Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
Đoạn Tin Mừng hôm nay dễ bị đem ra nhạo cười, vì có vẻ nó dung túng sự ác và biểu lộ một tinh thần yếu hèn bạc nhược. Người ta hay nghĩ rằng nếu cứ sống theo tinh thần của Chúa Kitô, thì hẳn kẻ ác sẽ tha hồ tác oai tác quái trong thế giới này. Tuy nhiên, chính vì con người muốn sống theo khuynh hướng tự nhiên, nên thế giới hôm nay mới không ngớt chiến tranh và đau khổ. Đánh phủ đầu là đánh trước khi người kia kịp đánh mình. Trên thế giới mỗi ngày có biết bao vụ sát nhân chỉ vì một chút hờn oán. “Mắt đền mắt, răng đền răng”, câu này thường được dùng để cho thấy sự tàn nhẫn của Cựu Ước. Thật ra, Cựu Ước chẳng bắt người ta phải móc mắt, nhổ răng kẻ thù. Câu này chỉ nhằm giới hạn việc báo thù trong mức độ cân xứng. Trong xã hội mang tính bộ tộc của Ítraen thuở ban đầu, “mắt đền mắt” đã là một tiến bộ đáng kể. Đức Giêsu đi xa hơn khi đòi hỏi đừng chống cự lại người ác, nghĩa là đừng lấy ác báo ác, đừng sống theo luật báo phục (lex talionis). “Nếu bị ai vả má bên phải, hãy đưa cả má kia ra nữa” (c. 39). Bị vả má bên phải nghĩa là bị tát bằng mu bàn tay phải. Không phải là đau hơn, nhưng là nhục nhã hơn nhiều. Đức Giêsu đã từng có kinh nghiệm này trong cuộc Khổ Nạn (Mt 26, 67). “Đưa má kia” đơn giản chỉ có nghĩa là tránh trả thù, chịu mình ở thế yếu, vì báo oán là chuyện của Thiên Chúa (Rm 12, 19-20). “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 2,21). “Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong, hãy để cho hắn lấy cả áo ngoài nữa” (c. 40). Ở Đông phương, áo ngoài là quan trọng để chống cái lạnh ban đêm, nên nếu bị cầm cố, thì cũng phải trả lại cho người ta có cái mà đắp (Đnl 24, 13). Đưa cả áo trong lẫn áo ngoài cho kẻ kiện cáo mình, là chấp nhận bị trần trụi và xấu hổ, nếu ai đó chỉ có một bộ thôi. Trong xã hội Paléttin bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, chuyện bị ép vác đồ dùm cho lính tráng vẫn hay xảy ra (x. Mt 27, 32). “Người bắt anh đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm” (c. 41). Môn đệ Đức Giêsu, trước những ép buộc không mấy chính đáng, chẳng những được mời ưng thuận, mà còn làm hơn cả điều bị ép buộc. Câu cuối của bài Tin mừng cho thấy thái độ bác ái của Kitô hữu trước những yêu cầu của có thật của tha nhân (c. 42). Mở lòng ra trước người xin, người muốn vay mượn, dù kẻ ấy là kẻ thù hay người không có khả năng hoàn trả. Lời của Đức Giêsu hôm nay làm chúng ta choáng váng. Lời này không đòi dẹp bỏ hệ thống pháp luật, cảnh sát hay nhà tù. Nhưng nếu các Kitô hữu cứ để cho Lời này thấm vào lòng từ từ, đời sống của họ sẽ được thay đổi một cách kỳ diệu, và bộ mặt thế giới sẽ đổi khác. Hiền hậu, bao dung, quảng đại, đó là điều thế giới hôm nay thiếu trầm trọng. Gandhi, người say mê những câu Lời Chúa hôm nay, đã than phiền: “Tôi thích Đức Kitô của các anh, nhưng tôi không thích các Kitô hữu. Vì các Kitô hữu thì chẳng giống Đức Kitô mấy.” Chỉ mong chúng ta có trái tim hiền hậu giống Đức Kitô hơn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa: vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường, để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ. Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện. Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con. Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích. Xin cho quả tim con đủ lớn, để yêu người con không ưa. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở, để có thể ôm cả những người thù ghét con. ---------------------------------
Người đời cư xử với nhau theo sức mạnh. Mạnh được yếu thua. Câu chuyện vườn nho Na-vốt là tiêu biểu. A-kháp đã có nhiều vườn tược. Nhưng vẫn còn ham muốn vườn nho của Na-vốt. Hoàng hậu I-de-ven đã dùng thủ đoạn gian dối. Vu cáo Na-vốt. Giết chết ông. Và chiếm vườn nho. Người có quyền thế có mọi sự. Sai bảo người khác làm điều dữ. Giết người. Cướp của. Nhưng lại dùng chiêu bài đạo đức. “Trong thư bà viết rằng: “Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó, để chúng tố cáo nó: ‘Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua’. Và hãy đem nó ra ngoài ném đá cho chết”.Thật là ghê gớm (năm chẵn).
Ngược hẳn với thói cư xử của người đời, Chúa dạy ta điều răn mới. Kiện toàn Lề Luật. Đề ra một lối sống mới. Đó là tinh thần Nước Trời. Và sẽ canh tân trần gian. Không còn mạnh hiếp yếu. Quyền lực áp chế dân đen. Nhưng là hiền lành, khiêm nhường và bác ái. Không dùng bạo lực. Chỉ dùng bác ái. Quảng đại. Yêu thương. Phục vụ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: … Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặn, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”. Đó chính là tinh thần của Chúa. Chính Chúa Giê-su đã làm như thế. Quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Chữa lành anh lính bị Phê-rô chém đứt tai. Tha thứ cho những kể giết mình. Xin Chúa tha tội cho những kẻ làm hại mình. Đó chính là tinh thần Nước Trời.
Thánh Phao-lô ý thức được cộng tác với Chúa trong công trình xây dựng Nước Trời. Ngài làm tròn vai trò thừa tác viên của Chúa. Sống tinh thần của Chúa. Làm chứng cho Nước Trời. “Trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẩn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng”. Về phương diện con người ngài bị coi như khốn khổ. Nhưng ngài cảm thấy đầy đủ, bình an, sung mãn trong Chúa: “Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; … coi như nghèo túng, nhưng kỳ thức chúng tôi làm cho bao người trở nên giầu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả”(năm lẻ).
Xin cho con sống tinh thần của Chúa. Và làm chứng cho Nước Trời ở giữa trần gian. Bằng chấp nhận mọi thiệt thòi ở đời này. Để được sung mãn trong Nước Trời.
“Anh em nghe luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị vả mà bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt. 5, 38-39)
Phản xạ tự nhiên
Trong các điều Chúa đòi hỏi ở đây, chẳng có điều nào là tự nhiên đối với ta cả. Giơ má bên trái khi người ta vả ta má bên phải, không chống cự lại khi người đánh ta, cho họ vay mượn mà không đòi những những bảo đảm cần thiết để người ta hoàn trả. Tất cả những cử chỉ đáp lại trên đây đều không phải là những cử chỉ bộc phát tự nhiên đối với ta. Ngay cả những người lương thiện và nhân từ cũng chẳng hành động theo cách đó.
Có lẽ tất cả chúng ta đều đồng ý rằng thi hành đúng như lòi Chúa dạy, trong nhiều trường hợp, thiết tưởng mình sẽ tỏ ra ngây ngô và hèn nhát. Chẳng khác nào như nối giáo thêm cho giặc và bỏ ngỏ cửa nhà cho trộm dễ vào vậy. Trong cuộc sống thường phải biết đứng thẳng hiên ngang và không được mềm như bún. Phải có khả năng tỏ ra cương quyết, khả năng đòi lại quyền lợi của mình.
Những cử chỉ phản xạ của người con cái Chúa
Thiết tưởng Chúa Giêsu cũng sẽ đồng ý với điều ta vừa nói. Chúa không mong muốn ta trở thành những con người hiền lành như cục đất, bạc nhược và mềm như bún. Vậy phải hiểu rõ Chúa chờ đợi gì ở nơi ta.
Điều Chúa mong đợi ở nơi ta chính la, khi phải đương đầu với mọi tình huống, thì cử chỉ phản xạ đầu tiên của ta luôn luôn phải là cử chỉ của lòng nhân ái, hiểu biết và đầy quảng đại. Chúa đồng ý là tiên vàn ta phải cố gắng lấy đức báo oán, lấy tình yêu thắng hận thù. Người cho rằng đấy là cách làm tốt nhất để tước khí giới kẻ tấn công ta hay có ý lợi dụng ta.
Chỉ có tình yêu và lòng đại độ mới thay đổi được lòng người xấu. Hãy giết chết bạo lực từ trong trứng nước bằng một phản ứng bất bạo lực. Hãy làm bẽ mặt đối phương bằng một tâm hồn vô cùng độ lượng. Hãy có những cử chỉ phản xạ của những người con cái Chúa chứ đừng trả miếng theo lối hoàn toàn phàm phu. Chúa mời gọi ta làm như vậy đó. Ai dám bảo Chúa lầm?
Tránh mắc vào guồng bạo động
Sau khi đọc đoạn Tin Mừng này, người ta tự hỏi phải tổ chức đời sống xã hội trên thể thức công bằng nào? Phải chăng là bật đèn xanh cho người hung ác và kẻ bất lương mà không bắt họ phải chịu thiệt thòi gì cả?
Thật ra, những lời Chúa Giêsu nói không nhằm đến nền luân lý trong xã hội. Luật báo thù, xét về phương diện xã hội học, đã là một bước tiến quan trọng so với những tập tục xa xưa, khi mà sự trả đũa diễn ra trong hỗn loạn. Nhưng ở đây Chúa Giêsu tuyên bố: luật báo thù phải được bãi bỏ. Luật lệ xã hội không bao giờ đủ để làm cho công bằng và hòa bình chân chính ngự trị. Chúa Giêsu kêu mời đừng trả đũa khi bị lầm lỗi và thiệt hại. Điều này không có nghĩa là xã hội được miễn khỏi việc tái lập công bằng, nhưng người Kitô hữu không được trả thù, nghĩa là gây thiệt hại lại khi bị thiệt hại. Có một khác biệt sâu xa giữa việc đền bù một bất công thuộc thẩm quyền tư pháp và gây thiệt hại lại khi bị thiệt hại.
Đàng khác phải nhớ rằng Chúa Giêsu dùng thứ ngôn ngữ rất thực tế, hợp với dân chúng. Chúa lấy những ví dụ đập mạnh vào sự chú ý của dân chúng nhờ tính cách rắn rỏi và có vẻ nghịch lý. Nếu hiểu theo nghĩa đen thí dụ cái vả má, người ta sẽ tự hỏi tại sao Chúa Giêsu, khi bị tên đầy tớ vả má trước mặt Caipha, lại quả quyết mình vô tội, thay vì giơ má bên kia nữa. Vậy điều hệ trọng là tìm xem điều Chúa Giêsu muốn dạy qua những thí dụ về áo choàng, cái vả má… Lời giải thích được tìm thấy trong câu ngắn ngủi này: Ta bảo các ngươi đừng cự lại người ác. Điều này có nghĩa: chớ cãi vã, đánh đập, trả thù, chớ đi vào tinh thần kiện tụng (là thứ tinh thần quen thuộc trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu). Bình an là hoa quả của công bằng, nhưng không ai có bình an bằng phương tiện bạo động tự xử cho mình.
Một điểm nhỏ cần lưu ý: nếu ai cậy nhờ ngươi… Trong đời sống thường nhật chúng ta đã chẳng bị ‘nhờ vả’ bởi đủ thứ việc sao? Đừng tìm cách tránh né, nghĩa là chúng ta đừng lẩn trốn, nhưng hãy đáp lại với lòng quảng đại và nhân ái.
Lorobel khi còn làm quan toàn quyền ở Ấn Độ, vào một ngày kia ông đáp tàu trở về Trung Quốc, cùng trên chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa nhỏ, bà chẳng ngó ngàng gì đến đứa bé khiến nó cứ khóc thét suốt ngày đêm. Hành khách ai cũng bực mình, có người thô lỗ còn hăm dọa sẽ ném đứa bé xuống biển. Lorobel đã quyết định một việc mà ít ai ngờ tới: Ông ẵm đứa bé lên, đặt nó ngồi trên đùi của ông và từ giờ này qua giờ khác, ông nói chuyện đùa giỡn và làm trò đùa hoặc làm bất cứ điều gì đứa bé thích. Đầu tiên đứa bé ngạc nhiên quên đi chuyện khóc lóc, và sau khi quen rồi nó lại thích thú quấn quýt bên Lorobel. Hành khách trên tàu cảm thấy dễ chịu, ít bực mình và đôi khi còn vui lây niềm vui của đứa bé. Đứa bé không còn làm phiền ai nữa, nhưng nó đã trở nên tâm điểm truyền đạt niềm vui cho hành khách.
Nếu có mặt trên chuyến tàu cùng với Lorobel hôm đó, chúng ta cũng được chứng kiến một cảnh khôi hài, đó là một vị quan toàn quyền đầy uy quyền như thế mà lại nhận lãnh vai trò vú em. Ông không sử dụng uy quyền của mình để ra lệnh cho người đàn bà, nhưng đã dùng tình thương để đối xử với sự thiếu sót của bà. Đây quả thực là một phản chiếu lời dạy của Chúa Giêsu được thánh sử Matthêu gởi đến cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, đền ơn trả oán là một áp dụng cụ thể trong công bằng giao hoán. Từ khi có ý niệm về luật pháp thì việc báo oán cũng được quy định. Luật của người Babylon viết: “Nếu kẻ nào làm cho một người nào đó trong giai cấp bị mất mắt hoặc gẫy tay chân thì phải chịu mất mắt hoặc gẫy tay chân để đền bù. Nếu đối tượng là kẻ bần dân thì chỉ cần đền bù bằng một lạng bạc”. Người Do thái cũng áp dụng luật này, nhưng không phân biệt giai cấp: mắt đền mắt, răng thế răng, mọi người đều có quyền được đền bù xứng đáng.
Thật ra ý niệm về công bằng này không hoàn toàn chia khỏi luật lệ người Do thái. Sách Lêvi viết: “Ngươi sẽ không báo oán, không tư thù với con cái dân ngươi”. Hoặc sách Cách Ngôn có viết: “Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó bánh ăn, nếu nó khát hãy cho nó nước uống”. Như vậy, dân tộc Israel vẫn còn chút gì là dân riêng của Chúa. Họ không buộc phải tuân giữ những điều này, họ vẫn có thể được đòi hỏi mắt đền mắt, răng thế răng. Chỉ khi Chúa Giêsu đến, Ngài mới kéo con người ra khỏi cái vòng oán thù lẩn quẩn này. Có thể xem cái vả vào má là một cái đụng chạm đến danh dự, một xúc phạm về tinh thần, và kiện tụng để đoạt áo là một đụng chạm đến của cải, một xúc phạm về vật chất.
Dù bị xúc phạm đến vật chất hoặc tinh thần thì người môn đệ của Chúa Giêsu không được vịn vào đó để báo oán, nhưng phải đưa má bên kia cho họ vả nữa. Hành động như vậy xem ra như một nhu nhược, cúi đầu khuất phục, nhưng chính hành động ấy diễn tả một thái độ quả cảm sẵn sàng cho đi tất cả để phục vụ người khác. Con người càng trở nên cao cả qua việc cho đi mà không giữ lại cho mình điều gì, dù điều đó là niềm hạnh phúc chính đáng, dù đó là một chút quyền lợi hợp với quyền sống con người. Càng cho đi, người môn đệ càng gần gũi với Thầy của mình là Đức Giêsu, Đấng đã cho đi hoàn toàn, cho đi cả mạng sống của mình.
Đồng thời, khi cho đi như vậy con người lại càng gần gũi với nhau hơn. Khi trao ban cho người khác điều gì là mở ngỏ cho họ sự cảm thông, và khi thực hành điều Chúa dạy: “Ai xin thì con hãy cho, ai muốn vay mượn con đừng khước từ”, cũng có nghĩa là đã thêm được một lần nối kết và nhiều nối kết sẽ tạo nên sự bền chặt và sức mạnh. Sợi tơ nhện mỏng manh, nhưng nhiều sợi tơ sẽ giữ được con ruồi. Một sự cho đi của con người xét ra thì chẳng đáng gì, thế nhưng nếu cả một thế giới cho đi thì cũng đủ khả năng để cầm giữ sự ác, để chống lại quyền lực của sự dữ.
Lạy Chúa, thế giới vẫn còn nhiều bóng dáng của sự ác, vẫn còn nhiều chiến tranh, vì mỗi người chúng con chỉ biết thu góp quyền lợi về cho mình mà chưa biết cho đi. Xin Chúa cho chúng con biết sẵn sàng cho đi, để rồi trong trao ban chúng con sẽ được nhận lãnh, chúng con sẽ gặp được Chúa là chính nguồn bình an, đồng thời cũng làm người em bên cạnh cũng nếm được mùi hạnh phúc thật của Chúa. Amen.
"Mắt đền mắt, răng đền răng", đó là công thức của luật báo thù. Người ta xúc phạm đến tôi bao nhiêu, tôi phải làm lại cho người đó bấy nhiêu. Kẻ lý luận như thế là dựa trên sự công bằng, nhưng đây là sự công bằng theo mức độ của loài người. Luật trả thù này đã được ghi chép thành văn trong bộ luật của vua xứ Babylon năm 1750 TCN. Trong Bộ Ngũ Kinh, người ta cũng có thể đọc thấy vài công thức của luật trả thù này, và đó là sự bất toàn của Luật Môsê thời Cựu Ước.
Nhưng luật trả thù này không những có trong những bộ luật lâu đời, mà còn nằm trong tâm hồn con người mọi thời. Chúa Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ Ngài xưa cũng như nay, là cần phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: "Ðừng chống cự người ác". Ngài nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, vượt qua điều anh em xúc phạm đến mình. Ðây là hình thức cao cả của tình yêu Kitô: yêu thương một cách nhưng không, không đòi lại điều gì, cũng không chờ đợi điều gì. Như vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Ai muốn lấy áo trong của con, thì hãy cho nó cả áo ngoài" không phải là thái độ thụ động, mà là thái độ tích cực sống yêu thương tha thứ như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá khi Ngài cầu nguyện: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ đến cùng, và Ngài dạy chúng ta sống theo gương Ngài, nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ đích thực của Ngài.
Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô Assisiô: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu.
Khi đạo Công Giáo mới được loan báo trên quê hương Nước Việt, cha ông chúng ta đã mau mắn đón nhận Tin Mừng và sống những giá trị Tin Mừng ấy rất sống động. Một trong những điểm sáng mà tổ tiên chúng ta đã sống đó là “tình yêu thương”. Khi sống như thế, nhiều người không phải là Kitô hữu, họ đã không hiểu được các ngài theo đạo gì, vì thế, họ không ngần ngại đặt cho tôn giáo mới này là: “Đạo Yêu Nhau”.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học yêu thương. Yêu thương thì không oán hờn; không tính toán thiệt hơn; yêu thương thì không có khái niệm trả thù mà sẽ tha thứ không chỉ bẩy lần, mà bẩy mươi lần bẩy, tức là không có giới hạn.
Trong thực tế hôm nay, nhiều người Công Giáo không dám sống căn tính của mình là yêu thương. Bởi vì khi yêu thương như Chúa đòi hỏi, thì họ phải trả giá bằng chính sự thiệt thòi, ức hiếp, bóc lột, coi thường, khinh khi..., vì thế, không thiếu gì hình ảnh những người Công Giáo cũng “ga lăng” chẳng kém gì ai! Đây đó vẫn có những người Công Giáo sống kiểu “đàn anh đàn chị!”.
Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy trở nên “thánh thật” chứ không chỉ làm thánh “lâm thời”. Muốn trở nên “thánh thật” thì phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương nhau thật lòng, dầu có phải thiệt thòi đôi chút. Chấp nhận đau khổ, hiểu lầm vì mối lợi lớn hơn là được biết Chúa và được Chúa yêu thương. Sẵn sàng đi trên con đường tình yêu được chứng minh bằng việc đón nhận thập giá trong cuộc sống vì lòng yêu mến Chúa, để qua đó, chúng ta có sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy khó quá đối với con người yếu đuối, ích kỷ của chúng con! Nhưng chúng con tin Lời Chúa có sức mạnh biến đổi. Xin Chúa thánh hóa chúng con, để mỗi ngày chúng con nên giống Chúa hơn khi biết quảng đại, bao dung và vô vị lợi như Chúa. Amen.
Sứ điệp: Tha thứ là điều khó khăn nhất và cũng là điều cao cả nhất mà Chúa Giêsu đã cống hiến cho con người. Lòng tha thứ không báo thù chính là tuyệt đỉnh của yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong thế giới hôm nay, con đọc qua báo chí, qua truyền thanh, qua truyền hình và cả thực tế vẫn xảy ra chung quanh con, bao nhiêu là chuyện gây thù báo oán. Người ta ăn miếng trả miếng, và càng ngày con người càng lạc sâu vào cái vòng luẩn quẩn của hận thù ghen ghét.
Lời Chúa hôm nay mở ra cho con một lối thoát, đó là lấy thiện thắng ác, dùng tình yêu đáp trả hận thù. Chính Chúa đã nêu gương cho con, khi trên thập giá, Chúa đã tha thứ cách tuyệt đối cho những kẻ đang reo hò đắc thắng vì đã giết được Chúa. Và ngày hôm nay, qua bí tích Hòa Giải, Chúa vẫn hằng tha thứ những lỗi lầm con đã phạm, cho dù đã bao lần con sa đi ngã lại. Chúa chỉ đòi con đền đáp ơn Chúa, bằng cách con cũng biết tha thứ cho anh em con, như Chúa đã tha thứ cho con.
Lạy Chúa, khi tha thứ không những con phải quên đi những lỗi lầm của anh em, mà còn phải xóa sạch những điều ấy trong tư tưởng, trong lời nói và nơi việc làm của con. Tha thứ là biết đối xử tử tế với họ như những người tốt.
Lạy Chúa, điều này không phải là dễ dàng, bởi vì trao ban tiền của, trao ban thời gian, trao ban chính mạng sống mình, xem ra còn dễ làm hơn là trao ban sự tha thứ. Xin Chúa dạy con biết thực hành bài học yêu thương của Chúa, để nơi đâu có hận thù, con loan báo tình yêu; nơi đâu có bất hòa, con trao ban lòng tha thứ. Xin Chúa biến đổi lòng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác”.
Winifred Potenza sống ở Santa Rosa, California. Trong một đêm khuya con trai cả của bà là Jonathan 21 tuổi cùng bạn gái Lisa Rodriguez chết ngay tại chỗ sau khi bị một viên tài xế say xỉn tông trúng. Potenza gần như hóa dại và không thể gượng dậy trước nỗi đau. Bà thường lang thang trên phố mỗi đêm, khi thì thổn thức, khi thì la hét.
Viên chưởng lý cáo buộc người tài xế say xỉn mới 20 tuổi về tội giết người. Anh đã nhận tội và chờ đợi phán quyết của toà. Anh hiểu hành động của mình và dằn vặt muốn được chết.
Ngồi trong phòng xử án, khi quan tòa quyết định William chịu án 15 năm tù, Potenza mới thực sự nhìn thấy William lần đầu tiên. Trong chốc lát, bà hiểu rằng anh không phải là kẻ tàn ác như bà từng được nghe nói. Sau này bà kể rằng, khi ấy bà đã nghĩ: “Chúa ơi, đây là sai lầm”. Bà hiểu rằng, William cũng có cha mẹ và cha mẹ anh cũng xót xa lo lắng cho con trẻ. Bà nói: “William không cố tình giết người, đây chỉ là một tai nạn thảm kịch”, Potenza từ từ đứng lên và đi qua hàng người bảo vệ, nhẹ nhàng ôm lấy William. Bà tha thứ và trở thành người bạn, người bào chữa cho người đã cướp mất mạng sống con bà. Lòng vị tha giúp Potenza hàn gắn vết thương và cũng giúp William hàn gắn nỗi ăn năn hối hận, đưa anh trở lại với cuộc sống. Hàng tuần, Potenza tới thăm William, đầu tiên là nhà tù Corcoran rồi nhà tù Vacaville. Bà nói: “William là một người tốt, anh ấy có tài năng đặc biệt và xứng đáng được hưởng một cơ hội khác”.
Potenza đã không ngừng nỗ lực làm việc, thuyết phục tòa án giảm cáo buộc tội giết người xuống thành tội ngộ sát, đồng thời giảm án tù cho William. Nỗ lực của bà đã được đền đáp. Sau bảy năm thụ án, William được ân xá và ra tù trước thời hạn.
Còn với Potenza, cái chết của con trai và sự hóa giải đau thương cùng với tình yêu vị tha đánh dấu bước khởi đầu của một dự án nghệ thuật lớn. Bà đã hoàn thành dự án chuyển tải thông điệp xã hội trong suốt 30 năm. Bà tập trung vào dự án hòa bình, cả ở góc độ cá nhân và toàn cầu. Dự án mang tên “Những Trái Tim Của Thế Giới”. Đó là các bức sơn dầu khổ lớn, mỗi bức mô tả một trái tim được vẽ từ chính biểu tượng, màu cờ của mỗi quốc gia. Có 80 trong số 185 tác phẩm đã hoàn thành…
Suy niệm
Trong cuộc sống hàng ngày, theo tình cảm tự nhiên, trước người anh em làm khổ chúng ta, chúng ta đáp trả bằng sự giận hờn, căm thù: Lửa để chống lại lửa, dễ dàng theo luật trả thù mắt đền mắt, răng đền răng. Cách hành xử đó trở nên như là nguyên tắc báo thù: Phạm nhân phải bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên. Nguyên tắc này đã được áp dụng chung từ thời xa xưa cho đến nay trong thế giới văn minh của con người. Người ta đã tìm thấy nguyên tắc báo thù này trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Trong Cựu ước được quy định “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng” (Xh 21,24 và x. Đnl 19,21; Lv 24,20).
Ban đầu Thiên Chúa tìm cách làm cho dân riêng biết vâng phục Lề Luật, biết vâng lời và luật đã quy định một cách rất tự nhiên trong cách hành xử giữa người với người mình như luật quy định: “Mắt thế mắt, răng đền răng” (Xh 21,24). Trong Cựu ước người ta còn cầu nguyện “chống lại” các kẻ thù của mình “Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139,19-22) (và xem thêm các Thánh vịnh 17,13; 28,4; 69,23-29…). Thủ bản kinh Thánh ở Qumram có lệnh truyền này: “Ngươi sẽ ghét những đứa con của bóng tối”.
“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Ngài tỏ lộ trên dân Ngài đặc tính tình yêu và giáo dục dân Chúa cách tiệm tiến để đạt tới tình yêu thương tuyệt hảo như Cha trên trời. Dân Chúa trưởng thành từ từ và vươn đến sự toàn thiện. Để sự thù hận nơi con người được hòa giải bằng tình yêu qua sự tha thứ, quảng đại, yêu thương. Nhờ vậy con người sẽ được bình an và vui sống trong sự hoàn thiện như Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người hãy trở nên như Ngài (x. Mt 5,48).
Xin cho chúng ta học theo tinh thần của Chúa dạy: Luôn quảng đại bao dung. Lấy ân báo oán, lấy yêu thương báo hận thù. Chúa muốn con cái Ngài trải rộng tình thương cho tất cả mọi người, kể cả thù địch. Phải biết yêu như Chúa đã yêu.
Ý lực sống:
Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương tất cả mọi người, kể cả kẻ thù. Nếu không làm như thế, tôi sẽ không xứng đáng là Kitô hữu nữa. Thật là đẹp, nhưng khó hiểu quá. (ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân Hy Vọng).
Luật xưa dạy rằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Phạm nhân phải đền bù tương xứng với thiệt hại đã gây nên. Đó là luật công bằng. Còn Chúa Giêsu, Ngài dạy chúng ta phải quảng đại bao dung: lấy ân báo oán, lấy yêu thương đáp trả hận thù. Chúa muốn con cái mình phải biết yêu thương như Chúa đã yêu và trải rộng tình thương cho tất cả mọi người kể cả thù địch.
Bộ luật cổ nhất của nhân loại là bộ luật của Hammurabi vua cai trị Babylon khoảng gần 2.300 năm trước CN, qui định hễ ai gây thiệt hại hoặc thương tích cho người khác thế nào thì phải đền bù đúng như vậy. Luật ấy được lặp lại nhiều lần như nguyên tắc cơ bản cho luật Cựu ước: “Mắt đền mắt, răng đền răng” (x. Xh 21,23-25; Lv 14,19-20; Đnl 19,21).
Dù nó cổ nhất thật, luật đó vẫn còn thể hiện ưu điểm của chế độ pháp trị là ngăn ngừa sự báo thù quá khích và tuỳ tiện. Chúa Giêsu dạy một nền giáo lý mới: Chẳng những Ngài loại bỏ hẳn sự báo thù theo kiểu “ăn miếng trả miếng” hay “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, mà Ngài còn dạy phải vượt qua sự công bằng theo luật, bằng cách sống tinh thần quảng đại bao dung, không giận dữ, không báo thù (5 phút Lời Chúa).
“Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra...”
Chúa Giêsu còn đi xa hơn các bậc tiền nhân Cựu ước khi đòi hỏi rằng phải yêu thương đáp lại hận thù, có như thế mới diệt được tận căn cái ác ở trong con người. Ngài chủ trương một thái độ rất cá biệt, tương phản hoàn toàn với thái độ bình thường: “Đừng chống cự với người ác”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải bẻ gãy vòng xích bạo lực, dù hợp pháp và được báo thù.
Nguyên tắc yêu thương của Chúa Giêsu làm đảo lộn cách xử sự theo qui ước của loài người. Sứ điệp Tin mừng vượt quá giới hạn công bằng giao hoán kiểu xử sự dân ngoại. Đức ái Kitô giáo chấp nhận cả các giới hạn và khiếm khuyết của con người và lòng nhân ái của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
Khi dạy đừng báo thù, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm, nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung, hiền từ, quảng đại và tha thứ. Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ những ai có tình thương rất mạnh, mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm đến mình.
Ngày 4/4/1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hàng triệu người da đen và những người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông. Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để “ôn hoà” đấu tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc màu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.
Theo quan niệm dân gian thì người ta nghĩ thế nào?
Người đời chia con người thành hai loại xung khắc nhau: hiền nhân quân tử và tiểu nhân. Trong xã hội chịu ảnh hưởng Nho giáo thì con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, mẫu mực của mọi người. Còn tiểu nhân là những con người tầm thường, bê bối, và nếu hiểu trong tinh thần Kitô giáo, thì ta hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm được mình, khi bị sỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù, giống như trường hợp anh chàng Tân Ti Tụ; còn người quân tử thì hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình tĩnh đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Socrates.
Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của người trượng phu, anh dũng:
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
Truyện: Trả thù làm chi?
Văn hào Nga ông Leon Tolstoi có kể chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà người giàu có để xin bố thí một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu nổi những lời van xin, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả và bị tống giam vào ngục. Ngay hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh áp giải người giàu có vào tù. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay không rời khỏi hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm.
Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy khuôn mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.
Khuynh hướng tự nhiên là muốn trả đũa, và trả đũa thì thường nặng hơn mức người ta gây cho mình: “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”.
Cựu ước hạn chế sự trả đũa đúng với mức thiệt hại người ta gây cho mình: “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Phần Chúa Giêsu Ngài dạy hoàn toàn không trả đũa.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Không trả đũa, đó không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh. Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa và vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ có một tình thương rất mạnh mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm mình.
2. Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau ông nói với một người bạn: từ thủa nhỏ tới giờ, tôi vốn là người trí dũng. Đến nay 80 tuổi tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đên qua có người đến làm nhục tôi. Tôi cảm thấy bức rức và cố tìm gặp được người đó, bằng không tôi phải chết mất.
Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. Năm ngày trôi qua, nhưng ông vẫn chưa tìn được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hâm hực vì không tìm được kẻ thù, ông về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron diễn giả Lamã nói: “con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người tự tạo ra cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (trích món quà giáng sinh)
3. ”Anh em đã nghe luật dạy rằng: “mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự với người ác; trái lại, nếu ai bị vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 38-39)
Trong trận bóng chung kết tuần vừa qua của trường, tôi tham gia thi đấu cho khoa của mình. Trân đấu diễn ra trong sự vui vẻ đoàn kết.
Đến phút 20 của hiệp I, tôi ghi được một bàn thắng. Và từ giây phút đó, trận đấu trở nên sôi nổi hơn nhưng cũng không thiếu sự thô bạo.
Tôi sớm trở thành nạn nhân. Một cái đạp từ phía sau, do cố ý, làm tôi gục xuống. Tuy đau nhưng tôi vẫn gượng cười và tiếp tục thi đấu. Hiệp I gần kết thúc, sự “không may” một lần nữa đến với tôi bằng cú lên gối ngực của chính kẻ đã đạp tôi lần trước. Thế là tôi phải ra sân.
Trận đấu kết thúc với tỉ số 1-1. Người ấy đã đến gặp tôi và xin lỗi.
Chúa ơi, nếu con vì đau mà trả thù ngay trên sân thì ắt sẽ không có sự nhận lỗi và xin lỗi này. Và hận thù sẽ tiếp nối hận thù phải không Chúa? Con cám ơn Chúa đã giúp con thắng được chính mình. Xin cho con luôn nhớ rằng: “bạo động chỉ gây thêm bạo động. Chỉ có tình yêu mới mang lại tình yêu” (Hosanna).
1. Khuynh hướng tự nhiên là muốn trả đũa, và trả đũa thì thường nặng hơn mức người ta gây cho mình: “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. (Còn rất rừng rú)
Cựu ước hạn chế sự trả đũa đúng với mức thiệt hại người ta gây cho mình: “mắt đền mắt, răng đền răng”. (Mt 5,38) (= Đã có sự công bằng hơn)
Phần Chúa Giêsu, Ngài dạy hoàn toàn không trả đũa. (=Bác ái)
Không trả đũa, đó là thái độ của kẻ mạnh. Chỉ có kẻ yếu mới không đủ can đảm để không trả đũa.
Thánh Antôn tu rừng, người khởi xướng đời sống ẩn tu trong Giáo Hội, có một lần sau khi giảng xong về đề tài bài giảng trên núi, thì có một giáo dân đến hỏi ngài:
- Thưa cha, chúng con phải làm gì để được trở nên hoàn thiện?
Thánh Antôn trả lời:
- Tin Mừng đã dạy: “Ai vả má phải ngươi, hãy đưa má trái cho họ” (Mt 5,39).
Nhóm giáo dân thưa:
- Điều này khó quá, làm sao thực hiện nổi.
Thánh Antôn nói:
- Nếu không, ít nhất hãy để nguyên má phải và đừng trả đũa, đừng báo thù, hãy tha thứ cho kẻ đã xúc phạm các con.
Nhóm giáo dân vẫn lắc đầu:
- Thưa cha, điều này vẫn quá khó khăn, thật không dễ gì để yên cho người khác xúc phạm đến mình.
Thánh Antôn nghe xong liền quay sang môn đệ và nói:
- Con đi nấu cháo cho những người này ăn đi vì họ quá yếu đuối. Thật, ta còn làm gì được cho các ngươi nữa, ngoại trừ lời cầu nguyện mà thôi.
2. Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ có những ai tình thương rất mạnh, mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm mình.
Ngày 4-4-1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hằng triệu người da đen và những người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông.
Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để ôn hòa đấu tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc mầu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.
Những ai đã nghe nói về Martin Luther King đều không thể quên được tinh thần yêu thương tha thứ của ông với những bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây ra. Câu chuyện sau đây do ông kể lại là một bằng chứng:
Chú bé da đen tên là Tom, theo thói quen, vừa tan trường là chạy đi phân phát báo cho các trường để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ây, chú bé bất ngờ mót tiểu quá, thay vì chạy đến một gốc cây hay là bờ tường, nó chạy ngay vào nhà vệ sinh dành riêng cho người da trắng, vừa để tiểu và cũng vừa để xem một lần cho biết.
Được vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, mát mẻ, em thấy sung sướng. Bất ngờ, Tom nghe có tiếng chân người bước nhanh đập trên nền nhà đi về hướng nhà vệ sinh mà em đang ở trong đó. Chưa kịp phản ứng gì thì Tom đã bị người da trắng ập tới, đánh Tom một cái làm em ngã dúi vào nhà vệ sinh. Rồi kèm theo với cái đạp lên thân thằng bé là những lời nguyền rủa nó đã dám vi phạm luật lệ của bang Alabama. Theo đó thì người da đen bị cấm không được bén mảng đến những nơi dành cho riêng người da trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được chứng kiến cảnh đau lòng trên, ông Martin Luther King khuyên chú bé Tom da đen:
- Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi, cháu có thể lựa chọn giữa hai thái độ, hoặc là cháu chạy nhanh ra khỏi nhà vệ sinh ấy, rồi nhặt những cục đá lên mà liệng vào người da trắng đã hạ nhục cháu kia, và sau đó cháu chạy về khu vực của người da đen và đề nghị với những người da đen như thế này: Một ngày kia, chúng mình sẽ giết sạch những người da trắng.
Nhưng cũng còn một thái độ, một sự lựa chọn khác nữa cao thượng hơn, đó là cháu sẽ im lặng nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, Ngài cũng đã bị người ta xô té mấy lần trên đường vác Thập Giá. Nhưng lần nào cũng thế, Ngài cũng chỉ im lặng, chỗi dậy để tiếp tục đi đến đồi Golgotha. Cháu hãy tha thứ cho người da trắng kia đã hạ nhục cháu. Cháu Tom ơi! Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu thương mới là khó. Chúng ta là những người da đen Hoa-kỳ, chúng ta muốn xây dựng ngày mai tươi sáng hơn nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó!
Có lần Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận tâm sự: “Nhiều lúc tôi cảm thấy khó chịu trong lòng vì người ta phỏng vấn, muốn thúc giục tôi nói những chuyện giật gân, trong thời gian lao tù, v.v... Đó không phải mục đích của tôi. Nguyện vọng lớn nhất của tôi là trao lại cho các bạn trẻ một sứ điệp của tình thương và sự thật, của công lý và hòa bình, của tha thứ và hòa giải, để xây dựng”.
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù". Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Đấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo".
Bí tích Thánh Tẩy làm chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa. Nhưng bí tích Thánh Tẩy không phải chỉ là bí tích để lãnh nhận, mà còn là bí tích để sống. Trở nên con cái Thiên Chúa là tiến trình dài một đời người. Kitô hữu trở nên con Cha trên trời nhờ bí tích Thánh Tẩy, và cũng nhờ cố gắng liên tục sống như Cha của mình. Thiếu cố gắng này, người ta chỉ còn là Kitô hữu có tên trong sổ Rửa tội. Bài Tin Mừng hôm nay thật là đỉnh cao của Kitô giáo. Đức Giêsu dạy ta nẻo đường để trở nên con cái Cha trên trời (c. 45). Đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”. Cựu Ước dạy ta yêu người thân cận (Lv 19, 18). Còn Đức Giêsu dạy ta yêu kẻ thù và cầu nguyện cho họ (c. 44). Yêu ở đây không phải là chuyện của cảm xúc hay thích thú. Dĩ nhiên chúng ta không thể yêu kẻ thù tha thiết như yêu cha mẹ mình được. Yêu ở đây là chuyện của ý chí và hành động. Chúng ta yêu kẻ thù, vì kẻ thù cũng là thụ tạo của Cha như ta. Dù kẻ thù của ta có là kẻ xấu xa và bất chính, nhưng họ vẫn được Cha trên trời dấu yêu. Ngài cho mặt trời mọc lên mỗi sáng để nắng ấm đem lại sự sống cho họ. Ngài cho mưa rơi xuống luống cày của họ để họ có của nuôi thân (c. 45). Thiên Chúa không dành nắng hay mưa cho riêng người tử tế đạo đức. Ngài bao dung và rộng rãi khi đối xử với mọi người. Trở nên con cái Cha là mang những tâm tình sâu kín ấy của trái tim Cha. Khi trái tim ta giống trái tim Cha, ta sẽ nhìn kẻ thù bằng cặp mắt mới, sẽ cư xử với họ theo cung cách mới. Lúc đó họ sẽ chẳng còn là kẻ thù nữa, mà là bạn. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của mình bước lên, lên cao hơn cái tự nhiên, bình thường của người đời. Dù là kẻ xấu, người thu thuế vẫn yêu kẻ yêu thương ông ta. Người dân ngoại chưa biết Chúa vẫn chào hỏi anh em của họ (c. 46). Điều mà Đức Giêsu đòi các Kitô hữu phải làm hơn người khác, đó là yêu kẻ thù ghét mình, cầu nguyện cho kẻ làm khổ mình, và chào những kẻ chẳng bao giờ chào hỏi mình. Làm thế là vượt lên trên tình cảm tự nhiên đang kéo trì mình xuống, là giải thoát mình khỏi sức nặng của cái tôi nhỏ mọn, tự ái, kiêu căng. Làm thế là bắt đầu đi vào trong nơi sâu nhất của trái tim Thiên Chúa. “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời” (c. 48). Lý tưởng này thật là cao xa, sức người không vươn tới được. Nhưng nếu ta tập quen yêu kẻ thù chung quanh ta, - mà ai trong chúng ta lại không có kẻ thù - thì chúng ta dần dần sẽ trở nên hoàn thiện. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con. Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu, để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu, để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Yêu kẻ thù. Ai cũng bảo là không thể. Đó là vì ta theo thói quen. Để đối tượng qui định tình cảm. Gặp người tốt thì ta quý. Gặp người dễ thương thì ta thương. Người làm ơn cho ta thì ta biết ơn và quý trọng. Gặp người xấu thì ta tránh xa. Gặp người khó thương thì ta chối từ. Đó chẳng có gì lạ. Nhưng đó là để cho đối tượng qui định tình cảm của mình. Ta đâu có chủ động. Vì ta không có nền tảng. Phải có nền tảng tình yêu ở nơi Chúa. Phải có tình yêu từ trong trái tim mình. Khi đó ta sẽ yêu bất chấp ngoại cảnh thế nào. Vẫn yêu bất chấp người đối diện là thế nào. Vẫn yêu bất chấp người khác có làm gì cho ta, dù tốt, dù xấu. Như thế yêu kẻ thù là có thể. Ta không yêu để đáp lại kẻ thù. Nhưng ta yêu vì tình yêu đầy trong trái tim ta. Đó chính là tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu. Trong Người chỉ có yêu thương. Như mặt trời. Như cơn mưa. Không phân biệt.
Chính vì thế Chúa luôn tha thứ. Luôn chạnh lòng thương. A-kháp phạm tội tầy đình. Nhưng khi nghe Chúa tuyên án, ông khóc lóc ăn năn. Chúa liền tha thứ. “Khi nghe những lời ấy, vua A-kháp xé áo mỉnha, khoác áo vải bố bám sát vào thịt, ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu não. Bấy giờ có lời Đức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be rằng: “Ngươi có thấy A-kháp đã hạ mình trước mặt Ta thế nào không?...nên Ta sẽ không giáng hoạ trong buổi sinh thời của nó”. Quả thật là tình yêu nguyên tuyền. Chỉ có yêu thương (năm chẵn).
Thánh Phao-lô khen ngợi tín hữu Ma-kê-đô-ni-a. Vì họ đã có tình yêu của Chúa. Trong mọi gian nan thử thách họ vẫn vui tươi. Vì họ có Chúa ở cùng. “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ đã tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa; họ khẩn khoản nài xin chúng tôi cho họ được phúc tham dự vào việc phục vụ các người trong dân thánh”. Yêu thương. Quảng đại. Họ đã nên hoàn thiện như Cha trên trời.
Thánh Phao-lô dùng tấm gương đó mà khích lệ tín hữu Cô-rin-tô. Và cả chúng ta nữa. Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Có Chúa trong ta sẽ có tình yêu trong ta. Có tình yêu ta sẽ tràn đầy niềm vui. Và tình yêu sẽ lan toả đến khắp mọi người. Kể cả kẻ thù. Vì bấy giờ tim ta không có gì khác ngoài tình yêu. Nó không còn bị qui định bởi đối tượng bên ngoài. Chỉ biết toả lan tình yêu. Như Chúa Giê-su “Chúa chúng ta,…Người vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (năm lẻ).
Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: "Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ".
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
"Hãy yêu mến anh em mình", mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những "anh em" được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: "Hãy ghét kẻ thù địch" thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con". Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Nhưng tại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chính chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, Ðấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.
Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.
“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo thật anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt. 5, 43-44)
Yêu như Chúa Cha yêu thương
Yêu thương kẻ thù của ta. Yêu thương những ai làm ta thất vọng, làm tổn thương, phản bội và bầm dập ta. Yêu thương những ai không còn yêu ta nữa. Yêu thương những kẻ đã làm hư hỏng đời ta. Yêu như thế đó. Và đúng là Chúa đòi hỏi ta nhiều lắm. Chúng ta sẽ dám nói là quá nhiều nữa.
Không phải chúng ta chống lại việc yêu kẻ thù. Ta còn cảm thấy rõ rằng nếu có thể yêu tới mức đó mới thật là đẹp. Hãy yêu thương như Chúa Giêsu và Cha Người yêu thương chúng ta. Yêu thương đối lại với tất cả. Yêu thương bất chấp tất cả. Được như vậy, quả là tuyệt vời. Nhưng có thể được không? Có vừa sức ta không? Ta có thể đi tới đó được không?
Ta có thể cố gắng tha thứ cho kẻ đã làm khổ ta, có thể không tìm ác để trả ác. Nhưng yêu thù địch của ta, lại là một chuyện. Nếu Thiên Chúa có thế làm được điều này, thì ta có thể làm được không?
Tha thứ, chính là yêu thương nhiều
Khi tự thâm tâm, ta nói với người đã nhẫntâm làm khổ ta rằng: “Tôi tha thứ cho nó. Tôi sẽ cố gắng quên đi phần nào”; và ngay cả khi có nói thêm rằng: “Nhưng yêu hắn nữa, thì tôi không có thể!” … ấy là lúc ta đang đặt chân trên đường lành rồi. Chúng ta đã hành động như Thiên Chúa ước mong, bởi vì thực lòng tha thứ, chính là đã tỏ ra yêu thương nhiều.
Có những tình yêu sẽ không bao giờ tái sinh. Có những con người đã gần gũi với ta ngày nào và rồi có thể không gần cận nữa. Đó chính là những cảnh nghiệt ngã của cuộc sống mà thường thường ta không thể cưỡng lại được. Thế nên mỗi khi ta trục xuất hận thù ra khỏi lòng ta, mỗi khi ta không mong ước điều xấu cho người đã làm ta tan nát, mỗi khi ta muốn thành tâm cầu nguyện cho họ, là ta đang có đôi nét giống Cha. Và Cha vui thích nhìn ta khi không khép kín cửa lòng như vậy.
Nhiều đoạn trong bài giảng Trên Núi làm chúng ta ngạc nhiên về lối diễn tả nghịch lý, và đặc biệt đoạn này: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ làm khổ ngươi. Đây là điều gây vấp phạm nặng cho những khuynh hướng tự nhiên của chúng ta. Nhưng đâu là ý nghĩa đích thực của những lời này? Thật khó mà xác định ý nghĩa cách mạnh mẽ, và nhất là phải tránh làm giảm giá chúng với ý định làm cho chúng trở nên dễ chấp nhận hơn. Tuy nhiên chúng ta có thể đưa ra một vài suy tư sau đây:
Danh từ ‘thù địch’ thời Chúa Giêsu có nghĩa trước nhất là đối thủ và kẻ bắt bớ dân thánh. Cũng có thể là kẻ xa lạ với dân được lựa chọn. Chính trong nghĩa này mà dư luận Do thái thời bấy giờ áp dụng cho từ ngữ Chúa Giêsu nhắc đến: Hãy ghét thù địch. Hơn nữa, cần nhớ là chữ “ghét” không phải luôn luôn có nghĩa mạnh như chúng ta thường hiểu. “Ghét” có thể là: từ chối mọi liên lạc, ruồng bỏ, xa lánh. Chẳng hạn các tư tế và Lêvi thành Giêrusalem xem những người xứ Samaria là “thù địch”; điều này cắt nghĩa thái độ của thầy tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã bỏ rơi người xứ Samaria với số phận của họ.
Trên bình diện thứ nhất này Chúa Giêsu phán, và Ngài phán điều đó với Giáo Hội của Ngài hôm nay: hãy yêu thương thù địch, kẻ bách hại và cầu nguyện cho họ, vì Cha trên trời cũng muốn họ được rỗi.
Trên bình diện thực tế hơn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt mọi hiềm khích. Người Kitô hữu không những phải tránh mọi tình cảm ghen ghét và thù hằn, mà còn phải mong muốn biến cải kẻ thù mình thành bạn hữu. Nếu thực tế đôi khi rất khó thực hiện, thì ít là bên trong tâm hồn mình điều đó phải được thực hiện. Nghị lực con người sẽ không đủ. Người Kitô hữu thành công được là người múc lấy sức mạnh trong tình yêu và gương sáng của Chúa Kitô.
Phải nhớ rằng hiềm khích không hẳn là một sự kiện như những sự kiện khác. Hậu quả trực tiếp của nó là Thập Giá Chúa Kitô, Thập Giá mà chúng ta tham dự vào. Cách thức chúng ta vượt thắng hiềm khích tùy thuộc cách thức chúng ta tham dự vào Thập Giá Chúa Kitô. Nếu chúng ta chấp nhận điều đó, chúng ta sẽ yêu thương thù địch vì, với Đức Kitô trên Thập Giá, chúng ta hoạt động cho sự cứu rỗi của họ.
Tôi đã dùng sự đau khổ của tôi cho kẻ nào làm khổ tôi chưa?
Nữ tu Antoinette vẫn thường nhắc đến bệnh nhân già khó tính nhất trong bệnh viện, gặp ai ông cũng nhăn nhó nạt nộ. Có chuyện gì khó chịu một chút là ông la lớn, rùm beng lên. Ngày kia, đang lúc mải mê phục vụ các bệnh nhân, nữ tu Antoinette đã nghe thấy tiếng bệnh nhân già đó hét lên: “Đem cho tôi quả trứng”. Nữ tu Antoinette vui vẻ đem đến, nhưng bệnh nhân già lại nhăn nhó: “Trứng chưa chín đủ mà lại mang cho tôi ăn à?”, và nữ tu Antoinette vui vẻ mang trứng đi luộc lại. Nhưng rồi bệnh nhân lại kiếm lý do khác để gây phiền hà đến nữ tu: “Luộc trứng chín quá, tôi không ăn nổi đâu. Tôi muốn trứng khác”.
Nữ tu Antoinette không biết làm sao, chị bèn có sáng kiến chế một lò nấu nhỏ kê ở bên giường ông, và trao cho ông một quả trứng để chính ông có thể nấu lấy theo sở thích của ông. Người bệnh nhân thấy thế lại nổi giận hơn nữa. Ông đạp đổ bếp, quẳng trứng xuống sàn nhà và quát lớn: “Tôi là bệnh nhân mà đi luộc trứng à!”. Nữ tu Antoinette chẳng nói nửa lời, chỉ biết thinh lặng cúi xuống thu sạch và quét dọn. Lát sau, nữ tu đem đến cho bệnh nhân khó tính ấy một quả trứng khác và nhẹ nhàng nói với bệnh nhân: “Ông hãy dùng thử quả trứng này, tôi luộc vừa chín mà thôi”. Thái độ của nữ tu Antoinette đã làm cho bệnh nhân cảm động và lập bập nói: “Cám ơn nữ tu. Tôi ăn trứng này và cũng ăn cả lòng tốt của nữ tu nữa. Xin nữ tu tha thứ cho tôi”.
Tình thương bác ái phải được trải dài trong mọi giây phút, mọi hành động của cuộc sống. Tình thương đó luôn bị thử thách bởi những thái độ nghi kỵ, đối nghịch, khắt khe, khó tính, thiếu cảm thông của những người sống xung quanh ta. Khi phải đối diện với những người không thích mình, không hòa hợp, thông cảm với mình; thay vì đối đầu trả đũa thì ta hãy tự vấn mình xem có phải vì những tật xấu, những khuyết điểm của mình đã khơi dậy thái độ đối nghịch hay không? Có thể đôi khi chúng ta là thủ phạm đã gây nên những sự chống đối với người khác mà chúng ta lại không hay biết. Cách sống, cách suy tư, cách hành động của ta không phù hợp với những cách thức của anh em, hay cả những xúc phạm đến những anh em chung quanh mà chính mình không hay biết. Chính vì thế mà ta cần phải kiểm điểm lại đời sống của mình luôn, để đừng khơi dậy những ngăn cách với người khác.
Nhưng, cũng có những trường hợp ta bị đối xử oan ức, bị ghét bỏ cách bất công vì niềm tin của mình vào Chúa. Lúc đó chúng ta không còn gì khác đáp lại hơn là cầu nguyện xin Chúa thêm sức mạnh, để ta có thể tha thứ và yêu thương họ đến cùng như Chúa muốn. Và chúng ta cũng đừng bỏ cuộc, không rút lại điều tốt ta đang thực hiện như nữ tu Antoinette trong câu chuyện kể trên: “Phúc cho kẻ bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ”. Tình yêu thương kiên trì của ta chắc chắn sẽ không trở thành vô ích, nhưng sẽ cảm hóa được người làm phiền lòng ta vào lúc chỉ có Chúa biết mà thôi. Phần ta, ta chỉ cần biết một điều là: “Hãy yêu thương cho đến cùng”.
Tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” đã chia sẻ như sau: “Bác ái là tu đức liên lỉ. Tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan, tu bộ óc. Tất cả con người con vùng vẫy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu”. Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết trên đó đức tính của người con bất bình, con sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ từ đầu: “Tôi không muốn biết, không muốn nhớ quá khứ của anh em tôi. Tôi chỉ muốn biết hiện tại của anh em để thương nhau, giúp đỡ nhau và biết tương lai để tin nhau, để khuyến khích nhau”.
Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, quyết định chọn Chúa hay chối từ, và tìm Nước Chúa là tin tưởng ở tình yêu vô bờ bến của Ngài, là hành động với tất cả hăng say. Đó là việc làm thể hiện đức mến Chúa và yêu người ngay trong giây phút hiện tại. Đó là những lời khuyến khích đầy kinh nghiệm giúp mỗi người chúng ta sống sứ điệp Phúc Âm của Chúa xác thực hơn, hiệu quả hơn.
Đặc biệt Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho mỗi người chúng ta rằng: “Con hãy yêu thương kẻ thù nghịch và làm ơn cho kẻ ghét con. Hãy cầu nguyện cho tất cả những ai bắt bớ và nguyền rủa con, để các con trở nên giống Cha, Đấng ngự trên trời. Ngài làm ơn cho người lành, kẻ dữ và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
Mỗi người Kitô hữu phải như tấm kính phản chiếu sự trọn lành tình yêu của Thiên Chúa Cha. Noi theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô, mỗi ngày cuộc sống của chúng ta phải chiếu sáng hơn để anh chị em xung quanh có thể nhìn thấy mà ngợi khen tình thương Thiên Chúa trên trời.
Lạy Chúa, trên Thập Giá Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong tim con, để con mỗi ngày được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Amen.
“Yêu mến anh em, là sống chu toàn giới luật. Yêu mến người lành và yêu thương kẻ gian ác. Chính do tình yêu mà chúng ta được cứu độ, thành con Chúa Trời và thành bạn hữu Chúa Kitô”. Đây là lời bài hát mà có lẽ ai cũng thuộc vì nó được lặp lại nhiều lần trong Mùa Chay.
Đây cũng chính là lệnh truyền của Đức Giêsu cho các môn đệ, đồng thời cũng là lời mời gọi cho những ai đang bước theo Đức Giêsu trên lộ trình cứu độ.
Thật vậy, cốt lõi Đạo Công Giáo của chúng ta là tình yêu thương. Tại sao vậy? Thưa vì Đạo chúng ta bắt nguồn từ Thiên Chúa, mà bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì thế: "Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương...".
“Yêu thương kẻ thù" là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. "Yêu thương kẻ thù" là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy "hãy yêu kẻ thù", Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm, nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung, hiền từ, quảng đại, tha thứ.
"Hãy yêu kẻ thù", đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Tuy nhiên, chính Ngài đã nêu gương khi sẵn sàng tha thứ cho kẻ hại mình và cầu xin Chúa Cha tha cho họ. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa.
Như vậy, Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu nhất.
Hãy nhớ rằng: “Viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta trước”. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng đây là con đường nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, và chỉ khi nào chúng con đạt được điều đó, ấy là lúc chúng con trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
Sứ điệp: Là người môn đệ Chúa Giêsu, ta yêu thương cả kẻ thù, vì ta phải bắt chước lòng quảng đại của Cha trên trời và phải có lòng yêu thương hơn những người khác.
Cầu nguyện: Lạy Cha, Cha là tình yêu. Con cảm tạ Cha đã yêu thương con. Nhiều lúc con đã phạm tội chống lại Cha, tự đặt mình làm kẻ thù của Cha. Nhưng dù vậy, Cha cũng vẫn một lòng yêu thương con, tha thứ cho con, vẫn hằng tiếp tục ban phát muôn vàn hồng ân xuống trên con. Cả những người chưa hề biết Cha, cả bao nhiêu người cố tình chối bỏ Cha, cả muôn vàn người tội lỗi bất chính, Cha vẫn yêu thương họ, vẫn cho mặt trời soi sáng và cho mưa xuống trên họ.
Tình yêu của Cha luôn đi bước trước, luôn quên mình, luôn quảng đại. Chúa Giêsu cũng yêu thương với một tình yêu như vậy. Người tha thứ cho kẻ giết mình, Người cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, Người yêu thương kẻ giết mình.
Lạy Cha, Cha đã thông chia tình yêu ấy cho con. Xin dạy con biết quên mình để yêu thương cả kẻ thù, biết cầu nguyện cho kẻ làm hại con, biết quảng đại với kẻ ích kỷ với con, biết làm ơn cho kẻ chơi xấu con, biết vui vẻ với những kẻ mắng chửi hoặc dửng dưng với con, biết nói tốt cho kẻ nói xấu con.
Xin cho con biết sống trong tình yêu, để con sống trong hạnh phúc. Những lúc con để bụng để dạ giữ lòng hận thù, con cũng chẳng sung sướng gì, mà chính là con tự đày đọa mình. Ích kỷ phát sinh ích kỷ, hận thù lôi kéo hận thù, gian ác sinh ra gian ác. Hận thù như loài vi khuẩn sinh sản thật nhiều, ăn sâu vào lòng mỗi người chúng con và phá hoại hạnh phúc chúng con.
Lạy Cha, xin cho chúng con biết sống xứng đáng là con cái của Cha, xứng đáng với danh hiệu làm môn đệ Chúa Giêsu. Amen.
Lịch sử đã từng ghi lại rất nhiều sự kiện về những tù binh chiến tranh ở Việt Nam luôn được đối xử tử tế, được mở đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ quân trang khi trở về nước. Ví dụ như cách hành xử vị tha của quân chiến thắng Lam Sơn với quân Minh kẻ thù bại trận: Theo lời cố vấn của Nguyễn Trãi, tha thứ cho kẻ thù, vua Đại Việt là Lê Thái Tổ còn cung cấp cho họ lương thực và những phương tiện di chuyển như ngựa, thuyền để trở về đất nước họ.
Suy niệm
Đức Giêsu Kitô đến hoàn thiện Lề Luật, với cách hành xử yêu thương dứt khoát và hoàn hảo như Chúa Cha vượt lên trên sự yêu ghét thông thường. Ngài cho thấy tình yêu là trung tâm. Ngài giảng dạy và đã sống yêu thương để nêu gương cho chúng ta: Tha thứ cho kẻ ghét mình và làm ơn cho kẻ thù mình. Theo suy nghĩ tự nhiên của con người, cách hành xử đó xem ra không thể có đối với kẻ thù. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta biến nó thành cái có thể để nên hoàn thiện như Chúa Cha và chính Ngài đã sống trước tiên khi tha thứ cho những kẻ giết mình, trên thập giá Ngài đã cầu nguyện thống thiết cho kẻ giết mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Trước đó Ngài cũng dạy: “Anh em hãy làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu cho kẻ nhục mạ mình” (Lc 6,27-28). Lời mời gọi của Đấng đã yêu thương tha thứ gửi đến mỗi người chúng ta hôm nay hãy tha thứ để tôn vinh đỉnh cao của sự yêu thương, làm cử chỉ anh hùng, vượt lên trên tình cảm tự nhiên yêu bạn ghét thù, để bước cuộc sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời mà Đức Kitô mời gọi: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5,44-45).
Lời dạy yêu thương tha thứ của Chúa Giêsu làm thăng hoa lòng khoan dung, vị tha của truyền thống Việt Nam qua câu tục ngữ: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”, người Việt không những vị tha với nhau như tục ngữ có câu: “Chín bỏ làm mười”, mà còn vị tha với cả kẻ thù.
Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh: “Trả thù, báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân” (Quân trung từ mệnh tập). Vị anh hùng dân tộc đã gây ý thức cho nhân dân Đại Việt: Có những nhu cầu làm người cao cả, trọng đại và lâu bền hơn. Nhu cầu báo thù sẽ bùng lên và vụt tắt như ngọn lửa rơm. Nhu cầu tha thứ xây dựng hòa bình “thêm bạn bớt thù” như người đời thường nói, xây dựng bình an bản thân và cộng đồng. Tổng thống Abraham Lincoln nói với mọi người: “Với thái độ thân thiện, tôi đã loại được kẻ thù và biến họ thành bạn của tôi”. Thật thế, sự quảng đại tha thứ đi bước trước trong tình yêu sẽ giúp cho chính bản thân của chúng ta thư thái an bình và có nhiều bạn hữu như câu châm ngôn dạy: “Gieo tha thứ gặt bình an” đạt tới sự hòa giải và được tha thứ mọi lỗi lầm như Đức Kitô dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha thứ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Ý lực sống:
‘‘Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta” (Thánh Augustinô).
Theo cách cư xử thông thường của người đời thì “yêu bạn ghét thù”. Nhưng đối với chúng ta, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải noi gương Chúa nhân lành, khoan dung, đại lượng với hết mọi người. Ngài cho mặt trời mọc lên và mưa xuống cho người lành cũng như kẻ dữ. Chúng ta là con cái Chúa, là môn đệ Chúa, chúng ta phải làm như Chúa, chúng ta phải yêu thương giúp đỡ, cầu nguyện, chẳng những cho thân nhân bạn hữu mà cho hết mọi người, kể cả những kẻ nghịch người thù, những kẻ làm khổ làm hại chúng ta.
‘‘Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, chính Ngài đã yêu thương khi sẵn sàng tha thứ cho kẻ hại mình và cầu xin Chúa Cha tha cho họ. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa. Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Là những môn đệ Chúa, chúng ta được mời gọi đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên, đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù... Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu nhất.
‘‘Hãy yêu kẻ thù”. Ai cũng bảo là không thể. Đó là vì ta theo thói quen. Để đối tượng qui định tình cảm. Gặp người tốt thì ta quí. Gặp người dễ thương thì ta thương. Người làm ơn cho ta thì ta biết ơn và quí trọng. Gặp người xấu thì ta lánh xa. Gặp người khó thương thì ta chối từ. Đó chẳng có gì lạ. Nhưng đó là để cho đối tượng qui định tình cảm của mình. Ta đâu có chủ động, vì ta không có nền tảng. Phải có nền tảng tình yêu ở nơi Chúa. Phải có tình yêu từ trong trái tim mình. Khi đó ta sẽ yêu bất chấp ngoại cảnh thế nào. Vẫn yêu bất chấp người đối diện là thế nào. Vẫn yêu bất chấp người khác có làm gì cho ta, dù tốt, dù xấu.
Như thế yêu kẻ thù là có thể. Ta không yêu để đáp lại kẻ thù. Nhưng ta yêu vì tình yêu đầy trong trái tim ta. Đó chính là tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu. Trong Ngài chỉ có yêu thương: như mặt trời, như cơn mưa, không phân biệt (Tgm Ngô Quang Kiệt).
‘‘Hãy yêu kẻ thù”. Cá tính của con người thật khó để yêu kẻ thù, ngay việc tha thứ và không trả thù đã là cao thượng lắm rồi, đằng này Chúa còn đòi hỏi chúng ta bước thêm một bước cao hơn nữa lên đỉnh hoàn thiện là “Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho họ”. Thật ra, dù khó, nhưng lại là một phương thế tuyệt hảo nhất có thể hoá giải được những mâu thuẫn giữa người với người. Vì khi, cứ tìm cách trả thù nhau thì thù hận càng ngày càng chồng chất từ đời cha sang con, đời con sang cháu và cả những dòng tộc trả thù đến trường kỳ. Nếu tôi trả thù được anh thì con anh tìm cách trả thù cho tôi và cứ như thế mãi mãi. Còn khi lấy ân để trả thù thì không những thù được hóa giải, mà còn dễ nên bạn hữu của nhau và làm gương cho hậu thế.
Truyện: Nelson Mandela, một nhà hoạt động cách mạng Nam Phi, từng bị giam giữ và bị xúc phạm trong suốt 27 năm. Đến khi ông trở thành Tổng thống Nam Phi, ông đã mời 3 người cai ngục từng canh giữ ông trong thời gian tại chốn lao tù đến gặp mặt. Khi Mandela đứng dậy cung kính chào 3 vị cai tù này thì mọi người có mặt và trên toàn thế giới đều phải tĩnh lặng. Ông nói: “Khi tôi bước ra khỏi phòng giam của mình, đi qua cánh cổng nhà tù để được tự do, tôi đã hiểu rõ ràng rằng: nếu không thể để nỗi đau của riêng mình và oán giận ở lại đàng sau, thì tôi vẫn là còn ở trong lao tù”.
Người Kitô hữu không thể trốn tránh con đường chông gai, để chọn những lối đi bằng phẳng êm mát. Nhưng họ phải can đảm tiến tới để đạp gãy chông gai ghen ghét, san bằng sỏi đá hận thù, dõi theo ánh sáng của Đức Kitô, Đấng đã yêu thương và tha thứ cho những kẻ giết hại mình.
Truyện: Lấy thiện báo ác
Thời Xuân Thu chiến quốc, nước Sở và nước Lương có chung biên giới đều trồng dưa. Người bên nước Lương, vun xới chăm chỉ nên dưa tốt quả nhiều. Người bên nước Sở lười, làm biếng tưới nên dưa xấu quả ít. Quan huyện sở tại nước Sở thấy vậy thì lấy làm tức giận lắm. Những người trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, tối tối lẻn sang nhổ cây, bứt lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên héo hon, xơ xác. Những người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo lên quan sở tại của mình và cũng rắp tâm sang phá dưa bên Sở để trả thù. Nhưng quan sở tại của nước Lương là người thâm trầm, liền can ngăn và bảo: “Nếu lấy ác mà xử lại thì chỉ là cách gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao, cho nên thay vì trả thù, ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí”.
Một thời gian sau, dưa bên nước Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, họ để ý rình rập mới hay người bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Biết được điều đó, Quan bản địa có ý thẹn.
Việc đó đến tai vua Sở, vua Sở lấy làm xấu hổ và nghĩ rằng ngoài cái tội phá hoại dưa của người, chắc còn những việc khác gây oán thù. Vua Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện, khuyến cáo dân chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi, tỏ lòng hiếu hoà bang giao.
Hôm nay Chúa Giêsu dạy cách đối xử với kẻ thù ghét mình:
- Khuynh hướng tự nhiên là ghét kẻ thù ghét mình. - Cựu Ước cũng không có khoản luật nào dạy yêu thương kẻ thù.
Còn Chúa Giêsu dạy:
a/ Hãy yêu thương kẻ thù; b/ Hãy làm ơn cho kẻ thù; c/ Hãy cầu nguyện cho họ.
Suy gẫm
1. Phim ảnh thường kể những chuyện báo thù, coi việc báo thù là bổn phận thiêng liêng: con báo thù cho cha, chồng báo thù cho vợ, anh em báo thù cho nhau, bạn bè báo thù cho nhau nhưng gần đây ngay cả những phim mang nội dung báo thù ấy cũng dẫn đến một ý tưởng kết thúc là bạo thù không giải quyết được vấn đề, càng báo thù thì hận thù càng gia tăng chồng chất. Nghĩa là lương tri con người đã ý thức được rằng báo thù không phải là nhiệm vụ thiêng liêng nhưng là một thảm họa.
2. Trong ngôn ngữ của Kitô hữu không nên có tiếng “kẻ thù của mình, ” vì Kitô hữu không được thù ai cả; chỉ có tiếng “những kẻ thù ghét mình” thôi. Và sứ mạng của Kitô hữu là cải hóa những người ấy.
Chúa Giêsu dạy ta 3 cấp độ đối xử với họ: yêu thương, làm ơn, cầu nguyện. Nếu ta chưa yêu thương được thì cố gắng lấy ơn báo oán. Nếu như vẫn chưa làm thế được thì tối thiểu hãy cầu nguyện cho họ.
3. Có hai người kia đều bị bắn tên. Người thứ nhất bình tĩnh và nhẹ nhàng nhổ mũi tên ra, băng bó vết thương, và ngày sau khỏi hẳn. Người thứ hai tức giận nhổ mũi tên ra nhưng cầm lấy đâm túi bụi vào mình mẩy của mình, đã thế khi gặp người thân anh còn đâm họ bị thương nữa.
Mũi tên chính là lời công kích của kẻ khác. Người khôn cư xử như người thứ nhất, nghe xong bỏ đi. Kẻ dại cư xử như người thứ hai cứ lập đi lập lại lời công kích đó và còn thuật lại cho người thân, làm cho bản thân mình và người thân thêm đau đớn vô ích.
4.”Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44).
Có lẽ bạn và tôi đã có lần cảm nghiệm được niềm vui và nỗi đau của sự tha thứ và được tha thứ.
Thật vậy chỉ một thoáng vô tình tôi đã có thể trở nên một đối tượng xấu xa trong cái nhìn của tha nhân. Tâm hồn tôi sẽ ra sao khi bị nhìn bằng đôi mắt lạnh lùng, xa cách, khinh bỉ? Có lần tôi cũng đã nhìn tha nhân bằng đôi mắt ấy.
Chỉ trong sự tha thứ, tôi mới có thể họa lại nơi bản thân mình cái nhìn “cảm hóa” của Đức Kitô. Một cái nhìn không chỉ dừng lại ở việc giao hòa, mà còn đi sâu vào lòng người, xóa tan mọi ấn tượng, mặc cảm tội lỗi nơi họ. Một cái nhìn tha thứ đến mức tuyệt đối: “Bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con một tâm hồn quảng đại. Một quả tim tràn đầy yêu thương, một cái nhìn khoan dung nhân hậu; để con luôn biết cảm thông thay cho chấp nhất, tha thứ thay cho kết án, yêu thương thay cho hận thù, đem niềm vui nâng đỡ cho hy vọng, xóa tan nỗi buồn tuyệt vọng đơn côi, để trong mọi nơi mọi lúc và cả trong lúc nhục nhã đớn đau vì tha nhân, con vẫn bình tĩnh can đảm và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy cách đối xử với kẻ thù ghét mình:
Khuynh hướng tự nhiên là ta ghét kẻ thù ghét ta.
- Cựu ước không có khoản luật nào dạy yêu thương kẻ thù.
Còn Chúa Giêsu dạy:
a/ Hãy yêu thương kẻ thù; b/ Hãy làm ơn cho kẻ thù; c/ Hãy cầu nguyện cho họ.
1. Trước kia, phim ảnh thường nói về những chuyện báo thù và còn coi việc báo thù là bổn phận thiêng liêng: con báo thù cho cha, chồng báo thù cho vợ, anh em báo thù cho nhau, bạn bè báo thù cho nhau nhưng gần đây quan điểm như thế không còn được người ta cổ võ nữa. Ngay cả những phim mang nội dung báo thù bây giờ cũng thường kết thúc bằng ý tưởng: báo thù không giải quyết được vấn đề, càng báo thù thì hận thù càng gia tăng chồng chất. Như vậy, chúng ta thấy lương tri con người ngày nay đã thay đổi. Họ đã ý thức được rằng, báo thù không phải là nhiệm vụ thiêng liêng nhưng là một thảm họa.
Dale Carnegie viết: “Thử hỏi tại sao ý muốn “báo thù” lại có hại cho bạn? Theo tờ tạp chí “Life” thì ý muốn đó có thể làm sức khoẻ bạn phải vĩnh viễn suy nhược. Tác giả một bài đăng trong tờ “Life” có viết rằng: “Tính xấu đặc biệt thường thấy trong số những người đau bệnh động mạch là tính thù vặt. Nếu tính xấu này luôn luôn biểu lộ, nó sẽ làm cho bệnh ấy thành kinh niên và có khi thành bệnh đau tim”.
Ông kể tiếp: Tôi có một người bạn thân vừa đây bị một cơn đau tim nặng. Thầy thuốc bắt anh ta phải tĩnh dưỡng và nhất là không được nổi nóng với bất cứ một cớ nào, vì lẽ thầy thuốc nào cũng biết rằng, người đau tim rất có thể chết bất thần khi nổi giận. Chắc bạn chẳng cho là thật? Tôi xin kể một chứng minh. Cách đây mấy năm, một ông chủ hàng cơm tỉnh Spokane, thuộc tiểu bang Washington, đã ngã đùng ra chết sau một cơn thịnh nộ. Đây là bài tường thuật của viên cảnh sát trưởng, mô tả trường hợp xảy ra tai nạn: “Ông William Falkaber 68 tuổi, chủ một tiệm ăn, đã tự giết mình khi đang nổi giận, vì người bếp không nghe lời ông mà cứ uống cà phê trong đĩa chứ không uống bằng tách. Ông ấy nổi khùng vác súng lục đuổi người bếp, rồi bỗng ông ngã vật ra chết thẳng, tay hãy còn nắm chặt khẩu súng. Viên y sỹ nhà nước đến khám nghiệm tử thi, tuyên bố ông đứt mạch máu vì “thịnh nộ”. (Quảng gánh lo đi và vui sống)
Chúng ta đừng quên Lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con” (Mt 5,44).
2. Chúa Giêsu dạy ta 3 cấp độ đối xử với họ: yêu thương, làm ơn, cầu nguyện. Nếu ta chưa yêu thương được thì hãy cố gắng lấy ơn mà báo oán. Nếu như vẫn chưa làm thế được thì tối thiểu hãy cầu nguyện cho họ.
Quý Cao làm quan sĩ sư nước Vệ. Một lần kia, ông phải ngồi tòa và xử một phạm nhân với án toà là phải bị chặt chân. Về sau, nước Vệ có loạn, Quý Cao phải chạy trốn. Trên đường chạy trốn, không may ông lại gặp ngay kẻ ngày trước ông kết tội bị chặt chân coi cửa thành trong làng.
Kẻ ấy bảo
- Kia có chỗ tường đổ, ngài trèo lên đó mà trốn.
Quý Cao đáp:
- Người quân tử không trèo tường.
Người ấy lại chỉ:
- Kia có lỗ hổng.
Quý Cao đáp:
- Người quân tử không chui lỗ hổng.
Người ấy lại nói:
- Ở đây có cái nhà.
Quý Cao chạy vào trong nhà đó để ẩn. Vì thế giặc không bắt được.
Khi giặc đi khỏi, Quý Cao hỏi người canh thành:
- Trước kia vì phép nước, ta kết tội chặt chân ngươi, ngươi phải thù ta mới phải. Sao ngươi không trả thù, lại ba lần chỉ lối cho ta trốn như vậy ý là làm sao?
Người kia đáp:
- Tội tôi đáng chặt chân không thể tránh khỏi. Ông không kết tội tôi, thì người khác cũng kết tội tôi. Lúc ông luận tội, tôi thấy ông đã cố xoay sở pháp luật để cứu tôi mà không được. Điều ấy tôi thấy rất rõ. Lúc tôi bị đem đi chặt chân, nét mặt ông buồn rầu, tôi biết. Ông làm thế có phải vì riêng mình tôi đâu: Đó là tấm lòng bậc quân tử. Tôi cứu ông là vì thế.
Tình yêu thương là một ngọn nến, vừa chiếu sáng người khác, lại chiếu sáng cho bản thân. Cống hiến một chút tình yêu thương, thì chắc thế giới này sẽ chứa chan những tình cảm ấm áp. (Vô danh)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con một tâm hồn quảng đại. Một quả tim tràn đầy yêu thương, một cái nhìn khoan dung nhân hậu để con luôn biết cảm thông thay cho chấp nhất, tha thứ thay cho kết án, yêu thương thay cho hận thù, đem niềm vui nâng đỡ hy vọng thay cho những cố chấp hẹp hòi, xóa tan nỗi buồn tuyệt vọng đơn côi thay cho những tị hiềm nhỏ nhoi để trong mọi nơi mọi lúc, cả trong những lúc nhục nhã đớn đau vì người khác, con vẫn bình tĩnh can đảm và thưa với Chúa:
Lạy Chúa, xin tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm.
Người xưa, ở bất cứ nước nào cũng vậy, họ dạy chúng ta mà như Chúa đã nói: “Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù” (Mt 5, 43). Tức là, đối với kẻ thù thì phải ghét, phải đánh cho nó không còn cái lai quần. Và ngày hôm nay, điều ấy vẫn tồn tại trong cuộc sống. Vì thế, nó đã gây ra bao tranh chấp, hơn thua, chiến tranh, chết chóc, và nỗi đau cho con người chúng ta.
Nhưng còn đối với tất cả các con cái của Chúa là chúng ta, điều đó phải chấm dứt từ đây. Chúng ta chẳng những yêu tha thân mà còn phải yêu cả địch thù nữa: “Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch” (Mt 5, 44a).
Địch thù của chúng ta là những người ghét chúng ta, bắt bớ, đánh đập, tra tấn dã man, bỏ tù, nguyền rủa, vu khống, chửi bới, họ đào mồ, đào mả, giết chết chúng ta không những bằng gươm giáo, súng đạn mà còn bằng cả những lời nói độc địa, gian ác làm tan gia bại sản, thân bại danh liệt chúng ta, họ tìm mọi cách để gây đau khổ cho chúng ta càng nhiều càng tốt.
Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương họ, tình yêu này được thể hiện như là cầu nguyện để xin Chúa thương cải hóa, ban ơn, cứu vớt họ; giúp đỡ, làm ơn cho họ, không được từ chối đỡ nâng khi họ gặp những nghịch cảnh trong cuộc sống, nếu khước từ thì chúng ta sẽ bị Chúa từ khước chúng ta (Mt 25, 31 – 46); đàng khác, khi gặp nhau, thì chúng ta chào hỏi họ với một thái độ khiêm nhường, tôn trọng, quí mến họ: “Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo” (Mt 5, 44 – 48).
Khi chúng ta thực hiện lời Chúa hôm nay, chúng ta đã tha thứ cho anh chị em thù ghét chúng ta như Chúa đã dạy. Chúng ta tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ không điều kiện, lúc đó chúng ta sẽ giống Chúa là chúng ta có lòng nhân từ, xót thương, không phân biệt một ai cả. Đó là điều Chúa mong muốn và luôn tha thiết kêu mời chúng ta bằng chính trái tim của Chúa, bằng chính kinh nghiệm sống của Chúa: “Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo” (Mt 5, 48). Như thế, cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn. Thế giới bớt xung khắc, hận thù, chiến tranh, tang thương, chết chóc hơn.
Lạy Chúa, chúng con yêu đuối, chúng con tội lỗi, chúng con khó thực hiện điều Chúa truyền dạy này, chúng con nguyện xin Chúa xót thương chúng con theo lượng từ bi của Chúa. Chúng con xin Chúa ngoảnh mặt đi đừng nhìn bao tội lỗi chúng ta và tha thứ với lòng ăn năn sám hối của chúng con, xin Chúa chữa trị tâm hồn tan nát vì tội lỗi của chúng con. Chúng con nguyện sống theo ý Chúa và loan truyền Chúa cho anh chị em của chúng con. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con. "Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con. "Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
“Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.” Danh tiếng để lại cho đời là điều khiến nhiều người bận tâm. Có người hiến mình để làm những công trình lớn lao để lại cho hậu thế. Nhưng cũng có người rơi vào thói háo danh, làm mọi sự chỉ để tìm cho mình chút tiếng khen mau qua. Trong Bài Giảng trên núi mà ta nghe hôm nay, Đức Giêsu tố giác thói háo danh của những người đạo đức giả, khi họ làm ba việc đạo đức căn bản là bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Ngài cũng cho thấy cách sống đạo của người môn đệ. Làm các việc đạo đức để tìm tiếng khen, là một cám dỗ có thật. Có người thổi kèn trong hội đường hay ngoài phố khi bố thí. Có người thích đứng cầu nguyện tại giữa ngã ba đường. Có người có mang bộ mặt thiểu não khi ăn chay. Tất cả chỉ nhằm thu hút sự chú ý của nhiều người khác, chỉ nhằm “cho người ta thấy”, “để người ta khen” (cc. 1. 2. 5. 16). Họ làm những việc tốt lành, nhưng lại tìm mình, co quắp trên chính mình, trong khi lẽ ra những việc này phải mở họ ra trước Thiên Chúa. Đối với Đức Giêsu, được người ta khen là nhận được phần thưởng rồi, nên cũng chẳng được Cha trên trời ban thưởng nữa (c. 1). Họ được phần thưởng mau qua của người đời, nhưng mất phần thưởng trọng hậu trong ngày sau hết. Đức Giêsu mời các môn đệ đi vào cái kín đáo, thầm lặng, nơi đó không có con mắt của người đời, không có tiếng khen chê. Nơi đó kín đến mức tay trái không biết việc tay phải làm. Nơi đó là căn phòng đóng cửa, để chỉ có Cha và anh gặp gỡ. Cha là Đấng hiện diện ở nơi kín đáo (cc. 6. 18). Cha cũng là Đấng thấy những gì được làm ở nơi kín đáo (cc. 4. 6. 18). Cha thấy anh đã bố thí, cầu nguyện, ăn chay cách thầm lặng. Chính Cha sẽ ban thưởng cho anh. “Hữu xạ tự nhiên hương” có thể là một hình ảnh đẹp về người Kitô hữu. Đời Kitô hữu là cuộc đời kín đáo thầm lặng, như bị che khuất. Nhưng cũng là cuộc đời không che giấu được trước mắt mọi người. Chính khi cái tốt được làm một cách vô cầu, thì nó lại tỏa ngát hương. Không hẳn là chúng ta luôn luôn phải cầu nguyện trong phòng đóng cửa. Cũng như không hẳn chúng ta phải tô son đánh phấn khi ăn chay. Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm mọi sự cho vinh danh Chúa. Cầu nguyện:
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan, hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Dưới bầu trời bao la, trong cô đơn và thầm lặng, với tấm lòng thanh tịnh, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn, huyên náo vì đấu tranh, giữa đám đông hối hả lăng xăng, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Và khi đã hoàn tất việc đời, lạy Thiên Chúa muôn loài, một mình, lặng lẽ, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen. (R. Tagore, Đỗ Khánh Hoan dịch)
Tôn giáo là một tổ chức. Nhưng thực chất lại là mối liên hệ sâu xa và riêng tư giữa từng người với Thiên Chúa. Càng sâu xa và riêng tư hơn nữa khi đó là mối liên hệ Cha – Con. Vì thế các thực hành tôn giáo đúng nghĩa chỉ nói lên mối tình Cha – Con riêng tư. Không để khoe khoang thành tích. Không làm để cho người đời khen tặng. Thực tế đã có nhiều giả hình, phô trương trong sinh hoạt tôn giáo. Mượn đạo tạo đời. Đó là điều Chúa Giê-su cảnh báo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiếng đánh trống, …Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy…Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả,…Còn anh, khi ăn chay, phải làm…để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”.
Chúa sẽ trả lại. Trả cách hậu hĩnh. Như thánh Phao-lô cảm nghiệm. “Thưa anh em, tôi xin nói điều này: gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm việc thiện”. Người vui vẻ dâng hiến cho Chúa. Chỉ vì Chúa sẽ được Chúa trả lại gấp bội (năm lẻ).
Ê-li-a suốt đời phục vụ Chúa. Ông chỉ biết một mình Chúa. Bất chấp vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven. Kết hợp mật thiết với Chúa. Hi sinh trọn đời cho Chúa. Rồi cuối cùng Chúa ban phần thưởng trọng hậu. Cho có người nối tiếp nhiệm vụ tiên tri. Cho xe lửa và ngựa lửa đón ngài về trời. Để lại quyền năng cho Ê-li-sa, người kế vị: “Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc…E-li-sa trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan. Ông lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước … nước rẽ ra hai bên, và ông Ê-li-sa đi qua” (năm chẵn).
Khi sống đạo hình thức. Ta không có Chúa. Đạo thật buồn nản. Là gánh nặng. Nhưng khi sống nội tâm. Với một mình Chúa. Ta có niềm vui. Và sức sống. Vì Chúa sẽ đổ tràn niềm vui mừng hạnh phúc, trả lại cho ta.
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành. Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
“Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng.” (Mt. 6, 1)
Hãy nhìn tôi đây
Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng những cách cư xử như vậy mà Chúa muốn chúng ta chấp nhận, đều là tuyệt hảo. Bố thí không khua chiêng đánh trống, cầu nguyện không để cho ai thấy, ăn chay không làm bộ rầu rĩ, ta muốn cho mọi người hành động như thế, và ta muốn mình cũng làm như vậy. Nhưng thực ra không phải dễ dàng đâu. Trong ta, mỗi người đều có một chút riêng tư, thực tế khó mà dứt ra được.
Ta thích cho người khác nhìn thấy việc tốt ta làm, cũng là thích phô trương những khía cạnh tốt của ta. Người ta phô trương mình, cũng là vì ý tốt và hàu như vô tình thôi.
Khi người khác có dụng ý khoe khoang, tìm những cử chỉ hợp thời để làm nổi bật mình, ta rất tinh để nhận ra điều đó. Lẽ nào ta lại không tinh tường đủ để nhận ra chính mình cũng mắc chứng tật đó khi tìm dịp để đặt mình lên bục cao sao?
Ta hãy nhớ lại chỉ trong một tuần lễ thôi, biết bao lần ta đã làm hết sức để cho người ta khen ta là dễ thương, quảng đại và hay giúp đỡ. Có lẽ những lần đó nhiều hơn ta tưởng.
Hãy để chính Thiên Chúa nhìn ta!
Thiên Chúa yêu thích những con người đơn sơ, khiêm tốn và kín đáo. Những kẻ thích làm ngôi sao nhỏ”, đối với Chúa thường chỉ là những người kiêu ngạo lớn. Khi ta thu xếp để người chung quanh ca ngợi ta, thì Thiên Chúa nhắm mắt lại. hoặc nhìn đi nơi khác.
Thiên Chúa chỉ đoái nhìn và xót thương những ai không tìm cách làm cho người ta nhìn mình.
“Sống như kẻ công chính” có nghĩa, vào thời Chúa Giêsu, là trung thành với ba việc làm căn bản của đời sống tôn giáo: bố thí, kinh nguyện và chay tịnh. Một cách mặc nhiên Chúa Giêsu nói: các việc làm này quan trọng, và vì thế phải tránh đừng làm giảm giá chúng. Phải thực thi chúng không phải “trước mặt người ta”, nhưng trước mặt Thiên Chúa.
Một đàng con người có thể xác; vì vậy, thật là hợp lý khi thân xác được liên kết với cách thức diễn tả của đời sống thiêng liêng, tôn giáo. Điều này đưa đến những cử chỉ bên ngoài, có thể xem thấy được, thuộc về thể xác.
Người ta gọi là những việc làm. Đàng khác, thân xác là phương thế, là trung gian, là điểm tựa cho những tương quan xã hội. Những sinh hoạt thể xác, trông thấy được không thể là dửng dưng, nhưng được xem xét, lượng giá. Vì thế các việc làm tôn giáo là đối tượng của xem xét và lượng giá. Chúa Giêsu đề phòng chúng ta khỏi việc sử dụng những việc làm tôn giáo để lôi kéo sự xét đoán nịnh bợ và đánh giá khen ngợi của những kẻ trông thấy.
Phải làm gì? Hãy làm sao cho các việc làm này bớt tính cách thể xác, bớt dễ dàng cho người ta xem thấy tới mức tối đa. Vấn đề không phải là phát động một tôn giáo thoát xác và hoàn toàn bên trong. Bố thí, cử chỉ có tính cách vật chất; kinh nguyện đi đôi với thân xác; chay tịnh, kiêng cử thể xác. Tất cả những cái đó đều tốt và nên thực hành cách trung tín. Nhưng còn cách thức thực hiện: phải làm sao cho những việc làm có sự tham dự của thể xác và có thể thấy được, bớt tính cách phô trương. Phải làm cho chúng trở nên kín đáo tới mức tối đa, và hãy luôn ước muốn chỉ một mình Thiên Chúa xét đoán thôi. Tóm lại Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu điều này: đời sống tôn giáo là một việc làm giữa chúng ta và Thiên Chúa; vì thế điều hệ trọng là cái nhìn của Thiên Chúa trên ta, một cái nhìn thấu suốt được mọi bí nhiệm. Dùng những việc làm tôn giáo để được nhân loại tán dương thay vì muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, là sự giả hình ghê tởm nhất. Ngày nay chúng ta có thể thêm: khinh dể bố thí, kinh nguyện, chay tịnh mà Chúa Giêsu đã làm gương thi hành, và lớn tiếng tuyên bố cổ võ một Phúc Âm giải thoát nhưng rỗng tuếch nhựa sống, điều này cũng là một sự giả hình không kém.
Việc từ bỏ mình của tôi, mà Thiên Chúa biết có tỏa rạng niềm vui không?
Một thi sĩ người Anh, ngoài tài làm thơ ông còn có năng khiếu về âm nhạc. Thi sĩ thường cùng với nhóm thân hữu họp để ngâm thơ và hòa nhạc. Một đêm nọ, lúc đang trên đường tới dự một buổi hòa nhạc, thi sĩ đã gặp một chiếc xe ngựa đang bị sa lầy, trên xe hàng hóa chất đầy, tài xế thì già yếu và con ngựa lại gầy còm. Không chút ngần ngại, ông đã bỏ cây đàn sang một bên, dỡ số hàng hóa trên xe xuống, đẩy xe qua khỏi vũng lầy và chất hàng hóa lên xe trở lại. Ông còn tặng thêm cho bác tài xế ít tiền nhỏ để mua thức ăn cho con ngựa. Xong xuôi công việc thì trời đã về khuya và bộ đồ dạ hội đã vấy bùn. Tuy nhiên, ông vẫn đến nơi hẹn, lúc ông đến nơi thì buổi hòa nhạc đã gần tàn, một người bạn nói với ông: “Nhà thơ của chúng ta đã lỡ mất một buổi hòa nhạc tuyệt vời”. Thi sĩ vui vẻ mỉm cười và đáp: “Vâng! đúng thế. Tuy nhiên, bù lại tôi đã tấu được khúc nhạc khác tuyệt vời hơn nhiều”.
Mỗi công việc đều đem lại một kết quả, kết quả đem lại cho con người hài lòng thì nó là phần thưởng. Đối với nhóm bạn bè thân hữu của thi sĩ thì công việc của ông làm đã hạ thấp giá trị người nghệ sĩ, ông bỏ mất phần thưởng giá trị để lao mình vào chuyện không đâu. Riêng đối với nhà thơ thì khác, qua công việc bác ái vừa làm, ông đã tấu được những khúc nhạc tuyệt vời. Vậy đâu là giá trị, là phần thưởng của công việc. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta phương thế để tìm kiếm và chọn lựa.
Thật thế, bố thí, cầu nguyện và ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái, vì chúng diễn tả đến ba mối tương quan của con người. Có thể gọi “bố thí” là sự liên hệ đối với người khác, “cầu nguyện” là trao đổi, trò chuyện cùng Thiên Chúa và “ăn chay” là công việc liên quan đến chính bản thân mình.
Trong đời sống đạo chẳng thể bỏ qua ba công việc này, chúng rất cần thiết, vì đó là hình thức diễn đạt của con người hữu hình. Một tinh thần chịu sự lệ thuộc của thân xác, hình thức bên ngoài để bộc lộ bên trong. Tuy nhiên, cũng vì hình thức bên ngoài mà việc làm lại mang những ý nghĩa khác nhau, vì có người lợi dụng chiếc vỏ hình thức này để che giấu hoặc phô bày những khuyết điểm, nghĩa là thái độ giả hình. Thái độ giả hình này đã bị Chúa Giêsu thẳng thắn kết án. Những hạng người giả hình này, họ cũng bố thí, ăn chay, cầu nguyện, nhưng tựu trung chỉ để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất giá trị đích thực của công việc. Giá trị ít khi đi chung đường, và chính giá trị này sẽ hủy diệt giá trị kia.
Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng; nếu chỉ tìm kiếm những giá trị trần gian thì con người khó lòng vươn tới được giá trị ở trong Thiên Chúa: “Họ đã được thưởng công rồi”. Lời nói nhẹ nhàng của Chúa Giêsu cũng là một tuyên bố dứt khoát đối với những ai mải mê chạy theo các giá trị trần thế, và dù người ta có muốn quay về với giá trị đích thực thì giấc mộng phù du cũng đã cản lối quay về.
Bố thí là một lời yêu thương nghĩ đến người khác, nhưng nếu bố thí chỉ muốn làm thỏa mãn cái tôi của mình thì làm sao thấy được kẻ khác. Cầu nguyện hướng về Thiên Chúa, thế mà chỉ quy về bản thân thì làm sao còn chỗ cho Thiên Chúa, còn biết Ngài ở đâu để trò chuyện. Ăn chay là một đền bù cho những gì sai lỗi, khiếm khuyết. Ăn chay được diễn tả như một khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, thế nhưng nếu con người đã no thỏa với chính mình thì họ đâu cần đến Thiên Chúa. Đã tìm thấy giá trị nơi bản thân mình nên con người đánh mất giá trị quý báu do công việc đem lại.
Bởi thế, lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay luôn là lời hướng dẫn cho người Kitô hữu khi hành động, không chỉ trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả đến mọi công việc làm trong đời sống hằng ngày của con người. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô, biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Có thể người đời cho là thấp kém hoặc không ai biết đến. Tuy nhiên, Thiên Chúa Đấng thấu suốt mọi điều, Ngài sẽ thưởng công cho cách tràn đầy.
Lạy Chúa, trước một công việc chúng con làm, xin Chúa sáng soi để chúng con có thể khám phá được đâu là giá trị thực và xin giúp sức để chúng con quyết tâm theo đuổi giá trị ấy. Vì thân xác chúng con thật yếu đuối, vẻ hào nhoáng bên ngoài vẫn luôn là miếng mồi quyến rũ kéo chúng con lạc đường lối của Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận những tầm thường để đổi lấy những giá trị cao cả của Nước Trời. Amen.
Ngày nọ, có một người đến nói với cha xứ: “Con sẵn sàng dâng cúng tiền để mua một quả chuông cho Giáo xứ, nhưng với điều kiện, phải khắc tên con trên quả chuông ấy!”.
Đây là thực trạng của rất nhiều người biểu lộ niềm tin của mình cách thực dụng như thế!
Sẵn sàng giúp đỡ, nhưng không thể thành hiện thực khi không được nêu danh tánh và công trạng của mình cách công khai!
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng khuyên răn các môn đệ của Ngài phải cẩn trọng trong việc thi hành đức bác ái, kẻo lỡ trở thành “công dã tràng” tức là tốn công vô ích. Ngài dạy cho các ông khi làm việc thiện, hãy làm vì lòng mến và tinh thần vô vị lợi. Không cần phô trương để người đời biết mà ca tụng. Nếu muốn được biểu dương thì hẳn đã được phần thưởng do người phàm tán tụng rồi, và như một quy luật: đã được người đời thưởng công thì không được Thiên Chúa chúc phúc nữa.
Vậy, cùng một việc bác ái, khi thi hành, chúng ta muốn được phần thưởng muôn đời do Thiên Chúa ban tặng hay chỉ muốn phần thưởng tạm bợ, nhất thời, mau qua chóng hết do con người trao tặng?
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng nhau làm một bài toán hầu tính ra sự hơn thiệt để mà tiến bước. Tuy nhiên, đáp án chỉ có khi chúng ta kết thúc cuộc sống trần thế này, và lúc ấy, phần thưởng được trao ban khi và chỉ khi chúng ta làm việc thiện với lòng tin, cậy trông và lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con tinh thần của Chúa và giúp chúng con thi hành vì yêu mến Chúa và anh chị em, để mọi hành động, mọi việc làm của chúng con đều xuất phát từ tấm lòng khiêm cung và tràn đầy yêu thương. Amen.
Sứ điệp: Bố thí, cầu nguyện và ăn chay chỉ có giá trị trước mặt Chúa khi được thực hiện vì Chúa, chứ không vì người đời hay với dụng ý khoe khoang.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, lắng nghe Tin Mừng hôm nay, con thấy Chúa muốn dạy con rằng các việc đạo đức con làm là làm cho Chúa, là sống với Chúa và với mọi người trong sự chân thành yêu thương, mà không cầu lợi cho mình, không mong tìm sự đánh giá của người khác. Chúa muốn cảnh giác con, để con tránh khỏi hình thức đạo đức bên ngoài. Chúa không muốn con đến cùng Chúa với dụng ý tư lợi, không muốn con đối xử với kẻ khác bằng thái độ vị kỷ. Trong gia đình, thật là tệ nếu con cái yêu thương bố mẹ chỉ vì muốn cha mẹ mua cho chiếc xe, cái máy. Con cũng không thể đến với Chúa với thái độ như vậy.
Ẩn sau các việc đạo đức là một thái độ sống: sống trước mặt Chúa và cho Chúa như một người cha. Đó là cách để con tỏ bày lòng thảo hiếu yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa cho con nhận ra điều đó để con sống tốt trước mặt Chúa. Chúa là Cha yêu thương con, đã ban cho con rất nhiều ơn mà con không nhận thấy được. Chúa ban ơn phúc cho con mà không mong tìm điều gì cho Chúa. Con ao ước cuộc sống của con là cách thức để nói lên tấm lòng của con đối với Chúa, dù khi con sống một mình hoặc con sống trước mặt kẻ khác.
Con muốn sống lương thiện không phải để được tiếng khen của người đời nhưng là để sống theo giáo huấn của Chúa. Con muốn cầu nguyện bởi vì đời sống con cần Chúa và phải gắn bó với Chúa. Con yêu thương tha nhân vì chúng con là con của Chúa. Xin tình yêu Chúa tinh luyện mọi hành vi và cuộc sống của con. Amen.
Ghi nhớ: “Cha ngươi Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi”. Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm”. “Ô thế bạn ở đâu vậy?”. “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo” (Trích Món quà giáng sinh).
Suy niệm
Ba việc đạo đức tiêu biểu mà người Do Thái thường làm: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Người pharisiêu vụ lợi hình thức luôn làm những việc này trước mặt công chúng để người khác biết và khen họ đạo đức.
Chúa Giêsu cảnh báo những người làm việc đạo đức chỉ để khoe khoang và lấy tiếng khen của người đời, như thế thì vô ích trước mặt Ngài. Mọi hành vi đạo đức nhằm phần thưởng nhân loại trần thế, thì mất phần thưởng thần linh và vĩnh cửu.
Chúa dạy hãy làm việc bác ái và các việc đạo đức cách khiêm nhường và làm cách kín chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự sẽ thưởng cho: “Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con”. Hơn nữa, việc đạo đức trên nền khiêm tốn và cách kín đáo xây dựng nên sự “công chính” theo Tin Mừng, có chiều sâu nội tâm của các ý hướng, quên mình và ưu tiên cho danh dự và quyền lợi của Thiên Chúa.
Xin Chúa dạy chúng ta tinh thần nhỏ bé và nhân hậu. Ðể mọi hành động, mọi việc làm của chúng ta luôn kín đáo, xuất phát từ tấm lòng chân thành khiêm cung vì Chúa và vì anh chị em. “… Và khi đã hoàn tất việc đời, lạy Thiên Chúa muôn loài, một mình, lặng lẽ, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan” (R. Tagore, Đỗ Khánh Hoan dịch).
Ý lực sống:
‘‘ Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng” (2Cr 9,7).
Trong số các việc đạo đức, người Do thái coi trọng 3 việc là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Chúa dạy chúng ta cách thức làm ba việc lành ấy cho tốt, để đáng được Chúa thưởng công.
Điều cốt yếu là khi làm ba việc lành đó, chúng ta tránh phô trương ra bên ngoài, mỗi khi làm được việc gì lành, điều gì tốt, chúng ta luôn luôn muốn cho mọi người biết. Còn khi làm việc gì không tốt thì chúng ta muốn giấu kín. Chúng ta phải làm việc lành với lòng khiêm tốn, âm thầm, kín đáo, vì lòng mến Chúa yêu người thực sự, để làm đẹp lòng Chúa, làm sáng danh Chúa, để Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ thưởng công chúng ta.
Tin mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Maisen, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quí, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người ta khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác (Mỗi ngày một tin vui).
Nhưng lời Chúa dạy hôm nay sao mà gắt gao quá, phải không bạn? Khi làm việc lành phúc đức tôi đã hy sinh cái lợi, cái thú rồi thì ít ra tôi cũng được phép kiếm chút danh chứ? Câu trả lời của Chúa là KHÔNG! Chúa nói rõ: làm việc đạo đức mà cầu danh thì đấy là đạo đức giả. Điều Chúa muốn, đó là chúng ta thực thi ý Ngài với ý thức rằng:”Chúng tôi chỉ là những tôi tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (x. Lc 17,10). Các sách Tin mừng cho thấy Chúa Giêsu đã gặp gỡ, tiếp xúc với rất nhiều loại người, nhưng gặp rắc rối là với những kẻ đạo đức giả, chứ không phải với những người tội lỗi thật (5 phút Lời Chúa).
Trước đây Chúa Giêsu trình bày sự công chính mới trong lãnh vực các điều răn, nay Ngài đề cập tới nền đạo đức mới: phải thực thi những việc đạo đức thế nào phải phù hợp với tinh thần của Chúa Kitô. Những lời khuyên bảo của Chúa Giêsu về những việc đạo đức được bao gồm ba chiều kích:
- Đối với tha nhân: bố thí.
- Đối với Thiên Chúa: cầu nguyện.
- Đối với bản thân: chay tịnh.
Ba chiều kích này tiêu biểu cho cả cuộc sống. Điều cốt yếu trong cả ba trường hợp vẫn là sống thật, sống trước mặt Thiên Chúa với ý hướng ngay thẳng và thi hành ý Chúa.
Bố thí, cầu nguyện, ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái. Việc làm thì tốt, nhưng vì hình thức bên ngoài mà việc làm mang ý nghĩa khác, bởi vì có người bố thí, cầu nguyện, ăn chay chỉ là để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất đi giá trị đích thực của công việc.
- Bố thí là lời yêu thương gửi đến người khác, nhưng nếu chỉ để mình được thấy thì làm sao thấy được kẻ khác;
- Cầu nguyện là hướng về Thiên Chúa, nhưng nếu chỉ qui về mình thì làm sao còn có chỗ cho Thiên Chúa;
- Ăn chay là một đền bù cho những lỗi lầm, và diễn tả khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, nhưng nếu con người đã no thoả trong chính mình thì làm sao họ còn cần đến Thiên Chúa.
Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng: nếu đã tìm giá trị trần gian, con người khó lòng vươn tới được giá trị đích thực. “Họ đã được thưởng công rồi”: đó là lời tuyên bố dứt khoát đối với những ai chỉ mải miết chạy theo những giá trị trần thế.
Lời Chúa hôm nay là một hướng dẫn cho người Kitô hữu không những trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả những công việc trong đời sống hằng ngày nữa. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô và biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Đó có thể là công việc mà người đời cho là tầm thường hoặc không được ai biết đến, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho.
Truyện: Đừng phô trương
Có một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và qui tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thầy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một dòng sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của Thầy tôi”. Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một người thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền năng của ta” và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Dụ ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh thiện là sự quên mình, quên mình đến độ không còn ý thức về sự thánh thiện của mình và sử dụng chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên Chúa ban sự thánh thiện cho một người nào đó là để những kẻ khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện của người đó còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình, thì người đó mất sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình (Chờ đợi Chúa).
Trong số các việc đạo đức, người Do Thái rất coi trọng 3 việc: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Nhiều người làm việc đó chỉ nhằm mục đích được tiếng mình là đạo đức, cho nên họ làm sao cho người ta thấy mà khen họ. Chúa Giêsu gọi đó là giả hình.
Ngài dạy các môn đệ khi làm việc đạo đức, chỉ nên nhắm vào làm cho Cha trên trời vui thôi, cho nên hãy làm cách kín đáo.
Suy gẫm
1. Hãy tự đặt cho mình một số câu hỏi ngắn để trắc nghiệm ý ngay lành của mình khi làm những việc đạo đức:
Trong Thánh lễ, khi tôi lên rước lễ, hay khi tôi lên đọc Sách Thánh, tôi nghĩ đến ai hay nghĩ đến điều gì nhiều nhất: Chúa? Những cặp mắt nhìn tôi? Bề trên sẽ đánh giá tôi?
Trong thời gian nghĩ không ai để ý đến một số việc đạo đức của tôi nữa, như nguyện gẫm, lần chuỗi khi đó tôi có làm những việc đó không? Làm như thế nào?
Thí dụ tôi có tham dự các giờ cầu nguyện đầy đủ, nhưng có người vì không thấy nên nói tôi bỏ bê những việc đó, tôi nghĩ sao? Tôi phản ứng thế nào?
Ngoài những việc đạo đức quy định và thời gian quy định cho những việc đó, tôi có làm thêm việc nào nữa không hay kéo dài thêm thời gian không?
2. Có một Linh Sư Ấn Độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và quy tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thầy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông ta bảo anh ta phải bơi qua một con sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi.” Sự kiện này làm cho vị Linh Sư tin là mình thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “tung hô quyền năng của ta” và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã nhào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Dụ ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh thiện là sự quên mình, quên mình đến độ không có ý thức về sự thánh thiện của mình và sử dụng chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên chúa ban sự thánh thiện cho một người nào đó để những người khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện của người đó còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại kể từ khi người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình thì người đó đã đánh mất sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình.
3.“Cha của anh đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho anh” (Mt 6.6b)
Sáng nay mình đi học trễ, tuy thế vẫn cố sức đạp xe cho thật nhanh cho kịp giờ học.
À mà! Một bà cụ gánh trái cây bị xe thồ tông phải, trái cây lăn đầy ra đường.
Tôi tự nhủ: “Đường vắng quá có giúp cũng chẳng ai thấy, cứ lo việc của mình đã.” Thế là tôi vụt qua, mặc cho bà cụ lẻ loi một mình. Đi được một quãng tôi chợt cảm thấy thật có lỗi với bà cụ ấy. Những bài học về nhân bản như bị xé vụn trước mặt mình. Cả ngày hôm đó hình ảnh bà cụ cứ làm tôi ray rứt mãi.
Vậy đó, nhiều lúc mình cứ tưởng làm những việc lớn lao mới được tiếng tăm, được người ta kính nể, thán phục. Nhưng tôi đã lầm, nhặt một mảnh kính vỡ giữa đường, dắt một em bé qua đường, nếu làm được với tất cả với lòng mến và khiêm nhường, thì quả thật mình làm được một việc lớn. Ngược lại nếu có “dời non lấp bể” để rồi công việc mình làm chỉ để phục vụ cho cái tôi huênh hoang tự đắc thì kết quả chỉ là con số không.
Lạy chúa, xin đừng để con sa vào cạm bẫy của lợi danh, nhưng dạy con biết phục vụ trong khiêm hạ và yêu thương.
1. Khi cầu nguyện không cần nhiều lời: lý do là Chúa Cha biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta nói ra.
Mẹ Têrêsa nói: “Cầu nguyện không là xin xỏ, nhưng là trao thân gửi phận nơi bàn tay Thiên Chúa, để Ngài định liệu. Cầu nguyện là lắng nghe tiếng Ngài từ sâu thẳm tấm lòng chúng ta”.
Mẹ Têrêsa khuyên các nữ tu của Mẹ “Hãy yêu mến việc cầu nguyện”.
Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện để có thể được ân sủng của Chúa.
Đức Cha Tihamer Toth kể:
Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:
- Tại sao thầy buồn thế?
- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa .
- Bộ ông ta khùng ư?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
- Như thế là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con cũng thế thôi .
Hãy cầu nguyện để có thể hiểu Chúa đã yêu thương chúng ta thế nào, và để ta cũng có thể yêu thương kẻ khác giống như vậy.
2. Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa.
Đã nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở thành độc thoại.
Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiều việc cầu nguyện với Chúa như thế nào.
Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:
Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo”.
Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa”.
Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.
Trong tác phẩm: “Năm chiếc bánh và hai con cá” Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, trang 21 có kể câu chuyện sau đây: Câu chuyện về ông già Jim.
- Mỗi ngày cứ vào lúc 12 giờ trưa, ông ta vào nhà thờ không quá hai phút. Sự việc đó làm ông từ giữ nhà thờ rất thắc mắc nên theo dõi. Rồi một hôm ông từ mạnh dạn chặn ông Jim lại và hỏi:
- Ngày nào ông cũng vào nhà thờ làm gì vậy? - Tôi đến để cầu nguyện. - Không thể được! Cầu nguyện gì chỉ trong 2 phút? - Tôi vừa già, vừa dốt. Tôi cầu nguyện theo kiểu của tôi! - Ông nói gì với Chúa? - Tôi cầu nguyện: “Giêsu, có Jim đây!” rồi tôi về.
Vâng! Đó là lời cầu nguyện thật đơn sơ nhưng thật cảm động.
Và đây câu chuyện ông lão nhà quê được kể lại trong hạnh thánh Gioan Maria Vianney.
Hàng ngày ngồi ở tòa giải tội, cha sở họ Ars luôn nhìn thấy một ông lão ghé vào nhà thờ mỗi chiều sau khi đã lam lũ suốt ngày ngoài đồng. Ông luôn quì ở hàng ghế ấy. Quì một chút rồi ông lại lặng lẽ đi ra, y như lúc ông vào. Một hôm, ngài gọi ông lại và hỏi:
- Ông ơi, chiều nào tôi cũng thấy ông ghé nhà thờ, quì nguyên một chỗ, ngày nào cũng vậy, mà không thấy miệng ông mấp máy đọc kinh gì cả. Ông quì đó làm gì vậy?
Ông lão tủm tỉm trả lời:
- Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, rồi ra về.
Đây là lời cầu nguyện của thánh Augustinô.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho con biết con, Xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, Quên đi chính bản thân, Yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, Biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa Tất cả những gì xảy đến cho con Và biết chọn theo chân Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con luôn yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con luôn được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
Đọc xong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có một cảm nhận rằng:
- Dường như có vẻ từ xa xưa cho đến bây giờ, các việc đạo đức mà con người chúng ta làm như là bố thí, chay tịnh, cầu nguyện, có vẻ là bề ngoài, cốt để cho người khác biết mà khen tặng, để cầu danh, chưa kẻ những người làm việc này để cầu lợi. Trong thời đại của Chúa, việc làm đạo đức để cầu danh, cầu lợi của nó đã đi quá giới hạn, quá trầm trọng, quá nặng nề, quá lan rộng để rồi nó đã làm mất đi ý nghĩa linh thánh của các việc ấy: “Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ …: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy… họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta” (Mt 6, 1. 5. 16). Một khi con người chúng ta giả hình, làm mất ý nghĩa thánh thiêng ban đầu của các điều ấy, chúng ta sẽ sinh ra tội khoe khoang, phô trương, biểu diễn, kiêu ngạo.
- Cũng là các việc đạo đức đó, nhưng bây giờ Chúa dạy chúng ta phải có một tinh thần mới, để rồi qua đó, chúng ta mới được Chúa đoái thương nhậm lời, ban ơn, nâng đỡ. Tinh thần mới, đó là sự khiêm nhường thẩm sâu trước tôn nhan Chúa: “Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín… Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con… Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con“ (Mt 6, 3. 6. 17). Đây là một điều quan trọng chứng minh Chúa đến là để kiện toàn lề luật chứ không có hủy bỏ (Mt 5, 17 – 19), và đây cũng là rượu mới đổ bầu da mới, chứ không phải bầu da cũ.
Khi chúng ta làm các việc đạo đức trên đây mà chúng ta không chịu khiêm nhường, chúng ta sẽ không được Chúa nhậm lời, mà Chúa không nhậm lời, thì các việc ấy trở thành vô nghĩa, không có giá trị gì trước mặt Chúa, công phúc chúng ta như dã tràng xe cát biển Đông. Còn khi chúng ta thực hiện với một tấm lòng khiêm nhường, thì Chúa sẽ biết, Chúa sẽ trả công bội hậu cho chúng ta, cho nên chúng ta đừng nghỉ ngợi, đừng lo lắng, đừng đòi hỏi: “…để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con… Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con…. nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con” (Mt 6, 4. 6. 18). Chúa trả công cho chúng ta sẽ là nước thiên đàng sau này. Vì vậy, chúng ta hãy làm các việc lành phúc đức nói chung và bố thí, cầu nguyện, chay tịnh nói riêng trong tinh thần khiêm nhường hân hoan phấn khởi vì Chúa đã cho chúng ta biết kết quả liền ngay, nếu chúng ta nghe lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin Chúa phù trì che chở chúng ta, cho chúng con được nương tựa Chúa, xin cho chúng con được ở trong cung lòng xót thương của Chúa, để chúng con tránh đi được sự cám dỗ kiêu căng, tránh đi những mưu mô xảo trá khi làm các việc đạo đức, xin Chúa cho chúng con biết sống khiêm nhường trước thánh nhan Chúa. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen. "Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".
Chúng ta không thể lèo lái hay ép buộc Thiên Chúa bằng những lải nhải dài dòng hay bằng những câu thần chú. Cầu nguyện không phải là thông báo cho Chúa biết nhu cầu của ta (c. 8). Cha Teilhard de Chardin đã viết: “Chúng ta phải cầu xin Chúa không phải vì lề luật buộc như thế, cũng không phải vì Chúa không biết ta cần gì. Không, kinh nguyện là tình yêu, là cách diễn tả tình yêu.” Thiên Chúa thích nghe miệng chúng ta nói lên nhu cầu của mình. Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, Abba, như Ngài đã gọi. Abba là tiếng gọi âu yếm thân thương của đứa con đối với người cha. Khi gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta thấy mình hết sợ hãi và xa cách. Cha siêu việt và quyền uy, nhưng Cha không áp bức và bắt con làm nô lệ, Cha cao sang ở trên trời nhưng Cha lại gần gũi với nhu cầu của con cái. Ba lời cầu xin đầu tiên đều hướng về Cha: Danh Cha, Nước Cha, và Ý Cha. Danh Cha được vinh hiển khi Nước Cha được thành tựu, Ý Cha được thể hiện. Nước Cha đã đến rồi với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu, nhưng chúng ta vẫn phải cầu xin cho Nước ấy mau đến cách viên mãn. Ý Cha và quyền tối cao của Cha đã được thể hiện trọn vẹn trên trời rồi, nhưng còn phải được thể hiện dưới đất nữa, nơi mọi người và nơi từng người. Ba lời cầu đầu tiên, là những lời trực tiếp nài xin Cha. Làm cho Danh Cha được biết đến, Nước Cha được nhìn nhận, Ý Cha được tuân hành: đó là công việc của Cha cho đến tận thế. Nhưng việc đó cũng cần sự cộng tác hằng ngày của mỗi Kitô hữu qua việc họ sống tận căn những đòi hỏi gai góc của Nước Trời, để cho thấy Nước Trời đã đến trên mặt đất. Bốn lời cầu xin sau nhắm đến nhu cầu cụ thể của các môn đệ. Xin lương thực hàng ngày là điều cần thiết cho họ, những người nay đây mai đó, sống nhờ lòng tốt của người nghe. Xin ơn tha thứ là điều ta cần mỗi ngày từ Chúa, sau bao sai lỗi, mà cũng là điều ta phải trao lại cho anh em. Xin Chúa đừng đưa chúng ta vào cơn thử thách quá sức chịu đựng đến mức mất đức tin và quỵ ngã. Nhưng xin Chúa gìn giữ và giải thoát chúng ta khỏi Ác Thần. Kinh Lạy Cha giúp chúng ta trò chuyện với chính Thiên Chúa là Cha. Chúng ta được mở ra trước thế giới trên trời nơi Cha ngự trị, những cũng được mở ra trước thế giới dưới đất của con người. Một thế giới có bao người thiếu bánh ăn, cần được chia sẻ. Một thế giới có nhiều xung đột và hận thù, cần sự bao dung thứ tha. Một thế giới hỗn loạn với bao điều phải chấn chỉnh cho hợp Ý Chúa. Một thế giới không biết mình là anh em, con cùng một Cha. Kinh Lạy Cha bao giờ cũng nhắc chúng ta về những điều dang dở… Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Xin đừng mỉm cười mà nói rằng Chúa đã ở bên chúng con rồi. Có cả triệu người chưa biết Chúa. Nhưng biết Chúa thì được cái gì? Chúa đến để làm gì nếu đời sống con cái của Chúa cứ tiếp tục y như cũ? Xin hoán cải chúng con. Xin lay chuyển chúng con. Ước gì sứ điệp của Chúa trở nên máu thịt của chúng con, trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con. Ước gì sứ điệp đó lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại, và đòi buộc chúng con, làm chúng con không yên. Bởi lẽ chỉ như thế, sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con bình an sâu xa, thứ bình an khác hẳn, đó là Bình An của Chúa. Amen. (Hélder Câmara)
Cầu nguyện là hành vi cao đẹp. Vì nâng con người lên. Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện. Đừng lải nhải nhiều lời như người dân ngoại. Đừng biến mình thành kẻ ăn mày. Nhưng nâng tâm hồn lên. Như người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo quan tâm đến việc nhà. Đến chương trình của cha. Cầu nguyện đầu tiên là tha thiết với chương trình của Cha. Cộng tác với chương trình của Cha. “Nguyện Danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Hiến thân thực hiện chương trình của Cha. Vì trong chương trình đó có hạnh phúc của ta. Vì Cha nên yêu thương anh em. Cầu nguyện cho tha nhân. Tha thứ cho anh em. Để nên một trong Cha. Chúa Giê-su là người đầu tiên. Là Con Một Yêu Dấu. Hiếu thảo. Đã hoàn toàn huỷ mình ra không. Để thánh ý Cha được thể hiện.
Ê-li-a là người con hiếu thảo. Hoàn toàn quên mình vì Chúa. Vì Chúa ông chịu thiệt thòi. Bị săn đuổi. Phải chạy trốn. Bị bỏ rơi. Nhưng ở trong Chúa, ông được đầy uy lực. “Ông dùng lời Thiên Chúa mà đóng cửa trời, và ba lần cũng cho lửa đổ xuống… Ông dùng lời của Đấng Tối Cao mà làm cho một kẻ chết trỗi dậy”. Sau đó lại đến Ê-li-sa. Người đã bỏ hết gia đình, ruộng vườn, bò bê. Để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. “Lúc sinh thời, ông đã làm nhiều dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng”. Các ngài đến với Chúa như những người con hiếu thảo. Nên Chúa dùng các ngài thực hiện chương trình của Chúa. Vì kết hợp với Chúa, các ngài được quyền năng. Và Lời Chúa ở với các ngài (năm chẵn).
Thánh Phao-lô cũng là một người con hiếu thảo. Ngài yêu mến Chúa Giê-su. Chết cho bản thân. Để chỉ sống cho Chúa. Ngài yêu thương dân bằng tình yêu của Chúa. Nên ngài mong ước dân thuộc về Chúa. Nên một với Chúa. Trung tín với Chúa. Đừng thay lòng đổi dạ. “Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết”. Nên một với Chúa. Để cộng tác với Chúa. Trở thành cánh tay nối dài. Thực hiện chương trình của Chúa trên trần gian. Như thánh Phao-lô. Làm hết sức mình để chương trình của Chúa được thực hiện: “Tôi đã hạ mình xuống để tôn anh em lên, khi rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa. Tôi đã bóc lột các Hội Thánh khác, ăn lương của họ, để phục vụ anh em”.
Xin cho con trở thành người con hiếu thảo. Để khi cầu nguyện con gặp người Cha quyền năng và yêu thương. Và không mong gì hơn là hiến mình cho công trình của Cha được thực hiện. Đó là hạnh phúc của con.
Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì "Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin". Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện.
Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.
“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy anh em hãy nguyện như thế này:
“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin cho danh thánh Cha vinh hiển,” (Mt. 6, 7-9)
Mẫu kinh tuyệt hảo
Chúa Giêsu đã ban cho ta một mẫu cầu nguyện là Kinh Lạy Cha. Không có lời kinh nào tuyệt hảo và quân bình hơn kinh Lạy Cha. Vậy để cầu nguyện nên, ta phải cảm hứng từ kinh Lạy Cha, để có được những tâm tình và ý hướng xứng hợp.
Mặc dầu người ta đã nói nhiều về kinh này, nhưng nhắc lại một lần nữa ở đây, thiết tưởng cũng là điều tốt. Kinh Lạy Cha gồm hai phần. Trong phần đầu ta lo đến những sự thuộc về Chúa. Ta cầu xin cho điều Chúa muốn được thực hiện: “Nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Từ phần thứ hai của kinh, ta mới quan tâm đến những chuyện thuộc về ta: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ …”.
Muốn cầu ngụyện nên, phải cầu nguyện theo cách này. Việc của Chúa phải được đặt lên hàng đầu. Việc của ta phải ở hàng thứ yếu. Nếu ta đặt những lợi ích của ta lên trên và trước những lợi ích của Chúa, nếu ta nghĩ đến ta trước khi nghĩ đến Chúa, là ta cầu xin điều trái ngược. Và Thiên Chúa không ưa điều gì làm trái ngược.
Hãy đứng ở vị trí thứ hai
Vậy mà ta vẫn thường cầu xin ngược lại như thế. Ta vẫn luôn làm như vậy, mỗi khi ta không cần đến kinh Lạy Cha, mà dùng lời lẽ riêng của mình để bày tỏ điều ta muốn. Điều đầu tiên nảy ra trong đầu óc ta thường là cầu xin Chúa ban cho ta được những ơn lành; nào là xin cho được mạnh khỏe, xin cho những người thân của ta, xin cho qua khỏi cơn bối rối v.v…
Ta phải học cho biết cầu nguyện đúng chỗ. Cầu nguyện đúng chỗ, là quan tâm trước hết đến Chúa, là dành cho Người địa vị hàng đầu, còn ta đứng hàng thứ yếu. Nếu ta không có khả năng làm được như vậy, thà rằng chú ý và thành tâm đọc kinh Lạy Cha nhiều lần còn tốt hơn.
Kinh “Lạy Cha” là một lời kinh giản dị, phong phú, qui tụ vào cái chính yếu, đầy sức sống, phản ánh một nếp sống tôn giáo sâu đậm vào bậc nhất. Những đức tính này rất đáng lưu ý, nếu chúng ta nghĩ đến sự kiện là kinh này chỉ được biên soạn khoảng bốn mươi hay năm mươi năm sau khi Chúa Giêsu đã giảng dạy. Điều này có nghĩa là trong khoảng thời gian đó các cộng đoàn Kitô hữu, ngược lại với điều người ta lo sợ, đã không kéo dài kinh đó ra, đã không chất thêm vào, cũng như đã không diễn giải sâu rộng. Ngay từ đầu, các môn đệ đã nhận ra trong Kinh Lạy Cha một Kinh Nguyện chính yếu và họ đã gìn giữ nó nguyên vẹn. Cái dấu tích trung thực này càng làm cho lời kinh quý giá hơn.
Khi dạy kinh Lạy Cha, không những Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện, nhưng Ngài còn muốn cho chúng ta ý thức địa vị của con người chúng ta. Ngài nói rằng: sự viên mãn của thân phận chúng ta, và của hạnh phúc chúng ta là ở chỗ tự vượt lên khỏi mình nơi Thiên Chúa, trong ý muốn và trong Nước Ngài; nhưng để đến đó, chúng ta có thể tin cậy ở nơi Ngài. Đàng khác ngay từ bây giờ, chúng ta phải thực thi sự hòa giải với nhau giữa con người, hòa giải mà Thiên Chúa ban cho qua mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Địa vị con người đặt chúng ta trong hai mối tương quan mà thực ra chỉ là hai nhịp điệu của cùng một đời sống duy nhất. Đối với Thiên Chúa, tương quan của chúng ta là tương quan con thảo; đối với con người lại là tương quan huynh đệ.
Đâu là địa vị, chỗ đứng của tôi trước mặt Thiên Chúa? Tôi có phải là đứa con hoang đàng mà người Cha chờ đợi và tiếp đón mỗi ngày? Tôi là con người mà thân phận được thể hiện trong ý muốn và Nước của Đấng vì tình yêu mà tạo dựng và phân phát sự sống Ngài chăng? Ước chi Chúa gìn giữ tôi khỏi làm người anh cả trong dụ ngôn, nổi giận vì người ta mừng ngày trở lại của người em; người anh mà đối với em mình không có những tâm tình như người Cha.
Tôi có xin Chúa Giêsu dạy tôi biết cách cầu nguyện kinh Lạy Cha không?
Nhắc đến cuộc đời của thánh Gioan M. Vianey, cha sở họ Ars. Người ta không thể quên câu chuyện sau đây về một nông dân xứ Ars: Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về nhà anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai cũng nể và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?”. Anh nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.
“Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”. Câu trả lời trên của anh nông dân xứ Ars diễn tả được tận gốc tủy của việc cầu nguyện. Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu nguyện con nối liền sự kết hợp với Thiên Chúa. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện dù có làm phép lạ con cũng đừng tin. Các tông đồ đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện”. Chúa Giêsu đáp: “Khi các con cầu nguyện hãy nói: Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
Chúa đã dạy đọc kinh để giúp chúng con cầu nguyện, nhưng điểm chính là gặp gỡ, là nói chuyện giữa Chúa và con. Khi con cầu nguyện đừng lo phải nói gì, chỉ vào phòng đóng cửa mà cầu nguyện với Cha của con một cách kín đáo, chắc chắn Ngài sẽ nhận lời con. Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.
Những chia sẻ trên của tác giả “Đường Hy Vọng” hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Giờ đây chúng ta hãy chia sẻ với nhau những ý nghĩa sâu xa của lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ. Trong vài phút Suy Niệm này, chúng ta hãy chú ý đến tinh thần phải có khi cầu nguyện.
Trong đoạn Phúc Âm trên, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ lời kinh Lạy Cha, như những lời dạy nói về tinh thần phải có khi cầu nguyện. Đó là tinh thần tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, và tinh thần đơn sơ khiêm tốn nhằm gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng: “Khi anh cầu nguyện, thì đừng nhiều lời như những kẻ ngoại giáo, vì họ nghĩ rằng nói nhiều thì được nhiều”. Vì suốt ngày mỏi mệt rao giảng Tin Mừng, nên mỗi khi đêm về quỳ gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, thánh Phanxicô có những lúc quá mệt mỏi phải ngủ gục bên bàn thờ. Lúc ấy ngài thường cầu nguyện với Chúa một cách đơn sơ như sau: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa”.
Cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài. Giờ cầu nguyện là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không cô độc lẻ loi một mình. Thánh Phaolô tông đồ giãi bày như sau: “Chúng ta không biết phải cầu nguyện như thế nào cho phải, nhưng Chúa Thánh Thần cầu nguyện cho chúng ta với những lời kêu van không thể diễn tả được” (Rm 8,26)
Nhờ bí tích Rửa tội mà ta đã lãnh nhận, mỗi người Kitô hữu sẽ được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Chúa Thánh Thần, để phát triển đời sống con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nếu ta không phải là người cầu nguyện thì không ai tin ta làm việc vì Chúa. Nếu muốn biết công việc tông đồ của ai như thế nào, thì hãy xem người đó có cầu nguyện hay không, và cầu nguyện ra sao?
Lạy Chúa, xin hãy thương ban cho chúng con được tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân chính mình và anh chị em trong môi trường chúng con sống. Amen.
Đạo Công Giáo của chúng ta thật hạnh phúc vì được gọi Thiên Chúa là Cha. Đây là đặc ân cao quý mà nhờ Đức Giêsu mặc khải, chúng ta mới biết và dám thưa với Thiên Chúa “Ápba - Cha”.
Hôm nay, các môn đệ đã xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện, vì thế, Ngài đã lên tiếng dạy họ cầu nguyện:
Trước tiên, cần xác định căn tính là con của các môn đệ với Cha trên trời: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời”. Khi có chung một Cha, thì ắt sẽ có nhau là anh em.
Thứ hai, đã là con thì luôn mong cho danh Cha mình được tỏ lộ và nhiều người tin nhận: “Xin làm cho Danh Cha được vinh hiển”; “Triều đại Cha mau đến”.
Thứ ba là nguyện xin cho: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, tức là xin Cha thể hiện mục đích của Người trên nhân loại như đã có trong chương trình yêu thương của Người.
Thứ tư, thể hiện lòng trông cậy vào Cha, đồng thời phó thác đời sống xác hồn cho Cha để Người chăm lo: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Thứ năm, ý thức mình là kẻ tội lỗi nên cần Cha tha tội: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”, tức là thành khẩn xin Cha tha mọi tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Người, cũng như cho ta biết tha thứ các lỗi lầm mà anh em xúc phạm đến ta.
Thứ sáu, ý thức sự mong manh, yếu đuối của bản thân, nên cần Cha bảo vệ: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
Cuối cùng, xin được trao phó mọi sự trong tay Cha, để xin Cha cứu giúp khỏi bị rơi vào tình trạng mất ơn nghĩa cùng Cha: “Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
Qua kinh lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, thì ngày hôm nay, Ngài cũng dạy mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện như thế để xứng đáng là con Cha trên trời và có nhau là anh em trong cùng đại gia đình Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con luôn sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa và luôn tin tưởng, phó thác cũng như biết cùng nhau làm sáng danh Chúa. Amen.
Sứ điệp: Lời kinh Chúa dạy dẫn chúng ta đến một chân trời rộng mở. Tất cả đều là con cùng một Cha. Vì thế, ta cần giang rộng vòng tay đón nhận anh em trong tình yêu Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con xin dâng Cha tâm tình cảm tạ tri ân, vì Con Một Cha đã dạy con gọi Chúa là Cha. Ngài cũng dạy con biết cách trò chuyện với Cha trong tâm tình cha con. Lời kinh tuyệt hảo này như cánh cửa mở ra dẫn con bước vào khung trời yêu thương: mọi người là con Cha, là anh em với nhau.
Lạy Cha, lời kinh Chúa Giêsu dạy giúp con khám phá địa vị của người khác. Cho dù người bên cạnh con sống với tâm hồn khép kín, cho dù người bên cạnh con đang cố tình tránh mặt Cha, cho dù người bên cạnh con gây nên bất hòa… thì họ vẫn là con Cha, là anh chị em với con. Cha đã quảng đại đón nhận tất cả mọi người vào gia đình Cha. Xin cũng mở rộng lòng con để con biết đón nhận mọi người. Xin Cha phá tung cánh cửa ích kỷ nơi con để con biết nghĩ đến người khác. Vì từ nghĩa cử cao đẹp con làm cho anh em là con đang được lớn lên trong ân tình của Cha. Và từng ánh mắt cảm thông, từng nụ cười chia sẻ với người khác, là con trở nên thân thiết với họ, làm tình anh em được bền chặt hơn.
Lạy Cha, tình thương của Cha đang thúc bách con yêu thương người khác. Và thực hành yêu thương là điều khẩn cấp, vì đó là điều kiện để con trở thành con Cha và nên anh em bạn hữu thân thiết với mọi người. Xin Cha giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này”.
Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi, tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: Nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”.
Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mạc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái.
Suy niệm
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách cầu nguyện: đừng nói nhiều lời vì Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài đã hiểu rõ chúng ta đang cần gì. Ðiều quan trọng là chúng ta phải sống trong tương quan thân tình với Cha và với anh chị em như Ngài dạy lời cầu nguyện Abba - Lạy Cha.
So với kinh Lạy Cha của Luca ghi lại, kinh Lạy Cha của Matthêu chi tiết hơn: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Trong lúc đó, Luca ghi nhận vắn tắt hơn: “Lạy Cha, nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”. Và câu kết của kinh Lạy Cha theo Matthêu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, trong khi Luca trình bày ngắn hơn: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Lời kinh Lạy Cha, đầu tiên “nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”: Nước Cha đến là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Ngài loan báo Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (x. Lc 4,43; 8,1; 10,9.11). Vì Cha là tình yêu, khi danh Cha toả sáng, là tình yêu Cha trải dài trên trái đất nơi những người con của Cha hiện hữu và ý Cha thể hiện được cả dưới đất cũng như trên trời: Tuân hành thánh ý là nhiệm vụ của Đức Kitô ở trần gian (x. Mt 26,39) là lương thực của Đức Giêsu (x. Ga 4,34).
Bốn lời nguyện tiếp theo, con người trình bày với Cha về các nhu cầu và những sự cần thiết của mình trên đường tiến về quê cha: được nuôi dưỡng, xin được tha thứ - chữa lành tội lỗi và được thắng cuộc chiến đấu với Sự Dữ bằng Sự Lành và ân sủng đến từ Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Khi xin “cho chúng con” là chúng ta nói lên, trong tình hiệp thông huynh đệ của mình, lòng tin tưởng của con cái được phó thác nơi Cha trên trời.
Với tâm tình con thảo, “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm nhu tin tưởng” (Giáo lý Công giáo, số 2800). Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát, như Chúa Giêsu khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).
Tất cả thúc đẩy chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa là Cha hiển vinh như định luật tình thương mà Con Thiên Chúa đã mạc khải: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11).
Thiên Chúa là Cha chúng ta. Người biết rõ chúng ta cần gì và điều gì tốt hơn cho chúng ta. Vì thế, khi cầu nguyện không nên lải nhải nhiều lời. Chúa muốn lắng nghe những lời tâm tình đơn sơ chân thành của chúng ta, những quan tâm của ta đối với cuộc sống với anh em, chứ không phải là những nhu cầu cá nhân, ích kỷ. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu dạy chúng ta cách cầu nguyện đẹp ý Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta phải đặt mình trong tương quan Cha – con với Thiên Chúa: Cha muốn gì, con xin vâng theo.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình, bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì ”Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều hơn chúng ta khẩn xin (Mỗi ngày một tin vui).
Chúa Giêsu không muốn cho các môn đệ nói nhiều lời với Thiên Chúa. Cầu nguyện không phải là nói nhiều lời như con két. Nhưng trước hết, phải là hành động của con tim, của lòng yêu mến đối với Thiên Chúa Cha, là trao đổi tâm tình với Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Thánh Augustinô đã khuyên các tín hữu như sau: “Tất cả những gì chúng ta muốn cầu nguyện đều có sẵn trong kinh Lạy Cha. Và những gì không có trong kinh này, thì chúng ta không nên cầu xin”.
Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công giáo là tâm tình con thảo với Cha trên trời, là thể hiện niềm tin và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa.
Các nhà tu đức học thường coi cầu nguyện là câu chuyện thân mật giữa ta và Chúa với tâm tình con thảo. Vì thế, cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. Đã nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở thành độc thoại. Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiểu việc cầu nguyện với Chúa như thế nào. Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:
* Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo”.
* Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa”.
* Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.
* Khi thánh Phanxicô khó khăn trình lên Đức Thánh Cha Hônôriô II bản qui luật của Dòng, để xin Ngài phê chuẩn thì Đức Thánh Cha có hỏi thánh nhân: - Có bao giờ con thấy Chúa chưa?
Phanxicô: - Dạ thưa có. Con vừa thấy đêm hôm qua.
Đức Thánh Cha: - Người có nói gì với con không?
Phanxicô: - Người và con ở bên nhau suốt đêm mà không nói được gì. Tuy nhiên mỗi lần con nói “Abba” với Người thì Người lại trả lời với con: “Con Ta”. Cứ thế... chẳng có gì hơn cho tới sáng.
Truyện: Thế nào là cầu nguyện không ngừng
Tác phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:
Một người kia học Thánh kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện không ngừng. Ông không biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế, ông hành hương đến một tu viện và xin một tu sĩ chỉ dạy ông. Vị tu sĩ mời khách hành hương ở lại tu viện, trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi và đọc câu “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người này nghe lời làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao nhiêu lần câu đó, có đến cả trăm ngàn lần.
Một ngày kia vị tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt mướt khi đưa vị tu sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục cuộc hành hương, bởi vì vị tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vừa đi, ông vừa làm như thói quen vị tu sĩ đã dạy. Khi ông hít vào, ông đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”, khi thở ra, ông đọc tiếp “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã thành hơi thở của ông: dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng... Mỗi hơi thở, mỗi nhịp đập của trái tim ông đều trở thành cầu nguyện. Và người khách hành hương chợt hiểu: Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng (Chờ đợi Chúa).
1. Khi cầu nguyện không cần nhiều lời: lý do là Chúa Cha biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta nói ra.
2. Bảy điều cần phải xin: Kinh Lạy Cha.
Suy gẫm
Vì nghĩ rằng cầu nguyện là nói cho Chúa nghe, nên tôi không có gì để nói hay tôi không cảm thấy Chúa đang nghe thì tôi không cầu nguyện. Thực ra cầu nguyện trước hết là ở với Chúa, kết hợp tâm tình với Chúa. Khi cầu nguyện điều cần hơn là xin Chúa nói cho tôi biết Chúa cần gì nơi tôi.
2. Có hai hình thức cầu nguyện là cầu nguyện chung với những người khác và cầu nguyện riêng một mình với Chúa. Việc cầu nguyện riêng nuôi dưỡng việc cầu nguyện chung. Người nào ít cầu nguyện riêng thì việc cầu nguyện chung của họ chủ yếu là làm theo lệ, không có tâm tình bao nhiêu.
3. Tác phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:
Một người kia đọc Thánh Kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện không ngừng. Ông không biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế ông hành hương đến một tu viện và xin một Tu sĩ chỉ dạy cho ông. Vị Tu sĩ mời người khách hành hương ở lại tu viện, trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi và đọc câu “lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Người này nghe lời làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao nhiêu lần câu đó, có đến cả trăm ngàn lần.
Một ngày kia vị Tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt mướt khi đưa vị Tu sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục cuộc hành hương, bởi vì vị Tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông thế nào là cầu nguyện không ngừng. Vừa đi, ông làm theo thói quen như vị Tu sĩ đã dạy. Khi ông hít vào, ông đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa” khi ông thở ra, ông đọc tiếp “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã trở thành hơi thở của ông. Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng. Mỗi hơi thở, mỗi nhịp đập của trái tim ông đều trở thành lời cầu nguyện. Và người khách hành hương chợt hiểu: “Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng.”
4. ”Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có lỗi với chúng con” (Mt 6, 12).
Sao Vân không nhìn nó? nhiều lần Ly thấy nó nhìn Vân có vẻ muốn nói chuyện lắm.
Kệ nó, Vân biết nhưng Vân không muốn! Nó đã xúc phạm Vân. Vân chỉ nói chuyện khi nào nó xin lỗi.
Vân cố chấp và ích kỷ quá! Vân nên…
Ly định nói gì nữa nhưng tôi đã quay mặt bỏ đi, mặc cho Ly đứng một mình giữa sân trường.
Chiều, đi lễ. Bước vào nhà thờ, tôi cúi mình chào Chúa rồi sốt sắng đọc kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời... như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”
Tôi dừng lại và không thể đọc được nữa. Ánh mắt biết lỗi của và câu nói của Ly cứ hiện lên trong đầu tôi như bắt tôi nhìn lại mình.
Lạy Chúa, khi bị treo trên Thập Giá, Chúa đã biện hộ cho tội chúng con: “Xin Cha tha tội cho chúng vì chúng chẳng biết.” Xin Chúa cho con lòng quảng đại để luôn biết tha thứ cho nhau.
1. Trong số các việc đạo đức, người Do Thái rất coi trọng 3 việc này: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Nhiều người làm việc đó chỉ nhằm mục đích để được tiếng là đạo đức, cho nên họ làm cho người ta thấy mà khen họ. Chúa Giêsu gọi đó là giả hình.
Ngài dạy các môn đệ khi làm việc đạo đức, chỉ nên nhắm vào việc làm vui lòng Cha trên trời mà thôi, cho nên hãy làm cách kín đáo.
Người ta kể một câu chuyện vui như sau:
Anh Guton Boris có thói quen ghi lại tất cả những việc làm tốt của mình vào sổ tay, đến ngày kết thúc cuộc đời ở trần gian, anh xuất hiện trước toà Chúa và trình lên Ngài một cuốn sổ tay dày cộm, trong đó anh ghi được tổng cộng tất cả là 50.000 việc làm tốt. Chúa Giêsu nhìn và tỏ vẻ rất nghiêm trang nhưng Ngài không phản ứng gì. Đoạn Ngài từ từ mở sổ riêng của Ngài ra nhìn vào đó hồi lâu rồi nói với anh.
- Con nói là đã làm được 50.000 việc tốt nhưng theo sổ riêng của Ta thì chỉ có một việc duy nhất mà thôi, vì thế con chưa được ở lại đây với Ta mà phải trở lại trần gian để được thanh luyện thêm rồi mới trở lại đây để ta xét.
Anh Guton Boris vội vã thanh minh.
- Thưa Chúa, con đâu ghi láo, mỗi lần làm xong việc tốt là con ghi ngay vào sổ. Quả thật tất cả là con đã làm 50 ngàn việc lành trong suốt đời sống con ở trần gian. Tại sao Chúa lại chỉ nhận có một việc, còn 49.999 việc kia thì sao.
Bấy giờ, Chúa Giêsu chậm rãi giải thích:
- Này con, con đã làm 50 ngàn việc tốt nhưng với ý khoe khoang chứ không phải vì ý ngay lành hay vì tình yêu đối với Ta. Chỉ có một lần duy nhất con làm vì ý ngay lành mà thôi, đó là lúc con mới được rước Ta vào lòng lần đầu tiên. Ý ngay lành rất quan trọng vì nếu không có nó, những việc tốt con làm không có giá trị gì đối với Ta cả. Con đã muốn khoe khoang, muốn được mọi người khen ngợi, vì thế 49.999 việc tốt kia là những việc khoe khoang vô ích mà thôi.
Vâng, con người có thể che mắt được thiên hạ chứ làm sao giấu được Chúa.
2. “Cha của anh Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho anh” (Mt 6,6b).
Trong một bài tạp bút của báo Tuổi trẻ số ra chủ nhật đầu tháng 10/1998, tác giả Uông Thế Biển có ghi lại một kinh nghiệm như sau:
Chuyện xảy ra cách đây đã hơn mười năm. Ngày ấy, tôi làm lục lâm vượt sông Nghệ An đi buôn bè gỗ đường dài. Lần đầu và lần sau, người đưa đường cho tôi là Văn Suối, người dân tộc. Trong cuộc luồn rừng với tôi, Suối là cuốn tự điển sống về rừng. Anh thuộc tên từng loại côn trùng, thảo mộc, và với anh, rừng là cuộc sống, là máu thịt của anh.
Trời ngả sang chiều, chúng tôi dừng chân trong căn lều từ lâu đã bị bỏ hoang. Căn lều đã siêu vẹo, lưng lửng trên bếp có một ống đứa đựng muối còn sạch sẽ, trong đó vẫn còn một dúm muối khô như ai đó vừa bốc bỏ vào. Tôi và Suối mở cơm nắm ra ăn. Vì mệt, nên chúng tôi chỉ ăn hết phần nửa mo cơm. Theo thói quen, tôi định hất phần cơm còn lại đi nhưng Suối giằng lấy. Tôi nhìn anh gói ghém lại phần cơm và trèo lên bên dưới mái lều, anh không quên bốc một nắm muối mang theo cho vào ống đứa, và bỏ lại bên hòn đá năm bảy que diêm.
Thấy tôi ngạc nhiên, Văn Suối giải thích “Lần đầu tiên đi rừng, cậu không hiểu là phải. Đây là tập quán của những người quanh năm sống gắn bó với rừng: nắm cơm thừa, vài ba hạt muối, đôi lúc đã cứu được cả mạng sống người đi lạc đường, một viên ký ninh cắt tạm cơn sốt, một que diêm có thể đốt lên ngọn lửa sưởi ấm một người lạc trong rừng đang bị cô đơn và sợ hãi đe dọa. Những túp lều hoang trơ trọi giữa rừng núi trùng điệp này là nơi trú chân cho những người lỡ đường giữa mênh mông đại ngàn. Là người đi rừng, ai cũng có thể lâm vào hoàn cảnh như thế”.
Bao năm đã qua, tôi vẫn không quên được lời của Văn Suối, người bạn chỉ chung một chuyến đi, và ấn tượng về mục đích đẹp dành cho những người bạn rừng vẫn mãi theo tôi...
Nét đẹp của người bạn rừng trên đây hẳn phải là sự quan tâm đến người khác. Cử chỉ anh còn đẹp hơn nữa vì được thực thi trong một nơi ẩn khuất, không chờ đợi một đáp trả nào. Cử chỉ ấy gợi lại tinh thần vô vị lợi mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các Kitô hữu:
Lạy Chúa, trong mọi sự, xin cho chúng con biết làm sáng lên hình ảnh của Chúa bằng lòng quảng đại và hy sinh vô vị lợi của chúng con.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của lợi danh, nhưng dạy chúng con biết phục vụ trong khiêm hạ và yêu thương. (Hosanna).
Lời kinh mà Chúa dạy chúng ta cầu nguyện trong bài Tin Mừng hôm nay được gọi là lời kinh “Lạy Cha“.
Từ “Lạy Cha“ được đọc trên môi miệng của chúng ta hàng giây, hàng phút, hàng giờ, hàng ngày trong cuộc sống dương gian này đã thể hiện chúng ta là một thụ tạo tội lỗi, bất toàn, hôi tanh, tro bụi, bất xứng mà sao dám gọi Thiên Chúa là Cha của mình “Lạy Cha chúng con ở trên trời“. Bởi Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng, thánh thiên vô cùng, nên Thiên Chúa đâu có những người con đầy tội lỗi, dơ nhớp là chúng ta đây. Đàng khác, chúng ta đã bị Chúa đuổi đi cho khuất mắt Chúa vì tội lỗi chúng ta đã phạm rồi kia mà. Vì thế, phải chăng đây là một sự cả gan, dám liều lĩnh của chúng ta hay không?
Nếu không có Chúa dạy chúng ta cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha, thì chắc chắn Chúa Cha sẽ không nhậm lời kêu xin của chúng ta, đôi khi Chúa Cha còn đoán phạt chúng ta vì thụ tạo cát bụi tro mà dám kêu Đấng tạo thành là Cha của mình. Chúa Cha đâu cho phép chúng ta như thế. Nhưng Chúa là Người Con Một yêu dấu của Chúa Cha vì yêu thương chúng ta, bênh đỡ chúng ta, Chúa không nỡ để cho chúng ta không biết cách cầu nguyện, không biết cách thờ phượng, tôn vinh, làm sáng danh Chúa Cha, không biết cách xin ơn để nhờ đó sống như Chúa đã sống là làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng, vì vậy, Chúa đã dạy chúng ta kinh Lạy Cha này.
Lời kinh trong kinh Lạy Cha chất chứa bao nhiêu là tâm tư của Chúa, ước muốn của Chúa, vốn sống của Chúa, kinh nghiệm của Chúa, mà không gì ở trần gian này sánh ví được. Chính Chúa đã dâng lên Chúa Cha lời kinh này hằng ngày trong những lúc Chúa cầu nguyện với Chúa Cha. Chúa cầu nguyện với Chúa Cha mọi nơi mọi lúc: Sáng sớm khi trời còn tối, vạn vật còn đang chìm trong giấc ngủ, Chúa đã thức dậy đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện; trước và sau khi Chúa rao giảng Tin Mừng, làm các phép lạ, Chúa đều cầu nguyện; chiều tối khi màn đêm buông xuống trước khi đi ngủ, Chúa cũng cầu nguyện nữa. Chính vì Chúa quá đẹp lòng Chúa Cha như vậy cho nên Chúa Cha đã nhậm lời Chúa, Chúa Cha chúc lành và ban muôn ơn cho Chúa để Chúa chu toàn trọn vẹn thánh ý của Chúa Cha trao phó là chịu chết trên thập giá để cứu chúng ta. Bây giờ Chúa truyền điều tốt lành này, ơn lộc này cho chúng ta để chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha bằng kinh Lạy Cha, để rồi Chúa Cha sẽ thương chúng ta giống như Chúa mà ban muôn ơn cho chúng ta. Do đó, nhờ Chúa mà chúng ta mới dám kêu cầu Chúa Cha là Cha của tất cả chúng ta.
Qua việc chúng ta kêu cầu Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Chúa đã dạy cho chúng ta biết tất cả chúng ta là con cái của Chúa Cha, được ở trong nhà của Chúa Cha, nên chúng ta là anh chị em với nhau, có Chúa là anh cả. Vì thế chúng ta phải sống yêu thương nhau, tha thứ cho nhau, và chúng ta muốn Chúa Cha thương ban ơn cho mình như thế nào thì chúng ta cũng xin Chúa Cha ban muôn ơn cho anh chị em chúng ta như vậy.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống xứng danh là con cái của Chúa, xin cho chúng con biết thờ phượng Chúa cho phải đạo làm con, biết ca tụng Chúa, biết loan truyền Chúa khắp hoàn cầu, biết làm cho mọi người thấy được vinh hiển Chúa để tất cả được trở thành con cái của Chúa như chúng con. Amen.
Kho tàng trên trời. 21/06 – Thứ Sáu tuần 11 thường niên. – Thánh Lu-y Gôndaga, tu sĩ. Lễ nhớ. "Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".
* Sinh năm 1568, gần Man-tu-a miền Lom-bác-đi-a, trong một gia đình Cát-ti-di-ô-nê quyền quý, hấp thụ lòng đạo đức của thân mẫu. Lu-y sớm có khuynh hướng sống đời tu. Sau khi trao lại cho anh (em) phần đất người được tổ tiên giao cho để cai quản, người gia nhập dòng Chúa Giêsu. Trong khi phục vụ bệnh nhân đang kỳ dịch, thánh nhân bị lây và qua đời lúc mới 23 tuổi (năm 1591)
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"
Cuộc sống con người ở đời thật mong manh và bấp bênh. Vì thế con người muốn tìm cho mình một cái gì chắc chắn. Của cải vật chất hứa hẹn cho con người một chỗ dựa an toàn. Càng có nhiều của cải thì càng vững: nhiều người đã thành thật tin như vậy nên đã suốt đời lo tích trữ một kho tàng trên trần gian. Thầy Giêsu không tin như thế. Đối với Thầy, kho tàng dưới đất cũng mong manh và bấp bênh. Thời xưa mối mọt là kẻ thù đáng sợ của nhiều thứ tài sản (G 4, 19). Nhà cửa, đồ đạc đều có thể làm mồi cho chúng. Thật ra vật chất tự nó đã mang mầm mống hư hoại rồi. Hơn nữa, sự đe dọa không chỉ đến từ bên trong. Kẻ trộm là nguy hiểm có thực đối với những căn nhà thời ấy. Hắn có thể đào ngạch, khoét vách làm bằng bùn, để lấy đi những của cải thường được chôn dấu dưới đất (c. 19). Kho tàng dưới đất quả là không bền. Thầy Giêsu đề nghị chúng ta tích trữ một cách khôn ngoan hơn, tích trữ một kho tàng gì đó mà mối mọt không đục khoét được và kẻ trộm không sao ăn cắp được. Đó là thứ kho tàng trên trời được tích trữ qua bao việc lành, những việc ta làm theo ý Thiên Chúa. Có một sự khác biệt lớn giữa kho tàng trên trời và kho tàng dưới đất. Tích trữ kho tàng dưới đất khiến ta cậy dựa vào của cải đời này. Tích trữ kho tàng trên trời đòi ta hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa. Kho tàng ở đâu thì tim anh ở đó (c. 21). Kho tàng trên trời sẽ nâng tim anh lên trời cao. Kho tàng dưới đất sẽ kéo tim anh xuống đất thấp. Trái tim là nơi sâu thẳm của tâm linh con người. Chính vì thế thi thoảng cần kiểm tra xem tim mình đang ở đâu, kho tàng nào đang khiến mình gắn bó. Chúng ta phải ngừng theo đuổi những kho tàng mau qua để gắn bó với những giá trị thực sự bền vững. Con người thời nay cũng phải sống trong sự bấp bênh triền miên. Càng tiến bộ kỹ thuật lại càng có nhiều bất ổn, bất trắc, nên đời sống vẫn không vì thế mà được thư thái bình an. Nhiều người đã cảm được sự phù du của vật chất và tiếng tăm. Tiền bạc và quyền lực như nước trôi qua kẽ tay, chẳng ai nắm được. Thầy Giêsu mời chúng ta đổi mới cái nhìn. Đừng nhìn bằng mắt xấu, nghĩa là bằng cặp mắt thèm muốn, tham lam. Hãy nhìn bằng mắt tốt, nghĩa là bằng cặp mắt siêu thoát, quảng đại. Cái nhìn bằng mắt tốt sẽ đem lại ánh sáng cho toàn thân (c. 22). Cái nhìn bằng mắt xấu sẽ gây ra bóng tối kinh khủng (c. 23). Con mắt là ngọn đèn cho thân thể. Ước gì con mắt tôi biết thấy Chúa là kho tàng đích thực của mình. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen. ---------------------------------
Tích trữ thường đi với đầu cơ. Thu thập của cải, hàng hóa, hoặc tiền bạc để dành chờ khi cần đem ra dùng hoặc bán lại với giá thật cao, thu được nhiều lợi. Có nhiều món hàng hôm nay chẳng có giá trị gì nhưng mai sau giá cao khôn lường. Tùy tầm nhìn, tùy chuyên môn, tùy thời hạn, có người tích trữ nhà đất, có người tích trữ vàng bạc, có người tích trữ thóc lúa, có người tích trữ tranh ảnh, có người đầu tư vào con người như bà Giơ-hô-se-va đã bồng Gio-át vào trốn trong Đền Thờ, thoát lưỡi gươm của A-than-gia. Sáu năm sau ông trở thành vua cai trị Í-ra-en (năm chẵn).
Chúa Giêsu khuyên ta hãy khôn ngoan tích trữ kho tàng sao cho không bao giờ hư hao hay bị mất mát. Đó là kho tàng ở trên trời. Kho tàng trên trời khác hẳn kho tàng dưới đất. Giữa hai kho tàng, ta phải khôn ngoan lựa chọn. Lựa chọn này không phải dễ dàng vì kho tàng dưới đất là thứ khả giác, dễ thấy còn kho tàng trên trời vô hình khó thấy. Kho tàng dưới đất tiện dụng ngay tức khắc, kho tàng trên trời chỉ dùng được ở đời sau. Kho tàng dưới đất đem lại tiện nghi hưởng thụ cho hiện tại. Kho tàng trên trời phải chấp nhận thiệt thòi trong hiện tại để được hưởng thụ trong tương lai.
Thánh Phaolo đã khôn ngoan khi từ bỏ kho tàng dưới đất để tích trữ kho tàng trên trời khi từ bỏ những ưu thế, phẩm giá, quyền lợi của ngài trong thế giới Do thái để chấp nhận bị đánh đòn, bị ném đá, bị đắm tàu, bị nguy hiểm, chịu đói khát, rét mướt trần truồng vì Chúa và vì Tin Mừng. Đó là ngài tích trữ kho tàng ở trên trời. Ngoài ra ngài còn chăm lo cho Hội Thánh là di sản Chúa Giê-su để lại: “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (năm lẻ).
Lựa chọn lý tưởng là nền tảng cho cuộc sống. Sáng suốt sẽ chọn được lý tưởng tốt và sẽ đạt tới hạnh phúc. Người khôn ngoan trong Chúa có cặp mắt sáng là người có lựa chọn đúng. Nếu chọn sai là mắt có vấn đề, nhìn không thấy mà chọn lựa bóng tối sẽ đi trong bóng tối. Đã lựa chọn nền tảng sai thì cả cuộc đời chìm trong bóng tối.
Xin cho con khôn ngoan, có đôi mắt sáng để biết chọn lựa, chấp nhận những đau khổ thiệt thòi ở đời này, đó chính là tích trữ kho tàng trên trời, để sau này được hưởng hạnh phúc đích thực trong Nhà Cha, nơi hạnh phúc vững bền mãi mãi.
Trong điện Vatican, có treo một bức họa nổi tiếng của Rafaelo mang tên là "trường phái Athène", mô tả dung mạo và sứ điệp của hai triết gia Hy Lạp là Aristote và Platon. Danh họa Rafaelo mô tả Aristote đứng vững trên mặt đất, một tay cầm cuốn sách luân lý, một tay chỉ xuống mặt đất; còn Platon thì được vẽ hai chân chỉ chạm nhẹ mặt đất, một tay cầm cuốn sách, một tay chỉ về trời cao. Trong hai tư thế khác nhau này, Rafaelo muốn nói lên khía cạnh nổi bật của thiên tài Hy Lạp, đồng thời là hai chiều kích căn bản của ơn gọi làm người, đó là chinh phục mặt đất, đồng thời vượt qua vật chất, vượt khỏi tầm mức những gì thấy được; vừa dấn thân trong lãnh vực trần thế, vừa biết hướng về trời cao và những giá trị đời đời.
Tin mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay cũng mời gọi chúng ta đang sống trong ơn gọi trên trần gian, nhưng hãy biết hướng về trời cao, nơi tích chứa của cải đích thực. Tin Mừng nhắc đến hai tư tưởng: một mời gọi con người hướng về trời, một mời nói lên vai trò của mắt, không phải mắt thân xác, nhưng là mắt tinh thần, mắt đức tin hướng dẫn cuộc sống con người. Suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể nhận ra được liên hệ giữa hai tư tưởng này. Sự tăm tối tinh thần là điều đáng sợ hơn cả, vì không nhận thấy đâu là điều phúc thật của con người. Do mù quáng tinh thần và chỉ nhận của cải, danh vọng, quyền bính là phúc thật, con người sẽ tìm cách có được những thứ ấy càng nhiều càng tốt. "Kho tàmg của con ở đâu, thì lòng con ở đó". Ðó là định luật tâm lý tự nhiên của con người. Nếu tôi chỉ nhìn thấy lý tưởng của mình trong việc thu tích của cải, danh vọng, quyền thế, thì làm sao tôi có thể hướng nhìn trời cao và số phận đời đời của con người.
Xin Chúa thanh tẩy và soi sáng con mắt tinh thần chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra đâu là điều thiện hảo và qui hướng về đó mà tiến tới.
“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt. 6, 19-20)
Mới chịu tin có một nửa
Trong cuộc sống có nhiều chuyện làm ta phải vất vả và tiêu tốn, dầu biết rằng nó chẳng bao giờ đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho ta. Người ta gọi những cái đó là tiền bạc, tiện nghi, thú vui, địa vị, thăng thưởng… Những cái đó không có gì là xấu cả, nếu ta biết xử dụng tốt. Những thứ đó có thể mang lại cho ta ít nhiều hạnh phúc và tọai nguyện. Chẳng ai lại khinh miệt những thứ đó. Ta đâu phải là những thiên thần. Và những của cải trần gian có đó không phải để làm cho con người thoái hóa, nhưng là giúp thăng tiến.
Tuy nhiên nếu chỉ bám víu vào của cải và coi đó như tiền cọc cho ta tìm hớn hở và sống an bình thì lầm đường rồi. Người ta đã nói nhiều và nói đi nói lại điều này rồi. Chúng ta chịu tin đấy, nhưng chưa trọn vẹn, vì nếu không hẳn chúng ta sẽ chú tâm hơn nữa để tìm kiếm những thực tại khác, còn quý hơn cả những của cải trần gian, vì nó có thể làm cho ta thành những con người hạnh phúc.
Những của cải quý giá hơn
Những thực tại kia tiềm ẩn ngay trong nội tâm ta, chứ không ở bên ngoài.Những thực tại ấy không nằm trong diện sở hữu, nhưng là thực thể thuộc về hiện hữu của ta. Nếu muốn gọi tên những thực thể đó, người ta sẽ gọi là tinh thần phục vụ, là sự hiến thân quên mình. Người ta cũng gọi nó là tình nghĩa bạn bè, là bình an nội tâm, là sự sống thiêng liêng. Đó là những kho báu đích thực mà Phúc âm nói đến. Kho tàng đó ở trong nội tâm ta và người ta không thể dùng tiền bạc mà mua sắm được.
Cái làm cho đời sống ta có phẩm chất, không phải là những của cải quý giá mà ta có, nhưng là phẩm chất của tâm hồn và ý hướng của ta. Đó chính là khả năng ta có, khả năng dám sống mạo hiểm một cách cao đẹp với những người ta yêu thương, và mạo hiểm một cách đặc biệt với Thiên Chúa Đấng yêu thương ta. Tiếc rằng chúng ta lo lắng quá nhiều đến cái là hời hợt và thứ yếu, còn cái là cơ bản và cốt lõi trong đời, thì lại không để tâm cho đủ.
Con người tôn giáo xây dựng bản ngã mình theo điều họ ao ước, điều họ hướng đến, tìm kiếm, nói cách khác, kho tàng của họ. Không thể tích trữ cùng một lúc hai kho tàng, một ở dưới đất và một ở trên trời. Phải chọn lựa. Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Phúc Âm không thể trung lập. Phúc Âm đòi hỏi dấn thân. Phúc Âm đòi hỏi con người không được chia sẻ giữa hai kho tàng nhưng phải dấn thân theo đuổi một trong hai mà thôi. Môn đệ Đức Kitô từ chối dấn thân con người mình, đời sống mình vào những của cải chóng tàn của một thế giới đi vào hư vô. Trái lại hãy dấn thân vào cái hơn là bất diệt nữa. “Trời” ở đây không phải là một sự vật, nhưng là một Con người. Môn đệ Đức Kitô phải dấn thân cho Đức Kitô, phó thác cho Đức Kitô, sống vì Đức Kitô, làm những công việc của Đức Kitô. Điều họ tìm kiếm là xây dựng bản ngã, số phận, hạnh phúc mình trong Đức Kitô. Cần phải nhớ Đức Kitô đã hiến tất cả công việc và mạng sống cho anh chị em mình. Chính nhờ một đường lối như thế mà người Kitô hữu tích trữ kho tàng trên trời.
Cũng như việc quyến luyến với một kho tàng nào liên kết số phận vào đó, cũng thế con mắt điều khiển các thái độ của thân thể: Chúng ta đang đứng trước một kiểu nói đặc biệt của Kinh Thánh.
Thân thể là con người cụ thể. Mắt đóng vai trò lôi kéo tất cả con người vào sự sống hay sự chết. Mắt và con người góp phần tích cực trong việc lựa chọn chúng muốn. Nếu mắt rộng mở, nghĩa là khi hiểu biết rõ ràng, con người quyết định bằng một lựa chọn tốt, lúc bấy giờ toàn con người ở trong ánh sáng. Đức Kitô mời gọi chúng ta hãy “ngước mắt” nhìn về những gì tốt lành, chân thật, công minh, tươi đẹp, nhưng chớ “ngước mắt” trên những gì có thể lôi cuốn chúng ta vào bóng tối sự gian dối và sự dữ. Đâu là những chọn lựa của chúng ta về sách báo, phim ảnh, bạn bè…?
Mắt tôi, tức là sự chú ý của tôi, có được định hướng nhờ một sự lựa chọn tình bạn cao cả nhất, tình bạn với Đức Kitô không?
Sống trên đời ai cũng phải làm lụng vật vả để kiếm kế sinh nhai. Đây là quy luật sinh tồn tất yếu của con người trong đời sống.
Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu cho các môn đệ thấy con người chúng ta có hai cuộc sống. Một là cuộc sống thể xác; hai là cuộc sống thần linh. Cuộc sống thể xác luôn gắn liền với quy luật: sinh, lão, bệnh, tử. Vì thế, cuộc sống này có giới hạn nhất định của nó. Tuy nhiên, trong niềm tin, con người còn có cuộc sống vĩnh cửu, nơi cuộc sống này, không có sinh, cũng chẳng có diệt, tức là cuộc sống thần linh.
Tuy nhiên, để có cuộc sống hạnh phúc trong cuộc sống thần linh thì lại phải kết tố từ chính cuộc sống trần gian này. Thế nên, những gì diễn ra trong cuộc sống vật chất thì đều có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực trong cuộc sống mai hậu.
Lời Chúa hôm nay cho thấy, Đức Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy lo tích trữ những của cải trên trời, nơi đó mối mọt không tài nào đục khoét được cũng như không ai lấy mất đi. Gia tài đó được tích trữ qua hành động yêu thương, sự sẻ chia bác ái vô vị lợi.
Cùng một sứ điệp, Đức Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy hướng về quê trời như là mục đích tối hậu của mình. Muốn được như thế, ngay giây phút này, chúng ta hãy tích trữ những việc lành phúc đức với lòng mến ngang qua những nghĩa cử bác ái, liên đới, cảm thông và yêu thương anh chị em đồng loại. Đây chính là kho tàng không thể mối mọt nào đục khoét được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trong khi lo tìm kiếm của cải vật chất phần xác, thì cũng biết tìm kiếm của cái trên trời. Xin cho chúng con làm mọi việc vì lòng mến Chúa và yêu người chân thành, để những việc ấy thật sự có giá trị cứu chuộc linh hồn chúng con. Amen.
Sứ điệp: Mục đích đời người là trở về với Thiên Chúa, Đấng sáng tạo nên con người. Ai không ái mộ những sự trên trời, người đó sống dang dở đời mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong Giáo Hội đã có bao kinh nghiệm của các thánh nhân dạy con rằng: chỉ có Chúa mới là cùng đích đời con. Thánh Âu-tinh sau 33 năm lặn lội với đời đã đạt được nhiều thành công ở đời, cuối cùng ngài đã nói: “Lòng tôi còn khắc khoải mãi cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Chính bản thân con cũng đã hơn một lần cảm nghiệm rằng: dù có thành đạt trong công việc làm ăn mà không giữ trọn vẹn luật công bằng thì lòng con vẫn bất an; dù bề ngoài có hả hê khi thắng thế đối phương, thì lương tâm con vẫn bị cắn rứt nếu con không sống trọn đạo bác ái với nhau…
Lạy Chúa, Chúa dạy con tìm kiếm kho tàng trên trời. Chính Chúa đã in trong lòng con khát vọng về Chúa. Lòng con chỉ được bình an khi sống trên đời mà tâm trí biết ái mộ những sự trên trời. Đời này chỉ là phương tiện, đời sau mới là cứu cánh. Trần gian là đường đi, và quê trời mới là đích đến, nơi đó có Chúa là Cha đang đón đợi con. Xin Chúa thêm ơn để con đừng mải mê đi tìm kho tàng dưới đất mà quên hướng về Chúa.
Xin dạy con chăm chỉ làm việc và đừng để công việc cản lối con về với Chúa. Xin cho con khi vui hưởng những thiện hảo trên đời, con đừng quên Chúa. Và khi con vui, con cũng vui sao để Chúa cùng vui được với con, để niềm vui được nối dài tới vĩnh cửu. Amen.
Ghi nhớ: “Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó”.
1. Tiền bạc, danh lợi, chức quyền... tất cả chỉ là tạm thời. Cuộc sống ở trần gian không có gì vững bền: vui qua, sầu tới; hợp rồi tan, biến chuyển rồi lại biến chuyển. Nếu khôn ngoan, hãy tích trữ cho mình kho báu vĩnh cửu bằng tình yêu chân thành, sẵn sàng chia sẻ cho anh em những gì có thể. Đây là kho tàng không những bền lâu mà còn bảo đảm cho chúng ta cuộc sống vĩnh viễn trên trời.
2. Lời Chúa hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy lo tích trữ những của cải trên trời, nơi đó mối mọt không tài nào đục khoét được cũng như không ai lấy mất đi. Gia tài đó được tích trữ qua hành động yêu thương, sự chia sẻ bác ái vô vị lợi. Cùng một sứ điệp, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy hướng về Quê trời như là mục đích tối hậu của mình. Muốn được như thế, ngay giây phút này, chúng ta hãy tích trữ những việc lành phúc đức với lòng mến ngang qua những cử chỉ bác ái, liên đới, cảm thông và yêu thương anh chị em đồng loại. Đây chính là kho tàng không thể mối mọt nào đục khoét được.
3. Cả Tây phương lẫn Đông phương có chung một quan niệm: “bao tử đi trước, đầu óc theo sau” hoặc “Có thực mới vực được đạo”. Bởi thế “tích cốc phòng cơ” – để dành của cải khi thiếu hụt – vẫn được xem là thái độ khôn ngoan. Sự thiếu hụt không những làm cho con người bị khổ cực... bị xem thường, mà đôi khi còn dẫn con người vào đường tội lỗi.
Chúa Giêsu không kết án thái độ cất dành của cải, nhưng chỉ lưu ý con người biết đâu là của cải đích thực, đâu là kho lẫm thật để con người ký gửi của cải: “Các ngươi chớ tích trữ cho mình kho tàng dưới đất, nơi mối mọt nhấm nát được, nơi trộm cắp đào khoét mất được. Nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời, nơi mối mọt không nhấm nát, nơi trộm cắp không đào khoét phòng mất được” (Mỗi ngày một tin vui).
4. Chính vì thế mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cần đầu tư vào một kho tàng mang tính vĩnh viễn hơn là những thứ vật chất mau qua. Đó là kho tàng trên trời, nơi không thể bị mối mọt hay sẻ trộm chiếm đoạt. Kho tàng trên trời không phải là những gì chúng ta tích trữ cho riêng mình, nhưng là những gì chúng ta biết trao ban cho Chúa và tha nhân. Những gì chúng ta mua sắm sẽ để lại cho người khác, và những gì chúng ta cho đi sẽ theo chúng ta đến trước tòa phán xét để biện hộ cho chúng ta. Kho tàng trên trời là các việc lành chúng ta làm khi còn ở trần gian, như săn sóc người nghèo, an ủi người đau khổ, cho kẻ đói ăn...
5. “Đèn của thân thể là con mắt”. Mắt còn tượng trưng cho con người. Con mắt sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Người có con mắt lương tâm sáng là người hào hiệp, và kẻ có con mắt lương tâm tối tức là kẻ sống hẹp hòi. Ai có lương tâm lành mạnh thì cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại ai mà có lương tâm hắc ám thì cả cuộc sống đời người đó tối đen, lương tâm lệch lạc sẽ làm cho con người lạc lối và thu mình lại chỉ còn biết có mình.
6. Chúa Giêsu còn nhắc nhở ta rằng nếu lòng chúng ta hướng về kho tàng trên trời, thì đôi mắt ta sẽ rạng sáng; trái lại, nếu lòng chúng ta quá chú tâm đến kho tàng dưới đất, đôi mắt ta sẽ ra tối tăm, mù quáng. Kho tàng trên trời trước hết là Thánh Danh Chúa, Nước Trời, là những giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Kho tàng ấy còn là những ưu tư, quan tâm hướng về các việc lành phúc đức, những thiện ích cho tha nhân và bản thân. Kho tàng dưới đất là những tham lam, thèm muốn, chiếm đoạt, hưởng thụ bằng mọi giá, làm giầu bằng mọi cách. Nếu lòng ta hướng về loại kho tàng này, toàn bộ hướng đi cuộc đời sẽ rơi vào tăm tối lầm lạc. “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” là bằng chứng xác thực nói lên ý hướng sống, quyết định thành bại của ta ngay từ khởi đầu. Ánh sáng của ta được tỏa chiếu qua lòng tin vào các giá trị siêu nhiên qua phương thế dấn thân vì mục đích cao cả của Nước Thiên Chúa (5 phút Lời Chúa).
7. Truyện: Món quà Giáng sinh.
Đức cha Bossuet cho làm một hang đá trong nhà nguyện của tu viện. Chiều hôm Noel, ngài trả lương cho các người thợ. Rồi ngài nói với họ:
- Chờ một tí, tôi sẽ cho các anh quà “Giáng sinh”.
Nói xong, ngài mở khăn trải bàn. Người ta thấy trên bàn, nằm kề nhau, 4 đồng tiền vàng và 4 cuốn sách “Hạnh các thánh”. Đức cha Bossuet nói với các người thợ là họ có thể chọn, hoặc một đồng tiền, hoặc một cuốn sách. Ba người đã chọn 3 đồng tiền vàng, còn người thứ tư tuyên bố:
- Ở nhà, mẹ già của tôi cũng rất cần tiền, nhưng bà cũng thích những cuốn sách tốt. Tôi lấy cuốn “Hạnh các thánh”.
Tuy nhiên, khi ông này vừa mở cuốn sách ấy ra thì ông tìm thấy 6 đồng tiền vàng dán sát bìa cuốn sách. Hãy tưởng tượng niềm vui của ông và nỗi hối tiếc ân hận của ba người kia như thế nào. Ông này đã không hối hận về sự lựa chọn của mình.
Vâng! Chỉ có những con mắt thật sáng mới nhìn thấy những giá trị thực sự cần thiết mình phải theo đuổi ở đời này.
Hai cụm từ quan trọng trong đoạn Tin Mừng này là “Kho Tàng” và “Con mắt.”
1. Kho tàng tượng trưng cho những giá trị mình coi trọng. Chúa dạy đừng tích trữ kho tàng dưới đất chứa những của cải vật chất và nó không bền: han sét, mối mọt, trộm cắp. Nhưng hãy tích trữ kho tàng trên trời: những việc lành vì rất bền vững an toàn không bao giờ hư mất.
2. Con mắt sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Ai có lương tâm lành mạnh thì toàn thể cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại ai mà lương tâm hắc ám thì cả cuộc sống đời người đó tối đen.
Suy gẫm
1. Nếu kho tàng tượng trưng cho những thứ mà người ta coi trọng, thì hiện nay kho tàng của tôi là gì?
Chúa nói tất cả mọi kho tàng dưới đất đều không an toàn. Tôi nghĩ xem kho tàng của tôi có thực sự an toàn không?
2. ”Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đó”: một trắc nghiệm nữa để giúp tôi biết kho tàng của tôi ở đâu, đó là nhớ xem những khi cầu nguyện lo ra, những khi vừa bừng mắt thức dậy, và những lúc ngồi suy nghĩ vẩn vơ, tôi hay thường nghĩ tới gì? nhớ tới ai?
3. ”Con mắt là đèn soi.” Câu này cũng khuyến cáo tôi hãy cẩn thận về những điều tôi nhìn xem và những cách tôi nhìn xem.
Những điều tôi nhìn xem: Tốt hay xấu? Có lợi hay tai hại? Muốn biết hãy nhớ một số cảnh tượng mà tôi đã xem sau đó để lại trong lòng tôi những dư âm gì?
Những cách tôi nhìn xem: tôi nhìn người nghèo hèn thế nào? Tôi có thấy Chúa trong những thứ tôi nhìn không?
4. ”Đèn của thân thể là con mắt” (Mt 6, 22)
Em thì quờ quạng trước chiếc gậy trên tay, em thì bám vào vai bạn và hai tay lấn bước. Nơi lớp học, các em dùng bàn tay nhỏ bé của mình để đọc từng chữ.
Tôi chạnh lòng khi nhìn thấy cảnh tượng này ở một trường khiếm thị. Bất chợt ánh mắt tôi dừng lại ở một em đeo Thánh Giá trước ngực. Tiến lại gần, tôi làm quen với em và được biết trước khi vào trường này, mẹ em đã đưa cây Thánh Giá cho em và bảo: “ Đèn của thân thể con người là mắt, còn đây chính là đèn của tâm hồn con.”
Tôi hỏi em: “Em có vui không?” Thật hạnh phúc.” Em đáp: “Có chứ anh, em đã mất con mắt của thân thể, nhưng thật sự con mắt của tâm hồn em vẫn sáng.”
Nghe lời xác quyết ấy, tôi giật mình tự nghĩ: “Con mắt tâm hồn có bị tắt không nhỉ?”
Lạy Chúa, xin thắp sáng lên trong tâm hồn con ngọn lửa hồng tình yêu Chúa.
1. Hai cụm từ quan trọng trong đoạn Tin Mừng hôm nay này là “Kho Tàng” và “Con mắt”.
Kho tàng tượng trưng cho những giá trị mình coi trọng. Chúa dạy đừng tích trữ kho tàng dưới đất nhưng hãy tích trữ kho tàng trên trời (tức là những việc lành) vì chúng rất bền vững an toàn không bao giờ hư mất.
Con mắt sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Ai có lương tâm lành mạnh thì toàn thể cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại, ai mà lương tâm hắc ám thì cả cuộc sống đời người đó tối đen.
Vâng! Tất cả mọi kho tàng ở dưới đất đều không an toàn.
Công chúa Diana mang một chiếc nhẫn kim cương trị giá 205 ngàn Mỹ kim, tương đương với tiền Việt Nam là 3 tỷ 71 triệu đồng; và đám cưới của cô với hoàng tử Charles nước Anh tốn hết 3 triệu 500 ngàn Mỹ kim, tương đương với 52 tỷ 500 triệu đồng Việt Nam, với 2700 khách danh dự. Vậy mà tổ ấm đắt giá đó đã tan vỡ sau 15 năm tình lận đận. Bị tử nạn xe và được chôn cất, công chúa Diana không mang theo nhẫn kim cương cũng không mang được một Mỹ kim nào. Trong hòm cô hôm đó, chỉ có xâu chuỗi của mẹ Têrêsa thành Calcutta đã tặng cô mà thôi.
Khi chết, vua chúa hay anh ăn mày cũng đều như nhau cả. Nhà phú hộ trong Tin Mừng chỉ hưởng được mấy chục năm sung sướng, nhưng anh ăn mày Lazarô lại được sung sướng đời đời: không biết ai khôn hơn ai?
2. “Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đó” (Mt 6,21).
Một trắc nghiệm giúp tôi biết kho tàng của tôi ở đâu, đó là nhớ xem những khi cầu nguyện lo ra, những khi vừa bừng mắt thức dậy và những lúc ngồi suy nghĩ vẩn vơ, tôi thường hay nghĩ tới gì? Nhớ tới ai?
Ngày kia, có một người gặp một vị tu hành đi qua làng, người này vội chạy theo và nài xin vị tu hành:
- Xin ngài cho tôi viên ngọc quí trong bị của ngài.
Vị tu hành ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại hỏi xin tôi viên ngọc quí?
Người kia liền thưa:
- Tối hôm qua tôi nằm mơ thấy có một ông tiên bảo tôi là, sẽ có một vị tu hành, mang theo một viên ngọc quí đi ngang qua làng anh, nếu xin được viên ngọc quí ấy, thì anh sẽ là người sung sướng nhất trên đời này. Ngài là người tu hành, nên đâu có cần đến những thứ phàm tục này. Vậy xin ngài thương tôi và gia đình tôi, cho tôi viên ngọc quí của ngài để tôi nuôi sống vợ con tôi.
Vị tu hành đáp:
- Quả thực tôi không có viên ngọc nào cả.
Và để cho người kia tin, vị tu hành đưa bị của ông ra cho người kia xem. Mở bị ra, người kia sáng mắt lên rồi hô to:
- Đây thôi, viên ngọc quí khổng lồ như thế này mà ngài nói là không có.
Vị tu hành ngạc nhiên nói:
- Đó là cục đá mà ông nói là viên ngọc ư? Cục đá này tôi lượm được khi xuống suối uống nước. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông.
Người kia sung sướng cầm viên ngọc trong tay, cám ơn vị tu hành rối rít, rồi chạy về nhà, trong lòng thầm nghĩ, thế là từ nay mình sẽ không còn vất vả cầy sâu cuốc bẫm nữa, mà nghiễm nhiên trở thành nhà phú hộ. Ý tưởng mình sẽ được giàu sang phú quí nhờ viên ngọc, đã khiến cho người kia không biết cất giữ viên ngọc ở đâu, vì để ở chỗ nào ông ta cũng sợ bị mất. Do đó, chỉ còn cách là giữ nó trong mình. Nhưng giữ nó trong mình thì chẳng còn làm được việc gì, kể cả việc ngủ nghỉ nữa, vì ngủ thì cũng sợ người khác lấy mất.
Sau nhiều ngày đêm lo lắng, thậm chí có đêm phải thức trắng để giữ viên ngọc, người kia cảm thấy có ngọc cũng chẳng sung sướng gì, nên ông cầm viên ngọc đi tìm vị tu hành để trả lại. Người này gặp vị tu hành đang nằm ngủ thật ngon lành dưới một gốc cây. Rón rén đến bên cạnh vị tu hành, người kia lên tiếng:
- Thưa ngài, tôi xin trả lại ngài viên ngọc mà ngài đã cho tôi mấy hôm trước, vì tôi thấy có nó, tôi cũng chẳng sung sướng gì, mà còn khổ nữa là khác nữa. Xin ngài cho tôi viên ngọc mà ngài đang dùng, viên ngọc đã làm cho ngài được thảnh thơi, ngủ rất ngon lành, dù chỉ là ở dưới một gốc cây, viên ngọc đã làm cho ngài được siêu thoát, sự siêu thoát đã khiến cho ngài sẵn sàng cho tôi viên ngọc quí kia, mà không một chút tiếc xót.
Mẩu chuyện trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào lời căn dặn của Chúa Giêsu: “Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất... nhưng các con hãy tích trữ cho mình một kho tàng ở trên trời” (Mt 6,19-20).
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn. Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời. Amen.
Là một con người, ai trong chúng ta cũng được Chúa ban cho có đôi mắt để chúng ta nhìn, để chúng ta thấy, rồi từ đó, chúng ta mới có cách thức để tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua lời ăn tiếng nói, hành động việc làm của chúng ta sao cho hợp lý nhất, đúng ý của chúng ta nhất.
Trong ý nghĩa đó mà thánh thi kinh sách tuần IV Thường Niên đã nói đến: “Ối lạy Chúa, mở cho con đôi mắt. Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi. Con mù lòa, bên vệ đường hành khất. Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài “.
Nhất nữa, cuối bài Tin Mừng hôm nay, Chúa có nói về đôi mắt của con người chúng ta: “Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng” (Mt 6, 22). Điều ấy có nghĩa là đôi mắt thể xác và đôi mắt tâm hồn sáng khi chúng ta nhìn thấy những người lo cơm áo gạo tiền, lo ăn sung mặc sướng, lo tích trữ kho tàng dưới đất mà không biết nghĩ đến đời sau để lo thu tích nhân đức thì quả thật như là một tên đầy tớ ham mê của cải đến nỗi trở nên khờ dại hoặc như là người xây ngôi nhà mình trên cát: “Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất” (Mt 6, 19), vì thế mà khi chúng ta biết được lời Chúa đề cập đến vấn đề này rồi, và thấy được hậu quả tích trữ kho tàng dưới đất, chúng ta phải tránh đi, đừng có làm như vậy kẻo đi theo vết xe cũ thì đôi mắt chúng ta sáng bình thường. Còn nếu chúng ta cứ đi theo vết xe cũ, lối mòn cũ, thì đôi mắt chúng ta sẽ là mù mà thôi.
Đàng khác, khi tránh xây dựng kho tàng dưới đất, chúng ta hãy dành thời giờ và những phương tiện Chúa ban mà lo xây dựng kho tàng trên thiên đàng. Đành rằng việc làm ra của cải vật chất ở dưới đất trong cuộc đời này không có gì là xấu xa cả, nhưng chúng ta đừng có mất thời gian vì nó, mà chúng ta xem nó như là một phương tiện sinh sống, và tận dụng nó để giúp đỡ Giáo Hội, giúp đỡ ngươi nghèo túng, khổ sở, cơ cực… chúng ta thấy và làm như vậy thì đẹp lòng Chúa biết bao, đôi mắt chúng ta đang sáng thật rồi đó.
Còn nếu chúng ta cứ mải mê đắm say cuộc sống trần gian tro bụi chóng qua này, mà không lo cho cuộc sống vĩnh cửu sau này, chúng ta chỉ biết có cuộc sống hiện tại như những người không có niềm tin, chết là hết và rồi không biết tránh đi, không chịu làm theo ý Chúa thì chúng ta có mắt mà cũng như không có mắt, cuộc sống chúng ta sẽ tối tăm, không có ánh sáng Chúa soi đường, chúng ta sẽ chết trong sự lầm lạc, mất ơn thánh Chúa: “Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?” (Mt 6, 23).
Chúng ta đang sống ở trần gian, lo cho cuộc sống trần gian, nhưng chúng ta không dừng lại ở đây, mà chúng ta lo xây dựng cuộc sống vĩnh cửu, lo xây kho tàng trên trời bằng việc giữ đạo Chúa, thực hành các nhân đức, nhất là mến Chúa yêu người. Chúng ta luôn hướng về cuộc sống đời sau và từng ngày để tâm suy nghĩ và bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ được như ý: “Vì kho tàng các con ở đâu thì lòng trí của các con cũng ở đó” (Mt 6, 21).
Lạy Chúa, điều Chúa nói với chúng con là Chúa sẽ làm, chúng con xin Chúa cho chúng con có cặp mắt đức tin trong sáng để chúng con không đi con đường vết xe cũ là xây dựng kho tàng dưới đất với của cải vật chất ê hề mà bỏ Chúa để rồi phải hư mất đời đời, mà phải biết đem hết khả năng Chúa ban, để không chỉ lo cho cuộc sống trần thế, mà còn phải lo sống đạo tốt, lo sống bác ái, yêu thương, chia sẻ để rồi chúng con mới được một kho tàng trên trời và sau này chúng con sẽ hạnh phúc mãi mãi bên Chúa. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao? "Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
Chế độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới. Nhưng ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới. Nước nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu, các phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục, trẻ em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy. Xem ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ, giữa một thế giới đề cao tự do và giải phóng. Khi không muốn làm nô lệ cho ai, con người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ. Khi không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời, con người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra. Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa. “Anh em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.” Nếu có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia. Giữa Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai? Tôi không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai. Thần Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo, còn Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền. Chỉ khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do. Có sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây. Đức Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34). Nhưng làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ? Trên thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống? Con người có thể sống vô tư như chim trời không khi chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn? Chúng ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu. Ngài không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng. Cái lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c. 30), không tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác. hơn giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội. Lo âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (c. 31). Lo âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình, quên rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32), và sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33). Lo âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình hơn là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33). Kitô hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai. Kitô hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ. Nhưng họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình. Họ lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha. Họ lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn. Kitô hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an. Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi. dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng như con - đang cần một người bạn. Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn. Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi. Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh. Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen. ------------------------------
Chúa Giê-su dứt khoát nói với ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Ai lo tìm những giá trị đời này sẽ bỏ quên Thiên Chúa. Ai tìm Thiên Chúa sẽ không màng gì những lợi lộc đời này. Vì Thiên Chúa đã ban cho ta điều cơ bản nhất: sự sống. Thế mà ta cứ lo tìm những gì phụ thuộc. “Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” Chúa đưa ra ví dụ cụ thể. Chim trời không gieo không gặt vẫn được Chúa nuôi dưỡng. Bông hoa ngoài đồng không dệt không may mà áo đẹp còn hơn vua chúa. Huống chi chúng ta là con cái của Chúa. “Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” Vì thế Chúa khuyên ta cứ an tâm phục vụ Thiên Chúa. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Gio-át là người hai lòng hai dạ. Ông đã thờ phượng Chúa. Nên được Chúa phù hộ. Qua thầy cả Giơ-hô-gia-đa. Nhưng nghe lời xiểm nịnh của các thủ lãnh Giu-đa ông đã thay lòng đổi dạ. Bỏ “Đền Thờ của Đức Chúa là Thiên Chúa tổ tiên họ, mà phụng sự các cột thờ và các ngẫu tượng”. Tư tế Da-ca-ri-a, là con tư tế Giơ-hô-gia-đa, đứng lên ngăn cản. “Họ liền toa rập chống lại ông và, theo lệnh vua, họ ném đá giết ông trong sân Đền Thờ Đức Chúa”. Vì thế Chúa đã từ bỏ ông. Một số ít quân đội A-ram tiến đánh. Nhưng số đông Giu-đa thua trận. “Vua bị giết ngay trên giường. Vua đã chết,…nhưng không được chôn nơi phần mộ hoàng gia” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô là người chỉ chọn phụng sự Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ mọi lợi lộc trần gian. Tuy được Thiên Chúa yêu thương ban tràn đầy ân sủng. Một ân huệ lớn lao là được đưa lên tầng trời thứ ba. Nhưng ngài vẫn còn chịu đau khổ. “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi”. Đó là thiệt thòi ngài chịu nơi trần gian. Ngài tha thiết xin Chúa “cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Và điều lạ lùng xảy ra. “Tôi tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. Khi hoàn toàn không còn trông cậy gì ở trần gian. Chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ làm việc. Và thánh nhân “cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô”. Từ bỏ trần gian. Chỉ phụng sự Chúa. Sẽ có tất cả (năm lẻ).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho mạng sống mình: sẽ ăn gì? mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan phòng liên lỉ của Thiên Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính giá máu Ngài.
Ðọc kỹ bản văn của Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
Thiên Chúa biết rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội. Chúa dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công việc: việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ, chúng ta đã chọn Chúa hay chọn tiền bạc? Ðã quá lo lắng đến vật chât hay đã luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm trước hết Nước Chúa và sự thánh thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự khác mỗi khi chúng ta cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
“Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt. 6, 25-26)
Chim trời và hoa huệ ngoài đồng
Sống như loài chim. Chẳng phải lo đến cơm ăn áo mặc. Sống như vậy thật thảnh thơi tuyệt vời và không thiếu những vần thơ. Có những ngày nào đó, ta mong ước được sống như vậy. Nhưng cuộc sống còn đó với lắm đòi hỏi nhiêu khê. Chúng ta đâu phải là những cánh chim trời. Phải có tiền để mua lương thực và còn dành dụm đôi chút. Và mọi cái đều đắt đỏ, mỗi ngày lại đắt hơn. Những kẻ có đồng lương tối thiểu, hoặc những ai đành phải hưởng trợ cấp của chính phủ, thì ít có thích thú mơ ước được sống như loài chim. Chỉ những người giầu có, có lẽ có thể thực hiện được giấc mơ tương tự và có thể biến ước mơ thành hiện thực. Những người bình thường thường phải chắt chiu từng xu và cố dành dụm lấy vài đồng, bởi lẽ những ngày xấu và những tai ương biết đâu lại chẳng ập tới và thường nhanh hơn không ngờ.
Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm chỉnh
Tất cả những điều trên đều đúng. Thế nhưng Chúa Giêsu không chế nhạo ai, khi Người mời gọi người ta sống như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Hãy hiểu cho đúng. Chúa không đòi hỏi ai phải tỏ ra hoàn toàn vô lo về những của cải vật chất. Điều Người mong muốn, chính là sự lo lắng kiếm tiền, và lo luôn luôn kiếm được nhiều tiền hơn, không được là nỗi bận tâm hàng đầu của ta. Ngoài chuyện ăn ngon mặc đẹp, còn có những chuyện khác quan trọng hơn trong cuộc đời. Ngoài chuyện bảo đảm tài chánh cho ngày mai, còn có chuyện khác bắt ta phải chú ý tới.
Sống cho một điều khác, chứ không phải sống vì tiền bạc. Sống không quá cồng kềnh. Sống luôn tin tưởng vào ngày mai. Sống hiến dâng từng giờ và từng giờ cho lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Đó chính là lối sống Chúa Giêsu muốn đề nghị cho ta. Thật sự có kiểu sống nào tuyệt hảo hơn không?
Nếu ta đọc đoạn Tin Mừng tuyệt diệu này, sau khi nghe tin tức hoặc nhìn xem sự lưu thông của một xa lộ qua khung cửa sổ, ta sẽ cảm thấy một tương phản gắt gao đến độ tự hỏi: cái gì là thật và cái gì là không thật? Trong thế giới chúng ta sống, đâu là sự tìm kiếm ưu tiên cho Nước Chúa và sự công chính của Người? Một thế giới sai trục đi về đâu, bởi vì “tỷ số tăng trưởng” của nó đã bị rối loạn? Trong suốt lịch sử đời sống nhân loại, con người đã chiều theo cám dỗ kiếm tìm không ngừng sự thụ hưởng vật chất, trong khi định mệnh con người lại là thiêng liêng. Ở đây, Chúa Kitô, bằng những từ ngữ bóng bẩy, mời gọi con người đi tìm cái chính yếu. Ngài không khuyên dạy sự phó thác thụ động nơi Chúa quan phòng, cũng không dạy việc khinh chê các nhu cầu thể xác và tinh thần, cũng không cổ võ một thứ lạc quan thuyết vô tư. Ngài chỉ nói lên điều nào cần trước nhất và điều nào phụ thuộc vào. Người môn đệ Chúa Kitô, đã trở nên con Thiên Chúa trong Đức Kitô, đương nhiên phải tìm kiếm trước nhất Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người; công việc dưới đất phải được suy tư, sắp xếp theo sự công chính của Nước này, và hoa quả của nó sẽ được Cha trên trời ban thêm cho.
Từ ngữ của thánh Mátthêu và thánh Gioan gặp nhau ở đây để nói lên rằng: phải đặt ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời. Nó phải được ưu đãi, và nếu cần, phải loại bỏ những gì làm cản trở bước tiến của nó. Cũng như Đức Kitô miệt mài trong việc tìm kiếm chuyên nhất Ý Chúa Cha và tìm thấy nơi đó niềm an vui, cũng thế, người Kitô hữu, noi gương Đức Kitô, phải tìm kiếm cũng một Thánh Ý này, vì đó là vận mệnh, là mức viên mãn của mình, và đồng thời cũng là sự thành đạt của xã hội loài người. Kiếm tìm Nước Chúa không phải là một việc làm giữa bao việc làm khác. Đây là việc làm chính. Nó liên lụy toàn con người. Hơn nữa sự kiếm tìm này giải thoát tâm hồn khỏi những lắng lo và bận tâm, vì Thiên Chúa chắc chắn sẽ ban cơm ăn áo mặc cho kẻ nào, sau khi đã làm việc cách bình thường, biết đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa về những sự còn lại.
Đối với những nhu cầu vật chất, tôi có thái độ của người ngoại giáo hay Kitô giáo?
Vở kịch “Con người của mọi mùa” là một câu chuyện có thật về thánh Thomas More.
Trong một màn, một người bạn gây áp lực buộc thánh nhân phải ký giấy xác nhận rằng cuộc hôn nhân giữa vua Henry VIII và Anne Boleyn là hợp pháp. Nếu không chịu ký, vua sẽ buộc tội ngài là phản quốc.
Thánh nhân từ chối, vì Ngài nghĩ rằng cuộc hôn nhân này là bất hợp pháp. Người bạn của ngài giận dữ nói: “Anh cứ làm rối tung mọi thứ. Thực ra, tôi không biết cuộc hôn nhân này có hợp pháp không. Nhưng quỷ quái thật, Thomas, hãy nhìn vào danh sách này, anh biết chứ! Anh không thể thỏa hiệp vì tình bạn sao?”. Thomas More vẫn từ chối, ngài không thể làm tôi hai chủ được.
Chỗ nào trong cuộc đời tôi bị áp lực làm tôi hai chủ?
“Này con, đừng bao giờ tạo ra một tình bạn hoặc giữ một tình bạn bằng cách làm một điều sai trái”. (Robert E. Lee).
Khi nói đến khái niệm “Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng”, ấy là lúc chúng ta nói đến sự can thiệp của Thiên Chúa cách nhiệm mầu, khiến con người không thể ngờ cũng như không thể hiểu được.
Tuy nhiên, sự quan phòng của Thiên Chúa không giống như kiểu quan niệm của những người không có niềm tin. Những người đó thường hay coi đó như là một định mệnh, hay số mệnh đã được ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành công hay thất bại giống như kiểu rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Nhưng quan phòng theo mặc khải của Thánh Kinh có hai vế: về phía Thiên Chúa, Người là Đấng Khôn Ngoan, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con cái, luôn tìm dịp để ban phát cho con của mình những điều tốt đẹp nhất, đồng thời luôn bảo vệ để chúng được an lành; còn về phía con người, được mời gọi tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì không thể nào một người con xin cá, mà cha hay mẹ của mình lại cho rắn hay bọ cạp, xin bánh lại cho đá...
Hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ và cũng là mời gọi mỗi người chúng ta: hãy tin tưởng vào một mình Thiên Chúa, không được “bắt cá hai tay”, tức là làm tôi hai chủ. Thiên Chúa, Đấng Yêu Thương luôn chăm sóc anh em mọi lúc. Hãy xem chim trời, hoa huệ ngoài đồng thì sẽ thấy được tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người là dường nào!
Tuy nhiên, sự tin tưởng vào Chúa không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ theo kiểu: “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. “Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, ước gì tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong vòng tay Chúa để được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Chúa và biết cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ mà Chúa đang thực hiện trong trần thế hôm nay. Amen.
Sứ điệp: Thiên Chúa là Cha chúng ta, nên ta phải biết cậy trông phó thác. Đừng sống như kẻ không có Cha trên trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì Chúa thương nhận con là con cái Chúa và hằng thương yêu quan phòng cho cuộc đời con.
Lạy Chúa, mỗi người mỗi phận. Con cũng như bao người phải lo phận mình. Sống vô lo như chim trời, cây cỏ, mà chẳng dùng trí khôn Chúa ban để tính toán làm ăn, đó là sống thiếu trách nhiệm. Chúa không dạy con sống vô trách nhiệm. Nhưng ngược lại có lắm người và đôi khi cả con nữa quá lo lắng đến độ quên Chúa là Cha Toàn Năng và hằng thương yêu con người.
Khi con lo lắng cào cấu sao cho có nhiều của cải tiền bạc mà quên luật công bình bác ái…, chính là lúc con đang quên Chúa là Cha và quên mọi người là anh em. Nếu tiền của trở thành ông chủ đời con, nó dắt con đến tình trạng mất nghĩa cùng Chúa và mất tình với anh em.
Xin giúp con luôn cố gắng làm việc với tất cả trí khôn Chúa ban để thăng tiến bản thân và giúp đỡ mọi người. Tiền của phải làm công cụ phục vụ con dưới sự hướng dẫn của lề luật Chúa. Con sẽ chỉ được tự do khi biết chọn Chúa làm chủ đời mình.
Xin giúp con biết làm tôi Chúa cách trung thành, không vì đồng tiền của cải mà sao lãng bổn phận thờ phượng Chúa, không vì công ăn việc làm mà từ chối giữ luật Chúa. Xin Chúa ban ơn để con luôn trung thành với Chúa: lúc vui và cả khi buồn, khi thành công và cả khi thất bại.
Lạy Chúa, con xin phó thác đời con nơi Chúa. Xin Chúa giúp con luôn sống như một người con đẹp lòng Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.
Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng của lòng nhân hậu. Một ngày kia, có một vị Giám mục đến gặp Ngài và chia sẻ những lo âu, nhọc nhằn, mất ngủ… vì trách nhiệm chủ chăn, rồi xin ngài cho một lời khuyên. Sau khi nghe những tâm sự của vị Giám mục, Đức Giáo hoàng mỉm cười và nói: “Khi mới được bầu làm Giáo hoàng, tôi cũng lo âu và mất ngủ như Đức Cha vậy. Thế rồi một hôm trong giấc ngủ, có một thiên thần hiện đến vỗ vào cái bụng to của tôi và nói: “Gioan ơi, ngươi chớ lo lắng thái quá, hãy phó thác trong tay Chúa và nghỉ ngơi cho khỏe”. Kể từ hôm đó, tôi không bị mất ngủ nữa”.
Suy niệm
Lo âu, đó là sự thương tình của con người, đặc biệt là trước những sự việc quan trọng, trách nhiệm nặng nề và lao công vất vả trong cuộc sống để mưu sinh…
Thế nhưng, Chúa Giêsu muốn con người sống trong bình an hạnh phúc, Ngài muốn con người “đừng lo lắng”.
Chúa Giêsu đã khuyên dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những sự khác, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,33-34). Ngài đưa ra hình ảnh chim không lo gieo trồng và làm lụng vất vả vẫn được nuôi sống, hoa đồng nội không dệt may vẫn được mặc sắc màu đẹp tươi, tất cả được đặt dưới sự quan phòng của Tạo hóa. Hình ảnh quá ấn tượng, tuyệt vời diễn ra chung quanh mỗi ngày mà ta chưa nghiệm ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cho vạn vật của vũ trụ. Hình ảnh cũng dễ làm chúng ta có thể hiểu sai ý của Đức Kitô: Đừng làm gì cả, sống vô tư như anh chàng ngồi dưới gốc cây chờ sung rụng. Thật thế, Đức Giêsu đã không nói rằng không nên làm việc. Ngài cũng không bao giờ khuyến khích con người lười biếng, vô tư ỷ vào lòng bố thí của bá tánh khi đi ăn xin, vô nghề nghiệp.
Thiên Chúa luôn khuyến khích con người lao công, vì chính Ngài đã truyền cho con người ngay từ thuở tạo dựng vũ trụ: “Hãy thống trị đất và bắt nó phục tùng” (St 1,28). Đức Giêsu khẳng định của ăn có được là do lao công: “Vì thợ đáng được nuôi ăn” (Mt 10,10).
Lo lắng làm việc là trách nhiệm của con người với Thiên Chúa với anh em với vũ trụ vạn vật nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa”, gợi lên ý nghĩa Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy cầu nguyện nước Chúa và danh Cha trước hiển trị trên trời và dưới đất rồi mới đến cơm bánh nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
“Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” cũng có nghĩa là một lối sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa theo yêu cầu và luật lệ của nước Ngài.
Cho nên, việc tìm kiếm nước Thiên Chúa không phải là một sự chờ đợi tiêu cực, không chỉ là một thái độ tôn giáo nội tâm, nhưng là một lối thực hành đức công chính, là sự dấn thân như bài giảng bát phúc đã trình bày (x. Mt 5,1-12).
Tuy nhiên, sự nỗ lực của con người không chỉ là sự cố gắng của bản thân mà cùng đồng hành với Thiên Chúa, Đấng luôn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế như lời hứa của Ngài (x. Mt 28,20), Đấng tỏ ra với con người qua lời ngôn sứ Isaia: “Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).
Chúa Giêsu khuyên dạy: “Đừng lo lắng cho mạng sống, lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể, lấy gì mà mặc…” (Mt 6,25). Tin mừng Matthêô dùng 6 lần động từ “lo lắng” cùng với lời khuyên nhủ: “đừng lo” để nói lên lời khẩn bách mời gọi từ bỏ mọi âu lo thái quá, vì cả cuộc sống của ta đã được đặt trước mặt Thiên Chúa Cha là Đấng “biết rõ điều ta cần” (x. Mt 6,8.32). Thánh Phêrô mời gọi chúng ta: Mọi lo âu, hãy trút cả cho Chúa, vì Người chăm sóc anh em (x. 1Pr 5,7).
Cuộc sống hằng ngày vốn nhiều lo lắng: Lo lắng và ám ảnh một quá khứ vất vả, thất bại khiến chúng ta không dám bước vào hiện tại và tiến tới tương lai. Lo lắng về một hiện tại chưa thành công, còn nhiều vất vả, không đủ nương tựa vào cuộc sống, khiến ta luôn mệt mỏi không dám dấn thân; lo lắng về việc cơm áo gạo tiền, khiến chúng ta rơi vào trạng thái lo âu triền miên. Vì thế, sẽ lo lắng về một tương lai mịt mù không có chút ánh sáng để tiếp tục bước đi. Giữa biển đời ngập tràn lo âu, lời thánh Âugustinô chia sẻ cho chúng ta: “Phó thác quá khứ cho lòng thương xót của Chúa, hiện tại cho tình yêu của Ngài, và tương lai cho sự quan phòng của Ngài”.
Ý lực sống:
“Tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người” (Hc 2,6).
“Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Đó là một lời cảnh giác cho những ai quá coi trọng, suy tôn tiền của mà bỏ quên Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy cậy trông, tin tưởng vào Cha đầy quyền năng và tình thương. Hãy phó thác cuộc đời chúng ta cho Cha, Cha sẽ làm cho chúng ta tất cả những gì tốt đẹp nhất.
“Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Dù trong địa vị nào, con người vẫn muốn “bắt cá hai tay”, đối với họ thì Chúa cũng muốn mà xa hoa cũng muốn. Thật ra, tiền của không có gì là xấu xa mà là rất cần thiết cho cuộc sống, nhưng nó sẽ xấu khi ta trở thành nô lệ chúng, để rồi vì tiền mà không ngại bất cứ thủ đoạn nào phạm đến Chúa và tha nhân. Nhất là vì lo chạy theo tiền bạc mà quên mất việc đạo đức rồi dần dần tiền của lấn át cả Thiên Chúa, tiền và những lo toan vật chất ngự trị trong tâm hồn ta thay cho Thiên Chúa.
Đọc kỹ bản văn Mátthêu, chúng ta thấy có sáu lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm vào của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?” Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: hãy giúp mình rồi trời sẽ giúp cho.
Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ), vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Hãy tin vào Chúa quan phòng
Chúa Giêsu không chủ trương cho chúng ta lười biếng hay ỷ lại, mà là muốn chúng ta đừng quá tin cậy vào sức mình, nhưng cần đến sự tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự tin tưởng vào Chúa quan phòng không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy theo ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
“Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa: Biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Người dựng nên mọi sự tốt đẹp, biết xây dựng Nước trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi nơi (Hiền Lâm).
“Chỉ có một đường đến hạnh phúc, đó là ngừng lo lắng về những gì vượt khả năng ý muốn của mình” (Triết gia Epictetus). Trong Tin mừng hôm nay, kiểu nói đừng lo được lặp lại đến 6 lần, điều đó cho thấy Chúa Giêsu lưu ý ta đừng để những nỗi lo về nhu cầu của cuộc sống này khiến ta quên đi, - hoặc gạt qua một bên, hoặc coi như chuyện nhỏ, - việc tìm kiếm Nước trời cũng như việc nên thánh trong cuộc đời ta. Ngài không bảo ta vô trách nhiệm với bản thân và gia đình, lười biếng làm việc mưu sinh, vô lo về ngày mai. Trái lại, Ngài dạy ta tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha quan phòng yêu thương. Cha lo liệu cho chim trời, hoa huệ, huống chi con người được Cha yêu thương, đến nỗi ban Con Một cho ta, dẫn ta đến Nước trời (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Đừng quá lo cho ngày mai
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thoả mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
- Nhưng thưa ông để làm gì?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường hướng làm ăn cho anh chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp:
- Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời:
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Lúc ấy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui sướng cuộc đời hay sao?
1. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Vậy phải chọn làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi tiền của.
2. Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác: của ăn, áo mặc, tuổi thọ; vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Suy gẫm
1. Trong câu Chúa Giêsu cảnh cáo về việc làm tôi tiền của, chữ “Tiền Của” được viết hoa, ngụ ý đó là một thứ tà thần. Thật vậy, tiền của có sức ám người ta tất mạnh, và có sức phá hoại mọi thứ đạo đức. Đừng bao giờ coi thường nguy hiểm của nó.
2. Một ông già trúng số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ giết mất ông. Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông cụ sẽ làm gì nếu có 100 triệu. Ông nói: “Tôi sẽ cho ngài và cho Nhà thờ một nửa” mục sư té xỉu.
3. Sở dĩ con người lo lắng thái quá và từ đó không còn được hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận từng giây phút hiện tại sống sung mãn từng khoảnh khắc cuộc sống. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cũng có nghĩa là chấp nhận các khuyết điểm của mình, khoan dung đối với những giới hạn của người khác, và nhìn mỗi thất bại như một cơ may mới.
4. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6, 34).
Cuộc sống hiện tại với bao nhiêu mới mẻ, hấp dẫn khiến mình phải chạy đua với thời gian, với model của thời đại và ước muốn hoàn thiện bản thân. Mà muốn thành công trong một lĩnh vực nào đó, là cả một quá trình. Vậy mà mình muốn đạt được ngay. Thế là cứ lo nghĩ, dự định với kế hoạch mà không đủ can đảm thực hiện nó trong giây phút hiện tại và như thế ngày nào cũng bận tâm lo nghĩ về tương lai chỉ thêm chán nản.
Cuộc sống luôn đòi hỏi mỗi người chúng ta ở việc học, cách sống, sự an toàn, sự chia sẻ, sự cảm thông, khả năng yêu thương đối với tha nhân. Tại sao mình không chịu bắt tay vào những công việc đó ngay trong những giây phút này? Như thế có tốt hơn chăng hay cứ hoài lo âu nghĩ ngợi!
Lạy Chúa, mải loay hoay với những tính toán cho tương lai mà con quên mất mình đang sống ở đâu và phải làm gì. Xin Chúa cho con can đảm sống tốt giây phút hiện tại với Chúa, với anh em và chính bản thân con.
1. Ý thứ 1: Không ai có thể làm tôi hai chủ (Mt 6,24). Vậy, phải chọn một là làm tôi Thiên Chúa hai là làm tôi Tiền Của.
Abraham từ ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn ông Abraham đến trước mặt vua Ramos, nhà vua hỏi Abraham:
- Tại sao ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc?
Abraham trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:
- Tâu hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy.
- Như vậy thì hãy tôn thờ lửa - Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp:
- Nếu thế, hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.
- Thế thì hãy tôn thờ nước.
- Tâu hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà ra.
- Thế thì hãy tôn thờ gió.
Nghe thế, Abraham trả lời vua Ramos:
- Nếu gió là thần thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.
Vua Ramos kiên nhẫn:
- Vậy thì hãy tôn thờ con người.
Abraham trả lời:
- Tâu hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.
Nhà vua giận dữ quát lên.
- Vậy thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng Abraham nói: - Đấng duy nhất tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết, đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.
2. Ý thứ hai: Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ) vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thỏa mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn nữa?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
- Nhưng thưa ông để làm gì?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường chỉ hướng làm ăn cho chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp:
- Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời.
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Nghe vậy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui hưởng cuộc sống hay sao?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với chúng ta: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” (Mt 6,33). Phải chăng khi khuyên chúng ta, đừng lo về miếng cơm manh áo, là Chúa đã muốn gieo vào trong đầu óc chúng ta tư tưởng ươn lười, chỉ muốn sống dựa dẫm vào người khác? Chắc chắn là không.
Đây là lời cầu nguyện trích từ sách Gương Chúa Giêsu:
Lạy Chúa, Xin ban cho con ơn Chúa Thánh Thần, để con được vững chí.
Xin ban sức mạnh củng cố con người nội tâm trong con. Xin giải thoát tâm hồn con khỏi những lo lắng, sầu muộn vô ích. Đừng để nó bị quyến rũ theo đuổi một của gì bất luận sang hèn, một hãy làm cho con coi tất cả như là của mau qua.
Lạy Chúa! Xin ban cho con ơn khôn ngoan của trời, để con biết đi tìm cho được Chúa trước hết, cảm mến Chúa trên hết và nhận định mọi cái khác theo trật tự mà Thượng trí Chúa định liệu cho con.
Vì ai đứng vững được trước những giọng nói ngả nghiêng, ai bưng tai được trước những lời phỉnh nịnh, người đó mới thực là khôn. Amen.
Khi nghe những lời Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm thấy rất an lòng. Do đó, thay vì dùng thời gian để mà suy nghĩ lo lắng tìm ra của cải vật chất, thì chúng ta hãy dùng thời gian đó để mà tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước, và rồi những sự việc khác Chúa sẽ ban thêm cho chúng ta: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy” (Mt 6, 33 – 34).
Chúa luôn luôn yêu mến chúng ta, Chúa dành mọi sự tốt đẹp cho chúng ta, những gì mà Chúa có thể làm thì Chúa đã, đang, và sẽ còn làm cho chúng ta. Chúa không bao giờ để cho chúng ta phải vì Chúa mà thiếu trước hụt sau, phải thiếu thốn đói khát khổ cực trăm bề. Đời đời Chúa sẽ dành cho chúng ta lòng sủng ái. Những gì Chúa đã ban cho chúng ta thì Chúa vẫn mãi mãi duy trì (Tv 88, 7). Do đó, chúng ta hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người.
Tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người nghĩa là chúng ta phải lo sống đạo Chúa, tuân giữ những điều Chúa truyền dạy, sống bác ái yêu thương phục vụ mọi người, chuyên cần làm các điều thiện, điều lành, điều tốt cho cho anh chị em của chúng ta. Chúng ta đừng vì lý do tôi nghèo nên tôi cần phải đi làm luôn cả ngày Chúa Nhật để kiếm cơm áo gạo tiền, do đó mà tôi bỏ không tham dự thánh lễ và lại còn nói thêm rằng chắc Chúa sẽ thông cảm cho tôi, tôi không có tội “Thứ ba giữ ngày Chúa Nhật”, và tôi sẽ không sợ tội nữa là khác?
Không phải vậy đâu, vì ông cha ta ngày xưa đã nói: “Có thực mới vực được đạo“. Nghĩa đen của câu nói ấy là có ăn no thì mới giữ đạo, mới sống tốt ở đời, nhưng còn nghĩa bóng, nghĩa chính yếu, nghĩa trọng tâm là con người chúng ta có sống tốt đạo của trời, đạo làm người thì phải nhờ tới ơn trên ban cho, theo nghĩa đạo Chúa thì chúng ta muốn sống những điều Chúa truyền dạy cho tốt thì phải nhờ ơn Chúa ban thì mới được. Vì thế phải lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước đã, rồi sau đó Chúa sẽ lo cho chúng ta, sẽ bù đắp cho chúng ta, vì thế đừng lo lắng ngày mai sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì? Những điều đó Chúa đã biết rõ và Chúa giúp chúng ta. Chúng ta hãy tin mạnh mẽ vào lời Chúa nói: “Và lời giao ước Ta ký kết với ngươi sẽ được mãi mãi duy trì” (Tv 88, 29).
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con không được làm tôi hai chủ: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được” (Mt 6, 24). Bởi vì khi tích góp tiền của: “Công vất vả ngược xuôi làn gió thoảng, ky cóp mà chẳng hay ai sẽ hưởng dùng” (Tv 38, 7). Do đó, chúng con xin Chúa giúp chúng con biết làm tôi của Chúa suốt đời chúng con, biết tin tưởng phó thác vào tình thương quan phòng của Chúa, biết đi theo sự hướng dẫn của Chúa để mỗi ngày chúng con sống tốt hơn. Amen.