Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 20-2024 Thường Niên

Thứ sáu - 23/08/2024 05:40
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 20-2024 Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày Xếp gọn trong Tuần 20-2024 Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
Xếp gọn trong Tuần 20-2024 Thường Niên
Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org/

----------------------------------
Mục Lục:

Thứ 2: 3
Lời Chúa: Mt 19, 16-22. 3
Suy Niệm 1: Tôi còn thiếu điều gì?. 4
Suy Niệm 2: Thanh luyện tâm hồn. 6
Suy Niệm 3: Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời 7
Suy Niệm 4: Chàng Thanh Niên Nhiều Của. 8
Suy Niệm 5: Thanh thoát để theo Chúa. 9
Suy Niệm 6: Tiền có mua được Nước Trời không?. 10
Suy Niệm 7: Ràng buộc của cải vật chất 11
Suy Niệm 8: Tiến bước theo Chúa Giêsu. 12
Suy Niệm 9: Người thanh niên giàu có. 14
Suy Niệm 10: Một ơn gọi thất bại 15
Suy Niệm 11: Cảnh giác về của cải 18
Suy Niệm 12: Bán của cải cho người nghèo, rồi theo Chúa. 20

Thứ 3: 20/08 Th. Bênađô. 21
Lời Chúa: Mt 19, 23-30. 21
Suy Niệm 1: Lạc đà qua lỗ kim.. 22
Suy Niệm 2: Đứng đầu và đứng chót 24
Suy Niệm 3: Giáo Hội Của Người Nghèo. 25
Suy Niệm 4: Chiến Thắng Mọi Cám Dỗ. 26
Suy Niệm 5: Từ Bỏ Tất Cả. 27
Suy Niệm 6: Tại sao giàu có lại khó vào Nước Trời?. 28
Suy Niệm 7: Con lạc đà chui qua lỗ kim.. 29
Suy Niệm 8: Nô lệ cho của cải 30
Suy Niệm 9: Người giàu khó vào Nước trời 31
Suy Niệm 10: Phần thưởng người từ bỏ để theo Chúa. 33
Suy Niệm 11: Sử dụng của cải cách hữu ích. 35
Suy Niệm 12: Người giàu có khó vào nước trời 37

Thứ 4: 21/08 Th. Piô 10, giáo hoàng. 38
Lời Chúa: Mt 20, 1-16a. 39
Suy Niệm 1: Vì tôi tốt bụng. 39
Suy Niệm 2: Ông chủ tốt bụng. 43
Suy Niệm 3: Lòng Quảng Ðại Của Thiên Chúa. 44
Suy Niệm 4: Giá Trị Và Nhân Phẩm Con Người 45
Suy Niệm 5: Sống Hằng Ngày Với Ý Hướng Đời Đời 46
Suy Niệm 6: Hãy đi và làm vướn nho cho Chúa. 48
Suy Niệm 7: Lòng quảng đại nhân lành. 48
Suy Niệm 8: Vườn nho của Chúa. 49
Suy Niệm 9: Dụ ngôn thợ làm vườn nho. 51
Suy Niệm 10: Lý lẽ của tình thương. 54
Suy Niệm 11: Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho. 56
Suy Niệm 12: Chúa nhân lành. 58

Thứ 5: 22/08 Đức Maria Nữ Vương. 59
Lời Chúa: Lc 1, 26-38. 60
Suy Niệm 1. Tôi là nữ tì của Chúa. 60
Suy Niệm 2. Mẹ tuyệt vời 62
Suy Niệm 3. Đức Maria Trinh Nữ Vương. 63
Suy Niệm 4. Mẹ tuyệt vời 64
Suy Niệm 5. Mẹ tuyệt vời 66
Suy Niệm 6. Mẹ tuyệt vời 69
Suy Niệm 7. Trinh Nữ Vương. 71
Suy Niệm 8. Đức Maria Nữ Vương. 72
Suy Niệm 9. Đức Maria là Nữ Vương. 73
Suy Niệm 10. Đức Maria Trinh Nữ Vương. 75
Suy Niệm 11. Đức Maria Nữ Vương. 76
Suy Niệm 12. Đức Maria Nữ Vương: Biến cố truyền tin. 77
Suy Niệm 13. Mẹ Maria: nữ hoàng thiên quốc. 79
Suy Niệm 14. Đức Maria nữ vương. 81
Suy Niệm 15. Đức Maria nữ vương. 83
Suy Niệm 16. Đức Maria trinh nữ vương. 85
Suy Niệm 17. Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương. 87
Suy Niệm 18. Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương. 89
Suy Niệm 19. Lễ Ðức Maria Nữ Vương. 92
Suy Niệm 20. Đức Maria Nữ Vương, Nữ vương ban sự bình an. 93
Suy Niệm 21. Này tôi là tôi tớ Chúa. 96

Thứ 6: Suy Niệm Lời Chúa Hằng. 97
Suy Niệm 1: Điều răn trọng nhất 98
Suy Niệm 2: Tình yêu là lẽ sống. 100
Suy Niệm 3: Giới Răn Yêu Thương. 101
Suy Niệm 4: Ý Nghĩa Ðích Thực Trong Cuộc Sống. 102
Suy Niệm 5: Yêu Mến, Vâng Lời. 103
Suy Niệm 6: “Mến Chúa và yêu người”. 105
Suy Niệm 7: Giữ luật vì tình yêu. 106
Suy Niệm 8: Sức mạnh của lòng yêu mến Chúa. 107
Suy Niệm 9: Điều răn trọng nhất 108
Suy Niệm 10: Giới răn nào trọng nhất?. 110
Suy Niệm 11: Tình yêu thúc đẩy. 112
Suy Niệm 12: Mến Chúa yêu người 115

Thứ 7: Ngày 24/08 Th. Batôlômêo. 116
Lời Chúa: Ga 1, 45-51. 116
Suy niệm 1. Cứ đến mà xem.. 117
Suy niệm 2. Chúa biết và yêu Na-tha-na-en trước. 118
Suy niệm 3. Cảm nghiệm gặp gỡ Chúa. 119
Suy niệm 4. Người Israel lòng dạ ngay thẳng. 121
Suy niệm 5. Thánh Batôlômêô. 122
Suy niệm 6. Môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi 126
Suy niệm 7. Thánh Batôlômêô, tông đồ. 128
Suy niệm 8. Thánh Barthôlômêô, Tông đồ. 130
Suy niệm 9. Thánh Barthôlômêô. 132
Suy niệm 10. Không biết không yêu. 132
Suy niệm 11. Thánh Barthôlômêô Tông Đồ. 133
Suy niệm 14. Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ. 136
Suy niệm 15. Thánh Ba-tô-lô-mê-ô Tông Đồ. 138
Suy niệm 16. Thay đổi nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. 141
Suy niệm 17. Ước mơ bay cao. 142
Suy niệm 18. Thánh Barthôlômêô tông đồ. 143
Suy niệm 19. Thánh Barthôlômêô tông đồ. 144
Suy niệm 20. Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ. 147
Suy niệm 21. Chân dung Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ. 148
Suy niệm 22. Thánh Batôlômêô: Tông đồ. 150
Suy niệm 23. Chân dung Thánh Batôlômêô Tông đồ. 151
Suy niệm 24. Nơi ông không có gì gian dối 153

----------------------------------
 

Thứ 2:

Sống trọn lành.
19/08 – Thứ Hai tuần 20 thường niên.
"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".

 

Lời Chúa: Mt 19, 16-22


Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?"

Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình".

Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?

Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta".

Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Tôi còn thiếu điều gì?


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Bài Tin Mừng hôm nay gồm sáu câu đối thoại qua lại
giữa Đức Giêsu với một anh thanh niên giàu có.
Hẳn anh ấy là một người có thiện chí, khi anh đến gặp Đức Giêsu
để hỏi về chuyện phải làm điều tốt nào để có sự sống đời đời (c. 16).
Như thế sự sống đời đời là điều anh quan tâm,
và anh thực sự muốn biết cách hành động để đạt đến sự sống ấy.
Thầy Giêsu đã cho anh một câu trả lời đơn giản: hãy giữ các điều răn.
Thầy đã kể cho anh sáu điều răn (cc. 18-19),
bốn điều cấm làm và hai điều phải làm, tất cả đều liên quan đến tha nhân.
Anh cho biết mình đã sống mọi điều răn đó.
Dù vậy, anh vẫn mang trong mình một thao thức.
Chính thao thức ấy đã đưa anh đến với Thầy Giêsu để hỏi:
“Tôi còn thiếu điều gì?” (c. 20).
Anh chờ mong một câu trả lời từ vị Thầy mà anh quý mến.
Anh muốn làm một cái gì đó, muốn biết điều mình còn thiếu.
Câu trả lời của Thầy làm anh chưng hửng.
“Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy đi, bán tài sản của anh,
cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, và đến, theo tôi.”
Như thế khi anh xin có sự sống đời đời, xin được kho tàng trên trời,
thì Thầy Giêsu đòi anh bán kho tàng dưới đất anh đang có.
Bán xong, hãy tặng cho người nghèo để chẳng mong lấy lại.
Thầy mời anh trở nên tay trắng, rồi đến và theo Thầy.
Nhưng Thầy Giêsu không đòi mọi người phải làm y như anh thanh niên,
bán hết tài sản và cho người nghèo.
Ngài cũng không đòi mọi người phải bỏ vợ con để theo Ngài y như Phêrô.
Nhưng Ngài muốn mọi người nên hoàn thiện và có sự sống đời đời.
Ngài kêu gọi mọi người làm môn đệ, theo Ngài trong hoàn cảnh của mình.
Như thế ai cũng có cái phải bỏ, phải bán, phải cho không…
Ai cũng có thể hỏi Ngài như anh thanh niên: Tôi còn thiếu điều gì nữa?
Anh thanh niên giàu có đã phấn khởi đến với Thầy Giêsu (c. 22).
bây giờ anh lại buồn rầu bỏ đi.
Anh buồn vì không muốn mất một chỗ dựa vững chắc là của cải.
Thực ra anh buồn vì không đủ tự do để đáp lại một tiếng gọi đẹp quá.
Anh muốn sự sống đời đời, nhưng không dám chọn con đường tốt nhất.
Anh muốn làm môn đệ Thầy Giêsu, nhưng tình yêu của cải lại mạnh hơn.
Nếu anh chịu tự giải phóng mình khỏi trói buộc của vật chất,
khi trở lại gặp Thầy, anh sẽ thấy mình nhẹ hơn và giàu có hơn nhiều.
Nếu hôm nay, Thầy Giêsu gặp tôi, Thầy sẽ bảo tôi còn thiếu điều gì.
Điều gì đang ràng buộc tôi khiến tôi muốn quay lưng bỏ đi?
Xin cho tôi dám chọn Giêsu, dám mất những điều quý giá vì Giêsu,
vì có Giêsu là có tất cả.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.

---------------------------------
 
 

Suy Niệm 2: Thanh luyện tâm hồn


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa yêu thương muốn nâng con người lên. Từ bùn đất thành người. Từ con người thành con Chúa. Nhưng ma quỉ xác thịt thế gian cứ kéo ghì con người xuống. Thiên Chúa rất kiên trì thanh luyện con người khỏi những nhơ uế bùn đất xác thịt.

Khi tuyển chọn dân riêng, Thiên Chúa ra công thanh luyện con người khỏi thói dân ngoại, tôn thờ bụt thần ma quỉ. “Họ đã lìa bỏ Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập,…Họ đã lìa bỏ Đức Chúa để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét”. Đó là những thần nông nghiệp và trù phú. Vừa theo dân ngoại vừa phù hợp với thú tính. Chúa trừng phạt. Họ kêu xin. Chúa lại gửi các thủ lãnh để giải thoát họ. “Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cả cha ông họ”. Thật đáng buồn (năm lẻ).

Đến thời các tiên tri, họ không thờ ngẫu tượng nữa, nhưng lại chạy theo thói thế gian. Ham mê tìm vui thú xác thịt và của cải vật chất. Chúa lại dùng các tiên tri để thanh tẩy họ. Các tiên tri trở nên những tấm gương vừa cảnh tỉnh họ vừa để họ noi gương bắt chước. Để cảnh tỉnh dân, chính tiên tri được Chúa mời gọi sống trước sứ điệp họ loan truyền. Chúa truyền cho Ê-dê-kiên: “Hỡi con người, này Ta sẽ bất thần cất khỏi ngươi niềm vui của mắt ngươi. Nhưng ngươi không được thương tiếc người chết, không được khóc lóc, không được để nước mắt trào ra. Hãy rên rỉ âm thầm, đừng làm đám tang cho người chết, hãy đội khăn, đi dép, không được che râu ria, không được ăn bánh người ta đưa đến” (năm chẵn).

Đến thời Chúa Giê-su, Chúa muốn thanh luyện trái tim con người để họ hoàn toàn thuộc về Chúa. Chàng thanh niên giầu có đạo đức thật hoàn hảo. Nhưng Chúa nhìn thấu rõ đáy lòng anh. Chúa muốn thanh luyện anh. Đưa anh vào một lựa chọn quyết liệt. Chỉ chọn một mình Chúa mà thôi. Dù anh đã tốt lành. Nhưng vẫn còn gắn bó với tiền bạc hơn Chúa. Chưa đủ yêu Chúa nên không thể theo Chúa mà không được tiền bạc. Chưa đủ tin Chúa nên không thể gắn bó với kho tàng trên trời. Tiền bạc vẫn là một thứ ngẫu tượng. Vẫn là thói đời. Vẫn là cái bẫy ma quỉ xác thịt thế gian giăng ra để nhốt kín con người.

Xin Chúa thanh tẩy con sạch mọi thứ ngẫu tượng. Cho con hoàn toàn từ bỏ mọi dính bén thế gian. Cho linh hồn con hoàn toàn trong sạch. Cho con hoàn toàn chết cho thế gian. Để con chỉ còn một mình Chúa thôi.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên đến gặp và xin Chúa Giêsu chỉ con đường dẫn đến sự sống đời đời, đó là một ý nghĩ khôn ngoan. Tuy nhiên, thái độ của anh đáp ứng Lời Chúa Giêsu chứng tỏ anh mới chỉ có ý nghĩ một chút về sự khôn ngoan. Anh thoáng thấy của cải không phải là hạnh phúc đích thực, vì thế, anh đến với Chúa để tìm sự khôn ngoan. Khốn nỗi, con đường khôn ngoan mới vạch ra đã bị của cải cản lối khiến anh không nhận ra được rằng sự sống đời đời mới là của cải quí giá nhất mà anh phải tìm kiếm.

Người thanh niên tìm đến với Chúa Giêsu, vì nhận thấy Ngài là một tôn sư có gì khôn ngoan hơn những bậc thầy trong dân Israel mà anh thường gặp. Anh chưa nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là tôn sư dạy sự khôn ngoan, mà còn là chính sự khôn ngoan; Ngài không chỉ đưa ra một lời dạy khôn, mà còn là lời ban sự sống đời đời; ai đón nhận và thực hiện lời Ngài sẽ được sống đời đời. Chính vì thế, anh đã sầm nét mặt, buồn sầu bỏ đi khi Chúa Giêsu bảo anh: Hãy về bán hết của cải, rồi đến theo Ngài. Anh yêu của cải hơn sự sống và hạnh phúc đời đời. Anh tưởng Lời Chúa chỉ là một trong những lời chỉ giáo muôn mặt của các bậc thầy trong Israel, có theo hay không cũng chẳng sao, cứ nắm giữ lề luật cha ông truyền lại đã đủ chiếm được Nước Trời. Do đó, anh làm sao hiểu được lời này: "Anh chỉ còn thiếu một điều".

Anh đã thực hiện những gì ghi trong lề luật, nhưng anh còn thiếu một điều, mà thiếu điều đó, những gì anh đã nắm giữ mới chỉ là thứ công chính của Biệt phái không thể vào Nước Trời được. Ðiều anh còn thiếu chính là tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là liên kết với Ngài và thực hiện Lời Ngài. Vì Lời Ngài là lời thần linh làm cho việc tuân giữ giới răn trở thành sức sống trong tâm hồn con người.

Thật ra, tự nó, của cải không cản trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô.

Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của họ, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.

Nguyện xin Chúa kiện toàn nơi chúng ta những gì Ngài đã khởi sự, và cho chúng ta đạt tới lý tưởng là sống theo Chúa, Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống đời đời.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Chàng Thanh Niên Nhiều Của


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta xét đến thái độ sống của mình. Chúng ta hiện đang tôn thờ Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, hay chúng ta đang tôn thờ một thần tượng trần tục nào đó, như danh vọng, quyền hành, tiền bạc?

Tâm hồn tốt lành, tuân giữ luật Chúa và khát vọng cuộc sống đời đời, đó là những yếu tố đã thôi thúc chàng thanh niên đến gặp Chúa Giêsu. Nhưng cuộc gặp gỡ đã không đưa đến kết quả tích cực, vì chàng thanh niên chưa hoàn toàn tự do khỏi mọi bám víu trần tục. Anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.

Giữa việc tuân giữ Lề Luật và thật sự yêu mến Chúa và anh chị em bằng những cử chỉ cụ thể, chàng thanh niên bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cách tốt đẹp với những phẩm tính tốt như ước muốn làm điều tốt, cố gắng tìm hiểu xem phải làm gì để trọn hảo hơn và tuân giữ những giới răn Chúa truyền dạy. Nhưng không thể dừng lại mãi nơi điểm khởi đầu này, người đồ đệ của Chúa phải tiến lên, phải thực hiện lý tưởng và đạt cho được cùng đích là Chúa Giêsu Kitô, sống với Người, được trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn: "Nếu con muốn nên hoàn thiện, hãy bán đi tất cả những gì con có đem cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta".

Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm mình: tôi có thật sự muốn hay không? Trong những giây phút cầu nguyện sốt sắng, ta có thể hỏi Chúa điều này mà không nhất quyết thực hiện bước thứ hai là làm điều Chúa soi sáng cho.

Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng chính chúng ta lại thiếu can đảm, thiếu nhất quyết, thiếu cộng tác với ơn soi sáng của Chúa. Như chàng thanh niên trong Phúc Âm, chúng ta còn bám víu nhiều điều và đã bỏ mất nhiều cơ hội để được trưởng thành trong đời sống thiêng liêng và được theo Chúa trọn vẹn hơn.

Lạy Chúa, Con muốn theo Chúa trọn vẹn cho đến cùng. Xin thương ban ơn trợ giúp cho sự yếu đuối của con người con. Xin hãy kiện toàn nơi con điều Chúa đã khởi sự.

Lạy Chúa, Xin hãy phán dạy, này con đang lắng nghe và sẵn sàng thực hiện điều Chúa muốn.

---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Thanh thoát để theo Chúa


Và kìa có một người đến thưa Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt, để được hưởng sự sống đời đời?”

Đức Giêsu đáp: “Nếu anh muốn lên hoàn thiện, thì hãy đi bán hết tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. (Mt. 19, 16. 21-22)

Để trả lời người thanh niên, Đức Giêsu không nói tới ba giới răn đầu về kính mến Thiên Chúa. Người chỉ kể đến các giới răn liên hệ đến người ta để người ta hiểu rằng muốn được hưởng sự sống đời đời, phải lo làm điều tốt cho người khác. Ai lo tìm đường tới sự sống đời đời, hoàn toàn phải biết vâng lời Thiên Chúa, nhưng họ luôn luôn phải nhớ rõ rằng họ phải thực hiện sự vâng lời Ngài dạy phải yêu người.

Tôi còn thiếu gì nữa?

Như hầu hết mọi người, chúng ta cũng có thể nói như người thanh niên giầu có rằng: “Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ.” Nhưng cố gắng, sống theo giới răn đó, chưa đạt tới hoàn thiện. Phải tiến xa hơn giáo huấn cổ truyền.

Nếu anh em muốn nên hoàn thiện.

Chúng ta phải nên hoàn hảo, như Cha là Đấng hoàn hảo. Nhận biết và làm đầy đủ như giới răn dạy, chưa đủ, phải nên hoàn thiện. Hoàn thiện, hoàn thiện không phải là một lời khuyên, nhưng là một yêu cầu căn bản. Là Kitô hữu không phải lo giữ giới răn, mà chính là hiến toàn thân và yêu thương vô biên.

Đó là Tin Mừng này nói về sự hoàn thiện tổng quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, tuy trực tiếp nói cho người thanh niên, nhưng mọi người cũng phải dùng của cải mình có mà giúp đỡ người nghèo khó.

Trước hết, bất cứ môn đệ nào nghe thấy lời thực hiện theo yêu cầu cụ thể trong hoàn cảnh của mình. Vấn đề ở đây không phải là lo trao nộp tất cả của cải, nhưng là để mình được tự do phục vụ Thiên Chúa theo khả năng của mình có.

Chúng ta phải biết vâng theo Đức Giêsu điều ưu tiên hàng đầu, như bản văn Tin Mừng kêu gọi, là sẵn sàng chịu khổ nạn, tham dự vào sự thương khó của Người.

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Tiền có mua được Nước Trời không?


Chúng ta không lạ gì câu nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Tuy nhiên, trong cuộc sống, sự thật không phải như vậy! Vì hiển nhiên vẫn còn đó những thứ có tiền mà không mua được. Điển hình như: sức khỏe, thời gian và sự sống… Chả thế mà người ta vẫn thường nói: “ Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian”; “Tiền có thể mua được thuốc để chữa bệnh, nhưng không thể mua được sự sống...”. Điều quan trọng là chúng ta biết sử dụng đồng tiền như thế nào cho có ích. Sử dụng nó như đầy tớ hay ông chủ? Đồng tiền có phải là mục đích cuối cùng, hay nó chỉ là một phương tiện để giúp con người đạt được hạnh phúc và mục đích tối hậu của mình?

Tin Mừng hôm trình thuật một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để anh tiến bước hầu hy vọng đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Nghe anh nói xong, Đức Giêsu đã phán: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Nhưng thật buồn, người thanh niên này đã lặng lẽ rút lui chỉ vì anh ta có nhiều tiền của.

Thật vậy, đồng tiền liền với khúc ruột. Đồng tiền gắn liền với cuộc sống. Đồng tiền đôi khi trở thành ông chủ tồi. Và như thế, nó đã là rào cản số một cho những ai muốn tiến xa, tiến sâu trên con đường nhân đức.

Dẫu vẫn biết trước những tai hại của nó, nhưng thực ra không ít người đã vì tiền mà bán rẻ lương tâm khi sẵn sàng trà đạp lên chân lý để đạt được mục đích “rẻ tiền”. Không thiếu người bán cả danh dự, nhân phẩm bản thân trong nghề mại dâm chỉ vì đồng tiền. Cũng không lạ gì những chuyện đâm thuê chém mướn, thay trắng đổi đen và vô luân, phi đạo đức cũng chỉ vì đồng tiền!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dùng của cải như là phương tiện để xây dựng tình bác ái huynh đệ và cùng nhau xây dựng Nước Trời. Bởi vì Nước Trời là kho tàng, đồng tiền chỉ là thứ trợ giúp để ta mua được kho tàng chứ nó không phải kho tàng.

Vì thế, nếu chúng ta cứ bám vào của cải vật chất quá đáng, trái tim của chúng ta sẽ bị kìm chặt nơi thế gian. Của cải thế gian sẽ đóng kín cánh cửa tâm hồn và chúng ta trở thành nô lệ của nó. Như vậy, Chúa không còn chỗ nào trong trái tim, lương tâm và cõi lòng của chúng ta, và, như một lẽ tất yếu: Nước Trời không có chỗ cho những người coi đồng tiền là ông chủ và sống ích kỷ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá và thi hành chân lý mà hôm nay Chúa dạy chúng con. Chân lý đó chính là chọn Chúa là gia nghiệp, là sự sống vĩnh cửu thì sẽ được hạnh phúc. Xin Chúa ban cho chúng con một tấm lòng quảng đại, ngõ hầu chúng con biết sử dụng đồng tiền mau hư chóng hết ở đời này để mua lấy Nước Trời qua sự bác ái. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Ràng buộc của cải vật chất


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Con đường hoàn thiện dẫn tới sự sống đời đời không hệ tại ở việc người ta làm, nhưng là tin theo Chúa Giêsu.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong hoàn cảnh kinh tế thị trường, nhiều người đang làm giàu, nhiều người đang chạy đôn chạy đáo để kiếm công ăn việc làm. Lời Tin Mừng hôm nay quả là khó chấp nhận. Dù nhiều hay ít, dù có hay không, thì tiền bạc của cải vẫn là cơn cám dỗ mãnh liệt cho con người, bởi nó đụng đến sự sống còn, là chỗ dựa an toàn, là phương tiện cần thiết để phát triển sự sống. Cũng chính vì thế mà tiền bạc của cải là nguyên nhân gây ra biết bao thảm họa cho con người, khi người ta tôn thờ và làm nô lệ cho nó.

Lạy Chúa, tuy con chẳng được giàu có như người thanh niên, nhưng nhiều lúc con cảm thấy của cải trói buộc con, cản trở con đi theo Chúa và tín thác vào Chúa, cản trở con mở rộng lòng với tha nhân. Con vẫn còn quá nhiều bận tâm lo lắng, dùng hết thời giờ, sức khỏe, để đi tìm kiếm giàu sang hưởng thụ hơn là kiếm tìm kho tàng trên trời.

Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của những của cải vật chất. Xin đừng để con bị mê hoặc bởi những sự mau qua dưới đất. Xin giúp con cảm nghiệm được sự cao cả của kho tàng trên trời, nhờ đó con biết từ bỏ tất cả những gì là tạm bợ, phù phiếm, để con quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa và hân hoan bước theo Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đòi hỏi anh thanh niên phải tin theo Chúa. Đó là điều anh phải thực hiện. Đó cũng là điều Chúa muốn con phải làm. Tin theo Chúa là điều trước hết và quan trọng nhất. Nếu thiếu niềm tin vào Chúa thì mọi việc con làm đều vô ích. Xin giúp con biết tin theo Chúa cách vô điều kiện. Amen.

Ghi nhớ: “Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Tiến bước theo Chúa Giêsu


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Một người giàu có thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với ngài nữa.

Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, ngài tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giàu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không”. Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá.

Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của ông đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý ngài và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó, ngài nói với ông: “Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”.

Suy niệm

Có người thanh niên chạy đến thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành...”, từ “nhân lành” thường được áp dụng cho Thiên Chúa ở trong Cựu ước (x. Tv 117/118,1; 1Sb 16,34; 2Sb 5,13), chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được coi là “nhân lành”, còn không ai khác là “tốt” cả (x. Rm 7,18). Anh nói lên sự mong muốn của mình: “Tôi phải làm việc lành gì để được sự sống đời đời”. Mong muốn của anh là phải làm gì để thủ đắc “sự sống đời đời” đồng nghĩa với được “nước Thiên Chúa” (x. Mc 9,43-47).

Ngài truyền cho anh: Đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cướp, đừng làm chứng gian, đừng lừa dối ai, hãy thảo kính cha mẹ. Đây là các điều răn trong bài phần lớn được rút từ phần hai của Thập Điều (x. Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21). Giữ các giới răn là phương thế rất phổ thông và truyền thống trong đạo Do Thái. Anh thanh niên rất hài lòng về câu trả lời của Chúa, và hãnh diện thưa với Chúa là mình đã tuân giữ các điều răn ngay từ nhỏ. Thấy anh chân thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên đã tận tình giữ các điều răn, Ngài gọi anh tiến lên bước nữa là trở nên môn đệ Ngài: “Hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta”. Một thách đố Đức Giêsu đề ra cho người đi theo Chúa theo nghĩa hẹp, một bậc sống đạo cao hơn, tư cách của người môn sinh, hơn là một nguyên tắc chung của đời sống Kitô hữu. Đức Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi điểm tựa an toàn của trần gian để tín nhiệm vào bản thân và sứ vụ của Người, điểm tựa và mục đích của người môn sinh: “Rồi đến mà theo ta”. Nhưng anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mt 19:22).

Thánh Augustinô có nhận định sâu sắc về lời mời gọi của Chúa chia sẻ với người anh em nghèo: “Nếu Chúa Giêsu đã nói với chàng thanh niên: “Mất tất cả”, chúng ta hiểu về sự thất vọng của anh, nhưng Ngài nói với anh: “Anh sẽ có kho tàng ở trên trời”. Nếu Ngài nói: “Hãy giao tiền của ngươi cho Ta, Ta sẽ giữ gìn”, anh sẽ chắc chắn tin và giao phó cho Ngài. Nhưng Ngài nói với anh: “Cho tất cả người nghèo”, và anh ta buồn rầu. Tuy nhiên, khi phân chia của cải cho anh em nghèo khó theo lệnh của Thiên Chúa. Người nghèo đó là chính Ngài khi chính anh tặng ban. Đó là người nghèo xin và được bố thí, và người giàu, người được nhận khi anh cho đi với sự chủ tâm chia sẻ” (Sermon LXXXVI 2 & 3).

Cho nên, chúng ta noi gương Ðức Giêsu sống thanh thoát: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58) và hãy sống như Tin Mừng dạy: Đức bác ái yêu thương chia sẻ sẽ đưa chúng ta vào nước Chúa (x. Mt 25:31-46).

Ý lực sống:

“Không được làm tôi hai chủ ...” (Mt 6,24; Lc 16,13).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Người thanh niên giàu có


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Thái độ hiền lành, hoà nhã của Đức Giêsu đã thu hút được đủ mọi hạng người. Một chàng thanh niên giàu có, Luca gọi là “Thủ lãnh” (Lc 18,18-23), đến hỏi Đức Giêsu về điều kiện phải có để được sống đời đời... Qua đối thoại với Chúa Giêsu, anh còn cho biết anh đã tuân giữ tất cả giới răn từ thuở nhỏ. Thấy thiện chí của anh, Chúa Giêsu mời anh tiến một bước xa hơn nữa: bán tài sản, bố thí cho người nghèo, rồi trở lại theo làm môn đệ của Ngài. Điều này đòi hỏi một sự từ bỏ lớn lao. Anh không thể đáp ứng được, vì anh có nhiều của cải. Vì thế anh đã buồn rầu bỏ đi.

Mặc dầu anh thanh niên này là một người tốt. Nhưng xét cho cùng, anh ta còn ích kỷ, anh chỉ nghĩ đến thu vào, anh đã có nhiều thứ và anh chỉ muốn có thêm, chứ không muốn mất đi. Khi đến hỏi Chúa Giêsu, anh muốn được thêm sự sống đời đời nghĩa là anh muốn được cả đời này lẫn đời sau.

Giữa việc tuân giữ Lề luật và thật sự yêu mến Chúa và anh chị em bằng những cử chỉ cụ thể, chàng thanh niên bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cách tốt đẹp với những phẩm tính tốt, như ước muốn làm điều tốt, cố gắng tìm hiểu xem phải làm gì để trọn hảo hơn và tuân giữ những giới răn Chúa truyền dạy. Nhưng không thể dừng lại mãi nơi điểm khởi đầu, người môn đệ của Chúa phải tiến lên, phải thực hiện lý tưởng và đạt cho được cùng đích là Chúa Giêsu Kitô, sống với Người, được trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn: “Nếu con muốn nên hoàn thiện, hãy bán đi tất cả những gì con có đem cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta” (R.Veritas)

Chúng ta nên lưu ý, Chúa Giêsu không đến để bần cùng hóa nhân loại, Ngài đến là để con người được sống và sống sung mãn, và cuộc sống sung mãn trong nhân cách dĩ nhiên không hề đồng nghĩa với bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để sống. Tuy nhiên, khi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, Chúa Giêsu muốn chứng minh rằng: con người có thể sống sung mãn, mà vẫn không phụ thuộc của cải vật chất. Đối với Chúa Giêsu, siêu thoát đối với của cải vật chất là điều kiện tiên quyết để vào Nước trời. Đây là lý do tại sao tám mối phúc thật đầu tiên và cơ bản bao gồm các mối phúc khác chính là: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.

Thật ra, tự nó, của cải không ngăn trở người ta vào Nước trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô. Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của nó, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời (Mỗi ngày một tin vui).

Qua câu chuyện anh thanh niên với Chúa Giêsu, ta thấy con đường nên hoàn thiện phải gồm hai điều: trước hết là phải ước muốn: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện...”. Không thể đạt được điều gì chính đương sự không muốn, không tha thiết. Hễ muốn ta có thể đạt được, như câu ngạn ngữ Pháp: “Muốn là có thể”; thứ đến, sự hoàn thiện không hệ tại những việc lành làm được, mà ở tại việc đi theo Chúa, gắn bó với Chúa: “Hãy đến theo tôi”. Những việc tốt lành làm được chỉ mới là một phần thiện, còn phải trở nên một với Đấng là “Chân, Thiện, Mỹ” nữa thì mới gọi được là hoàn thiện.

Người thanh niên đã giữ giới răn, đã làm những việc tốt, nhưng điều anh thiếu là chính Chúa. Vì thế phải cảnh giác với thái độ tự mãn rằng: khi giữ những giới răn của Chúa và Giáo hội là tôi đã hoàn thiện rồi, trong khi thực ra “Không có Thầy, các con không thể làm được gì”. Một đời sống không gắn bó với chính Đấng nguồn mạch sự thiện, thì chưa phải là hoàn thiện (5 phút Lời Chúa).

Truyện: Chúa phải là trọng tâm

Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Leonardo da Vinci phải là bức tranh bữa Tiệc ly của Chúa Giêsu. Trong đó nhân vật chính là Chúa Giêsu được vây quanh bởi 12 Tông đồ.

Khi đem bức tranh ra triển lãm, Leonardo da Vinci đã kín đáo đứng trong góc phòng, để quan sát cách thưởng thức tranh của quan khách. Ông ngạc nhiên vô cùng khi thấy điểm thu hút trong bức tranh không phải là gương mặt Chúa Giêsu, mà là một cánh hoa nhỏ mà ông đã vẽ trong góc của bức tranh theo thói quen của thời đại đó. Leonardo nhận thức được tức khắc rằng: mình đã phạm một lỗi lầm rất lớn, đó là đã thêm vào một cánh hoa đẹp, để lôi kéo sự chú ý ra khỏi trọng tâm của bức tranh.

Ý thức được như thế, cho nên khi quan khách đã ra về, Leonardo da Vinci dùng cọ để bôi cánh hoa trong góc của bức tranh. Ngày hôm sau, ông cảm thấy sung sướng vô cùng, khi tất cả mọi con mắt quan khách đều gắn chặt vào gương mặt của Đấng Cứu Thế.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Một ơn gọi thất bại


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Chuyện một ơn gọi thất bại:

- Đối tượng là một thanh niên giàu thiện chí. Vì thiện chí, anh tự tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi cách cho được sự sống đời đời. Qua đối thoại với Chúa Giêsu, anh còn cho biết anh đã tuân giữ tất cả giới răn từ thuở nhỏ.

- Thấy thiện chí của anh, Chúa Giêsu mời anh tiến một bước xa hơn nữa: bán tài sản, bố thí cho người nghèo, rồi trở lại theo làm môn đệ Ngài.

- Điều này đòi hỏi một sự từ bỏ lớn lao. Anh không thể đáp ứng được, nên anh buồn rầu bỏ đi.

B.... nẩy mầm.

1. Mặc dù thanh niên này là một người tốt, nhưng xét cho cùng, anh còn ích kỷ, anh chỉ nghĩ tới thu vào, anh đã có nhiều thứ và còn muốn được thêm chứ không dám mất đi. Khi đến hỏi Chúa Giêsu, anh muốn được thêm sự sống đời đời (nghĩa là anh muốn được cả đời này lẫn đời sau). Khi Chúa Giêsu đề nghị anh bỏ tài sản thì anh từ chối.

Đối với Chúa, nhiều khi phải dám mất thì mới được: mất vật chất để được tinh thần, mất về đời này để được đời sau.

2. “Tôi phải làm việc lành gì để được sự sống đời đời?”: Người thanh niên này nghĩ sự sống đời đời là tiền công cho những việc lành. Chúa Giêsu sửa lại cách nghĩ đó: “Sao anh hỏi tôi về việc lành? Chỉ có một Thiên Chúa là Đấng tốt lành”. Theo Chúa Giêsu, điều ta phải nhắm là Thiên Chúa tốt lành chứ không phải những việc lành. Làm việc lành mà nghĩ đến mình, mong cho mình được thưởng thì là lệch hướng. Nhắm đúng hướng là làm mọi việc chỉ vì lòng yêu mến Chúa. Kitô giáo không phải là đạo nhằm đến những công việc, mà nhắm đến một Người là Thiên Chúa.

3. Người thanh niên này đã khá tốt lành, nhưng nếu anh muốn trọn lành thì hãy từ bỏ của cải. Từ đó ta có thể suy ra 2 ý tưởng:

- Sự dính bén với của cải là một cản trở cho việc trở nên tốt lành hơn.

- Sự từ bỏ của cải giúp người ta trọn lành.

4. Có một vị khổ tu Hồi giáo nọ sống rất gương mẫu. Suốt đời ông chỉ có một thao thức là ra sức chống lại tình dục. Khi ông chết, nhiều người thương tiếc, trong số đó có một đệ tử của ông vì thương tiếc quá nên ngã bệnh và cũng qua đời. Khi tới thế giới bên kia, anh chứng kiến một cảnh tượng làm anh rất hài lòng, đó là có những đàn bà đẹp ở với thầy. Anh chợt nghĩ rằng thầy mình xứng đáng được thưởng như vậy, và anh đến chúc mừng thầy. Thế nhưng vị khổ tu quay lại nhìn anh và nói “Ngươi là một thằng điên. Ta không được thưởng công gì cả. Đây không phải là thiên đàng. Những người đàn bà này cũng đang bị trầm luân như ta mà thôi.

Câu chuyện tưởng tượng trên đây muốn nói với chúng ta rằng sự thánh thiện đích thực không hệ tại lối sống khắc khổ hay tuân giữ một cách nhiệm nhặt những qui định của đạo như ăn chay, hãm mình, đọc kinh, bố thí. Đạo của chúng ta không chỉ là hệ thống luân lý gồm những điều phải làm và những điều phải tránh. Sống đạo không phải là một cuộc thao luyện của ý chí. Đạo của chúng ta là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. ("Mỗi ngày một tin vui")

5. Đoạn Tin Mừng này đặc biệt muốn nói với những người hiến thân cho lý tưởng tu trì: sự ham mê và quyến luyến của cải rất không hợp với lý tưởng họ đang theo.

6. Chúa Giêsu trả lời người thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy theo tôi”. (Mt 19,21)

Hồi còn học cấp III, tôi khao khát nên hoàn thiện, và cố gắng thực hiện biết bao “nguyên tắc” do ba má, thầy cô, bạn bè, sách vở... chỉ dẫn. Sau mấy năm nhọc công, tôi được nhiều người khen ngợi, quý mến và kết thân. Với chính mình, tôi cũng cảm thấy hài lòng hơn. Nhưng tự thâm tâm, tôi đã bắt đầu mệt mỏi trước những đòi hỏi của sự hoàn thiện, nhất là những yêu sách của Phúc Âm: toàn là những cái làm và phải làm. Giữa lúc chán ngán đến mệt nhoài, tôi có dịp đọc lại bài Phúc Âm người thanh niên giàu có. giữa anh thanh niên và tôi, hình như có cái gì rất chung...

Vâng, tôi cũng cần bán tất cả, cần quên đi tất cả những cái tôi làm và phải làm. Điều chính yếu, tôi chỉ cần bước theo Giêsu, Đấng hoàn thiện và để Người chiếm trọn đời tôi. Như thế, con đường nên hoàn thiện ngắn nhất là bám chặt vào Đấng hoàn thiện và để Người chiếm trọn cuộc đời.

Lạy Chúa, chỉ mong Ngài lấy đi. Mong chẳng còn gì gọi là con, nhờ thế, con được gọi Ngài là tất cả của con... (Rabindranath Tagore). (Hosanna).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Cảnh giác về của cải


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Người thanh niên này đã khá tốt lành. Mặc dù anh là một người tốt, nhưng xét cho cùng anh vẫn còn ích kỷ. Anh chỉ nghĩ đến thu vào. Anh đã có nhiều thứ và anh chỉ muốn có thêm chứ không muốn mất đi. Khi đến hỏi Chúa Giêsu, anh muốn được thêm sự sống đời đời nghĩa là anh muốn được cả đời này lẫn đời sau. Khi Chúa Giêsu đề nghị anh từ bỏ tài sản thì anh từ chối.

Khi bảo người thanh niên hãy bán hết những gì anh có đi, Chúa Giêsu không có ý khinh thường của cải trần gian, mà Ngài chỉ cảnh giác rằng, của cải, sự giàu sang, có thể là một chướng ngại đáng kể cho ơn cứu độ.

Của cải tự nó không xấu, nhưng nó sẽ trở thành xấu khi nó nhốt con tim và tâm trí của chúng ta vào ngục tù của ích kỷ, của hưởng thụ. Nó sẽ trở thành xấu khi nó ngăn cản không cho chúng ta sống yêu thương quảng đại đối với người khác. Nó sẽ trở thành xấu khi nó không cho phép chúng ta sống một cuộc sống tự do.

Thực vậy, khi của cải không được dùng để phục vụ thì nó sẽ trở thành một yếu tố gia tăng cuộc sống ích kỷ của những người có nó. Lúc đó, nó sẽ trở thành nguồn gốc của bất công, của phô trương, của hưởng thụ.

Ngược lại, nếu của cải được sử dụng đúng với mục đích của nó thì nó sẽ đem lại rất nhiều sự tốt lành.

2. “Tôi phải làm việc lành gì để được hưởng sự sống đời đời?” (Mt 19,16)

Người thanh niên này nghĩ sự sống đời đời là tiền công cho những việc lành của anh ta. Chúa Giêsu sửa lại cách suy nghĩ đó: “Sao anh hỏi tôi về việc lành? Chỉ có một Thiên Chúa là Đấng tốt lành”(Mt 19,17). Theo Chúa Giêsu, điều ta phải nhắm là Thiên Chúa tốt lành chứ không phải những việc lành. Làm việc lành mà nghĩ đến mình, mong cho mình được thưởng là nghĩ lệch hướng. Nhắm đúng hướng là làm mọi việc chỉ vì lòng yêu mến Chúa. Kitô giáo không phải là đạo nhắm đến những công việc, mà nhắm đến một Thiên Chúa.

Sapaco Hara là một cô gái Công giáo người Nhật. Gia đình cô rất giàu có. Một ngày nọ, tình cờ cô đến thăm một làng ở ngoại ô thành phố Tokyo. Làng này đuợc gọi là LÀNG KIẾN. Sở dĩ có tên này là vì dân làng này là dân lao động nghèo, sống chen chúc nhau như bầy kiến. Trẻ em trong làng thì bẩn thỉu, lem luốc, ăn mặc rách rưới. Chúng lê la suốt ngày ở đầu làng cuối xóm mà không được ai săn sóc dạy dỗ cả.

Trước cảnh sống bần cùng của dân LÀNG KIẾN. Sapaco Hara nhận ra một tiếng gọi vang vọng tận đáy lòng cô. Mặc dù cha mẹ và bà con họ hàng hết sức khuyên nhủ, cản ngăn, nhưng Sapaco Hara cứ nhất định dọn đến sống chung trong một xóm của LÀNG KIẾN, để phục vụ dân làng trong công tác bác ái.

Sau 8 năm sống đời phục vụ và hy sinh tận tình, chịu đựng mọi đau khổ vì bị hiểu lầm, Sapaco mắc bệnh lao phổi và qua đời năm mới 28 tuổi.

Người ta cứ tưởng cuộc đời phục vụ ngắn ngủi của Sapaco là uổng công vô ích, thế nhưng không, sau cái chết của Sapaco, toàn thể dân LÀNG KIẾN đã xin theo đạo.

Ông “xếp” của LÀNG KIẾN, người đã chống đối và gây nhiều khó khăn, làm cho Sapaco đau khổ nhất, sau đã sáng tác thơ và viết sách kể lại cuộc đời Sapaco. Một nhà đạo diễn Nhật, đã dựa vào những tài liệu này để dựng thành một cuốn phim về Sapaco. Phim có tựa đề là “Maria của LÀNG KIẾN”.

Thái độ sống của Sapaco Hara mà chúng ta vừa nói đến trên đây trái ngược hẳn lại với thái độ sống của người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay. Một bên đã tìm thấy được ý nghĩa cho cuộc đời của mình còn một bên thì không!

Trong một bài huấn dụ các chị em trong dòng, Mẹ Têrêsa đã nói như thế này: “Như người nghèo cứ tiếp tục nghèo hơn, chúng ta hãy vui mừng hơn nữa về sự nghèo nàn của cộng đoàn chúng ta. Người nghèo bị thiếu thốn quá nhiều những nhu cầu cuộc sống hằng ngày. Chúng ta hãy lưu ý hơn về cách dùng của cải để có thể chia sẻ những khốn quẫn của họ trong phần lương thực, áo quần, nước, xà bông và điện sinh hoạt.”

Thế giới của chúng ta chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn nếu mọi người biết để ý đến nhau. Cuộc sống của chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn khi chúng ta dám thoát ra khỏi cái vòng kiềm tỏa của ích kỷ để biết sống chia sẻ với mọi người.

Mẹ Têrêsa nói: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật khi gắn bó cuộc đời mình với Thiên Chúa”.

Nếu Thiên Chúa cho bạn sự giàu sang, thì hãy dùng nó mà giúp đỡ người khác.

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được điều đó để chúng con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 12: Bán của cải cho người nghèo, rồi theo Chúa


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Anh thanh niên đến gặp Chúa, anh thưa với Chúa rằng: “Lạy Thầy nhân lành, con phải làm việc lành gì để được sống đời đời” (Mt 19, 16). Anh hằng ấp ủ câu hỏi này bao ngày tháng trong cuộc đời của anh. Chính vì thế, khi Chúa trả lời với anh: “Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trôm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình” (Mt 19, 18 – 19), thì anh thưa với Chúa là anh đã làm tốt khi còn thiếu thời rồi, vậy thì bây giờ anh còn thiếu điều gì nữa? Anh vẫn suy nghĩ trong lòng rằng chẳng lẽ làm theo đúng luật Chúa dạy chỉ có bấy nhiêu để được sống đời đời hay sao? Có vẻ dễ dàng quá, ai cũng làm được? Chắc không phải đâu. Chỉ có Chúa mới trả lời thỏa đáng những thắc mắc của anh.

 Chúa biết anh suy nghĩ như vậy, cho nên Chúa mới nói: “Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Đấng nhân lành là Thiên Chúa” (Mt 19, 17). Nghĩa là qua câu nói này của Chúa, Chúa muốn hướng anh nhìn lên Chúa là nguồn gốc mọi sự, là Đấng ban cho anh cuộc sống đời đời, để anh đã sống tốt rồi, đã thực hiện lời Chúa dạy rồi, thì anh hãy cố gắng lên thêm một chút nữa, cố gắng thực hiện lời Chúa sắp nói với anh ngay lúc này, là anh sẽ được Chúa ban cho anh sự sống đời đời mà anh đang ước mơ đây mà thôi.

Nhưng mà thật đáng tiếc, anh đã làm thất vọng Chúa cùng bao nhiêu người đang ở chung quanh anh, và cả những người đang đọc, đang nghe Giáo Hội công cố bài Tin Mừng đây: “Chúa bảo anh: Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho người nghèo khó, thì anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta. Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp” (Mt 19, 21 – 22). Nếu anh là thánh Mátthêô hay là ông Giakêô thì có lẽ anh sẽ làm theo ý Chúa rồi. Chúng ta thấy uổng cho anh thật sự, vì anh đã bỏ qua cơ hội theo Chúa,bỏ qua cơ hội làm môn đệ của Chúa mà biết bao nhiêu người từ xa xưa đến nay ước mơ mà không được (xMt 13, 16 – 17).

Chúng ta thấy chỉ có Chúa mới dám đụng chạm đến tiền bạc là điều dính liền khúc ruột của con người chúng ta. Vì có ai trên trần gian này phú quý, giàu sang bằng Chúa đâu, thế mà Chúa đã bỏ tất cả để Chúa xuống thế làm người cứu chúng ta. Cho nên, chỉ có Chúa mới là Đấng giúp cho con người chúng bỏ bóng bắt hình, bỏ cái tro bụi để lấy vững bền, bỏ cái thoáng qua để lấy cải vĩnh cửu, bỏ cái hư vô để lấy cái trường tồn, bò cái vô thường để lấy điều bất biến. Vì thế tiền bạc là tro bụi, khi chúng ta ra đi về với Chúa, chúng ta bỏ hết tài sản lại cho người khác sử dụng, chứ chẳng mang theo được gì cho đời sau, chúng ta chỉ có mang theo các nhân đức, các việc lành chúng ta làm khi còn sống mà thôi: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽtrở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi, xin chúc tụng danh Đức Chúa” (Gob 1, 21).

 Nhìn vào sự bỏ Chúa vì tiền bạc của anh thanh niên này, chúng ta phải suy xét lại cuộc đời chúng ta, chúng ta có vì tiền của vật chất, danh lợi thú, bổng lộc, ân huệ, cơm áo gạo tiền mà chúng ta bỏ Chúa hay không? Nếu có chúng ta phải quay về với Chúa ngay, vì được lời lãi cả đời này mà đánh mất mạng sống thìđược ích gì (Mc 8, 36). Hãy để cho Chúa giúp chúng ta.

Lạy Chúa, tương lai của chúng con nằm ở trong bàn tay Chúa. Chỉ Chúa biết tương lai của chúng con chứ chúng con không biết. Có một điều chúng con biết là chúng con phải nghe lời Chúa, làm theo ý Chúa là chúng con đừng lệ thuộc vào của cải vật chất, và hãy dùng nó để giúp đỡ anh chị em cơ cực của chúng con là Chúa sẽ thưởng sự sống đời đời cho chúng con, xin Chúa thương giúp đỡ chúng con. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 3: 20/08 Th. Bênađô

Đường vào Nước Trời.
20/08 – Thứ Ba tuần 20 thường niên. – Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".

* Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111, người nhập dòng các đan sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và hiệp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 19, 23-30


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được".

Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?"

 Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Lạc đà qua lỗ kim


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Người thanh niên giàu có đã bỏ đi
khi Thầy Giêsu mời anh bán tài sản và cho người nghèo.
Của cải đã trói buộc anh, dù anh là người có thiện chí.
Anh tìm sự sống đời sau, nhưng lại bị vướng bởi vật chất đời này.
“Người giàu có thật khó vào Nước Trời” (c. 23).
Câu nói này của Thầy Giêsu khiến các môn đệ rất đỗi ngạc nhiên (c. 25),
vì vào thời đó, giàu sang thường được coi là dấu hiệu Chúa chúc lành.
Thầy Giêsu dùng một hình ảnh ngoa dụ, cường điệu,
để diễn tả việc người giàu khó vào Nước Trời,
khó hơn con lạc đà rất to chui qua lỗ kim rất nhỏ.
Dĩ nhiên lạc đà thì chẳng thể nào chui qua lỗ kim được,
nhưng người giàu thì vẫn có thể được vào Nước Trời, dù rất khó khăn,
“vì đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được” (c. 26).
Đã có những người giàu tốt bụng đi theo Thầy Giêsu.
Họ là Giuse Arimathia, Nicôđêmô, Dakêu, là các phụ nữ.
Giuse và Nicôđêmô đã lo mộ phần và việc tẩm liệm Thầy Giêsu.
Dakêu đã tự nguyện chia nửa phần tài sản mình cho người nghèo khó.
Các phụ nữ theo Thầy từ Galilê đã giúp đỡ vật chất cho Thầy (Lc 8, 3).
Có vẻ họ được tự do với của cải trần thế.
Của cải không ngăn cản họ trở thành người môn đệ Thầy Giêsu.
Nhưng cũng phải nhìn nhận của cải vật chất có sức mạnh của nó.
Như người ta hay nói: có tiền mua tiên cũng được.
Tiền bạc của cải có vẻ đem lại chỗ dựa vững chắc cho chủ nhân,
chính vì thế người ta thích thu tích của cải một cách vô độ (Lc 12, 21).
Của cải làm chúng ta phải bận tâm:
“Kho tàng anh em ở đâu, trái tim anh em ở đó” (Mt 6, 21),
kho tàng dưới đất sẽ giữ tim ta dưới đất.
Ham mê của cải có thể bóp nghẹt hạt giống lời Chúa trong tim ta (Mt 13, 22).
Nó làm chúng ta dễ trở nên nô lệ:
“Anh em không thể làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia…
Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài” (Mt 6, 24).
Như thế nó có khả năng đẩy Thiên Chúa xuống hàng thứ yếu.
Quả thực của cải dễ làm ta khép lòng lại trước Thiên Chúa và tha nhân,
và làm cái tôi của ta trở nên cứng cỏi, tự mãn.
Khác với anh thanh niên giàu có, nhóm Mười Hai đã bỏ mọi sự mà theo Thầy.
“Vậy chúng con sẽ được gì?”, họ đã hỏi Thầy Giêsu như vậy.
Thầy hứa sẽ cho họ được cùng Thầy xét xử Israel trong ngày tận thế.
Hơn nữa, Thầy còn hứa bất cứ ai chịu mất mát về gia đình, cơ nghiệp,
đều được đền bù gấp trăm, và nhất là được sự sống đời đời (c. 29).
Hôm nay chúng ta cũng hỏi Ngài như vậy, về cái được, cái mất.
Chúng ta có thể bỏ mất nhiều điều mà thiên hạ coi là giá trị,
như một đời sống tiện nghi, một chỗ làm ổn định, hay một chút tiếng tăm.
Chỉ mong được tấm lòng luôn an vui, hạnh phúc,
vì biết mình được Đức Kitô và ở lại trong Ngài (Pl 3, 8-9).
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Đứng đầu và đứng chót


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa hay làm những chuyện ngược đời: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”. Ghít-ôn là người nhỏ nhất trong một chi tộc nhỏ nhất lại được Chúa chọn làm Thủ lãnh của dân Chúa (năm lẻ). Người thanh niên đạo đức và giầu có, về phương diện xã hội vượt trội hẳn Phê-rô, nhưng chắc chắn sẽ trở thành kẻ đứng chót vì anh ta chối từ lời mời gọi của Chúa. Còn Phê-rô, người ngư phủ nghèo hèn thất học lại trở thành người lãnh đạo Giáo hội. Thành Tia giầu có và kiêu hãnh sẽ bị Chúa cho ngoại bang đến tàn phá, cả đến mạng sống cũng không giữ được (năm chẵn).

Chẳng thể giải thích được nếu không trở lại nguyên lý nền tảng: Chúa là tất cả, con người là hư vô. Có Chúa là có tất cả. Không có Chúa là không có gì hết.

Người giầu sang phú quí dễ gắn bó với tiền bạc hơn với Chúa và dễ cậy dựa vào thế lực đời này hơn là cậy dựa vào Chúa. Và vì thế dễ tin tưởng vào tiền bạc hơn tin Chúa. Đối với họ, tiền bạc có thể giải quyết tất cả. Chả thế mà thành Tia đã tự coi mình như vị thần ngang hàng với Chúa. Chả thế mà người thanh niên giầu có đã quay lưng trước lời mời gọi của Chúa. Còn người nghèo khó thì không có gì để mất nên dễ yêu mến Chúa. Không có thế lực nào để cậy dựa nên dễ cậy dựa vào Chúa. Chẳng thể tin tưởng vào đâu nên chỉ còn biết tin tưởng vào Chúa. Chẳng còn gì nên dễ nhận ra Chúa là tất cả, là gia nghiệp, là kho tàng, là nguồn mạch mọi sự. Và quả thực chỉ có Chúa mới giải quyết được tất cả mọi vấn đề của con người.

Đặc biệt khi người như thánh Phê-rô, tự trở nên nghèo vì Chúa, vì Chúa mà bỏ tất cả mọi sự, dù là những sự chẳng đáng giá gì như manh lưới rách, chiếc thuyền mục, thì Chúa hứa trả lại gấp bội. Nhưng phần thưởng cao quí nhất là chính Chúa. Người nghèo nhất, chẳng còn gì cho mình đã trở nên nhỏ bé để có thể chui qua lỗ kim. Nhưng rồi được Chúa lại có tất cả.

Giá trị của người theo Chúa không tính bằng thời gian, số lượng công việc nhưng tính bằng tình yêu. Người yêu ít thì trở thành đứng chót. Người yêu nhiều sẽ đứng đầu. Kẻ yêu nhiều nhất là dám bỏ tất cả chỉ để được một mình Chúa.

Hãy noi gương thánh Phê-rô, từ bỏ manh lưới rách, chiếc thuyền mục, căn nhà cũ và gia đình nghèo. Vậy mà có khi ta chỉ gắn bó với những cái cũ kỹ, rách nát chẳng có giá trị gì đấy. Hãy sáng suốt nhận định để từ bỏ những thứ vô dụng để được Chúa là tất cả của ta.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Giáo Hội Của Người Nghèo


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

"Giáo Hội của người nghèo", "Ưu tiên phục vụ người nghèo", đó là những khẩu hiệu đã trở thành thời trang trong Giáo Hội kể từ vài thập niên qua. Bất cứ ai có ý thức về công bằng xã hội hoặc đôi chút trăn trở về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, cũng đều thốt lên những khẩu hiệu ấy. Nhưng Giáo Hội có thực sự là Giáo Hội của đại đa số dân nghèo khổ chưa?

Sự hiện diện của người nghèo quả là một thách đố lớn cho Giáo Hội. Ngày nay, tiếng kêu than của họ luôn là một nhắc nhớ cho Giáo Hội về bản chất và sứ mệnh của mình trong thế giới. Cuộc trở lại của Hoàng đế Constantinople vào thế kỷ thứ 4 đã chấm dứt những cuộc bách hại đẫm máu và đã biến Tây Phương thành thế giới Kitô giáo, nhưng không chừng đã làm Giáo Hội quên đi bản chất đích thực của mình. Sự tương nhập giữa thế quyền và giáo quyền đã biến Giáo Hội thành một thế lực chính trị, và các vị lãnh đạo Giáo Hội thành những vua chúa trần gian. Nhiều người đã có lý để nói rằng nhờ những lay động của Karl Marx mà Giáo Hội đã lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo, đồng thời ý thức được vai trò và sứ mệnh của mình trong thế giới ngày nay.

Ngay từ khi mới khai sinh, cộng đoàn Kitô tiên khởi đã ý thức được vấn đề ấy. Tin Mừng hôm nay là một phản ánh về những trăn trở của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, cách riêng cộng đoàn Giêrusalem là cộng đoàn gồm toàn những người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Ðọc lại giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của Kitô hữu đối với tiền bạc của cải, cộng đoàn tiên khởi đặt lại vấn đề về sự hiện diện của người giầu trong Giáo Hội. Theo quan niệm quen thuộc của người Do thái, thì sự giầu sang phú quí là một chúc lành của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đánh đổ quan niệm sai lầm ấy, khi nói rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó", và rằng sự nghèo khó là điều kiện thiết yếu để vào Nước Trời.

Giáo Hội của người nghèo, điều đó có nghĩa là trước tiên tất cả những ai thuộc về Giáo Hội đều phải có tinh thần nghèo khó đích thực, họ phải sống phó thác và quảng đại chia sẻ cho nhau. Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu được điều ấy: họ để chung của cải lại, chia sẻ với nhau và yêu thương đùm bọc nhau như trong cùng một gia đình. Giáo Hội của người nghèo, điều đó cũng có nghĩa là các tín hữu phải lấy sự phục vụ người nghèo làm ưu tiên hàng đầu. Bản sắc của người Kitô hữu do đó được xác nhận bằng chính tương quan với người nghèo.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách sống đạo của chúng ta. Thách đố của Giáo Hội hiện nay cũng chính là thách đố của mỗi người chúng ta. Nếu những người cùng khổ chưa phải là thao thức trăn trở của chúng ta, thì có lẽ chúng ta còn quá xa với Giáo Hội Chúa Kitô. Nếu cuộc sống chúng ta chưa phải là cuộc sống liên đới chia sẻ với người khốn khổ, thì có lẽ chúng ta chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Chiến Thắng Mọi Cám Dỗ


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Sự ham tiền và bám víu vào tiền của làm cho con người trở nên mù quáng và cản bước con người trên con đường theo Chúa. Bài Phúc Âm hôm qua mô tả thái độ của chàng thanh niên buồn rầu bỏ cuộc, không muốn theo Chúa nữa vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu rút ra bài học cho các môn đệ như sau: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Câu kết luận xem ra thật khắt khe, nhưng đây là một lối nói phóng đại của vùng Cận Ðông nhằm đánh động người nghe, khơi lên ý thức về một sự thật quan trọng. Trong đời thường, có bao giờ con lạc đà có thể chui qua lỗ kim nhỏ xíu được. Thế nhưng, giả như có thể có trường hợp này thì nó cũng còn dễ dàng hơn việc người giàu có vào nước Thiên Chúa. Và cách nói qua hai lần phủ định cho rằng không thể được đã nói lên sự thật quan trọng.

Chúng ta không nên hiểu lầm phán quyết khắt khe của Chúa Giêsu về thái độ bám víu của cải và quí trọng của hơn là con người. Chàng thanh niên rút lui vì có nhiều của cải, không phải chỉ có mà thôi nhưng còn bám víu vào đó.

Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không phải chỉ áp dụng cho những ai sắp dấn thân bước theo Chúa cách đặc biệt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai đang theo Chúa nữa. Cám dỗ của quyền lực và tiền của là cám dỗ trường kỳ của thân phận làm người. Thoát ra khỏi cám dỗ này không phải là việc dễ dàng, vì thế Phêrô vội vàng hỏi Chúa Giêsu: "Vậy thì ai có thể được rỗi?" Ðáp lại, Chúa Giêsu mạc khải bí quyết sống cho các môn đệ và cũng là trấn an các ngài: "Ðối với con người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể".

Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, con người cần tin tưởng phó thác vào Người. Bí quyết của Chúa Giêsu đề ra qua câu nói trên là bí quyết sống kết hiệp với Chúa để nhờ sức mạnh của Người mà chiến thắng cơn cám dỗ và thoát khỏi những cản trở không cho ta gặp Chúa. Sự bám víu vào của cải là dấu chỉ của người đồ đệ chưa phát triển được mối tương quan thân tình với Chúa. Chúng ta đang ở mức độ nào đây?

Lạy Chúa

Xin thương giúp con phát triển mối thân tình. Xin giúp con tăng sự sống kết hiệp với Thiên Chúa để trổ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy chúng con không làm chi được.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Từ Bỏ Tất Cả


Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giầu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa.” (Mt. 19, 23-24)

Của giầu mà cậy chi giầu…

Hiển nhiên là đống vàng chẳng tạo ra được liêm chính hay bất chính. Kẻ tôn thờ của cải chẳng khá bao giờ, mà còn bị lòng tham và tính hà tiện dày vò; Người giầu trong đoạn Tin Mừng này chắc chắn là người có gia tài kếch sù và đối với nó có gí trị sinh sống.

Tất nhiên, Đức Giêsu biết tài sản sở hữu không phải là không có giá trị, nó là loại khá quan trọng như tiền bạc, bất động sản, nữ trang. Nó giúp cho có đủ khả năng chính đáng khi người ta biết dùng của cải để thương giúp người khác. Không ai phủ nhận những việc làm tốt lành đó, nếu họ không hoàn toàn từ bỏ Thiên Chúa.

Những kẻ đứng đầu những kẻ rốt hết…

Phê-rô phản ứng đúng theo những ước muốn của chúng ta, những đòi hỏi của chúng ta, cũng là bầy tỏ lòng chân thành. Như hầu hết chúng ta, Phê-rô không ngại phát biểu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy…” Bỏ ai, bỏ gì? truyền thống cho biết phải có gia đình, có nhà cửa ở Ca-phát-na-um, gần biển hồ, có thuyền chài lưới. Ông chưa bỏ nhà cửa, thuyền lưới, người ta thấy ông nhiều lần đem thuyền đi đánh cá. Thế mà ông quả quyết: Chúng con bỏ mọi sự. Chúa đã không trách chi, trái lại Chúa nói: “Anh em hãy theo Thầy.”

Đó là lời mời gọi tiến hơn nữa để yêu mến Chúa. Một tình yêu độc nhất phải từ bỏ tất cả. Người không muốn các ông dựa vào ai nữa.

Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta: càng trơ trọi càng gần Thiên Chúa. Càng nghèo khó, càng cố kết với Thiên Chúa. Trong nhiều dụ ngôn Chúa đã nói như thế. Giờ đây chúng ta chọn Chúa hay chọn Mammon (thần tài)?

J.M

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Tại sao giàu có lại khó vào Nước Trời?


Xem lại CN 28 TN. Thứ Ba tuần 8 TN.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua về chuyện một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để làm sao đạt được sự sống đời đời. Vì thế, Đức Giêsu đã bảo anh ta về bán tất cả của cải để bố thí cho người nghèo thì sẽ được sự sống viên mãn như anh mong muốn. Tuy nhiên anh ta đã buồn rầu và bỏ đi vì lòng anh đã bị đồng tiền che lấp mục đích đời đời.

Khi thấy như thế, Đức Giêsu quay sang các môn đệ và dạy cho các ông bài học về tác hại đồng tiền nếu coi đó là mục đích, là ông chủ. Ngài nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".

Thực ra thì Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho người nghe thấy được sự nguy hiểm của đồng tiền nếu làm sai mục đích.

Thật vậy, vào được Nước Trời thế nào được khi đồng tiền đó là quà hối lộ; là của cướp giật; là đâm thuê chém mướn; là cờ bạc...! Tệ hơn nữa, vì không phải là đồng tiền của mình làm ra bằng mồ hôi nước mắt, bằng công lao vất vả, nên lại dùng đồng tiền bất chính đã chiếm đoạt được để làm những chuyện bất chính khác ...!

Chỉ cần suy tư một chút thôi thì cũng đủ thấy sự nguy hiểm của đồng tiền khi đặt nó sai vị trí và sử dụng không đúng mục đích.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học:

Hãy dùng của cải để xây dựng hạnh phúc cho mọi người, từ trong gia đình đến xã hội cũng như lo việc bác ái, truyền giáo và xây dựng Giáo Hội.

Được như thế, ấy là chúng ta đã nghe theo Chúa và đi trên con đường hoàn thiện mà Chúa muốn chúng ta đi. Như vậy, sự bình an, hạnh phúc chính là phần thưởng Chúa dành cho những ai trung tín và khôn ngoan khi biết quản lý và biết sinh lợi nén bạc Chúa trao theo thánh ý Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa là lẽ sống và gia nghiệp của mình. Như thế, xin cho chúng con biết coi mọi sự chỉ là phù du, phương tiện để đạt được hạnh phúc. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Con lạc đà chui qua lỗ kim


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Giàu có làm cho lòng người khó tin vào Chúa và đi theo Chúa. Phải biết sẵn sàng từ bỏ tất cả với niềm tin tưởng rằng Chúa sẽ đền bù gấp bội những điều ta từ bỏ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người đời coi của cải là nơi nương tựa, là phương tiện sống hạnh phúc và là chỗ phòng thân. Vì thế, họ thường tìm kiếm nó bằng mọi giá, thậm chí bán rẻ lương tâm Kitô hữu, bán rẻ nhân phẩm và ngay cả linh hồn mình. Và khi có được của cải, người ta dễ an tâm vì tưởng rằng nó sẽ là chỗ cậy dựa trong tương lai. Của cải làm lòng người khó lắng nghe Lời Chúa mời gọi, và vì thế dễ quên Chúa và dễ đánh mất Nước Trời.

Con cảm thấy các tông đồ có thái độ khác. Các ngài đã mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa, đã sẵn sàng từ bỏ hạnh phúc nhỏ nhoi để được hạnh phúc đời đời, đã đổi nơi nương tựa tạm bợ để tựa nương vào Chúa. Thật hạnh phúc khi ở trần gian, các ngài đã được ở với Chúa, được sống trong sự yêu thương bao bọc của Chúa, được biết bao hồng ân to lớn và giá trị hơn những gì các ngài đã từ bỏ. Các ngài đã được cả một gia sản là Nước Trời và được sống hạnh phúc đời đời trong Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra rằng của cải trần gian này dù cần thiết đến đâu, cũng vẫn chỉ là tạm bợ. Xin đừng để con bám víu vào nó. Xin cho con nhận ra lòng quảng đại bao la của Chúa, để sẵn sàng bước đi theo lời mời gọi của Chúa và tin tưởng rằng, Chúa sẽ đền bù cho con gấp bội. Xin đừng để con vì quá ham mê của cải trần thế mà đánh mất hạnh phúc đời đời. Amen.

Ghi nhớ: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Nô lệ cho của cải


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Trong toán học, chúng ta đã biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân: Số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ: 000,000,1.

Tuy nhiên, nếu số một đứng đầu thì sau đó càng có nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí dụ: 1,000.000.

Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại, Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy (Theo Frank Mihalic).

Suy niệm

Anh chàng thanh niên thánh thiện giàu có trước lời khuyên đưa anh đến sự trọn lành: Chia sẻ của cải cho người nghèo. Anh chỉ muốn giữ lưu lại các tài sản. Cho nên, anh rời bỏ con đường trọn lành, Chúa Giêsu đưa ra nhận định: “Người giàu có khó vào được nước Trời” bằng hình ảnh so sánh: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Trời”. “Khó vào” chứ không phải là không vào được.

Khi nhận xét về sự từ bỏ con đường theo Chúa của anh thanh niên giàu có đạo đức, thánh Gioan Chrysostome, nhận định: “Chúa Giêsu không kết án sự giàu có, nhưng kết án những ai làm nô lệ cho chúng… Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại nói về sự khó khăn của những người giàu có khó đi vào nước Trời, cho các môn đệ và những người nghèo không có gì sở hữu? Ngài muốn giáo huấn họ đừng có hổ thẹn về sự thanh bần của mình và Ngài giải thích cho họ biết lý do Ngài đề nghị họ không nên có gì để sở hữu” (Homélie LXIII 2). Như Ðức Giêsu sống thanh thoát mà Ngài đã tuyên bố với những người muốn theo Ngài: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58).

Trong tương quan với cuộc sống, tiền của luôn là phương tiện cho cuộc sống, nhưng nếu để của cải chi phối nó trở nên mục đích và cứu cánh, trở thành chủ chi phối cuộc sống của mình và mình trở thành nô lệ chúng, Chúa Giêsu cảnh báo: “Không được làm tôi hai chủ…” (x. Mt 6,24; Lc 16,13).

Xin đừng để tiền bạc làm mờ tối tâm hồn chúng con, cho chúng con biết dùng của cải mà mua nước Trời. Chúng con chỉ tùy thuộc vào Chúa…

Ý lực sống:

“Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn,
Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm” (Cn 19,17).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Người giàu khó vào Nước trời


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Sau câu chuyện người thanh niên buồn rầu bỏ đi, Chúa Giêsu tiếp tục nói chuyện với các môn đệ. Ngài phán: “Người giàu khó mà vào Nước trời”. Câu tuyên bố này làm các môn đệ hết sức bỡ ngỡ nên đã nói: “Vậy thì ai mới có thể được cứu độ?” Nhưng Chúa Giêsu an ủi: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”.

Sau đó Chúa hứa phần thưởng cho các môn đệ đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài: họ sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nên lưu ý: người thanh niên giàu có cũng muốn được sự sống đời đời, nhưng vì anh không chịu từ bỏ, nên Chúa không hứa gì với anh. Bây giờ các môn đệ đã từ bỏ mọi sự, nên Chúa hứa ban cho họ sự sống đời đời.

Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua về chuyện một thanh niên đến xin Chúa Giêsu chỉ giáo làm sao đạt được sự sống đời đời. Vì thế, Chúa Giêsu đã bảo anh ta về bán tất cả của cải để bố thí cho kẻ khó nghèo, thì sẽ được sự sống đời đời như anh mong muốn. Tuy nhiên anh ta đã buồn rầu bỏ đi, vì lòng anh đã bị đồng tiền che lấp mục đích đời đời.

Khi thấy như thế, Chúa Giêsu quay sang các môn đệ và dạy cho các ông một bài học về tác hại của đồng tiền nếu coi nó là mục đích, là ông chủ, Ngài nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước trời”.

Thực ra, Chúa Giêsu dùng kiểu nói ngoa ngữ, phóng đại để cho người nghe thấy được sự nguy hiểm của tiền bạc nếu làm sai mục đích.

“Con lạc đà chui qua lỗ kim...”

Hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim là một kiểu nói mạnh theo lối Do thái; nhưng rất điển hình để diễn tả điều Chúa muốn nói: tin là ơn siêu nhiên Thiên Chúa ban (Ga 6,40): việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến; chỉ ai sẵn sàng nên khó nghèo về bản thân và của cải vật chất mới biết đón nhận ơn đó.

Người ham hố của cải vật chất cũng như tinh thần, làm ngăn cản lòng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Chúa, vì thế rất khó được vào Nước trời. Người tông đồ không được dính bén về sự ham hố của cải vật chất, kẻo làm ngăn cản cho ý hướng, tâm tình và công việc tông đồ (Lm. Trần Hữu Thành).

Sống trên đời ai cũng muốn mình được giàu có, để cuộc sống được đầy đủ và nâng cao. Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Người giàu khó vào Nước trời”.

Người giàu ở đây không chỉ nói giầu về của cải vật chất, mà còn là giàu về địa vị, tài năng, kiến thức... Thật ra, tất cả những thứ ấy không phải là điều xấu, nhưng nó trở nên xấu khi con người biến những thứ ấy thành cứu cánh của đời mình và không còn xem trọng các giá trị của Nước trời. Khi đó, họ luôn sống trong tình trạng đầy đủ, không cần đến ai giúp, cũng như không muốn giúp ai. Do đó, họ chỉ biết sống cho riêng mình và làm theo ý riêng, dù nó đi ngược với thánh ý của Chúa. Và như vậy, họ khó có thể vào Nước trời.

Được cứu rỗi là ưu tiên hàng đầu và chính đáng của bất cứ ai biết quan tâm đến số phận đời mình, đặc biệt là các môn đệ của Chúa Giêsu. Thế nhưng, một cản trở rất lớn cho ơn cứu rỗi ấy là lòng ham muốn của cải trần thế quá mức khiến ta quay lưng với các đòi hỏi của Tin mừng: lòng nhân nghĩa, sự công bằng và tinh thần phó thác. Không phải hễ giàu là xuống hỏa ngục, nhưng chỉ những người giàu ích kỷ như ông phú hộ đối với anh Lazarô trong Lc 16,19-31 mới bị trừng phạt. Còn giàu có như thánh nữ Elizabeth nước Hungari, dùng của cải giúp người nghèo, sống như người nghèo, lại có cơ hội không thể tốt hơn để được vào Nước Thiên Chúa (5 phút Lời Chúa).

Phần thưởng cho những người từ bỏ

Khi nói hai chữ “từ bỏ” tức là không còn, hoặc mất đi một cái gì đó mà trước đây mình đã có hay đã sở hữu. Tâm lý con người thường không chịu thua thiệt, luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng, hoặc “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Thánh Phêrô đã hỏi thay cho chúng ta: Từ bỏ mọi sự, theo Ngài chúng con sẽ được gì? Nhìn chung khi bất cứ làm việc gì có thể là tốt, có thể là xấu điều đầu tiên mà ai cũng nhằm đến, đó là phải có lợi, có lời.

Sau khi đưa ra một loạt những việc từ bỏ: cha mẹ, anh em, ruộng vườn, nhà cửa... Chúa Giêsu khẳng định sẽ trọng thưởng gấp bội nhất là được sự sống đời đời mai ngày. Phần thưởng gấp bội ở đây phải hiểu theo nghĩa là sẽ nhận được những giá trị khác quý giá gấp trăm lần. Phần thưởng sự sống đời đời mai sau là phần thưởng vô cùng to lớn, không gì có thể đánh đổi được giá trị của sự sống hạnh phúc đời sau.

Truyện: Hãy tránh sự tham lam

Người kia mua mảnh đất của người láng giềng. Khi đào đất để đổ nền nhà, anh tìm được hũ vàng. Vốn là người lương thiện và thành thật, anh mang hũ vàng qua nhà người láng giềng và nói: “Đây là hũ vàng tôi tìm thấy trong mảnh đất ông đã bán. Tôi mua đất chứ không mua hũ vàng. Vậy tôi xin trả lại hũ vàng cho ông”. Người láng giềng cũng lương thiện không kém. Ông không nhận hũ vàng và giải thích như sau: “Khi bán miếng đất, tôi đã có ý định bán tất cả những gì chứa trong đó. Vậy hũ vàng là của anh”. Hai bên cứ nhường nhau mãi cho đến tối, mà không ai chịu nhận hũ vàng. Rốt cuộc cả hai đồng ý tạm ngưng tranh luận, hẹn hôm sau sẽ bàn tiếp.

Nhưng qua một đêm trằn trọc suy nghĩ, họ đã bị con quỷ tham lam nhập vào lúc nào không hay. Sáng hôm sau hai người gặp lại. Người mua đất liền nói: “Tôi đã suy nghĩ kỹ lại thì thấy lời ông nói hôm qua quả là chí lý: Tôi đã mua đất của ông, tất nhiên mọi sự trong mảnh đất ấy đều thuộc về tôi”. Người láng giềng cãi: “Không phải thế. Hôm nay tôi đã xét kỹ thì thấy lời hôm qua rất xác đáng: anh không thể nào mua món đồ nào mà chính anh không có ý định mua. Anh chỉ mua đất chứ không mua vàng, anh hãy trả lại hũ vàng cho tôi”.

Hai người cãi nhau dữ dội. Từ đó họ không còn là láng giềng tốt của nhau mà trở thành thù địch của nhau.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 10: Phần thưởng người từ bỏ để theo Chúa


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Cuộc nói chuyện của Chúa Giêsu với các môn đệ sau câu chuyện người thanh niên nhà giàu:

- Chúa Giêsu tuyên bố: “Người giàu thật khó mà vào Nước Trời”

- Các môn đệ quá bỡ ngỡ nên than: “Vậy thì ai mà có thể được cứu độ!”

- Chúa Giêsu an ủi: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”

Sau đó Chúa hứa phần thưởng cho các môn đệ đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài: họ sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nên chú ý: người thanh niên nhà giàu cũng muốn được sự sống đời đời, nhưng vì anh không chịu từ bỏ nên Chúa không hứa gì với anh. Bây giờ các môn đệ đã từ bỏ mọi sự nên Chúa hứa ban cho họ sự sống đời đời ấy.

B.... nẩy mầm.

1. “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Trời”: của cải vật chất tuy rất hữu ích cho sự sống đời này, nhưng hoàn toàn vô ích cho sự sống đời đời, có thể còn là một cản trở rất lớn.

2. “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”: hãy trình bày với Chúa điều gì hiện tôi không thể làm được, và xin Chúa giúp ta làm điều đó.

3. Người kia mua của người láng giềng một mảnh đất. Khi đào đất để đổ nền nhà, người đó tìm được một hũ vàng. Vốn là người lương thiện và thành thật, anh mang ngay hũ vàng qua nhà người láng giếng và nói: “Đây là hũ vàng tôi tìm thấy trong mãnh đất ông đã bán cho tôi. Tôi mua đất chứ không mua hũ vàng. Vậy tôi xin trả lại hũ vàng cho ông”. Người láng giềng cũng lương thiện không kém. Ông không nhận hũ vàng và giải thích như sau: “Khi bán miếng đất cho anh, tôi đã có ý định bán tất cả những gì chứa đựng trong đó. Vậy hũ vàng là của anh”. Hai bên cứ nhường nhau mãi cho đến tối mà chưa ai chịu nhận hũ vàng. Rốt cuộc cả hai đồng ý tạm ngưng tranh luận, hẹn hôm sau bàn tiếp.

Nhưng qua một đêm trằn trọc suy nghĩ, họ đã bị con quỷ tham lam nhập vào lúc nào không hay. Sáng hôm sau hai người gặp lại. Người mua đất liền nói: “Tôi đã suy nghĩ kỹ lại thì thấy lời ông nói hôm qua quả là chí lý: tôi đã mua đất của ông, tất nhiên mọi sự có trong mảnh đất ấy đều thuộc về tôi”. Người láng giếng cãi: “Không phải thế. Hôm nay tôi đã xét kỹ thì thấy lời anh nói hôm qua rất xác đáng: anh không thể nào mua một món đồ mà chính anh không có ý mua. Anh chỉ mua đất chứ không mua vàng. Anh hãy trả lại hũ vàng cho tôi.”

Hai người cãi nhau dữ dội. Từ đó họ không còn là láng giềng tốt của nhau mà trở thành thù địch.

4. “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19,29)

Abraham, tổ phụ chúng ta, đã vâng lời Thiên Chúa. Ông đã đem Isaac - con trai độc nhất của mình - mà tế lễ cho Ngài. Còn gì đau khổ bằng chính người cha phải đem giết con trai mình vì bất cứ lý do gì. Thế nhưng, Abraham đã làm được điều đó. Ông đã hy sinh cái quý giá nhất của mình cho Chúa. Thiên Chúa đã thấu hiểu lòng trung thành của ông và Ngài đã ban cho ông không những một người con mà có cả một dòng dõi đông đúc.

 Để tỏ lòng trung thành với Chúa, Abraham tổ phụ đã dâng Isaac; còn chúng con, chúng con đã hy sinh được gì? Xin Chúa giúp sức cho chúng con để chúng con biết trung thành với Chúa, và sống hy sinh vì Chúa. (Hosanna).

 ------------------------------

 

Suy Niệm 11: Sử dụng của cải cách hữu ích


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng có liên quan đến vấn đề của cải vật chất. Của cải vật chất tự nó không xấu. Nó chỉ trở thành xấu khi người ta không biết sử dụng nó hay khi vì ham thích nó quá mà người ta đã tán tận lương tâm, đôi khi có người dám hy sinh cả Đức Tin để chiếm hữu cho được nó. Chúng ta thấy chẳng thiếu gì những người chỉ vì một chút của cải vật chất mà đánh mất cả tình nghĩa, cả lương tâm của mình.

Người kia mua của người láng giềng một mảnh đất. Khi đào đất để đổ nền nhà, người đó tìm được một hũ vàng. Vốn là người lương thiện và thành thật, anh mang hũ vàng qua nhà người láng giềng và nói: - Đây là hũ vàng tôi tìm thấy trong mảnh đất ông đã bán cho tôi. Tôi mua đất chứ không mua hũ vàng. Vậy tôi xin trả lại hũ vàng cho ông.

Người láng giềng cũng là người lương thiện không kém nên ông không nhận hũ vàng với những lời giải thích như sau: - Khi bán miếng đất cho anh, tôi đã có ý định bán tất cả những gì chứa trong đó. Vậy hũ vàng là của anh.

Hai bên cứ nhường nhau mãi cho đến tối mà vẫn chưa có ai chịu nhận hũ vàng. Rốt cuộc cả hai đồng ý tạm ngưng tranh luận, hẹn hôm sau bàn tiếp.

Nhưng qua một đêm trằn trọc suy nghĩ, họ đã bị con quỷ tham lam nhập vào lúc nào không hay. Sáng hôm sau hai người gặp lại. Người mua đất liền nói: - Tôi đã suy nghĩ kỹ lại thì thấy lời ông nói hôm qua quả là chí lý: Tôi đã mua đất của ông, tất nhiên mọi sự trong mảnh đất ấy đều thuộc về tôi.

Người láng giềng cãi: - Không phải thế. Hôm nay tôi đã xét kỹ thì thấy lời hôm qua anh nói với tôi rất xác đáng: anh không thể nào mua món đồ nào mà chính anh không có ý định mua. Anh chỉ mua đất chứ không mua vàng, anh hãy trả lại hũ vàng cho tôi.

Hai người cãi nhau dữ dội. Từ đó họ không còn là láng giềng tốt của nhau mà trở thành thù địch của nhau.

Một nhà triết học người Đức có lần đã nói với các đồ đệ của mình như thế này: “Nếu các bạn xem đồng tiền là thượng đế thì có ngày nó sẽ trở thành con quỷ dày vò các bạn”.

2. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói một cách hết sức cường điệu nhưng cũng không kém vẻ nghiêm trọng như sau “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Trời” (Mt 19,24).

Một em bé thọc tay vào trong một chiếc bình cổ quí giá rồi không rút tay ra được. Thế là em khóc. Cha mẹ của em chạy tới làm hết cách để kéo tay em ra, nhưng đều vô ích. Cuối cùng, họ đành quyết định đập bể chiếc bình cổ quí kia để cứu con.

Nhưng có lẽ vì còn tiếc chiếc bình cổ, nên trước khi đập bể chiếc bình, người cha bảo con:

- Con hãy cố gắng lần cuối cùng nữa xem sao. Bây giờ con hãy làm theo ba chỉ nhá. Con hãy duỗi thẳng những ngón tay của con ra, con chụm chúng lại, rồi con thử rút ra xem có được không.

Người cha đứa bé vừa nói, vừa làm mẫu để cho con bắt chước.

Nhưng đứa bé vừa nghe thấy ba nó nói thế liền phản đối:

- Thưa ba, làm như thế thì rơi mất đồng tiền con cầm ở trong tay còn gì?

Bấy giờ cả nhà mới vỡ lẽ ra là, sở dĩ em bé đã không rút tay ra khỏi chiếc bình chỉ vì em vẫn nắm chặt đồng tiền trong tay em. Thì ra chỉ vì đồng tiền mà em bé kia đã bị kẹt tay trong chiếc bình cổ.

Vâng, nếu chúng ta không coi chừng thì chúng ta cũng bị lòng ham mê tiền bạc của cải ràng buộc chúng ta vào những cạm bẫy vô cùng nguy hiểm tương tự như thế.

Người giàu có khó vào Nước Trời không phải vì những của cải người đó có mà thường là vì những người giàu có ít biết chia sẻ, ít biết nghĩ đến người khác nhất là những người nghèo khổ quanh mình.

Nhưng cũng phải coi chừng đừng tưởng cứ nghèo khó là đương nhiên được vào Nước Trời!

Nghèo mà lại để cho cái nghèo bóp nghẹt tiếng lương tâm, để rồi sau đó mắc vào đủ mọi thứ tệ nạn như giành giật, chà đạp, đàn áp lẫn nhau thì cái nghèo đó chẳng phải là cái nghèo được Chúa chúc phúc.

Trái lại nghèo mà lòng vẫn trong sạch, tâm trí luôn hướng đến những giá trị của Tin Mừng thì mới thực là người được Chúa chúc phúc.

Xin Chúa giúp cho chúng ta biết sử dụng của cải Chúa ban cho một cách hữu ích để chúng ta xứng đáng được gọi là “những người nghèo của Thiên Chúa”.

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Xin Cha cho chúng con biết chia sẻ những gì Chúa cho nhau. Amen.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 12: Người giàu có khó vào nước trời


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Chúa nói những người giàu có thật khó vào Nước Trời, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời (Mt 19, 23 - 24). Chúng ta hiểu điều Chúa nói đó là vì những người giàu có, họ chỉ dựa vào tiền của, họ không dựa vào Chúa, họ bỏ Chúa để chạy theo của cải thì làm sao Chúa cho họ vào Nước Trời. Chính họ không muốn vào Nước Trời thì Chúa cũng thua tự do của họ.

Với chúng ta, khi chúng ta từ bỏ của cải tiền bạc vật chất như là nhà cửa, ruộng nương, và cả những tình cảm trong đời sống như là tình anh chị em, tình cha mẹ, tình vợ con, Chúa không quên chúng ta đâu. Các tông đồ ngày xưa đã bỏ hết mọi sự để theo Chúa, làm tông đồ cho Chúa, Chúa không quên các ngài, cho nên Chúa mới nói các con đã theo Thầy, thì ngày tái sinh, khi Chúa ngự trên tòa vinh hiển, Chúa cũng cho các tông đồ ngồi trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Israel (Mt 19, 28). Còn phần riêng với chúng ta, Chúa sẽ bù đắp cho chúng ta. Thời Cựu Ước, Chúa đã bù đắp lại tất cả những gì ông Giob đã mất trong những ngày Chúa thử thách ông. Ngày hôm nay, Chúa bù đắp cho chúng ta gấp trăm những gì chúng ta đã từ bỏ để theo Chúa. Nhưng đây không phải là điều chính yếu mà chúng ta ước mơ, theo đuổi. Điều chính là Chúa sẽ cho chúng ta chiếm hữu được sự sống đời đời, đây mới là điều chúng ta theo đuổi.

Chúa làm được tất cả mọi sự, đối với con người chúng ta là không được, nhưng đối với Chúa thì mọi sự có thể được. Con lạc đà to bự như thế, Chúa làm cho nó chui qua lỗ kim được, Chúa có thể làm cho tất cả chúng ta được vào Nước Trời, nhưng Chúa lại thua sự tự do của chúng ta. Chúng ta lắc đầu từ chối, không đồng ý điều Chúa nói thì Chúa cũng thua luôn. Chúa muốn mà chúng ta không muốn, Chúa cũng đành rút lui. Vì thế mà chúng ta là những người trước hết sẽ trở nên sau hết (Đi trước về sau). Nếu chúng ta đồng ý để Chúa giúp chúng ta thì chúng ta từ người sau hết sẽ trở nên trước hết (Đi sau về trước).

Nước Trời được Chúa tạo lập và ban cho tấ cả mọi người chúng ta. Chúa không muốn một ai bị loại ra khỏi Nước Trời và phải chết. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa để chúng ta được sống. Đừng bỏ Chúa chạy theo của cải, vì làm như vậy chúng ta sẽ chết, Chúa không cứu chúng ta được. Hãy tử bỏ mọi sự và theo Chúa, giữ huấn lệnh Chúa truyền dạy để Chúa cứu chúng ta.

Lạy Chúa, cuộc sống của chúng con đầy tội lỗi, tâm hồn chúng con bị dập nát vì ham mê của cải tiền bạc vật chất. Chúng con đã để Chúa qua một bên và tự mình lo tìm cơm áo gạo tiền để rồi chúng con bị rơi vào vòng xoáy của nó, làm chúng con chao đảo ngã nghiêng trong đời sống đức tin, đôi lúc chúng con cô đơn bơ vơ lạc loài như chim kia đậu mái hiên, có cất kêu van chẳng ai thèm trông đến. Chỉ có Chúa mới thương xót chúng con, là nơi chúng con nương nhờ. Xin Chúa thương cứu chúng ta, đừng để chúng con sống xa rời Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 4: 21/08 Th. Piô 10, giáo hoàng

Lòng nhân lành của Chúa.
21/08 – Thứ Tư tuần 20 thường niên. – Thánh Piô 10, giáo hoàng. Lễ nhớ.
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".

* Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong Chúa Kitô” với lòng đơn sơ, đời sống thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Người qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 20, 1-16a


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
"Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
"Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"

"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Vì tôi tốt bụng


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giê-su,
ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Ít raen, được gấp trăm về mọi sự,
và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ong chủ độ lượng”.
Trong thế giới thời Đức Gíê-su, người ta mướn thợ buổi sáng
và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ong chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường
với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất công nằm ở chỗ làm nhiều. làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:
đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người
đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu.
Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những người không được ai mướn” (c.7),
những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao.
chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng,
biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hỹ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì lòng tốt của Ngi không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
 
Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
Nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
Mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
Và giữa ánh sáng,
Cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
Xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
Xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
Dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
Đối diện với những thách đố
Vì biết rằng cuối cùng
Chiến thắng thuộc về người
Có niềm hy vọng lớn hơn. Amen
 
---------------------------------

 

Suy Niệm 2: Ông chủ tốt bụng


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con người thường dùng quyền lực để áp bức. Vì quyền lực A-vi-me-lec không ngần ngại giết 70 người anh em trong gia đình. Vì lợi, người dân Si-khem không ngần ngại chọn A-vi-me-lec chỉ với lý do đây là người thân (năm lẻ). Nhưng rồi quyền lợi sẽ mâu thuẫn nhau. Người ham quyền ham lợi sẽ bóc lột dân như lời E-dê-kien: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi làm thịt; nhưng các ngươi lại không lo chăn dắt đàn chiên… Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (năm chẵn). Giống như Gio-tham mô tả trong ngụ ngôn chống lại A-vi-me-lec: “Bụi gai trả lời cây cối: Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng”(năm lẻ).

Chỉ có Chúa là ông chủ tốt bụng, không đến để khai thác sức lao động của công nhân, nhưng chăm lo cho đời sống của từng người.

Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng quan tâm tới từng người, đặc biệt là người bị bỏ rơi. Người thợ không có ai thuê là người kém may mắn trong xã hội. Bị xã hội gạt ra ngoài lề. Chỉ có Thiên Chúa mới quan tâm, mời họ vào làm vườn nho cho Chúa.

Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng, không chỉ có công bình mà còn có tình thương. Công bình tuyệt đối chỉ có trong hỏa ngục. Xã hội không tình thương không thể sống được. Xã hội là một toàn thể, là một gia đình Thiên Chúa. Trong một toàn thể, cần phải có sự hài hòa trong tổng thể. Ta liên đới với người khác. Ta không thể hạnh phúc một mình. Người đau khổ là lời chất vấn lương tâm trách nhiệm của ta. Thiên Chúa dậy ta hãy quan tâm tới anh em bé nhỏ khi trả cho người thợ chỉ làm 1 giờ số lương đủ sống cho cả gia đình.

Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng, không nhìn con người theo hiệu năng công việc nhưng nhìn theo tình người. Xã hội hôm nay nhìn con người theo hiệu năng. Nên những người già cả, ốm yếu bị loại trừ. Trong mắt Thiên Chúa, con người không những là nhân vị đáng kính trọng mà còn là những người con đáng yêu mến. Theo nhãn quan thiêng liêng, những người bất hạnh, đau khổ là nguồn ơn phúc cho chúng ta vì những đau khổ của họ thông phần vào sự đau khổ của Chúa Giêsu.

Xin cho chúng ta biết chọn ông chủ tốt bụng để chúng ta được quan tâm khi đau yếu, tha thứ khi lỗi phạm và luôn được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta bằng tình yêu thương vượt tất cả mọi tình yêu thương.

---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Lòng Quảng Ðại Của Thiên Chúa


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.

Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.

Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.

Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.

Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Giá Trị Và Nhân Phẩm Con Người


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Qua câu chuyện ngụ ngôn về người chủ vườn và các công nhân làm vườn nho, Chúa Giêsu đã diễn tả lòng quảng đại và lòng bác ái vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài đã dùng một thực tại rất gần gũi với đời sống xã hội của người Do Thái đương thời là vào thời ấy các công nhân thường hay đứng đợi ở những nơi công cộng như chợ búa chẳng hạn, để chờ các chủ nhân đến mướn làm việc. Thường là những công việc làm ngắn hạn, có khi chỉ là một ngày công mà thôi cho nên nếu ngày nào mà có những công nhân đó không có việc làm có nghĩa là ngày ấy thiếu những bát cơm nóng trên bàn ăn của gia đình.

Trong chuyện ngụ ngôn hôm nay, người chủ nhân đã gọi các công nhân làm việc vào giờ cuối cùng nhưng đã rộng lượng trả tiền thù lao cho họ ngang bằng với tiền trả cho những người làm việc cả ngày. Qua lối nói ẩn dụ này Chúa Giêsu cho thấy lòng nhân ái của Chúa Cha đối với nhân loại, nhất là đối với những kẻ tội lỗi, những người bị áp bức và bị đẩy ra bên lề của xã hội phong kiến thời ấy. Có những người thất nghiệp không phải vì họ lười biếng không chịu làm việc mà vì hệ thống kinh tế thời đó không tạo ra công ăn việc làm cho người dân. Người chủ nhân mướn và trả công thật hậu cho những người làm việc vào giờ chót, cho thấy tấm lòng quảng đại bao la của ông, vì nếu ông chỉ trả lương đúng theo số giờ họ đã làm việc thì chắc chắn là gia đình của những người này sẽ thiếu ăn trong ngày hôm đó.

Thiên Chúa chính là vị chủ nhân tốt lành và quảng đại với tất cả tạo vật của Ngài. Ngài luôn quan tâm và thương xót nhân loại, nhất là đối với những người đau khổ về mặt vật chất lẫn tinh thần như lời Ngài nói: "Tất cả những ai mang gánh nặng nề hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". Như thế, người chủ nhân đã rộng lòng trả tiền lương cho tất cả các công nhân ngang bằng nhau, không kể họ làm việc vào giờ nào, điều đó không phải là sự bất công. Người chủ vườn là Thiên Chúa luôn công bằng với các tạo vật của Ngài, ai làm việc nhiều giờ hay ít giờ đối với Ngài không là việc thiết yếu; điều quan trọng là ý định và thái độ làm việc của các công nhân.

Thiên Chúa yêu mến những ai phục vụ Ngài bằng với tinh thần yêu thương và hân hoan chứ không làm việc vì muốn được hưởng công hậu hay vì mục đích tham vọng cá nhân. Sự làm việc có một giá trị thiêng liêng đối với con người vì qua sự làm việc, con người làm vinh danh Thiên Chúa và cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Ngài. Qua công việc làm, con người trở nên hữu ích và góp phần vào công việc xây dựng và làm thăng tiến xã hội, và cũng qua đó tìm thấy giá trị và nhân phẩm của mình.

Qua chuyện ngụ ngôn hôm nay những công nhân được mướn làm giờ đầu tiên ám chỉ đến dân tộc Israel, là dân tộc đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng và được Ngài mạc khải chương trình cứu độ, nhưng dân Do Thái đã từ khước Thiên Chúa lại còn giết hại Con Một do Ngài sai tới để cứu chuộc thế gian. Nhưng tình yêu thương được thể hiện qua công trình cứu độ của Thiên Chúa không giới hạn trong quốc gia Do Thái mà còn mở rộng đến mọi dân tộc trên thế gian.

Các công nhân được gọi làm việc trong vườn nho vào giờ cuối cùng là hình ảnh tiêu biểu cho tất cả các dân ngoại đã từng hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa như Ngài đã ban ơn cho dân Do Thái.

Lạy Chúa,

Xin dạy cho chúng con biết phục vụ Chúa và những anh chị em khác với lòng quảng đại và niềm hân hoan. Xin cho chúng con biết dâng hiến nhiều hơn là cầu xin cho sự ích lợi của riêng mình.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Sống Hằng Ngày Với Ý Hướng Đời Đời


“Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.

Chiều đến ông bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại và trả công cho họ, bắt đầu từ người vào làm sau chót tới người làm trước nhất.”

Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.”

Thế là những kẻ đứng sau chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. [Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.] (Mt. 20, 1.8.11.12.16)

Người ta cho rằng: “Sự giải thích thực tế của cổ truyền không được nhất trí về chủ đề của dụ ngôn này” Xin cho phép tôi diễn tả ý tưởng của riêng tôi như sau.

Tình yêu đối với kẻ đứng chót.

Tình yêu Thiên Chúa đối với kẻ đứng chót là tình yêu vô cùng, vô cùng đối với tất cả và từng người. Mỗi người nhận được tình yêu vô cùng này tùy theo khả năng yêu mến của mình.

Tình yêu Thiên Chúa là ân huệ cho không, nhưng có tính cách như một nghĩa vụ, Thiên Chúa yêu ta nhưng không, như cha thương con của Ngài, chúng ta được quyền đó. Đức Kitô không chết để tô điểm cho tình yêu thêm bóng bẩy, Người chết vì vâng lời Chúa Cha. Sự vâng phục của Đức Kitô cho chúng ta thêm khả năng yêu mến Thiên Chúa như chúng ta ước muốn. Cái chết của Đức Kitô nhắc nhở chúng ta nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa vô cùng, đời đời. Ngài là chủ nhà, là cha trong gia đình. Ngài ban tình yêu của Ngài cho từng đức con mộtc cách trọn tình. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của Ngài, phải làm sống lại tình yêu của Ngài.

Luôn luôn làm việc hết mình.

Đừng nghĩ rằng những giờ trong ngày làm việc là những khoảng khắc thời gian đồng hồ! Tôi xin gợi ý rằng cần phải biết giá trị thời gian này là kỳ hạn của đời người, của những thái độ chúng ta trước dung nhan Thiên Chúa. Sáng sớm chủ đi, mướn tất cả thợ mà ông gặp, nhưng đến giờ chót vẫn còn một số thợ.

Phần đông chúng ta cũng là số thợ được tình yêu vô cùng của Chúa vào giờ chót. Vì thế chúng ta phải có ý thức hăng hái làm việc hết mình để đáp lại tình yêu vô bờ bến ấy. Những thợ giờ chót không phải là những kẻ chậm trễ, nhưng là những kẻ sống hằng ngày với ý hướng đời đời rồi.

Được Chúa tiếp nhận, được tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa đối với con người. Những người thợ này hiến thân hết lòng đối với tình yêu đã an ủi họ.

Hơn nữa, những kẻ trở về, đừng nghĩ chuộc lại thời gian đã mất, nhưng hãy kính mến Chúa hết lòng vì Người đã mong chờ mình mọi ngày như người cha chờ mong đứa con phung phá trở về.

J.M

---------------------------------

 

Suy Niệm 6: Hãy đi và làm vướn nho cho Chúa


Xem lại CN 25 TN A.

“Hãy đi và làm vườn nho cho Chúa”. Đây là lời mời gọi của Đức Giêsu cho mỗi người chúng ta.

Vườn nho được hiểu là Giáo Hội. Người mời gọi là chính Thiên Chúa. Đi làm vườn nho được hiểu là công tác truyền giáo. Việc Thiên Chúa trả lương cách hậu hĩnh và công bằng muốn diễn tả Người là Đấng Giàu Lòng Thương Xót.

Vì thế, lời mời gọi đi làm vườn nho không có nghĩa là một bản hợp đồng lao động, và việc nhận lương không căn cứ vào thời gian hay công việc. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.

Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội. Thật vậy, Đức Giêsu muốn nói đến tính phổ quát của của ơn cứu độ, vì Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, cho người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Đồng thời Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Người.

Như vậy, ta có thể hiểu rằng: mỗi người, Chúa đều trao cho những nén bạc và tùy  khả năng để sinh lời. Phần thưởng dựa vào tiêu chuẩn là người đó có thực sự cố gắng và chu toàn hay không mà thôi.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết, biết gắn bó với Giáo Hội và trung thành với bổn phận của mình. Amen.

Ngọc Biển SSP

--------------------------------

 

Suy Niệm 7: Lòng quảng đại nhân lành


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Thiên Chúa đối xử với mọi người bằng tình thương. Đó là đức công minh của Ngài. Thái độ kể công làm ta không thể nhận ra tình thương phổ quát của Chúa đối với mọi người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, tiêu chuẩn của người đời chúng con là “ăn cho đều, kêu cho sòng”, nên con hiểu và thông cảm thái độ khó chịu, cằn nhằn, của anh thợ làm việc vất vả suốt ngày.

Đôi khi con cũng hay phân bì cả với Chúa nữa. Có người suốt đời sống xa Chúa, thế mà trước giờ chết ăn năn trở lại, thì được Chúa đón về thiên đàng. Con phân bì vì nghĩ rằng mình bị thiệt thòi, nghĩ rằng mình đã vất vả giữ đạo từ bé cũng chẳng hơn gì.

Lạy Chúa, con đã muốn Chúa cư xử với mọi người một cách sòng phẳng, nhưng Chúa không muốn cư xử như vậy. Chúa không muốn con nghĩ về Chúa như vậy. Chúa không phải là ông chủ tính sổ trên sức lao động của người khác, Chúa cũng không nhìn chúng con như một người lao công. Chúa đã cư xử với mọi người chúng con bằng tình thương, bằng tấm lòng quảng đại. Tất cả đều là hồng ân, tất cả đều là tình thương, tất cả chỉ vì lợi ích cho chúng con. Chúa chỉ cần thiện chí của chúng con. Đó là tiêu chuẩn hành động của Chúa, đó là tấm lòng Chúa dành cho con. Bởi vì con làm việc từ sáng sớm, vất vả suốt ngày, cũng không xứng đáng lãnh nhận một đồng tiền công. Và nếu con chỉ được làm việc vào giờ cuối cùng, con cũng không được thất vọng, nhưng vẫn hy vọng vào lòng nhân hậu của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con nhận ra tình thương nhân hậu của Chúa để cuộc sống của con tỏ hiện tình thương đối với mọi người. Xin giúp con sống với nhau đừng theo kiểu tính toán chi ly hơn thiệt, nhưng theo kiểu quảng đại của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.

 --------------------------------

 

Suy Niệm 8: Vườn nho của Chúa


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Vườn nho là hình ảnh thân thương đối với dân Do Thái. Chủ đề vườn nho là một trong những chủ đề phong phú nhất của cả Cựu ước, thường được liên kết với chủ đề tình yêu và vườn nho trở nên biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (x. Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78,9-16).

Ngôn sứ Isaia đã phác họa hình ảnh vườn nho được chăm sóc để làm nổi bật Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân “tuyển chọn” rất ân cần chu đáo qua nhân vật chủ vườn nho: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Người chủ quý vườn nho đến nỗi anh có thể làm tất cả cho sự trù phú của nho: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (Is 5,4). Với sự chăm sóc ân cần cho vườn nho - dân tuyển chọn của Thiên Chúa, người chủ vườn mong những cây nho thân yêu của mình sinh ra những trái nho ngon ngọt...

Suy niệm

Theo ý nghĩa của Kinh Thánh, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào như Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25:21-23).

Chúa Giêsu là ông chủ vườn nho, Ngài gọi mọi người đi làm vườn nho cho Ngài vào giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một. Người Do Thái khi xưa chia một ngày ra tám phần, bốn phần cho ban đêm gọi là canh, và bốn phần cho ban ngày gọi là giờ - giờ thứ nhất, giờ thứ ba, thứ sáu và thứ chín. Với thời gian hôm nay giờ thứ nhất bắt đầu vào rạng đông tức khoảng 6 giờ sáng, giờ thứ ba tương ứng với 9 giờ, giờ thứ sáu là 12 giờ trưa, giờ thứ chín tức 15 giờ và giờ thứ mười một tương đương lúc 17 giờ và ngày làm việc chấm dứt lúc giờ thứ mười hai tức là 18 giờ.

Giờ thứ mười hai là giờ chủ trả công cho mọi người một đồng, một đồng là một số lương với giá trị tối thiểu cho một gia đình sống qua ngày. Chờ đến giờ thứ mười một là những người rất khao khát và cần làm việc kiếm tiền nuôi gia đình. Tất cả đều được trả công một đồng. Người làm sớm cằn nhằn, lẩm bẩm vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng cũng được một đồng. Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “Họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (x. Xh 16,9; Tv l06,25). Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong Tân ước thường thấy nơi các kinh sư và biệt phái, họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm” (x. Mt 9,11; Mc 2,16).

Qua dụ ngôn “làm vườn nho”, Đức Giêsu mời chúng ta thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ. Ngài còn là Thiên Chúa của tình yêu (x. 1Ga 4,16), Thiên Chúa của người trộm lành (x. Lc 23,41-43). Qua đó chứng thực sấm ngôn của Isaia: Tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người (x. Is 55,8-9). Cách cư xử của nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Ngài không trọng sang khinh hèn, nhưng yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Ngài không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người.

Phần chúng ta, theo Chúa không cần một sự thỏa thuận được thua hơn kém, theo Chúa là vào làm việc cho vườn nho của Ngài là tin tưởng vào sự công bình và quảng đại của chủ vườn nho. Tình thương của Thiên Chúa khiến chúng ta nhớ đến người trộm lành trên đồi Canvê là người được gọi làm vườn nho vào giờ thứ mười một của nước Thiên Chúa, anh chỉ tín thác “khi về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”, trong khi đó bạn anh lên tiếng trước “...” đòi hỏi thỏa thuận “nếu ... thì” (x. Lc 23,39-43).

Ước gì con sẽ “không lẩm bẩm” với Chúa, con cũng chẳng “hãnh diện so sánh hơn thiệt” với anh em. Đi vào vườn nho Giáo hội, con không đặt điều kiện đòi hỏi nơi Ngài mình sẽ được gì, nhưng luôn tin và tín thác vào Ngài và cố gắng làm vườn nho.

Ý lực sống

“Người ta được nên công chính vì tin…” (Rm 3,30).

 --------------------------------

 

Suy Niệm 9: Dụ ngôn thợ làm vườn nho


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm đi mướn người làm vườn nho mình. Ông định cho họ mỗi ngày một quan tiền. Và họ làm việc. Đến 9 giờ và đến trưa ông thấy còn có người ở không, nên cũng gọi họ vào làm. Chiều đến, ông phát lương cho họ: mấy người vào làm sau hết được lãnh mỗi người một quan tiền. Thấy vậy, những người vào làm trước hết tưởng mình sẽ được lãnh nhiều hơn, nhưng rốt cuộc họ cũng chỉ lành được một quan tiền, nên họ phàn nàn trách móc ông chủ bất công. Ông liền nói với họ: các anh đã đồng ý giá mỗi ngày một quan tiền, tôi đã trả đủ cho các anh. Còn những người vào làm sau, tôi cũng cho bằng các anh là tuỳ lòng tốt của tôi.

Ý nghĩa dụ ngôn

Trước hết, dụ ngôn muốn nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa (ông chủ) đối với dân ngoại, những kẻ được gọi vào Hội thánh (vườn nho) vào giờ sau hết (17 giờ). Đối với những người này Thiên Chúa cũng ban cho họ mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái, những kẻ đã được gọi từ đầu (họ được thuê từ sáng).

Cách đối xử khoan dung và quảng đại này làm cho những người Do thái bực bội, vì họ tưởng bị thiệt thòi, thua kém dân ngoại. Được chọn trước dân ngoại, người Do thái đã tưởng rằng Thiên Chúa phải mắc nợ họ. Những thái độ của những người cằn nhằn ông chủ, cũng giống như thái độ của người biệt phái lên đền thờ cầu nguyện.

Chuyện này còn ngụ ý rằng Thiên Chúa làm gì cho ai, cũng là bởi tình thương mà thôi: “Tôi muốn cho người vào làm sau chót được bằng bạn...”, người ta phải tôn trọng trong cách xử sự của Người: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền được tuỳ ý sử dụng của cải tôi sao?” Kẻ không chấp nhận việc người tỏ tình thương như thế, kẻ ấy mắc tội ghen tỵ. Khi người ta đặt nặng các ơn ban hơn là tình yêu ban ơn, cũng là hơn chính Đấng thương yêu, thì người ta không yêu mến mà chỉ ích kỷ thôi! (Lm. Trần Hữu Thành).

Bao Công ngày xưa nổi tiếng là vị quan xử án công bằng, “thiết diện vô tư”, không kiêng nể người phạm tội là ai. Cho dù đó là hoàng thân quốc thích như phò mã Trần Thế Mỹ hay cháu quan thái sư Bàng Đức... ông đều xử rất công bằng, đúng người đúng tội, không thiên vị một ai. Đây là sự công bằng của con người.

Sự công bằng của Thiên Chúa thì khác. Dụ ngôn ông chủ và người làm công cho thấy rõ điều này. Trong dụ ngôn, ông chủ ám chỉ Thiên Chúa, còn những người làm công là chúng ta. Theo lối nhìn của người trần gian, những người vào làm từ sáng sớm sẽ được nhiều tiền hơn những người vào làm việc từ lúc 17 giờ. Nhưng Thiên Chúa không nhìn theo lối nhìn này.

Đối với Chúa, mọi người cần được thương yêu, chăm sóc, đều có những nhu cầu cần được đáp ứng. Vì thế, Người rộng ban cho chúng ta mọi ơn lành theo như nhu cầu chúng ta cần, chứ không theo như cộng trạng của chúng ta.

Qua dụ ngôn người làm vườn nho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa không chỉ công bằng, vì Ngài đã trả công đúng như đã thoả thuận, nhưng còn rất giàu lòng yêu thương (1Ga 4,16). Ngài yêu thương và quan tâm đến con người, đặc biệt là những người có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn. Hay nói đúng hơn, Thiên Chúa mong muốn tất cả mọi người đều làm việc trong vườn nho của Chúa, để được hưởng hạnh phúc Nước trời.

Phần chúng ta, chúng ta theo Chúa không phải vì sự thoả thuận hay được trả công nhiều hay ít. Nhưng theo Chúa là vào làm vườn nho cho Chúa, là tin tưởng vào sự công bằng và tình thương của Ngài, để rồi trong đời sống chúng ta biết cố gắng hằng ngày làm việc cho vườn nho của Chúa.

Muốn nên giống Chúa Kitô, chúng ta phải sống theo tinh thần Tân ước, không chỉ chú ý đến công bằng mà nhất là chú ý đến bác ái. Đối với Chúa, đức công bằng chưa đủ, vì như thế chúng ta còn đang sống trong tinh thần Cựu ước, vì Cựu ước chưa được hoàn hảo. Chính vì vậy mà dụ ngôn hôm nay nhắc nhở chúng ta là phải chú trọng tới tình yêu đối với Chúa và đối với tha nhân. Từ nay chúng ta đừng phân bì với nhau, mà hãy để cho Chúa hành động theo ý Ngài.

Truyện: Cha Sở và Cha Phó

Tại một xứ đạo kia số dân khá đông, có cha Sở và Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai nhóm xung khắc nhau. Một nhóm quí Cha Sở, nhóm kia quí Cha Phó, vì ngài còn trẻ và năng nổ.

Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm tình với ngài:

- Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm, công dày, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ minh, bỏ đi công lao cha xây dựng? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm tình về Cha Phó. Xin cha ngăn cản đi.

Cha Sở bình tĩnh trả lời:

- Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả hơn?

- Cha Phó.

Cha Sở chậm rãi nói tiếp:

- Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp ngài bằng cách cho những tâm hồn biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so bì với tôi, một người đáng lẽ đã về hưu?

Nghe Cha Sở nói sai tần số với mình, nhóm kia chống chế:

- Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi còn hơn cả Cha Phó bây giờ.

Cha Sở nói tiếp:

- Và tôi cũng đã được người ta quí mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.

Đám người kia ra về, họ cảm phục Cha Sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá! Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.

--------------------------------

 

Suy Niệm 10: Lý lẽ của tình thương


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Dụ ngôn những thợ làm vườn nho. Điểm nhấn mạnh của dụ ngôn này là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ:

- Lối suy nghĩ của một số thợ làm nhiều giờ: làm nhiều thì phải được trả công nhiều.

- Lối suy nghĩ của ông chủ: ông trả công vì thương (nhưng không hại đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng kẻ làm suốt ngày.

Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm khác nhau của người do thái và của Chúa Giêsu:

- Người do thái làm việc đạo đức để tính công với Chúa. Họ nghĩ họ làm càng nhiều thì Chúa phải ban ơn cho họ càng nhiều.

- Đối với Chúa Giêsu: Thiên Chúa ban ơn cho ta không phải vì công lao của ta mà vì tình thương của Ngài.

B.... nẩy mầm.     

1. Lý lẽ của tình thương nhiều khi không song hành với lý lẽ của công bằng. Trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái không phải theo lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng, nhưng theo lý lẽ tình thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được cho gia đình nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình mà cư xử với con cái theo lý lẽ của công bình thì không biết con cái sẽ ra sao?

Chúa cũng cư xử với chúng ta như thế. Nếu Chúa xử theo công bình thì không biết chúng ta sẽ ra sao?

2. Nếu tôi là người thợ làm từ giờ thứ nhất, tôi không nên ganh tị với những người làm từ giờ thứ 11 (những người lương trở lại sau, những người hấp hối mới ăn năn tội). Trái lại tôi phải nghĩ rằng mình hạnh phúc hơn họ vì đã được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa lâu hơn họ.

3. Mỗi khi tôi bị cám dỗ viện lẽ công bình để ganh tị với người khác, tôi hãy nghĩ đến câu Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vũng được!”. Nhờ Chúa cư xử bằng tình thương chứ không cư xử theo công bình mà tôi mới có thể đứng vững. Tôi phải xin Chúa giúp tôi cư xử với mọi người hơn lẽ công bình, vươn tới tình thương.

4. Một người do thái nọ qua đời. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học, và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất. Giữa lúc chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, người ta rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết sống lại. Thế nhưng vị chủ trì nói với kẻ chết sống lại như sau: “Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ.” Nói xong ông truyền đóng nắp quan tài lại và tiếp tục chôn.

Câu chuyện trên đây có lẽ muốn chế diễu tính máy móc, cứng nhắc của nhiều người khi tuân giữ các lể luật tôn giáo cũng như khi cư xử với nhau. ("Mỗi ngày một tin vui")

5. “Mấy người sau chót làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi, là những người đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12)

Trời quá oi bức, cái quạt bàn trong nhà thờ hôm nay lại trục trặc rồi. Nó vẫn quạt mát nhưng lại đứng lì một chỗ mà không quay xung quanh được.

Một người lên xoay nó về phía mình. Chưa đầy hai phút một người khác chạy lên, và tiếp tục xoay nó. Thế rồi một lúc sau một người khác nữa lại chạy lên. Bây giờ tiếng xầm xì nổi lên và người ta bắt đầu tranh chấp. Bỗng từ phía dưới một người lên tiếng: “Tốt hơn, hãy tắt cái quạt máy đi!” Và họ chỉ yên lặng sau khi quạt máy đã tắt hẳn.

Tôi suy nghĩ và tự hỏi: Tại sao đến với Chúa mà người ta vẫn còn tranh chấp, ganh tị? Nhưng dường như cuộc sống con người thường như vậy. Khi tính ích kỷ đã lấn át, cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân.

Lạy Chúa, Tình yêu Chúa vượt qua mọi tính toán, xin cho con có một tình yêu như Ngài, để con không dừng lại ở quyền lợi, nhưng dừng ở chính những con người để biết yêu thương. (Hosanna).

 --------------------------------

 

Suy Niệm 11: Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho.

Điểm nhấn mạnh của dụ ngôn này là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ:

Lối suy nghĩ của một số người thợ làm việc nhiều giờ: làm nhiều thì phải được trả công nhiều.

Lối suy nghĩ của ông chủ: Ông trả công vì thương (nhưng không lỗi đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng kẻ làm suốt ngày.

Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm khác nhau của người Do Thái và của Chúa Giêsu:

Người Do Thái làm việc đạo đức để tính công với Chúa. Họ nghĩ, họ làm nhiều thì Chúa phải ban ơn cho họ nhiều.

Đối với Chúa Giêsu: Thiên Chúa ban ơn cho ta không phải vì công lao của ta mà vì tình thương của Ngài.

2. “Mấy người sau chót làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ làm ngang hàng với chúng tôi, là những người đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12).

Đó là lý lẽ của sự công bằng. Còn lý lẽ của tình thương thì khác. Lý lẽ của tình thương thường vượt xa lý lẽ của công bằng. Trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái không phải vì lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng, nhưng theo lý lẽ tình thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được cho gia đình nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình lại cư xử với con cái theo lý lẽ công bằng thì không biết con cái sẽ ra sao?

Chúa cũng cư xử với chúng ta như thế. Nếu Chúa xử theo công bằng thì không biết chúng ta sẽ ra sao?

Nếu chúng ta là người thợ làm từ giờ thứ nhất, thì chúng ta không nên ganh tỵ với người làm từ giờ thứ 11 (thí dụ như những người bên lương trở lại, những người hấp hối mới ăn năn tội). Trái lại, chúng ta phải nghĩ rằng, mình hạnh phúc hơn họ vì đã được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa lâu hơn họ.

Mỗi khi chúng ta bị cám dỗ viện lẽ công bình để ganh tỵ với người khác, thì chúng ta hãy nghĩ đến câu thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!” (Tv 130,3). Nhờ Chúa cư xử bằng tình thương chứ không theo công bằng mà chúng ta mới có thể đứng vững. Chúng ta phải xin Chúa giúp chúng ta đừng cư xử với mọi người theo lẽ công bình, nhưng biết vươn tới tình thương.

Có một câu chuyện dụ ngôn như sau:

Ngày nọ, Thiên Chúa ngạc nhiên khám phá ra rằng, tất cả mọi người đều được vào Thiên Đàng mà không ai phải sa hỏa ngục. Ngài suy nghĩ phải chăng Ngài không là Đấng công bằng sao.

Ngài cho gọi sứ thần Gabriel lại và ra lệnh: “Ngươi hãy tập trung tất cả mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe mười giới răn của Ta”.

Tất cả mọi người đều đến trình diện trước tòa Chúa. Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất và Chúa lên tiếng phán bảo: “Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo ra khỏi mặt Ta và đi vào hỏa ngục ngay”.

Một số người từ từ tách ra khỏi đám đông và buồn bã đi vào hỏa ngục.

Sứ thần Gabriel tiếp tục đọc các giới răn khác. Cứ sau mỗi giới răn thì lại có một số người rời bỏ đám đông để đi vào hỏa ngục. Sau khi sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ sáu, thì tất cả đám đông buồn bã ra đi…. xuống hỏa ngục, chỉ trừ một vị ẩn sĩ già.

Thiên Chúa đưa mắt nhìn sứ thần Gabriel rồi hỏi: “Phải chăng chỉ có người này được vào Thiên Đàng? Nếu vậy thì ông ta sẽ cô độc lẻ loi lắm”.

Nói xong, Ngài truyền lệnh cho sứ thần Gabriel gọi đám đông lại và cho họ trở vào Thiên Đàng.

Nhìn thấy đám đông tội lỗi xấu xa bỗng dưng được tha thứ và được trở lại Thiên Đàng, vị ẩn sĩ nổi giận và hằn học nói với Chúa: “Chúa không phải là Đấng công bằng. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều đó?”.

Vâng, cách tính toán của vị ẩn sĩ trong câu chuyện chúng ta vừa nghe chẳng khác gì cách tính toán của những người thợ trong Tin Mừng hôm nay. Ông ta tưởng rằng, ông đã giữ đủ mọi thứ thì chỉ có ông mới xứng đáng với những phần thưởng của Chúa, còn những người khác thì không. Đó là cách nghĩ của con người. Nếu không coi chừng thì có thể chúng ta cũng nghĩ như thế.

Giữa một thế giới
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh. Amen.

--------------------------------

 

Suy Niệm 12: Chúa nhân lành


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Người chủ vườn nho thuê người làm công, đó chính là hình ảnh của Chúa, còn vườn nho, chúng ta có thể hiểu là Giáo Hội, là nước thiên đàng, những người làm công là tất cả mỗi người chúng ta.

Ngay từ thuở ban đầu, khi tạo dựng con người chúng ta, Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Chúa mời gọi tất cả mọi người chúng ta vào trong nước thiên đàng, một cách cụ thể là ở trong Giáo Hội của Chúa đây. Chúa biết con người chúng ta là thụ tạo yêu đuối tội lỗi, bị hạn chế đủ điều, bị giới hạn về thời gian, không gian, cho nên có người đến trước, có người đến sau trong cuộc đời này. Chính vì thế mà Chúa mất thời gian, mất công sức để đi kêu mời chúng ta theo hoàn cảnh sống của mỗi người. Chúa như ông chủ đi thuê công nhân lúc sáng sớm, lúc giờ ba, giờ sáu, giờ chín, giờ mười một, tức là Chúa sẵn sàng cho chúng ta gia nhập Giáo Hội Chúa lúc nào cũng được, Chúa nhận hết, Chúa không khước từ một ai. Tất cả mọi người đều được Chúa yêu thương như nhau, Chúa không phân biệt một ai cả, dù họ là người phú gia giàu sang hay kẻ cơ bần nghèo khổ, dù họ là người quyền cao chức trọng hay người khố rách áo ôm….. Tất cả được ở trong nhà của Chúa, có Chúa là Cha và chúng ta là anh chị em với nhau. Vì thế, Chúa muốn tất cả chúng ta hãy yêu thương nhau. Người trước kẻ sau, hãy thương yêu nhau, nâng đỡ nhau, giúp nhau sống sốt trong tình thương của Chúa.

Chúa nhân từ, Chúa đại lượng, Chúa bao dung, Chúa ban ơn như vậy, thế mà con người chúng ta lại làm cho Chúa phải phiền lòng vì sự ganh tỵ, hơn thua nhau trong cuộc sống. Người đến trước phân bì với Chúa là tại sao những người vào Nước Chúa sau con mà Chúa lại đối sử với họ như con, Chúa thương họ như thương con, Chúa không công bằng chút nào cả? Chúng ta đừng có như vậy, mà hãy tạ ơn Chúa khi Chúa ban ơn cho anh chị em của chúng ta. Chúng ta tin chắc rằng nếu Chúa ban ơn cho anh chị em của chúng ta rồi thì Chúa cũng sẽ ban ơn đó cho chúng ta mà thôi.

Thật sự con người chúng ta hơn thua nhau, ganh tỵ với nhau, gay đau khổ cho nhau, nó xuất phát từ việc chính bản thân con người chúng ta không nhận ra tình yêu của Chúa, không biết ơn Chúa. Giả sử nếu mà chúng ta rơi vào trường hợp là kẻ đến sau, chúng ta nghĩ như thế nào khi mà Chúa thương yêu chúng ta, đối sử tốt với chúng ta như những người anh chị em chúng ta đến trước. Đặt mình vào trong trường hợp đó, chúng ta sẽ hiểu được Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và thương yêu anh chị em chúng ta nữa để rồi chúng ta hãy biết ơn Chúa và sẽ sống tốt hơn, làm đẹp lòng Chúa hơn, và bỏ đi những tính xấu là hơn thua nhau, phần bì nhau, và rồi oán trách Chúa. Nếu chúng ta mà dung dưỡngtính phân bì xấu xa này, chúng ta sẽ là người rốt hết, còn nếu Chúa ta sống quãng đại yêu thương, cảm thông nhau, chúng ta sẽ là những người trước nhất. Chính Chúa sẽ làm điều này cho chúng ta.

Lạy Chúa, dù chúng con ở trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, chúng con vẫn được Chúa yêu thương kêu mời chúng con vào trong Giáo Hội của Chúa. Ở trong Giáo Hội của Chúa, Chúa nuôi dưỡng chúng con lớn lên bằng Lời Chúa và Thánh Thể Chúa, để rồi chúng con chẳng thiếu thốn gì. Đàng khác, những lúc chúng con gặp hiểm nguy, chúng con không lo mắc nạn, chúng con không lo bị Chúa bỏ rơi. Chúa sẽ gìn giữ và bảo vệ chúng con, giúp chúng con vượt qua được được những hiểm nguy đó và trung thành với Chúa và chúng con cũng phải biết nâng đỡ nhau, giúp nhau sống tốt trong gia đình của Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 5: 22/08 Đức Maria Nữ Vương

Xin Vâng.
22/08 – Thứ Năm tuần 20 thường niên – Đức Maria Nữ Vương. Lễ nhớ.
"Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một Con trai".

* Vì cả thân xác cũng đã được biến đổi, Đức Maria trong vinh quang mông triệu đã trở nên thành công tối hậu của công trình cứu chuộc. Nhưng Đức Maria vô cùng diễm lệ đồng thời cũng rất quyền thế bởi vì Người là Thánh Mẫu của Đấng mà “triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Chính vì thế, từ bao thế kỷ, các tín hữu đã kính chào Mẹ là Đức Nữ Vương, Đấng Trung Gian tối cao của ân sủng.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Lc 1, 26-38


Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một Trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, Trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà Trinh nữ và chào rằng:
"Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận". Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế, Đấng Bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, và đưọc gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà.

---------------------------------

 

Suy Niệm 1. Tôi là nữ tì của Chúa


-- Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Maria, một thôn nữ của ngôi làng Nadarét nhỏ bé thuộc vùng Galilê.
Cô đã đính hôn, và cứ sự thường, Cô sẽ kết hôn với ông Giuse.
Cuộc sống của Cô bề ngoài chẳng có gì khác thường.
Nhưng bên trong, Cô là một kiệt tác của Thiên Chúa.
Đơn giản vì Cô được tuyển chọn giữa mọi phụ nữ trên địa cầu
để trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa, Mẹ của chính Ngôi Lời nhập thể.
Thiên Chúa đã làm những điều tốt đẹp nhất cho Cô
để Cô xứng đáng với đặc ân mà chẳng ai dám nghĩ tới.
Thiên Chúa muốn Con Một của Ngài làm người trăm phần trăm,
nên Ngài cần một người mẹ trần thế cho Người Con ấy.
Maria được chọn và được chuẩn bị hết sức chu đáo cho trọng trách này.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyết định của Cô.
Maria có chấp nhận cộng tác vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không?
Một Thiên Chúa tôn trọng tự do là một Thiên Chúa biết mời gọi, hỏi ý.
Thiên Chúa cần sự gật đầu ưng thuận của một cô thiếu nữ xứ Paléttin
để Con của Ngài được làm người ở trên trái đất.
Thiên Chúa khiêm tốn không muốn đặt Cô trước sự đã rồi.
Ngài muốn Con của Ngài được Cô đón nhận vào cả hồn lẫn xác.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện sứ thần Gabrien truyền tin cho Maria.
Đúng hơn đây là chuyện Thiên Chúa siêu việt hỏi ý một thụ tạo nhỏ bé.
Lời chào của sứ thần làm Cô rất bối rối, không hiểu và sợ hãi (cc. 29-30).
Maria được chào là Đấng đầy ân sủng,
nghĩa là người được Thiên Chúa đặc biệt mến yêu.
Ngài vẫn luôn ở cùng Cô ngay từ khi Cô còn trong lòng mẹ.
Sứ thần báo tin Cô sẽ thụ thai một con trai.
Người Con này là Con Đấng Tối Cao, là Vị Vua thuộc dòng Đavít (c. 33).
Hẳn Maria biết ngay là mình được mời gọi làm Mẹ Đấng Mêsia,
một danh dự mà bao thiếu nữ Do thái mong đợi.
Nhưng Maria vẫn chưa hiểu làm sao Cô có thể thụ thai
khi Cô chưa làm lễ thành hôn và về chung sống với chồng (c. 34).
Sứ thần cho biết việc Cô thụ thai là chuyện độc nhất vô nhị.
Cô có con là vì “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô
và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ tỏa bóng trên Cô” (c. 35).
Người chồng tương lai của Cô không dự phần vào việc thụ thai này.
Con của Cô sẽ được gọi là Con Thiên Chúa theo nghĩa viên mãn nhất.
Maria đã nói tiếng Xin Vâng với đề nghị của Thiên Chúa (c. 38).
Cô đã thụ thai từ khi nói tiếng Xin Vâng đầy tín thác ấy.
Ngôi Hai Thiên Chúa đã hiện diện trong lòng Cô, trong đời Cô.
Chúng ta cũng được Thiên Chúa mời gọi và hỏi ý như Maria xưa.
Ngài cũng cần từng người chúng ta để cứu độ cả nhân loại.
Nếu chúng ta chịu cưu mang Đức Giêsu, sinh hạ và làm cho Ngài lớn lên,
thì chúng ta được chia sẻ chức làm mẹ của Mẹ Thiên Chúa.
 
Cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
 
--------------------------------

 

Suy Niệm 2. Mẹ tuyệt vời


--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Sau tiếng “ xin vâng” của Mẹ Maria, một chân trời mới được mở ra, một không gian nhiệm mầu của tình yêu được thể hiện: Con Thiên Chúa làm người đến ở với nhân loại để chia sẻ trọn vẹn phận người như chúng ta, trừ tội lỗi.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa không uy nghi từ trời cao bước xuống, nhưng đi ra từ lòng mẹ, cũng mong manh yếu đuối như biết bao trẻ thơ khác, cũng cần được che chở, nuôi dưỡng và lớn lên. Con nhìn thấy công lao của Mẹ Maria thật cao vời vĩ đại. Mẹ đã không chỉ “xin vâng” một lần trong ngày truyền tin, nhưng trong mọi biến cố của cuộc sống, nhất là những giây phút đứng dưới chân Thánh giá, Mẹ đã can đảm, quyết liệt để “Xin vâng”. Chắc chắn thái độ tín thác tuyệt đối của Mẹ vào chương trình của Chúa, đã họa lại sự vâng phục trọn vẹn của Chúa Giêsu, nhờ đó Ngài hoàn tất ơn cứu độ mà Chúa Cha đã giao phó.

Lạy Chúa, Chúa làm người để dạy chúng con quí trọng cuộc sống trong sự tin yêu và tín thác. Dù mảnh đời của Chúa cũng lận đận, long đong với phận nghèo, Chúa vẫn chấp nhận và sống đến cùng cho Thánh ý Chúa Cha. Còn con, khi gặp những giây phút gian nan, chán chường, thất vọng, thất bại, con thấy đời bỗng trở nên vô nghĩa, muốn buông xuôi.

Nhìn vào cuộc sống của Mẹ, những khó khăn của con chẳng đáng là gì. Hôm nay, nhờ gương sáng và lời cầu bầu của Mẹ, xin Chúa giúp con đừng cậy dựa vào sức mình, nhưng luôn biết trông cậy vào quyền năng của Chúa, nhất là biết tín thác trọn vẹn vào chương trình kỳ diệu mà Chúa muốn thực hiện nơi thân phận nhỏ bé, yếu hèn của con. Amen.

Ghi nhớ: “Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một Con trai”.

--------------------------------

 

Suy Niệm 3. Đức Maria Trinh Nữ Vương


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

A- Phân tích (Hạt giống...)

Cuộc nói chuyện của Chúa Giêsu với các môn đệ sau câu chuyện người thanh niên nhà giàu:

Chúa Giêsu tuyên bố: “Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời.”
Các môn đệ quá bỡ ngỡ nên than: “Vậy thì ai có thể được cứu độ ?”

Chúa Giêsu an ủi: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được.”

Sau đó Chúa hứa phần thưởng cho các môn đệ đã từ bỏ mọi sự mà theo Ngài: họ sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời.

B- Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời”: Của cải vật chất tuy rất hữu ích cho sự sống đời này, nhưng hoàn toàn vô ích cho sự sống đời đời, có thể còn là một cản trở rất lớn.

2. “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”: Hãy trình bày với Chúa điều gì hiện tôi không thể làm được, và xin Chúa giúp ta làm điều đó.

3. Người kia mua của người láng giềng một mảnh đất. Khi đào đất để đổ nền nhà, người đó tìm được một hũ vàng. Vốn là người lương thiện và thành thật, anh mang hũ vàng qua nhà người láng giềng và nói: “Đây là hũ vàng tôi tìm thấy trong mảnh đất ông đã bán cho tôi. Tôi mua đất chứ không mua hũ vàng. Vậy tôi xin trả lại hũ vàng cho ông.” Người láng giềng cũng lương thiện không kém. Ông không nhận hũ vàng và giải thích như sau: “Khi bán miếng đất cho anh, tôi đã có ý định bán tất cả những gì chứa trong đó. Vậy hũ vàng là của anh.” Hai bên cứ nhường nhau mãi cho đến tối mà vẫn chưa có ai chịu nhận hũ vàng. Rốt cuộc cả hai đồng ý tạm ngưng tranh luận, hẹn hôm sau bàn tiếp.

Nhưng qua một đêm trằn trọc suy nghĩ, họ đã bị con quỷ tham lam nhập vào lúc nào không hay. Sáng hôm sau hai người gặp lại. Người mua đất liền nói: “Tôi đã suy nghĩ kỹ lại thì thấy lời ông nói hôm qua quả là chí lý: Tôi đã mua đất của ông, tất nhiên mọi sự trong mảnh đất ấy đều thuộc về tôi.” Người láng giềng cãi: ”Không phải thế. Hôm nay tôi đã xét kỹ thì thấy lời hôm qua rất xác đáng: anh không thể nào mua món đồ nào mà chính anh không có ý định mua. Anh chỉ mua đất chứ không mua vàng, anh hãy trả lại hũ vàng cho tôi.”

Hai người cãi nhau dữ dội. Từ đó họ không còn là láng giềng tốt của nhau mà trở thành thù địch của nhau.

4. “Tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời.” (Mt 19,29)

Apraham, tổ phụ chúng ta, đã vâng lời Thiên Chúa. Ông đã đem Isaac-con trai độc nhất của mình-mà tế lễ cho Ngài. Còn gì đau khổ hơn bằng chính người cha phải đem giết con trai mình bằng bất cứ lý do gì. Thế nhưng, Abraham đã làm điều đó. Ông đã hy sinh cái quý giá nhất của mình cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã thấu hiểu lòng trung thành của ông và Ngài đã ban cho ông không những một người con mà cả một dòng dõi đông đúc.

Để tỏ lòng trung thành với Chúa, Abraham đã dâng Isaac; Còn chúng con, chúng con đã hy sinh được gì ? Xin Chúa giúp sức cho chúng con để chúng con biết trung thành với Chúa, và sống hy sinh vì Chúa. (Hosanna).

---------------------------------

 

Suy Niệm 4. Mẹ tuyệt vời


--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Sự tôn sùng Đức Trinh Nữ Vương đã có từ lâu đời trong Giáo hội: Vào thế kỷ thứ tư, thánh Ephrem gọi Ðức Maria là Hoàng hậu và sau đó các Giáo phụ cũng như các Tiến sĩ Hội thánh tiếp tục dùng danh xưng này. Các thánh thi từ thế kỷ XI cho đến XIII đề cập đến Ðức Maria như một hoàng hậu: “Kính mừng Hoàng hậu Thánh Thiện”, “Kính mừng Hoàng hậu Thiên Ðàng”. Tràng hạt dòng Ðaminh và dòng Phanxicô cũng như biết bao lời cầu khẩn Ðức Maria trong kinh nguyện đều mừng kính tư cách Nữ vương của Đức Maria.

Đức Giáo hoàng Piô VII vào thế kỷ XIX đã cho phép một số giáo phận mừng lễ Đức Trinh Nữ Vương. Đức Giáo hoàng Piô IX đã thiết lập một lời nguyện và một lễ kính Đức Trinh Nữ Vương đặc biệt. Đức Giáo hoàng Piô XII đã long trọng dâng loài người cho trái tim vẹn sạch Đức Trinh Nữ Vương vào năm 1942 giữa lúc thế chiến thứ hai đang ngập tràn. Năm 1944, chính Đức Giáo hoàng Piô XII đã truyền mừng kính lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương trong Giáo hội toàn cầu. Ngày 1 tháng 11 năm 1954, tức bốn năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về Trời, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng đội triều thiên lên tượng Đức Trinh Nữ là “sự cứu rỗi của dân Rôma”.

Cuộc cải tổ Lịch Phụng Vụ Rôma do Đức Thánh Cha Phaolô VI thực hiện vào năm 1969, Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương được chuyển sang ngày 22 tháng 08, tức tám ngày sau Đại Lễ Đức Mẹ Được Rước Về Trời. Chính Đức Phaolô VI định nghĩa về Lễ Ðức Maria Trinh Nữ Vương: “Lễ này là tiếp diễn lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên Trời. Thực vậy, vào lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời, chúng ta say đắm và hân hoan mừng kính Mẹ Maria như là hoa quả đầu mùa của công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu, đã chiến thắng hai kẻ thù của nhân loại, đó là: Tội lỗi và sự chết. Hôm nay, trong lễ Ðức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Ðức Mẹ bên cạnh Vua Cao Cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người mẹ nhân hiền” (Tông huấn Lòng sùng kính Ðức Mẹ Maria).

Suy niệm

Tại Nadarét hẻo lánh, Maria đón một vị khách lạ, sứ thần Gabriel đến với lời chào: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ”. Lời chào và sự loan báo của sứ thần làm Maria bối rối vì cô Maria đã đính hôn cùng chàng trai Giuse, vì không hiểu hết sự việc hơn nữa mình là một thôn nữ thấp kém sao lại được hồng ân cao cả. Sứ thần Gabriel giải thích: “Thiên Chúa ở cùng trinh nữ” lời tiên báo của ngôn sứ về hồng ân vĩ đại cho con người: Thiên Chúa ở với dân Người như ngôn sứ Isaia nói về tên Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta (x. Is 7,14), Thiên Chúa ở cùng nhân loại nhưng trước hết với và qua Đức Maria: Đấng được Đức Chúa ở cùng, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế.

Maria thắc mắc làm sao việc sinh con có thể thực hiện được, cô đã khấn hứa trọn đời trinh khiết. Sứ thần giải thích: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ”. Sứ thần quả quyết: “Uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”, sứ Thần khẳng định: “Vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.

Dù chưa hiểu và biết rõ hết sự việc, Maria khiêm tốn đặt toàn bộ cuộc đời của mình trong thánh ý của Thiên Chúa qua việc đáp trả: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”, Maria hoàn toàn sẵn sàng thi hành ý muốn của Chúa trong công cuộc cứu độ trần gian, như một tôi tớ khiêm cung, yêu mến và phó thác trong tin tưởng.

Thánh Augustinô cho ta thấy vai trò cao cả của Đức Maria trong công cuộc cứu độ của Thiên Chúa: “Đấng các tầng trời không đủ sức chứa, lại được cưu mang nơi cung lòng một người phụ nữ. Mẹ điều hành Vị Thủ Lãnh của chúng ta; Mẹ mang Đấng mà chúng ta đang ở trong; Mẹ ban tặng sữa cho Đấng là Bánh của chúng ta”. Những lời ca tụng trên đây làm nổi bật tất cả những đặc ân, tước hiệu, cũng như vinh dự của Đức Maria phát xuất từ vai trò có một không hai của Ngài: Mẹ Đấng Cứu Thế. Người Mẹ ấy đã âm thầm chia sẻ, cộng tác với Con Mình trong những ngày gian khổ ở trần thế Maria vẫn luôn “xin vâng” hoàn toàn tận hiến đời mình để thực hiện thánh ý Chúa. Khi hoàn tất sứ vụ ở trần gian, Maria được rước về Trời cả hồn lẫn xác, để rồi được đặt làm Nữ Vương Thiên Quốc, tiếp tục vai trò cầu bầu như người Mẹ của cả nhân loại: “... Đức Maria sáng chói như Nữ hoàng và như bà Mẹ, Ngài cầu bầu cho chúng ta cạnh vua muôn thuở” (Marialis cultus, 6)

Chúng ta mang tâm tình cùng với Đức Giáo hoàng Piô XII: “Xin Mẹ cai quản trên Giáo hội, trên mọi trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình cũng như mọi xã hội và mọi quốc gia, trên mọi cộng đoàn, những người quyền thế. Xin Mẹ hãy cai trị trên mọi nẻo đường và mọi quảng trường, trong thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời, trên mặt đất và cả biển khơi”.

Ý lực sống:

“Kính chào Ðức Nữ Vương,
Bà là Mẹ xót thương,
Ngọt ngào cho cuộc sống,
Kính chào Lẽ Cậy Trông”. (Trích Salve Regina).

 ---------------------------------
 
 

Suy Niệm 5. Mẹ tuyệt vời


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Ngày 1 tháng 11 năm 1954, bốn năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về trời, Đức thánh cha Piô XII đã long trọng đội triều thiên lên tượng Đức trinh Nữ là “sự cứu rỗi của dân Roma”. Đây là cử chỉ tượng trưng biểu thị sự công bố về vương quyền phổ quát của Đức Maria.

Đoàn người đông đảo đứng chật quãng đường đền thờ thánh Phêrô, nhân danh cả hoàn cầu, dâng cao niềm hoan hỉ.

Đức Thánh cha cầm những vòng vàng dát đá quí từ khắp thế giới gởi về, để đặt trên đầu tượng Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ngài nói: “Xin Mẹ cai quản trên Giáo hội, trên mọi trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình cũng như mọi xã hội và mọi quốc gia, trên mọi cộng đoàn, những người quyền thế. Xin mẹ hãy cai trị trên mọi nẻo đường và mọi quảng trường, trong thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời, cũng như trên mặt đất và cả biển khơi.”

Ngài còn nói: - “Vương quyền của Đức Maria là một thực tại siêu vượt thế trần, đồng thời lại thấm nhập mọi cõi lòng và chạm tới phần cốt yếu sâu thẳm nhất có tính cách siêu nhiên và bất tử nhất của con người.”

Đức Maria là Mẹ thánh, tước hiệu này khiến cho Mẹ được đặc ân không bị thương tổn vì tội lỗi. Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ cũng không bị thương tổn vì sự chết. Khi kết thúc cuộc đời trần gian cũng như từ những lời đầu tiên buổi truyền tin, mẹ là tuyệt đỉnh của nhân tính bất khả xâm phạm luôn hiệp nhất với Ngôi Lời để hoàn tất công cuộc cứu rỗi thế gian. Không một ý tưởng, hành vi nào của Mẹ lại rời khỏi con Mẹ trong việc chinh phục bản tính nhân loại và việc chinh phục vũ trụ.

Trong kinh lạy Nữ Vương chúng ta xưng tụng: ”Thân lạy Nữ Vương, lạy Mẹ từ bi, Mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con”. Mẹ Maria được xưng tụng như Esther trong Cựu Ước đã cứu dân ra khỏi họa diệt vong, Nữ Vương có mọi quyền hành bên Đức Vua và là Đấng bầu cử linh thiêng nhất bên cạnh Đức Vua. Ngày nay, những lời ca tụng Đức Mẹ hướng về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ và uy quyền của Mẹ bên ngai tòa Chúa Giêsu. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của ơn cứu độ và là hoa trái tuyệt mỹ của thập giá Chúa Giêsu” Một người nữ mình mặc áo mặt trời, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Mẹ Maria là người Mẹ đầy uy quyền trước mặt Chúa: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)

Một cầu chuyện vui nhưng cũng nói lên một ý nghĩa nào đó cho việc mừng kính của chúng ta hôm nay:

Một ngày kia, Chúa Giêsu đi dạo trên thiên đàng cũng giống Thiên Chúa đi dạo trong vườn địa đàng thuở xưa. Ngài rất ngạc nhiên khi nhận thấy trong những góc tối, có nhiều khuôn mặt rất khả nghi đang ở đó.

Ngài tự hỏi:

- Làm thế nào mà họ vào đây được.

Ngài đến gặp thánh Phêrô và trách ông là thiếu cảnh giác.

Thánh Phêrô phàn nàn:

- Con làm thế nào được? Con canh cổng rất cẩn thận, nhưng đêm khuya mẹ Ngài mở cửa sổ cho những kẻ tinh quái này vào và con làm sao dám chống cự?

Vấng! Chúng ta hãy đến với Đức Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ không từ chối..

Dougias Hyde là chủ bút tờ báo vô thần ở Anh quốc. Ông nghiên cứu về Giáo hội Công giáo vì mục đích để viết bài phê bình Giáo hội .

Nhưng lạ thay, càng nghiên cứu về Giáo hội, tâm trí ông càng xác tín về chân lý của Giáo hội.

Một ngày nọ, trên đường đến nhiệm sở ở Luân đôn, ông quyết định ghé vào một nhà thờ. Khi đã yên vị ở hàng ghế cuối, ông thắc mắc không hiểu mãnh lực nào đã đưa mình đến đây.

Bỗng có một thiếu nữ bước vào, cô ta đi thẳng đến bức tượng của Đức Maria. Khi cô gái đi ngang qua, Hyde đã nhận ra khuôn mặt lo âu của cô ta. Cô gái quì dưới chân Đức Maria một lúc lâu, đoạn đứng dậy và rời khỏi nhà thờ.

Lúc đi ngang qua, Hyde nhận thấy nét lo âu lúc nãy tan biến, nhường chỗ cho sự an bình vui tươi và thanh thản.

Khi cô gái đi rồi, Hyde liền bắt chước cô gái ấy đến quì trước tượng Đức Mẹ và nghẹn ngào thốt lên:

- Lạy Đức Mẹ nhân từ, xin hãy nhân từ, xin Mẹ hãy nhân từ với con.

Đó là những lời ông đã ghi ra trong cuốn sách tựa đề: “Tôi tin” mà ông sẽ viết sau này

Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhận lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Maria Nữ Vương).

---------------------------------

 

Suy Niệm 6. Mẹ tuyệt vời


--Lm. Nguyễn Hưng Lợi

Còn gì vui bằng, hạnh phúc khi có Mẹ ở bên. Còn Mẹ là một ân huệ. Còn Mẹ là một hồng ân tuyệt diệu. Mẹ trần thế còn quí hóa như thế. Mẹ trên trời còn giá trị biết bao.

Maria là tên người Mẹ thiêng liêng, tên cao trọng, tên tuyệt vời. Còn gì hạnh phúc khi con người được thân thương gọi tên Mẹ “Maria”. Tên Mẹ thật dịu hiền, thật nhẹ nhàng, thật gợi cảm. Tên Mẹ gói ghém tất cả, nói lên tất cả. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ là Nữ Vương trên trời dưới đất. Với muôn tước hiệu Giáo Hội ca tụng Mẹ: “Tước hiệu nào cũng đẹp, cũng quí, cũng cao vời”. Nhân loại không ngớt cùng Mẹ tung hô Thiên Chúa:

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.” (Lc 1, 46-48).

Maria quả thực đã trọn đời tín thác nơi Chúa. Việc thăm viếng bà chị họ Ê-li-gia-bét nói lên tình thương của Mẹ đối với ông Dacaria và bà Êligiabét, Mẹ đến để phục vụ họ, nhưng Mẹ đến cũng là đem cho họ sứ điệp của niềm vui và bình an: “Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êligiabét” (Lc 1, 40). Lời chào của Maria có ý nghĩa cao vời hơn mọi lời chào xã giao hoặc lời chào của những người thân đi xa về. Mẹ Maria, Nữ tử Sion đã nói lên lời chào bình an, lời chào hoàn tất niềm mong đợi của Israen. Mẹ đã đem niềm hạnh phúc, mang Chúa Giêsu, hoa trái của lòng trinh khiết của Mẹ, mang Vua Hòa Bình là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần đến để khi bà Êligiabét vừa nghe lời Mẹ, đứa con trong bụng bà nhảy lên… (Lc 1, 41).

Maria đã trao ban chính bản thân trọn vẹn bằng lời “xin vâng” đầy lòng tin và tín thác nơi Thiên Chúa, do đó: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1, 14).

Mẹ Maria là Nữ Vương các Ngôn sứ, các thánh tử đạo, Nữ Vương trên trời dưới đất. Tước hiệu ấy đi đôi với tước hiệu Vua Giêsu Con của Mẹ. Chúa Giêsu là Vua, nhưng Vua yêu thương, phục vụ và khiêm nhượng. “Nước Tôi không thuộc thế gian này”. Chúa Giêsu đã nói với Philatô như thế. Ngài xác nhận: “Tôi là Vua” (Ga 18,37).

Vua chết trên thập giá để kéo mọi người đến với Ngài vì “Chỉ nơi Ngài mới có ơn cứu chuộc chan chứa” (Copiosa apud Eum Rédemptio). “Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Mẹ Maria là Nữ Vương đứng dưới chân thập giá: “Con Mẹ là Vua cứu chuộc”. Nên, Mẹ cũng đồng hiệp thông với sự đau khổ, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu để thống trị với Con của Mẹ trong Nước Thiên Chúa.”… Hôm nay, trong lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Đức Mẹ ngự bên cạnh Vua cao cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người Mẹ nhân hiền” (Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trong tông huấn: “Lòng sùng kính Đức Mẹ Maria”).

Dù rằng, thế giới hôm nay, chức “Vua” chỉ có vai trò tượng trưng, nhưng không hề có thực quyền, Maria là Nữ Vương vẫn hoàn toàn có giá trị, vẫn hoàn toàn có uy quyền trước Chúa Giêsu Vua, Con của Mẹ. Nhân loại vẫn không ngớt ca tụng Mẹ là Nữ Vương như kinh Lạy Nữ Vương chúng ta vẫn thường đọc. Mẹ là Nữ Vương bên ngai toà Đức Kitô để Mẹ chiếu dọi ánh hào quang vinh quang của Chúa Giêsu Vua cho nhân loại.

Người ta đã tôn sùng Đức Trinh Nữ Vương từ lâu đời. Đức Thánh Cha Piô VII vào thế kỷ XIX đã công khai cho phép một số Giáo Phận mừng lễ Đức Trinh Nữ Vương. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã thiết lập một lời nguyện và một lễ kính Đức Trinh Nữ Vương đặc biệt. Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng dâng loài người cho trái tim vẹn sạch Đức Trinh Nữ Vương vào năm 1942 giữa lúc thế chiến thứ 2 đang ngập tràn. Năm 1944, chính Đức Giáo Hoàng Piô XII đã buộc mừng kính lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương trong Giáo Hội toàn cầu.

Muôn đời, nhân loại sẽ hiệp ý với Mẹ Trinh Nữ Vương ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người “(Lc 11, 49-50). Mẹ là Nữ Vương cao sang, uy quyền. Mẹ là Nữ Vương tuyệt mỹ.

Lạy Đức Trinh Nữ Maria xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con trước ngai toà Chúa để chúng con luôn tín thác vào Chúa và hết lòng trông cậy vào Mẹ. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7. Trinh Nữ Vương


--‘Lẽ Sống’
--R. Veritas

Hiện nay, tại một số ít quốc gia trên thế giới như Anh Quốc, Hòa Lan, Thụy Ðiển, Thái Lan, chức nữ hoàng và quốc vương vẫn còn tồn tại, nhưng họ chỉ đóng vai trò tượng trưng, chứ không có thực quyền.

Giữa trào lưu có sự thay đổi quan trọng này trong hình thức chính trị và trong đời sống xã hội, những câu kinh: "Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy..." lượt dịch bài bình ca bất hủ bằng tiếng La Tinh: "Salve Regina..." vẫn còn được bao cửa miệng và tâm hồn dâng lên Mẹ Maria, diễn tả tấm lòng tôn kính, mến yêu của đoàn con cái đối với mẹ không mảy may bị lạnh nhạt, mặc cho thế sự đổi thay.

Trong tông huấn mang tựa đề: "Lòmg sùng kính Ðức Mẹ Maria", Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã định nghĩa về Ðức Maria Trinh Nữ Vương mà Giáo Hội mừng kính hôm nay đại khái như sau: "Lễ này là tiếp diễn lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời. Thực vậy, vào lễ Ðức Mẹ Hồn Xác lên trời, chúng ta say đắm và hân hoan mừng kính Mẹ Maria như là hoa quả đầu mùa của công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu, đã chiến thắng hai kẻ thù của nhân loại, đó là: tội lỗi và sự chết. Hôm nay, trong lễ Ðức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta chiêm ngắm Ðức Mẹ bên cạnh Vua Cao Cả trời đất, như là Nữ Vương và là người bầu cử cho chúng ta như một người mẹ nhân hiền".

Lời giải thích của Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trên đây giúp chúng ta hiểu đúng vai trò của Mẹ Maria theo tinh thần của cộng đồng Vatican II. Ðó là liên kết vai trò của Ðức Trinh Nữ Maria với Chúa Giêsu và công cuộc cứu rỗi của Ngài.

Theo dòng trào lưu đổi thay của quan niệm về tự do, dân chủ, vai trò Nữ Vương của Mẹ Maria vẫn đứng vững trong tâm trí và con tim của trăm triệu con cái Mẹ, vì Mẹ ngự bên cạnh Chúa Giêsu Vua. Một vị vua dùng thập giá làm ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn ngài bị đâm thủng, để nguồn suối của tình yêu Thiên Chúa luôn chảy tràn, giải lao cho nhân loại đang khao khát tình yêu chân thật, làm động lực để biến xã hội loài người thành Nước Trời, với Chúa Giêsu là Vua. Mẹ Maria đứng cạnh ngai vàng thập giá, trái tim bị gươm đâm thâu, để dòng máu tình yêu của Mẹ hòa chảy, hầu đồng lao cộng khổ và đồng thống trị với con Mẹ trong Nước Trời.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8. Đức Maria Nữ Vương


--Nguyễn Đức Tuyên

Việc cử hành lễ Đức Maria Nữ Vương đem đến cho chúng ta một niềm vui đặc biệt khi chiêm ngắm một con đường khác mà Thiên Chúa vén mở tình yêu của Ngài cho nhân loại. Ngài ban cho Mẹ Maria - một bông hồng giữa bụi gai mà không bị suy suyển - được đồng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, trên tất cả các thiên thần.

Bằng phương cách độc nhất, Mẹ tự nguyện trở thành dụng cụ của Thiên Chúa để qua Mẹ “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga. 1:14). Những hoa trái cứu chuộc đến với chúng ta qua Đức Maria khi Mẹ trả lời “Xin Vâng” với Chúa Cha để đem Chúa Giêsu Kitô vào thế giới loài người. Thân xác Đức Maria trở nên cực thánh khi cưu mang Đức Kitô. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca chỉ cho ta một trái tim hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, yêu mến Ngài, và uớc muốn làm mọi sự cho Ngài và tuân phục Ngài. Được Chúa chúc phúc, Đức Maria tuân theo kế hoạch cứu độ, và hiến đâng trọn đời cho Chúa.

Vì vậy Mẹ Maria rất thánh được tôn vinh lên địa vị cao quí nơi ngai tòa Thiên Chúa Ba Ngôi, từ nơi này Thiên Chúa cho các thánh thấy rõ Thiên Chúa đời đời hằng hữu và mọi thụ tạo đều tuỳ thuộc thánh ý Chúa. Được tràn đầy ân sủng vượt trên mọi thụ tạo, ở trần thế, Đức Maria đã hạ mình xuống địa vị thấp hèn nhất, thì nay, trên thiên quốc, Mẹ được nhận lấy địa vị tối cao và tham dự quyền chăm sóc mọi tạo vật. Mẹ là Nữ Vuơng, là Đấng Bảo Vệ, là Trạng Sư, là Mẹ và Thầy Giáo hội lữ hành. Mẹ giúp đỡ và cứu vớt mọi nỗi thống khổ, vất vả, cực nhọc, và ưu phiền của nhân loại.

Phụng vụ hôm nay nhắc tới việc Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương, xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa.

Công Đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội, nói về Đức Maria như sau: “các Tông Đồ trước ngày lễ Ngũ Tuần ‘đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, với Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu và với anh em của Ngài’ (Cv 1:14), Đức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, Đấng đã bao phủ Người trong ngày Truyền tin. Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội lỗi nguyên tổ và sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ để nên giống Con của Người trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. (số 59).

Mẹ Maria đã chia sẻ mọi việc làm và nỗi thống khổ của Đấng Cứu Chuộc nhân thế. Mẹ đã đứng bên thánh giá lúc Chúa lìa trần và Chúa thưởng Mẹ xứng với tình yêu và công nghiệp của Mẹ và Mẹ được xưng tụng là Nữ Vuơng thiên đàng và Nữ Vuơng cả vũ trụ vạn vật.

Lạy Chúa Thánh Thần, Ngài là nguồn mạch của sức mạnh, hy vọng và yêu thương nơi Đức Maria. Xin hãy mở rộng cánh cửa tâm hồn con, xin ban sức mạnh, hy vọng và tình yêu nơi con để Vua Vinh Hiển ngự vào lòng con.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9. Đức Maria là Nữ Vương


-- JNK

1) Đức Ma-ri-a là Nữ Vương

Trong kinh cầu Đức Mẹ, ta thấy Giáo Hội tôn vinh Đức Ma-ri-a là Nữ Vương với nhiều danh hiệu khác nhau: Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương các thiên thần, Nữ Vương các thánh nam cùng các thánh nữ, Nữ Vương ban sự bình yên, v. v… Vương có nghĩa là vua, là chủ tể. Đương nhiên tước hiệu Vương hay Vua của Đức Ma-ri-a không đồng nghĩa hay đồng hàng với tước hiệu Vương hay Vua của Thiên Chúa hay của Đức Giê-su. Nhưng là Vương hay Vua có nghĩa là có sự trổi vượt, có quyền cai trị, có thế lực, thần thế, có bề tôi hay những người dưới quyền…

Trong vũ trụ luôn luôn có phẩm trật rõ rệt. Cao cả nhất là Thiên Chúa Ba Ngôi, trong đó có Đức Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa, và kế đến là Đức Ma-ri-a. Vì là Mẹ sinh ra Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, nên Mẹ thuộc hẳn về «Hoàng Gia» hay Gia Đình của Thiên Chúa. Đây là một vinh dự chung rất lớn lao cho loài người, vì trong «Hoàng Gia» này – bao gồm những thủ lãnh cao cấp nhất của vũ trụ – ta thấy có hai vị là con người: Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a. Đây cũng là một lợi điểm cho cả loài người. Các thiên thần không có được vinh dự ấy.

Như vậy, Mẹ Ma-ri-a rất có thần thế trước mặt Thiên Chúa, và rất có uy quyền đối với loài thiên thần và loài người. Ngày lễ hôm nay có chủ ý tôn vinh tước hiệu, thần thế và uy quyền ấy của Mẹ Ma-ri-a.

2) Điều quan trọng là: Mẹ Ma-ri-a có phải là Nữ Vương của chính tâm hồn và bản thân ta không?

Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương trên trời dưới đất, Giáo Hội Công giáo tuyên xưng như vậy. Nhưng điều ấy sẽ không ích lợi gì cho chính bản thân ta, nếu nó hoàn toàn xảy ra bên ngoài ta, nghĩa là nếu như Mẹ không phải là Nữ Vương của chính tâm hồn và bản thân ta. Việc Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương trên trời dưới đất phải là một sự việc hiện sinh đang xảy ra «tại đây và lúc này» trong chính bản thân ta, trong ý thức của ta. Nghĩa là bất cứ lúc nào ta cũng ý thức và nhìn nhận Mẹ Ma-ri-a vừa là Mẹ ta, vừa là vị Nữ Hoàng thống trị tâm hồn ta. Nói cách khác, ta luôn ý thức phận làm con, làm thần dân của Mẹ, và lúc nào cũng sẵn sàng tuân hành ý muốn hay mệnh lệnh của Mẹ nói trong chiều sâu tâm khảm ta. Được như thế, Mẹ sẽ uốn nắn tâm hồn ta nên hoàn hảo giống như Đức Giê-su, Con của Mẹ.

Nói một cách cụ thể, trong bất cứ hoàn cảnh hay tình huống nào trong cuộc đời, ta cũng đều nên hỏi Mẹ: «Lạy Mẹ, con phải làm gì đây? Mẹ muốn con làm gì và làm thế nào?» Khi ta quyết tâm làm theo sự hướng dẫn hay chỉ đạo của Mẹ chứ không phải theo ý riêng mình, Mẹ sẽ giúp ta hoàn thành mọi việc một cách tốt đẹp và việc ta làm sẽ có một giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Cứ như thế, ta sẽ nên thánh.

3. Chính Mẹ đã nêu gương cho ta trong việc làm theo thánh ý Chúa

Bài Tin Mừng cho ta thấy Mẹ không muốn mọi sự xảy ra theo ý riêng mình, mà sẵn sàng vâng theo ý muốn của Thiên Chúa, qua lời của thiên sứ. Chính vì thế, Mẹ đã trở nên người phụ nữ cao trọng và diễm phúc hơn tất cả mọi phụ nữ. Mẹ tin tưởng rằng cách mình tính dù có khôn ngoan tới đâu cũng không bằng cách Thiên Chúa tính cho mình. Cứ phó thác toàn bộ chuyện của mình cho Ngài, không theo ý riêng của mình, thì cuối cùng, cách Ngài tính cho ta là cách khôn ngoan và tốt đẹp nhất. Tương tự như vậy, ta hãy để cho Mẹ được toàn quyền xếp đặt mọi sự trong cuộc đời ta, thì cuộc đời ta sẽ trở nên tốt đẹp hơn trường hợp chính ta tự xếp đặt lấy độc lập với ý muốn của Mẹ. Tại sao? Vì Mẹ vừa yêu thương ta vô cùng, lại khôn ngoan hơn ta rất nhiều. Không bao giờ Mẹ lại để cho những đứa con phó thác cho sự khôn ngoan và tình thương của Mẹ phải thất vọng hay thiệt hại vì sự phó thác ấy.

Tóm lại, trong ngày lễ kính Mẹ Ma-ri-a là Nữ Vương trên trời dưới đất, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta hãy tôn vinh Mẹ là Nữ Vương của chính bản thân mình, của gia đình mình. Đó là cách hết sức khôn ngoan để cuộc đời ta nên thánh thiện, tốt đẹp và hạnh phúc nhất.

------------------------------

 

Suy Niệm 10. Đức Maria Trinh Nữ Vương


Ngày 1 tháng 11 năm 1954, bốn năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về trời, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng đội triều thiên lên tượng Đức Trinh Nữ là "sự cứu rỗi của dân Roma". Đây là cử chỉ tượng trưng biểu thị sự công bố về vương quyền phổ quát của Đức Mẹ Maria.

Đoàn người đông đảo đứng chật quảng đường đền thờ thánh Phêrô, nhân danh cả hoàn cầu, dâng cao niềm hoan hỉ.

Đức Thánh Cha cầm những vòng vàng dát đá quí từ khắp thế giới gởi về, để đặt trên đầu tượng Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ngài nói: "Xin Mẹ cai quản trên Giáo hội, trên mọi trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình cũng như mọi xã hội và mọi quốc gia, trên mọi cộng đoàn, những người quyền thế. Xin Mẹ hãy cai trị trên mọi nẻo đường và mọi quảng trường, trong thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời, cũng như trên mặt đất và cả biển khơi."

Ngài còn nói: "Vương quyền của Đức Maria là một thực tại siêu vượt thế trần, đồng thời lại thấm nhập mọi cõi lòng và chạm tới phần cốt yếu sâu thẳm nhất có tính cách siêu nhiên và bất tử nhất của con người."

Đức Maria là Mẹ thánh, tước hiệu này khiến cho Mẹ được đặc ân không bị thương tổn vì tội lỗi. Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ cũng không bị thương tổn vì sự chết. Khi kết thúc cuộc đời trần gian cũng như từ những lời đầu tiên buổi truyền tin, mẹ là tuyệt đỉnh của nhân tính bất khả xâm phạm luôn hiệp nhất với Ngôi Lời để hoàn tất công cuộc cứu rỗi thế gian. Không một ý tưởng, hành vi nào của Mẹ lại rời khỏi con Mẹ trong việc chinh phục bản tính nhân loại và việc chinh phục vũ trụ.

Trong kinh lạy Nữ Vương chúng ta xưng tụng "Thân lạy Nữ Vương, lạy Mẹ từ bi, Mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con”. Mẹ Maria được xưng tụng như Esther trong Cựu Ước đã cứu dân ra khỏi hoạ diệt vong, Nữ Vương có mọi quyền hành bên Đức Vua và là Đấng bầu cử linh thiêng nhất bên cạnh Đức Vua.

Ngày nay, những lời ca tụng Đức Mẹ hướng về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ và uy quyền của Mẹ bên ngai tòa Chúa Giêsu. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của ơn cứu rỗi và là hoa trái tuyệt mỹ của thập giá Chúa Giêsu "Một người nữ mình mặc áo mặt trời, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Mẹ Maria là người Mẹ đầy uy quyền trước mặt Chúa: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2,5).

Lễ Mông Triệu (Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời) kéo dài một tuần đến lễ Đức Trinh Nữ Vương, lễ này cho thấy Đức Mẹ Maria sáng chói như Nữ Hoàng và như Bà Mẹ, Ngài là Đấng cầu bầu cho chúng ta bên cạnh Đức Vua muôn thuở.” (Marialis cultus, 6)

Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhận lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Maria Nữ Vương).
------------------------------

 

Suy Niệm 11. Đức Maria Nữ Vương


Thánh vịnh 44, 10 viết rằng: ”Lạy Chúa, bên hữu Ngài, Hoàng Hậu sánh vai, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng, và trang điểm huy hoàng rực rỡ ». Thánh lễ mừng kính Đức Maria Trinh Nữ Vương đã có từ lâu, nhưng phải đợi đến năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII buộc toàn thể Giáo Hội mừng kính lễ này trọng thể trong toàn thể Giáo Hội.

KHÁI NIỆM VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA:

Với muôn vàn tước hiệu Giáo Hội và nhân loại cung kính dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, tước hiệu Nữ Vương Vũ Trụ Trời Đất bao gồm mọi tước hiệu Nữ Vương khác, và tước hiệu này có nền tảng trong Sách Khải Huyền: ”Một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1) hoặc “Người mang Danh viết trên áo, trên tà áo của Người: Vua các vua và Chúa các chúa” (Kh 19,16). Chúa là vua trên hết các vua. Vương quyền của Ngài vượt trên mọi vương quyền.

Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu cũng phải được tôn vinh như vậy, và nhân loại phải tung hô vương quyền, tôn nhận Mẹ là Nữ Vương trên hết mọi Nữ Vương. Cha thánh Giám Mục Anphongsô đệ Liguori đã viết: ”Chúng ta hãy cám tạ Nữ Vương rất dấu yêu của chúng ta, bởi vì mọi ơn chúng ta được lãnh nhận đều từ tay Mẹ và nhờ lời cầu bầu của Mẹ” (Vinh Quang Đức Mẹ, II). Trong kinh lạy Nữ Vương ta đọc thấy: ”Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, Ngọt ngào cho cuộc sống, Kính chào lẽ cậy trông » (Salve Regina). Mẹ Maria được tôn nhận làm Nữ Vương trên thiên quốc. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập lễ Đức Maria Trinh Vương và công bố tông thư Coeli Reginam nói về Vương Quyền của Đức Trinh Nữ Maria: vương quyền của Mẹ Maria là vương quyền của yêu thương và phục vụ.

MẸ MARIA LÀ NỮ VƯƠNG TRỜI ĐẤT:

Trong kinh lạy Nữ Vương chúng ta xưng tụng ”Thân lạy Nữ Vương, lạy Mẹ từ bi, Mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con”. Mẹ Maria được xưng tụng như Esther trong Cựu Ước đã cứu dân ra khỏi hoạ diệt vong, Nữ Vương có mọi quyền hành bên Đức Vua và là Đấng bầu cử linh thiêng nhứt bên cạnh Đức Vua.

Ngày nay, những lời ca tụng Đức Mẹ hướng về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ và uy quyền của Mẹ bên ngai toà Chúa Giêsu. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của ơn cứu độ và là hoa trái tuyệt mỹ của thập giá Chúa Giêsu: ”Một người nữ mình mặc áo mặt trụi, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12, 1). Mẹ Maria là người Mẹ đầy uy quyền trước mặt Chúa: ”Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).

Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhận lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Maria Nữ Vương).
------------------------------

 

Suy Niệm 12. Đức Maria Nữ Vương: Biến cố truyền tin


--Giuse Đinh Thành Đạt SDB

Một phụ nữ mang trong mình mầm sống đã được 7 tháng, chị hết sức vui mừng và hạnh phúc, nhưng chị lại không có được sức khỏe bình thường như những bà mẹ khác.

Sau khi đã theo dõi sức khỏe của chị một thời gian dài, bác sĩ quyết định nói cho chị biết sự thật rằng bệnh của chị hiện tại không cho phép chị sinh em bé, nếu chị sinh con thì sẽ ảnh hưởng đến tính mạng.

Vì vậy chị chỉ có thể chọn lựa một là bỏ em bé, hai là giữ lại thai nhi nhưng chị sẽ có nguy cơ mất mạng rất cao. Họ rất thông cảm với chị và mong chị suy nghĩ cho kỹ hầu có được quyết định đúng đắn.

Người mẹ trẻ hết sức bối rối và đau lòng, nhưng sau một thời gian, chị đã quyết định hy sinh bản thân cho con mình được sống.

Trong cuộc sống, chúng ta luôn nhận được rất nhiều thông tin mỗi ngày. Có những thông tin chỉ hời hợt, nhưng cũng có những thông tin thật quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống mỗi người.

Nếu có người đưa đến cho bạn hai thông tin nào đó rất quan trọng, một tin vui và một tin buồn thì bạn sẽ muốn nghe loại nào trước? Có thể chúng ta sẽ phân vân chưa biết chọn tin nào trước, nhưng một thực tế là thông tin ấy có liên quan đến cuộc sống của chúng ta, bạn không thể nào phủ nhận nó được và cần có thêm chút thời gian để chọn lựa.

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Maria cũng lâm vào hoàn cảnh phải tiếp nhận một thông điệp gửi đến từ sứ thần của Chúa, nhưng ngài không có được thời gian để suy nghĩ, chọn lựa như người mẹ trong câu truyện trên, dù rằng đây là một tin trọng đại liên quan đến cả cuộc đời Mẹ. Trong hoàn cảnh của Mẹ phải đối diện lúc này là một vinh dự cao cả, một sự thiện tuyệt đối không thể chối từ: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao". Có lẽ cũng có người trong chúng ta thắc mắc rằng việc làm Mẹ Thiên Chúa là một vinh dự lớn lao như vậy thì có gì phải chần chờ, có gì mà khó khăn, có gì mà bối rối? Nếu là tôi thì sẽ nhận lời tức khắc!

Chúng ta sẽ nghĩ thế nào nếu chính chúng ta trong hiện tại là một cô gái mười sáu trăng tròn, bỗng dưng có một vị thiên sứ hay một người nào đó đến báo tin rằng chúng ta sẽ có thai và đứa con đó là Thiên Chúa? Liệu chúng ta có đủ niềm tin để đón nhận hay không?

Khi chúng ta nói cho người khác rằng con của mình không phải là kết quả của người phàm và đó là Thiên Chúa, liệu họ có tin không? Chúng ta sẽ xoay xở thế nào trong cuộc sống để nuôi dưỡng con mình bằng kinh nghiệm non trẻ ấy?

Đức Maria thời ấy lại còn phải đối diện với việc giải thích thế nào cho người bạn đời của mình tin và hiểu. Hơn nữa vào thời ấy, một khi người phụ nữ nào không chồng mà có con sẽ phải đối diện với việc bị ném đá cho đến chết!

Việc Đức Maria mang thai trong thời điểm này chẳng khác nào người mẹ trong câu truyện trên đang đón nhận một thông tin liên quan đến chính mạng sống của mình.

Chính việc can đảm đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa và tín thác hoàn toàn vào Ngài để thực hiện trọn vẹn sứ vụ của mình cách hoàn hảo, Đức Maria đã trở nên một Nữ Vương trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa.

Cuộc sống của chúng ta không thiếu những thông tin tích cực lẫn tiêu cực ảnh hưởng đến sinh hoạt của chúng ta, và không ít lần chúng ta đã than trách, đã chạy trốn trước những thách đố của cuộc sống và rất có thể đã không còn sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa.

Vì vậy chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria trong cách đón nhận từng biến cố, chúng ta không phản ứng nóng vội trước mọi thông tin, nhưng là tìm ra ý Chúa và luôn sẵn lòng thực thi thánh ý Thiên Chúa trong lời thưa "xin vâng" bằng sự khiêm nhường sâu thẳm và tín thác vào Chúa quan phòng theo gương Mẹ Maria.

Trong mỗi biến cố của cuộc sống, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ và tin rằng Đức Maria Trinh Nữ Vương sẽ luôn che chở và phù giúp chúng ta khi chúng ta chạy đến cùng ngài.

------------------------------

 

Suy Niệm 13. Mẹ Maria: nữ hoàng thiên quốc


Ngày 1 tháng 11 năm 1954, bốn năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về trời, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng đội triều thiên lên tượng Đức Trinh Nữ là: ”Sự cứu rỗi của dân thành Rôma và toàn thế giới”. Đức Thánh Cha cầm những vòng vàng dát đá quí từ khắp thế giới gởi về, để đặt trên đầu tượng Đức Giêsu và Mẹ Maria kèm với lời nguyện: ”Xin Mẹ cai quản trên Giáo Hội, trên mọi trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình cũng như mọi xã hội và mọi quốc gia. Trên mọi cộng đoàn, những người quyền thế. Xin Mẹ hãy cai trị trên mọi nẻo đường và mọi quảng trường, trong thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời, trên mặt đất và cả biển khơi”. Ngài còn nói: ”Vương quyền của Đức Maria là một thực tại siêu vượt thế trần, đồng thời lại thấm nhập vào mọi cõi lòng và chạm tới phần cốt yếu sâu thẳm nhất có tính cách siêu nhiên và bất tử”.

1. Niềm hạnh phúc cho tất cả những người tin

Đây là một niềm vui và hạnh phúc tuyệt vời cho tất cả những ai mang trong mình niềm tin vào Thiên Chúa và lòng yêu mến Mẹ Maria. Thật vậy, ngày Mẹ được rước lên trời cả hồn lẫn xác đã làm cho cả Triều Thần Thiên Quốc phải kính cẩn nghiêng mình. Đoạn Kinh Thánh sau đây mang tính thần bí của thánh Gioan trong sách Khải Huyền cho chúng ta thấy rõ điều đó: ”Có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Và như một lẽ tất yếu, Triều Thần Thiên Quốc đồng thanh tung hô: ”Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?” (Dc 6,10); Thánh Vịnh 44 được hòa vào bản nhạc du dương mà các Thiên Thần đang véo von ca hát làm nên vẻ huy hoàng của ngày Mẹ được tôn phong: ”Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy” (Tv 44, 10).

Thật vậy, hôm nay là ngày tuyệt vời của Mẹ. Ngày Mẹ được Thiên Chúa Ba Ngôi tôn vinh làm Nữ Vương và Bà Chúa của toàn thể tạo vật. Với tước hiệu này, Mẹ trở thành: ”Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: “Vua các vua, Chúa các chúa” ( Kh 19, 16 ).

Khi được Thiên Chúa tôn phong, Mẹ đảm nhận vai trò: ”Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969). Điều này được thánh giám mục Anphongsô đệ Liguori cảm nghiệm: ”Chúng ta hãy cảm tạ Nữ Vương rất dấu yêu của chúng ta, bởi vì mọi ơn chúng ta được lãnh nhận đều từ tay Mẹ và nhờ lời cầu bầu của Mẹ” (Vinh Quang Đức Mẹ, II ). Và trong truyền thống Giáo Hội, chúng ta thấy xuất hiện lời kinh cổ xưa nhất ca ngợi Mẹ và cũng thể hiện niềm tin nơi Mẹ trong vai trò Nữ Vương: ”Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, Ngọt ngào cho cuộc sống, Kính chào lẽ cậy trông” (Salve Regina).

Tại sao Đức Maria lại được Thiên Chúa ân thưởng như vậy?

Thưa! Cả cuộc đời của Mẹ luôn trung thành tuân theo thánh ý Thiên Chúa Cha, được tràn ngập ân sủng của Chúa Thánh Thần và luôn gắn bó với Đức Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời trần thế: từ lúc sinh ra, rao giảng và dưới chân thập giá, sống lại và lên trời. Vì thế, vương quyền cao sang và vinh dự của Mẹ được gắn liền với vương quyền tuyệt đối của Con Mẹ. Thật vậy, khởi đi từ Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa thì cũng xuất phát từ Ngài.

Như vậy, theo lẽ tất nhiên, vì Thiên Chúa đã yêu thương Mẹ cách tuyệt đối, gìn giữ cách nhiệm mầu, nên việc đặt Mẹ vượt trên mọi thần thánh, và đổ tràn trên Mẹ tất cả ân sủng trên trời là một ân ban từ lòng quảng đại của Thiên Chúa trên thụ tạo ưu tuyển, tuyệt mỹ và toàn hảo.

2. Khẩn cầu Mẹ trong vai trò Nữ Vương

Thật ý nghĩa khi Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập lễ này sau lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Qua tước hiệu cao quý này, ngài đã mời gọi con cái của Giáo Hội hãy hướng lòng lên Mẹ trên ngai tòa ân sủng để khẩn cầu Mẹ lúc gặp phải nghịch cảnh, thất bại hay đang lầm lũi trong tối tăm của tội lỗi. Ngài còn mời gọi con cái của mình, dù là là bất hảo và phàm ngôn, nhưng là con cái, chúng ta hãy lấy tình con thảo để ca khen Mẹ trong tâm tình tin tưởng, yêu mến, phó thác. Đồng thời luôn luôn vâng phục những lời Mẹ nhắn nhủ và biết noi gương Mẹ để thi hành thánh ý Thiên Chúa cách mau mắn.

Vì vậy, hãy can đảm chạy đến với Mẹ, Mẹ sẽ trở che, vỗ về, an ủi, trong vai trò là ”Đấng Hằng Cứu Giúp”. Chúng ta có quyền hy vọng điều đó, vì Mẹ là Bà Chúa của mọi thụ tạo (x Thánh thi kinh sáng lễ Đức Mẹ lên trời).

Để kết thúc, xin được mượn lời bài hát: ”Chút tình con thơ” của nhạc sĩ lm. Nguyễn Duy để nói lên niềm hy vọng của chúng ta ở nơi Mẹ trong vai trò là Trạng Sư:

“Mẹ ơi, trên trần gian, con chưa thấy ai, đến nhờ Mẹ mà Mẹ không thương giúp. Mẹ ơi, con biết rằng tình Mẹ rất bao la, luôn dõi nhìn từng nhịp bước con thơ”

Vì ”Mẹ nguồn cậy trông cho người thất vọng. Mẹ là niềm tin cho người lữ thứ. Mẹ là niềm vui cho người buồn đau. Mẹ là nghỉ ngơi cho người đơn côi”.(Internet)

Cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

------------------------------

 

Suy Niệm 14. Đức Maria nữ vương


--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Thánh vịnh 44, 10 viết rằng: “Lạy Chúa, bên hữu Ngài, Hoàng Hậu sánh vai, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng, và trang điểm huy hoàng rực rỡ’’. Thánh lễ mừng kính Đức Maria Trinh Nữ Vương đã có từ lâu, nhưng phải đợi đến năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII buộc toàn thể Giáo Hội mừng kính lễ này trọng thể trong toàn thể Giáo Hội.

KHÁI NIỆM VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA:

Với muôn vàn tước hiệu Giáo Hội và nhân loại cung kính dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, tước hiệu Nữ Vương Vũ Trụ Trời Đất bao gồm mọi tước hiệu Nữ Vương khác, và tước hiệu này có nền tảng trong Sách Khải Huyền: “Một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1) hoặc ”Người mang Danh viết trên áo, trên tà áo của Người: Vua các vua và Chúa các chúa” (Kh 19, 16). Chúa là vua trên hết các vua. Vương quyền của Ngài vượt trên mọi vương quyền.

Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu cũng phải được tôn vinh như vậy và nhân loại phải tung hô vương quyền, tôn nhận Mẹ là Nữ Vương trên hết mọi Nữ Vương. Thánh Giám Mục Anphongsô đệ Liguori đã viết: “Chúng ta hãy cám tạ Nữ Vương rất dấu yêu của chúng ta, bởi vì mọi ơn chúng ta đợc lãnh nhận đều từ tay Mẹ và nhờ lời cầu bầu của Mẹ” (Vinh Quang Đức Mẹ, II). Trong kinh lạy Nữ Vương ta đọc thấy: “Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, Ngọt ngào cho cuộc sống, Kính chào lẽ cậy trông’’ (Salve Regina). Mẹ Maria được tôn nhận làm Nữ Vương trên thiên quốc. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập lễ Đức Maria Trinh Vương và công bố tông thư Coeli Reginam nói về Vương Quyền của Đức Trinh Nữ Maria: vương quyền của Mẹ Maria là vương quyền của yêu thương và phục vụ.

MẸ MARIA LÀ NỮ VƯƠNG TRỜI ĐẤT:

Trong kinh lạy Nữ Vương chúng ta xưng tụng” Thân lạy Nữ Vương, lạy Mẹ từ bi, Mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con”. Mẹ Maria được xưng tụng như Esther trong Cựu Ước đã cứu dân ra khỏi hoạ diệt vong, Nữ Vương có mọi quyền hành bên Đức Vua và là Đấng bầu cử linh thiêng nhứt bên cạnh Đức Vua. Ngày nay, những lời ca tụng Đức Mẹ hướng về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ và uy quyền của Mẹ bên ngai tòa Chúa Giêsu. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của ơn cứu độ và là hoa trái tuyệt mỹ của thập giá Chúa Giêsu ‘‘Một người nữ mình mặc áo mặt trời, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12, 1). Mẹ Maria là người Mẹ đầy uy quyền trước mặt Chúa: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).

Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhận lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Maria Nữ Vương).
------------------------------

 

Suy Niệm 15. Đức Maria nữ vương


-- Enzo Lodi

1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Lễ Đức Maria nữ vương được Đức Piô XII thiết lập năm 1955 vào ngày 31 tháng 5, nay chuyển sang tám ngày sau lễ Đức Mẹ lên trời để nhấn mạnh hơn dây liên lạc giữa tư cách nữ vương của Đức Trinh nữ với việc thân xác Người được gọi về trời. Công đồng Vatican II đã tuyên bố: “Đức trinh nữ vô nhiễm, được Chúa gìn giữ khỏi mọi tỳ vết tội nguyên tổ, sau khi vượt qua cuộc đời trần gian, đã được đưa cả hồn và xác về vinh quang trên trời, được Chúa đặt làm nữ hoàng vũ trụ để nhờ thế hoàn toàn phù hợp với Con mình hơn” (Vatican II, GH.59).

Ngay từ thế kỷ thứ IV, ảnh tượng đã thường biểu thị bên cạnh Đức Kitô Pantocrator (Đức Kitô uy nghiêm) hình ảnh của Mẹ Người mà từ trung cổ người ta đã gọi là Nữ vương. Chẳng hạn nhiều ca vãn rất cổ ca tụng Người là nữ hoàng như: Salve Regina, Regina coeli, Ave Regina coelorum... cũng như các mầu nhiệm trong chuỗi Mân côi và trong kinh cầu Đức Bà Lorette.

Việc thiết lập lễ này là theo lời thỉnh cầu của các đại hội Thánh mẫu ở Lyon (1900), Fribourg (1902), Einsiedeln (1906), nhưng nhất là sau việc Đức Piô lập lễ Chúa Kitô Vua năm 1925. Sau hết, ngày 11 tháng 10 năm 1954, nhân kỷ niệm trăm năm tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Piô XII đã thiết lập lễ Đức Maria Nữ vương, nêu lên các lý do lịch sử và thần học trong thông điệp Ad coeli Reginam

Các bản văn phụng vụ chọn nhân lễ Đức Maria Nữ vương năm 1955 nêu bật chân lý sau đây mà Tông Huấn Marialis cultus (số 6) cũng sẽ nhấn mạnh: “Đức Ma-ri-a ngồi bên cạnh Vua muôn đời, rạng rỡ trong tư cách Nữ hoàng và khẩn cầu cho ta trong tư cách bà mẹ”. Cũng vậy, điệp ca Maguificat nhắc lại rằng Đức Ma-ri-a “cùng với Đức Kitô thống trị muôn đời”.

2. Thông điệp và tính thời sự

Lời nguyện trong ngày nhấn mạnh nền tảng của vương quyền Đức Maria mẹ Chúa Kitô, đồng thời cũng là mẹ và nữ hoàng của chúng ta. Lý do cuối cùng của “chức nữ vương” nơi Đức Trinh Nữ trước hết do tính cách mẹ Thiên Chúa của Người. Vì quả thực, cũng như Đức Kitô là Chúa và là vua mọi loài thụ tạo, Đức Maria, mẹ Chúa cũng tham gia một cách tương tự vào quyền vương đế của con mình. Chức nữ vương của Đức Maria cũng dựa trên sự tham dự sâu xa vào công trình cứu chuộc của Đức Giêsu con mình, cùng chịu đau khổ với Con và dâng Con lên Chúa Cha (xem thông điệp Ad coeli Reginam, của Đức Piô XII. Như công đồng Vatican II đã viết: “Đức Maria, khi dâng lên Chúa sự ưng thuận của mình, đã trở thành mẹ của Đức Giêsu và không chút vướng víu tội lỗi, Người chấp thuận ý định cứu rỗi của Chúa, Người hiến thân trọn vẹn cho con người và công việc của Con mình như là tỳ nữ của Chúa, hầu phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc trong sự lệ thuộc và cùng với Con, nhờ ơn Thiên Chúa toàn năng” (GH.56)

Đức Kitô Con Thiên Chúa và Con Đức Ma-ri-a là trưởng tử một đoàn anh em đông đúc (Rm 8,29) thế nào, thì Đức Maria cũng là mẹ của toàn dân Chúa, được chỉ định về vinh quang trên trời, hứa cho con cái Thiên Chúa (xem phần cuối lời nguyện trong ngày). Vậy nên vương quốc Đấng thiên sai được Đức Maria chia sẻ cũng được hứa ban cho mọi người, trước hết là các tông đồ, sau đến mọi Kitô hữu, hầu hoàn tất những lời này của Đức Kitô: “Phần anh em, anh em đã trung thành với Thầy trong các thử thách. Vậy nên Thầy đã sắm vương quốc cho anh em, như cha Thầy đã sắm cho Thầy, ngõ hầu anh em cùng ăn cùng uống nơi bàn tiệc trong vương quốc của Thầy và anh em ngồi trên các ngai để xét xử mười hai chi họ It-xra-en” (Lc 22,28-30).

Bài giảng thánh Amédée ở Lausanne trong lễ Đức Mẹ lên trời nhấn mạnh tính cách trung gian của Đức Maria vì Người đứng bên hữu của Con mình: “Là hôn thê, mẹ của Hôn Phu duy nhất, mẹ như suối từ những mảnh vườn thiêng liêng và là giếng phát sinh những mạch nước hằng sống, mạch nước nuôi sống vọt thành suối từ đỉnh Liban Thiên Chúa. Bởi thế từ núi Sion mẹ cho tuôn trào những con sông an bình, những con suối ân phúc xuống đến mọi dân tộc”.

Ca vãn trong thần vụ ca tụng Đức Maria nữ tỳ của Chúa “đã được Chúa chấp thuận như một công trình hoàn hảo” và đang ngự trị trong vinh quang. Ca vãn giải thích sứ mệnh của Đức Maria, là mẹ và là nữ vương, được kêu gọi trở nên sự phản chiếu lòng nhân từ Chúa và là sự nâng đỡ chúng ta bằng những lời: “Hỡi người phụ nữ / được Chúa khoác áo choàng ánh sáng / khi bóng tối sự chết / bủa vây trên vũ trụ / Mẹ soi chiếu con đường về Nước trời” .

Vai trò của Đức Ma-ri-a là Mẹ và là Nữ vương càng được ca khen một cách tuyệt diệu trong một Điệp ca cuối trong kinh tối: “kính lạy Bà vị Nữ hoàng Thiên quốc (Ave Regina coelorum) …”

“Kính lạy Bà, vị nữ hoàng Thiên quốc
Lạy nữ vương trên chín phẩm thiên thân,
Là cội thiêng, là cửa trời vinh phúc,
Đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian.
Mừng vui lên, mừng vui lên Trinh nữ,
Bà hiển vinh, Bà diễm lệ khôn tày
Bên tòa Chúa Kitô, ngôi Thánh Tử
Cúi lạy Bà, xin nguyện giúp cầu thay”.

------------------------------

 

Suy Niệm 16. Đức Maria trinh nữ vương


--Montfort Nguyễn Xuân Pháp O.Cist

Việc thiết lập ngày lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương được khởi đi từ ước nguyện của các đại hội Thánh Mẫu tại Lyon (1900), Fribourg (1902) và Einsiedeln (1906). Ước nguyện này đã được thực hiện khi Đức Giáo Hoàng Pio XII đã thiết lập lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương vào ngày 11/10/1954, nhân kỷ niệm 400 năm tuyên bố tín điều Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Việc mừng kính lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương cho ta thấy mối liên hệ tuyệt vời giữa các đặc ân mà Mẹ đã nhận lãnh. Điều này đã được Công Đồng Vaticano II khẳng định: “Đức Trinh Nữ Maria được Chúa giữ gìn khỏi mọi tỳ vết tội nguyên tổ, sau khi vượt qua cuộc đời trần gian, đã được cả hồn lẫn xác về vinh quang trên trời, được Chúa đặt làm nữ hoàn vũ trụ để nhờ thế hoàn toàn phù hợp với Con mình hơn” (Vaticano II, GH, Số 59).

Chúng ta cùng dừng lại một vài điểm chính nói lên ý nghĩa của thánh lễ này:

1. Đức Maria không vướng nhơ Tội Nguyên Tổ

Để chuẩn bị cho con Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã giữ gìn Mẹ không vướng mắc Tội Nguyên Tổ ngay từ đầu. Mẹ là tuyệt đỉnh của nhân tính bất khả xâm phạm: Mẹ không bị tổn thương vì tội lỗi, cho nên, mẹ cũng không bị tổn thương do sự chết. Đó là điều Thiên Chúa muốn. Bởi chưng cuộc đời Mẹ luôn kết hợp với Ngôi Lời để hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Mọi hành vi của Mẹ luôn quy hướng về Đức Kitô, và cùng với Ngài, mang lại cho nhân thế niềm an vui, sự giải thoát khỏi gông cùm tội lỗi và sự chết. Đức Giáo Hoàng Pio IX đã nói rõ trong tín điều đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào năm 1854: “Đức Maria rất thánh ngay từ giây phút đầu tiên nhập thai với một đặc ân và là món quà độc nhất ân sủng của Thiên Chúa quyền năng, dựa trên những công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại đã giữ gìn Mẹ khỏi mọi vết nhơ của tội nguyên tổ”.

2. Đức Maria- Mẹ Thiên Chúa

Vai trò Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa là yếu tố làm nên tước vị Đức Maria Nữ Vương. Bởi vì, Đức Kitô là Chúa và là vua vũ hoàn, cho nên, Đức Maria cũng được tham dự vào quyền vương đế của Con mình. Tước vị Nữ Vương của Đức Maria được đặt vào trong khung cảnh Mẹ tham dự sâu xa vào công trình cứu chuộc của Đức Giêsu Con Mẹ. Trong Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh (số 56), Công Đồng Vaticano II đã minh định: “Khi thưa tiếng ‘xin vâng’ (Lc 1,38), Mẹ đã chấp nhận lời Thiên Thần mà trở nên Mẹ Chúa Giêsu. Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, vì không một tội nào ngăn trở Ngài, Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Thiên Chúa, hầu tham gia vào mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với con của Ngài”.

3. Đức Maria được vinh hiển trên trời

Tín điều Đức Maria hồn xác lên trời được Đức Pio XII tuyên tín năm 1950, với xác tín Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Vô Nhiễm Nguyên Tội và Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian, được lên trời cả hồn lẫn xác. Thánh Amêđô giám mục đã hết lời ca ngợi Mẹ: Thật là phải lẽ việc Đức Maria trước khi lên trời, đã rạng danh ở khắp mặt đất và danh ngài thật lẫy lừng ở khắp mọi nơi, trước khi sự vinh quang của ngài được đưa lên các tầng trời. Với thánh nhân, việc mừng kính Đức Maria Nữ Vương làm cho “người người vui mừng, kẻ nhìn nhận ngài là Nữ Vương, kẻ suy tôn ngài là Nữ Chúa, tất cả đều yêu mến phụng thờ ngài”.

4. Nhân loại được thông chia ân phúc cùng Mẹ

Nhân dịp kỷ niệm bốn năm tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về trời và kết thúc năm Thánh Mẫu, được Đức Giáo Hoàng Pio XII đã long trọng đội triều thiên lên tượng đức trinh nữ để nói lên vương quyền phổ quát của Đức Maria. Trong sự kiện này Đức Giáo Hoàng đã trao gửi tất cả thế giới cho Mẹ: Xin Mẹ cai quản trên Giáo Hội, trên mọi trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình, cũng như mọi xã hội và quốc gia, cũng như trên mọi cộng đoàn. Xin Mẹ cai trị trên mọi nẻo đường, mọi quảng trường, mọi thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời, trên mặt đất và cả biển khơi.

Lời trao gửi của Đức Giáo Hoàng giúp ta thêm xác tín rằng: Đức Kitô Con Thiên Chúa và Con Đức Maria là trưởng tử đàn em đông đúc (Rm 8,29) thế nào, thì Đức Maria cũng là Mẹ của toàn dân Chúa. Cho nên, vương quốc Đấng Thiên Sai được Đức Maria thông chia cũng được hứa ban cho mọi người, như lời Đức Kitô đã nói: “Thầy sẽ trao vương quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được ăn uống đồng bàn với Thầy trong vương quốc của Thầy” (Lc 22,29-30).

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ hãy làm chủ cuộc đời con, làm chủ tâm hồn con và hướng dẫn chúng con luôn bước đi theo đường lối Chúa dưới sự soi dẫn của Tin mừng. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 17. Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương


--Lm Đa-minh Thiệu O.Cist

Từ ngày mồng 01 tháng 11 năm 1953 tới ngày mồng 01 tháng 11 năm 1954, Giáo hội Công giáo đã cử hành Năm Thánh Đức Mẹ nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày Đức Thánh Cha Pi-ô IX công bố Tín Điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vào ngày mồng 01 tháng 11 năm 1954, tức ngày bế mạc Năm Thánh vừa nêu, Đức Pi-ô XII đã công bố việc thiết lập ngày Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương, và ấn định rằng, Giáo hội Công giáo sẽ cử hành ngày Lễ này vào ngày cuối cùng trong Tháng Hoa Kính Đức Mẹ, tức ngày 31 tháng 05. Việc công bố này được thực hiện trong buổi tôn kính bức ảnh Đức Mẹ Ban Ơn tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả, tức Vương Cung Thánh Đường Kính Đức Maria lớn nhất Rô-ma.

Tuy nhiên, trong cuộc cải tổ Lịch Phụng Vụ Rô-ma do Đức Thánh Cha Phao-lô VI thực hiện vào năm 1969, Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương được chuyển sang ngày 22 tháng 08, tức 8 ngày sau Đại Lễ Đức Mẹ Được Rước Về Trời, và được cử hành trong Giáo hội với bậc Lễ nhớ. Khi thực hiện việc thay đổi này, Giáo hội đã có một lời giải thích như sau: “Để sự liên kết giữa phẩm hàm Trinh Nữ Vương của Đức Maria với việc Mẹ được cung rước về Thiên Đàng trở nên rõ ràng hơn.” Vì thế, chức Trinh Nữ Vương của Đức Maria không nên được cử hành một cách đơn giản vào ngày cuối cùng trong tháng 05, tức Tháng Hoa Kính Đức Mẹ, như là hồng ân cuối cùng được thêm vào trong các hồng ân của Mẹ, nhưng từ nay về sau, sự tôn vinh Đức Maria làm Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương các Thiên Thần và các Thánh, nên được hiểu như là sự hoàn tất việc nghênh đón Mẹ vào trong vinh quang Thiên Đàng. Trước đây, ngày 22 tháng 08 được dành để cử hành Lễ kính nhớ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria. Ngày Lễ này cũng do Đức Pi-ô XII thiết lập và được cử hành trên toàn Giáo hội. Nhưng từ khi có cuộc cải tổ lịch Phụng Vụ vào năm 1969, ngày Lễ này đã được chuyển về cho gần với Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, và cụ thể là vào ngày thứ Bảy ngay sau Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa.

Người ta cũng có thể nói về cuộc phong vương cho Đức Maria thay vì nói rằng, vương quyền của Đức Maria, và căn cứ vào đó, người ta có thể gọi ngày Lễ này là ngày Lễ Đăng Quang của Đức Maria.

Thực ra, không phải kể từ ngày mồng 01 tháng 11 năm 1954, Đức Maria mới được các tín hữu nhìn ngắm và tôn kính với tư cách là Nữ Vương các Thiên Thần và các Thánh trên Trời. Mà ngay từ hồi Trung Cổ, Đức Maria cũng đã được các tín hữu chiêm ngưỡng và tôn kính với tư cách như thế rồi. Kể từ đó, sự kiện Đức Maria được Thiên Chúa Ba Ngôi trao vương miện đã được trình bày trên nhiều bức họa, cũng như trên các bức phù điêu. Rất nhiều những lời cầu nguyện, những Thánh Thy và những bài ca hướng lên Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Trạng Sư, Người Cầu Thay Nguyện Giúp cho nhân loại bên Chúa Con vương đế của Mẹ. Sự kiện Phong Vương cho Đức Maria cũng được trình bày trong một số các bức họa thời Ba-rốc. Bên cạnh hình thức này, để trình bày về sự kiện Đức Maria được phong vương, tất nhiên cũng còn có rất nhiều những bức họa khác trình bày Đức Maria ngồi trên ngai, đầu đội triều thiên và tay ẵm Chúa Hài Đồng. Có vô vàn những bức ảnh Đức Mẹ ban ơn thuộc hình thức này!

Vương quyền của Đức Maria, hay việc Mẹ được tôn phong làm Nữ Vương các Thiên Thần và các Thánh, Nữ Vương của cộng đoàn trên trời, được hình thành nên trong phẩm vị làm Thân Mẫu Thiên Chúa của Mẹ: Mẹ là Thân Mẫu của Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành người, và vì Ngôi Lời Thiên Chúa làm người cũng là Chiên Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu của Đấng Cứu Chuộc. Với tư cách là Thân Mẫu của Đấng Cứu Chuộc, Mẹ đã dự phần trong cuộc chiến thắng của Chúa Giê-su Ki-tô trên tội lỗi, trên sự chết, trên Sa-tan và trên quyền lực của hắn. Mẹ là Đấng được canh phòng trước tất cả mọi vết nhơ tội lỗi, và Mẹ cũng chính là Đấng Chiến Thắng nhờ vào sự chiến thắng của Con Mẹ trên những mãnh lực đối địch với Thiên Chúa. Vì thế, vương quyền của Mẹ cũng có thể được hiểu như là sự thể hiện cuộc chiến thắng của Mẹ cùng với Con mình. Việc tôn kính Con của Đức Maria ảnh hưởng hoàn toàn trên việc tôn kính dành cho Mẹ. Trong các Thánh Thy khác nhau của mình, Thánh Phao-lô cũng đã phác họa địa vị bao trùm vũ trụ của Chúa Ki-tô (Col 1,12-20; Phil 2,5-11; s. a. 1 Cor 15,20-28; Eph 1,3-23; 2,5). Do đó, với tư cách là Mẹ của Con Thiên Chúa và của Đấng Cứu Độ, Đức Maria cũng tham dự vào trong địa vị của Chúa Ki-tô. Và điều này cũng đã được thể hiện sẵn trong khi trình bày về tất cả những người được cứu chuộc: “Nhưng Thiên Chúa giầu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời” (Eph 2,4tt; xc. Col 1,13; 3,1tt). Ngay cả lời tổng nguyện trong ngày Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương cũng cầu xin cho được ơn tham dự vào Vương Quyền Thiên Quốc:

"Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Kitô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhận lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa”.

------------------------------

 

Suy Niệm 18. Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương


(22.08)

--BBT Dòng NVHB

Hòa chung tâm tình với toàn thể Giáo hội hân hoan mừng lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương.

Suy niệm về cuộc đời của Mẹ, Giáo hội nhìn nhận Mẹ đáng được tôn phong lên tước hiệu TRINH NỮ VƯƠNG, bởi Mẹ đã cưu mang và sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. HD Chúng ta thật hạnh phúc vì được mang danh thánh Mẹ, có Mẹ cùng đồng hành qua các biến cố và những thăng trầm lịch sử, nhờ đó HD chúng ta vẫn đứng vững và phát triển cho đến hôm nay. Để cảm nghiệm sâu hơn ngày lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương, chúng ta cùng lắng nghe đôi nét về Lịch sử và ý nghĩa ngày lễ, đồng thời dâng lên Mẹ tâm nguyện của đoàn con Dòng Đức Maria Nữ Vương Hòa bình.

1. Lịch sử ngày lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương

Vào ngày mồng 01 tháng 11 năm 1954, ngày Giáo Hội bế mạc Năm Thánh kỷ niệm 100 năm công bố Tín Điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Pi-ô XII đã công bố việc thiết lập ngày Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương. Ngài đã ấn định rằng, Giáo hội Công giáo sẽ cử hành ngày Lễ này vào ngày cuối cùng trong Tháng Hoa Kính Đức Mẹ, tức ngày 31 tháng 05.

Tuy nhiên, trong cuộc cải tổ Lịch Phụng Vụ Rô-ma vào năm 1969, do Đức Thánh Cha Phao-lô VI thực hiện: Lễ Đức Mẹ Trinh Nữ Vương được chuyển sang ngày 22 tháng 08, tức 8 ngày sau Đại Lễ Đức Mẹ Được Rước Về Trời, và được cử hành trong Giáo hội với bậc Lễ nhớ. Khi thực hiện việc thay đổi này, Giáo hội đã có một lời giải thích như sau: “Để sự liên kết giữa phẩm hàm Trinh Nữ Vương của Đức Maria với việc Mẹ được cung nghinh về Thiên Đàng trở nên rõ ràng hơn.” Vì thế, chức Trinh Nữ Vương của Đức Maria không nên cử hành một cách đơn giản vào ngày cuối cùng trong tháng 05, tức Tháng Hoa Kính Đức Mẹ, như là hồng ân cuối cùng được thêm vào trong các hồng ân của Mẹ. Nhưng từ nay về sau, sự tôn vinh Đức Maria làm Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương các Thiên Thần và các Thánh, nên được hiểu như là sự hoàn tất việc nghênh đón Mẹ vào trong vinh quang Thiên Đàng.

Không phải kể từ ngày mồng 01 tháng 11 năm 1954, Đức Maria mới được các tín hữu nhìn ngắm và tôn kính với tư cách là Nữ Vương trên Trời. Ngay từ thời Trung Cổ, Đức Maria đã được các tín hữu chiêm ngưỡng và tôn kính như thế. Kể từ đó, sự kiện Thiên Chúa Ba Ngôi trao vương miện cho Đức Maria được trình bày trên nhiều bức họa, cũng như trên các bức phù điêu. Rất nhiều lời cầu nguyện, những Thánh Thi và những bài ca hướng lên Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Trạng Sư, Người Cầu Thay Nguyện Giúp cho nhân loại bên Chúa Con. Mẹ là Thân Mẫu của Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành người, và vì Ngôi Lời Thiên Chúa làm người cũng là Chiên Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu của Đấng Cứu Chuộc. Mẹ là Đấng được canh phòng khỏi tất cả mọi vết nhơ tội lỗi, và Mẹ cũng chính là Đấng Chiến Thắng nhờ vào sự chiến thắng của Con Mẹ trên những mãnh lực đối địch với Thiên Chúa. Vì thế, vương quyền của Mẹ cũng có thể được hiểu như là sự thể hiện cuộc chiến thắng của Mẹ cùng với Con mình. (x. Lm Đa-minh Thiệu O.Cist)

2. Ý nghĩa lễ Đức Mẹ Trinh Vương

Trong bài huấn dụ trưa Chúa nhật ngày 22-8-2010 với hàng ngàn tín hữu hành hương tại dinh thự Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã diễn giải ý nghĩa lễ Đức Mẹ Trinh Vương  như sau:

"Tám ngày sau lễ trọng Đức Mẹ hồn xác lên trời, phụng vụ mời gọi chúng ta tôn kính Đức Trinh Nữ Maria với tước hiệu 'Nữ Vương'. Chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ Chúa Kitô được Chúa Con đội triều thiên, nghĩa là được tháp nhập vào Vương quyền hoàn vũ của Ngài,… Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt hảo về chân lý ấy của Phúc Âm, nghĩa là Thiên Chúa hạ bệ những kẻ kêu ngạo và quyền thế ở trần thế này và nâng cao người khiêm nhường (xc Lc 1,52)”.

Thiếu nữ khiêm hạ đơn sơ làng Nazareth xưa kia nay trở thành Nữ Vương thế giới! Đây thực là một trong những kỳ công của Thiên Chúa. Dĩ nhiên vương quyền của Mẹ Maria hoàn toàn là điều tương đối so với vương quyền của Chúa Kitô: Ngài là Chúa, sau khi đã chết tủi nhục trên Thánh Giá, đã được Chúa Cha nâng lên cao, vượt trên mọi loài thụ tạo, trên trời, trên mặt đất và dưới lòng đất (xc Pl 2,9-11). Theo một kế hoạch ân phúc, Mẹ Vô Nhiễm đã hoàn toàn được tháp nhập vào mầu nhiệm Chúa Con: vào sự nhập thể, vào cuộc sống trần thế, trước tiên là cuộc sống ẩn dật tại Nazareth. Sau đó, được biểu lộ trong mầu nhiệm cứu thế; Mẹ được tháp nhập vào cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa; và sau cùng được tháp nhập vào vinh quang Phục Sinh và lên trời. Mẹ đã chia sẻ với Con không những các khía cạnh nhân trần của mầu nhiệm này, nhưng cả ý hướng sâu xa, thánh ý Chúa, nhờ hoạt động của Thánh Linh ở trong Mẹ, đến độ toàn thể cuộc sống, khó nghèo và khiêm hạ của Mẹ được thăng hoa, biến đổi và tôn vinh, nhờ đi qua ”cửa hẹp” là chính Chúa Giêsu (xc Lc 13,24). Đúng vậy, Mẹ Maria là người đầu tiên đã được đi qua “con đường” mà Chúa Kitô mở ra để vào Nước Thiên Chúa, một con đường mà những người khiêm hạ, những người tín thác nơi Lời Chúa và quyết tâm đem Lời Chúa ra thực hành, cũng được mời gọi bước vào.

3. Tâm nguyện với Đức Maria Trinh Nữ Vương

Lạy Mẹ Maria Trinh Nữ Vương,

Cùng với cả triều thần thiên quốc và muôn loài thọ tạo dưới đất, chúng con đồng hoan hỉ tung hô và chúc khen Mẹ là Đấng Đầy Ân Phúc. Thiên Chúa đã ân thưởng triều thiên Nữ Vương cho Mẹ nhờ phúc lộc của Thánh Tử Giêsu con Mẹ.

Mừng kính danh hiệu Mẹ Trinh Nữ Vương hôm nay, cũng là dịp để chúng con được cảm mến hơn tình mẫu hậu của Mẹ dành cho chúng con.

Xin thương đồng hành và nâng đỡ Hội Dòng chúng con đang từng bước canh tân đời sống theo Định hướng: Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, Hân Hoan Ra Đi gieo rắc Tin Mừng bình an của Chúa, ưu tiên cho anh chị em  dồng bào Dân Tộc và những nơi “xó xỉnh lều tranh để thực thi mười bốn mối thương người” (tr. bài giảng thiết lập Dòng).

Như một ‘nữ tỳ hèn mọn được Chúa thương nhìn tới’, xin cho từng chị em trong HD luôn sống tinh thần hoán cải và canh tân. Biết khiêm nhường trong suy nghĩ, lời nói và việc làm. Biết sống đời nội tâm sâu sắc, kết hiệp với Chúa Chúa Giêsu Thánh Thể, để có thể lắng nghe và biện phân Lời Chúa trong từng hoàn cảnh cuộc sống hằng ngày. Biết mau mắn lên đường dấn thân cho sứ vụ mới và dám hi sinh quảng đại đáp lời mời gọi của Chúa.

Xin Mẹ dẫn lối cho các bạn trẻ đang tìm chân lý, biết quả cảm dấn thân cho sứ mạng và quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa trong ơn gọi NVHB.

Xin cho chị em cựu tu sinh NVHB đang lần bước giữa đời được bình an và hạnh phúc.

Chúng con phó thác trong vòng tay Từ Mẫu mọi thành viên gia đình NVHB tại thế. Xin Mẹ an ủi và chở che để hết mọi anh chị em cảm nghiệm được niềm vui và ân phúc trong đại gia đình này, để chung tay với Hội Dòng loan báo tìn mừng hòa bình mọi nơi.

Sau hết, xin cho toàn thể nhân loại chúng con biêt tìm đến nương ẩn dưới tà áo Trinh Vương của Mẹ. Xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa cho thế giới được sớm thoát khỏi cơn đại nạn dịch bệnh Covid đang từng ngày lấy đi sinh mạng của hàng ngàn người. Xin thương che chở chúng con, lạy Đức Maria Trinh Nữ Vương Hòa Bình.

------------------------------

 

Suy Niệm 19. Lễ Ðức Maria Nữ Vương


22-08

Vào năm 1954, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ này. Nhưng tư cách nữ vương của Ðức Maria có nguồn gốc trong Phúc Âm. Vào lúc Truyền Tin, sứ thần Gabriel thông báo rằng Con của Ðức Maria sẽ nối ngôi Ðavít và cai trị đến muôn đời. Trong cuộc Thăm Viếng, bà Êlizabét gọi Ðức Maria là “mẹ của Chúa tôi.” Cũng như trong tất cả mầu nhiệm cuộc đời của Ðức Maria, ngài rất gần gũi với Ðức Giêsu, do đó ngài được chia sẻ vương quyền của Ðức Giêsu. Chúng ta cũng có thể nhớ lại rằng, trong Cựu Ước, người mẹ của vua rất có thế lực trong triều đình.

Vào thế kỷ thứ tư, Thánh Ephrem gọi Ðức Maria là Hoàng Hậu và sau đó các Giáo Phụ cũng như các Tiến Sĩ Hội Thánh tiếp tục dùng danh xưng này. Các thánh thi từ thế kỷ 11 cho đến 13 đề cập đến Ðức Maria như một hoàng hậu: “Kính mừng Hoàng Hậu Thánh Thiện,” “Kính mừng Hoàng Hậu Thiên Ðàng.” Tràng hạt dòng Ðaminh và dòng Phanxicô cũng như biết bao lời cầu khẩn Ðức Maria trong kinh nguyện đều mừng kính tư cách nữ vương của ngài.

Ngày lễ này rất thích hợp để theo sau lễ Ðức Mẹ Thăng Thiên, và bây giờ được cử mừng vào ngày thứ tám sau ngày lễ nói trên. Trong thông điệp Nữ Vương Thiên Ðàng, Ðức Piô XII nói rằng Ðức Maria xứng với danh hiệu này vì ngài là Mẹ Thiên Chúa, vì ngài cộng tác chặt chẽ trong công trình cứu chuộc của Ðức Giêsu như một Evà Mới, vì sự tuyệt hảo trổi vượt của ngài và vì sự can thiệp quyền thế của Ðức Maria.

Lời Bàn

Như Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Rôma 8:28-30, tự thuở đời đời Thiên Chúa đã tiền định cho con người được chia sẻ hình ảnh của Con Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Ðức Maria được tiền định làm mẹ của Ðức Giêsu. Như Ðức Giêsu là vua của muôn tạo vật, thì Ðức Maria là hoàng hậu, nhờ vào Ðức Giêsu. Tất cả mọi xưng tụng tư cách nữ vương này đều xuất phát từ ý định đời đời của Thiên Chúa. Như Ðức Giêsu hành sử vương quyền của Người trên mặt đất bằng cách phục vụ Chúa Cha và loài người, thì Ðức Maria cũng hành sử quyền nữ vương của ngài. Như Ðức Giêsu vinh hiển vẫn ở với chúng ta như một vị vua cho đến tận thế (Mt. 28:20), thì Ðức Maria cũng vậy, ngài là người đã được đưa lên trời và được ban thưởng triều thiên hoàng hậu của thiên đàng và trần thế.

Lời Trích

“Tất cả mọi Kitô Hữu hãy tha thiết khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người. Hãy nài xin ngài là đấng là trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời khẩn nguyện, và được tôn vinh trên trời trên tất cả thần thánh, để ngài có thể cầu bầu cùng Con ngài trong sự hiệp thông với toàn thể các thánh. Cầu mong sao ngài vẫn tiếp tục công việc ấy cho mọi dân tộc của gia đình nhân loại, dù họ được vinh dự mang danh Kitô Hữu hay chưa biết đến Ðấng Cứu Thế, đều được hân hoan cùng nhau quy tụ trong an bình và hòa thuận hợp thành một Dân Chúa, vì vinh hiển của Ba Ngôi Cực Thánh và Không Phân Chia” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, 69).

------------------------------

 

Suy Niệm 20. Đức Maria Nữ Vương, Nữ vương ban sự bình an


--Huệ Minh

(Is 9, 2-4. 6-7; Tv 112, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8; Lc 1, 26-38)

Từ lâu đời, nhiều bài thánh ca đã hướng lên đức Maria dưới tước hiệu Nữ vương (thí dụ: “Salve Regina, Reginae coaeli, Ave regina coelorum); trong kinh cầu Đức Mẹ, lời khẩn cầu “Nữ vương” được lặp lại nhiều lần dưới nhiều tước hiệu khác nhau.

Thế nhưng, lễ Đức Maria Nữ vương thì mới được đức Piô XII thiết lập vào năm 1954, (để đánh dấu năm Thánh mẫu kỷ niệm bách chu niên của việc tuyên bố tín điều Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội), với thông điệp “Ad caeli reginam” ngày 11/10/1954. Lễ này được ấn định cử hành vào ngày 31 tháng 5.

Và rồi, với cuộc canh tân phụng vụ sau Công Đồng đã dời lễ nhớ sang ngày 22 tháng 8 để làm nêu bật hơn sự gắn liền tước hiệu Nữ vương của Đức Maria với việc lên Trời: chúng ta chiêm ngắm Đức Maria, Nữ hoàng ngồi bên cạnh Vua thiên triều để cầu bầu cho chúng ta như Thái Hậu.

Thật vậy, chức Nữ vương của Đức Maria được gắn liền với vai trò làm mẹ và chuyển cầu. Có lẽ nên hiểu tước “Nữ vương” theo nghĩa là “Thái Hậu” (bà mẹ của Đức Vua), hơn là Hoàng hậu hay Nữ hoàng. Hơn thế nữa, cũng như Đức Kitô đã giải thích vương triều Thiên Chúa theo nghĩa phục vụ chứ không phải thống trị, chúng ta cũng hiểu được rằng vinh quang của Đức Maria không dành để củng cổ thế lực, nhưng là nhằm để thực thi lòng ân cần săn sóc đối với anh chị em còn trên đường lữ hành.

Ý nghĩa tước hiệu “Nữ vương” được phụng vụ giải thích trong phần dẫn nhập vào bài lễ như sau:

Có ít là bốn lý do để đức Maria đáng mang tước hiệu Nữ vương: lòng khiêm nhường; chức phận làm mẹ; vai trò chuyển cầu; hình ảnh vinh quang của Hội thánh.

1) Đức Maria là Nữ vương trên trời bởi vì khi còn ở dưới thế, Người là tôi tớ khiêm nhường của Chúa. Theo như lời của chính Chúa đã dạy: “ai hạ mình xuống thì sẽ được nhấc lên” (Lc 14, 11). Cũng như Chúa Cha đã tôn vinh Đức Kitô vì đã hạ mình cho đến chết trên thập giá (Pl 2, 6-11), thì Ngài cũng nhấc người nữ tì hèn hạ lên trên các thiên thần.

2) Đức Maria là Nữ vương vì là thân mẫu của Vua cứu thế, Đấng “ngự trên toàn vua Đavít đến ngàn đời” (Lc 1, 32-33). Bà Isave đã chúc tụng Người là “Mẹ của Chúa tôi” (Lc 1, 41-43).

3) Đức Maria là Nữ vương bởi vì ở bên cạnh đức Vua vinh hiển trên trời để cầu bầu cho nhân loại. Khi còn tại thế, Đức Maria đã đồng lao cộng tác với Đức Kitô vào sự cứu chuộc trong đau khổ; ngày nay Người cũng chia sẻ vinh quang với Chúa để cầu xin cho hết mọi người được hưởng nhờ ơn đó.

4) Đức Maria là Nữ vương vì người tiên phong cho hội thánh mai hậu, cũng được gọi vào chia sẻ vinh quang của con cái Chúa trong nước trời (Kh 5, 10), lãnh triều thiên vinh quang (1Pr 5, 4), triều thiên công chính (2Tm 4, 8).

Và rồi, chúng ta thấy để tôn kính Nữ Vương, với kinh cầu Đức Bà, ta thấy có nhiều lời ca tụng Đức Nữ vương.

 Đức giáo hoàng Piô 6 năm 1814, thêm vào kinh Cầu Đức Bà 8 câu tôn vinh Nữ vương:"Nữ Vương các thánh thiên thần" cho đến câu "Nữ Vương các thánh nam cùng các thánh nữ".

Nữ vương các thánh thiên thần.
Nữ vương các thánh Tổ tông.
Nữ vương các thánh Tiên tri.
Nữ vương các thánh Tông đồ.
Nữ vương các thánh Tử vì đạo.
Nữ vương các thánh Hiển tu.
Nữ vương các thánh Ðồng trinh.
Nữ vương các thánh Nam cùng các thánh Nữ.
Nữ vương truyền phép rất thánh Mân côi.

- Đức Lêô 13, năm 1833 thêm: "Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân côi".

Nữ vương chẳng hề mắc tội tổ tông. - Đức Piô 9, năm 1854 thêm: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông".

Nữ vương linh hồn và xác lên trời.- Đức Piô 12, năm 1950 thêm: "Nữ Vương linh hồn và xác lên trời".

Nữ vương các gia đình.- Đức Gioan Phaolô 2, năm 1995 thêm "Nữ Vương các gia đình" để cầu cho các gia đình đang gặp nhiều khó khăn giữa thế giới hôm nay.

Đặc biệt, lời ca tụng Nữ vương ban sự bằng yên được Đức Bênêđictô 15, năm 1915 thêm "Nữ Vương ban sự bằng yên".

Và, đặc biệt hơn nữa, trong các giờ kinh gia đình, giờ kinh chúng ta thường nghe thấy câu cuối cùng: “Nữ Vương ban sự bình yên – cầu cho chúng con”. Không chỉ xướng 1 lần mà xướng đến 3 lần.

Điều mà người ta tha thiết nài xin nên người ta mới xướng nhiều đến như vậy. Phải chăng đó là tâm thức của con người, tâm thức của mỗi người chúng ta khi hướng lòng lên với Đức Mẹ.

Thật vậy, Mẹ Maria – Mẹ chúng ta – Mẹ chính là Nữ Vương trời đất.

Maria xứng đáng là Nữ Vương Trời đất bởi lẽ Mẹ đã thưa hai tiếng xin vâng như trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền".

Eva đã xuẩn động bất tuân để làm cho con người trở nên nô lệ của tội lỗi. Chính từ ngày đó, con người đã bất an vì tội lỗi lan tràn mặt đất. Còn Maria – Ave – hai tiếng Mẹ đảo vần đó đã mang lại ơn cứu độ, mang ơn bình an đến cho nhân loại.

Nhìn vào thực tế của cuộc đời, ta thấy con người không thể nào thoát khỏi sự quan phòng, khỏi bàn tay của Thiên Chúa để rồi càng bất tuân, càng hí hoáy lòng ta lại bất an. Càng đi tìm cho mình cái tôi của mình, sự tự do của mình ta lại thấy bất an. Kinh nghiệm rõ ràng nơi Mẹ Maria, ta sẽ bình an khi ta thân thưa với Chúa lời xin vâng như Mẹ.

Và, thật sự là thế, Maria là Mẹ, là Nữ Vương ban sự bình an bởi lẽ trong tâm tình là Mẹ, Mẹ hiểu được lòng con thơ.

Cuộc đời con người, ắt hẳn không có gì quý cho bằng sự bình an trong tâm hồn. Chính vì thế, mỗi người chúng ta nếu muốn bình an thật sự thì hãy đến bên Mẹ, nép mình vào lòng Mẹ và cùng thưa với Chúa lời xin vâng như Mẹ chúng ta sẽ có sự bình an như Mẹ.

Trong tâm niệm, ta hãy cũng niệm lời xướng thật dễ thương: Nữ Vương ban sự bình an – cầu cho chúng con.

Xin Mẹ là Mẹ, là Nữ Vương ban sự bình an luôn che chở chúng con trong vòng tay của Mẹ để đời chúng con mãi mãi được sự bình an.

------------------------------

 

Suy Niệm 21. Này tôi là tôi tớ Chúa


—Lm. Micae Võ Thành Nhân

Ngày 15/ 8 hàng năm, Giáo Hội mừng trọng thể lễ Chúa đưa Mẹ lên trời cả hồn và xác. Chúng ta là con cái của Mẹ, là em của Chúa, chúng ta còn ở nơi trần gian, nơi thung lũng nước mắt, chúng ta khẩn cầu Mẹ luôn: “Nữ vương linh hồn và xác lên trời “. Nghĩa là, sau khi lên trời, Chúa đã tôn phong Mẹ với tước hiệu là Nữ Vương, đặt Mẹ bên cạnh Chúa, để cho cả tạo vật trên trời đưới đất chiêm ngắm Mẹ là một người Mẹ đầy quyền uy, cao sang, từ ái và chúng ta kêu xin Mẹ “ Cầu cho chúng con” (Kinh cầu Đức Bà).

Từ việc chúng ta xưng tụng Mẹ là Nữ Vương linh hồn và xác lên trời, chúng ta lại tiếp tục đọc với một tâm tình của một người con thảo, sốt sắng, và khẩn cầu hàng ngày:

-Nữ Vương các thánh thiên thần.
-Nữ Vương các thánh tổ tông.
-Nữ Vương các thánh tiên tri.
-Nữ Vương các thánh tông đồ.
-Nữ Vương các thánh tử vì đạo.
-Nữ Vương các thánh hiển tu.
-Nữ vương các thánh đồng trinh.
-Nữ vương các thánh nam cùng các thánh nữ.
-Nữ vương chẳng hề mắc tội tổ tông.
-Nữ Vương truyền phép rất thánh Mân Côi.
-Nữ Vương ban sự bình an.

Như vậy, trên thiên quốc, Mẹ quyền thế vô cùng, ngoài Chúa ra thì chỉ có Mẹ mà thôi. Vì thế mà chúng ta biết rằng Chúa đã đặt tất cả các ơn trong tay Đức Mẹ, Mẹ muốn ban cho ai, ban lúc nào, ban cách nào, ban như thế nào, ban bao nhiêu thì tùy ở nơi Mẹ. Do vậy mà chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, khẩn cầu cùng Mẹ, để Mẹ dẫn chúng ta đến gặp Chúa, rồi sau đó, Chúa mới nhờ Mẹ ban ơn cho chúng ta.

Hiện giờ đây, Đức Mẹ là Chúa Bà của chúng ta, vì Chúa là Mặt Trời soi đường ngay nẻo chính đã từ lòng Mẹ sinh ra, chắc chắn với cương vị Chúa đã ban cho Mẹ như thế, Mẹ sẽ thương yêu chúng ta hơn, Mẹ sẽ gìn giữ, bảo vệ, chở che, cứu giúp cùng ban ơn chúng ta. Nhất là Mẹ sẽ giúp chúng ta sống như Mẹ đã sống là luôn thực hiện lời Chúa dạy bảo. Bởi vậy, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, chúng ta phải đi theo sự dẫn dắt của Chúa. Đồng thời, cần phải đi theo con đường Mẹ đã đi là con đường thập giá của Chúa, là con đường từ bỏ bản thân với biết bao nhiêu những tính hư tật xấu, đam mê xác thịt, tham sân si, bài bạc rượu chè hút chích trai gái, gian lận, trộm cắp, chấp nhận gian nan thử thách, giữ đạo Chúa, xa tránh các tội lỗi, chuyên cần thực hiện các nhân đức, thì chúng ta sẽ được Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa, gặp được Chúa sau này.

Lạy Mẹ Maria của chúng con, trần gian chúng con đang sống đây là một biển đời khổ ái. Mẹ đã từng sống và đã vượt qua được để rồi bây giờ Mẹ được sống bên Chúa, được Chúa đặt làm Nữ Vương trời đất. Chúng con cầu khẩn Mẹ, kêu xin Mẹ, xin Mẹ thương đến thân phận tội lỗi của chúng con, xin Mẹ thương chúng con đang còn ở nơi tăm tối mịt mù không lối thoát này mà giúp đỡ chúng con biết luôn hướng lòng lên với Chúa, khẩn cầu Chúa. Xin Mẹ luôn ở bên cạnh chúng con, phù giúp đỡ nâng chúng con, nhất là những lúc chúng con bị bão giông, sóng to gió lớn vây bủa cuộc đời chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con sống đạo tốt để sau này được gặp Chúa, quả phúc của lòng Mẹ, cùng Mẹ ngợi khen, chúc tụng Chúa muôn đời. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 6: Suy Niệm Lời Chúa Hằng


Giới răn trọng nhất.
23/08 – Thứ Sáu tuần 20 thường niên.
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".

Lời Chúa: Mt 22, 34-40

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất.

Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".

---------------------------------

 

Suy Niệm 1: Điều răn trọng nhất


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Theo truyền thống hội đường Do-thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
 
Cầu nguyện

Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu Tinh)
 
------------------------------

 

Suy Niệm 2: Tình yêu là lẽ sống


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Người Do thái tôn sùng lề luật. Họ say mê lề luật. Họ tuyệt đối tin lề luật. Nên họ câu nệ lề luật. Vì thế họ bị lạc trong rừng lề luật. Không còn biết lối ra. Không biết đâu là luật chính đâu là luật phụ. Họ đi vào ngõ cụt. Đạo Do thái đi vào cái chết. Hôm nay Chúa Giê-su chỉ cho họ điều luật quan trọng nhất. Điều luật chính yếu. Tóm tắt tất cả lề luật. Đó là Mến Chúa Yêu Người. Chúa mở ra một con đường. Con đường tình yêu. Chúa mở ra sự sống. Tình yêu là lẽ sống. Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Thiên Chúa là sự sống. Ai ở trong Thiên Chúa là ở trong sự sống.

Bà Rút tuy là dân ngoại nhưng đã sống trong Chúa. Vì bà sống trong tình yêu. Chồng đã chết bà chẳng còn gì ràng buộc với gia đình nhà chồng. Bà đi theo mẹ chồng chỉ vì tình yêu. Thương bà mẹ già không ai đỡ đần. Nên tình nguyện đi theo mẹ và hợp nhất với mẹ: “Mẹ đi đâu, con đi đó. Mẹ ở đâu, con ở đó. Dân của mẹ là dân của con. Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con”. Đúng là yêu nhau yêu cả đường đi. Vì thế bà xứng đáng được trở thành tổ phụ sinh ra vua Đa-vít. Là dòng dõi sinh ra Chúa Cứu Thế (năm lẻ).

Đó là đời sống theo Thần Khí chứ không theo xác thịt. Thần Khí ban sự sống. Đó là điều Ê-dê-ki-en được thấy trong thị kiến những bộ xương khô. Những người phản bội Thiên Chúa, sống theo xác thịt đã chết thành những bộ xương khô. Nhưng khi có Thần Khí lập tức những bộ xương khô mặc lấy da thịt. Xác chết sống lại. Thiên Chúa yêu thương phục hồi con người. Những ai yêu mến trong Thiên Chúa không còn là xác thịt. Nhưng là Thần Khí. Họ sẽ có sự sống (năm chẵn).

Lời Chúa hôm nay chất vấn chúng ta. Chúng ta giữ quá nhiều lề luật. Nhưng lại quên điều luật quan trọng nhất. Chúng ta sống theo lý trí quá nhiều. Nên quên mất tình yêu. Chúng ta lo làm những việc lớn lao. Nhưng không nhìn đến những người bé nhỏ nhất ngay bên cạnh chúng ta. Bà Rút không làm gì lớn lao. Bà đi mót lúa. Chỉ để nâng đỡ bà mẹ già. Chẳng phải một mệnh phụ phu nhân. Nhưng là một bà goá nghèo hèn. Đó là tình yêu.

Không có tình yêu ta chỉ là những bộ xương khô chết choc. Có tình yêu ta sẽ có da có thịt. Có sự sống. Sống cho bản thân. Sống cho những người chung quanh. Sống cho thế giới.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 3: Giới Răn Yêu Thương


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.

Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.

Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.

Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo, sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy".

Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Ðạo là Yêu Thương.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 4: Ý Nghĩa Ðích Thực Trong Cuộc Sống


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Những người theo phái Pharisiêu và phái Sađốc là hai nhóm người luôn đối nghịch với Chúa Giêsu vì Ngài đã nhiều lần mạnh mẽ lên tiếng khiển trách thái độ kiêu căng tự mãn và đạo đức giả của họ. Trước đó, Chúa Giêsu đã tranh luận với nhóm người Sađốc về sự sống lại của những người chết; theo đó thì người Sađốc không tin có sự sống lại ở đời sau, họ cũng không tin vào sự bất diệt của linh hồn cũng như vào sự vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu, qua sự khôn ngoan và tài hùng biện xuất chúng đã chứng minh về sự sống lại ở đời sau và sự bất tử của linh hồn khi Ngài bảo với họ: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà là của kẻ sống" khiến họ phải im miệng. Thấy vậy, những người Pharisiêu thừa cơ hội này mà trách móc Chúa Giêsu với chủ ý tìm ra kẽ hở để buộc tội Ngài bằng cách hỏi Ngài các lề luật của Thiên Chúa, để xem Ngài có hiểu tường tận về lề luật hay không hay cũng chỉ lập lại với những giới răn của Thiên Chúa, bởi vì những người Pharisiêu luôn tự mãn cho rằng họ hiểu rõ lề luật và các tập tục lễ nghi tôn giáo của dân Do Thái. Họ đã bỏ ra nhiều năm trời để học hỏi sáu trăm mười ba điều răn trong Cựu Ước và vô số điều luật khác. Trước câu hỏi của người luật sĩ về điều răn nào lớn hơn hết, Chúa Giêsu đã không trích dẫn một điều răn nào trong Mười Ðiều Răn mà Thiên Chúa đã mạc khải với ngôn sứ Môsê trên núi Sinai, mà chỉ tóm lược tất cả trong một điều răn lớn nhất là điều răn yêu thương: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, và ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình".

Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu thay vì trích dẫn Mười Ðiều Răn trên núi Sinai, là một loạt những điều cấm đoán làm những việc tội lỗi với mục đích giữ dân Do Thái sống trong hồng ân của Ngài, thì Chúa Giêsu lại đưa ra một điều răn mới tích cực và có sức tác động hơn đó là yêu thương bằng với tất cả tâm hồn khiêm tốn. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy biết yêu mến Thiên Chúa với tất cả tâm hồn vì Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng vũ trụ. Ngài là sự toàn thiện và cội nguồn của tình yêu. Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại trước hết và tình yêu mến của chúng ta đối với Ngài là tất cả lời tích cực nhất về những hồng ân cao cả và lòng quảng đại bao la của Ngài. Tình yêu thương đối với những người thân cận vì thế cũng bắt rễ từ tình yêu Thiên Chúa.

Tất cả các giới răn của Chúa Giêsu trong toàn bộ Tân Ước cũng chỉ xoay quanh theo chiều hướng lòng yêu mến những người thân cận không thể nào tách rời khỏi tình yêu mến đối với Thiên Chúa, vì khi yêu mến người anh em là những người mà Thiên Chúa yêu thương có nghĩa là chúng ta thực sự yêu mến Thiên Chúa; ngược lại, thù ghét người anh em là chúng ta thù ghét và đối nghịch lại với Thiên Chúa. Khi chúng ta thực sự yêu mến người anh em của mình, tức là chúng ta sống trong tình yêu mến của Thiên Chúa và như thế tình yêu của Thiên Chúa trở nên toàn thiện trong chúng ta.

Lời răn yêu thương trong Phúc Âm hôm nay giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa đích thực trong cuộc sống, đó là trở nên toàn thiện trong tình yêu thương và trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa. Ðây chính là lý tưởng sống cao cả của người tín hữu Kitô. Thêm vào đó, đức tin và lòng hy vọng vào tình yêu và lời hứa cứu rỗi của Chúa Giêsu là những động lực làm tăng trưởng tình yêu mến trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta luôn sống hiệp nhất với người anh em và với Thiên Chúa. Khi chúng ta càng hiểu biết về Thiên Chúa, thì chúng ta càng yêu mến Ngài nhiều hơn. Thiên Chúa thông qua hồng ân của Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sự tự do đích thực để yêu thương như Ngài yêu thương, như thánh Phaolô tông đồ nói trong thư gửi tín hữu thành Rôma: "Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta".

Lạy Chúa,

Vì tình yêu của Chúa vượt lên trên hết mọi sự trên thế gian này, xin hãy đổ tràn tình yêu của Chúa vào trong con tim chúng con cũng như Chúa cho đức tin và lòng hy vọng trong chúng con thêm lớn mạnh. Xin dạy cho chúng con biết quảng đại hiến mình trong các công việc từ thiện và cho những người anh em khác như Chúa đã hy sinh vì chúng con.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 5: Yêu Mến, Vâng Lời.


Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?” Đức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt. 22, 35. 36-39)

Mọi nỗ lực của con người đều khởi động từ cùng một nguồn gốc và hướng về một mục đích độc nhất là tình yêu. Con người không chỉ được dựng nên để vâng lời Thiên Chúa. Như vâng lời ông chủ, ông Chúa, nhưng con người còn được dựng nên để yêu mến Thiên Chúa như cha mẹ mình. Vâng lời chân thật khi yêu mến. Thiên Chúa không muốn có những kẻ nô lệ đầy sợ hãi, Ngài muốn có những người con tự do, tự nguyện. Tình yêu Thiên Chúa phải là trung tâm và nguồn mọi hiếu thảo.

Tình yêu của mọi người cũng phát xuất từ cùng nguồn mạch này. Mọi người đều có thể là người lân cận của tôi nhưng thực tế họ không cần thiết gần gũi tôi. Họ có lẽ ở rất xa, nhưng vẫn là đối tượng của tình yêu chân thật. Người lân cận là bất cứ ai được tôi liên hệ với họ một cách hữu hiệu và cụ thể. Tình yêu của môn đệ Đức Giêsu không có biên giới. Gương mẫu của họ là tình yêu Cha trên trời hằng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ lành người dữ, ban mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Mọi tương quan với người khác phải theo luật đồng đều: đó là tình yêu tạo nên sức mạnh hấp dẫn và đưa lại mối tương quan chân thật giữa người với người.

Thái độ duy nhất.

Chỉ có một sự đáng kể đối với người môn đệ của Đức Giêsu là thái độ yêu mến thâm sâu. Thật dễ hiểu, theo bản văn này. Người ta không bao giờ bị bó buộc đi tìm một câu đáp bất định cho một trường hợp cụ thể, ý Thiên Chúa luôn được sáng tỏ nhất định bởi tình yêu lớn lao nhất.

Hai tình yêu?

Có hai hướng khác nhau về tình yêu chăng? Một hướng về Thiên Chúa, một hướng về người ta. Tình yêu khác nhau cho trường hợp này và cho trường hợp kia ư? Chúa chỉ cho chúng ta qua đời sống của Người: Đâu là tương quan giữa hai tình yêu này. Trong đời sống của Đức Giêsu, sự chu toàn thánh ý Thiên Chúa và tình yêu phục vụ mọi người được thể hiện duy nhất trong một thực thể độc nhất. Thực hiển nhiên vì tình yêu đối với loài người mà Chúa đã chu toàn công cuộc cứu độ, nhưng tình yêu này không hề tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa, cũng chính là thánh ý của Thiên Chúa.

J.M

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 6: “Mến Chúa và yêu người”


Xem lại CN 15 TN C, CN 30 TN A, CN 31 TN B,

thứ Sáu tuần 3 MC, thứ Năm tuần 9 TN, Và thứ 2 tuần 27 TN.

Hôm nay thánh Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ tiến vào thành Gêrusalem. Trên hành trình ấy, Ðức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng khi họ hỏi Đức Giêsu về chuyện kẻ chết sống lại. Thấy vậy, nhóm Pharisêu vào cuộc bằng việc họp nhau lại và cử một người đại diện tiến đến nhằm thử Đức Giêsu để tìm cớ tố cáo Ngài, nhà luật sĩ hỏi Ngài: "Trong các điều răn, điều nào trọng nhất?" Đức Giêsu đáp: "Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi". Nhân đây, Đức Giêsu giúp họ nhớ lại một điều luật đã được nhắc đến trong sách Lêvi: “Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”

Tại sao Ngài lại nhắc lại khoản luật đó?

Thưa, bởi vì những người Pharisêu, họ chỉ giữ Luật hình thức bên ngoài, mà bên trong thì hoàn toàn trống rỗng. Họ không yêu thương anh em mình cách thật lòng. Vì thế, chính việc giữ Luật của họ đã phá vỡ đi ý nghĩa, cốt lõi tinh thần của Luật.

Với Đức Giêsu, khi Ngài đến, sứ vụ của Ngài là kiện toàn Lề Luật và làm cho chúng trở nên trong sáng. Đồng thời, Ngài muốn cho các môn đệ, những người sống cùng thời và nhất là giới lãnh đạo...  ngày càng sống đúng cốt lõi của Luật hơn. Tinh thần và nội dung của Luật chính là: “Mến Chúa và yêu người”. Vì thế, với Đức Giêsu, yêu thương anh em là tuân giữ Lời Ngài. Không yêu thương anh em là không tuân giữ Lời Ngài. Nói mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối. Thật vậy, nên đã có lần Đức Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, đó là các con yêu thương nhau”.

Đây không chỉ là lời khuyên, mà còn là một lệnh truyền, một sứ mạng đòi buộc các môn đệ và tất cả chúng ta là những Kitô hữu phải thi hành.

 Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: mến Chúa và yêu người phải là cốt lõi của Luật. Thiếu một trong hai thì chẳng những không giữ đúng tinh thần của Chúa mà còn có nguy cơ bóp méo Luật của Ngài và mặc cho nó sự bất nhân trong khi thi hành Luật.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mến yêu Luật Chúa và biết thi hành Luật Chúa cách trung thành. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 7: Giữ luật vì tình yêu


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Cốt lõi của giới luật là yêu thương. Yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời khỏi việc yêu thương tha nhân. Chúa mời gọi ta hãy tuân giữ lề luật vì tình yêu mến.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người biệt phái thời xưa giữ lề luật thật cặn kẽ. Họ phân tích tỉ mỉ từng lề luật để tuân thủ. Nhưng Chúa chê trách họ giả hình. Chúa thấy rõ họ thích cầu nguyện ở nơi công cộng cốt để lãnh nhận tiếng khen, còn tâm hồn họ thiếu vắng lòng yêu mến Chúa. Họ mang Lời Chúa bên mình, nhưng cũng chỉ để phô trương. Họ tuân giữ ngày Sa-bát nhưng lại từ chối thực hiện việc bác ái yêu thương.

Hôm nay, Lời Chúa dạy con thật rõ: cốt lõi của lề luật là lòng yêu mến, chứ không chỉ giữ luật vì lề luật. Và con không thể tách rời việc yêu mến Chúa với việc yêu người.

Lạy Chúa, nhìn lại đời sống, con thấy mình vẫn còn những khuynh hướng sống đạo không phù hợp với Phúc Âm. Con đã lãnh nhận bí tích, đã đi dâng lễ chỉ vì luật buộc, hoặc vì sức ép của gia đình, vì sợ người khác chê bai, vì thói quen. Con tuân giữ lề luật vì nhiều lý do, nhưng lại thiếu điều cốt lõi cần thiết là lòng yêu mến.

Con cũng nhận thấy rằng nhiều khi con đã cố gắng yêu mến Chúa, nhưng lại coi nhẹ việc yêu thương người khác. Rất nhiều lúc lòng con trở nên hẹp hòi, khép kín, lạnh lùng chai đá. Con đã xúc phạm đến tha nhân, đã kết án nhau, đã bỏ rơi những người cần giúp đỡ, đã gây đau khổ cho người khác. Lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Xin ban cho con biết yêu người như yêu chính mình, yêu người như yêu Chúa, và yêu người như Chúa yêu. Amen.

Ghi nhớ: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 8: Sức mạnh của lòng yêu mến Chúa


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Vị linh mục trẻ người Pháp Cassaigne đến Sài Gòn năm 1926, được bài sai đi nhận thí điểm truyền giáo vùng Di Linh có trại phong. Ngài tiếp xúc với anh em dân tộc Thượng, học tiếng của họ, dạy học và chữa bệnh cho những người Thượng bị phong, đó là những công việc thường ngày của cha Cassaigne.

Ngày 24/2/1941, cha Cassaigne nhận được quyết định bổ nhiệm ngài làm người kế vị Đức cha Dumortier trong sứ vụ Giám mục Sài Gòn. Xa rời đàn con bất hạnh của ngài trong hơn 14 năm qua ngày đêm ngài hằng nhớ tới họ... và hình như ngài chỉ mong sao có ngày được đoàn tụ lại với họ.

Từ đầu năm 1947, sức khỏe của Đức cha Cassaigne xấu đi rõ rệt. Thêm vào đó là bệnh sốt rét cũ và chứng suy gan của ngài, sự giảm chất vôi cột sống rất đau đớn; và trên tất cả còn có một mối đe dọa khác: Năm 1943, người ta đã tìm thấy trong cơ thể của ngài có “vi trùng Hansen”.

Ngày 15/7/1955 Đức cha xin từ nhiệm và về hưu tại làng cùi Di Linh, tại đó ngài còn có thể phục vụ và tự chữa bệnh. Ngày 31/10/1973, ngài trút hơi thở cuối cùng giữa những con cái phong cùi của ngài như ngài đã ước nguyện. Ngài đã được mai táng bên cạnh ngôi nhà nguyện của người phong cùi, để họ có ngài ở với họ luôn mãi.

Lòng yêu mến Chúa là sức mạnh thôi thúc vị Giám mục Cassaigne hiến thân phục vụ anh chị em mình, dù là những người con bị bệnh cùi hủi.

Suy niệm

“Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22:37-39). Đó là hai giới răn trọng nhất trong niềm tin được Đức Giêsu trích dẫn từ sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 trong 613 điều răn trong luật của Do Thái. Các thầy rabbi thường tranh luận với nhau về tầm mức quan trọng của mỗi luật để chia ra thành điều răn “lớn” và điều răn “nhỏ”. Đệ Nhị Luật 6,5 là điều răn căn bản và chính yếu của Do Thái giáo. Điều răn này luôn được dùng để mở đầu cho mỗi buổi lễ của người Do Thái, và đây cũng là luật đầu tiên các trẻ em Do Thái phải nhớ. Lòng kính yêu Thiên Chúa phải là hoàn toàn, bao gồm mọi suy xét, cảm kích và là động lực cho cuộc sống. Đức Giêsu liên kết hai điều răn này với nhau và Ngài đặt kính yêu Thiên Chúa trước tiên, sau đó là thương người. Sự liên hệ gắn bó giữa hai giới răn này: Tình yêu tha nhân càng sâu sắc khi chúng ta kính yêu Thiên Chúa.

Tình yêu với Đấng tối cao: “Hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…” là đưa cuộc sống ta theo sự dẫn dắt của Ngài. Với người Do Thái, tình yêu tha nhân được định hướng theo sách Lêvi 19,18 viết: “Ngươi phải yêu mến người lân cận như chính mình ngươi”. Nhãn quan Kitô giáo lại đặt tình yêu tha nhân vào địa vị trung tâm, then chốt chủ yếu trong sự gắn bó với Thiên Chúa: “Ai không yêu anh em mình là kẻ mình thấy, thì sẽ không yêu được Thiên Chúa, Ðấng mình chẳng thấy. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta yêu mến con cái Chúa” (1Ga 4,20; 5,2). Tình yêu của Thiên Chúa là mô phạm cho các hành động yêu thương nhân loại: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” (Ga 13,34). Yêu thương nhau trong Chúa là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa: “Cứ dấu này mọi người sẽ nhận ra các con là môn đệ Thầy: Đó là tình yêu các con trao cho nhau” (Ga 13,35). Yêu Chúa và yêu người là hai giới răn gắn bó chặt chẽ với nhau đến nỗi thánh Gioan tông đồ tuyên bố yêu Chúa mà không yêu tha nhân là kẻ nói láo (x. 1Ga 4,20).

Chính Thiên Chúa khởi xướng việc tỏ tình thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11; x. Ml 2,10; 1Cr 8,11-13; 1Ga 3,16). Tình yêu khuyến khích hiến thân phục vụ (x. 1Tx 2,8; Cn 17,17; 2Cr 12,15; Gl 4,13; Pl 2,30; 4,10; 1Tx 1,9).

Như thế, tình yêu thường dành cho nhau, trong nhãn quan Kitô giáo, gắn chắc với tình yêu Thiên Chúa (x.1Ga 4,20; 5,2), với Lề Luật Thánh: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10; x. 1Pr 1,22; 2,17; 1Ga 3,23. 4,22; 2Ga 5; 1Tx 4,9; Dt 13,1; Gc 2,8).

Ý lực sống:

Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta yêu mến con cái Chúa (x. 1Ga 4,20; 5,2).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 9: Điều răn trọng nhất


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Người Do thái có quá nhiều luật, đến độ họ không hiểu khoản luật nào là cốt yếu. Vì thế họ đưa vấn đề ra để thử Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa Giêsu vừa gọn gàng, minh bạch, vừa súc tích. Chúa Giêsu vạch ra cho họ thấy cái mấu chốt, điều cốt lõi của lề luật, đồng thời Người nâng cao khoản luật “Yêu tha nhân” tiếp ngay sau luật “Kính Thiên Chúa”. Kính Chúa yêu người là hai giới răn phải luôn đi đôi với nhau, như thánh Gioan đã khẳng định: “Kẻ nói kính Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối”.

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là “Sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp đến gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.

Trong bài Tin mừng hôm nay, khi trả lời cho nhà thông luật, Chúa Giêsu cũng tóm lược giáo huấn yêu thương của Ngài: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Câu nói mà người thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu vừa là cái bẫy gài Ngài, vừa phản ánh tâm thức vụ hình thức của họ. Họ tuân giữ mọi lề luật, họ phân chia bậc thang giá trị của mỗi lề luật, họ đánh giá con người theo sự trung thành của người đó đối với lề luật, họ sẵn sàng hy sinh tất cả để trung thành với từng chi tiết của lề luật, thế nhưng họ lại không màng đến cái cốt lõi của lề luật là tình yêu thương.

Trả lời cho người thông luật, Chúa Giêsu nói: “Tất cả lề luật và lời các tiên tri đều qui về hai giới răn: mến Chúa và yêu người”. Điều đó có nghĩa là nếu loại bỏ tình thương ra khỏi lề luật, thì toàn bộ lâu đài của lề luật sẽ sụp đổ. Người thông luật và những Biệt phái hẳn phải ngạc nhiên về giáo huấn của Chúa Giêsu. Đối với họ, điều quan trọng là tuân giữ lề luật, chứ không phải sống theo tinh thần của lề luật là tình thương: họ sẵn sàng loại bỏ và khước từ tình thương đối với tha nhân để trung thành với lề luật, cụ thể là giữ ngày hưu lễ. Chúa Giêsu gọi giáo huấn của Ngài là một điều răn mới: mới vì Ngài đặt tình thương vào trọng tâm của lề luật, mới vì Ngài xem tình yêu đối với tha nhân như một thể hiện của lòng mến Chúa (Mỗi ngày một tin vui).

Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương, không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm tắt tất cả thành một công thức: “Thiên Chúa là Tình yêu”, và ngài dẫn giải: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy”.

Trong thực hành, chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng về tình yêu Chúa và tha nhân, mà chỉ muốn đi vào thực hành trong cuộc sống.

Chúng ta có thể nhận định về câu nói của Đức cha Arthur Tonne: Yêu Chúa là gì? Yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa”. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”

Yêu tha nhân có nghĩa là “ao ước làm điều thiện hảo cho họ”. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo cho Chúa”, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài (Gm. Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).

Truyện: Đi tìm chén thánh

Có một câu chuyện huyền thoại về “người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh, mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu! Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa, sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ.

Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 10: Giới răn nào trọng nhất?


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Trả lời cho một luật sĩ hỏi “Giới răn nào trọng nhất?”, Chúa Giêsu đưa ra hai giới răn mến Chúa và yêu người.

Đặc biệt, Ngài nói “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất”, và “Toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.

B.... nẩy mầm.

1. Những luật sĩ do thái rất thuộc luật và giữ luật rất kỹ, nhưng họ không biết đến cốt lõi của mọi khoản luật là yêu thương. Có thể chúng ta cũng thế: hằng ngày chăm chỉ giữ luật Giáo Hội và luật cộng đoàn, nhưng không có tình mến Chúa và yêu người. Nếu thế thì tất cả đều vô ích.

2. Có người nói yêu người khó hơn mến Chúa. Dĩ nhiên, vì con người không dễ thương bằng Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu đã coi giới răn thứ hai cũng bằng giới răn thứ nhất.

3. “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không tể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Ngài: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,20-21)

4. Có một tác giả tưởng tượng câu chuyện sau:

Trên đường đi đến miền đất Chúa hứa, Abraham dựng một cái lều để nghỉ chân. Vừa ra khỏi lều, ngài thấy một người hành khất xin giúp đỡ. Động lòng thương, ngài mời người đó vào và làm tiệc thiết đãi. Trước khi ăn tiệc, ngài mời người hành khất cùng dâng lời chúc tụng cảm tạ Chúa. Nhưng vừa nghe thấy tiếng “Chúa”, người ăn mày liền nói lộng ngôn xúc phạm đến Chúa. Abraham nổi giận đuổi người đó ra khỏi lều. Đêm đó, khi Abraham quì cầu nguyện, ngài nghe có tiếng Chúa nói như sau: “Này Abraham, ngươi có biết người ăn mày đó đã nhục mạ Ta 50 năm qua không? Thế mà mỗi ngày Ta vẫn ban lương thực cho nó. Ngươi không yêu thương cho nó một bữa ăn sao?”.

Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải là một người cha yêu thương mọi con cái, ngay cả những đứa con bất hiếu ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha trên trời, nghĩa là yêu thương mọi người không loại trừ người nào. Đó là tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài đến để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và con người cũng hãy yêu thương nhau. ("Mỗi ngày một tin vui")

5. “Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu thương lân cận như chính mình” (Mt 22,39)

Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị đi xuống nhà ăn. Một thiếu sót nhỏ cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội, không bằng lòng, nhưng Têrêxa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì thánh nữ yêu mến Chúa; và vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến người nữ tu đáng thương này.

Tình yêu đối với Chúa phải được tỏ hiện qua dấu hiệu bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Và chúng ta phải chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không những bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết yêu thương tha nhân, nhất là những người thân, sống trong gia đình chúng con. (Hosanna).

 ---------------------------------

 

Suy Niệm 11: Tình yêu thúc đẩy


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

1. Trả lời cho một số luật sĩ hỏi “Giới răn nào là trọng nhất?”, Chúa Giêsu đưa ra hai giới răn mến Chúa và yêu người.

Đặc biệt, Ngài nói “Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”, và “Toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22,39).

Những luật sĩ Do Thái rất thuộc luật và giữ luật rất kỹ, nhưng họ không biết đến cốt lõi của những khoản luật đã được ban bố: Đó là tình yêu.

Có người nói yêu người khó hơn mến Chúa. Dĩ nhiên, vì con người không dễ thương bằng Chúa. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã coi giới răn thứ hai cũng ngang hàng với giới răn thứ nhất.

Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn chúng ta đã nhận được từ Ngài: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).

Mùa đông vừa qua đi, tuyết tan làm cho con sông Inn ở Thụy Sĩ dâng cao, mực nước tràn sang hai bờ, gây ra nạn lụt tàn phá dữ dội các ngôi làng quanh đó.

Các tổ chức từ thiện ngay sau đó đã đứng ra lạc quyên cứu trợ. Có một nhóm lạc quyên khi đi ngang qua nhà một gia đình bà góa nọ, đứng lại ngoài cửa rồi ngần ngại bảo nhau:

- Thôi, chúng ta sang quyên góp nhà khác, gia đình này vốn đã quá nghèo rồi.

Thế nhưng, bà góa ở trong nhà thoáng nghe biết, đã vội chạy ra, giữ đoàn quyên góp lại, lần mãi trong chiếc ví cũ rách để đưa cho họ một đồng 20 xu. Bà nói một cách chân thành:

- Xin quí vị cho tôi được đóng góp chút ít, vì dẫu sao tôi cũng còn có được một mái nhà tranh, còn có giường gỗ cho các con tôi nằm trong khi những người bị nạn lụt thì chẳng còn gì cả.

Nhóm đi lạc quyên xúc động, nhận đồng 20 xu, trân trọng bỏ vào thùng, và không quên cám ơn bà. Họ vừa định quay gót thì một bé gái trong nhà vội chạy theo và nói:

- Các bác ơi, chị em chúng cháu vừa tìm ra thêm một đồng 10 xu để dành đã lâu, các bác cho chúng cháu gởi tặng những bạn nhỏ xấu số của chúng cháu nhé.

Mọi người không cầm được nước mắt trước tấm lòng giàu tình nhân ái của cả một gia đình nghèo

2. “Còn một điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy là: phải yêu thương người lân cận như chính mình” (Mt 22,39).

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu được mẹ bề trên giao cho một chị nữ tu lớn tuổi để chị trông coi chăm sóc. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêsa phải dìu chị xuống nhà ăn. Một thiếu sót nhỏ cũng đủ để cho Têrêsa bị trách móc. Chị ấy bực bội, không bằng lòng, nhưng Têrêsa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì lòng yêu mến Chúa; và vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến nữ tu đáng thương này.

Tình yêu đối với Thiên Chúa phải được tỏ hiện ra bên ngoài đó là tình yêu đối với tha nhân. Và chúng ta chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông nữa.

Để kết thúc tôi xin đọc lại lá thư của Đức Giáo Hòang Gioan XXIII hồi Ngài còn là một thầy Đại chủng sinh gửi về cho gia đình:

Đại chủng viện Rôma, ngày 16 tháng giêng năm 1901.

“Trọng kính thăm ba má, bác hai, cậu và anh chị. Khi thư này đến nhà, chắc cả nhà đang sốt sắng dự tuần đại phúc mở tại họ đạo; và con mong rằng tất cả đã sốt sắng lo việc phần hồn, xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu.

Con không cầu cho gia đình được giàu sang, chỉ xin cho mọi người trở nên Kitô hữu tốt, sống nghèo khó, bằng an, phó thác trong tay Chúa quan phòng.

Con lấy làm vinh dự được sống trong cảnh nghèo của gia đình mình, không bánh mì, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến thịt, có chăng là đôi ba dịp trong năm. Lễ giáng sinh thì được một thẻo bánh, má tự làm. Tuy nhiều dù có đến gần 20 đứa lớn bé đang chờ chực dĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, má vẫn mời họ ngồi vào bàn chia bữa ăn với chúng con...

Xin ba má tha cho những kẻ đã và đang làm hại gia đình mình. Biết đâu trước mặt Chúa, họ tốt hơn mình...

Chúa muốn con làm linh mục không vì giàu sang. Nếu thế thì thật là khốn nạn. Con sẽ làm linh mục để phục vụ người nghèo.

Con: Angelo.

Đó là bức thư thầy Angelo Roncalli sau này là Giáo Hoàng Gioan XXIII gửi thăm ba má.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
chúng con đều là con cái Chúa
đừng để con quên Lời Chúa:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là chúng con làm cho chính Ta.”

------------------------------

 

Suy Niệm 12: Mến Chúa yêu người


(Lm. Micae Võ Thành Nhân)

Khi những người biệt phái nghe tiếng Chúa đã làm cho những người Sađđucêô câm miệng (Mt 22, 34) không trả lời được về việcngười chết sống lại trong câu chuyện màphái Sađđucêô không tin có sự sống lại đã hỏi Chúa có bảy anh em lấy cùng một người vợ…. (xMt 22, 23 – 33), thì họ họp nhau lại. Họ họp nhau lại có lẽ vì lý do này:

-Vì họ tin có sự sống lại, còn phái Sađđucêô thì không tin có sự sống lại, cho nên giữa bọn họ với nhau có sự mâu thuẫn, có sự tranh luận, có sự hơn thua, có sự hiềm khích, chẳng ai là trọng tài để giải quyết cho đôi bên, vì thế, họ không ưa nhau (xCVTĐ 23, 6 – 11). Do đó, khi Chúa nói về sự sống lại, về đời sau, những người phái Sađđucêô không nói gì được đã khiến cho những người biệt phái rất hả dạ, rất khoái chí, rất sung sướng vì có người làm cho đối thủ của mình thua cuộc. Chắc là họ lầm to rồi, Chúa không phải là Đấng mà họ lợi dụng đâu, vì Chúa dạy đạo lý chân thật từ trời cho con người chúng để chúng ta thực hiện mà sống tốt ở trần gian này và mai sau hạnh phúc đời đời. Không một ai lợi dụng được Chúa.

-Trông người mà nghĩ đến ta, Chúa làm cho phái Sađđucêô câm miệng thì cũng sẽ đến phiên họ mà thôi, do vậy mà họ họp nhau để tìm phương thế đối phó Chúa, nếu có những trường hợp nào đó bất ngờ xảy ra với họ. Bởi thế, để khỏi bị thụ động, họ đã tấn công Chúa trước bằng cách họ đưa ra một người rất giỏi về luật (Thông luật) hỏi thử Chúa: “Thưa Thầy, trong lề luật, , giớ răn nào trọng nhât” (Mt 22, 36). Họ hỏi thử Chúa, nghĩa là họ đang xăm soi, dòm ngó, xem khả năng về sự hiểu biết, về kinh nghiệm cách sống đạo của Chúa đến mức độ nào, để rồi sẽ có cách đối phó, triệt hạ Chúa.

Lần này, Chúa trả lời một cách trực tiếp với họ: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống như giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 37 – 40). Chúa trả lời quá đúng cho nên họ làm thinh, không dám hỏi Chúa điều gì nữa. Như vậy, nếu mà họ đã biết điều Chúa nói đây rồi thì chắc họ rất kính nể, rất khâm phục Chúa, vì Chúa đâu có học trường luật nào như họ mà Chúa lại rất am hiểu Kinh Thánh. Còn nếu mà như họ chưa biết thì họ phải học thuộc lòng để rồi từ đây, dù họ có biết hay chưa biết, nhưng một khi Chúa đã nói như vậy, họ phải đem lời Chúa ra thực hiện trong cuộc đời “ Mến Chúa, yêu người “ để họ sống tốt hơn.

Chúa nói với những người biệt phái, luật sỹ, trưởng tế, kỳ lão ngày xưa và Chúa cũng nói với chúng ta ngày hôm nay là đạo Chúa là đạo tình yêu. Chúng ta yêu Chúa là chúng ta lo giữ đạo Chúa, lo chu toàn điều Chúa dạy bảo, lo tránh xa những gì làm mất lòng Chúa. Còn yêu người là chúng ta sống hòa thuận, nhường nhịn, cảm thông, tha thứ, chia sẻ, giúp đỡ nhau, nhất là phải quan tâm đến những anh chị em đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, những anh chị em có hoàn cảnh khó khăn, không được may mắn, đặc biệt là giúp nhau nên thánh.

Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con, Chúa lo lắng tất cả cho chúng con cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là Chúa dẫn chúng con đi trong con đường tình yêu của Chúa để chúng con được sống đời đời. Xin Chúa tiếp tục yêu thương chúng con dù chúng con có phản bội Chúa khi phạm tội làm mất lòng Chúa, xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con, cho chúng con luôn ăn năn sám hối trở về với Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Thứ 7: Ngày 24/08 Th. Batôlômêo

Ðến Mà Xem.
24/08 – Thứ Bảy tuần 20 thường niên – THÁNH BATÔLÔMÊÔ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
“Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối “.

* Thánh nhân còn được gọi là Na-tha-na-en, quê ở Ca-na. Chính tông đồ Phi-líp-phê là người đã giới thiệu thánh nhân với Chúa Giêsu ở bờ sông Gio-đan. Người nhập nhóm các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi. Người ta không biết đích xác về hoạt động tông đồ của người sau lễ Hiện Xuống. Tương truyền rằng người đã loan báo Tin Mừng ở Ấn Độ và đã chịu tử đạo ở đó.

---------------------------------

 

Lời Chúa: Ga 1, 45-51


Khi ấy, Philipphê gặp Nathanael và nói với ông: “Đấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nadarét”. Nathanael đáp: “Bởi Nadarét nào có cái chi hay?” Philipphê nói: “Hãy đến mà xem”.
Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông: “Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối”. Nathanael đáp: “Sao Ngài biết tôi?” Chúa Giêsu trả lời rằng: “Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi”. Nathanael thưa lại rằng: “Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel”. Chúa Giêsu trả lời: “Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa”. Và Người nói với ông: “Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người”.

---------------------------------

 

Suy niệm 1. Cứ đến mà xem


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Thầy Giêsu là người tìm thấy Philípphê và gọi anh đi theo (Ga 1, 43).

Sau khi gặp Thầy, Philípphê đi tìm Nathanaen.
Ông rủ bạn mình đến gặp Thầy Giêsu.
Nathanaen không được nhắc tên trong mọi danh sách nhóm Mười Hai.
Vào thế kỷ thứ 9, có người coi Nathanaen là Batôlômêô,
lý do vì trong mọi danh sách, Batôlômêô là tên luôn đi ngay sau Philípphê.
Chúng ta không chắc Nathanaen có phải là Batôlômêô không.
Nhưng điều đó không quan trọng mấy.
Dù sao Nathanaen cũng là một người môn đệ đã theo Thầy Giêsu,
và đã có mặt trong nhóm gặp Đấng phục sinh bên bờ hồ (Ga 21, 2).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể cho ta thấy ít nhiều
về khuôn mặt của vị tông đồ mà chúng ta mừng kính.
Sau khi được Thầy Giêsu tìm thấy và mời: “Anh hãy theo tôi” (c. 43).
Philípphê đã theo Thầy và hẳn đã ở lại với Thầy một thời gian.
Chính sự gần gũi và quen biết này
đã khiến ông tin Thầy là Đấng được tất cả Sách Thánh nói tới (c. 45).
Trong niềm vui sướng, Philípphê tìm thấy Nathanaen, và khoe:
“Chúng tôi đã tìm thấy Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới.”
Đấng ấy có tên là Giêsu, có cha là Giuse, có quê ở Nadarét.
Với một chút thành kiến, Nathanaen đã không thể tin được chuyện này.
Một ngôi làng vô danh như Nadarét, làm sao có thể sinh ra điều tốt được?
Nhưng Philípphê không chịu bỏ cuộc, ông tiếp tục mời gọi bạn mình,
như Đức Giêsu đã mời hai môn đệ đầu tiên: “Hãy đến mà xem” (cc. 39. 46).
Cuối cùng Nathanaen đã nhận lời, đã đến và đã xem thấy.
Cuộc hạnh ngộ diễn ra giữa Thầy Giêsu với Nathanaen.
Bằng cái nhìn thấu suốt, Thầy nhận ra cái tốt đẹp nơi con người anh:
“Đây là một người Israel đích thật, nơi anh không có gì gian dối” (c. 47).
Quả là một lời khen bất ngờ đối với Nathanaen, người mới gặp Thầy lần đầu.
Anh ngỡ ngàng khi thấy Thầy biết rõ bề sâu của lòng mình.
“Làm sao Ngài lại biết tôi?” (c. 48).
Làm sao Ngài biết tôi là người không thích quanh co, gian dối?
Đức Giêsu bảo Ngài đã thấy anh dưới cây vả, trước khi Philípphê gọi anh.
Nathanaen nhanh chóng tuyên xưng niềm tin vào Thầy Giêsu (c. 49).
Và Thầy hứa sẽ cho anh thấy trời mở ra để trò chuyện với con người.
Thầy như cái thang bắc từ trời, để các thiên thần lên xuống (c. 51),
để Thiên Chúa và con người gặp nhau.
Như Nathanaen, chúng ta cũng trở nên môn đệ nhờ có người giới thiệu.
Chỉ ai đã thực sự gặp mới hăng hái đi giới thiệu Chúa với người khác.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn qua người khác mà gọi tôi theo Ngài.
Nhưng cuối cùng chính tôi vẫn phải gặp mặt Ngài và để Ngài chinh phục.
Dần dần Ngài dắt tôi vào mầu nhiệm của con người Ngài.
Ngài là Giêsu Nadarét, con ông Giuse, và là chính Con Thiên Chúa
Ngài là chiếc thang đưa tôi từ đất lên mà gặp gỡ trời cao.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa. (Graham Kings)
 
-------------------------------

 

Suy niệm 2. Chúa biết và yêu Na-tha-na-en trước


--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Chúa Giêsu kêu gọi ông Na-tha-na-en làm tông đồ. Ông đã đến tìm hiểu và theo Chúa. Nhưng thật ra chính Chúa đã biết ông và yêu ông trước.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong câu chuyện Chúa gọi ông Na-tha-na-en là thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ, con thấy một điều rất cảm kích: trước khi ông gặp và thưa chuyện với Chúa, thì Chúa đã thấy ông ở dưới cây vả. Chúa còn hiểu rõ tấm lòng ngay chính của ông và nói điều đó khi ông vừa đến gặp Chúa. Nhưng thật sự chính Chúa đã để ý đến ông, biết ông và yêu ông trước. Chúa chọn gọi những kẻ Chúa muốn.

Ơn gọi Kitô hữu của con không do con chọn trước mà là hồng ân Chúa ban cách nhưng không. Từng bước theo thời gian, con nhận ra và đáp trả như đáp lại một ân huệ lớn lao. Đó là phần phúc cho con, vì khi tin vào Chúa, con sẽ thấy được các sự lạ lùng Chúa làm, thấy được vinh quang của Chúa. Con cảm tạ Chúa. Xin Chúa củng cố niềm tin nơi con như đã củng cố cho ông Na-tha-na-en để con thuộc trọn về Chúa.

Lạy Chúa, ngày hôm nay để được thuộc trọn về Chúa, con vẫn nghe Chúa mời gọi con nơi bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Vâng, con sẽ cung kính lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận bánh Thánh Thể với lòng tin yêu thực sự.

Và lạy Chúa, Chúa còn muốn con cộng tác trong việc truyền giáo. Con xin sẵn sàng quảng đại đáp lại lệnh truyền của Chúa để danh thánh Chúa được hiển trị. Amen.

Ghi nhớ: “Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối”.

 -------------------------------

 

Suy niệm 3. Cảm nghiệm gặp gỡ Chúa


--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Cha S. Hodden thấy một đại úy đến xin học đạo. Khi ngài hỏi lý do, ông trả lời như sau:

“Trong đại đội tôi, có một binh nhì là Kitô hữu. Đêm nọ, anh đi gác về, mình mẩy ướt nhẹp, nhưng trước khi ngủ, anh còn quỳ gối đọc kinh. Ngứa mắt, tôi đá cho anh một cú vào đầu, ngã lăn ra. Nhưng anh ngồi dậy, không nói gì và tiếp tục cầu nguyện. Sáng hôm sau, tôi thấy đôi giày mà tối qua tôi đá anh được đánh bóng láng và xếp ngay ngắn bên giường ngủ. Điều đó làm tôi sững sờ, hổ thẹn và vì thế tôi quyết tâm học đạo”.

Suy niệm

Philipphê cùng quê quán với hai anh em Phêrô và Anrê, ở làng chài Bétsaiđa bên bờ biển Tibêriát. Ông là một trong những vị tông đồ đầu tiên được gọi theo Chúa như Tin Mừng Gioan ghi nhận ngay ở chương đầu (x. Ga 1,43-44).

Philipphê gặp Nathanaen cũng thường gọi Batôlômêô, giới thiệu về thầy của mình – Đức Giêsu: “Chúng tôi đã gặp thấy Con Người mà luật Môisê và các tiên tri đã nói đến: Đó chính là Giêsu, con trai ông Giuse làng Nadarét”. Cùng với Betsaiđa, Cana, Nadarét chỉ là những thị trấn nhỏ vùng quê. Trong Cựu ước không có một ngôn sứ nào nhắc đến Nadarét. Vì thế, Nathanaen, người Cana, nghi ngờ rằng thân thế của Thầy Giêsu: “Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được”. Philipphê không cần mất thời giờ để tranh luận, nhưng thuyết phục bạn mình đến gặp Đức Giêsu để chính Nathanen tự mình khám phá ra Ngài: “Hãy đến mà xem”. Chỉ kinh nghiệm gặp và sống với Chúa Giêsu mới có thể giúp Nathanaen vượt qua được những giới hạn trần tục, che kín mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể. “Hãy đến mà xem”, là câu trả lời của Chúa Giêsu, khi hai ông Andrê và Gioan, những môn đệ của ông Gioan Tẩy giả hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Chúa trả lời: “Hãy đến mà xem... đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người…” (Ga 1,35-42).

Vừa gặp Chúa Giêsu, Ngài đã nhận định về ông như một người Israel đích thực: “Lòng dạ không có gì gian dối”. Ông đã kinh ngạc trước nhận xét của Đức Giêsu, Đấng thấu suốt lòng dạ con người. Đức Giêsu biết rõ Nathanaen đang khao khát hiểu biết về Thiên Chúa, đang muốn gặp Thiên Chúa. Người đã đặt vào lòng Nathanaen lòng khao khát Đấng đã dựng nên con người vì tình yêu: “Trước khi Philipphê gặp anh, Thầy đã thấy anh dưới cây vả”. Nathanaen đã đến và nghe lời Chúa Cứu Thế, ông đã hết sức cảm phục” (x. Ga 1,43-51).

Từ đời đời, Thiên Chúa đã biết ta trong mọi bí ẩn của tâm hồn. Chúa dò thấu tường tận. Không có gì kín nhiệm mà Chúa không thông suốt. Chúa biết rõ tất cả nơi chúng ta.

Qua cuộc gặp gỡ Chúa đã biến đổi Nathanaen, tình gắn bó với Thầy bền vững. Cũng thế, người đến gặp gỡ Thiên Chúa là thân thiết với Ngài, là biết Người một cách thâm sâu hơn, là “kiểm nghiệm bằng mắt thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đức tin”(x: P.E Jacquemin, “Assemblées du Seigneur”, số 33, tr.57)

Ý lực sống

“Thiên Chúa đã muốn cho họ được biết bí nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,26-27).

-------------------------------

 

Suy niệm 4. Người Israel lòng dạ ngay thẳng


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Ðức Giêsu. Và Ðức Giêsu đã khen ông: "Ðây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng" (Ga 1,47b). Khi Natanien hỏi Ðức Giêsu làm sao Ngài biết ông, Ðức Giêsu trả lời "Tôi thấy anh ở dưới cây vả" (Ga 1,48b). Ðiều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Natanien phải kêu lên, "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel" (Ga 1,49b). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng lại, "Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!" (Ga 1,50)

Theo truyền thuyết truyền lại, thì thánh nhân là người có tầm vóc trung bình với mái tóc đen, nước da trắng trẻo, và đôi mắt tròn, lớn ẩn sâu trong hai con mắt hơi rộng, ngày ngày Ngài đọc kinh có tới trăm lần. Giọng nói của Ngài sang sảng và có sức thu hút lạ thường. Vẻ mặt Ngài luôn luôn vui tươi, Ngài cũng được ơn nói nhiều thứ tiếng và biết mọi sự tương lai. Với những ơn đặc biệt ấy, danh tiếng Ngài chả mấy chốc lừng lẫy như sóng cồn, khiến bao nhiêu con bệnh cũng như bao nhiêu người mắc cơn nguy biến đều tìm đến xin thánh nhân cứu chữa. Bấy giờ vua Pôlêmon (Polemon) có một công chúa bị quỷ ám. Vua đã nhờ các quỷ khác trừ nhưng vô hiệu quả, nghe nói thánh nhân có uy quyền trừ được tà ma, đầu tiên nhà vua không tin, nhưng phần tin công chúa, phần muốn thử tài của Ngài nên vua cho mời thánh nhân tới. Sau khi cầu nguyện sốt sắng, thánh nhân đã trừ quỷ và chữa cho công Chúa khỏi. Trước phép lạ nhãn tiền này, nhà vua cho người mang vàng bạc hậu tạ thánh nhân, nhưng Ngài một mực khước từ. Một đêm kia vua Polêmon chiêm bao thấy thánh nhân hiện đến và nói với nhà vua rằng: “Tôi đến đây không phải để gầy dựng gia nghiệp, thu tích vàng bạc nhưng để cứu rỗi các linh hồn, giải phóng người ta khỏi ách lầm than của ma quỷ. Đồng thời vua cũng được thánh nhân giảng cho biết qua về Chúa Giêsu và hứa sẽ chỉ tên vạch mặt quỷ Atarôt, bằng cách bắt nó tuyên xưng Chúa Kitô rồi mới trục xuất nó ra một lần nữa. Sự việc xẩy ra y như vua đã chiêm bao: một ngày kia trước mặt vua và cả triều đình thánh nhân công khai bắt tên quỷ Atarôt thú nhận nó là tên lừa bịp dân chúng và là tên phản tặc đối với Thiên Chúa. Đồng thời nó tuyên xưng thánh nhân là tông đồ Thiên Chúa sai đến để truyền bá Phúc âm. Thánh nhân ra lệnh cho nó phải cút khỏi vùng này và cấm từ nay không được lai vãng đến hại dân. Tên quỷ vâng lệnh và “cúp đuôi” biến mất. Bấy giờ dân chúng hết lời ca tụng thánh nhân và đập phá tượng quỷ đang thờ. Chứng kiến phép lạ nhãn tiền này, cả triều vua xin học đạo và chịu phép rửa tội.

Ma quỷ căm giận vì thất bại nên tìm cách trả thù. Chúng xúi giục một số viên chức nổi lên chống đối lại thánh nhân và coi Ngài như kẻ thù phá hoại chùa miếu đền thờ, phá rối an ninh. Rồi tiếng đồn thổi vu cáo thánh nhân mỗi ngày một lan rộng.

Lần kia một số công chức âm mưu đến vu cáo với vua Atigiê (Attiges) em vua Polemê (Polemes) rằng: thánh nhân đã phá hủy đền chùa của họ. Tức giận, Atigiê truyền đưa thánh nhân tới. Trước sân rồng lộng lẫy, thánh nhân đàng hoàng tiến lên tâu trình mọi việc với nhà vua. Đang khi nhà vua sỉ nhục thánh nhân thì tất cả các tượng bụt trong đền vua tự nhiên đổ tan tành, nhà vua nổi nóng hạ lệnh lột da rồi thiêu sinh thánh nhân. Nhưng Chúa toàn năng đã tỏ uy quyền của Ngài để mở mắt cho những kẻ mù tối: qua hai cuộc hành hình thánh nhân vẫn còn sống. Sau cùng thánh nhân bị trảm quyết, ngày 24 tháng 8 năm 52.

Nghe tin thánh nhân bị trảm quyết, cả triều vua Pôlômon vội vã sang xin xác thánh Ngài và an táng rất trọng thế. Để thưởng công vua Pôlômon, sau 30 ngày các vị tông đồ đã truy phong nhà vua lên chức giám mục. Còn vua Atigiê và những kẻ đã nhúng tay hành quyết thánh nhân đều bị bệnh quỷ ám và chết một cách khốn nạn.

Sau khi an táng xác thánh nhân, dân chúng tấp nập đến kính viếng và được hưởng nhiều phép lạ. Nhiều người lương dân thấy vậy đâm ghen tương. Họ bí mật quật mộ và quẳng quan tài Ngài xuống biển. Nhưng Chúa quan phòng đã làm phép lạ khiến tấm quan tài bằng chì của thánh nhân nổi lềnh đềnh trên mặt biển và được sóng biển đưa tới hòn đảo Lipari gần Xixin (Cicile). Tín hữu miền này rước quan tài thánh nhân về miền Bênêven và xây cất đền thờ kính Ngài. Với những phép lạ thời danh Ngài làm, chẳng bao lâu nơi đây trở thành đất hành hương danh tiếng. Năm 983 dưới thời Đức giáo hoàng Grêgôriô V, xác thánh Ngài được di chuyển vể La-mã nằm bên cạnh các Tông đồ khác.

Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages.

-------------------------------

 

Suy niệm 5. Thánh Batôlômêô


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Trong danh sách các Tông Đồ, Thánh Ba-tô-lô-mê-ô thường được 3 Phúc Âm Nhất Lãm nhắc đến (Mt 10,3; Mc gọi Ngài là Bar-Tolmai; ngài được Phúc Âm Gioan gọi là Nathanael (Ga 1,45-51). Người ta đoán rằng Nathanael là một thầy thông luật hay đệ tử của trường phái luật sĩ.

Theo truyền thuyết, Nathanael rao giảng ở Ấn Độ, Mésopotamie và nhất là ở Arménie, cuối cùng chịu tử đạo tại đây. Di hài của ngài sau đó được chuyển về đảo Lipara và về Benevent. Hoàng đế Otto III cho chuyển về Rôma và đặt ở một cồn nhỏ trên sông Tibre. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

Trong Tin Mừng Gioan, Nathanael là người môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi.

- Khi Philipphê nói với Nathanael rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Nathanael tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nazareth. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Đức Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người Do thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói: “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống? (6,42)

- Đức Giêsu nói với Nathanael “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh”: Trong Gioan, Đức Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và những con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ: có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn địa đàng. Có lẽ ý nghĩa ở đây là: Nathanael là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài.     

- Lời của Đức Giêsu khiến Nathanael xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.

a/ Trong Gioan, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân Do Thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39 19,3 19,21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12,13).   

b/ Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (x. 2Sm 7,14).     

- Nathanael sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”: bây giờ Đức Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.

- Đức Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28,12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu cuối chạm tới trời; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Đức Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.

II. BÀI HỌC

Hình ảnh đẹp nhất trong câu truyện của Nathanael hôm nay là việc ông được Philipphê dẫn đến với Chúa và sau khi gặp được Chúa ông đã thấy Chúa như thế nào.

Nếu không được Philipphê dẫn đến và giới thiệu với Chúa thì chưa chắc gì chúng ta đã có một Nathanael-Batholômêo một tông đồ của Chúa như hôm nay.

Đọc lại Tin Mừng chúng ta cũng thấy có những trường hợp đẹp như vậy.

Nếu Andrê không dẫn Simon đến với Chúa Giêsu, thì chắc gì chúng ta đã có một Phêrô làm đầu Hội thánh ?

Nếu Andrê không dẫn em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá đến với Chúa thì chắc gì chúng ta được chứng kiến một phép lạ hóa bánh ra nhiều.

Nếu Andrê không đưa những người Hy lạp đến gặp Chúa, làm sao họ tin Chúa?...

Nếu chúng ta không đem Chúa đến cho anh chị em chúng ta, làm  sao họ nhìn biết Chúa mà được Người cứu rỗi ?

Thánh Phaolô xác quyết:  Nếu không có người rao giảng, làm sao anh chị em chúng ta biết Chúa?

Như thế Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay nhắc cho chúng ta: Chúng ta có bổn phận giới thiệu Chúa Giêsu cứu thế cho anh chị em, đồng bào đồng loại của chúng ta, để họ tìm đến Người, tin kính Người, hầu được cứu chữa phần hồn phần xác.

Sở dĩ cuộc sống của con người trên thế giới hôm nay chưa tìm được hạnh phúc là vì còn quá nhiều người chưa biết Chúa. Đó là một thực tế đáng buồn cho tất cả mọi người.

Hãy mở mắt ra mà xem cuộc sống ở một nơi gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài thì cuộc sống sẽ như thế nào.

Theo bản thống kê thì trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, Đức Quốc Xã đã thiết lập 200 trại tập trung để giam giữ tù binh và chính trị phạm, trong đó đa số là người Do thái. Đặt biệt, người ta nhắc đến trại hãi hùng khủng khiếp nhất như Dachau ở Đức và Auschwitz ở Ba lan. Có khoảng 09 triệu người thuộc 23 quốc tịch khác nhau đã bị tiêu diệt trong trại tập trung này. Riêng nạn nhân người Do thái lên đến 06 triệu.

Khi quân đồng minh đến giải phóng một trong các trại tập trung họ thấy ngoài cổng có một tấm bảng ghi các dòng chữ sau: “Ở đây không có Thiên Chúa”. Thấy cảnh tượng ghê tởm ấy, người ta không biết phải làm gì hơn là lấy cỏ che phủ lại làm nên một quả núi nhân tạo và trên đó dựng lên một cây Thánh Giá lớn để nói cho con người của thời đại biết rằng: Khi con người chối bỏ Thiên Chúa thì cũng đối xử với nhau tàn bạo hơn súc vật như vậy.

Bất cứ một sự chối bỏ Thiên Chúa nào cũng hàm chứa sự chối bỏ con người; và ngược lại, bất cứ sự chối bỏ và chà đạp nào đối với con người cũng là một sự chối bỏ chính Thiên Chúa.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hôm nay biết dẫn những anh chị em chúng ta, những người chưa biết Chúa đến với Chúa để Chúa biến đổi cuộc đời của họ nên giống Chúa làm cho thế giới chúng ta đang sống được hạnh phúc hơn.

Mẹ Têrêsa thành Calcutta, một lần nọ, có kể lại câu chuyện cảm động sau: “Trong số các cộng tác viên của tôi, có một cặp vợ chồng kia trước đây sống rất lạnh nhạt với nhau. Một hôm, cả hai đến gặp tôi. Tôi bảo:

- Tôi không hiểu tại sao ông bà có thể đem Chúa Giêsu đến cho những người khác trong khi chính bản thân ông bà không thể đem Ngài đến cho nhau? Làm sao ông bà có thể nhận ra Ngài đang ẩn mình nơi những người nghèo khổ, trong khi ông bà không biết khám phá ra Ngài trong tâm hồn của nhau?.

Thế rồi, cả hai bắt đầu cuộc tranh cãi gay gắt ngay trước mặt tôi. Họ dốc sạch bầu tâm sự và mọi tranh cãi giận hờn đã ôm ấp trong lòng từ bao năm nay... Một lát, Mẹ Têrêsa bảo họ:

- Thôi đủ rồi! Ông bà đã nói tất cả những gì cần nói với nhau. Bây giờ ông bà hãy vào Nhà thờ cầu nguyện và mỗi người hãy nói với Chúa Giêsu hiện diện trong nhà tạm những gì đã nói với nhau lúc này!

Rồi Mẹ cùng đôi vợ chồng cùng bước vào nhà thờ. Họ quỳ gối xuống gần bên nhau trước nhà tạm và thinh lặng... Một lúc sau, người chồng quay sang nhìn người vợ với tất cả sự trìu mến. Ông ôm lấy vợ và nói:

- Em là người yêu duy nhất của đời anh và là tất cả kho tàng quý giá của anh đang có...

Và từ hôm đó hai vợ chồng làm hòa cùng nhau, đồng thời trở thành những cộng tác viên đắc lực của tôi và là mẫu gương cho nhiều gia đình khác...

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa để con luôn thấy Chúa đồng hành với con trong từng giây từng phút của cuộc đời. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 6. Môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi


--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
Trong Tin Mừng Gioan, Nathanaen là người môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi.

Khi Philipphê nói với Nathanaen rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanaen tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiarét. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Đức Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Đức Giêsu xuất thân từ Nagiarét tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người Do Thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói: “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống?

Đức Giêsu nói với Nathanaen “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh”: Trong Tin Mừng Ga, Đức Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ: có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn diệu quang. Có lẽ ý nghĩa ở đây là: Nathanaen là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài.

Lời của Đức Giêsu khiến Nathanaen xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.

Trong Ga, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân do thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39; 19,3.21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12,13).

Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (x. 2Sm 7,14).

Nathanaen sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”: bấy giờ Đức Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.

Đức Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28,12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu kia chạm tới trời; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Đức Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.

Nathanaen đã được biết Chúa Giêsu và được Ngài kêu gọi nhờ sự giới thiệu của Philipphê. Tôi cũng được biết Chúa và được Ngài gọi nhờ sự giới thiệu của nhiều người. Nhưng ít khi tôi nhớ ơn họ và cầu nguyện cho họ. Hôm nay tôi hãy cầu nguyện cho những ân nhân đó; và nguyện sẽ giới thiệu Chúa cho những anh chị em khác của tôi nữa.

Nathanaen hỏi “Làm sao Ngài biết tôi?” Chúa Giêsu đáp “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi”: Chúa cũng biết con từ lâu và biết rất rõ. Con xin phó thác đời con cho Chúa.

Ngày nọ, một người bạn đến tìm nhà giảng thuyết Mc-Leod Campbell và hỏi: “Này anh, xin anh nói cho tôi hay; làm thế nào mà anh luôn tìm thấy Chúa?” Nhà giảng thuyết trầm ngâm một lúc rồi nói: “Làm thế nào mà tôi luôn tìm thấy Chúa ư? Không đâu, tôi không luôn tìm thấy Chúa đâu, nhưng tôi biết là Chúa luôn tìm thấy tôi!”

“Ông Nathanaen hỏi Người: “Làm sao Ngài lại biết tôi?” Đức Giêsu trả lời: “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1,48)

Có người lái buôn kia quyết đi tìm điều quý giá nhất trên đời, nhưng đó không phải là vàng bạc, đá quý, mà là Thiên Chúa. Anh đi mãi, đi mãi, và tìm đủ loại sách, mọi bậc thánh hiền nhưng vẫn không gặp được Thiên Chúa.

Một ngày kia, đang thơ thẩn trên dòng sông, bỗng anh thấy một đàn vịt. Đàn vịt con cứ muốn rời mẹ để đi kiếm ăn riêng. Vịt mẹ cứ phải lặn lội tìm hết con này đến con kia mà không tỏ ra giận dữ. Nhìn cảnh vịt mẹ cứ mãi tìm con, anh ta mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương, hân hoan nói với mọi người rằng: Tôi đã đi tìm Thiên Chúa, và cuối cùng tôi khám phá ra rằng chính Ngài đã đi tìm tôi.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 7. Thánh Batôlômêô, tông đồ


lễ kính

--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Bài Tin mừng cho biết đang lúc Chúa định đi Galilê thì gặp ông Philipphê là người đồng hương với Anrê và Phêrô. Chúa liền gọi ông đi theo Người. Rồi ông Philipphê lại đi tìm gặp ông Nathanael (Bartôlômêô) và giới thiệu Chúa Giêsu cho ông ta, nhưng ông này không đếm xỉa gì. Đến khi ông ta nghe Chúa Giêsu khen mình thì bỡ ngỡ hỏi: “Làm sao Ngài biết tôi?” Chúa đáp: “Trước khi Philipphê gọi anh, tôi đã thấy anh ngồi dưới gốc cây vả”. Ông Nathanael hết sức cảm phục tin tưởng Chúa và ông đã đi theo Người.

Bài Tin mừng hôm nay là phần kết thúc việc Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Người được kêu gọi lần này là Nathanael quê tại Cana miền Galilê. Ông được Chúa kêu gọi làm môn đệ đồng thời với Philipphê là người dẫn lối cho mình. Buổi đầu được giới thiệu, ông còn hồ nghi đôi chút vì ông cho rằng: “Nazareth có gì là tốt đâu”, vì thực sự Kinh thánh Cựu ước chưa hề nói tới Nazareth một lần nào. Cho nên, khi nghe người bạn giới thiệu Chúa Giêsu quê Nazareth ông tỏ ra ngại ngùng như thế. Nhưng khi cảm nghiệm được sự hiểu biết siêu nhiên đặc biệt của Chúa Giêsu về đời tư của ông thì ông đã nhận ra Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa”(Ga 1,49). Từ đó Nathanael là môn đệ Chúa thực thụ.

Cần người giới thiệu để theo Chúa

Chúa đã gọi ông Philipphê một cách trực tiếp, nhưng Chúa lại gọi ông Nathanael cách gián tiếp qua trung gian ông Philipphê. Như vậy, ơn gọi làm Kitô hữu hay ơn gọi tu trì, đôi khi được Chúa gọi trực tiếp qua sự thôi thúc trong lòng, nhưng có lúc cũng cần đến những người khôn ngoan, những người đi trước, cha xứ... hướng dẫn và giới thiệu chúng ta đến với đạo hay đến với đời tu. Cũng như Philipphê khi đã gặp được Chúa, thánh nhân đã đi giới thiệu cho Nathanael và dẫn Nathanael đến với Chúa. Chúng ta cũng vậy, sứ vụ của mọi Kitô hữu chúng ta là truyền giáo cho bất cứ những ai chưa nhận biết Chúa, giới thiệu về Chúa cho họ và đưa họ đến với đức tin.

Nhưng cần phải tránh thành kiến

Sau khi Chúa gọi, Philipphê đã đến gặp Nathanael và giới thiệu Chúa cho ông này. Nathanael là người thường “ngồi dưới gốc cây vả”. Kiểu nói “ngồi dưới gốc cây vả” có nghĩa là người thích tìm hiểu Thánh kinh. Nathanael tìm hiểu Kinh thánh, nhưng bị giam hãm trong những thành kiến cũ nên không tin rằng từ Nazareth có thể xuất hiện một thứ gì hay được. Mặc dù đã từng “ngồi dưới gốc cây vả” mà nghiền ngẫm sách thánh, nhưng Nathanael không tìm gặp được Đấng Cứu Thế, bởi mang nặng thành kiến, thành kiến về địa danh Nazareth tầm thường nhỏ bé.

Không thể dùng thành kiến mà đánh giá con người hay vấn đề được, bởi vì thành kiến chỉ là một nhận định cục bộ từ một vài trường hợp cá biệt. Không phải vì đã có một vài trường hợp đã xảy ra như thế rồi kết luận rằng tất cả mọi trường hợp đều sẽ phải xảy ra như vậy. Thế nhưng con người lại rất dễ nhiễm thành kiến và thường xét đoán theo thành kiến.

Cần có sự gặp gỡ với Chúa

Chúng ta thấy thái độ của Nathanael trước và sau cuộc gặp gỡ Chúa thì khác hẳn. Trước khi gặp Chúa, Nathanael vẫn mang trong mình cái biết và cái thành kiến của một xã hội đã nắn đúc lên trong tư tưởng Ngài và không thể thoát ra được. Ngồi dưới gốc cây vả, ông vẫn tìm kiếm trong vô vọng về những gì dân Do thái dựng nên trong đầu ông về một Đức Giêsu quyền lực và phải phát xuất ở một nơi danh giá, chứ không phải nơi một bác thợ mộc và quê nghèo Nazareth. Chính vì thế mà vừa nghe giới thiệu, ông phản kháng ngay: “Ở Nazareth có cái chi hay?” Tuy nhiên, ông vẫn dám bước ra khỏi cái thành kiến kia để đến gặp Chúa, và khi đã gặp Chúa rồi, ông đã tuyên xưng và được biến đổi trở nên người môn đệ.

Chúng ta cũng thế, khi chưa gặp Chúa, chúng ta vẫn mang trong mình những thành kiến, những tư tưởng không tốt. Chúng ta chắc chắn sẽ hành động sai khi chúng ta thiếu đi sự cầu nguyện gặp gỡ xin Chúa soi sáng (Mỗi ngày một tin vui).

Giới thiệu có tính cách dây chuyền

Ông Philipphê đến gặp Nathanael và nói: “Đấng mà sách Luật và các tiên tri nói tới, chúng tôi đã gặp”. Tường thuật của Gioan về ơn gọi những môn đệ đầu tiên cho thấy Chúa thường gọi qua trung gian: Gioan và Anrê được gọi qua trung gian của Gioan Tẩy giả, Phêrô được gọi qua trung gian Anrê, và Nathanael qua trung gian Philipphê. Trung gian mà Chúa dùng có thể là một người, cũng có thể là một sự việc, một biến cố nào đó hay một Lời Chúa...

Truyện: Thánh Phanxicô Borgia

Phanxicô Borgia (1510-1572) được cắt cử tháp tùng thi hài của hoàng hậu Isabelle, một mỹ nhân sắc nước hương trời, đến chỗ an táng của hoàng tộc. Trước khi hạ huyệt, quan tài được mở ra để được xác nhận. Cảnh tượng đã làm đảo lộn cuộc đời chàng. Phanxicô từ biệt triều đình, vào dòng Tên, trở nên vị thánh, thành Tổng quyền thứ ba của dòng. Ngài nói: “Từ nay mọi danh vọng và lạc thú trần gian chẳng dính dáng gì đến Phanxicô nữa”. Phanxicô Borgia đã nghe một tiếng gọi từ bên trong.

---------------------------------

 

Suy niệm 8. Thánh Barthôlômêô, Tông đồ


--tgpsaigon.net

Các sách Tin Mừng Nhất Lãm và sách Công Vụ Tông Đồ ghi nhận thánh Bartôlômêô là một trong nhóm 12, nhưng lại không cho biết thêm gì về ngài, ngoài việc liên kết tên ngài với Philipphê. Tin Mừng thứ tư không có danh sách các tông đồ, nhưng có nhắc phần lớn tên các tông đồ thuộc nhóm 12, sách Tin Mừng này không nói gì tới Bartôlômêô, nhưng lại chỉ ghi nhận tên Nathanael, liên hệ với Philipphê (Ga 43-51), cũng như kết nhóm với các tông đồ khác sau phục sinh (Ga 21,1-14). Từ thế kỷ 16, nhiều học giả đã đồng hóa Nathanael với Bartôlômêô và gọi tên Bartôlômêô là tên của Nathanael. Như vậy chính Narthanael là con (bar) của ông Tolmai hay có thể Ptoleemy (Tlômêô), sinh tại Cana (Ga 21,2).

Nếu sự đồng hoá là đúng, chúng ta biết được nhiều chi tiết về ơn gọi của thánh tông đồ hơn là của các tông đồ khác (Lc 5,4-10 dường như là phó bản của Ga 21,4-17). Trước khi được chính thức kêu gọi, đã có một cuộc gặp gỡ thú vị khi Philipphê giới thiệu với Bartôlômêô:

- Đấng mà Môsê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến, chúng tôi đã gặp rồi, Người là Giêsu con ông Giuse người Nazareth.

Bartôlômêô đáp lại với óc khinh miệt của những dân làng lân cận:

- Từ Nazareth thì có thể xảy ra điều gì tốt được(!)

Tuy nhiên, đáp lại lời mời “thì hãy đến mà xem”, vị tông đồ đã gặp một Giêsu thấu suốt lòng mọi người:

- Này đây đích thực là một người Israel, trong mình không có gì gian dối.

Bartôlômêô đã nhận ra nguồn gốc thiên sai của Chúa Giêsu nhờ cuộc gặp gỡ ấy. Rồi đây, ngài còn khám phá ra sự thật cao cả hơn nữa về con người Giêsu. Ngài luôn đồng hành với các bạn tông đồ (Ga 21,1-14).

Sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ ngũ tuần, thánh Bartôlômêô ra đi truyền giáo. Có nhiều truyền thống cung ứng các chi tiết khác nhau về đời truyền giáo của ngài tại Tiểu Á, Armennia, Mosopotamia, Persia, Ấn Độ và Ai cập. Tuy nhiên, giai thoại ở Armenia được chấp nhận nhiều hơn cả. Thánh nhân được tôn kính như thánh tông đồ của miền này.

Người ta kể rằng: khi thánh tông đồ đến Armenia, tại chính nơi vua Polimio và triều đình cư ngụ, quỷ thần Atarốt ở đấy câm họng. Ngài khua trừ ma quỷ, giải thoát cho nhiều người khỏi bị quỉ ám, trong số này có cả nàng công chúa. Vì thế, Ngài liền được triều vời đến triều đình. Trước mặt vua, ngài truyền quỷ thần phải nói sự thật bỉ ổi về số phận đời đời của nó. Nhà vua cảm động ban tặng tiền bạc cho ngài, nhưng ngài từ khước và chỉ mong mọi người nhận biết và thờ phượng Chúa.

Dĩ nhiên các tư tế đền thờ, họ xúi giục dân chúng nổi dậy chống lại thánh tông đồ. Attiges em vua Polimiô bắt ngài tống ngục. Ông nổi giận ra lệnh lột da rồi thiêu sống thánh nhân. Nhưng nhờ quyền năng Chúa, ngài vẫn được cứu sống. Người ta dựa vào sự kiện này để vẽ hình thánh nhân nằm cạnh con dao và miếng da như biểu tượng đời ngài. Cuối cùng ngài bị trảm quyết. Tương truyền rằng: xác ngài được chuyển về Beneventô. Vào thế kỷ X, không rõ các di tích của ngài có được vua Ottô III đưa về và còn được lưu giữ tại thánh đường thánh Bartôlômêô ở Tiber không?

Chúa Giêsu đã ngưỡng mộ lòng chân thành của thánh Batôlômêô. Dù có những ý kiến khác biệt nhưng thánh nhân không phải là một người ngoan cố. Do vậy, thánh nhân đã được Đức Chúa Giêsu khen ngợi. Chúa Giêsu cũng ban cho thánh Batôlômêô ơn đức tin và ơn làm tông đồ. Chúng ta hãy nài xin thánh Batôlômêô giúp chúng ta thăng tiến trong niềm tin của mình.

---------------------------------

 

Suy niệm 9. Thánh Barthôlômêô


Tông đồ-ctqn

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ kính thánh Bartôlômêô, tông đồ. Thánh Bartôlômêô còn được gọi là Nathanaen. Ngài là một trong số mười hai tông đồ mà các sách Tin Mừng kể tên ngài sau Philípphê.

Trước khi gặp Chúa Giêsu, Nathanaen vẫn mang trong mình cái biết và cái thành kiến của một xã hội đã nắn đúc lên trong tư tưởng ngài và không thể thoát ra được. Ngồi dưới gốc cây vả, ông vẫn tìm kiếm trong vô vọng về những gì dân Do thái dựng nên trong đầu ông về một Đức Giêsu quyền lực và phải xuất thân ở một nơi danh giá, chứ không phải nơi một bác thợ mộc và quê nghèo Nazareth. Chính vì thế mà vừa nghe giới thiệu, ông liền bảo: “Ở Nazareth nào có cái chi hay?”. Ông Philípphê trả lời: “Cứ đến mà xem!”. Chính khi ông rời khỏi gốc cây vả, rời khỏi cái thành kiến của mình để đến gặp Chúa Giêsu, và khi đã gặp Chúa rồi, ông đã tuyên xưng và được biến đổi trở nên người môn đệ.

Chúng ta cũng thế, khi chưa gặp Chúa, chúng ta vẫn mang trong mình những thành kiến, những tư tưởng không tốt. Hôm nay, Chúa cũng mời gọi chúng ta: “Hãy đến mà xem”. Việc biết Chúa hay theo đạo không phải là chuyện dửng dưng không quan tâm đến việc đạo đức, không tham dự thánh lễ và cầu nguyện với Chúa; việc trở nên bạn hữu của Chúa không phải chỉ là chuyện nghe nói về Người… nhưng cần sự gặp gỡ giữa ta với Chúa, không ai giữ đạo thay cho ta được, không ai tu thay cho ta được, không ai đền tội hay lập công cho ta được… Vì thế, cần một sự “đến mà xem” nghĩa là phải đến gặp gỡ Chúa qua các bí tích và đời sống đạo để được Người cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, để gặp được Chúa, xin cho chúng con luôn biết suy niệm Thánh kinh và đến với Chúa qua các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, hầu chúng con dám bước ra khỏi cái tôi thành kiến của mình và được biến đổi trở nên người môn đệ đích thực của Chúa. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 10. Không biết không yêu


--nhathothaiha.net

Dường như mọi người chẳng hay biết tí gì đến Nick Vujicic, một người đàn ông có số phận đáng thương, cho đến khi mọi người biết được câu chuyện cuộc đời của anh. Một người không có tay, không có chân, có thể bước đi hiên ngang giữa cuộc đời với niềm hạnh phúc lớn lao. Anh trở thành một hiện tượng hay thần tường được yêu mến của mọi người, đặc biệt là người trẻ, với ý chí quyết tâm vươn lên nghịch cảnh.

Ông Nathanaen, còn được gọi là Batôlômêô, có lẽ sẽ không yêu mến Chúa nếu như ông không “đến mà xem” như lời mời gọi. Nếu ông chỉ dừng lại với những hiểu biết đóng khung của mình thì Đức Giêsu sẽ chẳng là gì trong tâm trí của ông. Được kêu mời đến mà xem, ông đã nhận ra người mà ông đang mong chờ, biết được người mà ông đang mong chờ, biết được người mà ông muốn gắn kết cuộc đời, và yêu được người mà ông tôn thờ.

Sự hiểu biết không chỉ đến nhờ lý trí, nhưng còn được khai mở nhờ đức tin. Lý trí cho ta biết cách thức thông truyền tình yêu, còn đức tin giúp ta  biết mức độ của tình yêu. Lý trí giúp ta hiểu lúc nào có tình yêu, còn đức tin giúp ta vững tin vào tình yêu luôn mãi.

Cầu nguyện: Xin Chúa giúp chúng con biết mở lòng mở trí để có thể hiểu biết Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 11. Thánh Barthôlômêô Tông Đồ


Trong danh sách các Tông Đồ, Thánh Ba-tô-lô-mê-ô thường được 3 Phúc Âm Nhất Lãm nhắc đến (Mt 10,3 ; Mc gọi Ngài là Bar-Tolmai ; ngài được Phúc Âm Gioan gọi là Natanael (Ga 1,45-51). Người ta đoán rằng Nathanael là một thầy thông luật hay đệ tử của trường phái luật sĩ.

Theo truyền thuyết, Natanael rao giảng ở Ấn Độ, Mésopotamie và nhất là ở Arménie, cuối cùng chịu tử đạo tại đây. Di hài của ngài sau đó được chuyển về đảo Lipara và về Benevent. Hoàng đế Otto III cho chuyển về Rôma và đặt ở một cồn nhỏ trên sông Tibre. Trong Tin Mừng Gioan, Natanael là người môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi.

- Khi Philipphê nói với Natanael rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanael tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiarét. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Đức Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Đức Giêsu xuất thân từ Nagiarét tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người do thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói : “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư ? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao ? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống ? (6,42)

- Đức Giêsu nói với Natanaen “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh” : Trong Ga, Đức Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và các con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ : có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh ; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn diệu quang. Có lẽ ý nghĩa ở đây là : Natanaen là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài. 

- Lời của Đức Giêsu khiến Natanaen xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.      

a/ Trong Ga, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân do thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39 19,3 19,21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12,13).

b/ Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (x. 2Sm 7,14).       

- Nathanaen sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” : bây giờ Đức Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.

- Đức Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28,12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu cuối chạm tới trời ; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Đức Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.

 ---------------------------------

Suy niệm 12. Ðến mà xem

—‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

“Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”. Nathanael lặp lại một thành kiến không tốt về Nazareth, về quê hương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận định về ông như một người Israel đích thực: “Lòng dạ không có gì gian dối”. Nhân vô thập toàn, không ai là hoàn toàn tốt và cũng không ai là hoàn toàn xấu. Nathanael là con người tốt, nhưng cũng có khuyết điểm sống theo dư luận không có quan niệm tốt về Nazareth: “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”.

Chứng tá đầy xác tín của Philipphê đã giúp đưa Nathanael ra khỏi sự mù quáng tinh thần: “Cứ đến mà xem, Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”. Chỉ kinh nghiệm sống trực tiếp với Chúa Giêsu mới có thể giúp các tông đồ, những kẻ đầu tiên được gọi theo Chúa Giêsu, vượt qua được những giới hạn trần tục, che kín mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể.

Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan đã mô tả ơn gọi sống như Chúa Giêsu như là một cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Chúa và người được gọi. Và khi đã được gặp gỡ trực tiếp với Chúa Giêsu rồi, người được gọi mới vượt qua được những thành kiến tự nhiên đối với Chúa, và cảm thấy được thôi thúc chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa cho anh chị em chung quanh. Kinh nghiệm sống của Philipphê được chia sẻ cho Nathanael: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói đến, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”. Có thể nói đây là kiểu mẫu cho điều chúng ta gọi là việc tông đồ, là thông truyền và chia sẻ kinh nghiệm sống của chính bản thân về Chúa Giêsu cho anh chị em chung quanh, đây cũng là phương thế duy nhất giúp anh chị em vượt qua được những thành kiến không tốt về Thiên Chúa, để cùng chúng ta tôn thờ và yêu mến Ngài. Chỉ nhờ đã gặp được Chúa trước rồi chúng ta mới có thể trở nên phương tiện để giúp anh chị em đến gặp Chúa: “Cứ đến mà xem”.

Ước chi đời sống chúng ta là một lời mời gọi liên lỉ anh chị em đến với Chúa.

Lạy Chúa,

Nhờ công nghiệp và lời chuyển cầu của thánh tông đồ Nathanael Batolomeo, mà chúng con mừng lễ hôm nay, xin Chúa thương giải thoát con khỏi những thành kiến ngăn cách con với Chúa, cũng như ngăn cách con với anh chị em. Xin thương mời gọi con đến với Chúa và củng cố đức tin còn non yếu của con.

---------------------------------

Suy niệm 13. Một người Israel đích thật

--J.M.

Chúa đã đích thân chiêu mộ các tông đồ trong giới hạng trung bình, giới thợ thuyền, công chức, thủ trưởng đoàn đội v.v... họ thuộc giới có đủ thời giờ lo lắng cho nước trời, vì công việc không làm họ u tối, trí độn. Họ không phải hạng người vô học, dốt nát. Họ là hạng người Do Thái đang mong đợi Đấng thiên sai Cứu Thế. Họ biết khá khá Kinh Thánh để đoán được thời giờ đã gần tới.

Họ có những ước đoán của lớp trung bình. Họ có thể hình dung một nhân vật lực lưỡng như rôbốt, mới chắc là Đấng Messia, Đấng Messia phải đáp ứng được những nét đặc trưng, nên không thể xuất thân “Từ Nadarét đâu có gì hay được”.

Đích thật....

Một kiểu người thuộc giới trung bình, Nathanael. Trước hết, ông nghi ngờ, rồi lắng nghe rồi đi đến cảm phục. Ông không khó tin, không khó đi theo Đức Giê-su, nhưng lòng nhiệt tình hăng say chốc lát biến đi, chỉ còn lại một con người chân thành! ông đã gặp Đức Ki-tô, Đấng Messia, ông không thể không hợp đoàn với Người.

Hạng trưởng giả

Nguy hiểm của hạng trưởng giả nhỏ (không xét đến lợi tức) đây chỉ xét đến khía cạnh đức tin, họ là thứ công tử bột, họ không như biệt phái, luật sĩ. Hạng trưởng giả này thoải mái hơn, dễ chịu hơn, ngay cả niềm tin cũng đỡ. Họ không lo lắng chuyện gì quá. Trời của họ khá được đảm bảo.

Hạng giầu thật, trong xã hội hơn là giầu niềm tin, là hạng trên mức đa số, họ được người ta cầu cạnh, kính nể, đáng chuộng: nhưng lối sống tiện nghi đừng để đến thái quá.

Người ta còn biết đến “hạng trưởng giả thánh” chính là hạng tri túc, tri thường. Các Tông Đồ đã chứng tỏ như thế. Dù sống thân mật với Đức Giê-su, họ chũng có vẻ trưởng giả gồm cả những tính xấu và tính tốt. Nhưng Thiên Chúa yêu họ. Chính là vì họ là trưởng giả nhỏ nên đã được Chúa chinh phục, được Phúc Âm kêu gọi.

Như thế đó! được chinh phục!
Sống với lòng xác tín của mình!
Sống với đức tin vủa mình.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 14. Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ


--Lm Nguyễn Hưng Lợi

Mỗi người đều có một lối sống, mỗi người đều có một phong cách khác nhau. Các thánh cũng vậy. Cuộc sống của các thánh luôn có một mẫu số chung: sống giống Ðức Kitô. Thánh Bathôlômêô, tông đồ, Giáo Hội tôn kính hôm nay cũng không nằm ngoài định luật muôn thuở: họa lại hình ảnh thật nhất của Chúa Giêsu Cứu Thế.

Barthôlômêô được tuyển chọn làm tông đồ

Philipphê gặp ông Nathanaen và nói: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới,chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse,người Nagiarét”. Ông Nathanaen liền bảo: “Từ Nagiarét, làm sao có cái gì hay được?”. Ông Philipphê trả lời: “Cứ đến mà xem” (Ga 1,45-46).

Cứ đến mà xem là lời mời gọi ông Nathanaen trở thành tông đồ đích thực của Chúa Giêsu. Sự kỳ diệu và hết sức lạ lùng là khi Chúa Giêsu vừa thấy Nathanaen, Người đã nói: “Ðây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1, 47). Việc Chúa gọi Nathanaen tức Barthôlômêô thật là huyền nhiệm vì chính Chúa đã thấy, đã biết ông khi ông đang ở dưới cây vả (Ga 1,48). Chúa nói: “lòng dạ của Nathanaen không có gì gian dối”. Ðiều này nói lên hồng phúc của Barthôlômêô vì tâm hồn mới là quan trọng. Người ta thường ví von: “Hữu ư trung xuất hình ư ngoại” (trong có gì thì biểu lộ ra bên ngoài). Chính lúc, Na-tha-na-en tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel” (Ga 1, 49). Chúa Giêsu đã tuyển chọn Na-tha-na-en làm “Apostoloi”, nghĩa là tông đồ. Ðó là giờ cứu độ, giờ hồng phúc của Barthôlômêô, giờ Barthôlômêô được lột xác trở nên hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Làm tông đồ nghĩa là thuộc trọn vẹn về Chúa.

Như mọi tông đồ, Bathôlômêô được sai ra khơi (duc in altum) thả lưới

Thả lưới nghĩa là phải ra xa bờ, chọn chỗ nhiều cá. Ra khơi có nghĩa là tin vào Chúa vì có thể trong cuộc hải hành sẽ gặp sóng to, gió lớn, sẽ gặp nhiều chuyện trục trặc, nhưng tin, cậy vào Chúa sẽ được Chúa giải thoát. Barthôlômêô đã cùng với các bạn trong nhóm 12, theo Chúa Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo, theo Thầy làm chứng có nước trời, có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Theo Thầy để học hỏi những kinh nghiệm của Thầy, lãnh nhận những tư tưởng, chân lý và Tin Mừng, giáo lý của Thầy hầu chuẩn bị cho việc ra khơi mai sau. Theo Thầy để lãnh nhận quyền và sự thật mà Thầy sẽ trao phó cho: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Và, sau khi Chúa về trời,các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Barthôlômêô được sai đi loan báo Tin Mừng tại Ấn Ðộ, vùng Lycôni và Arménie. Thánh Bar-thô-lô-mê-ô đã làm chứng cho Chúa phục sinh bằng gương sáng đời sống thánh thiện, đạo đức của Ngài, bằng những lời chân thật, tài lợi khẩu, hoạt bát và những phép lạ Chúa ban cho, thánh nhân đã đưa được biết bao người ngoại giáo trở về. Thánh nhân đã trở nên giống Chúa Kitô như thánh Phaolô nói: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô sống trong tôi” và “Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi”. Chính tình yêu Chúa Kitô thúc bách thánh nhân.

Barthôlômêô đã thực hiện việc rao giảng bằng chính cuộc đời của Ngài: từ bỏ, hy sinh và hết lòng trở nên giống Chúa Kitô. Thánh nhân đã trừ quỷ cho công chúa của vua Polêmon và nhiều người khác, đặc biệt Ngài đã hoán cải và đưa cả gia đình nhà vua polêmon trở lại đạo công giáo.

Thánh nhân đã làm chứng cho Chúa bằng chính mạng sống của mình đúng như lời Chúa phán: “Tôi tớ không hơn chủ”. Vì ghen tức thánh nhân, các sư sãi và các quan chức triều đình đã vu cáo, khai gian cho thánh nhân đủ điều và Ngài đã bị vua Attiges bắt, bỏ tù, hành hạ đủ mọi cực hình và lãnh án trảm quyết cho tới hơi thở cuối cùng vào năm 52.

Lạy thánh Barthôlômêô, tông đồ xin đến giúp chúng con để chúng con có lửa nhiệt thành như thánh nhân hầu làm chứng cho Chúa sống lại.

Xin cho chúng con ơn can đảm để chúng con luôn biết lướt thắg mọi thử thách chông gai của cuộc đời.

Xin thêm đức tin cho chúng con để chúng con chỉ biết cậy trông vào Chúa.

---------------------------------

 

Suy niệm 15. Thánh Ba-tô-lô-mê-ô Tông Đồ


--Lm Đa-minh Thiệu O.Cist

Thánh Ba-tô-lô-mê-ô Tông Đồ sinh vào đầu thế thứ nhất tại Ca-na, Palestina. Ngài là một trong số 12 Tông Đồ của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, Ngài chỉ được hai sach Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu và Mác-cô nhắc tới trong bản danh sách các Tông Đồ (xc. Mt 10,3; Mc 3,14-19). Từ thế kỷ thứ IX tại Đông Phương, và từ thế kỷ thứ XI tại Tây phương, Thánh Ba-tô-lô-mê-ô được nhiều chuyên viên Kinh Thánh đồng hóa với Nathanael, người xuất thân tại Galilea. Nếu Ba-tô-lô-mê-ô là Nathanael, thì theo Tin Mừng của Thánh Gio-an, ông đã được Phi-líp-phê dẫn tới với Chúa Giê-su (Ga 1,45-51). Và khi Chúa Giê-su vừa nhìn thấy Nathanael tiến về phía mình thì đã ngay lập tức nhận ra ông, và nói về ông rằng: “Đây đích thực là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1,47). Nathanael đã tỏ ra bỡ ngỡ trước lời nhận xét của Chúa Giê-su về mình, và Chúa Giê-su giải thích cho ông biết rằng, trước khi Philiphê đến với ông, lúc ông đang còn ngồi dưới gốc cây vả, tức lúc ông đã đạt tới được mức độ cao của sự khôn ngoan tinh thần, thì Ngài đã biết đến ông rồi (Ga 1,48). Một số truyền thuyết lại cho rằng, Ba-tô-lô-mê-ô chính là chàng rể trong tiệc cưới tại Cana mà Tin Mừng theo Thánh Gio-an nói tới (xc. Ga 2,1-12). Với tư cách là Nathanael, thì Ba-tô-mê-ô còn được Tin Mừng theo Thánh Gio-an nêu đích danh trong cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh trên bờ hồ Gennesaret (xc. Ga 21,2). Tuy nhiên, trong bản danh sách các Tông Đồ thì cả Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu lẫn Tin Mừng theo Thánh Mác-cô đều không nhắc tới tên Nathanael, nhưng thay vào đó là tên Ba-tô-lô-mê-ô, và ông được xếp đứng sau Philiphê và trước Tô-ma (Mt 10,3); sau Philiphê và trước Mát-thêu (Mc 3,18).

Theo tương truyền, Sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, tức Lễ Ngũ Tuần, Ba-tô-lô-mê-ô đã đến loan báo Tin Mừng tại Persien, tức Iran ngày nay. Cũng có một số truyền thuyết cho rằng, Ngài đã đến tận Ấn-độ để hoạt động tông đồ, và ở đó, Ngài đã để lại một đoạn sách Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu bằng tiếng Hýp-ri. Truyền thống cũng chứng minh cho thấy Thánh Ba-tô-lô-mê-ô đã đến rao giảng Tin Mừng tại Ai-cập và tại Armenia, Ngài đã chữa lành nhiều bệnh nhân và nhiều người bị quỷ ám. Ngài đã được phúc Tử Đạo tại Armenia với việc bị lột da và bị đóng đinh ngược trên Thập Giá.

Tương truyền kể lại rằng, vào một ngày kia, Ba-tô-lô-mê-ô được người Armenia mời đến với vua Polymios của nước này. Sau khi Thánh Nhân chữa lành cho công chúa của vị vua vừa nêu khỏi quỷ ám, Ngài đã đến thăm nhà vua xuyên qua các cánh cửa đang được đóng kín. Thấy thế, nhà vua liền trở lại, và toàn thể hoàng gia đều cùng ông trở lại Ki-tô giáo. Vua Polymios đã ra lệnh dẹp bỏ tất cả mọi hình ảnh của các ngẫu tượng trong đền thờ, mà một thần dữ luôn ẩn mình trong đó. Tuy nhiên, theo lệnh của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô, tên thần dữ này đã phải bỏ đi. Sau đó Thánh Ba-tô-lô-mê-ô đã làm cho vua Polymios được thấy tỏ tường những hình thù đen kịt, đen hơn cả bồ hóng, với những gương mặt hắc ám, những bộ râu đen ngòm và với những mái tóc cũng đen như bồ hóng, chúng đi đi lại lại dưới chân Ngài, nhưng đôi tay của chúng thì bị cột lại đàng sau lưng bằng những sợi xích cháy rừng rực. Thấy vậy, các tư tế của đền thờ liền bỏ trốn, họ đến với Astyages – người anh em thù địch của vua Polymios. Nghe báo cáo của các tư tế, Astyages đã sai một toán quân tinh nhuệ gồm cả ngàn lính tráng tới bắt Thánh Ba-tô-lô-mê-ô. Sau khi bắt được Thánh Nhân, đám lính đã mang Ngài đến trước Astyages. Biết được rằng, thần Baldach của mình cũng đã bị phá hủy bởi thánh Ba-tô-lô-mê-ô, nên Astyages đã ra lệnh dùng dùi cui để tra tấn Ngài, sau đó ra lệnh lột da Ngài lúc Ngài vẫn đang còn sống, và sau cùng ra lệnh đóng đinh ngược Ngài vào Thập giá với chiếc đầu cắm xuống đất. Sau khi Thánh Ba-tô-lô-mê-ô qua đời, các Ki-tô hữu đã đến nhận xác Ngài và mai táng cách long trọng. Còn Astyages và các viên tư tế của ông ta thì bị quỷ ám và chết ngay sau đó.

Thánh Hieronymus đã nhắc đến một cuốn Tin Mừng theo thánh Ba-tô-lô-mê-ô. Và Ngài cũng nhắc tới một sắc lệnh được cho ràng do Đức Giáo Hoàng Gelasius I biên soạn, về những tác phẩm Kinh Thánh được công nhận cũng như không được công nhận bởi Giáo hội. Sắc lệnh này đã liệt kê ra những tác phẩm tự cho là thuộc Quy Điển nhưng bị Giáo hội bác bỏ. Nhiều bản văn cổ khác nhau của Giáo hội Cốp-tít cũng được gán cho Thánh Ba-tô-lô-mê-ô là tác giả, trong đó có một cuốn nói về sự phục sinh của Chúa Ki-tô.

Truyền thống sau này còn cho biết về một chiếc quan tài mà trong đó có Thánh Cốt của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô cùng với Thánh Cốt của bốn vị Tử Đạo khác đã bị những người dân ngoại quăng xuống biển, nhưng đã dạt vào đảo Lipari của Sizilia, Italia.

Vào năm 831, sau khi người Ả-rập đã phá bỏ ngôi mộ của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô tại Lipari và xây lên một ngôi thánh đường tại đó, thì Ngài đã hiện ra với một Đan Sĩ và yêu cầu vị Đan Sĩ này hãy gom tất cả các Thánh Cốt của Ngài lại và mang chúng tới Benevento của Ý (nằm cách Rô-ma 239 km về hướng Đông Nam). Vị Đan Sĩ này đã làm theo, và vào năm 838, ông đã mang các Thánh Cốt của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô tới Benevento. Khi hoàng đế Friedrich II của Đức có ý định muốn phá hủy Benevento thì Thánh Ba-tô-lô-mê-ô đã hiện ra với ông ta và cảnh báo ông ta rằng, ông ta sẽ bị trừng phạt và sẽ phải chết ngay sau đó. Tuy nhiên, điều đó vẫn không ngăn cản được việc hoàng đế Friedrich II đánh cắp các Thánh Tích của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô và đưa chúng về Frankfurt (Đức Quốc).

Ngay từ thế kỷ thứ V, tại Albayrak của Armenia đã có một trung tâm hành hương thu hút rất nhiều người đến viếng. Các Thánh Tích được cho là của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô, đã được bảo quản và tôn kính tại trung tâm hành hương này. Tại Dara, Mesopotamia cũng có một trung tâm hành hương tôn kính các Thánh Tích được cho là của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô.

Theo tương truyền, vào năm 580, một phần Thánh Cốt của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô đã được chuyển từ Anastasiopolis, tức Beypazari, Ankara, Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay, về đảo Lipari của Ý. Và vào năm 838, vì cuộc xâm lăng của người Ả-rập, nên các Thánh Cốt của Ngài lại được chuyển từ đảo Lipari về Benevento. Sau đó, vào năm 983, Hoàng đế Otto II lại mang các Thánh Tích của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô từ Benevento về Rô-ma, nơi các Thánh Tích đó được tôn kính và bảo quản trong một ngôi Thánh Đường với tên gọi là S. Bartolomeo all'isola.

Tại Pháp, vào năm 1030, một Đan Viện Dòng Augustino tên là Creuse thuộc vùng Limoges, mà ngày nay gọi là Benevent-l'Abbaye (Đan Viện Benevent), đã nhận được một phần Thánh Tích của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô từ Benevento của Ý. Vào thế kỷ XI, Eduard der Bekenner đã mang các Thánh Tích của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô tới Canterbury, Anh Quốc. Vào năm 1238, hộp sọ của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô đã được hoàng đế Friedrich II mang về Nhà Thờ Chính Tòa Frankfurt. Nhà thờ này sau đó đã được đặt tên theo tên của Thánh Nhân, tức Nhà Thờ Thánh Ba-tô-lô-mê-ô Tông Đồ. Ngay cả Đan Viện Andeschs cũng khoe rằng, họ đang sở hữu một phần Thánh Tích của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô.

Việc tôn kính Thánh Ba-tô-lô-mê-ô chỉ phổ biến trong thế ký thứ X, và từ đó nhanh chóng lan rộng ra nhiều nơi, đặc biệt là tại các quốc gia Tây Âu, chẳng hạn như Ý, Đức và Pháp. Từ đầu thế kỷ thứ XIII, Thánh Ba-tô-lô-mê-ô đã được giới họa sĩ và điêu khắc trình bày trong hình ảnh một vị Tông Đồ trên tay cầm một con dao và một cuốn sách. Trong bức họa về Ngày Phán Xét Cuối Cùng của Michelangelos trong nguyện đường Sixtine của Tòa Thánh Vatican, khuôn mặt trên lớp da của Thánh Ba-tô-lô-mê-ô đang được chính Ngài cầm trên tay, được coi là bức chân dung tự họa của chính họa sĩ Michelangelos.

Cả ba Giáo hội Công giáo, Anh giáo và Tin Lành đều mừng kính Thánh Ba-tô-lô-mê-ô vào ngày 24 tháng 08. Còn Giáo hội Chính Thống thì mừng Lễ Ngài vào ngày 11 tháng 06, và Giáo hội Armenia thì cử hành vào hai ngày trong năm: ngày mồng 09 tháng 04 và ngày 12 tháng 12.

---------------------------------

 

Suy niệm 16. Thay đổi nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu


--Lm. Gio-an Trần Văn Viện

Trong Phúc âm của thánh Gio-an, thánh tông đồ Ba-tô-lô-mê-ô được gọi với tên là Na-tha-na-en. Cuộc gặp gỡ giữa ngài với Đức Giê-su được thánh sử trình thuật trong đoạn Tin Mừng hôm nay.

Ông Phi-lip-phê, sau khi trở thành môn đệ của Chúa Giê-su, đã muốn giới thiệu Chúa cho ông Na-tha-na-en: Người là Đấng Mê-si-a, con ông Giu-se, người Na-da-rét mà sách luật Mô-sê và các tiên tri nói tới. Nhưng ông Na-tha-na-en có vẻ nghi ngờ về nguồn gốc của Chúa vì có lẽ ông đã được biết thông qua sách vở rằng Đấng Mê-si-a được tiên báo xuất thân từ Be-lem, miền Giu-da. Chính ông cũng đã khẳng định: “Từ Na-da-rét làm sao có gì hay được”.

Tuy nhiên, trước lời mời gọi của ông Phi-lip-phê, ông Na-tha-na-en đã đến gặp Chúa Giê-su. Chúa đã khen ông: “đích thực là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối”. Nhưng sao Na-tha-na-en có thể là một người Ít-ra-en đích thực nếu không chấp nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a, người Na-da-rét? Thật ra, người Ít-ra-en đích thực là người biết từ bỏ những ý nghĩ, tư tưởng của mình khi nó không phù hợp với chương trình của Thiên Chúa; là người sẵn sàng thay đổi, hoán cải theo thánh ý Ngài. Ông Na-tha-na-en là người như thế. Nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su, ông hiểu ra chương trình của Thiên Chúa không giống như những gì con người biết đến hay mong muốn. Ông đã nhận ra sự sai lầm của mình. Ông đã thay đổi ý nghĩ và chấp nhận Chúa Giê-su như Đấng Mê-si-a đích thực qua lời tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính thầy là vua Ít-ra-en”.

Với niềm tin của mình, ông “sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên chúa lên lên xuống xuống trên Con Người”. Ông sẽ cảm nghiệm được rằng Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa nhập thể, là Đấng nối kết giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Chính Người là đường đưa con người về chốn trời cao.

Anh chị em thân mến, mừng lễ thánh Ba-tô-lô-mê-ô (với tên khác Na-tha-na-en), chúng ta hãy noi gương ngài để trở thành những Ki-tô hữu đích thực. Giống như thánh nhân, người Ki-tô hữu đích thực là những người biết sẵn sàng thay đổi bản thân sau cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su. Chúng ta đã gặp Người khi đọc, lắng nghe Lời Chúa hay trong việc cử hành các bí tích, cách đặc biệt là bí tích Thánh Thể, hoặc qua từng biến cố cuộc đời… Câu hỏi đặt ra: chúng ta đã thay đổi con người mình chưa? Mỗi người được mời gọi hãy từ bỏ con người cũ với những khuyết điểm, tội lỗi… để trở nên con người mới trong Chúa Giê-su. Như thế, chúng ta đang tuyên xưng niềm tin vào Người qua chính con người cụ thể của chúng ta.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 17. Ước mơ bay cao


Đức Giêsu nói: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.” (Ga 1,50)

Suy niệm: Người Việt Nam dùng hình ảnh cây trúc để làm biểu tượng cho người quân tử, hoa sen để biểu trưng cho sự thanh cao “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Còn đối với người Do Thái, cây vả tượng trưng cho sự an bình. Cây vả có nhiều cành lá um tùm nên người ta thường ngồi dưới bóng của nó để trầm tư mặc niệm. Hình ảnh Nathanaen hay còn gọi là Batôlômêô ngồi “dưới cây vả” nói lên rằng ông là một con người của suy niệm những mầu nhiệm cao siêu. Đức Giêsu nói cho ông biết rằng chẳng những Ngài nhìn thấu suốt tâm hồn con người, Ngài còn là chiếc thang đưa dẫn con người lên trời. Ông đã giật mình kinh ngạc và thán phục Đấng đọc được những suy nghĩ, những ước mơ đang ngự trị nơi sâu thẳm nhất của trái tim ông. Được Chúa Giêsu thu phục và hứa cho thấy những sự cao cả hơn nữa, ông dành cho Ngài trọn quyền làm chủ vận mạng đời ông.

Mời Bạn: Dâng lên Chúa những ước mơ, những khao khát của bạn, và Chúa thấu suốt những ước mơ, khao khát ấy. Ước mơ lớn nhất, khát khao nóng bỏng nhất phải là đi theo Đức Giêsu để một ngày kia được cùng Ngài lên trời.

Sống Lời Chúa: Quan tâm cầu nguyện cho một người bạn lương dân của bạn, và tìm dịp thuận tiện dẫn đưa người ấy đến với Đức Giêsu là con đường, là chiếc thang dẫn lên trời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường chỉ có những ước mơ tốt đẹp cho mình, mà quên cho người khác. Xin Chúa cho tất cả chúng con biết hằng ngày bước theo Chúa trên con đường về quê trời. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 18. Thánh Barthôlômêô tông đồ


--“Theo Vết Chân Người”

Các sách Tin Mừng nhất lãm và sách công vụ tông đồ ghi nhận thánh Bartôlômêô là một trong nhóm 12, nhưng lại không biết thêm gì về Ngài, ngoài việc liên kết tên Ngài với Philipphê.

Tin Mừng thứ tư không có danh sách các tông đồ, nhưng có nhắc phần lớn tên các tông đồ thuộc nhóm 12, sách Tin Mừng này không nói gì tới Bartôlômêô, nhưng lại chỉ ghi nhận tên Nathanael, liên hệ với Philipphê (Ga 43-51), cũng như kết nhóm với các tông đồ khác sau phục sinh (Ga 21,1-14). Từ thế kỷ 16, nhiều học giả đã đồng hóa Nathanael với Bartôlômêô và gọi tên Bartôlômêô là tên của Nathanael. Như vậy chính Narthanael là con (bar) của ông Tolmai hay có thể Ptoleemy (Tlômêô), sinh tại Cana (Ga 21,2).

Nếu sự đồng hoá là đúng, chúng ta biết được nhiều chi tiết về ơn gọi của thánh tông đồ hơn là của các tông đồ khác (Lc 5,4-10 dường như là phó bản của Ga 21,4-17). Trước khi được chính thức kêu gọi, đã có một cuộc gặp gỡ thú vị: Philipphê giới thiệu với Bartôlômêô: - Đấng mà Môsê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến, chúng tôi đã gặp rồi, Người là đức Giêsu con ông Giuse người Nazareth.

Bartôlômêô đáp lại, với óc khinh miệt của những dân làng lân cận: - Từ Nazareth thì có thể xảy ra điều gì tốt được.

Tuy nhiên đáp lại lời mời “thì hãy đến mà xem”, vị tông đồ đã gặp một Chúa Giêsu thấu suốt lòng mọi người: - Này đây đích thực là một người Israel, trong mình không có gì gian dối.

Bartôlômêô đã nhận ra nguồn gốc thiên sai của Chúa Giêsu nhờ cuộc gặp gỡ ấy. Rồi đây Ngài còn khám phá ra sư thật cao cả hơn nữa về con người Chúa Giêsu. Ngài luôn chen vai sát cánh với các bạn tông đồ (Ga 21,1-14).

Sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ tuần, thánh Bartôlômêô ra đi truyền giáo. Có nhiều truyền thống cung ứng các chi tiết khác nhau về đời truyền giáo của Ngài tại Tiểu Á, Armennia, Mosopotamia, Persia, Ấn Độ và Ai cập. Tuy nhiên giai thoại ở Armenia được chấp nhận nhiều hơn cả. Thánh nhân được tôn kính như thánh tông đồ của miền này.

Người ta kể rằng: khi thánh tông đồ đến Armenia, tại chính nơi vua Polimio và triều đình cư ngụ, quỷ thần Atarốt ở đấy câmhọng. Ngài khua trừ ma quỉ. Giải thoát cho nhiều người khỏi bị quỉ ám. Trong số này có cả nàng công chúa. Ngài liền được triêu vời đến triều đình. Trước mặt vua Ngài truyền quỉ thần phải nói sự thật bỉ ổivề số phận đời đời của nó. Nhà vua cảm động ban tặng tiền bạc cho tông đồ, nhưng Ngài từ khước và chỉ mong mọi người nhận biết và thờ phượng Chúa.

Dĩ nhiên các tư tế thờ ma quỉ tức giận, họ xúi giục dân chúng nổi dậy chống lại thánh tông đồ. Attiges em vua Polimiô bắt Ngài tống ngục. Ong nổi giận ra lệnh lột da rồi thiêu sống thánh nhân. Nhưng nhờ quyền năng Chúa, Ngài vẫn được cứu sống. Người ta dựa vào sự kiện này để vẽ hình thánh nhân nằm cạnh con dao và miếng da như biểu tượng đời Ngài. Cuối cùng Ngài bị trảm quyết.

Tương truyền rằng: xác Ngài được chuyển về Beneventô. Vào thế kỷ X, không rõ các di tích của Ngài có được vua Ottô III đưa về và còn được lưu giữ tại thánh đường thánh Bartôlômêô ở Tiber không?

 ---------------------------------

 

Suy niệm 19. Thánh Barthôlômêô tông đồ


--Lm Vũ Đình Tường

Thuộc dòng dõi vua Tolmai (2 Sam 3:3). Vua Geshu con của Maacah, mẹ của Absalong sanh ra vua David. Đàng khác Bartholomew họ hàng với Ptolemy vua nước Ai Cập. Ông có bộ tóc đen quăn dài phủ tai, da trắng, mắt to, mũi thẳng, râu rậm chen lẫn những chùm râu trắng, người cao trung bình. Ảnh hưởng bởi dòng dõi quý tộc và phong cách con nhà quyền quý ông thích mặc áo chùng màu trắng kèm theo những giải màu tím. Áo choàng ngoài cũng màu trắng thêu màu tím bốn góc. Là một người thông thái, thông thạo nhiều ngôn ngữ, tính tình nhân hậu, vui vẻ và chuyên cần cầu nguyện ngày đêm. Tuy dòng dõi hoàng gia nhưng ông hội nhập vui sống với những ngư phủ, thứ dân, ngôn từ bình dị, không hề than thở hay tỏ ra cao ngạo.

Phúc âm Matthew, Marcô và Luca luôn nhắc đến Philip và Barthôlômêo. Phúc âm Gioan nhắc Philip giới thiệu Nathanael cho Chúa Yêsu nên có nhiều học giả cho là Barthôlômêo và Nathanael là một.

Barthôlômêo giảng đạo tại Ấn Độ với tông đồ Phillip và miền Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kì). Hành trang giảng đạo vỏn vẹn có cuốn sách Phúc Âm thánh Mathêu viết bằng tiếng Hy Bá. Vợ quan toàn quyền Astyages được ơn lạ. Thánh nhân cứu sống qua cơn bệnh ngặt nghèo. Bà tin theo đạo và trở thành người giúp việc tận tình cho việc truyền giáo. Số người trở lại tin theo lên đến nhiều ngàn. Làn sóng người tin đạo gây một phản ứng ngược mạnh mẽ trong giới lãnh đạo. Trước áp lực của các quan cận thần và sợ tiếng quở trách của hoàng đế Rôma. Toàn quyền Astyages ra lệnh ngăn cấm dân chúng không được theo đạo. Lệnh cấm không làm giảm niềm tin; trái lại số người tin theo tăng ngày một nhiều. Giải pháp duy nhất Astyages thực hiện là bắt các tông đồ tống ngục. Việc làm gây tiếng vang giữa các tín hữu. Người tin theo càng can đảm hơn. Họ lầm lí luận xử tử các ngài đạo sẽ tan. Họ không biết các ngài chỉ là công cụ của Thiên Chúa. Ngoài xã hội, giết kẻ lãnh đạo đoàn thể đó tan. Lãnh đạo trong Giáo Hội là Chúa. Đức Kitô đi rao giảng bây giờ trở thành kẻ được rao giảng.

Bị bắt chung với Philip, quan tòa ra lệnh tha Bartholomew, còn Philip thì bị án tử. Lính được lệnh treo ngài vào thập tự không phải đóng bằng đinh nhưng dùng giáo đâm lủng hai đùi, xỏ giây qua treo ngược trên thập tự. Bartholomew được tự do có lẽ do sự can thiệp của vợ quan toàn quyền, cũng có thể do chính vị chánh án xử cũng tin theo Chúa và nhận được ơn nên ông ra lệnh tha Bartholomew.

Chứng kiến cảnh Philip tử đạo, Bartholomew sang Armenia (quê hương mẹ Têrêsa). Ngày nay phần đất này nằm giữa biên cương Irăn và Sô Viết. Bartholomew là thánh bổn mạng của quốc gia này. Thực ra Bartholomew không phải là nhà truyền giáo đầu tiên trên phần đất này. Trước đó vào các năm 43-66, thánh Tông Đồ Thađêô đến Armenia giảng đạo. Barthôlômêô có mặt vào khỏang năm 66-68. Như thế hạt giống Tin Mừng đức tin được thánh tông đồ Thađêô gieo rắc một thời gian dài là 23 năm trước đó. Hai năm 66-68, Bartholomew là người tưới cho hạt giống đức tin nảy mầm và mọc xanh tốt.

Bartholomew không trú ngụ hẳn tại Liên Sô hay Armenia nhưng thường xuyên đi lại giữa hai nước. Tại Armenia, Bartholomew đặt tay cầu nguyện cứu sống con gái vua. Việc tốt lành này làm nổi giận các đạo sĩ hầu cận nhà vua vì họ mất sủng ái. Gia đình tiểu vương tin theo Chúa nhưng các đạo sĩ trong cung điện mua chuộc anh vua. Nhóm này âm thầm ngầm bắt Bartholomew lột da sống rồi đóng đinh ngược tại Bashlake năm 68. Nay là thành phố Derbend. Đây là một hải cảng dân chúng sống nghề buôn bán ngựa cho chiến tranh.

Trong quá khứ các nhà địa lí dường như không phân biệt rõ ràng, mạch lạc như chúng ta hiểu ngày nay. Trong thời buổi hỗn mang đó, nhiều vua lắm chúa, bá tước và đại điền chủ đều xưng vương xưng bá, quyền hành như vua con một cõi nên việc phân biệt địa danh quả là có nhiều vấn đề. Thời đó Ấn Độ được hiểu là một trong các miền ở các vùng Ả Rập, Ethiôpia, Libya, Parthia, Persia, Medes và một phần Ấn Độ ngày nay.

Bước chân truyền giáo của các tông đồ rất khó xác định vì các ngài ra đi tự do, không người chỉ định. Sau ngày lễ Ngũ Tuần các ngài hăng hái ra đi về một phương trời vô định. Đến nơi này thấy có người đang truyền giáo các ngài bỏ đi nơi khác, thực hành câu sai đi rao giảng Tin Mừng đến khắp cùng bờ cõi. Vì quan niệm tứ hải đều là nhà nên nơi nào chấp nhận hạt giống đức tin; nơi đó các ngài cư ngụ. Nơi nào xua đuổi các ngài âm thầm ra đi. Sau này tin tức truyền giáo viết phỏng theo lời tường thuật của dân địa phương, truyền khẩu, nhớ đến đâu kể đến đó. Các sử gia cố gắng kiểm chứng, dò theo từng vết chân, bút tích, nhân chứng. Căn cứ vào thánh đường, thánh tích, lời truyền nếu các chi tiết đó ăn khớp với nhau coi như tin đó chính xác, đáng tin.

Dẫu thế mức độ chính xác cũng chỉ tương đối. Thứ nhất là chiến tranh, thứ hai là các tôn giáo bạn, nhóm nào cũng nhận đóng góp ít nhiều trong việc giúp các tông đồ. Chính vì thế mà khi đọc về lịch sử truyền giáo, các sử gia thường phải đối chiếu nhiều tài liệu khác nhau: lịch sử dân tộc, lịch sử công giáo, chính thống, địa phương sử và chiến sử rồi so sánh, gạn lọc truyền thống có nhiều bằng chứng nhất giữ lại. Truyền thống thần bí chờ nghiên cứu thêm.

Vấn đề ngôn ngữ là yếu tố khác. Có bản viết bằng tiếng La Tinh, bản khác tiếng Hy lạp cổ, tiếng thổ dân nên cần rất nhiều công tra cứu để đọc và hiểu rõ tác giả muốn viết gì. Da thuộc hiếm và đắt nên đắn đo từng chữ trước khi viết.

Ngày nay xác thánh Bartholomew được cất giữ ở nhiều nơi khác nhau. 508 vua Anastasius giữ xác thánh tại Duras, Mesopotamia. Thế kỉ thứ 6 thánh Gregory de Tours chuyển xác về Sicily. Năm 809 xác được chuyển sang Benevento. Năm 983, vua Otto đệ tam chuyển sang Roma.

Hiện nay một phần thánh tích chôn cất dưới thánh đường Bartholomew. Một xương cánh tay chuyển về Benevento và giám mục Edward tặng thánh đường Canterbury.

Tóm lược trong tài liệu:

1.The Search for the Twelve Apostles của W. McBirnie
2. The Twelve Apostles của R. Brownrigg

 ---------------------------------

 

Suy niệm 20. Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ


--giaophanvinhlong.net

Trong danh sách các Tông Đồ, Thánh Ba-tô-lô-mê-ô thường được 3 Phúc Âm Nhất Lãm nhắc đến (Mt 10,3; Mc gọi Ngài là Bar-Tolmai; ngài được Phúc Âm Gioan gọi là Natanael (Ga 1,45-51). Người ta đoán rằng Nathanael là một thầy thông luật hay đệ tử của trường phái luật sĩ.

Theo truyền thuyết, Natanael rao giảng ở Ấn Độ, Mésopotamie và nhất là ở Arménie, cuối cùng chịu tử đạo tại đây. Di hài của ngài sau đó được chuyển về đảo Lipara và về Benevent. Hoàng đế Otto III cho chuyển về Rôma và đặt ở một cồn nhỏ trên sông Tibre. Trong Tin Mừng Gioan, Natanael là người môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi.

- Khi Philipphê nói với Natanael rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanael tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiarét. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Đức Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Đức Giêsu xuất thân từ Nagiarét tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người do thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói: “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống? (6,42)

- Đức Giêsu nói với Natanaen “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh”: Trong Ga, Đức Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và các con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ: có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn diệu quang. Có lẽ ý nghĩa ở đây là: Natanaen là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài.

- Lời của Đức Giêsu khiến Natanaen xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.  

a/ Trong Ga, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân do thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39 19,3 19,21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12,13).

b/ Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (x. 2Sm 7,14).   

- Nathanaen sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”: bây giờ Đức Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.

- Đức Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28,12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu cuối chạm tới trời; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Đức Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.

---------------------------------

 

Suy niệm 21. Chân dung Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ


--Trầm Thiên Thu

Trong Tân ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả xác định ngài với Nathanael (còn viết là Nathaniel), một đàn ông người Cana ở Galilê đã được Philipphê nói cho biết về Chúa Giêsu.

Giáo hội mừng kính Thánh Batôlômêô vào ngày 24-8 hàng năm. Ngày này là ngày các hội chợ truyền thống, như Hội chợ Batôlômêô ở Smithfield (London, Anh quốc) xuất hiện từ thời Trung Cổ, có diễn hài kịch của Ben Jonson.

Thánh Batôlômêô được liệt kê thuộc Nhóm Mười Hai trong các Phúc Âm nhất lãm (Mt 10:1-4; Mc 3:13-19; Lc 6:12-16), và ngài là một trong ba nhân chứng khi Chúa Giêsu lên trời (Cv 1:4, 12-13). Trong Ga 1:45-51, ông Nathanael được giới thiệu là bạn của ông Philipphê. Ông được mô tả là người nghi ngờ về Đấng Mêsia đến từ Nadarét khi nói: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?”, nhưng sau khi ông Philipphê nói: “Cứ đến mà xem!”, ông đã đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khen ông: “Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1:47). Khi Nathanael hỏi tại sao Chúa Giêsu biết ông, Chúa Giêsu nói: “Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1:48). Điều mặc khải lạ lùng là Nathanael tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” (Ga 1:49). Chúa Giêsu nói: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1:50).

Quả thật, Nathanael đã thấy những điều lớn lao hơn. Ngài là một trong các tông đồ được Chúa Giêsu hiện ra trên bờ biển Tibêria sau khi Ngài phục sinh (x. Ga 21:1-14). Lúc đó, họ đã đánh cá suốt đêm mà vô ích. Đến sáng, họ thấy một người đứng trên bờ nhưng không ai biết đó là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã bảo họ thả lưới, họ làm theo và đánh được rất nhiều cá. Rồi Gioan nói với Phêrô: “Chúa đó” (Ga 21:7).

 Truyền thống cho biết rằng Thánh Batôlômêô đi truyền giáo ở Ấn Độ, và đã để lại đây cuốn Phúc Âm theo Thánh Matthêu. Các truyền thống khác nói ngài đi truyền giáo ở Ethiopia, Mesopotamia, Parthia và Lycaonia. Ngài tử đạo tại Albanopolis, thuộc Armenia. Truyền thống nói ngài bị chém đầu, nhưng phổ biến hơn là truyền thống nói ngài bị lột da rồi bị đóng đinh ngược. Truyền thống còn cho biết rằng ngài đã hoán cải Polymius, vua của Armenia. Chính người anh em của Polymius là Astyages đã ra lệnh xử tử Thánh Batôlômêô.

Một tu viện nổi tiếng tại Armenia là Tu viện Thánh Batôlômêô có từ thế kỷ 13, được xây dựng ngay tại nơi Thánh Batôlômêô chịu tử đạo là tỉnh Vaspurakan, thuộc Armenia (nay thuộc Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ).

Nghiên cứu của LM A.C Perumalil (Dòng Tên) và Moraes cho thấy rằng miền Bombay thuộc duyên hải Konkan, có thể đây là thành phố cổ Kalyan, là vùng hoạt động truyền giáo của Thánh Batôlômêô. Tác giả Theodorus Lector (thế kỷ 6), xác nhận rằng khoảng năm 507, Hoàng đế Anastasius đã giao hài cốt Thánh Batôlômêô cho thành phố Dura-Europos sau khi được tái phát hiện.

Năm 803, hài cốt ngài được đặt tại Giáo đường Thánh Batôlômêô tại Lipari, một đảo nhỏ thuộc duyên hải Sicily, do Constantinople kiểm soát. Năm 803, hài cốt ngài lại được chuyển tới Beneventum; rồi năm 980, Hoàng đế Otto II của Tòa Thánh đã chuyển hài cốt ngài tới Rôma, lưu giữ tại Giáo đường San Bartolomeo all’Isola. Một phần sọ của Thánh Batôlômêô được chuyển tới Giáo đường Frankfurt, còn một cánh tay của ngài được tôn kính tại Giáo đường Canterbury ngày nay.

Có nhiều phép lạ của Thánh Batôlômêô đã xảy ra trước và sau khi ngài chết, hai phép lạ nổi tiếng xảy ra cho dân thành phố nhỏ tại đảo Lipari.

Theo truyền thống, dân đảo Lipari rước tượng ngài bằng vàng và bằng bạc từ Giáo đường Thánh Batôlômêô đi khắp thành phố. Một lần nọ, khi đưa tượng ngài từ trên đồi xuống thành phố, bỗng dưng tượng ngài trở nên nặng trĩu, không thể đưa đi nơi khác, người ta cố đưa tượng đi nhưng tượng càng nặng hơn, thế là người ta phải đặt tượng ngài tại đó. Hồi thế chiến II, chế độ Phát-xít (Đức/Ý) tìm cách quản lý các hoạt động. Lệnh truyền phải đưa tượng Thánh Batôlômêô đi chỗ khác, tượng lại trở nên nặng hơn. Người ta đành “bó tay”!

Lạy Thánh Batôlômêô, xin cầu thay nguyện giúp. Amen.

 ---------------------------------

 

Suy niệm 22. Thánh Batôlômêô: Tông đồ


--Phan Vũ

Hôm nay, Giáo Hội mừng kính thánh Batôlômêô, là một vị Tông Đồ nhóm Mười Hai được Chúa Giêsu tuyển chọn để xây Hội Thánh của Ngài và “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Dẫu rằng có rất ít tài liệu ghi chép về thánh nhân, song hầu hết các học giả cho rằng thánh Batôlômêô được nhắc tới trong Kinh Thánh chính là Nathanaen trong Tin Mừng theo Thánh Gioan.

Khi Đức Giêsu đi tới miền Galilê, Người gặp ông Philípphê và nói: “Anh hãy theo tôi” (Ga 1,43). Philípphê lập tức đi theo Đức Giêsu. Philípphê vui đến nỗi đi tìm bạn của mình là Nathanaen và nói rằng “Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazarét” (Ga 1,45). Đây chính là lần đầu tiên Nathanaen nghe về những lời giảng dạy của Đức Giêsu, mà sau này thánh nhân đã rao giảng Tin Mừng này với cả con tim nhiệt huyết trung thành.

Tuy nhiên, cũng giống như nhiều người khác, thánh nhân lúc đầu cũng có những hồ nghi nên đã hỏi vặn lại rằng “Từ Nazarét, làm sao có cái gì hay ho được?” (Ga 1,46). Như được Thánh Thần linh ứng, Philípphê đã bảo Nathanaen rằng “Cứ đến mà xem!” (Ga 1,46). Và Nathanaen đã làm theo lời mời của Philípphê. Khi đến gặp Đức Giêsu, Nathanaen đã được biến đổi và trở thành người bạn đường với Đức Giêsu. Bởi thế, noi gương thánh nhân hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi đến với Đức Giêsu để được biến đổi và trở nên môn đệ của Ngài.

Là một trong số Mười Hai Tông đồ, thánh Batôlômêô đã đồng hành cùng Đức Giêsu trong suốt sứ vụ công khai của Ngài. Thánh nhân đã học hỏi noi gương Đức Giêsu và đã hiến dâng mạng sống cho Ngài. Thánh nhân đã chứng kiến Thầy mình bị bắt giữ, bị chết treo trên thập giá, và rồi thấy Ngài phục sinh vinh hiển. Sau khi Thầy Giêsu về trời, thánh nhân cùng với những Tông đồ khác được sai đi và “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).

Theo truyền thống, thánh Batôlômêô được cho rằng đã đi tới Ấn Độ để rao giảng Tin Mừng. Một vài truyền thống khác cho rằng thánh nhân cũng tới Armenia, Ethiopia, Mesopotamia và Lycaonia rao giảng. Ngài được cho là bị chém đầu hoặc bị lột da sống và bị đóng đinh ngược đầu xuống đất. Chính vì vậy mà thánh Batôlômêô thường phác hoạ trong nghệ thuật thánh là một người đang giữ bộ da của mình, giống như trong bức Phán xét cuối cùng (Last Judgment) của danh hoạ Michelangelo được tìm thấy trong Nhà nguyện Sistine tại thành Vatican.

Dẫu rằng những câu chuyện về thánh Batôlômêô còn nhiều tranh cãi, song những gì chúng ta biết chắc chắn về thánh nhân rằng cuộc đời của ngài đã hoàn toàn được biến đổi khi ngài gặp gỡ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là Vua dân Do Thái. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi noi gương thánh nhân như vậy. Chúng ta phải gặp gỡ Chúa chúng ta, cách cá vị, để Ngài biến đổi đời sống chúng ta và không bao giờ được ngoảnh mặt lại. Chúng ta hãy bắt chước sự hoán cải của thánh Batôlômêô và xin ngài chuyển cầu cho chúng ta trước toà Chúa.

Lạy thánh Batôlômêô, ngài đã gặp gỡ Đức Giêsu, người Nazarét, và ngài đã nhận ra rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Vua dân Do Thái. Nhờ sự mở lòng đón nhận ơn thánh, Thiên Chúa đã chạm tới tâm hồn ngài và biến đổi ngài mãi mãi. Xin cầu bầu cho chúng con được mở lòng nhận ra sự hiện diện thần linh của Con Thiên Chúa để Ngài có thể đụng chạm tâm hồn chúng con và biến đổi đời sống chúng con. Lạy thánh Batôlômêô, xin cầu cho chúng con. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 23. Chân dung Thánh Batôlômêô Tông đồ


--Trầm Thiên Thu

Trong Tân ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả xác định ngài với Nathanael (còn viết là Nathaniel), một đàn ông người Cana ở Galilê đã được Philipphê nói cho biết về Chúa Giêsu.

Giáo hội mừng kính Thánh Batôlômêô vào ngày 24-8 hàng năm. Ngày này là ngày các hội chợ truyền thống, như Hội chợ Batôlômêô ở Smithfield (London, Anh quốc) xuất hiện từ thời Trung Cổ, có diễn hài kịch của Ben Jonson.

Thánh Batôlômêô được liệt kê thuộc Nhóm Mười Hai trong các Phúc Âm nhất lãm (Mt 10:1-4; Mc 3:13-19; Lc 6:12-16), và ngài là một trong ba nhân chứng khi Chúa Giêsu lên trời (Cv 1:4, 12-13). Trong Ga 1:45-51, ông Nathanael được giới thiệu là bạn của ông Philipphê. Ông được mô tả là người nghi ngờ về Đấng Mêsia đến từ Nadarét khi nói: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?”, nhưng sau khi ông Philipphê nói: “Cứ đến mà xem!”, ông đã đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khen ông: “Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1:47). Khi Nathanael hỏi tại sao Chúa Giêsu biết ông, Chúa Giêsu nói: “Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1:48). Điều mặc khải lạ lùng là Nathanael tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” (Ga 1:49). Chúa Giêsu nói: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1:50).

Quả thật, Nathanael đã thấy những điều lớn lao hơn. Ngài là một trong các tông đồ được Chúa Giêsu hiện ra trên bờ biển Tibêria sau khi Ngài phục sinh (x. Ga 21:1-14). Lúc đó, họ đã đánh cá suốt đêm mà vô ích. Đến sáng, họ thấy một người đứng trên bờ nhưng không ai biết đó là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã bảo họ thả lưới, họ làm theo và đánh được rất nhiều cá. Rồi Gioan nói với Phêrô: “Chúa đó” (Ga 21:7).

Truyền thống cho biết rằng Thánh Batôlômêô đi truyền giáo ở Ấn Độ, và đã để lại đây cuốn Phúc Âm theo Thánh Matthêu. Các truyền thống khác nói ngài đi truyền giáo ở Ethiopia, Mesopotamia, Parthia và Lycaonia. Ngài tử đạo tại Albanopolis, thuộc Armenia. Truyền thống nói ngài bị chém đầu, nhưng phổ biến hơn là truyền thống nói ngài bị lột da rồi bị đóng đinh ngược. Truyền thống còn cho biết rằng ngài đã hoán cải Polymius, vua của Armenia. Chính người anh em của Polymius là Astyages đã ra lệnh xử tử Thánh Batôlômêô.

Một tu viện nổi tiếng tại Armenia là Tu viện Thánh Batôlômêô có từ thế kỷ 13, được xây dựng ngay tại nơi Thánh Batôlômêô chịu tử đạo là tỉnh Vaspurakan, thuộc Armenia (nay thuộc Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ).

Nghiên cứu của LM A.C Perumalil (Dòng Tên) và Moraes cho thấy rằng miền Bombay thuộc duyên hải Konkan, có thể đây là thành phố cổ Kalyan, là vùng hoạt động truyền giáo của Thánh Batôlômêô. Tác giả Theodorus Lector (thế kỷ 6), xác nhận rằng khoảng năm 507, Hoàng đế Anastasius đã giao hài cốt Thánh Batôlômêô cho thành phố Dura-Europos sau khi được tái phát hiện.

Năm 803, hài cốt ngài được đặt tại Giáo đường Thánh Batôlômêô tại Lipari, một đảo nhỏ thuộc duyên hải Sicily, do Constantinople kiểm soát. Năm 803, hài cốt ngài lại được chuyển tới Beneventum; rồi năm 980, Hoàng đế Otto II của Tòa Thánh đã chuyển hài cốt ngài tới Rôma, lưu giữ tại Giáo đường San Bartolomeo all’Isola. Một phần sọ của Thánh Batôlômêô được chuyển tới Giáo đường Frankfurt, còn một cánh tay của ngài được tôn kính tại Giáo đường Canterbury ngày nay.

Có nhiều phép lạ của Thánh Batôlômêô đã xảy ra trước và sau khi ngài chết, hai phép lạ nổi tiếng xảy ra cho dân thành phố nhỏ tại đảo Lipari.

Theo truyền thống, dân đảo Lipari rước tượng ngài bằng vàng và bằng bạc từ Giáo đường Thánh Batôlômêô đi khắp thành phố. Một lần nọ, khi đưa tượng ngài từ trên đồi xuống thành phố, bỗng dưng tượng ngài trở nên nặng trĩu, không thể đưa đi nơi khác, người ta cố đưa tượng đi nhưng tượng càng nặng hơn, thế là người ta phải đặt tượng ngài tại đó. Hồi thế chiến II, chế độ Phát-xít (Đức/Ý) tìm cách quản lý các hoạt động. Lệnh truyền phải đưa tượng Thánh Batôlômêô đi chỗ khác, tượng lại trở nên nặng hơn. Người ta đành “bó tay”!

Lạy Thánh Batôlômêô, xin cầu thay nguyện giúp. Amen.

---------------------------------

 

Suy niệm 24. Nơi ông không có gì gian dối


--Lm Micae Võ Thành Nhân

Với hình ảnh ông Nathanaen (chính là thánh Batôlômêô tông đồ mà Hội Thánh mừng kính hôm nay) đang ở dưới cây vả mà Chúa nói đến trong bài Tin Mừng đây, đã cho chúng ta thấy ngài là một con người có chữ nghĩa, có học thức, có khả năng, có am hiểu kinh thánh. Khi thánh Philípphê giới thiệu Chúa cho ngài: “Đấng đã được Môsê ghi trong luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: Đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nazarét” (Ga 1, 45). Ngái đáp: “Bởi Nazarét có chi hay?” (Ga 1, 46). Và ngài đã đáp lại được như thế là rất đúng trong Kinh Thánh thời bây giờ mà ngài cũng đã từng học hỏi, từng sưu tầm, từng nghiên cứu. Tuy nhiên, trong sách Thánh là như thế, nhưng với thực tế thì khác, và thánh Philípphê nói: “Hãy đến mà xem” (Ga 1, 46). Để rồi thánh nhân đã dẫn ngài đến gặp Chúa, thực tế của cuộc sống nhân gian là ở nơi có Chúa đang hiện diện đây.

Khi gặp Chúa, ngài đã hoàn toàn được Chúa chinh phục bởi câu nói của Chúa: “Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối” (Ga 1, 47). Ngài đã tin Chúa và tuyên xưng đức tin của ngài: “Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel” (Ga 1, 49). Sau khi nói lên đức tin của ngài, ngài còn ngỡ ngàng hơn nữa khi nghe Chúa nói: “Thật Ta bảo thật các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần của Chúa lên xuống trên Con Người” (Ga 1, 51). Ngài đã hoàn toàn được chinh phục bởi quyền năng và tình yêu của Chúa.

Quả thật, ngài khao khát tìm Chúa, ngài dùng tri thức để đi tìm Chúa nơi sách vở, nơi chữ viết, nơi văn bản, nơi giấy tờ, và rồi được thánh Philipphê giới thiệu Chúa, ngài có một chút xíu hoài nghi, bởi vì cái tri thức của ngài về Chúa còn lý thuyết, còn phụ thuộc vào chữ nghĩa quá lớn, nhưng rồi khi gặp Chúa trong thực tế, ngài cảm nhận và tin Chúa là Con Thiên Chúa, là vua Israel, là Thiên Chúa quyền năng và đầy lòng nhân hậu, xót thương, là chiếc thang nối trời với đất, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.

Ngài đi đến gặp Chúa, nhưng thực ra Chúa đã thấy, đã lôi kéo và đã thúc đẩy ngài trước: “Trước khi Philípphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi” (Ga 1, 48). Chính Chúa đã chọn gọi ngài và dẫn đưa ngài đến gặp một vị Thiên Chúa thật trong cuộc sống chứ không trên lý thuyết nữa. Qua cuộc gặp Chúa này, ngài đã thỏa mãn niềm khao khát Chúa và đã bỏ mọi sự để theo Chúa, trở thành tông đồ của Chúa. Phút gặp gỡ của ngài với Chúa ban đầu đầy lưu luyến ấy, đã khắc ghi vào con tim của ngài một dấu ấn linh thiêng không thể phai mờ theo thời gian năm tháng biến động, đổi thay, dù sau này có rất nhiều khó khăn trong cuộc sống tông đồ, cuộc sống chứng tá đức tin…ngài vẫn một mực trung thành với Chúa để rồi ngài được phúc vị tử đạo vì Chúa, vì đức tin, vì tình yêu.

Lạy Chúa, chúng con tin Chúa, chúng con biết Chúa, nhưng trong thực tế chúng con chưa sống những điều chúng con đã tin, đã biết về Chúa. Xin Chúa qua lời bầu cử của thánh Batôlômêô tông đồ hôm nay, cho chúng con biết sống những điều Chúa dạy, đó là chúng con yêu Chúa thì chúng con phải đi lễ, phải rước Chúa, phải đọc kinh cầu nguyện thờ phượng Chúa hàng ngày, phải xa lánh các tội lỗi.., chúng con yêu người thì chúng con con biết sống hòa thuận, tha thứ, giúp đỡ, chia sẻ cho mọi người, nhất là những người nghèo đói, bệnh tật…đặc biệt là giúp nhau nên thánh như ý Chúa muốn. Amen.

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây