nề và ông sẽ bị sa ngã đấy. Nhưng Phêrô thẳng thắn thưa với Ngài với tất cả sự can đảm:”Thưa Thầy, dầu có phải vào tù hay phải chết với Thầy đi nữa con cũng sẵn sàng”(Lc 22,33). Ông đã cương quyết thề với Chúa như vậy đó ! Nhưng Phêrô có là tảng đá đi nữa thì cũng có thể bị tan vỡ. Và thực tế đã chứng minh điều đó. Tuy thế, với tình thương yêu đối với người môn đệ nhiệt tình như thế, Ngài đã hàn gắn lại cho nguyên vẹn. Thực sự, Phêrô là con người cương trực, theo suy nghĩ của ông, ông dám “ngồi tù” vì Thầy. Suy nghĩ đó chứng tỏ ông rất yêu Chúa. Lòng yêu mến còn được chứng minh khi ông thưa với Chúa ba lần:”Thưa Thầy, Thầy biết con mến Thầy”(x. Ga 21,15-19). Thánh Phaolô cũng là con người rất yêu Chúa. Ngài đã phải vào tù ra khám biết bao nhiêu lần nhưng vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy nên ngài đã coi thường tất cả. Ngài đã phải nói:”Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mên Đức Kitô”. Chính vì vậy, khi viết thư cho tín hữu Ephêsô, ngài đã không ngần ngại tự giới thiệu:”Tôi là tù nhân của Đức Kitô”(Ep 4,1). II. TẢN MẠN VỀ NGỤC TÙ 1. Ngục tù là gì ? Tù nghĩa là bắt người có tội hay nghi là có tội mà giam lại. Chữ TÙ gồm có hai bộ là bộ “vi” và bộ “nhân”. Bộ nhân nằm trong bộ vi có nghĩa là một người bị giam cầm trong vòng vây. Do đó ta có chữ “tù nhân”. “Tù chung thân” là người tù bị án mãn đời chỉ có cuộc đại xá mới được ra. Còn “tù ngục” hay “ngục tù” là nơi giam hãm người có tội hay nghi là có tội. 2. Hôn nhân và ngục tù. Bất kỳ ai khi lập gia đình cũng muốn tìm đến hạnh phúc, cho nên ai cũng chúc cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc, chứ đâu lại chúc cho gặp bất hạnh ? Nhưng cuộc đời có nhiều phức tạp, không phải cứ lập gia đình là có hạnh phúc ngay, mà hạnh phúc chỉ có được bằng sự nỗ lực tạo nên nó, bởi vì hạnh phúc không phải là một thứ tiền chế có sẵn mà người ta có thể cho người khác hay là người ta có thể mua được. Khi lập gia đình thì mọi người đều phải chấp nhận hai đặc tính của hôn nhân: đơn nhất và vĩnh viễn , nghĩa là hôn nhân phải ở trong khuôn khổ nhất phu nhất phụ và không được ly dị. Dĩ nhiên, khi lập gia đình thì chỉ còn có một mối tình phu thê. Ngoài ra khi hôn nhân đã thành sự và hợp pháp trước mặt Thiên Chúa và Giáo hội thì hôn nhân trở nên vĩnh viễn:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mt 19,6). Nếu trong đời sống hôn nhân vợ chồng biết hòa thuận thương yêu nhau thì gia đình có hạnh phúc, còn nếu vợ chồng luôn bất hòa với nhau, cãi lộn nhau, đánh đập nhau thì gia đình trở nên bất hạnh, và lúc đó gia đình trở nên “ngục tù”. Chính vì vậy, nhà văn hào Honoré de Balzac đã nói:”Hôn nhân là con đường đưa ta tới thiên đàng hay địa ngục”. Cái đó chờ đợi câu trả lời của từng người: hôn nhân có thể là thiên đàng, cũng có thể là hỏa ngục.
3. Hôn nhân và địa ngục. Người ta thường nói:”Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”: một ngày sống trong tù lâu bằng ngàn năm sống ở ngoài. Đây là một nhận xét thực tế của những người bị giam hãm tù tội. Đây không phải là thời gian vật lý mà là thời gian tâm lý. Chúng ta nghe người ta hát những bài tình ca với những từ ngữ “trái tim ngục tù, trái tim mùa đông”. Không biết trái tim ngục tù này là của người độc thân hay của người lập gia đình. Ngục tù này có thể đến với bất cứ ai, độc thân hay có gia đình vì ngục tù này không phải là một không gian hữu hình mà là ngục tù của tâm hồn. Trong gia đình mà vợ chồng không thương yêu nhau thì gia đình ấy có thể trở nên ngục tù và những người ở trong nhà ấy trở nên “tù nhân” và còn trở thành “tù chung thân”, nghĩa là người tù bị án mãn đời, chỉ có cuộc đại xá mới được ra. Một gia đình sung túc đến đâu mà trong đó không có tình thương thì cũng như một nghĩa địa. Một xã hội văn minh kỹ thuật mà không có tình thương thì chỉ là một bãi sa mạc. Một gia đình mà không có tình thương thì chỉ là địa ngục.
Truyện vui Một cô gái là người có đạo, hỏi mẹ: - Mẹ ơi, người yêu của con không tin có thiên đàng hay địa ngục, vậy con có nên lấy anh ấy không ? Mẹ trả lời ngay: - Cứ việc lấy, rồi nó sẽ thấy.
4. Hôn nhân và thiên đàng. Theo giáo lý Công giáo thì Thiên đàng là nơi con người được hưởng kiến thánh nhan Chúa, là nơi được hạnh phúc tuyệt đối và vĩnh viễn. Vậy nếu ông De Balzac nói:”Hôn nhân là con đường đưa ta tới Thiên đàng hay địa ngục” thì câu nói ấy có đúng không, vì có bao giờ người đời được hưởng hạnh phúc tuyệt đối và bất diệt đâu ? Thiên đàng đây chỉ có tính cách tương đối theo quan niệm nhân gian, nghĩa là sống đời sống thoải mái, đầy đủ trong cảnh gia đình được thuận buồm xuôi gió, không gặp trắc trở, không gặp những gian nan thử thách, những sự khó khăn lớn lao. Thiên đàng trần gian không phải là một điều không tưởng. Đã có nhiều người muốn xây dựng thiên đàng trên trần gian. Họ là những người có thiện chí. Nhưng, nói như một văn sĩ nào đó, con đường xuống hoả ngục được lát đầy bằng những thiện chí. Họ có thiện chí, nhưng những phương tiện mà họ đề ra để xây dựng thiên đàng trần gian ấy lại chỉ là hận thù, chém giết. Thay cho thiên đàng mà họ mơ ước, họ chỉ tạo ra địa ngục đầy đoạ con người mà thôi. Thiên đàng là điều con người có thể xây dựng và thụ hưởng ngay từ trần gian này. Thiên đàng là khi con người có được an bình nội tâm và hài hoà với tha nhân. Thiên đàng là mỗi khi con người làm một nghĩa cử cảm thông, tha thứ, phục vụ, hy sinh, quên mình. Thiên đàng là khi con người biết ngoi lên từ những đổ vỡ, thất bại để tiếp tục tin tưởng và yêu thương.
III. BIẾN ĐỊA NGỤC THÀNH THIÊN ĐÀNG. Có nhiều cách làm cho gia đình được hạnh phúc, làm cho gia đình thành thiên đàng trần gian theo quan niệm bình dân. Ở đây chúng tôi xin đưa ra hai phương pháp mà mọi người có thể thực hiện được: 1. Tạo nên sự hoà hợp gia đình. Trong trời đất cũng có lúc mưa lúc nắng, trong gia đình cũng có lúc vui lúc buồn, lúc êm đềm lúc sóng gió. Không bao giờ trong gia đình có thể tránh được sự bất hoà hoặc lớn hoặc nhỏ vì như người ta thường nói:”Bá nhân bá tính” mà ! Những sự bất hoà đó có thể là những bất hoà ngấm ngầm hoặc bùng nổ, cần phải có sự cố gắng để đi đến hoà hợp. Theo nhà tâm lý học Nguyễn đình Xuân, ta cần phân biệt “hợp nhau” với “hoà hợp nhau”. Đó là hai khái niệm riêng biệt. Hợp nhau là thích nhau (ví dụ: người hiền lành thì thích và hợp với người hiền lành). Trong khi đó hoà hợp nhau là chấp nhận nhau để hoà nhập với nhau, bù trừ cho nhau, nên có thể người hiền lành lại chấp nhận cưới một người có tính nóng nảy. Hai người sống với nhau ít khi nổi xung, bởi vì người hay nóng luôn luôn được tính hiền lành của người kia làm nguội lạnh đi các cơn thịnh nộ vô lý... (Nguyễn đình Xuân, Tâm lý học Tình yêu gia đình, 1993, tr 112-113) Khi hai người không hoà hợp nhau thì sẽ đẩy nhau như hai cực dương hay hai cực âm của pin gặp nhau. Ngược lại, nếu hoà hợp nhau thì hai cực âm dương sẽ thu hút nhau và sẽ phát ra điện. Tuy thế, ta cần nhớ câu nói của Đức Khổng Tử:”Hoà nhi bất đồng”. Như ở trên đã nói Hoà đây có nghĩa là dung hoà những khác biệt của nhau để làm nên một cái gì hợp nhất mà không cái nào bị loại trừ như sự hoà hợp của một ly nước chanh đường, trong đó vẫn còn nguyên nước,# chanh vàđường. Còn Đồng không có nghĩa là đồng nhất, bắt mọi cái phải bị loại trừ để chỉ còn lại một cái duy nhất, ví dụ: vợ phải hoàn toàn giống như chồng hoặc chồng phải hoàn toàn giống như vợ.
2. Sự bao dung và nhẫn nhục trong gia đình. Người ta thường nói:”Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật”. Vợ chồng cũng thế, mỗi người một tính, mỗi người một nết, không ai giống ai. Cho nên, nhịn nhục, bao dung là rất cần thiết, như lời tiền nhân đã dạy: Vợ chồng là nghĩa già đời Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn. Sống chung là một cuộc chiến đấu liên lỉ. “Chén bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng”. Sống với nhau lâu ngày, tránh sao những lúc “Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”: Ngọc nhìn lâu sẽ tìm thấy vết Hoa để gần sẽ hết mùi hương. Gia đình cần phải có sự bao dung. Bao dung là “Tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt, sự đa dạng giữa người với người trong mọi chiều kích”. Vì thế, những cặp vợ chồng bao dung sẽ dễ dàng xích lại gần nhau, dễ dàng cần đến nhau, dễ dàng bổ túc cho nhau, nhờ đó họ luôn kiện toàn sự hiệp nhất yêu thương. Léon Tolstoi đã nói:”Yêu là yêu trọn vẹn con người đó y như trong thực tế, chứ không phải như trong giấc mơ của ta”. Thực vậy, trong Tông huấn về gia đình Familiaris consssortio, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II có viết:’Sự hiệp thông trong gia đình đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở rộng lòng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ và hoà giải với nhau” (số 21). Nếu không có tinh thần bao dung, không biết nhường nhịn nhau thì gia đình sẽ lộn xộn và sẽ trở thành địa ngục. Người ở trong ngục thì không ra được trừ khi nào có người thả ra. Những người sống trong hôn nhân thành sự và hợp pháp không ai thả ra được, nghĩa là không ai có quyền tháo gỡ dây hôn phối, vì Chúa đã phán:”Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,9). Trong hôn nhân chẳng có kẻ thắng người bại, mà chỉ có hai người cùng thắng hoặc hai người cùng bại. Nhẫn nhục chịu đựng, nhường nhịn nhau thì chắc chắn hai người cùng thắng theo nguyên tắc: Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Trong thực tế, không có gia đình nào mà được hoàn toàn “thuận buồm xuôi gió”. Không gia đình nào tránh được mọi gian nan khốn khó, không ít thì nhiều. Không có gia đình nào mà vợ chồng hoàn toàn tâm đầu ý hợp trong mọi khía cạnh của cuộc sống . Nếu biết sống hoà hợp thì hôn nhân sẽ dẫn tới thiên đàng, ngược lại sẽ dẫn tới địa ngục.
Truyện vui Một người đàn ông đang giận dữ ở cổng thiên đàng: - Tại sao tôi không được vào ? - Xin lỗi, ông phải được xác nhận phải trải qua địa ngục thử sức ba tháng mới được vào. - Gì mà ba tháng, tôi đã ở địa ngục 40 năm rồi đây. Có vợ tôi xác nhận. Do sự phức tạp khó khăn của trách nhiệm đời sống gia đình không phải là mộng, nhưng bù lại, nó được thụ hưởng niềm hạnh phúc thực sự mà chỉ hôn nhân mới có. Tình yêu nam nữ không chỉ mang lại niềm sung sướng và hạnh phúc nhưng nhiều khi nó cũng đưa đến những đau khổ lớn lao. Tình trạng mâu thuẫn này chịu ảnh hưởng và có gốc rễ trong những mâu thuẫn chung của bước phát triển xã hội mà quá trình lịch sử luôn sản sinh ra. Do đó, thực tại hôn nhân vẫn chịu hoàn cảnh vừa hạnh phúc vừa gian nan như lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II:”Tình cảnh cụ thể trong đó các gia đình đang sống quả là sự pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối” (Familiaris Consortio, số 6). Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA. Chúng ta đọc: Lc 22, 14-20 . 1Cr 11, 23-27.
Khi giờ đã đến, Chúa Giêsu muốn ăn lễ Vượt qua với các môn đệ lần cuối cùng, Ngài nói:”Thầy HP34
Khi giờ đã đến, Chúa Giêsu muốn ăn lễ Vượt qua với các môn đệ lần cuối cùng, Ngài nói:”Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ hình” (Lc 22,15). Chúa Giêsu theo mọi lễ nghi phong tục Do thái, nhưng trong bữa ăn này, ngoài nghi lễ bình thường, Người làm một việc lạ lùng chưa từng nghe, chưa từng thấy và không thể tượng được: Ngài lập Bí tích Thánh Thể. Thánh Luca thuật lại: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói:”Đây là Minh Thầy, hiến tế vì các con. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói:”Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì các con”(Lc 22,119-20). Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, yêu đến tận cùng như Ngài đã nói trước:”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”(Ga 15,13). Thân phận chúng ta là những người tội lỗi phải hư đi đời đời, nhưng vì yêu thương Người đã hy sinh đổ máu mình ra trên cây thập giá để rửa sạch tội lỗi chúng ta, chuộc lại chúng ta làm con Chúa và được thừa hưởng Nước Trời. Người lại còn muốn ở lại với chúng ta cho đến ngày tận thế nên đã biến mình máu Người làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Đây là một tình yêu cao vời không gì có thể sánh ví được. Tình yêu của Chúa không dừng lại ở mức độ ban ơn cho chúng ta , nhưng tình yêu ấy thúc đẩy Người hiến tế cả con người mình để đem hạnh phúc cho con người, như Người đã nói:”Đây là mình Thầy, hiến tế vì các con”, nên chúng ta phải gọi tình yêu này là Tình yêu hiến tế.
II. NHÌN VÀO ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN. 1. Hôn nhân và tình yêu. Tình yêu là nền tảng của hôn nhân. Hôn nhân không có tình yêu thì không bền vững, giống như một ngôi nhà được xây trên cát. Vì thế người ta mới nói:”Hôn nhân không tình yêu là một ngày thiếu rạng đông”(Alphonse Karr). Chính tình yêu đã nối kết hai người lại nên một để làm thành một gia đình:”Họ không còn là hai nhưng là một xương một thịt”(Mc 10,8). Tình yêu và hôn nhân phải liên kết với nhau, không thể chia lìa như hình với bóng. Công đồng Vatican II định nghĩa rằng:”Tình yêu là một hành vi nhân linh của con người, đến với con người bằng một tình cảm tự ý, do đó bao gồm hạnh phúc toàn diện của con người” (Gaudium et spes, số 49). Nói thế, công đồng xác định rằng tình yêu là hành vi con người. Hành vi ấy có khả năng đem lại hạnh phúc nhờ chính sự tự do của mỗi người trong đời sống tình cảm của mình. Nói khác đi, tình yêu là một hành vi nhân linh vì nó cho con người có khả năng làm người đúng nghĩa.
2. Tình yêu hiến tế. Chúng phải công nhân rằng tình yêu nối kết hai người lại với nhau, kết hợp với nhau để làm thành gia đình. Nhưng tình yêu ấy là tình yêu nào ? Thưa, đó là “Tình yêu hiến tế”. Nhìn vào Chúa Giêsu, ta thấy Ngài đã có tình yêu ấy đối với chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta một cách vô vị lợi, tình yêu ấy phải được gọi là Tình yêu hiến tế. Chính vì vậy, Ngài đã hiến tế thân mình bằng cách chịu chết trên cây thập tự để cứu chuộc chúng ta và còn biến mình máu Ngài làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Trong cuộc sống hôn nhân cũng vậy, vợ chồng phải yêu thương nhau bằng một tình yêu hiến tế, nghĩa là vợ chồng biết hy sinh cho nhau, quên đi bản thân mình để mưu cầu hạnh phúc cho bạn mình. Một tình yêu thiếu hy sinh chưa hẳn là tình yêu thật mà chỉ là một tình cảm nhất thời chóng qua. Tình cảm thì không bền vững, nó có thể trồi sụt, dễ dàng biến mất. Và khi tình cảm đó biến mất thì gia đình cũng sẽ tan vỡ. Tình yêu hiến tế làm cho vợ chồng càng khắn khít với nhau, dám hiến thân cho nhau, quên đi những quyền lợi của mình để chỉ nghĩ đến hạnh phúc người yêu: Sông hồ một giải con con Gặp cơn sóng gió chớ non tay chèo. Yêu nhau sinh tử cũng liều, Thương nhau lặn suối qua đèo có nhau. (Ca dao)
3. Hôn nhân và tử đạo. Có một danh nhân nói:”Tôi luôn khâm phục những vị anh hùng, kẻ anh hùng nhất là người dám LẬP GIA ĐÌNH”. Câu nói này có vẻ cường điệu quá chăng ? Vậy hễ lập gia đình là trở thành anh hùng cả sao ? Tuy nhiên, câu nói trên đứng về một phương diện nào đó cũng có ý nghĩa của nó, vì những người đi lập gia đình không thể nắm vững được tương lai như thế nào, không thể đo lường được con đường phía trước với đầy gian nan, bất trắc có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Nhất là từ khởi điểm là con số không mà hai người dám tuyên hứa sẽ gắn bó với nhau suốt đời để tạo lập tương lai sự nghiệp... Mặt khác, nhìn vào thực tế, có rất nhiều gia đình rơi vào những hoành cảnh rất éo le, bi đát hoặc do chính mình tạo ra hoặc do hoàn cảnh gây nên. Những ai sống trong hoàn cảnh đó mà vẫn trung thành với đời sống hôn nhân thì họ xứng đáng được gọi là anh hùng, anh hùng không tên tuổi, đáng mọi người khâm phục. Nếu ta gọi họ là những “Anh hùng tử đạo” thì điều đó có quá đáng không ? Có lẽ không quá đáng ! Phụng vụ Chính thống giáo nói lên khía cạnh ấy qua nghi thức “đội vương miện” trong thánh lễ hôn phối. Trong nghi lễ đó, mỗi người (chồng và vợ) nhận một Vương miện. Mũ miện trong Giáo hội Chính thống là dấu chỉ của sự vinh quang, vương quyền của Thần Khí và cũng là dấu chỉ của việc tử đạo luôn đi kèm. Khi người nam và người nữ được liên kết với nhau qua bí tích mà Linh mục ban cho họ, nghi thức này đến nhắc nhở cho họ rằng mỗi người phục vụ sự thánh thiện của người kia, và đời họ phải tự dâng hiến, tự trao ban. Linh mục dọc trong khi đội mũ miện lên đầu người chồng sắp cưới:”Tôi tớ của Thiên Chúa ông X nhận nữ tỳ của Thiên Chúa Y làm mũ miện, nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Linh mục cũng đọc trong khi đội mũ miện lên đầu người vợ sắp cưới:”Nữ tỳ của Thiên Chúa Y nhận tôi tớ X của Thiên Chúa làm mũ miện, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Mỗi người nhận mũ miện nhân danh người kia, với ý nghĩa là mỗi người sẽ là triều thiên tử đạo của người kia và không được tách sự đau khổ với vinh quang. Sau đó đôi vợ chồng đầu đội mũ miện theo sau Linh mục, đi vòng quanh sách Tin mừng ba lần để chỉ là từ nay cuộc sống chung của họ sẽ đặt Đức Kitô và Tin mừng của Ngài làm trung tâm. Đôi tân hôn uống cùng một chén của cuộc sống chung và cộng đoàn hát:”Ôi ! Lạy các thánh Tử đạo, những vị đã chiến đấu anh dũng mà nay đã được đội mũ triều thiên trên trời, xin cầu Thiên Chúa đến cứu linh hồn chúng tôi”. Đôi vợ chồng bây giờ đã trở thành một “Giáo hội vi mô” theo lời thánh Gioan Kim khẩu, được dành riêng để biểu lộ – cũng như Thánh Thể – “mối tình quá lớn” của Thiên Chúa cứu nhân độ thế. Chúng ta khó lòng hiểu được những lời trên đây vì chúng ta sợ khổ và tệ hơn nữa, chúng ta sợ mất mạng khi hiến dâng không dè xẻn. Vậy mà Đức Giêsu đã báo trước:”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn mình”(Ga 15,13) Và nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng rằng điều khiến họ “hy sinh” nhiều nhất vì yêu lại là điều đem lại cho họ niềm vui lớn nhất và sự triển nở hoàn toàn nhất. (G. Blaquìere, Dám sống tình yêu, tr 94-95) Hôn nhân là một nhu cầu cần thiết của con người mà đã đi vào đời sống hôn nhân là phải đau khổ giống như hoa hồng thì phải có gai. Mà nếu không lập gia đình thì cũng khổ vì người ta cảm thấy cuộc đời luôn trống vắng, luôn thiếu nhu cầu tình cảm để chia sẻ: Tròng trành như nón không quai Như thuyền không lái, như ai không chồng. Gái có chồng như gông đeo cổ, Trai không vợ như phản gỗ long đinh. (Ca dao) Có một thanh niên hỏi nhà hiền triết Socrate rằng: - Thưa thầy, con có nên lấy vợ không ? Nhà hiền triết trả lời: - Dù muốn hay không, đàng nào anh cũng sẽ hối hận. Nhà hiền triết trông thấy trước cái thế giằng co của những người chuẩn bị lập gia đình: lập gia đình thì khổ mà không lập gia đình thì cũng khổ, điều đó làm cho người ta tiến thoái lưỡng nan. Tuy thế, tuyệt đại đa số con người đều lập gia đình giống như trường hợp hai anh chị đây, chỉ có một số người có ơn gọi đặc biệt vì Nước Trời mới sống độc thân. Vậy chỉ còn có một cách là cứ lập gia đình và sẵn sàng chịu mọi rủi ro, chấp nhận hiện trạng của gia đình và phấn đấu tìm mọi cách làm thăng tiến gia đình qua sự cầu nguyện và năng chịu các phép Bí tích. Lúc đó, hạnh phúc nằm sẽ ở trong tầm tay bạn. Dầu sao đi nữa, chúng ta phải theo nguyên tắc này:”Per crucem ad lucem”: qua thập giá tiến tới vinh quang vì lửa thử vàng gian nan thử đức, không ai có thể ngồi mát ăn bát vàng...
Truyện vui minh hoạ Người kia chết, linh hồn được lên thiên đàng. Khi đến cửa thiên đàng, gặp thánh Phêrô đang gác cửa. Ngài chặn lại hỏi: - Anh đã qua lửa luyện ngục chưa ? Anh ta đáp lại: - Thưa chưa. Nhưng con là người đã có vợ ! Thánh Phêrô cười bảo: - Thôi được, vào đi. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Theo nhà văn cổ Hy lạp PLUTARQUE thì nụ hôn là hậu quả của sự bất bình đẳng giữa người phụ HP35
Theo nhà văn cổ Hy lạp PLUTARQUE thì nụ hôn là hậu quả của sự bất bình đẳng giữa người phụ nữ và đàn ông. Số l1 ngày xưa ở Hy lạp thời cổ đại, đàn bà con gái bị cấm không được uống rượu. Vì thế, các đức ông chồng đáng kính mỗi khi đi đâu về lại bắt vợ đưa môi ra cho mình ngửi, để kiểm tra xem bà vợ có uống rượu trộm trong khi mình vắng nhà hay không. Về sau, do các ông chồng thấy việc “kiểm tra” này cũng hay hay, nên dần dà mới sinh ra cái lệ chạm môi vợ (Thể thao & văn hóa,số xuân 1988, tr 24).
2. Cái hôn qua thời gian. Ở một số nước châu Phi, người dân thường hôn xuống mặt đất, chỗ mà tộc trưởng đi qua, coi đó là điều hạnh phúc. Thời cổ La mã, hoàng đế La mã cho phép các nhà qúi tộc cao cấp nhất hôn môi vua, nhân vật cấp thấp hơn được hôn tay, thần dân chỉ hôn gót chân vua. Thời Sa hoàng, phần thưởng cao qúi nhất mà vua ban cho là cái hôn. Ở Bỉ, có một “Trung tâm tinh thần của những người có đầu hói trên thế giới”. Hằng năm những người có đầu hói của các nước Dức, Hà lan, Pháp... đến trung tâm này để gặp gỡ và hôn vào những... cái đầu hói của nhau (Thể thao & văn hóa, số 40, 1990, tr 13).
3. Hôn có lợi hay hại. Như đại hội quốc tế các bác sĩ nha khoa vừa qua họp ở Braxil khẳng đddid5nh cái hôn là thủ phạm chính gây ra đau răng (x. Thông tin & văn hóa, số 40) , không những thế nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến tuổi thọ của con người. Theo một báo cáo chuyên đề của ông Benjili, một bác sĩ nha khoa ở thành phố Calcutta (Ấn độ), một cái hôn sẽ làm cho cuộc sống của con người bị rút ngắn đi 18 giây. Ông cho biết: một cái hôn là bắt quả tim phải làm việc thêm, vì vậy hôn quá nhiều là một thú vui nguy hiểm cần phải tránh. Đặc biệt những người rậm râu mà hôn thì tác dđộng rất xấu vào tim của phái yêu. Ông cũng cho biết miệng là một bộ phận có nhiều vi trùng nhất của cơ thể con người. Mỗi cái hôn đã truyền sang người khác ít nhất 40.000 vi trùng (Theo Khoa học phổ thông).
4. Phân tích nụ hôn. Dựa trên phân tích hoá học bằng máy móc hiện đại, các nhà y học đã có được những số liệu cụ thể. Trung bình mỗi một chiếc hôn có khoảng: - 2 gram nước bọt. - 0,7 g đạm. - 0, 761 g mỡ. - 0,45 g muối. - khoảng 22.000 vi trùng các loại. Như vậy, trong một cái hôn không thể có một chút đường nào (ví dụ nụ hôn ngọt ngào), trong khi đó hàm lượng muối tương đối cao. Qua các số liệu trên, hôn lq2 một dung dịch tương đối bổ vì lượng đạm và mỡ của nó khá cao. Tuy vậy, có điều đáng ngại là hôn cũng có thể tạo điều kiện cho những căn bệnh truyền nhiễm xâm nhật vào cơ thể thông qua đường miệng (Văn hoá & thể thao, số xuân 1988, tr 25).
II. NỤ HÔN VÀ TÌNH YÊU. Dù nụ hôn có lợi hay có hại, người ta vẫn hôn, nhất là những cặp tình nhân vì đó là cách thể biệu lộ tình yêu. Ở bên Tây phương, trong lễ nghi hôn phối hai người trao cho nhau cái hôn đầu tiên công khai trước mặt mọi người, để nói lên tình yêu thắm thiết của vợ chồng. Ở xã hội ta, tập tục này chưa được chấp nhận vì nó không phù hợp với xã giao của ta. 1. Ý nghĩa nụ hôn. Nụ hôn diễn tả tình yêu giữa hai người, hoặc chỉ diễn tả lòng qúi mên dành cho các nhà ngoại giao, nhưng những nhà ngoại giao chỉ hôn trên má hay trên trán chứ không hôn môi. Thường chỉ những người yêu nhau mới hôn nhau. Nụ hôn cũng mang màu sắc khác nhau: nụ hôn của người mẹ đối với con cái khác với cái hôn của đôi tình nhân hay của vợ chồng. Cái hôn này là cái hôn say đắm chứ không phải là nụ hôn của những nhà ngoại giao, càng không phải là nụ hôn của những kẻ lường gạt, giả dối. Nói về ý nghĩa nụ hôn, ông M. Maeterlinck nói: “Có những điều mà người ta chỉ có thể nói được khi hôn nhau... bởi vì những vấn đề sâu kín và thanh cao nhất không thể thoát ra khỏi linh hồn, nếu có một cái hôn nó kêu gọi”.
2. Nụ hôn của người yêu. Những người yêu nhau thường diễn tả tình yêu bằng nụ hôn, nụ hôn trên môi, thường là một nụ hôn say đắm mà chỉ người trong cuộc mới có thể cảm nghiệm được. Những người mới yêu nhau thường tặng cho nhau những cái hôn nồng thắm mà còn ghi nhớ mãi về sau: Mười năm chừng mới hôm nay, Hương trinh ngây ngất còn say đắm hồn. Còn nghe thơm nụ môi hôn, Còn nghe rung động lần hôn buổi đầu. (Hà liên Tử) Cái hôn đầu tiên rất quan trọng. Thánh Chrysostme nói:”Một cô gái mà để người đàn ông hôn lần đầu, tức là mở đường cho họ tiến tới. Và cô gái ắt khó mà cưỡng nổi, trừ phi phải ngăn cản từ lúc đầu”. Ông Jacob M. Braude cũng cảnh báo:”Để người hôn mình, tức là mình đã thuận tình với người ta. Người con gái chẳng còn dè dặt sau cái hôn đầu”.
3. Nụ hôn và hy sinh. Nụ hôn diễn tả tình yêu. Không yêu nhau thì không bao giờ người ta hôn nhau. Nếu nụ hôn không hàm chứa tình yêu thì chỉ là những nụ hôn của những nhà ngoại giao, họ chỉ hôn nhau theo phép xã giao, hay cái hôn của những kẻ lường gạt, giả dối như cái hôn mà Giuđa đaãa tặng cho Chúa Giêsu. Không có tình yêu nào được mua bằng sự dễ dãi mà phải mua được bằng hy sinh, càng hy sinh nhiều thì thình yêu càng bền chặt, và tình yêu cao cả nhất là chết cho người mình yêu (x. Ga 15,13). như trường hợp cha Maximilianô Kolbê chết thay cho một tù nhân. Người vợ yêu chồng chân thành sẽ dễ dàng hy sinh hạnh phúc của mình cho chồng như người ta nói: Vì chàng thiếp phải bắt cua, Những như thân thiếp, thiếp mua ba đồng. Vì hàng thiếp phải long đong, Những như thân thếp cũng xong một bề. Nữ văn sĩ Túy Hồng cũng diễn tả tâm tình này trong truyện ngăn “Lòng thành”: “Tôi nguyện với tình yêu, lúc quay lưng xô ngã cuộc đời người con gái, tôi sẽ từ bỏ tất cả, xa sân khấu, lui khỏi địa vị một ngôi sao để làm một người tầm thường. Tôi sẽ từ giã sự nghiệp đang lên, hy sinh cả danh vọng để trọn nghĩa làm vợ. Một người đàn bà không thể vừa giỏi bên ngoài, vùa giỏi bên trong được. Vì chàng tôi phải ly thân với nghệ thuật. Tên tuổi tôi phải chết cho lòng thành quấn quít bên chàng...” (Trích trong “Lòng thành”, Truyện hay của Túy Hồng, 1964, tr 82) Chúa yêu thương mọi người chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta hãy bước theo Ngài, nhưng muốn theo Ngài thì phải theo con đường Ngài đã vạch ra:”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”(Mt 16,24). Con đường khổ gia xem ra là con đường không mấy hấp dẫn đối với nhiều người, nhưng con đường đó sẽ dẫn tới vinh quang. Chúa muốn ta đi theo con đường đó, phải chăng Ngài muốn theo phương pháp: Yêu con cho roi cho vọt, Ghét con cho ngọt cho bùi ? Chúa yêu chúng ta, yêu với một trái tin bừng cháy nên Ngài cũng muốn tặng cho chúng những nụ hôn. Nhưng chúng ta phải biết rằng Chúa Giêsu luôn đội vòng gai trên đầu, ai được Chúa ôm hôn thì sẽ bị những cái gai trên đầu Chúa châm vào trán mình. Vì thế, trước cái ôm hôn của Chúa đội mạo gai, chúng ta sẽ có hai thái độ: a) Chấp nhận: Chúng ta sẵn sàng để Chúa hôn mặc cho những chiếc gai nhọn của Chúa đâm vào trán mình. Nụ hôn càng thắm thiết, thì gai càng đâm sâu, trán càng đau nhức. Đó là những người dám chấp nhận hy sinh đau khổ trong đời vì lòng mến Chúa, đặc biệt trong đời sống hôn nhân. b) Từ chối: Khi được ôm hôn, có người nhìn lên đầu Chúa thấy những gai nhọn hoắt đang định đâm vào trán mình, họ hoảng sợ, buông tay ra , lùi lại không dám để cho Chúa hôn. Vì thế nụ hôn không thành. Nụ hôn vẫn còn đó ! Đó là những con người ngại khó, họ sợ phải hy sinh, không dám theo con đường khổ giá của Chúa nữa. Họ chùn chân bước trên con đường đó: “Đường đi khó, không lhó vì ngăn sống cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông” Nguyễn bá Học). KẾT LUẬN Tình yêu nào chỉ đdược mua bằng sự dễ dãi sẽ không bền lâu vì nó chưa được qua thử thách như lửa thử vàng, nói chỉ được mua bằng maạ«t giá rẻ ! Đúng là tiền nào của đó. Trái lại, tình yêu càng được mua bằng hy sinh thì càng cao qúi, càng bền chặt vì nó đã được tôi luyện qua thử thách gian nan. Chúa thương yêu ta, Chúa tặng chúng ta những cái hôn nồng thắm đấy, ta có dám để cho Chúa hôn không ? Muốn được hôn là phải chấp nhân hy sinh. Đời sống gia đình hiện nay thế nào ? Ta có dám nhận hy sinh không ? Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
I. CÁC ÔNG ĐANG VÁ LƯỚI DƯỚI THUYỀN Chúng ta đọc: Mt 4,18-22 ; Mc 1,16-20.
Theo tục lệ thời xưa, các nhà hiền triết như Socrate, Platon, Aristote. Lão Tử, Khổng Tử và HP36
Theo tục lệ thời xưa, các nhà hiền triết như Socrate, Platon, Aristote. Lão Tử, Khổng Tử và các vị sáng lập tôn giáo như Phật Thích Ca đều có một số đồ đệ đi theo. Đức Giêsu cũng theo truyền thống đó. Ngài muốn chọn cho mình một số đồ đệ để làm cán bộ nồng cốt cho việc truyền bá giáo thuyết của Ngài. Ngài không vào trong các đô thị văn minh để chọn những người thông thái hay ít ra những người có kiến thức trung bình, nhưng Ngài lại ra bãi biển chọn những người dân chài ít học nhưng đơn sơ chất phác để làm môn đệ. Trước hết Ngài gọi hai anh em ông Sinmon và Anrê đang thả lưới dưới thuyền, rồi đi xa hơn một chút, gọi thêm hai anh em con ông Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đang vá lưới dưới thuyền. Tất cả những người được gọi đều bỏ nghề chài lưới và cha mẹ mà đi theo Ngài.
II. TẠI SAO PHẢI VÁ LƯỚI ? Các ông này quanh năm chỉ sống bằng nghề chài lưới loanh quanh bờ biển để kiếm ăn từng ngày. Việc vá lưới trên thuyền chứng tỏ rằng họ là những người nghèo phải kiếm ăn từng bữa, không có vốn để mở công ty hay phải có những chiếc tầu lớn để đánh bắt cá xa bờ. Phương tiện của họ rất thô sơ chỉ có một chiếc thuyền nhỏ và một tấm lưới vét. Họ buộc lòng phải vá lưới vì chiếc lưới phải dùng hằng ngày, sợi gai hay sợi chỉ dễ bị mục, nhất là gặp những vật cản như chà rào hay một vật gì cứng thì lưới sẽ dễ bị rách. Kinh nghiệm cho hay lưới rách đến đâu phải vá đến đó, nếu để lâu, miếng rách sẽ rách thêm, cá lọt ra ngoài và chiếc lưới sẽ trở nên vô dụng. Vì thế, họ phải kiểm tra lưới hằng ngày, rách đến đâu vá đến đó, lưới sẽ ở trong tình trạng tốt và có thể dùng được bất cứ lúc nào. Tâm trạng người vá lưới rất phức tạp: họ lo âu, buồn chán, mong mỏi, hy vọng, tin yêu. Họ biết rằng cuộc đời chài lưới của họ rất vất vả, gặp nhiều nguy hiểm của sóng gió. Họ mong mỏi một ngày mai tươi sáng hơn, họ luôn hy vọng và tin yêu để đời sống hiện tại vươn tới tương lai tốt đẹp.
III. TẤM LƯỚI CUỘC ĐỜI HÔN NHÂN. 1. Hôn nhân là một tấm lưới. Khi học về Bí tích Hôn phối, chúng ta đã biết mục đích của hôn phối là vợ chồng thương yêu nâng đõ nhau và sinh sản con cái. Yêu thương và sinh sản con cái đều nhằm đến Hạnh phúc, mục tiêu mà mọi người muốn vươn tới. Hôn nhân là phương tiện để cho người ta đạt tới Hạnh phúc. Nhưng Hạnh phúc chưa có ngay sau khi thành lập gia đình. Chúng ta có thể coi Hôn nhân như một cái hộp rỗng phải bó gì vào nó mới đầy. Ta hãy nghe cố vấn Hôn nhân Allan Peterson nói với ta: “Đa số người kết hôn vì tin vào một huyền thoại: cuộc hôn nhân ấy là một cái hộp đẹp chứa mọi vật mà người ta khao khát: đời sống lứa đôi, sự thỏa mãn về tình dục, sự thân mật, tình bạn. “Sự thật là cuộc hôn nhân ấy lúc bắt đầu là một cái hộp rỗng. Bạn phải bỏ vào đó một cái gì đó trước khi bạn có thể lấy ra một cái khác. Trong hôn nhân không có tình yêu, tình yêu ở trong hai người và hai người đặt tình yêu vào hôn nhân. Không có chuyện tình lãng mạn trong hôn nhân ; người ta phải pha trộn sự thơ mộng vào hôn nhân của họ. “Một đôi tân hôn phải học nghệ thuật ấy và hình thành thói quen cho nhau, yêu nhau, phục vụ nhau, ngợi khen nhau để giữ cho cái hộp được đầy. Nếu bạn lấy ra nhiều hơn bỏ vào, cái hộp sẽ rỗng không” (Bel San Louis, Vui sống với nụ cười, tr 88). Hôn nhân có thể được coi như một tấm lưới mà vợ chồng bủa vây xuống để vây bắt hạnh phúc như người ta thả lưới vây bắt cá. Không phải Hôn nhân cung cấp ngay hạnh phúc cho ta, nhưng trái lại, hôn nhân chỉ là phương tiện để chúng ta nắm bắt hạnh phúc. Hôn nhân có hạnh phúc hay không là do vợ chồng tạo ra và giữ lấy.
2. Tấm lưới có thể bị rách. Hôn nhân có thể đưa tới hạnh phúc, cũng có khi làm ngăn trở hạnh phúc như văn hào Honoré de Balzac nói:”Hôn nhân là con đường đưa ta tới thiên đường hoặc dẫn ta tới địa ngục”. Có những nguyên nhân làm cho tấm lưới hạnh phúc hôn nhân bị rách nát. a) Phía hai vợ chồng. Tại sao ngày nay có nhiều cuộc hôn nhân bị tan vỡ, có nơi lên tới 50% và một số nơi khác còn tệ hơn nữa ! Tại sao vậy ? Thưa , gia đình không có hạnh phúc là vì vợ chồng không tạo ra được hạnh phúc, hoặc là đã có hạnh phúc nhưng không biết nắm giữ để hạnh phúc để nó bay đi. Có thể gia đình tan vỡ vì vợ chồng không dung hòa được những khác biết hay những xung khắc về tính tình, ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, kinh thế khó khăn... Trong cuộc sống hằng ngày, ai cũng khư khư giữ lấy ý kiến của mình, bắt người khác phải theo ý mình, nhất là tệ hơn nữa, khi có “đệ tam nhân” xen vào thì tấm lưới hôn nhân có thể bị rách dễ dàng. Người ta không yêu nhau nữa, người ta muốn quay sang một ngõ khác thì tình thế sẽ trở nên cực kỳ nguy hiểm: Khi tình yêu một lần phản bội Hết mong gì nở lại hoa yêu. Ông La Rochefoucauld cũng nói tương tự như thế:”Khó mà yêu thương được lần thứ hai người mà mình đã hết yêu thương”. Nếu vợ chồng không biết vá lại mà còn xé to ra thì tấm lưới hôn nhân sẽ bị rách nát. Nếu thế, làm thế nào có thể nắm bắt được hạnh phúc ? b) Phía những người khác. * Cha mẹ chồng: Theo kinh nghiệm nhân gian, cha mẹ chồng, nhất là mẹ chồng cũng là một nguyên nhân gây đổ vỡ cho đôi hôn nhân. Người ta thường nói về mẹ chồng: Thật thà cũng thể lái trâu, Thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng. Trong thực tế, ít khi mẹ chồng ưa nàng dâu, nếu mẹ chồng nào thương nàng dâu như con gái thì hạnh phúc cho nàng dâu ấy. Khi đã không ưa thì sẽ sinh ra nhiều chuyện không hay, đôiâ lúc xúi con trai xử tệ với vợ mình vì “Không ưa thì dưa có dòi”. Tình yêu vợ chồng đang hé nở như bông hoa, có thể bị héo tàn. * Các nàng o: Ngoài mẹ chồng ra, có thể đến các nàng o. Ít khi các nàng o ưa chị hay em dâu, dễ sinh ra xích mích trong đời sống gia đình mới: Một trăm ông chú không lo, Lo vì một nỗi mụ o nỏ mồm. * Hàng xóm láng giềng: Những người hàng xóm láng giềng, những người quen biết, những bạn bè có thể cũng là nguyên do gay đỗ vỡ cho vợ chồng. Không thiếu gì những tiếng gièm pha của những người vô tình phá hoại hạnh phúc gia đình người ta.
3. Có thể vá lại được. Những nguyên nhân chủ quan hay khách quan làm cho hôn nhân tan vỡ thì rất nhiều, nó luôn rình rập hạnh phúc gia đình. Vợ chồng phải đề cao cảnh giác, nếu tình thế bất trắc xẩy ra thì cần có nỗ lực hàn gắn. Công việc này đòi hỏi thiện chí của cả hai người, dẹp bỏ tự ái, thành thật nhận những khuyết điểm của mình để hòa hợp . Thôi thì Tại anh tại ả Tại cả hai bên. Hãy nhớ lại lời thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Colossê:”Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”(Cl 3, 12-13).
Truyện: Hoà giải trước vị thần. Một trong những đền thờ cổ nói lên tinh thần của người Roma xưa, đó là đền thờ dâng kính nữ thần có sứ mệnh hòa giải loài người vớiù nhau, nhất là những đôi vợ chồng bất hoà. Người Roma xưa xem định chế hôn nhân là điều quan trọng trong sinh hoạt chính trị, xã hội; do đó, họ rất quan tâm đến việc bảo toàn gia đình. Khi hai vợ chồng bất hoà va #như vậy có thể nguy hại cho đời sống gia đình, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hoà giải. Nghi thức diễn ra trước nữ thần rất đơn sơ: mỗi người có thể trình bầy lý lẽ, phơi bầy những bất công mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói một lúc, hễ ai ngắt lời người kia hoặc cả hai cùng nói một lúc thì điều đó bị coi như phạm thánh. Nghi thức này có thể mang đến những kết quả phi thường: sau khi trình bầy lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, bác bỏ mọi lời buộc tội, hai vợ thồng thường làm hoà với nhau trước mặt vị thần (Mỗi ngày một tin vui, tr 240).
4. Cần sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Muốn cho tấm lưới của hôn nhân được nguyên vẹn, cần phải có ơn trợ lực của Thiên Chúa. Không bao giờ Thiên Chúa từ chối những lời cầu xin của chúng ta khi những lời cầu xin ấy phù hợp với thánh Chúa và ý Chúa muốn cho gia đình được hạnh phúc. Như vậy ta hãy cầu xin, chắc chắn sẽ được vì điều đó phù vợp với thánh ý Chúa:”Hãy xin thì sẽ được”(Mt 7,7). Song song với ơn Chúa, cần sự nỗ lực công tác của hai vợ chồng trong việc gìn giữ tấm lưới hạnh phúc gia đình. Sự cộng tác của ta là sự cần thiết và có thể nói là điều kiện “sine qua non”. Người ta nói “mưu sự thại nhân, thành sự tại thiên” rất đúng. Nếu chúng ta đã bắt đầu vế thứ nhất “mưu sự tại nhân” thì Thiên Chúa sẽ thực hiện vế sau “thành sự tại thiên”, nghĩa là Chúa sẽ ban ơn dồi dào để gia đình tiến tới hạnh phúc.
Truyện: viên ngọc qúi của nhà vua. Một vị vua kia thích sưu tầm ngọc qúi đủ mầu sắc, đủ kích cỡ từ khắp nơi trên thế giới. Trong số đó, có một viên ngọc to như quả trứng. Mỗi khi đưa ra ánh sáng, nó phản chiếu đủ mầu sặc sỡ làm nhà vua rất say mê. Nhưng một hôm, trong lúc hãnh diện khoe cùng các vị khanh tướng, nhà vua đã nhận ra việc ngọc có một kẽ nứt. Ông vô cùng tiếc xót, buồn bã. Từ hôm ấy, ngài truyền cho khắp dân gian ai chữa được viên ngọc đó y như trước sẽ được trọng thưởng. Các thợ đá qúi lành nghề ra vào hoàng cung tấp nập nhưng đều lắc đầu chịu thua. Ngày kia, có người vào yết kiến và xin nhà vua cứ để cho mình sửa chữa tùy ý. Đang lúc tuyệt vọng, nhà vua đồng ý, vì đàng nào viên ngọc cũng mất giá trị rồi. Anh thợ đá qúi đem viên ngọc về, ngày đêm dùng những đồ nghề tinh xảo để sửa chữa viên ngọc. Chẳng bao lâu, anh đem viên ngọc dâng lên đức vua. Nhà vua vô cùng kinh ngạc vì trên viên ngọc điểm một bông hồng rất xinh đẹp, được chạm trổ một cách công phu, mà cánh hoa xinh tươi chính là dấu nứt của viên ngọc trước kia. Cánh hoa hồng xin đẹp đã làm tăng giá trị của viên ngọc lên gấp bội, bằng chứng là mọi người đều trầm trồ khen ngợi. Mỗi lần gây gỗ bất hoà trong đời sống gia đình là một rạn nứt trong đời sống gia đình. Đừng bao giờ nản lòng thất vọng mỗi khi có những vết nứt trong gia đình. Nếu biết lợi dụng nó thì những vết nứt kia sẽ là khởi điểm cho một cuộc sống mới tươi đẹp hơn khi mình biết khéo léo và kiên nhẫn sửa chũa. HÃY NỖ LỰC RỒI CẬY TRÔNG. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Trong dân gian Việt nam có một câu truyện rất bình dân và rất phổ biến mà ai cũng biết, nó nói HP37
Trong dân gian Việt nam có một câu truyện rất bình dân và rất phổ biến mà ai cũng biết, nó nói lên tình nghĩa vợ chồng anh em, tạo nên hạnh phúc gia đình. Câu truyện ấy như sau: Có hai anh em họ Cao, diện mạo, thân hình cùng tác phong giống hệt nhau. Họ thương yêu nhau và gắn bó với nhau đến nỗi không thể rời xa nhau được. Người anh tên là Tân kết hôn với nàng Lưu-sương-Phù. Còn em tên là Lang, tuy đã lớn tuổi nhưng vẫn không muốn kết bạn để khỏi phải rời xa anh chị. Một hôm hai anh em đi săn, người em cảm thấy mệt nên bỏ rừng về nhà trước. Nàng Lưu sương Phù tưởng lầm đó là chồng mình, nên chạy ra cổng chào đón với tất cả tình âu yếm. Người em cảm thấy e thẹn. Và để khỏi tái diễn cảnh ngượng ngùng đó nữa, chàng đã quyết định bỏ nhà ra đi. Chàng lang thang mãi cho tới khi đến bên bờ một con sông lớn. Không một con đò, cũng không một nhịp cầu, nên chàng phải dừng chân bên bờ sông. Vừa đói, vừa mệt lả, chàng chết dần, hoá thành tảng đá lớn. Người anh biết sự việc nên bỏ nhà ra đi tìm em để trọn tình ruột thịt. Anh lần mò theo cùng con đường em đã đi. Đến bờ sông, anh vừa đói vừa mệt nên ngồi nghỉ trên tảng đá lớn rồi chết là hóa thành cây cau cao vút trời xanh. Nàng Lưu sương Phù ngày ngày mong chồng chờ em trở về, nhưng vẫn biền biệt, nên nàng cũng bỏ nhà ra đi cho trọn tình nghĩa vợ chồng. Nàng cũng đi theo con đường mòn mà chồng và em đã đi qua. Tới bờ sông, nàng ngồi nghỉ trên tảng đá, dựa lưng vào thân cây cau rồi cũng chết đi hoá thành dây trầu cuốn quanh cây cau.
1. Ý nghĩa câu truyện: Mỗi câu truyện cổ tích đều có hậu, đều đem đến một bài học luân lý. Câu truyện trầu cau nói lên tình nghĩa gia đình và tình nghĩa anh em. Chính tình yêu này đã tạo nên hạnh phúc gia đình. Sự phối hợp trầu cau và vôi lấy từ đá luôn tạo thành mầu đỏ thắm, được dùng để diễn tả tình nghĩa sâu đậm và mặn mà giữa vợ chồng, với anh em trong gia đình đầm ấm yêu thương. Chính vì thế, trầu cau được dùng trong việc cưới hỏi, để cầu chúc đôi tân hôn xây dựng tổ ấm gia đình trong tình nghĩa thân thương.
2. Tục lệ trầu cau trong nền văn hoá Việt nam. * Trong xã giao hằng ngày. Người ta nói:”Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Theo thói quen của phong tục ngày xưa, người ta mời chào nhau bằng miếng trầu trong nơi bình dân cũng như nơi quyền quí. Gặp nhau trên đường hay ở một hàng quán cũng mời nhau trầu, nhất là khi khách đến nhà. Trong bài thơ “Khách đến chơi nhà” thi sĩ Nguyễn Khuyến đã xin lỗi bạn vì không có trầu để chào mời: Đầu trò tiếp khách, trầu không có, Bác đến chơi đây, ta với ta. * Trong cách trao đổi giữa trai gái. Các bạn trẻ tuổi lứa đôi, khi gặp nhau cũng đưa mời trầu để làm quen và cũng có thể là dịp để ướm hỏi thử lòng: Gặp nhau ăn một miếng trầu Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào. Nhiều khi bạn trẻ mời nhau miếng trầu là gói ghém tất cả những gì hứa hẹn gắn bó: Trầu này trầu quế trầu hồi, Trầu loan trầu phượng trầu tôi trầu mình. Trầu này trầu tính trầu tình, Trầu nhân trầu nghĩa, trầu mình với ta. * Trong việc cưới hỏi. Không biết đã có từ lúc nào trầu cau là hai thứ đã chiếm giữ một vai trò quan trọng không thể vắng thiếu trong các lễ vật ở buổi hôn lễ của dân tộc Việt nam. Ngoài ra, trầu cau cũng đi đầu trong mọi sinh hoạt giao tế, ăn nói thời xưa, nay còn truyền lại ở mọi nơi, nhất là ở nông thôn vườn ruộng. Ở thành thị “miếng trầu vẫn là đầu câu chuyện” cho nên mỗi khi cưới hỏi, dầu cho khó khăn trong việc tìm mua, cho dù khan hiếm vào lúc không phải mùa như thế nào và cho dẫu thời nay, ít có bà con ăn trầu, người ta cũng phải tìm mua cho bằng được hai thứ này, không nhiều thì ít để giữ lễ. Nói khác hơn là để thủ lễ và chứng tỏ khả năng căn bản về kiến thức của văn lễ gia đình, tộc họ mình. Sự thiếu sót quả là điều đáng tiếc. Tục lệ ăn trầu thì có ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng dường như ở Việt nam mới đưa lên hàng quan trọng có sắc nét cá biệt trong mọi nghi lễ, hơn vậy còn có tính cách trang nghiêm chỉ một lần trong đời người mà thôi. (Phạm côn Sơn, Hôn lễ và nghi thức, tr 39-40)
3. Tính cách triết lý của truyện Trầu cau. Sau khi Cao Lang bỏ nhà ra đi, người anh là Cao Tân đi tìm kiếm và nhận lãnh cái chết để đền trả sự sai lầm của mình trong cách đối xử với người em là một ý thức đề cao tình anh em huyết nhục không thể ly tán. Anh em phải sống chết có nhau và không thể vì riêng tư mà bỏ nhau. Xuân Phù đi tìm chồng và chết theo chồng là sự kiện đề cao tình chồng vợ chung thủy. Cái chung cuộc với hình trạng cây cau không cành vươn lên cạnh hòn đá và dây trầu quấn quít theo cây cau là biểu trưng sự xum họp hạnh phúc chồng vợ gia đình. Có lẽ từ ngàn xưa đã có ai đó nhìn thấy được một hình trạng của thiên nhiên thảo mộc mà nghĩ ra chuyện này rồi săp xếp thành câu chuyện có mạch lạc, ý nghĩa để truyền bá, giáo dục trong đại chúng. Đây là cách giáo dục quần chúng có ý nghĩa và đơn giản vào thời xa xưa , nhưng có tác dụng lâu dài cho tới ngày nay. Dầu sao, chuyện tích Trầu cau vẫn mang tính chất triết lý về sự giáo dục cộng đồng và triết lý đó đã biến thành thực dụng khá đơn giản trải qua bao thế kỷ và tồn tại tới ngày nay qua tục ăn trầu, cùng vấn đề Trầu Cau biến thành vật lễ trong việc cưới hỏi luôn gây ấn tượng về hạnh phúc gia đình và vợ chồng. (Cf Phạm côn Sơn, Cau trầu đầu chuyện, tr 90-91)
II. MIẾNG TRẦU VÀ TÍNH CÁCH HOÀ HỢP. Theo câu truyện Trầu cau, về sau, vua Hùng Vương nhân đi tuần thú qua xứ ấy, thấy trong đền có cây xanh lá tốt, mọc trên một đống đá. Vua ngồi nghỉ mát, gọi người bản thổ hỏi chuyện, rồi ngài sai lấy quả cau ấy bổ ra, và lấy hòn đá nung lên thành vôi tôi với nước, rồi lấy vôi quệt vào lá trầu mà ăn lẫn với miếng cau thì thấy mùi mẽ thơm tho, nhổ ra hòn đá thì thấy đỏ ối. Ngài mới truyền cho thiên hạ lấy giống mà trồng để dùng vào việc cưới xin và mọi việc. (Phan kế Bính, Việt nam phong tục, tr 350) Khi ăn một miếng trầu có cau và vôi, người ta cảm thấy có mùi thơm tho và ngon miệng. Miếng trầu làm cho má cô nàng hồng lên trông hấp dẫn. Miếng trầu cũng làm cho lòng người ấm lên cả trong lẫn ngoài, nhất là những lúc trời lạnh. Miếng trầu tượng trưng cho duyên tình của đôi lứa: Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng: Cau xanh ăn với trầu vàng xứng không ? - Trầu vàng nhá với cau xanh, Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời. Muốn có một miếng trầu ngon, người ta luôn phải trộn lẫn ba thứ đó vào làm một “3 in 1”: trầu, cau và vôi. Mỗi thứ có một mùi vị riêng: trầu cay, cau đáng, vôi nồng. Nếu chỉ dùng một thứ thì không chịu nổi: nếu chỉ ăn lá trầu thì cay quá, cau lại chát, ăn vôi thì bỏng miệng. Miếng trầu nói lên ba đặc tính không thể tách rời nhau: cay, đắng, nồng. Đôi khi người ta ăn trầu với thuốc lào hay vỏ chay, lúc đó miếng trầu trở nên “5 in 1”. Do đó, miếng trầu nói lên sự hoà hợp giữa vợ chồng và con cái. Tuy mỗi người có một tính tình riêng nhưng mỗi phần tử trong gia đình phải bỏ ý riêng để tìm đến một hoà hợp chung: mình vì mọi người, mọi người vì mình. Có sự hòa hợp như thế, gia đình mới có đời sống ấm êm: Trầu xanh, cau đắng, chay hồng, Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.
III. MIẾNG TRẦU VÀ TÌNH NGHĨA VỢ CHỒNG. Giới răn Thiên Chúa đòi buộc mọi người phải yêu thương nhau như chính mình, không phân biệt. Tình yêu vợ chồng lại càng phải được kiện toàn với tình yêu hy sinh vô vị lợi và bằng một sự hoà hợp thắm thiết. Càng hy sinh, tình yêu càng mặn nồng và làm cho gia đình càng hạnh phúc. Hy sinh tỷ lệ thuận với hạnh phúc:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”(Ga 15,13). Truyện trầu cau và phong tục ăn trầu mãi mãi là một gia tài của cha ông truyền lại cho con cháu, nó mang một ý nghĩa rất thâm thúy: càng bị nghiền nhai ra thì càng trở nên mầu đỏ thắm tình yêu: Con đường nghiền nát trầu cau Nên mầu đỏ thắm nên mầu sắt son. Trong Tông huấn về Gia đình, Đức Gioan Phaolô II viết:”Sự hiệp thông trong gia đình đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở rộng lòng mình ra để thông cảm, bao dung, tha thứ và hoà giải với nhau”(FC 21). Chúng ta chú trọng đến hai chữ “Bao dung”, hãy mở rộng lòng ra để đón nhận nhau trong tinh thần bao dung. Bao dung là “Tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt, sự đa dạng giữa người và người trong mọi chiều kích”. Vì thế, những cặp vợ chồng bao dung sẽ dễ dàng xích lại gần nhau, dễ dàng bổ túc cho nhau, nhờ đó họ kiện toàn sự hiệp nhất yêu thương. Léon Tolstoi đã nói:”Yêu ai là yêu trọn vẹn con người đó y như trong thực tế, chứ không phải như trong ước muốn của ta”. Sự hiệp nhất bền vững trong đời sống vợ chồng không chỉ là bảo chứng cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc và đẹp lòng Chúa, mà còn là một chứng từ có sức thuyết phục đối với những gia đình đang chìm trong bất hoà, chia rẽ và đổ vỡ. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Trong ca dao tục ngữ, chúng ta thấy có rất nhiều câu thơ nói về tình yêu, mỗi câu thơ nói lên HP38
Trong ca dao tục ngữ, chúng ta thấy có rất nhiều câu thơ nói về tình yêu, mỗi câu thơ nói lên một khía cạnh của tình yêu. Hôm nay chúng ta chọn một câu thơ rất quen thuộc để nói lên tính cách vô vị lợi của tình yêu, nhất là trong tình yêu hôn nhân: Yêu nhau trăm sự chẳng nề, Dù trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng. Chúa Giêsu đã thực hiện tình yêu vô vị lợi này nơi chúng ta. Tình yêu đó đã được thánh Phaolô ca tụng trong bài thánh thư gửi cho tín hữu Philipphê.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8) Thánh Phaolô ca tụng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người chúng tatrong việc trút bỏ mọi vinh quang của Ngôi vị Thiên Chúa để trở nên người phàm. Và thánh Gioan tông đồ cũng nói: ”Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ”(Ga 3,16-17). Đây là một tình yêu hoàn toàn vo vị lợi. Tình yêu ấy được biểu lộ nơi Đức Giêsu. Ngài tuy là Thiên Chúa nhưng không giữ cho mình chức vị ấy, nhưng đã từ bỏ tất cả để trở nên giống phàm nhân như chúng ta. Còn hơn thế nữa, đã mặc lấy thân phận của người nô lệ hèn hạ nhất trần gian và kết thúc cuộc đời bằng cái chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã yêu thương phục vụ chúng ta cho đến cùng và tình yêu ấy được thể hiện cách cụ thể trong cái chết trên thập giá”Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu”(Ga 15,13) Thánh Gioan khẳng định:”Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,10). Ngài là nguồn gốc tình yêu. Ngài ban cho chúng ta tình yêu của Ngài để chúng ta yêu Ngài và yêu thương nhau. Vì thế Ngài mới nói:”Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn hết sức ngươi và hãy yêu anh em như chính mình”(Mt 22,37.39). Ngoài ra, Chúa còn nói rõ ràng và mạnh mẽ hờn:”Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 13,24 ; 15,12).
II. TÌNH YÊU HÔN NHÂN. 1. Nhu cầu yêu và được yêu. Con người ai cũng có nhu cầu yêu và được yêu. Ai không biết yêu là con người không bình thường hoặc là con người điên loạn bởi vì: Đố ai sống được mà không yêu, Không nhớ không thương một kẻ nào. (Xuân Diệu) Tình yêu triển nở theo thời gian. Khi còn nhỏ, đứa trẻ sống rất vô tư, chỉ biết yêu cha mẹ và bạn bè, sống phó thác trong tay cha mẹ. Đến tuổi dậy thì, người thiếu niên thấy có sự thay đổi gì đó trong con người mình, bắt đầu ưu tư, một tình cảm mông lung nổi lên, tình yêu chớm nở, một nỗi buồn vu vơ không hiểu lý do đang xâm chiếm tâm hồn: Hôm nay trời lặng lên cao, Tôi buồn , không hiểu vì sao tôi buồn. (Xuân Diệu) Nhưng đến tuổi trưởng thành, người thanh niên thực sự có tình yêu, không chỉ là tình yêu bạn bè, mà tình yêu thiên về gia đình. Lúc này trai tài gái sắc tìm gặp nhau để tìm hiểu nhau và đi đến quyết định lập gia đình. Người ta không còn yêu một cách chung chung nhưng muốn tìm đối tượng riêng biệt và đặc thù để lập gia đình, muốn giới hạn tình yêu vào một đối tượng duy nhất: tình yêu vợ chồng.
2. Lý do của Hôn nhân. Theo quan niệm bình dân, người ta cho rằng ông Tơ bà Nguyệt chuyên lo việc cưới vợ gả chồng, ông bà buộc sợi dây xích thằng vào ai thì không thể cởi ra được, họ buộc lòng phải lấy nhau. Nhưng chúng ta không thể chấp nhận được quan niệm bình dân ấy. Hôn nhân phải có tính cách tự do và ý thức chứ không do một nguyện nhân mù quáng nào đó sắp đặt. Nếu không có tình yêu, người ta không thể lấy nhau được. Trong tông huấn về Gia đình, Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã nói:”Tình yêu là ơn gọi cơ bản và bẩm sinh của con người”. Trong Thông điệp “Đấng cứu chuộc con người”, Ngài cũng nói: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ mãi mãi không hiểu được chính mình, và cuộc đời sẽ mất ý nghĩa nếu con người không đón nhận mạc khải về Tình yêu, nếu con người không gặp được tình yêu, nếu con người không thử nghiệm tình yêu, nếu con người không biến tình yêu thành của mình, nếu con người không dự phần một cách mạnh mẽ vào tình yêu”. Người ta đi đến hôn nhân là do tình yêu. Tình yêu nối kết hai người lại với nhau. Chính tình yêu làm cho hôn nhân bền chặt. Ngoài tình yêu ra, mọi cái khác chỉ là phụ thuộc. Có người coi nền tảng hôn nhân chỉ dựa trên chức quyền, danh vọng, tiền tài, sắc dục. Nhưng những thứ đó không bền chặt, không hoàn toàn tùy thuộc mình, có thể một ngày nào đó sẽ mất đi, lúc đó hôn nhân sẽ ra như thế nào ? Nền tảng đổ vỡ, toà nhà hôn nhân cũng sụp đổ.
3. Tình yêu xây dựng và củng cố hôn nhân. Mọi cuộc hôn nhân phải được xây dựng trên tình yêu. Tình yêu là nền tảng của hôn nhân và gia đình. Tình yêu ây không phải là một tình yêu lãng mạn đầy thơ mộng nhưng một tình yêu đã được thử thách qua thời gian. Tình yêu này phải bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về thứ tình yêu này, đó là tình yêu hy sinh, dâng hiến và phục vụ. Người ta kết hôn với nhau không vì một lý do nào khác ngoài việc thương yêu nhau tận tình, trong sáng, hy sinh cho nhau để tạo hạnh phúc cho nhau. Tình yêu bền vững sẽ là tình yêu được dệt đan bằng đau khổ và hy sinh vô vị lợi. Truyện: méo miệng Sau khi đem vợ ra khỏi phòng cấp cứu, người chồng trẻ vội đưa nàng đến ngay thẩm mỹ viện quen biết để xin bác sĩ giải phẫu chỉnh hình cho cô. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ đồng ý giải phẫu ngay lập tức. Thế là# bác sĩ và y tá nhào ngay vào việc trong suốt bốn tiếng đồng hồ. Tại nạn xe hơi đã khiến một phần mặt cô rách nát, nhưng nhờ tài khéo léo, bác sĩ đã cứu cô khỏi sẹo. Nhưng khi chữa đến miệng thì bác sĩ đành chào thua. Giải phẫu xong, bác sĩ cho mời người chồng vào thăm vợ. Hai người cầm tay nhau nghẹn ngào. Quay sang bác sĩ, người vợ ấp úng hỏi: - Miệng tôi sẽ mãi mãi như thế này phải không ? Bác sĩ gật đầu: - Một sợi gân miệng của cô đã bị cắt đứt. Tôi e rằng, miệng cô... Người chồng vội ngắt lời: - Miệng em nay trông duyên hẳn ra ! Rồi chàng cúi xuống, hôn lên miệng vợ. Bác sĩ đứng gần đấy đã trông thấy, và ông làm chứng rằng: - Chàng đã cúi xuống, méo miệng, rồi âu yếm hôn nàng... cho nàng thêm xác tín bốn làn môi ấy vẫn còn hòa điệu sắt cầm. Chúa yêu thương loài người đã “méo mó” vì tội lỗi, không để ý đến sự xấu xa của con người, mà cứ yêu thương, yêu thương cho đến cùng. Chúa Giêsu đã không thủ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã cúi xuống “méo mó” như chúng ta và trở nên giống như chúng ta (x. Pl 2,6-11). Ngài đã trở nên giống hệt chúng ta chỉ trừ tội lỗi (Dt 4,15) để yêu thương và đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Anh chị hãy chiêm ngắm gương mặt Chúa Giêsu. Ngài đã hy sinh tất cả cho chúng ta để chúng ta được hạnh phúc. Anh chị cũng hãy yêu thương và hy sinh cho nhau để cùng nhau tạo lập một gia đình hạnh phúc. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Trong văn học Việt nam của ta có câu chuyện thật đẹp về người con trai lái đò với tiếng hát tuyệt HP39
Trong văn học Việt nam của ta có câu chuyện thật đẹp về người con trai lái đò với tiếng hát tuyệt vời. Đêm đêm, tiếng hát ấy vang lên giữa mênh mông biển cả, gọi về trái tim một người con gái nhà giầu, khiến người con gái quên ăn quên ngủ, xanh xai vàng vọt khi chưa gặp được người con trai mộng mơ ấy. Mà sở dĩ người con gái xanh xao vàng vọt và quên ăn quên ngủ, chỉ vì tiếng hát kia chẳng còn là tiếng hát, cho dầu điêu luyện đến đâu, nhưng đã thành tiếng gọi với cô và cho cô. Tiếng gọi rơi vào tầm sâu tâm hồn, làm rung lên những âm thanh có khi cả đời chỉ một lần cảm mến. Người ta bảo: ấy là tiếng gọi của tình yêu. Câu chuyện tình thật đẹp nhưng cũng chỉ là minh họa cho một tiếng gọi mà bình thường người con trai và cô con gái nào cũng một lần rung động. Và còn hơn nữa, đàng sau tiếng gọi ấy phải chăng là tiếng Chúa đang kêu gọi mà ta không ngờ:”Hãy theo Ta” (Mt 4,19).
I. MỘT ƠN GỌI. 1. Phải chăng một ơn gọi ? Hôn nhân, có gì cao cả để đáng mệnh danh là “ơn gọi” như người hiến dâng mình cho Chúa, cho tha nhân, cho đối tượng tình yêu siêu nhiên và cao cả là chính Chúa, thoát ra khỏi sự tầm thường của một kiếp nhân sinh ? Phải chăng chỉ là sự đương nhiên ? Do đó, việc lập gia đình chỉ là một việc bình thường, đương nhiên, “có vay có trả”của kiếp phàm nhân ?
2. Một xác quyết. Chúng ta hãy nghe Đức Giáo hoàng Phaolô VI nói với chúng ta trong thông điệp Humanae vitae về vấn đề nàay:”Hôn nhân không phải là kết quả của ngẫu nhiên, của năng lực tự nhiên, vô ý thức tạo thành. Trái lại, đó là một tổ chức khôn ngoan của Tạo hóa để thực hiện ý định tình yêu của Ngài trong nhân loại. Đ6i vợ chồng tự hiến cho nhau, kết hợp với nhau, để hoàn thiện lẫn nhau và để cộng tác với Thiên Chúa mà gây dựng và dưỡng dục những sinh mạng mới”.
3. Hôn nhân đã có từ ban đầu. Một hôm người Pharisêu hỏi Đức Giêsu về việc rẫy vợ. Người đáp:”Các ông không đọc thấy lời này sao:”Thuở ban đầu, Đấng Tạo hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn phải là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt”(Mt 19,4-6) Theo đó, cuộc hôn phối đầu tiên đã diễn ra giữa Ađam và Evà. Sau này con cháu cứ tiếp tục sinh hoạt theo mẫu gương ấy.
4. Một thắc mắc. Vậy người sống độc thân có đi ngược lại với ý của Chúa không ? Vì sau khi dựng nên Ađam, Thiên Chúa phán:”Người đàn ông sống một mình thì không tốt”, nên đã dựng nên cho họ một người nữ để trợ lực ?
Đây là một trường hợp đặc biệt như Đức Giêsu đã nói:”Có những người là hoạn nhân vì từ lòng mẹ sinh ra đã là như thế; có những người là hoạn nhân vì bị người ta hoạn ; và có những người là hoạn nhân do họ tự ý sống như thế vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19,12). Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô cũng nói rõ thêm về câu nói của Chúa Giêsu “Ai hiểu được thì hiểu”. Vì thế Ngài nói:”Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7,32-34).
5. Lập gia đình: một công lệ. Xưa nay, người ta thấy việc lập gia đình là một việc tự nhiên, bình thường vì nam nữ hấp dẫn nhau, muốn kết hợp với nhau. Hơn nữa, gia đình là một yếu tố cần thiết cho xã hội và Giáo hội. vì: a) Gia đình là một cộng đồng yêu thương, nơi chia sẻ tâm tình, nhờ đó con người được hoàn thiện và trưởng thành hơn. b) Gia đình là nơi nương tựa nhau bởi không ai có thể sống một mình được. c) Gia đình là nơi sinh sản và là môi trường thuận tiện giáo dục con cái. d) Gia đình còn là nền tảng của xã hội. Vì thế, cưới vợ lấy chồng là một nhu cầu cần thiết và phổ biến: * Đối với người ngoại giáo: cưới vợ gả chồng được gọi là hôn nhân tự nhiên. * Đối vớ người công giáo thì hôn nhân còn là bí tích, cao trọng hơn một bậc.
II. HÃY SỐNG THEO ƠN GỌI CỦA MÌNH. Ai sống theo ơn gọi là sống theo ý Chúa. Chúa đã tiên liệu cho ta tất cả. Ngài s8áp đặt và kêu gọi ta vào một cảnh sống cụ thể. Ngài đã có đầy đủ kế hoạch về con người chúng ta với đầy đủ chi tiết, chỉ mong ta thực hiện đúng chương trình của Ngài. Chúa đã gọi ta vào cảnh sống nào, dĩ nhiên, Ngài ban đầy đủ ơn để ta có thể thực hiện một cách tốt đẹp vì theo nguên tắc triết học thì:”Nemo ad impossibile tenetur”: không ai bị buộc phải làm cái không có thể làm được. Chua Giêsu đã phán:”Hãy theo Ta” (Mt 4,19). Đâu chỉ là tiếng gọi của cuộc sống tu trì mà còn là tiếng gọi cho cuộc sống hôn nhân. Ta theo Chúa ngay trong những hẹn hò gặp gỡ với người yêu, theo Chúa trong ngày bước lên xe hoa, theo Chúa trong bổn phận gia đình... Người ta bảo Kitô giáo có cái nhìn bi quan về tính dục, mà tính dục lại gắn với hôn nhân. Thế nên chỉ nhấn mạnh đến tiếng gọi của Chúa trong đời sống độc thân tu sĩ, còn cvác các đôi vợ chồng thì khó lòng cảm nhận là CHÚA GỌI mình. Nhận định ấy đáng suy nghĩ và hãy tập nghe TIẾNG GỌI của Ngài ngay giữa lòng cuộc sống (x. Mái ấm, tr 19-20). KẾT LUẬN Chúng ta phải ý thức rằng: ơn gọi hôn nhân không hẳn là một lời mời gọi hưởng hạnh phúc, mà hơn hết là một sự DẤN THÂN lãnh trách nhiệm, lao đầu vào những gian nan khó khăn để thi hành nhiệm vụ một cách chu toàn. L:ời của một vị danh nhân:”Tôi luôn khâm phục những vị anh hùng. Nhưng kẻ anh hùng nhất là người dám lập gia đình”. Câu nói này có vể cường điệu quá, khó có thể chấp nhận được, nhưng dù sao, đứng về một phương diện nào đó, câu nói ấy cũng hàm chứa một ý nghĩa sâu xa: vì những người đi lập gia đình không hề nắm vững được tương lai như thế nào, không thể đo lường được con đường phía trước với đầy gian nan, bất trắc có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Có lẽ vì thế mà ông Ben Jonson mới nói:Hôn nhân là một cuộc xổ số”. Ý thức như vậy, chúng ta sẽ thấy hôn nhân là một ơn gọi của Thiên Chúa. Và khi đáp trả tiếng gọi mời một cách tự nguyện, là chúng ta cũng tự mình đón nhận những trách nhiệm. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt
Cưới vợ gả chồng là một điều rất tự nhiên và bình thường, chính Thiên Chúa đã tác hợp cho đôi HP40
Cưới vợ gả chồng là một điều rất tự nhiên và bình thường, chính Thiên Chúa đã tác hợp cho đôi hôn phối đầu tiên là Ađam và Evà để họ sinh sản con cái ra đầy mặt đất. Thiên Chúa chúc phúc cho việc kết hôn này. Ngày này người ta vẫn tiếp tục cưới vợ gả chồng theo khuôn mẫu của cuộc hôn nhân đầu tiên ấy. Hôn nhân là một việc cần thiết đối với mọi người, trừ một số người có ơn gọi đặc biệt sống độc thân. Kết hôn thì dễ, nhưng làm thế nào cho hôn nhân được hạnh phúc là một truyện khó ! Muốn cho hôn nhân được hạnh phúc, đối với Kitô hữu, chúng ta hãy mời Chúa Giêsu ngự vào nhà mình. Ngài là vị khách quan trọng hay bị bỏ quên.
I. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN. Người ta nghĩ thế nào về hôn nhân ? Người ta có cái nhìn lạc quan hay bi quan về hôn nhân ? Phải chăng người ta có cái nhìn bi quan về hôn nhân khi nhìn vào hiện trạng các gia đình trên thế giới với những cuộc ly dị tràn lan... * Có những người nói một cách bi quan: “Hôn nhân là một cuộc xổ số (Ben Jonson). “ Hôn nhân là một cái bao, trong đó có 99 con rắn và một con lươn, ai có thể thọc tay vào đó” (tục ngữ Ả rập). * Có người nói trung dung hơn: “Hôn nhân là con đường đưa ta vào địa ngục hay dắt ta vào cõi thiên đàng” (de Balzac). Nếu hỏi những người nhiều kinh nghiệm, chắc hẳn họ sẽ mỉm cười. Với dáng bộ bí mật họ sẽ nói:”Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” (Nguyễn Du). Cũng như ông Socrate nói, chúng ta cũng phải nói rằng:”Hôn nhân là một tai họa nhưng là một tai hoạ cần thiết” (Ménandre). Có người bảo:”Hôn nhân là mồ chôn tình yêu” (Chamfort), nhưng tôi nghĩ nó chỉ là một tình trạng mới của tình yêu, nó sẽ làm cho tình yêu bớt đi cái chất mơ mộng viển vông, mà gia tăng tính cách trưởng thành bằng cách lãnh nhận và chu toàn bổn phận của mình.
II. LÀM SAO CHO HÔN NHÂN HẠNH PHÚC ? Phải nhận rằng gia đình là tế bào của xã hội, chính là con tim của nhân loại, nhưng con đường tình yêu có lắm chông gai và cuộc sống hôn nhân có nhiều sỏi đá, thì chúng ta cũng cần phải bước vào với tình trạng không thể trốn tránh được. Điều quan trọng là chúng ta phải có những phương pháp, phải có những cách thức biến gai nhọn thành bông hồng, biến sỏi đá thành mầu mỡ, biến đau khổ thành hạnh phúc. Hôm nay tôi chỉ nói tới một hình thức làm cho hôn nhân hạnh phúc: TINH THẦN ĐẠO ĐỨC.
Truyện: Của hồi môn. Có một ông bố vợ, trong ngày cưới, đã gặp chàng rể. Ông ta trao cho anh một phong bì và nói:”Đây là tiền hồi môn của con gái tôi”. Chàng rể về nhà mở bao thư, trong đó có một tờ giấy ghi những hàng chữ như thế này: - Chịu khó làm việc trị giá 100.000đ. - Làm bếp giỏi trị giá 100.000đ. - Không ăn quà vặt và không chạy theo thời trang trị giá 100.000đ. - Dịu hiền và không hay bép xép trị giá 100.000đ. - Tinh thần đạo đức trị giá 400.000đ. - Và một số tiền mặt là 200.000đ. Cộng chung tất cả là một triệu đồng. (Tình yêu trong đời thường, tr 35) Sau này, chàng rể thấy, quả thật người vợ của mình có những đức tính ấy, còn mình thì hạnh phúc và sung sướng hơn một triệu phú. Ông bố vợ đã có một cái nhìn rất sâu sắc và đánh giá đúng mức khi cho rằng tinh thần đạo đức là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình.
III. TINH THẦN ĐẠO ĐỨC NHƯ THẾ NÀO ? “Hãy đưa Chúa vào nhà mình”. Chúa Giêsu vào dự tiệc cưới Cana không những làm phép lạ biến nước thành rượu cho chủ nhà khỏi bị bẽ mặt mà còn chúc phúc cho đôi tân hôn. * Anh chị có dọn mình để cử hành bí tích Hôn phối không hay chỉ nghĩ đến thiệp cưới, quần áo, cỗ bàn ? * Anh chị có biết cầu nguyện không ? Cầu nguyện là việc rất quan trọng như một danh nhân đã nói:”Nếu bạn lên đường, hãy cầu nguyện một lần, nếu bạn ra khơi, hãy cầu nguyện hai lần, và nếu bạn kết hôn, hãy cầu nguyện ba lần” Họ đi mời họ hàng thân thích bạn bè đến dự tiệc cưới mà lại bỏ quên một nhân vật quan trọng có thể làm cho họ được hạnh phúc hơn: đó là Đức Giêsu. Hôm nay anh chị có để ý đến Ngài không, hay đã bỏ quên Ngài ? Nếu cuộc hôn nhân vắng bóng Đức Kitô thì đối với họ, hôn nhân chỉ là cơ hội để hưởng thụ lẫn nhau. Hôn nhân chỉ là là một cuộc buôn bán đổi chác. Hôn nhân chỉ là bước đầu đi đến ly dị. Một cuộc hôn nhân không có Đức Kitô như thế, chắc chắn sẽ đi đến đổ vỡ, sẽ đem lại những đau thương. Phúc âm đã viết:”Khi Đức Kitô trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, thì mặt đất bỗng rung chuyển và bầu trời trở nên tối tăm”. Cũng vậy, khi Đức Kitô bị loại trừ ra khỏi bầu khí của gia đình, thì ở đó chỉ còn những cãi vã, những đay nghiến nhau từng ngày. Truyện: Một cái gì bảo đảm chứ ? Một cô gái quyết định kết hôn với chàng thanh niên nhà giầu, nhưng anh này lại là một kẻ nghiện rượu, cờ bạc và khô khan. Thấy vậy, cha sở khuyên cô nên nghĩ lại, nhưng cô đã choáng váng trước căn nhà đồ sộ với chiếc xe hơi bóng loáng. Cô trả lời với cha sở: - Ít ra mắt con phải thấy được một cái gì bảo đảm chứ ! Đám cưới của họ được tổ chức linh đình và rềnh rang. Nhưng chỉ sau đó một tuần lễ thì cô ta đã đến gặp cha sở với khuôn mặt bầm tím vì bị chồng đánh đập trong một cơn say. Lúc đó cha sở mới bảo: - Bây giờ thì con đã thấy được một cái gì bảo đảm rồi chứ ? (Tình yêu trong đời thường, tr 37) Trong đời sống hôn nhân, tinh thần đạo đức sẽ tạo nên hạnh phúc gia đình. Thánh Clêmentê đã đưa ra một ý nghĩ khôi hài như sau:”Nếu ở trong một môi trường đạo đức, tôi sẽ có được cái mũi người công giáo”, có nghĩa là tôi sẽ ngửi được hương thơm thánh thiện. Bước vào nhiều gia đình hiện nay, chúng ta thấy thiếu vắng hương thơm thánh thiện này, đó là hương thơm của những câu kinh, của những lời cầu nguyện. Gia đình phải được trở nên một gian cung thánh, ở đó vợ chồng và con cái dâng lên Chúa những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc sống, đó là những lao công vất vả của cuộc sống. Lm Giuse Đinh lập Liễm, Giáo xứ Kim phát, Đà lạt