Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày được xếp gọn trong Tuần 21-2023 Thường Niên

Thứ bảy - 31/08/2024 00:29
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày được xếp gọn trong Tuần 21-2023 Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày được xếp gọn trong Tuần 21-2023 Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
được xếp gọn trong Tuần 21-2023 Thường Niên
---------------------------------
Thứ 2: 3
Lời Chúa: Mt 23, 13-22. 4
Suy niệm 1: Đạo đức giả. 4
Suy niệm 2: Lãnh đạo sáng suốt 6
Suy niệm 3: Kết Án Tội Mù Quáng. 7
Suy niệm 4: Lắng Nghe Tiếng Nói Của Lương Tri 8
Suy niệm 5: Khốn cho kẻ giả hình. 9
Suy niệm 6: Lời rao giảng phải đi đôi với hành động. 10
Suy niệm 7: Đạo đức giả hình. 11
Suy niệm 8: Chúa khiển trách các luật sĩ và biệt phái 12
Suy niệm 9: Khiển trách luật sĩ và biệt phái 14
Suy niệm 10: Cáo trạng kinh khủng trong Tân Ước. 16

Thứ 3: 21/2023 Th. Gioan B. Bị xử trảm... 19
Lời Chúa: Mc 6, 17-29. 19
Suy Niệm 1.Đầu Gioan Tẩy giả. 20
Suy Niệm 2.Can đảm làm chứng cho sự thật 22
Suy Niệm 3.Bị bách hại vì sự công chính. 23
Suy Niệm 4.Cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả. 24
Suy Niệm 5.Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết 25
Suy Niệm 6.Nói lên sự thật 27
Suy Niệm 7.“Ông Gioan là người công chính thánh thiện”. 30
Suy Niệm 8.Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết 32
Suy Niệm 9.Cái chết của một tiên tri 33
Suy Niệm 10.Vị Thánh Can Đảm Và Cương Quyết 34
Suy Niệm 11.Lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết 36
Suy Niệm 12.Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết 37
Suy Niệm 13.Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết 39
Suy Niệm 14.Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết 41
Suy Niệm 15.Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết 43
Suy Niệm 16.Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết 44
Suy Niệm 17.Sự bất tử của thánh nhân. 46
Suy Niệm 18.Tấn tuồng của con người 47
Suy Niệm 19.Số phận của ngôn sứ. 48
Suy Niệm 20.Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết 50
Suy Niệm 21.Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Trảm Quyết 53
Suy Niệm 22.Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Trảm Quyết 56
Suy Niệm 23.Thánh Gioan tiền hô bị trảm quyết 59
Suy Niệm 24.Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Trảm Quyết: Những Chọn Lựa. 60
Suy Niệm 25.Cái chết của Gio-an Tẩy Giả. 61
Suy Niệm 26.Sống vì yêu; chết vì chân lý. 62
Suy Niệm 27.Không im lặng trước tội lỗi và bất công. 62
Suy Niệm 28.Lương tâm chân chính. 63
Suy Niệm 29.Hãy sống trong sự thật 64
Suy Niệm 30.Sống cho chân lý và sự thật 66
Suy Niệm 31.Phúc thay người “chịu khốn nạn vì đạo ngay”. 67
Suy Niệm 32.Lễ thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết 68

Thứ 4: 69
Lời Chúa: Mt 23, 27-32. 69
Suy niệm 1: Có vẻ công chính. 69
Suy niệm 2: Mồ mả tô vôi 71
Suy niệm 3: Kết án tội giả hình. 72
Suy niệm 4: Xét lại đời sống mình. 73
Suy niệm 5: Mồ mả quét vôi 74
Suy niệm 6: Đừng giả dối 75
Suy niệm 7: Chân thành phê phán, nhận thức và cuộc sống. 76
Suy niệm 8: Đạo đức giả hình. 77
Suy niệm 9: Chúa vẫn than trách luật sĩ và biệt phái 78
Suy niệm 10: Đừng trang điểm giá trị giả dối 81
Suy niệm 11: Tránh sống đạo hình thức, giả hình. 82

Thứ 5: 84
Lời Chúa: Mt 24, 42-51. 85
Suy niệm 1: Hãy sẵn sàn. 85
Suy niệm 2: Trung tín và khôn ngoan. 87
Suy niệm 3: Tỉnh thức chờ Chúa. 88
Suy niệm 4: Người quản lý trung tín. 89
Suy niệm 5: Khi nào chủ về?. 90
Suy niệm 6: Tỉnh thức và sẵn sàng. 91
Suy niệm 7: Sẵn sàng canh thức chờ đón Chúa. 92
Suy niệm 8: Ngày nào cũng là ngày trông đợi và sẵn sàng. 93
Suy niệm 9: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. 94
Suy niệm 10: Thời cánh chung. 97
Suy niệm 11: Quyền bính thiết yếu là để phục vụ. 98

Thứ 6: 100
Lời Chúa: Mt 25, 1-13. 100
Suy niệm 1: Vừa mang đèn, vừa mang dầu. 100
Suy niệm 2: Dầu đèn và cơ hội 102
Suy niệm 3: Tích cực sống đức tin. 103
Suy niệm 4: Ánh lửa huy hoàng. 104
Suy niệm 5: Nhìn xa trông rõ. 105
Suy niệm 6: Sẵn sàng đón đợi Chúa. 106
Suy niệm 7: Dự tiệc cưới Nước Trời 107
Suy niệm 8: Hãy nuôi trong lòng ý nghĩ yêu thương, tinh thần sẻ chia. 108
Suy niệm 9: Dụ ngôn mười cô trinh nữ. 110
Suy niệm 10: Sẵn sàng như đèn đầy dầu. 112
Suy niệm 11: Tỉnh thức đón chờ Đức Kitô. 114

Thứ 7: 116
Lời Chúa: Mt 25, 14-30. 117
Suy niệm 1: Vào mà hưởng niềm vui 117
Suy niệm 2: Tự hào trong Chúa. 119
Suy niệm 3: Trách nhiệm của các bậc cha mẹ. 120
Suy niệm 4: Cộng tác với ơn Chúa (Mt 25,14-30) 121
Suy niệm 5: Sau một thời gian. 122
Suy niệm 6: Hãy sinh lời thêm.. 123
Suy niệm 7: Sức khoẻ, thời giờ, tài năng, các ơn Chúa ban, là những nén vàng Chúa trao. 124
Suy niệm 8: Dụ ngôn nén bạc. 125
Suy niệm 9: Cách thế mỗi người xử dụng những nén bạc Chúa trao. 127
Suy niệm 10: Nén bạc Chúa trao phải sinh lời 129

----------------------------------
 

Thứ 2:


------------------------------------------
Khốn cho các ngươi, …

28/08 –Thánh Âu-tinh, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.

"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù".

* Thánh nhân sinh năm 354 tại Ta-gát, châu Phi. Người đã trải qua giai đoạn thanh xuân đầy náo động cả về đạo lý lẫn cách sống cho tới khi được thánh Am-rô-xi-ô thanh tẩy cho năm 387. Người trở về quê hương và sống một cuộc đời khắc khổ. Rồi người được chọn làm giám mục giáo phận Híp-pôn. Trong suốt ba mươi bốn năm làm giám mục, người đã tận tụy chăm sóc đoàn chiên. Nhưng đáng kể nhất là tư tưởng và chứng tá đời sống của người đã lan tỏa. Người đã sống một cuộc đời hoàn toàn lo tìm kiếm Thiên Chúa và phục vụ Hội Thánh. Đối với người, Hội Thánh là cộng đoàn tín hữu Híp-pôn và đồng thời cũng là Thân Thể Chúa Kitô trải rộng khắp thế giới. Người qua đời năm 430.

----------------------------------

 

Lời Chúa: Mt 23, 13-22


Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?
"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề".

----------------------------------

 

Suy niệm 1: Đạo đức giả


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói đến Các Mối Phúc.
Ngài chúc mừng những ai thuộc về Nước Trời bằng các lời Phúc cho.
Còn trong chương 23 của Tin Mừng Mátthêu,
Đức Giêsu lại 7 lần dùng lối nói Khốn cho,
khi nói với giới lãnh đạo Do Thái giáo là các kinh sư và nhóm Pharisêu.
Đức Giêsu không phải là người đầu tiên dùng lối nói khó chịu này.
Các ngôn sứ thời xưa như Amốt hay Isaia (Am 6, 1; Is 5, 8-24)
cũng đã lắm khi dùng lối nói này để tố cáo những người quyền thế.
Mục đích của các ngôn sứ là vạch trần những sai phạm của họ,
và cảnh báo cho mọi người biết mà tránh xa.
Đức Giêsu đã nói như một vị ngôn sứ.
Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai,
cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!”
Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21).
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24).
Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa,
hay kết án anh phải đời đời hư mất.
Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ.
Vào thời thánh Mátthêu viết sách Tin Mừng, từ sau năm 70,
có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái
với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó.
Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực
không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh.
Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22).
Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13).
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo.
Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa.
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này
có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15).
Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề.
Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ,
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20),
thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).
Tất cả lời thề đều phải được giữ như nhau, đều ràng buộc như nhau.
Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo
vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay.
Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa,
chứ không khép lại hay gây cản trở?
Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời?
Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?
Những lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại mình và thay đổi.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
 
----------------------------------

 

Suy niệm 2: Lãnh đạo sáng suốt


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Vận mệnh một cộng đoàn tùy thuộc rất nhiều vào lãnh đạo. Lãnh đạo sáng suốt sẽ giúp cộng đoàn phát triển. Lãnh đạo sai lầm sẽ tàn phá cộng đoàn nhanh chóng. Chúa Giêsu chê trách người Pha-ri-sêu vì họ đưa dân vào chỗ sai lạc, chết chóc.

Họ sai lạc vì giữ tín đồ lại cho mình, chứ không dẫn đưa kẻ tin đến với Chúa. Tự giam hãm, trói buộc mình trong những mớ luật lệ tỉ mỉ, phức tạp làm thui chột sức sống, họ không chịu vào Nước Trời mà còn ngăn cản không cho người khác vào.

Họ sai lạc vì dẫn đưa người khác đến chỗ chết, xô đẩy họ vào hỏa ngục khi loan truyền một thứ đạo không mến Chúa, cũng chẳng yêu người.

Họ sai lạc quá xa khi đưa ra một thứ đạo dừng lại ở vật chất, hình thức bên ngoài. Thề thốt và tin rằng những vật chất quí giá là vàng bạc và lễ vật có thể chứng giám lời thề. Nhưng không đặt mình trước mặt Chúa, thiếu đức tin vào Chúa. Đạo không có Chúa chỉ là trống rỗng. Thờ phượng chỉ dừng lại ở vật chất và lễ nghi chỉ là lừa bịp. Sống đạo chỉ vụ lề luật là một thứ vong thân, tha hóa khiến ta thành nô lệ.

Thánh Phao-lô tỏ ra là người dẫn đường sáng suốt khi không biến mình thành ngẫu tượng. Tuy được dân đón nhận, tin yêu, thánh nhân không bắt họ dừng lại nơi mình, nhưng đã dẫn họ đến với Chúa. Ngài biết rằng tín hữu có niềm tin không phải nhờ tiếng nói của ngài nhưng “còn có quyền năng của Thánh Thần” (năm lẻ).

Ngài khen ngợi dân thành Thessalonica vì họ đã biết “từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với thiên Chúa để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật”. Hơn nữa họ đã vượt qua những khó khăn thử thách mà vẫn vững tin vào Chúa, vẫn yêu mến Chúa và nhất là vẫn trông cậy, chờ đợi Chúa Giêsu Kito, Đấng Cứu Độ ngự đến.

Ngài mặc khải cho họ biết đạo Chúa là đạo tình yêu. Ngài chúc mừng tín hữu Thessalonica vì họ “là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em”. Vì thế đạo không phải là một khái niệm trừu tượng hay một mớ luật lệ vô hồn. Vì trong đạo họ được sống trong tự do, được gặp gỡ Thiên Chúa sống đọng trong một tương quan liên chủ thể.

Với người lãnh đạo sáng suốt, dân Chúa được dẫn đưa trên đường ngay nẻo chính, được gặp Chúa. Và được sống. “Như thế, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người” (năm chẵn).

----------------------------------

 

Suy niệm 3: Kết Án Tội Mù Quáng


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Toàn chương 23 Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại những lời kết án của Chúa Giêsu đối với các Luật sĩ và Biệt phái. Nhưng trước khi công bố 7 lời kết án đó, tác giả Mátthêu ghi lại nhận định chung của Chúa Giêsu (c.1-12). Chúa Giêsu, Ngài đề ra luật sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài, Ngài là vị thầy duy nhất thay thế Môsê và các vị thầy nhân loại khác, Ngài muốn cho các môn đệ đừng rơi vào thái độ của những Luật sĩ và Biệt phái: mù quáng, giả hình, vụ hình thức, chú trọng đến cái phụ thuộc mà bỏ quên giáo lý làm linh hồn cho những hình thức bên ngoài.

Ba lời lên án của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cùng một điểm chung là sự mù quáng. Vì mù quáng, các Luật sĩ và Biệt phái chẳng những không được vào Nước Trời, mà còn cản trở những ai muốn vào đó; vì mù quáng, họ chỉ muốn khoe khoang lòng nhiệt thành tông đồ của họ, chứ không thực sự nhằm đến ơn cứu rỗi của những người họ muốn đưa về cùng Chúa; vì mù quáng, họ thay đổi luật Chúa theo ý riêng để có lợi cho cá nhân, chứ không thực sự màng đến luật Chúa.

Ðó là ba lời kết án của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã tự ví mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm chiên lạc, như thầy thuốc cần cho bệnh nhân, như một Vị Thiên Chúa quyền năng sẵn sàng tha thứ và giải phóng con người tội lỗi. Thế nhưng, Ngài đã không sợ đưa ra những lời kết án mạnh mẽ, thẳng thắn: "Khốn cho các ngươi", không phải vì Ngài không còn lòng nhân từ và tha thứ, nhưng vì sự cứng lòng chai đá của con người đã đến mức tột cùng; không hoán cải khỏi thái độ giả hình, mù quáng, lạm dụng tôn giáo, con người không thể hưởng được tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa.

Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta khỏi thái độ mù quáng, khép kín, tư lợi, và cho chúng ta biết sống khiêm tốn, chân thành trước mặt Chúa và đối với anh em, để chúng ta xứng đáng hưởng chúc lành của Chúa.

----------------------------------

 

Suy niệm 4: Lắng Nghe Tiếng Nói Của Lương Tri


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Những lời "khốn cho các ngươi" được lập lại nhiều lần tương ứng với những điều chướng tai gai mắt cũng là những tội của các kinh sư và biệt phái. Họ đã cố tình làm những điều phi lý, khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, nuốt hết tài sản của các bà góa, rảo khắp các biển cả đất liền rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ theo rồi thì lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục hơn. Chúa Giêsu đã gọi các kinh sư và biệt phái là những người sống mù quáng. Ðiều đáng nói ở đây là các kinh sư và biệt phái cố tình chia lìa trong lỗi lầm của mình, họ thích danh vọng và chạy theo những bả vinh hoa, vì vậy họ cố gắng tìm mọi cách để đạt đến nó bằng bất cứ cách nào. Có thể nói đây là những người chủ trương lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Cứu cánh của họ đã không công minh, chính trực và phương tiện lại còn đê hèn hơn, nên họ đã lợi dụng những dân đen, là những người thấp cổ bé họng, không có khả năng tự bảo vệ mình.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của lương tri, là lời của Chúa muốn dạy chúng ta cách cụ thể trong từng trường hợp của đời sống ta.

Lạy Chúa,

Xin Chúa ban cho mỗi chúng con luôn biết xa tránh những điều xấu xa và tìm đến nguồn mạch ân sủng là Lời Chúa, nhờ đó lương tâm của chúng con mãi trong sáng để rọi lên hình ảnh sống động của Chúa và thánh ý Ngài trong mỗi giây phút của cuộc sống chúng con.

 ----------------------------------

 

Suy niệm 5: Khốn cho kẻ giả hình.


Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, những kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào.” (Mt. 23, 13)

Nếu có ai hỏi sao một người hiền lành, dịu ngọt nhất như Đức Giêsu lại có những lời như xẻ cưa, lửa đốt như vậy trong Tin Mừng của Người khi Người khiển trách những kẻ giả hình và những kẻ làm gương mù? Vì lợi ích tương lai của công trình Người, Người phải lột mặt nạ tập đoàn kinh sư lợi dụng quyền thế tách rời Người ra khỏi những người thường dân bé nhỏ. Hôm nay, Người nói rõ sự thật về họ một cách trịnh trọng:

Những kẻ giả hình xưa:

Tiếng kêu: “Khốn cho” kẻ giả hình, họ giả hình vì chỉ thực hành những nghi thức tôn giáo hoàn toàn hình thức bên ngoài, khác xa với lòng đạo đức chân thực sống động bên trong con người. Kẻ giả hình luôn lợi dụng việc thờ phượng Thiên Chúa hằng sống để thượng tôn pháp luật và nghi lễ bên ngoài một cách xảo quyệt. Chính ra việc phụng sự Thiên Chúa phải thành thực và sống động bởi lòng yêu mến chân chính.

Những lời khiển trách của Chúa còn tới chúng ta ngày nay không?

Kẻ giả hình ngày nay.

Chúng ta có là kẻ giả hình không? Không nên khóc thương những kẻ giả hình khốn khổ xưa, cũng không xét đoán ai. Nhưng chính mình chúng ta có sống chân thật không? Trong đời sống chúng ta? trong lúc hành đạo? có thể chúng ta có nhiều thái độ giả hình được biện minh nhân danh phục vụ, cần cho hợp thời dựa vào sự đổi mới của Công đồng Va-ti-can 2 hay liệng bỏ lời Giáo Hội là Thầy dạy.

Chúng ta giầu và phong phú lắm. Phải, đúng là chúng ta rất phong phú về lễ nghi. Nhưng chúng ta có biết tự hạ mình xuống giúp những kẻ không có gì chăng? có lẽ chúng ta cầu nguyện nhiều, nhưng có vừa đủ để cho người khác cầu nguyện không? và có khi họ cầu nguyện còn thành thực hơn chúng ta nhiều.

CG

 ----------------------------------

 

Suy niệm 6: Lời rao giảng phải đi đôi với hành động


Mahatma Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, ông đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân.

Lúc còn là sinh viên, ông say mê đọc Kinh Thánh và có ý định gia nhập đạo Công Giáo vì ông thấy giáo lý của Đức Giêsu về “đạo yêu thương” quá tuyệt vời! Nhưng vào một lần, ông đi đến nhà thờ của người da trắng để dự lễ, ngay lập tức, ông bị ngăn lại và được mời đến nhà thờ của người da đen, vì nơi đây không phải là nhà thờ của người da đen. Mahatma Gandhi ra về trong thất vọng. Kể từ đó, ông không bao giờ đến nhà thờ và quyết liệt từ bỏ ý định trở thành người Công Giáo vì hành động phản yêu thương của những người da trắng.

Thật vậy, trong xã hội ngày nay, vẫn còn đó những hình ảnh, cử chỉ của người Công Giáo như những người da trắng trong câu chuyện trên. Họ là những người giả hình “hạng ưu”!

Tại sao vậy? Thưa! Ấy là lúc chúng ta nói những lời tốt đẹp, khuyên người ta ăn ngay ở lành. Nào là: phải bao dung, tha thứ; phải nâng đỡ những cô nhi quả phụ; phải đứng về phía người nghèo; phải khước từ bóc lột, áp bức... Những lời khuyên như vậy rất “kêu”, rất “trội” và rất “thánh”...

Tuy nhiên, khi chính bản thân phải đối diện thì hẳn chúng ta lại là những người “sụt hố” đầu tiên chỉ vì một điều đơn giản là: “Nói mà không làm. Hăng say chất những gánh nặng lên vai người khác, nhưng chính mình thì lại không buồn động ngón tay vào”. Tệ hơn nữa lại tìm cơ hội để trả thù nhân danh đạo đức, lề luật...!

Những lúc như thế, chúng ta đâu có khác gì những Kinh Sư và Pharisêu mà trong bài Tin Mừng hôm nay đã bị Đức Giêsu vạch trần tội ác của họ?

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở nên chứng nhân cho Chúa qua hành động tốt của mình. Nói cách khác, muốn dạy người khác điều gì, chính chúng ta phải là những người đã sống và cảm nghiệm trước khi khuyên bảo người khác. Làm tất cả vì vinh danh Chúa, chứ không phải lấy Chúa làm “bình phong” để “tô son chát phấn” nhằm đề cao danh dự, tiếng tăm cho bản thân mình.

Có thế, chúng ta mới là người mang trong mình và giới thiệu một vị Thiên Chúa là Cha yêu thương. Một Vị Thiên Chúa được hiện tại hóa qua đời sống chứng nhân và lời rao giảng cũng như cảm nghiệm của chính chúng ta. Nếu không thì mọi việc chúng ta làm chỉ là hành vi của kẻ “phá hoại” sứ điệp “yêu thương” của Thiên Chúa mà thôi. Và nguy hiểm hơn nữa là “mù dắt mù cả hai cùng xuống hố”. Tyu nhiên, để làm được điều đó không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, rất cần lời cầu nguyện và ơn Chúa trợ giúp.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trở nên những người loan báo Lời Chúa bằng chính đời sống của mình. Amen.

Ngọc Biển SSP

 ----------------------------------

 

Suy niệm 7: Đạo đức giả hình


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa Giêsu nghiêm khắc chỉ trích thái độ giả hình của nhóm kinh sư và biệt phái, họ sống đạo hình thức mà quên đi cái cốt lõi của đạo: lòng mến Chúa chân thật và yêu thương con người.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã than trách nhóm kinh sư và biệt phái giả hình. Ngày hôm nay, con tự nghĩ Chúa cũng đang than trách chính con, vì con cũng có những tật xấu như họ. Thật vậy, con vẫn thường khắt khe đòi buộc người khác phải tuân giữ luật Chúa, còn con tự cho mình được miễn trừ. Con dạy người ta phải sống Tin Mừng, đang khi cuộc sống của con đầy dẫy những gương xấu. Con hăng hái làm các việc tông đồ, nhưng các việc làm của con nhằm vinh danh cho chính con hơn là cho Chúa. Con không để cho Chúa Thánh Thần soi sáng khi suy gẫm Lời Chúa, mà lại tùy tiện giải thích theo ý riêng con và có lợi cho con. Lạy Chúa, xin thương tha thứ cho con.

Xin cho con biết thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý, đừng để con rơi vào một thứ đạo hình thức và giả dối. Xin cho lời nói của con luôn đi đôi với việc làm, để những gì con muốn người khác làm cho con, con cũng làm cho họ như vậy. Xin cho ngọn lửa nhiệt thành nhà Chúa thôi thúc con để con hăng say dấn thân làm tông đồ cho Chúa và chỉ nhằm vinh danh Chúa mà thôi.

Và xin Thánh Thần Chúa thanh lọc khỏi con người con những ích kỷ, giả dối, kiêu căng và tham lam, để đời sống đạo của con theo tinh thần phúc âm, sẽ trở nên dấu chỉ cho mọi người nhận biết Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù”.

----------------------------------

 

Suy niệm 8: Chúa khiển trách các luật sĩ và biệt phái


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Bài Tin Mừng hôm nay nghe thật nặng nề, vì lời lẽ Chúa Giêsu nặng lời lên án những người thuộc nhóm biệt phái sống giả hình. Thế nhưng, suy rộng ra, cách sống của họ không là cá biệt mà nó phản ánh chính cuộc sống của không ít chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng nhìn lại và suy gẫm về chính cuộc đời mỗi chúng ta lần lượt qua từng câu trong đoạn Tin Mừng hôm nay.

2. Hôm nay chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã mạnh mẽ lên án những tội của luật sĩ và biệt phái: giải thích lề luật một cách tỉ mỉ khiến không ai có thể giữ được; chất gánh nặng trên vai người khác, mà chính mình không muốn giơ ngón tay lay thử; làm bộ đọc kinh cho nhiều, nhưng lại toan tính nuốt cả tài sản người khác; tìm hư danh ngay cả trong việc truyền đạo; cắt nghĩa lời thề bằng những giải thích hoàn toàn có lợi cho mình, nhưng đó chỉ là cách giải thích tùy tiện theo ý loài người, chứ không tuân giữ lời Chúa.

3. Ta có thể nhận thấy Chúa Giêsu lên án 5 cung cách đạo đức giả nơi người luật sĩ như sau: một là không muốn ai tiếp cận chân lý (c.13); hai là biến các tân tòng thành con cái hỏa ngục, qui về mình hơn là về Chúa (c.15); ba là an tâm tự tại với một số đồ dâng cúng mà bỏ qua những điều cần phải tuân giữ cho đẹp lòng Chúa (cc 16-19); bốn là nộp mọi thứ thuế, nhưng lại bỏ qua những điều quan trọng hơn là công lý, lòng nhân lành và thành tín (cc.23-24); năm là chú trọng nghi thức thanh tẩy bên ngoài, mà bên trong đầy chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ (cc.25-26).

Sở dĩ các luật sĩ có những cung cách đạo đức giả đáng ghét này vì họ muốn trục lợi vật chất, thích phô trương thanh thế, tôn thờ mình thay vì thật sự thờ phượng Chúa. Họ biết thế, nhưng họ không muốn làm theo điều mình lẽ ra phải làm, mà vẫn khư khư ôm chặt cái lợi về mình nên bị Chúa quở trách là giả hình, giả hiệu (5 phút Lời Chúa).

4. Các nhà sinh vật học đã tìm ra một loài bướm có đôi cánh rất lạ. Khi chúng bay, cánh có mầu sắc rất sặc sỡ, nhưng khi chúng đậu, cánh lại có mầu giống như chiếc lá khô. Nhờ sự thay đổi mầu sắc ấy, loài bướm này dễ dàng đánh lừa kẻ thù và ít bị tấn công.

Trong thế giới tự nhiên có những loài vật biết ngụy trang và thay đổi bề ngoài để đánh lừa loài khác. Trong thế giới con người, cũng có những kẻ giả hình để lừa gạt người khác như vậy.

Đức Giêsu lên án gay gắt những kẻ giả hình. Họ là những người đứng đầu, lãnh đạo và đại diện cho dân, nhưng lại bị Ngài lên án vì lối sống giả tạo của họ. Sau lời chúc dữ, Đức Giêsu vạch trần lối sống giả hình của họ. Qua đó, Ngài muốn thức tỉnh họ, cũng như chúng ta hôm nay, hãy biết thay đổi mà sống chân thật với mình, và với Chúa (Học viện Đa Minh).

5. Nói chung, các luật sĩ và biệt phái kiêu căng, háo danh, giả hình, ưa chuộng hình thức bên ngoài mà tâm hỗn rỗng tuếch, nói và làm không đi đôi với nhau, như tục ngữ Việt nam nói: “Khẩu phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”  để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh đạo đức tốt lành bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

6. Chúng ta hãy sống với Chúa như con đối với cha, đừng quá chú trọng đến lề luật. Mỗi khi làm một điều gì, câu hỏi trước tiên của chúng ta phải là: “Tôi làm như thế có đẹp lòng Chúa không”?, chứ không phải là “Tôi làm như thế có đúng luật không”? Luật lệ chỉ là thước giữ cho con người khỏi đi quá trớn, chứ không phải để đo mức thánh thiện đạo đức của con người.

Xin Chúa cho chúng ta biết sống chân thành với Chúa, với tha nhân, với chính bản thân, để cuộc sống chúng ta thực sự phản ánh tình yêu Chúa qua những hành vi yêu thương phục vụ của chúng ta.

7. Truyện: Nhà tu hành bất đắc dĩ.

Trong kho tàng truyện cổ của Ấn độ, có câu chuyện này: Một nhà phú hộ kia có một hồ cá rất lớn. Ông cho thả rất nhiều cá ở đó. Một đêm kia có một tên ngư phủ nghèo lén vào trong hồ cá của ông để thả lưới tính bắt trộm cá. Thế nhưng, chưa kịp kéo lưới thì người giầu đã phát hiện ra có người đang tính bắt trộm cá của ông. Ông cho gia nhân của ông bổ đi khắp nơi, quanh cái hồ mênh mông của mình để tìm cho bằng được tên trộm.

Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả.

Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó, y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.

Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm đâu mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình suy tư và cầu nguyện.

Chỉ một ngày hôm sau, tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng, có  một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.

Thế là thiện nam tín nữ từ các ngả đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp đổ tràn lan chung quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.

Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.

Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây cũng có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng tự sơn vẽ cho mình một chiếc áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình.

----------------------------------

 

Suy niệm 9: Khiển trách luật sĩ và biệt phái


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Tin Mừng của 3 ngày liên tiếp (hôm nay, thứ ba và thứ tư) ghi 7 lời khiển trách nặng nề của Chúa Giêsu nhắm vào giới luật sĩ và biệt phái vì thói giả hình của họ. Đoạn hôm nay gồm 3 lời:

1. Khóa cửa Nước Trời (c13)

- “Các ngươi khóa cửa Nước Trời… Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng không cho vào”: các kinh sư và pharisêu là những người hiểu luật và giải thích luật nên thực sự họ là những người nắm giữ chìa khóa “Nước Trời”. “Nước Trời” ở đây có thể hiểu theo 2 nghĩa: a/ Đó là Giáo Hội thập niên 80: nhiều người do thái muốn gia nhập Giáo Hội nhưng bị các kinh sư và pharisêu ngăn cấm; b/ đó là Giáo Hội cách chung: những luật lệ do các kinh sư và pharisêu đặt ra quá khắt khe tỉ mỉ làm cho người ta khó mà giữ nổi nên không thể vào Giáo Hội (CGKPV). Chính họ không muốn vào Giáo Hội, còn những người khác muốn vào thì họ cũng ngăn cản không cho.

2. Làm hại việc Truyền giáo (c 15)

- “Khốn… Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các ngươi”: những người do thái, đặc biệt là các kinh sư và pharisêu, rất nhiệt thành truyền giáo. Nhưng họ không đưa người tân tòng đến với Thiên Chúa mà lại đưa vào não trạng hẹp hòi và lối sống hình thức của họ.

3. Dẫn đường mù quáng (cc 16-22)

- “Khốn… những kẻ dẫn đường mù quáng…”: Những người do thái lo cho đám dân ngoại trở lại tự cho mình là “kẻ hướng dẫn những người mù” (x. Rm 2,19). Chúa Giêsu nói chính họ cũng mù không kém gì những người ngoại mới trở lại ấy. Họ là những người mù dắt người mù! Để lấy một bằng chứng về sự dẫn đường mù quáng, Chúa Giêsu đề cập đến các lời khấn hứa có kèm theo lời thề.  Những kẻ hướng dẫn ấy bám lấy những lời thề. Mà những thứ lời thề này đã bị bài giảng trên núi bác bỏ (x. 5,33-37). Hơn nữa, do bị thúc đẩy bởi lợi nhuận của hệ thống kinh tài Đền thờ, họ lại đưa ra nhiều cách giải thích theo ý muốn của họ. Vì thế chuyện thực hiện và giữ những lời khấn hứa trở thành một thứ đạo đức giả. Chính những người dẫn đường mà đã đi lạc như tế thì những kẻ được họ hướng dẫn cũng sẽ lạc theo.

B.... nẩy mầm.

1. Khóa cửa Nước Trời: Luật của Chúa Giêsu thì êm ái và nhẹ nhàng vì cốt lõi là tình thương. Thế nhưng nếu kẻ có quyền mà không có tình thương khi áp dụng luật thì thay vì luật dẫn người ta đến gần Chúa, lại đẩy người ta xa Chúa.

Ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo trong Giáo Hội và trong cộng đoàn chúng ta…

2. Truyền giáo là một việc khó, nhưng giữ những người tòng giáo trong nhiệt tình theo Chúa là việc khó hơn nhiều. Nhiều người lương hăng hái theo đạo vì thấy đạo dạy bác ái yêu thương. Nhiều người gia nhập cộng đoàn vì nghĩ cộng đoàn có tình yêu thương huynh đệ. Nhưng khi đã vào Giáo Hội hoặc cộng đoàn rồi, nhiều người ê chề thất vọng vì thấy thực tế ngược hẳn những điều họ đã nghe “quảng cáo”.

3.  Dẫn đường mù quáng: con đường chính của Đạo là mến Chúa yêu người. Thế nhưng nhiều người không lưu ý tới điều đó mà chỉ chăm chú vào những nố tỉ mỉ của luật. Chẳng hạn khi ăn chay kiêng thịt thì món nào được ăn, món nào không được; trước giờ dự lễ, lỡ uống nước trà có được rước lễ không v.v. Nhiều người khác còn giải thích đạo một cách mê tín dị đoan…

4. Sau khi li hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ

- Sao mẹ đuổi bố?

- Tại bố hư.

Để nó khỏi vặn vẹo lôi thôi, người mẹ mua cho nó cái bánh. Thằng anh từ đâu phóng tới bẻ của em một miếng bánh bỏ ngay vào mồm. Con bé khóc thét bắt đền. Người mẹ dỗ:

- Anh con hư quá. Nhưng thôi nín đi con, bỏ qua cho anh một lần đi.

Đứa bé phụng phịu:

- Thế mẹ có bỏ qua cho bố đâu?

Người mẹ nhìn xa xăm:

- … Ừ, mẹ cũng hư… (Góp nhặt)

5. “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng không để họ vào.” (Mt 23,13)

Chúa muốn con yêu mến mọi người mà không giữ lấy riêng ai... Chúa muốn con nắm chặt bàn tay thân tình mà không giật lại cho mình.

Thế mà hình như con lại toàn làm những điều ngược lại. Con có thể yêu người khác và sẵn sàng làm tất cả cho họ; thế nhưng kèm theo đó là gì?

- Là những đòi hỏi, những điều kiện mà con muốn người khác phải trả cho con xứng với cái mà con đã cho họ. Hoặc giả như có một ai khác đến và chiếm lấy chỗ đứng của con trong tâm hồn họ, thì con lại tỏ ra ganh tỵ, hiếm khích và hơn thế nữa con có thể nêu tiếng xấu cho người đã cướp đi vị trí của con.

Vâng, con là thế đó. Con thường nghe người ta nói: mình không ăn được thì nên phá đi, đừng để kẻ khác chiếm lấy. Và con cũng thế.

Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng cõi lòng vá nắm chặt bàn tay thân tình, để con được đón nhận và cho đi những gì có thể. (Hosanna)

----------------------------------

 

Suy niệm 10: Cáo trạng kinh khủng trong Tân Ước


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Đoạn văn này đưa ra một cáo trạng kinh khủng nhất trong Tân Ước. Ở đây chúng ta có thể nghe điều mà Robertson gọi là “cơn thịnh nộ sấm sét của Chúa Cứu Thế”. Và Plummer viết rằng, những lời trách mắng này “giống như những sấm sét vì tính cách nghiêm nghị của chúng giống như tia chớp phơi bày, bóc trần sự thật ra. Chúng vừa đánh xuống vừa chiếu sáng”.

1. Khóa cửa Nước Trời:

a. Luật của Chúa Giêsu thì êm ái và nhẹ nhàng vì cốt lõi là tình thương. Thế nhưng, nếu kẻ có quyền mà không có tình thương khi áp dụng luật thì, thay vì luật dẫn người ta đi đến gần Chúa, lại đẩy người ta xa Chúa hơn.

Ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo trong Giao Hội và trong cộng đoàn chúng ta.

b. Truyền giáo là một việc làm khó khăn, nhưng giữ những người tòng giáo nhiệt thành theo Chúa là một việc làm khó hơn nhiều. Nhiều người lương hăng hái theo đạo vì thấy đạo dạy bác ái yêu thương. Nhiều người gia nhập cộng đoàn vì nghĩ cộng đoàn có tình yêu thương huynh đệ. Nhưng khi đã vào Giáo Hội hay cộng đoàn rồi, nhiều người lại ê chề thất vọng vì thấy thực tế ngược hẳn lại những điều họ đã nghe “quảng cáo”.

Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà, đứa con gái hỏi mẹ:

- Sao mẹ đuổi bố?

- Tại bố hư!

Để nó khỏi vặn vẹo lôi thôi, người mẹ mua cho nó cái bánh. Thằng anh từ đâu phóng tới bẻ ngay một miếng bỏ vào mồm. Con bé khóc thét lên bắt đền. Người mẹ dỗ:

- Anh con hư quá. Nhưng thôi nín đi con, bỏ qua cho anh một lần đi.

Đứa bé phụng phịu:

- Thế mẹ có bỏ qua cho bố đâu?

Người mẹ nhìn xa xăm:

- Ừ, mẹ cũng hư. (Góp nhặt)

c. Dẫn đường mù quáng: con đường chính của đạo là mến Chúa yêu người, thế nhưng nhiều người không lưu ý đến điều đó mà chỉ chăm chú vào những chỗ tỉ mỉ của luật. Chẳng hạn khi ăn chay kiêng thịt thì phân biệt những món nào được ăn, món nào không, trước giờ dự lễ mà lỡ uống nước trà có được rước lễ không? Nhiều người khác còn giải thích đạo là một mớ các mê tín dị đoan.

2. “Khốn cho các người hỡi các luật sĩ và Pharisêu giả hình” (Mt 23, 13).

Chúa trách những người Pharisêu và luật sĩ giả hình. Hãy coi chừng kẻo chính chúng ta cũng giả hình mà chúng ta không hay!

Trong kho tàng truyện cổ của Ấn Độ, có câu chuyện này. Một nhà phú hộ kia có một hồ nuôi cá rất lớn. Ông cho thả rất nhiều cá ở đó. Một đêm kia có một tên ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của ông để thả lưới tính bắt trộm cá. Thế nhưng, chưa kịp kéo lưới lên thì người giàu đã phát hiện ra có người đang tính bắt trộm cá của ông. Ông cho gia nhân bủa đi khắp nơi, quanh cái hồ mênh mông của mình để tìm cho bằng được tên trộm.

Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả.

Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó, y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.

Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm đâu cả mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình suy tư và cầu nguyện.

Chỉ một ngày hôm sau, tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng, có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.

Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp đã tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.

Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.

Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây cũng có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta.

Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng tự sơn vẽ cho mình một chiếc áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình.

Có thể mỗi Chúa nhật tôi đều đến nhà thờ để cho bà con hàng xóm thấy rằng, tôi có giữ ngày Chúa nhật, rằng tôi là người ngoan đạo, và để lương tâm tôi cũng chuẩn nhận rằng, tôi đã giữ trọn luật Chúa và luật Giáo Hội. Nhưng tuân giữ như thế có đủ để gọi là sống đạo Chúa chưa? Nếu tôi không quan tâm đến những đòi hỏi của công bình và bác ái trong công ăn việc làm của tôi, cũng như trong quan hệ của tôi với người khác.

Lạy Chúa,

Xin Chúa cho chúng con biết khiêm nhường điều chỉnh lại lối sống của mỗi chúng con sao cho thật phù hợp với lòng mong ước của Chúa. Amen.

----------------------------------

 

Thứ 3: 21/2023 Th. Gioan B. Bị xử trảm

Thường Niên 21/2023 Th. Gioan B. Bị xử trảm, nhớ

Cái chết của một tiên tri.

29/08 – Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết. Lễ nhớ.

"Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa".
* Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị chém đầu ở Makêron, gần Biển Chết, do lệnh của vua Hêrôđê Antipa. Cái chết của người, vị Tiền Hô của Chúa Kitô, cho thấy rõ người có tâm hồn quả cảm như thế nào và người đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trọn vẹn ra sao.

Khi chết cũng như khi còn rao giảng, người đều làm chứng cho chân lý. Người quả là “ngọn đèn cháy sáng” như lời Đức Giêsu đã nói.

----------------------------------

 

Lời Chúa: Mc 6, 17-29


Khi ấy, Hêrôđê đã sai đi bắt Gioan và giam ông trong ngục: nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe.
Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muốn gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho".
Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gio-an Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.
Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.

----------------------------------

 

Suy Niệm 1.Đầu Gioan Tẩy giả


--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy niệm:

Ngày sinh nhật của một người lại dẫn đến cái chết của một người khác.
Nếu sự kiện xảy ra đúng như truyền thống mà Máccô nhận được và ghi lại
thì thật là khủng khiếp.
Ai có thể tưởng tượng nổi chuyện trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê,
một cô bé dám bưng mâm, trên có cái đầu vừa bị chặt của một người,
máu còn chảy ròng ròng, mắt đang nhắm hay mở?
Cô bưng và vui vẻ trao cho mẹ cô.
Mẹ cô sẽ bưng và trao cho ai cái đầu của Gioan, người mà bà căm ghét?
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho ta một số kinh nghiệm của Hêrôđê.
Trước hết là kinh nghiệm bị giằng co giữa cái tốt và cái xấu.
Hêrôđê Antipas đã bắt ông Gioan tẩy giả và xiềng ông trong ngục.
Lý do vì Gioan đã cản trở cuộc hôn nhân sai trái của ông với Hêrôđia.
Dầu vậy Hêrôđê vẫn biết Gioan là người công chính thánh thiện,
vẫn sợ ông và che chở ông khỏi sự trả thù của Hêrôđia (cc. 19-20).
Hêrôđê còn lương tâm khi ông thích nghe Gioan nói, dù rất bối rối khi nghe.
Kế đến là kinh nghiệm về sự thiếu chín chắn của Hêrôđê khi thề hứa.
Cái gì đã xui khiến ông nói câu dại dột này với cô bé Salômê:
“Con xin gì ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23)?
Bầu khí cuồng nhiệt của bữa tiệc sinh nhật, hay điệu vũ đẹp mê hồn,
hay rượu đã ngà ngà say, hay muốn chứng tỏ mình đầy quyền lực?
Hay sự cộng hưởng của mọi yếu tố trên?
Có những lời nói vội vã mà sau đó ta phải hối tiếc và trả giá.
Cuối cùng là kinh nghiệm về sự mất tự do trước khi quyết định.
Khi cô bé xin cái đầu của Gioan, Hêrôđê hẳn đã sửng sốt ngỡ ngàng.
Ông buồn hết sức vì mình đã lỡ thề hứa như vậy (c. 26).
Ông có thể rút lại lời đã nói không? Dĩ nhiên là có.
Nhưng nỗi sợ đã khiến ông không dám làm.
Sợ từ chối cô bé, làm cho cô buồn và mẹ cô nổi giận,
sợ bị mang tiếng là nuốt lời trước mặt bá quan văn võ.
Nói chung ông sợ mất danh dự của mình, mất thiện cảm của người khác.
Bởi vậy, dù Hêrôđê thấy việc giết Gioan là điều sai trái,
ông vẫn không dám xin rút lại lời thề thiếu suy xét của mình.
Cần can đảm để giữ lời hứa, nhưng có khi cần can đảm hơn để không giữ.
Danh dự hão của Hêrôđê được mua bằng máu của một vị ngôn sứ lớn.
Hêrôđê đã can dự vào cái chết của Gioan.
Ông chịu áp lực từ khách dự tiệc và mẹ con Hêrôđia.
Philatô đã can dự vào cái chết của Đức Giêsu.
Ông này chịu áp lực từ dân chúng và các thượng tế.
Cả hai ông đều không có tự do, không có can đảm để tha cho người vô tội.
Cả hai ông đều nghĩ đến mình, cái ghế của mình, danh dự của mình.
Quyền lực được sử dụng như bạo lực, khiến người lành phải chết oan.
Chúng ta xin cho mình luôn có tự do, để mọi quyết định phù hợp với ý Chúa.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
 
----------------------------------

 

Suy Niệm 2.Can đảm làm chứng cho sự thật


--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Để sống ơn gọi ngôn sứ như Thánh Gioan Tẩy Giả, người Kitô hữu phải can đảm làm chứng cho sự thật, ngăn chặn sự xấu, và dám chấp nhận đau khổ vì Tin Mừng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là chua xót nhưng cũng thật hào hùng khi đầu của thánh Gioan nằm trong tay một vũ nữ. Quyền lực của sự dữ tỏ ra mạnh mẽ, thắng thế, áp đảo. Còn quyền lực của sự thiện có vẻ mong manh, yếu đuối, bị bóp dẹp trong lòng bàn tay.

Cái chết của Thánh Gioan cho con hiểu rằng đam mê tội lỗi làm cho lòng người ra mù quáng, lôi kéo từ tội này đến tội khác, từ sai lầm này đến sai lầm khác. Người này phạm tội kéo theo người khác phạm tội. Người phạm tội ngày càng đông, sự xấu ngày càng lan rộng. Trong khi đó, ít người dám sống công chính, ít người dám nói sự thật, ít người dám ngăn chặn sự ác, và lôi kéo người khác làm điều thiện. Chính con cũng chẳng sống được như vậy.

Lạy Chúa, Chúa đã đến làm chứng cho chân lý và dùng quyền năng của Tin Mừng để giải thoát thế gian khỏi tội lỗi. Chúa muốn chúng con nối tiếp sứ mạng của Chúa. Xin giúp chúng con dám sống theo Tin Mừng. Xin Chúa đừng để chúng con vì những đam mê, vì những mối lợi hay vì sợ bị thua thiệt cười chê mà rời xa lối sống Phúc Âm. Xin giúp chúng con can đảm ngăn chặn sự xấu đang diễn ra xung quanh. Chúa giao cho chúng con chịu trách nhiệm về người khác. Chúng con sẽ lỗi nặng khi thấy sai mà không lên tiếng, khi thấy đúng mà không làm, khi thấy tốt mà không kéo người khác theo. Xin Chúa tha thứ những thiếu sót, và xin Chúa giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng. Amen.

Ghi nhớ: “Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa”.

----------------------------------

 

Suy Niệm 3.Bị bách hại vì sự công chính


--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện

Hoàng hậu Ideven của vua Akhap rước thần ngoại bang vào vương quốc Israel và bảo trợ cho các tư tế, phù thủy của tà thần, đuổi bắt các ngôn sứ của Thiên Chúa.

Ngôn sứ Êlia một mình chống lại các tư tế của thần dân ngoại. Sự chính trực của ông đã bị vua và hoàng hậu truy bắt đuổi giết, khiến thân phận ngôn sứ của Thiên Chúa thật gian nan, khốn khổ và luôn sống trong sự trốn tránh (1V 17 - 18).

Suy niệm

Gioan, cái tên được Thiên Chúa đặt là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa, sự công minh chính trực của Gioan đã được ngôn sứ Isaia nói trước:

“Chúa đã gọi tôi, từ khi tôi còn trong bụng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi như gươm sắc bén, dấu tôi dưới bàn tay Người... biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người” (Is 49,1-2).

Sứ mạng ngôn sứ và ơn thánh đã nuôi dưỡng Gioan: “Cậu bé càng lớn lên, thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc 1,80). Vì thế, người quân tử này không sợ trước bất kỳ quyền lực nào, chỉ luôn biết sống trung tín và loan báo những gì mà Thiên Chúa muốn ông nói và làm.

Gioan bộc trực, thẳng thắn phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh (x. Mt 3,7), ông phê phán, đương đầu trực diện cả vương quyền khi họ thực hiện những điều bất nghĩa: Ông đã ngăn cản vua Hêrôđê đã cướp vợ của anh trai vua, chính vì thế mà ông bị tống ngục và Hêrôđia, người tình của vua đã tìm cách ám hại ông (x. Mc 6,17-29).

Cái chết của ông là minh chứng cho sự trung thực thẳng thắn, là triều thiên tử đạo đổ máu đào cản ngăn những điều bất nghĩa bất nhân.

Ý lực sống:

“Phúc cho những ai bị bách hại vì sự công chính; vì nước Trời là của họ” (Mt 5,10).

 ----------------------------------

 

Suy Niệm 4.Cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả


--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

 A. Phân tích (Hạt giống...)

Bài tường thuật của Mác-cô về cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả rất rõ ràng và dễ hiểu. Ta cần ghi nhớ 2 điều:

- Gioan đã chết vì can đảm nói sự thật, theo đúng chức năng ngôn sứ của mình.

- Cái chết của Gioan có nhiều nét tiên báo cái chết của Chúa Giêsu, vị ngôn sứ tiêu biểu: chết do can đảm sống sứ mạng của mình, chết do ác tâm của con người, chết trong sự thương tiếc của các môn đệ.

B. Suy niệm (... nẩy mầm)

1. Ta hãy nhìn vua Hêrôđê: một con người vẫn còn lương tâm (“vua nễ sợ Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe”), nhưng không can đảm làm theo tiếng của lương tâm. Xin cho con vẫn “thích nghe” tiếng lương tâm, cho dù phải “phân vân”, và nhất là phải can đảm làm theo sự hướng dẫn của lương tâm.

2. Ta nhìn tiếp đến bà Hêrôđia: một người đàn bà hoàn toàn để cho dục tình lôi cuốn. Vì dục tình, bà đã loạn luân; khi Gioan vạch tội bà, bà không ngại tìm dịp giết Gioan để không ai còn ngăn cản được cộc sống loạn luân của mình nữa.

Lời một Thánh vịnh: “Kìa vực thẳm kêu mời vực thẳm”. Nếu không nghe tiếng lương tâm mà chỉ để cho đam mê xấu lôi kéo thì người ta sẽ phạm hết tội này đến tội khác.

3. Người da đỏ giải thích lương tâm như sau: Đó là một khối 3 góc ở trong tim ta. Khi ta làm gì tốt thì nó nằm yên. Khi ta làm gì xấu, nó quay và đâm các góc nhọn vào ta. Nếu ta cứ làm điều xấu, các góc nhọn của nó mòn dần và không làm ta cảm thấy gì nữa cả. (Weapons and Workers).

4. Ta hãy nhìn nàng Salômê: một người có tài mà không có đức. Cô đã dùng tài múa nhảy của mình để đòi phần thưởng là cái đầu của một vị ngôn sứ.

Xin cho con ý thức những tài năng của con là những nén bạc Chúa giao để cho con xử dụng mà làm việc tốt phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em con.

5. ”Vua Hêrôđê sai người đi bắt ông Gioan và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy bà Hêrôđia, vợ của người anh là Philipphê, mà ông Gioan lại bảo: “Ngài không được phép lấy vợ của anh Ngài” (Mc 6,17-18)

Gioan đã chết chỉ vì nói lời sự thật. Một kết thúc bi tráng dành cho con người được gọi là cao trọng.

Trong khi xã hội dạy cho con biết phải ”khéo léo” chẳng nên làm chuyện thừa, Chúa lại dạy cho con một tấm gương mà nhìn vào con trở nên e ngại. Con đang bước đi trong lòng một thế giới mà người ta bảo với con: “thật thà thường thua thiệt”. Có lúc ngay bên con, sự thật bị che lấp. Tận đáy lòng, con nghe tiếng Chúa mời gọi. Nhưng lạy Chúa:

- Ông ấy là “sếp” của con mà!
- Chị ấy là ân nhân của con.
- Trách nhiệm của con với gia đình.
- Áp lực xã hội…

Con đấy, luôn tìm một sự bình an tạm bợ. Xin cho con chút can đảm, và khi con bước đi trong sự thật là lúc con nhận được sự bình an của Chúa. (Hosanna).

----------------------------------

 

Suy Niệm 5.Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết


--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại cho chúng ta cuộc tử nạn của thánh Gioan Tẩy giả. Khi ấy, danh tiếng Chúa Giêsu lẫy lừng vì những lời giảng và hành động thật uy quyền đã đến tai Hêrôđê khiến ông ta sống bất an, lương tâm cắn rứt và nghĩ rằng chính Gioan Tẩy giả tiếp tục sống trong Đức Giêsu. Những ray rứt của kẻ giết người lại nổi lên trong con người ông và lên án chính ông. Đây chính là tâm trạng của những kẻ gây ra những điều gian ác. Tâm hồn họ đã đánh mất sự hiện diện của Thiên Chúa. Tiếng lương tâm cắn rứt chính là dấu chỉ Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi họ hối cải.

Gioan Tẩy giả không phải là ánh sáng, nhưng chỉ đến làm chứng cho ánh sáng. Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị tiên tri. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời minh chứng của mình. Gioan Tẩy giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả giá là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị tiên tri sau cái chết đóng đinh nơi thập giá đối với ngưới Do thái lúc đó. Gioan Tẩy giả đã tự xoá mình để cho Đấng Cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa: Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý.

Còn vua Hêrôđê, ông là hình ảnh của những con người yếu đuối, hướng chiều theo tội lỗi. Sở dĩ ông tống ngục ông Gioan Tẩy giả là cũng vì nghe lời Hêrôđiađê xúi giục, chứ riêng ông thì ông nể sợ Gioan Tẩy giả, vì biết Gioan là người công chính thánh thiện. Marcô viết: “Ông che chở Người. Khi nghe ông nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại thích nghe”. Hêrôđê chính là mẫu người yếu đuối, buông theo sự dễ dãi đến khi muốn trở lại thì đã quá trễ, không thể làm lại được nữa.

Hêrôđê để cho mình bị thú vui nhục dục che khuất, loạn luân, rơi vào cái bẫy “mỹ nhân kế” của mẹ con bà Hêrôđiađê bầy ra, rồi lỡ miệng thề thốt trong cơn say, cuối cùng để bảo vệ danh dự, ông đã phạm vào tội ác giết người vô tội. Cũng vậy, xã hội ngày hôm nay, và cách riêng mỗi người chúng ta, giữa những cám dỗ thế tục, những thú vui nơi các cuộc ăn chơi – tụ điểm múa nhảy, rồi kéo theo những hệ luỵ sau đó không còn kiểm soát được. Rồi một khi, ai đó dám cảnh tỉnh chúng ta, thì thay vì quay đầu sửa lỗi, lại tìm cách ám hại người nhắc nhở mình, thậm chí sẵn sàng ám hại người khác để bịt đầu mối và bảo vệ danh dự của mình.

Còn bà Hêrôđiađê từng là vợ của tiểu vương Hêrôđê Philipphê (cũng là một trong ba người con của Hêrôđê Cả), do bị thánh Gioan Tẩy giả can ngăn, làm ảnh hưởng đến chuyện tư tình của mình với Hêrôđê Antipas, nuôi lòng thù hận và đã bầy ra trò mỹ nhân kế của cô con gái, rồi dùng bàn tay tình nhân để hãm hại người công chính. Bà là mẫu gương sống theo sự dữ. Đã pạm tội loạn luân, lấy em chồng của mình thì chớ, lại còn căm thù ông Gioan và muốn giết ông...

Giữa xã hội hôm nay cũng thế, nhiều người không ngại dùng nhiều thủ đoạn thậm chí còn tàn độc hơn cả Hêrôđiađê để trả thù những ai dám cản trở những cuộc tình mờ ám hay những việc làm sai trái của mình.

Gioan Tẩy giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn còn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần Gioan Tẩy giả, của các Tông đồ, của các thánh Tử đạo, đã sống mãi trong Giáo hội và trở thành dây liên kết mọi Kitô hữu. Điều này luôn được Giáo hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt của các thánh được đặt trên bàn thờ.

Tập san Giáo hội Á châu do hội Thừa sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục: “Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi dây liên kết Giáo hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi dây liên kết hữu hình ấy. Đây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hợp với Người mãi mãi” (Mỗi ngày một tin vui).

Truyện: Một học sinh can đảm

Suy niệm gương Gioan Tẩy giả: tôi có can đảm và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?

Một học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong một ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cảm ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì” (Góp mặt).

 ----------------------------------

 

Suy Niệm 6.Nói lên sự thật


--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
1. Gương thánh nhân

Để dọn đường cho Chúa Giêsu đến cứu chuộc loài người, Thiên Chúa đã cho bà Ysave son sẻ được sinh con. Người con đó là Gioan Tẩy giả. Lớn lên, ngài vào sống khổ hạnh trong sa mạc: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. (Mt. 3,4).

Năm 29 tuổi, thánh nhân đến sông Giođăng, rao giảng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và lãnh phép rửa sám hối của Ngài, để dọn lòng xứng đáng đón rước Chúa Cứu thế. Nhiều người đã đến lãnh nhận phép rửa thống hối, và xin ngài chỉ dạy cách thế để hoán cải đời sống. Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu đi rao giảng Nước Trời, cũng đến nhờ Ngài làm phép rửa, để được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu Thế, và Chúa Cha công khai nhìn nhận là Con Yêu Dấu.

Thời điểm Gioan Tẩy Giả làm phép rửa sám hối bên bờ sông Giorđan trùng hợp với lúc Hêrôđê Antipa làm quận vương cai trị xứ Galilê. Cuộc sống của ông có nhiều lầm lỗi nhưng lầm lỗi lớn nhất mà ai cũng biết đó là ông ngang nhiên lấy vợ của anh làm vợ của mình. Người đàn bà xấu nết đó là bà Hêrôđia. Thấy vậy, Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng công khai cảnh cáo và ngăn cản. Việc đó đã đến tai Hêrôđia làm cho bà hết sức tức giận. Bà đã yêu cầu Hêrôđê bắt giam Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả đã bị bắt giam nhưng bà ta vẫn chưa vừa lòng. Biết Gioan Tẩy Giả là một con người không thể mua chuộc cho nên bà luôn tìm dịp để giết ngài. Và đây là dịp. Chúng ta hãy nghe thánh sử Mátcô thuật lại việc làm nầy của Hêrôđia:

Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrođê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái:

- Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.

Vua lại còn thề:

- Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước, cũng được.

Cô gái đi ra hỏi mẹ

- Con nên xin gì đây?

Mẹ cô nói:

- Đầu Gioan Tẩy giả.

Lập tức cô vội trở vào, đến bên nhà vua và xin rằng:

- Con muôn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy giả, đặt trên mâm.

Nhà vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dư tiệc, nên chẳng muốn thất hứa với cô. Lập tức vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm, trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ". (Mc. 6,21-28).

Thánh Hiêrônimô còn cho chúng ta biết thêm một chi tiết thú vị này: Sau khi nhận được đầu của Gioan Tẩy Giả, Hêrođia đã lấy dao cạy miệng ra và đâm một nhát thấu qua cái lưỡi đã dám nói lên những lời xúc phạm đến bà.

Thánh Linh mục Bêđa khả kính đã giải thích ý nghĩa cái chết của ngài như sau:

“Đấng thánh loan báo Chúa sinh ra, rao giảng và chịu chết, đã tỏ cho chúng ta thấy một sức mạnh xứng đáng được Chúa nhìn. Như lời Kinh Thánh chép: “Theo nhãn giới người phàm, thì người đã gặp nhiều đau khổ, nhưng hy vọng của người đã tràn đầy bất tử.”

2. Bài học

Gioan đã chết vì can đảm nói lên sự thật. Đây là tấm gương sáng ngời cho những ai tin theo Chúa.

Ngày 27/04/1945, quân Đức Quốc Xã thất trận, phải rút quân ở Italia về biên giới nước Áo. Trên đường rút quân, họ đã bắn phá nhiều làng mạc để trả thù quân kháng chiến Italia đã cố tình tìm cách cản trở đường rút rui của họ. Trong tình cảnh này, Linh mục Decande, một Cha sở nhân lành vì muốn cứu dân làng Fiatsa gần thành phố Vêrôna khỏi bị quân Đức tàn sát, đã đích thân đến gặp viên quan chỉ huy đoàn quân Đức để van nài ông đừng bắt giết và tàn sát dân làng vô tội. Bị quẫn trí vì sự thất trận.Viên sỹ quan giận dữ ra lệnh bắt giam Cha Sở. Ông quát lên với Ngài:

- Mày phải bị xử bắn và chết thay cho những tên kháng chiến phá hoại mà chúng tao không bắt được. Mày phải đền tội thay cho những kẻ khác!

Nói rồi, viên sỹ quan ra lệnh cho toán quân hành quyết sẵn sàng. Vị Linh mục bị trói, đứng bất động chờ loạt đạn của tiểu đội hành quyết. Bỗng nhiên từ hàng quân đang chĩa súng vào ngài đợi lệnh để nổ súng, một quân nhân bước ra khỏi hàng, tiến đến trước mặt ngài và nghiêm chỉnh chào. Rồi anh quay lại nói với vị chỉ huy của mình:

- Tôi là tín hữu Công Giáo, không bao giờ tôi lại bắn vào vị Linh mục của Chúa.

Viên sỹ quan tái mặt. Ông ra lệnh trói luôn người lính can đảm kia bên cạnh vị Linh mục. Một vài phút sau đó, một loạt đạn nổ vang, hai thây người ngã gục, toán lính kéo hai xác người vùi xuống một hố bom gần đó. Dân làng Fiatsa không biết người lính Đức Công Giáo đó tên là gì, họ chỉ tìm thấy trên thi hài anh một xâu chuỗi mân côi.

Nghĩa cử của người lính Đức trên đây thật là can đảm! Anh đã nhận định được ngay điều phải làm khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn: Một đàng là bất tuân thượng lệnh, từ chối bắn vào người vô tội; một đàng là tuân lệnh thượng cấp để tham gia vào việc sát nhân. Anh đã biết chọn lựa đúng nguyên tắc: cương quyết tránh xa mọi tội ác dù có phải hy sinh cả tính mạng mình!

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho thánh Gioan Tẩy giả báo trước mầu nhiệm Con Chúa sinh ra và chịu chết.

Xưa thánh nhân đã anh dũng hy sinh vì chân lý và chính đạo thế nào, thì nay xin Chúa cũng cho chúng con biết xả thân làm chứng cho Tin Mừng như vậy. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 7.“Ông Gioan là người công chính thánh thiện”


-- Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Nghe danh tiếng của Đức Giê-su, nhất là về các phép lạ Người thực hiện, Vua Hê-rô-đê cho rằng Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết trỗi dậy: “Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” Đó là một sai lầm; nhưng đối với chúng ta, sai lầm này lại mang nhiều ý nghĩa trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và đã loan báo cho chúng ta mầu nhiệm Vượt Qua rồi.

Vua Hê-rô-đê loại trừ một Gioan Tẩy Giả, thì lại có một Gioan Tẩy Giả khác xuất hiện. Như thế, Sự Thiện, Ánh Sáng và Chân Lý không thể bị loại trừ bởi bạo lực, nghĩa là bởi Sự dữ, Bóng Tối và Dối Trá.

Vua Hê-rô-đê làm điều dữ và ông bị dày vò bởi điều dữ, cái nhìn của ông bị chi phối tất yếu bởi điều dữ ông đã làm. Như thế, không phải Sự Thiện dùng phương tiện của Sự Dữ chống lại Sự Dữ, nhưng Sự Dữ sẽ tự hủy diệt Sự Dữ, như lời Thánh Vịnh loan báo: “Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài, còn con đây, thì được thoát khỏi” (Tv 141, 10).

Đức Giê-su không phải là Gioan Tẩy Giả sống lại, nhưng Ngài là Đấng ông loan báo, Ngài là niềm hi vọng của ông, là sự sống lại của ông. Thật vậy, nơi mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su sẽ bị giết chết cách bất công như thánh Gioan, nhưng Ngài mạnh hơn sự chết, Ngài sẽ phục sinh và làm cho mọi người phục sinh, trong đó có thánh Gioan.

Thánh Gioan, “Người đi trước mặt Chúa” (Lc 1, 17 và 76)

Cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả được Tin Mừng Mác-cô, và hai Tin Mừng nhất lãm còn lại cũng vậy, tường thuật lại trong một bối cảnh đặc biệt, đó là những thắc mắc liên quan đến Đức Giêsu: (x. Mc 6, 16). Và để làm sáng tỏ những thắc mắc này, tác giả Tin Mừng đã kể lại thật chi tiết cái chết của Gioan. Như thế, cuộc đời của Gioan gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu biết bao. Vì thế, trong lời nguyện nhập lễ, chúng ta thưa với Thiên Chúa rằng thánh Gioan là người đi trước loan báo Đức Kitô cả trong cách sinh ra lẫn trong cách chết đi. Thậy vậy, khi vừa được sinh ra, bố Giacaria của Gioan đã nói rằng: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người.” (Lc 1, 76)

Và với bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta “chứng kiến” thánh Gioan hoàn tất thật trọn vẹn sứ mạng của mình, vì ông không chỉ đi trước chuẩn bị cho những lối bước của Đức Chúa bằng lời rao giảng và phép rửa, nhưng bằng cả cái chết nữa, và xét cho cùng, bằng cả cách mình được sinh ra nữa.

Chúng ta cũng vậy, bởi tình yêu và ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, cũng gắn liền với Đức Giêsu, vấn đề là chúng ta có nhận ra hay không.

Thánh Gioan, người loan báo Đức Giê-su bằng cái chết

Như thế, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay rất mạnh mẽ, nhưng cũng thật kín đáo: thánh Gioan chuẩn bị đường đi cho Đức Giê-su một cách hoàn hảo bằng chính cái chết của mình, đúng hơn là bằng chính cách mình bị giết chết.

Thật vậy, bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta thật chi tiết bối cảnh dẫn đến cái chết của thánh Gioan, với sự tham dự của rất nhiều người, có thể nói của cả một vương quốc. Chúng ta có thể đọc lại từ từ và ghi lại những suy nghĩ và tâm tình mà trình thuật gợi ra cho chúng ta. Thánh Gioan bất động và im lặng trong ngục tù, nhưng lại làm bộc lộ ra những điều sâu kín nhất của con người: vô độ, sợ chân lí, ghen ghét, mưu đồ, bạo lực, phi nhân và có thể nói, thú tính. Những điều này thường được che đậy bằng những vỏ bọc vui vẻ, quảng đại, quí phái, danh dự…

Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su và nhất cái chết trên Thập Giá của Ngài còn có sức mạnh mặc khải sự dữ triệt để hơn và tuyệt đối hơn nữa, bởi vì Người là Con Chiên Vô Tội. Trong mầu nhiệm Vượt Qua, đối diện với Người sẽ là Sự Dữ và Sự Chết tuyệt đối, bởi lẽ Người là Sự Thiện và Sự Sống tuyệt đối. Người tự nguyện trở thành nạn nhân của Sự Dữ để hủy diệt Sự Dữ và chữa lành chúng ta khỏi Sự Dữ ngay hôm nay.

Phúc của thánh Gioan

Tuy nhiên, khi nghe hay đọc trình thuật này, chúng ta có thể tự hỏi một cách tự phát: vậy đâu là phúc của thánh Gioan, được loan báo khi mới sinh ra, khi mà ông đã cho đi tất cả, dâng hiến tất cả và cuối cùng, đã phải chịu chết như thế? Thánh Gioan loan báo Đức Kitô trong sự sinh ra, trong cuộc sống và trong cái chết, thì phúc của thánh Gioan, chính là trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Ki-tô. Và Tin Mừng đã kín đáo nói cho chúng ta điều này: sau khi bị giết chết, có kẻ nói về Đức Giê-su: “Đó là Gioan Tẩy Giả, từ cõi chết chỗi dậy” (c. 14). Như thế, phúc của thánh Gio-an là trở nên một với Đức Ki-tô trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người.

Nếu là như thế, phúc của thánh Gioan, cũng là phúc của mọi người Kitô hữu chúng ta, những người sống đời sống hôn nhân, cũng như những người sống đời dâng hiến, đó là Đức Giêsu Kitô trở nên một với chúng ta, nơi mầu nhiệm Nhập Thể và nơi mầu nhiệm Thánh Thể, để cho chúng ta có thể trở nên một với Ngài trong hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi, để cùng với Người đi vào Cõi Hằng Sống, là Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 8.Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết


--Enzo Lodi

1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Lễ kỷ niệm thánh Gioan Tẩy giả bị hành quyết được cử hành để kỷ niệm ngày khánh thành một nhà nguyện trong hầm mộ ở Sébaste, Samarie, nơi tôn kính thánh nhân từ nửa đầu thế kỷ IV; đến thế kỷ V, lễ được cử hành ở Jérusalem, và tại các Giáo hội phương Đông cũng như ở Roma từ thế kỷ VI, với tước hiệu thánh Gioan bị hành quyết hoặc khổ nạn.

Việc hành quyết thánh Gioan Tẩy đã gợi hứng cho nhiều nghệ sỹ như Pisano và Andrea del Sarto (Florence), Van der Weyden (Berlin), Tiepolo (Bergame)

2. Thông điệp và tính thời sự

Các kinh nguyện trong thánh lễ ca tụng “người con vĩ đại nhất trong các con cái loài người (theo Mt 11,14) được gọi là “người công chính và thánh thiện” (Điệp ca II Kinh sáng)

Lời nguyện trong ngày nhấn mạnh Thiên Chúa đã muốn “thánh Gioan Tẩy giả là người đi trước cả trong việc sinh cũng như tử của con Chúa”. Đề tài về việc thọ nạn có tính tiên báo đó của thánh Gioan được bài giảng của thánh Bêđa khả kính triển khai và Giáo hội cho chúng ta đọc trong Giờ kinh Phụng vụ: “Vị thánh Tiền Hô về việc sinh hạ, việc rao giảng và cái chết của Chúa, qua cái chết của mình, đã chứng tỏ một sự can đảm xứng đáng thu hút cái nhìn của Thiên Chúa … yêu chuộng cái chết chắc chắn sẽ tới (những con người giống thánh nhân như thế) đã lựa chọn đón nhận nó bằng cách tuyên xưng danh Đức Kitô và nhờ thế lãnh được cành lá chiến thắng của cuộc sống trường sinh”.

Lời nguyện trong ngày cũng nhắc lại “thánh nhân đã hiến mạng sống vì lẽ công chính và vì chân lý”. Ngài loan báo không chút sợ sệt trước mặt dân chúng cũng như vua quan, mặc dầu có nguy hiểm cho cuộc sống.

Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh ơn gọi thánh Gioan Tẩy giả đi “rao giảng nơi hoang mạc” để loan báo Nước trời sắp tới “Tôi không phải là Mêssia, tôi được sai đi trước báo tin Người đến; Người sẽ lớn lên và tôi sẽ nhỏ đi” (xem Ga 3,28.30). Nhưng ngần ấy đã là niềm vui, vì như điệp khúc ca vịnh Zacharie nhắc lại: “Bạn của Hôn thê nghe tiếng của Hôn thê liền vui mừng” (xem Ga 3,29). Trong kinh tiền tụng, chúng ta gặp lại những biến cố đặc trưng trong sứ vụ của Vị Tiền hô. Trước hết là việc Người sinh ra đã đem lại niềm vui lớn. Thứ đến, việc nhận ra Đấng Mêssias mà ngài công nhận là Chiên Thiên Chúa và được Ngài rửa cho trong sông Giođan. Sau hết là “chứng tá đẹp đẽ nhất” của Ngài đối với Đức Kitô chính là cái chết làm chứng của mình.

Là tiền hô của Đức Kitô trong việc sinh ra cũng như trong cái chết, thánh Gioan Tẩy giả, Đấng rao giảng trong hoang địa sự sám hối, tính ngay thẳng, đã để lại cho chúng ta ý nghĩa đích thực của việc thanh tẩy: đó là dâng hiến mãi mãi cuộc đời mình, trong đức công chính và chân lý Phúc âm, đến độ hy sinh trọn vẹn bản thân mình.

------------------------------

 

Suy Niệm 9.Cái chết của một tiên tri


--‘Lẽ Sống’--R. Veritas

Qua lệnh truyền của một bạo chúa, một chiếc gươm gieo, một chiếc đầu rơi trong ngục tối. Ðó là những diễn tiến đã kết thúc cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả, một biến cố mà Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm hôm nay.

Chúng ta đã thấy một lời thề thiếu khôn ngoan, một quan niệm thiển cận về danh dự của một bạo chúa cũng như lòng hận thù của một hoàng hậu lăng loàn đã đưa Gioan Tẩy Giả vào cái chết. Nhưng đây là cái chết đã nâng ngài lên cao trên đài danh vọng, danh vọng của các vị tiên tri đích thực, vì Gioan cũng bị đau khổ, giam cầm và chết vì lời mình rao giảng.

Gioan Tẩy Giả cũng đã tự ví mình là "tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng" và ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm Phép Rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.

Qua đó, Gioan Tẩy Giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để đóng vai trò Tiền Hô chuẩn bị cho ngày Ðấng Cứu Tinh sẽ đến.

Mọi Kitô hữu chúng ta cũng được kêu mời để đáp lại tiếng gọi. Và mặc dù không ai có thể tái diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả, nhưng mọi Kitô hữu phải tiếp diễn sứ mệnh của ngài trong mọi hoàn cảnh mình đang sống. Ðó là sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.

------------------------------

 

Suy Niệm 10.Vị Thánh Can Đảm Và Cương Quyết


-- Lm Nguyễn Hưng Lợi

Những trang Tin Mừng của thánh sử Marcô nói về Gioan Tẩy Giả quả thực gây ấn tượng mạnh cho những ai tìm gương một vị thánh can đảm dám nói lên sự thật, mặc dầu khi biết rằng nói lên điều mình phải nói sẽ nhận lại hậu quả không lường trước: “Vị Thánh đó là Gioan Baotixita, vị ngôn sứ kiên cường không bao giờ sợ chết”. Phúc Âm của thánh Marcô 6, 14 viết: “Vua Hêrôđê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông. “Kẻ khác nói: “Đó là ông Êlia”. Kẻ khác nữa lại nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ”. Vua Hêrôđê nghe thế liền nói: “Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc 6, 14-16).

Những câu Tin Mừng của thánh Marcô chúng ta vừa nghe trên đây minh chứng: “Vua Hêrôđê đang lo âu về sự hiện diện của Chúa Giêsu và cho thấy sự tàn ác của một cường bạo Hêrôđê đã đang tâm truyền lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả vì Người dám nói lên sự thật: Vua không được lấy vợ của anh Ngài” (Mc 6, 18).

Đọc đoạn Tin Mừng 6, 17-29 của thánh Marcô trong ngày lễ kính nhớ thánh Gioan Tẩy Giả chúng ta thấy thật chua xót và mỉa mai. Cái chua xót bởi vì chỉ với một lời hứa với đứa con gái riêng của người vợ loạn luân của mình bà Hêrôđia (Mc 6, 23). Vua sẵn sàng cho lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả. Cái chua xót càng dâng cao khi Vua Hêrôđê cho thị vệ chém đứt đầu Gioan Tẩy Giả và đặt trên mâm theo lời xúi giục của bà Hêrôđia (Mc 6, 24-25). Sự việc càng mỉa mai hơn khi Vua vừa tỉnh vừa say và để hồn mình mê ly theo điệu vũ của đứa con gái của bà Hêrôđia (Mc 6, 22). Đối với chúng ta đọan Tin Mừng của thánh Marcô 6, 26 càng làm chúng ta ngao ngán vì con người dâm ô, bạo tàn và chà đạp sự thật, chà đạp công lý và vượt trên cả pháp luật của đất nước mà Hêrôđê trị vì: “Nhà Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với con gái Hêrôđia”.

Một lệnh truyền của một bạo Chúa trong lúc say sưa chè chén với bọn bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê trong ngày sinh nhật của mình (Mc 6, 21). Một lời hứa dựa trên cảm tính, hết sức thô bạo và coi thường luật pháp của mình, Hêrôđê đã làm một việc hết sức tàn nhẫn, giết chết một vị ngôn sứ vô tội để thỏa mãn thú tính đê hèn của mình. Cái chết của Gioan Tẩy Giả đã là một lời cảnh tỉnh tất cả những ai quyết định thiếu khôn ngoan, thiển cận, ích kỷ, đê hèn chỉ nghĩ tới mối lợi đê tiện của cá nhân mình mà quên đi việc lớn lao hơn: “đại nghĩa”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã chết đi nhưng sự ra đi của Ngài được nâng cao trên đài danh vọng, danh vọng của những vị ngôn sứ đích thực, những ngôn sứ dám nói lên sự thật, vì Gioan Tẩy Giả cũng đã chịu cầm tù, đau khổ trong tù ngục, và chết để làm chứng cho những lời rao giảng của mình.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống hoàn toàn đúng nghĩa của một vị ngôn sứ chân chính, đích thực, Ngài đã hoàn toàn đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa: “Ngài đã không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các Vua Chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã vạch mặt chỉ tên mọi người sống bê tha, tội lỗi. Lời rao giảng sám hối và phép rửa cải tà qui chánh, cải hoá nội tâm của Ngài đã nói lên một sự thực muôn đời: “Tất cả đều phải sám hối và ăn năn”. Thánh nhân đã không chùn bước trước những thế lực mạnh nhất lúc đó là Hêrôđê. Ngài đã can đảm nói lên việc Hêrôđê cướp vợ của anh mình là Philíp, nàng Hêrôđia… Sự can đảm và cương quyết của Ngài đã bị cường bạo đè bẹp bằng lời hứa thật đê hèn và thô bạo. Nhưng cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả đã minh chứng cho chân lý ngàn đời: “Sự thật sẽ giải phóng tất cả”.

Gioan Tẩy Giả đã chết đi để bảo vệ cho sự thật, minh chứng cho Chúa Giêsu: “Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6).

Gioan Tẩy Giả chỉ là vị ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, để dọn đường cho Chúa đến” (Mc 1,23) và khi Đấng Thiên Sai đến, thánh nhân xác định rõ ràng: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30). Thánh Gioan Tẩy Giả đã trở nên chứng nhân tuyệt vời và hoàn hảo nhất nơi Đức Kitô Giêsu.

Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu bầu cho chúng con trước ngai toà Chúa để niềm tin của chúng con được nâng cao hầu chúng con luôn sẵn sàng đáp trả lại lời mời gọi của Chúa: “làm chứng nhân cho Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời”. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 11.Lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết


Thánh Gioan tẩy giả là người anh họ của Đức Chúa Giêsu. Thân mẫu ngài là thánh nữ Êlizabeth và thân phụ ngài là ông Zacaria. Chương đầu tiên của Tin mừng theo thánh Luca thuật lại biến cố sinh nhật tuyệt vời của thánh Gioan. Và Tin mừng theo thánh Marcô, nơi chương thứ 6, các câu 14-29, kể lại những chi tiết tàn bạo về cái chết của Gioan tẩy giả.

Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình là bà Hêrôđia. Gioan nói cho Hêrôđê biết điều ấy là sai, nhưng Hêrôđê và Hêrôđia không muốn nghe và giữ giới luật của Thiên Chúa. Họ chỉ muốn làm theo ý riêng mình. Và Gioan tẩy giả đã phải trả giá cho lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, thánh nhân không thể hành động theo cách khác được. Ngài không im lặng trước tội lỗi và bất công. Sứ mệnh của Gioan là mời gọi người ta cải hối cuộc đời; và ngài mong muốn cho hết thảy mọi người được ơn giao hòa cùng Thiên Chúa.

Hêrôđia đã giữ mối hận thù đối với Gioan. Và khi dịp thuận tiện xảy đến, bà đã ra tay sắp đặt để Gioan bị chém đầu. Gioan đã phải chấp nhận những hậu quả nghiệt ngã cho việc giảng dạy chân lý Phúc âm.

Thánh Gioan tẩy giả rao giảng phép rửa sám hối, chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Mêsia. Ngài đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giođan và được hưởng kiến niềm vui vì sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu đã khởi sự. Gioan tẩy giả đã khích lệ các môn đồ của mình đi theo Đức Chúa Giêsu. Ngài biết rằng danh Chúa phải tỏa sáng ra, còn danh mình phải lu mờ đi. Trong chương thứ nhất Phúc âm theo thánh Gioan, thánh Gioan tẩy giả nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, chỉ thức tỉnh người ta hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng mà thôi! Thánh nhân mời gọi mọi người hãy sẵn sàng để chuẩn bị đón nhận Đấng Mêsia. Sứ điệp của Gioan tẩy giả phải chăng cũng là sứ điệp của mỗi người chúng ta?

Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan tẩy giả giúp chúng ta luôn sẵn sàng để đón nhận Chúa Giêsu ngự đến trong cuộc sống của mình.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 12.Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết


Bài tường thuật của Mác-cô về cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả rất rõ ràng và dễ hiểu.

Ta cần ghi nhớ 2 điều:

- Gioan đã chết vì can đảm nói sự thật, theo đúng chức năng ngôn sứ của mình.

- Cái chết của Gioan có nhiều nét tiên báo cái chết của Chúa Giêsu, vị ngôn sứ tiêu biểu: chết do can đảm sống sứ mạng của mình, chết do ác tâm của con người, chết trong sự thương tiếc của các môn đệ.

1. Trước hết, ta hãy nhìn vào Hêrôđê: Một con người vẫn còn lương tâm (“vua nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe”), nhưng rồi lại không can đảm làm theo tiếng lương tâm của mình.

Văn hào Chateaubriand của Pháp vào thế kỷ 19 đã viết về lương tâm con người như sau: “Con sư tử sau khi giết và ăn thịt con mồi có thể nằm lăn ra ngủ, nhưng con người không thể ngủ yên sau khi giết hại một người đồng loại của mình”.

Thi hào Victor Hugo trong bài thơ “Lương tâm” đã mô tả tâm trạng vô cùng đau thương của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Cho dẫu Cain có đi đâu, cho dẫu ông có đào một huyệt sâu trong lòng đất để trú ẩn, ánh mắt lương tâm cũng không bao giờ buông tha cho ông”.

Con người có phẩm giá cao cả vì con người có lương tâm. Lương tâm chính là ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không ngừng dõi theo con người để mời gọi thôi thúc con người vươn lên. Thảm trạng đau thương nhất của cá nhân cũng như của xã hội chính là tiếng nói của lương tâm bị bóp nghẹt. Xét cho cùng, thảm trạng ấy cũng đồng lõa với việc loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Khi ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không còn nhìn xuyên qua tâm hồn con người nữa, thì đó là lúc con người đang dãy chết.

2. Ta nhìn tiếp đến bà Hêrôđia: Một người đàn bà hoàn toàn để cho dục tình lôi cuốn. Vì dục tình, bà đã loạn luân. Vì thế, khi Gioan vạch tội bà, bà không ngại tìm dịp giết Gioan để không ai còn ngăn cản được cộc sống loạn luân của mình nữa.

Bà Hêrôđia đã làm những điều mà có lẽ ai trong chúng ta cũng lên án. Thế nhưng, xét cho kỹ thì trong thiên hạ cũng chẳng thiếu gì những người như thế. Không phải chỉ là loạn luân mà còn biết bao nhiêu tội ác khác nhiều khi còn tệ hơn nữa.

Tại một xứ Hồi giáo nọ, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:

- Tâu bệ hạ, xin cho thần được chồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không truyền lại cho hậu thế được.

Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn chồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:

- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.

Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:

- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.

Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.

Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:

- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.

Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.

3. Ta hãy nhìn nàng Salômê: một người có tài mà không có đức. Cô đã dùng tài múa nhảy của mình để đòi phần thưởng là cái đầu của một vị ngôn sứ.

Tài năng của con là những nén bạc Chúa trao để cho con sử dụng mà làm việc tốt phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Phục vụ chứ không khai thác để thỏa mãn những đam mê hay vơ vét vào cho mình. Chỉ khi nào, con người biết phục vụ thì lúc đó họ mới thấy cuộc đời của mình đậm đà ý nghĩa.

Dương Chấn, người đất Quan Tây đời nhà Hán, làm quan Thái Úy, tính tình thanh liêm, chánh trực. Khi đang làm Thứ Sử, ông có tiến dẫn Vương Mật làm Lệnh Doãn huyện Xương Ấp.

Một hôm, trời tối đi ngang qua Xương Ấp, Dương Chấn nghỉ lại đó một đêm. Vương Mật lén đem 10 lượng vàng đến để đền ơn thuở trước. Dương Chấn thấy vậy, trách Vương Mật:

- Ta biết tài ngươi, mà ngươi không biết được lòng ta.

Vương Mật cố năn nỉ:

- Đêm hôm khuya khoắt, không có một ai hay biết, ngài sợ gì?

Dương Chấn nghiệm mặt đáp:

- Sáng thì có trời đất biết, tối thì có quỷ thần soi biết, trong có ta biết, ngoài có ngươi biết. Chỗ hay biết có nhiều như vậy, sao ngươi gọi là không ai biết?

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đối với mọi người để cho lương tâm của chúng ta lúc nào cũng được thanh thản và bình an.

------------------------------

 

Suy Niệm 13.Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết


--Lm Nguyễn Hưng Lợi

Có những cái chết để lại cho đời niềm thương nhớ khôn nguôi. Có những sự ra đi làm cho con người thương nhớ, nhắc nhớ tên người chết mãi mãi không ngơi. Có những cái chết khiến người khác trề môi, phỉ nhổ. Chết là trở về nơi cũ. Chết là ra đi. Chết là trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và tác sinh. Cái chết của thánh Gioan tẩy Giả, Giáo Hội mừng kính hôm nay khiến nhân loại phải ghi nhớ, khiến nhiều người thương tiếc, nhưng cũng không khỏi nguồn rủa sự điên rồ, ngạo nghễ và dại gái, khôn nhà dại chợ của Hêrôđê, một vị vua tàn ác và thiếu tư cách làm người.

Một cái đầu, một sự trả giá vô biên

- Hêrôđê đã đi vào con đường tội lỗi. Sự dại gái, khôn nhà, dại chợ của Hêrôđê đã khiến vị vua này trở nên ngông cuồng điên dại. Sống trong tội lỗi,tâm hồn của Hêrôđê đã trở nên mù quáng, tối tăm. Ở trong bóng tối, Hêrôđê đã không còn biết phân biệt đâu là phải, đâu là trái. Ông đã hành động tùy tiện việc nước, đã ăn chơi, chè chén trác táng. Ông không còn biết nhận ra sự thật. Số là Hêrôđê đã cướp vợ của ngay người em mình. Sự loạn luân không thể tha thứ, đã làm cho Gioan Tẩy Giả phải lên tiếng quở trách nặng lời hành động vô luân của Hêrôđê và Hêrodias, vợ loạn luân của Hêrôđê. Đúng như lời Kinh Thánh nói: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng…” (Ga 1,6-7).

- Gioan không phải là ánh sáng, nhưng Gioan tới để minh chứng về ánh sáng. Vì chứng minh cho Chúa Giêsu là sự thật, là ánh sáng. Gioan đã không bao giờ chịu khuất phục trước những việc chướng tai gai mắt của con người, của xã hội đương thời và của nhân loại. Gioan đã có lần nói: “Có Đấng đến sau ông và ông không xứng đáng cởi giây dép của Ngài”. Gioan quả thực đã tới trần gian để dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Làm công tác dọn đường, Gioan đã sống đích thực sứ mạng của vị tiên tri. Ngôn sứ phải nói lên sự thật và không bao giờ sợ nguy hiểm cho dù công tác của vị ngôn sứ luôn gặp sự hiểm nguy. Để làm chứng cho Đấng cứu thế, Ngài đã nói công khai với mọi người khi họ lầm tưởng Gioan là Đức Kitô: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Gioan đã lớn lên trong sự minh chứng cho sự thật. Chống lại hành động loạn luân và dâm dật của đôi dâm phụ Hêrôđê và Hêrodias. Gioan Tẩy Giả đã phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời ngôn sứ của mình: cái chết. Hêrôdias vì không chấp nhận sự thật, không chịu nổi lời quở trách của vị tiên tri. Nên đã căm thù tìm cơ hội khử trừ vị ngôn sứ đầy uy tín. Với sự nhảy múa cuồng nhiệt nhân ngày sinh nhật, Hêrodiađê đã làm ngây ngất vua Cha. Cái đầu, vẫn là sự căm tức ngông cuồng của Hêrôdias. Đầu của vị ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã nằm gọn trong chiếc dĩa trước mặt Hêrôđê.

Lời chứng đáng giá nhất của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả

- Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan Tẩy Giả vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị ngôn sứ. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời chứng của mình. Gioan Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị ngôn sứ sau cái chết chịu đóng đinh nơi thập giá đối với người Do Thái lúc đó. Gioan Tẩy Giả đã tự xóa nhòa mình để cho Đấng cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả hoàn toàn lời mời gọi của Thiên Chúa: “Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”.

------------------------------

 

Suy Niệm 14.Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết


--tgpsaigon.com

1. Gương thánh nhân

Để dọn đường cho Chúa Giêsu đến cứu chuộc loài người, Thiên Chúa đã cho bà Ysave son sẻ được sinh con. Người con đó là Gioan Tẩy giả. Lớn lên, ngài vào sống khổ hạnh trong sa mạc: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. (Mt. 3,4).

Năm 29 tuổi, thánh nhân đến sông Giođăng, rao giảng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và lãnh phép rửa sám hối của Ngài, để dọn lòng xứng đáng đón rước Chúa Cứu thế. Nhiều người đã đến lãnh nhận phép rửa thống hối, và xin ngài chỉ dạy cách thế để hoán cải đời sống. Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu đi rao giảng Nước Trời, cũng đến nhờ Ngài làm phép rửa, để được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu Thế, và Chúa Cha công khai nhìn nhận là Con Yêu Dấu.

Thời điểm Gioan Tẩy Giả làm phép rửa sám hối bên bờ sông Giorđan trùng hợp với lúc Hêrôđê Antipa làm quận vương cai trị xứ Galilê. Cuộc sống của ông có nhiều lầm lỗi nhưng lầm lỗi lớn nhất mà ai cũng biết đó là ông ngang nhiên lấy vợ của anh làm vợ của mình. Người đàn bà xấu nết đó là bà Hêrôđia. Thấy vậy, Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng công khai cảnh cáo và ngăn cản. Việc đó đã đến tai Hêrôđia làm cho bà hết sức tức giận. Bà đã yêu cầu Hêrôđê bắt giam Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả đã bị bắt giam nhưng bà ta vẫn chưa vừa lòng. Biết Gioan Tẩy Giả là một con người không thể mua chuộc cho nên bà luôn tìm dịp để giết ngài. Và đây là dịp. Chúng ta hãy nghe thánh sử Mátcô thuật lại việc làm nầy của Hêrôđia:

Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrođê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: - Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.

Vua lại còn thề: - Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước, cũng được.

Cô gái đi ra hỏi mẹ” - Con nên xin gì đây?

Mẹ cô nói: - Đầu Gioan Tẩy giả. Lập tức cô vội trở vào, đến bên nhà vua và xin rằng: - Con muôn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy giả, đặt trên mâm.

Nhà vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dư tiệc, nên chẳng muốn thất hứa với cô. Lập tức vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm, trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ". (Mc. 6,2128).

Thánh Hiêrônimô còn cho chúng ta biết thêm một chi tiết thú vị này: Sau khi nhận được đầu của Gioan Tẩy Giả, Hêrođia đã lấy giao cạy miệng ra và đâm một nhát thấu qua cái lưỡi đã dám nói lên những lời xúc phạm đến bà.

Thánh Linh mục Bêđa khả kính đã giải thích ý nghĩa cái chết của ngài như sau: “Đấng thánh loan báo Chúa sinh ra, rao giảng và chịu chết, đã tỏ cho chúng ta thấy một sức mạnh xứng đáng được Chúa nhìn. Như lời Kinh Thánh chép: “Theo nhãn giới người phàm, thì người đã gặp nhiều đau khổ, nhưng hy vọng của người đã tràn đầy bất tử.”

2. Bài học

Gioan đã chết vì can đảm nói lên sự thật. Đây là tấm gương sáng ngời cho những ai tin theo Chúa.

Ngày 27/04/1945, quân Đức Quốc Xã thất trận, phải rút quân ở Italia về biên giới nước Áo. Trên đường rút quân, họ đã bắn phá nhiều làng mạc để trả thù quân kháng chiến Italia đã cố tình tìm cách cản trở đường rút rui của họ. Trong tình cảnh này, Linh mục Decande, một Cha sở nhân lành vì muốn cứu dân làng Fiatsa gần thành phố Vêrôna khỏi bị quân Đức tàn sát, đã đích thân đến gặp viên quan chỉ huy đoàn quân Đức để van nài ông đừng bắt giết và tàn sát dân làng vô tội. Bị quẫn trí vì sự thất trận.Viên sỹ quan giận dữ ra lệnh bắt giam Cha Sở. Ông quát lên với Ngài: - Mày phải bị xử bắn và chết thay cho những tên kháng chiến phá hoại mà chúng tao không bắt được. Mày phải đền tội thay cho những kẻ khác!

Nói rồi, viên sỹ quan ra lệnh cho toán quân hành quyết sẵn sàng. Vị Linh mục bị trói, đứng bất động chờ loạt đạn của tiểu đội hành quyết. Bỗng nhiên từ hàng quân đang chĩa súng vào ngài đợi lệnh để nổ súng, một quân nhân bước ra khỏi hàng, tiến đến trước mặt ngài và nghiêm chỉnh chào. Rồi anh quay lại nói với vị chỉ huy của mình: - Tôi là tín hữu Công Giáo, không bao giờ tôi lại bắn vào vị Linh mục của Chúa.

Viên sỹ quan tái mặt. Ông ra lệnh trói luôn người lính can đảm kia bên cạnh vị Linh mục. Một vài phút sau đó, một loạt đạn nổ vang, hai thây người ngã gục, toán lính kéo hai xác người vùi xuống một hố bom gần đó. Dân làng Fiatsa không biết người lính Đức Công Giáo đó tên là gì, họ chỉ tìm thấy trên thi hài anh một sâu chuỗi mân côi.

Nghĩa cử của người lính Đức trên đây thật là can đảm! Anh đã nhận định được ngay điều phải làm khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn: Một đàng là bất tuân thượng lệnh, từ chối bắn vào người vô tội; một đàng là tuân lệnh thượng cấp để tham gia vào việc sát nhân. Anh đã biết chọn lựa đúng nguyên tắc: cương quyết tránh xa mọi tội ác dù có phải hy sinh cả tính mạng mình!

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho thánh Gioan Tẩy giả báo trước mầu nhiệm Con Chúa sinh ra và chịu chết

Xưa thánh nhân đã anh dũng hy sinh vì chân lý và chính đạo thế nào, thì nay xin Chúa cũng cho chúng con biết xả thân làm chứng cho Tin Mừng như vậy. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 15.Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết


--Én Nhỏ

Trong Tin Mừng hôm nay, vua Hêrôđê mới nghe thấy danh tiếng của Đức Giêsu nổi lên thì đã hoang mang lo sợ. Có tật giật mình, vua nghe thì sợ hãi cho rằng ông Gioan mà ông cho chém đầu đã sống lại để bắt tội vua chăng? Não trạng của người Do Thái bấy giờ cho rằng người sống lại có khả năng tuyệt vời, có quyền làm phép lạ. Vua sợ là phải, vì đã nhúng tay vào vụ giết người oan nghiệt trong Tin Mừng hôm nay. Bởi sự thường nếu sai một li đi một dặm, ông thỏa hiệp với thú vui trong tiệc tùng, vì trót nhẹ dạ thề hứa nên sợ mất mặt với quan khách. Một cô gái nhảy được tán thưởng và thế là số phận vị Tẩy Giả bị quyết định. Tội này kéo theo tội khác, từ chỗ ngang nhiên cướp vợ anh mình, gây ra oán hận hờn căm nơi bà Hêrôđia với ông Gioan Tẩy Giả vì bị “cản mũi kỳ đà», nên đã gây nên cái chết không án cho người vô tội. Đó là hậu quả gây ra nỗi sợ hãi bất an của vua. Ông bị ám ảnh bởi cơn ác mộng về người công chính đã bị ông sát hại. Hôm nay, ông mới chỉ nghe đồn chứ chưa gặp Ngài mà đã run sợ. Sau này ông có cơ hội gặp Ngài mà cũng chẳng đổi thay được chuyện gì. “Vua Hêrôđê thấy Đức Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời gì cả” (Lc 23,8-10). Ông muốn gặp vì tò mò, không thiện chí nên không giải quyết được gì và thêm thất vọng.

Tin Mừng hôm nay là một thảm kịch diễn ra trong một bữa tiệc, kết thúc thật là bi thảm với cái chết oan nghiệt của Gioan Tẩy Giả. Ông đã bị bỏ tù vì dám quở trách Hêrôđê Antipa về tội ngoại tình lộ liễu. Cuối cùng ông đã phải chết cách bi thảm vì sự thật. Trình thuật này khiến ta nghĩ đến số phận đang chờ đón Đức Giêsu, báo trước cho thấy cuộc khổ nạn, cái chết và cuộc an táng sau này của chính Ngài. Ông Gioan là chính hình ảnh phản ánh Đức Giêsu, đến độ mới chỉ nghe danh tiếng Đức Giêsu, vua Hêrôđê đã bị ám ảnh, mường tượng đó chính là hiện thân của Gioan Tẩy Giả trỗi dậy nên mới quyền năng như thế.

Cả cuộc đời và cả cái chết của ông Gioan đều báo trước cho sứ mạng Tiền Hô, tiền hô cả khi sống và cả lúc chết cho Đấng Cứu Thế. Cái chết của vị Ngôn sứ cuối cùng nói lên số phận của các Ngôn sứ là thế đó. Mở đầu và kết thúc đoạn Tin Mừng này đều nhắc tới Đức Giêsu, cho thấy cái chết của ông Gioan như mối liên hệ, là báo trước cho cái chết của Đức Giêsu. “Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giêsu.”

Gioan Tẩy Giả phải chết, Đức Giêsu cũng phải lãnh án tử, nhưng trổi vượt, vì chính Người đã sống lại từ cõi chết.

Ngày nay chúng con cũng được đồng hóa, nên một với Chúa, giống như Chúa. Xin cho chúng con can đảm sống Đức Tin, trung thành với chân lý như Gioan, để chúng con dám hy sinh cả mạng sống mình mà giúp anh em đến với Chúa, tin nhận Chúa và làm chứng cho sự thật. Amen.

 ------------------------------

 

Suy Niệm 16.Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết


--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Nghe danh tiếng của Đức Giê-su, nhất là về các phép lạ Người thực hiện, Vua Hê-rô-đê cho rằng Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết trỗi dậy: Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy! (Mc 6, 16)

Đó là một sai lầm; nhưng đối với chúng ta, sai lầm này lại mang nhiều ý nghĩa trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và đã loan báo cho chúng ta mầu nhiệm Vượt Qua rồi.

Vua Hê-rô-đê loại trừ một Gioan Tẩy Giả, thì lại có một Gioan Tẩy Giả khác xuất hiện. Như thế, Sự Thiện, Ánh Sáng và Chân Lý không thể bị loại trừ bởi bạo lực, nghĩa là bởi Sự dữ, Bóng Tối và Dối Trá.

Vua Hê-rô-đê làm điều dữ và ông bị dày vò bởi điều dữ, cái nhìn của ông bị chi phối tất yếu bởi điều dữ ông đã làm. Như thế, không phải Sự Thiện dùng phương tiện của Sự Dữ chống lại Sự Dữ, nhưng Sự Dữ sẽ tự hủy diệt Sự Dữ, như lời Thánh Vịnh loan báo: « Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài, còn con đây, thì được thoát khỏi” (Tv 141, 10).

Đức Giê-su không phải là Gioan Tẩy Giả sống lại, nhưng Ngài là Đấng ông loan báo, Ngài là niềm hi vọng của ông, là sự sống lại của ông. Thật vậy, nơi mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giê-su sẽ bị giết chết cách bất công như thánh Gioan, nhưng Ngài mạnh hơn sự chết, Ngài sẽ phục sinh và làm cho mọi người phục sinh, trong đó có thánh Gioan.

1. Thánh Gioan, “Người đi trước mặt Chúa” (Lc 1, 17 và 76)

Cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả được Tin Mừng Mác-cô, và hai Tin Mừng nhất lãm còn lại cũng vậy, tường thuật lại trong một bối cảnh đặc biệt, đó là những thắc mắc liên quan đến Đức Giêsu: (x. Mc 6, 16). Và để làm sáng tỏ những thắc mắc này, tác giả Tin Mừng đã kể lại thật chi tiết cái chết của Gioan. Như thế, cuộc đời của Gioan gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu biết bao. Vì thế, trong lời nguyện nhập lễ, chúng ta thưa với Thiên Chúa rằng thánh Gioan là người đi trước loan báo Đức Kitô cả trong cách sinh ra lẫn trong cách chết đi. Thậy vậy, khi vừa được sinh ra, bố Giacaria của Gioan đã nói rằng: Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người. (Lc 1, 76)

Và với bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta “chứng kiến” thánh Gioan hoàn tất thật trọn vẹn sứ mạng của mình, vì ông không chỉ đi trước chuẩn bị cho những lối bước của Đức Chúa bằng lời rao giảng và phép rửa, nhưng bằng cả cái chết nữa, và xét cho cùng, bằng cả cách mình được sinh ra nữa.

Chúng ta cũng vậy, bởi tình yêu và ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, cũng gắn liền với Đức Giêsu, vấn đề là chúng ta có nhận ra hay không.

2. Thánh Gioan bị trảm quyết

Như thế, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay rất mạnh mẽ, nhưng cũng thật kín đáo: thánh Gioan chuẩn bị đường đi cho Đức Giê-su một cách hoàn hảo bằng chính cái chết của mình, đúng hơn là bằng chính cách mình bị giết chết.

Thật vậy, bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta thật chi tiết bối cảnh dẫn đến cái chết của thánh Gioan, với sự tham dự của rất nhiều người, có thể nói của cả một vương quốc. Chúng ta có thể đọc lại từ từ và ghi lại những suy nghĩ và tâm tình mà trình thuật gợi ra cho chúng ta. Thánh Gioan bất động và im lặng trong ngục tù, nhưng lại làm bộc lộ ra những điều sâu kín nhất của con người: vô độ, sợ chân lí, ghen ghét, mưu đồ, bạo lực, phi nhân và có thể nói, thú tính. Những điều này thường được che đậy bằng những vỏ bọc vui vẻ, quảng đại, quí phái, danh dự…

Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su và nhất cái chết trên Thập Giá của Ngài còn có sức mạnh mặc khải sự dữ triệt để hơn và tuyệt đối hơn nữa, bởi vì Người là Con Chiên Vô Tội. Trong mầu nhiệm Vượt Qua, đối diện với Người sẽ là Sự Dữ và Sự Chết tuyệt đối, bởi lẽ Người là Sự Thiện và Sự Sống tuyệt đối. Người tự nguyện trở thành nạn nhân của Sự Dữ để hủy diệt Sự Dữ và chữa lành chúng ta khỏi Sự Dữ ngay hôm nay.

3. Phúc của thánh Gioan

Tuy nhiên, khi nghe hay đọc trình thuật này, chúng ta có thể tự hỏi một cách tự phát: vậy đâu là phúc của thánh Gioan, được loan báo khi mới sinh ra, khi mà ông đã cho đi tất cả, dâng hiến tất cả và cuối cùng, đã phải chịu chết như thế? Thánh Gioan loan báo Đức Kitô trong sự sinh ra, trong cuộc sống và trong cái chết, thì phúc của thánh Gioan, chính là trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Ki-tô. Và Tin Mừng đã kín đáo nói cho chúng ta điều này: sau khi bị giết chết, có kẻ nói về Đức Giê-su: “Đó là Gioan Tẩy Giả, từ cõi chết chỗi dậy” (c. 14). Như thế, phúc của thánh Gio-an là trở nên một với Đức Ki-tô trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người.

Nếu là như thế, phúc của thánh Gioan, cũng là phúc của mọi người Kitô hữu chúng ta, những người sống đời sống hôn nhân, cũng như những người sống đời dâng hiến, đó là Đức Giêsu Kitô trở nên một với chúng ta, nơi mầu nhiệm Nhập Thể và nơi mầu nhiệm Thánh Thể, để cho chúng ta có thể trở nên một với Ngài trong hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi, để cùng với Người đi vào Cõi Hằng Sống, là Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

------------------------------

 

Suy Niệm 17.Sự bất tử của thánh nhân


--gpphanthiet.com

Những bậc vĩ nhân thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do thái tin rằng vị tiên tri vĩ đại nhất của họ là Êlia đã không chết, nhưng được cất nhắc về Trời; khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của Êlia: rồi đến lượt Gioan Tẩy Giả bị giết chết, người ta lại cho rằng ngài đang sống lại trong con người Chúa Giêsu.

Có lẽ để xóa tan những lời đồn đoán như thế, thánh sử Marcô đã kể lại từng chi tiết cuộc xử trảm Gioan Tẩy Giả, cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy Giả đã thực sự chết và ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên trời như Êlia.

Gioan Tẩy Giả là nạn nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên những giá trị khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi người ta hành động theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng Hêrôđia đều đã hành động theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý, còn Hêrôđê thì cho dù vẫn sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng lại chọn sống theo bản năng hơn là lý trí.

Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy Giả, của các Tông Ðồ, của các Thánh Tử Ðạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành giây liên kết mọi Kitô hữu. Ðiều này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các thánh được đặt trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa Sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:

"Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi giây liên kết với Giáo Hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi giây liên kết hữu hình ấy. Ðây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Người mãi mãi".

Chúng ta cũng hãy hiên ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: "Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô".

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 ------------------------------

 

Suy Niệm 18.Tấn tuồng của con người


--gpphanthiet.com

Vua Hê-rô-đê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gia-an Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” Kẻ khác nói: “Đó là ông Ê-li-a.” Kẻ khác nữa nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ.” Vua Hê-rô-đê nghe thế, liền nói: “Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc. 6, 14-16)

Cái chết của thánh Gioan Baotixita là một trong những trang bi thảm nhất của Phúc âm vì những hoàn cảnh éo le đã xui nên. Những tâm tình hắc ám nhất của nhân loại đều thấy cùng gặp gỡ nhau ở đây: một người có ý định sát nhân, đúng hơn lại muốn để cho người khác can tội vì muốn bảo toàn danh dự mình hoặc khỏi mất thanh danh đối với những khách dự tiệc có lẽ đang say xỉn; một cô gái nhảy đùa giỡn với mạng sống con người với tư thế ung dung như cô đang chơi trò giật dây con rối vậy. Đó là một trong những trang bi đát nhất của tất cả tấn tuồng của con người từ đó để lộ ra lẫn lộn tất cả sự hèn nhát, nhân nhượng, mưu mô, thù oán, say sưa và tàn bạo hầu làm nên cái mà Mauriac gọi là uẩn khúc nham hiểm của loài rắn độc.

Tính nhu nhược của Hêrôđê là đầu mối cho tất cả sự việc này. Từ khi nghe lời Hêrôđia xúi xiểm tống giam Gioan Tẩy giả cho đến khi bị mắc kẹt trước các khách dự tiệc, không thể rút lại mà không phơi trần một sự yếu hèn hơn, Hêrôđê sẽ vẫn là một con người bị người khác vận dụng và sẵn sàng nhượng bộ tất cả với điều kiện là “giữ được thể diện” cho mình. Ông sẽ chẳng coi chi những tâm tình vị nể và cảm phục ông Gioan, người mà tự thâm tâm ông vẫn thích nghe.

Sau đó ít lâu, một tấn tuồng khác gần tương tự sẽ còn làm nổi bật tính nhu nhược này của con người. Tại pháp đình, trước đám đông người Do thái bị các trưởng tế xúi giục hò hét, Philatô sẽ rửa tay tỏ ra vô can trong cái chết của Đức Kitô, mặc dầu ông không tìm được chứng cớ nào để kết án tử Người.

Thiết lập một danh sách liệt kê những biến cố đại loại như trên, thiết tưởng không phải là chuyện khó làm. Những vụ giết người và phản bội thường có nguồn gốc là một lô những nhu nhược, hèn nhát, yên lặng đắc tội…Những người có quyền, có địa vị mà nhu nhược thường bao che cho những kẻ quỷ quyệt để chúng hưởng lợi. Quả thực, ít có những người có sự thật và biết tôn trọng sự thật đến cùng, một sự thật ngoan cường.

Còn chúng ta, chính chúng ta thường tỏ ra khôn khéo hơn trong vai những người mềm yếu và nhu nhược khi chúng ta diễn lại tấn tuồng trên đây của con người.

------------------------------

 

Suy Niệm 19.Số phận của ngôn sứ


--Ngọc Biển SSP

Có những cái chết đã đi vào bất tử, trường tồn, bởi nó đã trở thành biểu tượng cho một tinh thần bất khuất. Vì thế, muôn thế hệ sẽ còn tưởng nhớ chính nhân.

Cái chết đó chính là cái chết của Gioan Tẩy Giả.

Nếu các Ngôn Sứ là những người thay mặt Chúa, thông truyền sứ điệp của Thiên Chúa cho dân; sứ mệnh của các ngài chính là việc dạy dỗ, khuyên răn dân đi theo đường lối của Thiên Chúa để được sống; đồng thời, lên tiếng tố cáo những việc làm sai trái mà dân đang thực hiện. Mặt khác, các ngài cũng không quên một nhiệm vụ quan trọng, đó là nhắc dân từ bỏ con đường bất chính gian tà để trở về với Thiên Chúa. Chính vì thế, các ngài thường bị dân chúng giết chết để khỏi trướng tai gai mắt họ.

Thật vậy, Gioan cũng đã chung số phận khi lên tiếng tố cáo cuộc sống loạn luân của vua Hêrôđê khi ông ta bỏ vợ để cướp vợ của anh cùng cha khác mẹ với mình. Cuộc sống của vua đã trở thành đồi bại, vô luân, và nhất là gây nên một gương mù lớn trong dân.

Khi Gioan tố cáo Hêrôđê, thì đồng nghĩa với việc ông lên tiếng phản đối cả một hệ thống lãnh đạo suy đồi khi cùng với vua hưởng lạc trong lúc chứng kiến con gái bà Hêrôđia múa hát để chiêu mộ lòng vua!

Sự thật thì mất lòng! Gian dối lên ngôi! Tội lỗi hoành hành! Và, nhất là một con người nhu nhược, không có lập trường như Hêrôđê, Gioan đã bị giết dưới lưỡi gươm của tội lỗi!

Tiếp nối sứ vụ của Gioan, và nhất là thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, suốt hơn 2.000 năm nay, Giáo Hội không ngừng lên tiếng cho công lý, sự thật, bảo vệ những người nghèo, không có tiếng nói..., thế nên nhiều chứng nhân anh dũng đã can đảm nói không với ái ác, bất nhân và vô luân. Họ đã: "Vâng lời Thiên Chúa, hơn là vâng lời con người". Vì thế, biết bao nhiêu máu đào đã đổ ra và những đống xương “chất đầy thành núi” qua các cuộc tử đạo để gióng lên tiếng nói của lương tâm, hầu tố cáo những thói vô luân của con người, nhất là những vị lãnh đạo bất nhân và ham dục...

Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên ngôn sứ của Đức Kitô, trở nên người loan báo chân lý...

Tuy nhiên, theo bản tính tự nhiên, chúng ta khó có thể vượt qua được những toan tính thiệt hơn của con người, nên thay vì làm chứng cho Chúa, chúng ta lại phản chứng khi trở nên như Hêrôđê, ghen tỵ, oán ghét, và tàn độc.

Những lúc như thế, ấy là lúc chúng ta chưa dám sống công chính và đi theo giáo huấn của Đức Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm, trung thành với sứ vụ, đồng thời, xin cũng ban cho chúng con lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ cho anh chị em chúng con, khi bị thù ghét, bỏ vạ, cáo gian. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 20.Thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết


--ditimchanly.org

Ngày 29 tháng 8, Giáo hội kính nhớ việc thánh Gioan tẩy giả bị chặt đầu, nghĩa là cuộc tử nạn của Ngài. Vị tiền hô lừng danh này từ thiếu thời, đã lui vào sa mạc để sống khoảng 25 năm khổ hạnh. Vào tuổi 29, Ngài được lệnh từ trời cao sai đến bên bờ sông Jordanô giảng phép thống hối và loan báo việc Đấng Thiên sai sắp tới. Khắp nơi, người ta đến với Ngài.

Khi ấy, Chúa Giêsu từ Galilê tới xin Ngài rửa cho. Danh tiếng Ngài lẫy lừng khiến người Do Thái sai sứ giả đến chất vấn Ngài, Ngài khiêm tốn trả lời:

- Tôi không phải là đức Kitô.

Họ hỏi lại: - Vậy thì là ai ?

Ông đáp: - Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: hãy bạt lối Chúa đi.

Họ lại hỏi thêm: - Vậy tại sao ông dám thanh tẩy?

Ông trả lời: - Phần tôi, tôi thanh tẩy bằng nước. Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép Ngài. (x. Ga 1,19-27)

Rất mực khiêm tốn, nhưng tiếng tăm Ngài đã thấu tai Hêrôđê. Ông vua này biết Gioan "là người công chính và lành thánh nên vẫn che chở. Nghe ông thì Hêrôđê đâm phân vân nhiều nỗi nhưng lại cứ thích nghe" (x. Mc 6,20). Hêrôđê bị Gioan bắt lỗi về việc ông ta cưới Hêrôđia vợ của anh ông làm vợ mình. Gioan đã nói: - Ông không được phép lấy vợ của anh. (x. Mc 1,8)

Lời nói ấy phải trả giá bằng sự tự do. Gioan bị bắt tù. Nhưng việc tù tội của Gioan không làm giảm cơn giận của người đàn bà tội lỗi. Bà ta quyết tìm cách giết Gioan. Nhân một bữa tiệc Hêrôđê thết đãi tại hoàng cung, con gái mụ Hêrôđia vào nhảy múa giúp vui, nhà vua vui thích lắm, và hứa cho bất cứ gì nó muốn, ra hỏi người mẹ, nó trở lại hoàng cung và thưa: - Thần muốn Ngài ngự ban cho ngay trên chiếc đĩa cái đầu của Gioan Tẩy giả. (x. Mc 6,25)

Buồn phiền, nhưng vì đã lỡ thề hứa trước mặt quan khách, Hêrôđê đã sai thị vệ đi chặt đầu thánh nhân. Cái chết của thánh Gioan tẩy giả xảy ra khoảng một năm trước cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.

Bài tường thuật của Mác-cô về cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả rất rõ ràng và dễ hiểu.

Ta cần ghi nhớ 2 điều :

- Gioan đã chết vì can đảm nói sự thật, theo đúng chức năng ngôn sứ của mình.

- Cái chết của Gioan có nhiều nét tiên báo cái chết của Chúa Giêsu, vị ngôn sứ tiêu biểu: chết do can đảm sống sứ mạng của mình, chết do ác tâm của con người, chết trong sự thương tiếc của các môn đệ.

1. Trước hết, ta hãy nhìn vào Hêrôđê: một con người vẫn còn lương tâm (“vua nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe”), nhưng rồi lại không can đảm làm theo tiếng lương tâm của mình.

Văn hào Chateaubriand của Pháp vào thế kỷ 19 đã viết về lương tâm con người như sau: "Con sư tử sau khi giết và ăn thịt con mồi có thể nằm lăn ra ngủ, nhưng con người không thể ngủ yên sau khi giết hại một người đồng loại của mình”.

Thi hào Victor Hugo trong bài thơ "Lương tâm” đã mô tả tâm trạng vô cùng đau thương của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: "Cho dẫu Cain có đi đâu, cho dẫu ông có đào một huyệt sâu trong lòng đất để trú ẩn, ánh mắt lương tâm cũng không bao giờ buông tha cho ông”.

Con người có phẩm giá cao cả vì con người có lương tâm. Lương tâm chính là ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không ngừng dõi theo con người để mời gọi thôi thúc con người vươn lên. Thảm trạng đau thương nhất của cá nhân cũng như của xã hội chính là tiếng nói của lương tâm bị bóp nghẹt. Xét cho cùng, thảm trạng ấy cũng đồng lõa với việc loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Khi ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không còn nhìn xuyên qua tâm hồn con người nữa, thì đó là lúc con người đang dãy chết.

2. Ta nhìn tiếp đến bà Hêrôđia: một người đàn bà hoàn toàn để cho dục tình lôi cuốn. Vì dục tình, bà đã loạn luân. Vì thế, khi Gioan vạch tội bà, bà không ngại tìm dịp giết Gioan để không ai còn ngăn cản được cộc sống loạn luân của mình nữa.

Bà Hêrôđia đã làm những điều mà có lẽ ai trong chúng ta cũng lên án. Thế nhưng, xét cho kỹ thì trong thiên hạ cũng chẳng thiếu gì những người như thế. Không phải chỉ là loạn luân mà còn biết bao nhiêu tội ác khác nhiều khi còn tệ hơn nữa.

Tại một xứ Hồi giáo nọ, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:

- Tâu bệ hạ, xin cho thần được chồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không truyền lại cho hậu thế được.

Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn chồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:

- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.

Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:

- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.

Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.

Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:

- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.

Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.

3. Ta hãy nhìn nàng Salômê: một người có tài mà không có đức. Cô đã dùng tài múa nhảy của mình để đòi phần thưởng là cái đầu của một vị ngôn sứ.

Tài năng của con là những nén bạc Chúa trao để cho con sử dụng mà làm việc tốt phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Phục vụ chứ không khai thác để thỏa mãn những đam mê hay vơ vét vào cho mình. Chỉ khi nào, con người biết phục vụ thì lúc đó họ mới thấy cuộc đời của mình đậm đà ý nghĩa.

Dương Chấn, người đất Quan Tây đời nhà Hán, làm quan Thái Úy, tính tình thanh liêm, chánh trực. Khi đang làm Thứ Sử, ông có tiến dẫn Vương Mật làm Lệnh Doãn huyện Xương Ấp.

Một hôm, trời tối đi ngang qua Xương Ấp, Dương Chấn nghỉ lại đó một đêm. Vương Mật lén đem 10 lượng vàng đến để đền ơn thuở trước. Dương Chấn thấy vậy, trách Vương Mật:

- Ta biết tài ngươi, mà ngươi không biết được lòng ta.

Vương Mật cố năn nỉ:

- Đêm hôm khuya khoắt, không có một ai hay biết, ngài sợ gì?

Dương Chấn nghiệm mặt đáp:

- Sáng thì có trời đất biết, tối thì có quỷ thần soi biết, trong có ta biết, ngoài có ngươi biết. Chỗ hay biết có nhiều như vậy, sao ngươi gọi là không ai biết?

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đối với mọi người để cho lương tâm của chúng ta lúc nào cũng được thanh thản và bình an.

------------------------------

 

Suy Niệm 21.Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Trảm Quyết


--Lm Đa-minh Thiệu O.Cist

Thánh Gio-an Tẩy Giả là một nhân vật rất nổi bật trong Tân Ước. Mặc dù không phải là môn đệ của Chúa Giê-su, nhưng cả bốn sách Tin Mừng đều nhắc tới tên Ngài với một cách thức hết sức trân trọng. Ngay cả sách Công Vụ Tông Đồ cũng nhắc tới Gio-an. Ngoài danh dự được làm Tiền Hô của Chúa, Gio-an Tẩy Giả còn được phúc đích thân “trao ban” Phép Rửa cho Chúa Giê-su nữa. Không những thế, Ngài còn trả giá bằng chính mạng sống mình để làm chứng cho chân lý.

Theo Tin Mừng Lu-ca, Gio-an Tẩy Giả chào đời trước Chúa Giê-su đúng 06 tháng. Có lẽ vào cuối năm 27, Ngài đã đến hoạt động, rao giảng và làm Phép Rửa tại khu vực hai bên bờ sông Gio-an. Phép Rửa của Ngài được coi là chỉ dấu cho sự hoán cải khỏi tội lỗi để làm hòa với Thiên Chúa. Rất nhiều người đã quy tụ lại chung quanh Ngài để nghe Ngài rao giảng và khuyên nhủ thống hối. Có lẽ sức hút của Gio-an trước dân chúng đã khiến Herode Antipas – vua chư hầu của Galilea và Perea (4tcn – 39cn) – phải lo lắng. Ông ta sợ rằng, có thể Gio-an sẽ xúi dân chúng nổi loạn. Mà nếu dân chúng nổi loạn thì ngai vàng của ông sẽ bị đe dọa, bởi dân chúng quy tụ lại quá nhiều chung quanh Gio-an Tẩy Giả.

Đã vậy, Gio-an còn ngang nhiên trách móc vua Herode về lối sống vô luân và đồi bại của ông ta. Ông ta đã ruồng rẫy người vợ cả để lấy một người đàn bà khác. Bà này tên là Hedorias, cháu họ của Herode, và đang là vợ của người em cùng cha khác mẹ với Herode, đó là Philippus. Giữa Philippus và Herodias đã có một người con gái tên là Salome. Trước lối sống đồi bại đó của nhà vua, Gio-an đã không ngần ngại nói thẳng thừng với ông ta rằng: vua không được phép cưới bà Herodias làm vợ.

Đã sẵn bực tức với Gio-an vì Ngài quy tụ bên mình quá nhiều người, giờ đây lại bị Thánh Nhân khiển trách cách công khai, nên Herode đã ngay lập tức ra lệnh tống ngục vị Tẩy Giả. Lẽ dĩ nhiên, vua Herode rất muốn kết liễu cuộc đời Thánh Nhân ngay lập tức, nhưng ông tại lại sợ rằng, làm thế sẽ bị dân chúng nổi loạn, vì dân chúng coi Gio-an Tẩy Giả là một vị Đại Ngôn Sứ.

Và rồi chuyện phải đến cũng sẽ đến. Nhân ngày sinh nhật của mình, vua Herode đã mở tiệc mừng và mời rất nhiều quan khách. Ông cũng không quên mời Salome – con riêng của Hedorias và Philippus – đến dự với tư cách là người góp vui trong bữa tiệc. Salome đã nhảy một vũ điệu làm nức lòng quan khách. Có lẽ đã có sự giàn xếp trước, nên Herode cao hứng thề với cô gái nhảy rằng, cô muốn ông ta thưởng cho cô bất cứ điều chi cũng được, kể cả một nửa quốc gia. Salome vờ đi hỏi ý kiến mẹ. Mẹ cô phán rằng, lấy cái đầu của Gio-an chứ còn cái gì nữa! Cô ta chạy vào và nói với nhà vua, xin thưởng cho tôi cái đầu của vị Tẩy Giả. Nghe thế, vua Herode cũng làm ra vẻ rất ngỡ ngàng và do dự. Nhưng rồi, lấy lý do là không muốn làm cô gái phật lòng cũng như không muốn phủi tay đối với lời tuyên bố hùng hồn của mình trước toàn thể quan khách, nên ông đã ra lệnh cho lý hình vào ngục để lấy đầu Gio-an. Tên lý hình đã làm theo và ngay lập tức mang đầu Gio-an đến cho Salome. Nhận được đầu của vị Tẩy Giả như là một món quà, Salome lập tức mang chiếc đầu đó đến cho mẹ mình. Theo sử gia Flavius Josephus, thì cuộc Tuẫn Giáo của Gio-an Tẩy Giả đã diễn ra vào năm 29 tại lâu đài Macherus thuộc miền Perea, phía Đông sông Gio-đan.

Các môn đệ của Thánh Gio-an đã đến nhận thi thể Thầy mình và tổ chức an táng cho Thầy. Có lẽ họ đã an táng ông tại thành phố Samaria, nơi trước kia thuộc quyền kiểm soát của Herode Antipas, nhưng lúc bấy giờ ông đã không còn quyền kiểm soát trên nó nữa.

Mặc dù đã ra lệnh hành quyết Gio-an Tẩy Giả, nhưng vua Herode vẫn không cảm thấy an tâm khi ông nghe thấy những phép lạ lẫy lừng của Chúa Giê-su. Ông ta cho rằng, Chúa Giê-su chính là Gio-an Tẩy Giả đã sống lại từ trong kẻ chết. Và vì thế, thay vì an tâm vì đã giết được Gio-an, giờ đây Herode lại càng cảm thấy bất an hơn.

Còn về phía mình, Gio-an Tẩy Giả đã được các Ki-tô hữu tiên khởi đánh giá rất cao. Việc ông được cả bốn Tin Mừng nhắc tới với những lời lẽ rất trân trọng là bằng chứng cho thấy điều đó. Chính Chúa Giê-su khi nói về Gio-an Tẩy Giả cũng đã khẳng định rằng: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả” (Mt 11,11).

Việc tôn kính Thánh Gio-an Tẩy Giả được lưu truyền từ hồi Giáo hội sơ khai cho tới tận ngày hôm nay.

Người ta cho rằng, hộp sọ của Thánh Gio-an Tẩy Giả đã được mang tới Rô-ma và đang được bảo quản cũng như tôn kính tại nhà thờ San Silvestro in Capite của Rô-ma.

Ngoài Đức Mẹ và Chúa Giê-su ra, thì Thánh Gio-an Tẩy Giả là vị Thánh duy nhất được Giáo hội mừng kính cả trong ngày Sinh Nhật lẫn trong ngày Tuẫn Giáo. Lễ mừng Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả được Giáo hội cử hành vào ngày 24 tháng 06, tức trước Đại Lễ Sinh Nhật của Chúa Giê-su đúng 06 tháng. Còn Lễ mừng kính ngày Ngài Tử Đạo được Giáo hội cử hành vào ngày 29 tháng 08.

Người ta có thể đọc được trong Martyrologium Romanum (Danh Mục Các Vị Tử Đạo của Giáo hội Rô-ma) những lời sau đây về ngày 29 tháng 08: “Thánh Gio-an Tẩy Giả đã bị trảm quyết. Vua Herode đã ra lệnh chém đầu Thánh Nhân để mừng Đại Lễ Phục Sinh. Hôm nay, sự tưởng nhớ sẽ được cử hành cách long trọng, vì vào ngày này, chiếc đầu đáng kính của Thánh Nhân đã được tái tìm thấy. Sau này, chiếc đầu ấy đã được mang tới Rô-ma và được bảo quản cũng như được dân chúng tôn kính trong nhà thờ Thánh Silvester nằm tại cánh đồng Mars.”

Như vậy, sở dĩ Giáo hội kính nhớ cuộc Tuẫn Giáo của Thánh Gio-an Tẩy Giả vào ngày 29 tháng 08 là vì, theo bản văn trên, ngày này được cho là ngày tìm thấy hộp sọ của Thánh Nhân.

Trong ngày Lễ kính Thánh Gio-an bị Trảm Quyết, Giáo hội cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Thánh Gio-an Tẩy Giả báo trước mầu nhiệm Con Chúa sinh ra và chịu chết. Xưa thánh nhân đã anh dũng hi sinh vì chân lý và chính đạo thế nào, nay xin Chúa cũng cho chúng con biết xả thân làm chứng cho Tin Mừng như vậy. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô Con Chúa, Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.”

Còn sau đây là Kinh Tiền Tụng trong Lễ Kính Thánh Gio-an bị chém đầu:

“Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi, mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con. Chúng con ca ngợi những kỳ công Chúa đã thực hiện nơi thánh Gio-an Tiền Hô. Chúa đã thánh hiến người và cho người được vinh dự đặc biệt giữa các người thế . Chưa sinh ra người đã nhảy mừng khi Ðấng cứu độ trần gian ngự đến. Lúc chào đời người đã đem lại nhiều niềm vui. Người là vị ngôn sứ duy nhất chỉ cho dân chúng nhận ra Ðức Kitô là Chiên Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian. Hơn nữa, trong dòng sông Gio-đan, người đã làm phép rửa cho Ðấng thiết lập bí tích thánh tẩy để thánh hoá mọi người. Sau cùng, người đã sẵn lòng chịu chết để làm chứng cho Ðức Kitô. Vì thế, cùng với Triều thần thiên quốc, chúng con ở dưới trần gian luôn ca tụng Chúa uy linh cao cả và không ngừng tung hô rằng: Thánh, Thánh, Thánh…”

------------------------------

 

Suy Niệm 22.Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Trảm Quyết


--donggioanthienchua.net

- Hôm nay chúng ta tưởng niệm cuộc tử đạo của thánh Gioan Tẩy Giả. Tin Mừng cho biết ông Gioan Tẩy Giả bị giết như thế nào, không có việc tố tụng pháp lý, trong một bữa tiệc, là nạn nhân của sự thối nát và kiêu ngạo của vua Hêrôđê và triều đình của ông ta.    

- Mc 6:17-20:  Nguyên do ông Gioan bị bỏ tù và bị giết. Vua Hêrôđê là một viên quan làm việc cho đế chế La Mã, cai quản miền Paléstine kể từ năm 63 trước Công Nguyên. Hoàng đế Xê-da (Ceasar) trị vì Đế Quốc La-Mã. Ông ta là người đứng đầu tất cả, trong một chính quyền đương thời mà mọi nguồn lợi tức phải thuộc về Đế Chế và thuộc về hoàng đế. Mối lo lắng của vua Hêrôđê là sự thăng quan tiến chức và sự an nguy của mình. Đây là lý do tại sao ông ta đã khống chế bất kỳ một hình thức quấy rối nào. Ông ta ưa được gọi là ân nhân của dân, nhưng trong thực tế lại là một bạo chúa (xem Lc 22:25). Ông Flaviút Giôsépphê, một tác giả thời bấy giờ, cho biết rằng lý do mà ông Gioan Tẩy Giả bị bỏ tù vì vua Hêrôđê sợ rằng sẽ có một cuộc tổng nổi dậy hoặc cách mạng. Việc ông Gioan Tẩy Giả lên tiếng tố cáo chống lại sự suy đồi đạo đức của vua Hêrôđê (Mc 6:18), là giọt nước làm tràn ly, và ông Gioan đã bị tống ngục.

- Mc 6:21-29:  Âm mưu của kẻ sát nhân. Ngày sinh nhật và tiệc thết đãi thịnh soạn, với đàn ca nhảy múa và cuộc truy hoan là dịp để sát hại ông Gioan. Môi trường mà trong đó kẻ có quyền thế trong vương quốc gặp gỡ nhau và trong đó các liên minh được thành hình. Trong bữa yến tiệc có sự tham gia của “các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa”. Đây là môi trường mà trong đó việc thảm sát ông Gioan Tẩy Giả đã được quyết định. Ông Gioan, vị ngôn sứ, là một công tố viên sống vạch trần hệ thống nhũng lạm, và đó là lý do mà ông đã bị trừ khử với lý do tư thù cá nhân. Tất cả điều này cho thấy sự suy đồi đạo đức của Hêrôđê. Quá nhiều quyền lực tập trung vào tay một kẻ không có khả năng kiềm chế được bản thân mình. Trong lúc hào hứng của yến tiệc, của rượu ngon và của thịt béo, Hêrôđê đã trịnh trọng thề hứa với người thiếu nữ, một vũ công. Một kẻ mê tín dị đoan như ông ta, nhà vua nghĩ rằng ông ta phải giữ lời thề hứa. Đối với Hêrôđê, mạng sống của người dân không có giá trị gì. Đây là cách mà Thánh Sử Máccô thuật lại câu chuyện thật sự như nó đã xảy ra và cho các cộng đoàn nhiệm vụ đưa ra lời kết luận.  

-  Hàm ý, bài Tin Mừng hôm nay cho biết rất nhiều dữ liệu về thời Chúa Giêsu đã sống và về con đường mà quyền lực đã được thực hành về phần quyền thế vào thời đó. Xứ Galilêa, quê hương của Chúa Giêsu, dưới sự cai quản của Hêrôđê Antipát, con của Vua Hêrôđê Đệ Nhất, từ năm thứ tư trước Công Nguyên đến năm 39 sau Công Nguyên, 43 năm dài!  Trải qua suốt thời gian Đức Giêsu tại thế, không có thay đổi trong chính phủ tại xứ Galilêa!  Hêrôđê là chúa tể tuyệt đối của tất cả mọi thứ, và đã không đưa ra một báo cáo nào với bất cứ ai, ông ta đã tùy tiện theo ý mình. Con người ông ta là kẻ kiêu ngạo, kém đạo đức, chuyên chế, không có bất kỳ một sự kiềm chế nào từ phía dân chúng!

-  Hêrôđê kiến tạo một kinh đô mới, gọi là Tibêriađê. Cố đô Sépphori đã bị phá hủy bởi người La Mã để trả đũa lại việc tổng nổi loạn. Điều này xảy ra khi Chúa Giêsu được khoảng bảy tuổi. Tibêriađê, kinh thành mới, đã được khánh thành mười ba năm sau đó, khi Đức Giêsu độ khoảng 20 tuổi. Kinh đô đã được đặt tên đó để lấy lòng Tibêriút, Hoàng Đế La Mã. Tibêriađê là nơi xa lạ ở miền Galilêa. Đó là nơi mà nhà vua, “triều đình”, các bá quan văn võ, các thân hào của miền Galilêa đã sống (Mc 6:21). Các chủ đất, các binh sĩ, sĩ quan đã sống ở đó và có cả các quan tòa, những kẻ mà nhiều lần đã vô cảm, và thờ ơ (Lc 18:1-4). Các loại thuế và sưu và các nông sản của người dân đã bị chuyển tải về đó. Cũng tại đó, Hêrôđê đã tổ chức các cuộc truy hoan chết chóc của ông ta (Mc 6:21-29). Sách Tin Mừng không nói về việc Chúa Giêsu đã tiến vào kinh thành.

Trong suốt 43 năm cầm quyền của Hêrôđê, một tầng lớp quan lại, trung thành với đường lối của nhà vua, đã được tạo ra:  các Kinh Sư, các thương gia, chủ đất, những kẻ thu thuế chợ, những người thu thuế, quan quyền, vệ binh, quan tòa, người quảng cáo, các chức sắc địa phương. Đa số những người này sống tại kinh thành và được hưởng những đặc quyền mà Hêrôđê ban cho, ví dụ như được đặc miễn các thuế má. Còn những người khác thì sống trong các làng mạc. Trong mỗi làng hoặc phố thị luôn có một nhóm người thiên về chính quyền. Một số Kinh Sư và người Biệt Phái bị ràng buộc vào hệ thống và chính trị của nhà vua. Trong các sách Tin Mừng, các người Biệt Phái xuất hiện chung với những người theo phái Hêrôđê (Mc 3:6; 8:15; 12:13), và điều này cho thấy đang có sự liên minh giữa tôn giáo và các quyền lực dân sự. Đời sống của dân chúng trong các thôn làng miền Galilêa bị kiểm soát rất chặt chẽ, bởi cả phe chính quyền và lẫn tôn giáo. Cần phải có thật nhiều can đảm để bắt đầu một điều gì đó mới mẻ, giống như ông Gioan và Chúa Giêsu đã làm!  Điều tương tự đã lôi cuốn người ta vào sự giận dữ của những người có đặc quyền, những kẻ thuộc về giáo quyền cũng như những kẻ thuộc về chính quyền dân sự, tại cấp địa phương cũng như cấp trung ương.

Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân

-  Bạn có biết ai đã chết vì là nạn nhân của sự tham nhũng và thống trị của kẻ mạnh không?  Và tại đây, giữa chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta và trong Giáo Hội, có ai là nạn nhân của chế độ chuyên chế hoặc của chế độ quá nhiều quyền lực không?  Bạn hãy cho một ví dụ.

-  Mê tín dị đoan, tham nhũng, hèn nhát đánh dấu việc thực thi quyền lực của vua Hêrôđê. Bạn hãy so sánh điều này với việc thực thi quyền lực tôn giáo và quyền lực dân sự ngày nay, trong nhiều tầng lớp của cả xã hội lẫn Giáo Hội.

Lời nguyện kết
Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa,
xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ.
Vì Ngài công chính, xin cứu vớt và giải thoát con,
ghé tai nghe và thương cứu độ. (Tv 71:1-2)

------------------------------

 

Suy Niệm 23.Thánh Gioan tiền hô bị trảm quyết


—dongthanhthe.net
Gioan Tẩy Giả cũng đã tự ví mình là "tiếng kêu trong xa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng" và ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm phép rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua quan là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.

Qua đó, Gioan Tẩy Giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để đóng vai trò Tiền Hô chuẩn bị cho ngày Đấng Cứu Tinh sẽ đến.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, thật là chua xót nhưng cũng thật hào hùng khi đầu của thánh Gioan nằm trong tay một vũ nữ. Quyền lực của sự dữ tỏ ra mạnh mẽ, thắng thế, áp đảo. Còn quyền lực của sự thiện có vẻ mong manh, yếu đuối, bị bóp dẹp trong lòng bàn tay.

Cái chết của thánh Gioan cho con hiểu rằng đam mê tội lỗi làm cho lòng người ra mù quáng, lôi kéo từ tội này đến tội khác, từ sai lầm này đến sai lầm khác. Người này phạm tội kéo theo người khác phạm tội. Người phạm tội ngày càng đông, sự xấu ngày càng lan rộng. Trong khi đó, ít người dám sống công chính, ít người dám nói sự thật, ít người dám ngăn chặn sự ác, và lôi kéo người khác làm điều thiện. chính con cũng chẳng sống được như vậy.

Lạy Chúa, Chúa đã đến làm chứng cho công lý và dùng quyền năng của Tin Mừng để giải thoát cho thế gian khỏi tội lỗi. Chúa muốn chúng con nối tiếp sứ mạng của Chúa. Xin giúp chúng con dám sống theo Tin Mừng. Xin Chúa đừng để chúng con vì những đam mê, vì những mối lợi hay vì sợ bị thua thiệt cười chê mà rời xa lối sống Phúc Âm. Xin giúp chúng con can đảm ngăn chặn sự xấu đang diễn ra xung quanh. Chúa giao cho chúng con chịu trách nhiệm về người khác. Chúng con sẽ lỗi nặng khi thấy sai mà không lên tiếng, khi thấy đúng mà không làm, khi thấy tốt mà không kéo người khác theo. Xin Chúa tha thứ những thiếu xót, và xin Chúa giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 24.Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Trảm Quyết: Những Chọn Lựa


—Giuse  Ngô Văn Kha CSsR

Cuộc sống là một chuỗi dài những chọn lựa. Những chọn lựa vừa cho thấy giá trị bản thân của một người, vừa bộc lộ tầm vóc của người ấy.

Trình thuật Gioan Tẩy giả bị trảm quyết, tác giả Mác cô cho thấy những khuôn mặt xoay quanh cái chết của ông. Mỗi khuôn mặt được họa khắc đậm nét bằng những chọn lựa của mình, và hậu quả của những chọn lựa ấy là sự bi thảm trong sự đối kháng mãnh liệt, không khoan nhượng giữa hai yếu tố đối nghịch và luôn mang tính loại trừ là thiện và ác, công chính và bất nhân.

Khuôn mặt vua Hêrôđê, một hôn quân ngạo mạn, luôn thèm khát quyền lực, nhục dục và trác táng. Ông công khai loạn luân khi lấy Hêrôđia, chị dâu của mình làm vợ. Điều này khiến Gioan Tẩy giả, vị Tiền hô cho Đấng Mêsia, với lương tâm và trách nhiệm của một ngôn sứ, đã can đảm lên tiếng can ngăn, tố cáo hành vi sai trái, kêu gọi nhà vua trở về nẻo chính đường ngay.

Rất trọng thị vị ngôn sứ nhưng cũng lấy làm chướng. Tâm trí Hêrôđê bị giằng co, xâu xé giữa việc phải chọn lựa giữa chính và tà. Bên cạnh đó là sự lồng lộn căm thù của bà Hêrôđia muốn lấy mạng Gioan Tẩy giả để lấp đầy sự nhục nhã của mình, Hêrôđê đã chọn giải pháp bắt giam và xiềng ông trong ngục thất. Nhất cử lưỡng tiện, Hêrôđê coi giải pháp đó như sự chọn lựa của lương tâm bối rối, giữa hai điều xấu, chọn cái ít xấu hơn. Nhưng có đúng như thế không, hay chỉ là sự chọn lựa “ba phải”?

Tác giả Mác cô viết: “Một ngày thuận lợi đến: Nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrôđê mở tiệc thiết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái:’Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (Mc 6,21-23)

“Ngày thuận lợi” này thuận lợi cho ai? Thuận lợi để làm gì?

Đó là ngày thuận lợi để mọi người phải dứt khoát trong sự chọn lựa của mình, và vì thế cái tâm nhập nhằng – dứt khoát, lương thiện – gian ác phải bộc lộ, bộc lộ với tất cả trương lực của nó.

Nỗi buồn của vua Hêrôđê không thể dùng để biện minh cho thái độ lừng khừng hoặc hối tiếc, phải trả giá vì trót hứa. Biết đó là điều sai trái, ông không thể đổ toàn bộ trách nhiệm cho người xin. Không phải ông không can đảm để từ khước lời cầu xin phi nhân, mà ông buồn phiền, bởi sự cố này đã làm “xấu” công khai bộ mặt “vốn xấu” mà ông đã khéo che đậy bấy nay.

Cô con gái bà Hêrôđia, tuy còn tùy thuộc vào bà mẹ, nhưng cô cũng thích “ngay lập tức”, có được cái đầu Gioan Tẩy giả “đặt trên mâm”.

Bà Hêrôđia nhận đầu của Gioan Tẩy giả từ tay con gái, toại nguyện và thỏa lòng, như nguyên nhân và kết quả của sự chọn lựa bấy nay.

Cái chết của Gioan Tẩy giả trở nên mối phúc “bị bách hại vì lẽ công chính”. Vì binh vực cho công lý, để làm chứng cho lẽ phải, cho dẫu phải thiệt thân, Gioan Tẩy giả trở nên  là một sự chọn lựa ngôn sứ, luôn đứng về phía nẻo chính, đường ngay, trong tất cả mức độ lớn nhỏ.

Cái chết của Gioan Tẩy giả như thế vừa dọn đường cho Đấng Mêsia đến, vừa tiên báo sự chết Cứu độ của Người, trong sự lựa chọn cao cả nhất, trở nên mẫu mực, là chọn lựa thi hành thánh ý Thiên Chúa.

Trong một xã hội tôn vinh sự dối trá, sự thật bị coi thường, công lý bị phỉ nhổ, việc chọn lựa lối sống lươn lẹo với tất cả mánh khóe bất lương, phơi bày sự độc ác, thói chữa mình, cốt để bản thân được lợi là điều hiển nhiên. Liệu những người con của Chúa có dám chọn lựa là “tiếng kêu trong sa mạc”, có dám chọn lựa sống ngay chính và dám chọn chết cho những cám dỗ thường ngày?

 ------------------------------

 

Suy Niệm 25.Cái chết của Gio-an Tẩy Giả


—Cát Biển

Tin Mừng theo thánh Mác-cô kể lại việc Hê-rô-đê đã can dự vào cái chết của Gio-an Tẩy Giả. Nhà vua chịu áp lực từ những khách dự tiệc và mẹ con Hê-rô-đi-a.

Hê-rô-đê tuy đã cho người bắt giam Gio-an trước đó. Nhưng nhà vua luôn áy náy lo sợ trong lòng vì Gio-an là người công chính, là người dám nói sự thật, dám can ngăn lối sống vô luân của nhà vua. Hê-rô-đê còn che chở cho Gio-an trước sự căm thù của bà Hê-rô-đi-a  muốn giết chết Gio-an, vì ngài đã không cho phép hôn sự sai trái giữa Hê-rô-đê và Hê-rô-đi-a tồn tại.

Tuy là người có tự do lương tâm, nhưng Hê-rô-đê lại quá nhu nhược không có can đảm để tha chết cho Gio-an – người vô tội – chỉ vì một lời hứa đầy ngạo mạn trong lúc vui say yến tiệc. Hê-rô-đê chỉ nghĩ đến địa vị của mình, vương quyền của mình, danh dự của mình trong mù quáng, trong danh vọng thấp hèn mà đã làm cho một người công chính phải chết oan.

Lạy Chúa, xin cho con đủ can đảm sống theo lời Chúa dạy, giữa một xã hội xa lạ với Tin Mừng. Xin cho con luôn biết sử dụng sự tự do một cách chính đáng, để mọi quyết định luôn phù hợp với thánh ý Chúa. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 26.Sống vì yêu; chết vì chân lý


Cuộc đời của Gio-an Tẩy giả chính là lời chứng cho Đức Ki-tô, Đấng sẽ đến sau ông nhưng lại cao trọng hơn ông. Ông đã chết vì đã dám sống cho chân lý.  Gio-an đã cản trở cuộc hôn nhân sai trái của ông với bà Hê-rô-đi-a – vợ của Hê-rô-dê Phi-lip-phê, anh trai mình. Ông đã can ngăn nhà vua: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài”. Hê-rô-đê An-ti-pa đã bắt Gio-an tẩy giả và xiềng ông trong ngục.

Hê-rô-đê vẫn biết Gio-an là người công chính thánh thiện; Hê-rô-đê luôn nể sợ Gio-an. Nhưng Hê-rô-đê đã hèn nhát không dám đối diện với sự thật khi được Gio-an can ngăn không được loạn luân. Vì thế, đã nghe lời xúi giục của Hê-rô-đi-a xử trảm ngài. Chỉ vì một chút danh dự hão, mà Hê-rô-đê đã can dự vào cái chết vô tội một vị ngôn sứ.

Đây cũng chính là bài học cho đời sống gia đình hôm nay:

Nếu gia đình không được liên kết, ràng buộc bởi sự yêu thương chân thật, thì sự giả dối, gian trá sẽ lên ngôi. Một gia đình mà thiếu vắng tình yêu thương chân thật thì gia đình đó sẽ thiếu vắng Thiên Chúa. Mà không có Thiên Chúa – là tình yêu – Không sớm thì muộn chính sự xào xáo, bất hòa, sự bất trung trong gia đình chính là nguyên nhân làm gia đình phải ly tan, đổ vỡ là điều không tránh khỏi. Vợ chồng lúc đó sẽ là những Hê-rô-đê, và Hê-rô-đi-a mới. Lịch sử sẽ được lặp lại; gia đình sẽ biến thành địa ngục, chết chóc…

Lạy Chúa, xin cho con biết sống cho chân lý đức tin khi đối diện với những thật – giả luôn xảy ra hàng ngày; xin Chúa cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 27.Không im lặng trước tội lỗi và bất công


Thánh Gioan Tẩy Giả là người anh họ của Đức Chúa Giêsu. Thân mẫu ngài là thánh nữ Êlizabeth và thân phụ ngài là ông Zacaria. Chương đầu tiên của Tin mừng theo thánh Luca thuật lại biến cố sinh nhật tuyệt vời của thánh Gioan. Và Tin mừng theo thánh Mác-cô, nơi chương thứ 6, các câu 14-29, kể lại những chi tiết tàn bạo về cái chết của Gioan Tẩy Giả.

Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình là bà Hêrôđia. Gioan nói cho Hêrôđê biết điều ấy là sai, nhưng Hêrôđê và Hêrôđia không muốn nghe và giữ giới luật của Thiên Chúa. Họ chỉ muốn làm theo ý riêng mình. Và Gioan Tẩy Giả đã phải trả giá cho lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, thánh nhân không thể hành động theo cách khác được. Ngài không im lặng trước tội lỗi và bất công. Sứ mệnh của Gioan là mời gọi người ta cải hối cuộc đời; và ngài mong muốn cho hết thảy mọi người được ơn giao hòa cùng Thiên Chúa.

Hêrôđia đã giữ mối hận thù đối với Gioan. Và khi dịp thuận tiện xảy đến, bà đã ra tay sắp đặt để Gioan bị chém đầu. Gioan đã phải chấp nhận những hậu quả nghiệt ngã cho việc giảng dạy chân lý Phúc âm.

Thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối, chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Mêsia. Ngài đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giođan và được hưởng kiến niềm vui vì sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu đã khởi sự. Gioan Tẩy Giả đã khích lệ các môn đồ của mình đi theo Đức Chúa Giêsu. Ngài biết rằng danh Chúa phải tỏa sáng ra, còn danh mình phải lu mờ đi. Trong chương thứ nhất Phúc âm theo thánh Gioan, thánh Gioan Tẩy Giả nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, chỉ thức tỉnh người ta hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng mà thôi! Thánh nhân mời gọi mọi người hãy sẵn sàng để chuẩn bị đón nhận Đấng Mêsia. Sứ điệp của Gioan Tẩy Giả phải chăng cũng là sứ điệp của mỗi người chúng ta?

Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta luôn sẵn sàng để đón nhận Chúa Giêsu ngự đến trong cuộc sống của mình.

------------------------------

 

Suy Niệm 28.Lương tâm chân chính


--Cát Biển

Nhóm nhạc Lê Minh Bằng (1959), cho ra đời Đêm Nguyện Cầu – nhạc phẩm đầu tay của nhóm – được mở đầu với những ca từ như sau:

“Hãy lắng tiếng nói vang trong tâm hồn mình, người ơi

Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối…”

 Làm đánh động lương tâm nhiều người yêu hòa bình; chán ghét chiến tranh hận thù… trong những năm đất nước còn chiến tranh tương tàn.

Hôm nay, Giáo hội tưởng nhớ cái chết bi thương của một vị thánh đã dám bày tỏ lương tâm chân chính của mình để bảo vệ chân lý; can đảm chấp nhận trảm quyết để nói lên sự thật; và đã nên chứng nhân anh hùng cho Tin Mừng Cứu Độ…

Vị đó chính là Gio-an Tẩy Giả. Ngài đã bị bắt giam trong ngục và bị chặt đầu bởi sự mê muội và tàn ác của vua Hê-rô-đê cũng như của bà Hê-rô-đi-a.

Cái chết của Gio-an Tẩy Giả chính là “cú hích can đảm” cho những ai đang và sẽ làm chứng cho sự thật; làm chứng cho Đức Ki-tô, mặc dù biết rõ nếu dám làm chứng như thế sẽ bị bách hại, sẽ bị giết chết.

Gio-an Tẩy Giả đã đi qua cái chết để hoàn thành sứ mạng tiền hô của mình một cách tốt đẹp…

Lời thề hứa thiếu khôn ngoan, ích kỷ; một lương tâm hèn nhát; một sĩ diện hão của Hê-rô-đê; và sự đam mê dục tình, mưu mô hiểm độc của bà Hê-rô-đi-a vẫn còn nhan nhãn, vẫn còn đang tiếp diễn trong thế giới hôm nay dưới các hình thức: Không tôn trọng phẩm giá con người; không tôn trọng sự thật, công lý; nuôi lòng hận thù, ích kỷ, ghen ghét; mê đắm thụ hưởng khoái lạc, tôn thờ của cải vật chất, và ham thích sự bất chính…

Nếu người tín hữu Chúa Ki-tô không sống theo giá trị Tin Mừng; không biết sống yêu thương, tôn trọng nhau như Chúa đòi hỏi; không dám bảo vệ công lý, hòa bình, xây dựng nền văn minh tình thương trong môi trường sống của mình và trong đời sống gia đình của mình… thì họ cũng chính là bạo vương Hê-rô-đê và ác phụ Hê-rô-đi-a đó thôi !

Lạy Chúa Giê-su, Chúa chính là đường, là sự thật và là sự sống. Xin cho các Ki-tô hữu biết noi gương thánh Gio-an Tẩy Giả, sống chân thật và can đảm làm chứng cho sự thật để mỗi Ki-tô hữu trở nên những chứng nhân anh dũng của Chúa giữa lòng thế giới hôm nay. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 29.Hãy sống trong sự thật


-- M. Liên

1. Ghi nhớ:

Cô gái đi ra hỏi mẹ: “con nên xin gì?”. Mẹ cô nói: “Đầu Gioan Tẩy Giả”. Lập tức cô vội trở về bên nhà vua và xin rằng: “con muốn ngài ban cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả, đặt ngay trên mâm” (Mc 6, 24-25)

2. Suy niệm:

Cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, đã giúp cho cả  nhân loại ghi nhớ tấm gương của Ngài để lại cho hậu thế là “hãy sống trong sự thật”. Qua đó, đây cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại thái độ của mình khi đứng trước bao sự bất công và những điều bất chính trong xã hội. Thánh Gioan Tẩy Giả trong suốt cả cuộc đời mình và ngay cả cái chết của Ngài cũng đều phục vụ cho sứ mạng Tiền Hô.

Chúa Giêsu đã xác nhận vai trò này của Gioan Tẩy Giả qua việc ông lên án một vua Hêrôđê đi đường tội lỗi, sống trong bóng tối, không nhìn ra sự công chính, một Hêrôđê sống loạn luân với vợ của anh mình, một sự trác táng không thể tha thứ được. Hêrôđê đã sống với cuộc sống có thể gọi là “ma-kê-nô” (mặc kệ nó) cứ vui thú đi, với lối sống băng hoại, tìm thỏa mãn cho riêng mình, hưởng thụ, bào chữa cho mình nhiều lý do mà cần đến đời sau. Gioan Tiền Hô đã đến để minh chứng cho sự thật của chân lý, một Gioan không chịu khuất phục cái chướng tai gai mắt của một xã hội đang đi vào đà suy thoái, tiếng gióng của Gioan Tiền Hô cảnh tỉnh cho nhiều người, nhiều thế hệ, sống làm chứng cho sự thật, kêu gọi mọi người sám hối.

Xã hội ngày nay cũng không khác gì hoàn cảnh sống của Gioan Tẩy Giả ngày xưa là mấy, khi chúng ta phải đối diện với nhiều căn bệnh “nan y” như “bệnh dối trá”, làm ăn gian dối, lừa đảo, phi pháp. Chỉ cần một chút lợi nhuận, người ta có thể bán rẻ lương tâm mình mà thản nhiên cung cấp, bày bán tràn lan những thực phẩm bẩn, nhiễm độc hóa chất gây ung thư gây giết người từ từ, tiếp tay cho những người xấu bán hàng chỉ vì món lợi trước mắt. Liệu mỗi người chúng ta có dám can đảm đứng lên, như Gioan Tẩy Giả khi xưa, mà nói không và kiên quyết cự tuyệt với những điều xấu xa bất lương này? Hãy sống thật với lương tâm mình, sống trong sự thật ngay trong gia đình, nơi xã hội, nơi cộng đoàn, ngay nơi huynh đoàn chúng ta đang sống, qua cách hành xử với nhau, đừng vì cái tôi, danh vọng, tiền tài, mà bẻ cong sự thật, đôi khi làm mất đi tình hiệp thông huynh đệ nơi ta đang sống.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người Kitô hữu sống trọn vẹn với ơn gọi và sứ mạng mình, dù ở hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể làm chứng cho Chúa bằng sự thật: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6). Dù xã hội ngày nay có biến đổi và suy thoái đến mức độ nào, nhưng nếu mỗi người chúng ta vẫn giữ vững đức tin của mình để sống ngay thẳng và làm chứng cho sự thật, thì dù bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn có Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Và sự thật hiển nhiên đó có rất nhiều minh chứng cụ thể diễn ra trên thế giới hằng ngày, như câu chuyện sau đây về một em bé người Nhật:

Một học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói : “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là “Kitô hữu, ta phải làm gì.” (Góp nhặt)

Cầu nguyện:

Lạy Chúa là đường là sự thật và là sự sống, xin chỉ dẫn chúng con sống trong chân lý và sự thật, nhờ sự thật trong Đức Kitô dẫn đưa mọi người đến phúc trường sinh. Amen.

------------------------------

 

Suy Niệm 30.Sống cho chân lý và sự thật


1. Ghi nhớ: Ông Gioan lại bảo: “Ngài không được phép lấy vợ của anh Ngài” (Mc 6, 18)

2. Suy niệm:

Vốn bản tính con người, Hêrôđê cũng luôn bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt. Sự chọn lựa của một tâm hồn yếu đuối bảo thủ thường đem sự thiệt hại cho người khác. Sự dối trá, hèn nhát của Hêrôđê cộng thêm yếu đuối xác thịt  nên ông đã lấy vợ của anh mình là Hêrôđê Philip. Ông đã bị cái xấu đánh gục trước khi kịp tìm về nẻo chính đường ngay.

Nhìn vào lối sống của Hêrôđê, mỗi người chúng ta cần nhìn lại và soi rọi lại bản thân mình đã thực sự sống làm tôi Thiên Chúa chưa hay đã làm nô lệ cho cái xấu như thế nào? Dù ở thời đại nào cũng vậy, mỗi người cần có sự can đảm, cần biết loại trừ ghen ghét, thù hận, bất công và giết người dưới mọi hình thức nào, noi gương Thiên Chúa tìm sự yêu thương, tha thứ cho kẻ thù của mình. Con người nếu không có sự yêu thương chân thành, gia đình sẽ biến thành địa ngục trần gian như gia đình Hêrôđê, đồng thời sẽ phải trả giá đắt cho việc làm của mình.

3. Sống Lời Chúa: Học cùng Chúa luôn sống cho chân lý và sự thật

4. Cầu nguyện:

Lạy Chúa! Xin giúp chúng con biết khiêm tốn nhận lỗi lầm, sẫn sàng chấp nhận mọi đớn đau thua thiệt và luôn làm chứng nhân cho Chúa Giêsu trong mọi cay đắng của cuộc đời.

------------------------------

 

Suy Niệm 31.Phúc thay người “chịu khốn nạn vì đạo ngay”


“Lập tức, vua sai thị vệ đi …. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông Gio-an Tẩy giả ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ.” (Mc 6,27-28).

Suy niệm: Dù không bị bắt phải bước qua thập giá hay phải chối bỏ đức tin như các vị thánh tử đạo, thánh Gio-an Tẩy giả bị chết tức tưởi chỉ vì một lời nói ngay, bênh vực cho đạo lý: “Nhà vua không được lấy vợ của anh mình.” Dùng lời nói, cuộc sống và cuối cùng dùng cả cái chết của mình để rao giảng cho chính đạo như thế, Gio-an Tẩy Giả xứng danh là một vị tử đạo đầy đủ ý nghĩa, đúng như Lời Chúa nói trong Tám Mối Phúc Thật: “Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật” – nói theo ngôn ngữ hiện đại là “ai vì bênh vực cho công lý, cho lẽ phải mà phải chịu thiệt thân” người ấy được hưởng hạnh phúc giống như những người dám liều thân làm chứng cho Đức Ki-tô vậy.

Mời Bạn: Lời Tertulianô, một văn sĩ công giáo cổ thời, vẫn còn giá trị: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống làm trổ sinh các tín hữu.” Để có thể dám chết vì chính đạo, ta phải dám sống vì chính đạo trước đã. Chính cái chết từng ngày qua việc từ bỏ tính ích kỷ, từ bỏ những đam mê dục vọng, những việc làm bất chính sẽ dẫn đưa chúng ta đến cõi sống muôn đời và là những hạt giống âm thầm được vùi trong cuộc sống để làm trổ sinh các tín hữu mới.

Chia sẻ: Sống đạo là “sống-tử-đạo”. Để sống-tử-đạo bạn cần từ bỏ những gì?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày bạn sống-tử-đạo bằng cách làm một hy sinh nhỏ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con biết từ khước những thói hư tật xấu, chết cho ý riêng con mỗi ngày để luôn sống trong tình yêu của Thiên Chúa.

------------------------------

 

Suy Niệm 32.Lễ thánh Gioan Baotixita bị trảm quyết


--GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

Qua đoạn Tin Mừng này, Thánh Marcô đã thuật lại cho chúng ta biết về sự việc Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết. Với sự kiện này nói lên Gioan thật là một người công chính, ngay thẳng và hết sức can đảm, dám chỉ trích việc làm sai trái của một vị vua. Chắc chắn rằng, khi Gioan nói lên điều này ngài đã biết những gì sẽ xảy đến cho bản thân mình.

Quả thật, chỉ qua lệnh truyền của một bạo chúa, thì một nhát đao phát qua và một cái đầu đã phải rơi xuống trong ngục tối. Đó là những diễn tiến để kết thúc cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả, một biến cố mà Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm ngày hôm nay.

Chúng ta thấy chỉ vì một lời thề thiếu sự khôn ngoan, một quan niệm rất thiển cận về danh dự ảo của một bạo chúa mê đắm quyền lực và tửu sắc, cùng với lòng hận thù của một phụ nữ loạn luân, xấu xa, đã khiến cho Gioan Tẩy Giả phải chết không toàn thân. Thế nhưng, chính cái chết này đã nâng ngài lên cao trên đài danh vọng, danh vọng của các vị tiên tri đích thực, vì Gioan cũng bị đau khổ, bị giam cầm và bị giết chết bởi chính lời mình rao giảng.

Gioan Tẩy Giả đã từng ví mình là "tiếng hô trong xa mạc" và ngài đã thực hiện trọn vẹn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm phép rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, ngài không nể nang hay phải khiếp sợ một ai, kể cả tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, mà cụ thể chúng ta thấy là tội loạn luân của vua Hêrôđê và bà Hêrôđia, là vợ của anh trai nhà vua.

Quả thật, Gioan Tẩy Giả là một con người đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật. Ngài đã dám nói sự thật về hiện tình của xã hội, về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để thực hiện sứ mạng tiền hô chuẩn bị cho ngày Đấng Cứu Thế sẽ đến.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy dám sống sự thật trong xã hội mà chúng ta đang sống. Một xã hội vẫn còn đó có biết bao nhiêu chuyện bất chính và tội ác, nhưng rồi chẳng thấy mấy ai dám lên tiếng để cảnh báo hay để chống lại, có vẻ như mọi sự đang im hơi lặng tiếng.

Xin cho mỗi người tín hữu chúng ta biết can đảm sống cho sự thật, biết xây dựng cho nhau qua sự góp ý và mạnh dạn chỉ ra những lỗi lầm thiếu sót, những sai trái trong đời sống đời thường cũng như trong công tác tông đồ.

Rất ước mong mỗi người chúng ta luôn biết noi gương của thánh Gioan dám lấy lập trường khẳng khái, thẳng thắn, mạnh mẽ phản đối lại những gì đi ngược lại với chân lý, với sự thật.

Xin Chúa cho chúng con sức mạnh để dám dấn thân như thánh nhân trong xã hội ngày hôm nay. Amen.

----------------------------------
 

Thứ 4:

Mồ mả tô vôi.
"Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri".

 

Lời Chúa: Mt 23, 27-32


Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các ngươi đầy sự giả hình và gian ác.
Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những người công chính, và các ngươi nói rằng: "Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên tri". Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi".

----------------------------------

 

Suy niệm 1: Có vẻ công chính


(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Ở xứ Paléttin, các ngôi mộ thường được quét vôi màu trắng,
để người Do-thái dễ nhận ra và tránh xa.
Đặc biệt trước lễ Vượt qua, mộ được quét vôi lại,
vì có đông đảo khách hành hương tuốn về quê dự lễ.
Ai bất cẩn đụng vào mộ là bị trở nên ô uế trong bảy ngày (Ds 19, 16).
Đối với người Do-thái, ngôi mộ là điều nên tránh,
vì bên trong đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô nhơ (c. 27),
tuy bên ngoài có vẻ sạch sẽ tốt đẹp.
Đức Giêsu đã dám ví các kinh sư và người Pharisêu với ngôi mộ,
vì bên ngoài họ có vẻ công chính trước mặt người ta,
nhưng bên trong thì đầy đạo đức giả và gian ác (c. 28).
Có sự tương phản giữa cái có vẻ bên ngoài và cái thực tế bên trong.
Bên ngoài không diễn tả bên trong, nhưng làm hiểu sai cái bên trong.
Tất cả nỗ lực của chúng ta là làm cho bên ngoài và bên trong nên một,
để ai thấy bên ngoài của ta đều biết được điều sâu kín bên trong.
Đức Giêsu còn đề cập đến một sự giả hình khác (cc. 29-32),
đó là việc các người Pharisêu xây mồ, tô mả cho các ngôn sứ thời xưa.
Họ khẳng định mình không can dự và tội giết các ngôn sứ của cha ông họ.
Tiếc thay, họ lại can dự vào tội giết các ngôn sứ do Đức Giêsu sai đến,
qua đó họ cho thấy mình đúng là người thuộc dòng dõi của cha ông,
Khi đọc toàn bộ chương 23 của Tin Mừng Mátthêu
về những lời phê phán của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo tôn giáo,
chúng ta có thể bị sốc, vì chúng quá nặng nề.
Liệu Đức Giêsu hiền lành có nói nguyên văn những lời như thế không?
Điều cần biết là không phải người Pharisêu nào cũng giả hình.
Có nhiều người thực sự thánh thiện đạo đức,
và Đức Giêsu đã có tương quan tốt với một số người trong nhóm.
nhưng trong nhiều dịp khác nhau, và Mátthêu gom lại thành một chương.
Cuối cùng không nên quên là hầu chắc giọng điệu gay gắt của chương này,
Vào thời Mátthêu viết Tin Mừng này, có những kitô hữu bị bách hại,
bị đánh đòn, bị giết và đóng đinh bởi người Do-thái (Mt 23, 34).
Bởi đó những lời của Đức Giêsu nhắm vào người Pharisêu ngày xưa,
lại trở thành lời nhắc nhở chúng ta hôm nay,
những người sống trong Hội Thánh và những người lãnh đạo.
Thói giả hình về đạo đức thời nào và ở đâu cũng có.
Nó tạo ra một bầu khí dối trá trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.
Hội Thánh vẫn muốn cho đọc bài Tin Mừng gây sốc này
vì các kitô hữu vẫn bị cám dỗ giữ đạo bên ngoài mà không sống đạo.
Thật ra chúng ta chỉ có thể rao giảng Tin Mừng cho con người hôm nay
khi những khoảng cách giữa lời nói và hành động được xóa bỏ,
khi người ta thấy sự thống nhất trong lối sống của chúng ta,
khi mọi mặt nạ được cởi ra, và sự thật được tỏ hiện.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
 
----------------------------------

 

Suy niệm 2: Mồ mả tô vôi


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong ta luôn luôn có những góc tối khuất nẻo, khó có ai nhìn thấy. Nói và làm không đi đôi với nhau. Đó là những yếu đuối của con người muôn thưở. Nhưng nếu thỏa hiệp và tệ hơn nữa chủ trương để những tương phản đó trở thành một thái độ sống thì thật tồi tệ. Người ta trở thành giả hình và lừa dối. Đó là trường hợp những người Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su gọi họ là những mồ mả tô vôi.

Là mồ mả tô vôi vì phần bên ngoài quá đẹp đẽ. Người Pha-ri-sêu am hiểu Lề Luật, được tôn làm bậc thầy dậy dỗ Lề Luật cho mọi người. Ngoài ra họ còn nêu gương về đời sống đạo đức, ăn chay và cầu nguyện rất nhiều. Nhưng bên trong tâm hồn lại là một tương phản đáng ghê tởm: đầy sự gian ác và đạo đức giả.

Là mồ mả tô vôi vì họ xây mộ các tiên tri mà cha ông họ đã giết. Một hành vi che đậy tội lỗi dưới lớp vỏ bọc nhân nghĩa. Ác nhân được tiếng là thiện nhân. Tội nhân mặc lấy áo thánh nhân. Vì hôm nay họ vẫn tiếp tục giết Chúa Giê-su, một tiên tri trổi vượt trên mọi tiên tri. Tội ác của họ còn nặng nề hơn tội của cha ông họ gấp bội.

Theo lời dạy của Chúa, thánh Phao-lô không chấp nhận lối sống hai mặt như mồ mả tô vôi. Nên thánh nhân đã phê phán những người mang danh Ki-tô hữu nhưng sống vô kỷ luật, không xứng với danh hiệu. Ngài ra chỉ thị rõ ràng: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn”. Chính bản thân ngài luôn sống một cuộc sống chân thực, không giả dối, hình thức bề ngoài. Không ngồi trên tòa, “không ăn bám ai, trái lại đêm ngày làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người khác”. Dù ngài “có quyền hưởng sư giúp đỡ” và được trọng vọng (năm chẵn).

Sống chân thực nên ngài sống “thánh thiện, công minh, không chê trách được”. Không xa cách dân chúng nhưng “cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con”. Không nói lời của mình mà chỉ “nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa”. Không giữ tín hữu lại cho mình, nhưng qui hướng mọi tâm hồn về với Chúa: “chúng tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa”. Không tìm vinh quang cho mình, nhưng tìm vinh quang cho Chúa và hướng mọi người đáp lại lời của “Đấng kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người” (năm lẻ).

Đời sống của tôi hôm nay thế nào? Có trung thực trước mặt Chúa và anh em không? Tôi vẫn còn điều gì phải che giấu? Hãy sống trung thực. Vì ta chẳng thể lừa dối Chúa.

 ----------------------------------

 

Suy niệm 3: Kết án tội giả hình


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án nữa của Chúa Giêsu chống lại các Luật sĩ và Biệt phái.

Với lời kết án thứ sáu, Chúa Giêsu ví các Luật sĩ và Biệt phái như những mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Tại Palestina, người dân có thói quen quét vôi trắng các mồ mả, nhất là vào dịp lễ Vượt Qua, để người ta có thể nhận ra và tránh xa khỏi bị nhơ uế ngăn trở cho việc phụng tự. Vẻ đẹp bên ngoài của các mồ mả che dấu thực tại ghê tởm bên trong. Cũng vậy, các Luật sĩ và Biệt phái bên ngoài xem ra là những người công chính, nhưng bên trong thì đầy sự giả hình và tội ác; việc họ giữ luật cách nghiêm nhặt chỉ là tấm màn che đậy một đời sống tương phản với những điểm cốt yếu của Lề Luật Thiên Chúa, đó là sự công bình, lòng bác ái và trung tín.

Trong lời kết án thứ bẩy, Chúa Giêsu tố cáo sự giả hình của các Luật sĩ và Biệt phái: họ xây mồ cho các tiên tri và sửa sang phần mộ những kẻ mà cha ông họ đã sát hại; họ than trách tội ác của cha ông họ trong quá khứ và tự phụ rằng nếu sống vào thời tổ tiên, họ sẽ không hành động như thế; nhưng họ quên rằng họ là con cháu của những kẻ đã sát hại các tiên tri, và giờ đây họ đang đi vào con đường đó bằng việc mưu hại Ngài.

Chúa Giêsu cũng chờ đợi nơi mỗi người chúng ta những thành quả tốt đẹp của việc cải hóa tâm hồn, nếu không, chúng ta cũng sẽ phải lãnh nhận số phận như các Luật sĩ và Biệt phái: cây khô sẽ bị chặt đi và bị ném vào lửa đời đời. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự giả hình, khỏi tính ích kỷ và tự mãn. Xin cho chúng ta khiêm tốn nhận mình tội lỗi và thành tâm trở về với Chúa.

----------------------------------

 

Suy niệm 4: Xét lại đời sống mình


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lời trách của Chúa Giêsu gọi các văn sĩ và những người biệt phái Pharisiêu sống giả hình như những mả tô vôi thật là rõ ràng và thức tỉnh chúng ta hãy xét lại đời sống của mình. Tục lệ của dân Do Thái Palestine thời Chúa Giêsu là sơn mồ mả bằng màu vôi trắng để cho người khác dù ở xa cũng có thể nhận ra dễ dàng và dừng lại đàng xa để khỏi bị nhiễm ô uế.

Hình ảnh cái mả tô vôi trắng làm cho mỗi người chúng ta hiểu sâu xa hơn về sự giả hình. Giả hình là một thái độ gán cho mình điều tốt mà thật ra mình không có hay không làm. Bên ngoài chúng ta chứng tỏ mình là người tuân giữ luật Chúa nhưng bên trong tâm hồn thì lại tích chứa những điều xấu xa không như là những mệnh lệnh của Chúa đòi hỏi.

Nhìn về kinh nghiệm sống của mình, chúng ta có thể cảm nghiệm được tầm mức của những lời kết án của Chúa không phải như là chuyện đã qua của thời quá khứ nhưng có liên quan đến mỗi người chúng ta hôm nay, chúng ta có che giấu những tội lỗi tật xấu của mình bằng những tấm kịch cho qua lúc. Chỉ có phương thế duy nhất để tránh những lời kết án trên của Chúa là sự thật lòng ăn năn trở lại, là khiêm tốn và can đảm bỏ đi những mặt nạ mà chúng ta quen mang từ trước đến nay. Chúng ta đừng trở thành những người chỉ có danh hiệu là Kitô mà kỳ thực là những con người xa lìa Chúa. Chúng ta đừng sống theo ảo tưởng của những lời khen tặng của kẻ khác mà tưởng mình là kẻ chi chi, nhưng hãy ý thức rõ về thân phận tội lỗi của mình và khiêm tốn xin Chúa thứ tha.

Lạy Cha,

Chúng con chúc tụng Cha, Ðấng ngự trên trời, vì đã giải thoát chúng con khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết nhờ qua cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, Con Cha. Xin Cha hãy đổ tràn ân sủng tình yêu của Cha trong tâm hồn chúng con ngõ hầu chúng con biết đáp lại những ơn soi sáng của Cha một cách chân thành.

Lạy Cha, xin giải thoát chúng con khỏi sự giả hình.

----------------------------------

 

Suy niệm 5: Mồ mả quét vôi


Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt. 23, 27)

Một lần nữa, Đức Giêsu tiếp tục nhấn mạnh cái hố sâu giữa thực chất của hữu thể và cái ảo ảnh. Tư tưởng này được soi sáng bằng một hình ảnh khá kinh khủng.

Hằng năm, trước mấy ngày lễ Vượt qua, người Do-thái quét vôi những mồ mả của họ. Chính là để thấy rất rõ và tránh động đến mồ mả sợ bị dơ, lỗi phạm đến luật trong sạch. Quét vôi trắng phản chiếu ánh mặt trời lấp loáng không che giấu được đống hôi thối bên trong nấm mồ.

Thánh ý Thiên Chúa

Mồ mả, đó là hình ảnh biệt phái, cũng là hình hài chúng ta. Những ảo ảnh bên ngoài về công bình không thể che lấp sự độc ác bên trong. Tất cả cái hiện thấy bên ngoài chỉ là lừa gạt, giả hình người ta có thể tự lừa dối mình, mình sống theo thánh ý Thiên Chúa nếu chỉ lo lắng theo nghĩa đen, thay vì sống sâu sa tận thâm tâm tinh thần.

Thiên Chúa làm sống lại rất nhiều ngôn sứ, nhiều người công chính giữa lòng dân tộc. Ngài không ngừng gửi các ông đến, trao cho các ông loan báo sứ điệp của Ngài cho đến tận ngày nay nữa. Nhưng người ta lờ đi, liệng bỏ đi.

Luôn luôn có giả hình lộ dạng qua những hành động của biệt phái và của chúng ta. Kẻ giả hình cứ tưởng mình tốt hơn cha ông mình, tưởng mình là người công chính khi sơn phết mồ mả người xưa. Đó là sự ngộ nhận. Một ngộ nhận đáng sợ về tình trạng riêng của mình! Ta có thể tự hỏi những ảo tưởng đó không có ở các Kitô hữu chăng? Nếu nhìn lại những trang sử đen tối của Giáo Hội, Kitô hữu chúng ta chẳng khá hơn gì cha ông mình.

Cũng thật đáng hổ thẹn khi nhìn lại trang sử Giáo Hội của chúng ta hiện nay và cũng đáng hổ thẹn khi lên án tất cả mọi cái xảy ra vì lấy cớ giả dối là phải trung thành với truyền thống.

Cần phải đặt lại lịch sử và chiêm ngắm các vị thánh đã sống trong thời buổi bi thảm của lịch sử, sẽ thấy được các Ngài đã phải hoàn toàn vâng phục những quyền bính yếu đuối đến chừng nào.

JM

----------------------------------

 

Suy niệm 6: Đừng giả dối


Tại các khu đô thị lớn, chúng ta vẫn thấy có những nghĩa trang nằm ngay tại những trung tâm của các thành phố. Những nhà hữu trách đã tìm mọi cách, dù tốn công, tốn của để quy hoạch và biến nó thành công viên nghĩa trang, trông rất tráng lệ!

Những mồ mả ở đây được thiết kế nhiều mẫu khác nhau, trông thật bắt mắt. Đến nỗi người dân trung quanh có thể vào đó để đi dạo.

Việc làm đẹp những ngôi mộ cho người quá cố quả là điều đáng trân quý. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là: bên trong các ngôi mộ đó, dù là của người nghèo hay giàu; có chức quyền hay là thường dân; trẻ em hay người già, tất cả đều chỉ là một nắm xương ghê rợn mà thôi!

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu khiển trách những người Pharisêu: họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài trông rất đẹp mắt, nhưng bên trong thì toàn xương người chết thối tha, nhơ nhớp. Qua đó, Ngài tố cáo họ vì lối sống giả hình.

Bởi vì, họ tự cho mình là công chính; là “con cưng” của Thiên Chúa. Thật tội nghiệp khi họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài để che dấu tâm địa xấu xa bên trong! Tuy nhiên, càng che đậy, họ càng bị Ðức Giêsu phát hiện và lên án gắt gao.

Trong đời sống đạo hiện nay, cũng có nhiều khi chúng ta tìm mọi cách để che đậy những chuyện xấu xa, khuyết điểm, lỗi lầm để tự cho mình là người đạo đức hơn người. Điều khó hiểu là chúng ta an tâm để sẵn sàng lên án kẻ khác vì những thiếu xót của họ mà không hề suy nghĩ hay áy náy gì đến lỗi lầm của mình! Hơn nữa, nhiều khi quá giỏi che đậy, nên không ai biết đến những khuyết điểm của mình, vì vậy, chúng ta lại an tâm và “bình chân như vại” để tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi tiếp theo.

Nhưng xin nhớ rằng: chúng ta có thể che giấu bằng những biện pháp tinh vi, xảo quyệt để che mắt người đời, nhưng với Chúa, Ngài biết hết và biết rõ ràng từng lỗi lầm của chúng ta.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống thật tâm với lòng mình. Không được sống giả hình nhân đức. Cũng không được nhân danh đạo đức để trà đạp anh em và tìm mọi cách để vươn mình lên nhằm đạt được mục đích “rẻ tiền” như quyền, tiền, tình...

Nếu chúng ta không lo sám hối thì sẽ rơi vào tình trạng trên, khi ấy, hẳn chúng ta không khác gì những người Kinh Sư và Pharisêu khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở về với đời sống nội tâm thực sự, để chúng con nhận ra mình chẳng là gì, nhưng Chúa là tất cả. Nhận ra mình thấp hèn, cần phải khiêm tốn để được đón nhận hồng ân cứu độ của Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

----------------------------------

 

Suy niệm 7: Chân thành phê phán, nhận thức và cuộc sống.


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Sự sa đọa tệ hại nhất của đời người là sự giả hình. Chúa muốn ta chân thành trong phê phán, trong nhận thức và trong cuộc sống.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong đời sống hằng ngày, con đã biết sự giả dối tệ hại là dường nào. Khi đau ốm, nếu con mua lầm một loại thuốc giả, thì không những tiền mất tật mang mà đôi khi mạng sống khó an toàn. Nếu người con yêu lường gạt, giả dối đối với con, thì chắc chắn tình yêu sẽ trở thành thù hận.

Những điều giả dối ở bên ngoài có những tệ hại lớn lao như vậy. Nhưng hôm nay, Chúa cho con biết một sự giả dối còn tệ hại hơn nữa, đó là sự giả hình, một sự giả dối nằm bên trong con người. Nó phỉnh gạt, che mắt chính con người con, nó làm con kiêu căng, tự mãn, và con không thể nhận ra đâu là sự thật. Nó làm con có những lệch lạc trong tương quan đối với Chúa và đối với kẻ khác. Thay vì lòng đạo đức giúp con ngày càng sống thân mật, yêu mến Chúa, thì sự giả hình đã làm cho con tưởng như vậy là mình trổi vượt hơn kẻ khác. Khi con giúp đỡ tha nhân, thay vì để cảm thông và chia sẻ các khó khăn của họ, con lại muốn cho họ nhận ra sự hào phóng quảng đại của mình.

Lạy Chúa, hôm nay, chính Chúa đang phê phán gắt gao sự giả hình giả dối trong con. Xin Chúa giúp con đặt nền tảng của các mối quan hệ, đó là sống trong tình yêu thương chân thật đối với Chúa và đối với kẻ khác. Chân lý sẽ giải thoát con. Nhưng sẽ không có chân lý nếu con không có yêu thương. Chúa là tình yêu, xin ban tình yêu cho con, để con luôn được sống trong chân lý. Xin cho con luôn biết sống dưới cái nhìn của Chúa và trong ánh sáng của Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri”.

----------------------------------

 

Suy niệm 8: Đạo đức giả hình


Ckgđ 615
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Ngày xưa, ở Hàng Châu, có một người đi buôn cam. Anh ta khéo để dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như vàng ngọc. Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy mà chẳng thèm? Lưu Cơ cũng tới mua một quả. Đem về nhà bóc ra, thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Ông liền ra chợ lại, tìm gặp người bán cam trách móc: “Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách, hay là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối lắm”.

Người buôn cam mỉm cười nói: “Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua. Chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Ông thật không nghĩ cho đến nơi. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Ngô Khởi, Tô Tẫn không? Người đội mũ cao, đóng đai dài, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có được giỏi như Cao Dao, Y Doãn không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham nhũng không biết trừng trị. Pháp độ hỏng không biết sửa đổi. Ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà lúc ra ngoài công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, oai vệ, hách dịch vô cùng!...

Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bề trong lại chẳng hôi thối, và xác xơ, như bông nát là gì? Sao ông không chịu xét những hạng người như thế, mà lại đi xét quả cam của tôi?”

Suy niệm

Chúa Giêsu tiếp tục lên án những lối đạo đức giả hình của các kinh sư và pharisiêu vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch tâm hồn. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm, trong tâm hồn họ vẫn ấp ủ những ý đồ. Ðức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám… (x. Mt 23:27-28). Họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài để che giấu tâm địa bên trong. Càng che giấu họ càng bị Ðức Giêsu phát hiện và lên án. Ðức Giêsu đã mượn lời ngôn sứ Isaia (Is 29,13) nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7,6).

Sách Đệ Nhị Luật nhắc nhở dân Chúa phải tuân giữ các giới răn, các Lề Luật, các huấn lệnh tượng trưng cho sự khôn ngoan, trong sáng và sáng suốt của dân Chúa giữa muôn dân muôn nước (x. Đnl 4,1-2.6-8). Nhưng Ðạo Chúa không phải chỉ là hình thức giữ các mệnh lệnh. Ðạo Chúa là tình yêu chân thật xuất phát từ đáy lòng.

Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn chúng ta, Ngài thấy rõ những khuyết điểm, lỗi lầm của chúng ta. Hãy xin Ngài soi sáng và thức tỉnh để chúng ta nhận ra những yếu đuối và sai lầm của bản thân, thẳng thắn nhìn nhận và mau mắn sửa đổi.

Ý lực sống:

“Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con” (Tv 139,1).

----------------------------------

 

Suy niệm 9: Chúa vẫn than trách luật sĩ và biệt phái


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Chúa Giêsu tiếp tục lên án thói giả hình của luật sĩ và biệt phái trong việc xây cất mồ mả cho các tiên tri, mà cha ông họ đã giết chết. Những lối đạo đức giả hình của các luật sĩ và biệt phái làm cho Đức Giêsu bực mình. Người gọi đó là mồ mả tô vôi. Thật tội nghiệp khi họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài, để che giấu tâm địa bên trong. Càng che giấu họ càng bị Chúa phát hiện và lên án gắt gao.

Những mồ mả tô vôi (cc 27-28).

“Khốn... các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy dẫy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế”: Chúa Giêsu dùng hình ảnh những nấm mồ là do thói quen ở Giêrusalem hằng năm khi đến gần đại lễ Vượt qua, người ta quét vôi các ngôi mộ cho khách hành hương thấy rõ mà tránh, kẻo đụng vào mà bị ô uế cả tuần (x. Ds 19,16). Chúa Giêsu so sánh cách sống đạo hình thức với những nấm mồ tô vôi ấy. Sự thối nát của thói giả hình và sự thiếu trung tín với tinh thần luật đã bị họ che đậy, bằng cái vỏ xinh đẹp là “công chính trước mặt thiên hạ” (Lm. Carôlô).

Xây mồ cho các tiên tri (cc 29-32).

“Khốn... các ngươi xây mồ cho các tiên tri và tô mả cho những người công chính...”: Một mặt họ xây mồ cho các tiên tri, để tỏ ra phản đối chuyện tổ tiên mình đã sát hại các vị ấy, nhưng mặt khác họ căm thù chính Chúa Giêsu là Đấng mà các tiên tri đã loan báo. Như thế, chẳng những “cha nào con nấy”, mà họ còn tệ hơn tổ tiên họ nữa. Việc làm của họ “đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên”, vì tổ tiên họ chỉ giết các tiên tri, còn họ thì sẽ giết chính Đấng Messia (CGKPV).

Ca dao Việt Nam có câu:

Ngoài miệng thì nói nam mô
Trong lòng thì chứa một bồ dao găm.

Chúa Giêsu dùng hình ảnh nấm mồ tô vôi nhằm lên án những kẻ có lối sống đạo hình thức. Nơi những con người này, sự thối nát của thói giả hình và sự thiếu trung tín với lề luật đã lên đến đỉnh điểm. Họ che đậy sự xấu xa của mình và đánh lừa mọi người bằng một cái vỏ đạo đức xinh đẹp, để được gọi là người “công chính trước mặt thiên hạ”.

Qua việc vạch trần sự giả hình của các luật sĩ và biệt phái thời đó, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở người Kitô hữu trong mọi thời đại phải tránh xa thói giả hình, đồng thời phải biết cảnh tỉnh và cải hoá tâm hồn. Nếu không, họ cũng sẽ phải lãnh nhận số phận bi thảm: sẽ bị chặt đi và ném vào lửa đời đời.

Nhìn về kinh nghiệm sống của mình, chúng ta có thể cảm nghiệm được tầm mức của những lời kết án của Chúa Giêsu, không phải như chuyện đã qua của thời quá khứ, nhưng có liên quan đến mỗi người chúng ta hôm nay, chúng ta có thể che giấu những tội lỗi tật xấu của mình bằng những tấm kịch cho qua lúc. Chỉ có phương thế duy nhất để tránh những lời kết án trên của Chúa là sự thật lòng ăn năn trở lại, là khiêm tốn và can đảm bỏ đi những mặt nạ mà chúng ta quen mang từ trước tới nay. Chúng ta đừng trở thành những người chỉ có danh hiệu là Kitô hữu, mà kỳ thực là những con người xa lìa Chúa. Chúng ta đừng sống theo ảo tưởng của những lời khen tặng của kẻ khác mà tưởng mình là kẻ chi chi, nhưng hãy ý thức rõ về thân phận tội lỗi của mình và khiêm tốn xin Chúa thứ tha (R.Verritas).

Truyện: Gương sống đạo thực sự

Giữa khu rừng âm u có tu sĩ nổi tiếng thánh thiện và có nhân đức hiền lành, dịu dàng lạ lùng. Một người ngạo ngược nghe nói tu sĩ hiền lành lạ lùng như vậy, y không tin và nói: tất cả những cái đó chỉ là giả tạo và tôi sẽ làm cho cái màn giả hình đó phải rơi xuống.

Hôm sau, từ sáng sớm tinh sương, y đã lên đường đến chỗ ẩn sĩ ở. Nhà tu hành có nuôi một con chó, để ban đêm nếu có thú vật nào đến để phá hoại rau cỏ thì nó sủa đánh thức chủ dậy. Hôm đó khi thấy người lạ đến, con chó con chạy ra sủa. Ẩn sĩ ở trong nhà bước ra chào và đón tiếp vị khách lạ. Nhưng như để chọc giận thánh nhân, người hung ngược kia nắm ngay lấy con chó mà quật chết. Thấy vậy, ẩn sĩ quỳ xuống dưới chân kẻ bạo tàn và nói:

- Bạn ơi, chính tôi đã nuôi con chó này, và tôi rất tiếc vì nó đã làm cho bạn nổi giận.

Tức bực vì chưa đạt được tới mục đích của mình, kẻ bạo ngược trong thấy trong vườn có những cây rau và hoa đẹp chính tay ẩn sĩ đã trồng, lại xông vào đập phá và quăng vất lung tung, nhưng ẩn sĩ vẫn thản nhiên nhìn xem và không hề tỏ dấu gì tức giận.

Thấy vẫn chưa được việc gì, y càng điên tiết, trèo lên nóc nhà, dỡ mái quăng rui mè và xô đổ cả tường vách, mãi cho đến khi mỏi tay mới thôi. Song nhà tu hành vẫn bình tĩnh và đưa con mắt yêu thương nhìn y. Thấy y mệt nhọc, mồ hôi nhễ nhai, đoán rằng, y cần phải uống nước, tu sĩ xách lọ đi ra giếng, múc nước mát về mời y uống.

Trước cử chỉ thánh thiện và nét mặt điềm đạm lạ thường ấy, chàng hung bạo mà trái tim mãi đến nay vẫn trơ như đá, bắt đầu cảm thấy hổ thẹn và hối tiếc. Y rất cảm phục nhân đức của người tu hành và đến xin lỗi:

- Thưa cha, xin cha tha thứ cho những việc điên rồ con vừa mới làm, bây giờ con nhìn thấy có Chúa ở trong cha, và con đây thật là một đứa con tội lỗi và bạo ngược. Cha đã lấy sự lành mà báo sự dữ: chỉ có Chúa mới khiến được lòng người ta ra như thế mà thôi.

Từ đó, kẻ vô nhân đạo kia bắt đầu cải tà qui chính, rồi xin ở lại làm đầy tớ nhà tu hành để được sống gần tu sĩ, cũng như để bắt chước nhân đức của ngài.

----------------------------------

 

Suy niệm 10: Đừng trang điểm giá trị giả dối


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Hai lời khiển trách thứ sáu và thứ bảy:

6. Những mồ mả tô vôi (cc 27-28)

- “Khốn… các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp nhưng bên trong thì đầy dẫu xương người chết và đủ mọi thứ ô uế…”: Chúa Giêsu dùng hình ảnh những nấm mồ là do thói quen ở Giêrusalem hằng năm khi đến gần đại lễ Vượt qua, người ta quét vôi các ngôi mộ cho khách hành hương thấy rõ mà tránh kẻo đụng vào mà bị ô uế cả tuần (x. Ds 19,16). Chúa Giêsu so sánh cách sống đạo hình thức với những nấm mồ tô vôi ấy. Sự thối nát của thói giả hình và sự thiếu trung tín với tinh thần luật đã bị họ che đậy bằng cái vỏ xinh đẹp là “công chính trước mặt thiên hạ”.

7. Xây mồ cho các ngôn sứ (cc 29-32)

- “Khốn… các ngươi xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính…”: Một mặt họ xây mồ cho các ngôn sứ để tỏ ra phản đối chuyện tổ tiên mình đã sát hại các vị ấy, nhưng mặt khác họ căm thù chính Chúa Giêsu là Đấng mà các ngôn sứ đã loan báo. Như thế, chẳng những “cha nào con nấy”, mà họ còn tệ hơn tổ tiên họ nữa. Việc làm của họ “đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên” họ vì tổ tiên họ chỉ giết các ngôn sứ, còn họ thì sẽ giết chính Đấng Messia (CGKPV).

B.... nẩy mầm.

1. Thành ngữ VN có một câu tương đương với câu “mồ mả tô vôi” của Tin Mừng, đó là “Ngoài miệng thì niệm nam mô, trong lòng thì chứa một bồ dao găm”.

Con rất dễ phạm phải sự giả hình này. Xin Chúa giúp con thống nhất đời sống, thống nhất cái biểu lộ bên ngoài với cái tâm tình bên trong.

2. Những người biệt phái trách cha ông họ đã xử tệ với các ngôn sứ. Thế nhưng chính họ còn tệ hơn nữa khi bách hại Chúa Giêsu. Trách người thì dễ, sửa mình mới khó. Tôi cũng rất nhanh miệng phê phán chê trách người khác….

3. Một bà già tốt lành, hơn 40 năm sinh sống bằng nghề giặt ủi tầm thường, nhưng lại được mọi người quí mến, tín nhiệm. Khi được hỏi bí quyết, bà đáp: “Tôi có một qui luật sống là không mách lẻo chuyện nhà này cho nhà khác nghe." (Góp nhặt)

4. Mỗi người đều mang hai túi: một ở trước ngực và một ở sau lưng, và cả hai nhét đầy lầm lỗi.

Tuy nhiên, túi trước đựng lỗi của người hàng xóm và túi sau đựng lỗi của mình. Vì thế, người ta thường mù quáng với khuyết điểm của mình và luôn sáng mắt với khuyết điểm của anh em. (Góp nhặt)

5. “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt 23,27)

Như một qui luật của sự sống, con người luôn muốn tự khẳng định mình, đôi lúc trở nên phô trương, lố nghịch và vô nghĩa. Con người cứ mãi trang điểm cho mình những giá trị giả dối.

Như tôi chẳng hạn, luôn chuẩn bị cho mình một cách chu đáo trong ngày lễ hội, đại lễ: nào là quần áo giầu dép và cả đi xưng tội nữa! Nhưng kết quả thì sao? Cuộc sống chẳng khá hơn, con người vẫn cứ cũ mèm! Khi “lớp vỏ” được bóc ra thì tôi vẫn là tôi ngày nào, trước sao thì nay vẫn vậy! Tôi chỉ là một con người hay ganh tỵ, không dám nhìn thẳng vào sự thật, và là một kẻ hèn nhát không dám nói về đạo nơi tôi đang sống! Tôi có còn là một kitô hữu thật sự hay không? Không lý nào chỉ là kitô hữu được “quét vôi”!

Lạy Chúa, Chúa biết con sống như thế nào. Xin thêm sức để con có thể canh tân cuộc sống của chính mình. (Hosanna).

----------------------------------

 

Suy niệm 11: Tránh sống đạo hình thức, giả hình


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Hai lời khiển trách thứ sáu và thứ bảy:

1. Chúa Giêsu dùng hình ảnh những nấm mồ để mô tả về cách sống đạo hình thức, giả hình và sự thiếu trung tín của người Do Thái. Và việc họ xây mồ mả cho các ngôn sứ (Mt 23,29-32) để phủi tay trước những việc làm ác độc của tổ tiên. Thực ra, họ còn ác độc hơn cả tổ tiên của họ, vì họ đang âm mưu giết Chúa Giêsu.

Con người luôn muốn tự khẳng định mình nên nhiều khi những việc làm như thế đã trở nên phô trương, lố bịch và vô nghĩa.

Người ta kể lại rằng: Văn sĩ Pháp Alexandre Piront qua đời năm 1773 thường có thói quen đi dạo trong khu vườn Boulogne, giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào một bức tường. Chỉ một lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì ông thấy trong đám đông những người đi dạo, có một vài người đi đến gần ông ngả nón chào. Cũng có một vài người còn bái cả gối nữa. Nhà văn đã mỉm cười đáp lại những cảm tình khách qua đường dành cho ông. Ông không ngờ là ông được nhiều người mộ mến như thế. Ông mong sao có một số bạn bè trong văn đàn chứng kiến được cảnh tượng này, để thấy vinh quang mà ông đã đạt được.

Nhà văn đang say sưa với bả vinh hoa, thì chợt trong đám người bái chào đó, có một bà lão để lộ thái độ khác thường. Cũng giống như mọi người, bà lão này cúi đầu chào rồi tiến tới gần ghế đá, bà thầm thì nói những gì trong miệng mà nhà văn không hiểu được, rồi ngước mắt nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa mắt nhìn lên phía trên bức tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng: trên đầu ông có một tượng Thánh Giá. Thì ra những người đi dạo khi đi đến đó đã dừng lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối với Chúa Giêsu trên Thập Giá. Hổ thẹn vì khám phá này, Alexandre Piront đứng dậy bỏ đi nơi khác.

Vâng! Con người cứ mãi trang điểm cho mình những giá trị giả dối.

2. Vậy thì điều mà Chúa muốn là gì? Thưa là một đời sống đạo đức thực sự.

Giữa khu rừng âm u có tu sĩ nổi tiếng thánh thiện và có nhân đức hiền lành, dịu dàng lạ lùng.

Một người ngạo ngược nghe nói tu sĩ hiền lành lạ lùng như vậy, y không tin và nói: tất cả những cái đó chỉ là giả tạo và tôi sẽ làm cho cái màn giả hình đó phải rơi xuống.

Hôm sau, từ sáng sớm tinh sương, y đã lên đường đến chỗ ẩn sĩ ở. Nhà tu hành có nuôi một con chó để ban đêm, nếu có thú vật nào đến để phá hại rau cỏ thì nó sủa đánh thức chủ dậy. Hôm đó, khi thấy người lạ đến, con chó con chạy ra sủa. Ẩn sĩ ở trong nhà bước ra chào và đón tiếp vị khách lạ. Nhưng như để chọc giận thánh nhân, người hung ngược kia nắm ngay lấy con chó mà quật chết. Thấy vậy, ẩn sĩ quì xuống dưới chân kẻ bạo tàn và nói:

- Bạn ơi, chính tôi đã nuôi con chó này, và tôi rất tiếc vì nó đã làm cho bạn nổi giận.

Tức bực vì chưa đạt được tới mục đích của mình, kẻ bạo ngược trông thấy trong vườn có những cây rau và hoa đẹp chính tay ẩn sĩ đã trồng, lại xông vào đạp phá và quẳng vất lung tung, nhưng ẩn sĩ vẫn thản nhiên nhìn xem và không hề tỏ dấu gì tức giận.

Thấy vẫn chưa được việc gì, y càng điên tiết, trèo lên nóc nhà, rỡ mái quăng rui mè và xô đổ cả tường vách, mãi cho đến khi mỏi tay mới thôi. Song nhà tu hành vẫn bình tĩnh và đưa con mắt yêu thương nhìn y. Thấy y mệt nhọc, mồ hôi nhễ nhãi. Đoán rằng, y cần phải uống nước, tu sĩ xách lọ đi ra giếng, múc nước mát về mời y uống.

Trước cử chỉ thánh thiện và nét mặt điềm đạm lạ thường ấy, chàng hung bạo mà trái tim mãi đến nay vẫn trơ như đá, bắt đầu cảm thấy hổ thẹn và hối tiếc. Y rất cảm phục nhân đức của người tu hành và đến xin lỗi:

- Thưa cha, xin cha tha thứ cho những việc điên rồ con vừa mới làm, bây giờ con nhìn thấy có Chúa ở trong cha, và con đây thật là một đứa con tội lỗi và bạo ngược. Cha đã lấy sự lành mà báo sự dữ: chỉ có Chúa mới khiến được lòng người ta ra như thế mà thôi.

Từ đó, kẻ vô nhân đạo kia bắt đầu cải tà qui chính, rồi xin ở lại làm đầy tớ nhà tu hành để được sống gần tu sĩ cũng như để bắt chước nhân đức của ngài.

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con. Amen.

----------------------------------
 

Thứ 5:


Tỉnh thức và sẵn sàng.
"Các con hãy sẵn sàng".

 

Lời Chúa: Mt 24, 42-51


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.
"Vậy các con nghĩ ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cứ giờ mà phân phát lương thực cho họ? Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ nó đến thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người ấy lên coi sóc tất cả gia sản ông. Nhưng nếu đầy tớ ấy xấu, nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", rồi nó đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa: chủ đầy tớ ấy trở về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, ông sẽ xé xác nó ra, và cho nó chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".

----------------------------------

 

Suy niệm 1: Hãy sẵn sàn


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Châm ngôn của hướng đạo sinh là Sắp Sẵn, nghĩa là hãy sẵn sàng.
Không rõ ông tổ của phong trào hướng đạo
có được gợi hứng từ bài Tin Mừng hôm nay không.
Nhưng hãy sẵn sàng đúng là châm ngôn của mọi Kitô hữu,
từ những Kitô hữu sống ở thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ 21 và cho đến tận thế.
Hãy sẵn sàng vì từng Kitô hữu cũng như cả Kitô giáo
vẫn luôn ở trạng thái chờ Chúa Kitô trở lại.
Ngài đã đến làm người cách đây hai ngàn năm,
Ngài đã cứu độ nhân loại bằng cuộc sống và cái chết trên thập giá,
Ngài vẫn đang ở với Giáo Hội nhờ Thánh Thần,
nhưng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang như Đấng phán xét cả thế giới.
Đó là điều chúng ta chờ mong, điều duy nhất Ngài chưa thực hiện.
Nếu chủ nhà biết canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông sẽ canh thức,
không để nó khoét vách nhà mình (c. 43).
Còn người Kitô hữu, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa trở lại,
nên họ phải canh thức luôn luôn, phải sẵn sàng liên lỉ.
Canh thức không phải là không ngủ.
Canh thức là sống đời sống Kitô hữu của mình cách trung tín, quảng đại.
Canh thức không làm chúng ta bị căng thẳng thường xuyên,
vì thấy mình như bị đe dọa bởi một tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chúa cũng không cố ý đến bất ngờ, để ta không kịp trở tay.
Đơn giản là chúng ta biết chắc chắn Ngài sẽ đến,
nên chúng ta luôn sẵn sàng.
Chuyện khi nào Ngài đến, không làm chúng ta lo âu và sợ hãi nữa,
vì cả cuộc sống của chúng ta đã là một chuẩn bị, một đợi chờ.
Canh thức cũng có nghĩa là làm tròn phận sự được Chúa trao.
Ông chủ đi vắng nên trao cho người đầy tớ quyền cấp phát lương thực.
Đó là quyền hành mà cũng là phận sự trên các gia nhân.
Nếu khi trở về, ông chủ thấy người đầy tớ ấy đang phục vụ nghiêm chỉnh,
thì phúc cho anh ấy, vì anh sẽ được coi sóc toàn bộ tài sản của ông (c. 47).
Nhưng nếu anh ấy nghĩ rằng ông chủ sẽ về muộn,
anh còn nhiều thời giờ để vui chơi hơn là chu toàn bổn phận.
Nếu anh ấy lạm dụng quyền lực trong tay để đánh đập các đầy tớ khác,
nếu anh ấy nhậu nhẹt với bọn say sưa, nên không còn tỉnh thức đủ,
thì ông chủ sẽ về bất ngờ, vào ngày và giờ sớm hơn anh nghĩ.
Lúc ấy khuôn mặt thật của anh sẽ lộ ra, khuôn mặt giả hình.
Và anh sẽ chịu chung số phận với những người đạo đức giả (c. 51).
Anh đầy tớ xấu xa nghĩ chủ sẽ về trễ, nào ngờ chủ về sớm.
Kitô giáo đã chờ Chúa quang lâm từ gần hai mươi thế kỷ.
Có người nản lòng, nên cho rằng chắc còn lâu lắm mới đến ngày đó.
Có người đồn thổi lung tung về ngày tận thế sắp đến tới nơi rồi.
Cả hai thái độ đều không đúng.
Điều quan trọng đối với người môn đệ là trung tín chu toàn công việc.
Tỉnh thức và sẵn sàng giúp ta luôn bình an, dù ngày mai tận thế.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
 
----------------------------------

 

Suy niệm 2: Trung tín và khôn ngoan


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Chúa Giê-su cho ta biết mỗi người đều là quản gia của Chúa. Mỗi người được Chúa trao cho một số tài sản và một số nhân sự để ta chăm sóc phục vụ. Theo Chúa, người quản gia tỉnh thức phải là người trung tín và khôn ngoan.

Trung tín là biết rằng mọi sự ta có là của Chúa, nên không được dùng theo ý riêng. Phải dùng mọi của cải Chúa ban để phục vụ Chúa và phục vụ anh em. Người đầy tớ xấu xa lạm dụng quyền thế, thay vì phục vụ thì lại áp bức hành hạ anh em. Người này cũng lạm dụng của cải của chủ, thay vì dùng cho lợi ích chung thì lại vun quén cho bản thân trong việc chè chén say sưa.

Khôn ngoan cho bản thân là biết lo xa, phòng ngừa, không để bị bất ngờ bằng cách tỉnh thức lúc nào cũng sẵn sàng, lúc nào cũng chu toàn nhiệm vụ, dù chủ có về bất ngờ cũng đang nghiêm chỉnh thi hành nhiệm vụ. Khôn ngoan trong nhiệm vụ với anh em là biết đúng giờ đúng lúc phân phát lúa thóc. Phục vụ anh em đúng người, đúng việc, đúng lúc. Đây là điều khó đòi hỏi phải rất tỉnh thức đối với từng người, từng việc và thời cuộc. Người không khôn ngoan tưởng thời giờ còn dài nên sinh ra ăn chơi hưởng thụ và sẽ bất ngờ bị chủ trở về trừng phạt.

Thánh Phao-lô tỏ ra là một người quản gia trung tín và khôn ngoan. Nhận biết mình được tuyển chọn để rao giảng Tin Mừng, ngài đã trung tín với nhiệm vụ cho đến cùng. Được Chúa trao cho các giáo đoàn, ngài trung tín với họ. Khi ở gần, hết lòng rao giảng, dậy dỗ, khuyên bảo, sửa trị. Khi đi xa thì viết thư thăm hỏi và tiếp tục giáo huấn. Và mong ước được gặp gỡ để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ: “Đêm ngày chúng tôi tha thiết nài xin Chúa cho được thấy mặt anh em, và bổ túc những gì còn thiếu trong đức tin của anh em”. Trung tín nên luôn gắn bó với giáo đoàn đến nỗi giáo đoàn trở thành lẽ sống, thành niềm an ủi của ngài: “vì anh em có lòng tin, nên khi nghĩ đến anh em, chúng tôi được an ủi giữa mọi thống khổ gian truân chúng tôi phải chịu” (năm lẻ).

Khôn ngoan nên ngài hiểu biết rõ mặt mạnh mặt yếu của từng giáo đoàn mà uốn nắn họ. Sửa chữa những lầm lỗi, nhưng khen ngợi và khích lệ những ưu điểm: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, vì ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Giêsu Ki-tô”. Khôn ngoan nên ngài luôn hướng lòng các giáo đoàn về ngày cánh chung: “Thiên Chúa sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa” (năm chẵn).

Tôi có là người quản gia trung tín và khôn ngoan của Chúa không?

 ----------------------------------

 

Suy niệm 3: Tỉnh thức chờ Chúa


Các nhà chú giải thường đề nghị đọc và Suy niệm những dụ ngôn của Chúa Giêsu về việc Chúa trở lại trong vinh quang trên hai bình diện: Kitô học và Giáo Hội học. Trên bình diện Kitô học nhấn mạnh đến việc Chúa trở lại vào cuối lịch sử như một quan tòa xét xử mọi người. Trên bình diện Giáo Hội học nhắc đến thời giờ của Giáo Hội trong thời gian, từ khi Chúa lên trời cho đến lúc Ngài trở lại; trong thời gian này, mỗi Kitô hữu phải tích cực chờ đợi và chu toàn bổn phận của mình một cách tốt đẹp.

Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay cho thấy ý nghĩa bổ túc cho nhau: dụ ngôn thứ nhất nói về kẻ trộm đến bất ngờ trong đêm, do đó người chủ phải sẵn sàng luôn; sự sẵn sàng này được giải thích trong dụ ngôn thứ hai về người đầy tớ trung tín và khôn ngoan thi hành mệnh lệnh của chủ, cứ đúng giờ mà cấp phát lương thực cho người nhà.

Thật không dễ dàng mà có thái độ sẵn sàng theo đúng ý Chúa muốn. Vào thời các Tông đồ, có những tín hữu quá sốt sắng chờ đợi Chúa trở lại đến độ lơ là việc bổn phận của mình. Ðó là thái độ của tín hữu cộng đoàn Thessalonica mà thánh Phaolô đã phải khuyến cáo: "Thưa anh em, về ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, thì tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào".

Sống chờ đợi Chúa lại đến không phải bằng thái độ thụ động, nhưng bằng thái độ tích cực. Thánh Phaolô mô tả thái độ đó như sau: "Anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, là con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ, hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, hãy đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ".

Sống đức tin, đức cậy, đức mến, trong khi chờ đợi Chúa đến, không có nghĩa là chúng ta bỏ quên sự dấn thân của mình. Mỗi người chúng ta cần phải luôn tỉnh thức với thái độ tích cực, đồng thời nỗ lực góp phần xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

 ----------------------------------

 

Suy niệm 4: Người quản lý trung tín


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: Phần thứ nhất là lệnh truyền của Chúa là hãy sống tỉnh thức; và phần thứ hai là câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nói về người quản lý trung tín, để chỉ cho chúng ta phải biết sống tỉnh thức như thế nào.

Sống tỉnh thức, chờ mong Chúa đến không có nghĩa là án binh bất động, không làm gì cả, chỉ ngồi yên mà chờ. Ðây là một thái độ tỉnh thức thụ động không được Chúa Giêsu khuyến khích qua dụ ngôn người quản lý trung tín. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một thái độ tỉnh thức tích cực, luôn sinh động, thực hiện công việc Chúa muốn chúng ta thực hiện với hết khả năng của mình. Chúng ta biết rằng tất cả những gì Chúa ban cho ta là bảo chứng cho sự tốt lành và tình thương của Ngài, đồng thời cũng là lời nhắc nhở chúng ta nhớ đến Chúa và gắn bó với Ngài. Ðó cũng là phương tiện để chúng ta tự hoàn thiện bản thân và đạt được cùng đích cuối cùng là Nước Trời. Hơn nữa, những gì Chúa ban cho chúng ta không chỉ nhằm sinh ích cho chúng ta, mà chúng ta còn phải chia sẻ cho anh chị em chung quanh. Những gì Chúa ban cho chúng ta đều do lòng quảng đại của Ngài. Ngài ban cho chúng ta một cách nhưng không, và đến lượt chúng ta, chúng ta có bổn phận phải sẵn lòng chia sẻ những điều tốt lành ấy cho anh chị em chung quanh một cách quảng đại.

Vai trò của chúng ta như Chúa muốn thì chúng ta là những người quản lý trung tín và tốt lành, là những người quản lý ân sủng thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa trong thời gian chúng ta chờ đợi Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta chia sẻ cho anh chị em, chúng ta phải luôn ý thức rằng chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm trong vai trò của một người quản lý và phân phát, rồi hãy để cho Chúa được tỏ lộ. Tất cả những gì chúng ta làm phải được định hướng và làm cho danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.

Xác định mọi sự là của Chúa, còn mình chỉ là người quản lý và phải làm người quản lý trung tín và khôn ngoan thì sẽ bảo quản những gì Chúa trao cũng như coi sóc gia nhân và cấp phát lương thực cho họ đúng giờ, đúng lúc. Hơn nữa, khi ý thức mình là người quản lý thì cũng sẽ cho đi một cách khiêm nhường và vị tha như Chúa đòi hỏi, chúng ta sẽ không thể có thái độ kẻ cả hay coi thường người khác.

Khi tiếp xúc với những người mà họ chưa biết Chúa, chưa biết Tin Mừng Chúa, chưa nhận ra ân sủng và tình thương của Chúa, chúng ta không được hành xử như người quản lý xấu xa trong dụ ngôn trên là đánh đập các đồng bạn và chè chén với những bọn say sưa. Mỗi chúng ta hãy luyện cho mình có được thái độ sống, sống cho tròn bổn phận Chúa đã trao cho chúng ta như một người quản lý tốt lành và khôn ngoan, luôn thức tỉnh, sẵn sàng bảo quản ân huệ Chúa ban để không hao hụt mà còn biết sinh lợi và chia sẻ với anh chị em. Thái độ đó sẽ giúp chúng ta sống trọn vẹn hơn, dám đi ra khỏi chính mình, luôn hăng say và nhiệt thành đến với anh chị em ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, để gặp gỡ, chia sẻ tình thương, ân sủng và tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta. Nhờ đó chúng ta và mọi anh chị em sẽ được lãnh phần thưởng muôn đời mà Chúa đã hứa cho những ai trung thành.

Lạy Chúa,

Mọi sự con có là của Chúa, xin ban cho chúng con luôn sống đúng vai trò người quản lý trung tín của Chúa, để qua chúng con, mọi người sẽ nhận ra lòng quảng đại và yêu thương cũng như sự tốt lành của Ngài.

----------------------------------

 

Suy niệm 5: Khi nào chủ về?


Đức Giêsu nói: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Mt. 24, 43-44)

Người ta đặt tên cho những dụ ngôn này là tỉnh thức: hôm nay bàn về người quản lý, mai là mười cô trinh nữ, thứ bảy đến những nén bạc. Người ta nói toàn bộ chương này là tối tăm nhất của sách Tin Mừng, nhưng may thay chương này không phải là chương quan trọng nhất.

Phải, khi nào?

Trước hết câu dụ ngôn nói: “Anh không biết bao giờ chủ về”. Vì thế, cần phải thỉnh thức, phải canh gác luôn luôn. Đức Giêsu nói thêm: “Con Người sẽ đến vào giờ người ta không ngờ”. Vậy phải canh thức thật đặc biệt, nếu người ta không muốn bỏ lỡ giờ này. Sự canh gác này không chỉ có nghĩa đến ngày tận thế, còn hiểu là giờ chết mỗi người chúng ta. Không ai biết ngày giờ nào mình chết, không ai có thể tính toán, thấy trước lúc nào mình chết, chuẩn bị chết cũng là chuẩn bị ngày giáng lâm của Chúa.

Nếu ta không ngừng chuẩn bị đón Chúa đến, ta sống với thái độ Công giáo chân thành để đón rước Chúa.

Người đầy tớ trung tín

Những câu dụ ngôn này rõ ràng liên quan trước nhất đến những người có trách nhiệm với cộng đoàn Giáo Hội. Phải truyền lại cho tín hữu những của cải bởi trời mà họ có bổn phận phải phân phát. Sự trung tín này và để xứng đáng với sự tin cậy chứng tỏ họ sẵn sàng luôn luôn với chủ nước trời đang trông đợi họ. Sự tỉnh thức của họ chứng tỏ lòng trung tín hăng say phục vụ Ngài. Sự phục vụ này, quả thật không để cho họ có thể lo nghĩ đến thân phận mình; Hằng ngày, họ được hướng dẫn tới mức chỉ chuyên cần thi hành trách nhiệm họ đã nhận.

Ngược lại, thật kinh khủng cho kẻ phí phạm thời giờ, thật kinh khủng cho kẻ bỏ bê nhiệm vụ đã được trao phó, thật kinh khủng cho kẻ sống bê bối, buông thả và lạm dụng những người đồng nghiệp. Nó bị đồng hóa với những kẻ giả hình và sẽ bị trừng phạt dành sẵn cho nó. Một đời sống đào sâu cái hố giữa lời nói và việc làm, giữa dáng vẻ bên ngoài với thực thể con người đều bị xét xử.

JM

----------------------------------

 

Suy niệm 6: Tỉnh thức và sẵn sàng


Trong xã hội hôm nay, tình trạng trộm cắp diễn ra nhan nhản. Kẻ trộm lấy cắp ban ngày, ban đêm, buổi sáng, buổi tối. Chúng lấy của người ngoài, người giàu, người nghèo và đôi khi nó lấy luôn của người thân.

Như vậy, tình trạng trộm cắp diễn ra thường xuyên, nhanh nhạy và nhiều thủ đoạn, nên khó mà lường trước được!

Hôm nay, Đức Giêsu ví giờ Chúa gọi mỗi người chúng ta chẳng khác gì kẻ trộm. Thiên Chúa không giống như kẻ trộm, nhưng Ngài đến gõ cửa và mời gọi chúng ta ra khỏi thế giới này rất bất ngờ, nhanh nhạy và sắc bén như kẻ trộm. Vì thế, phải tỉnh thức.

Tỉnh thức là người luôn sống trong ân sủng của Chúa. Luôn sẵn sàng đón chờ Chúa đến bất cứ lúc nào...;

Tỉnh thức là luôn biết hồi tâm để nhận ra cái sai cần sửa, để ngày càng đẹp lòng Chúa hơn;

Tỉnh thức là luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống;

Tỉnh thức là người luôn cầm đèn sáng trên tay với đầy đủ dầu, để khi Chúa đến, họ sẵn sàng ra đi đón Ngài.

Ngược lại với người tỉnh thức là những kẻ ngủ mê.

Vì ngủ mê nên nghĩ đời mình vẫn còn dài, chưa vội dừng cuộc chơi, phí đời trai trẻ;

Ngủ mê là những người không nhận ra tội của mình mà sửa sai;

Ngủ mê là những người luôn kết án kẻ khác, trong khi bản thân mình lại dung túng cho những sự xấu xa lên ngôi.

Và khi giờ đã đến, “Ông Chủ” hiện diện, người tỉnh thức thì hân hoan ra đón, còn kẻ lơ là thì nghĩ chủ chưa về, nên: “Đánh đập các bạn đầy tớ, lại còn chè chén với lũ say sưa”. Tuy nhiên, bất chợt, chủ trở về vào đúng: “... ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết”. Nên ông chủ sẽ cho nó “...chung số phận với những kẻ giả hình: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tỉnh thức với những nhân đức và sẵn sàng đón chờ Chúa đến với chúng con trong niềm tin và hy vọng. Amen.

Ngọc Biển SSP

----------------------------------

 

Suy niệm 7: Sẵn sàng canh thức chờ đón Chúa


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Chúa đến với con người vào lúc hết sức bất ngờ, vì thế, chúng ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng luôn và canh thức chờ đón Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con xin dâng Chúa tâm tình cảm tạ, vì Chúa đã thương báo trước cho con biết rằng: Chúa sẽ đến bất ngờ. Cuộc đời của con sẽ có ngày kết thúc. Ngày ấy là lúc Chúa đến đón con về trời. Chúa muốn con phải chuẩn bị cho biến cố quan trọng ấy từ bây giờ và suốt cả cuộc đời con.

Lạy Chúa, xin giúp con biết canh thức để đón Chúa đang đến với con mỗi ngày. Chúa đến với con qua Lời Chúa và qua Thánh Thể. Chúa đến với con trong công việc bổn phận. Chúa đến với con khi con đọc kinh cầu nguyện và cả khi vui chơi giải trí. Chúa đến với con khi con cảm thấy hân hoan và cả những khi đau buồn. Và Chúa cũng đến với con nơi những người mà con gặp gỡ tiếp xúc, cho dù người đó không có thiện cảm với con. Xin Chúa mở mắt tâm hồn để con dễ dàng nhận ra dấu chỉ Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Xin Chúa giúp con luôn biết sẵn sàng chờ đón Chúa với những việc làm cụ thể: gặp gỡ Chúa một cách riêng tư và thân mật trong những giờ cầu nguyện, hoặc làm những công việc thường ngày một cách chu đáo như đang thực hiện cho chính Chúa, hoặc tìm đến những phương tiện giải trí lành mạnh giúp cho tâm hồn vươn cao hơn, và nhất là luôn sống bác ái với tha nhân.

Lạy Chúa, mỗi ngày sống là mỗi lần con bắt đầu lại cuộc đời. Con ước mong đời sống của con mỗi ngày sẽ qua đi trong bình an, để con tiếp tục hành trình dấn thân phục vụ, như một món quà sẵn sàng kính dâng Chúa mỗi ngày. Amen.

Ghi nhớ: “Các con hãy sẵn sàng”.

----------------------------------

 

Suy niệm 8: Ngày nào cũng là ngày trông đợi và sẵn sàng


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

Thánh Tôma More có người bạn sang trọng nhưng đạo đức lơ là. Ngài khuyên ông ta ăn năn trở về với Chúa nhưng ông cứ nói: “Khi sắp chết, tôi sẽ nói: “Lạy Chúa, xin tha cho con và tôi sẽ được tha thứ”.

Ngày kia, khi hai người đang cưỡi hai con ngựa đi ngang qua cầu Luân Đôn, thánh Tôma More thấy con ngựa của ông bạn hất ông ta vào thành cầu, làm cho đầu ông bị dập, lúc đó, thánh Tôma More nghe ông bạn thốt ra lời: “Đồ quỷ!”, và chết tươi ngay.

Cái chết thường xảy đến rất thình lình. Ta không kịp sửa soạn gì đâu. Và nếu ai đã được sửa soạn, thì đó là một ơn Chúa ban rất quý!

Suy niệm

Ngày của Thiên Chúa đến xét xử rất bất ngờ. Cho nên để được cứu cần phải sống trong tinh thần chờ đợi và chuẩn bị sẵn sàng như Ngài dạy: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24:42). Ngày Thiên Chúa trở lại bất ngờ như kẻ trộm “viếng thăm”, vì thế hãy tỉnh thức như Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24:44).

Tỉnh thức là dấn thân như Chúa Giêsu gợi ý để chu toàn bổn phận như người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (x. Mt 24:45-51; Lc 12,42-46). Nếu chủ về mà gặp thấy anh vẫn thức tỉnh đang siêng năng làm công việc được giao thì được chủ cất nhắc. Ngược lại anh mê ngủ, hay anh lạm dụng quyền hành và chè chén say sưa (x. Mt 24:49), anh bỏ bê trách nhiệm sẽ bị luận phạt.

Ngày Thiên Chúa đến để phán xét những việc làm của con người trên trần gian như thánh Phaolô khẳng định “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12). Tỉnh thức để được “Đấng sẽ đến” bảo vệ và dẫn dắt trên đường chờ đợi như thánh Grégoire le Grand nói về một ngôi vị đồng hành và thức tỉnh với những người thức tỉnh: “Đấng ấy thức để trông nom ai đang mang con mắt luôn hướng về sự đến của ánh sáng thật; Đấng ấy thức tỉnh người trong những công trình của đời mình luôn được gợi hứng với đức tin; Đấng ấy thức tỉnh và để ý cho người không ngừng xa lánh những bóng đêm của u mê, và của sự hờ hững (Homélie XIII sur les péricopes évangélique, 3). Thức tỉnh như lời kêu gọi tỉnh thức của Phaolô: “Hãy từ bỏ công việc của đêm tối và mặc lấy mã giáp của sự sáng” (Rm 13,12).

Thánh Grégoire le Grand đã gợi ý cho chúng ta thức tỉnh, bằng mọi công trình lớn nhỏ trong đời được xây dựng trên nền tảng đức tin. Vì thế tôi luôn sống trách nhiệm với tất cả tôi có, những gì tôi là, tôi làm trong hôm nay và cả ngày mai: Ngày nào cũng là ngày trông đợi của tôi, ngày nào cũng là ngày sẵn sàng, để dù Chúa đến bất ngờ như kẻ trộm, tâm hồn tôi thức tỉnh.

Ý lực sống

“Người tín hữu hiện tại không biết và sẽ không biết ngày giờ phán xét chung, cho nên người Kitô hữu phải trung thành mỗi ngày; họ luôn kính sợ bởi vì luôn hy vọng” (Văn sĩ Tertullianô).

----------------------------------

 

Suy niệm 9: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến việc Chúa sẽ đến bất thình lình, mời gọi mọi người biết sống tỉnh thức và sẵn sàng, để khi cái chết ập đến, chúng ta sẵn sàng nghênh đón Chúa để đi vào đời sống vĩnh cửu. Trong khi chờ đợi, Chúa muốn mỗi người sống trung tín và trách nhiệm đối với tha nhân. Thiên Chúa được ví như ông chủ đi dự tiệc cưới sẽ trở về bất cứ lúc nào, vì thế các đầy tớ không được lơ là việc bổn phận, luôn tỉnh thức sẵn sàng đợi chờ để mở cửa cho ông chủ.

Dụ ngôn kẻ trộm

Cũng như chủ nhà không biết khi nào kẻ trộm đến “viếng” nhà mình, nên phải luôn canh chừng sẵn sàng để khỏi mất mát, thì việc Chúa đến với mỗi người trong giờ chết cũng bất ngờ như vậy, nên phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là phải luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, để khi Chúa đến bất cứ lúc nào cách nào cũng không sợ gì.

Dụ ngôn ông chủ đi ăn cưới về

Ông chủ đi ăn cưới về bất ngờ. Nếu ông trở về bất cứ lúc nào mà gặp thấy đầy tớ đang hăng say tận tâm làm việc, đang tín trung với phận vụ được trao, thì sẽ được uỷ thác cho những trách nhiệm lớn lao hơn, nghĩa là được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa. Ngược lại, nếu ông gặp thấy đầy tớ bê trễ công việc, nhậu nhẹt say sưa, thì sẽ loại bỏ, nghĩa là bị loại ra khỏi hạnh phúc đời đời.

Những tai hoạ xảy ra liên tiếp gần đây khiến người ta phải bàng hoàng bởi sự tàn khốc và bất ngờ. Trận lũ lụt và sạt lở đất vào ngày 8/7/2020 tại miền tây Nhật Bản làm hơn 200 người chết, hay sự cố vỡ đập thuỷ điện Attapeu ở Lào vào ngày 23/7/2018, với hơn 5 tỷ mét khối nước nhấn chìm hạ lưu Sanamsay làm hàng trăm người chết và mất tích, hàng ngàn người lâm cảnh màn trời chiếu đất.

Những biến cố này khiến chúng ta liên tưởng đến câu chuyện nạn lụt đại hồng thuỷ trong Kinh thánh. Đó là lời nhắc nhở về ngày Chúa đến lúc bất ngờ, và mỗi người phải luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng, để chờ đón như người đầy tớ thức tỉnh làm việc và đợi chủ về. Tỉnh thức là luôn sống trong ân sủng, tránh xa những đam mê tội lỗi, luôn tìm kiếm và thực thi ý Chúa trên cuộc đời mình (5 phút Lời Chúa).

Với một số người Việt Nam, ngày chết là ngày trở về với tổ tiên, ông bà. Với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngày chết là ngày con người trở về cát bụi.

Truyền thống Giáo hội dạy, ngày chết là ngày Chúa đến viếng thăm ta. Vì thế, chúng ta hãy tỉnh thức, chờ đợi để nghênh đón Người. Sự chờ đợi của chúng ta không phải là sự chờ đợi trong buồn sầu và lo lắng, nhưng trong tư thế sẵn sàng; nói đúng hơn, đó là sự chờ đợi trong hy vọng và niềm vui, trong tâm tình yêu mến, tinh thần phục vụ hăng say.

Đây cũng chính là tâm tình và thái độ tỉnh thức chờ đợi mà Đức Giêsu nói đến trong dụ ngôn về người quản lý trung tín và khôn ngoan, luôn “cấp phát lương thực cho gia nhân đúng giờ đúng lúc”. Như vậy, tỉnh thức chờ đợi Chúa là chu toàn bổn phận, là biết mở mắt tâm hồn để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống thường ngày.

Vai trò của chúng ta như Chúa muốn thì chúng ta là những người quản lý trung tín và tốt lành, là những người quản lý ân sủng thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa trong thời gian chúng ta chờ đợi Chúa tỏ bày sự vinh quang của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta chia sẻ cho anh chị em, chúng ta phải luôn ý thức rằng: chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm trong vai trò của một người quản lý và phân phát, rồi hãy để cho Chúa được tỏ lộ. Tất cả những gì chúng ta làm phải được định hướng và làm cho danh Chúa được rạng rỡ vinh quang (R.Veritas).

Là Kitô hữu, chúng ta phải luôn nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của mình ở trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người đem so sánh với thời gian thì thật là tạm bợ và mong manh. Người ta đã từng ví von: đời người như hơi nước dễ tan, như cánh chim lưng trời mất hút, như bông hoa sớm nở chiều tàn...Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa: không ai biết được khi nào mình chết. Ngày giờ chết là bất ngờ như kinh nghiệm vẫn chứng minh và Kinh thánh đã nói tới từ khi có con người.

Truyện: Đừng ảo tưởng mình còn sống lâu

Có một câu chuyện ngụ ngôn về ba con quỷ học việc, chúng đến trần gian để tập sự. Chúng trình bày với Satan là tướng quỷ về những kế hoạch cám dỗ loài người.

Tên quỷ thứ nhất nói: “Tôi sẽ bảo với loài người là không có Thiên Chúa”. Satan nói: “Mày sẽ thất bại, vì càng ngày người ta càng tin có Thiên Chúa”.

Tên quỷ thứ hai nói: “Tôi sẽ bảo với họ là không có địa ngục”. Satan bảo: “Mày sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, vì loài người vẫn biết có một địa ngục dành cho tội nhân”.

Tên quỷ thứ ba nói: “Tôi sẽ bảo với loài người đừng có vội vã làm gì, còn nhiều thời giờ, cứ vui chơi cho thoải mái đi”. Satan nói: “Hay, hay lắm, mày sẽ làm hại được vô số người bằng cách đó”.

Đúng vậy, ảo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng mình còn nhiều thời giờ.

 ----------------------------------

 

Suy niệm 10: Thời cánh chung


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

* Đặt trong sơ đồ chung của Mt:

Hai chương 24-25 (Từ hôm nay đến Thứ Bảy) là bài giảng về thời cánh chung. Ý chính của bài giảng này là ngày tận thế và việc Đức Kitô quang lâm. Ý tưởng đi liền với ý tưởng trên là những biến cố vô cùng hệ trọng này buộc người ta phải chọn lựa dứt khoát hoặc đón nhận hoặc từ chối Đức Kitô. Nhưng không phải chờ tới lúc đó mới chọn, mà phải chọn ngay từ bây giờ. Do đó những biến cố ấy và sự chọn lựa ấy có ảnh hưởng tới cách sống hằng ngày trong hiện tại.

A. Hạt giống...

Hai dụ ngôn về tên trộm và người quản gia:

- Dụ ngôn tên trộm: vì không ai biết giờ nào trộm sẽ đến, do đó lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác.

- Dụ ngôn quản gia: người quản gia trung tín làm việc theo tinh thần trách nhiệm, lúc nào cũng chu toàn những việc được giao, chứ không phải lúc có mặt chủ thì làm tốt còn khi vắng mặt chủ thì bê tha.

B.... nẩy mầm.

1. Áp dụng bài học của dụ ngôn tên trộm: ta biết luôn đề cao cảnh giác để bảo vệ tài sản vật chất, sao không làm như thế đối với tài sản thiêng liêng vốn quý giá hơn nhiều.

2. Ta cũng có thể áp dụng bài học của dụ ngôn người quản gia trong hai bình diện:

- Đối với bề trên: cách tôi làm bổn phận khi có mặt và khi không có mặt bề trên có khác nhau không?

- Đối với Chúa: phải chăng khi gặp nguy hiểm, khi đau yếu, khi đụng chuyện khó khăn… tôi mới cư xử đàng hoàng với Chúa?

3. Trách nhiệm: “Con người là tạo vật duy nhất gánh lấy trách nhiệm đối với chính bản thân, đối với tha nhân, đối với thiên nhiên và trước mặt Thiên Chúa” (Chờ đợi Chúa)

4. Một ngôi trường bị nổ. Cả trăm học sinh và giáo viên thiệt mạng. Nhiều gia đình chết 2 hay 3 em. Chính quyền địa phương bí mật sai người đến điều tra nguyên nhân vụ nổ. Trong một cuộc dò hỏi, vợ một công nhân xây dựng ngôi trường đó nói: trước khi thảm kịch xảy ra, chồng bà đã biết là việc xây đường ống dẫn khí đốt ở đó có vấn đề.

- Cái gì? Chồng bà biết rõ việc đặt đường ống dẫn khí có vấn đề?

- Đúng vậy.

- Thế chồng bà có báo cho ai biết việc đó không?

- Không.

- Vậy chồng bà phải chịu trách nhiệm về sự cố đó, chồng bà cũng là một tội phạm. (Góp nhặt)

5. Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hoả hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hoả hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.

Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.

Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. ("Mỗi ngày một tin vui")

----------------------------------

 

Suy niệm 11: Quyền bính thiết yếu là để phục vụ


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Những lời Chúa nói hôm nay là một bài học quí giá cho những ai đang nắm quyền bính trong tay, cũng như cho mọi Kitô-hữu vốn là những người được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Giêsu. Dụ ngôn về kẻ trộm và người đầy tớ được liên kết với nhau, để nói lên ý nghĩa của quyền bính: quyền bính thiết yếu là để phục vụ.

Quyền bính là để phục vụ, vì mọi quyền bính đều bởi Chúa mà ra. Con người dù nắm địa vị nào trong xã hội cũng chỉ là người quản lý mà thôi. Từ sự sống, tài năng, của cải và tất cả những gì con người đắc thủ và làm ra, đều thuộc về Chúa. Hình ảnh kẻ trộm đến bất tử để lấy đi tất cả nói lên chân lý ấy. Cái chết là một khẳng định rõ ràng nhất về tư cách quản lý của con người. Không gì ngu xuẩn cho bằng tưởng mình có thể chiếm hữu suốt đời, và mang theo mình những tài sản chóng qua ở đời này.

Lời Chúa hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta điều chỉnh lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta. Đâu là suy nghĩ, thái độ của chúng ta đối với của cải, quyền bính và danh vọng? Đâu là niềm vui đích thực trong cuộc sống mỗi ngày.

Vua Henry thứ 4 của nước Pháp âm thầm đi dạo trong viện bảo tàng Louvre. Nhà vua bắt chuyện với một thanh niên, trông bộ điệu của anh ta giống như một người giúp việc cho một vương công quyền thế nào đó. Nhà vua hỏi:

- Anh đang giúp việc cho ai thế?

Không biết người hỏi mình là vua, nên người thanh niên đã ngẩng mặt kiêu hãnh đáp:

- Tôi sinh ra không thể phục vụ cho bất cứ người nào, nhưng cho chính bản thân tôi.

Nhà vua tiếp lời:

- Nếu vậy, chắc chắn anh đang phục vụ một người ngu xuẩn.

Bất bình, người thanh niên toan kiếm chuyện gây sự, nhưng anh đã nhận ra người đối diện mình chính là vua Henry. Kinh ngạc, sửng sờ khiến anh đứng trơ như bức tượng. Không để người thanh niên phản ứng, nhà vua vỗ vai anh vừa quay gót vừa nói:

- Nếu anh đảo ngược câu nói đó lại sẽ tốt hơn: “Tôi sinh ra không để phục vụ cho chính bản thân tôi, nhưng để cho bất cứ người nào”.

Nguyện xin Chúa cho chúng ta cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực qua cuộc sống phục vụ, yêu thương và hy sinh mỗi ngày.

------------------------------------------

 

Thứ 6:

Chờ đợi Chúa Giêsu.
"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".

 

Lời Chúa: Mt 25, 1-13


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó, có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa, chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng, thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi". Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào, giờ nào".

----------------------------------

 

Suy niệm 1: Vừa mang đèn, vừa mang dầu


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ chìm tàu du lịch Dìn Ký tại Bình Dương hồi cuối tháng 5/2011 vừa qua
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang vui vẻ chúc mừng nhau
trong bữa tiệc mừng sinh nhật của cháu bé 3 tuổi.
16 người chết vì bị kẹt lại trong chiếc tàu du lịch bị mưa to gió lớn đánh chìm.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ (tháng 10/1996),
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.
Nhưng muộn quá!
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,
khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng,
không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Ðèn cần phẳi sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Ðòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
 
--------------------------

 

Suy niệm 2: Dầu đèn và cơ hội


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Hạnh phúc Nước Trời được Chúa Giê-su diễn tả bằng một hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng: cầm đèn đón rước chàng rể. Bóng đêm làm cho đám rước tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng. Bóng đêm làm cho đèn càng sáng hơn, giá trị hơn. Nhưng bóng đêm tạo nên bất hạnh cho người không có đèn hay có đèn mà đèn không sáng. Hai yếu tố quan trọng trong cuộc đón rước là dầu và cơ hội.

Đám rước ban đêm cần có đèn. Đèn cần có dầu để sáng. Vì đêm quá dài nên phải chuẩn bị dầu cho đủ. Nếu đèn là ánh sáng đức tin thì dầu chính là việc làm biểu lộ đức tin. Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nếu đèn là ánh sáng thánh thiện thì dầu là cuộc sống trong sạch, không vương ô uế. Thánh Phaolo trong thư 1 Tét-xa-lô-ni-ca cho rằng đó là sống đẹp lòng Thiên Chúa. Mà “ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh”. Và ngài cắt nghĩa nên thánh là sống trong sạch, “xa lánh gian dâm… không buông theo đam mê dục vọng” (năm lẻ).

Việc sống trong sạch, không chiều theo đam mê dục vọng, có thể bị người đời cho là khờ dại, và người thời nay cho là không chấp nhận được. Đó thật là đóng đinh vào thập giá, là sự điên rồ. Nhưng “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (năm chẵn).

Cơ hội gặp Chúa chỉ có một lần trong đời. Ngàn năm có một. Cơ hội đã qua không bao giờ trở lại. Đó là lý do khiến ta không bao giờ được lơ là trong việc tỉnh thức chờ đợi và không bao giờ quên sắp sẵn dầu trong bình. Chính vì thế thánh Phao-lô tuy khen ngợi dân Tét-xa-lô-ni-ca sống tốt, nhưng vẫn nhắc nhở họ phải phấn đấu hơn: “Anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa”.

Cơ hội chỉ có một lần trong đời vì thế phải hết sức cảnh giác và tăng cường ngày càng tỉnh thức hơn. Cơ hội qua đi không bao giờ trở lại. Trong chớp mắt số phận phân đôi. Kẻ nắm được cơ hội đi vào hạnh phúc. Kẻ lỡ cơ hội suốt đời khóc lóc. Nhưng khi ta biết thì đã quá muộn. Cửa thiên đàng đã đóng lại thì người lỡ cơ hội chỉ còn đi trong bóng đêm.

Tôi có chuẩn bị dầu đầy đủ. Và có quyết tâm không lỡ cơ hội?

--------------------------

 

Suy niệm 3: Tích cực sống đức tin


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.

Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.

Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.

Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.

Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.

--------------------------

 

Suy niệm 4: Ánh lửa huy hoàng


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thầy Rabbi dạy các học trò của mình phải luôn nhớ rằng mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy cho chúng ta đôi điều gì đó. Một học trò hỏi lại:

- Thưa thầy, một chuyến xe lửa đi qua thì có thể dạy chúng ta điều gì?

Thầy bảo:

- Nó dạy ta rằng chỉ trong một phút giây, chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả.

Kinh nghiệm của thầy Rabbi có thể giúp chúng ta hiểu Lời Chúa hôm nay hơn. Có thể nói chỉ vì một chút thiếu cảnh giác vì ngủ quên hay vì không mang dầu mà các cô dại khờ đã không gặp được chàng rể. Hệ quả là các cô đã bị loại trừ vĩnh viễn. Ngày nay, mỗi chúng ta là những trinh nữ đương thời, đang trông chờ chàng rể là Chúa Giêsu đến lần thứ hai trong cuộc giáng lâm vinh hiển của Người. Trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm vào giờ phút cuối cùng của lịch sử, mỗi người đồ đệ được Chúa viếng thăm hàng ngày trong Lời Chúa, trong các bí tích và trong những biến cố, sự kiện, xảy ra trong cuộc sống thường nhật. Thử hỏi, chúng ta có đủ tỉnh thức, sẵn sàng để nhận ra những lần Chúa viếng thăm này không?

Kinh nghiệm của thầy Rabbi là mỗi một điều xảy ra đều có thể dạy chúng ta đôi điều gì đó và chúng ta có thể sẽ đánh mất tất cả. Chỉ trong một phút giây cũng dạy cho chúng ta bài học khôn ngoan để luôn tỉnh thức và sẵn sàng như các trinh nữ khôn ngoan trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe.

Mỗi giây phút trong cuộc đời ta đều có tính quyết định cho cả cuộc đời.

Hãy sẵn sàng có nghĩa là mỗi giây phút sống và là giây phút chúng ta sống tốt đẹp nhất, hạnh phúc nhất, bình an nhất, trọn vẹn nhất, tưởng chừng như đó là phút giây cuối cùng của ta trên cuộc đời lữ hành trần thế, là giây phút chàng rể đến, giây phút chúng ta chờ đợi đã đến, giây phút chúng ta được gặp Ðấng là nguồn ánh sáng. Chúng ta sẽ hưởng hạnh phúc viên mãn khi chúng ta đem ánh lửa của mình hòa nhập vào nguồn ánh sáng để nó được bừng lên trong ánh sáng huy hoàng.

Vì thế, chúng ta hãy tích cực cộng tác với ơn Chúa, hãy giữ lấy ngọn lửa đã được thắp lên trong lòng chúng ta trong ngày chúng ta lãnh bí tích thánh tẩy, để cho lòng chúng ta lúc nào cũng bừng cháy lên ngọn lửa hy vọng được gặp Chúa Kitô, chàng rể. Khi chúng ta chắc rằng chúng ta luôn đầy tràn dầu của tình yêu và nhiệt thành, chính ngọn lửa ấy sẽ soi rọi mọi nẻo đường chúng ta đi. Dầu của tình yêu và nhiệt thành sẽ làm cho ngọn lửa hy vọng được tỏ rạng giúp chúng ta nhận ra ý định của Thiên Chúa nơi thế giới quanh ta và ngay cả những gì thuộc về mình. Trong một tầm nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ đọc được những dấu chỉ của thời đại, chúng ta có thể thức tỉnh khi lòng chúng ta luôn sẵn sàng để lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta qua những dấu chỉ đó và chúng ta sẵn sàng đáp trả ở mức độ trọn vẹn nhất.

Ước gì chúng ta đừng để cho mỗi một giây phút nào qua đi mà không giúp chúng ta nghe rõ tiếng của chàng rể, là Ðấng mà ta hằng mong đợi và là niềm hạnh phúc viên tròn của cuộc đời ta. Chúng ta hãy gặp Người trong từng phút giây của cuộc đời ta, rồi giây phút trọng đại diện đối diện ấy cũng sẽ đến, đó là lúc chúng ta đã sẵn sàng được theo chàng rể vào dự tiệc cưới.

Lạy Chúa,

Xin cho chúng con luôn nhận ra tiếng Chúa trong cuộc sống. Xin ban cho chúng con ân sủng, sức mạnh và lòng nhiệt thành để mỗi giây phút sống là mỗi giây phút chúng con kết hiệp thân tình với Chúa và sống trọn vẹn cho anh chị em.

--------------------------

 

Suy niệm 5: Nhìn xa trông rõ


Đức Giêsu nói: “Bấy giờ Nước Trời cũng giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn các cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.” (Mt. 25, 1-4)

Kết thúc bài giảng trên núi, Chúa đã so sánh hai hạng người một khờ dại, một khôn ngoan. Kẻ khờ dại đã xây nhà trên cát, kẻ khôn ngoan xây nhà trên đá. Trong dụ ngôn này, chúng ta thấy sự đối nghịch giữa khờ dại. Những kẻ khôn ngoan thì nghe lời Tin Mừng và đem ra thực hành. Những kẻ khờ dại nghe Tin Mừng mà không sống theo.

Dàn cảnh.

Những cô trinh nữ theo cô dâu ra đón chàng rể và các cô đưa dâu về tới nhà chàng rể để dự tiệc cưới.

Điều đáng chú ý trong câu chuyện dụ ngôn kể hoàn toàn hợp lý, không tìm thấy một chi tiết nhỏ nào bị thay đổi. Nhưng bản văn tin mừng nhấn mạnh hơn đến ánh sáng đức tin. Mỗi Kitô hữu đều biết rõ ai là chàng rể, những ai là cô khờ dại hay cô khôn ngoan, đám cưới có ý nghĩa gì và cổng đóng lại tượng trưng cho sự khủng khiếp nào.

Hình ảnh và sự thực.

Trong những dụ ngôn này của Đức Giêsu luôn luôn nhắc đi nhắc lại điều này: dầu đầy bình, áo cưới khi dự tiệc cưới, xây nhà trên đá đều làm nổi bật một đời sống độc nhất đó là đời sống đức tin sẽ được Đấng phán xét đón nhận.

Chúa còn muốn dạy chúng ta một bài học khác nữa: đó là chúng ta tự do làm điều ta muốn, và không phải Chúa từ chối, chính chúng ta không sẵn sàng tiếp nhận Ngài hoặc tiếp nhận Ngài, nhưng đòi Ngài phải theo điều kiện mình, phải theo tính nông cạn của chúng ta. Có khi ta sẵn sàng đi theo một bước nào đó, trong đường lối của Chúa, nhưng chúng ta lại không chấp nhận đi đến cùng đường với Ngài! như vậy, chúng ta đều là kẻ khờ dại. Bao giờ chúng ta là những kẻ khôn ngoan.

JM

 ----------------------------------

 

Suy niệm 6: Sẵn sàng đón đợi Chúa


Là con người, ai cũng phải chết, đây là quy luật sinh tử của kiếp người. Tuy nhiên, không ai trên trần gian này biết trước giờ chết của mình. Ý thức được như vậy, chúng ta sẽ dễ hiểu bài Tin Mừng hôm nay khi Đức Giêsu kể dụ ngôn: “Mười trinh nữ”.

Toàn cảnh dụ ngôn là câu chuyện tiệc cưới. Tuy nhiên, ngang qua đó, Đức Giêsu muốn nói đến cuộc giáng lâm lần thứ hai của Ngài trong ngày cánh chung.

Vị hôn phu chính là Đức Kitô. Mười cô trinh nữ tượng trưng cho Giáo Hội. Hành vi ra đón chàng rể là hình ảnh ngày chết của mỗi người.

Chàng rể chậm trễ một phần muốn nói lên sự bất ngờ, phần khác muốn nói đến sự kiên trung, nhẫn nại và sẵn sàng mà mỗi người cần có...

Đèn còn dầu và hết dầu nơi các cô trinh nữ nói lên sự sẵn sàng, tỉnh thức, hối cải, nhạy bén hay không!

Được đưa vào phòng tiệc là hình ảnh được cứu độ.

Cửa đóng lại muốn nói lên sự quyết liệt, dứt khoát trong ngày chung thẩm.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy cho người đương thời và mỗi người chúng ta bài học về tinh thần trách nhiệm trong đức tin và tự do. Đồng thời, nhắc cho chúng ta về sự tỉnh thức, sẵn sàng để đón đợi Chúa bằng những việc bác ái, hy sinh, tha thứ, yêu thương... như năm cô khôn có dầu dự trữ mang theo. Không ai trên trần gian này có hai cuộc sống cũng như hai cái chết! Vì thế, phải sẵn sàng.

Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay làm cho mỗi người chúng ta suy nghĩ đến cái chết của mình để chuẩn bị cho xứng đáng. Bởi vì biết suy nghĩ đến cái chết hằng ngày là người khôn ngoan.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết kiên trì, trung thành và bền đỗ đến cùng trên hành trình tin và theo Chúa. Xin cho chúng con biết chuẩn bị chu đáo cho ngày chết của mình, để Chúa đến với chúng con bất cứ lúc nào, chúng con sẵn sàng ra đi đón Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP

----------------------------------

 

Suy niệm 7: Dự tiệc cưới Nước Trời


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Được mời gọi vào dự tiệc cưới Nước Trời, cần phải tỉnh thức và chuẩn bị bằng cả đời sống của ta. Nước Trời chỉ dành cho những ai biết sẵn sàng và chuẩn bị chu đáo.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, qua hình ảnh tiệc cưới, Chúa cho con hiểu tình yêu nhiệm mầu của Chúa. Ai trong chúng con cũng đều được Chúa mời tham dự bữa tiệc trọng đại đó. Phần con, con sẽ được đón nhận hay bị từ chối là tùy ở con có sẵn sàng đáp lại lời mời gọi đó hay không.

Và khi đã được mời, con còn phải chuẩn bị sẵn sàng để vào dự yến tiệc. Năm trinh nữ khôn ngoan với dầu đèn đầy đủ, sẵn sàng, đã theo chú rể vào dự tiệc cưới. Con hiểu rằng dầu đèn ở đây là đức tin và lòng mến Chúa, là sự hy sinh quên mình, là trung tín trong việc bổn phận, là lòng bác ái vị tha. Xin giúp con chuẩn bị dầu đèn của đời con luôn cháy sáng để con được vào dự Tiệc Thánh trong Nước Chúa.

Năm trinh nữ dại khờ mất phần dự tiệc vì tính lơ đãng, vì dầu đèn không đủ cho cuộc đón rước trọng đại này. Con sẽ bị từ chối vào dự tiệc trong Nước Chúa nếu cuộc sống hôm nay của con chỉ là sống cho mình, việc đạo đức không có chiều sâu, không đủ sức giúp con tránh xa dịp tội, và thiếu ngọn lửa mến Chúa yêu người. Nhưng may mắn bội phần cho con, vì năm trinh nữ dại khờ kia không còn cơ may nào để chuẩn bị. Còn con, thời giờ và cảnh đời của con vẫn còn đó. Chúa còn cho con cơ hội để gom góp hy sinh, lặp lại những cố gắng và làm cháy lên ngọn lửa đức tin, đức ái đến trót cuộc đời con.

Lạy Chúa, xin giúp con luôn thức tỉnh và cậy trông. Amen.

Ghi nhớ: “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người”.

 ----------------------------------

 

Suy niệm 8: Hãy nuôi trong lòng ý nghĩ yêu thương, tinh thần sẻ chia


(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)

Câu chuyện

“Dưới cái nắng 12 giờ trưa, tôi hối hả đi bộ từ trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ra Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Trên đường, một cô bé chừng 16 - 17 tuổi kéo tôi lại với bịch tăm tre nhỏ xíu và nói: “Đây là sản phẩm của các em khuyết tật trường Chu Văn An, mời chị mua ủng hộ”. Chẳng cần suy nghĩ, tôi khoát tay từ chối và vội bước đi, tự nhủ: “Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ yếu là xin tiền chứ mua bán gì”. Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng như được bạn bè cảnh báo về mấy người “giả mạo” này.

Nhưng, tôi cũng cố ngoái lại nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt hai lớp khăn che mặt vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và mời một bạn sinh viên khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ thầy tôi từng nói: “Biết có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi, lỡ đường để xin tiền nhưng thầy vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy lòng mình mới thanh thản…”. Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm nhưng lại ngại, đành tiếp tục đi, lòng suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh tình nguyện hay đang là tình nguyện viên cho mái trường ấy.

Vậy mà tôi vô cảm... (Theo Tuổi Trẻ Online).

Suy niệm

Người phú hộ không làm gì sai trái, không vi phạm đức công bằng: Ông không gian tham của ai, không trộm cắp của người và không bớt xén tiền bạc của tha nhân. Với Ladarô khốn khó, ông đâu có khinh miệt và sai gia nhân xua đuổi nhưng tội của ông là không quan tâm, hững hờ trước tình trạng bi đát của Ladarô, người nghèo khó và bệnh tật bên hiên nhà mà chính ông gặp hàng ngày. Trong khi người phú hộ áo ấm, dư thừa “ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19), còn Ladarô “thèm được những mảnh vụn trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho no” (Lc 16,21). Ladarô không chỉ đói vì thiếu cơm bánh mà còn đau đớn hơn khi anh thiếu tình thương của đồng loại. Chẳng ai quan tâm đến anh “chỉ có bầy chó đến liếm láp”. Người phú hộ không có tội gì khác, chỉ có tội hững hờ vô cảm trước tha nhân và sống chỉ cho riêng mình. Tội của ông ta là dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Ladarô thống khổ đang cần sự giúp đỡ.

Ngôn sứ Amos đã tuyên sấm trước hậu quả với những người phú quý giàu sang rằng vì họ xưa kia đã được sung sướng no đầy nên nay phải bị lưu đày (Am 6,1a.4-7): “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari” (Am 6,1a). Ăn uống no nê nhưng lại hững hờ với sự đau đớn của dân tộc: “Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ!” (Am 6,6). Cho nên, hậu quả là họ lãnh nhận kiếp vong quốc lưu đày: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày” (Am 6,7). Lời tuyên sấm này được làm trọn vẹn nơi giáo huấn của Đức Kitô qua dụ ngôn người phú hộ sang trọng và Ladarô nghèo khó: Kẻ hững hờ trước nỗi đau của anh em sẽ như số phận người phú hộ: Sự giàu sang mà vô cảm với anh em đã trở nên khốn khổ trong ngày sau (x. Lc 16,23).

Với hình ảnh của người phú hộ, sứ điệp Tin Mừng chuyển tải đến tôi và bạn: Không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với tha nhân. Khi mắt tôi và bạn không để ‎ý sự đau khổ, tâm hồn chúng ta không chút xót thương đến những số phận đen đủi, lòng trắc ẩn không hề rung động trước cảnh bi đát của anh em đồng loại sẽ tạo nên hố sâu ngăn cách giữa người và người như sự ngăn cách giữa người phú hộ và Ladarô rộng lớn đến nỗi không thể qua được, dù sống sát bên nhau hàng ngày. Chính vì không thể qua bức ngăn trong cuộc sống hàng ngày, cả cuộc sống mai sau cũng ngăn cách sâu thẳm (x. Lc 16,26).

Hãy nuôi trong lòng mình ý nghĩ “yêu thương” tinh thần sẻ chia. Trong tình thương không bao giờ tồn tại sự so đo, tính toán: Yêu thương hết mình, chia sẻ hết tình khi người anh em tôi có nhu cầu cần đến bàn tay tôi giúp đỡ. Hãy để con tim luôn sẵn sàng: Chia nụ cười, sẽ nhận về vô số niềm vui… Chia vòng tay, sẽ nhận về mênh mông ấm áp… Chia quan tâm - sẽ nhận về bao la yêu thương… Chia yêu thương, sẽ nhận về rất nhiều hạnh phúc…

“... Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ ” (Nhã Nam, Cuộc đời có bao điều mà…, Nxb Trẻ 2009), mong con tim tôi và bạn mang nhịp đập yêu thương, luôn nhạy cảm với nỗi đau của người anh em!

Ý lực sống

“Chúa là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức,
và ban cho những người đói được cơm ăn”. (Tv 146,7).

 ----------------------------------

 

Suy niệm 9: Dụ ngôn mười cô trinh nữ


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

Nước Thiên Chúa được ví như bữa tiệc cưới, mà trong đó chỉ những ai có thái độ tỉnh thức và sẵn sàng, mới có cơ hội được chú rể là Đức Giêsu dẫn vào đồng bàn với Người trong vương quốc vĩnh cửu. Hình ảnh năm cô khôn và năm cô khờ cùng cầm đèn đi đón chàng rể, nhưng khác nhau ở chỗ là cô khôn mang đèn mang thêm dầu, còn cô dại thì mang đèn không dầu, là hình ảnh tiêu biểu của hai kiểu sống đạo của chúng ta hôm nay. Chúng ta cùng chung đức tin (là cùng tin có Chúa và Chúa sẽ đến) như ai cũng mang theo đèn, nhưng khác nhau ở chỗ có thực hành đời sống đức tin hay không, hay là tin nơi đầu môi chót lưỡi, còn cuộc sống thì vô thần, tựa như cái đèn rỗng ruột, không còn tỏa sáng mà đã tắt ngấm tối thui từ khi nào.

Chúng ta có thể hiểu qua dụ ngôn này: Chàng rể đặc biệt chính là Chúa Kitô, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương và đón mời vào dự tiệc cưới Nước trời, dầu và đèn là các điều kiện cần có để tham dự tiệc cưới. Mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh con người, có người khôn, có người dại. Khôn hay dại là căn cứ vào thái độ họ có biết sẵn sàng hay không.

Năm cô khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại, thế mà được coi là có thái độ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ, nhưng họ đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải là lúc nào cũng lăng xăng làm việc, tỉnh thức không phải là không được nghỉ ngơi. Tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm: khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền ngơi nghỉ.

Chúng ta cũng thấy Đức Phật dạy các môn đệ mình: “Phải trấn tĩnh cho tâm thanh tịnh để mà giác thức”. Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng có một tâm trạng an tĩnh để mà suy xét mọi điều, bởi vì có rất nhiều mối bận tâm, lo toan, tính toán đang xâm chiếm tâm trí ta hằng ngày. Trong câu chuyện Tin mừng hôm nay, đang khi các trinh nữ ngủ thiếp đi, thì có tiếng hô to: “Chú rể kia rồi, ra đón đi”. Thế nhưng trong số mười cô chờ đợi chàng rể, chỉ có năm cô đem đủ dầu mà thôi. Năm cô này được gọi là “những người khôn ngoan”, vì họ đã biết lo liệu, tính toán trước sự việc.

Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy luôn sống với thái độ sẵn sàng, vì Người có thể đến bất cứ ngày nào, giờ nào. Như năm cô khôn ngoan đã chuẩn bị đầy đủ dầu, chúng ta hôm nay cũng được mời gọi chuẩn bị tâm hồn đón Chúa bằng đời sống đức tin, đức ái và đầy công phúc.

Trong bài Tin mừng này có một chi tiết hơi lạ là khi 5 cô khờ dại thấy đèn mình hết dầu, họ đã đến xin dầu nơi 5 cô khôn ngoan. 5 cô khôn ngoan này mỗi cô có cả một bình dầu đầy ắp, thế mà lại không chia sẻ cho 5 cô kia. Có phải là quá ích kỷ không? Thưa, nếu là chuyện dầu đèn bình thường thì đúng là ích kỷ. Nhưng đây là những hình ảnh tượng trưng cho phần rỗi đời đời, nên nó không có nghĩa là ích kỷ. Bởi vì đối với phần rỗi đời đời của mỗi người, nói cách khác, đối với chuyện công đức và tội lỗi, thì không ai có thể chia cho ai và cũng không ai có thể xin ai được. Anh bạn tôi chết, tôi thương anh ta lắm, nhưng tôi không thể chia cho anh những công lao phúc đức của tôi, tôi cũng không thể xin Chúa san sẻ cho tôi gánh chịu dùm một số tội lỗi của anh (Giải thích của Lm. Carôlô).

Đời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời, bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết, để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm, bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.

Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cuộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ (Mỗi ngày một tin vui).

Tóm lại, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về giờ của từng cá nhân mình phải ra trước toà Chúa. Đó là lúc được phân định dứt khoát và vĩnh viễn, nên không còn cơ hội để lựa chọn về phần rỗi của mình nữa. Vì thế, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, bởi sự lỡ làng trong công ăn việc làm chúng ta có thể bắt đầu lại và có thể sửa chữa được. Nhưng sự lỡ làng trong giờ cuối cùng của cuộc đời sẽ không còn cơ hội để làm lại và lúc đó sẽ hư mất đời đời.

Truyện: Thái độ của mỗi người

“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó chính là câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường, và có kết quả:

20% được hỏi liền trả lời: Chúng tôi sẽ dùng thời giờ còn lại, để uống say sưa, hút ma tuý, để vui chơi cho thoả thích. Cuối cùng một nữ sinh 18 tuổi trả lời rằng: Tôi sẽ dùng thời gian còn lại, để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng, để gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ.

 ----------------------------------

 

Suy niệm 10: Sẵn sàng như đèn đầy dầu


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Dụ ngôn một cô phù dâu tiếp tục dạy về sự tỉnh thức:

- Kitô hữu tỉnh thức là để đón chờ Đức Kitô (chàng rễ) đến.
- Phải tỉnh thức luôn luôn vì không ai biết chừng nào Đức Kitô đến.
- Tỉnh thức là lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng (như đèn đầy đủ dầu).
- Chi tiết các cô khôn ngoan không cho các cô khờ dại mượn dầu có nghĩa là không ai có thể giúp ai được trước số phận đời đời.

B.... nẩy mầm.

1. 5 cô khôn ngoan cũng ngủ như 5 cô khờ dại, thế mà được coi là có thái độ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ nhưng họ đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải là lúc nào cũng lăng xăng làm việc, tỉnh thức không phải là không được nghỉ ngơi. Tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm: khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền ngơi nghỉ.

2. Cách sống của 5 cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, là cách sống của những người gần chết mới nghĩ tới việc linh hồn.

3. Dầu mà tôi phải luôn chuẩn bị đầy đủ cho cây đèn linh hồn tôi là những gì?

4. Trong bài Tin Mừng này có một chi tiết hơi lạ là khi 5 cô khờ dại thấy đèn mình hết dầu, họ đã đến xin dầu nơi 5 cô khôn ngoan. 5 cô khôn ngoan này mỗi cô có cả một bình dầu đầy ắp thế mà lại không chia sẻ cho 5 cô kia. Có phải là quá ích kỷ không? Thưa nếu là chuyện dầu đèn bình thường thì đúng là ích kỷ. Nhưng đây là những hình ảnh tượng trưng cho phần rỗi đời đời nên nó không có nghĩa là ích kỷ. Bời vì đối với phần rỗi đời đời của mỗi người, nói cách khác, đối với chuyện công đức và tội lỗi thì không ai có thể chia cho ai và cũng không ai có thể xin ai được. Anh bạn tôi chết, tôi thương anh tôi lắm nhưng tôi không thể chia cho anh những công lao phúc đức của tôi, tôi cũng không thể xin Chúa san xẻ cho tôi gánh chịu dùm một số tội lỗi của anh.

Bởi vậy, mỗi người tự gánh tránh nhiệm về cuộc đời mình, tu thân tích đức thì mình nhờ, chuốc lấy tội lỗi thì mình chịu.

5. Đời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.

Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. ("Mỗi ngày một tin vui")

6. “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13)

“Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi?” Đó là chính câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường và có kết quả:

20% được hỏi liền trả lời: “Chúng tôi sẽ dùng thời gian còn lại để uống say sưa, hút ma túy và vui chơi cho thoả thích”.

Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi trả lời: “Tôi sẽ dành thời gian còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ”.

Chúa đến bất chợt, hôm nay, ngày mai hay một ngày gần đây. Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị cho giờ đó? Hay chúng ta chỉ mãi sống trong nếp sống cũ? Hãy canh thức để đón chờ ngày Chúa đến gọi ta.

Lạy Chúa Giêsu, bao giờ Chúa đến gọi con, hôm nay hay ngày mai? mùa thu hay mùa xuân? Xin Chúa giúp con để con luôn tỉnh thức chờ ngày đó. (Hosanna)

----------------------------------

 

Suy niệm 11: Tỉnh thức đón chờ Đức Kitô


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Dụ ngôn mười cô phù dâu dạy chúng ta về sự tỉnh thức:

1. Kitô hữu tỉnh thức là để đón chờ Đức Kitô (= chàng rể) đến.

Phải tỉnh thức luôn luôn vì không ai biết chừng nào Đức Kitô xuất hiện.

Tỉnh thức là lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn sàng (như đèn đầy đủ dầu).

Chi tiết các cô khôn ngoan không cho các cô khờ dại mượn dầu có nghĩa là không ai có thể giúp ai được trước số phận đời đời.

5 cô khôn ngoan cũng ngủ như 5 cô khờ dại, thế mà vẫn được coi là có thái dộ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ nhưng họ đã chuẩn bị những thứ sẵn sàng cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải lúc nào cũng lăng xăng làm việc, tỉnh thức không phải là không được nghỉ ngơi. Mà tỉnh thức là chu toàn trách nhiệm: khi chưa xong thì phải lo cho xong, khi đã xong rồi thì có quyền được nghỉ ngơi.

Cách sống của 5 cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, đó là cách sống của những người gần chết mới nghĩ tới việc linh hồn.

Nước Hy Lạp có vị vua tên là Philipphê thân sinh ra Alexandre…

Một hôm, sự chết đã tìm đến với ông. Ông không muốn đi với nó, nhưng nó không cho phép ông từ chối. Đến lúc đó ông nghĩ đến những vinh hoa phú quý trên đời. Tới lúc này ông mới thấy chúng chỉ là hư không. Đời người thật ngắn ngủi. Ông cho gọi người nhà đến mà trăn trối rằng: “Sau khi tôi chết đi, hãy khoét hai cái lỗ ở hai bên quan tài. Rồi khi để tôi vào đó, hãy để cho hai bàn tay của tôi xỏ qua hai lỗ đó mà chìa ra ngoài, rồi đưa quan tài tôi đi vòng qua các đường phố để thức tỉnh và kêu gọi mọi người để họ biết rằng, tôi đã tay trắng mà đến trần thế này, rồi cũng trắng tay mà ra đi. Tất cả những vinh hoa phú quý, hoàng cung mỹ nữ, vàng bạc châu báu, danh thơm tiếng tốt, một chút nhỏ cũng không mang theo được”.

2. Bên cạnh 5 cô khờ dại thì dụ ngôn cho chúng ta thấy có 5 cô khôn. Khôn như thế nào thì dụ ngôn đã cho chúng ta thấy một phần. Đó là họ sống một cuộc sống với một tinh thần trách nhiệm cao, luôn làm tròn bổn phận được trao phó cho mình, sống với những giây phút hiện tại cho thật xứng đáng. Đó là cách sống khôn ngoan nhất. Trong cuốn “Chí khí người thanh niên” người ta đọc được những dòng chữ này:

“Dĩ vãng đã qua, tương lai chưa tới,
Hiện tại là lúc bạn đang làm chủ.
Phút hiện tại ấy thuộc về bạn, bạn hãy dùng cho hết.
Làm điều có đức sẽ được thưởng, làm điều ác phải chịu phạt.
Đó là tất cả những cái gì làm sống lại”.

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh nhỏ.

Ngày nọ, đang lúc ông đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một thiên thần hiện ra và nói:

- Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?

Nghe nói xong, thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ thiên thần.

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không.

Cũng như lần trước, thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời nào. Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:

- Lạy Chúa, xin sai thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài

Lời cầu nguyện vừa dứt, thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:

- Lần này, nếu thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.

Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:

- Này ông thánh nhỏ ơi! Sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn chu toàn bổn phận hằng ngày trong tất cả mọi việc Chúa gửi tới như một người đầy tớ trung thành. Amen.

----------------------------------

 

Thứ 7:

Trung tín và sáng kiến.
"Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".

 

Lời Chúa: Mt 25, 14-30


Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Có một người kia sắp đi xa, liền gọi các đầy tớ đến mà giao phó tài sản của ông. Ông trao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy theo khả năng mỗi người, đoạn ông ra đi.
Người lãnh năm nén bạc, ra đi và dùng tiền ấy buôn bán làm lợi được năm nén khác. Cũng vậy, người lãnh hai nén cũng làm lợi ra hai nén khác. Còn người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ trở về và đòi họ tính sổ. Vậy người lãnh năm nén bạc đến, mang theo năm nén khác mà nói rằng: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi năm nén bạc, đây tôi làm lợi được năm nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
Người đã lãnh hai nén bạc cũng đến và nói: "Thưa ông, ông đã trao cho tôi hai nén bạc, đây tôi đã làm lợi được hai nén khác". Ông chủ bảo người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi".
"Còn người lãnh một nén bạc đến và nói: "Thưa ông, tôi biết ông là người keo kiệt, gặt chỗ không gieo và thu nơi không phát, nên tôi khiếp sợ đi chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Đây của ông, xin trả lại ông". Ông chủ trả lời người ấy rằng: "Hỡi đầy tớ hư thân và biếng nhác, ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát: vậy lẽ ra ngươi phải giao bạc của ta cho người đổi tiền, và khi ta trở về, ta sẽ thu cả vốn lẫn lời. Bởi thế, các ngươi hãy lấy nén bạc lại mà trao cho người có mười nén. Vì người có sẽ cho thêm và sẽ được dư dật, còn kẻ chẳng có, thì vật gì coi như của nó, cũng lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng, các ngươi hãy ném nó ra ngoài vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc, nghiến răng".

----------------------------------

 

Suy niệm 1: Vào mà hưởng niềm vui


(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)

Người ta vẫn hay có cái nhìn tĩnh và buồn về đời sống Kitô hữu.
Đó là một đời sống cam chịu, nhẫn nhục, cúi đầu vâng phục Ý Chúa,
một đời sống khổ đau vì phải bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá.
Nhìn như thế đúng nhưng không đủ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác,
tươi tắn hơn nhiều, chủ động và tích cực hơn nhiều.
Thiên Chúa được ví như một ông chủ sắp đi xa.
Vì tin tưởng các đầy tớ của mình, nên khi vắng nhà (c. 14),
ông không ngại giao phó cho họ những món tiền rất lớn, tùy khả năng.
Người được năm yến, kẻ được hai, người được một (c. 15).
Mỗi yến bạc tương đương với sáu ngàn ngày công.
Hẳn các đầy tớ hiểu ý chủ muốn mình đầu tư sinh lợi.
Anh nhận được năm yến đã đi ngay lập tức và làm ăn với số vốn ấy.
Chúng ta không rõ anh đã đầu tư thế nào và bao lâu,
chỉ biết anh đã sử dụng cách hiệu quả những gì anh nhận được.
Sau một thời gian, tiền lời bằng số vốn bỏ ra.
Anh nhận được hai yến cũng vậy, cũng sinh lợi được hai yến khác.
Anh được một yến cũng đi,
nhưng là đi đào lỗ dưới đất để chôn giấu yến bạc (c. 18).
Anh không dám đầu tư vì sợ làm ăn lỗ lã.
Anh sợ số bạc lớn bị mất, nên anh muốn chôn giấu nó cho an toàn.
Khi ông chủ trở về để nghe báo cáo sổ sách của các đầy tớ,
ông đã khen hai anh đầy tớ vất vả làm ăn bằng những lời giống nhau:
“Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín!
Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh.
Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (c. 21. 23).
Còn anh đầy tớ chôn giấu yến bạc dưới đất vì sợ hãi ông chủ,
đã bị chủ chê là đầy tớ xấu xa và biếng nhác.
Yến bạc của chủ còn nguyên chẳng hề là điều đáng tự hào.
Ông chủ ngạc nhiên vì tại sao anh lại không gửi tiền vào ngân hàng
để đồng vốn có thể sinh lợi (c. 27).
Anh bị tước mất yến bạc anh đã giữ kỹ, và tống vào chỗ tối tăm.
Một đầy tớ không sinh lợi từ số vốn được trao là một đầy tớ vô dụng (c. 30).
Mỗi Kitô hữu cũng là một người đầy tớ, một quản lý của Chúa,
được tin cậy giao phó, được yêu cầu đầu tư, được mong mỏi sinh lợi.
Sống đời Kitô hữu là chấp nhận dùng tất cả khả năng của mình (c. 15)
để làm cho những gì Chúa ban sinh lợi nhiều nhất.
Điều đó cần đến công sức, tính toán, sáng tạo, và nhất là tình yêu.
Yến bạc là khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để ta làm việc cho Chúa.
Kitô hữu không phải là người thích an nhàn hay hưởng thụ.
Họ nỗ lực phấn đấu từng ngày để đời mình sinh hoa trái cho Chúa.
Ngày Phán xét, chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên nỗ lực sinh lợi của mình.
Mỗi người chúng ta không rõ mình đã nhận bao nhiêu yến bạc.
Điều quan trọng là không được giấu đi, và vui vẻ tận dụng điều mình có.
 
Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
 
----------------------------------

 

Suy niệm 2: Tự hào trong Chúa


(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Dụ ngôn những nén bạc thật quan trọng. Nói lên nền tảng của đời sống con người. Nền tảng đó là mọi sự ta có đều là của Chúa. Hiện hữu ta là của Chúa. Ta là hư vô. Chúa đã kéo ta từ hư vô vào hiện hữu. Sự sống ta là của Chúa. Chúa ban cho ta tất cả. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Kể cả linh hồn. Kể cả thiên đàng. Sau sự sống là tất cả. Sức khoẻ. Trí tuệ. Tài năng…

Vì tất cả mọi sự là của Chúa nên ta phải làm việc cho Chúa. Nén bạc Chúa trao phải được sinh lợi. Thân xác ngày càng mạnh khoẻ. Trí tuệ ngày càng thông minh. Linh hồn ngày càng thêm đức hạnh. Phải làm việc để thăng tiến bản thân, thăng tiến gia đình, thăng tiến xã hội, phát triển thế giới trong trật tự, hoà bình, thịnh vượng. Đó là điều thánh Phao-lô khuyên nhủ dân thành Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa. Hãy gắng giữ hoà khí, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã truyền cho anh em” (năm lẻ).

Sau khi làm việc cho Chúa ta đặt tất cả thành quả dưới chân Chúa, Chúa lại ban tất cả cho ta. Vì thế Chúa bắt ta làm việc để chính mình được hưởng. Những ai không chịu làm việc. Muốn khẳng định mình không thuộc quyền Thiên Chúa. Muốn chiếm đoạt những gì của Chúa thành của riêng mình. Cho rằng mọi sự là của mình. Mình có quyền tự quyết. Trước mặt người đời họ được xưng tụng là khôn ngoan thông thái. Nhưng trước mặt Chúa họ thật khờ dại. Vì Chúa sẽ lấy lại những gì của Chúa. Họ chỉ còn là hư vô. Là xấu xa. Là nghèo túng.

Những ai khôn ngoan theo kiểu người đời sẽ trở thành khờ dại trước mặt Chúa. Những ai tưởng là khờ dại trước mặt người đời thực ra là khôn ngoan. Vì họ nhận biết nền tảng của mình ở nơi Chúa. Mọi sự là của Chúa. Như lời thánh Phao-lô dạy: “Những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt người…Ai có tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (năm chẵn).

Người tôi tớ bị phạt vì muốn chối từ quyền làm chủ của Chúa. Muốn tự mình làm chủ đời mình. Nên anh trở về đúng tình trạng của mình là không có gì hết. Vì chính sự sống của anh là của Chúa. Từ chối Chúa là mất tất cả.

-------------------------------

 

Suy niệm 3: Trách nhiệm của các bậc cha mẹ


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc một ông chủ trước khi đi xa, đã trao cho đầy tớ, mỗi người một số nén bạc để làm lợi thêm, và khi trở về, ông chủ đã gọi các đầy tớ đến tính sổ. Ðã có nhiều lối giải thích suy tư về các nén bạc; ở đây chúng ta lồng dụ ngôn trong khung cảnh: ông chủ là Thiên Chúa, đầy tớ là các bậc cha mẹ, nén bạc là con cái.

Ðiều răn thứ tư dạy con cái phải thảo kính cha mẹ; điều này có nghĩa là nếu con cái lỗi phạm giới răn này thì sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Bổn phận của con cái là tôn kính, yêu mến và đền đáp công ơn cha mẹ: đó là bài học cơ bản của các kẻ làm con. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không phải là vị thẩm phán chí công, nếu không xét xử những bậc cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình. Nếu con cái phải thảo kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng yêu thương con cái. Mỗi người con là một nén bạc Chúa trao, cha mẹ là những đầy tớ có nghĩa vụ canh giữ và làm lợi nén bạc này. Dĩ nhiên, chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ duy nhất và tuyệt đối trên mỗi người con: bổn phận của cha mẹ là cộng tác dưỡng nuôi thân xác, hướng dẫn tinh thần và thiêng liêng, để con cái lớn lên trong sự thật và trong niềm kính sợ yêu mến Thiên Chúa.

Nếu con cái là hình ảnh của cha mẹ tiếp liền sau hình ảnh của Thiên Chúa, thì điều này nhắc nhớ cha mẹ phải là những người sinh con hai lần: một lần cho trần gian, và một lần cho Thiên Chúa. Ðịnh mệnh vĩnh cửu của con người không phải ở trần gian này, nhưng là trời cao. Do đó, cha mẹ phải luôn hướng dẫn tâm hồn con cái hướng về trời cao khi chúng còn thơ bé, và cả khi chúng đã lớn khôn nữa.

Trách nhiệm của các bậc cha mẹ thật nặng nề, nhưng cũng vô cùng cao cả. Nếu cha mẹ chu toàn bổn phận Chúa trao, chắc chắn trong ngày Chúa đến, họ sẽ được nghe lời này: "Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho các bậc làm cha mẹ.

-------------------------------

 

Suy niệm 4: Cộng tác với ơn Chúa (Mt 25,14-30)


(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thiên Chúa như ông chủ đi công tác xa trao lại cho mỗi chúng ta một số bạc, tượng trưng cho tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta và bổn phận chúng ta là dùng số bạc đó để sinh lợi. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Ðấng dựng nên ta và ban cho chúng ta những khả năng riêng, những nén bạc nhiều ít tùy ý Ngài. Chúa cũng chỉ đòi hỏi chúng ta sinh lợi theo khả năng của mình. Thiên Chúa không bắt chúng ta phải làm những gì vượt quá khả năng Ngài đã ban cho chúng ta, chỉ cần một chút trung thành là chúng ta có thể làm trọn công việc của Ngài trao cho chúng ta.

Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến và thanh toán sổ sách. Kẻ sinh lợi được năm nén cũng được khen như người sinh lợi được hai nén: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh", vì cả hai cùng làm tròn nhiệm vụ của chủ giao với hết khả năng của mình. Nhưng khả năng Chúa ban cho không phải chỉ để được chôn vùi dưới đất, không phải để được cất giữ nhưng phải để được sinh lợi, phục vụ anh em.

Vậy mỗi chúng ta hãy cố gắng sống trung thành và trọn vẹn với những gì mình đã lãnh nhận, tức là chúng ta tích cực cộng tác với ơn của Chúa, với tinh thần trách nhiệm để làm cho những ân huệ, những khả năng Chúa ban và ngay cả sự hiện hữu của ta được sinh hoa kết quả trong cuộc sống hàng ngày, là thời gian dường như Chúa vắng mặt. Chúng ta không nên có thái độ như người lãnh một nén, xem Chúa như người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, nên đã lo sợ và đem chôn giấu nén bạc dưới đất, để rồi đến lúc đem trả lại y nguyên. Chúa sẽ trách chúng ta như ông chủ trong dụ ngôn trách người đầy tớ biếng nhác: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác, anh đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi sổ bạc của tôi cho các chủ ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu hồi của thuộc về tôi cùng với số lời chứ. Vậy, các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người có mười nén". Chúng ta không nên nghĩ xấu cho Chúa để rồi sống mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ Ngài. Nhưng hãy sống đơn sơ phó thác như con thảo đối với cha mình và yêu thương anh chị em. Khi sống trong tình thương và gắn bó với Thiên Chúa, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy sợ hãi nhưng là luôn sống tích cực trong phận vụ của mình trong sự cậy trông và tin tưởng vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa.

Lạy Chúa,

Xin ban cho chúng con một đức tin vững bền để chúng con trung thành với ơn mình đã lãnh nhận là làm phát sinh những điều thiện hảo, nhờ đó mọi người sẽ được hưởng niềm vui của ngày Chúa đến trong vinh quang.

-------------------------------

 

Suy niệm 5: Sau một thời gian


Đức Giêsu nói: “Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến, mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người.” (Mt. 25, 14-15)

Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhắc nhở chúng ta là: trong suốt đời sống của chúng ta không phải chỉ có trung tín làm theo ý Chúa mà còn phải biết sáng kiến và làm theo những điều Chúa mong đợi mỗi người chúng ta.

Tùy theo phương tiện mỗi người.

Điều đáng chú ý là Chúa không đòi cái gì quá sức chúng ta, quá khả năng chúng ta. Không thể đòi ta phải làm cho ta lớn lên một tấc! khi người ta đòi phải “ vượt mức chỉ tiêu” thì đó chỉ là đòi theo sức tương đối không hiểu như một bổn phận. Cũng thế, Chúa đòi ta phải đổi mới con người, có ý nghĩa là sửa chữa, đào tạo, giáo dục con người đã dựng lên và con người tạo vật của mình.

Chúng ta được biết rằng chủ sẽ về sau một thời gian. Chúa cho chúng ta thời gian để thực hiện đời sống mình và sống theo thánh ý Chúa. Nếu chúng ta làm những điều xấu, sống trong lầm lạc, Chúa không đến treo giò không kết án ngay đâu.

Chúa cho chúng ta thời gian làm cho sinh hoa kết quả những ơn mà Chúa cho chúng ta mượn để rồi lại ban tất cả cho chúng ta. Ngài nắm giữ thời gian, Ngài để cho chúng ta bắt tay vào việc. Đầy tớ trung tín lo làm trọn điều mình phải làm, chủ có thể về tùy theo lúc chủ muốn, chủ sẽ vui mừng khi ý chủ đã được thực hiện, mọi sự đều tốt đẹp.

Lòng yêu mến nồng nàn.

Khi ta trung thành vui vẻ theo ý Chúa, Ngài có thể đòi hỏi ta tùy lúc Ngài thỏa lòng, Ngài mong chúng ta luôn sẵn sàng.

Vậy mọi sự đều tùy thuộc lòng mến của ta.

Đầy tớ xấu thì sao? Tại sao nó không được thưởng? Nó không làm gì, chẳng yêu ai, chỉ biết đổ lỗi thất bại cho người khác: “Thưa ông, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo thu nơi không vãi...”. Ai đáng trách? chủ hay đầy tớ lười biếng vô dụng? Ai trong chúng ta đáng trách? nếu chúng ta từ chối Thiên Chúa và thánh ý Ngài?

Ước chi chúng ta can đảm một chút để nhận lỗi, hãy chân thành thú nhận những ti tiện của mình.

JM

-------------------------------

 

Suy niệm 6: Hãy sinh lời thêm


Ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được thuộc về Chúa, trở thành công dân Nước Trời. Khi trở thành con cái trong nhà, chúng ta được Thiên Chúa tin tưởng và trao cho chúng ta trách nhiệm làm ngôn sứ cho Ngài. Đây chính là nén bạc Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mượn hình ảnh của người làm kinh tế để nói về việc sinh lời nén bạc tinh thần. Nếu ông chủ trao cho đầy tớ những nén bạc và nhủ hãy đi sinh lời thêm, thì Thiên Chúa cũng vậy. Ngài trao ban cho chúng ta những nén bạc là Lời Chúa, là những "ơn ban...” và không ngừng mời gọi chúng ta sinh lời ra nhiều, để làm vinh danh Chúa và giúp ích cho anh chị em chung quanh mình nhiều hơn.

Thật vậy, mỗi người đều được Chúa trao cho những nén bạc khác nhau tùy vào khả năng. Điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng nó cho đúng mục đích cách trung tín và khôn ngoan hay không mà thôi.

Người khôn ngoan là người biết đón nhận thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Người quản lý trung tín là người biết nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố vui buồn của cuộc sống. Biết đón nhận đau khổ và sẵn sàng hy sinh vì mối lợi đời sau. Biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ đói khát...

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự đặt mình trước mặt Chúa để cật vấn mình rằng: Chúa đã đầu tư cho tôi những nén bạc như sức khỏe, tài năng và nhiều ơn ban khác..., nhưng tôi có thực sự sinh lời ra thêm bằng việc tạ ơn Chúa, sẵn sàng giúp đỡ anh chị em mình và có biết dâng những hy sinh đau khổ, thất bại trong cuộc đời lên Chúa để xin Chúa thánh hóa, hầu sinh ích cho mình và tha nhân hay không?

Nói chung, tôi đã dùng của cải tài năng và ân huệ Chúa ban như thế nào? Tôi có tích cực phát triển “vốn đầu tư” mà Chúa đã trao cho tôi không? Hay tôi lo chôn giấu cho thật kỹ trong sự ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và hận thù?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa ban, đồng thời, xin cũng cho chúng con biết sinh lời những nén bạc đó bằng những nhân đức trong đời sống hằng ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

-------------------------------

 

Suy niệm 7: Sức khoẻ, thời giờ, tài năng, các ơn Chúa ban, là những nén vàng Chúa trao


(TGM Giuse Nguyễn Năng)

Sứ điệp: Sức khoẻ, thời giờ, tài năng, các ơn Chúa ban, đó là những nén vàng nén bạc Chúa trao cho đời ta. Ta hãy sinh lời bằng việc sử dụng những món quà đó cho đẹp lòng Ngài.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã tín nhiệm con, ban cho con sức khoẻ, thời giờ, tài năng, và muôn ngàn ân huệ, như những nén vàng nén bạc. Vốn liếng đó Chúa mong con phát huy thành mối lợi thiêng liêng. Chúa sẽ vui lòng biết bao khi thấy con biết tận dụng thời gian để làm những điều đẹp lòng Chúa. Con biết dùng sức khoẻ, khả năng và các ơn Chúa ban, để phục vụ Chúa và giúp đỡ anh em, đó là con biết sống xứng đáng với lòng thương của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa là Chân Thiện Mỹ, Chúa đã chẳng tiếc gì khi chia sẻ điều tốt lành cho con, nhưng với mục đích để con sử dụng các ân huệ ấy mà cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Chúa.

Tuy thế, con biết Chúa ban cho mỗi người những ân huệ và với mức độ khác nhau. Chúa chỉ cần con sử dụng các ân huệ ấy hết khả năng của con. Ai được ban nhiều, Chúa đòi sinh lời nhiều, kẻ được ít, Chúa đòi ít hơn. Xin cho con đừng ghen tương phân bì với số phận anh em con.

Khi con được năm nén, xin đừng để con kiêu căng tự đắc, nhưng xin cho con biết tạ ơn Chúa: tạ ơn bằng cách quảng đại phục vụ chứ không phung phí ơn Chúa. Khi con được hai nén, xin cho con cũng biết quảng đại phục vụ với khả năng nhỏ bé của mình. Và nếu con được Chúa ban một nén, xin đừng để con vì vậy mà lười biếng, tự ti mặc cảm, than trách phận mình và oán than cả Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.

-------------------------------

 

Suy niệm 8: Dụ ngôn nén bạc


(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

1. Đọc dụ ngôn nén bạc chúng ta thấy: Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người sử dụng những nén bạc đó. Bởi thế người đã lãnh 5 nén và người đã lãnh 2 nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”. Cách sử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lợi. Làm cho chúng sinh lợi không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.

2. Qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe Thiên Chúa như ông chủ đi công tác xa trao cho mỗi người chúng ta một số bạc, tượng trưng cho tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta và bổn phận chúng ta là dùng số bạc đó để sinh lợi. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng dựng nên ta và ban cho chúng ta những khả năng riêng, những nén bạc nhiều ít tùy ý Ngài, Chúa cũng chỉ đòi hỏi chúng ta sinh lợi theo khả năng của mình. Thiên Chúa không bắt chúng ta phải làm những gì vượt quá khả năng Ngài đã ban cho chúng ta, chỉ cần một chút trung thành là chúng ta có thể làm trọn công việc của Ngài trao cho chúng ta.

Sau một thời gian lâu dài, ông chỉ đến và thanh toán sổ sách, kẻ sinh lợi được năm nén cũng được khen như người sinh lợi được hai nén, vì cả hai cùng làm tròn nhiệm vụ của chủ giao bằng hết khả năng của mình. Nhưng khả năng Chúa ban cho không phải chỉ để được chôn vùi dưới đất, không phải để được cất giữ  nhưng phải để được sinh lợi (R.Veritas).

3. Ông cố của vị linh mục vừa qua đời. Có rất nhiều người đến viếng thăm với hoa, nến và nhiều kinh nguyện khác. Một em bé đến nói với vị linh mục: “Thưa cha, con không có hoa, nến, cũng không thuộc nhiều kinh. Con chỉ đọc cho ông cố một kinh Lạy Cha mà thôi”. Vị linh mục trìu mến trả lời: “Con đừng lo. Lời kinh đơn sơ của con cũng có giá trị cao quí như các kinh nguyện của những người khác”.

Đức Giêsu cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã trao cho mỗi người những nén bạc, tức là những tài năng, kẻ nhiều người ít. Điều Đức Giêsu muốn nhắn gửi, đó là mỗi người phải sử dụng những “nén bạc” là những tài năng Chúa ban, để “sinh lời” cho Chúa. Phần “lời” này không hệ tại ở số lượng nén bạc được gia tăng, mà phụ thuộc tấm lòng của chính chúng ta. Chúng ta có siêng năng làm việc để phát huy tài năng hay không, hay chúng ta lười biếng như đầy tớ vô dụng đã đem chôn bạc xuống đất?

4. Tất cả chúng ta cũng là đầy tớ được Chúa ủy thác cho những nén bạc khác nhau. Từ sự hiện hữu đến những ơn lành đều là những nén bạc Chúa ban cho chúng ta để phát triển và mang lại kết quả. Chắc chắn Chúa sẽ không đòi những gì quá sức chúng ta. Nếu Chúa chỉ ban cho chúng ta hai nén, Ngài không đòi chúng ta phải làm ra năm nén. Điều quan trọng là chúng ta phải tận dụng ơn lành Ngài ban một cách cụ thể trong việc phụng sự Thiên Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân. Chúng ta sẽ chiếm trọn gia sản Nước Trời, nếu biết khôn khéo sử dụng nén bạc đã được giao cho. Và đó là điều chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa (Mỗi ngày một tin vui).

5. Chúng ta phải cám ơn Chúa từng giây phút trong mỗi ngày, vì dù mình có tài hèn sức mọn, Chúa vẫn tin tưởng trao gửi cho chúng ta những nén bạc của Ngài để chúng ta sinh lợi cho Chúa. Chúng ta hãy bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai: siêng năng, chăm chỉ làm việc và làm lợi cho chủ, chứ đừng theo người đầy tớ thứ ba: lười biếng, không chịu làm việc. Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không. Tóm lại, chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực, ân lộc Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và sự nghiệp tin yêu trên Nước Trời.

6. Truyện: Biết làm sinh lợi cho Chúa.

Sau khi đến thăm gia đình của người bạn học vừa mất, cô bé trở về nhà.

Vẻ mặt giận dữ, cha cô bé hỏi:

- Tại sao con đến nhà người ta vào lúc này?

Cô bé trả lời:

- Con đến để yên ủi mẹ bạn ấy.

- Nhưng con thì làm được gì?

- Ba ơi, con chẳng làm được gì, vì thế con ngồi vào lòng mẹ bạn ấy.

Lúc đó cô bé chỉ biết khóc, nhưng đã an ủi lòng “người mẹ”.
Và tôi, trong cuộc sống, tôi cũng biết cười
để trao tặng “nụ cười hồng” cho mọi người.
Một miếng trầu tôi tiêm cho ngoại
Tách cà phê tôi pha cho bố mỗi sáng
Một chiếc áo dài tôi thêu cho mẹ
Và chiếc nơ hồng bắt bím cho chị
Những bài học hay tôi mang đến với trẻ thơ
Tôi đã làm tất cả hết khả năng và nhiệt huyết của mình.
Tôi vui vì đã góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương vị.

Lạy Chúa!
Xin giúp con biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao,
biết trung thành với bổn phận hằng ngày (Hosana).

-------------------------------

 

Suy niệm 9: Cách thế mỗi người xử dụng những nén bạc Chúa trao


(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)

A. Hạt giống...

Dụ ngôn các nén bạc:

- Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít.

- Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Bởi thế người đã lãnh 5 nén và người đã lãnh 2 nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”.

- Cách xử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Làm cho chúng sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.

B.... nẩy mầm.

1. 3 người đầy tớ trong dụ ngôn này không hề so đo phân bì với nhau vì tại sao kẻ thì được nhiều kẻ thì được ít. Họ chỉ khác nhau ở tấm lòng đối với chủ.

Tôi cũng đừng so đo với người khác về những khả năng Chúa ban cho tôi; kiêu căng đối với kẻ ít khả năng và đố kỵ đối với kẻ nhiều khả năng hơn mình. Tôi chỉ nên nghĩ tới Chúa thôi: Chúa mong chờ gì nơi tôi khi trao cho tôi những khả năng đó?

2. Người đầy tớ thứ ba có nhiều điểm xấu: ít khả năng, lại không lo phát triển những khả năng ít ỏi đó, mà còn trách chủ keo kiệt. Hình phạt của hắn là một lời cảnh giác cho tôi.

3. “Người có sẽ được cho thêm và sẽ được dư dật”: Lời hứa này là một sự khuyến khích rất lớn cho tôi. “Có” gì và “được cho thêm” gì? Thưa: cầu nguyện, tinh thần kết hợp với Chúa, sức sống thần linh của Chúa, ơn Chúa v.v.

4. Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Đức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần. (Chờ đợi Chúa)

5. Ông chủ nói với người đầy tớ: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25,23)

Sau khi đến thăm gia đình của người bạn học vừa mất, cô bé trở về nhà.

Vẻ mặt giận dữ, cha cô bé hỏi:

“Tại sao con đến nhà người ta vào lúc này?”

Cô bé trả lời: “Con đến để an ủi mẹ bạn ấy”.

- Nhưng con thì làm được gì?

- Ba ơi con chẳng làm được gì, vì thế con ngồi vào lòng mẹ bạn ấy.

Lúc đó, cô bé chỉ biết khóc, nhưng đã an ủi lòng “người mẹ”.

Và tôi, trong cuộc sống, tôi cũng biết cười
để trao tặng “nụ cười hồng” cho mọi người.
Một miếng trầu tôi tiêm cho ngoại
Tách cá phê tôi pha cho bố mỗi sáng
Một chiếc áo dài tôi thêu cho mẹ
Và chiếc nơ hồng bắt bím cho chị
những bài học hay tôi mang đến với trẻ thơ
Tôi đã làm tất cả với hết khả năng và nhiệt huyết của mình.
Tôi vui vì đã góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm hương vị.
Lạy Chúa! Xin giúp con biết sinh lợi những nén bạc Chúa trao,
biết trung thành với bổn phận hằng ngày. (Hosanna)

-------------------------------

 

Suy niệm 10: Nén bạc Chúa trao phải sinh lời


(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Qua bài Tin Mừng này, Chúa nhắn gửi mỗi người chúng ta hiểu hai điều:

1. Thiên Chúa trao cho mỗi người một số nén bạc.

Những nén bạc, thường được hiểu như là những khả năng của mỗi người, cũng có thể hiểu là thời giờ hay chính cuộc sống của chúng ta.

Mỗi nén bạc thời bấy giờ là 6.000 đồng bạc, bằng giá của 6.000 ngày công. Một giá trị lớn.

Chúa lại trao không đồng đều, kẻ nhiều người ít.

Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là mỗi người sử dụng những nén bạc đó ra sao. Bởi thế, người đã lãnh 5 nén bạc và người lãnh 2 nén bạc mà sử dụng tốt thì cũng được thưởng như nhau.

Cách sử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời.

Làm cho chúng sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc nhiều hay ít, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.

Bởi vậy, mỗi người phải cám ơn Chúa, vì dù mình có tài hèn sức mọn, Chúa vẫn tin tưởng trao gửi cho chúng ta những nén bạc của Người để chúng ta sinh lợi cho Chúa. Năm nén, hai nén hay một nén…không quan trọng. Điều quan trọng là sinh lợi. Cuộc sống phải sinh lợi cho nước Chúa và cho anh em như nén bạc phải sinh lợi cho chủ.

2. Thiên Chúa muốn cho mỗi người sinh lời cho Chúa.

Ba người đầy tớ trong dụ ngôn hôm nay không hề so đo phân bì với nhau tại sao kẻ được nhiều kẻ thì được ít. Họ chỉ khác nhau ở tấm lòng đối với chủ.

Người đầy tớ thứ ba có nhiều điểm xấu: ít khả năng, lại không lo phát triển những khả năng ít ỏi đó, mà còn trách chủ keo kiệt.

Trong cuộc sống, chúng ta thường thấy những người đã có, thì họ lại chịu khó làm ăn, chính vì thế mà cuộc sống của họ ngày càng tốt đẹp hơn. Ngược lại, những người đã không có, thì lại hay lười biếng và có được đồng nào thì xài hết đồng đó. Chính vì vậy mà chẳng bao giờ có thể ngóc đầu lên nổi.

A.R.Wells có thuật lại câu chuyện này: Có một trang chủ làm chủ một trang trại lớn. Một bữa kia ông giao cho bảy người thợ cưa, mỗi người phải cưa cho ông một khúc cây.

- Người thứ nhất nói: Khúc cây của tôi còn tươi quá, e lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho tới khi nó khô thì mới cưa. Thế là anh đi nghỉ.

- Người thứ hai: Lưỡi cưa của tôi cùn quá rồi. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi một lưỡi cưa sắc bén hơn rồi tôi cưa. Và anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ ba: Khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc khác thẳng hơn. Anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ tư: Khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần loại cây thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Anh cũng đi nghỉ.

- Người thứ năm: Hôm nay trời nóng quá. Đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Và anh cũng nghỉ.

- Người thứ sáu: Hôm nay tôi nhức đầu. Đợi tới khi nào khỏi, tôi mới cưa. Và anh cũng nghỉ.

- Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và hôm đó anh cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài sắc, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh làm việc đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công tác được giao. Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa nữa.

Nếu được phép áp dụng Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay thì chắc là ông chủ sẽ nói với người đầy tớ cuối cùng rằng: "Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh" (Mt 25,23).

Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa:
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen. (Rabboni).

----------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây